Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Dnl 4,1-2.6-8; Gc1,17-18.21b.22-27; Mc 7,1-8a.14-15.21-23
MỤC LỤC
1. Hào nhoáng 4
2. Lạm dụng 7
3. Tà tâm 11
4. Giữ Luật với lòng mến Chúa 13
5. Lề Luật là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa 16
6. Cần có một tấm lòng 19
7. Sạch và bẩn 23
8. Giả hình 28
9. Giả hình 30
10. Giới luật yêu thương 32
11. Tình mến. 36
12. Luật vị tâm 38
13. Cội nguồn của sự ác – Lm. Ignatiô Trần Ngà 43
14. Hãy sống chân thật – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 46
15. Cái nết đánh chết cái đẹp 49
16. Tập tục và Lời Chúa – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm. 53
17. Hãy tẩy rửa tâm hồn 57
18. Chúa Nhật 22 Thường Niên 61
19. Lề luật và tấm lòng 64
20. Trong sạch và ô uế 82
21. Điều răn Thiên Chúa & Truyền thống phàm nhân 87
22.Sao bỏ luật Chúa mà giữ tục lệ phàm nhân – ViKiNi 92
23. Đường hay pháo đài – Lm. GB. Văn Hào 95
24. Tẩy rửa trái tim – Thiên Phúc 101
25. Đừng thêm thắt và cũng đừng nhập nhằng 104
26. Chúa Nhật 22 Thường Niên 108
27.Sống đạo thể hiện tâm tình yêu mến Chúa chân thật 110
28. Suy niệm của Lm. Alfonso 113
29. Rửa tay hay rửa tâm hồn 116
30. Lề luật và tấm lòng 121
31. Hành luật – Lm Giuse Trần Việt Hùng 125
32. Nghi thức bên ngoài. 129
33. Chúa Nhật 22 Thường Niên 132
34. Bỏ giới răn Chúa mà giữ tập tục tiền nhân 134
35. Cao cả và bi đát – Lm Giuse Nguyễn Hữu An 136
36. Cái Tâm 143
37. “Bảy thần ô uế khác” 151
38. Đạo tại tâm – Lm. Anphong Trần Đức Phương 156
39. Tôn kính bằng môi miệng 159
40. Sống đạo có chiều sâu 162
41. Thiên Chúa nơi con người – An Phong 164
42. Đáp lại ơn cứu độ bằng toàn bộ đời sống của mình 166
43. Từ trái tim con người. 169
44. Với cả tâm tình – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt. 172
45. Lời Hằng Sống 175
46. Chúa Nhật 22 Thường Niên 179
47. Phụng thờ Chúa bên trong và bên ngoài 183
48. Dân này chỉ mến Ta bằng môi bằng miệng 186
49. Những lời kết án khắt khe hay là hy vọng. 188
50. Bên trong là những gì đáng kể. 191
51. Chưa hết biệt phái. 194
52. Rửa tay hay rửa tâm hồn? 197
53. Cái nào quan trọng – Gm. Arthur Tone. 201
54. Phải thờ Chúa trong tâm hồn – Noel Quesson. 203
55. Cõi lòng. 205
56. Bề ngoài. 207
57. Giáp mặt. 208
58. Giả hình. 211
59. Giả hình. 214
60. Con tim. 217
61. Bên trong. 219
62. Phục vụ. 222
63. Bài giảng thứ ba mươi hai. 224
64. Tiến sĩ luật bị tù – Lm. Mark Link. 226
65. Nét đẹp của tâm hồn – Lm. Vũ Xuân Hạnh. 230
66. Truyền thống và chữ ‘Tâm’. 234
67. Suy niệm của Chiara Lubich. 236
68. Không chỉ tôn kính bằng môi miệng 239
69. Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng 244
70. Suy niệm của JKN. 248
71. Giải thích và suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long 253
72. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux. 260
73. Chú giải của Noel Quesson. 264
74. Chú giải của Fiches Dominicales. 270
75. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt. 278
76. Chú giải của William Barclay. 291
77. Gậy ông lại đập lưng ông – Như Hạ 303
78. Khi đại bàng vỗ cánh – Lm. Đỗ Vân Lực 308
79. Thanh sạch hay ô uế đều phát xuất từ cõi lòng 312
80. Lề luật của Thiên Chúa 315
81. Giả hình, giả dối 318
82. Giáp mặt – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng 321
1. Hào nhoáng
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Cuộc sống hiện tại nhấn mạnh đến hào nhoáng bên ngoài. Thứ gì bắt mắt thứ đó bắt tiền. Cứ nhìn vào hàng hoá, vật dụng hàng ngày chúng ta thấy toàn những thứ bắt mắt. Trông vừa đẹp, vừa xinh lại vừa túi tiền thế là chúng cứ ung dung đi vào nhà. Xưa kia dụng cụ, đồ dùng trong nhà phẩm chất rất tốt, xử dụng bừa bãi, thiếu chăm sóc, bảo trì thế mà máy móc vẫn chạy an toàn. Bởi vì hãng sản xuất chú trọng đến phẩm nhiều hơn mỹ thuật cho nên các vật dụng trong nhà có phẩm chất cao, thời gian xử dụng lâu dài và kĩ thuật chế tạo, sản xuất đều chú trọng đến phẩm chất cho nên hàng hoá sản xuất ra giá thành cao. Giá thành cao lại không chú trọng nhiều đến mỹ quan nên không thể cạnh tranh với hàng hoá chuyên chú trọng đến vóc dáng, hình hài mà không hề quan tâm đến phẩm chất.
Ngày xưa người ta quan niệm: cái nết đánh chết cái đẹp. Ngày nay quan niệm đó được thay thế ngược lại. Cái đẹp đè bẹp cái nết. Quả thế hàng hoá phẩm chất tốt được nhiều người ưa chuộng nhưng thiếu khách hàng. Thị trường tràn lan, tràn ngập hàng trông bắt mắt, giá rẻ mạt. Người mua thưởng thức cái đẹp, hào nhoáng bề ngoài nhưng khi xử dụng lại than phiền, bực dọc. Thực tế cho thấy hầu như thế hệ trẻ ngày nay quan tâm đến cái vẻ đẹp bên ngoài nhiều mà không mấy quan tâm đến phẩm chất bên trong. Nếu đây là một thực thể xã hội thì chúng ta có thể khẳng định là lối suy nghĩ của con người đã thay đổi. Bằng chứng thể hiện qua lối sống, qua hàng hoá, cách trưng bày trên các sạp chợ. Đó là bằng chứng cho thấy con người chấp nhận thay đổi, coi trọng vẻ đẹp, hào nhoáng bề ngoài mà ít quan tâm đến phần phẩm chất đồ vật. Không còn phải nghi ngờ gì nữa, cách nhìn, lối sống, cách suy nghĩ và quan niệm sống đã thay đổi. Lối sống thích chưng diện, hào nhoáng, sài xong dục bỏ phần nào đó xung khắc quan niệm sống ngàn xưa thích bền, trọng tốt. Hai cách nhìn, hai lối sống hoàn toàn trái ngược nhau, mặc dù không tỏ ra xung khắc đến bạo động, tranh giành thế đứng, nhưng thực sự có xung khắc. Xung khắc nhẹ nhàng bằng cách từ từ loại bỏ. Nó âm thầm gẵm nhấm, thay đổi lối suy nghĩ, cách nhìn, cách phán đoán và ngay cả nhận xét của con người.
Xưa kia người ta đánh giá con người qua cách ăn, lối sống, cách giao tế, đối xử và tuân giữ pháp luật và cách giữ đạo. Ngày nay người ta nhìn vào bề ngoài để thèm muốn. Chiếc xe hiệu nổi tiếng, căn nhà trên đồi cao gần biển, và nghề nhanh hái ra tiền để đánh giá mức sống và giá trị của người đó.
Nhược điểm của cuộc sống hào nhoáng là sức ép xã hội. Hào nhoáng bề ngoài đó nay còn, mai mất nên luôn đòi phải thay đổi cho thích hợp với sở thích của đa số. Không đáp ứng được sẽ có sáng kiến mới đè bẹp sáng kiến cũ và như thế là lui vào bóng tối. Lui vào bóng tối vì thiếu quyến rũ, thiếu vẻ hào nhoáng nên không thể gượng lên được. Sức ép xã hội đè nặng trên con người theo đuổi cuộc sống đó nên cuộc sống mọi người đều chịu sức ép xã hội. Chịu được thì sống còn, chịu không nổi bị ép đến khờ người ra. Xã hội hào nhoáng có nhiều người khờ là thế đó. Con người sáng chế ra lối sống mới để rồi chính mình trở thành nạn nhân của sáng chế do mình chế tạo ra.
Hào nhoáng bề ngoài có nghĩa là thiếu chiều sâu và bởi thiếu chiều sâu nên cơn bão xã hội làm té nhào sẽ không còn chỗ dựa để gượng dậy tiến bước. Người bị xã hội xô té thường lâm vào cảnh tự bào chữa, tự biện hộ cho thành bại của mình. Một khi tự bào chữa, tự biện hộ cho mình thì người đó sẽ từ chối lắng nghe tiếng nói của người khác, kể cả tiếng nói chân chính trong tâm hồn cũng bị loại ra ngoài.
Lối sống khoe khoang, hào nhoáng đâu mới lạ gì, thời Đức Kitô đã có và khá phổ thông trong giới lãnh đạo, tự cho mình quyền làm cha mẹ nhân dân. Họ tự tạo ra những tiêu chuẩn sống thích hợp cho giới trưởng giả và bắt mọi người phải phục vụ cho lối sống đó. Đức Kitô nhiều lần phản đối kịch liệt lối sống giả tạo, bày trò, khoe mẽ.
Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy Mt. 23,4
Khi những luật lệ sống áp dụng vào đời sống đạo Đức Kitô cho đó là lối sống giả tạo hay đạo đức giả
Những kẻ đạo đức giả kia… chúng có thờ phượng ta thì cũng vô ích, vì giáo lí của chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân Mt. 15,9
Lối sống hào nhoáng không dẫn con người đến gần Chúa, gần tha nhân trái lại chúng chú trọng đến hưởng thụ, lấp đầy chỗ trống trong tâm bằng tiếng khen ngợi, tâng bốc ở đời. Muốn được vậy cần có người tâng bốc, mầm mống của bè và đảng phái phát sinh. Để được tâng bốc lên tận mây xanh người ta cần loại bỏ Chúa ra ngoài mong chiếm chỗ của Thiên Chúa. Vì thế không lạ gì họ kêu gọi dân chúng tôn trọng luật lệ do chính họ tự chế ra và coi luật đó quan trọng trên hết các luật, kể cả luật tự nhiên căn bản nhất của con người cũng bị coi thường.
Chúng ta xin ơn khôn ngoan biết sống theo luật Chúa là luật yêu thương và tha thứ.
2. Lạm dụng
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Dân tộc nào cũng có phong tục, truyền thống tốt đẹp tiền nhân để cho hậu thế học hỏi, noi theo. Kinh nghiệm sống đời được coi là khuôn vàng, thước ngọc, tóm gọn trong câu nói, truyền tụng nơi dân gian.
Truyền thống tôn giáo
Truyền thống tôn giáo là chứng nhân niềm tin sống động tiền nhân truyền lại. Là khôn ngoan thánh do các thánh nhân được Chúa mặc khải trên đường nên trọn lành. Quan trọng hơn nữa truyền thống chứa đựng Giao Ước tình yêu giữa Thiên Chúa và con người. Qua Giao Ước Thiên Chúa mặc khải về chính Ngài và tình yêu Ngài dành cho nhân loại. Vì thế truyền thống là chân lí thánh giúp định hướng, soi sáng đường đi, dẫn Kitô hữu đến chân thiện mĩ.
Khôn ngoan thật
Không phải ai muốn hiểu, tuỳ tiện giải thích truyền thống sao cũng được, mà cần có học giả nghiên cứu, giải thích í nghĩa thâm sâu, của các truyền thống đức tin.
Khôn ngoan thánh giúp nên thánh, đưa đạo vào đời. Thanh tẩy lối sống, thánh hoá cuộc đời, trong sạch hoá xã hội nhờ vào sức mạnh Tin Mừng. Trái lại khôn ngoan thế gian dẫn đưa vào thế gian. Dựa vào khôn ngoan thế gian để giải thích Kinh Thánh là đưa đời vào đạo. Đưa đời vào đạo chính là lợi dụng tôn giáo để cầu lợi, ham danh, chiều theo xác thịt. Chiều theo xác thịt là từ bỏ thần khí. Xa lìa thần khí là lãnh đạo giả hình. Giả hình núp bóng tôn giáo làm việc trái bác ái, phản tình yêu. Việc tông đồ, bác ái, kiến thiết trở thành khí cụ thu góp tài chánh, lợi nhuận. Kết quả niềm tin trở thành gánh nặng, luật lệ trói buộc, gây khổ đau, hành hạ cả thân xác lẫn tâm hồn tín hữu.
Lãnh đạo giả hình dựa vào truyền thống mong trục lợi. Vì thế Đức Kitô nặng lời, công khai phê bình, nghiêm khắc chỉ trích kẻ lợi dụng niềm tin, làm điều tồi bại. Ngài mạnh mẽ chỉ trích kẻ bóp méo truyền thống, cố tình uốn nắn sao cho phần lợi nghiêng về họ. Ý tưởng sai trái, lừa đảo đến từ suy tính hơn thiệt của khối óc, của lòng tham. Đức Kitô xác định rõ, của cải, danh vọng không thể là bảo chứng cuộc đời. Chúng không ban bình an thật cho tâm hồn vì chúng là của hay hư nát.
Võ đoán
Mọi giải thích, diễn giải Kinh Thánh mà không tin Đức Kitô đều là giả hình. Học giả Kinh thánh không tin Chúa không thể là học giả chân chính. Nếu tin hãy vâng phục Giáo Hội. Thiếu vâng phục là chọn li khai, sống ngoài Giáo Hội do Đức Kitô sáng lập. Rao giảng Đức Kitô mà không tin Đức Kitô là kitô hữu giả hình. Lời giải thích của chúng phát xuất do tà tâm, đố kị và ghen tương. Giải thích Kinh Thánh chính danh cần Thánh Thần hướng dẫn. Thánh Thần không hoạt động nơi kẻ không có lòng tin, nơi kẻ chủ trương sống chia rẽ và kéo bè, chia phe, lập nhóm.
Môi mép
Mục đích của Kitô hữu là cầu nguyện, cảm tạ, tôn vinh ca tụng Danh Chúa. Kẻ có tâm tính tà vạy lạm dụng ngôn từ nhà đạo của người Kitô hữu với mục đích khác. Môi mép họ cũng ca tụng, tôn vinh Chúa nhưng thực tâm không chút lòng thành.
Làm sao phân biệt chân, giả? Chánh đạo khác tà đạo ở hành động và lối sống. Chánh đạo lời rao giảng đi chung với việc làm. Chính đạo dậy yêu thương, sống yêu thương, sẵn sàng tha thứ, chậm phê bình.
Tà đạo nói về hoà bình, công lí, sản phẩm do chính họ tạo ra. Tà đạo coi nhẹ mạng sống mọi người. Tà đạo giả dạng kêu gọi thống hối để nhận dạng, sau đó âm thầm tìm cách triệt hạ, thủ tiêu.
Vô giá trị
Ma quỉ là cha kẻ gian dối. Vì thế chúng ta có thể xác quyết, khẳng định, mà không sợ sai lầm. Không lời giải thích Kinh Thánh nào của kẻ vô thần xác thực, đáng tin cậy, vì bản chất là vô thần. Vô thần không tin có Thánh Thần. Giải thích Kinh Thánh mà không có Thánh Thần hướng dẫn thì lời giải thích kia phải do tà thần hướng dẫn. Tà đạo không thể nào giải thích đúng đắn chính đạo. Ra công tìm hiểu Kinh Thánh mà không tin thờ Chúa sẽ trở thành kẻ tin thờ ma quỉ. Tin ma quỉ sẽ tôn thờ những gì thuộc về chúng. Tà đạo không chung đường với chính đạo vì thế lãnh đạo tà giáo thường tìm cách bách hại, ngăn cản chính đạo.
Yêu truyền thống
Đức Kitô yêu quí, tôn trọng truyền thống. Ngài đả kích kẻ lạm dụng truyền thống để thủ lợi. Vì yêu quí, Ngài công khai bảo vệ truyền thống. Trở thành người đối nghịch với giới lãnh đạo giả hình làm điều bất công, hại luân thường, đạo lí. Biết rõ giới lãnh đạo thù ghét, bách hại. Đức Kitô không chùn bước, không nhẹ lời nhưng mạnh miệng phản đối.
Ngài đưa ra cách sống chân thật phát xuất từ tấm lòng chân thành, từ con tim yêu mến. Kết hợp với tình yêu Chúa là tình yêu trọn hảo, tốt lành nhất. Chỉ những hành động phát xuất, hướng dẫn bởi tình yêu chân chính mới giúp con người tiến trên đường lành thánh. Con đường này đòi thực thi bác ái, yêu thương, sống thuận hoà, hay tha thứ và giầu tình thương. Để làm được điều này lãnh đạo tôn giáo cần sống khiêm nhường, vâng phục Giáo Hội Chúa nơi trần gian.
Đời sống thánh thiện là cách duy nhất mang bình an thật cho tâm hồn. Chúa là Đấng duy nhất giúp ta sống thánh thiện, sống yêu thương. Ngoài Ngài ra không thế lực nào có thể thay thế.
3. Tà tâm
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Cơ thể con người luôn phải phấn đấu chống lại bệnh tật và các thứ vi khuẩn đầy dẫy trong không gian. Dù thật cẩn thận bạn cũng chỉ có thể tìm được thực phẩm tương đối sạch, tươi nhưng không thể kiếm ra thức ăn, nước uống tinh tuyền, sạch trăm phần. Rất nhiều trường hợp không thể tránh mà phải chấp nhận. Ví dụ như bạn bay chuyến bay dài năm bảy tiếng đồng hồ bạn sẽ phải chia sẻ cùng lượng không khí trong máy bay với hàng trăm người khác. Trong số đó có bao hành khách mang bệnh mỗi lần thở ra hít vào đều xả vào không khí hàng loạt vi trùng. Da tay bạn sờ vào thành ghế, cầm cái li, bắt tay khách hàng, ngồi cùng chiếc ghế trên xe bus. Làm sao có thể bảo đảm da tay của họ cũng sạch sẽ, rửa cẩn thận như tay của bạn. Vì thế cơ thể ta liên tục chống lại vi khuẩn xâm nhập vào từ bên ngoài.
Tà tâm phát sinh từ một tâm hồn bất chính. Tâm hồn bất chính vì tâm hồn đó được nuôi dưỡng bằng những tư tưởng sai trái. Sai trái phát sinh do dục vọng. Dục vọng đây bao gồm lạc thú, danh lợi và tham vọng. Tương tự như vi khuẩn dục vọng không ngưng nghỉ mà luôn tìm cách xâm nhập vào cuộc sống tâm linh của con người. Chúng xâm nhập vào bằng muôn ngả, nghìn cách. Ngưng canh phòng là bị chúng âm thầm tấn công tâm linh ta. Chúng đóng đô trong tâm hồn và lung lạc cách suy nghĩ, phán đoán công chính. Thay vào đó là tư tưởng sai trái. Ta không những trở thành nạn nhân của tư tưởng tà vạy mà còn đứng ra tự bênh vực, biện hộ cho hành động sai trái do tư tưởng lầm lạc hướng dẫn.
Ai cũng biết thực phẩm tốt ăn vào có lợi cho cơ thể, trong khi thực phẩm xấu ăn vào làm hại cơ thể. Cả hai loại thực phẩm này hoàn toàn không ảnh hưởng đến đời sống tâm linh vì thực phẩm nuôi cơ thể không thể nuôi tâm linh. Thực phẩm ảnh hưởng đến đời sống tâm linh bao gồm sách báo xấu và những dục vọng ta du nhập vào. Hình ảnh xấu tạo cảm xúc, kích thích ngũ quan để từ đó dẫn đến tư tưởng và hành động trái luân thường, đạo lí. Để bênh vực cho những hành động tồi tệ đó người ta tìm cách chỉ trích luân thường là cổ hủ, đạo lí là lỗi thời hầu lấn át tiếng nói lương tâm công chính. Như thế nội chiến xảy ra trong tâm hồn và tư tưởng xấu, tồi tệ đang thắng thế và chính ta đứng ra bảo vệ, bênh vực chúng.
Tư tưởng tốt, hình ảnh tốt, cảm xúc tốt là những thực phẩm tốt cho đời sống tâm linh. Những điều này đến từ Thiên Chúa và giáo huấn của Đức Kitô bởi Ngài là nguồn gốc của thiện hảo, nguồn gốc của mọi sự tốt lành. Đức Kitô không chê trách phong tục tốt lành ông cha truyền lại nhưng Ngài chỉ trích lối giải thích một chiều nhằm mục đích phục vụ nguồn lợi của phe Biệt Phái và Cơ Đốc. Chính lối giải thích xuyên tạc sự thật là điều Đức Kitô chỉ trích và cho biết lối giải thích xuyên tạc trên đến từ một tâm hồn bất chính, một tâm hồn ảnh hưởng bởi thực phẩm hư nát hoành hành, hướng dẫn. Chính những hành động trên gây tác hại cho lối suy nghĩ, phán đoán phản lại công chính và tình yêu Chúa ban. Chính thân nhân họ sẽ trở thành nạn nhân và cộng đồng nhân loại bị ảnh hưởng lây do lối sống bất chính.
Thiên Chúa là Đấng duy nhất làm trong sáng hoá tâm hồn, biến con tim nguội lạnh, bất cảm thành con tim biết cảm thông, thanh tẩy con tim hận thù thành con tim biết tha thứ. Ngài ban sự sống cho con tim khô khan, nguội lạnh bởi Ngài là Đấng vừa sáng tạo vừa ban sự sống cho tâm hồn. Tâm hồn nào thuộc về Ngài đều có bình an thực sự trong tâm hồn.
4. Giữ Luật với lòng mến Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Phụng vụ Lời Chúa thường niên B năm tuần vừa qua bị gián đoạn bởi chương 6 Tin Mừng Gioan xen vào, hôm nay chúng ta trở lại với chương 7 Tin Mừng Macô, Chúa Giêsu giúp các môn đệ cũng như người đương thời đào sâu ý niệm về sự trong sạch và những luật lệ liên quan. Về vấn đề này, thư thánh Giacôbê trong bài đọc II cũng soi sáng cho chúng ta khi ngài viết: “Lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền đối với Thiên Chúa Cha là: thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách, và giữ mình khỏi mọi ô uế đời này” (Gc 1,27).
Đạo trong sạch
Từ thế kỷ thứ II, người Do thái đưa ra luật cấm không được giao du và ăn uống với dân ngoại, để khỏi bị ô uế. Người Pharisiêu cho rằng tôn giáo của họ phát xuất từ Thiên Chúa, tẩy sạch là một nghi lễ công cộng, “vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước” (Mc 7), thế nên họ chướng tai gai mắt khi thấy môn đệ Chúa Giêsu “dùng bữa với bàn tay không trong sạch” (Mc 7,3). Người Do thái chỉ ăn sau khi đã rửa tay (x. Mc 7,3), các tập tục của họ gắn bó với “truyền thống” (Mc 7,4), thể hiện lòng trung thành với “Thiên Chúa, Đấng ở gần họ” (x. Dnl 4, 7) như Môise đã nói.
Cần phải ghi nhận rằng, Chúa Giêsu không đến để hủy bỏ Lề Luật. Nhưng dạy người ta chống lại thói đạo đức giả hình, vụ hình thức, quan trọng hóa luật lệ của con tim với nghi lễ bên ngoài. Người lên án việc làm khiến người ta xa rời Thiên Chúa, và nghĩ rằng thực hành tỉ mỉ của các quy tắc Luật định là vinh quang; mặt khác, theo Chúa Giêsu, sự trong sạch không tùy thuộc vào lễ nghi thanh tẩy, nhưng tùy thuộc vào tấm lòng.
Lòng trong sạch
Khi tuyên bố: “Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế ” (Mc 7), cái đó không chạm tới lòng người ta, nhưng vào trong bụng và kết thúc trong cống rãnh. Theo Chúa Giêsu, điều gì làm cho chúng ta ô uế: “Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế”.
Những gì là nhơ bẩn, ô uế, hay những ý định và hành động xấu xa không đến từ bên ngoài, mà đến từ lòng dạ xấu xa và xa rời Thiên Chúa. Thiên Chúa không hiện diện khi lòng người rời xa Chúa.
Tôn giáo được Chúa Giêsu thiết lập không giảm thiểu vào các nghi lễ bên ngoài, gồm một mớ những học thuyết và đạo đức giả; đây là sự mặc khải về khuôn mặt của Thiên Chúa trong nhân loại nơi con người Chúa Giêsu. Việc thực hành đạo dù lớn hay nhỏ, chỉ có ý nghĩa và có giá trị khi được sinh ra từ tình yêu, được tháp tùng bởi tình yêu và được tiêu thụ trong tình yêu.
Yêu thương là chu toàn Luật Chúa
Tập tục của tiền nhân người Do thái thích giữ với lòng đạo đức ấy lại trái với Luật Môise. Đó là lý do tại sao Êsai nói: “Bạc của ngươi hóa thành ten chì, rượu đã trá pha nước lã” (Is 1,22), cho thấy người xưa kết hợp sống giới luật của Chúa với một truyền thống nhạt nhòa, nghĩa là họ đã thiết lập một luật biến chất trái với Luật Chúa. Chúa Giêsu trách họ: Tại sao các ông phạm đến lệnh truyền của Thiên Chúa nhân lệ truyền của các ông? (Mt 15,3) Họ bỏ qua những điều cần thiết, thêm vào những khoản phụ và giải thích theo lối khác, việc họ làm lột tẩy họ là những kẻ đạo đức giả hình.
Họ cương quyết bảo vệ các tập tục, nhưng không tuân thủ Luật Chúa. Thậm chí họ đổ lỗi cho Chúa Giêsu vi phạm ngày Sabát khi chữa bệnh, điều mà Luật không cấm. Tuy nhiên, họ không nhận lỗi về mình đã vi phạm lệnh truyền của Thiên Chúa, luật của họ thiếu hẳng tình yêu. Tình yêu này, trên thực tế, là điều răn thứ nhất và trọng nhất, và thứ hai là tình yêu của người lân cận.
Thánh Phaolô cũng nói: Yêu mến là chu toàn cả Lề luật (Rm 13,10) và khi tất cả chỉ còn lại Tin, Cậy, Mến. Ấy là bộ ba! Nhưng trong bộ ba ấy, Mến lớn hơn cả! (1Cor 13,13). Và giả như tôi được ơn tiên tri, và biết mọi sự nhiệm mầu, toàn cả trí tri; và giả như tôi được tất cả lòng tin, khiến chuyển được đồi núi, mà tôi lại không có lòng mến, thì tôi vẫn là không! (1Co 13,2). Nếu không có bác ái thì tất cả chỉ là không.
Chính bác ái mang lại sự hoàn hảo cho con người, vì ai yêu mến Thiên Chúa là hoàn hảo trong thế giới hiện tại và tương lai. Vì chúng ta sẽ không bao giờ ngừng yêu mến Thiên Chúa, nhưng hơn thế nữa sẽ chiêm ngắm và yêu mến Ngài đồng thời thương tha nhân.
5. Lề Luật là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa nhật thứ XXII thường niên B đưa chúng ta trở lại với Tin Mừng Marcô, với sứ điệp Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhận ra rằng, giữa bao nhiêu phong tục tập quán của loài người còn có những Luật Lệ của Thiên Chúa. Lề Luật ấy là yếu tố nòng cốt của Do thái giáo cũng như Kitô giáo, nơi Lề Luật, chúng ta tìm thấy sự hoàn hảo trong tình yêu (x. Rm 13,10). Và Lề Luật của Thiên Chúa không phải là một gánh nặng hay sự gò bó đối với con người, đúng hơn Lề Luật là hồng ân quý giá, vì nó chứng tỏ thấy tình yêu của Thiên Chúa là Cha luôn gần gũi với con người là thần dân của Chúa, cùng với họ viết lên một lịch sử tình yêu.
Vì yêu mến con người Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa (x. St). Cũng vì muốn con người vui sống hạnh phúc, Thiên Chúa đã ban truyền các Thánh chỉ của Ngài là Lề Luật để hướng dẫn con người, đưa con người ra khỏi tình trạng nô lệ của ích kỷ và dẫn vào trong “miền đất” của sự tự do và sự sống đích thật. Những người Do thái đạo đức thường cầu nguyện như sau: “Nơi các luật điều của Người, tôi vui khoái, tôi sẽ không quên lời lẽ của Người… Xin cho tôi vững bước trên nẻo đi lệnh truyền, vì nó là nguồn sung sướng của tôi” (Tv 119,16.35).
Thánh chỉ của Chúa được ban qua trung gian Môisen, và Môisen có bổn phận phải thông truyền cho dân như sau: “Và bây giờ, hỡi Israel, hãy nghe các luật điều và phán quyết ta dạy các ngươi thi hành, ngõ hầu các ngươi được sống mà vào chiếm lấy đất Thiên Chúa của cha ông các ngươi muốn ban cho các ngươi” (Đnl 4,1).
Với dòng thời gian, con người trở nên hư hỏng và bị cám dỗ tôn thờ ngẫn tượng, gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài, và đương nhiên họ không còn tuân giữ Lề Luật Chúa nữa. Như thế tôn giáo lạc mất ý nghĩa đích thật của nó là sống trong thái độ lắng nghe Thiên Chúa để làm theo ý muốn của Ngài. Tôn giáo tự giản lược vào việc thi hành các thói quen phụ thuộc làm thỏa mãn nhu cầu của con người cảm thấy yên ổn với Thiên Chúa. Đã đành với thời gian qua đi con người có xu hướng bóp méo những lời khuyên Tin Mừng, và sau khi đã suy xét, họ thay đổi hoặc bóp nghẹt bởi do dự: “Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng …” (Mc 7, 4). Vì thế những người sống đạo bình dân, đã không nghe lời các tiến sĩ luật và những người pharisiêu, họ gắn bó với Lời Chúa hơn là vấn đề con người chú trọng. Chúa Giêsu lấy các lời của ngôn sứ Isaia làm của mình chống lại các kinh sĩ và các Pharisiêu: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: ‘Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người’. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người” (Mc 7, 7; x. Is 29,13). Và Người kết luận: “Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người” (Mc 7, 8). Cả tông đồ Giacôbê, trong thư của người, cũng cảnh cáo nguy cơ của một tôn giáo giả. Người viết cho các kitô hữu như sau: “Anh em hãy là những người thực hành Lời Chúa, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Gc 1,22).
Lúc sinh thời, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhân danh toàn thể Giáo hội ngỏ lời xin lỗi vì những điều không tốt con cái mình đã gây ra trong suốt chiều dài của lịch sử, trong nghĩa đó ngài bộc bạch rằng con cái mình “đã đi quá xa Tin Mừng”.
Lời Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế” (Mc 7,15). Chỉ có những gì từ lòng người xuất ra, từ trong tòa án lương tâm của chúng ta mới có thể làm chúng ta ra ô uế. Chính sự độc ác này làm hư hỏng cả và nhân loại. Lòng thương xót của chúng ta không chính đáng với chính mình, nhưng giữ tâm hồn chúng ta không bị nhơ bẩn, “rửa tay” (của Philatô dẫn đến cái chết cả Chúa Giêsu nhắc lại cho chúng ta điều đó).
Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu diễn tả điều ấy cách chắc chắn trong cuốn Nhật Ký Tâm Hồn: “(…) Khi chiêm ngắm thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, tôi đã hiểu rằng Giáo hội có một trái tim tình yêu cháy bỏng”. Từ trái tim ấy, Tin Mừng tình yêu trào dâng những điều tốt hảo, cụ thể là giúp đỡ những ai cần giúp “vì ta đói, các người đã cho ăn…” (Mt 25,35).
Xin Đức Trinh Nữ Maria cầu thay nguyện giúp cho chúng ta là con cái Mẹ biết lắng nghe Lời Chúa với con tim rộng mở và chân thành, để Mẹ hướng dẫn các tư tưởng, các lựa chọn và hành động của chúng ta mỗi ngày. Amen.
6. Cần có một tấm lòng
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng viết: “Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi. Gió cuốn đi cho mây qua dòng sông. Ngày vừa lên hay đêm xuống mêng mông. Ôi trái tim đang bay theo thời gian. Làm chiếc bóng đi rao lời dối gian”. Thật vậy, sống trong một xã hội văn minh và tiến bộ hôm nay đáng lẽ, con người sẽ được vui và hạnh phúc hơn, vì biết dành cho nhau cả tấm lòng. Nhưng, thực tế cho thấy, đau khổ, bất hạnh, bất công hay bạo lực vẫn xảy ra khắp đó đây. Con người dường như mất niềm tin với nhau trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Đồng ý rằng xã hội hôm nay, giúp người ta năng động, giỏi giang hơn trong việc kiếm tiền và hưởng thụ, nhưng nó lại làm cho lòng người ra chai lì trước tội lỗi, trước những nỗi bất hạnh, khốn cùng của người khác. Thế giới ấy giúp người ta thỏa mãn với những gì mình đang có, an phận trong lớp vỏ bọc của vật chất hiện đại, nhưng lại đánh mất đi tình người đồng thời mất những cơ hội lớn lên trong yêu thương khi không còn biết cư xử tử tế và chân thật với nhau. Cho nên, người ta ngày nay lo làm đẹp nhan sắc, body sáu múi mà lòng bất bao dung, thiếu thật thà; ngày ngày yến tiệc ăn nhậu li bì mà không có trái tim cảm thông hay chia sẻ; hay người ta lo làm giàu mà đánh mất đi nhân cách và lòng thiện… Như vậy họ có được cái bên ngoài mà mất cái bên trong, mà cái bên trong mới làm nên con người tốt lành thánh thiện. Cho nên, ông bà ta dạy: “tốt gỗ hay tốt nước sơn” hay “cái nết đánh chết cái đẹp”. Còn Chúa Giêsu hôm nay dạy: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.
Vì vậy, Chúa Giêsu quở trách các biệt phái “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Tức là họ coi cái võ quan trọng hơn cái ruột; cái hình thức hơn nội dung; cái bên ngoài cần hơn tấm lòng. Nhưng thử hỏi việc rửa tay cần hay rửa tấm lòng là cần? Đương nhiên, rửa tấm lòng! Vì, nếu tay bẩn, chúng ta có thể dùng đũa, dùng thìa, chúng ta có ăn bốc đâu. Vì thế, Chúa nói cái làm cho con người ra bẩn là tấm lòng, cái này mới đáng sợ! Đúng vậy, Chúa Giêsu nói rằng những hành vi tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng… Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.”
Trong cuộc sống thường ngày, tấm lòng là yếu tố quan trọng cho mọi hành vi luân lý của chúng ta. Cho nên dù chúng ta có làm được những việc tốt lành, mà nếu không có sự góp phần của con tim, của cõi lòng, thì chúng ta cũng chỉ là những kẻ bôi bác, giả hình, dối gạt hay vô dụng mà thôi. Vì vậy, người ta nói: “Có tài mà không có đức là người vô dụng”. Chính vì thế, Chúa Giêsu coi cái tâm, cái lòng là yếu tố chi phối mọi việc làm của chúng ta, nó có thể làm cho ta thành thánh, nhưng cũng có thể làm cho bi đát, tội lỗi. Con vật nó chỉ làm theo bản năng không biết đâu thiện ác còn con người có cái tâm nên mới có người thiện và ác trong cuộc đời này. Cho nên, tâm hay cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, việc tốt hay xấu.
Vẻ đẹp bên ngoài làm cho con người dễ nhìn dễ thương nhưng cái đẹp bên trong tức là lòng tốt, tâm thiện làm cho con người dễ sống và nên người. Cho nên ông bà dạy: “đói cho sạch, rách cho thơm”. Vì vậy, đẹp thể xác và đẹp cả tâm hồn mới có ích cho gia đình, xã hội, Giáo hội và làm rạng rỡ vinh quang đạo Chúa đồng thời mưu ích cho mình và tha nhân. Nhưng để lòng mình ra tốt và thiện thì chúng ta hãy làm như Lời Chúa dạy trong bài đọc 2: “Anh em hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn; hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. Lời ấy chính là Lời Chúa và giới răn của Người” (Gc 1,21). Cho nên, Lời Chúa bài đọc một dạy ai giữ và đem ra thực hành Lời Chúa, thì người đó sẽ được coi là khôn ngoan, thông minh, thánh thiện và hoàn hảo (Đnl 4,6).
Vì vậy, trong bài đọc 2, Thánh Gia-cô-bê dạy: “Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Gc 1,22). Vậy, chỉ khi thi hành Lời Chúa thì lòng chúng ta mới thật, mới thiệt và thánh trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Cụ thể, Lời Chúa hôm nay trong bài đọc 2 mời gọi ta hãy quan tâm chăm sóc người nghèo khổ, người cô thế cô thân đồng thời phải tránh xa mọi thứ tham lam của lòng người, đừng để chúng làm cho con người ra tội lỗi, độc ác, gian tà và sa đọa. Vì vậy, trong Thông Điệp ”Laudato sí” (Thông điệp Môi Sinh), Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi người trên trái đất này hãy ý thức một: “Nền môi sinh học toàn diện này ”, có nghĩa rằng không thể tách rời khỏi ý niệm công ích” (156), nhưng phải hiểu một cách cụ thể: trong bối cảnh ngày nay, trong đó ”có bao nhiêu bất công và ngày càng có nhiều những người bị gạt bỏ, thiếu các nhân quyền căn bản”, sự dấn thân cho công ích có nghĩa là thực hiện những chọn lựa liên đới trên căn bản ”sự chọn lựa ưu tiên dành cho những người nghèo nhất” (158). Đó cũng là cách thức tốt nhất để để lại một thế giới lâu bền cho các thế hệ mai sau, không phải qua những lời tuyên bố, nhưng qua sự dấn thân săn sóc người nghèo ngày nay, như Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã nhấn mạnh: ”ngoài sự liên đới chân thành giữa các thế hệ, còn cần tái khẳng định nhu cầu cấp thiết về luân lý cần có sự liên đới được canh tân giữa các thế hệ” (162).
Ước gì qua Lời Chúa hôm này, xin cho chúng ta ý thức rằng mỗi làm mình làm sạch, làm đẹp thân xác thì cũng làm sạch và đẹp tâm hồn, tấm lòng khỏi những bợn nhơ tội lỗi, những toan tính bất chính và đam mê thấp hèn. Đồng thời, luôn biết trân trọng, yêu qúy phẩm giá cao qúy của con người là hình ảnh Thiên Chúa để luôn sống yêu thương, tha thứ, bao dung và phục vụ người nghèo khổ nhất trong giáo xứ hay làng xóm chúng ta ngõ hầu bình an và hạnh phúc của Chúa luôn cư ngụ trong cuộc sống từng người chúng ta. Amen.
7. Sạch và bẩn
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Sạch và bẩn không chỉ có nghĩa đen mà còn có nghĩa bóng. Theo nghĩa đen, có những thứ sạch quá cũng không tốt, nghĩa là đôi khi cũng cần bẩn một chút. Thật vậy, có những loại virus thực sự “tốt” cho cơ thể. Cholesterol cũng có loại “tốt” và “xấu”. Nhưng về nghĩa bóng thì phải tuyệt đối vệ sinh sạch sẽ, một chút bẩn cũng nguy hiểm!
Nhóm Pharisêu là “người đại diện” của những người ưa thói xu nịnh, đạo đức giả. Chúa Giêsu rất ghét loại người này nên chỉ trích rất nặng loại ngời này: “Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế” (Mt 23:27).
Vậy đó, thế nhưng người ta chỉ đọc cho biết, nghe cho vui, và người ta vẫn thích thân thiện với những người có bề ngoài… “đặc biệt khác người”!
Sách Đệ nhị luật nói về dân Ít-ra-en rằng “phải nghe những thánh chỉ và đem ra thực hành” thì mới “được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa hứa ban” (Ðnl 4:1). Tuyệt đối “không ai được thêm hay bớt gì, nhưng phải giữ những đúng mệnh lệnh của Thiên Chúa”, nếu “tuân giữ và đem ra thực hành thì sẽ được coi là khôn ngoan và thông minh” (Ðnl 4:2). Nghe được thánh chỉ đó, người ta sẽ nói: “Chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là một dân khôn ngoan và thông minh!” (Ðnl 4:6). Đúng vậy, “có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Ngài? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?” (Ðnl 4:7-8).
Dân Ít-ra-en “người đại diện” cho chúng ta ngày nay, vì chúng ta cũng là dân riêng của Thiên Chúa. Thật hạnh phúc cho chúng ta. Nhưng với điều kiện là “phải tuân thủ mọi giới răn của Ngài”. Một trong các huấn lệnh của Ngài là “giữ lòng thanh sạch”.
Thanh sạch là “sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng, bụng nghĩ sao nói vậy, miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào, chẳng làm ai nhục nhã” (Tv 15:2-3). Không chỉ làm điều tốt mà còn phải tránh điều xấu: “Coi khinh phường gian ác, trọng ai kính Chúa Trời, lỡ thề mà bị thiệt thì cũng chẳng rút lời, cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ mà hại đến người ngay” (Tv 15:4-5a). Nghe chừng đơn giản, thế nhưng lại vô cùng phức tạp và khó khăn. Ai sống và thực hành được như vậy thì sẽ “không hề nao núng chuyển lay bao giờ” (Tv 15:5b).
Phải cầu nguyện liên lỉ và nỗ lực không ngừng, vì không có Chúa thì chúng ta chỉ có nước “bó tay” mà thôi: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).
Thánh Giacôbê xác định: “Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú; nơi Người không hề có sự thay đổi, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng” (Gc 1:17). Tại sao? Vì “Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người” (Gc 1:18). Thánh nhân giải thích thêm: “Vì vậy, anh em hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn; hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Gc 1:21-22). Vấn đề là thực hành, là hành động cụ thể, chứ không thể chỉ nói suông hoặc đầu môi chót lưỡi. Thật không hề đơn giản như chúng ta tưởng!
Con người thường ưa hào nhoáng bề ngoài, thích được chú ý, thích bề nổi, dù biết đó chỉ là hão huyền. Chúa Giêsu cực kỳ ghét thói giả dối, thói đạo đức giả. Và Thánh Giacôbê cũng chỉ trích thói giả đối: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão” (Gc 1:26). Thánh nhân giải thích cụ thể: “Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian” (Gc 1:27). Thánh Giacôbê đúc kết ngắn gọn: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:17).
Ngày hôm đó, có những người Pharisêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Họ là những người từ Giêrusalem đến. Họ thấy vài môn đệ của Ngài dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Vì người Pharisêu cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân là “không ăn gì khi chưa rửa tay cẩn thận, thức gì mua ngoài chợ về cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn”. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng. Vệ sinh là điều tốt. Nhưng họ không chú trọng vệ sinh mà chú trọng các nghi thức, chú trọng “bề ngoài” mà thôi. NGHI THỨC làm gì nếu không có TÂM THỨC?
Thấy ngứa mắt nên ngứa miệng, người Pharisêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” (Mc 7:5). Ngài trả lời họ: “Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7:6). Lời Chúa trách nhẹ mà đau điếng, buốt tận tim như kim đâm vào óc! Đó là Ngài cũng đang trách chúng ta vậy.
Và Ngài “láy” thêm: “Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân. Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc 7:7-8). Họ câm họng không ú ớ được gì, chắc là tức bầm gan tím ruột, nhưng Chúa Giêsu nói chí lý quá và cũng… thấm thía thấu xương cốt. Thấy họ im như thóc thối, Ngài biết là “gãi đúng chỗ họ ngứa” nên làm “liên khúc” luôn: “Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông. Quả thế, ông Môsê đã dạy rằng: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử! Còn các ông, các ông lại bảo: “Người nào nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ đều là ‘co-ban’, nghĩa là ‘lễ phẩm đã dâng cho Chúa’ rồi, và các ông không để cho người ấy làm gì để giúp cha mẹ nữa. Thế là các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa. Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa!” (Mc 7:9-13). Đau ơi là đau! Cũng đáng đời “kẻ giả hình” lắm!
Nói đi cũng phải nói lại. Thấy người phải xem lại mình. Tục ngữ nói: “Cười người hôm trước, hôm sau người cười”, còn ca dao cảnh báo: “Chân mình còn lấm bê bê, mà còn cầm đuốc đi rê chân người”. Bằng cách này hay cách nọ, qua cử chỉ, ngôn ngữ hoặc động thái, chúng ta cũng rất thường xu nịnh, tâng bốc, luồn cúi, qụy lụy, chuộng bề ngoài, theo kiểu “cái đẹp đè bẹp cái nết”. Liệu chúng ta có dám “vắt chân lên trán” mà suy ngẫm và can đảm đấm ngực “lỗi tại tôi nhiều lần” hay không? Khó lắm!
Thẳng thắn phê bình nhóm Pharisêu xong, Đức Giêsu gọi đám đông tới nói luôn một hơi dài: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Ai có tai nghe thì nghe! Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: Tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế” (Mc 7:14-23).
Lời Chúa nói quá rõ ràng, không gì khó hiểu. Lời Chúa có khi làm chúng ta vui mừng, nhưng cũng có lúc làm chúng ta “nhức óc” lắm. Chỉ có SẠCH và BẨN, đơn giản vậy mà sao nhiêu khê quá chừng!
Lạy Thiên Chúa, xin hoán cải cuộc đời chúng con cho đúng Thánh Ý Ngài, và xin gìn giữ chúng con luôn “sạch” trong từng ý nghĩ, từng ánh mắt, từng lời nói, từng cử chỉ, từng động thái,… Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
8. Giả hình
Bọn biệt phái và luật sĩ đã bắt bẻ Chúa Giêsu về việc các môn đệ của Ngài đã dùng bữa mà không rửa tay. Cách chung đối với mọi người, thì việc rửa tay trước khi ăn là một việc hợp với phép vệ sinh và chúng ta đã được căn dặn, đã được dạy bảo từ bé. Thế nhưng đối với bọn biệt phái thì việc làm này không chỉ còn là phép vệ sinh bình thường, mà đã trở thành một thứ nghi lễ của tôn giáo. Dưới mắt họ, việc dùng bữa mà không rửa tay là một vi phạm, một sai lỗi lớn đối với những quy định của cha ông. Họ không thể nào nhắm mắt làm ngơ cho việc vi phạm và sai lỗi này được.
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy bọn biệt phái và luật sĩ đã quá chú trọng vào những chi tiết nhỏ mọn mà quên mất điều chính yếu của lề luật đó là mến Chúa và yêu người. Dưới con mắt của Chúa Giêsu, thì bỏ điều chính yếu để chỉ giữ những cái nhỏ mọn bên ngoài, chỉ có thể là hạng giả hình, bôi bác mà thôi. Và đó cũng chính là điều Chúa Giêsu không thể chấp nhận. Ngài đã vạch mặt những kẻ giả hình, phơi bày lòng dạ của họ, dù họ thuộc vào hàng những người lãnh đạo của dân Chúa và cầm cân nẩy mực trong lãnh vực tôn giáo.
Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: Ngài đến không phải để phá bỏ lề luật, nhưng để làm cho lề luật nên trọn. Và Ngài đã làm cho lề luật nên trọn không phải bằng cách cổ võ cho người ta tuân giữ đủ mọi thứ tập tục lỉnh kỉnh do tiền nhân để lại, nhưng bằng cách kêu gọi mọi người thực hiện trọn vẹn nội dung và ý nghĩa của lề luật như chính Thiên Chúa đã thiết lập và truyền đạt cho dân Ngài.
Với chúng ta thì sao? Ngay ngày hôm nay, chúng ta không phải là đã không còn bị cám dỗ để quên lãng phần chính yếu của Tin Mừng, của đức tin, của đạo giáo để chỉ chú trọng vào một số việc làm, một số nghi thức. Chúng ta có thể áy náy vì đã không đọc một số kinh, làm một số việc đạo đức vào những ngày giờ nhất định, nhưng lại không hề thắc mắc về thái độ và cách cư xử của chúng ta đối với anh em. Đọc kinh, rước kiệu, làm những việc đạo đức khác là những điều rất tốt nhưng chưa phải là điều chính yếu. Nhưng việc làm ấy chỉ có giá trị khi chúng ta lưu tâm thực hiện điều chính yếu là mến Chúa và yêu người.
9. Giả hình
Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng. Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay kể lại cuộc xung đột giữa Chúa Giêsu và bọn biệt phái. Họ là những kẻ bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu, để bắt lỗi Chúa Giêsu. Thế nhưng mưu toan ấy đã bị thấ bại, và chính Chúa Giêsu cũng đã có lần thách thức họ: Các ngươi cứ việc bắt bẻ xem Ta lỗi phạm điều chi. Thất bại với Chúa Giêsu, họ quay sang hạch sách các môn đệ: Tại sao các môn đệ của ông lại không tuân giữ tập tục của cha ông. Dùng bữa mà không rửa tay. Thế nhưng Chúa Giêsu đã lên tiếng quở trách họ: Hỡi bọn giả hình, tiên tri Isaia đã nói thật chí lý về các ngươi như sau: Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta.
Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy Chúa Giêsu đã tỏ ra rất nhân từ và khoan dung đối với các tội nhân, nhưng Ngài lại tỏ ra nghiêm khắc với bọn biệt phái và luật sĩ. Nhiều lần Ngài đã lên tiếng trách cứ họ nặng lời. Tại sao thế? Tôi xin thưa vì họ là những kẻ kiêu căng và tự phụ, bôi bác và giả hình. Khắt khe với người khác mà lại rộng rãi với chính mình. Nói tới giả hình là chúng ta nghĩ ngay đến sự gian tham tà ý, khẩu phật tâm xà, miệng nam mô bụng bồ dao găm. Tư tưởng không đi đôi với lời nói và lời nói không đi đôi với việc làm. Ngôn hành không có hợp nhất. Nói một đàng làm một nẻo. Vì thế Chúa đã nghiêm khắc kết án: Khốn cho các ngươi hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình, các ngươi giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy giòi bọ cùng mọi thứ xú uế.
Nói tới kẻ giả hình, chúng ta nghĩ ngay tới những kẻ kính Chúa bằng môi bằng miệng nhưng cõi lòng họ thì lại xa lìa Chúa. Họ tuân giữ cặn kẽ những tập tục của cha ông mà quên đi những giới luật của Chúa. Họ chỉ lo giữ gìn tiếng tăm trước mặt người đời, mà không lo giữ gìn tâm hồn khỏi mọi vết nhơ của tội lỗi trước mặt Thiên Chúa. Họ bấu víu vào những hình thức đạo đức bên ngoài như đọc kinh, xưng tội, rước lễ, rước kiệu, dâng hoa… nhưng trong cuộc sống ngoài xã hội, thì lại tỏ ra gian tham độc ác với những người chung quanh. Đúng như Chúa Giêsu đã diễn tả họ kinh kệ dài dòng nhưng lại nuốt trửng gia tài của các bà goá. Họ lo lau chìu chén đĩa bên ngoài, mà không lo gìn giữ tâm hồn mình trong trắng.
Nguyên nhân chính yếu khiến họ trở nên đáng trách, đó là vì họ thiếu vắng lòng mến chân thành, dù họ có làm gì chăng nữa, thì những hành động của họ cũng chẳng có được một chút giá trị và đến một lúc nào đó, chiếc mặt nạ đạo đức rơi xuống, khiến họ chỉ còn là những kẻ giả dối, bôi bác mà thôi.
Có hai thiếu phụ, mỗi người sinh được một mụn con trai. Chẳng may đêm hôm đó bà này nằm ngủ và đè chết con mình, bèn đánh tráo đứa con của bà kia. Sáng dậy bà kia nhận ra đứa con đã chết không phải là đứa con của mình. Thế là hai bà cãi cọ với nhau. Nội vụ được đưa tới vua Salomon. Nhà vua bèn truyền xẻ đứa nhỏ còn sống ra làm đôi, mỗi bà một nửa. Bà này bằng lòng còn bà kia thì xin nhường miễn là người ta đừng giết đứa nhỏ. Và rồi nhà vua đã trao đứa nhỏ còn sống cho bà kia, bởi vì nhờ tình thương mà nhà vua đã nhận ra bà kia chính là người mẹ thực của đứa nhỏ.
Đừng bôi bác giả hình, nhưng hãy sống thật với Thiên Chúa, sống thật với bản thân và sống thật với anh em đồng loại.
10. Giới luật yêu thương
Một cuộc tranh luận gây gắt giữa những người Pha-ri-siêu và kinh sư với Chúa Giêsu về việc các môn đệ không rửa tay trước khi ăn, vì rửa tay trước khi ăn là một thứ luật lệ truyền thống của tổ tiên dân tộc họ. Cho nên, các kinh sư và Pha-ri-siêu hỏi Chúa Giêsu: “ Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, mà để tay ô uế dùng bữa.” Người trả lời cho họ: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”. Ngài gọi đám đông tới và nói: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế; nhưng chính cái từ trong con người xuất ra, mới làm cho con người ra ô uế.”
Chúa Giêsu nhấn mạnh đến điều răn của Thiên Chúa: “Anh em đừng tưởng, Thầy đến để bãi bỏ luật Mô-sê hoặc lời của ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”. Chúa Giêsu đến không phải để phá bỏ những lề luật, Ngài coi luật là thánh, kể cả chi tiết nhỏ cũng không được bỏ đi. Đâu là ý nghĩa nền tảng của lề luật mà Chúa Giêsu nói đến?
Trước hết, chúng ta cần hiểu ý nghĩa lề luật thời Chúa Giêsu sử dụng. Người Do-thái dùng lề luật theo 4 cách khác nhau:
* Họ dùng 10 điều răn.
* Họ dùng 5 cuốn sách đầu tiên của Kinh Thánh, tức là Ngũ thư, được coi là tuyệt hảo và quan trọng.
* Họ dùng lề luật và các lời tiên tri trong phần Cựu ước.
* Họ dùng luật truyền khẩu hay còn gọi là các luật của luật sĩ đưa ra.
Vào thời của Chúa Giêsu, luật lệ của các luật sĩ làm ra là thông dụng nhất, họ là những người chuyên làm lề luật và đưa ra những nguyên tắc, để lập ra hàng ngàn thứ luật khác nhau.Từ đó, những người Dothái chính thống nghĩ rằng, phục vụ Thiên Chúa chính là giữ tất cả các luật lệ này. Họ coi đó là vấn đề sống chết với số phận đời đời. Chính vì lẽ đó, Chúa Giêsu đã lên án luật lệ của các luật sĩ và biệt phái, bởi vì, đó không phải là lề luật Chúa muốn.
Luật của Chúa muốn là gì? Chúa Giêsu nói: “Ta đến không phải để phá bỏ mà để nên trọn hảo”. Ngài nói đến ý nghĩa chân chính của lề luật. Vì đằng sau, luật truyền khẩu của các luật sĩ, còn có nguyên tắc lớn hơn và sâu hơn, mà họ không nắm vững, nên nó đã bị sai lạc, thay vì họ tìm kiếm Thiên Chúa, thì họ lại tìm ý Thiên Chúa trong vô số thứ luật lệ họ đặt ra. Cho nên, Chúa Giêsu đến để kiện toàn nguyên tắc nền tảng của lề luật, đó là giới luật của “Tình Yêu”. Khi con người chỉ quan tâm đến những hình thức bên ngoài, thì họ sẽ hiểu sai về lề luật. Thay vì, luật chỉ là phương tiện, thì lại nâng lên thành mục đích. Người ta dễ rơi vào lối sống vụ luật vị luật, câu nệ, và coi việc chu toàn lề luật để được an toàn, yên tâm. Chẳng hạn, có người đi tham dự Thánh lễ vì sợ, chứ không phải vì lòng yêu mến. Nguy hiểm hơn, họ bị ảo tưởng về mình, tự cho mình là người đạo đức hơn người, nên họ cố gắng giữ một số luật lệ một cách máy móc, rồi đi kết án người khác. Chúa Giêsu đã quyết liệt lên án và chống đối kiểu giữ lề luật này, Ngài nói: “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Chúng có thờ ta thì cũng vô ích, vì giáo lý của chúng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”.
Khi nhìn vào 10 điều răn, thì chúng ta thấy được nền tảng của lề luật, luật đó được tóm tắt trong một lời “Mến Chúa yêu người”. Chúng ta thấy Chúa Giêsu không có ý giải thích từng khoản luật Môsê như thế nào, nhưng điều Ngài muốn nói với các luật sĩ, biệt phái và tất cả chúng ta hôm nay là tinh thần mới trong cách sống và giữ luật. Câu truyện người phụ nữ ngoại đã thể hiện rất rõ cách hành luật của Chúa Giêsu.
Khi các kinh sư và bọn biệt phái kéo người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trước mặt Chúa Giêsu và dân chúng. Các ông nói: Cứ theo luật Mô-sê thì cái hạng người đàn bà này phải bị ném đá cho đến chết, đó là luật đã định. Thế nhưng, khi người ta nhân danh luật để kết tội người đàn bà ấy, thì họ đã khóa chặt cuộc đời của chị ta vào cái quá khứ tội lỗi. Họ không cho chị ta con đường để hướng về tương lai. Còn Chúa Giêsu, Ngài nói: “Ai trong anh em sạch tội thì hãy ném đá chị ta trước đi”. Mọi người bỏ đi, vì họ biết mình cũng chẳng tốt lành gì. Ấy thế mà nhiều khi chúng ta lại đóng đinh anh em mình và khóa chặt cuộc đời của họ trong cái quá khứ.
Với Chúa Giêsu, Ngài không biện hộ cho cái tội lỗi, nhưng Ngài bảo chị ta hãy về và đừng phạm tội nữa. Ngài mở cho chị ta một hướng đi mới, và mở cho chị ta cánh cửa đi về tương lại. Đối với Chúa Giêsu, không có thứ luật lệ nào đứng trên sự sống và phẩm giá của con người. Ngài đấu tranh cho người phụ nữ khỏi bị ném đá, và cứu chữa những người ốm đau bệnh tật trong ngày luật cấm. Vì ngày Sabat là ngày của Chúa, là để làm việc lành. Luật làm ra là để cứu sống, chứ không phải giết chết. Đây chính là chân lý và nền tảng của lề luật mà Chúa Giêsu bày tỏ cho con người.
Như vậy, Chúa Giêsu không phá đổ lề luật, nhưng Ngài phá đổ các hiểu sai lề luật. Và Ngài kiện toàn lề luật bằng cách là nâng cao sự hoán cải trong lòng kẻ giữ luật. Vì chính tự đáy lòng con người làm nên tất cả, nó là trung tâm của tội ác, là phân định chọn lựa sự lành hay sự dữ là từ bên trong lòng người phát xuất ra những ý tưởng xấu, chứ không phải bên ngoài. Đâu phải chứ gươm dao, súng đạn mới giết chết con người, mà nhiều khi chỉ những lời phê bình, chỉ trích, nói xấu, ghen ghét và hận thù cũng đủ để làm hại và giết chết người khác.
Tóm lại, nền tảng của lề luật: “Mến Chúa yêu người” là tuyệt đối mà Chúa Giêsu muốn chúng ta giữ cho trọn. Cụ thể, nơi Đức Giêsu, Ngài là Đấng ban hành lề luật và chu toàn lề luật hoàn hảo nhất. Lề luật không còn ghi trên bia đá nữa, nhưng nó được khắc ghi trong tận đáy lòng, và được ghi trên thập giá để chứng minh giới luật tình yêu mà Ngài đã sống và rao giảng. Nơi Đức Giêsu, chúng ta thấy được giới luật hoàn thiện, khi Ngài vâng theo thánh ý Chúa Cha để chết thay cho nhân loại.
Thưa quý ông bà anh chị em, ngày nào luật chỉ được tuân thủ chỉ hình thức bên ngoài, thì ngày đó luật nghiền nát và bóp chết con người, nhưng ngày nào luật đi sâu vào lòng người làm chuyển hóa, biến đổi và hoán cải con người thì ngày đó luật mới thật sự là phương tiện dẫn đến sự công chính Nước Trời. Như lời triết gia Kant nói: “Nếu mình giữ luật chỉ vì sợ Chúa thì hèn quá! Mình phải giữ luật bởi vì đáp lại tình yêu của Thiên Chúa, và ý thức bổn phận của mình thì đó mới là xứng đáng với nhân phẩm con người”.
Xin Chúa cho chúng con biết sống và giữ giới luật của Chúa bằng chính đời sống yêu thương, quảng đại, khoan dung, vị tha và phục vụ tha nhân. Amen.
11. Tình mến.
Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta.
Qua lời xác quyết của Chúa Giêsu chúng ta ghi nhận một sự thật đó là vì yêu thương và muốn cho chúng ta được cứu rỗi, Ngài đã truyền cho chúng ta tuân giữ điều này điều nọ. Và như chúng ta cũng đã biết, tình thương phải được đáp trả lại bằng tình thương. Bởi đó, việc chúng ta tuân giữ những lệnh truyền của Chúa cũng phải được xuất phát từ lòng mến chân thành. Một đi khi đã có lòng mến chân thành rồi, nó sẽ phản chiếu ra những hành động bên ngoài và làm cho những hành động ấy có một giá trị siêu nhiên và vĩnh cửu. Bằng không thì những hành động ấy sẽ chỉ như tiếng não bạt ầm vang, nhọc nhằn mà chẳng nên cơm cháo gì, còn bản thân chúng ta chẳng bao lâu sẽ bị lột mặt nạ, vì chúng ta chỉ là những kẻ bôi bác và giả hình mà thôi.
Đúng thế, Chúa bảo chúng ta hãy xa tránh men bột biệt phái, vì họ là những kẻ vụ hình thức bên ngoài, họ quá chú trọng đến những chi tiết vụn vặt mà quên đi cái yếu tố căn bản của lề luật, đó là lòng mến bên trong. Người biệt phái quan tâm đến việc tắm gội thân xác, giặt giũ quần áo, lau chùi chén bát, tẩy uế chum vò nhưng lại coi thường lòng mến đối với Thiên Chúa và tình thương đối với anh em, khiến cho Chúa Giêsu đã phải mượn lời tiên tri Isaia mà quở trách họ: Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta. Họ gạt bỏ lề luật của Chúa, để bấu víu vào những tập tục của cha ông. Cái chính thì họ không làm không giữ, nhưng lại đi gữ và làm những cái vô nghĩa. Họ đã đảo lộn bậc thang giá trị.
Đối với Chúa Giêsu thì khác, tâm tình bên trong mới là yếu tố quyết định. Từ cái tâm địa xấu mà phát sinh ra những tội gian dâm, trộm cắp, thù oán, nhưng từ cái tâm địa tốt, chúng ta sẽ có được những hành động yêu thương, giúp đỡ và bố thí đối với anh em. Như thế, tư tưởng của chúng ta sẽ đi đôi với lời nói và lời nói thì đi đôi với việc làm. Chúng ta sẽ trở nên những người đôn hậu và chân thành, chúng ta không phải là những kẻ bôi bác và giả hình.
Có một nhà triệu phú chết đi để lại một gia tài to lớn với một người con đi du học ở ngoại quốc từ nhỏ, nên không ai còn nhớ được khuôn mặt. Sau khi mẩu tin được đăng báo thì người ta thấy có ba chàng thanh niên tự nhận mình là con và xin được lãnh phần sản nghiệp. Viên quan toà suy nghĩ, sau cùng ông nhờ hoạ sĩ vẽ bức chân dung của nhà triệu phú. Ông trao cho ba chàng thanh niên, mỗi người một khẩu súng và bảo: Nếu ai bắn trúng một điểm nhỏ trên khuôn mặt nhà triệu phú thì sẽ được lãnh phần gia nghiệp. Chàng thanh niên thứ nhất đến và giơ súng bắn. Chàng thanh niên thứ hai cũng thế. Cả hai viên đạn chỉ cách chấm nhỏ có chút xíu. Chàng thanh niên thứ ba, vẻ mặt rất buồn, cầm súng, yên lặng suy nghĩ và sau cùng đã nói: Tôi không bắn vì đây là bức chân dung của ba tôi. Viên quan toà chạy đến và nói: Chính anh là người con của nhà triệu phú và anh được lãnh phần gia nghiệp.
Nếu không có tình mến, thì rồi một lúc nào đó chúng ta sẽ bị lật tẩy, vì chúng ta chỉ là những kẻ bôi bác giả hình mà thôi.
12. Luật vị tâm
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
“Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc.7, 6)
Chuyện kể rằng: Một ngày nọ, Đức Giám Mục địa phận cho mời vị mục tử trẻ đang chăm sóc họ đạo đến để gặp gỡ. Sau những lời chào hỏi xã giao, Đức giám mục ôn tồn nói:
“Tôi nghe bà con giáo dân phản ảnh qua thư từ, cũng như lời nói về cha rằng: “Cha thường xuyên tiếp xúc với phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ trẻ và đẹp, cha nghĩ sao về điều này? Vị mục tử thưa với Đức Giám Mục:
“Thưa Đức Cha tất cả những gì họ nói về con đều đúng. Nhưng con thiết nghĩ, khi con đứng trước người phụ nữ mà tâm trí con luôn hướng về Chúa thì vẫn tốt hơn là con đứng trước thánh nhan Chúa mà lòng trí con lại hướng về người phụ nữ phải không thưa Đức Cha?!”
Vâng! Theo lẽ thường, người đời thường xét đoán, nghi kỵ lẫn nhau qua dáng vẻ và những hành vi bên ngoài như những người biệt phái trong bản văn Tin Mừng mà thánh sử Máccô trình thuật cho ta hôm nay, khi họ chất vấn Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” (Mc.7,5).
Có thể nói, những người biệt phái, họ có biệt tài nhớ và tuân giữ giới luật Mô sê một cách rất triệt để trong cách sống của họ, nhưng có điều họ nhớ và giữ luật không để tôn kính và làm đẹp lòng Thiên Chúa, những việc họ làm, nói với mục đích cho người đời biết và ca tụng…Qua hình thức giữ luật họ mưu lợi danh vọng và tiền của cho riêng mình. Cách giữ luật của họ theo hình thức bề ngoài, hình thức vụ lợi đã bị Đức Giêsu lên tiếng quở trách: “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc.7, 6).
Lời Chúa hôm nay cũng chất vấn và gợi mở cho ta nhìn lại cách sống đạo và giữ đạo, nhất là việc thi hành những giới luật của Chúa và Hội Thánh. Để rồi nhờ ơn Chúa soi sáng ta đặt ra cho mình những câu hỏi:
Tôi tham dự thánh lễ ngày thường, ngày Chúa Nhật vì luật, vì sợ người đời và gia đình lên án tôi… Hay vì lòng yêu mến Chúa, vì khát khao được sống kết hiệp mật thiết với Chúa qua thánh lễ và những muốn đáp trả tình yêu mà Chúa đã dành và ban tặng cho tôi một cách nhưng không?
Tôi thực thi việc bác ái vì giới luật yêu thương, vì muốn tô bóng cho cái tôi của mình… Hay vì tôi nhận ra những gì tôi đang sở hữu từ sức khỏe, tri thức, gia đình, tài sản…đều do Chúa trao ban, tôi chỉ là người đầy tớ quản lý và có trách nhiệm chia sẻ những quà tặng Chúa ban cho những anh em kém may mắn hơn mình?
Tôi tuân giữ 10 điều răn của Chúa, 6 điều răn của Hội Thánh vì sợ phạm tội trọng, sợ phải xuống hỏa ngục… Hay vì lòng yêu mến Chúa và Hội Thánh, những muốn đáp trả lại những gì mà Chúa và Hội Thánh dành tặng cho tôi, giúp tôi ngày càng hoàn thiện hơn, giúp tôi ngày càng sống đúng với danh nghĩa Kitô hữu và nhất là giúp tôi trở thành chứng nhân Tin Mừng qua cách sống hằng ngày?
Tôi tham gia, cộng tác vào các công việc xây dựng gia đình, xã hội và Giáo Hội qua việc hiến thân, dấn thân và phục vụ vì sợ bị khiển trách, sợ người đời cho là thiếu tinh thần trách nhiệm, vì những tiếng khen, những tiếng vỗ tay… Hay vì tôi yêu mến Chúa, yêu gia đình, xã hội và Giáo Hội, những muốn cộng tác vào chương trình sáng tạo mà Thiên Chúa đã yêu thương mời gọi tôi cộng tác với Ngài?
“Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta”(Mc.7, 6). Lời khiển trách của Đức Giêsu với những người biệt phái năm xưa, cũng là lời khiển trách đối với ta khi ta xét đoán và nghi kỵ người anh em của mình qua những hình thức bên ngoài, nhất là việc ta giữ luật của Chúa và Hội Thánh không khởi đi từ một lòng mến vô vị lợi.
Vâng! Nói theo ngôn ngữ của Thánh Phaolô: “Giả như tôi có nói, làm những việc lớn lao cả thể mà không có lòng mến thì tôi chẳng khác nào thanh la phèn phèn, chũm chọe xoang xoảng” (x.1Cr.13, 1-13). Nếu trong cách sống đạo và giữ đạo của tôi, tôi tuân giữ giới luật của Thiên Chúa, của Hội Thánh như lòng Chúa mong ước thì không những tôi được chính Thiên Chúa yêu thương, khen tặng, ngay cả người đời cũng sẽ khen ngợi tôi là người thông minh và khôn ngoan, như lời răn dạy của Môsê: “Anh em phải tuân giữ giới luật của Chúa và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh. Khi nghe được tất cả những thánh chỉ, giới luật của Thiên Chúa, họ sẽ nói chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là một dân khôn ngoan và thông minh” (Đnl.4,6).
Giữa thời đại hôm nay, nhân loại đang coi thường, khước từ giới luật của Thiên Chúa, của Giáo Hội và xã hội. Chính vì thế đã đưa đến một xã hội luôn đầy ắp những bạo lực, giả dối và điêu ngoa tạo nên cho con người những lo sợ và mất bình an. Tệ hơn nữa, con người dần chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa, tự cho mình là Thiên Chúa qua việc áp đặt lên nhau những gánh nặng, những khổ đau tinh thần lẫn thể xác. Điều đáng sợ nhất là con người tự cho mình có quyền làm chủ mạng sống của nhau qua việc khủng bố, phá thai, gieo rắc cái chết trắng (ma túy)…..
Là người Kitô hữu ta được Thiên Chúa mời gọi, qua Giáo Hội không chỉ giữ giới luật của Ngài với lòng yêu mến, qua việc yêu mến, tuân giữ và thi hành giới luật của Thiên Chúa, Giáo Hội mà nhiều người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa giữa lòng nhân thế, để rồi qua cách sống đạo và giữ đạo nhất là việc tuân giữ giới luật Thiên Chúa, với tấm lòng đơn sơ mà nhiều người phải thốt lên như lời trình thuật của sách Đệ nhị luật: “Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người?” (Đnl.4,7).
Là những phàm nhân yêu đuối mang trong thân phận những lỗi lầm, thiếu xót, vô ơn…. đối với tình yêu của Thiên Chúa, làm sao ta có thể sống và thực thi Lời Chúa mời gọi chúng ta? Thánh Giacôbê đã khai mở cho chúng ta một tia hy vọng: “Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú….Người đã tự ý dùng lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người” (Gc.1,17-18). Vì thế, để nên hoàn thiện trong bổn phận làm con cái Chúa, con cái Giáo Hội và là anh em tốt của nhau, thiết nghĩ không có con đường nào khác ngoài con đường tiếp cận ân sủng của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu Kitô như lời Ngài đã minh định: “Không có Thầy anh em không làm được gì” (Ga.15,5).
Xin mượn lời Thánh vịnh thay cho lời cầu nguyện:
“Lạy Chúa, xin dạy con đường lối Thánh chỉ,
con nguyện đi theo mãi đến cùng.
Xin cho con được trí thông minh
để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ
Trên đường mệnh lệnh Chúa, xin dẫn con đi,
vì con ưa thích đường lối đó……
Xin đừng cất khỏi miệng con lời chân lý,
vì quyết định của Ngài con vẫn cậy trông…..
Thánh chỉ của Ngài là khúc nhạc của con,
giữa cảnh đời tha hương lữ thứ.
Lạy Chúa, con đã nói:
Phần của con là tuân giữ lời Ngài.
Con hết lòng xin Chúa bao dung,
xót phận con như lời Ngài đã hứa…
Tay Chúa đã nắn con nên hình nên dạng,
xin mở trí cho con học biết mệnh lệnh Ngài.
Kẻ kính sợ Ngài thấy con mà hoan hỷ,
vì con trông cậy ở Lời Ngài” (Tv.119, 33-74)
Antôn Lương Văn Liêm
13. Cội nguồn của sự ác – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Trong một cuộc biểu tình chống chiến tranh, có hàng ngàn người xuống đường tuần hành qua các đường phố, hô to các khẩu hiệu chống chiến tranh. Ban đầu người ta hô: “đả đảo bom giết người!”
Sau đó, trong đám đông tham gia biểu tình có cuộc tranh luận nhỏ: “Làm gì có bom giết người! Bom đạn có giết ai đâu? Chỉ có những con người ác tâm tạo ra bom đạn, rồi đem bom bỏ lên đầu người khác mới gây nên tội giết người.”
Thế là sau đó, người ta hô khẩu hiệu khác, hợp tình hợp lý hơn: “Đả đảo những kẻ giết người!”
Nhưng rồi lại có người bàn thêm: “Đâu phải tự dưng mà người lại giết người. Phải có động cơ nào đó thúc đẩy mới có chuyện giết người. Nếu không có lòng tham lam, ghen tị và những dục vọng xấu xa thúc đẩy, nào có ai lại đi giết người?” Nhiều người đáp lại: “Chí lý! Chí lý!”
Thế là cuối cùng, mọi người hô to khẩu hiệu khác: “Đả đảo lòng tham lam! Đả đảo lòng ghen tị! Đả đảo lòng hận thù!” (dựa theo Cha Anthony de Mello)
Thưa quý ông bà anh chị em,
Chính những dục vọng đen tối trong lòng người mới là nguyên nhân chính gây nên mọi xấu xa trong cuộc đời.
Vì chưa hiểu điều nầy, những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu cứ lo rửa cho sạch bên ngoài mà không lo rửa sạch nội tâm. Họ luôn rửa tay trước khi dùng bữa, hô hào mọi người hãy làm như họ, cho rằng đó là việc quan trọng cần làm và họ trách các môn đệ Chúa Giêsu vì các ông nầy bỏ qua tập tục đó.
Nhân cơ hội đó, Chúa Giêsu dạy cho các ông một bài học: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: 15 Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. 21 Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, 22 ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. 23 Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.”
Để hiểu rõ hơn bài học nầy, chúng ta hãy nhìn lại trường hợp Cain và Aben. Cain và Aben là hai anh em ruột thịt hằng ngày vẫn thường yêu mến nhau, vui đùa với nhau, hoà thuận với nhau.
Thế rồi, sau khi thu hoạch hoa màu lợi tức, hai anh em cùng nhau dâng của lễ đầu mùa lên Thiên Chúa. Thiên Chúa nhận lễ vật của Aben mà từ khước lễ vật của Cain.
Thế là từ đó, trong lòng Cain phát sinh một mối ghen tị, hận thù. Lòng ghen tị lớn dần lên lấn át cả tình anh em ruột thịt khiến Cain dụ em ra đồng và xông vào đánh chết người em.
Chính lòng ghen tị trong tâm hồn Cain là nguyên nhân chính xui khiến anh giết chết Aben.
Một trường hợp tương tự khác là vua Sao lê và Đavít.
Thời ấy, Gô-li-át là kiện tướng của quân Philitinh, một con người khổng lồ lại có sức mạnh vô địch khiêu chiến với người Israel. Trong hàng ngũ quân Ít- ra-en không ai có thể đương đầu được với con người khổng lồ ấy.
May thay, Đavít xuất hiện kịp thời. Cậu dùng ná bắn lủng trán Gô-li-át, rồi dùng chính gươm của y mà chặt đầu y. Thừa cơ hội tốt, quân Israel xông lên đánh tan quân địch không còn manh giáp.
Dân chúng Israel tuôn ra đường tung hô ca tụng vị anh hùng trẻ tuổi Đavít. Họ ca lên rằng: “Vua Sao-lê giết được một ngàn, còn Đavít giết được hàng vạn”.
Lời ca tụng đó vẳng đến tai vua Sao-lê. Lòng ghen tị xuất hiện và nung nấu tâm hồn ông. Thế là vua thay lòng đổi dạ: trước đây vua yêu thương Đavít bao nhiêu thì giờ đây vua căm thù Đavít bấy nhiêu. Nhà vua bất thần lấy giáo phóng vào Đavít khi cậu gảy đàn cho vua nghe. Đavít lách mình tránh thoát cái chết trong gang tấc. Sau đó vua đem quân truy lùng tận những hang núi sâu để tiêu diệt vị anh hùng tài năng và dũng cảm nầy.
Đúng là những gì xấu xa bên trong lòng người mới làm cho người ta ra nhơ uế.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn thật sâu tận đáy lòng mình để quan sát những ham muốn xấu xa, những kiêu căng và ghen tị, những tham lam và thù ghét đang âm ỉ trong lòng. Chính những thứ đó mới là nguyên nhân gây nên tội ác, tạo nên mọi điều xấu xa.
Nếu chúng ta không nhận diện được chúng, không nhổ bỏ chúng khỏi tâm hồn mình, thì dần hồi chúng sẽ lớn dần lên và xô đẩy chúng ta vào tội ác, khiến tương quan giữa chúng ta với người khác ngày càng tồi tệ, làm cho đời sống thiêng liêng của chúng ta suy sụp hoàn toàn.
14. Hãy sống chân thật – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Đôi khi tôi vẫn tự hỏi: tại sao Thiên Chúa tạo dựng con người có trí tuệ thông minh, có thể biết mọi sự nhưng Ngài lại không cho con người biết được lòng nhau? Có đôi khi ta vẫn nghe ai đó nói rằng “Tôi đi guốc trong bụng anh đấy!”, nhưng chỉ là “suy bụng ta ra bụng người” chứ chẳng ai đi guốc được trong bụng nhau! Vì con người là một diễn viên tài ba có thể che dấu sự thật về mình.
Thế nên, người đời mới chua cay nói rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò – Lòng người nham hiểm ai đo cho tường”. Con người dường như luôn có bí mật để dấu mọi người. Có khi cả tội lỗi mà chẳng ai nhận ra.
Có một người đàn ông khi hấp hối hỏi vợ:
– Em yêu, trước khi chết, anh muốn biết sự thật và sẵn sàng tha thứ cho em. Thằng thứ tư có phải là con anh không?
– Tất nhiên nó là con anh. Em xin thề!
Người đàn ông lộ vẻ sung sướng và trút hơi thở cuối cùng. Người vợ vừa vuốt mắt cho chồng vừa thở phào:
– May là ông ấy không hỏi mình về ba đứa đầu…
Quả thực giữa muôn loài trong thế gian chỉ có con người mới có giả hình, lừa đảo, gian dối, mưu mô, thủ đoạn… Chỉ có con người mới có kiểu nói vậy mà không phải vậy nên rất khó biết lòng nhau.
Hôm nay Chúa Giêsu khẳng định: “không phải những gì từ bên ngoài vào làm cho người ta ra ô uế, nhưng từ trong mới xuất phát những cái làm cho người ta ra ô uế”. Điều này dường như Chúa muốn nói tội xuất phát từ bên trong. Tội chỉ là hành vi làm điều gì đó có lỗi mà từ trong tâm hồn con người đã nuôi dưỡng. Có khi tội cũng chỉ dừng lại ở việc nuôi dưỡng trong tâm hồn những điều bất chính hay những điều ngược với đức ái Ky-tô.
Hôm nay nhân việc các kinh sư trách các môn đệ Chúa không rửa tay trước khi ăn. Đối với người Do Thái việc rửa tay là luật mà họ phải tuân giữ để chứng tỏ mình sạch trước mặt mọi người. Nhưng Đức Giêsu đã cho họ biết thế nào là sạch, thế nào là dơ. Cá có zòi rửa sạch nhưng bên trong đã hư thối. Sạch dơ đều phải dựa vào cái bên trong. Thế nên, cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, tốt hay xấu, sạch hay dơ. Từ lòng mà sinh ra các tội: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, lăng loàn ,…
Đức Giêsu không phản đối việc rửa tay trước khi ăn, Người chỉ phản đối thói vụ hình thức, vì họ quá quan trọng cái bên ngoài mà quên làm sạch bên trong. Làm người cần có tấm lòng như Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng viết rằng: “sống trên đời cần có một tấm lòng”. Một tấm lòng chân thành, biết trao yêu thương. Khi tạo dựng con người Thiên Chúa cũng truyền cho con người: “Hãy tạo cho mình một trái tim mới” (Ed 18,31). Một trái tim biết yêu thương, một tấm lòng chân thành yêu thương nhau. Con người phải để gió cuốn đi tấm lòng yêu thương chân thành đến với tha nhân.
Người ky-tô chúng ta đang sống trong mọi thế giới mà sự lừa dối lên ngôi đến mức cảnh báo ở khắp mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh. Thế giới hôm nay người ta cũng đề cao hình thức nên cũng cố đánh bóng mình bằng nhà cửa, xe cộ, phương tiện đắt tiền để khoe mẽ, để tạo niềm tin cho đối tác nhưng có mấy ai thực sự là sở hữu riêng mà không phải vay mượn.
Một xã hội nặng hình thức và lừa dối cần lắm một đời sống chứng nhân cho sự chân thành và lòng quảng đại không điều kiện của người tín hữu chúng ta. Thiên Chúa biết rõ mọi sự hãy sống dưới cái nhìn của Chúa. Thế nên, hãy sống chân thành với nhau. Vợ chồng đừng che dấu nhau điều gì nhưng luôn cởi mở thân tình. Bạn bè cần sống chân thành để gìn giữ niềm tin cho nhau. Đối tác cần sống thật để cho mối quan hệ làm ăn bền vững…
Người Ky-tô hữu mỗi khi đưa tay để đón nhận tình thương và sự thanh sạch của Thiên Chúa nên cũng cần phải thanh sạch từ ngoài đến tâm hồn không hoen ố vấn đục bởi tội lỗi, bởi toan tính thấp hèn. Xin Chúa giúp chúng ta luôn sống thanh sạch trong tâm hồn và chân thành trong đời sống của mình. Amen.
15. Cái nết đánh chết cái đẹp
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Có người nhìn đời mà ngao ngán bảo rằng: sao Thiên Chúa không tạo dựng “thế thật” mà lại tạo dựng “thế gian”? Thế gian nên lắm gian tà. Thế gian nên con người hay sống gian dối, lừa lọc với nhau và thiếu hẳn lối sống đơn sơ, chân thành. Thực ra thế gian ở đây không phải là thế giới gian tà mà là trần thế, dương gian. Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sư đều tốt đẹp. Sự xấu do ma qủy gieo vào thế gian qua tâm hồn con người. Trước tiên nó gieo vào trong con người sự ngờ vực Thiên Chúa. “Cứ ăn đi chẳng chết chóc gì đâu! Cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa”. Con người đã để cho hạt giống ước muốn phản bội Thiên Chúa lấn chiếm vị trí số 1 trong tâm hồn. Thay vì bình an vô tư sống trong sự che chở của Thiên Chúa, con người lại nuôi dưỡng sự ngờ vực và ấp ủ những toan tính bất trung, phản bội. Hậu quả là sự xấu đã đi vào trần gian. Sự xấu chìm sâu trong bản tính con người. Sự xấu có thể bộc phát và thống lĩnh con người, nếu con người buông mình theo thói đam mê dục vọng và sống lười biếng ươn hèn. Quyền lực của sự dữ đã thống trị con người đến nỗi con người dễ làm điều xấu hơn điều thiện. Từ ngày nguyên tổ nghi ngờ Thiên Chúa cho đến hôm nay con nguời vẫn luôn nghi ngờ lẫn nhau. Từ nghi ngờ đến lối sống “bằng mặt nhưng không bằng lòng”, và tệ hại nhất là sống giả hình với nhau.
Một thế giới “vàng thau lẫn lộn” nên khó phân biệt đâu là thiệt đâu là giả. Và càng khó phân biệt ai là người tốt ai là người xấu. Thế giới hôm qua cũng như hôm nay luôn có những ngừơi sống giả dối, sống hai mặt: “Đi với Chùa mặc áo Càsa – Đi với ma mặc áo giấy”. Vẻ bên ngoài thường nguỵ trang cho những ý đồ đen tối đầy bất chính và gian tà bên trong.
Lời Chúa hôm nay cảnh cáo lối sống giả hình của nhóm biệt phái và luật sĩ năm xưa. Họ chú trọng đến việc canh tân hình thức bên ngoài mà quên đi việc canh tân tâm hồn. Họ nhạy cảm với sự dơ bẩn bên ngoài như đồ ăn, thức uống và vật dụng mà quên đi điều quan yếu của lề luật là gìn giữ sự thanh khiết tâm hồn. Lề luật không nhằm bảo đảm cho con người được sạch sẽ thân thể, được bảo đảm an toàn thực phẩm mà nhằm gìn giữ nét đẹp của phẩm giá con người và bảo vệ con người khỏi những sự ô uế của tâm hồn. Thế nên, gìn giữ sự thanh khiết tâm hồn quan trọng hơn là sự sạch sẽ bên ngoài. Thanh tẩy tâm hồn khỏi những bợn nhơ tội lỗi cần thiết hơn là những nghi lễ bên ngoài. Philatô đã từng rửa tay nhưng liệu rằng tâm hồn ông có thanh thản bình an khi dối mình “vô can trong cái chết của người công chính?”. Biết bao người đã dùng bàn tay để làm sự ác như giết người, cướp của… và họ cũng đã từng rửa tay cho sạch, nhưng làm sao họ rửa được tội ác mà họ đã gây nên? Bàn tay chỉ là dụng cụ. Bàn tay không làm nên tội. Bàn tay bị sai khiển bởi tâm địa gian ác và lưu manh của con người.
Chính vì thế, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng… Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế”. Thế nên, điều cần rửa là rửa tâm hồn sạch mọi những toan tính bất chính, cần phải loại bỏ những ý đồ dơ bẩn, và tránh xa những cám dỗ tội lỗi của ma qủy luôn dẫn dụ con người đi ngược lại với giáo huấn của Chúa.
Con người ngày nay dường như cũng chỉ chú trọng đến hình thức bên ngoài. Ngừơi ta trau truốt vẻ đẹp bên ngoài bằng biết bao mỹ phẩm. Chấp nhận tiêu hao tiền của nơi các thẩm mỹ viện để chăm sóc sắc đẹp, nhưng ít ai nghĩ đến phải trau dồi nhân đức cho xứng với phẩm giá con người. Người ta có thể hy sinh, khổ luyện hàng tháng, hàng năm để gìn giữ vẻ đẹp thân xác, nhưng có mấy ai chịu khổ chế để gìn giữ vẻ đẹp tâm hồn. Ngày xưa người ta chú trọng đến cái nết, vì “cái nết đánh chết cái đẹp”, nhưng hôm nay “cái đẹp đang đánh dẹp cái nết”.
Con người ngày hôm nay quá chú trọng đến vẻ đẹp bên ngoài mà lãng quên phẩm chất đạo đức nên con người đã đánh mất hướng đi của mình. Hậu quả là cả một trào lưu ăn chơi truỵ lạc, thoái hoá đạo đức đang làm băng hoại xã hội, đánh mất đi biết những thuần phong mỹ tục nơi gia đình và xã hội. Tội lỗi ngày một gia tăng. Sự ác ngày một lan tràn.
Vâng, vẻ đẹp bên ngoài là cần thiết nhưng điều quan yếu mà chúng ta phải phấn đấu là sống sao cho nên người. Thiết tưởng lời dạy của tiền nhân năm xưa: “đói cho sạch, rách cho thơm”. “Làm người phải có lòng nhân” phải là lời dạy cho con người hôm nay. Đẹp thể xác và đẹp cả tâm hồn mới có ích cho xã hội, bằng không chỉ là hoa, là cỏ, là vật vô tri vô giác, có khi còn có hại cho gia đình và xã hội.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết thanh luyện tâm hồn của mình khỏi những bợn nhơ tội lỗi, những toan tính bất chính và đam mê thấp hèn, để tâm hồn luôn thanh khiết vẹn toàn. Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết trân trọng, yêu qúy phẩm giá cao qúy của con người là hình ảnh Thiên Chúa để biết sống cao thượng, sống đúng với luân thường đạo lý và nhất là biết sống theo lề luật của Chúa để bình an của Chúa luôn cư ngụ mãi trong cuộc đời chúng ta. Amen.
16. Tập tục và Lời Chúa – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm.
Có những người chẳng để ý đến lề luật, nên không tôn trọng quyền lợi người khác; nhưng cũng có những người quá để ý đến luật, đến trở thành nô lệ lề luật. Đức Yêsu trách một số người thời đó “bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.
I. Lời Thiên Chúa và lời con người
Thiên Chúa đã ban mười điều luật cho dân Israel qua Môsê, và ông đã dạy dân Do Thái: “các ngươi chớ thêm bớt điều gì trong các điều ta đã truyền, nhưng hãy tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi mà ta đã truyền cho các ngươi”. Đừng thêm và cũng đừng bớt vào những điều Thiên Chúa dạy. Đừng làm lẫn lộn lời của con người với Lời Thiên Chúa. Chỉ có Lời Thiên Chúa mới phải giữ một cách tuyệt đối, còn lời của con người thì tùy thuộc thời đại và tùy thuộc văn hóa của mỗi dân tộc.
Tuy nhiên, có Lời Chúa nào mà không phải là lời của con người? Để con người nghe được Lời Chúa, thì Lời Chúa cũng phải là lời của con người, phải được truyền qua trung gian con người. Để dân có thể nghe được Lời Chúa, Lời Chúa đã qua trung gian là lời Môsê. Lời của Môsê nhưng không phải là lời của Môsê, nên Môsê cũng phải phục tùng Lời Chúa mà Môsê đã được trao để truyền lại cho dân.
Vấn đề chính yếu là phải nhận định được đâu là Lời Chúa và đâu là lời của con người, xét như phương tiện chuyển tải Lời Chúa. Đâu là Lời Chúa, đâu là lời của Môsê, đâu là văn hóa của thời đại chuyển tải Lời Chúa? Thập giới là Lời Chúa, và thập giới cho con người biết con người phải có tương quan như thế nào đối với Thiên Chúa. Vào thời cánh chung, Lời Thiên Chúa đã làm người. Đức Yêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể, nên con người cũng là Lời Thiên Chúa, vì Lời Thiên Chúa đã làm người.
II. Tập tục con người và giới răn Thiên Chúa
Con người là vật chất và tinh thần. Thân xác vật chất bị giới hạn, nên con người cũng bị giới hạn. Khi Lời Thiên Chúa nhập thể, thân xác giới hạn của con người có thể che khuất làm con người khó nhận ra chân tướng của Lời Thiên Chúa nhập thể; cũng tương tự vậy, lời con người cũng có thể làm lu mờ Lời Chúa khi Lời Chúa được diễn đạt qua trung gian lời con người.
Trong lịch sử, Lời Thiên Chúa đã được con người giải thích, với mong ước con người hiểu biết hơn về Lời Chúa, để có thể sống theo Lời Chúa. Tuy nhiên, vì có quá nhiều những lời giải thích nên người ta không còn nhận ra đâu là điểm chính yếu mà lề luật hay Lời Chúa muốn nói. Rồi tới một mức độ nào đó, người ta lấy những lời dạy của con người và coi đó như là tuyệt đối quan trọng (như thể đó là Lời Chúa). Đó là lý do tại sao Đức Yêsu nói: “Dân này sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người. Vì các ngươi bỏ qua giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.
Con người phải được thanh tẩy liên tục để có thể nghe được Lời Chúa nói với mỗi người, và giữ mình khỏi bị ràng buộc bởi những lời giải thích Lời Chúa và luật Chúa. Truyền Lời Chúa lại cho con cháu, đó là bổn phận mà mỗi người thực thi. Tuy nhiên, con người phải phân biệt Lời Chúa và những giải thích về Lời Chúa. Cần thiết phải giữ Lời Chúa, chứ không phải giữ tập tục của con người. Thiên Chúa luôn muốn điều tốt lành cho con người, nên Lời Thiên Chúa làm con người được giải phóng khỏi mọi ràng buộc, giúp con người tự do và sống hạnh phúc với Thiên Chúa; ngược lại, tục lệ con người làm người ta trở thành nô lệ. Không được nhân danh Lời Chúa để bắt con người trở nên nô lệ cho những điều thuộc trần thế.
III. Thiên Chúa Đấng ban luật lệ cho con người
Luật Thiên Chúa ban cho con người, không phải để cưỡng ép con người, nhưng để giúp con người được tự do thực sự. Con người có thể bị ràng buộc bởi lòng ham mê tiền bạc, lòng ham mê sắc dục, sợ chết, v.v. Mười Lời (thập giới) được ban cho con người, giúp con người nhận ra mình bị nô lệ khi thấy mình đã vi phạm thập giới. Luật Chúa là dấu chỉ cho con người biết về chính mình.
Đấng ban luật cho con người, là Đấng muốn con người được tự do. Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo muốn loài, Ngài là chủ, là vua. Ngài không nô lệ bất cứ điều gì nhưng tự do với tất cả để yêu thương. Thiên Chúa yêu thương, và muốn con người nên giống Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn con người làm chủ tất cả, tự do với tất cả. Thiên Chúa muốn con người sống hạnh phúc như Thiên Chúa.
Khi con người còn quy tất cả về chính mình, thì con người chưa thể yêu thương thật sự. Khi con người muốn đặt mình trên tất cả, thì con người chưa thực sự được tự do. Yêu thương và phục vụ, là dấu chỉ của một người đang trở nên giống Thiên Chúa. Hạnh phúc không thể có được chỉ bằng thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con người. Hạnh phúc đòi hỏi điều gì thâm sâu hơn, và chính Đức Yêsu đã sống hạnh phúc trong chính cuộc đời dương thế của Ngài. Hạnh phúc của Đức Yêsu, liên hệ đến tất cả con người của Ngài, và là tình trạng mẫu mực con người phải đạt. Khi đó con người sống an bình và hòa hợp với Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tự do nội tâm là gì? Bạn có bị ràng buộc bởi điều gì “bất chính” không?
2. Theo bạn, luật lệ đời giúp gì cho con người? Luật Chúa giúp gì cho con người?
3. Với bạn, bạn cần tự do để yêu thương, hay chính khi bạn yêu thương thì bạn tự do?
17. Hãy tẩy rửa tâm hồn
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Mc 7: 1-8.14-15.21-23: Điểm quan trọng này được biểu lộ trong một tranh luận sôi nổi giữa Chúa Giêsu và những nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Chúng ta biết đối với dân Do Thái có hai bộ luật: Luật thành văn và luật truyền khẩu.
Nhà thần học William Barclay kể lại một câu chuyện như sau: Có một Rabbi (tiến sĩ Luật Do Thái giáo) lão thành bị tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm mục đích kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua, vị Rabbi này ngày càng yếu dần. Cuối cùng người ta buộc phải mời một y sĩ đến khám bệnh. Y sĩ bảo rằng cơ thể ông ta bị thiếu nước.
Báo cáo của y sĩ khiến các viên cai ngục bối rối. Họ không hiểu tại sao vị Rabbi ấy lại có thể thiếu nước, bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, song vẫn tương đối đủ cho mỗi người. Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát vị Rabbi ấy một cách kỹ lưỡng hơn để thử xem ông ta làm gì với số nước ấy. Cuối cùng người ta đã khám phá ra một điều bí mật. Vị Rabbi ấy đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay trước khi cầu nguyện và ăn cơm.
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được bài Phúc Âm hôm nay. Nó giúp ta hiểu rõ hơn các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã cảm thấy chướng tai gai mắt và bực bội thế nào khi nhìn thấy các môn đệ Chúa Giêsu ăn uống mà không chịu rửa tay theo đúng nghi thức.
Đấy chính là điểm quan trọng của bài Phúc Âm hôm nay.
Điểm quan trọng này được biểu lộ trong một tranh luận sôi nổi giữa Chúa Giêsu và những nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Chúng ta biết đối với dân Do Thái có hai bộ luật: Luật thành văn và luật truyền khẩu. Luật thành văn căn cứ trên sách Torah (Ngũ Thư) nghĩa là 5 quyển sách đầu của Cựu Ước, đôi khi còn gọi là luật Môisê.
Tới thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên, có một nhóm chuyên nghiên cứu về Luật đã tạo được một ảnh hưởng mạnh mẽ trong dân chúng Israel. Họ thấy những điều luật tổng quát trong bộ luật ấy quá mơ hồ, thiếu tính rõ ràng, cần phải được soạn thảo lại cho rõ ràng, với nhiều chi tiết hơn. Từ đó phát sinh ra bộ luật thứ hai, đó là bộ luật truyền khẩu.
Trong thời gian này, nơi dân chúng Do Thái, có rất nhiều người muốn bắt chước các tư tế của họ về sự thánh thiện bề ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn theo luật thành văn, mọi tư tế đều phải rửa tay trước khi vào nơi thánh trong đền thờ. Mục đích của luật này là tẩy rửa tất cả những gì là ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng trước nhan Chúa hơn. Dần dần, dân chúng cũng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Và bằng những suy nghĩ tương tự như thế, họ cũng rửa tay trước khi dùng bữa nữa.
Rửa tay trước khi ăn, đối với người Do thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các người Biệt Phái và Kinh Sư nói riêng và dân Do Thái nói chung, thường rất khắt khe với tục lệ này. Họ cho đó là một nghi thức truyền thống quan trọng phải tuân giữ nghiêm ngặt, để tỏ ra mình thanh sạch trước mọi người.
Tục lệ rửa tay của họ rất phức tạp chứ không đơn giản như kiểu chúng ta rửa tay để ăn uống: rửa ngón tay, bàn tay, cổ tay. Phải đổ nước từ từ cẩn thận từng chút, từng chỗ… thật cầu kỳ, thật phức tạp. Khi rửa tay như vậy, họ nghĩ rằng họ đã làm đẹp lòng Thiên Chúa vì đã làm đúng luật lệ và họ tin rằng một nghi thức bên ngoài như vậy có sức làm cho họ được thanh sạch.
Ý tưởng hàm chứa đàng sau việc tuân giữ này quả thực cao đẹp, bởi nó nhằm mục đích làm cho tôn giáo thấm nhập vào mỗi hành vi của cuộc sống. Nhưng trong quá trình thực thi luật này, một điều bi đát đã xảy ra vì tôn giáo đã dần dần thoái hoá thành một hoạt động chỉ đơn thuần là chu toàn những nghi thức bên ngoài: tuân giữ những nghi thức này thì được kể là đạo đức, là thánh thiện.
Lại thêm một câu chuyện nữa để chúng ta suy nghĩ về vấn đề vụ hình thức, chỉ chú tâm tới bề mặt bên ngoài như sau: Khoảng 2 giờ, một buổi sáng lạnh và gió lớn, chuông điện thoại nhà xứ reo: Có người sắp chết, xin cha đi xức dầu.
Khi cha Murray đi qua một ngõ hẻm, chợt xuất hiện một bóng đen với cây súng la to: “Đưa tiền đây!”.
Vị linh mục đáp lại: “Ví của tôi để ở trong túi áo khoác”.
Khi ngài mở áo khoác thì chiếc cổ côn trắng lộ ra.
Kẻ cướp ấp úng: “Ôi con không biết cha là linh mục, con xin lỗi, cha cất tiền đi”.
Bình tĩnh lại vị linh mục đưa cho y một điếu thuốc xì gà, nhưng y lắc đầu: “Không, cám ơn cha, trong mùa chay con không hút thuốc”.
Coi trọng việc không hút thuốc trong mùa chay quan trọng hơn việc đi ăn cướp. Qủa thật, kẻ cướp đường đã hành động như một người Biệt Phái. Người Biệt Phái giữ hết sức chi tiết những điều lệ nhỏ nhặt của luật Do Thái, trong khi đó lại bỏ bê những giới răn quan trọng. Đó là lý do Đức Giêsu khiển trách họ.
Trong cuộc sống, có lẽ nhiều lần Chúa cũng quở trách chúng ta như đã quở trách những Luật Sĩ và Biệt Phái trong bài Tin Mừng hôm nay: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”(Mc 7,6). Ước chi chúng ta ghi nhớ lời cảnh báo của Chúa Giêsu để mau chỉnh đốn lại đời sống tâm linh của chúng ta để luôn sống chân tình với Chúa như một người con thảo. Amen.
18. Chúa Nhật 22 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Từ trước đến giờ chắc anh chị em dự nhiều đám tang. Nếu nhớ lại, không chỗ nào giống nhau cả. Có nơi chôn ban ngày, có nơi chôn ban đêm. Tôi cũng nhận thấy có những điều hơi lạ ở một số nơi. Người chết được đưa đi đến nơi an nghĩ cuối cùng vào lúc ban đêm, có đèn đuốc để thấy đường đi, đó là lẽ tự nhiên. Nhưng tôi hơi ngạc nhiên, vì có khi quan tài được mang đi giữa ban ngày mà vẫn có những bó đuốc dẫn đường. Lại còn bở ngở hơn nữa, khi mọi việc lo cho người chết đã xong, cho dù vẫn còn đêm tối, nhưng không một ánh lửa nào được đốt lên, mọi người cứ lần mò trong trong bóng đêm dầy đặt mà trở về nhà. Điều ngạc nhiên đó được giải đáp như thế nầy:
Việc đưa người chết đến nơi an nghĩ cuối cùng, dù ngày hay đêm, đều có bó đuốc dẫn đường, để người chết biết đường đi đến nơi của mình.
Còn việc những người làm xong nhiệm vụ, cho dù ban đêm vẫn không được có một ánh lửa để soi đường về, là vì sợ người chết sẽ theo ánh lửa mà quay trở về phá rối những người còn sống.
Sợ người chết quay trở về, vậy mà có rất nhiều người, sau khi chôn người chết được ba ngày, thì có một việc làm gọi là mở cửa mả. Trong những món đồ đem đến mở cửa mả có một cái thang, để cho người chết dùng leo lên trở về nhà mình. Tôi nhận thấy đó là một việc làm vô lý: sợ trở về, rồi lại tìm phương tiện cho trở về. Vậy mà trải qua biết bao nhiêu thời đại, rất nhiều người đều thực hiện cái phi lý đó.
Chúa Giêsu nhìn thấy những điều phi lý trong xã hội của Ngài thời bấy giờ, Ngài không thể lặng thinh ngồi nhìn những người mà Ngài thương yêu phải nô lệ cho những điều phi lý đó. Ngài muốn những việc làm của con người không chỉ là những cử chỉ vô tri bên ngoài, nhưng nó luôn được thực hiện bằng cả tâm tình thật sự của một con tim nồng cháy. Để việc làm có giá trị, không hệ tại hình thức bên ngoài, nhưng do tâm tình bên trong.
Chúng ta đang sống trong một xã hội gọi là văn minh khoa học, con người luôn chạy đua, tìm kiếm những tiện nghi vật chất cho cuộc sống. Con người luôn tìm những hào nhoáng bên ngoài, để rồi khi nhìn lại, họ không còn thấy được con tim của mình đang ở đâu.
Thử nhìn lại xem, biết bao lần chúng ta khó chịu với những người có hành động và ý tưởng không giống như mình, thế là, chúng ta tìm đủ mọi thứ lý do để kết tội họ: nào là vô lễ, không lịch sự, không có giáo dục, kém văn minh, vô đạo đức. Nếu khi đó, có Chúa Giêsu đang nhìn thấy, Ngài sẽ bảo chúng ta như thế nào? Tôi thiết nghĩ, chắc Ngài không quá khắc khe như chúng ta. Còn những việc chúng ta làm, gọi là những việc đạo đức tốt lành, chúng ta bắt mọi người phải công nhận, noi theo. Nếu có người nào có ý kiến phê bình, chỉ trích, hay có hành động trái ngược lại, chắc là chúng ta không vui, hay tệ hơn nữa, chúng ta tìm mọi cách loại trừ kẻ ấy. Nếu khi đó có Chúa Giêsu đang nhìn thấy, Ngài sẽ bảo chúng ta như thế nào?
Nếu giờ nầy đây, chúng để ra một ít phút suy tư, nhìn lại những việc làm đã qua của mình, chúng ta sẽ dể dàng nhận thấy: đâu là những việc làm phát xuất từ con tim biết yêu thương, còn đâu là những việc làm hào nhoáng chỉ để thỏa mản những tham vọng, như Chúa Giêsu đã nói: “Từ bên trong con người mới phát ra những ý tưởng xấu.”
Biết bao nhiêu điều vô lý chúng ta đã làm trong cuộc sống, nhưng không thấy. Trái lại, chúng ta nhìn thấy những điều người khác làm, có những lúc chúng ta cho là vô lý, là không đúng chỉ theo ý muốn riêng tư của mình, không theo một nguyên tắc chung nào cả.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết hành động bằng con tim chân thật, để chúng ta biết tôn thờ Chúa không chỉ bằng môi miệng, nhưng bằng cả con tim biết yêu thương mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta.
19. Lề luật và tấm lòng
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
“Cái gì từ trong con người xuất ra mới là cái làm cho người ta ô uế” (Mc 7,15)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Ngày xưa Ðức Giêsu đã dùng lời ngôn sứ Isaia để trách dân Do Thái rằng: “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Phải chăng chúng ta cũng đáng bị trách như thế? Mỗi ngày Chúa nhật, chúng ta đến đây đọc kinh và rước lễ. Nhưng đó chỉ mới là bằng môi bằng miệng thôi. Tôn kính Chúa bằng một tấm lòng chân thành còn đòi buộc chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa, kết hợp với Mình Thánh Chúa và sống theo ý Chúa nữa. Chúng ta hãy dâng Thánh lễ này với cả tấm lòng chân thành yêu kính như vậy.
II. Gợi ý sám hối
Nhiều lần chúng ta dự thánh lễ nhưng lòng trí không ở với Chúa.
Chúng ta nghe Lời Chúa rất nhiều nhưng chẳng thực hành bao nhiêu.
Chúng ta cố gắng giữ luật vì sợ phạm tội chứ không vì lòng yêu mến Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Ðnl 4,1-2.6-8)
Dân Do Thái rất hãnh diện vì có Thiên Chúa làm Chúa của họ và vì được Thiên Chúa ban Luật cho họ: “Có dân tộc vĩ đại nào được Thần minh ở gần như Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh như tất cả Lề luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?”
Nhưng Ông Môsê lưu ý: (1) Không được thêm cũng không được bớt gì vào những Lề luật của Chúa; (2) Phải đem những lề luật đó ra thực hành.
2. Ðáp ca (Tv 14)
Thánh vịnh này ca tụng những người luôn cố gắng sống công chính theo chỉ dẫn của lề luật.
3. Tin Mừng (Mc 7,1-8a.14-15.21-23)
Ðức Giêsu và nhóm biệt phái cùng kinh sư tranh luận với nhau về vấn đề sạch dơ.
Họ bám sát mặt chữ những quy định của luật lệ về sự phân biệt cái gì sạch cái gì dơ và về những đòi buộc phải rửa tay chân chén dĩa…
Ðức Giêsu nói đó chỉ mới là sạch dơ bề ngoài, không quan trọng bằng sạch dơ trong tâm hồn.
Ngài nhận xét đạo đức của họ chỉ là đạo đức giả: “Dân này kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”.
Ngài còn kết án họ lấy tập tục của loài người để thay thế lệnh truyền của Thiên Chúa. Ngài lấy tục lệ Corban ra làm thí dụ điển hình: Corban là của dâng cúng cho Thiên Chúa. Mặc dù Xh 20,12 buộc con cái phải phụng dưỡng cha mẹ. Nhưng để khuyến khích người ta đóng góp cho Ðền thờ, biệt phái và kinh sư đã dạy rằng nếu ai khấn hứa đem những gì phải giúp cha mẹ để dâng cho Ðền thờ thì không còn phải giúp cha mẹ nữa. Quả thật đây là một cách bóp méo luật Chúa.
4. Bài đọc II (Gc 1,17-18.21b-22.27)
Thánh Giacôbê bảo rằng được đón nhận Lời Chúa quả là một ân huệ to lớn. Nhưng Ngài khuyên tín hữu “đừng nghe suông mà phải đem ra thực hành”. Cụ thể là hãy “thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian”.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Chớ giả hình
Năm 587, trước khi Chúa ra đời, thủ đô Giêrusalem bị thất thủ, nước Do Thái sụp đổ, người Do thái bị bắt đi đày bên nước Babylon. Sống bên xứ lạ quê người, đền thờ không còn, tế tự không còn, niềm tin của người Do thái yếu kém đi. Hơn nữa sống giữa người ngoại, nhiều người Do thái đã dần dà bỏ đạo Chúa và theo các bụt thần. Trước hoàn cảnh đó, các luật sĩ Do thái đã hết sức cứu vãn niềm tin của dân mình bằng cách đặt ra những luật lệ nhằm bảo vệ đức tin cho tinh tuyền. Vì thế, có những khoản luật cấm tiếp xúc với kẻ tội lội, với những gì gọi là ô uế xấu xa.
Thế nhưng sau khi lưu đày trở về, các luật sĩ đã đi quá trớn, đưa ra những khoản luật rất là tỉ mỉ. Thí dụ:
Một người đàn ông bị đi lính thì bị coi là ô uế. Tất cả mùng mền chiếu gối của họ đều bị coi là dơ. Ai đụng tới cũng bị dơ và phải giặt quần áo của mình, và cho dù đã tắm giặt như vậy vẫn còn bị coi là dơ cho đến chiều tối. Xe họ ngồi cũng bị coi là dơ, phải rửa cho sạch.
Ðàn bà tới chu kỳ kinh nguyệt thì bị coi là ô uế suốt 7 ngày. Ai đụng tới họ cũng bị lây ô uế, có tắm giặt cũng còn ô uế tới chiều.
Nếu kẻ bị coi là ô uế hay lây ô uế khi tắm giặt cũng phải theo những luật tỉ mỉ: lấy nước thì lấy bằng bình đồng, bình sành hay bình gỗ chứ không được dùng bằng thứ bình nào khác. Ðụng tới một người ô uế thì phải rửa từ khuỷu tay trở xuống, và phải rửa 2 lần: 1 lần vì tay bẩn, lần thứ hai để tẩy đợt nước thứ nhất đã bị bẩn khi dính vào tay bẩn của mình.
Trước khi ăn thì phải rửa tay cho khỏi những ô uế mà có thể vì vô tình mình đã chạm phải. Người ta kể rằng có 1 luật sĩ tên là Aqiba đã thà chết khát trong tù còn hơn vi phạm luật này: trong tù nước rất ít, nhưng ông cũng dùng để rửa tay trước khi ăn dù rửa xong thì không còn nước để uống.
Ði tới chỗ quá trớn đó thì trở thành thói vụ hình thức. Và nếu chỉ coi trọng hình thức mà quên phần nội tâm thì trở thành chứng giả hình. Vụ hình thức và giả hình, đó là 2 điều mà Ðức Giêsu cực lực công kích trong bài Tin mừng hôm nay.
Nhưng dù sao giữ hình thức cũng dễ hơn giữ nội tâm, cho nên không riêng gì người Do thái thời xưa, mà cả chúng ta ngày nay cũng dễ mắc thói vụ hình thức và giả hình.
Thiếu gì người thích làm đám cưới linh đình, lễ cưới có nhiều cha đồng tế nhưng chẳng lo phần giáo lý cho đôi tân hôn bao nhiêu.
Thiếu gì người cha mẹ già còn sống thì bỏ bê, nói nặng nói nhẹ. Chỉ khi cha mẹ nằm xuống mới lo làm tang lễ um sùm, than khóc bù lu bù loa..
Thiếu gì người không khuyến khích con cái đi học giáo lý, nhưng tới ngày Rước lễ, Thêm Sức thì tới xin xỏ, làm áp lực cho con mình cũng có mặt trong ngày lễ trọng đại ấy.
Và thiếu gì người hết sức sùng kính ảnh thánh này, tượng thánh nọ, mà khi đối xử với người khác thì chẳng thấy có chút gì giống tinh thần bác ái vị tha của các vị thánh đó.
Với những kẻ giả hình thời trước cũng như thời nay, Lời Ðức Giêsu trách sứ vẫn luôn luôn nghiêm nhặt: “Hỡi bọn giả hình, Isaia đã nói thật chí lý về các ngươi rằng: dân này kính ta bằng môi miệng, còn lòng nó thì ở cách xa ta, vì nói sùng kính ta cách giả dối”.
Nhưng thực ra, chúng ta không muốn giả hình mà chỉ vì có bề ngoài thì dễ hơn có bề trong. Bề ngoài và bề trong đều quan trọng, nhưng bề trong quan trọng hơn. Giữ đạo mà không thật lòng mến Chúa yêu người thì vô ích, bởi vì công phúc không phải từ bên ngoài mà tự trong lòng mà ra, không phải do đọc kinh dự lễ mà có nhưng do tâm tình sốt sắng khi đọc kinh dự lễ.
* 2. Bàn về luật lệ
Năm 336 trước Chúa Giáng Sinh, nước Hy Lạp nổi lên một vị anh hùng, đó là Alexandre đại đế. Mới có 20 tuổi, ông đã chứng tỏ tài thao lược của mình khi nổi lên bẻ gãy ách đô hộ của đế quốc Ba Tư lúc đó đang đè nặng trên nước Hy Lạp. Chẳng những thế, ông còn quật ngược lại tình hình, biến Ba Tư trở thành một nước chư hầu và đưa Hy Lạp lên ngôi bá chủ. Ông đánh đâu thắng đó, trăm trận trăm thắng, xâm chiếm nhiều nước khác, đế quốc Hy lạp trải rộng cho tới Ấn Ðộ,. Nước Do thái bé nhỏ cũng rơi vào vòng thống trị của đế quốc Hy Lạp. Loé mắt trước nền văn minh Hy Lạp, nhiều người Do Thái đua nhau học đòi kiểu sống Hy Lạp: nói tiếng Hy Lạp, mặc theo kiểu Hy lạp, ăn uống theo kiểu Hy Lạp và thờ các thần Hy Lạp. Mặt khác các quan thái thú Hy Lạp dùng sức mạnh để buộc người Do thái bỏ đạo Chúa để thờ đạo Hy Lạp, họ bắt đầu ăn thịt heo và đốt nhang trước các tượng thần. Ai không làm theo thì bị xử tử. Văn hóa dân tộc và đức tin vào Chúa có nguy cơ bị huỷ diệt. Vì thế, những nhà lãnh đạo tinh thần của dân đã hết sức cố gắng giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân. Họ đặt ra những khoản luật buộc dân giữ mình khỏi bị lây nhiễm nọc độc của ngoại bang, trong đó có những luật về ăn uống, về cách giữ các lễ nghi. Từ đó dấy lên một phong trào đề cao lề luật.
Nhưng phong trào này càng ngày càng đi tới chỗ quá trớn. Tới thời Chúa Giêsu thì luật lệ đã quá sức tỉ mỉ, nhất là luật về sạch dơ: đi đâu về trước khi vào nhà cũng đều phải rửa tay rửa chân, trước khi ăn uống cũng phải rửa tay chân, và những chén dĩa ly tách dùng để ăn uống cũng phải rửa nhiều lần trong ngày. Ðiều đáng ta chú ý là những luật này không phải để giữ vệ sinh hay bảo vệ sức khoẻ, mà chỉ để giữ nghi thức thôi, cho nên dù không dơ nhưng cũng phải tắm rửa, ai không làm vậy thì bị coi là người tội lỗi, bị người khác chỉ trích và kết án nặng nề.
Như một lần kia, các môn đệ Chúa Giêsu đã ăn mà không rửa tay trước. Lập tức họ bị những luật sĩ và biệt phái chỉ trích. Nhân dịp đó Chúa Giêsu đã lên tiếng vừa để bênh vực môn đệ mình, vừa để nói lên quan điểm của Chúa về vấn đề lề luật cách chung và cách riêng về vấn đề sạch dơ. Ðại khái Chúa Giêsu cho rằng luật lệ chỉ là hình thức để diễn tả tấm lòng. Tấm lòng mới quan trọng, còn hình thức không quan trọng. Bởi vì dơ hay sạch là do tự tấm lòng bên trong. Nếu lòng dạ dơ dấy xấu xa thì cho dù hình thức bên ngoài có đẹp đẽ mấy thì cũng chỉ là vô ích, là giả hình.
Ðức Giêsu đã nói rất đúng. Luật lệ giống như cái khuôn khổ, giống như những bức tường, những hàng rào, như sợi dây cương để lèo lái con ngựa chỉ được chạy một hướng, như chiếc đường rày không cho chiếc xe lửa chạy lệch hướng. Thành ra luật lệ có tính cách gò bó, ép buộc. Còn tấm lòng thì dự do và thoải mái, cũng giống như tình cảm người ta thì không có hàng rào, không có bánh lái. Dĩ nhiên luật lệ cũng cần thiết và hữu ích để gìn giữ không cho tấm lòng đi lệch lạc. Nhưng coi luật trọng hơn tấm lòng, dùng luật lệ để bóp chết tấm lòng, hoặc chỉ chú ý đến luật lệ mà bỏ hẳn tấm lòng thì quả là một sai lầm to lớn.
Sai lầm đó, các luật sĩ và biệt phái thời Chúa Giêsu đã phạm. Và ngày nay nhiều người vẫn phạm. Thí dụ như mới đây thôi tôi gặp một người rất lâu không thấy đi xưng tội, hỏi tại sao thì người ấy đáp: “Có chứ con xưng tội một năm một lần, đúng luật mà”
Khi đã có tấm lòng thì có thể chẳng cần lề luật. Cũng như cha mẹ đối với con cái. Tình thương của cha mẹ lúc nào cũng bao la lai láng, vì thế cha mẹ đã lo cho con ăn, lo cho con mặc, chăm sóc con cái mọi chuyện…. chỉ do sự thúc đẩy của tình thương chứ không do một luật lệ nào bắt buộc. Ðứa con nào biết thương cha mẹ thực lòng thì cũng tận tuỵ phụng dưỡng cha mẹ như vậy. Nhưng có một số gia đình mà con cái không còn tấm lòng với cha mẹ nên khi cha mẹ già yếu phải đề ra những quy luật giao cho đứa này phải lo gạo, đứa kia lo tiền chợ, đứa khác lo tiền điện nước trong nhà. Khi đã không có tình nghĩa thì người ta phải xài tới luật lệ. Nhưng mà luật lệ cũng không bảo đảm làm cho tình nghĩa sống lại, chúng chỉ là một mớ hình thức lỏng lẽo, héo khô. Như gia đình mà tôi đang nói, các đứa con tuy giữ đúng quy định phân chia trách nhiệm như thế, nhưng khi cha mẹ đau yếu, cha mẹ cần tiền để đi dự một đám cưới, cha mẹ có khách tới ở nhà… thì không đứa nào chịu bỏ tiền ra đưa cho cha mẹ, bởi vì những khoản đó không có kể trong quy luật gia đình. Những đứa con ấy giữ luật rất đúng nhưng đâu phải là những đứa con hiếu thảo.
Nếu chúng ta là những tín hữu đã tuân giữ luật Chúa và luật Giáo Hội một cách chu đáo thì chúng ta cũng không được tự mãn cho rằng mình đã làm đầy đủ tất cả. Bởi vì có thể chỉ là đầy đủ về hình thức thôi, chứ chưa hẳn là đầy đủ tình nghĩa yêu mến kính thờ Chúa. Chúng ta cũng nên áp dụng nhận thức trên vào một việc cụ thể là việc đọc kinh và dự lễ.
Luật dạy chúng ta đọc kinh sáng tối mỗi ngày: đọc những kinh gì, và đọc lúc nào, đó là hình thức. Người chỉ để ý tới hình thức thì đọc thật nhanh, đọc cho có cho rồi. Ngày nào có cớ để không đọc thì chộp ngay lấy cớ đó để bỏ. Nhưng ta phải biết tinh thần của luật ấy là gì? Ðó là muốn chúng ta tỏ lòng kính mến Chúa mỗi ngày vào khoảng khắc đầu tiên và cuối cùng trong ngày. Ai có tinh thần đó thì không nhất thiết là phải đọc những kinh gì, đọc bao lâu. Mỗi ngày khi vừa thức dậy và khi sắp đi ngủ họ nâng tâm hồn lên tới Chúa, có thể họ đọc kinh mà có khi cũng không đọc kinh, chỉ nói với Chúa đôi lời, những lời đơn sơ, thực tình nhưng rất hiếu thảo.
Luật buộc đi lễ Ngày Chúa Nhật: Ði lễ cũng chỉ là hình thức. Còn tinh thần chính là dành ra một ngày trong tuần để đặc biệt cho Chúa, lo việc thờ phượng Chúa. Người nào đi lễ mà chỉ đứng ở ngoài nhà thờ, hay đến thì trễ mà về thì sớm thì đúng là người chỉ chú ý đến hình thức. Kẻ coi trọng tinh thần ngày Chúa Nhật nếu vì một cản trở nào đó mà không đến nhà thờ được thì cũng biết cách để thánh hóa ngày Chúa Nhật, như cầu nguyện riêng ở nhà, như làm một vài việc lành dâng lên Chúa trong ngày đó.
Xin Chúa giúp chúng ta kính mến Chúa thực sự trong lòng chứ không phải chỉ bằng những hình thức giữ lề luật bên ngoài, để chúng ta không bị Chúa trách như đã trách các biệt phái và luật sĩ ngày xưa “Dân này kính ta ngoài môi miệng, mà lòng nó ở cách xa ta”.
* 3. Ðức Kitô và KARMELIUK
Có một cuốn phim truyền hình mang tên Karmeliuk,, kể chuyện một vị anh hùng dân tộc Nga: khi ấy nước Nga còn sống trong chế độ nông nô, một số ít phú nông địa chủ chiếm hầu hết đất đai, còn đa số dân chúng không có đất, thì phải đi làm nô lệ cho các phú nông địa chủ trên, đời sống của họ hết sức cơ cực, họ bị bóc lột, đàn áp dã man. Lúc bấy giờ có một chàng thanh niên có tâm huyết tên là Karmeliuk. Chàng cũng là một nông nô, nhưng không chịu nỗi cảnh đàn áp, bất công đó nên đã trốn vào bưng biền để cùng với một số bạn tâm huyết khác nổi loạn. Họ tổ chức đánh cướp nhà các phú nông địa chủ và lấy tài sản của chúng đem chia cho các người nghèo. Danh tiếng Karmeliuk loan truyền khắp nước. Có những bài thơ, những bài hát được lưu truyền trong dân gian để ca ngợi chàng. Chàng Karmeliuk trên những dặm đường gió bụi cũng đã gặp gỡ nhiều thanh niên. Lúc đầu họ không biết chàng. Nhưng khi họ hỏi “Anh là ai?” và Karmeliuk trả lời “Tôi là Karmeliuk”, thì những thanh niên ấy vô cùng sung sướng, bỏ lại sau lưng tất cả để theo chàng. Họ hãnh diện vì đã đi theo một vị anh hùng dân tộc.
Bài Tin mừng hôm nay, nếu được diễn tả bằng ngôn ngữ thời đại, thì cũng tương tự như câu chuyện trên. Thuở bấy giờ dân chúng đang sống khổ sở, không phải họ chỉ mang một ách nô lệ, mà tới hai cái ách nô lệ: Nô lệ đế quốc La mã, và nô lệ đế quốc tội lỗi. Ðức Giêsu xuất hiện, Ngài đi đó đi đây khắp nơi để xoa dịu những cực khổ thể xác, và giải phóng khỏi cách tội lỗi. Có nhiều tiếng đồn, nhiều dư luận về Ngài. Một ngày kia, trên con đường từ Betsaiđa đến thành phố Xêxarê Philip, Ðức Giêsu đột ngột hỏi các môn đệ mình: “Còn anh em, anh em nghĩ Ta là ai?” Các môn đệ bối rối trước câu hỏi đột ngột ấy nên không trả lời được, khi ấy, Phêrô lên tiếng: “Thầy là Ðức Kitô”. Ðức Kitô, đó là một danh xưng theo tiếng Hy Lạp, ý nghĩa của nó, nói theo ngôn ngữ thời nay, chính là “Vị anh hùng giải phóng”. Lời Phêrô nói: “Thầy là Ðức Kitô”, có nghĩa là “Thầy chính là vị Anh Hùng giải phóng mà toàn dân đã từ lâu mong đợi”. Chắc hẳn Phêrô và các bạn ông rất hãnh diện vì được đi theo một Vị Anh Hùng như vậy. Họ dám bỏ lại sau lưng tất cả, nhà cửa, nghề nghiệp, gia đình, vợ con mà không hề tiếc nuối, bởi vì họ đi theo một Vị Anh Hùng, họ vô cùng hãnh diện.
Thế nhưng vấn đề không phải chỉ đơn giản có thế. Ði theo một Vị Anh Hùng không phải chỉ để được hãnh diện, mà còn phải chia xẻ tất cả những gian truân nguy hiểm trên con đường dài mà vị Anh Hùng ấy đã vạch ra. Trong chuyện Karmeliuk, nhiều thanh niên đã hãnh diện khi được đi theo chàng. Thế rồi gian truân nguy hiểm đã phân họ thành hai hạng: có một người đã không chịu nỗi những gian khổ nên cuối cùng đã phản bội, nghe theo âm mưu của địch để đầu độc Karmeliuk, rất may là chàng không chết; hạng thứ hai là những kẻ trung thành với chàng cho đến chết. Thánh Phêrô và các bạn cũng hãnh diện vì đi theo Ðức Kitô. Nhưng Ðức Kitô phải nhắc họ: Ði theo Ngài không phải chỉ để hãnh diện, mà còn phải cùng Ngài dấn thân vào con đường Thập Giá đầy đau khổ. Rõ ràng là các môn đệ chưa được biết điều đó, cho nên nghe vậy thì họ sợ nguy ngay. Và một lần nữa Phêrô lên tiếng thay các bạn “Thưa Thầy, đừng, không được như vậy đâu?” Ðức Giêsu nghiêm khắc rầy Phêrô và xác định lại dứt khoát “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác Thập Giá mà theo”. Từ đó trở đi, các môn đệ dần dần hiểu được con đường của Thầy. Nhưng họ cũng phân ra thành hai hạng: 1 hạng gồm những kẻ trung thành với Thầy cho đến chết, và hạng kia là Giuđa cuối cùng đã phản lại Thầy.
Ðoạn kết của câu chuyện Karmeliuk và câu chuyện Ðức Giêsu cũng giống nhau: cả 2 đều bị giết. Kể như cả 2 đều thất bại. Nhưng thực ra đó không phải là thất bại, mà là thành công: Karmeliuk đã gây được ý thức giải phóng nơi dân chúng, với ý thức đó, về sau họ đã đứng lên và dành lại được quyền sống cho mình. Còn Chúa Giêsu thì đã vạch ra một con đường cứu thoát rõ ràng: phải dám vác Thập giá, phải dám chết đi, rồi sau đó sẽ sống lại và toàn thắng. Con đường ấy ngày nay đang được hàng trăm triệu người đi theo.
Trong số đó có chúng ta.
Nhưng hôm nay, chúng ta hãy đặt lại 2 vấn đề cơ bản:
1. Chúng ta có hãnh diện vì đã đi theo Ðức Kitô không?
Người ta thường hãnh diện khi đi theo một Vị Anh Hùng đang nổi tiếng, đang thành công, đang đứng giữa vòng hào quang. Nhưng những vị “Anh Hùng Mạt lộ” thì thường bị đệ tử bỏ rơi. Khi Chúa Giêsu bị chống đối, rất nhiều người đã bỏ Ngài. Khi các thủ lãnh dân Do thái âm mưu giết ngài, Giuđa đã trở mặt, nộp Ngài cho chúng giết đi, còn Phêrô thì xấu hổ không dám nhận là môn đệ của Ngài. Có thể coi đó là tâm lý thường tình. Và chắc chúng ta cũng rơi vào thứ tâm lý thường tình đó khi thấy đạo của mình hình như không được vinh dự lắm, khi nghe thấy những lời chỉ trích, chế nhạo, lên án Ðạo mình. Có người đã làm như Giuđa, trở mặt bỏ Ðạo; có người làm như Phêrô không dám để cho người ta biết mình có Ðạo.
Giuđa thì một lần phản bội đã hư mất luôn. Còn Phêrô chỉ chối Thầy 3 lần. Sau đó đã ý thức được điều mà tôi đã trình bày ở phần trước: Chúa Giêsu xem ra đã thất bại vì đã bị Vác Thập Giá và đã bị giết chết; nhưng thực ra đó chính là thành công: Thập giá là đường đưa tới Phục Sinh, đau khổ là đường đưa tới vinh quang. Vì ý thức như vậy nên sau đó Phêrô (và các tông đồ khác) đã kiên trì theo Thầy cho đến cùng, và hãnh diện mà đi theo Thầy: vẫn hãnh diện khi bị bắt bớ, vẫn hãnh diện khi bị giết, luôn luôn hãnh diện. Thánh Phaolô đã nói “Vinh dự của chúng tôi là Thập Giá Ðức Kitô”.
Ðó là điều thứ nhất chúng ta nên nghiền ngẫm suy nghĩ.
2. Và điều thứ hai cần xác định: chúng ta đi theo Chúa không phải chỉ để được hãnh diện.
Theo ai, chủ yếu là để cùng chia vui, xẻ buồn với người đó, đồng lao cộng khổ để đồng hưởng vinh quang. Như lời Thánh Phaolô “Nếu ta cùng chết với Ngài. Ta sẽ sống lại với Ngài; nếu Ta cùng chịu đau khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài chia xẻ vinh quang”. Ai có dám cùng bước với Chúa Giêsu trên những đoạn đường gian khổ thì mới có thể cùng đứng với Ngài trên đài Vinh quang.
Nhưng Vinh Quang, chiến thắng chỉ là bước cuối cùng, có thể còn xa xôi vời vợi. Còn trước khi đó là cả một đoạn đường thánh giá dài lê thê. Theo Chúa là phải theo cả con đường thánh giá ấy thì mới có thể đến cuối đường vinh quang kia. Chúa Giêsu đã nói trước “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác Thập Giá mà theo”.
Liệu chúng ta có kiên trì để theo Chúa như vậy không?
Xin Chúa giúp chúng ta tìm ra câu trả lời,. Và nếu đó là câu trả lời: “Có” thì xin Chúa ban thêm sức cho chúng ta qua Bí tích Thánh Thể này mà chúng ta tiếp tục cử hành.
* 4. Tẩy rửa trái tim (Mc 7,1-8a. 14-15. 21-23)
Văn hào Dostoevski trong tác phẩm “Anh em nhà Karamazov” có kể lại câu chuyện sau đây: “Vào thời đại của tòa phán quan ở Tây ban Nha, người ta đã dựng những hỏa đài để thiêu sống những kẻ tà giáo. Ðức Kitô dịu hiền đột nhiên đến thăm con cái của Người ở Seville, Người về giữa loài người như một dân thường. Ðức Giêsu bước xuống những con đường sôi bỏng của thành phố phương Nam. Nơi đây, mới hôm trước, vị phán quan vĩ đại đã cho thiêu sống trăm tên tà giáo “Ad majorem Gloriam Dei”.
Hỏa đài ngay trước khán đài danh dự có đông đủ vô số triều đình, các hiệp sĩ, các mệnh phụ xinh đẹp và cả Ðức hồng Y giáo chủ. Ðức Giêsu nhẹ nhàng bước trên đường bằng dáng điệu trầm tĩnh, nhưng lạ lùng tất cả đã nhận ra Người. Dân chúng xô đẩy nhau quấn quít bước chân Người. Người lặng lẽ vào giữa đám đông với nụ cười và ánh mắt từ bi. Một cụ già mù van xin: “Lạy Chúa, xin cho con được sáng để con nhìn thấy Người”. Một cái vẩy rơi xuống và cụ nhìn thấy được. Dân chúng vui mừng chảy nước mắt và hôn lên mảnh đất chỗ Người đi qua. Những em bé tung hoa trên lối Người đi.
Ðức Kitô đứng lại trước giáo đường Seville ngay lúc có đám tang một cô bé bảy tuổi. Cạnh cỗ áo quan màu trắng phủ đầy hoa, người mẹ đang nức nở. Trong đám đông có người hô lớn: “Con bà sẽ hồi sinh”. Người mẹ tha thiết: “Nếu đúng là Người xin hãy hồi sinh đứa con của con”. Ðức Giêsu nhắc lại lời thuở trước: “Talitha Kum” và em bé ngồi lên.
Ðúng lúc đó, Hồng Y giáo chủ và phán quan vĩ đại đi ngang qua. Từ xa ông đã thấy hết. Ông thấy chiếc áo quan đặt xuống, đứa bé hồi sinh. Mặt ông xịu xuống, mắt ông chớp tia sáng ghê hồn. Ông lấy ngón tay chỉ vào Ðức Giêsu và ra lệnh cho bọn lính bắt người. Thế lực ông quá lớn nên ông khuất phục cả quần chúng. Phán quan ra lệnh tống giam Giêsu. Ông vào ngục một mình gặp Người. Ông thương cảm nhưng “Luật là luật, trật tự của Giáo hội phải được bảo tồn bằng mọi giá”. Ông tuyên bố “Tôi chẳng rõ Người là ai. Hình như Người là Ðức Giêsu, nhân danh Giáo hội, Ad majorem gloriam Dei, ngày mai Ngài cũng lên giàn hỏa”.
****
Vị phán quan trong câu chuyện trên cũng chỉ đi theo vết xe cũ của các biệt phái và ký lục Do thái. Bài Tin mừng hôm nay chứng minh điều ấy, Ðức Giêsu đang ở Galilê, các Biệt phái và Ký lục từ Giêrusalem tới, nghĩa là họ phải vượt qua 170 Km đường bộ để chỉ hỏi tại sao các môn đệ Người không rửa tay trước khi ăn. Ðiều đó cho thấy người Do thái rất coi trọng việc tuân giữ các tập tục tiền nhân về vấn đề thanh tẩy.
Thực ra, lúc đầu luật rửa tay trước khi vào nơi thánh dành cho các tư tế. Mục đích là tẩy rửa các ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa. Sau này, dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Với suy nghĩ tương tự họ cũng rửa tay trước khi ăn. Ý tưởng này rất cao đẹp vì nó làm cho tôn giáo thâm nhập vào hành vi con người trong cuộc sống.
Khốn thay trong quá trình thực thi luật này, tôn giáo đã thoái hóa đến chỗ chỉ còn giữ nghi thức bên ngoài, nghĩa là ai tuân giữ các nghi thức này thì được xem là đạo đức, là đẹp lòng Thiên Chúa, còn không tuân giữ là phạm tội. Nói như nhà thần học William Barclay: “Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tuỷ mà không một chút áy náy vì họ đã tuân giữ chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác”. Tôn giáo không phải là một mớ luật lệ. Tôn giáo là một diễn tả tình yêu, một phát minh của Thiên Chúa nhân từ.
Thế nên, Ðức Giêsu mới vạch mặt sự giả hình của họ, vì họ chẳng quan tâm đến chuyện tẩy rửa trái tim. Họ rửa tay để được an tâm. Họ rửa tay để khỏi phải rửa tâm hồn. Rửa tay thì dễ chứ rửa tâm hồn mới thực là khó. Nhưng cái ô uế thực lại không từ bên ngoài vào, nó ở ngay trong trái tim mỗi người. Ðức Giêsu đã kể ra 12 ý định xấu từ trong trái tim. Từ ý định xấu xa sẽ dẫn đến những hành vi tội lỗi (x.Mc.7,21-22). Michael Taeboit nói: “Khi cái dằm tội lỗi ra khỏi mắt ta, tất cả thế giới sẽ tỏa sáng”.
Vậy điều quan trọng là phải đổi mới trái tim. Ðổi mới được trái tim là đổi được tất cả. Ðiều cốt lõi trong đạo không phải là chúng ta làm việc này việc nọ, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Việc đọc kinh dự lễ, suy niệm Lời Chúa, làm việc bác ái… tự chúng không bảo đảm rằng chúng ta thánh thiện, nếu chúng ta làm vì một lý do không mấy đúng đắn. Nó chỉ trở nên thánh thiện trước mặt Chúa khi những hành động ấy phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Thánh Phaolô đã quả quyết: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà tôi không có đức ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr.13,3).
****
Lạy Chúa, xin nhắc cho chúng con nhớ rằng: luật lệ và nghi thức là cần thiết, nhưng đừng quên điều cốt lõi của luật Chúa là yêu thương. Xin dạy chúng con chỉ biết có một điều: là chúng con làm mọi sự chỉ để kính mến Chúa và yêu thương anh em. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
5. Mảnh suy tư
a/ Ðầu và tim
Trong trường học, người ta để ý huấn luyện cái đầu hơn là trái tim, vì người ta cho rằng cái đầu mới biết suy nghĩ. Bởi đó người ta lo đào tạo nên những đứa trẻ giỏi hơn là những đứa trẻ tốt, vì công việc và nghề nghiệp sau này của đứa trẻ đòi hỏi hiệu năng hơn là tấm lòng. Kết quả của lối giáo dục trên là nền văn minh khoa học kỹ thuật ngày nay, rất hiệu quả nhưng cũng rất lạnh lùng, ích kỷ và tàn nhẫn.
Tuy nhiên trong trường đời thì trái tim lại quan trọng hơn, vì sống ở đời và giao tiếp với người đời, “được việc” mà thôi chưa đủ, còn phải “được người” nữa. Nền văn minh mang lại hạnh phúc cho con người không phải là văn minh của khoa học kỹ thuật mà là văn minh của tình thương.
b/ Chăm sóc bề ngoài
Hàng ngày xem TV, chúng ta thấy quảng cáo rất nhiều sản phẩm: các loại xà bông mới, các loại dầu gội mới, nhiều loại nước hoa v.v. Tất cả đều nhằm chăm sóc cho làm da, mái tóc, cơ thể… nhưng đều là bề ngoài. Ngày nay, người ta cũng để ý nhiều hơn đến chất lượng của những thức ăn và thức uống… Mọi thứ phải đáp ứng đúng tiêu chuẩn thực phẩm an toàn và bổ dưỡng. Tuy nhiên, tất cả chỉ là những thứ từ bên ngoài được đưa vào trong cơ thể con người.
Nhưng xem ra người ta rất ít lo chăm sóc cái bề trong của con người, như lương tâm, lòng nhân ái, ý thức về tội… và cũng rất ít để ý tới những cái từ trong lòng phát ra.
6. Chuyện minh họa
Một sư phụ hỏi các đệ tử của mình: “Cái gì ta phải lo tránh nhất trong cuộc đời?” Sau đây là những câu trả lời của các đệ tử:
Một con mắt xấu
Một người bạn xấu
Một người láng giềng xấu
Một trái tim xấu.
Sư phụ đánh giá câu trả lời thứ tư là đúng nhất, bởi vì một trái tim xấu chứa đựng tất cả những sự xấu khác.
Sau đó sư phụ lại hỏi: “Và cái gì ta cần bồi dưỡng nhất trong cuộc đời?” Cũng có những câu trả lời tương tự:
Một con mắt tốt.
Một người bạn tốt.
Một người láng giềng tốt
Một trái tim tốt.
Vị sư phụ cũng đánh giá câu trả lời thứ tư là đúng nhất, vì một trái tim tốt chứa đựng tất cả mọi thứ tốt khác.
Nhưng sư phụ lưu ý thêm: Một trái tim tốt không chỉ là một trái tim sạch mà còn phải là một trái tim đầy, bởi vì một trái tim sạch có thể chỉ là một trái tim trống rỗng, còn một trái tim đầy thì chan chứa tình thương.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, người biệt phái Do thái tranh luận với Ðức Giêsu về sự ô uế và trong sạch Ðức Giêsu đã bảo họ: “Tất cả những điều xấu xa đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người thành ô uế”. Chúng ta hãy khiêm tốn cầu nguyện:
1. Xin cho các Ðức Giáo Hoàng, Giám mục, Linh mục và cá giáo lý viên / biết hướng dẫn mọi người sống theo tinh thần lề luật của Chúa / và tránh mọi lối sống vụ hình thức cũng như giả hình.
2. Xin cho các người lãnh đạo các dân tộc / biết ứng xử với nhau và với đồng bào của mình trong tinh thần và sự thật / để đôi bên luôn tín nhiệm và đoàn kết với nhau.
3. Xin cho những người quen sống lối sống vụ hình thức và giả hình / biết nhận thức rằng chính lối sống đó chỉ làm cho họ trở nên ô uế xấu xa.
4. Xin cho anh chị em trong giáo xứ chúng ta / biết yêu mến và tuân giữ lề luật của Chúa / hơn là chạy theo những thói quen ngoại giao giả hình.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, Chúa đã dạy chúng con rằng: tất cả những điều xấu xa đều từ bên trong mà xuất ra. Xin Chúa giúp chúng con luôn thanh tẩy tâm hồn cho trong sạch, để chúng con biết phục vụ Chúa và mọi người trong thần khí và sự thật. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
– Trước lúc rước lễ: Chúng ta hãy nhớ lời Ðức Giêsu nói trong bài Tin Mừng: “Chính cái từ trong con người xuất ra là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng”. Xin Chúa thương tẩy xóa mọi thứ ô uế đó khỏi lòng chúng ta để chúng ta xứng đáng rước Chúa vào lòng.
VII. Giải tán
Anh chị em hãy ghi nhớ một lời Tin Mừng hôm nay: “Dân này thớ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng thì lại xa Ta”. Ước gì tuy Thánh lễ đã kết thúc và chúng ta sắp ra khỏi nhà thờ, nhưng lòng chúng ta luôn gắn bó với Chúa.
20. Trong sạch và ô uế
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin Mừng Mc 7: 1-8.14-15.21-23: Vấn đề hôm nay không còn là: điều gì làm cho chúng ta nên trong sạch hoặc ra ô uế, mà là: Chúng ta phải đánh giá lối sống của chúng ta dựa trên điều gì? Điều gì có một trọng lượng quyết định cho tương quan của chúng ta với Thiên Chúa?
Người Do Thái bận tâm rất nhiều đến luật “sạch và dơ”: họ phải trong sạch để được đến gần Thiên Chúa. Bản văn Mc 7,1-23 đã được tác giả đặt ngay trước đoạn tường thuật hoạt động của Đức Giêsu bên đất Dân ngoại. Rõ ràng tác giả đã dùng bản văn này như một lời công bố nguyên tắc: Đức Giêsu đã loại bỏ sự phân biệt giữa “trong sạch và ô uế”. Không có hàng rào nào mà lại do Thiên Chúa muốn duy trì giữa loài người. Chỉ có những hàng rào đã được loài người dựng lên (mà như thế là không biết ý muốn của Thiên Chúa), và bây giờ phải lật đổ, bởi vì “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (1,15).
I. Khám phá Sứ Điệp Tin Mừng: Mc 7,1-8.14-15.21-23
1. Tranh luận giữa Đức Giêsu và các Pharisêu về trong sạch và ô uế (1-8).
Vấn đề hôm nay không còn là: điều gì làm cho chúng ta nên trong sạch hoặc ra ô uế, mà là: Chúng ta phải đánh giá lối sống của chúng ta dựa trên điều gì? Điều gì có một trọng lượng quyết định cho tương quan của chúng ta với Thiên Chúa?
Đức Giêsu đặt điều răn của Thiên Chúa ở ngay trung tâm. Tất cả lối cư xử của chúng ta đều được qui định bởi các điều răn: tất cả những gì chống lại các điều răn hoặc ngăn cản thực thi các điều răn đều là lời nói của loài người.
2. Giáo huấn của Đức Giêsu về trong sạch và ô uế (14-15.21-23)
Trước tiên, Đức Giêsu khẳng định rằng các hành vi gian tà phát xuất từ trái tim gian tà. Do đó, mối bận tâm đầu tiên của con người là có được một trái tim trong sạch. Trái tim trong sạch làm cho con người sẵn sàng tức khắc đến gặp Thiên Chúa và sống bền vững trong tình hiệp thông với Ngài. Khi kể ra những ý hướng xấu xa có thể phát xuất từ trái tim con người (7,21t), Đức Giêsu đã đan cử vài ví dụ để cho thấy trái tim phải được giải thoát khỏi điều gì để nên trong sạch, tức là để sẵn sàng thấy Thiên Chúa (x. Mt 5,8). Các điều được kể ra (tà dâm, trộm cắp, giết người) là những điều bị cấm theo Mười Điều Răn, cùng với một số thái độ xấu phát sinh từ các tội đó (tham lam, ganh tị, xảo trá). Như thế, giáo huấn về trong sạch và ô uế có thể nói là một bài bình giải Mười Điều Răn. Những thiếu sót được Đức Giêsu nhắc tới có thể giải thích như sau: sự phỉ báng là điều ngược lại với việc ca ngợi và thờ phượng Thiên Chúa. Còn trong thái độ kiêu ngạo, con người nghĩ mình không cần Thiên Chúa, mình có thể làm và sắp xếp mọi sự. Sự ngông cuồng (rồ dại) đây là không sẵn sàng nhận biết Thiên Chúa là Đấng vĩ đại và toàn năng.
II. Chiêm ngắm Chúa Giêsu:
Ngày hôm nay, có khi còn hơn bao giờ hết, các Kitô hữu cũng đang bị cám dỗ bỏ rơi lệnh truyền của Thiên Chúa mà chọn truyền thống của loài người, bị cám dỗ tôn thờ Thiên Chúa chỉ bằng môi miệng, còn lòng trí thì ở xa Ngài. Do đó, lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải vẫn còn rất hợp thời. Trái tim con người cần được thanh thoát với mọi sự, để có thể đầy tràn cảm thức về Thiên Chúa, để có thể nhìn nhận với lòng biết ơn sự lệ thuộc của mình vào Ngài. Điều này, Đức Giêsu đã sống trọn vẹn: Người luôn hướng lòng về Thiên Chúa để kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa là Cha của Người và để thi hành ý muốn của Thiên Chúa (x. Mc 3.34-35). Người đã gắn bó với ý muốn của Thiên Chúa cho đến cùng, đến chết đau đớn và tủi nhục nhất (Trong ba lần loan báo Thương khó và Phục sinh, Đức Giêsu đã khẳng định đó là ý muốn của Thiên Chúa: Mc 8,31; 9.30; 10,33-34; x. 14,36).
III. Gợi ý bài giảng:
1. Lề Luật của Thiên Chúa.
Tại Israel, cốt lõi của truyền thống là Lề luật của Thiên Chúa, mà dân Chúa coi như là ký ức về cuộc tiến bước dân đã thực hiện cùng với Thiên Chúa, một cuộc tiến bước trong và hướng về sự sống và tình yêu. Đức Giêsu đã nói, chức năng đích thực của Lề luật không phải là che đậy hoặc chữa lành sự dữ, nhưng là chỉ rõ sự dữ ra và tố giác nó, để làm cho chúng ta thấy mình cần được Thiên Chúa thương xót tha thứ. Chỉ như thế, chúng ta mới biết Thiên Chúa đúng như Thiên Chúa: Ngài là tình yêu nhưng-không tự ban mình. Cám dỗ người Pharisêu và mỗi Kitô hữu rơi vào là cám dỗ tự biện hộ cho mình; cám dỗ này phát sinh từ việc tuân giữ chi li Lề luật để biện minh cho chính mình và để kết án người khác.
2. Lương thực là quà tặng Thiên Chúa ban để duy trì sự sống.
Trong bài Tin mừng hôm nay, tất cả các tranh luận xoay quanh lương thực. Lương thực là sự sống và đến từ Thiên Chúa. Thứ lương thực vật chất phải hư hoại đi này là hình ảnh thứ lương thực không hư hoại: mỗi tấm bánh là dấu chỉ về chính Thiên Chúa, Đấng đang tự ban mình cho loài người. Do đó, người ta rửa tay trước khi ăn, để không nhận lấy bánh bằng đôi bàn tay ô uế, là nhắc mình nhớ mình đang đến với nguồn mạch sự sống không hề nhiễm uế, nên phải hết lòng tôn kính. Tuy nhiên, mỗi nghi thức, khi đã mất ý nghĩa của nó, thì biến thành ma thuật. Chủ trương duy nghi thức làm rỗng tuếch cả những điều thánh thiêng nhất; thạm chí Thánh thể cũng có thể được cử hành theo thói quen hoặc theo quy ước. Tin mừng chỉ trích rất nặng các truyền thống, là vì muốn đưa các truyền thống về dưới quyền năng của Thánh Thần.
3. Nơi phát xuất điều xấu.
Sự dữ không đến từ bên ngoài, nhưng từ bên trong, từ cách sử dụng xấu tự do của chúng ta, từ những kiểu nô lệ của chúng ta. Nguồn phát sinh điều tốt và điều dữ là trái tim tốt và xấu của chúng ta, trái tim được soi chiếu bởi tình yêu hay bị mù quáng bởi ích kỷ. Do đó, chúng ta phải biết phân định, để biết nhìn vào tận chiều sâu của trái tim mình, xem nó có thật sự được Thiên Chúa hướng dẫn không. Các tội lỗi bắt nguồn từ trái tim con người. Đức Giêsu là vị thầy có khả năng viết trong tim ta luật nội tâm, luật tình yêu. Không một tội nào đưa ta đi xa Thiên Chúa và rời xa cơm bánh Ngài ban cho bằng thái độ huênh hoang tự phụ là mình tự đứng vững trước mặt Thiên Chúa. Người Kitô hữu ăn cơm bánh và sống nhờ cơm bánh cho dù cơm bánh có “ô uế”. Người ấy đặt đời mình không phải trên việc tự mình giữ Lề luật, nhưng trên ân huệ của Thiên Chúa. Người ấy chấp nhận thụ tạo là tốt và biết rằng sự dữ đến từ trái tim đá của mình, một trái tim chưa có khả năng yêu thương.
IV. Lời cầu chung:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, ơn cứu độ không đến từ khả năng của con người, nhưng đến từ Thiên Chúa, là một ân huệ Ngài ban do lòng từ bi thương xót của Ngài đối với chúng ta. Vậy, chúng ta hãy tin tưởng cầu xin Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho chúng ta và toàn thể nhân loại.
1. “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”. Để mọi thứ hình thái duy hình thức biến mất khỏi Họi thánh và các cộng đoàn chúng ta, và để chúng ta biết phụng sự và thờ phượng Chúa trong Thần Khí và chân lý, chúng ta cùng cầu nguyện.
2. “Thiên Chúa ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu”. Để Thiên Chúa chiếu cố đến những người có đức tin yếu kém, những người đau ốm bệnh tật, những người bị áp bức, chúng ta cùng cầu nguyện.
3. “Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú”. Để chúng ta sống trong cuộc sống mỗi ngày mầu nhiệm sự mới mẻ chúng ta cử hành trong Họi thánh, và để chúng ta không chỉ cám ơn Thiên Chúa về tình yêu của Ngài đối với chúng ta, mà còn biết bày tỏ tình yêu cho mọi người, chúng ta cùng cầu nguyện.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện, để cho chúng con được tin tưởng sống trong tình yêu của Chúa và thế giới được hòa bình. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
21. Điều răn Thiên Chúa & Truyền thống phàm nhân
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Chúa Giêsu thường trả lời những vấn nạn của những người chung quanh và nhân dịp đó, Ngài giải thích thêm một vấn đề có liên quan, và đồng thời dạy thêm những gì có thể giúp người nghe thực thi ý Chúa.
Hôm nay, chúng ta nghe đọc lại một cuộc tranh luận với nhóm Pharisêu và kinh sư đến từ Giêrusalem. Những người này là những người lãnh đạo dân, họ có trình độ, hiểu biết Kinh Thánh. Họ thường tranh luận với Chúa Giêsu về nhiều vấn đề.
Hôm nay, cuộc tranh luận bắt đầu với việc các môn đệ Chúa Giêsu dùng bữa mà không rửa tay. Đó là một khía cạnh của luật thanh sạch và ô uế trong sách Lêvi (xem sách Lêvi, chương 6-11). Nhưng qua thời gian, các kinh sư thường thêm vào những luật mới, những chi tiết tỉ mỉ rườm rà và buộc dân phải giữ. Rửa chén bát, bình lọ, rửa tay… không có trong sách luật. Đó chỉ là những tập tục đã được thêm vào sau này. Vì thế, khi nhóm Pharisêu bắt lỗi các môn đệ không rửa tay trước bữa ăn, Chúa Giêsu lên tiếng giải thích cho các ông thấy, điều đó không quan trọng, chỉ là những tập tục mà thôi không phải là điều luật buộc. Giữ luật không chỉ là giữ đúng những nghi thức bên ngoài mà không có nội tâm. Ngài nhắc lại một câu của tiên tri Isaia khiển trách dân: “Dân này thờ Ta bằng môi bằng miệng mà lòng nó xa Ta muôn trùng. Các ông gạt bỏ nhưng giới răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm”.
Chúa Giêsu không ngại cho các ông ấy là đạo đức giả, chỉ lo cái bên ngoài mà không có cái tâm. Đây là vấn đề mà chúng ta không thể bỏ qua. Chúng ta đã giữ đạo thế nào? Giả hình hay thật tâm?
Nhiều người vẫn còn là Pharisêu, chỉ lo những hào nhoáng bên ngoài mà quên nội tâm. Những điều này không thiếu trong cuộc sống.
Những gia đình lo hôn phối cho con. Ngày lễ hôn phối, chú rễ và cô dâu chỉ biết lo quần áo, tiệc tùng, quay phim mà không lo cầu nguyện, dự lễ. Thánh lễ chỉ còn là một nghi thức bắt buộc, để cho long trọng.
Khi dọn lễ Chúa Giáng Sinh. Cha sở và giáo dân chỉ lo dọn máng cỏ cho huy hoàng. Giới trẻ lo văn nghệ. Mầu nhiệm giáng sinh không ai nghĩ tới.
Nhiều giáo xứ tổ chức lễ lạc rất hoành tráng, tốn kém nhiều chỉ để phô trương mà thôi, không để ý đến việc đạo đức.
Về cá nhân, có rất nhiều Pharisêu trong giáo xứ, chỉ biết đọc kinh như con két, đi lễ rất siêng năng, nhưng không biết sống bác ái. Dòng giống Pharisêu vẫn sống rất dai: “Thờ Chúa bằng môi bằng miệng…”
Một linh mục lớn tuổi, tập sự nhiều năm trong một tu viện nói: “Những người quá chú trọng đến hình thức bên ngoài, tâm hồn họ trống rỗng thôi”. Mất thời giờ để lo hình thức bên ngoài, không còn giờ để lo cho nội tâm. Điều này là hiển nhiên.
Chúng ta cần kiểm soát lại thái độ của chúng ta đối với Chúa. Chúa không nhìn những nét lộng lẫy bên ngoài, mà chỉ nhìn tâm tình bên trong. Thánh vịnh và các tiên tri đều kêu gọi chúng ta “nội tâm hóa” cuộc sống: “Của lễ chiên bò, Chúa chẳng ưng… Chúa chỉ nhìn những tâm hồn tan nát khiêm cung…”
Chúa Giêsu đã nhiều lần gọi nhóm Pharisêu là “đạo đức giả”, vì đúng thế, rất nhiều người trong nhóm họ chỉ lo việc bề ngoài, nhưng trong nhóm này một số người đáng cho chúng ta khen ngợi như ông Gamalien, thầy của thánh Phaolô, là một người rất đạo đức và ngay chính. Thánh Phaolô là một người Pharisêu từ nhỏ, giữ luật chặt chẽ. Nhưng ngài đã vượt qua cách giữ đạo hình thức và đã tìm được con đường đích thực và trở nên môn đệ trổi vượt của Chúa Giêsu. Chúng ta không phủ nhận ảnh hưởng lớn lao của nhóm Pharisêu trên dân Do Thái thời bấy giờ, nhưng họ đã sai lệch khi quá chú trọng đến những cách giữ đạo tỉ mỉ có tính cách luật lệ. Họ đã bóp nghẹt niềm tin. Chúa Giêsu quan niệm: “Ngày sabbát được tạo cho con người chứ không phải con người được tạo cho ngày sabbát”.
Ngài làm nổ tung tất cả khuôn sáo của Luật cũ để hướng về một cách giữ đạo thâm sâu hơn.
Luật của Chúa Giêsu không chỉ được viết trên giấy mà là một người: đó là Giêsu Nadaret. Giữ đạo không chỉ là giữ một số luật lệ mà là theo Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
Sau khi trả lời cho nhóm Pharisêu, Chúa Giêsu quay sang đám đông và giải thích cho họ biết, trọng tâm của việc giữ đạo là con tim.
Đối với Ngài cái tâm mới quan trọng. Con người tốt hay xấu là do con tim, vì từ con tim xuất phát những tâm tình và thái độ tốt hay xấu. Ngài cho thấy rằng cái gì bên ngoài không làm cho người ta ra tốt hay xấu, nhưng là từ cái tâm.
Thánh Phanxicô Assisi chỉ có một chiếc áo dính da, sống nghèo đến mức tối đa, vẫn là một đấng thánh. Thánh Bênêđictô Labre sống như người ăn mày, quần áo đầy chí rận không ai chịu nổi, vẫn là một đấng thánh.
Cần đào luyện cái tâm đúng theo gương Chúa Giêsu, chúng ta mới thực sự là môn đệ của Chúa: “Anh em hãy có trong anh em những tâm tình của Chúa Giêsu…”
Giáo Hội phương tây đã tàn phế, vì người ta chỉ lo đào luyện trí óc mà không đào luyện con tim. Chính những tay trí thức là những người đả phá Giáo Hội nhiều nhất. Họ suy nghĩ mà không biết yêu. Sử dụng trí óc mà thôi thì con tim sẽ khô héo. Cần đào luyện trí óc, nhưng đồng thời cũng phải ưu tiên cho việc đào luyện con tim.
Thiên Chúa là Tình Yêu chứ không là một quyển sách luật. Sống đạo chân chính là sống trong tình yêu Chúa chứ không chỉ lo những bằng cấp tiến sĩ…
Hãy nhìn vào con tim của chúng ta. Nó chứa chất những gì trong đó? Những hận thù ghen ghét hay kiêu căng? Đức tin của chúng ta dựa vào tình yêu hay vào một mớ lý thuyết? Cách sống đạo của chúng ta có đích thực không?
Chỉ cần sự trong sạch của tâm hồn chúng ta mới có thể đến với Chúa. Chúa Giêsu không hỏi Phêrô gì khác, Ngài chỉ hỏi: “Anh có yêu mến Thầy không?”
Luật Chúa là luật tình yêu: “Ai yêu mến Ta, người ấy giữ lời của Ta”.
Yêu mến và giữ lời là một. Thánh Phaolô đã nói: “Dù có nói tiên tri và biết mọi bí nhiệm của trời đất mà không có tình yêu thì cũng là không”.
Thánh nhân cũng dạy: “Anh em đừng theo thói thế gian”. Thế gian phô trương có một nói mười, đắc thắng. Chúa Giêsu khiêm hạ hiền lành. Đó là con đường vững chắc đưa chúng ta về với Chúa, về hạnh phúc của Ngài. Chúa Giêsu là đường. Con đường của Ngài là con đường tình yêu.
Ngài đang ở giữa chúng ta khi chúng ta họp nhau cử hành Thánh Thể. Ngài vẫn có mặt dưới một hình thức khiêm nhu nhất, một tấm bánh, nhưng tấm bánh đó là tình yêu nguyên chất. Ngài đến chỉ vì Ngài muốn chúng ta hạnh phúc. Ngài đến vì chúng ta chưa đạt đến tầm mức cần thiết để xứng đáng với tình yêu của Ngài. Hãy xin Ngài cho chúng ta con tim rộng mở để biết sống cho tình yêu, biết cho đi mà không đòi đáp trả.
22.Sao bỏ luật Chúa mà giữ tục lệ phàm nhân – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Người ta kể một luật sĩ nổi tiếng tên là Aquila đã chịu chết đói trong tù, chứ không chịu ăn vì không có nước rửa tay. Thời nay coi luật sĩ đó là cuồng tín, khùng điên, nhưng người Do thái thời đó đã tôn vinh ông như một đấng thánh tử đạo.
Thời nào cũng có hạng người cuồng tín như thế. Có hàng ngàn hàng ngàn người cuồng tín theo những giáo phái, những chủ nghĩa, những chế độ để rồi lao mình vào chỗ chết như con thiêu thân. Con thiêu thân đã lao mình vào lửa, tưởng đó là ánh sáng vinh quang của nó.
Những người Phát xít Đức, Phát xít Nhật đã cuồng tín theo chủ thuyết chủng tộc thống trị thế giới, đã lao mình vào lửa chiến tranh, và thiêu thân hàng chục triệu người. Bao nhiêu người đã hy sinh chết cho những bạo chúa như Tần thủy Hoàng, Nerôn, cho những kẻ độc tài dã man như Hít-le, Stalin, Pôn-pốt … Họ đã nắm giữ những giáo điều, những giới luật của phàm nhân.
Những Pharisiêu, luật sĩ Do thái cũng bị mê hoặc theo các giáo điều của tục lệ tiền nhân để trói buộc dân chúng vào những luật lệ khắt khe như tục lệ thanh tẩy, rửa tay trước khi ăn, ở nơi công chúng về phải tắm rửa. Tắm rửa phải lấy nước ở bình đồng, bình sành, hay bình gỗ, tùy nố luật dạy, phải rửa từ khuỷu tay trở xuống hay phải giặt cả quần áo, phải rửa hai lần: một lần rửa tay bẩn, một lần rửa lại cho sạch hết nước bẩn dính ở tay. Tắm rửa rồi, còn tùy từng trường hợp được sạch ngay hay tới chiều, tới tối mới được sạch.
Luật thanh tẩy được coi là luật thánh của tôn giáo, chứ không phải là phép vệ sinh giữ gìn sạch sẽ bình thường. Ai vi phạm là mắc trọng tội như tội ngoại tình, đáng phải ném đá, hay bị khai trừ khỏi quốc giáo. Vì tính cách quan trọng như thế, cho nên không lạ gì các thầy Pharisiêu và luật sĩ của thủ đô Giêrusalem phải chính thức thân hành đến kiểm tra, xem xét, hạch tội Chúa Giêsu và các môn đệ để có lý do tố cáo và kết án: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa”. Đức Giêsu đã trưng dẫn lời tiên tri Isaia để trả lời họ, giúp họ thấy việc tôn thờ Thiên Chúa của họ vô ích và giả hình, họ chỉ dạy tục lệ phàm nhân.
Sau đó, Người gọi dân chúng lại để phân biệt cho họ thấy đâu là nguồn gốc sinh ra tội lỗi, đâu là không. Những cái bên ngoài vào trong con người, không biến con người thành ô uế tội lỗi được. Từ lòng con người xuất ra mới làm con người mắc tội như tà dâm, trộm cướp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ghen tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng.
Tuy nhiên, với sứ mệnh là Đấng Cứu Thế, Đức Giêsu còn đi xa hơn nữa, Người cương quyết cởi trói nhân loại khỏi luật lệ vô nhân đạo của truyền thống loài người để thăng tiến con người sống theo luật bác ái, luật phổ biến và luật Thiên Chúa.
1. Vì bác ái, Đức Giêsu đã bảo vệ những con người bị loại trừ khỏi hội đường Do thái. Những người bị coi là phường tội lỗi, thu thuế và ô uế. Người ngồi đồng bàn với quân thu thuế và tội lỗi. Người nói chuyện với phụ nữ Samaria có bảy đời chồng. Người tha thứ cho người ngoại tình mà họ muốn kết án ném đá. Người đón nhận anh mù từ khi mới sinh bị hội đồng Do thái khai trừ.
2. Vì Tin mừng cứu độ được phổ biến cho muôn dân, Đức Giêsu đã giải thoát khỏi cái ách tục lệ của Do thái. Người đã đào tạo các môn đệ đi với Người đến với lương dân miền Thập tỉnh, miền Samaria, và người La mã. Người đến cứu thoát người lương dân bị quỷ ám hành hạ cực khổ miền Giêrasa. Người nêu gương nhân hậu của người Samaria đã cứu kẻ bị cướp đánh nằm nửa sống nửa chết giữa đường. Người tuyên bố chưa từng thấy ai trong dân Israel có đức tin mạnh mẽ như viên đại đội trưởng Rôma. Trước khi về trời, Người truyền dạy cho các môn đệ phải đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân, chứ không thể sống hẹp hòi, cố chấp, kiêu ngạo như Pharisiêu và luật sĩ coi chư dân là vô đạo, Samaria là ô uế, Rôma là kẻ thù. Luật Do thái dạy: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới là con cái Cha ngự trên trời, là Đấng đã cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống cho người công chính cũng như kẻ bất chính … Vậy anh em hãy nên toàn thiện như Cha anh em trên trời” (Mt. 5, 43-45 … 48).
3. Vì luật toàn thiện của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã bác bỏ những luật bất toàn của phàm nhân. Người đã chống lại luật thanh tẩy giả hình bên ngoài và dạy phải thanh tẩy tâm trí bên trong. Người cứu chữa kẻ tàn tật để vạch ra những mù quáng của biệt phái hiểu sai lầm về ngày nghỉ lễ Sabat. Người cảnh cáo lối thờ phượng Thiên Chúa bằng môi, bằng miệng mà lòng thì xa Thiên Chúa. Người đuổi những con buôn biến đền thờ thành hang trộm cướp do những tư tế lạm dụng lễ thánh để trục lợi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sẵn sàng chịu chất vấn, tra hỏi của những kẻ cuồng tín theo luật lệ phàm nhân, để rao giảng Tin mừng, loan báo luật bác ái và sự toàn thiện của Thiên Chúa cho muôn dân được cứu độ. Xin soi sáng cho chúng con biết cởi bỏ những đam mê cố chấp, những thành kiến mù quáng phàm trần, để thực thi công bình, bác ái và nên hoàn thiện như Cha chúng con ở trên trời.
23. Đường hay pháo đài – Lm. GB. Văn Hào
Có một Rabbi Do Thái tên là Agiba, bị giam trong một trại tù ở Rôma. Ông rất trung thành với lề luật và truyền thống tổ tiên để lại. Tù nhân vẫn được cho ăn uống tử tế và đầy đủ, nhưng chỉ một thời gian ngắn, sức khoẻ ông bị giảm sút nghiêm trọng. Sau một thời gian theo dõi, giám thị trại giam đã tìm ra nguyên nhân. Lý do đơn giản, vì phạm nhân đã dùng hầu hết số nước được cấp phát thay vì uống, lại để rửa tay trước khi ăn. Cơ thể ông ta thiếu nước một cách trầm trọng. Vị Rabbi Do Thái này đã cương quyết tuân thủ lề luật bằng bất cứ giá nào.
Giai thoại trên do tác giả Barlay kể lại, dẫn chúng ta đi vào bối cảnh câu chuyện được trình thuật trong Tin mừng hôm nay. Những người biệt phái tỏ ra rất khó chịu khi thấy các môn đệ Đức Giêsu dùng bữa mà không rửa tay trước. Câu trả lời của Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải canh tân nội tâm để thực hiện những giới luật của Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ tỏ ra xơ cứng, chỉ thỏa mãn trên việc thực thi lề luật cách máy móc theo hình thức bên ngoài.
Lex Occidit (chữ viết luật lệ thì giết chết)
Trong các sách Tin mừng nhất lãm, các thánh ký khá nhiều lần thuật lại sự đối kháng giữa Đức Giêsu và các đầu mục Do Thái, đặc biệt nhóm biệt phái. Trình thuật trong Tin mừng hôm nay là một ví dụ điển hình. Những người biệt phái “nhắc khéo” Chúa Giêsu: “Tại sao môn đệ ông không rửa tay trước khi ăn?”. Có lẽ lời nhắc nhở này phát xuất từ lòng thương hại của họ hơn là để phê phán hay chỉ trích. Đối với họ, phải giữ lề luật cách cẩn trọng và tỉ mẩn, con người mới trở nên công chính và thánh thiện. Cũng vậy, có lần họ thấy những học trò của Chúa Giêsu bứt lúa để ăn cho đỡ đói trong ngày hưu lễ. Họ bực bội khó chịu, và không thể chấp nhận một hành vi phạm luật như thế. Ngày Sabat theo luật viết, là một ngày để nghỉ ngơi, không được làm bất cứ công việc gì. Nhóm biệt phái còn soạn thảo thêm 36 chi tiết tỉ mỉ, nêu ra những điều cấm kỵ tuyệt đối không được đụng tay vào trong ngày hưu lễ. Gặt lúa bị nghiêm cấm, quạt thóc cũng không, ngay cả nấu nướng cũng chẳng được phép làm. Họ tự nghĩ ra những rào cản rất vô lý, không những để tự trói buộc mình, mà còn chất bao gánh nặng lên vai người khác. Chúa Giêsu phản kháng hoàn toàn. Ngài chống đối kịch liệt, và cao điểm nhất, Ngài kết án thái độ giả dối của họ một cách thẳng thừng. Thánh Matthêu đã liệt kê 7 điều “chúc dữ” Chúa đã nói một cách gay gắt nhắm vào họ, không một chút khoan nhượng. “Khốn cho các ngươi, các kinh sư và các Pharisiêu giả hình, các ngươi khóa cửa nước trời không cho ai vào. Các ngươi làm bộ để nuốt hết tài sản của các bà góa… Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bề ngoài ra vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác…” (xem Mt 23,13-32).
Xem ra mũi dùi tấn công của Chúa Giêsu nhắm vào họ quá cứng rắn và đanh thép, biểu tỏ một thái độ bất nhân nhượng, không thể chấp nhận. Nhưng Chúa có lý do. Ngài ghét cay ghét đắng những con người giả dối chỉ biết giữ lề luật một cách cứng ngắc và giả dối bề ngoài, còn tâm hồn bên trong lại rỗng tuếch. Ngài khẳng định rằng, Ngài đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng để kiện toàn, tức mặc cho lề luật một chiều kích nội tâm. Biệt phái ngày xưa đã hết từ lâu, nhưng kiểu cách biệt phái vẫn còn nơi cuộc sống chúng ta, nơi từng mỗi giáo dân, đặc biệt nơi anh em linh mục hay tu sĩ. Chúng ta giữ ngày Chúa nhật bằng việc lê xác tới nhà thờ cho có lệ, nhưng tâm hồn vẫn để ở đẩu ở đâu. Chúng ta vẫn ăn chay kiêng thịt vào ngày hội thánh buộc, bao tử có thể trống rỗng và đói cồn cào, nhưng tâm hồn lại chất đầy hận thù và tham lam bẩn thỉu. Chúng ta đến nhà thờ đấm ngực thật to và cùng đọc với mọi người: lỗi tại tôi, lỗi tại tôi.., nhưng vừa bước chân ra bên ngoài, chúng ta lại đấm lộn qua ngực người khác bằng cách chỉ trích hết người này, đến kết án người nọ. Việc tuân thủ lề luật một cách xơ cứng và vô nghĩa như thế có khác gì thái độ của những người Pharisiêu năm xưa. Quả thật, Lex Occidit, luật lệ cứng ngắc sẽ giết chết chúng ta.
Spiritus Vivificat. (tinh thần lề luật mới làm cho sống).
Tuân giữ lề luật một cách máy móc sẽ giết chết, sẽ nhấn chìm chúng ta trong bóng tối của mù lòa, nhưng thực thi tinh thần lề luật sẽ làm cho chúng ta sống. Đây là điều Thánh Phaolô đã khẳng quyết trong thư Rôma. Thánh giáo phụ Irênê cũng nói “Vinh quang của Thiên Chúa là con người chúng ta được sống”, hoặc tác giả sách Khôn ngoan cũng diễn tả: “Thiên Chúa chẳng vui gì khi thiên hạ tiêu vong” (Kn 1,13). Đức Giêsu đến trần gian để cho chúng ta được sống và sống dồi dào (Ga 10,10). Vì muốn chúng ta được sống, nên Đức Giêsu đã mặc cho lề luật một chiều kích nội tâm. Ngài gọi mời chúng ta đi vào tinh thần lề luật để được sống. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô đã khẳng định khá nhiều lần: “Anh em cần phải cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần lề luật, chứ không phải theo chữ viết của lề luật (Rm 2,29b)”. “Chúng ta phục vụ Thiên Chúa theo tinh thần mới, chứ không theo bản văn cũ của lề luật (Rm 7,6). Cuối cùng, thánh tông đồ đã tóm kết toàn bộ lề luật vào một định thức giản đơn. Ngài viết “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13.16).
Như vậy, tinh thần của lề luật, chính là tình yêu. Trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu đã chuyển giao cho các học trò lề luật mới này: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”. Lề luật mà Đức Giêsu thiết định bằng máu Ngài đổ ra trên Thập giá chính là tình yêu, tình yêu mà Ngài đã thực thi như một nguyên mẫu. “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương anh em.”
Nói tóm lại, không phải Đức Giêsu đả kích lề luật cũ của cựu ước, nhưng Ngài kiện toàn và nội tâm hóa lề luật, đồng thời Ngài mời gọi chúng ta đi vào cốt lõi của lề luật, đó là thực hành yêu thương.
Thiên Chúa thấu rõ tâm hồn mỗi người. Thánh Augustinô đã thưa với Chuá: “Lạy Chúa, Ngài biết rõ con hơn cả chính con biết con”. Chúng ta không thể giấu diếm Thiên Chúa được một điều gì. Thiên Chúa không bao giờ đo đếm những thành tích đạo đức bề ngoài để đánh giá con người chúng ta, nhưng Ngài thấu tỏ mọi bí ẩn trong tâm can từng người. Thước đo duy nhất để Ngài định giá chúng ta chính là thước đo tình yêu. Những biệt phái ngày xưa, bề ngoài rất đạo đức, không chê vào đâu được: “Lạy Chúa, con ăn chay mỗi tuần 2 lần, con dâng cúng một phần mười huê lợi của con…”, nhưng Chúa nói thẳng vào mặt họ: “Đồ giả hình và gian ác” (Mt 23,30). Chúng ta hãy lục soát lương tâm để xem có bao giờ Chúa phải nói với chúng ta như thế hay không?
Cha Anthony de Mello, một tu sỹ dòng Tên đã viết một câu chuyện khá ý nghĩa. Một ông vua nọ chơi bời tác tráng, cả ngày chỉ nhậu nhẹt và lao đầu vào những cuộc ăn chơi trụy lạc, chẳng lo gì cho dân. Khuôn mặt của ông lúc nào cũng đỏ gay và sặc sụa mùi rượu. Một bữa nọ, nhà vua cưỡi ngựa đi ra ngoài thành. Ông gặp một tu sỹ già khuôn mặt nhợt nhạt xanh xao, áo quần lôi thôi lếch thếch. Nhà vua dừng lại và trịch thượng chào vị tu sỹ với giọng điệu mỉa mai: “Xin chào ông tu sỹ. Nhìn áo quần nhàu nát và khuôn mặt cáu bẩn của ông, tôi thấy ông chẳng khác gì một con heo”. Vị tu sỹ cúi đầu lắng nghe, gương mặt bình thản và cũng chẳng tỏ vẻ khó chịu chút nào. Một lát sau, ngài ngẩng đầu lên, nhìn chăm chú vào đức vua và đáp lễ: “Thần xin cám ơn bệ hạ, còn bề tôi thấy khuôn mặt đức vua giống như một vị thánh”. Nhà vua kinh ngạc hỏi lại: “Ta miệt thị ngươi, ngươi không buồn cũng chẳng giận, còn khen ta có khuôn mặt giống một vị thánh, tại sao thế?. Vị tu sỹ điềm nhiên và thong thả trả lời: “Tâu đức vua, một con người sống với trái tim và tâm hồn của loài heo, nhìn thấy ai cũng giống heo. Ngược lại, một con người có tâm hồn và trái tim của một ông thánh, sẽ thấy mọi người giống các vị thánh. Nói xong vị tu sỹ lặng lẽ bỏ đi còn nhà vua đứng chết lặng.
Chúng ta giữ đạo và giữ luật với trái tim của loài heo hay của một ông thánh? Chúng ta tuân thủ các điều luật trong giáo hội với tâm hồn của những người Pharisiêu năm xưa hay với trái tim nhân hậu của của Chúa Giêsu? Chúng ta hãy tự lục soát lương tâm và nhìn thẳng vào nội tâm chính mình để tìm câu trả lời.
Đường hay pháo đài?
Đây là tựa đề của một quyển sách do Nguyễn Ngọc Lan biên soạn. Ông là một cựu tu sỹ Dòng Chúa Cứu Thế, đã suy tư và viết cuốn sách này năm 1972. Trong tác phẩm, ông đặt vấn đề với tất cả chúng ta, đạo Công giáo là đường hay pháo đài? Pháo đài là một thứ lô cốt cứng ngắc chúng ta chui vào đó để cố thủ, để ôm giữ. Nếu chúng ta chỉ giữ đạo một cách khô cứng với những lề luật hình thức bên ngoài, chẳng khác nào chúng ta đang khăng khăng ôm giữ một pháo đài. Điều đó cũng giống như những anh chàng Hồi giáo IS quá khích ngày nay quyếtgiữ bom trong mình để liều chết. Còn nếu chúng ta không phải giữ đạo mà sống đạo, thì đạo đích thực là một con đường. Con đường trước mắt luôn mở rộng thênh thang để chúng ta bước đi, đi đến gặp gỡ Thiên Chúa và đi đến gặp gỡ anh em. Đạo công giáo của Chúa Giêsu là đường, chứ không phải pháo đài.
Kết luận
Nếu bình thản đọc lại bộ giáo luật 1983, chúng ta thấy ngay từ lời tựa đầu tiên, Giáo hội đã đưa ra những tiêu chí chung cho tất cả 1752 khoản luật viết trong đó. Tiêu chí đó là: “ Để giúp việc chăm sóc các linh hồn, không chỉ là đức công bằng, nhưng luôn phải dành chỗ cho đức ái, tiết độ, nhân đạo…Vì thế, các mục tử nên loại bỏ các khoản quá cứng ngắc. Hơn nữa, mỗi khi không cần những khoản luật nhằm phục vụ công ích và kỷ luật chung của Giáo hội, chỉ nên sử dụng lời khuyên hay khuyến cáo mà thôi”. Chúng ta hãy đọc kỹ lại những hướng dẫn này.
Lời nhắc nhở này dành cho mọi tín hữu, đặc biệt cho các anh em linh mục là những “người quản lý các mầu nhiệm Thiên Chúa” (1 Cor 4,1-2), để trong công việc mục vụ, chúng ta luôn mang chở nơi mình một trái tim giống trái tim của Vị Mục Tử Nhân Lành, là nguyên mẫu cho tất cả chúng ta.
24. Tẩy rửa trái tim – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Văn hào Dostoevski trong tác phẩm “Anh em nhà Karamazov” có kể lại câu chuyện sau đây: “Vào thời đại của tòa phán quan ở Tây ban Nha, người ta đã dựng những hỏa đài để thiêu sống những kẻ tà giáo. Ðức Kitô dịu hiền đột nhiên đến thăm con cái của Người ở Seville, Người về giữa loài người như một dân thường. Ðức Giêsu bước xuống những con đường sôi bỏng của thành phố phương Nam. Nơi đây, mới hôm trước, vị phán quan vĩ đại đã cho thiêu sống trăm tên tà giáo “Ad majorem Gloriam Dei”.
Hỏa đài ngay trước khán đài danh dự có đông đủ vô số triều đình, các hiệp sĩ, các mệnh phụ xinh đẹp và cả Ðức hồng Y giáo chủ. Ðức Giêsu nhẹ nhàng bước trên đường bằng dáng điệu trầm tĩnh, nhưng lạ lùng tất cả đã nhận ra Người. Dân chúng xô đẩy nhau quấn quít bước chân Người. Người lặng lẽ vào giữa đám đông với nụ cười và ánh mắt từ bi. Một cụ già mù van xin: “Lạy Chúa, xin cho con được sáng để con nhìn thấy Người”. Một cái vẩy rơi xuống và cụ nhìn thấy được. Dân chúng vui mừng chảy nước mắt và hôn lên mảnh đất chỗ Người đi qua. Những em bé tung hoa trên lối Người đi.
Ðức Kitô đứng lại trước giáo đường Seville ngay lúc có đám tang một cô bé bảy tuổi. Cạnh cỗ áo quan màu trắng phủ đầy hoa, người mẹ đang nức nở. Trong đám đông có người hô lớn: “Con bà sẽ hồi sinh”. Người mẹ tha thiết: “Nếu đúng là Người xin hãy hồi sinh đứa con của con”. Ðức Giêsu nhắc lại lời thuở trước: “Talitha Kum” và em bé ngồi lên.
Ðúng lúc đó, Hồng Y giáo chủ và phán quan vĩ đại đi ngang qua. Từ xa ông đã thấy hết. Ông thấy chiếc áo quan đặt xuống, đứa bé hồi sinh. Mặt ông xịu xuống, mắt ông chớp tia sáng ghê hồn. Ông lấy ngón tay chỉ vào Ðức Giêsu và ra lệnh cho bọn lính bắt người. Thế lực ông quá lớn nên ông khuất phục cả quần chúng. Phán quan ra lệnh tống giam Giêsu. Ông vào ngục một mình gặp Người. Ông thương cảm nhưng “Luật là luật, trật tự của Giáo hội phải được bảo tồn bằng mọi giá”. Ông tuyên bố “Tôi chẳng rõ Người là ai. Hình như Người là Ðức Giêsu, nhân danh Giáo hội, Ad majorem gloriam Dei, ngày mai Ngài cũng lên giàn hỏa”.
****
Vị phán quan trong câu chuyện trên cũng chỉ đi theo vết xe cũ của các biệt phái và ký lục Do thái. Bài Tin mừng hôm nay chứng minh điều ấy, Ðức Giêsu đang ở Galilê, các Biệt phái và Ký lục từ Giêrusalem tới, nghĩa là họ phải vượt qua 170 Km đường bộ để chỉ hỏi tại sao các môn đệ Người không rửa tay trước khi ăn. Ðiều đó cho thấy người Do thái rất coi trọng việc tuân giữ các tập tục tiền nhân về vấn đề thanh tẩy.
Thực ra, lúc đầu luật rửa tay trước khi vào nơi thánh dành cho các tư tế. Mục đích là tẩy rửa các ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa. Sau này, dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Với suy nghĩ tương tự họ cũng rửa tay trước khi ăn. Ý tưởng này rất cao đẹp vì nó làm cho tôn giáo thâm nhập vào hành vi con người trong cuộc sống.
Khốn thay trong quá trình thực thi luật này, tôn giáo đã thoái hóa đến chỗ chỉ còn giữ nghi thức bên ngoài, nghĩa là ai tuân giữ các nghi thức này thì được xem là đạo đức, là đẹp lòng Thiên Chúa, còn không tuân giữ là phạm tội. Nói như nhà thần học William Barclay: “Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tuỷ mà không một chút áy náy vì họ đã tuân giữ chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác”. Tôn giáo không phải là một mớ luật lệ. Tôn giáo là một diễn tả tình yêu, một phát minh của Thiên Chúa nhân từ.
Thế nên, Ðức Giêsu mới vạch mặt sự giả hình của họ, vì họ chẳng quan tâm đến chuyện tẩy rửa trái tim. Họ rửa tay để được an tâm. Họ rửa tay để khỏi phải rửa tâm hồn. Rửa tay thì dễ chứ rửa tâm hồn mới thực là khó. Nhưng cái ô uế thực lại không từ bên ngoài vào, nó ở ngay trong trái tim mỗi người. Ðức Giêsu đã kể ra 12 ý định xấu từ trong trái tim. Từ ý định xấu xa sẽ dẫn đến những hành vi tội lỗi (x.Mc.7,21-22). Michael Taeboit nói: “Khi cái dằm tội lỗi ra khỏi mắt ta, tất cả thế giới sẽ tỏa sáng”.
Vậy điều quan trọng là phải đổi mới trái tim. Ðổi mới được trái tim là đổi được tất cả. Ðiều cốt lõi trong đạo không phải là chúng ta làm việc này việc nọ, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Việc đọc kinh dự lễ, suy niệm Lời Chúa, làm việc bác ái… tự chúng không bảo đảm rằng chúng ta thánh thiện, nếu chúng ta làm vì một lý do không mấy đúng đắn. Nó chỉ trở nên thánh thiện trước mặt Chúa khi những hành động ấy phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Thánh Phaolô đã quả quyết: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà tôi không có đức ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr.13,3).
****
Lạy Chúa, xin nhắc cho chúng con nhớ rằng: luật lệ và nghi thức là cần thiết, nhưng đừng quên điều cốt lõi của luật Chúa là yêu thương. Xin dạy chúng con chỉ biết có một điều: là chúng con làm mọi sự chỉ để kính mến Chúa và yêu thương anh em. Amen.
25. Đừng thêm thắt và cũng đừng nhập nhằng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa Chúa” (Đnl 4,2). Trong Cựu Ước, người ta đếm được có những 248 điều truyền và 365 điều cấm, một pho luật xem ra khá đồ sộ nhưng đâu thấm gì so với các luật lệ của con nguời trong các xã hội dân sự hiện nay trên thế giới. Thế mà đã có ngài tiến sĩ luật cảm thấy oải trước khối lề luật ấy, nên đã từng có lần hỏi Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”. Và Chúa Giêsu đã trả lời cách long trọng rằng: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là: ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình ngươi. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai giới răn ấy” (Mt 22,36-40).
Tất cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật dữ kiện này và Tin Mừng Maccô và Luca lại thêm kết luận rằng người ta đã “tâm phục, khẩu phục” trước câu trả lời của Chúa Giêsu (x.Mt 22,34-40; Mc 12,28-34; Lc 10,25-28). Như thế, chắc hẳn đoàn dân Chúa xưa ít nhiều cũng nhận thức được điều này. Thế mà chước cám dỗ muốn thêm bớt vẫn có đó khiến cho Môsê đã cảnh báo dân, đúng hơn là cảnh báo những người lãnh đạo, vốn là những người thường có quyền ra lề luật. Ở đây, xin được đề cập đến chước cám dỗ thêm thắt luật lệ và nhập nhằng, kiểu đánh lận con đen.
1. Cám dỗ thêm thắt luật lệ: Theo nhãn quan của thần học luân lý, xét về nguồn gốc của lề luật, thì có luật của Thiên Chúa (thiên luật), và luật của con người (nhân luật). Dù rằng luật của Thiên Chúa chỉ có hai luật chính là mến Chúa và yêu người, nhưng để triển khai và áp dụng hai lề luật ấy theo từng hoàn cảnh cụ thể, với những đối tượng cụ thể thì cần có những khoản luật thích ứng. Tuy nhiên, những người làm luật rất có thể bị cám dỗ thêm thắt nhiều khoản luật đi lệch trọng tâm và hướng nhắm của hai giới răn chính ở trên. Đã là luật của Thiên Chúa thì chỉ có mình Thiên Chúa mới có quyền ra luật. Thế mà khi chúng ta thêm thắt nhiều luật lệ đi lệch với ý Chúa hoặc sai trọng tâm mà gọi đó là luật của Thiên Chúa thì vô tình chúng ta tự đặt mình như Thiên Chúa. Các sứ ngôn đã từng nhiều lần nói thay Thiên Chúa rằng: Ta muốn lòng nhân từ chứ không muốn hy lễ; Ta chán ngấy mỡ dê bò các ngươi dâng tiến, hãy xé lòng chứ đừng xé áo các ngươi… (x.Mt 12,7; Ge 2,13).
2. Cám dỗ làm nhập nhằng kiểu đánh lận con đen: Biết rằng với luật lệ của con người thì rất cần được bổ túc, thêm thắt cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Một trong những mục đích của lề luật là nhằm phục vụ ích chung, gìn giữ sự công bằng và trật tự trong đời sống xã hội, đặc biệt bảo vệ kẻ cô thế, kém phận khỏi cảnh “cá lớn nuốt cá bé, mạnh được-yếu thua”. Xã hội càng phát triển thì các mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với tập thể, giữa tập thể với tập thể ngày càng phong phú và đa dạng, do đó cần có thêm nhiều luật lệ để gìn giữ các mối quan hệ ấy trong sự bình đẳng và hài hòa. Hình thái xã hội đã thay đổi thì các luật lệ cũng phải đổi thay cho tương hợp. Chính vì thế mà luật lệ không ngừng được chỉnh sữa, thậm chí được đổi thay. Việc có thể đổi thay cho ta thấy luật con người mang tính bất cập và bất toàn. Linh mục Gioan Bùi Thái Sơn, một chuyên gia về Giáo Luật của Tổng Giáo phận Sài Gòn đã nói rằng một trong những tính chất của luật là tính bất công. Với lối nói “ngoa ngữ”, ngài chỉ muốn nhấn mạnh đến sự bất cập của lề luật con người. Luật của con người không thể và không bao giờ có thể tiên liệu hết mọi tình huống, hoàn cảnh của con người và xã hội, do đó nhân luật không thể đem lại sự công bằng cho mọi người cách đúng nghĩa, cũng như áp dụng một cách đồng đều cho mọi người.
Khi hiểu được điều này, ắt hẳn chúng ta sẽ tránh được thái độ thượng tôn và tuyệt đối hóa lề luật mà trả nó về lại vị trí của nó là một trong những phương tiện để phục vụ con người chứ không phải con người có ra vì lề luật (x.Mc 2,27). Sự thường, lề luật được lập nên do những người đang nắm quyền lực trong các thể chế, tổ chức xã hội lẫn tôn giáo. Và người làm luật khó tránh được chước cám dỗ làm luật có lợi cho mình. Khi thượng tôn lề luật, biến lề luật do mình làm ra trở thành thiên ý thì vô tình hay hữu ý, lợi ích của người làm luật được bảo vệ và hợp pháp hóa, cho dù nhiều khi các lợi ích ấy là bất chính. Đây là trường hợp mà Chúa Giêsu đã cực lực phê phán khi nói rằng “các ông đã gạn lọc con muỗi để nuốt cả con lạc đà”(Mt 23,24). Đâu chỉ có việc rửa tiền của các tổ chức tội phạm mới là hợp pháp hóa điều bất chính, vẫn có đó nhiều người dùng một số tiền nhỏ để dâng cúng cho nhà Chúa hay để làm việc từ thiện hầu an tâm sử dụng số tiền kếch xù có được bằng cách thế gian dối, phi nghĩa. Vẫn có đó nhiều cá nhân và tập thể tìm cách ra một luật lệ nào đó, vốn dễ được xem là khách quan, để cho tài sản của mình được bảo vệ cách hợp pháp.
Trở lại với nguồn lề luật của Thiên Chúa. Là Kitô hữu, chúng ta tin nhận rằng luật Chúa thì bất biến và có tính bó buộc tuyệt đối. Tuy nhiên tính bó buộc tuyệt đối và bất biến này chủ yếu ở hai luật chính là tôn thờ, yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình. Tôn thờ và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự nghĩa là nhìn nhận những gì mình đang là, đang có đều do bởi Thiên Chúa trao ban và mình chỉ có thể sống, tồn tại, phát triển trong hạnh phúc viên mãn khi gắn bó với Thiên Chúa và thực thi huấn lệnh của Người.
Cầu nguyện là một hình thức căn bản để bày tỏ sự gắn bó với Thiên Chúa, thờ phượng, thần phục Người. Anh em Hồi giáo đặt việc này lên hàng đầu. Kitô hữu Công giáo chúng ta còn nhấn mạnh đến việc tham dự Thánh lễ, đặc biệt trong ngày Chúa Nhật, vì đó là đỉnh cao của hành vi thờ phượng. Và để tỏ bày lòng mến yêu đối với Thiên Chúa, thì không gì hơn là thực thi giới luật của Người. Việc anh chị em yêu thương, sống đùm bọc lẫn nhau chính là cách thế tốt nhất để tỏ bày lòng thảo hiếu đối với mẹ cha. Tương tự như thế, khi chúng ta biêt yêu thương nhau như Chúa Kitô dạy là chúng đang mến yêu Thiên Chúa (x.Ga 15,12).
Yêu thương cũng có nhiều đường, nhiều cách. Với kiểu, với cách nào đi nữa, khi sống yêu thương, phải đặt nền tảng trên đức công bình và đức ái. Xin được muợn lời của Đức Khổng Tử và lời của sách Tobia để giữ đức công bình: Đừng làm cho tha nhân những gì mình không muốn tha nhân làm cho mình (x.Tb 4,16). Xin được nhớ lại lời của Chúa Giêsu để sống đức ái: Tất cả lề luật và lời ngôn sứ đều tóm ở điều này: Hãy làm cho tha nhân những gì mà anh em muốn tha nhân làm cho mình (x.Mt 7,12; Lc 6,31).
26. Chúa Nhật 22 Thường Niên
Những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do Thái giữ đạo theo hình thức. Họ rất trọng lề luật theo bề ngoài. Họ cho rằng giữ hình thức bề ngoài là đủ. Theo họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo. Đặc biệt là luật thanh sạch. Người Do Thái có nhiều cấm kỵ ô uế. Bị coi là ô uế như những người mắc bệnh phong, phụ nữ sau khi sinh con, người ngoại đạo. Ai tiếp xúc với người ô uế sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ngay cả đồ vật bị người ô uế động đến cũng trở thành ô uế. Ô uế là tội. Người ô uế sẽ không được dâng lễ vật cho Chúa. Để tránh ô uế, người Do thái luôn rửa tay, rửa bát bên ngoài cho sạch.
Đức Giêsu chê trách họ là giả hình. Vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Đức Giêsu sánh ví họ với mồ mả, bên ngoài tô vôi, sơn phết đẹp dẽ nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám xấu xa.
Vì quá chú trọng đến luật lệ tỉ mỉ bên ngoài, họ biến đạo thành một mớ nghi thức trống rỗng vô hồn. Đọc kinh cho đủ bổn phận mà không cầu nguyện. Ăn chay để giữ đúng luật hơn là để hạn chế tính mê tật xấu. Làm việc bác ái để phô trương hơn là để chia sẻ với người anh em nghèo khổ. Tệ hại nhất là họ giữ đạo mà không thật lòng yêu mến Chúa. Nên hôm nay, Đức Giêsu đã nặng lời chỉ trích họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng lại xa Ta”.
Hình thức bên ngoài không phải là không cần thiết. Nhưng hình thức bên ngoài, muốn có giá trị cần phải phát xuất từ tâm tình bên trong. Nội tâm con người là nguồn mạch của mọi hành vi. Nội tâm có tốt thì hành vi mới tốt. Nội tâm có chân thật thật hành vi mới có giá trị.
Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng… Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chả có ích gì cho tôi”.
Tất cả mọi việc làm lời nói ra bên ngoài phải phát xuất từ tâm hồn chân thực. Nhất là phải làm sao cho mọi nghi thức tôn giáo phát nguồn từ trái tim yêu mến chân thành. Việc từ thiện phải phát nguồn từ một tình yêu mến huynh đệ, thành thực muốn chia sẻ. Lời cầu nguyện phải phát xuất từ một trái tim yêu mến của người con hiếu thảo đối với Cha trên trời. Việc ăn chay phải khởi đi từ ý muốn chế ngự các nết xấu. Nghi thức thanh tẩy phải cử hành trong tâm tình sám hối. Có như thế, khi môi miệng đọc kinh, lòng ta mới gần Chúa. Khi ăn chay, tâm hồn ta mới tan nát vì tội lỗi. Khi làm việc bác ái, ta tránh được thói phô trương. Khi rửa tay, tâm hồn ta mới được thanh tẩy nên trong trắng.
Lạy Chúa, xin ban cho con trái tim của Chúa để con biết thở phượng Chúa cho phải đạo và yêu người như Chúa muốn.
27.Sống đạo thể hiện tâm tình yêu mến Chúa chân thật
Người Do Thái có thói quen truyền thống giữ luật lệ rất tỉ mỉ, đặc biệt là luật thanh sạch. Họ rất câu nệ vào hình thức bên ngoài. Đối với họ đạo là phải giữ lề luật. Thế nhưng như thế, họ không còn thể hiện tình thương, lòng bác ái khi cư xử với anh em đồng loại.
Thật thế, vì quá chú trọng đến luật lệ tỉ mỉ bên ngoài nên những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do Thái giữ đạo theo hình thức. Họ biến đạo thành một mớ nghi thức trống rỗng vô hồn. Đọc kinh cho đủ bổn phận mà không cầu nguyện. Ăn chay để giữ đúng luật hơn là để hạn chế tính mê tật xấu. Làm việc bác ái để phô trương hơn là để chia sẻ với người anh em nghèo khổ. Tệ hại nhất là họ giữ đạo mà không thật lòng yêu mến Chúa. Nên hôm nay, Chúa Giêsu đã nặng lời chỉ trích họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng lại xa Ta”. (Mt 15, 8; Mc 7, 6). Chúa Giêsu chê trách họ là giả hình. Vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Chúa Giêsu sánh ví họ với mồ mả, bên ngoài tô vôi, sơn phết đẹp dẽ nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám xấu xa.
Chúng ta đồng ý rằng: hình thức tôn giáo bên ngoài không phải là không cần thiết nhưng muốn nó có giá trị cần phải phát xuất từ tâm tình bên trong. Nội tâm con người là nguồn mạch của mọi hành vi tôn giáo. Nội tâm có tốt thì hành vi mới tốt. Nội tâm có chân thật thật hành vi mới có giá trị.
Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng… Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chả có ích gì cho tôi” (1Cr 13, 1- 3).
Chúa Giêsu đã đảo ngược hoàn toàn cái gọi là tôn giáo của người Biệt phái và Luật sĩ Do Thái. Đạo không phải là thi hành những tập tục, tuân giữ các nghi thức mà chính là thể hiện một thái độ sống, sống Lời Chúa, sống yêu thương. Cái cám dỗ thường xuyên của người Kitô hữu là lấy việc đạo đức bề ngoài làm bức màn che đậy tính ích kỉ, giả dối, độc ác, tham lam,… thích được mang danh hiệu hơn là dám sống sứ mạng chứng nhân. Điều cốt yêu là phải có tấm lòng yêu mến chân thành bên trong chứ không phải là hình thức giả dối bên ngoài. Chính tình yêu bên trong mới làm cho những hình thức bên ngoài có giá trị đích thực. Thiếu tình yêu bên trong mọi việc bên ngoài chỉ là giả dối.
Tất cả mọi việc làm lời nói ra bên ngoài phải phát xuất từ tâm hồn chân thực. Nhất là phải làm sao cho mọi nghi thức tôn giáo phát nguồn từ trái tim yêu mến chân thành. Việc từ thiện phải phát nguồn từ một tình yêu mến huynh đệ, thành thực muốn chia sẻ. Lời cầu nguyện phải phát xuất từ một trái tim yêu mến của người con hiếu thảo đối với Cha trên trời. Việc ăn chay phải khởi đi từ ý muốn chế ngự các nết xấu. Nghi thức thanh tẩy phải cử hành trong tâm tình sám hối. Có như thế, khi môi miệng đọc kinh, lòng ta mới gần Chúa. Khi ăn chay, tâm hồn ta mới tan nát vì tội lỗi. Khi làm việc bác ái, ta tránh được thói phô trương. Khi rửa tay, tâm hồn ta mới được thanh tẩy nên trong trắng.
Người Kitô hữu đích thật là người có lòng tin, đồng thời có những việc làm cụ thể phù hợp với đức tin của mình. Trước mặt Chúa, mọi hình thức bên ngoài không quan trọng bằng tấm lòng yêu thương tận đáy lòng bên trong bởi vì Chúa là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn. Chúng ta hãy sống chân thành, yêu thương và phục vụ tha nhân trong tinh thần của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con trái tim của Chúa, trái tim yêu thương để biết thờ phượng Chúa cho phải đạo và yêu người như Chúa muốn. Xin cho chúng con sống đạo bằng tâm tình yêu mến Chúa chân thật tự đáy lòng mình để chúng con đối xử bằng tâm tình đó với anh chị em chung quanh chúng con. Amen.
28. Suy niệm của Lm. Alfonso
Tin Mừng Mc 7: 1-8.14-15.21-23: Chúa Giêsu đã lên án sự hình thức: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: ‘Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta’.”
Suy niệm
Trình thuật từ Bài đọc I trích sách Đệ Nhị Luật, Môisen hướng dân Israel đến cuộc sống trong tư cách dân Giao Ước. Một khi dân tuân giữ Lề Luật là tuân giữ Giao Ước, thì sẽ được hưởng những phúc lộc mà Thiên Chúa hứa ban: “Như vậy, anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, là Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em”. Lề Luật hay còn gọi là Torah, tiếng Hípri là lẽ khôn ngoan, là kim chỉ nam cho cuộc sống đức hạnh.
Tuy nhiên, người Do Thái lại quan niệm rất hình thức về thanh sạch và ô uế. Theo họ, cái thanh sạch hay ô uế bên ngoài là biểu hiện cho những gì sạch sẽ và dơ bẩn bên trong. Và rồi, nếp sống đạo của họ chỉ quan tâm đến hình thức bên ngoài, không để ý gì đến tâm tình bên trong. Khi quan sát vài môn đệ của Chúa Giêsu không rửa tay trước khi dùng bữa, những người Biệt Phái và Luật sĩ đã chất vấn Người rằng “Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?” Thế nhưng, thử hỏi tập tục ấy có từ hồi nào? Tiền nhân của họ là ai? Chẳng phải Môisen rất thận trọng khi bảo dân không được thêm thắt hay cắt xén bớt điều gì vào luật Chúa sao? Vì luật lệ khi truyền lại dễ bị “tam sao thất bản”, thêm thắt, cắt xén nên ngài muốn dân luôn kiểm điểm đời sống mình trước mặt Chúa.
Nhân dịp này, Chúa Giêsu đã lên án sự hình thức: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: ‘Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta’.” Giả hình là người có ngôn hành bất nhất, hành động bên ngoài không đi đôi với tâm tình bên trong. Một số người cũng lầm lẫn nghi thức, tục lệ bên ngoài với sự thánh thiện trong lòng. Người sống như thế chẳng khác nào đang diễn trò để che giấu con người thật của mình.
Câu chuyện kể về hai vị tu hành nọ xuống núi. Dọc đường họ gặp một thiếu nữ đang loay hoay bên vũng nước sâu, muốn băng qua mà không sao đi được. Thấy vậy, một nhà tu hành đề nghị giúp, anh cõng thiếu nữ vượt qua vũng nước sình lầy. Rồi hai vị tiếp tục bước đi nhưng lại trong sự thinh lặng đáng sợ. Trở về gần đến viện, vị tu hành kia không bực mình không kiềm nén nổi nữa lên tiếng trách người đồng môn: “Chúng ta là người tu hành, sao anh lại cho phép mình động chạm vào một thiếu nữ như thế?” Vị tu hành đã cõng thiếu nữ trả lời: “Anh ạ, qua khỏi vũng lầy, tôi đã để cô ta lại bên kia bờ, sao anh còn mang cô ấy về đến tận nhà!”
Chúa Giêsu không muốn con người ta quá chú trọng hình thức mà quên thanh tẩy lòng trí bên trong. Người muốn chúng ta xét mình với việc trở lại cõi lòng: “Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ chính những gì từ con người xuất ra mới làm cho họ ra ô uế.” Chúa Giêsu liệt kê mười hai tư tưởng xấu: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Chính ý hướng của con người sẽ quyết định tốt xấu, tội trạng hay công phúc.
Lạy Chúa, xin cho con ý thức để kiểm điểm đời sống đạo của mình theo nội tâm hơn là ở hình thức bên ngoài. Xin cho con biết tẩy rửa lương tâm để sống đạo đức hơn là những tô vẻ đạo mạo. Xin cho lòng trí con cũng bớt đi những những toan tính, vị kỷ để ý nghĩ và việc làm của con luôn thống nhất trong tính lương thiện mỗi ngày một hơn, do bởi chính Chúa đã noi gương cho con về một tình yêu vị tha. Amen.
29. Rửa tay hay rửa tâm hồn
(Suy niệm của Lm Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin Mừng Mc 7: 1-8.14-15.21-23: Chúa Giêsu đã vạch trần tâm địa của người biệt phái và kinh sư; Ngài đã phơi bày cho thấy cái họ cho là đạo đức chỉ là một thứ giả hình. Họ tôn thờ Thiên Chúa một cách giả dối ngoài môi miệng nhưng lòng họ thì chẳng tôn thờ Ngài.
Nhà Thần học William Barclay kể lại câu chuyện: Một kinh sư Do Thái (Rabbi) bị cầm tù ở Rôma. Trong tù, ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhắm mục đích kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua, vị kinh sư ấy ngày càng yếu dần. Cuối cùng người ta buộc phải mời bác sĩ đến khám bệnh. Bác sĩ bảo rằng cơ thể tù nhân bị thiếu nước. Báo cáo của bác sĩ khiến đám sĩ quan cai ngục bối rối. Họ không hiểu nổi tại sao vị kinh sư ấy lại có thể thiếu nước, bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu nhưng vẫn tương đối đủ chứ đâu đến nỗi tệ! Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát người tù này một cách kỹ lưỡng hơn để thử xem ông ta làm gì với số lượng nước ấy. Cuối cùng người ta đã khám phá ra bí mật: Vị kinh sư Do Thái này đã sử sụng phần lớn số lượng nước để rửa tay theo nghi thức Do Thái giáo trước khi ăn và cầu nguyện. Như thế đương nhiên ông ta không còn đủ nước để uống.
Anh chị em thân mến,
Câu chuyện này giúp chúng ta hiểu rõ hơn thái độ bực bội của những người Biệt phái Pharisêu và các kinh sư Do Thái đối với Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài khi nhìn thấy các môn đệ Chúa Giêsu ăn uống mà chẳng chịu rửa tay theo đúng nghi thức. Rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, đó là điều sơ đẳng trong phép giữ vệ sinh phòng bệnh. Người Do Thái và nhất là người Biệt phái Pharisêu giữ tập tục rửa tay trước khi ăn rất kỹ. Họ không dùng bữa, nếu chưa rửa tay trước. Ở nơi công cộng về, họ không ngồi vào bàn ăn nếu chưa tắm rửa sạch sẽ. Họ còn giữ nhiều tập tục tẩy rửa khác nữa… Nhưng điều đáng nói ở đây là những tập tục tẩy rửa này, đối với họ, không nhằm bảo vệ vệ sinh, sức khỏe, mà được coi là những nghi thức tôn giáo và nhằm để phân loại con người trong sạch hay dơ bẩn theo luật. Lòng đạo đức của con người được đánh giá tùy thuộc vào việc tuân giữ các tập tục này. Kết quả là những người, vì những ràng buộc của cuộc sống, của nghề nghiệp, không tài nào giữ nổi những tập tục này, đều bị kể là hạng người dơ bẩn, bị loại ra ngoài cộng đoàn tôn giáo, mất quyền tham dự nghi lễ phụng tự trong Đền thờ. Họ còn để mắt dòm ngó xem xét người khác có tuân giữ các tập tục đó không. Trong Tin Mừng hôm nay, họ đã thấy một số môn đệ của Chúa Giêsu không rửa tay trước khi ăn. Điều này đã nên cớ cho người biệt phái và kinh sư hạch sách Chúa Giêsu và lên án Ngài.
Đáp lại, Chúa Giêsu đã vạch trần tâm địa của người biệt phái và kinh sư; Ngài đã phơi bày cho thấy cái họ cho là đạo đức chỉ là một thứ giả hình. Họ tôn thờ Thiên Chúa một cách giả dối ngoài môi miệng nhưng lòng họ thì chẳng tôn thờ Ngài, chẳng màng tuân giữ các giới răn của Ngài. Nhân dịp này, Chúa mở ra cho người ta thấy cái làm cho người ta ra dơ bẩn và bất xứng trước Thiên Chúa không phải ở chỗ rửa tay hay không rửa tay trước khi ăn, mà chính là ở tâm địa xấu xa của con người, chính là những tư tưởng xấu, “từ đó phát xuất những hành động ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, vu khống, kiêu căng…” Qua đó, Chúa Giêsu muốn nói rằng: sự dơ bẩn bên ngoài không làm cho tâm hồn ra dơ bẩn, không tác hại và đáng lo cho bằng sự dơ bẩn trong tâm hồn do những ý muốn xấu xa, độc ác. Vậy thì việc tẩy rửa bên ngoài không quan trọng bằng việc tẩy rửa bên trong, bằng việc thanh tẩy tâm hồn, hoán cải cuộc sống. Sự trong sạch của tâm hồn quan trọng và cần thiết hơn sự sạch sẽ bên ngoài của thể xác. Tập tục tẩy rửa bên ngoài không tẩy xóa được sự dơ bẩn trong tâm hồn, chỉ có việc tuân giữ luật Chúa mới thúc đẩy con người sám hối tội lỗi để được tẩy rửa trong sạch, xứng đáng trước mặt Chúa. Do đó, cần phải tuân giữ luật Chúa hơn những tập tục của con người.
Nhà thần học William Barclay còn kể thêm một câu chuyện về một người Hồi giáo đang đuổi theo để giết kẻ thù của mình. Đang khi đuổi theo kẻ thù, chợt nghe vang lên hồi chuông báo giờ cầu nguyện, lập tức người Hồi giáo nhảy ngay xuống ngựa, mở sách Thánh Kinh Coran ra, quì xuống và cầu kinh theo như luật định một cách hết sức lẹ làng. Cầu kinh xong, anh ta lại leo lên ngựa tiếp tục đuổi theo kẻ thù. Câu chuyện này minh họa cho chúng ta chủ nghĩa câu nệ lề luật. Nó cảnh cáo chúng ta đừng rơi vào chủ nghĩa đồng hóa tôn giáo với việc chu toàn những hành vi đạo đức bên ngoài.
Chúa Giêsu đã đảo ngược hoàn toàn cái gọi là tôn giáo của người biệt phái và kinh sư Do Thái. Đạo không phải là thi hành những tập tục, tuân giữ các nghi thức, mà chính là một thái độ sống, là thi hành luật Chúa, là sống Lời Chúa. Cái cám dỗ thường xuyên của người kitô hữu vẫn là lấy việc đạo đức bề ngoài làm bức màn che đậy tính ích kỷ, giả dối, độc ác, gian tham, trốn tránh nhiệm vụ của mình trong gia đình, ngoài xã hội, thích được mang danh hiệu là tín hữu hơn là sống đúng theo Tin Mừng của Chúa Kitô; mượn việc đi nhà thờ, đọc kinh, dự lễ để trốn tránh bổn phận bác ái, phục vụ người khác; làm ra vẻ hăng hái, nhiệt thành để được tiếng khen; chà đạp danh dự người khác để nâng mình lên… Nói chung là lấy những hình thức bên ngoài để thay thế cho nhiệm vụ đích thực của người kitô hữu là thi hành luật tình yêu của Chúa: sống công bằng, bác ái, phục vụ, trong sạch, hiền lành, hòa thuận. Đó là kết quả của một tâm hồn yêu mến chân thành. Điều cốt yếu là phải có lòng yêu mến chân thành bên trong chứ không phải hình thức giả dối bên ngoài. Con người chỉ nhìn thấy bên ngoài, còn Chúa thấu suốt tận tâm can. Chính tình yêu bên trong sẽ làm cho mọi việc bên ngoài có giá trị đích thực. Thiếu tình yêu bên trong, mọi việc bên ngoài chỉ là bôi bác, giả dối.
Chúa Giêsu có lần mượn hình ảnh những mồ mả quét vôi trắng tinh để nói cho những người biệt phái hiểu: cái lối đạo đức giả của họ không thể che đậy được tội lỗi của họ. Mồ mả dù có quét vôi trắng tinh, sạch sẽ đến đâu cũng không làm cho ai quên được cái thây ma thối tha bên dưới (x.Mt 23,27-32). Chúa còn nói thẳng với họ: “Không phải môi miệng cứ lâm râm lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là phải làm theo ý Cha trên trời”. Chính việc làm theo ý Chúa Cha mới được vào Nước Trời chứ không phải việc tôn thờ giả dối ngoài môi miệng: “Dân này thờ kính Ta ngoài môi miệng, còn lòng trí chúng lại xa cách Ta”.
Thưa anh chị em,
Để áp dụng cụ thể, Thánh Giacôbê tông đồ hôm nay kêu gọi chúng ta hãy thực thi luật yêu thương của Chúa bằng việc phục vụ những người nghèo khó, nhất là những cô nhi, quả phụ. Bởi vì họ phải chịu nhiều thiệt thòi bất công và ít được nâng đỡ, bênh vực hơn những người khác. Thánh Giacôbê cũng mời gọi chúng ta phải xa tránh “tinh thần thế tục” vì đó là điều kiện cần thiết để đời sống chúng ta được “trong sạnh, không tì vết”: “Lòng đạo đức tinh tuyền và không chê trách được trước mặt Thiên Chúa Cha, đó là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cơn cùng khốn và giữ mình cho khỏi vết nhơ của thế gian”.
Anh chị em thân mến,
Người kitô hữu đích thực là người có lòng tin, đồng thời có những việc làm cụ thể để diễn tả lòng tin của mình. Trước mặt Chúa, cách chưng diện, thời trang, không quan trọng bằng tâm hồn trong trắng, đầy tình yêu mến và thể hiện trong nếp sống yêu thương, phục vụ anh chị em, đặc biệt những người cô thế cô thân. Nếu rửa tay sạch trước khi ăn là vấn đề vệ sinh thường thức của cuộc sống con người, thì tẩy rửa tâm hồn trong sạch trước khi dự Tiệc Thánh Thể là điều kiện cần thiết của con cái Chúa để xứng đáng tiếp rước Ngài.
30. Lề luật và tấm lòng
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Thiếu nước uống
Một tiến sĩ luật Do thái giáo phạm lỗi nên bị bắt bỏ tù. Thời gian trôi qua, sức khỏe ông ngày càng yếu. Ông chỉ nằm mãi mà chẳng làm gì được. Người ta phải nhờ bác sĩ đến khám bệnh cho ông. Khám xong, bác sĩ bảo rằng có thể ông bị thiếu nước.
Báo cáo của bác sĩ khiến viên cai ngục ngạc nhiên. Họ không hiểu tại sao ông tiến sĩ luật lại có thể thiếu nước, vì cổ phần nước mỗi ngày cho tù nhân vẫn tương đối đủ, bằng chứng là tất cả các tù nhân khác không ai bị bệnh thiếu nước. Thế là viên cai ngục ra lệnh cho lính gác theo dõi thử xem ông tiến sĩ luật đã làm gì với số nước được phân phối cho ông. Và họ đã khám phá ông đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn! Thế nên ông chỉ còn lại số ít nước để uống…
Câu chuyện trên minh họa tuyệt vời Tin mừng hôm nay. Nó giúp chúng ta hiểu rõ tại sao các kinh sư và biệt phái cảm thấy chướng tai gai mắt khi thấy các môn đệ Chúa Giêsu ăn uống mà không rửa tay, theo truyền thống. Và điều đó đã dẫn đến việc họ tranh chấp với Chúa Giêsu.
Thực ra, lúc đầu luật rửa tay chỉ dành cho các tư tế trước khi vào nơi thánh trong đền thờ. Mục đích là để tẩy rửa đi tất cả những gì ô uế về mặt tôn giáo, để các tư tế xứng đáng làm việc thờ phượng Chúa. Dần dần dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Rồi với ý nghĩ tương tự như thế, họ cũng rửa tay trước khi dùng bữa. Thật sự “không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế” (Mc 7:15) như Chúa Giêsu quả quyết trong Tin mừng hôm nay.
Theo ý nghĩa tích cực, việc tuân giữ này không có gì xấu mà rất tốt đẹp, vì nó làm cho tôn giáo thâm nhập vào mọi hành vi con người trong cuộc sống thường ngày. Nhưng trong quá trình thực thi luật đó, tôn giáo lần hồi thoái hóa đến nỗi chỉ còn biết những nghi thức bề ngoài, nghĩa là ai tuân giữ nghi thức này thì được xem là đạo đức đẹp lòng Chúa, còn ai không tuân giữ là mắc tội. Nhà thần học William Barclay đã phê phán lối đạo đức giả đó, “Người ta có thể thù ghét tha nhân mà không một chút áy náy, vì họ đã tuân giữ nghi thức rửa tay và các nghi thức khác về việc thanh tẩy.”
Chúa Giêsu đã vạch mặt nạ giả hình đó của nhóm kinh sư và biệt phái. Họ chỉ lo tẩy rửa bên ngoài mà chẳng quan tâm gì đến việc thanh tẩy tâm hồn. Rửa tay thì dễ chứ rửa tâm hồn thật khó hơn. Nhưng Chúa cần chúng ta thanh tẩy tâm hồn, vì ô uế không từ bên ngoài vào, mà nó ở ngay trong cõi lòng mỗi người như Chúa Giêsu xác quyết trong Tin mừng hôm nay (Theo “Sunday homilies”).
2. Chẳng có gì để nghe
Một người nữ đạo đức có giấc mơ kỳ lạ. Bà thấy được thiên thần đưa vào nhà thờ đọc kinh cầu nguyện. Bà thấy người đánh đàn dạo đàn, các nớt đàn nhảy lên nhảy xuống mà bà chẳng nghe âm thanh nào phát ra. Ca đoàn hát, miệng họ mở ra ngậm lại liên hồi mà bà chẳng nghe được lời nào. Và cộng đoàn trong nhà thờ đọc kinh, môi họ động đậy mãi mà bà chẳng nghe tiếng nào. Ngạc nhiên, và hỏi thiên thần, “Thưa thiên thần, người ta đọc kinh cầu nguyện và ca hát ngợi khen Chúa, mà sao tôi chẳng nghe gì hết?” Thiên thần hồn nhiên đáp, “Vì chẳng có gì để nghe cả.”
3. Quỳ gối cầu kinh
Nhà thần học William Barclay kể câu chuyện có lẽ có trong sách Ngụy Thư sau đây: Một người Hồi giáo bị dũng sĩ nọ xúc phạm. Anh ta giận quá, rượt đánh người đó. Đang khi rượt theo kẻ thù, anh chợt nghe chuông báo đã đến giờ cầu nguyện. Anh vội vàng dừng ngựa, nhảy xuống, mở Thánh Kinh ra, quỳ gối cầu kinh theo luật định một cách hết sức lẹ làng. Đọc xong, anh lại vội vả leo lên lưng ngựa tiếp tục rượt theo kẻ thù.
4. Được thưởng vì thành thật
Có người cha gia đình giàu sang sắp chết. Ông nghĩ cách chia gia tài cho bảy người con. Ông định phân phối theo mức độ tình thương của các con đối với ông. Nhưng vấn đề khó là làm sao biết mức độ tình thương của các con ông. Sau nhiều ngày suy nghĩ, cuối cùng ông nói với luật sư:
– Ông hãy gọi bảy đứa con tôi vào đây và cho chúng biết tôi sẽ chia gia tài cho chúng. Ông quan sát xem đứa nào khóc to nhất là đứa thương tôi nhất, và ông sẽ chia gia tài cho nó nhiều nhất.
Trong khi ông nói thì có sáu người con ông nghe, còn đứa con út đi vắng. Lúc sáu người con được gọi vào thì cả sáu người tranh nhau khóc lóc to tiếng. Ai cũng muốn khóc to nhất để được hưởng gia tài nhiều nhất. Người cha thấy vậy thì đoán là chúng đã biết bí mật của ông, chúng chỉ khóc giả tạo mà thôi. Một lúc sau người con út về, nghe sáu anh tranh nhau khóc mà không biết chuyện gì. Sáu người anh cho biết là cha sắp chết. Người em út thản nhiên nói, “Dù sao thì cha chúng ta cũng phải chết, vì không ai thoái khỏi cái chết.”
Nghe đứa con út nói thế, người cha liền bảo luật sư, “Ông hãy chia cho đứa con út tôi gia tài nhiều nhất.” Luật sư ngạc nhiên hỏi, “Tại sao ông làm thế? Ông không thấy người con út này vui mừng vì tôi chết sao?” Người cha giàu có giải thích, “Tôi cho nó nhiều, để thưởng lòng thành thật của nó.”
5. Chôn người sống
Một người Do thái qua đời. Sau khi xét nghiệm, bác sĩ xác nhận anh chết thật và cấp giấy chứng để chôn cất. Lúc sắp hạ huyệt, người ta nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người ngạc nhiên thấy người chết đã sống lại. Nhưng vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người im lặng rồi nói với kẻ chết sống lại, “Chúng tôi không biết chắc ông chết hay sống. Nhưng theo giấy chứng thực của bác sĩ thì ông đã chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo xác định của bác sĩ.” Nói xong, ông ra lệnh cho ban tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục nghi thức an táng.
31. Hành luật – Lm Giuse Trần Việt Hùng
Luật lệ ghi dấu khả năng phát triển của xã hội loài người. Luật tự nhiên là tiếng nói trong lương tâm mà Tạo Hóa đã đặt để trong tâm hồn của mỗi người. Từ rất sớm, khi xã hội loài người hình thành và phát triển, các quốc gia và các tôn giáo đã có những bộ luật riêng để hướng dẫn mọi người. Con người sống chung với nhau đã từ từ phát sinh ra nhiều thứ luật lệ để bảo vệ quyền lợi cho nhau và cho xã hội. Trong đạo Do-thái xưa có bộ luật Torah trong Ngũ Thư (Pentateuch). Năm cuốn sách đầu trong Kinh Thánh Cựu Ước (Sách Sáng Thế Ký, Sách Xuất Hành, Sách Lêvi, Sách Dân Số và Sách Đệ Nhị Luật) bao gồm những luật lệ căn bản của dân Do-thái, hiên nay một số đông các cộng đoàn Do-thái vẫn áp dụng.
Chúng ta biết pháp luật là một hệ thống của các qui luật để hướng dẫn con người sống chung trong xã hội. Luật pháp giúp phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội qua nhiều cách khác nhau như một trung gian liên hệ giữa con người. Dân Luật là hệ thống hợp pháp được qui định bởi tòa án của các quốc gia. Luật này được sự đồng thuận của các nhà Lập Pháp riêng mỗi quốc gia. Ngoài những luật riêng của các quốc gia, cộng đồng nhân loại có luật chung quốc tế. Về tôn giáo, có Giáo luật là những luật lệ đặt ra để hướng dẫn các tín đồ trong đạo giáo. Các Điều luật về tôn giáo đặt nền tảng trên những khái niệm về niềm tin trong tôn giáo như Ấn Độ Giáo, Phật Giáo, Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo….
Sách Đệ Nhị Luật là cuốn sách thứ năm trong Bộ Ngũ Thư. Người Do-thái và các Kitô hữu tin rằng sách này bao gồm những luật lệ, bài giảng và hướng dẫn dân Do-thái bởi ông Môisen trước khi bước vào miền Đất Hứa. Sách Đệ Nhị Luật gồm ba phần chính: Phần thứ nhất nói về 40 năm ròng rã lữ hành trong sa mạc của dân Do-thái đã chấm dứt, kêu gọi mọi người tiếp tục tuân giữ các giới răn Chúa đã truyền dạy:Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh. Khi được nghe tất cả những thánh chỉ đó, họ sẽ nói: “Chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là một dân khôn ngoan và thông minh!(Đnl 4, 6).Phần thứ hai nhắc nhở người Do-thái đặc biệt tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất và giữ các lệnh truyền để được sở hữu miền đất mà Chúa sẽ đã hứa ban. Phần ba, nếu dân bất trung thì sẽ bị tước đoạt phần đất hứa, nhưng khi dân biết ăn năn sám hối và hoán cải thì mọi sự sẽ được hoàn trả lại. Đây là nguồn an ủi và hy vọng.
Ngoài những luật lệ thành văn, xã hội còn nhiều những điều luật riêng tư như tục lệ, truyền thống, phép tắc, tập tục, thói quen, lệ làng và cả hủ tục… Xã hội càng văn minh càng có thêm nhiều luật lệ. Luật như những hàng rào để bảo vệ môi trường an toàn chung quanh và quyền lợi lẫn cho nhau. Luật làm ra để bảo vệ sự sống và quyền sống của con người. Nếu có những luật lệ đi ngược với những quyền thiêng liêng, giới hạn hay hủy hoại sự sống của con người, không buộc lương tâm con người phải chấp hành. Chúng ta còn có một luật có giá trị hơn, đó là luật lương tâm. Không ai có thể tước đoạt quyền tiếng nói của lương tâm. Cho dù bị tù đầy, khổ ải, đánh đập và giết chóc cũng không thể áp đặt. Đây là giá trị tự do cao quí nhất của con người. Mẫu gương của các đấng tử đạo vì niềm tin, thà chết chứ không chối Chúa, không bỏ đạo và không dẵm đạp lên thánh giá.
Khi Chúa Giêsu ra rao giảng, Ngài đã đối diện với xã hội con người với cách sống và tập tục của tiền nhân qua bao đời để lại. Có những tập tục đã trở thành thói quen được lặp đi lặp lại mà không mang ý nghĩa nội tâm:Thật vậy, người Pharisêu cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng (Mc 7, 3-4). Các Luật sĩ ghi chú và áp dụng thật tỉ mỉ những khoản luật này. Họ đặt lên vai dân chúng những gánh nặng của lề luật. Dựa vào những luật lệ do các luật gia đặt ra để tìm phạt vạ và bắt bẻ những người phạm lỗi. Các Biệt Phái và Luật sĩ hỏi Chúa Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa? (Mc 7, 5). Để trả lời cho họ, Chúa Giêsu đã đưa họ trở về nguồn là các giới răn của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu dẫn chúng ta đi vào chính trong tâm hồn, nơi phát sinh điều lành và dữ. Tâm hồn như tâm địa là nơi được gieo trồng điều thiện cũng như điều ác. Việc thiện phát xuất từ tâm tốt. Trong cõi tâm có thiện tâm, đạo tâm và chánh tâm. Cõi tâm có mặt trái là tà tâm, ác tâm, nhẫn tâm và đưa đến khổ tâm. Thiện tâm sẽ hun đúc điều lành và việc tốt. Chúa Giêsu nhìn thấu tâm hồn con người và Ngài đã vạch ra những tà tâm từ tận sâu đáy lòng: Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng (Mc 7, 21-22). Đúng thế, đôi khi chúng ta đánh giá con người theo sự xuất hiện hình thức bên ngoài. Chúng ta đâu thấu hiểu được nội tâm sâu kín. Người ta thường nói:Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng. Rất nhiều khi chúng ta sống như đóng kịch, đối xử gian dối và sống giả hình. Bên ngoài thì chăm chăm chú chú nguyện cầu, nhưng trong lòng đầy những uẩn khúc giận hờn, ghen ghét và thù nghịch.
Chúa Giêsu phơi bầy sự thật của lòng người, Ngài nói:Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế (Mc 7, 23). Những điều xấu xa là từ bên trong tâm là tham thân si, ý nghĩ, ước muốn, lời nói và hành động xấu phát xuất ra. Các con ma quái dị rình rập bên cạnh để kéo lôi chúng ta như tài, sắc, danh, thực và thùy (ngủ). Ngũ dục này giống như con đẻ nằm sẵn trong tâm, chỉ chờ cơ hội là xuất đầu lộ diện. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự thật trong sáng của tâm hồn. Chúng ta phải tu tâm, tu thân và dưỡng tánh thường xuyên. Như Chúa căn dặn các môn đệ là hãy cầu nguyện luôn để khỏi sa chước cám dỗ. Phấn đấu với sự yếu đuối của bản thân là một trận chiến đấu không ngừng.
Thánh Giacôbê tông đồ khuyên dạy chúng ta: Mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói, và khoan giận vì khi nóng giận, con người không thực thi đường lối công chính của Thiên Chúa (Giac 1, 19-20). Mau nghe, chậm nói và khoan giận là sự khôn ngoan. Giacôbê đã chia sẻ những kinh nghiệm sống thật mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Sự hài hòa và nhẫn nại luôn là những hoa trái tốt lành cần được đón nhận và trân quí. Mỗi người chúng ta đều mong cầu có được một cuộc sống hạnh phúc và an lạc. Chúng ta phải tự cố gắng xây đắp cho chính cuộc đời của mình. Không gieo thì sẽ không có gặt. Khi chúng ta làm việc lành phúc đức, phúc đức sẽ báo đáp. Giáo Hội đã giới thiệu cho chúng ta những huấn lệnh, giới răn và những mối phúc như Mười Điều Răn, thương người có Mười Bốn Mối và Tám Mỗi Phúc Thật…
Lạy Chúa, mọi giới luật đều qui tóm về hai giới răn trọng, đó là mến Chúa và yêu người. Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em không phải bằng môi miệng nhưng bằng chính trái tim cảm mến. Chúng ta có thể làm được mọi việc mà nếu không có lòng mến, tất cả trở thành vô ích. Chúng ta hãy xin cho hạt giống yêu thương nẩy nở và sinh hoa kết qủa trong tâm hồn. Thánh Giâcôbê mời gọi: Hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em (Giac 1, 21).
32. Nghi thức bên ngoài.
Có một thầy tiến sĩ luật Do Thái bị cầm tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua và ông ta yếu dần. Cuối cùng người ta phải mời một y sĩ đến khám. Y sĩ bảo rằng: cơ thể ông ta bị thiếu nước. Thế nhưng đám lính canh lại thắc mắc không hiểu vì sao vị Rabbi này lại có thể thiếu nước, vì khẩu phần nước tương đối đầy đủ.
Và thế là họ kín đáo quan sát ông ta. Cuối cùng họ đã khám phá ra lý do. Sở dĩ cơ thể ông ta thiếu nước vì ông ta đã dùng phần lớn số nước được cung cấp để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và dùng bữa.
Câu chuyện trên cho thấy các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã bực bội như thế nào, khi các môn đệ Chúa ăn uống mà chẳng chịu rửa tay theo đúng tập tục tiền nhân.
Ngược dòng thời gian chúng ta thấy người Do Thái có hai thứ luật. Luật thành văn và luật truyền khẩu. Luật thành văn vừa cổ lại vừa quan trọng vì nó căn cứ trên những sách của Cựu ước và đôi khi còn được gọi là luật Maisen. Một số luật này mang tính cách cụ thể và đặc thù, còn lại thì rất chung chung giống như những kiểu mẫu phải theo hơn là lề luật. Trong một thời gian dài, người Do Thái bằng lòng với những kiểu mẫu này và họ áp dụng vào đời sống vì thấy nó thích hợp.
Tuy nhiên, tới thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, một nhóm chuyên nghiên cứu về luật đã tạo được một ảnh hưởng mạnh mẽ trong dân. Họ thấy những điều luật tổng quát quá sơ sài, mơ hồ cần phải được soạn thảo lại. Từ đó phát sinh ra bộ luật thứ hai, gồm những luật truyền khẩu. Rất nhiều người Do Thái muốn bắt chước các tư tế về sự thánh thiện bên ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn: theo luật thành văn thì mọi tư tế đều phải rửa tay trước khi vào nơi thánh trong đền thờ, mục đích là tẩy rửa đi những gì ô uế để xứng đáng thờ phượng Chúa. Dần dần dân chúng cũng bắt chước rửa tay trước khi cầu nguyện và khi dùng bữa.
Vào thời Chúa Giêsu, họ tuân giữ cặn kẽ thứ luật truyền khẩu này, để rồi tôn giáo dần dần thái hóa và biến thành một hoạt động đơn thuần chỉ là chu toàn những nghi thức bên ngoài. Theo họ, tuân giữ nghi thức bên ngoài là đẹp lòng Chúa, bằng không thì phạm tội và những kẻ tuân giữ được coi là người đạo đức. Họ có thể căm ghét kẻ khác nhưng lại chẳng hề áy náy bao lâu còn tuân giữ việc rửa tay và những nghi thức khác về sự thanh tẩy.
Họ giống như một người Hồi giáo đang phi ngựa rượt theo kẻ thù, chợt nghe chuông báo giờ cầu nguyện. Thế là anh ta xuống ngựa, quì gối cầu nguyện theo luật định, rồi sau đó lên ngựa tiếp tục đuổi theo kẻ thù.
Từ đó chúng ta đi tới kết luận: đừng đồng hóa tôn giáo với việc chu toàn những hành vi bên ngoài như đi lễ, đọc kinh, xưng tội… Tự chúng chưa bảo đảm rằng chúng ta đã thánh thiện đâu. Lý do rất đơn giản là chúng ta có thể làm tất cả những việc này vì lý do không mấy ngay thẳng, hay làm không phải vì yêu thương. Điều quan trọng không phải là việc chúng ta làm mà chính là tình yêu trong trái tim thúc đẩy chúng ta làm việc đó. Nếu trái tim chất đầy kiêu căng thì mọi nghi thức bên ngoài trước mặt thế gian cũng sẽ chẳng làm cho chúng ta trở nên thánh thiện trước mặt Chúa. Bởi vì như lời Chúa đã quở trách người Do Thái: dân này thờ kính Ta ngoài môi ngoài miệng, còn lòng họ thì lại xa Ta.
Tóm lại, điều cốt lõi trong tôn giáo không phải là làm việc này việc kia, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Hành động của chúng ta phải được xuất phát từ con tim, từ tình yêu: Mến Chúa và yêu người, thì mới thực sự có giá trị.
33. Chúa Nhật 22 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM.)
Ngày nọ vào hồi 2 giờ sáng, Cha Murray thấy chuông điện thoại báo và nghe có tiếng rên rỉ:”Ông nội con ở trong nhà thương sắp chết, xin cha đến giúp”. Vì cách nhà thương có 2 block, cha Murray quyết định đi bộ tới thăm bệnh nhân. Đang đi, thình lình một người lạ mặt từ trong bóng tối nhảy ra chìa súng vào cha quát lớn: “Đưa hết tiền đây cho tôi”. Vị linh mục trả lời: “Chiếc ví của tôi ở trong áo coat”. Tên cướp phanh áo ngài để tìm chiếc ví tiền, chợt nhìn thấy chiếc cổ áo trắng linh mục: “Trời ơi, Tôi không biết đây là ông cha. Xin cha tha tội cho tôi và cha giữ lấy liền”. Với lòng biết ơn, vị linh mục tặng cho anh ta một điếu xì gà, nhưng anh ta lắc đầu từ chối: “Xin cám ơn cha, tôi kiêng hút thuốc trong mùa chay”.
Tên ăn cướp này cũng giống như người Pharisiêu. Họ cặn kẽ giữ những điều luật nhỏ mọn, nhưng lại bỏ qua những giới răn rất quan trọng. Họ giữ những lề luật bề ngoài, nhưng họ căm ghét kẻ khác không giữ một cách sâu đạm trong trái tim. Họ tuân giữ những nghi thức bề ngoài này và được đánh giá là họ đạo đức, biết phụng sự Thiên Chúa mà khinh miệt những người khác. Cũng như kiêng không hút thuốc trong mùa chay, nhưng lại đi ăn cướp. Vì thế Chúa Giêsu thường phê bình họ khiến họ rất ghét Ngài, theo dõi để bắt bẻ, gài bẫy và công kích Ngài. Ngày nay cũng còn có những thứ người Pharisiêu tân thời như họ. Thí dụ: họ đi lễ trễ mà nếu có ai phê bình thì họ tức tối và cho rằng thế là hạ nhục họ đang khi họ không biết đi lễ trễ là xúc phạm đến Chúa và làm chi trí cho những người khác. Đến nhà thờ, họ tươi cười bắt tay những người bắt tay họ, nhưng lại không biết nói, không biết chào hỏi Thiên Chúa trên bàn thánh. Điều đó cũng như đi dự tiệc mà chỉ trò chuyện với khách mà không hề biết chào hỏi chủ tiệc. Cũng vậy, người khác đi dự tiệc chỉ biết chê trách, bắt bẻ chủ nhà rằng: Khăn bàn xấu, ly chén không sạch, đồ ăn nguội không ngon… nhưng chính họ chỉ toàn nói những chuyện thiếu thanh tao, kéo kẹt, cũng chẳng bao giờ dâng cúng cho chủ tiệc, cho Chúa lấy một đồng. Người khác đi ra ngoài gặp ai thì luôn miệng “Cám ơn, xin lỗi” rất lịch sự, nhưng về nhà lại chẳng hề biết nói một lời nhỏ nhẹ, lịch sự với vợ với con. Nếu trái tim chúng ta chất đầy những nỗi chua chát hoặc kiêu căng thì tất cả những nghi thức bề ngoài trước mắt thế gian cũng sẽ chẳng làm cho chúng ta nên thánh thiện trước mặt Chúa. Tất cả họ là những pharisiêu chỉ biết phô trương và giữ luật trước công chúng để được ca tụng, được tôn kính… Nhưng khi sống riêng tư thì lại bê bối, bỏ luôn cả những điều quan trọng nhất trong đời sống. Xin Chúa đừng để chúng ta là một pharisiêu như vậy.
34. Bỏ giới răn Chúa mà giữ tập tục tiền nhân
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM.)
Một cha mới đầy chân tu, đạo đức thánh thiện, được thuyên chuyển đến làm chánh xứ một họ đạo lâu đời. Vào ngày Chúa Nhật đầu tiên, ngài lên tòa giảng suy diễn về một tật xấu của dân: “Tật cơ bạc và đánh cá độ”, gây nên cho một số gia đình trong xứ cảnh nhà tan của nát. Sau thánh lễ, ông chủ tịch Hội Đồng Giáo Xứ đến thưa cha rằng: “Cha không nên giảng thế, vì đa số những người dâng cúng cho nhà thờ là những người đánh cá độ và cờ bạc đấy”.
Đến Chúa Nhật thứ hai, cha đổi đề tài, ngài giảng về nạn “Hút thuốc lá, thuốc phiện, cần sa ma túy” và những tai họa gây nên như ung thư phổi, hại sức khỏe, chết sơm trước tuổi, và biếng nhác việc đạo. Lần này ông Chủ Tịch lại kéo cha xứ vào một nơi mà bảo: “Cha không nên giảng thế, vì những người dâng cúng rộng rãi là những nhà giáo dân tốt trồng các loại cây thuốc nổi tiếng trong vùng”/
Đến tuần thứ ba, ngài lại đổi đề tài: “Rượu, bia, các đồ uống cho say” cũng chẳng khác hút thuốc xái, nó gây ra nhiều tai nạn, say sưa đập phá nhà cửa. Lần này ông nhắc khéo: “Cha nêu lắm tật xấu phải bỏ quá, chúng con theo sao kịp”. Cha xứ liền hỏi lại ông Chủ Tịch: “Vậy tôi phải giảng về vấn đề gì?” Ông Chủ Tịch liền trả lời: “Cha giảng về chính trị lừa đảo, về năng đi lễ, về năng đi xưng tội….Trong giáo xư không có hạng người này”.
Người ta không thích nghe những điều động đến cuộc sống, không muốn đổi nề nếp cũ để sống theo điều Chúa khuyên dạy. Họ thích theo những tập tục cha ông chứ không muốn giữ theo luật mới của Chúa Giêsu. Sống đạo thì đòi phải hy sinh, đòi phải từ bỏ, đòi phải bác ái yêu thương, chư không chỉ “yêu kính Ta bằng môi bằng miệng mà lòng chúng thì xa Ta”. Thánh Giacôbê khuyên: “Anh chị em hãy thực thi những lời đã nghe, chứ đừng nghe suông mà lừa dối mình”.
35. Cao cả và bi đát – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Thánh với phàm, thiêng với tục là những phạm trù tôn giáo mà mọi thời và mọi nơi đều biết đến.
Cái thánh thiêng là cái cao cả siêu việt, khác lạ, đáng kính và nhiều khi đáng sợ.
Cái phàm tục là cái thông thường, cái tầm thường, nhiều khi còn có thể đáng khinh và bị coi là ô uế dơ dáy.
Trong các tôn giáo sơ khai, cái thánh thiêng hiện diện ở khắp nơi trong mọi sự từ núi cao đến sông dài, từ đền thờ tới gốc đa, gốc đề, từ tượng thần đến cái bình vôi, từ cá sấu đến các tinh tú.
Trái lại, ngày nay trong thế giới tục hoá, mọi sự đều được giải thiêng, chẳng có gì thánh thiêng ngoài khoa học thực nghiệm duy lý với các định luật, các công thức.
Trong tiếng Do thái,Thánh có nghĩa là tách biệt. Cái linh thiêng là cái gì tách biệt khỏi cái thường ngày, tách khỏi cái tầm thường thông tục.Cái thánh thiêng là cái gì khác lạ cao xa, ở bên ngoài, ở bên kia, ở bên trên cái thông thường. Do đó,Thiên Chúa được gọi là Đấng Thánh, bởi vì Người cao cả, siêu việt tuyệt đối khác lạ. Người là Đấng siêu việt. Đấng cao cả, linh thiêng phải ngự ở những nơi linh thiêng cao cả. Đó là những ngọn núi thánh, những Đền thờ, những nơi tách biệt khỏi chốn phàm trần. Những người được tuyển chọn để phục vụ Đấng Thánh cũng phải là những người tách biệt khỏi người phàm. Hàng Tư tế trong dân Do thái chỉ được chọn từ chi tộc Lêvi. Họ phải là những người không tỳ vết, không tật nguyền, phải giữ những luật lệ khắt khe hơn người thường.Tất cả những gì dành riêng cho Đấng Thánh, những gì được coi như thuộc về Người, đều là những cái thánh: núi thánh, đền thánh, nơi thánh, ngày thánh, đồ vật thánh. Phạm đến những cái đó là phạm đến chính Đấng Thánh.
Quan niệm linh thánh như vậy muốn tách biệt cái thánh thiêng ra khỏi cái phàm tục.Từ đó người ta đẩy xa Đấng Thánh ra khỏi cuộc đời và ngày càng đóng khung Người vào trong phạm vi của núi thánh, Đền thờ, nơi thánh, nơi cực thánh. Không gian của Người ngày càng bị thu hẹp lại.
Dân Israel được gọi là Dân Thánh, dân riêng của Chúa, thuộc về Chúa. Họ tự coi mình là sở hữu Thiên Chúa: Người là của riêng họ, thuộc về họ. Dân Israel chờ đợi một vị thiên sai ngự đến trong cung thánh đền thiêng.
Trong một thế giới mà cái thánh thiêng và cái phàm tục được xác định rạch ròi tỉ mỉ như thế, chúng ta mới thấy việc Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng Thánh làm người, một người phàm ở giữa những người phàm gặp phải sự chống đối quyết liệt.
Ngay từ giây phút nhập thể, Đức Giêsu đã không đến trong Đền thờ mà lại đến trong căn nhà nhỏ bé ở Nazareth. Thiên Chúa làm người trong lòng một thôn nữ vô danh đối với người Do thái. Rồi khi chào đời, Người đã lấy chuồng bò lừa làm nhà ở, lấy máng cỏ làm nôi, lấy những kẻ mục đồng vốn bị người Do thái coi là uế tạp làm bầu bạn.Trong suốt cuộc đời, Đức Giêsu sống như một người tầm thường giữa những người nghèo khổ, đồng hành ăn uống với những người bị coi là tội lỗi, thâu nhận người thu thuế làm môn đệ.
Trang Tin mừng hôm nay kể về một sự kiện trong chuỗi những chống đối quyết liệt đó. Các Biệt phái Kinh sư trách các môn đệ Đức Giêsu không rửa tay trước khi ăn. Rửa tay trước khi ăn, đối với người Do thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các người Pharisiêu và Kinh sư nói riêng và dân Do thái nói chung, thường rất khắt khe với tục lệ này. Họ cho đó là một nghi thức truyền thống quan trọng phải tuân giữ triệt để, chứng tỏ mình thanh sạch trước mặt mọi người. Vì thế, họ chất vấn Đức Giêsu: Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay mà dùng bữa?
Đức Giêsu đã cho biết thế nào là sạch thế nào là dơ, thế nào là thánh thiêng, thế nào là phàm tục. Của ăn được nấu chín là sạch. Cái làm cho dơ đó là lòng người. Cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, tốt hay xấu, sạch hay dơ.
Có câu chuyện trong sách Tông đồ công vụ (10,11-16). Vào trước giờ ăn trưa, Thánh Phêrô cầu nguyện và xuất thần: “Ông thấy trời mở ra và một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, đang được thả xuống, trong đó có mọi giống vật bốn chân, rắn rết và mọi thứ chim trời. Có tiếng phán bảo ông: Phêrô, đứng dậy làm thịt mà ăn! Phêrô thưa: lạy Chúa, không thể được, vì không bao giờ con ăn những gì ô uế và không thanh sạch. Có tiếng phán với ông lần thứ hai: những gì Thiên Chúa tuyên bố là thanh sạch, ngươi đừng gọi là ô uế. Việc đó xảy đến ba lần, và lập tức vật ấy được đưa lên trời.”. Như vậy những gì Thiên Chúa sáng tạo đều là sạch, con người không thể coi là nhơ bẩn.
Đức Giêsu bác bỏ hoàn toàn quan niệm về sạch dơ của người Do thái. Đối với Người, không có gì bên ngoài lại làm cho con người ra dơ trước mặt Thiên Chúa. Cái gì dơ, cái gì tội lỗi chính là từ trong lòng người mà phát xuất ra. Đó là: tà dâm, trộm cắp giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác xảo trá, trác táng, ganh tị, kêu ngạo, ngông cuồng.Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người ra ô uế.
Người đời đã phải than thở rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho tường”; “Lòng người thăm thẳm mù khơi, không bờ không bến biết nơi nào dò”. Tục ngữ có câu: “Khẩu Phật tâm xà” hay “ Miệng thơn thớt dạ ớt ngâm” để diễn tả hạng người mang mặt nạ che dấu lòng dạ ác độc bên trong, loại người mà “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Một trong những đặc trưng của kỹ thuật hiện đại là kỹ thuật làm đồ giả. Chân giả, tay giả, tóc giả, lông mi giả, hoa giả, trái cây giả…. Những thứ giả ấy đi vào cả những sinh hoạt thiêng liêng như mâm ngũ quả, hoa nến nhang đèn đều giả… Mức độ “giả” còn tinh vi nên lắm khi cái giả xem ra còn đẹp hơn cái thật, khó mà phân biệt được thực hư, tốt xấu. Nhưng tệ nhất vẫn là thứ “Giả nhân giả nghĩa”, thứ “giả hình” mà Chúa đã nặng lời khiển trách (Mt 23,13-29). Thánh Gioan đã lật tẩy: “Ai nói rằng mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1Ga 2,4); “Ai bảo mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu người anh em mà mình trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (Ga 4,20).
Cõi lòng hay thế giới nội tâm làm cho con người nên cao cả nhưng nó cũng làm nên sự bi đát. Cao cả và bi đát đan xen trong lòng người như ánh sáng và bóng tối.
Con người nên cao cả là nhờ thế giới nội tâm với tư duy, cảm xúc, phân tích, đúc kết, kinh nghiệm… Nhờ có thế giới nội tâm mới có khoa học, có sáng tạo văn hoá nghệ thuật. Cũng chính cái thế giới nội tâm này làm cho con người trở nên bi đát. Bề ngoài và bề trong liên quan với nhau và tác động lẫn nhau, nhưng về mặt luân lý đạo đức, bề trong mới là phần quyết định. Chỉ có con người mới có giả hình, lừa đảo, gian dối, mưu mô, thủ đoạn. Đức Giêsu đã nhận xét: “ Không phải những gì từ bên ngoài vào làm cho người ta ra ô uế, nhưng từ trong lòng mới xuất phát những cái làm cho người ta ra ô uế” (Mt 15,19).
Đức Giêsu nhấn mạnh sự thanh tẩy từ bên trong. Người chẳng phản đối chuyện rửa tay. Người chỉ phê bình thói hình thức bên ngoài. Điều quan trọng là rửa cõi lòng. Cái ô uế thực sự đáng sợ không đến từ việc đụng chạm hay ăn uống mà nó lại nằm trong lòng người. Nó không từ ngoài vào mà từ bên trong ra.
Đối với Đức Giêsu, yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bên ngoài. Ý hướng bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có gía trị hay không. Đức Giêsu luôn sống tình thương với mọi người, luôn “chạnh lòng thương”.Tình thương chính là sự thánh thiện. Tình thương là thanh sạch. Đấng Thánh hôm nay có tên gọi là Tình Thương.Tình thương là chia sẽ, là hiệp nhất. Sự thánh thiện của Đức Giêsu luôn rộng mở lan toả hương thơm tình thương, thanh sạch.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có viết trong cuốn “Giọt máu” một câu rất sâu sắc “Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và hoa. Đấy là chí thánh”.Tác giả hiểu ý nghĩa của từ chí thánh theo đúng những gì là phàm tục, thế gian là cõi hồng trần bụi bặm. Cái chí thánh chính là dìm mình, hoà vào trong bùn lầy, trong tội lỗi để làm cho từ vũng bùn lầy, từ vực thẳm tội lỗi ấy nở hoa, rực lên sự thánh thiện. Tôn giáo nhắm trực tiếp vào nội tâm con người, vì thế có lẽ nó còn hữu hiện hơn xã hội rất nhiều trong việc chế ngự cái xấu, cổ vũ cái tốt. Bởi vì tôn giáo chân chính nào cũng đều kêu gọi, động viên, giáo dục con người làm lành lánh dữ, vươn lên làm chủ phần hạ đẳng nơi mình để thăng hoa phần cao thượng trong sáng. Người ta có thể không sợ dư luận hay luật pháp (vì còn có thể che dấu luồn lách), nhưng một khi đã tin vào Đấng Linh Thiêng và nếu đó là một niềm tin sống động, người ta khó có thể không sợ sự phán xét của lương tâm và nhất là của Đấng họ thờ kính.
Thường thì khi vừa sinh ra, người ta có cái tâm hồn hậu nhưng cái trí dại khờ. Càng lớn lên, trí càng khôn ngoan nhưng tâm càng vẩn đục. Đi cho trọn đường trần là trí học biết được càng nhiều càng tốt những khôn ngoan mà tâm vẫn giữ được cái hồn hậu của tuổi ấu thơ.
Đối với người Kitô hữu, nếu như xã hội mong muốn và chờ đợi chúng ta sống đạo đức một, thì chính Chúa còn đòi buộc chúng ta phải “thánh thiện” trăm ngàn lần hơn: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48); “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mắt thiên hạ, để họ nhìn thấy công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,14.16).
Con người sống ở đời cần có một tấm lòng, một trái tim yêu thương chân thành. Thiên Chúa đã ra lệnh truyền cho con người: “Hãy tạo cho mình một trái tim mới” (Ed 18,31). Người còn phán: “Ta sẽ thanh tẩy các ngươi, Ta sẽ ban cho các ngươi môt trái tim mới” (Ed 36,25). Một trái tim mới biết yêu thương hay một tấm lòng để người ta sống tốt đẹp với nhau.
Tình thương của Chúa Giêsu là tình thương cứu thế, muốn thanh tẩy con người tội lỗi, rửa sạch tâm hồn và trao ban sự sống mới.
Trong đời sống tâm linh, người Kitô hữu cần phải tu dưỡng cái tâm, phải có tâm ngay lành, luôn tôn trọng sự công bằng, yêu thương mọi người. Cần có một tấm lòng, tâm tốt thì mọi việc làm sẽ đẹp lòng Chúa.
Người Kitô hữu mỗi ngày đến nhà thờ dự tiệc Thánh Thể. Đưa tay đón nhận Bánh Thánh là đón nhận tình thương và thanh sạch của Chúa.Bàn tay đón nhận Bánh Thánh cũng là bàn tay bác ái yêu thương góp phần thánh hoá trần gian.
36. Cái Tâm
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Buổi trưa, tại sân ga của một thành phố lớn, một người phụ nữ tầm ngoài 30 tuổi đang mướt mồ hôi để vác lên vai túi hành lý lỉnh kỉnh của mình. Trên khuôn mặt của người phụ nữ ấy hằn lên sự vất vả, cực nhọc của một người lao động từ xa đến tỉnh này. Chị đang đưa ánh mắt dường như vô vọng của mình khắp sân ga như để tìm kiếm một thứ gì đấy nhưng sau đấy lại tỏ vẻ thất vọng. Trông chị rất đáng thương.
Trên sân ga, người qua lại tấp nập. Ai đi qua người phụ nữ ấy đều ném về phía chị những cái nhìn ái ngại và thương cảm. Không ai có ý định dừng lại để giúp đỡ chị. Đặc biệt là những người ăn mặc sang trọng, họ đều đi qua chị với tốc độ rất nhanh, dường như là họ nghĩ nếu đi chậm lại thì chắc chắn người đàn bà đó cũng kéo họ lại để lạy lục, nhờ vả việc gì đó.
– “Anh để ý đấy nhé, không biết chừng chị ta sẽ nài nỉ xin tiền hoặc sẽ hồ hởi kết bạn với mình để bị chị ta tra tấn trên suốt chuyến đi bằng những câu chuyện vừa dài vừa vô duyên, hoặc như chị ta sẽ mượn mình chiếc khăn mùi xoa để lau mồ hôi mà lau xong thì mình không dám xin lại hay như mượn bình nước uống rồi tu ừng ực thì vài ngụm đã hết veo. Đúng là người nhà quê”- Một người phụ nữ ăn mặc trông có vẻ sang trọng bĩm môm đánh thượt một cái và nói với người đàn ông cũng có vẻ sang trọng bên cạnh mình.
– Xin chào.. xin….
Quả nhiên người phụ nữ tiến lại gần đám đông đang đứng đợi tàu. Nhưng dường như không đợi chị nói hết câu, mọi người đều xua tay và lắc đầu và nhanh chóng lảng ra chỗ khác. Không nản chí, người phụ nữ này lại men theo các cánh cửa sổ của các toa tàu rồi nhảy hẳn lên các toa chưa đến giờ xuất phát. Đi đến toa nào chị cũng mang một khuôn mặt như muốn cầu cứu, trông thật đáng thương và câu duy nhất thốt ra từ miệng người phụ nữ đáng thương này là: “Xin mọi người giúp đỡ cho tôi”
Những người ngồi trên tàu tỏ ra rất khó chịu với người phụ nữ này. Có người thì xua tay ra hiệu xua đuổi, có người vừa thấy bóng dáng chị ở đầu toa vội lấy tờ báo che mặt giả vở ngủ. Trên khuôn mặt của người đàn bà ấy lộ rõ vẻ thất vọng, chán nản. “Mình đâu phải là thằng ăn trộm mà sao mọi người lại xử sự như thế nhỉ?” – Người phụ nữ xót xa nghĩ.
Chị ta lại đi qua các toa tàu nhưng không ai muốn nghe chị trình bày hoàn cảnh của mình. Đúng lúc đó, chị nhìn thấy một chàng trai có dáng vẻ rất thư sinh đang ngồi đọc báo. Chàng trai đang đọc báo rất chăm chú và dường như cậu ta không để ý đến mọi thứ xung quanh. Nhẹ nhàng đi về phía chàng thanh niên, người phụ nữ cất tiếng nói.
– Xin lỗi cậu, cậu có thể giúp đỡ tôi được không?
Chàng trai bỏ tờ báo xuống, nhìn quanh một lúc rồi nhìn người phụ nữ nông thôn nọ:
– Xin lỗi, chị đang hỏi tôi ạ?
Người phụ nữ gật đầu.
– Xin anh giúp đỡ tôi với, tôi lên thành phố để tìm người bà con, nhưng tìm không ra, tiền bạc lại bị kẻ gian móc hết rồi. Muốn về quê nhưng không biết làm thế nào, cậu có thể mua giúp một tấm vé để tôi về quê không?
Sau khi nghe xong người phụ nữ đáng thương nói xong, nét mặt chàng thanh niên trông rất lưỡng lự. Dường như anh ta vừa muốn giúp, vừa lại không muốn giúp người đàn bà đáng thương đó. Sau một thời gian im lặng, chàng trai bèn đưa tay vào túi quần của mình, khó khăn lắm mới móc ra được một đống tiền lẻ, ngại ngùng đưa cho người phụ nữ.
– Chị cầm lấy đi. Tôi… tôi chỉ còn có chừng này, không biết đủ hay không. Tôi cũng vừa mua vé để về quê nên không còn nhiều. Tôi lên thành phố này để kiếm việc, hy vọng tìm được một công việc kiếm được kha khá, nhưng khi lên thành phố, với tấm bằng trung cấp trong tay thì tôi không thể tìm ra được một việc gì để làm. Chị cầm tạm vậy.
Người phụ nữ rưng rưng cầm lấy những đồng tiền lẻ của chàng trai, khó khăn lắm chị mới thốt lên được hai tiếng “Cám ơn”.
Vừa quay gót đi về phía cuối toa thì chị nghe tiếng gọi với theo của chàng thanh niên nọ. Cậu ta hớt hải đi về phía chị và nói:
– Như thế này vậy, chị cùng quê với em, hay chị lấy tấm vé của em đi vậy.
– Thế còn cậu thì sao? Người phụ nữ ngạc nhiên hỏi.
– Số tiền em vừa đưa cho chị có thể mua đủ tấm vé xuống ga thứ ba xuất phát từ ga này, như vậy cách nhà em cũng không xa lắm, em có thể đi bộ mà. Chị cứ cầm lấy vé đi, em là con trai, thế nào mà chẳng được. Còn phụ nữ như chị thì không thể đi bộ về nhà trong đêm tối được. Thôi, chúc chị thuận buồm xuôi gió. Nào, đưa cho em đống tiền lẻ nào!
Nói xong, không kịp để người phụ nữ phản ứng gì, chàng trai vội cầm lại số tiền lẻ trong tay người phụ nữ và đưa lại cho chị tấm vé của mình. Sau đấy anh vội vàng đi ra khỏi tàu và đến quầy bán vé.
Rất nhanh sau đó, chàng thanh niên lại lên tàu. Người phụ nữ tiến lại gần phía chàng trai và cất tiếng hỏi:
– Sao cậu lại làm như thế, cậu không hối hận à?
Chàng trai lắc đầu
– Không, chị ạ.
Trong ánh mắt của người phụ nữ đáng thương nọ ánh lên một niềm vui khôn xiết. Chị cầm tay chàng trai và nói:
– Anh bạn trẻ, xuống đây với tôi một lát.
Người phụ nữ kéo chàng trai ra khỏi nhà ga, vẫy một chiếc taxi, tự động mở cửa xe và quay lại nhìn chàng trai:
– Cậu lên xe đi. Hôm nay cậu chính thức là nhân viên của tôi.
Hoá ra, người phụ nữ này là con gái của một ông chủ tập đoàn sản xuất đồ chơi nôỉ tiếng. Để đi tìm một người trợ lý đáng để tin cậy, chị đã phải hoá trang và đứng ở sân ga suốt 3 ngày qua.
Chị nói rằng: “Các bạn cho rằng tôi thật ngốc nghếch khi phải làm khổ mình như thế, nhưng thật ra nó thật sự xứng đáng. Khi đứng ở sân ga trong 3 ngày đó, tôi mới nhận ra rằng: Tìm được một người thực sự tốt trong cuộc sống xô bồ này quả là khó.
Có thể, chàng thanh niên đó không có trình độ, hiểu biết nhiều như những người tốt nghiệp đại học hoặc cao hơn nữa. Nhưng điều đáng quý nhất và đáng trân trọng nhất là cậu ấy có cái ‘tâm’. Có cái ‘tâm’ trong cuộc sống thì mới có cái ‘tâm’ trong công việc được. Đấy là thứ mà công ty tôi cần”.
Các bạn thấy đấy, một tấm vé để đổi lấy cả một sự nghiệp sáng lạn. Có thể nhiều người nghĩ đây chỉ là việc ngẫu nhiên, nhưng thực ra trong sự ngẫu nhiên đó lại có tính tất yếu của nó. Rất nhiều người đã có mặt ở trên sân ga, nhưng chỉ có chàng trai đó mới nhận được niềm hạnh phúc bất ngờ như vậy. Không phải ngẫu nhiên mà anh ta có được một cơ hội tốt đẹp đến như thế mà điều quan trọng là anh đã biết chia sẻ chữ ‘tâm’ của mình cho mọi người xung quanh.
Đây là một câu chuyện hoàn toàn có thật mà tôi đã nghe được từ giám đốc của tôi.(nguồn: saigonecho.com).
Đọc câu chuyện trên nghe vọng lại lời thơ của thi hào Nguyễn Du: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Trong trường đời, trái tim lại quan trọng hơn cái đầu. Sống ở đời và giao tiếp với người đời, “được việc” mà thôi chưa đủ, còn phải “được người” nữa. Nền văn minh mang lại hạnh phúc cho con người không phải là văn minh của khoa học kỹ thuật mà là văn minh của tình thương.
Tâm nghĩa là trái tim, biểu tượng của tình yêu. Chữ Hán tượng hình nên nét bút vẽ ra hình trái tim. Có lẽ từ xa xưa, có ai đó cỡ thần y Hoa Đà, Biển Thước đã phẫu thuật cơ thể con người, thấy tỏ tường trái tim nên mới viết, mới vẽ được bức tranh chữ đẹp như vậy.
Trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay kể lại cuộc tranh luận giữa Ðức Giêsu và nhóm biệt phái về vấn đề sạch và dơ.
Nhóm biệt phái bám sát mặt chữ những quy định của luật lệ về sự phân biệt cái gì sạch cái gì dơ và về những đòi buộc phải rửa tay chân chén dĩa…
Ðức Giêsu nói đó chỉ mới là sạch dơ bề ngoài, không quan trọng bằng sạch dơ trong tâm hồn. Luật lệ chỉ là hình thức để diễn tả tấm lòng. Cái tâm mới quan trọng. Bởi vì dơ hay sạch là do tự cõi lòng. Nếu lòng dạ xấu xa thì cho dù hình thức bên ngoài có đẹp đẽ mấy cũng chỉ là giả hình. Đức Giêsu cho thấy cái ô uế thực sự không đến từ đụng chạm hay ăn uống. Cái ô uế đáng sợ nằm ngay trong cái tâm mỗi người. Nó không từ ngoài vào, nhưng từ bên trong ra.
Đức Giêsu kể ra 12 ý định xấu xa bắt nguồn từ cõi lòng: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kêu ngạo, ngông cuồng.Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người ra ô uế.
Hàng ngày xem Tivi, thấy quảng cáo rất nhiều sản phẩm: các loại xà bông mới, các loại dầu gội mới, nhiều loại nước hoa… Tất cả đều nhằm chăm sóc cho làm da, mái tóc, cơ thể… nhưng đều là bề ngoài. Ngày nay, người ta cũng để ý nhiều hơn đến chất lượng của những thức ăn và thức uống… Mọi thứ phải đáp ứng đúng tiêu chuẩn thực phẩm an toàn và bổ dưỡng. Tuy nhiên, tất cả chỉ là những thứ từ bên ngoài được đưa vào trong cơ thể con người.Nhưng xem ra, người ta rất ít lo chăm sóc cái bề trong, cái tâm của con người, như lương tâm, lòng nhân ái, ý thức về tội. Người ta có thể hy sinh, khổ luyện hàng tháng, hàng năm để giữ vẻ đẹp thân xác, nhưng có mấy ai chịu hãm mình kiêng khem để tạo vẻ đẹp tâm hồn.
Trong trường học, người ta để ý huấn luyện cái đầu hơn là trái tim. Người ta cho rằng cái đầu mới biết suy nghĩ. Bởi đó người ta lo đào tạo nên những đứa trẻ giỏi hơn là những đứa trẻ tốt. Tương lai là công việc và nghề nghiệp hơn là tấm lòng. Kết quả của lối giáo dục như thế là nền văn minh khoa học kỹ thuật ngày nay, rất hiệu quả nhưng cũng rất lạnh lùng, ích kỷ và tàn nhẫn.
“Thế giới tri thức đã thình lình tái khám phá ra rằng, con người là nơi chổ của sự xung đột. Marx đã tìm thấy sự xung đột trong xã hội, Kierkegaard tìm thấy trong linh hồn, Heidegger tìm thấy trong con người, và những tâm lý gia tìm thấy trong tâm trí” (x. Bình an trong tâm hồn, trg 47, ĐGM Fulton J. Sheen).
Đối với Đức Giêsu cái tâm mới là yếu tố quyết định. Từ cái tâm tốt mới có những hành vi yêu thương cao thượng.Từ cái tâm xấu sẽ phát sinh ra tội lỗi thấp hèn.
Tâm nói lên nhân cách của một con người.
Tâm xấu xa sản sinh ra những suy nghĩ xấu, chọn lựa xấu, lời nói xấu, hành động xấu.Tâm lệch lạc thì cuộc sống nghiêng ngã đảo điên.Tâm gian dối thì cuộc sống bất an.Tâm ghen ghét thì cuộc sống hận thù.Tâm đố kỵ thì cuộc sống mất vui.Tâm tham lam thì cuộc sống dối trá …
Tâm tốt lành luôn nở hoa nhân đức.Tâm nở hoa yêu thương nên không có bóng dáng hận thù nào. Tâm nở hoa bác ái nên luôn quan tâm giúp đỡ người khác. Tâm nở hoa phục vụ nên nhiệt thành làm việc thiện nguyện vô vị lợi.Tâm nở hoa khiêm nhường nên luôn biết nhìn nhận sự yếu đuối của mình.Tâm nở hoa tha thứ nên không cầm giữ bất cứ một xúc phạm nào người khác gây ra cho mình. Tâm nở hoa hòa bình nên chỉ biết kiến tạo sự hiệp nhất, vun trồng tình thuận hòa. Tâm nở hoa xây dựng nên không khi nào phá đổ các công trình chân thiện mỹ của những người thành tâm thiện chí. Tâm nở hoa công chính nên can đảm khước từ những gì đi ngược với công bình bác ái, không tham lam những của bất chính.Tâm nở hoa chân thật nên dứt khoát loại bỏ các thứ dối trá, gian tà. Tâm nở hoa ánh sáng nên cố gắng bước ra khỏi bóng tối của tội lỗi, không ẩn mình trong cám dỗ của ma quỷ, không để chúng giam hãm, nô lệ hóa mình.Tâm nở hoa cao thượng nên biết nâng mình lên trên mọi ti tiện tầm thường, không tính toán nhỏ nhen, không cư xử theo lối tiểu nhân.Tâm nở hoa vui mừng nên biết đem lại niềm vui an ủi cho những kẻ buồn sầu, tủi phận, khóc than cho định mệnh nghiệt ngã, cho tương lai đen tối, cho đường đời thử thách.Tâm nở hoa hạnh phúc nên luôn sống bình an và chan chứa niềm vui.
Sự thánh thiện hệ tại nơi cái tâm. Lời dạy của Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải tu tâm dưỡng tánh để luôn có một tâm hồn ngay thẳng, thành thật, tôn trọng công lý, yêu thương mọi người. Khi đã có cái tâm tốt những việc làm sẽ tự nhiên đẹp lòng Chúa.
37. “Bảy thần ô uế khác”
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Chúa Nhật tuần này là Chúa Nhật XXII Thường Niên Năm B. Năm Chúa Nhật liền vừa rồi, từ Chúa Nhật XVII tới XXI, chúng ta đã nghe các bài Phúc Âm không phải của Thánh Marcô là phúc âm thuộc chu kỳ phụng vụ Năm B, mà là Phúc Âm Thánh Gioan, một loạt 5 bài Phúc Âm về Bài Giảng Bánh Sự Sống. Vậy để tiếp nối chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô Sự Sống Tái Sinh của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, Giáo Hội đã chọn bài Phúc Âm Thánh Marcô Chúa Nhật XXII Thường Niên Năm B tuần này về vấn đề tục lệ rửa tay trước khi ăn của người Do Thái, một vấn đề, theo giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm, chẳng những có vẻ tương phản với tinh thần của lề luật của Thiên Chúa, mà còn liên quan đến cả tính chất tinh tuyền của tâm linh con người nữa. Bởi vì ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến cái lầm lạc của con người, ở chỗ, con người đã coi trọng những gì là của mình hơn là của Chúa, những gì do mình tạo ra hơn là do Chúa qui định, những gì do mình nghĩ tưởng hơn là Mạc Khải Thần Linh, tức con người đã sống theo các thứ ngẫu tượng do chính họ tạo ra, nếu không muốn nói theo ngôn ngữ của Thánh Kinh Cựu Ước, con người ngoại tình với các tà thần không phải là Thiên Chúa chân thật duy nhất, những tà thần làm cho con người ra ô uế.
Thật vậy, nếu tất cả những gì con người tạo ra và tôn sùng chúng, đến nỗi coi chúng hơn lề luật của Thiên Chúa, đều là những gì tính mê nết xấu và tội lỗi, như 12 thứ vừa tội lỗi vừa tính mê nết xấu được Chúa Giêsu liệt kê trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này: “gian dâm (1), trộm cắp (2), sát nhân (3), ngoại tình (4), tham lam (5), ác tâm (6), lừa đảo (7), lăng loàn (8), tị hiềm (9), lộng ngôn (10), kiêu hãnh (11), mê muội (12)”, thì 5 thứ tội lỗi (1,2,3,4,10) và 7 tính mê nết xấu (5,6,7,8,9,11,12) được Chúa Giêsu chính thức nhắc đến này chính là các thần ô uế hay tinh thần bất chính gian ác giả tạo nơi con người và của con người. Phải chăng “bảy thần ô uế” (Mt 12:45) Chúa Giêsu muốn nói đến trong dụ ngôn về ngôi nhà hoang sạch sẽ là thành phần tính mê nết xấu được Người liệt kê ở bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này?
Riêng về tính mê nết xấu cuối cùng mang tên “mê muội” (đa số các bản dịch tiếng Anh dùng chữ “folly”, trong khi tiếng Việt dùng chữ “ngông cuồng”, “điên cuồng” hay “vô lương tri”) cũng được Chúa Giêsu liệt kê trong bản danh sách thần ô uế này nữa. Bởi vì thần ô uế này cũng làm cho con người ra dơ bẩn, đến nỗi không đáng ở trước nhan Chúa, như trường hợp của tông đồ Phêrô bị Chúa Giêsu thậm tệ quở trách là “Satan” và phũ phàng xua đuổi “hãy xéo đi”, chỉ vì vị tông đồ này “mê muội”, ở chỗ “không phán đoán theo đường lối Thiên Chúa mà chỉ theo đường lối loài người” (Mt 16:23). Chúa Giêsu cũng đã nhắc đến thứ thần ô uế “mê muội” này khi nói với thành phần giả hình Pharisiêu, khi gọi họ là “những người hướng đạo tối tăm mê muội” (Mt 23:24).
Hai bài đọc một và hai của Chúa Nhật tuần này còn nói đến những gì liên quan đến tính mê nết xấu “lừa đảo” và “kiêu hãnh”. Trong bài đọc một, Moisen đã nói với dân chúng được ghi lại trong Sách Nhị Luật rằng: “các người không được thêm thắt hay bớt xén những gì tôi truyền cho các người”. Thật ra dân Chúa không dám thêm hay bớt gì vào chính lề luật của Thiên Chúa. Thực tế cho thấy họ chỉ lập thêm những điều mới bên cạnh lề luật của Ngài thôi, như tục lệ rửa tay trước khi ăn, hay thanh tẩy các đồ ăn mua ở chợ về rồi mới dám ăn, hoặc rửa các thứ ly chén bình v.v., nhưng rất tiếc họ lại coi chúng hơn lề luật của Ngài. Thái độ này cho thấy con người đã mặc nhiên phạm tội “lộng ngôn”, một thứ tội phát xuất từ lòng “kiêu hãnh” của họ mà ra. Trong bài đọc hai, Thánh Giacôbê đã khuyên “anh em hãy khiêm nhượng đón nhận lời đã đâm rễ nơi anh em có khả năng cứu độ anh em. Hãy thực hành lời này. Nếu anh em chỉ nghe lời ấy thôi thì anh em đang tự lừa dối mình vậy”. Dân Do Thái nói chung và thành phần thông luật nói riêng đã không mắc chứng “lừa đảo” này hay sao, khi họ nghe lời Chúa, qua lề luật của họ, song vẫn không chịu tuân giữ hay không muốn tuân giữ (x Mt 23:4), nghĩa là họ thờ kính Thiên Chúa một cách bôi bác bề ngoài mà thôi, chứ không thật lòng.
Chính vì sống “giả hình”, không thật, tức sống trong gian dối, trong tối tăm, mà con người có thể làm bất cứ điều gì xấu xa tội lỗi, như 12 thứ tội lỗi và tính mê nết xấu được Chúa Giêsu nhắc đến trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này. Đó là lý do “giả hình” phải được kể như một thứ thần ô uế đã đóng vai gia chủ đi rủ thêm “bảy thần ô uế” khác, bảy loại tính mê nết xấu được kể đến trên đây, những thần ô uế “còn dữ hơn nó”, để nhào vô tác hại ngôi nhà Yến Duyên đã được các ngôn sứ dọn dẹp sạch sẽ gọn ghẽ nhưng lại bị dân chúng coi thường, làm cho ngôi nhà này trở thành hoang trống (x Mt 12:45)? Nếu đọc kỹ những lời Chúa Giêsu nặng lời trách móc thành phần luật sĩ và biệt phái Do Thái “giả hình” trong cả đoạn 23 của Phúc Âm Thánh Mathêu, người ta có thể thấy được nguyên vẹn hình hài của đầy đủ “bảy thần ô uế khác”, những tác nhân đã làm cho họ ra nhơ nhớp thối tha hết sức kinh tởm chẳng khác gì như một huyệt mộ chứa đầy những thứ chết chóc (x Mt 23:27).
Thế giới văn minh của con người ngày nay, nhất là thế giới Âu Châu vốn đồng nghĩa với văn minh Kitô giáo, sau khi được tinh thần Phúc Âm từ thiên kỷ thứ nhất dọn dẹp cho sạch sẽ và gọn ghẽ cho khỏi các thứ văn minh mọi rợ, giờ đây, đã bị “bảy thần ô uế khác” tàn phá hầu như đang đi tới chỗ phá sản đức tin đến khủng hoảng luân lý nơi đa số tín hữu, thậm chí cả nơi các đấng bậc. Thật vậy, lịch sử phũ phàng cho thấy, chính từ một châu lục đã hăng say truyền bá Phúc Âm hóa khắp thế giới từ khi bắt đầu hậu bán thiên kỷ thứ hai này nay đã trở thành nơi phát xuất tất cả những gì được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II gọi là “văn hóa sự chết”. Con người thuộc thế giới Kitô giáo tiêu biểu này chẳng những đã hạ bệ Thiên Chúa xuống mà còn thay vào chỗ của Ngài các thứ ngẫu tượng vô cùng xấu xa ghê tởm do họ làm ra nữa.
Họ đã hạ bệ Thiên Chúa xuống, ở chỗ, không tuân giữ lề luật tự nhiên của Ngài. Ngay từ ban đầu Ngài đã kết hợp hai con người nam nữ lại với nhau trong hôn nhân và đã chúc lành cho việc sinh sản là tác động hôn nhân của họ (x Gen 2:21-24, 1:28). Giờ đây họ đã tự động cho phép nhau ly dị và phá thai, sống coi như không có Thiên Chúa, hay có thì Ngài đã chết rồi. Chưa hết, sau khi hạ bệ Thiên Chúa xuống khỏi vị thế của Ngài xong, con người liền ngang nhiên trèo lên ngồi chỗm chệ vào chỗ của Ngài, bằng các thứ ngẫu tượng của họ, những thứ ngẫu tượng văn hóa pháp luật do họ làm ra. Ngẫu tượng thứ nhất là ngẫu tượng hôn nhân đồng tính luyến ái và ngẫu tượng thứ hai là ngẫu tượng tạo sinh ngoại nhiên. Đúng thế, sau khi đã đi tới chỗ cho phép ly dị rồi con người vẫn cảm thấy chưa đủ, họ còn tiến tới chỗ tự lập nên một cơ cấu hôn nhân khác, đó là việc họ cho phép hai người đồng phái tính lấy nhau và có quyền nhận con nuôi như một gia đình thực sự vậy. Còn vấn đề truyền sinh, con người ra tay phá thai chưa đủ, họ còn tiến tới chỗ tạo sinh ngoại nhiên, như qua ống nghiệm, bằng việc mang thai mướn, bằng nỗ lực tìm cách tạo sinh sao bản phi tính dục (cloning) v.v. Con người cho rằng, để tránh nạn quá đông dân số trên thế giới, họ đã khuyến khích và có những lúc tìm cách buộc phải phá thai hay triệt sản, thế mà họ lại tìm cách tạo thêm những sự sống theo ý họ, theo kiểu của họ, kiểu của “bảy thần ô uế khác”. Ôi con người..!
38. Đạo tại tâm – Lm. Anphong Trần Đức Phương
Khi nói “Đạo tại tâm”, chúng ta thường hiểu theo ý nghĩa giữ đạo do tự trong lòng, chứ không hệ tại ở những việc làm bề ngoài. Chúng ta cũng thường kết án những người ‘giữ đạo bề ngoài’ mà tâm hồn thì trống rỗng, không thành thật; đó là “giả hình” hoặc “Pharisêu”. Thật ra, “Đạo tại tâm” không phải chỉ giữ ở trong lòng mà không cần giữ các lề luật bên ngoài, dù đó là luật đạo hay luật đời; nhưng “Đạo tại tâm” là “sống đạo và thực hành các giới răn của Chúa” với cả tấm lòng của chúng ta, chứ không phải chỉ để phô trương bề ngoài. Sống đạo thực sự là yêu mến và tuân giữ các giới răn của Chúa, và thực thi lòng yêu mến đó bằng cách yêu thương giúp đỡ mọi người, nhất là những người sống trong hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật.
Danh từ “Pharisêu” chỉ một nhóm người trong đạo Do Thái xưa. Họ thật sự là những người muốn tuân giữ chặt chẽ các lề luật Chúa do Môisê truyền lại, như chúng ta thấy trong Bài Đọc I hôm nay (Sách Đệ Nhị Luật 4: 1-2, 6-8): “Anh em chớ thêm bớt điều gì trong các điều mà tôi đã truyền cho anh em… Anh em hãy tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa anh em… Anh em phải tuân giữ và thực hành…” Tuy nhiên, có nhiều người quá câu nệ vào hình thức bề ngoài, và cũng có nhiều người thích phô trương ra ngoài để chứng tỏ ta đây là người đạo đức, là những người biết sống theo lề luật cha ông để lại, nhưng trong lòng họ lại đầy những nham hiểm, mưu kế, dối trá, thù hận: “Họ làm mọi việc chỉ cốt để thiên hạ thấy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài!…” (Đúng là ‘thích khoe quần, khoe áo!’) (Matthêu 23: 25-28, Luca 11:39-44).
Những người “Biệt Phái” (tức Pharisêu) và Luật sĩ thời Chúa Giêsu thường hay rình mò và xét đoán các hành vi của Chúa và các môn đệ, và chỉ trích Chúa Giêsu và các môn đệ là những người ‘phá luật lệ’. Hôm nay, trong bài Phúc Âm (Matcô 7: 1-8, 14-15, 21-23), nhóm Biệt phái và Luật sĩ chỉ trích môn đệ của Chúa là “ăn uống với những bàn tay không trong sạch vì không chịu rửa tay trước khi ăn như luật lệ dạy…” Nhân dịp này, Chúa Giêsu muốn dạy họ một bài học thực tế về việc ‘giữ luật’ không nên quá câu nệ vào hình thức bề ngoài, nhưng quan trọng là do tự trong lòng (Đạo Tại Tâm). Chúa Giêsu không phá luật lệ Cha Ông để lại: “Con Người đến không phải để phá bỏ luật lệ, nhưng để kiện toàn!”. Cứ lo “rửa tay, rửa chén, rửa bình” mà không lo sống đạo đức thực sự thì thật là cách giữ đạo bề ngoài, là gỉa hình, như Thiên Chúa đã nói về họ qua lời tiên tri Isaia: “Dân này kính Ta bằng môi, bằng miệng mà lòng chúng xa Ta!” (Isaia 29:13). Nhân tiện, Chúa Giêsu cũng bảo họ: “Đừng bỏ giới răn Chúa để chỉ nắm giữ những luật lệ bề ngoài, vì sống đạo là thực thi giới răn Chúa, xa lánh tội lỗi như: ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, tỵ hiềm, ngạo mạn, ngông cuồng!…” (Matcô 7: 21-23).
Thánh Giacôbê trong Bài Đọc II (Giacôbê 1: 17-18, 21-22, 27) cũng nhắn nhủ chúng ta sống đạo bằng cách thực hành, đó là xa tránh tội lỗi và thực hành Đức Bác Ái: “Anh em hãy tẩy trừ mọi điều ô uế, gian ác… Anh em hãy mau mắn lãnh nhận Lời Chúa và đem ra thực hành, chứ đừng nghe xuông… Hãy giữ lòng mình khỏi mọi ô uế ở đời này… Hãy thăm viếng cô nhi, quả phụ trong cơn quẫn bách…”
Tác giả Thánh Vịnh 14 trong Bài Đáp Ca hôm nay cũng chỉ cho chúng ta biết thế nào là sống đạo thực sự: “Ai sẽ được sống trước Nhan Thánh Chúa: Đó là những người thanh liêm và và thực hiện điều công chính, trong lòng luôn suy nghĩ điều ngay, lưỡi không bịa lời vu khống, không làm điều sai trái cho người anh em, không nhục mạ những người lân cận, coi thường những kẻ bất nhân, mến yêu những người biết tôn thờ Chúa; đó là những người không xuất tiền đặt nợ thu lời, không ăn hối lộ để làm hại những người hiền lương. Những người thực thi những điều đó thì muôn đời đứng vững, không bị lung lay!”
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện xin Chúa là Cha nhân từ tha thứ mọi lỗi lầm của chúng ta trong quá khứ, giúp chúng ta thật lòng ăn năn chừa cải. Xin Chúa cho chúng ta sống đạo với cả tâm hồn chúng ta, với lòng yêu mến Chúa và yêu thương mọi người. Xin Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh là những vị đã thành tâm sống đạo và đã nên Thánh sau cuộc đời gian nan trần thế, chuyển cầu cho chúng ta. Trong “Năm Linh Mục” này, chúng ta cũng tiếp tục cầu nguyện nhiều cho các Chủ Chăn, các Linh mục luôn được lòng nhiệt thành phục vụ Chúa và mọi người. Xin đặc biệt cầu nguyện nhiều cho các Chủ Chăn, Linh Mục đang gặp nhiều khó khăn, thử thách; nhất là ở Việt Nam hiện nay.
39. Tôn kính bằng môi miệng
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Cuốn Christian Community Bible chú thích đoạn Lời Chúa hôm nay (Mc 7:1) như sau: “Không một nhóm nào, kể cả Giáo Hội, có thể đứng vững mà không có truyền thống tập quán. Nhưng dù tốt đến mấy, các truyền thống này đều do con người tạo ra. Như cách cử hành thánh lễ, các ngày lễ, các tuần cửu nhật v.v…, tất cả những gì một giáo hoàng, một giám mục, một cộng đoàn Kitô hữu đã đặt ra trong quá khứ, thì một vị giáo hoàng khác, một giám mục khác, một cộng đoàn Kitô hữu khác có thể thay đổi được. Chính vì tất cả những điền này có thể thay đổi nên ta hiểu ngay rằng đây không phải là điều chính yếu của đời sống Kitô giáo.” Cũng theo chú thích của hai anh em nhà Hurault, ta đừng lẫn lộn các truyền thống phức tạp, hay nói đúng hơn các tập tục và thói quen trải dài qua các thế kỷ của lịch sử Giáo Hội, với truyền thống của Hội Thánh; “Có một cách thức hiểu Kinh Thánh mà Chúa Giêsu và các Tông Đồ cũng đã hiểu như thế: đó là điều mà người ta gọi là truyền thống các Tông Đồ (Apostolic Tradition). Và Hột Thánh được các Tông Đồ thành lập luôn gìn giữ truyền thống này, tức là Tinh Thần của các Tông Đồ.”
Những lời khảng định trên thật xác đáng và quan trọng. Đức Giêsu và sau đó là các Tông Đồ, đặc biệt Tông Đồ Phao-lô – cách riêng trong thư gửi các tín hữu Ro-ma và Ga-lat – đã không ngừng phân biệt rõ giữ đạo – là giữ các tập tục (mà rất nhiều khi khoác cho danh nghĩa ‘truyền thống’) – với sống niềm ‘tin’ đích thực. “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm”…, như thế giữ đạo có thể khác xa sống đức tin chân chính; “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.”
Đối với người Do Thái của Cựu Ước thì tinh thần kính sợ và tôn thờ Đức Chúa Gia-vê là điều quan trọng hơn hết. Không có tinh thần này thì việc tuân giữ khắt khe mọi lề luật, qui định – điển hình như các luật liên quan tới việc thanh tẩy và ngày Sa-bát – thì cũng kể bằng không… Hoặc cùng lắm, cũng chỉ được coi như nắm giữ các tục lệ – tập quán do con người xuôi dòng lịch sử bày ra mà thôi.
Thế còn đối với Kitô hữu – ta tự hỏi – điều răn Thiên Chúa hay truyền thống Tông Đồ cụ thể là gì? Đức Giêsu, cho dầu tuyên bố không phá bỏ giới răn hay lề luật cũ, đã hơn một lần khảng định điều răn mới mà Người để lại cho các môn đệ chính là giới luật yêu thương: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là, anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34). Không sở đắc trong thâm sâu cõi lòng giới luật mới này thì việc giữ căn kẽ mọi qui định của Giáo Hội (kể cả việc đi lễ ngày Chúa Nhật hay giữ các ngày chay tịnh) cũng sẽ chẳng có ý nghĩa gì. Truyền thống Tông Đồ đã không ngừng đề cao điều đó: “Giả như… tôi biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non… mà không có đức mến… thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” (1 Cr 13:1-3). Và chính vì để duy trì và phát huy tình mến này trong lòng mà toàn bộ cuộc sống Kitô hữu đều không ngừng qui hướng về hiến tế Thập Giá, nhất là qua việc cử hành Thánh Lễ. Khi dâng lễ, tín hữu cử hành ‘như Thầy yêu thương anh em’ hầu có thể ‘hãy yêu thương nhau’ trong cuộc sống. Một khi đã hiểu được ‘Thầy yêu thương’ như thế nào, và có được ‘đức mến trong lòng’, họ sẽ “cứ yêu đi, và bạn làm gì cũng được ”, như Thánh Âu-tinh đã từng tuyên bố. Tất cả các qui định của Giáo Hội lúc đó sẽ không còn được coi như gánh nặng luật lệ áp đặt từ bên ngoài (không giữ thì mắc tội), nhưng được đón nhận như những chỉ dẫn khơi nguồn tình yêu trong con tim.
Chỉ khi đó, phải, chỉ khi đó mà thôi, các tín hữu mới thật sự hiểu được lời Đức Giêsu đã từng tuyên bố “Thầy đến không phải là để bãi bỏ Luật, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5:17)… Kiện toàn không phải vì khắt khe chi li hơn, nhưng là vì đưa tới sức mạnh tình yêu; và như thế đương nhiên là họ cảm thấy thảnh thơi trong việc giữ đạo, “vì ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11:30).
Thế nhưng chính tôi, sau bao nhiêu năm sống niềm tin Kitô hữu, tôi vẫn chưa cảm thấy hoàn toàn thảnh thơi thoải mái, ấy là vì… tôi chưa có được khả năng thực sự ‘tin và thờ phương Thiên Chúa tình yêu trong tinh thần và chân lý’.
Lạy Chúa! Trong hơn 70 năm cuộc đời, con đã trải nghiệm không biết bao nhiêu là đổi thay về luật lệ, truyền thống và tập tục, về mặt dân sự cũng như Giáo Hội, cả về thời gian lẫn không gian. Phải chăng điều này là một hồng ân Chúa ban, hầu con nhận ra rằng: điều quan trọng hơn hết trong niềm tin Kitô hữu là biết Chúa yêu con và con được sống chan hòa trong yêu thương với hết mọi người? Xin cho con không bao giờ để cho bất cứ điều luật nào lấn lướt luật tình yêu này, và còn dạy cho các tín hữu biết sống như thế nữa. Amen.
40. Sống đạo có chiều sâu
“Thức đêm mới biết đêm dài,
Ở lâu mới biết lòng người dở hay”
“Ngựa chạy đường dài mới biết ngựa hay”
“Có công mài sắt có ngày nên kim”.
Đây là ba trong số những câu nói lên sự kiên trì và sức bền bỉ cần có của một người. Những Chúa nhật liên tiếp vừa qua, chúng ta đã cùng nhau suy niệm chương 6 Tin mừng theo Thánh Gioan. Điều chính yếu trong chương 6 này Chúa Giêsu muốn những người theo Người cần có lòng tin. Tin vào Người là Đấng sẽ ban cho Thịt và Máu để làm lương thực thiêng liêng đem lại sự sống đời đời. Việc tin vào Chúa không phải một ngày hay một bữa mà cần phải có một thời gian dài.Vì thế, tin vào Chúa cần có sự kiên trì. Sự kiên trì này cũng chắc chắn không thể dựa trên bề nổi mà cần phải có chiều sâu.
Đoạn tin mừng của Thánh Marcô hôm nay cho thấy những người Pharisêu và các kinh sư theo Chúa nhưng chỉ quan tâm đến mặt nổi bên ngoài. Do đó, khi thấy những môn đệ của Chúa Giêsu không rửa tay trước khi ăn thì đã lên tiếng trách móc. Họ quên rằng điều cần thiết khi theo Chúa là tấm lòng bên trong. Bởi lẽ, Thiên Chúa thấu suốt mọi bí ẩn.
Chúa Giêsu nói: “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,còn lòng chúng thì lại xa Ta.Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân. Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.” (Mc 7, 6b – 9)
Những người kinh sư và Pharisêu này chỉ tuân giữ luật sạch dơ bên ngoài chứ không quan tâm đến chuyện sạch dơ bên trong. Do đó, Chúa Giêsu nói: “Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế.Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người,ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7, 20 – 23)
Cho nên, ta có thể nói họ sống đạo chưa có chiều sâu. Ngày nay, nhiều tín hữu Công giáo cũng còn sống theo cách này. Họ quan tâm đến những nghi lễ rườm rà bên ngoài còn ý nghĩa thiêng liêng bên trong thì dường như họ xem rất thường. Đến khi gặp khó khăn thử thách trong đời sống đức tin thì họ lại kêu trách Chúa, kêu trách Giáo hội. Vì đời sống đạo của họ chưa được bám rễ sâu trong ơn thánh của Chúa. Họ giống như những người xây nhà mình trên cát.
Vì vậy, muốn đời sống đạo của chúng ta có được chiều sâu không cách nào khác là khiêm tốn để cho Chúa uốn nắn mình. Chúa sẽ uốn nắn chúng ta qua Lời của Người cũng như qua các Bí tích mà Người đã thiết lập nên.
41. Thiên Chúa nơi con người – An Phong
Đoạn Tin mừng hôm nay cho thấy cuộc đối đầu giữa Đức Giêsu và những người Biệt phái cũng như Luật sĩ đến từ Giêrusalem về vấn đề thanh sạch và không thanh sạch. Hơn nữa, Đức Giêsu bắt đầu hành trình đi đến các vùng đất dân ngoại. Thánh Maccô đã đưa ra một nguyên tắc mà Giáo hội sơ khai áp dụng. Thiên Chúa không muốn bất cứ một rào cản nào giữa con người với nhau. Người không phân biệt “sạch và dơ”. Người chỉ muốn thâu thập tất cả nhân loại vào Vương quốc duy nhất của Thiên Chúa, miễn là họ sống đúng tinh thần của luật Thiên Chúa, thay vì bảo thủ tự mãn với các tục lệ do con người đặt ra.
Dường như con người dễ dàng phân loại tốt, xấu hoặc hay, dở…? Dường như con người dễ dàng phân chia người lành với kẻ dữ, linh thánh với phàm tục theo một tiêu chuẩn chủ quan nào đó? Còn Đức Giêsu lại nói với chúng ta: linh thánh ở ngay nơi tận cõi lòng con người – nơi con người đối diện với chính Thiên Chúa – nơi có được những chọn lựa và quyết định sâu xa nhất.
Vì linh thánh ở ngay nơi thâm sâu cõi lòng mình, nên mọi sự trong đời sống chúng ta trở thành linh thánh. Bởi lẽ khi chúng ta làm việc, ăn uống, nghỉ ngơi, chúng ta mang cả cõi lòng mình vào trong đó. Đối với người kitô hữu, không có gì là “phàm phu tục tử”, bởi lẽ không có gì nằm ngoài chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Hơn nữa, từ ngày Đức Giêsu vào trần gian, mọi giá trị nhân loại được nâng lên hàng linh thánh.
Vì linh thánh ở ngay nơi những chọn lựa và quyết định sâu xa nhất, nên những hành vi bên ngoài chỉ là diễn tả thái độ bên trong. Một đức tin sâu thẳm được thể hiện ra bên ngoài với những hình thức nghi lễ đúng mực. Thiên Chúa muốn “con người thờ phượng Người trong tinh thần và chân lý” (Ga 4,23). Người chán ghét những kẻ “thờ” Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6).
Phải chăng chúng ta nhận ra Thiên Chúa hiện diện nơi cuộc đời mình, nhất là trong chính cõi thâm sâu lòng mình, để biến đời sống mình trở thành một đời sống “linh thánh”?
Phải chăng chúng ta có được những chọn lựa và quyết định phù hợp với ý Thiên Chúa, để biến đời sống mình thành đời sống tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý?
Lạy Chúa Giêsu,
Xin dạy chúng con hiểu được mối phúc
“Phúc cho những người nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ”;
không thành kiến, không cố chấp, nhưng rất đơn thành,
mở rộng tâm hồn đón nhận và thực thi ý Chúa,
ngõ hầu Chúa hiện diện trong đời sống chúng con.
42. Đáp lại ơn cứu độ bằng toàn bộ đời sống của mình
(Suy niệm của Đức ông James M. Reinert – Đan Quang Tâm dịch)
Trong đoạn văn Tin Mừng Thánh Máccô, ta nghe đọc điều rất có thể là một trong những lập luận được Đức Giêsu đưa ra nhiều lần. Đức Giêsu kiên định trong việc dẫn đưa dân chúng đến chỗ hiểu biết chân lý về sự hiện diện của Thiên Chúa và làm thế nào đáp lại trước chân lý đó. Đồng thời, Người chỉ trích các tập tục phàm nhân được giảng dạy và thực hiện như những hành vi thờ phượng. Khi nói rằng “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”, Người thông báo rằng các tập tục cũ đã lỗi thời rồi. Người cũng lên án truyền thống và thói tục thêm thắt vào các điều răn do Thiên Chúa ban… thái độ biến tập tục hoặc “ý tốt” trở thành lề luật.
“Thật vậy, lời Tin Mừng không phải chỉ để nghe mà còn để tuân giữ và thi hành (x. Mt 7,24; Lc 6,46-47; Ga 14,21.23-24; Gc 1,22): sự kiên định trong hành vi chứng tỏ điều mình tin và không chỉ giới hạn trong những việc có liên quan chặt chẽ đến Giáo hội hoặc thuần tuý thiêng liêng, mà còn liên hệ đến con người trong toàn bộ kinh nghiệm sống và trong toàn bộ các trách nhiệm của họ. Tuy nhiên dù mang tính trần thế đến đâu, chủ thể của các trách nhiệm này vẫn là con người, đó là con người, thông qua Giáo hội, được Thiên Chúa kêu gọi tham gia vào ơn cứu độ.
Con người phải đáp lại ơn cứu độ không phải bằng sự chấp nhận một phần, trừu tượng hoặc chỉ bằng lời nói suông, mà bằng toàn bộ đời sống của mình – trong mọi quan hệ làm nên đời sống – để không sao lãng điều gì, khiến cho điều ấy ở lại trong lĩnh vực phàm tục và trần thế mà không có liên quan gì hay xa lạ với ơn cứu độ. Vì thế, đối với Giáo hội, học thuyết xã hội của Giáo hội không phải là một đặc ân, một sự đi lạc đề, một tiện lợi hay một sự can thiệp: Giáo hội có quyền loan báo Tin Mừng trong bối cảnh xã hội, làm cho lời giải phóng của Phúc âm vang lên trong thế giới phức tạp của sản xuất, lao động, kinh doanh, tài chính, thương mại, chính trị, pháp luật, văn hoá, truyền thông xã hội, nơi con người sống” (Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo,70).
Phản ứng mà các kỳ mục và lãnh đạo tôn giáo có đối với lời của Đức Giêsu chứng tỏ rằng họ đã đánh mất cái nhìn về các giáo huấn của Môsê. Từ Sách Đệ nhị luật, ta nghe Môsê bảo dân Israel về tầm quan trọng của các thánh chỉ và quyết định được trao ban cho họ. Có lẽ sứ điệp quan trọng nhất trong bản văn là ở phần cuối… có quốc gia hoặc dân tộc nào có được “thần minh ở gần, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta?”
Ta phải trở lại cách đây một vài tuần để hiểu rõ điều này hơn. Như diễn ra trong Tin mừng Thánh Máccô, cách đây mấy tuần, ta đã nghe đọc rằng các môn đệ vừa mới đi truyền giáo trở về, miệng còn mải bàn luận tất cả những gì họ đã thấy và đã làm… và thành thực mà nói, liệu việc rửa tay có liên quan gì đến đức tin và việc giữ các điều răn?
Bỗng nhiên, mọi thứ dường như bị đảo ngược. Thay vì nghe về việc làm thế nào đám đông phản ứng trước lời giảng dạy của các Tông đồ, ta lại nghe những tiếng lầm bầm càm ràm. Đám đông thay vì đến với Đức Giêsu để nghe thêm, họ lại ca cẩm và cãi lý.
Trong Thư của Giacôbê, ta có thể nói rằng tác giả nối tiếp phần giảng dạy của Môsê. Vấn đề được nêu trong thư cũng rất hợp với đoạn văn Tin mừng hôm nay. Trong Thư Giacôbê, ta thấy có một loại thách đố cho các thành viên của cộng đồng Kitô giáo. Ông nhắc họ rằng tự gọi mình là Kitô hữu không thôi thì chưa đủ. Họ phải chứng tỏ điều đó. Họ phải thực hành đức tin, không phải chỉ có cầu nguyện mà còn phải có hành động.
Môsê nói với dân chúng về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời của họ. Trong Thư Giacôbê, ta được nhắc về sự hiện diện đó nhưng ta cũng được kêu gọi đáp lại vì ơn đức tin ta đã được ban.
Ta hầu như có thể nghe những lời này xuất phát từ Đức Giêsu cố ý nhắm đến những người Pharisêu và “các nhà thông luật”. Người tố giác họ chỉ có đức tin trống rỗng. Họ chỉ có biết làm theo thói tục – rủi thay, các thói tục này chẳng có liên quan gì đến việc đáp lại sự hiện diện của Thiên Chúa.
Thư của Giacôbê đặt nền tảng trên các Phúc âm. Thiên Chúa Cha đã tạo dựng nên chúng ta và ở lại trong thế giới. Đức Giêsu ban sự sống của Người cho chúng ta. Ta đáp lại như thế nào đây?
43. Từ trái tim con người.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đoạn Tin Mừng hôm nay khởi đi từ một chuyện nhỏ: chuyện các môn đệ không rửa tay trước khi ăn.
Đối với người Pharisêu, sau khi ra nơi phố chợ, người ta thường trở nên ô uế do đụng chạm. Phải rửa tay, vì tay ô uế làm đồ ăn ô uế, và đồ ăn ô uế sẽ khiến cả con người ô uế.
Đức Giêsu đã long trọng khẳng định: “Không có gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế” (c.15).
Khẳng định này là một cuộc cách mạng trong Do Thái giáo, bởi lẽ đời sống người Do Thái bị bao vây bởi nhiều cấm kỵ: không được ăn thịt heo, hay thịt thú chết ngạt; không được đụng vào xác chết, vào người phong cùi; không được ăn chung với dân ngoại hay vào nhà người tội lỗi… Đụng vào hay ăn vào là ô uế ngay.
Đức Giêsu đã phạm nhiều điều cấm kỵ, đã phá đổ nhiều bức tường ngăn cách kẻ xấu – người tốt, dân Do Thái và dân ngoại, nam và nữ, nô lệ và tự do… Ngài hồn nhiên đến với những người bị coi là ô uế để làm họ nên sạch.
Thật ra Đức Giêsu chẳng phản đối gì chuyện rửa tay, nhưng Ngài thấy nó có vẻ giả hình vì người ta chẳng để ý đến chuyện tẩy rửa trái tim.
Rửa tay để được yên tâm, mãn nguyện, tránh khỏi phải rửa tâm hồn là điều khó hơn.
Đức Giêsu cho ta thấy cái ô uế thực sự lại không đến từ đụng chạm hay ăn uống. Cái ô uế đáng sợ nằm ngay trong trái tim mỗi người. Nó không từ ngoài vào, nhưng từ trong ra.
Ngài kể ra 12 ý định xấu xa bắt nguồn từ trái tim, ý định xấu dẫn đến hành động không đẹp (cc.21-22).
Cần trở về với trái tim của mình.
Đó không phải là một cuộc dạo chơi, nhưng là một thách đố dám nhìn cái tôi sau lớp mặt nạ.
“Hãy tạo cho mình một trái tim mới” (Ed 18,31).
Đó là lệnh truyền của Đức Chúa, nhưng con người chẳng thể tự mình thay tim. “Ta sẽ thanh tầy các ngươi. Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới” (Ed 36,25tt).
Đổi được trái tim là đổi được tất cả.
Lời Chúa hôm nay là một lời nhắc nhở Hội Thánh: Truyền thống, luật lệ và nghi thức là điều cần thiết, nhưng không được quên điều cốt tủy của luật Chúa là yêu thương.
Tôn kính Thiên Chúa qua phụng vụ là điều phải làm, nhưng phải đặt trái tim và cuộc sống mình trong đó.
Chúng ta vẫn có thể lẫn lộn cái chính với cái phụ.
“Xin mọi người nghe tôi nói đây và hiểu cho rõ” (c.14).
Đó là lời Đức Giêsu nhắn nhủ đám đông ngày xưa và chúng ta hôm nay.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn làm một cuộc hành trình vào trái tim của bạn chưa? Bạn thường thấy trái tim của bạn thích những điều gì và sợ những điều gì? Có điều gì sâu kín nơi trái tim mà bạn muốn chia sẻ không?
Hiện nay có những hàng rào hay bức tường nào còn ngăn không cho bạn đến với mọi người?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin dẫn con vào nhà của con, căn nhà của trái tim, căn nhà vừa quen vừa lạ.
Xin hãy cho con thấy những phức tạp, rắc rối, những che đậy, giằng co, những mâu thuẫn và vô lý nơi con. Xin hãy cho con thấy những nhỏ mọn, ích kỷ, những yếu đuối, khô khan, những cứng cỏi và tự ái nơi con.
Xin cho con ý thức những lo âu, sợ hãi đang đè nặng làm con ngột ngạt, những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui, những vết thương không biết bao giờ lành, những đỗ vỡ khiến lòng con khép lại.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con. Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn, hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người, bằng trái tim bao dung của Chúa. Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình, trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn để yêu mến mọi người. Amen.
44. Với cả tâm tình – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Truyện thiền kể có hai nhà sư xuống núi. Dọc đường các ngài gặp một thiếu nữ đứng bên vũng nước sâu. Thiếu nữ muốn đi qua mà không sao đi được. Thấy vậy, một nhà sư liền bế thiếu nữ vượt qua vũng nước. Trở về gần đến chùa, nhà sư kia trách bạn: “Sao anh lại bế một thiếu nữ như thế?” Nhà sư trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên vũng nước, sao anh còn mang cô ta về đến tận chùa”.
Câu chuyện ý nhị trên đã minh họa rõ nét về hai lối sống đạo. Lối sống đạo theo hình thức và lối sống đạo theo nội tâm. Nhà sư trọng hình thức không dám động đến thiếu nữ, nhưng tâm hồn ông lại nặng vấn vương. Thế mà ông vẫn yên tâm cho rằng mình đã giữ trọn luật giới sắc. Ông tự hào về mình và trách móc bạn đã vi phạm luật tu hành. Ông đã hoàn toàn giữ luật theo hình thức bề ngoài mà không xét đến nội tâm của mình.
Những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do Thái cũng giữ đạo theo hình thức như thế. Họ rất trọng những lề luật theo hình thức bề ngoài. Họ cho rằng giữ những hình thức bề ngoài là đủ. Theo họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo. Đặc biệt là luật thanh sạch. Người Do Thái có nhiều cấm kỵ ô uế. Bị coi là ô uế những người mắc bệnh phong, những người phụ nữ sau khi sinh con, người ngoại đạo. Ai tiếp xúc với những người ô uế sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ngay cả những đồ vật bị người ô uế động đến cũng trở thành ô uế. Ai động đến những đồ vật đã bị ô uế cũng sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ô uế là tội lỗi. Những người bị ô uế sẽ không được dâng lễ vật cho Chúa. Để tránh ô uế, người Do thái luôn rửa tay, rửa bát bên ngoài cho sạch.
Đức Giêsu chê trách họ là giả hình. Vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Đức Giêsu đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi, sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám xấu xa.
Vì quá chú trọng đến những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài, họ biến đạo thành một mớ những nghi thức trống rỗng vô hồn. Đọc kinh cho đủ bổn phận mà không cầu nguyện. Ăn chay để giữ đúng luật hơn là để hạn chế tính mê tật xấu. Làm việc bác ái để phô trương hơn là để chia sẻ với người anh em cơ nhỡ. Tệ hại nhất là họ giữ đạo mà không thật lòng yêu mến Chúa. Nên hôm nay, Đức Giêsu đã nặng lời chỉ trích họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”.
Những hình thức bên ngoài không phải là không cần thiết. Nhưng những hình thức bên ngoài, muốn có giá trị, cần phải phát xuất từ tâm tình bên trong. Nội tâm con người là nguồn mạch của mọi hành vi. Nội tâm có tốt thì hành vi mới tốt. Nội tâm có chân thật thì hành vi mới có giá trị
Đạo Chúa không phải là hình thức. Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”.
Vì thế, khi làm việc gì, điều cần thiết là cho cử chỉ phản ánh trung thực tâm hồn. Tất cả mọi việc làm lời nói ra bên ngoài phải phát xuất từ tâm hồn chân thực. Nhất là phải làm sao cho mọi nghi thức tôn giáo phát nguồn từ trái tim yêu mến chân thành. Việc từ thiện phải phát nguồn từ một tình yêu mến huynh đệ, thành thực muốn chia sẻ. Lời cầu nguyện phải phát xuất từ một trái tim yêu mến của người con hiếu thảo đối với Cha trên trời. Việc ăn chay phải khởi đi từ ý muốn chế ngự các nết xấu. Nghi thức thanh tẩy phải cử hành trong tâm tình sám hối. Có như thế, khi môi miệng đọc kinh, lòng ta mới gần gũi Chúa. Khi ăn chay, tâm hồn ta mới tan nát vì tội lỗi. Khi làm việc bác ái, ta tránh được thói phô trương. Khi rửa tay, tâm hồn ta mới được thanh tẩy nên trong trắng.
Với tất cả tâm tình, những nghi thức mới trở nên có hồn, thành thực. Với tất cả tâm tình, ta mới thực sự sống đạo. Với tất cả tâm tình, đạo mới đưa ta đến gần Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho con thêm lòng yêu mến Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Rửa tay hay rửa linh hồn, điều nào quan trọng hơn?
2) Điều gì quan trọng nhất trong đạo? Làm những việc phi thường hay là mến yêu Chúa và yêu thương anh em?
3) Bạn thường đi lễ cho đầy đủ bổn phận hay đi lễ vì yêu mến Chúa?
4) Bạn làm việc thiện vì yêu mến người nghèo hay vì muốn khoe khoang?
45. Lời Hằng Sống
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Do Thái là một Dân Riêng của Thiên Chúa, một dân tộc mang trong huyết quản dòng máu kiêu hùng, luôn tự hãnh diện là một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn, một dân tộc được Thiên Chúa chúc phúc và yêu thương đặc biệt. Tổ phụ Maisen trong bài sách Đệ Nhị Luật hôm nay đề cập tới lời khen ngợi của các dân tộc: “Thật dân tộc vĩ đại này là một dân khôn ngoan và sáng suốt”. Vì chính Maisen đã phải xác nhận: “Không có một dân tộc nào được các thần minh ở bên cạnh mình như Chúa là Thiên Chúa chúng ta, hằng ở bên cạnh chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người. Đặc biệt hơn nữa, có dân tộc thời danh nào khác có những lễ nghi, huấn lệnh công chính và bộ luật là Thánh Kinh như thế không?” (xem Deut 4:1-2,6-8).
I. GIÁ TRỊ SIÊU VIỆT CỦA LỜI CHÚA
Người Kitô Hữu chúng ta hôm nay, nhất là Giáo Hội Công Giáo, chúng ta có quyền hãnh diện và tự nhận mình được vinh dự và hạnh phúc vì Đạo chúng ta có Chúa ngự giữa chúng ta, có Bộ Thánh Kinh chứa đựng Lời Hằng Sống của Thiên Chúa. Không có một bộ sách nào trên trần gian này, dù là bộ Coran của Hồi Giáo, dù là bộ Ngũ Thư Tứ Kinh của Khổng Giáo, dù bất cứ bộ sách có giá trị nào của các triết gia, các nhà tư tưởng thời danh nhất trên trần gian này, có thể sánh kịp được. Thánh Kinh là một bộ sách đã được phiên dịch ra hầu hết mọi thứ ngôn ngữ, với một số lượng chiếm kỷ lục, không thể có bộ sách nào địch lại được. Bộ sách mà mọi người đều phải nghiên cứu, phải tìm tòi, tham khảo và suy ngắm tìm hiểu, cả những kẻ chống đối, cả những kẻ thù như những người vô thần cộng sản chẳng hạn cũng không thể làm ngơ. Tại sao Thánh Kinh lại có một giá trị siêu việt như thế? Vì Thánh Kinh chính là Lời của Thiên Chúa, là kho tàng sự khôn ngoan, là kim chỉ nam, là lẽ sống của nhân loại, là luật công bằng, là nguồn tư tưởng phong phú, khiến mọi người phải dùng như nguyên tắc hướng dẫn cho mọi tư tưởng, mọi triết thuyết, mọi học thuyết, dù là kẻ thù của Giáo Hội cũng phải kính nể tôn trọng. Thánh Công Đồng Vaticanô II đã tuyên bố: “Thánh Kinh là Lời của Thiên Chúa: Lời Chúa có sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh Đức Tin cho con cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Giáo Hội” (Verbum Dei # 21). Thánh Công Đồng còn dạy tiếp: “Thực vậy, trong các Sách Thánh, Cha Trên Trời bằng tất cả tấm lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái và ngỏ lời với họ”.
Chính vì thế, Công Đồng quả quyết: “Giáo Hội luôn tôn kính Thánh Kinh như chính Thánh Thể Chúa, nhất là trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy Bánh Ban Sự Sống từ Bàn Tiệc Lời Chúa cũng như từ Bàn Tiệc Thánh Thể Chúa Kitô để ban phát cho các Tín Hữu” (Verbum Dei # 21).
II. NGHĨA VỤ CỦA CON CÁI CHÚA
Là con cái Giáo Hội, cũng như dân Do Thái, chúng ta hãnh diện và vinh dự, hạnh phúc được Chúa hằng ngự giữa chúng ta, trong thẳm cung linh hồn chúng ta và luôn yêu thương săn sóc thầm nhủ khuyên răn chúng ta qua tiếng lương tâm chân chính. Ngoài ra, Chúa còn dùng các vị đại diện của Chúa trong Giáo Hội để giáo huấn, khuyên nhủ, hướng dẫn, chỉ giáo cho chúng ta bằng những lời khôn ngoan làm lẽ sống, rút từ kho tàng mạc khải của Thánh Kinh. Vậy chúng ta phải có thái độ nào, chứng tỏ chúng ta là những người con ngoan thảo, luôn biết lắng nghe và đón nhận những Lời Cha chúng ta trên trời, hằng yêu thương tỏ thánh ý Người cho chúng ta?
Đại diện Chúa, Thánh Công Đồng Vaticanô II tha thiết và đặc biệt khuyến khích mọi Tín Hữu hãy năng đọc và suy ngắm Thánh Kinh để học biết: “Khoa học siêu việt của Chúa Giêsu Kitô, vì không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô” (Verbum Dei # 25).
Thánh Công Đồng còn nhắn nhủ: “Mọi người nên nhớ rằng, kinh nguyện phải đi đôi với việc đọc Thánh Kinh, để có sự đối thoại giữa Thiên Chúa và con người, vì: Chúng ta ngỏ lời với Chúa khi chúng ta cầu nguyện và chúng ta lắng nghe Chúa phán dạy khi chúng ta đọc Thánh Kinh” (Verbum Dei # 25).
III. ÁP DỤNG THỰC HÀNH TRONG ĐỜI SỐNG
Trong các giờ phượng tự công cộng, các giờ đền tạ, các buổi cầu nguyện, các giờ kinh Phụng Vụ chính thức của Giáo Hội, bao giờ cũng cần có chương trình suy tôn Lời Chúa: Đọc Thánh Kinh và lắng nghe Lời Chúa. Nhờ đó, chúng ta có thể kín múc nguồn ơn thánh, làm lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, vì tất cả chúng ta đều là những lữ khách đang trên đường tiến về Nhà Cha chúng ta trên trời. Chúng ta cần phải sống Lời Chúa, thực hành Lời Chúa, kẻo bị Chúa quở trách: “Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng còn lòng chúng xa cách Ta”. Trong việc tôn trọng các tập tục, các lễ nghi, các luật lệ chính đáng của xã hội loài người là điều đáng khen, nhưng việc tuân giữ và thực hành các Lời Thiên Chúa chỉ dạy, mới chính là điều đáng chúng ta phải trung thành hơn cả. Vì thế, Thánh Giacôbê đã ân cần khuyên nhủ chúng ta: “Anh em hãy thực thi Lời Thiên Chúa mà anh em đã nghe”.
Kết Luận
Là con cái Chúa, chúng ta hãy noi theo gương Mẹ Maria, Mẹ hằng lắng nghe và suy ngắm Lời Chúa trong lòng. Lời Chúa đã là lẽ sống của Mẹ, là Thần Lương nuôi sống linh hồn Mẹ trong cuộc sống hằng ngày. Vì thế, Mẹ đã hoàn toàn nên một với thánh ý Chúa, Mẹ đã chỉ sống vì Chúa và cho Chúa, đến nỗi chúng ta có thể quả quyết chắc chắn: “Không phải Mẹ sống, nhưng chính Chúa sống trong Mẹ”.
Xin Mẹ giúp chúng con luôn biết lắng nghe, suy ngắm và sống Lời Chúa như Mẹ, để chúng con cũng được Chúa hài lòng và được chia sẻ hạnh phúc của Mẹ là được Chúa hằng ngự trong lòng chúng con.
46. Chúa Nhật 22 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Người ta kể rằng: Hồi trước năm 1960 ở Sàigòn, các tiệm ăn thường có tấm bảng đề mấy chữ sau đây: “Cấm không được khạc nhổ xuống sàn nhà”. Một hôm, có một chàng thanh niên ngang tàng đọc bảng cấm đó, tức bực lắm, anh ta đã ngạo nghễ khạc nhổ lên vách tường quán ăn trước mặt mọi người. Các thực khách tại các bàn ăn khác xôn xao khó chịu. Chủ tiệm vội chạy tới, định cảnh giác anh ta, nhưng anh ta giơ tay chỉ vào tấm bảng và nói: “Tôi đâu có nhổ xuống sàn nhà”. Người chủ tiệm rất tức bực, nhưng cũng đành chịu vậy, bỏ đi. Khi nhìn luật lệ như những điều trói buộc, thì người ta sẽ tìm ra những kẽ hở để phá luật.
Lái xe trên xa lộ, mà người tài xế không tuân giữ luật giao thông, sẽ gây ra biết bao tai nạn, làm xáo trộn trật tự xã hội và gây nguy hại cho sinh mạng con người. Từ hơn một tháng nay, trên đường đi tới tòa thị sảnh thành phố Springfield, chúng ta thấy ở góc đường ngay phía tay phải, một chiếc xe hơi bị tai nạn hư hỏng 100% cắt đôi ngay chỗ tài xế ngồi, ở dưới để một tấm bảng sơn ghi rõ sự bất tuân luật cấm uống rượu trong khi lái xe… Vậy, luật giao thông có phải là một cấm đoán bất công, hạn chế sự tự do của cuộc sống con người, hay nó là phương tiện giúp con người hưởng được sự an toàn?
I. NIỀM HÃNH DIỆN CỦA DÂN DO THÁI
Bài sách Đệ Nhị Luật hôm nay, chúng ta thấy thật có lý khi dân tộc Do Thái hãnh diện được các dân tộc khác khen ngợi: “Thật dân tộc vĩ đại này là một dân khôn ngoan sáng suốt”. Tại sao vậy? Vì: Không một dân tộc nào có diễm phúc được các thần minh ở bên cạnh mình, như Chúa là Thiên Chúa ở bên cạnh họ khi họ kêu cầu Người. Có dân tộc thời danh nào khác có lễ nghi, huấn lệnh công chính và bộ luật là Thánh Kinh như dân Do Thái không?
Như chúng ta biết: Do Thái là Dân Riêng Chúa tuyển chọn. Chúa luôn xuất hiện với các tổ phụ họ, để truyền ban các huấn lệnh và lề luật cho dân tuân giữ. Chúa còn luôn che chở, bênh vực họ trong mọi bước đường họ đi; Người dùng cánh tay uy hùng, làm nhiều phép lạ để giải thoát họ khỏi ách nô lệ, bênh chữa, trợ giúp họ chiến thắng quân thù cách oanh liệt, khiến các kẻ thù của họ phải bàng hoàng kinh sợ.
II. ĐÁNG LỜI CHÚA QUỞ TRÁCH
Được vinh dự là Dân Riêng của Chúa, nhưng dân Do Thái có sống xứng đáng với ơn Chúa ban, bằng việc tuân giữ các huấn lệnh và lề luật Chúa truyền qua Maisen, khi ông thừa lệnh Chúa nói với họ: “Các ngươi phải tuân giữ và thực hành các điều Chúa truyền dạy, vì đó là sự khôn ngoan sáng suốt của các ngươi trước mặt muôn dân”. Nhưng dân Do Thái có tuân giữ lệnh truyền đó không?
Lịch sử đã chứng minh sự bất trung và phản bội của dân tộc Do Thái. Chính vì thế mà qua bài Tin Mừng hôm nay, họ đã bị Chúa Kitô nặng lời quở trách: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng xa cách Ta. Chúng sùng kính Ta cách giả dối, bởi chúng dạy những giáo lý và những lề luật do loài người bày tạo ra”.
Dầu vậy, họ vốn tự cao tự đại lên mặt dạy đời, bằng cách sai những người Pharisiêu, biệt phái, luật sĩ là những bậc thầy trong dân đến nhòm ngó, rình rập, để bắt bẻ hạch sách Chúa về các hành động của các môn đệ Người: “Tại sao các môn đệ Ngài lại không tuân giữ các tập tục của tiền nhân, mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?” Chúa đã cho họ một bài học khi nói với họ: “Các ngươi đã bỏ qua giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của loài người”. Chúa còn trịnh trọng bảo dân chúng rằng: “Hết thảy các ngươi hãy nghe và hãy hiểu rõ lời Ta. Không có cái gì bên ngoài vào trong con người, mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những cái từ trong con người xuất ra, chính cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí, người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở bên trong mà ra, đã làm cho người ta ra ô uế”.
III. CÔNG GIÁO, DÂN RIÊNG CỦA CHÚA
Là thành phần của Giáo Hội Công Giáo, chúng ta làm nên Dân Riêng Chúa tuyển chọn, như một dân Do Thái mới. Chúa muốn chúng ta hãy là những người con ngoan thảo, vui lòng lãnh nhận các huấn lệnh và thánh chỉ của Chúa qua các Thánh Luật của Người truyền dạy và đem ra thực hành trong đời sống. Vì luật pháp là nơi chứa đựng thánh ý Thiên Chúa. Tuân giữ luật pháp là sống theo thánh ý Thiên Chúa, như lời Thánh Giacobê Tông Đồ nhắn nhủ: “Anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh Lời đã gieo trong lòng anh em, Lời có sức cứu rỗi linh hồn anh em. Anh em hãy thực thi Lời đã nghe, chớ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình”.
Ngày nay, chúng ta vốn còn phải thú nhận cái sự thật đau lòng này, là nhiều người trong các Tín Hữu cũng chẳng hơn gì những người Pharisiêu, biệt phái, luật sĩ Do Thái xưa, họ đọc kinh nhiều, tham dự các giờ phụng vụ, đền tạ, các cuộc biểu dương Đức Tin, ghi tên vào nhiều đoàn thể; nhưng họ lại rất ít quan tâm đến việc sống những tinh thần của các lời kinh, lơ là việc tuân giữ các điều luật của các hội đoàn họ gia nhập, không thực thi Đức Bác Ái Huynh Đệ… Tệ hơn nữa, họ còn tin kiêng dối trá, mê tín, dị đoan và cặn kẽ giữ các tập tục cha ông lưu truyền, phản lại cả những giới răn của Chúa, giáo huấn và luật lệ của Giáo Hội: Chẳng hạn họ cứ bắt buộc con cái phải chu toàn luật tang chế, do tập tục xã hội cổ truyền bày tạo, trong khi sa phạm luật Chúa và Giáo Hội thì họ chẳng quan tâm, chẳng kể là gì. Ví dụ: Chồng đã chết, bố mẹ cứ bắt con gái phải để tang chồng đủ ba đã, rồi mới được tái hôn. Trong khi đó, con gái sa ngã, mang bầu, sinh con rồi, mà vẫn không được phép tái hôn. Họ kết án con cái là hư thân mất nết, nhưng chính họ đã không khôn ngoan đề phòng để con cái lỗi phạm giới răn Chúa, gây nên gương xấu làm hổ mặt cho dòng họ, bởi bắt con cái giữ tập tục của tiền nhân, mà không màng tới giới răn Chúa và Giáo Hội. Tội lỗi đó, ai phải chịu trách nhiệm?
Kết Luận
Là con cái Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng: “Sống theo luật Chúa là chúng ta sống cho Chúa” (Qui Regulae vivit, Deo vivit). Chúng ta đã được Chúa Thánh Linh chúc phúc: “Phúc cho những ai tiến thân trong luật pháp của Chúa”. Vì Luật Chúa là khuôn vàng thước ngọc, là lẽ sống, là kim chỉ nam, là vị hướng đạo soi sáng hướng dẫn cho chúng ta sống theo thánh ý Chúa, giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu, để chúng ta có thể quả quyết được như lời Thánh Kinh: “Luật Chúa là đèn dọi bước chân tôi”.
Thánh Phaolô còn quả quyết: “Yêu mến và chu toàn lề luật, là yêu mến và chu toàn thánh ý Chúa”. Chu toàn thánh ý Chúa, sẽ được Chúa chúc phúc: “Phúc cho những ai suy ngắm luật Chúa đêm ngày” (Prov 29:18). Vậy chúng ta hãy ghi nhớ và làm cho Lời Chúa được thấm nhuần và chi phối mọi tư tưởng, lời nói, việc làm trong cuộc sống chúng ta, theo giáo huấn Chúa dạy: “Con hãy ghi tạc lề luật vào lòng con, thích trên trán con, đặt trước mắt con, buộc vào ngón tay con” (Prov 7:2-3).
47. Phụng thờ Chúa bên trong và bên ngoài
(Suy niệm của Rev. Phanxicô M. Hưng Long, CRM)
Truyện kể rằng: một người kia nằm mơ thấy mình được đem lên thiên đàng. Anh ta đang ngớ ngác nhìn chỗ này chỗ kia, thì gặp Chúa Giêsu. Ngài cho anh ta thấy một hình ảnh ở dưới trần gian.
Hôm đó là ngày Chúa Nhật, và thánh lễ đang được cử hành tại một giáo xứ. Anh ta thấy người đánh đàn lắc qua lắc lại rất là có hồn. Ngón tay lướt trên phím đàn trông rất là hấp dẫn, nhưng đáng tiếc là anh ta không nghe được gì cả. Rồi anh lại thấy ca đoàn mở miệng lớn và hát tất cả những lời rất ý nghĩa, nhưng anh cũng không nghe thấy tiếng gì cả.
Anh chăm chú nhìn vị linh mục, những người tham dự thánh lễ đứng lên, ngồi xuống, mở sách, mở miệngđể đọc thưa tất cả những lời nguyện, nhưng một lần nữa, không nghe được tiếng gì cả. Anh ta mới thắc mắc quay sang Chúa Giêsu và hỏi tại sao lại có sự im lặng như vậy? Chúa Giêsu trả lời: “Con thấy không, chỉ khi nào những người ở dưới trần gian cầu nguyện hay hát với hết tâm hồn, thì ở trên này mới nghe được.”
Câu chuyện trên rất hợp với bài Phúc Âm hôm nay khi Chúa Giêsu khiển trách những người luật sĩ và Pharisiêu là những người giả hình: “Dân này thờ kính ta bằng môi bằng miệng, nhưng tâm hồn chúng thì xa ta.”
Chúa kết tội họ là giả hình vì họ coi trọng việc bên ngoài, mà coi thường những gì xảy ra trong tâm hồn. Họ cắt nghĩa tôn giáo là trung thành giữ những việc bên ngoài, giữ những luật lệ, cả những luật lệ nhiều khi không cần thiết. Họ chủ trương rằng nếu họ làm những việc bên ngoài đúng, thì họ trở thành người tốt, cho dù tâm hồn hay tư tưởng của họ thế nào.
Con người chỉ nhìn bên ngoài, nhưng Thiên Chúa nhìn thấu tận bên trong. Đối với Thiên Chúa những gì xảy ra trong tâm hồn mới đáng kể, và đó là điều đáng kể nhất đối với Chúa.
Nhà chú giải Thánh Kinh William Barclay nói về người sùng đạo Hồi như thế này. Họ phải cầu nguyện với Chúa vào một số lần trong ngày. Để cầu nguyện họ thường mang theo một cái thảm gọi là thảm cầu nguyện. Khi tới giờ, bất cứ đang ở đâu, họ trải thảm ra quỳ xuống cầu nguyện rồi tiếp tục làm công việc họ đang làm.
Chuyện kể rằng, một tín hữu đạo Hồi đang giơ dao đuổi giết một người thì chuông từ tháp đền thờ vang lên báo hiệu tới giờ cầu nguyện. Anh ta liền ngừng lại, trải thảm ra, quỳ xuống đọc những lời kinh đã được chỉ định trong luật. Cầu nguyện xong, anh đứng dậy tiếp tục rượt theo người kia để giết.
Đó là một cách sùng đạo rất sai lầm mà Thiên Chúa không chấp nhận. Người hành đạo coi trọng hành động bên ngoài, mà không để ý đến những tâm tình bên trong. Họ phụng sự Chúa qua các việc bên ngoài, nhưng lại chống đối Chúa mạnh mẽ trong tâm hồn.
Có lẽ chúng ta nghĩ rằng chúng ta không giống người Pharisiêu hay giống như anh Đạo Hồi. Thật sự chúng ta không thể bào chữa nhưng phải khiêm nhường nhìn nhận thái độ của người pharisiêu đôi khi cũng ẩn núp trong con người chúng ta.
Nhiều khi chúng ta cũng dựa vào sự bên ngoài để đánh giá sự tốt lành của người khác. Đó là một điều rất nguy hiểm. Người Mỹ có câu: không thể đánh giá trị quyển sách do cái bìa. Việt Nam ta thì có câu: “Xấu vỏ đỏ lòng.”
Một cuốn sách bên ngoài có thể cũ, nhưng câu chuyện được viết ở trong có thể là câu chuyện hay nhất. Cũng vậy, chỉ xét đoán con người theo dáng điệu bên ngoài rất dễ lầm lạc. Có thể một tâm hồn bên ngoài coi tầm thường nhưng bên trong chất chứa đầy sự tốt lành.
Rồi những công việc đạo đức bên ngoài như đi nhà thờ, đọc Thánh Kinh, dâng cúng, cầu nguyện hằng ngày chưa chắc làm cho con người trở thành tốt. Mang áo Đức Bà, đeo ảnh Chúa Mẹ và đi hành hương không tự động làm cho người ta trở thành người Công Giáo tốt. Những việc đạo đức làm hài lòng Chúa phải thật sự phát xuất từ một tâm hồn chân thành hướng về Chúa.
Vậy chúng ta thử xét xem chúng ta làm việc bác ái để được khen, để được chấp nhận, hay chúng ta làm vì tấm lòng chân thành muốn hài lòng Chúa và thật lòng quan tâm tới tha nhân.
Rồi lý do chúng ta đi tham dự thánh lễ có phải chỉ để chu toàn bổn phận, luật lệ, để phô trương mốt quần áo mới, xe mới, hay là thờ phượng Chúa với lòng sùng kính chân thành.
Nếu không cẩn thận chúng ta có thể trở thành những người đi xem lễ chứ không phải đi dự thánh lễ. Việc tham dự thánh lễ sẽ trở nên vô nghĩa nếu chúng ta chỉ làm cho qua lần chiếu lệ, làm cách máy móc, không có hồn, không có lòng yêu mến.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đừng chỉ là người Kitô hữu bên ngoài, đừng chỉ là Kitô hữu vào Chúa Nhật, rồi những ngày khác khi về nhà, về gia đình, về sở làm, chúng ta không có Chúa, không có tinh thần của Chúa trong tâm hồn. Xin Chúa Mẹ giúp chúng ta trở nên giống Chúa hơn trong đời sống thường ngày. Xin Tình yêu Chúa tuôn chảy trong đời sống và trong công việc làm của chúng ta. Amen.
48. Dân này chỉ mến Ta bằng môi bằng miệng
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Tiến Huân)
Biệt phái và luật sĩ là những người chuyên chú lo giữ luật Môisê một cách rất cặn kẽ. Luật Maisen là luật của Cựu ước ghi chép rất tỉ mỉ nhiều tập quán và lễ nghi phức tạp về đủ mọi sinh hoạt của đời sống: như rửa tay, rửa chén trước khi ăn, đồ mua ngoài chợ về phải rảy nước tẩy uế và phân biệt đồ nào được ăn đồ nào không được ăn, phải dâng cúng thế nào vào đền thờ… Họ giữ luật vì luật nghĩa là cứ làm đúng từng nét như luật dạy trong sách là đủ không cần chú tâm đến sự hoàn thiện nội tâm của đời sống. Nói khác họ giữ luật một cách máy móc không một chút tinh thần bên trong. Họ dâng cúng lễ vật vào đền thờ cho Thiên Chúa đúng mức, đúng kỳ, đúng luật nhưng tinh thần của sự dâng cúng là lòng yêu mến tôn thờ Thiên Chúa thì không có hay không cần xét đến.
Khi Chúa Giêsu đến, Ngài muốn hoàn hảo những luật Cựu ước đó bằng một tinh thần bên trong tạo thành một luật Giáo ước mới. Luật Giao ước mới này không phải là những nét chữ ghi trên giấy cứ làm theo đúng là xong, nhưng được ghi ngay trong tâm hồn, trong lương tâm mỗi người, để mỗi người phải cố gắng thực hiện những luật đó với hết sức của mình. Sự cố gắng đó phải vươn lên mãi không có một giới hạn nào: “Hãy nên thánh như Cha các con ở trên trời là Đấng Thánh” (Mt 5:48). Vì thế chúng ta dễ hiểu câu Chúa chê bọn Biệt phái và Luật sĩ chỉ biết giữ luật cách máy móc: “Dân này chỉ mến Ta bằng môi bằng miệng còn lòng nó thì ở xa Ta” và “chúng đã nhận mệnh lệnh của phàm nhân làm thánh giáo”.
Chính tinh thần yêu mến bên trong và chính luật Giao ước mới của lương tâm mới là điều Chúa muốn và mới là thánh luật chứ không phải sự giữ luật cách máy móc và những nét luật chết cứng trên các trang giấy. Vì thế, nhân cơ hội họ bắt bẻ về sự rửa tay trước khi ăn, Chúa mới nhấn mạnh thêm: chính cái bộ lòng bên trong, cái nội tâm con người mới là cái quan trọng chứ không phải chén bát, vì chính nó làm cho đồ ăn bên ngoài vào tiêu ra thành chất dơ thối cũng như chính nó phát xuất những tư tưởng dâm ô, trộm cắp, kiêu ngạo, ganh tỵ…
Giữ luật vì luật một cách máy móc là mới mến Chúa bằng môi bằng miệng. Đi lễ Chúa nhật chỉ vì luật buộc phải đi, dâng cúng vì luật buộc phải dâng cúng, đọc kinh vì phải đọc… mà lòng thì xa Chúa và vẫn tích trữ hận thù ghen ghét ganh tỵ… thì vẫn chỉ là những kẻ Biệt phái và luật sĩ bị Chúa chê là giả hình, chỉ mến Chúa bằng môi bằng miệng mà lòng thì vẫn xa Ngài: họ vẫn là những kẻ đối nghịch với Ngài.
Chúng ta cần xét lại thái độ của chúng ta khi tuân giữ luật Chúa: tuân giữ cách máy móc miễn cưỡng hay tuân giữ vì yêu mến Ngài.
49. Những lời kết án khắt khe hay là hy vọng.
(Suy niệm của Camille Gagnon)
Những câu nói hiểm hóc.
Một số câu trích từ Kinh Thánh đôi khi gợi lên nơi chúng ta những kỷ niệm khó chịu. Chúng ta có hai câu trong các bài đọc hôm nay. Hai câu thường dùng để nói lên sự không nhân nhượng và đòi hỏi khắt khe về mặt tôn giáo.
Câu thứ nhất trích từ Sách đệ nhị luật nói thế này: “Các ngươi sẽ không thêm gì vào những gì tôi truyền cho các ngươi và các ngươi không bớt gì cả nhưng các ngươi sẽ giữ mệnh lệnh của Chúa như tôi truyền dạy”. Khi đọc câu này, tôi nhớ đến những cuộc tranh cãi về phụng vụ đủ loại đã xảy ra từ mười năm nay, như vụ Lefebvre, hoặc những vụ khác, ít trầm trọng hơn, về việc thực hành những nghi thức Thánh lễ. Tôi cũng nhớ lại những lời tâm sự đau đớn của những người bị từ chối không cho xưng tội. Có thể nào một lời Tin Mừng, một lời giải phóng, được nói nhân danh Thiên Chúa, lại gây ra điều trái ngược không?
Câu thứ hai trích từ Tin Mừng, nói thế này: “Các ông bỏ giới răn của Thiên Chúa để theo truyền thống của loài người”.
Gần đây một được cháu gái, được rửa tội lại “trong Giáo Hội Tin Lành”, đã dùng câu này mà nói với tôi. Những cặp vợ chồng ly dị và tái giá, cũng đã cho tôi thấy nỗi đau đớn của họ trước sự nghiêm khắc của luật Giáo Hội về việc rước lễ. Tôi cũng nghe người trẻ nói như thế nữa; Sau khi đã sống đức tin Kitô thực sự, họ đã thấy mình không thể theo Giáo Hội và những tập tục của Giáo Hội nữa.
Mỗi người theo cách của mình mà hiểu về ý nghĩa của “giới răn Thiên Chúa” và “truyền thống của loài người” và tìm cách biện minh cho tư tưởng hoặc hành động của mình. Dù tỏ ra không nhân nhượng nữa. Vậy nên tôi xin nhắc lại câu hỏi này: chúng ta có một Tin Mừng giải phóng không? Làm sao lắng nghe những câu hiểm hóc này mà vẫn duy trì được niềm hy vọng của chúng ta.
Những lời hy vọng.
Ta hãy tìm cách đọc lại tường thuật cuộc gặp gỡ giữa những người biệt pháivà Chúa Giêsu, mà không kết án ai cả, không ra vạ tuyệt thông cho ai cả. Chúng ta cũng tìm cách kiểm tra xem Chúa Giêsu có nói lời nào không bao dung đối với con người chăng?
Chúng ta hãy nhìn xem quang cảnh này. Mọi người có mặt tại đó, xung quanh một bàn ăn. Chúng ta đừng biến những cuộc trao đổi, dù gay gắt đi nữa, thành những lời buộc tội của tòa án. Rồi chúng ta hãy xem có những ai ở đó. Chúa Giêsu, các môn đệ của Ngài, những người biệt phái và ký lục “từ Giêrusalem đến”. “Từ Giêrusalem đến” nghĩa là gì? Nghĩa là họ là những đại diện cho quyền bính chính thức, họ đến tranh luận với Chúa Giêsu và bắt lỗi Ngài? Và nếu họ cũng là những người đơn sơ, chân thành nhưng lo lắng thì sao? Là những người mộ đạo ngạc nhiên vì thấy những người thuộc cộng đoàn của họ, thuộc niềm tin của họ, quên đi những nghi lễ và tập tục văn hóa truyền thống thì sao? Theo quan điểm này thì họ sẽ không khác chúng ta lắm, phải không? Hơn nữa, họ đã đi cả một đoạn đường dài để gặp Chúa Giêsu. Vậy Ngài có xua đuổi họ bằng một lời kết án dứt khoát không? Hay Ngài có tìm cách giải phóng họ và nói với họ một lời hy vọng không?
Bây giờ chúng ta hãy lắng nghe lời Chúa Giêsu nói với tất cả mọi người, biệt phái, môn đệ, quần chúng, trong đó có chúng ta nữa. Với những người muốn trung thành chu toàn giới răn của Thiên Chúa, không thêm không bớt gì cả, Chúa Giêsu nhắc lại rằng đối với Thiên Chúa, giới răn nhắm vào thâm tâm con người. Sự thật của con tim bao giờ cũng hơn những việc tế tự. Và những việc này không bao giờ thay thế được cho một con tim dối trá và mù quáng cả. Không được thêm gì vào lòng con người cũng không được rút bớt gì cả. Không rút bớt gì trong những nỗi yếu hèn của họ, không thêm gì vào sự phức tạp cũng như mặc cảm tội lỗi của họ. Đây là lời giải phóng và hy vọng: không ai kết án bạn cả, không phải lòng tôi, không phải lòng bạn, cũng không phải lòng kẻ khác. Không có luật nào thay thế được luật của con tim. Điều này có giá trị đối với hết thảy mọi người.
50. Bên trong là những gì đáng kể.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” – Charles E. Miller).
Vào một buổi chiều nơi sân bóng rổ, một đám đông đã đứng lên để hát bài quốc ca, một đứa trẻ đã không bỏ mũ của mình ra. Một người đàn ông vạm vỡ đứng ngay đằng sau đứa bé đã nói: “Này chú bé, hãy lấy mũ ra chứ”. Cha của đứa bé là một người có bộ râu rậm nhưng ông đã chờ đợi cho đến khi kết thúc bài hát, cố gắng với sự tự chủ và giọng run run, ông nói một cách nhỏ nhẹ với người đàn ông: “Con trai của tôi đang hóa trị vì bệnh ung thư và nó không còn chút tóc nào!”.
Đứa trẻ đã không kính trọng trong khi hát bài quốc ca, đơn giản vì em lúng túng khi bỏ mũ của mình ra. Người đàn ông vạm vỡ có thể rút ra môt bài học: bên ngoài thì không luôn luôn cho thấy những gì ở bên trong. Đó cũng là bài học đối với những người Pharisêu khi nghe bài Phúc Âm trong Thánh Lễ chúa nhật hôm nay.
Họ đã bực bội với các môn đệ của Chúa Giêsu bởi vì các người này đã không theo tục lệ rửa tay trước khi ăn, những điều họ quan tâm không phải là những điều vệ sinh nhưng là tính cách cứng nhắc giữ luật theo từng chữ.
Khi những người Pharisêu đòi hỏi Chúa Giêsu vì sao môn đồ của Ngài lại không thực hiện như họ đã làm. Chúa Giêsu đã từ chối trả lời, thay vào đó Ngài đã cảnh cáo họ bằng những lời của tiên tri Isaia: “Dân này thờ Ta chỉ bằng môi bằng miệng còn lòng dạ chúng thì xa Ta”. Ngài đã tiếp tục cắt nghĩa những gì ở bên trong thì quan trọng hơn những công việc bên ngoài, tâm tình bên trong thì quan trọng hơn công việc ở bên ngoài
Như một dân tộc của phụng vụ, chúng ta cần phải suy niệm giáo huấn về Chúa Giêsu. Phụng vụ là một vấn đề của sự kiện liên quan đến những điều kiện bên ngoài, ví dụ như những cử chỉ đứng, ngồi, quỳ, tiến lên, hát và đọc kinh, cũng tốt giống như khăn bàn thờ, nến, những vật trang trí khác. Thật ra, Giáo Hội đã dạy trong Hiến chế về phụng vụ rất đầy đủ về hoạt động và tham dự có ý thức trong những nghi thức phụng vụ thánh, là nguồn mạch không thể thay thế của tinh thần Kitô giáo đích thật, và cũng như Hiến chế làm rõ ràng việc tham dự phải được hoàn thành bằng cách tuyên xưng, đáp trả, hát Thánh Vịnh và các bài thánh ca, cũng như là bằng các hoạt động, cử chỉ và thái độ của thân xác (14-30).
Yếu tố chính yếu của việc thờ lạy như Đức Giáo Hoàng Piô XII đã dạy đó là bên trong, điều đó có nghĩa là những gì chúng ta làm bên ngoài thì không có dự định diễn tả nhưng để tăng tình trạng chân thành bên trong, như đức tin, đức cậy và tình yêu của chúng ta. Đôi khi việc đo lường sự sốt sắng của chúng ta tốt nhất không phải là những gì chúng ta làm trong Thánh Lễ nhưng là chúng ta đã hành động bên ngoài Thánh Lễ thế nào.
Có phải đức tin chúng ta diễn tả theo phụng vụ là quy tắc hướng dẫn chúng ta sống theo cách mà nếu Thiên Chúa không hiện diện trong đời sống của chúng ta thì chúng ta sẽ không có những tâm tình như thế? Có phải đức tin của chúng ta làm cho chúng ta khác với những người khác, mà giá trị của họ là thế tục hoặc vật chất? Có phải nhân đức trông cậy chiếu sáng vẻ bên ngoài của chúng ta và làm cho chúng ta cơ bản thành những người lạc quan không? Có phải niềm trông cậy của chúng ta đã cho chúng ta một niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng thúc đẩy chúng ta trân trọng ý muốn của Ngài không? Có phải tình yêu mà chúng ta diễn tả với Thiên Chúa trong lúc chúng ta thờ phượng đã hướng dẫn một cách trực tiếp trong đời sống của chúng ta? Có phải đời sống của chúng ta đã phản ảnh chân lý mà chúng ta đã được dạy dỗ là tất cả anh chị em của chúng ta nên một trong Đức Kitô không?
Bên ngoài thì quan trọng nhưng chính chúng không làm cho chúng ta nên thánh hơn là những người yêu nước, đã kiên bền cố gắng trở nên một công dân tốt. Ngày hôm nay thánh Giacôbê đã nói với chúng ta: “Hãy tiếp nhận những lời mà những lời đó có sức mạnh để cứu thoát anh em. Hãy thực hành những lời đó. Nếu tất cả những gì anh em thực hiện là lắng nghe thì anh em đã tự lường gạt chính mình”. Đó là con đường của người nói rằng, việc thờ lạy phải dẫn đến đời sống, những việc bên ngoài phải diễn tả sự chân thành kính trọng của tình trạng bên trong. Những gì bên trong của chúng ta mới đáng kể.
51. Chưa hết biệt phái.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Đoạn Phúc âm của thánh Marcô cho thấy sự tuân giữ lề luật đã đưa những người Biệt phái rẽ vào một khuynh hướng rút cục là giả đạo đức như thế nào. Trách cứ họ theo lối vơ đũa cả nắm là bất công, là quá đáng nếu so sánh với sự quở mắng của Đức Giêsu khi Người xét đoán họ. Dù sao họ cũng từng đóng vai bảo tồn lòng trung thành với Thiên Chúa trong những thời buổi khó khăn. Chúng ta nhắc lại rằng giới Biệt phái đã cung cấp cho nhóm môn đệ Chúa mấy người, đáng kể là Nicôđêmô và thánh Phaolô. Nhưng bất hạnh thay cho đại đa số Biệt phái, nhất là cho tầng lớp Biệt phái trí thức, họ quá chú trọng đến việc tuân giữ Lề luật về phương diện vật chất và giải nghĩa Lề luật về phương diện vật chất và giải nghĩa Lề luật theo quan niệm con người – hơn là tôn trọng tình thần Lề luật, đề cao việc thờ phụng và tình thương. Chúa Giêsu không chấp nhận lối giữ đạo bề ngoài theo tập tục thế gian, vì nó không phù hợp với những đòi hỏi của một tâm hướng về thờ phụng Thiên Chúa, thật lòng yêu tha nhân và thành tâm gắn bó với Lời Chúa. Cầu nguyện, cử chỉ, cách đứng ngồi, tất cả phải biểu thị một thái độ nội tâm thành khấn. Trái lại là giả hình.
Đàng khác, Chúa Giêsu lên án kẻ Biệt phái nào xem ý kiến những luật sĩ giải thích Kinh thánh trọng ngang với Lề luật. Thậm chí, Người không chịu được thái độ tự kiêu tự mãn của họ. Thật vậy, họ tự cho mình là am tường Lề luật, rồi sinh ra kinh miệt kẻ tầm thường, kẻ hèn kém. Ta có thể trên quan điểm này tự đặt vài câu hỏi về xã hội ngày nay. Trong một số hội đồng, ủy ban nào đó, trong phần lớn giới báo chí chẳng có những ký lục và Biệt phái rất tự tín, rất vững tâm khi họ giải thích Phúc âm, muốn độc quyền hướng dẫn dư luận sao? Ngày nay đang có một sự uốn nắn đích thật đó là sự biệt phái tái xuất hiện dưới bộ áo mới, sự giả nhân giả nghĩa mà Chúa Giêsu đã nghiêm khắc lên án.
1) Do đâu mà có những khuynh hướng biệt phái bị Chúa tố giác?
Các ông đã gạt giới luật của Thiên Chúa sang một bên, để cố thủ lấy tập tục. Biệt phái phát sinh từ một tham vọng của kẻ vô tình hay hữu ý, muốn tự đặt ra lề luật cho mình. Khi nào con người vi phạm luật Chúa, y trở thành một kẻ tội lỗi giản dị thế thôi. Khi nào con người tuyên bố chấp nhận luật Phúc âm nhưng lại bẻ cong Phúc âm theo lối suy tưởng của y, lúc đó y trở thành Biệt phái. Tính biệt phái đặt cơ sở trên một vận dụng trí thức giải nghĩa Phúc âm qua bảng giải mật mã của một ý thức hệ con người. Kitô hữu biệt phái là kẻ tự đặt mình làm nhà lập pháp cho mình, bằng cách mượn những từ ngữ Phúc âm. Y đặt lấy một pháp điển mượn ý của một hệ ý thức con người, dù cho hệ này đại lượng đến mức nào đi nữa. Từ một thứ phúc âm trống rỗng vì bị lấy đi Đức Kitô sống động, và thật, y trích ra những từ, những câu, những đoạn giảng huấn, để cố che đậy một sự giả hình đích thật.
2) Tính biệt phái là một sự uế tạp cực độ.
Sau khi lên án những kẻ biệt phái, Chúa Giêsu giảng về điều nó làm cho con người ra uế tạp trước mặt Thiên Chúa. Đó là những tình cảm xấu xa nuôi dưỡng trong lòng. Chúa kể ra 1 số tình cảm trong đó có kiêu ngạo và phi lý. Vậy mà có tội kiêu ngạo nào độc hại hơn tội phi lý nào bại hoại hơn tội của kẻ gác sang một bên giới luật Thiên Chúa, để tự đặt ra những giới luật riêng cho mình? Chúa Giêsu gạch nối xếp thái độ đó vào tội ô uế trước mặt Thiên Chúa.
Vậy ai là kẻ có lòng thanh sạch? Thưa đó là những tâm hồn đơn sơ, họ thấy Thiên Chúa thế nào thì nghênh đón Người như vậy, họ giãi bầy nỗi niềm riêng tư với Chúa bằng một tấm lòng ngay thẳng thực tế.
52. Rửa tay hay rửa tâm hồn?
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Nhà Thần học William Barclay kể lại câu chuyện: Một Kinh sư Do Thái (Rabbi) bị cầm tù ở Rôma. Trong tù, ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm mục đích kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua, vị Kinh sư ấy ngày càng yếu dần. Cuốc cùng người ta buộc phải mời bác sĩ đến khám bệnh. Bác sĩ bảo rằng cơ thể tù nhân bị thiếu nước. Họ không hiểu nổi tại sao vị Kinh sư ấy lại có thể thiếu nước, bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu nhưng vẫn tương đối đủ chứ đâu đến nỗi tệ! Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát người tù này một cách kỹ lưỡng hơn để thử xem ông ta làm gì với số lượng nước ấy. Cuối cùng người ta đã khám phá ra bí mật: Vị Kinh sư Do Thái này đã sử dụng phần lớn số lượng nước để rửa tay theo nghi thức Do Thái giáo trước khi ăn và cầu nguyện. Như thế đương nhiên ông ta không còn đủ nước để uống.
Anh chị em thân mến, câu chuyện này giúp chúng ta hiểu rõ hơn thái độ bực bội của những người Biệt Phái Pharisêu và Kinh sư Do Thái đối với Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài khi nhìn thấy các môn đệ Chúa Giêsu ăn uống mà chẳng chịu rửa tay theo đúng nghi thức. Rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, đó là điều sơ đẳng trong phép giữ vệ sinh phòng bệnh. Người Do Thái và nhất là người Biệt Phái Pharisêu giữ tập tục rửa tay trước khi ăn rất kỹ. Họ không dùng bữa, nếu chưa rửa tay trước. Ở nơi công cộng về, họ không ngồi và bàn ăn nếu chưa tắm rửa sạch sẽ. Họ còn giữ nhiều tập tục tẩy rửa này, đối với họ, không nhằm giữ vệ sinh, bảo vệ sức khoẻ, mà được coi là những nghi thức tôn giáo và nhằm để phân loại con người trong sạch hay do bẩn theo luật. Lòng đạo đức của con người được đánh giá tuỳ thuộc và việc tuân giữ các tập tục này, đều bị kể là hạng người dơ bẩn, bị loại ra ngoài cộng đoàn tôn giáo, mất quyền tham dự nghi lễ phụng tự trong đền thờ. Họ còn để mắt dòm ngó xem xét người khác có tuân giữ các tập tục đó không. Trong Tin Mừng hôm nay, họ đã thấy một số môn đệ của Chúa Giêsu không rửa tay trước khi ăn. Điều này đã nên cớ cho người Biệt Phái và Kinh sư hạch sách Chúa Giêsu và lên án Ngài.
Đáp lại, Chúa Giêsu đã vạch trần tâm địa của người Biệt Phái và Kinh sư; Ngài đã phơi bày cho thấy cái họ cho là đạo đức chỉ là một thứ giả hình. Họ tôn thờ Thiên Chúa một cách giả dối ngoài môi miệng nhưng lòng họ thì chẳng tôn thờ Ngài, chẳng màng tuân giữ các giới răn của Ngài. Nhân dịp này, Chúa mở ra cho người ta thấy cái làm cho người ta ra dơ bẩn và bất xứng trước Thiên Chúa không phải ở chỗ rửa tay hay không rửa tay trước khi ăn, mà chính là ở tâm địa xấu xa của con người, chính là những tư tưởng xấu, “từ đó phát xuất những hành động ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, vu khống, kiêu căng…” Qua đó, Chúa Giêsu muốn nói rằng: sự dơ bẩn bên ngoài không làm cho tâm hồn ra dơ bẩn, không tác hại và đáng lo cho bằng sự dơ bẩn trong tâm hồn do những ý muốn xấu xa, độc ác. Vậy thì việc tẩy rửa bên ngoài không quan trọng bằng việc tẩy rửa bên trong, bằng việc thanh tẩy tâm hồn, hoán cải cuộc sống. Sự trong sạch của tâm hồn quan trọng và cần thiết hơn sự sạch sẽ bên ngoài của thể xác. Tập tục tẩy rửa bên ngoài không tẩy xoá được sự dơ bẩn trong tâm hồn, chỉ có việc tuân giữ luật Chúa mới thúc đẩy con người sám hối tội lỗi để được tẩy rửa trong sạch, xứng đáng trước mặt Chúa. Do đó cần phải tuân giữ luật Chúa hơn những tập tục của con người.
Nhà thần học William Barclay còn kể thêm một câu chuyện về một người Hồi Giáo đang đuổi theo để giết kẻ thù của mình. Đang khi đuổi theo kẻ thù, chợt nghe vang lên hồi chuông báo giờ cầu nguyện, lập tức người Hồi Giáo nhẩy ngay xuống ngựa, mở sách Thánh Kinh Coran ra, quì xuống và cầu kinh theo như luật định một cách hết sức lẹ làng. Cầu kinh xong, anh ta lại leo lên ngựa tiếp tục đuổi theo kẻ thù. Câu chuyện này minh hoạ cho chúng ta chủ nghĩa câu nệ lề luận. Nó cảnh các chúng ta đừng rơi vào chủ nghĩa đồng hoá tôn giáo với việc chu toàn những hành vi đạo đức bên ngoài.
Chúa Giêsu đã đảo ngược hoàn toàn cái gọi là tôn giáo của người Biệt Phái và Kinh sư Do Thái. Đạo không phải là thi hành những tập tục, tuân giữ các nghi thức, mà chính là một thái độ sống, là thi hành luật Chúa, là sống Lời Chúa. Cái cám dỗ thường xuyên của người Kitô hữu vẫn là lấy việc đạo đức bề ngoài là bức màn che đậy tính ích kỷ, giả dối, độc ác, gian tham, trốn tránh nhiệm vụ của mình trong gia đình, ngoài xã hội, thích được mang đanh hiệu là tín hữu hơn là sống đúng theo Tin Mừng của Chúa Kitô; mượn việc đi nhà thờ, đọc kinh, dự lễ để trốn tránh bổn phận bác ái, phục vụ người khác; làm ra vẻ hăng hái, nhiệt thành để được tiếng khen; chà đạp người khác để nâng mình lên… Nói chung là lấy những hình thức bên ngoài để thay thế cho nhiệm vụ đích thực của người Kitô hữu là thi hành luật tình yêu của Chúa: sống công bằng, bác ái, phục vụ, trong sạch, hiền lành, hoà thuận. Đó là kết quả có lòng yêu mến chân thành. Điều cốt yếu là phải có lòng yêu mến chân thành bên trong chứ không phải hình thức giả dối bên ngoài. Con người chỉ nhìn thấy bên ngoài, còn Chúa thấu suốt tận tâm can. Chính tình yêu bên trong sẽ làm cho mọi việc bên ngoài có giá trị đích thực. Thiếu tình yêu bên trong, mọi việc bên ngoài chỉ là bôi bác, giả dối.
Chúa Giêsu có lần mượn hình ảnh những mồ mả quét vôi trắng tinh để nói cho những người Biệt Phái hiểu: cái lối đạo đức giả của họ trong thể che đậy được tội lỗi của họ. Mồ mả dù có quét vôi trắng tinh, sạch sẽ đến đâu cũng không làm cho ai quên được cái thây ma thối tha bên dưới (x. Mt 23,27-32). Chúa còn nói thẳng với họ: “Không phải môi miệng cứ lâm râm lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là phải làm theo ý Cha trên trời”. Chính việc làm theo ý Chúa Cha mới được vào Nước Trời chứ không phải việc tôn thờ giả dối ngoài môi miệng: “Dân này thờ kính Ta ngoài môi miệng, còn lòng trí chúng lại xa cách Ta”.
Thưa anh chị em, để áp dụng cụ thể, Thánh Giacôbê Tông Đồ hôm nay kêu gọi chúng ta hãy thực thi luật yêu thương của Chúa bằng việc phục vụ những người nghèo khó, nhất là những cô nhi, quả phụ. Bởi vì họ phải chịu nhiều thiệt thòi bất công và ít được nâng đỡ, bênh vực hơn những người khác. Thánh Giacôbê cũng mời gọi chúng ta phải xa tránh “tinh thần thế tục” vì đó là điều kiện cần thiết để sống chúng ta được “trong sạch, không tì vết”: “Lòng đạo đức tinh tuyền và không chê trách được trước mặt Thiên Chúa Cha, đó là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cơn cùng khốn và giữ mình cho khỏi vết nhơ của thế gian”.
Anh chị em thân mến,
Người Kitô hữu đích thực là người có lòng tin, đồng thời có những việc làm cụ thể để diễn tả lòng tin của mình. Trức mặt Chúa, cách chưng diện, thời trang, không quan trọng bằng tâm hồn trong trắng, đầy tình yêu mến và thể hiện trong nếp sống yêu thương, phục vụ anh em, đặc biệt là những người cô thế cô thân. Nếu rửa tay sạch trước khi ăn là vấn đề vệ sinh thưởng thức của cuộc sống con người, thì tẩy rửa tâm hồn trong sạch trước khi dự Tiệc Thánh Thể là điều kiện cần thiết của con cái Chúa để xứng đáng tiếp rước Ngài.
53. Cái nào quan trọng – Gm. Arthur Tone.
Khoảng 2 giờ, một buổi sáng lạnh và gió lớn, chuông điện thoại nhà xứ reo, có tiếng hốt hoảng la lên: “Tôi tưởng ông ngoại qua đời”. Vì chỉ cách 2 căn phố. Cha Murray đi bách bộ, khi ngài qua một ngõ hẻm, chợt xuất hiện một bóng hình cầm cây súng bước tới truyền lệnh: “Đưa tiền đây!”. Vị linh mục nói với người cầm súng: “Ví của tôi để ở trong túi áo khoác”. Khi ngài mở nút áo khoác để lấy ví, để lộ chiếc cổ áo Roma. Kẻ cướp ấp úng: “Ôi con không biết cha là linh mục, con xin lỗi, cha cất tiền đi”. Bình tĩnh lại vị linh mục đưa cho y một điếu thuốc xì gà, nhưng y lắc đầu: “Không, cám ơn cha, trong mùa chay con không hút thuốc”.
Kẻ cướp đường đã hành động như một người Biệt phái. Người Biệt phái giữ hết sức chi tiết những điều lệ nhỏ nhặt của luật Do Thái, trong khi đó lại bỏ bê những giới răn quan trọng. Đó là lý do Đức Kitô khiển trách họ. Họ ghét Chúa Giêsu vì Người đe dọa địa vị của họ, như những người lãnh đạo tôn giáo. Họ dò xét Chúa, cố gắng bắt bẻ Người trong lời nói. Họ chỉ trích Người đã hòa mình với người thu thuế và tội lỗi. Người đã bỏ qua lệ rửa tay chân như trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ nói Chúa Giêsu không thể tha tội. Người dùng quyền lực của quỷ mà trừ quỷ. Họ làm điều lành chỉ cốt cho người ta thấy.
Ngày nay còn người Biệt phái không? Bất hạnh thay, vẫn còn. Đây là một vài kiểu Biệt phái tân thời: Những người Công giáo lẫn lộn những cái không quan trọng với cái thật sự quan trọng.
Giả sử tôi nói với một người nào đến trễ lễ: “Bạn bất lịch sự”. Chắc người ấy cho rằng bị xỉ nhục. Nhưng vì lỗi mình, đến lễ trễ, là một sự xúc phạm đến Chúa, làm lo ra những người trong nhà thờ và cho vị chủ lễ. Có người mỉm cười với bất kỳ ai gặp trong nhà thờ, dĩ nhiên điều đó tốt. Nhưng họ không nói một lời với Chúa trên bàn thờ cũng như đi dự đại tiệc, chỉ nói chuyện với mọi người, trừ ông chủ tiệc. Cái nào quan trọng?
Có những người Công giáo và những người khác nữa, họ không nghĩ rằng họ sẽ tổ chức hay dự một bữa tiệc nêu có một vết nhơ trên bàn, hay trên dĩa hoặc trên quần áo của họ. Nhưng ngôn ngữ của họ không phải chỉ có vết nhơ, mà nó thật sự thô bỉ, một sự thô bỉ bên trong hơn là bên ngoài như Chúa Giêsu đã chỉ rõ trong bài Tin Mừng hôm nay.
Có người trong chúng ta ra ngoài thì hoang phí, rộng rãi với anh bồi ở quán rượu, hào phóng với cô chaỵ bàn; nhưng lại rất keo kiệt với người thân thương, và với Chúa.
Nhiều người không bao giờ quên câu nói: “Xin vui lòng, cám ơn, xin lỗi”, khi ở ngoài gia đình. Nhưng giữa những người thân yêu, ít khi bạn nghe được những từ quan trọng ấy.
Bạn có thể nghĩ đến những hoàn cảnh, trong đó bạn phải sạch sẽ, lịch sự, hào hiệp, chỉ khi nào những hoàn cảnh đó được trình diễn trước mặt mọi người, để đạt được tín nhiệm hoặc tránh khỏi phê bình. Hãy cố gắng đừng làm Biệt phái.
Cám ơn Chúa vì phần lớn những người chân thành, họ đặt người khác và sự vật vào đúng vị trí trật tự của nó. Như đặt Thánh Lễ lên đầu bảng danh sách những việc quan trọng.
Xin Chúa chúc lành bạn.
54. Phải thờ Chúa trong tâm hồn – Noel Quesson.
Cha Murray (Muy-rây) lủi thủi đi trên phố vắng đêm khuya, ngài đang đưa Mình Thánh cho một bệnh nhân nguy kịch. Tới góc phố, chợt một tên cướp nhảy ra chĩa súng quát: “Đứng lại, đưa tiền đây!”. Cha Murray mở áo khoác, lấy ví tiền. Tên cướp ngó thấy ngài mặc áo đen và mang cổ trắng, nhận ra đó là một linh mục, hắn ấp úng nói: “Thưa cha, con không biết. Con xin lỗi, cha cất tiền đi”. Cha Murray bình tĩnh lại, ngài móc gói thuốc mời hắn một điều. Nhưng ngài lại ngạc nhiên lần nữa nghe hắn nói: “Cám ơn cha, bây giờ đang Mùa Chay, con không hút thuốc”.
Có những người coi việc giữ luật là quan trọng, còn tình trạng tâm hồn mình là không đáng kể. Họ thấy cần thiết phải giữ chay, còn có đi ăn trộm, ăn cướp cũng chả sao. Đó là một sai lầm mà Chúa Giêsu luôn tìm cách sửa đổi. Có thể coi đây là một trong những khác biệt giữa tâm tình giữ đạo của các Biệt phái và nhóm môn đệ sống theo Lời Chúa. Các Biệt phái nghiêm chỉnh giữ luật tắm rửa, lau chùi, rửa bình… không phải vì lý do vệ sinh, nhưng là nghi lễ thanh tẩy. Họ khó chịu, chê trách Chúa và các môn đệ vì không tuân giữ luật cũ. Dù nhóm môn đệ rất nhiệt thành giữ đạo, nhưng đôi khi trong nếp sống cũng bị nhiễm lây một vài thói tục mà người Biệt phái cho là phóng túng. Chúa Giêsu coi những chuyện này là không quan trọng. Chủ yếu là do cõi lòng. Chúa luôn bảo vệ, bênh vực những kẻ mà nhóm bảo thủ cho là người xấu, người tội lỗi, những người thu thuế, các cô gái điếm. Chúa tỏ lòng nhân từ và khoan dung với người nghèo khó, bé mọn… nhất là khi những người này bị xét đoán gắt gay.
Một lý do khác nữa là Chúa Giêsu nghĩ tới một Giáo Hội phổ quát chứ không đóng khung trong dân tộc Do Thái. Những phong tục, tập quán của Do Thái là tốt, nhưng đến lúc phải mở rộng hơn để đón nhận mọi nếp sống, mọi nền văn minh trên toàn thế giới. Vậy phải sàng sảy, chọn lọc, chỉ giữ lại những gì cốt yếu và coi nhẹ những điểm phụ thuộc. Chúa bảo có một số cổ lệ không do Thiên Chúa mà chỉ do con người. Những cổ lệ đó cần đổi thay, điều chỉnh cho sáng tỏ tinh thần tôn kính Thiên Chúa và chu toàn bác ái đối với anh em. Nếu không sẽ chỉ đáng nghe lời quở trách của ngôn sứ Isai: “Dân này tôn thờ ta ngoài môi miệng mà lòng trí ở xa Ta”.
Phải làm sao cho sáng tỏ tinh thần, không bị lu mờ che khuất vì nếp sống bên ngoài. Phải làm sao cho mọi người, tín đồ cũng như người chưa tin, thấy điều quan trọng là ở tâm tình, chứ không ở luật lệ, hay lễ nghi thờ tự. Những điều này chỉ có giá trị nếu làm nổi bật tinh thần bên trong, là việc mến Chúa, yêu người.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy chúng con để chúng con biết tôn trọng tinh thần hơn tục lệ, biết nhìn anh em theo hướng nhìn cởi mở của Chúa.
55. Cõi lòng.
Trong cuộc sống thường ngày, đối với người Tây Phương thì con tim, còn đối với người Đông Phương chúng ta, thì cõi lòng là yếu tố quan trọng cho mọi hoạt động của chúng ta. Vì thế, chúng ta thường nói:
– Thèm lòng chứ không thèm thịt. Hay của ít lòng nhiều.
Cho dù chúng ta có làm được những việc tốt lành, mà nếu không có sự góp phần của con tim, của cõi lòng, thì chúng ta cũng chỉ là những kẻ bôi bác, giả hình và dối gạt mà thôi.
Ca dao tục ngữ đã diễn tả về hạng người này như sau:
– Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.
– Miệng thì thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không gươm.
Chính vì thế mà chúng ta cần phải đề cao cảnh giác đối với hạng người nham hiểm này.
Trong Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng có những ý nghĩ như vậy. Ngài coi cái tâm, cái lòng là yếu tố chi phối mọi việc làm của chúng ta, như chúng ta thường bảo:
– Tư tưởng thì hướng dẫn hành động.
Hay như Chúa đã phán dạy:
– Lòng đầy thì mới tràn ra ngoài.
Chính vì thế, rất nhiều lần Ngài đã lên tiếng phê bình chỉ trích thói giả hình của bọn Biệt phái và luật sĩ. Bởi vì, họ chỉ có cái vỏ bên ngoài, còn bên trong thì lại rỗng tuếch, thiếu vắng cái tâm, cái lòng.
Họ giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi trắng xóa, nhưng bên trong thì lại đầy dòi bọ và xú khí. Họ chuộng hình thức bề ngoài, nhưng lại chẳng có tinh thần bên trong.
Chẳng hạn, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, họ cẩn thận rửa tay trước khi ăn, nhưng tâm hồn họ thì lại bị hoen ố bởi gian tham và tội ác, khiến Chúa đã phải mượn lời tiên tri Isaia mà nói về họ:
– Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta.
Rồi Ngài còn xác quyết chính yếu tố bên trong mới là yếu tố quyết định tính cách tốt hay xấu của một hành động:
– Bởi vì từ bên trong từ cõi lòng xuất phát ra những ý định xấu như tà dâm, trộm cướp, giết người… Chính những điều xấu xa này, từ bên trong xuất ra và làm cho con người trở thành ô uế.
Với chúng ta cũng vậy. Chúa đòi hỏi nơi chúng ta tấm lòng chân thành khiêm cung, như lời Ngài đã phán:
– Ta muốn lòng nhân lành chứ không muốn lễ vật.
Nơi khác, Ngài cũng bảo:
– Lòng sám hối khiêm cung Chúa chẳng khinh chê.
Và hơn thế nữa, chính tình yêu xuất phát từ cõi lòng, từ con tim sẽ làm cho những việc làm nhỏ bé tầm thường của chúng ta có được một giá trị to lớn và cao cả trước mặt Chúa.
Bởi vì, tình yêu xuất phát từ bên trong sẽ là như chiếc đũa thần, biến những việc làm nhỏ bé tầm thường của chúng ta trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời chúng ta.
56. Bề ngoài.
Trong xã hội ngày nay, chúng ta thấy có một sức quyến rũ mạnh mẽ về những cái mã bề ngoài. Các dịch vụ quảng cáo thương mại nhấn mạnh đến những sản phẩm làm cho người ta ngày càng đẹp hơn, có làn da trắng hơn, có mái tóc mượt hơn hay làm cho người ta trở nên hấp dẫn hơn với người khác phái. Người ta muốn tỏ ra mình là người xinh đẹp, lôi cuốn và hợp thời trang.
Nhưng bạn hãy tưởng tượng nếu bạn có thể dùng một phương tiện chẳng hạn như tia X, để nhìn thấu linh hồn của mỗi người và mọi người. Bạn có thể nhìn thấy bạn bè, những người thân quen, cùng với tất cả những tham vọng thầm kín, những khao khát, những ước mơ, những ý hướng, những tình cảm, những kế hoạch, những tư tưởng thầm kín. Người ta có thể chắc chắn với bạn rằng bạn sẽ bị sốc kinh khủng về những người bạn đã quen biết. Lúc ấy, bạn sẽ thấy những người bề ngoài xem ra rất hấp dẫn lại chứa đầy trong lòng sự thù hận, không tha thứ, tự kiêu, ích kỷ và những thứ khác đáng phải lánh xa. Bởi vì họ nghèo nàn hơn, thiếu giáo dục hơn, tồi tệ hơn so với vẻ bên ngoài đẹp đẽ, quyến rũ và trong sáng. Bây giờ bạn hãy rọi tia X vào chính con người của bạn. Bạn thấy những gì? Bạn có thích thú với những gì bạn xem thấy hay không? Bạn có thấy mình hấp dẫn không? Đây là điều quan trọng. Bởi vì Thiên Chúa luôn luôn nhìn thấu suốt cõi lòng của bạn. Và đến ngày bạn chết, bạn sẽ chịu phán xét theo những gì mà chúng ta thấy với tia X như thế.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhìn nhìn thấy bản thân mình như Chúa vẫn nhìn thấy con.
57. Giáp mặt.
Có một cuộc triển lãm lấy tên là “Hàng thật hàng giả”. Cuộc triển lãm này nhằm giới thiệu bộ mặt hàng hóa trong bối cảnh thị trường hiện nay, để nhà sản xuất và người tiêu dùng có cơ hội nắm vững tình hình. Qui mô triển lãm không lớn, thời gian trưng bày không lâu, nhưng ý nghĩa của nó được đánh giá không phải là nhỏ. Bởi lẽ nó gợi mở một dư luận đúng đắn trong đạo đức kinh doanh, nhằm tẩy chay hàng giả và cổ võ hàng thật, đồng thời góp phần hình thành một cung cách làm ăn sao cho chữ tín được tôn trọng và bảo vệ. Nhiều tờ báo đã đánh giá cao cuộc triển lãm này, có báo cho rằng đó là “một cuộc giáp mặt đầy lý thú”.
Bài Tin Mừng hôm nay, dầu chẳng liên quan gì đến cuộc triển lãm, nhưng cũng diễn ra như một cuộc giáp mặt giữa một bên là những người Pharisêu và kinh sư, còn bên kia là Chúa Giêsu và các môn đệ, với câu hỏi mở đầu xoay quanh vấn đề “sạch và dơ” theo luật lệ, để rồi cuối cùng trong câu trả lời mang tính cật vấn, Chúa Giêsu đã trực tiếp tố giác một lối sống đạo đức giả hình, và qua đó gián tiếp dạy bảo một lối sống mới trong đạo đức đích thực.
Trong Tin Mừng chúng ta hay nghe nói đến những người Pharisêu và kinh sư. Đây là những người sinh ra và lớn lên trong bầu khí đạo giáo, có người lại được huấn luyện nâng cao để trở thành những chuyên viên luật lệ, cuộc đời họ dường như gắn bó với luật lệ. Nếu chỉ có thế thì chẳng có gì phải nói, nhưng đàng này, dần dần họ cấu kết với nhau thành một nhóm nắm quyền giải thích và áp dụng luật lệ, để rồi tha hồ thao túng đến nỗi lấn lướt cả quyền lập pháp khi họ tự ý thêm bớt đủ điều, làm cho luật lệ mất đi dáng dấp nguyên thủy, đành lép vế dưới lớp áo truyền thống phàm nhân. Trên cơ sở đó, Chúa Giêsu đã tố giác: “Các ông gạt bỏ điều răn Thiên Chúa mà giữ lấy tập tục loài người”.
Rồi như một hệ lụy, những người Pharisêu và kinh sư thường xuất hiện công khai qua dáng vẻ tự phụ, cánh tay họ thò vào mọi ngõ ngách của cuộc sống: dòm ngó, xét nét, hạch sách người khác ngay trong những điều nhỏ nhặt như việc các môn đệ không rửa tay trước khi ăn kể lại trong Tin Mừng hôm nay.
Nhưng chính ở đây, bằng thái độ không khoan nhượng, Chúa Giêsu đã giật rơi chiếc mặt nạ đạo đức trên khuôn mặt họ, để trần trụi ra họ chỉ là những kẻ giả hình. Rõ trơ trẽn, xấu mà hay làm tốt. Điều làm cho người ta thành dơ bẩn không phải ở chỗ giữ hay không giữ tập tục rửa tay trước khi ăn mà chính là tâm địa của người ta. Đạo đâu phải là tuân giữ các tập tục và thực hành các nghi thức mà là một thái độ sống.
Thế là người cật vấn bây giờ trở thành kẻ bị cật vấn. Qua những người Pharisêu và kinh sư, Chúa Giêsu tố giác một lối sống giả hình, giả dối: thể hiện bên ngoài thì khác và trong lòng thì nghĩ khác, như tục ngữ đã nói: “Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt dạ ớt ngâm” để diễn tả những người mang mặt nạ giả danh tốt đẹp, bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc bên trong. Hạng người như hạng tú bà bị Nguyễn Du châm biếm trong truyện Kiều: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Chúng ta thường mắc phải cái tật xấu giả hình, giả dối của những người Pharisêu và kinh sư không? Chúng ta có coi nước sơn bên ngoài quan trọng hơn thứ gỗ bên trong không? Sống với nhau, chúng ta có đối xử với nhau theo kiểu chỉ có bề ngoài không? Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình.
Không những chúng ta không được giả hình, giả dối mà còn phải đấu tranh chống lại những cái giả chung quanh nữa. Những cái giả này ngày nay xuất hiện dưới nhiều hình thức và ở nhiều cấp độ khác nhau giữa chốn chợ đời, cụ thể nhất là hàng giả và thuốc giả. Mỗi cái giả đều có cái giá của nó trong sự tác hại: hàng giả gây nên “tiền mất” cho người mua sắm, thuốc giả gây thêm “tật mang” cho kẻ tin dùng. Còn người ta, một khi đã trở thành giả, như giả nhân giả nghĩa thì quả là một thảm họa không chỉ cho bản thân mà còn cho những người lân cận nữa. Trong cuộc chơi, như trong bóng đá chẳng hạn, động tác giả được xem là mưu trí, nhưng trong cuộc đời, động tác giả chỉ có thể là trò trí trá của những con người đã đánh mất phẩm chất đạo đức nơi mình.
Cuộc giáp mặt giữa những người Pharisêu và kinh sư với Chúa Giêsu và các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta liên tưởng tới những cuộc giáp mặt khác trong cuộc đời. Quả thực, dù muốn dù không chúng ta cũng sẽ thấy, sẽ gặp, sẽ chứng kiến những cuộc giáp mặt cụ thể và quyết liệt, như giữa hàng thật và hàng giả, của công và của tư, phim sạch và phim đen, mặt phải và mặt trái v.v… không có sẵn giải pháp cho từng trường hợp, nhưng vẫn có lời gọi hãy đứng về phía chân lý và hãy sống trung thực trong bất cứ trường hợp nào.
Dĩ nhiên sự thật tất thắng, nhưng đường đi đến sự thật là cả một cuộc đấu tranh sinh tử một mất một còn. Phân biệt thật giả đã khó, yêu mến và thi hành sự thật lại càng khó hơn, nó đòi hỏi lý trí và ý chí cũng như sự trợ giúp của ơn thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhận diện lại cuộc sống đạo đức của mình, đồng thời cũng là lời mời gọi hãy giành lấy phần thắng giữa những cuộc giáp mặt trong đời.
58. Giả hình.
Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng nhưng lòng họ thì xa Ta.
Cái sai lầm lớn nhất của bọn Biệt phái và luật sĩ, theo tôi nghĩ, đó là họ đã đảo lộn bậc thang giá trị. Lấy cái phụ làm chính và lấy cái chính làm phụ. Họ tuân giữ những tập tục của cha ông mà quên đi giới luật của Thiên Chúa. Họ bám víu vào những nghi thức bên ngoài mà quên đi tình mến bên trong.
Tôi xin đưa ra những thí dụ cụ thể:
Chẳng hạn, họ thấy các môn đệ của Chúa ngồi vào bàn mà không rửa tay. Đối với họ đó là một trọng tội không thể nào tha thứ. Người ta kể lại rằng: một luật sĩ tên là Aquiba, thà chết khát trong tù còn hơn là sai lỗi tập quán này. Ông đã lấy nước đổ trên tay dù rằng nước đó rất cần cho ông để được sống.
Từ đó chúng ta thấy họ còn là những con người hẹp hòi và thiển cận, đã quan trọng hóa những điều nhỏ mọn. Bên ngoài họ tắm gội, giặt giũ rất là cẩn thận, nhưng bên trong thì lại chất đầy những gian tham và tội ác, khiến cho Chúa Giêsu phải lên tiếng cảnh cáo:
– Khốn cho các ngươi, hỡi những biệt phái và luật sĩ giả hình, các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài thì đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy giòi bọ và xú khí.
Lần khác, thấy các môn đệ bứt những bông lúa chín ở dọc đường mà ăn trong ngày Sabbat, và họ đã lên tiếng bắt bẻ vì đã vi phạm ngày nghỉ lễ, khiến Chúa phải đặt lại vấn đề:
– Luật lệ vì con người hay con người vì luật lệ. Ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết?
Lòng nhiệt thành của họ có đấy nhưng lại quá vụ về hình thức. Trong khi chú trọng vào những chi tiết bên ngoài, họ quên mất tình yêu thương bên trong, là điều Chúa đòi hỏi mỗi người chúng ta:
– Các ngươi kinh kệ dài dòng mà lại nuốt trửng gia tài của các bà góa.
Và rồi Chúa đã chỉ trích:
– Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta.
Nhìn vào đời sống, nhiều người trong chúng ta cũng chẳng hơn gì bọn biệt phái. Chúng ta cũng đảo lộn bậc thang giá trị, lấy cái chính làm phụ và lấy cái phụ làm chính. Chúng ta cũng bấu víu vào nghi thức bên ngoài mà quên đi tình mến bên trong. Chúng ta cũng sống một cuộc sống bôi bác giả hình. Có người thì sùng bái ảnh tượng nhưng lại coi thường sự công bằng. Có người ưa đọc kinh dài dòng nhưng lại gian tham và hà khắc với anh em. Họ thật giống với mẫu người mà tục ngữ đã diễn tả:
– Khẩu Phật tâm xà.
– Miệng nam mô bụng bồ dao găm.
Có người thì tang ma cỗ bàn dềnh dang, cho cha mẹ, nhưng khi cha mẹ còn sống, thì lại hắt hủi và đối xử tệ bạc:
– Còn sống thì chẳng cho ăn,
Đến khi đã chết làm văn tế ruồi.
Có người lập gia đình thì chỉ nhắm tới tiền bạc và địa vị, mà quên rằng, tình yêu thương và tinh thần đạo đức mới là đảm bảo vững chắc cho cuộc sống lứa đôi.
Tất cả những sự kiện trên đều do thiếu lòng yêu mến chân thành mà sinh ra. Lòng yêu mến chân thành mới là yếu tố bên trong, mới là nền tảng vững chắc, thiếu nó thì việc làm của chúng ta chỉ là não bạt ầm vang, thiếu nó bản thân chúng ta chỉ là phường bôi bác giả hình. Vì thế, thánh Augustinô đã nói:
– Ama et fac quodvis. Hãy yêu rồi muốn làm gì cũng được.
Có một ông triệu phú chết đi để lại một gia tài to lớn. Ông sinh được một cậu con trai, nhưng cậu con này được gửi đi du học từ bé, nên không một ai biết mặt. Vì thế, tòa án phải nhắn tin trên báo cho cậu trở về.
Đúng ngày hẹn, người ta thấy có ba chàng thanh niên tự nhận là con của nhà triệu phú. Viên chánh án bèn lấy tấm hình của nhà triệu phú, rồi nói với ba chàng thanh niên:
– Ai bắn trúng thì được lãnh nhận gia tài.
Chàng thanh niên thứ nhất giơ súng và bắn, chàng thanh niên thứ hai cũng giơ súng và bắn. Còn chàng thanh niên thứ ba cũng giơ súng, nhưng rồi lại bỏ xuống và nói:
– Mặc dù đây chỉ là một tấm ảnh, nhưng nó gợi nhớ đến ba tôi, tôi không thể bắn.
Nhờ lòng yêu mến chân thành, viên quan tòa đã nhận ra chàng thanh niên thứ ba mới đúng là người con đích thực của nhà triệu phú và trao gia tài cho chàng.
Lòng yêu mến chân thành, được biểu lộ qua những việc làm cụ thể, chứng tỏ chúng ta là những người môn đệ đích thực của Chúa, bằng không, khuôn mặt đạo đức của chúng ta sẽ bị rơi xuống và chúng ta chỉ là những kẻ bôi bác giả hình.
59. Giả hình.
Rửa tay trước khi ăn, đối với người Do thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các người Pharisêu và kinh sư nói riêng và dân Do thái nói chung, thường rất khắt khe với tục lệ này. Họ cho đó là một nghi thức truyền thống quan trọng phải tuân giữ triệt để, để tỏ ra mình thanh sạch trước mọi người. Cái tục rửa tay của họ rất phức tạp chứ không đơn giản như kiểu chúng ta rửa tay để ăn uống: rửa ngón tay, bàn tay, cổ tay. Phải đổ nước từ từ cẩn thận từng chút, từng chỗ… thật cầu kỳ, phiền phức. Khi rửa tay như vậy, họ nghĩ rằng họ đã làm đẹp lòng Thiên Chúa vì đã làm đúng luật lệ và họ tin rằng một nghi thức bên ngoài như vậy có sức làm cho họ được thanh sạch. Vì thế, khi thấy các môn đệ của Chúa ngồi vào bàn ăn mà không rửa tay, không làm theo tập tục của họ, họ bực tức khó chịu, nên đã hạch hỏi và bắt bẻ Chúa.
Nhân dịp này Chúa Giêsu đã dạy cho họ một bài học thế nào là bẩn hay sạch. Trước hết, Chúa trưng lời ngôn sứ Isaia: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Chúa nhắc lại lời này để tố cáo họ đã khoác bên ngoài một bộ áo đạo đức để che lấp đi những hành vi xấu xa tội lỗi bên trong. Như thế là giả hình, giả dối. Họ đã coi cái võ quan trọng hơn cái ruột; cái hình thức hơn nội dung; cái bên ngoài cần hơn tấm lòng. Vấn đề rửa tay trước khi ăn. Thử hỏi việc rửa tay cần hay rửa tấm lòng là cần? Thật tình, nếu tay bẩn, chúng ta có thể dùng đũa, dùng thìa, chúng ta có ăn bốc đâu. Còn của ăn, tự nó là sạch, và được nấu nướng vệ sinh là sạch. Vì thế, Chúa nói cái làm cho bẩn là tấm lòng. Đúng vậy, lòng có đầy mới tràn ra ngoài bằng lời nói hay hành động: miệng nói ra những tư tưởng chất chứa trong lòng. Nếu đó là những tư tưởng tốt đẹp sẽ hướng dẫn con người hành động thiện hảo. Ngược lại, tư tưởng xấu sẽ dẫn người ta đến những hành vi độc ác, xấu xa. Thực vậy, chính cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, việc tốt hay xấu. Chính từ cõi lòng này mà sinh ra mười hai nết xấu Chúa kể trong Tin Mừng. Đó là mười hai tội chính và còn biết bao ác quả phụ tùng kèm theo nữa. Cho nên, người đời đã phải than rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò. Lòng người nham hiểm ai đo cho tường”, “Lòng người thăm thẳm mù khơi. Không bờ không bến biết nơi nào dò”. Tục ngữ còn nói: “Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm”. Để diễn tả người mang mặt nạ giả danh bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc bên trong; hạng người như hạng tú bà bị Nguyễn Du châm biếm trong truyện Kiều: “Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Câu chuyện sau đây là một bằng chứng: Trịnh Tụ là vợ của vua nước Sở, ghen tức với một mỹ nữ đã lọt vào mắt đen của nhà vua. Bà đã nghĩ ra một kế để hạ tình địch của mình. Một hôm, bà làm ra vẻ thân mật nói với mỹ nữ rằng: “Nhà vua có tính không thích người khác thở hơi vào mình. Nên khi vào hầu vua, thì phải giữ ý bịt mũi lại”. Mỹ nữ tưởng thật nghe theo. Mỗi lần tới hầu vua là lấy tay bịt mũi. Nhà vua lấy làm lạ hỏi tại sao vậy? Trịnh Tụ mau mắn trả lời: “Dạ thưa, người ấy sợ đại vương thân thể hôi hám, nên mới có cử chỉ như vậy”. Vua Sở nổi giận truyền đem mỹ nữ cắt mũi đi.
Lòng dạ con người thật nham hiểm. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: loài người không dò thấu được lòng nhau, nhưng Thiên Chúa thấu suốt cõi lòng mỗi người: “Ta là Thiên Chúa, Ta thấu suốt tâm can mỗi người từng gang tấc”. “Thiên Chúa, Đấng thấu suốt nơi kín nhiệm, sẽ thưởng công cho ngươi”, “Loài người nhìn bên ngoài, nhưng Thiên Chúa nhìn bên trong”, “Không có gì có thể che giấu được Thiên Chúa”… Lời Chúa thật rõ ràng, chúng ta không thể sống che giấu Thiên Chúa được. Chúng ta có thể sống đóng kịch, giấu diếm một số người, một số nơi, một số năm tháng, nhưng chúng ta không thể che giấu nổi Thiên Chúa. Chúng ta hãy suy nghĩ xem: chúng ta có thường mắc phải cái tật xấu giả hình, giả dối của những người Pharisêu và Kinh sư không? Chúng ta có coi nước sơn bên ngoài quan trọng hơn thứ gỗ bên trong không? Chúng ta nghĩ gì về một đời sống đạo đức, sốt sắng đọc kinh dâng lễ, nhưngc có thể bị đánh giá là chỉ tôn kính Chúa ngoài môi miệng, còn lòng thì xa Chúa? Sống với nhau, chúng ta có đối xử với nhau theo kiểu chỉ có bề ngoài không? Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình. Ít nhất một bài học chúng ta có thể rút ra từ bài Tin Mừng là: cố gắng thành thật với chính mình và lo hoán cải sửa đổi bên trong hơn là lo trang điểm, trình diễn bên ngoài. Thà “xanh vỏ đỏ lòng” còn hơn là “tốt mã rã đám”.
60. Con tim.
Trong giáo dục, chúng ta gắn tầm quan trọng tim cho cái đầu, cho trí óc nhiều hơn cho con tim, cho tình cảm. Dĩ nhiên tình cảm ít khi được xét đến. Chúng ta đào tạo một đứa trẻ thông minh hơn một đứa trẻ tốt. Thế giới kinh doanh và chính trị tưởng thưởng cho sự thông minh hơn cho lòng nhân hậu. Tuy nhiên trong ngôn ngữ hàng ngày chúng ta thừa nhận sự ưu tiên của con tim, của tâm hồn. Sau đây là một số ví dụ.
Chúng ta xét đoán một người bằng tâm hồn. Chúng ta có thể nói những điều chê trách như “ông ta không có tâm hồn” hoặc “ông ta có một tâm hồn băng giá” hoặc “một tâm hồn khô cứng”. Ngược lại, chúng ta có thể nói tốt về một người như “ông ấy có một tâm hồn”, hoặc “ông ta có tâm hồn nồng nhiệt hoặc dịu dàng”.
Chúng ta xét đoán mức độ cam kết của một người với một công việc bằng những từ ngữ chỉ tâm hồn. Chúng ta nói một người “không để tâm vào công việc” hoặc “chỉ đặt vào đó một nửa tâm hồn”. Và kết quả là người ấy sẽ bỏ cuộc. Cho dù không bỏ cuộc, người ấy sẽ không làm tốt công việc. Chúng ta nói về một người khác “chú tâm vào một công việc” hoặc “toàn tâm toàn ý vào công việc”. Và rồi người này có mọi khả năng không chỉ bền bỉ trong công việc mà còn làm cho công việc trở nên tốt nhất.
Chúng ta mô tả niềm vui và nỗi buồn bằng những từ ngữ chỉ tâm hồn. Chúng ta nói “Chị ấy có tâm hồn tan nát” hoặc “Chị ấy ra đi với con tim nặng trĩu”. Chúng ta nói “Tâm hồn của chị ấy bay bổng bởi niềm vui” hoặc “Chị ấy đã ra đi với tâm hồn thanh thản”.
Chúng ta cũng mô tả các gánh nặng và thương tích bằng những từ ngữ chỉ tâm hồn. Một “tâm hồn nặng trĩu” là một tâm hồn mệt mỏi gánh vác mọi thứ. Một “tâm hồn đau thương” mang trong mình một thương tích đau đớn nhất.
Người ta còn có thể đưa ra nhiều ví dụ khác nữa. Tuy nhiên chúng ta hãy trở lại xem xét hai ví dụ được nói đến trong Tin Mừng hôm nay.
Ví dụ thứ nhất liên quan đến việc thờ phượng. Người ta có thể chỉ trích sự thờ phượng của một người là người ấy không đặt tâm hồn vào việc thờ phượng. Trong trường hợp này, sự thờ phượng chỉ trên môi miệng, giống như những người Pharisêu đã làm. Trái lại một sự thờ phượng tốt nhất là sự thờ phượng của một người đặt hết tâm trí vào đó. Sự thờ phượng này xuất phát từ trong tâm hồn.
Ví dụ thứ hai liên quan đến điều xấu và điều tốt. Một tâm hồn hư hỏng là một hình thức tồi tệ nhất của điều xấu. Nó có nghĩa là xấu từ trong xương tủy. Một tâm hồn thanh khiết là thứ tốt nhất của điều tốt. Nó có nghĩa là tốt từ trong xương tủy.
Tin Mừng nhấn mạnh sự đề cao tâm hồn và chúng ta hiểu được tại sao. Tâm hồn là suối nguồn từ đó chảy ra dòng suy nghĩ, lời nói và công việc. Nếu tâm hồn trong sạch thì mọi dòng chảy phát xuất từ đó sẽđược trong sạch, giống như nước phun ra từ một suối nguồn tinh khiết. Những người Pharisêu quan tâm đến bề ngoài hơn bên trong. Họ quan tâm đến việc làm sạch bàn tay hơn làm sạch tâm hồn.
Vấn đề quan trọng là tâm hồn. Nhưng chỉ Thiên Chúa có thể nhìn thấy sự việc ở trong tâm hồn. Và chỉ Người có thể làm cho tâm hồn trở nên hoàn thiện.
61. Bên trong.
Chỉ có một người điên mới rửa một cái tách ở bên ngoài mà không rửa ở bên trong. Ít ra chúng ta phải chắc chắn bên trong đã được rửa sạch, còn bên ngoài thế nào cũng được. Đức Giêsu nói chúng ta cũng phải làm như thế đối với chính mình. Chúng ta phải có bên trong sạch sẽ, bên ngoài thế nào cũng được. Thật vậy, nếu bên trong (tâm hồn) đã thanh sạch thì bên ngoài (thái độ của chúng ta) cũng sẽ thanh sạch. Nhưng nếu bên trong không thanh sạch thì bên ngoài cũng sẽ không thanh sạch. Bên ngoài sẽ phản ảnh tình trạng của bên trong.
Những người Pharisêu đã nhìn điều xấu như một vật ở bên ngoài họ – trong các sự vật và đặc biệt trong những người khác. Họ tự hào mình là những người đạo đức và xem thường những người khác. Nếu điều xấu ở bên ngoài họ, thì họ có thể bảo vệ họ khỏi điều xấu bằng cách tránh tiếp xúc với dân chúng, hoặc nơi nào làm họ không thể thực hiện việc tắm rửa theo đúng nghi thức.
Những người Pharisêu là những người chân thành. Chỉ có điều là các nỗ lực của họ hướng về mục đích sai lầm. Đối với họ, cái bên ngoài là tất cả. Vì thế họ quan tâm đến sự thanh sạch bên ngoài mà bỏ quên điều quan trọng hơn – sự thanh sạch nội tâm hoặc sự thanh sạch của tâm hồn.
Đức Giêsu nói rằng căn nguyên của điều xấu ở bên trong chúng ta. Nó có gốc rễ trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta không thể bảo vệ mình khỏi điều xấu bằng việc cách ly với những người khác. Tất cả những điều ghê tởm mà Người liệt kê và chúng ta đọc trên báo chí: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng – tất cả những điều xấu xa đó đều xuất phát từ bên trong con người. Mầm mống của chúng ở bên trong tất cả chúng ta. Những điều đó làm cho một người trở nên ô uế trước mặt Thiên Chúa.
Đó là sự thật rất khó chịu và mỗi người chúng ta không biết đến hiểm họa của chính mình. Một vấn đề lớn của thời đại chúng ta là sự hiểu biết thiếu sót của chúng ta về chính mình, về điều xấu để nhận ra và đối phó với nó bên trong chúng ta. Dù sao cũng có một thứ an ủi và tự do khi biết được và chấp nhận sự thật khiêm nhường ấy.
Ngày nay, có một sự quan tâm to lớn đối với việc làm sạch sẽ thân thể. Vì thế mới có mọi thứ quảng cáo về xà bông và nước hoa. Và cũng có sự quan tâm về môi trường – với chất lượng của nước uống, thực phẩm, và không khí. Điều đó không phải là không quan trọng. Chỉ có điều là có một môi trường khác còn quan trọng hơn: môi trường đạo đức. Điều xấu là thứ ô nhiễm tồi tệ nhất trong mọi thứ ô nhiễm.
Nhưng nếu nguồn gốc điều xấu ở bên trong chúng ta, thì nguồn gốc của điều tốt cũng thế. Mọi tư tưởng lời nói và công việc của chúng ta tuôn trào từ tâm hồn như nước từ một dòng suối giấu kín. Nếu dòng suối trong sạch thì dòng chảy phát xuất từ đó sẽ trong sạch. Chúng ta phải làm thanh sạch suối nguồn.
Có một câu chuyện về một vị thầy một ngày nọ đặt những câu hỏi sau đây cho một số môn đệ: “Người ta phải tránh điều gì nhất trong đời?”
“Một con mắt xấu xa”, môn đệ thứ nhất nói.
“Một người bạn phản bội”, môn đệ thứ hai nói.
“Một người láng giềng xấu”, môn đệ thứ ba nói.
“Một tâm hồn xấu”, môn đệ thứ tư nói.
Vị thầy thích câu đáp cuối cùng nhất bởi vì nó bao hàm mọi câu khác. Rồi ông nói: “Và điều gì đáng ao ước nhất mà người ta cố gắng đạt đến trong đời?”
“Một con mắt tốt”, một người nói.
“Một người bạn tốt”, người thứ hai nói.
“Một người láng giềng tốt”, người thứ ba nói.
“Một tâm hồn tốt”, người thứ tư nói.
Vị thầy thích câu đáp cuối cùng nhất, vì nó bao hàm mọi câu khác.
Chúng ta phải cố gắng đạt đến sự trong sạch của tâm hồn. Sự trong sạch hoàn toàn của con người là điều không thể đạt được ở đây trên trần gian này. Nó là một cuộc đấu tranh liên tục. Một tâm hồn trong sạch, tinh tuyền không giống với một tâm hồn trống rỗng. Một tâm hồn đầy lòng yêu thương là một tâm hồn tinh tuyền và lành mạnh.
62. Phục vụ.
Một cái máy trả lời tự nó là một vật tốt. Nhưng khi chúng ta gọi điện thoại, chúng ta thích được nghe tiếng chào của một con người hơn là của một cái máy. Tuy nhiên, hãy cám ơn kỳ công của kỹ thuật hiện đại, tiếng nói của một người có thể ở đó trong khi người ấy vắng mặt.
Đã lâu rồi, trước khi những đồ dùng như cái máy trả lời được phát minh, người ta đã có thể làm điều đó tức là chỉ hiện diện trong tiếng nói. Không nơi nào mà điều đó nhận thấy rõ ràng như trong trường hợp thờ phượng. Đức Giêsu nói về những người Pharisêu: “Dân này tôn thờ Thiên Chúa bằng môi miệng, nhưng lòng của họ thì xa Người”.
Người ta có thể hiện diện trong nhà thờ chỉ bằng tiếng nói, nhưng sự thờ phượng của họ trở thành một nghi thức hầu như bằng môi miệng. Và điều làm cho vấn đề xấu hơn là tiếng nói ấy không còn là tiếng nói thường ngày của họ. Hẳn phải là tiếng nói long trọng và nghiêm trang, đặc biệt dành riêng cho ngày Chúa nhật. Những người như thế không tốt hơn những cái máy trả lời. Yếu tố quan trọng nhất ấy là sự vắng mặt của tâm hồn.
Điều này cũng được áp dụng cho bất cứ cuộc gặp gỡ hoặc tập họp nào. Hầu như nó cũng biểu lộ trong các cuộc họp mặt công cộng. Người ta ở đó, nhưng không thật sự ở đó. Đó là một cái tôi giả tạo như thể được dựng lên. Gặp gỡ những người như thế là gặp một cái bóng. Bạn rơi vào một cảm giác trống rỗng.
Sự hiện diện thật thì khác hẳn! Tâm hồn có mặt, và lời nói tuôn trào từ tâm hồn. Để lời nói chúng ta vang lên sự thật, chúng ta phải được nói từ tâm hồn. Nếu chúng chỉ từ môi miệng, chúng sẽ là một âm thanh trống rống. Và khi chúng là những lời nói thông minh, chúng cũng không thuyết phục và tạo hứng khởi cho ai.
Ví dụ hãy lấy những lời tha thứ. Nếu chúng không xuất phát từ tâm hồn phỏng có ích gì? Nó sẽ không đem lại tự do cho người gây ra xúc phạm. Hoặc sẽ không đạt đến kết quả là sự hòa giải thật sự giữa đôi bên.
Và những lời hòa bình. Nếu chúng không nói từ trong tâm hồn, làm sao có thể đem lại hòa bình? Dĩ nhiên là không rồi. Và những lời chào mừng. Tôi có thể mở cánh cửa nhà tôi cho một người với những lời nói tử tế, nhưng nếu tôi không dành chỗ cho người ấy trong trái tim tôi, người ấy vẫn cứ là một người xa lạ với tôi.
Chỉ với tâm hồn, chúng ta mới có thể nói những lời ngay thẳng. Và một sự hiện diện không có tâm hồn giống như một bếp lò không có lửa.
Sự hiện diện của tôi ở đây vào ngày Chúa nhật này có phẩm chất như thế nào? Tôi có thể hỏi liệu có sự tham dự của tâm hồn tôi hay không. Vậy đặt tâm hồn mình vào việc thờ phượng có nghĩa là gì? Điều này bao hàm sự chân thành, cam kết sâu xa và trên hết, lòng yêu mến.
63. Bài giảng thứ ba mươi hai.
Trong một buổi cấm phòng, vị linh mục 72 tuổi đã biết đến một cha xứ mới được bổ nhiệm đến một nhà thờ ở tiểu bang Kentucky, không xa một chỗ chạy đua Churchill Downs cho mấy:
Vào ngày Chúa Nhật đầu tiên, cha xứ mới đã giảng về cái xấu của cờ bạc, đánh cá độ và những tai họa do cờ bạc gây nên cho một số gia đình.
Sau Thánh lễ, ông chủ tịch hội đồng giáo xứ liền gọi cha xứ lại và bảo rằng những người dâng cúng cho nhà thờ đa số là những người đua cá ngựa và cờ bạc.
Vào Chúa Nhật thứ hai kế tiếp, cha xứ giảng về nạn hút thuốc và những tai họa do hút thuốc gây nên, như bị ung thư phổi và chết sớm.
Cũng như lần trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ lại và bảo rằng đa số những người dâng cúng rộng rãi cho nhà thờ là những người trồng cây thuốc lá, và tiểu bang Kentucky là nổi tiếng nghề này.
Vào Chúa Nhật thứ ba kế tiếp, cha xứ giảng về nạn uống rượu bia và tai họa do rượu bia gây nên cho các gia đình, như gây tai nạn xe cộ và đập phá nhà cửa.
Cũng như lần trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ lại và bảo rằng đa số những người dâng cúng rộng rãi cho nhà thờ là những nhà nấu rượu và tiểu bang Kentucky nổi tiếng về công việc này.
Cha xứ thất vọng mới hỏi lại ông chủ tịch rằng: “Vậy tôi có thể giảng về vấn đề gì?” Ông chủ tịch liền trả lời: “Hãy giảng chống lại các nhà chính trị lừa đảo, mà trong giáo xứ chúng ta không có những hạng người này.”
Câu chuyện trên nói lên một điểm là nhiều người đi lễ giữ đạo nhưng không thích nghe những điều động đến cuộc sống của họ, không muốn sửa đổi cuộc sống để thực sự sống đạo, sống theo những điều Chúa Kitô dạy.
Đây chính là chủ nghĩa tuân theo luật pháp mà Chúa Giêsu đã lên án kịch liệt trong thời của Ngài.
Để diễn tả những cách đạo đức giả của chủ nghĩa tuân theo luật pháp này, William Barclay đã kể cho chúng ta một câu truyện sau đây. Câu truyện này tả về một người Hồi giáo đuổi giết kẻ thù của anh.
Trong khi đang đuổi giết kẻ thù của mình, người Hồi giáo nghe chuông báo giờ cầu nguyện. Anh liền ngừng ngựa lại, trải tấm chiếu ra, quì xuống và cầu nguyện nhanh bao nhiêu có thể. Sau khi đọc xong lời nguyện, anh liền nhảy lên ngựa và tiếp tục đuổi giết kẻ thù của mình.
Theo đạo không chỉ là làm những gì buộc vào các ngày Chúa Nhật. Không chỉ là giữ một số luật lệ, đọc một số kinh, hoặc làm một vài cử chỉ đạo đức.
Chúa Giêsu đã nói rất rõ theo đạo không chỉ là làm một số nghi thức theo luật buộc vào một số giờ trong ngày. Sống đạo không chỉ là giữ một số luật lệ, đọc một số kinh, hoặc làm một vài cử chỉ đạo đức. Nhưng sống đạo là ở trong tâm hồn. Sống đạo là một việc làm của trái tim kêu gọi yêu mến Thiên Chúa và nhân loại. Chúa Giêsu trưng lại Cựu Ước: “Dân này thờ Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng thì xa Ta”.
Hơn nữa, các bài đọc còn mời gọi chúng ta hãy nhìn vào tâm hồn của mình để xét mình coi trong phạm vi nào mà lời của Thánh Giacôbê viết trong bài đọc thứ hai hôm nay áp dụng với chúng ta: “Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chớ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình.”
64. Tiến sĩ luật bị tù – Lm. Mark Link.
Chủ đề: “Trọng tâm tôn giáo không ở tại nghi thức và lề luật mà ở tại yêu mến Chúa và tha nhân”
Nhà thần học William Barclay kể lại câu chuyện một Rabbi (tiến sĩ Luật Do Thái giáo) lão thành nọ bị tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm mục đích kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua, vị Rabbi ấy ngày càng yếu dần. Cuối cùng người ta buộc phải mời một y sĩ đến khám. Y sĩ bảo rằng cơ thể ông ta bị thiếu nước.
Báo cáo của y sĩ khiến đám sĩ quan cai ngục bối rối. Họ không hiểu nổi tại sao vị Rabbi ấy lại có thể thiếu nước, bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, song vẫn tương đối đủ chứ đâu đến nỗi tệ! Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát “Ông già” ấy một cách kỹ lưỡng hơn để thử xem ông ta làm gì với số nước ấy. Cuối cùng người ta đã khám phá ra bí mật. Ông Rabbi ấy đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn. Như thế đương nhiên ông ta chỉ còn lại rất ít nước để uống.
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được bài Phúc Âm hôm nay. Nó giúp ta hiểu rõ hơn các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã cảm thấy chướng tai gai mắt và bực bội thế nào khi nhìn thấy các môn đệ Chúa Giêsu ăn uống mà chẳng chịu rửa tay theo đúng nghi thức.
Đấy chính là điểm quan trọng của bài Phúc Âm hôm nay. Điểm quan trọng này được biểu lộ trong một tranh luận sôi nổi giữa chúng ta và những nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Chúng ta hãy xét kỹ hơn cuộc tranh luận đặc biệt này.
Khi Chúa Giêsu nói về “Lề luật”, thì từ ngữ này có một trong hai ý nghĩa: Hoặc là lề luật thành văn hoặc là lề luật “truyền khẩu”. Trong hai thứ lề luật này cái cổ hơn và quan trọng hơn là lề luật thành văn. Lề luật này căn cứ trên sách Torah (Ngũ Thư) nghĩa là 5 quyển sách đầu tiên của Cựu Ước, đôi khi còn gọi là luật Môisê. Một số lề luật này mang tính cụ thể và đặc thù, số còn lại thì rất chung chung giống những kiểu mẫu phải theo hơn là luật lệ. Trong một thời gian dài, dân Do Thái bằng lòng với những “kiểu mẫu” này. Họ áp dụng chúng vào đời sống vì thấy chúng thích hợp.
Tuy nhiên, tới thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, có một nhóm chuyên nghiên cứu về Luật đã tạo được một ảnh hưởng mạnh mẽ trong dân chúng Israel. Họ thấy những điều luật tổng quát trong bộ luật ấy quá mơ hồ, thiếu tính rõ ràng, cần phải được soạn thảo lại cho rõ ràng, với nhiều chi tiết hơn. Và họ đã tiến hành làm công việc ấy. Từ đó phát sinh ra bộ luật thứ hai, gồm những luật truyền miệng, hay những truyền thống khẩu truyền. Trong khoảng thời gian này, trong dân chúng Do Thái, có rất nhiều người muốn bắt chước các tư tế của họ về sự thánh thiện bề ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn theo lề luật thành văn, mọi tư tế đều phải rửa tay trước khi vào nơi thánh trong đền thờ. Mục đích của luật này là tẩy rửa đi tất cả những gì là ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa hơn. Dần dần, dân chúng cũng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Và bằng những suy nghĩ tương tự như thế, họ cũng rửa tay trước khi dùng bữa nữa.
Vào thời Chúa Giêsu, dân Do Thái tuân giữ những lề luật truyền khẩu này cũng tỉ mỉ và thành tín chẳng khác nào lề luật thành văn của Ngũ Thư. Ý tưởng hàm chứa đàng sau việc tuân giữ này quả thực cao đẹp, bởi nó nhằm mục đích làm cho tôn giáo thấm nhập vào mỗi hành vi của cuộc sống. Nhưng trong quá trình thực thi luật lệ này, một điều bi đát đã xảy ra vì tôn giáo đã dần dần thoái hoá thành một hoạt động chỉ đơn thuần là chu toàn những nghi thức bên ngoài: Tuân giữ những nghi thức này thì được kể là đạo đức, là biết phụng sự Chúa. Để nói lên sự nguy hiểm của thói nệ luật ấy, William Barclay chứng tỏ rằng xét về mặt lý thuyết, người ta có thể căm ghét kẻ khác một cách sâu sắc từ trong trái tim, nhưng họ chẳng hề áy náy gì cả “bao lâu họ còn tuân thủ chặt chẽ nghi thức rửa tay và những nghi thức đúng đắn khác về vấn đề thanh tẩy”.
Để minh hoạ thói nệ luật này rõ hơn, Barclay kể thêm một câu chuyện có lẽ có ghi trong Nguỵ thư nói về một người Hồi Giáo đuổi theo để giết kẻ thù của anh ta. Đang khi rượt theo kẻ thù ấy, chợt hồi chuông báo giờ cầu nguyện vang lên. Lập tức anh hồi giáo này nhảy ngay xuống ngựa, mở thánh kinh ra quì gối xuống và cầu kinh theo như luật định một cách hết sức lẹ làng. Đoạn, anh ta lại leo lên ngựa tiếp tục rượt theo kẻ thù. Đó chính là chủ nghĩa câu nệ lề luật mà Chúa Giêsu cực lực phản đối.
Tất cả những chuyện ấy dạy chúng ta điều gì? Nó cảnh cáo ta đừng rơi vào chủ nghĩa đồng hoá tôn giáo với việc chu toàn những hành vi bên ngoài. Chẳng hạn việc đi lễ, đọc kinh, đọc sách thánh, làm việc bố thí… tự chúng chưa bảo đảm rằng chúng ta thánh thiện đâu.
Lý do rất đơn giản là chúng ta có thể làm tất cả những điều này vì một lý do không mấy đúng đắn, hoặc chúng ta có thể làm tất cả điều này mà không phải do yêu thương, vì điều quan trọng không phải là việc chúng ta làm, mà chính là tình yêu trong trái tim đã thúc đẩy chúng ta làm việc đó. Nếu trái tim chúng ta chất đầy nỗi chua chát hoặc kiêu căng thì tất cả mọi nghi thức bề ngoài trước mắt thế gian cũng sẽ chẳng làm cho chúng ta thánh thiện trước mặt Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình, tự vấn xem mình đã áp dụng những lời trong bài đọc thứ hai chưa?
“Anh chị em đừng đánh lừa mình khi cho rằng chỉ cần nghe lời Chúa là đủ… Tôn giáo tinh tuyền và chân thực phải là biết lo lắng cho kẻ mồ côi goá bụa.. và giữ mình khỏi bị băng hoại hư hỏng”.
Và liệu những lời của tiên tri Isaia mà Chúa Giêsu dùng trong bài Phúc Âm hôm nay bao gồm cả chúng ta không? “Đám dân này thờ Ta ngoài môi miệng, còn lòng dạ chúng thì quả thực là xa Ta”.
Tóm lại, điều cốt lõi trong tôn giáo không phải là chúng ta làm việc này việc nọ, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Hành động của chúng ta phải phát xuất từ tình yêu, từ con tim: yêu Thiên Chúa và thương tha nhân.
Để kết thúc, chúng ta hãy nghiêm trang đọc lại những lời nói về Tình yêu của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô.
“Dù cho tôi có biệt tài giảng thuyết… Dù cho đức tin tôi cực kỳ mạnh mẽ có thể dời núi chuyển non, mà nếu chẳng có Đức Ái thì tôi sẽ chẳng là gì cả. Dầu tôi dâng hiến tất cả mọi điều tôi có mà tôi không có Đức Ái thì điều ấy cũng chả lợi lộc gì cho tôi.
“Tình yêu đòi hỏi sự kiên nhẫn và tử tế, không ganh tị, kiêu căng xấc láo, tình yêu khiến ta không vụng xử, không ích kỷ hay dễ nóng giận, tình yêu không để bụng chấp nhất những sai trái. Tình yêu không bao giờ lùi bước, tình yêu thì bất diệt. Vì thế, tình yêu chính là điều anh em phải nổ lực tìm kiếm”. (1Cr 13, 2-8; 14,1)
65. Nét đẹp của tâm hồn – Lm. Vũ Xuân Hạnh.
Cách đây chừng hơn một tháng, dư luận cả nước xôn xao về một vụ hãm hại người khác mang tính cách gia đình mà mới nghe qua, người ta khó lòng tin đó là sự thật. Cùng lắm nó chỉ có thể xuất hiện trong tiểu thuyết được trí tưởng tượng phi thường của ai đó hư cấu mà có. Có ai ngờ chuyện như tiểu thuyết ấy lại xảy ra thật. Bởi thế, hình như ai nghe cũng sửng sốt, bàng hoàng.
Chuyện tưởng không mà có ấy, chính là câu chuyện về người mẫu Võ Thị Thu Trâm bị chính mẹ ruột của mình đổ dầu sôi vào mặt. Theo báo Công an, sáng hôm ấy, trong khi Thu Trâm còn đang ngủ, mẹ của cô đã đi mua một chai dầu ăn cỡ một lít, mang về nhà nấu sôi khoảng 5 phút, sau đó đem nguyên chảo dầu sôi ấy tưới vào mặt con gái mình. Mẹ mà rắp tâm hãm hại con đã là chuyện quá sức bi đát. Nhưng bên cạnh còn một điều đáng lưu ý hơn, bởi một thái độ quá tàn nhẫn, và thái độ tàn nhẫn đó, lại chính là thái độ của một người mẹ dành cho con mình. Nó làm cho ta nhói đau: Sau khi tưới dầu sôi vào mặt con, bà đã ung dung ra khỏi nhà mua một lố dầu nhị thiên đường, để chuẩn bị khi vào tù, bà có dầu xức vì bà thích xức dầu nhị thiên đường. Người ta tự hỏi, vì lý do nào, một người mẹ rứt ruột sanh ra đứa con của mình nuôi cho nó lớn, nên vóc, nên hình, bây giờ lại tàn nhẫn đến mức không còn một chút lương tâm như thế. Mẹ của Thu Trâm trả lời: Vì tức giận con đã cư xử tệ bạc, vô ơn. Bà buồn con mình đã quên mất người mẹ nghèo tần tảo đã từng lặn lội khắp nơi với gánh ve chai trên vai bất kể mưa nắng, bất kể sự mệt nhọc để nuôi chị em Thu Trâm thành tài: chị cả làm giáo viên, anh hai làm tài xế, và Thu Trâm, một người đẹp đến nỗi có thể bước chân vào nghành người mẫu. Nghe đâu, Thu Trâm còn được đề cử tham dự cuộc thi “Hoa hậu liên lục địa”. Vậy mà đã có lần, bạn bè tới nhà chơi, Thu Trâm xấu hổ không dám giới thiệu mẹ của mình.
Đi từ câu chuyện nhỏ bé trong cuộc đời như thế, tôi lại bắt gặp Lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng Chúa nhật XXII hôm nay: “Hết thảy các ngươi hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế”. Bạn có thấy câu chuyện của hai mẹ con Thu Trâm là một sự dữ lớn không? Sự dữ lớn ấy chính là do tận đáy lòng người ta mang đầy sự kiêu ngạo, sự khinh dể người thân của mình, hơn nữa đó lại là người đã từng rứt ruột sinh thành và dưỡng dục mình. Đó cũng là sự oán hận chất chứa bấy lâu trong tâm, nó đã bào mòn tình mẹ con cho đến mức phát triển thành nỗi căm thù và đan tâm trả thù của một người mẹ. Có lẽ hành động tàn nhẫn ấy của một người mẹ là kết thúc của một quá trình mâu thuẫn kéo dài mà bà đã không thể vượt qua. Sự ác đã hình thành trong lòng của một người mẹ. Nhưng một cách nào đó, khi bỏ rơi mẹ mình, trước hết, sự ác cũng đã xuất hiện trong lòng của một người con. Suy nghĩ như thế, sao tôi thấy Lời Chúa Giêsu nói hay quá, đúng quá: “Từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăn loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế”. Đúng thế, trong tâm người ta toàn sự dữ, thì hành động của họ nguy hiểm khôn lường.
Vẻ đẹp trong tâm hồn là vẻ đẹp quý giá. Đẹp trong tâm hồn là nét đẹp không dễ gì nhìn thấy. Người ta chỉ có thể nhận ra một tâm hồn đẹp qua kết quả của đời sống nơi một ai đó. Đó mới chính là vẻ đẹp cần thiết làm cho con người nên cao trọng, đáng quý, đáng yêu. Đức tin là vẻ đẹp của tâm hồn. Và đức tin cũng không thể nhìn thấy, nếu không có kết quả bằng chính cuộc sống của mỗi người. Và nếu đức tin của ta vững mạnh, dù cho cuộc đời có vùi giập, cái chết oan nghiệt đến ngay trước mắt, hay kẻ thù có kề dao tận cổ, hoặc cám dỗ bởi phù phiếm, sa hoa, ngay cả tội lỗi đi nữa, ta vẫn cứ là một người không dễ lay chuyển, vẫn một lòng kiên trung, một lòng vươn lên sống thánh thiện. Chỉ sợ lòng ta yếu tin, cho nên ta nghi ngờ tình yêu của Chúa, ta thất vọng vì phải đương đầu với sóng gió trong đời mình. Chỉ sợ rằng ta đã đánh mất vẻ đẹp của lòng tin trong tâm hồn, vì thế không còn đủ sức, không còn can đảm chống lại cám dỗ của cuộc đời, cám dỗ của tội lỗi và của chính bản thân ta. Khi không đủ sức để vương lên sự thánh thiện, quả là ta đã thành ra một kẻ đầy nguy hiểm. Lúc đó chính là lúc rất thuận tiện để vi khuẩn của tội lỗi dễ bề đánh gục ta. Nó tấn công vào chính đời sống đức tin, làm cho ta trở nên yếu nhược. Và khi đó, không cần phải có bất cứ một lực xấu nào tác động, trái lại ngay tâm hồn của ta đã có sẵn cả một ổ vi khuẩn của tội đầy nguy hiểm. Chính vì sự nguy hiểm khôn cùng của nó mà Chúa Giêsu đã lên tiếng cảnh báo: “Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăn loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế”. Nói những lời này, Chúa Giêsu đòi phải có vẻ đẹp của tâm hồn, vẻ đẹp của đức tin, của sự thánh thiện, từ đó cuộc đời ta sẽ tỏa sáng lung linh bằng tất cả những gì là lành thánh, là phù hợp thánh ý Chúa, là sự trong sạch của tư tưởng, sự thành thật của lời nói, sự trung tín trong từng hành động. Nói một cách ngắn gọn, đó là tất cả hương thơm của vẻ đẹp tâm hồn. Chúa Giêsu đòi hỏi điều đó nơi chính bạn và chính tôi khi nói những lời như trên.
Từ câu chuyện ngoài đời thực về cô người mẫu Võ Thị Thu Trâm, không những nó soi sáng để dễ hiểu hơn Lời Chúa nói hôm nay, bên cạnh đó, nó còn cho ta một bài học về lòng hiếu thảo, về sự tha thứ, nhất là thái độ cảnh giác về sự dữ trong chính tâm hồn ta. Từ câu chuyện ngoài đời thực đến Lời Chúa mà bạn vừa cùng tôi suy niệm giúp ta mỗi một lần cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha, sẽ ý thức hơn về điều mà mình nguyện xin: “Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Sự dữ mà ta xin Cha thương cứu đó là tội lỗi, là hành vi và hậu quả của tội. Hoặc không phải là tội thì cũng là những rủi ro bất trắc xảy đến với ta. Nếu sự dữ bên ngoài ta, ví dụ: Tôi biết tôi sẽ chết, cái chết làm tôi kinh hãi, thì sự dữ khách quan ấy, đã đáng sợ, nhưng vẫn chưa đáng sợ nhất. Điều đáng sợ nhất là sự dữ nội tại trong ta. Chính sự dữ này biến ta thành kẻ nô lệ tội lỗi, thay vì phục vụ sự sống, có khi ta lao thân phục vụ cái chết, ném mình vào những đam mê hèn hạ, Bởi thế mỗi lần cầu nguyện: “Xin cứu con cho khỏi sự dữ”, là chính lúc ta xin Chúa gìn giữ mình thoát khỏi mọi nguy hại, đúng như Lời Chúa Giêsu hôm nay: “Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế”.
Để cho mình bị ô uế tận trong lòng là một nguy hiểm lớn. Chỉ có vẻ đẹp trong lòng mới là vẻ đẹp của tình yêu, của sự thánh thiện. Bởi thế ta xin Chúa cứu thoát mọi sự dữ để tâm hồn ta luôn là tâm hồn đẹp.
66. Truyền thống và chữ ‘Tâm’.
(Suy niệm của Lm. Gérard Bessière & Hyacinthe Vulliez)
“Các ông đã bỏ điều răn của Thiên Chúa mà giữ truyền thống của phàm nhân”
Trong bài Tin Mừng theo thánh Marcô hôm nay, các vị kinh sư, luật sĩ từ Giêrusalem kéo tới để chất vấn Chúa về chuyện truyền thống. Đức Giêsu đã bài bác họ, sau đó Ngài bày tỏ lập trường dứt khoát của mình.
Mấy vị đó chỉ làm bộ hỏi, thực ra là họ muốn lên án, vì họ nghĩ là họ nắm vững lẽ phải trong tay, dĩ nhiên là lẽ phải do họ đặt ra, áp đặt người khác phải chấp nhận.
Họ đề cập đến truyền thống rửa tay trước khi dùng bữa. Theo Sách Xuất Hành (Xh 30,17-21), các tư tế bắt buộc phải rửa tay trước khi cử hành các nghi lễ phụng tự. Các luật sĩ đã thêm vào giới luật này nhiều chi tiết rắc rối. Họ bắt buộc mọi người trước khi dùng bữa phải rửa tay, vì “mỗi bữa ăn đều là hành vi tôn giáo và toàn dân Israel là một dân tộc tư tế”. Đức Giêsu đã phản bác họ. Ngài nói: “Ngôn sứ Isaia thật đã nói rất đúng về các ông là những kẻ giả hình, khi viết rằng: “Thiên Chúa phán: “dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta”… Họ đã bỏ điều răn của Thiên Chúa mà chỉ giữ truyền thống của phàm nhân. Do đó mà họ có thờ phượng Thiên Chúa thì cũng vô ích, vì giáo lý của họ chỉ là giới luật phàm nhân, đúng như ngôn sứ Isaia nhận xét.
Thật vậy, Thiên Chúa chỉ ban mười giới luật, tóm lại là hai điều rút lại chỉ còn một điều duy nhất là mến Chúa yêu người. Còn luật sĩ và Pharisêu thì tạo ra hằng trăm khoản luật để khoác vào cổ dân chúng. Tất cả có 613 điều luật! Rõ ràng, truyền thống mà các vị đó đề cập chỉ là truyền thống người đời đã đặt ra. Cũng như luật kiêng cữ một số đồ ăn (như thịt heo) rõ ràng là một truyền thống phàm nhân đặt ra một cách tùy tiện. Theo truyền thống thì những thực phẩm này được coi là ô uế, dơ bẩn. Đức Giêsu phản bác lại bằng lập trường của Ngài: “Không có gì từ bên ngoài vào trong con người, lại có thể làm ô uế con người được. Nhưng cái gì từ con người xuất ra, mới là cái làm cho con người trở thành ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, xuất phát những ý đồ xấu xa…”.
Đức Giêsu đã phân biệt rõ rệt cái tục với cái thanh, cái ô uế với cái trong sạch, cái trong với cái ngoài, cũng như ta nói cái hình với cái tâm. Khi ta đã có cái tâm trong trắng, thì chẳng có cái gì là dơ bẩn cả. Nhưng một khi cái tâm đã bị ô nhiễm những ý đồ xấu xa, thì mọi sự trở nên ô uế. Và truyền thống đích thực là giữ sao cho cái tâm của ta được đập cùng một nhịp với thánh tâm Đức Giêsu, là “lò lửa mến hằng cháy”, mọi tà tâm sẽ bị thiêu rụi trong ngọn lửa mến rực cháy ấy.
67. Suy niệm của Chiara Lubich.
“Giờ đây, hỡi Israel, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống”
Một Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta như những người bạn của Người! Dân Israel hãnh diện có được một Thiên Chúa rất gần gũi với họ, Đấng ban cho họ lề luật và những quy tắc rất công minh, như ta có thể đọc thấy trong đoạn này của sách Đệ Nhị Luật là một phần của Cựu Ước hoặc Giao Ước Đầu Tiên (xem Đnl 4,7-8).
Chính vì Lời Chúa có sức lôi cuốn phi thường, nên ta có nguy cơ tin rằng chỉ cần nghe không là đã đủ. Thay vào đó, Lời Chúa phải đem ra thực hành. Đó là điều quan trọng.
Cả trong Tân Ước, tông đồ Giacôbê cũng đã cảnh báo các Kitô hữu tiên khởi rằng: “Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Gc 1,22). Môsê cũng dạy như vậy khi ông tuyên đọc những lời này với người Israel: “Giờ đây, hỡi Israel, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống”
Vậy ta hãy lắng nghe và sống Lời Chúa.
Hơn nữa, chính Đức Giêsu hiện diện trong lời của Người; những lời đó là chính Đức Giêsu. Những lời của Người là vĩnh cửu, và do đó chúng thích hợp với mọi thời đại. Chúng phổ quát, có giá trị đối với mọi người, vượt qua mọi chủng tộc và mọi nền văn hóa. Chúng không đơn thuần chỉ là những lời khuyên nhủ, những đề nghị hoặc lệnh truyền. Lời của Người chứa đựng và ban truyền sự sống.
Cuối Bài Giảng Trên Núi, Đức Giêsu để lại cho ta một dụ ngôn nổi tiếng (xem Mt 7,24-27). Người so sánh những ai hồ hởi phấn khởi khi nghe Lời của Người nhưng rồi không thực hành trong cuộc sống với ngôi nhà xây trên cát. Khi gió mưa ập đến – nghĩa là những đề nghị, tư tưởng khác dễ dãi hơn, có sức cuốn hút và lừa dối bằng thứ ánh sáng lấp lánh chóng qua – thì những người này gục ngã rất đáng thương bởi vì sứ điệp Phúc Âm đã không trở thành sự sống nơi họ.
Đức Giêsu sau đó so sánh những ai biết đem Lời của Người ra thực hành với ngôi nhà xây trên đá: thử thách, cám dỗ, nghi nan, và hoang mang có thể xảy ra, nhưng những người này vẫn vững vàng tiến bước trên con đường Phúc Âm. Họ tiếp tục tin vào Lời Chúa bởi vì họ đã cảm nghiệm được những lời ấy chân thật ra sao.
Việc sống Lời Chúa sẽ đưa lại một cuộc cách mạng thực sự trong đời của ta và trong đời của những ai mà ta chia sẻ cuộc sống Phúc Âm này.
Phải đem những lời của Đức Giêsu ra thực hành với lòng đơn sơ của trẻ nhỏ! Người dạy ta: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại” (Lc 6,38). Biết bao lần ta đã cảm nghiệm rằng càng cho đi thì càng nhận được! Chưa bao giờ ta bị trắng tay, bởi vì mỗi lần ta cho một người thiếu thốn thì ta lại nhận được gấp trăm. Thế còn khi ta chẳng có gì để cho đi thì sao? Đức Giêsu đã chẳng nói rằng: “Anh em cứ xin thì sẽ được” (Mt 7,7) hay sao? Ta đã xin và ngôi nhà của ta lại đầy mọi thứ của cải mà Thiên Chúa gửi đến để ta lại có thể cho đi.
Khi bị đè bẹp bởi nỗi lo âu về một hoàn cảnh vượt qúa sức mình hoặc khi nỗi lo lắng làm ta bị tê liệt, hãy nhớ lại những lời của Đức Giêsu: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi” (Mt 11,28), và khi đã quẳng cho Người mọi gánh lo, ta sẽ thấy bình an trở lại, và cùng với nó là giải pháp cho các vấn đề của ta.
Lời Chúa làm tiêu tan cái tôi của ta, khử trừ tính ích kỷ của ta, và thay thế cách ta nghĩ tưởng, ước muốn, hành động bằng chính tâm tư và hành động của Đức Giêsu. Bằng cách sống Lời Chúa, thì một lối lý luận theo Thiên Chúa và một tâm thức Phúc Âm sẽ hình thành và ta sẽ nhìn mọi sự bằng đôi mắt mới. Các mối quan hệ của ta cũng thay đổi: bằng cách sống Lời Chúa và chia sẻ những kinh nghiệm đó với nhau, những người trước đó không biết nhau nay trở nên anh chị em với nhau, họ trở thành một dân tộc, một Hội Thánh sống động. Chỉ một Lời Phúc Âm nhưng được nhiều người đem ra thực hành thì vẫn có thể làm thay đổi cả chiều hướng của lịch sử.
Lời Chúa khi đem ra thực hành sẽ làm ra những phép lạ. Như thế trong tâm hồn ta sẽ tràn ngập một niềm tin tưởng mới, tin tưởng vô hạn vào tình yêu của Chúa Cha, Đấng can thiệp và trợ giúp con cái của Người hàng ngày. Lời của Người là chân thực; nếu ta sống những lời này, thì về phần Người, Người cũng thực hiện chúng, theo đúng từng câu chữ, và ban cho ta điều Người hứa: được gấp trăm ở đời này, cuộc sống hoàn hảo và niềm vui thiên đàng vô tận.
68. Không chỉ tôn kính bằng môi miệng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Cuộc kiểm tra
Sau mấy Chúa nhật đọc chương 6 Tin Mừng Gio-an, phụng vụ trở lại với Tin Mừng Mác-cô. Bản văn của phần phụng vụ lời Chúa tuần này thuật lại cuộc đối đầu kịch liệt giữa Đức Giêsu và nhóm biệt phái.
“Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” Vấn đề đặt ra có vẻ buồn cười, xa lạ. Đàng khác, từ lâu rồi, Hội Thánh sơ khai đã vượt qua thói quen cứng ngắc là tuân giữ tỉ mỉ các khoản luật xa xưa. Dầu vậy, vấn đề vẫn chưa được giải quyết.
Cách chung, các kinh sư và biệt phái được trao nhiệm vụ công bố những lệnh truyền và tập tục, đồng thời có quyền xác định và giải thích luật Mô-sê. Một ý hướng rất đáng khen. Về phần Đức Giêsu, Người không chối bỏ nhiệm vụ này. Tuy vậy, theo Đức Giêsu, nhiệm vụ và quyền bính này không bao giờ được phép che giấu điều cốt yếu, tức là tình trạng của tâm hồn; nói cách khác, đó là sự trong sáng của lương tâm, là thái độ thành thực và tự do dấn thân trước Thiên Chúa. Trước Thiên Chúa, mỗi người đạt được giá trị tùy theo tình trạng tâm hồn của mình, và người ta bày tỏ tâm tình thờ phượng là chính hiện hữu của mình. Các thái độ tôn giáo của mỗi người phải được xuất phát từ những quyết định tự do, từ chính hiện hữu của mỗi người. Nếu như trong những thập niên gần đây, Hội Thánh bãi bỏ nhiều quy định, đó chính là nhằm mục đích đưa người tín hữu trở lại điểm cốt yếu này.
Như vậy, tinh thần Tin Mừng hoàn toàn khác hẳn thái độ duy luật cũng như thái độ bất chấp. Lề luật mà không có tâm hồn: đó là thái độ duy luật giả hình, muốn tìm an toàn trong những việc tuân giữ bề ngoài và không có sự dấn thân toàn diện, năng động của lòng tin. Ngược lại, nếu chỉ có tâm hồn mà không có lề luật: đó là thói bừa bãi, là thái độ không thấy cần phải sửa lại tình trạng cả con người cũ lẫn con người mới đang hiện diện trong mỗi người. Để kiểm tra sức khoẻ, ngày nay người ta dùng phương pháp siêu âm. Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi mỗi người thực hành cuộc kiểm tra này trong tâm hồn để thực sự biết mình là ai trước Thiên Chúa và anh em.
Truyền thống và thích nghi
Khi trả lời nhóm biệt phái và các kinh sư, Đức Giêsu đã quở trách họ là những kẻ đạo đức giả: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.” Thực ra Đức Giêsu không có ý bác bỏ những truyền thống, những tập tục đã có từ xưa, Người chỉ muốn cho thấy là tất cả những tập tục ấy phải đi kèm với một tấm lòng. Con người phải thích ứng với xã hội, nhưng vẫn phải là một con người chân thành.
Truyền thống
Mỗi cộng đoàn tôn giáo, cũng như mọi cộng đoàn xã hội, đều lập ra một bản quy tắc để diễn tả nét đặc trưng và độc đáo trong niềm tin của mình. Dân Do-thái, và sau này, Hội Thánh Công Giáo cũng làm như vậy để đào sâu mặc khải, đồng thời để củng cố mối liên lạc giữa các tín hữu. Những khoản luật này dựa vào nhau và với thời gian, càng lúc chúng càng xa rời nguồn gốc nguyên thủy của mình.
Sự thích nghi
Đây là thái độ của mỗi người để hòa nhập vào cơ thể xã hội hay tôn giáo. Sự thích nghi được thể hiện trong mọi lãnh vực, kể cả về ý kiến và quan điểm. Bên cạnh những người có thái độ thích nghi vào xã hội, cũng có những nhóm người chống lại sự thích nghi.
Trong Tin Mừng, Đức Giêsu nhấn mạnh đặc biệt đến sự thích nghi của nhóm sau này: nó làm cho con người không còn tự do cũng như trách nhiệm với xã hội, với cộng đoàn. Những người này nghĩ rằng chỉ cần tuân theo những khoản luật “được phép” hay “không được phép”, và do đó, chỉ cần loại trừ sự ô uế bên ngoài là đủ.
Trong sạch và ô uế
“Rửa tay” là xoá đi những dấu vết còn lưu lại sau khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài. “Rửa tay” còn có nghĩa là không chịu trách nhiệm, không quan tâm gì đến cuộc sống, coi như mình ở ngoài các sinh hoạt của thế giới.
Đối với Đức Kitô, sự ô uế không phải là một tính chất gắn liền với sự vật, nhưng là cách thức con người giải thích về thế giới và áp dụng vào sự vật. Theo Đức Giêsu, sự ô uế và do đó cả sự chọn lựa, diễn ra trong tâm hồn con người chứ không phải là bản thu tóm các quy tắc.
Như thế, ngoài việc nhấn mạnh đến tình trạng tâm hồn, Đức Giêsu còn nghĩ tới một Giáo Hội phổ quát, một Giáo Hội vượt khỏi biên giới của dân tộc Do-thái. Nhiều phong tục tập quán của Do-thái là tốt, nhưng đến lúc phải mở rộng hơn để đón nhận mọi nếp sống, mọi nền văn minh trên toàn thế giới. Cần phải sàng sảy, chọn lọc để chỉ giữ lại những điều cốt yếu và loại bỏ, hay ít ra giảm nhẹ, những điều phụ thuộc. Những tập tục nào do con người tạo nên thì cần được thay đổi, điều chỉnh hầu làm sáng tỏ tinh thần tôn kính Thiên Chúa và chu toàn luật bác ái đối với người khác (theo Quesson).
Vậy, con người luôn được mời gọi và thúc đẩy vượt lên phía trước, đồng thời phải hoán cải không ngừng để đón nhận những điều mới. Truyền thống vẫn cần được tuân giữ, nhưng cũng cần được thích nghi cho phù hợp với thời đại. Truyền thống vẫn cần được tuân giữ, nhưng cũng cần được thích nghi cho phù hợp với thời đại đồng thời làm sáng tỏ điều cốt yếu.
Từ ý hướng đến hành động
Thắc mắc của nhóm biệt phái là một cơ hội tốt để Đức Giêsu xác định trật tự trong các cử chỉ và nghi lễ.
Thoạt đầu, người ta có cảm tưởng rằng chính ý hướng trong “tâm hồn” quyết định giá trị của việc làm, và người ta sẽ nêu lên câu ngạn ngữ “hoả ngục được lát bằng những ý hướng tốt”.
Thực ra, phải nhìn vấn đề theo một góc cạnh khác: cử chỉ diễn tả được bao nhiêu ý hướng trong tâm hồn, và ngược trở lại, hành vi bên ngoài có phải là sự bày tỏ của tâm hồn không? Bạn có luôn yêu mến người mà bạn bắt tay hay tỏ vẻ thân thiện? Chúng ta muốn diễn tả thực tại nào bên trong khi trao cho người khác một cử chỉ hữu nghị? Chúng ta có thực sự muốn hoà giải khi cười với người giận ghét mình không?
Đối với Thiên Chúa cũng vậy. Bao nhiêu lời cầu nguyện, bao nhiêu hành vi đạo đức có phải thực sự phát xuất từ mối tương giao với Thiên Chúa, và có hướng về mục đích đó không? Chúng ta đã nhiều lần đọc lên “con yêu mến Chúa”, thế mà cuộc sống của chúng ta vẫn đầy dẫy những xung đột, những hận thù, cả trong đời sống cá nhân lẫn đời sống cộng đoàn…
Quả thế, cả tôi lẫn các bạn, chẳng có ai hoàn hảo. Vấn đề của chúng ta không phải chỉ là làm một điều gì đó, nhưng là thay đổi tình trạng tâm hồn của chúng ta.
Dù vậy, với tình yêu Thiên Chúa đổ tràn trong lòng chúng ta, ít ra chúng ta có thể thực hiện một cách nào đó sự hoà hợp giữa ý hướng và hành động. Rửa tay hay không, điều đó không quan trọng, nhưng chúng ta phải ý thức rằng tâm hồn chúng ta cũng có chút xấu xa bẩn thỉu và chúng ta phải xin Đức Kitô ban cho chúng ta thứ nước có thể thanh tẩy chính tâm hồn. Đàng khác, cũng cần nhớ rằng, cuộc đời vẫn ở phía trước và chúng ta luôn phải giữ lấy điều cốt yếu, trong khi cuộc đời luôn có những đổi thay.
69. Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng
Luật Chúa Ban Hành Nhằm Thăng Tiến Đời Sống Con Người
Luật Chúa được ban hành là để hướng dẫn đời sống con người và nhắc nhở cho loài người bước đi theo đường lối chính trực nhằm thăng tiến hoá đời sống con người. Như vậy mục đích của việc giữ luật là nhằm giải phóng con người khỏi sống theo bản năng và khỏi áp dụng luật rừng. Trong bài trích sách Đệ nhị luật, Môsê nhắc nhở cho họ: Hãy tuân giữ những mệnh lệnh của Chúa là Thiên Chúa chúng ta mà tôi truyền cho anh em (Đnl 4:2). Theo ông Môsê thì nhờ việc giữ luật, họ sẽ được các dân tộc coi là khôn ngoan và thông minh (#nl 4:6) vì họ có Chúa ở gần kề và hướng dẫn đời sống họ.
Tuy nhiên nhóm người Pharisêu và kinh sư lại toan đè nặng trên dân chúng với nhiều khoản luật chi tiết của tiền nhân. Theo Phúc âm thì nhóm người Pharisêu là phe biệt phái, nằm trong Do thái giáo. Theo sử gia Josephus, có chừng sáu ngàn người Pharisêu thời vua Hêrôđê. Họ thường phê bình chỉ trích, bắt bẻ và chống đối Đức Giêsu và các môn đệ. Thánh Phaolô tông đồ là cựu thành viên của phái Pharisêu. Ông Nicôđêmô (Ga 3; 7:45-48) và ông Ga-ma-li-ên (Cv 5:34) cũng là người Pharisêu. Còn nhóm kinh sư là những học giả và trí thức trong đạo Do thái, được nhận tước hiệu ráp-bi hoặc người chỉ đạo. Họ không thuộc phe đảng nào. Tuy nhiên trong thực tế, nhiều người kinh sư thuộc phái Pharisêu nên họ cũng tỏ thái độ và hành động chống đối Chúa như phái Pharisêu.
Trong Phúc âm hôm nay, hai nhóm Pharisêu và kinh sư quan sát thấy vài môn đệ của Đức Giêsu dùng bữa mà không rửa tay nên bèn thắc mắc, đặt vấn đề với Chúa. Mối bận tâm của họ không có liên quan đến vấn đề vệ sinh, nhưng chỉ là hình thức đạo đức bề ngoài. Họ nhấn mạnh đến việc rửa tay cho được sạch bên ngoài, mà không quan tâm đến việc tẩy rửa tâm hồn bên trong. Việc rửa tay bên ngoài của họ là một việc làm trống rổng, không có ý nghĩa và không có giá trị thiêng liêng. Vì thế Đức Giêsu cảnh giác thái độ giả hình của họ vì họ giữ luật vụ vào hình thức bên ngoài.
Theo luật truyền khẩu và tập tục Do thái trong sách Tan-mút thì nghi thức rửa tay trước khi ăn không buộc hết mọi người, mà chỉ có hàng tư tế mới phải theo. Sách Tan-mút sưu tầm luật truyền khẩu và tập tục Do thái không được ghi trong Bộ luật viết ra của sách luật Tora, cũng gọi là sách Ngũ kinh, là năm cuốn sách đầu của Kinh thánh Cựu ước. Theo nghi thức rửa tay được kể lại trong sách Tan-mút, thì nước phải đổ trên mỗi tay hai lần. Lượng nước cũng được qui định đổ cho tới cổ tay. Tại Galilê, vì thiếu nước nên người ta thường bỏ qua việc rửa tay trước khi ăn. Tuy nhiên nhóm người Pharisêu và kinh sư từ Giêrusalem lên vẫn đòi phải áp dụng luật này.
Đức Giêsu cảnh giác nhóm người Pharisêu và kinh sư vì họ đã đi lạc đường lối, toan nô lệ hoá con người bằng việc giữ tập tục của tiền nhân. Họ giữ luật theo hình thức bên ngoài, mà tâm hồn họ xa Chúa và họ còn sống đời bất công. Do đó Đức Giêsu cảnh giác họ: Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm (Mc 7:8a). Người còn trích lời ngôn sứ Isaia để quở trách họ: Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta (Mc 7:6).
Chúa Giêsu còn dùng cơ hội này để cảnh giác dân chúng và các môn đệ là chỉ có gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế như: Những ý định xấu, tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ bánh, kiêu ngạo, ngông cuồng (Mc 7:21-22).
Lời Chúa cảnh giác nhóm người Pharisêu và kinh sư trong Phúc âm phải nhắc nhở ta dùng những cơ hội có thể để tự xét và tự kiểm. Kết quả của việc tự xét và tự kiểm về đời sống nội tâm, có thể làm ta hài lòng hay trách mình. Tuy nhiên ta phải trung thực với lòng mình, nghĩa là phải biết chấp nhận sự thực về mình dù sự thật có đau lòng. Nếu tự xét, ta có thể khám phá ra thái độ giả hình của người Pharisêu và kinh sư cũng có thể ăn rễ sâu trong đời sống đạo đức của ta. Ta có thể tuân giữ luật Chúa mà không phát xuất từ nội tâm, không do lòng mến thúc đẩy, như là giữ luật Chúa vì sợ tội hoặc giữ luật Chúa để được tiếng khen là mình đạo đức chứ không phải do lòng mến.
Giữ luật theo kiểu người Pharisêu và kinh sư khiến người ta trở thành nô lệ cho luật, làm cho đời sống trở nên cằn cỗi. Giữ luật vị luật khiến cho luật trở thành bất động và bất biến. Giữ luật vì yêu mến thì luật sẽ trở thành luật biến đổi, luật trổ bông. Việc giữ luật như vậy có tính cách biến đổi, mang lại hoa quả thiêng liêng cho đời sống. Đối với người con thảo có tâm hồn đạo hạnh thì việc tuân giữ luật Chúa và tìm sống theo thánh chỉ của Chúa phải là khát vọng của họ. Và phần thưởng dành cho người tuân giữ giới răn Chúa và sống theo thánh chỉ của Chúa là có được tâm hồn bình an và thư thái trong cõi siêu việt.
Lời cầu nguyện xin cho tâm hồn và đời sống được biến đổi trong việc tuân giữ giới răn:
Lạy Chúa là Thiên Chúa, Đấng thông biết mọi sự,
và thấu suốt cõi lòng người.
Chúa là Đấng đáng tôn thờ, chúc tụng và yêu mến.
Xin tha thứ những lần:
con chỉ thờ Chúa bằng môi miệng bên ngoài,
mà lòng thì xa Chúa.
Xin giúp con làm mọi việc vì yêu mến Chúa
đễ lời cầu nguyện của con được đi đôi với việc làm,
cho đời sống con được thăng tiến hoá. Amen.
*******
Lạy Chúa là Đấng thông biết mọi sự, Chúa thấu suốt lòng con. Chúa là Đấng đáng tôn thờ, chúc tụng, ngợi khen và cảm mến
Xin tha thứ
* những lần con chỉ thờ Chúa bằng môi miệng bên ngoài, mà lòng con xa Chúa,
* những lần con cầu nguyện cách máy móc mà thiếu tâm tình xác tín.
* những lần con chỉ đóng vai trò bàng quan mà không thực sự tham dự vào việc thờ phượng.
* những lần con tiếc rẻ thời giờ với Chúa bằng cách luôn đi lễ trễ và ra về sớm
Xin tha thứ
* những lần con quá quan tâm đến lỗi lầm của ngưòi khác
* những lần con nhạo cười người khác khi họ bày tỏ đức tin bằng lòng đạo đức chân thành
Lạy Chúa, xin thương xót con theo lượng từ bi của Chúa.
Xin giúp con thiết lập được mối liên hệ gần gũi với Chúa đễ những lời cầu nguyện và ca tụng của con được đi đôi với việc làm.
Xin Chúa đến ngự trị trong tâm hồn con. Xin Chúa là niềm vui, niềm hi vọng và là nguồn ơn cứu độ đời con.
70. Suy niệm của JKN.
Sự công chính và thánh thiện theo quan niệm của Đức Giêsu
Câu hỏi gợi ý:
1. Nhiều người quan niệm: càng giữ luật cho nhiệm nhặt, thậm chí đến từng chi tiết, thì càng nên công chính thánh thiện. Quan niệm như thế có đúng không? Người quan niệm như thế thường gặp những nguy hiểm nào?
2. Đức Giêsu thánh thiện hơn các kinh sư Do thái rất nhiều, nhưng Ngài có giữ luật Thiên Chúa nhiệm nhặt hơn họ không? Tại sao vậy? Ngài quan niệm việc giữ lề luật Thiên Chúa như thế nào?
3. Hành động bên ngoài tự nó có giá trị không? Hay nó còn tùy thuộc vào cái tâm ở bên trong? vào động cơ thúc đẩy ta thực hiện hành động ấy? Vậy: phải có những hành động tốt hay phải làm sao có cái tâm cho tốt?
Suy tư gợi ý:
1. Quan niệm của các kinh sư Do thái về sự công chính
Đọc bốn sách Tin Mừng, tôi phải nể phục sự nghiêm túc giữ luật của các kinh sư Do thái: họ giữ luật Môsê cẩn thận từng chi tiết, cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Ngoài những điều khoản của lề luật, họ còn giữ cả những chi tiết nhỏ mọn trong truyền thống Do thái giáo. Bài Tin Mừng hôm nay cho biết: “Người Pharisêu cũng như mọi người Do thái đều giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng”. Họ hành động như vậy vì họ cho rằng sự công chính và thánh thiện hệ tại việc giữ luật và tuân theo truyền thống tôn giáo cho thật cẩn thận. Càng giữ luật kỹ lưỡng đến từng chi tiết nhỏ nhặt thì càng công chính hay thánh thiện.
Chắc chắn trong họ có những người nghĩ và thực hành như vậy một cách rất chân thành, với mục đích rất tốt lành là nên công chính hay nên thánh. Họ nghĩ rằng tất cả những ai thánh thiện thì đều phải giữ luật như họ. Nếu có ai thánh thiện hơn họ, ắt người ấy phải giữ luật và những tập tục truyền thống một cách nhiệm nhặt và chi ly hơn họ. Chính vì thế, họ ngạc nhiên khi thấy các môn đệ của một thầy dạy đạo như Đức Giêsu lại không giữ luật và truyền thống như họ. Họ hỏi Ngài: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?”
2. Sự công chính và thánh thiện theo quan niệm của Đức Giêsu
Nhưng Đức Giêsu đã cho họ – và cả ta nữa – thấy rằng sự thánh thiện không hệ tại việc giữ luật một cách chi tiết như thế, hay giữ theo hình thức bên ngoài, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều. Cái đó ở trong nội tâm, chứ không phải ở bên ngoài. Người ta vẫn nói: “Đạo tại tâm!”. Cái đó chính là cái quan trọng nhất trong lề luật, là cốt tủy của lề luật.
Điều đáng tiếc là những người đặt nặng những chi tiết hay những hình thức bên ngoài của lề luật, thì lại thường coi nhẹ cái cốt tủy của lề luật. Đức Giêsu đã tố giác điều ấy: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng (=tức những điều phụ thuộc), mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ” (Mt 23,23). Như vậy, theo Đức Giêsu, ba điều quan trọng nhất trong lề luật, tinh thần của lề luật, cũng là cốt tủy của sự thánh thiện, chính là chân lý, công lý và tình thương.
Thiết tưởng người Kitô hữu không nên đi vào vết xe đổ của người Do thái là cứ quan trọng hóa những điều phụ thuộc, mang tính bên ngoài, như giữ cho thật kỹ lưỡng đến từng chi tiết luật này luật nọ, mà coi nhẹ cốt tủy của lề luật, vốn là tinh thần ở bên trong. Điều thiết yếu là phải có tinh thần hay cốt tủy đó ở bên trong đã, rồi tinh thần đó sẽ tự nhiên thúc đẩy ta thể hiện nó ra bên ngoài thành thái độ hay hành động.
3. Hãy nắm vững cái cốt tủy và ưu tiên thực hiện cốt tủy ấy trước
Nếu chỉ có những hành động giữ luật bên ngoài mà không có tinh thần cốt tủy bên trong, thì việc giữ luật đó sẽ ít giá trị trước Thiên Chúa. Còn những người mà luật Chúa thì không giữ, lại chỉ lo giữ những tập tục tôn giáo truyền thống, chẳng hạn một số thói quen quen được gọi là “việc đạo đức”, những nghi thức do con người sáng tạo, việc rước sách đình đám… thì việc giữ những tập tục ấy lại càng ít giá trị hơn. Nên nhớ: tất cả những tập tục này đều tốt, nhưng không phải là cốt tủy: thực hiện được thì tốt mà không thực hiện được cũng chẳng sao. Đức Giêsu đã chỉ cho những người này thấy cái sai của họ: “Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”(Is 29,13). Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”.
Tôi thấy trong nhiều hội nghị Kitô hữu, người ta thường tuân thủ những qui ước minh nhiên (= được qui định rõ ràng) hoặc mặc nhiên (= tự nhiên phải hiểu, phải biết, không cần nói ra). Chẳng hạn như: vấn đề thuộc phạm vi của người nào thì chính người ấy phải nêu lên để bàn. Tuân thủ những qui định ấy là điều rất tốt để bảo vệ trật tự trong hội nghị. Nhưng có những trường hợp mà những vấn đề rất quan trọng có liên quan đến lương tâm của cả hội nghị thì lại không được đem ra bàn, lý do là người có trách nhiệm chính vì một lý do nào đó không chịu đưa ra bàn. Những người khác tuy bị lương tâm thúc giục phải đưa vấn đề ra, nhưng lại vị nể hay quá tôn trọng quyền ưu tiên của người có trách nhiệm chính, nên cuối cùng vấn đề lương tâm cần thiết phải bàn lại bị cho “chìm xuồng”, vì thế công ích bị thiệt hại nặng nề. Khi vị nể hay tôn trọng qui ước kiểu ấy phải chăng người ta đã coi qui ước của phàm nhân quan trọng hơn cả luật của lương tâm, cũng là luật của Thiên Chúa? Đạo đức kiểu đó là đạo đức gì?
4. “Đạo tại tâm”. Đúng rồi! nhưng coi chừng… tâm giả!
Tuy nhiên, nhiều người lại đi đến một thái cực khác là không thèm làm những thể hiện tốt đẹp bên ngoài. Họ ngụy biện rằng “Đạo tại tâm”. Họ cho rằng họ đã có cái cốt tủy của lề luật ở bên trong, nên đủ giá trị trước Thiên Chúa rồi. Nhưng thánh Giacôbê tố cáo họ: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,17.26). Nếu tinh thần cốt tủy kia không được thể hiện ra thành những hành động bên ngoài, thì đó là một nghịch lý, mâu thuẫn. Hãy coi chừng cốt tủy kia chỉ là cốt tủy giả hay tâm giả.
5. Điều quan trọng là bên trong chứ không phải bên ngoài
Đức Giêsu nói: “Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình… Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế”. Ngài cho thấy: yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bên ngoài. Chính ý hướng ở bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có giá trị hay không. Nhiều người có những hành động rất tốt nhưng lại làm vì những động lực ích kỷ hay gian ác, thì hành động ấy trở nên xấu. Chẳng hạn những hành động giả nhân giả nghĩa nhằm được một lợi lộc nào đó, như bố thí thật nhiều để được khen, để có tiếng là đạo đức hầu lừa đảo người khác, hay làm việc tích cực chỉ nhằm để được lên chức, để nắm được quyền hành hầu thao túng lũng đoạn tập thể. Ngược lại, có những người “tình ngay mà lý gian”, hành động thì có vẻ như xấu, bị kết án, nhưng ý hướng thì tốt lành, nhằm ích lợi cho tha nhân. Họ tuy bị người đời kết án, nhưng lại được Thiên Chúa chúc lành.
Vì thế, trong đời sống tâm linh, người ta phải tu dưỡng cái “tâm” ở bên trong trước: phải có tâm ngay thẳng, thành thật, luôn tôn trọng sự công bằng, biết yêu thương mọi người không phân biệt sang hèn tốt xấu. Khi đã có tâm tốt thật sự, những việc làm của người ấy sẽ tự nhiên đẹp lòng Chúa. Thánh Âu Tinh nói: “Cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm!” (Ama et fac quod vis). Khi tâm đã quanh quéo, ích kỷ, sẵn sàng hại người, thì bất kỳ việc làm do tâm ấy thúc đẩy – dù bên ngoài có tốt lành đến đâu – cũng đều mang dấu ấn của tâm ấy, nên không mấy giá trị trước Thiên Chúa.
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin cho chúng con hiểu rằng sự thánh thiện hệ tại tình trạng tốt đẹp tâm hồn hơn là tại những hành động bên ngoài. Xin cho chúng con biết quan tâm đến việc tu tâm dưỡng tánh, nghĩa là có một tâm hồn ngay thẳng, luôn thành thật, luôn tôn trọng và bênh vực công lý, luôn yêu thương mọi người. Tâm tốt lành ấy mới chính là điều cốt yếu làm nên sự công chính thánh thiện của chúng con, hơn là việc giữ luật lệ một cách chi tiết hay việc làm cho thật nhiều những hành động tốt.
71. Giải thích và suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long
TRONG SẠCH VÀ Ô UẾ: TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI PHÀM VÀ ĐIỀU RĂN CỦA THIÊN CHÚA
1.- Ngữ cảnh
Bản văn 7,1-23 là một phân đoạn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Đoạn văn này đã được tác giả Mc đặt ngay trước đoạn tường thuật hoạt động của Đức Giêsu bên đất Dân ngoại. Rõ ràng tác giả đã dùng bản văn này như một lời công bố nguyên tắc: Đức Giêsu đã loại bỏ sự phân biệt giữa “trong sạch và ô uế”. Không có hàng rào nào mà lại do Thiên Chúa muốn có giữa loài người. Chỉ có những hàng rào đã được loài người dựng lên (mà như thế là không biết ý muốn của Thiên Chúa), mà bây giờ phải lật đổ, bởi vì “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (1,15).
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành hai phần:
1) Tranh luận giữa Đức Giêsu và các Pharisêu về trong sạch và ô uế (7,1-8);
2) Giáo huấn của Đức Giêsu về trong sạch và ô uế (7,14-15.21-23).
3.- Vài điểm chú giải
– tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa (2): Giới Pharisêu và kinh sư trách các môn đệ của Đức Giêsu không chịu tuân theo các tập tục truyền thống Do Thái về thanh tẩy. Vậy đây không phải là quan điểm vệ sinh, mà là một nhận định liên hệ đến phượng tự lê-vít (Lv 11–15; x. thêm 19,23-25; 20,7; Đnl 14,3-21; 19; 5,1-4). Lời giải thích của Mc (“nghĩa là chưa rửa”) chứng tỏ ngài viết cho một khối độc giả không quen với những tập tục này. Các câu 3-4 là một giải thích trong ngoặc đơn, cũng vì lý do này.
Trong não trạng người xưa, điều ô uế và điều thánh thiêng là hai khái niệm liên kết với nhau. Cả hai đều hàm chứa một sức mạnh huyền bí và đáng sợ, được phát huy do sự tiếp xúc. Cái ô uế và cái thánh thiêng đều “không thể đụng chạm được”; kẻ nào tiếp xúc với hai “cái” này cũng trở thành “không thể đụng chạm đến được”. Trong Cựu Ước, ta thấy: người ta không thể đụng chạm đến Hòm Bia Giao Ước, cũng như không được chạm đến một tử thi; người mẹ phải được thanh tẩy sau khi sinh con, vì việc sinh nở đã làm cho bà ra ô uế; vị tư tế phải thay y phục sau khi dâng hy lễ, vì hy lễ đã làm cho vị này ra thánh thiêng. Đây không phải là một sự hoen ố về thể lý hoặc luân lý, và sự thánh thiện đạt được như thế không phải là một nhân đức của tâm hồn, đó là những “trạng thái”, mà người ta phải ra khỏi để trở vào đời sống thông thường (R. de Vaux). Chính khái niệm về “ô uế” và “thánh thiêng” cũng có vai trò trong việc phân biệt Do Thái với các “dân nước” (lương dân). Đây không phải là những khái niệm lý thuyết rút từ Lề Luật, nhưng là những khái niệm diễn tả một kinh nghiệm sống: bình diện của cái “trong sạch” chính là những lãnh vực của sự sống (tượng trưng bằng phượng tự), còn lãnh vực của cái “ô uế” là lãnh vực của sự chết (được tượng trưng bằng các nền phượng tự ngoại quốc).
– rửa tay cẩn thận (3): Từ “cẩn thận” được diễn dịch từ từ ngữ Hy Lạp pygmê (“nắm tay”). Zerw. & Grosv. ghi chú là: ý nghĩa không rõ; dịch sát là: “với nắm tay” [Bản dịch Weymouth: “carefully, diligently” (cẩn thận, chu đáo); BJ: “jusqu’au coude” (tới tận cùi chỏ); NAB: “carefully”; TOB: “soigneusement”; NJBC không dịch nhưng ghi chú: có thể đây là một kiểu nói La-tinh dựa trên pugnus / pugillus là “handful; một nắm, nhúm, bốc, vốc, nghĩa là “với mọt vốc”. Tác giả Mc đang mô tả khối nước được dùng trong nghi thức rửa tay của người Do Thái]. Như vậy, “rửa cẩn thận” có nghĩa là rửa đúng quy cách, theo đúng nghi thức.
– truyền thống của tiền nhân (3): Các “tiền nhân” là các vị tôn sư của Israel kể từ Môsê tại núi Sinai cho đến hôm nay. Tác giả giải thích cho các độc giả Kitô hữu gốc Dân ngoại biết lối thực hành luật trong sạch của người Do Thái bằng cách nêu ra một vài ví dụ chọn lọc. Tuy nhiên, khẳng định rằng mọi người Do Thái đều giữ các quy tắc về trong sạch thì không đúng về mặt lịch sử. Trong thực tế, chỉ người Pharisêu mới đặc biệt bám vào đó, dân thường không quan tâm lắm, còn phái Xađốc đã đả kích việc chuyển các tập tục của hàng tư tế vào đời sống tôn giáo của dân chúng. Thật ra, người Pharisêu đang tìm cách áp dụng luật trong sạch theo nghi thức mà các tư tế trong Cựu Ước phải giữ, cho mọi người Israel, để toàn thể Israel trở thành dân tư tế.
– rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng (4): Một vài nhà chú giải cho rằng giọng văn của Mc ở đây có vẻ châm biếm. Nhiều thủ bản thêm “và giường” vào danh mục (x. Lv 15); ở đây, tình cờ chi tiết này bị quên, hay đã bị cố tình bỏ đi vì nghe không thuận.
– đạo đức giả (6): Nghĩa chữ của từ hypokritês là “một diễn viên”, “người đeo một mặt nạ”.
– Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng: Câu trích Is 29,13 này được lấy từ Bản LXX, chứ không từ bản Híp-ri, nhưng cũng có những khác biệt. Có thể Mc (hoặc truyền thống của ngài) đã sử dụng một bản dịch Hy Lạp khác.
– Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa … (8): Lời Đức Giêsu nói đây minh hoạ những gì được hàm chứa trong câu trích. Hẳn là người Pharisêu và các kinh sư sẽ cực lực phản đối lời kết án này, bởi vì chính họ đang thấy là họ có công trong công việc làm cho những giáo huấn không rõ ràng trong Lề Luật trở thành thực tiễn và cụ thể!
– Không có gì từ bên ngoài … (15): Đức Giêsu đã nói theo kiểu một mâshâl, chứ không phải là một tuyên ngôn. Người không chọn đứng về phía “bên trong” để chống lại phía “bên ngoài”, Người không trực diện đối lập với luật của Cựu Ước. Người mời con người đi ra khỏi tình trạng tồi tệ của họ, không phải nhờ những nỗ lực trí tuệ, mà là bằng một sự hoán cải tận căn. Bằng câu nói này, Đức Giêsu khẳng định con người có một tự do phi thường. Như vậy, con người phải có ý thức về trách nhiệm của mình trước mặt Thiên Chúa và loài người.
– những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp… (22): Danh mục này kể ra 12 tật xấu và tội lỗi. Trong phần Tân Ước còn lại, cũng có những danh mục như thế (x. Gl 5,19-21; Rm 1,29-31; 1 Pr 4,3). Trong danh mục Mc, có những từ ngữ tương tự với các danh mục Phaolô. “Thể văn danh mục” là thể văn quen thuộc trong thế giới hy-la và cũng có xuất hiện trong thế giới Do Thái giáo (x. 1 QS 4,9-11).
– Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong … (23): Câu này tóm tắt sứ điệp của phần thứ hai.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Tranh luận giữa Đức Giêsu và các Pharisêu về trong sạch và ô uế (1-8)
Vấn đề hôm nay không còn là: điều gì làm cho chúng ta nên trong sạch hoặc ra ô uế, mà là: Chúng ta phải đánh giá lối sống của chúng ta dựa trên điều gì? Điều gì có một trọng lượng quyết định cho tương quan của chúng ta với Thiên Chúa?
Đức Giêsu đặt điều răn của Thiên Chúa ở ngay trung tâm (c. 8). Tất cả lối cư xử của chúng ta đều được quy định bởi các điều răn: tất cả những gì chống lại các điều răn hoặc ngăn cản thực thi các điều răn đều là lời nói của loài người.
* Giáo huấn của Đức Giêsu về trong sạch và ô uế (14-15.21-23)
Trước tiên, Đức Giêsu khẳng định rằng các hành vi gian tà phát xuất từ trái tim gian tà. Do đó, mối bận tâm đầu tiên của con người là có được một trái tim trong sạch. Trái tim trong sạch làm cho con người sẵn sàng tức khắc đến gặp Thiên Chúa và sống bền vững trong tình hiệp thông với Ngài. Khi kể ra những ý hướng xấu xa có thể phát xuất từ trái tim con người (7,21t), Đức Giêsu đã đan cử vài ví dụ để cho thấy trái tim phải được giải thoát khỏi điều gì để nên trong sạch, tức là để sẵn sàng thấy Thiên Chúa (x. Mt 5,8). Các điều được kể ra (tà dâm, trộm cắp, giết người) là những điều bị cấm theo Mười Điều Răn, cùng với một số thái độ xấu phát sinh từ các tội đó (tham lam, ganh tị, xảo trá). Như thế, giáo huấn về trong sạch và ô uế có thể nói là một bài bình giải Mười Điều Răn. Những thiếu sót được Đức Giêsu nhắc tới có thể giải thích như sau: sự phỉ báng là điều ngược lại với việc ca ngợi và thờ phượng Thiên Chúa. Còn trong thái độ kiêu ngạo, con người nghĩ mình không cần Thiên Chúa, mình có thể làm và sắp xếp mọi sự. Sự ngông cuồng (rồ dại) đây là không sẵn sàng nhận biết Thiên Chúa là Đấng vĩ đại và toàn năng.
+ Kết luận
Ngày hôm nay, có khi còn hơn bao giờ hết, các Kitô hữu cũng đang bị cám dỗ bỏ rơi lệnh truyền của Thiên Chúa mà chọn truyền thống của loài người, bị cám dỗ tôn thờ Thiên Chúa chỉ bằng môi miệng, còn lòng trí thì ở xa Ngài. Do đó, lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải vẫn còn rất hợp thời. Trái tim con người cần được thanh thoát với mọi sự, để có thể đầy tràn cảm thức về Thiên Chúa, để có thể nhìn nhận với lòng biết ơn sự lệ thuộc của mình vào Ngài. Cần phải tức khắc, ngay hôm nay, ngay tại vị trí này, lắng nghe lại các lề luật của Thiên Chúa và đưa ra thực hành.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hôm nay, chúng ta cũng có thể bị Đức Giêsu trách: chúng ta tự đặt ra cho mình những luật lệ loài người, những luật lệ được tính ích kỷ tạo ra hoặc những luật lệ chúng ta áp đặt cho mình từ bên ngoài. Chúng ta thường để mình đi theo những gì được coi là đáng chuộng, là cần thiết, là tân thời, là hiện đại. Thế giới hiện đại với chủ trương duy vật và khai thác xu hướng tiêu thụ có thể khiến chúng ta lạc xa đường lối của Thiên Chúa, là đường lối duy nhất bảo đảm cho chúng ta được sống muôn đời.
2. Nẻo đường duy nhất giúp ta đạt tới đó là sống không phải theo những quy tắc của loài người, nhưng theo ý muốn của Thiên Chúa. Và như thế có nghĩa là giữ điều răn bên ngoài mà thôi thì không đủ; chính trái tim con người phải quy hướng về thánh ý Thiên Chúa. Cũng nên ý thức về tính đòi hỏi, bó buộc, của các điều răn của Thiên Chúa, vì các điều răn không bảo: Nếu ngươi muốn, ngươi có thể làm điều này điều nọ, nhưng bảo: Ngươi phải làm, ngươi không được làm.
3. Tuy nhiên, con người chúng ta dễ rơi vào thói ỷ lại, qua việc để cho ai đó quyết định mọi sự cho mình. Chúng ta yêu cầu có những quy luật và nguyên tắc rõ ràng để tuân giữ, nhưng chúng ta cằn nhằn bởi vì chúng ta không thể thấy lý do vì sao có những quy luật và nguyên tắc đó hoặc vì thấy chúng quá khó giữ. Cuối cùng, chúng ta lại bị cắn rứt hoặc đi xưng tội chỉ để trấn an lương tâm. Kitô hữu không coi thường bất cứ “truyền thống”nào, nhưng muốn kiểm chứng tất cả. Họ muốn xem là các “truyền thống” có thật sự là cách diễn tả và là kết quả của các yêu cầu theo Tin Mừng chăng, hay chúng chỉ là những thói tục (ít nhiều khôn ngoan), là kết quả của những nhạy cảm hoặc là những đường lối suy nghĩ của những nhóm người nào đó. Nếu gặp một quy luật nào đó không có liên hệ gì với Tin Mừng, các Kitô hữu phải bỏ ngay đi, cho dù những người trình bày cam kết rằng chúng là thánh ý của Thiên Chúa!
4. Sự lây nhiễm không đến từ bên ngoài nhưng đến từ bên trong, từ trái tim. Đức Giêsu đã kể ra các tật xấu làm cho người ta trở thành ô nhơ. Điều làm cho một hành vi nên tốt hoặc thành xấu không phải là sự phù hợp với một quy luật hay một nguyên tắc nào, nhưng là nó có tôn vinh Thiên Chúa và mưu ích cho người khác không.
72. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
CHÚA GIÊSU VÀ CÁC TRUYỀN THỐNG CỦA BIỆT PHÁI
Ở đây lại xẩy ra một cuộc khẩu chiến mới như vẫn từng xảy ra giữa Chúa Giêsu và những người Do Thái nhiệt thành nhất thời đó tức nhóm biệt phái và luật sĩ (c.1). Họ bắt bẻ Chúa Giêsu về một điều xem ra nhỏ nhặt liên quan tới hạnh kiểm các môn đệ Ngài: đó là những môn đệ này dùng bữa với bàn tay “dơ bẩn”, tức là không rửa trước khi dùng bữa (c.2). vì các độc giả Rôma của ông không hiểu về tập tục Do Thái nên Maccô buộc lòng phải cắt nghĩa dài dòng tại sao sự việc ấy lại phát sinh ra vấn đề (c.3-4). Việc dân Do Thái giữ đủ thứ lề luật tỉ mỉ liên quan đến bữa ăn có nguồn gốc từ thời luật Môsê. Để giữ cho dân riêng Chúa được tinh tuyền về mặt xã hội và tôn giáo, luật Môsê cấm họ không được đụng chạm tới bất cứ người hay thực phẩm nào bị tuyên bố là “ô uế” (Lv 11, 16). Trong đời sống thường nhật, mỗi khi từ nơi công cộng hoặc phố chợ trở về, dân Israel luôn tự cảm thấy mình “ô uế” xét về mặt nghi thức: bởi vì họ đã chẳng đi kề cạnh đám người tội lỗi và đám dân ngoại sao? (chẳng hạn lũ thương gia và những gã lính Rôma xâm lược). Từ đó phát sinh ra đủ thứ nghi thức tẩy rửa trước khi ăn, và câu hỏi họ đưa ra cật vấn Chúa Giêsu có liên quan đến việc các bạn hữu Ngài lơ là không tuân thủ các quy luật này (c.5).
Chẳng cần quanh co, lập tức Chúa Giêsu tuyên bố ngay thói giả dối của họ (c.6-7). Vì đang nói đám chuyên gia Kinh Thánh nên Chúa Giêsu liền nại đến Kinh Thánh (ở đây Ngài trích sách Isaia 29,13), vị tiên tri sống vào thế kỷ thứ VIII trước Chúa Kitô, Ôsê cũng đã từng kết tội đám đồng hương của ông về thứ thờ phụng mà “chẳng có hồn” này (Hs 5,21-25). Chúa Giêsu không ngần ngại lập lại lời phán xét gay gắt đó và Ngài kết luận: các ông lấy truyền thống hoàn toàn mang tính cách nhân loại để thay thế cho Lời Thiên Chúa! (c.8). Lời tố cáo quả rất nghiêm trọng, nặng nề. Biết rõ một số luật Môsê đang được các đạo sĩ Do Thái tranh luận, Chúa Giêsu liền trưng ra một ví dụ súc tích: ví dụ các lời khấn hứa (c. 10-13). Đây là một lãnh vực dễ bị nhiều lạm dụng. Dựa vào một thứ “chủ nghĩa vị luật” quen thuộc, đám biệt phái đã bẻ quẹo một điểm then chốt của Lời Chúa (sự giúp đỡ cha mẹ theo Thập giới (Xh 20,12) để đạt được những tặng phẩm dâng cúng cho đền thờ. Chắc chắn qua việc lèo lái tinh vi này, những kẻ nhiệt tình bênh vực truyền thống đã rơi vào tình trạng tiêu huỷ Lời Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã mở rộng cuộc tranh luận với đám cử toạ hạn hẹp này ra tới quảng đại quần chúng ngõ hầu có thể loan truyền sứ điệp của Ngài một cách kết quả hơn (c.14-15). Ngài đưa ra một dụ ngôn nhỏ mang dáng vẻ nhiệm mầu. Đám đông có thể hiểu nổi dụ ngôn này không? Như vẫn thường thấy nơi Phúc Âm Maccô (4,33-34), vị Tôn Sư thường cắt nghĩa “tiếng” cho các môn đệ Ngài về các dụ ngôn Ngài nêu ra (c.17. trước hết Ngài khiển trách họ không chịu động não cố hiểu được đôi điều về lời giảng của Ngài (c.18a). sau đó Ngài ban cho họ chìa khoá của vấn nạn (c.18b- 19a). Làm dơ bẩn người ta không phải là những thức ăn họ ăn và bởi vì cuối cùng bộ tiêu hóa cũng sẽ thải ra ngoài hết. Không! Làm dơ bẩn người ta chính là những tư tưởng phát xuất từ trái tim họ. Chính từ trái tim mà mọi ý đồ nham hiểm xuất ra (c.20-23). Trong Kinh Thánh trái tim là chốn cư ngụ của tư tưởng cũng như của tình cảm. Từ đó phát sinh những hư hỏng về mặt luân lý. Bản liệt kê dài ở đây tương xứng với sổ kê đủ thứ tính hư tật xấu mà ta thường thấy nơi các nhà luân lý đương thời (x. Gl 5,19-21).
Giống như đám đông và sau đó là các môn đệ, chúng ta hẳn có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu đã đi lệch ra khỏi điểm xung đột lúc ban đầu giữa Ngài và đám biệt phái. Không phải thế đâu. Một câu vắn gọn của Maccô nêu bật được trọn vẹn bài học chủ chốt trong các lời nói của Chúa Giêsu (c.19b). Trước hết, điểm khác biệt được lưu tâm là những quy tắc ăn uống thường được các người Do Thái nhiệt thành tuân giữ. Có cả hàng đống thức ăn bị coi là “ô uế” không được dùng (x.Lv 11,1-30). Ở đây, Chúa Giêsu trực tiếp công bố những quy luật ăn uống của truyền thống này là lỗi thời bởi vì chúng phân hoá xã hội thành hai nhóm đối kháng: kẻ tốt và kẻ xấu. Một bên là những kẻ “tinh tuyền”, tức đám biệt phái (có nghĩa là nhóm tách biệt) và người tội lỗi. Chúa Giêsu đến để thiết lập một xã hội hòa đồng. Đứng về phía Thiên Chúa, Ngài hiệp thông với tất cả những nạn nhân của sự kỳ thị xã hội và tôn giáo do bè cánh biệt phái, những người “tinh tuyền và cứng cỏi” gây ra. Ngài dùng bữa với những kẻ ô uế, “những kẻ bị khai trừ” (đám thu thuế, gái điếm, lính Rôma v.v…). Đây quả là sự đổi mới phá đổ những bức vách ngăn đáng trách của thời đại.
Maccô đã dùng nhiều lời để tường thuật sự phản kháng của Chúa Giêsu trước những công kích của đám biệt phái. Sở dĩ thế là vì Kitô giáo thời sơ khai phải va chạm mạnh với vấn đề tiếp đón dân ngoại trở lại đạo. Tập tục Do Thái trong việc ăn uống, những nghi thức thanh tẩy rườm rà đã ngăn cản “khách lạ” lui tới, mặc dù họ đã trở nên huynh đệ trong đức tin. Chúng ta đã chứng kiến rõ sự khó khăn của các tương giao giữa Kitô hữu gốc Do Thái và Kitô hữu gốc dân ngoại trong Công vụ sứ đồ (10,1-11.18). Ở đó người ta thấy ngay chính tông đồ trưởng Phêrô cũng còn bị nô lệ cho các “cấm kỵ” trong vấn đề ăn uống theo luật Do Thái khi ông gặp gỡ Cornêliô, một người ngoại đạo. Rõ ràng các Kitô hữu gốc Do Thái phải tốn khá nhiều tời gian mới giải thoát mình ra khỏi nhưng thành kiến chủng tộc và tôn giáo là những thứ ngăn cản không cho họ thoải mái khi đồng bàn với anh em gốc dân ngoại và điều này làm cho sứ vụ của Giáo Hội sơ khai bị bế tắc. Cộng đoàn Kitô giáo của Maccô chắc chắn phải đương đầu với những vấn đề tương tự và họ nhớ lại vấn đề Chúa Giêsu đặt ra cho các người biệt phái. Trình thuật này thiết lập cho họ sự thực hành về “bàn ăn mở rộng” rất thường bị chỉ trích. Và có mặt trong “Chương nói về bánh” này (6,30 – 8,21) cũng như sẽ không ngạc nhiên khi thấy xuất hiện vào lúc Chúa Giêsu sắp sửa hướng các môn đệ nhìn về sứ mệnh khẩn cấp là ra đi truyền giáo cho dân ngoại (xem trình thuật kế tiếp 7,24-30).
73. Chú giải của Noel Quesson.
Có những người Pharisêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Họ là những người từ Giêrusalem đến
Đối với Maccô, nơi chốn luôn có một giá trị biểu tượng Giêrusalem là nơi chống đối Đức Giêsu. Qua mười một chương đầu của Tin Mừng trong suốt phần đầu của sứ vụ Đức Giêsu, mỗi lần kể tên thành phố này là nhắc đến sự chống đối: Chính từ Giêrusalem, Thủ đô chính trị và tôn giáo này, đã xuất phát mọi cuộc công kích đầy ác ý. Chính nơi đó, những nhà hữu trách của đất nước sau này sẽ kết án tử hình Chúa, và giao nộp Chúa cho dân ngoại.
Lạy Chúa, đây là mầu nhiệm việc loài Người ruồng bỏ Chúa. Và theo đó, Giêrusalem cũng tượng trưng cho toàn thế giới.
Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật vậy, người Pharisêu cũng như mọi người Do thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng.
Đây là vấn đề không phải chỉ là vệ sinh, mà là tập tục tôn giáo về “sạch” và “nhơ”, được ghi thành luật của Môsê trong sách Lêvi (11), được thêm vào nhiều chi tiết và quy định qua truyền thống. Người Pharisêu đã thành lập một thứ đảng phái tôn giáo mà chúng ta có thể lầm lẫn nếu tự động xem họ như những người giả hình. Ngược lại, để trung thành với lề luật tổ tiên, họ tuân giữ kỹ lưỡng từng chi tiết truyền thống: Họ đã kê ra hơn 600 giới răn phải tuân giữ! Để tìm hiểu sự thánh thiện và thể hiện tình yêu tinh tế đối với Chúa, lúc nào trong ngày họ cũng nghĩ về Chúa, dù phải làm đủ thứ việc.
Vậy, người Pharisêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?”.
Có nhiều cách giải thích cho thái độ này:
1) Môn đệ của Đức Giêsu và chính Đức Giêsu, là những người xứ Galilê, những người thuộc tỉnh lẻ, dù vẫn là những tín hữu sốt sắng, nhưng đã cho chen vào tục lệ chung một vài truyền thống địa phương bị những người “trong sạch” ở Giêrusalem coi như những thái độ buông thả. Chúng ta biết rằng Đức Giêsu thường bênh vực những người bị đăt ra “ngoài lề”, những người bị khinh chê: Đó là loại người tội lỗi thu thuế, gái điếm. Đức Giêsu đã bày tỏ quan điểm mạnh mẽ về lòng xót thương và độ lượng với những kẻ hèn mọn, nghèo khổ… nghịch lại thái độ xét đoán khắt khe của Giêrusalem. Còn chúng ta thì sao?
2) Nhưng có một lý do khác, có lẽ quyết định hơn: Đó là Đức Giêsu có một đường hướng sâu sắc về “tính phổ quát”. Người huấn luyện dần dần các môn đệ để thành thừa sai trong những quốc gia có văn hóa khác với môi trường Do Thái cổ truyền: Những khuôn khổ chật hẹp và rất cá biệt của đạo Do Thái cần phải bung ra, để chỉ còn giữ những điều cốt yếu, nhằm cho người ngoại giáo có thiện chí, không có những tục lệ về ăn uống như người Do Thái, có thể đón nhận đức tin.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết phân biệt những gì là cốt yếu trong sứ điệp của Chúa với những gì là tục lệ cổ truyền của những thế kỷ trước, thường làm cho những người thuộc thời đại chúng con chán ngán một cách vô lý. Lạy Chúa, sống giữa thời đại biến đổi văn hóa này, xin cho chúng con nhận biết những gì là bất di bất dịch và những gì phải thay đổi, để cho hậu thế không bị nhũng lại trước đức tin, chỉ vì chúng con quá ràng buộc họ vào những “tập tục người xưa”.
3) Nhưng lát nữa, Đức Giêsu còn đưa ra một lý do thứ ba cho thái độ mới mà Người đề cao: Đó là những “tục lệ” không phải do Chúa, mà phát sinh từ con người của những thời trước. Vậy, những tập tục này cần phải tùy thuộc vào sự tiến hóa.
Người trả lời họ: “Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”
Câu trả lời của Chúa thật là mạnh mẽ. Người bắt đầu tấn công. Người dựa trên Kinh thánh để trả lời cho những kẻ tấn công môn đệ của Người (Is 29,13). Các ngôn sứ cũng thường lên án thứ tôn giáo duy hình thức đó. Đối với Thiên Chúa, không phải những cử chỉ bên ngoài là quan trọng, mà là “tấm lòng”. Thờ phượng chỉ để thờ phượng, thì không có giá trị. Việc phụng tự phải nói lên những xác tín sâu xa.
Sau đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ:
Đức Giêsu kêu gọi, cần phải hiểu biết và suy tư. Không cần phải lặp lại những cử chỉ hay tập tục, chỉ vì người ta đã làm như vậy từ lâu.
Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.
Trong Do Thái giáo, luật về sự thanh sạch theo nghi thức có nhiều ảnh hưởng đối với chế độ ăn uống: Cấm ăn thịt một số động vật, chẳng hạn theo sách Lêvi 11. thì bất cứ thịt nào cũng là dơ bẩn, hay những con thú không bị cắt tiết (Lc 17,10-14). Những quy định này làm cho sự đồng bàn đồng tịch giữa người Do Thái và không phải Do Thái không thể nào thực hiện được, nếu không chấp nhận theo tục lệ người Do Thái. Đó là một thứ rào cản để bảo vệ Người Do Thái không được tiếp cận với thế giới ngoại đạo. Còn Đức Giêsu thì tuyên bố: “Tất cả các thức ăn đều thanh sạch” (Mc 7,19). Quan điểm này lúc bấy giờ có vẻ cực kỳ lạ lùng, táo bạo, và phóng khoáng. Như ngày nay chúng ta vẫn thường nói. Chúng ta biết rằng, trong Giáo Hội sơ khai, vấn đề này chưa được giải quyết (Cv 10,15).
Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu:
Yếu tố làm cho con người ra nhơ bẩn thực sự, không phải cái người ta ăn, mà là điều người ta nghĩ. Sự nhơ bẩn không nằm trong vật chất bên ngoài của một hành vi nào đó mà là trong lòng chúng ta? ở đây, Đức Giêsu đưa vào luân lý một nguyên tắc hết sức cốt yếu, nhưng không được tâm tri người thời nay áp dụng thực sự: Có những kiêng kỵ vẫn còn tồn tại, là rất trái ngược với Tin Mừng. Hai hướng tinh thần giáo phái “Cathare” vẫn tồn tại. Giáo phái này lên án thân xác và vật chất. Nhưng Kitô hữu đầu tiên hẳn là đã phải chiến đấu chống lại Ngộ đạo thuyết và thuyết “Ma-nét” là nhưng chủ thuyết khinh bỉ phái tính: “Tất cả những gì Chúa đã dựng nên đều là tốt và không có gì là độc hại nếu ta đón nhận những điều đó trong thái độ tạ ơn”.
Thánh Phaolô đã nói như vậy (1Tm 4,4). Chúng ta cần ghi nhận rằng, Đức Giêsu không vì thế mà cố biện minh cho chứ quan thuyết có lẽ sẽ làm mất bản chất tư tưởng của Chúa, nếu hiểu những lời này như là một sự biện minh cho chủ trương “tự do phong tục”: Nghĩa là mỗi người có quyền làm những gì theo tiếng nói con tim! Đức Giêsu không loại tự ý niệm về “điều xấu”. Người xác định vị trí điều xấu đó ngay bên trong con người, trong sự thiếu tình thương. Đó là nguyên tắc căn bản của mọi thứ đạo đức mọi nền luân lý không phải sơ đẳng: Chỉ cần làm một cử chỉ nào là tự động phạm một tội thì chưa đủ. Cái xấu không phải ở trong sự vật, nó ở bên trong chúng ta. Vâng, tâm hồn chúng ta là nguồn phát sinh ra thứ nước ô nhiễm do lòng ích kỷ hãy nước trong sạch do tình yêu của chúng ta. Do đó chúng ta không thể xét đoán Người anh em theo bề ngoài, vì chúng ta không thấy được tâm hồn người ấy, lương tâm người ấy.
Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng.
Đây là danh mục duy nhất về tội lỗi mà Chúa Kitô đã cho chúng ta biết, ngang qua đời sống của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai. Tất cả những tội lỗi này liên quan đến tình yêu, đến tha nhân. Đức Giêsu kể ra 4 nhóm mỗi nhóm 3 tật xấu. Trong tiếng Hy Lạp 6 tật xấu đầu tiên được nói theo số nhiều và 6 tật xấu sau được nói theo số ít. Điều đó chỉ nhằm giúp dễ đọc để dễ thuộc lòng. Vậy thì có 12 tội: Con số của sự sung mãn. Tất cả đều ở đấy. Chúng ta phải thương yêu. Chúng ta sẽ bị xét đoán dựa theo tình yêu và tấm lòng của chúng ta (Mt 25).
Rất có thể con người ngày nay không thích kể ra những tật xấu. Thời đại của chúng ta đã đánh mất quá lớn ý thức về một điều cốt yếu trong mọi nền văn minh cổ đại: Đó là vẻ đẹp của đức tính và cái xấu của tội lỗi. Chúng ta cần lưu ý rằng, luân lý của Đức Giêsu là một thứ luân lý phổ quát biết bao! Đức Giêsu biết rõ lòng người. Đó là luân lý căn bản tự nhiên nhất mà Đức Giêsu đặt lại thành giá trị vượt lên trên những tập tục riêng của một nền văn minh. Không có một tục lệ quốc gia nào, một tập truyền tổ tiên nào có thể đi ngược lại những luật căn bản này mà mọi người đều phải công nhận trong thâm tâm của mình.
Hỡi người anh em, không nên lướt đọc quá nhanh danh mục trên, như nó không liên quan gì đến bạn. Bạn hãy tự hỏi sự tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, kiêu ngạo, ngông cuồng đã mang một hình thức rõ rệt nào, hay đội lốt gì đối với bạn?
Lạy Chúa, xin hãy thanh tẩy chúng con và giúp chúng con được gần Chúa hơn.
74. Chú giải của Fiches Dominicales.
“GIỚI RĂN THIÊN CHÚA” VÀ “TRUYỀN THỐNG LOÀI NGƯỜI”
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ sạch sẽ của đôi bàn tay đến trong sạch của tâm hồn
Maccô có chủ tâm khi đặt đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay trong “phần nói về bánh”, giữa hai lần bánh hóa nhiều: lần thứ nhất tại vùng đất Do thái (6,35 và tiếp theo), và lần thứ hai tại vùng đất dân ngoại (8,1-9). Quả thật, đó là cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với những người biệt phái cùng ký lục về “sạch” và “ô uế”, sâu xa hơn, về thái độ kỳ thị của người Do thái đối với dân ngoại. Họ cho rằng dân ngoại thì “ô uế”, do đó không được đi lại với những người này.
– Tranh luận bắt đầu từ một phản ửng của biệt phái và ký lục từ Giêrusalem đến điều tra “xì căng đan” do các môn đệ Đức Giêsu gây ra: vài người trong các ông “dùng bữa (nghĩa đen: ăn bánh) với đôi bàn tay dơ, nghĩa là không rửa”.
Và Maccô kể cho những người dân ngoại đọc Tin Mừng của ông, một vài tập tục nhằm bảo vệ người Do thái khỏi bị lây nhiễm đúng tập tục ngoại lai và giữ cho dân Chúa được toàn vẹn về mặt xã hội cũng như tôn giáo. J. Potin viết: “Nhờ cả một mạng lưới những chịt những điều cấm bao trùm từng giây phút, từng tình huống trong đời sống hằng ngày mà dân Do thái vẫn giữ cẩn thận luật về trong sạch (pureté) mà một thành viên của dân Thiên Chúa phải có. Ví dụ, tư tế phải thanh tẩy hằng ngày trước khi bước qua tiền đường vào đền thờ. Những hy lễ đền tội dâng tiến trong các cuộc hành hương ở Giêrusalem, những lễ nghi rửa tay, sự chay tịnh, bố thí, những lời cầu nguyện đều nhằm tìm lại sự trong sạch (pureté). Đôi khi sự trong sạch này bị mất đi vì những “sinh hoạt” của cuộc sống hằng ngày như sinh đẻ, lỗi luật, tiếp xúc với xác chết hoặc với người ngoại, người cùi,… Theo cách nói của các Rabbi (thầy dạy), luôn có một bức tường vây kín toàn bộ đời sống của người Do thái để bảo vệ họ. (Xem “Đức Giêsu, lịch sử đích thực Centurion, 192-193). J. Potin viết tiếp, những tập tục này tất nhiên đòi phải có: “Lối sống định canh định cư rất khác biệt với hoàn cảnh sống rầy đây mai đó của Đức Giêsu và các môn đệ. Hơn nữa, một số môn đệ là người bình dân nên dĩ nhiên không được chuẩn bị sẵn sàng để tôn trọng những thói tục của dân thành thị. (sách đã dẫn, tr. 193-194).
– Sau khi trả lời những người biệt phái và ký lục, Đức Giêsu nói với đám đông rồi mới nói với các môn đệ.
+ Chẳng những không tìm cách xin lỗi cho các môn đệ, Đức Giêsu còn cự lại những người chống đối và đánh giá họ là “những kẻ giả hình”, khi dùng những lời tiên tri Isaia để nói về họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Chúng có thờ phụng Ta thì cũng vô ích; vì giáo lý chúng dạy là những giới luật phàm nhân” (Is. 7,6-7 và 29,13). Kế đó, để tiếp tục phản công, Ngài tố cáo những” truyền thống” do cha ông truyền lại (những “truyền thống” của loài người) thường cho phép thay đổi cả những giới răn của Thiên Chúa. Thậm chí Ngài đưa ra một ví dụ điển hình (sách bài đọc không nói đến) để lột mặt nạ tính giả dối của những kẻ hay soi mói: “Hãy thờ cha kính mẹ”, đó là giới luật tuyệt đối Thiên Chúa đã truyền cho dân Ngài qua miệng Môisen; tuy nhiên, người biệt phái đoan chắc rằng nếu ai hứa dâng cúng của cải mình cho Ngân khố đền thờ thì được miễn nuôi dưỡng cha mẹ già (Họ nói rằng cái gì đã hứa cho Thiên Chúa thì không thể cho người khác được nữa!) J. Potin giải thích: “Đó rõ ràng là cách thay thế giá trị nền tảng của Thiên Chúa bằng sự thánh hiến tiền bạc giả danh tôn giáo. Đây là một trường hợp quá đáng nên chính những Kitô Do thái cũng chống lại vì họ rất gắn bó với gia đình. Đức Giêsu làm mọi người cảm nhận rõ ràng do đâu những truyền thống phát xuất từ cơ chế tôn giáo có thể làm biến chất chính căn bản nhất của nó và thậm chí cả hướng đi trong sáng nhất của nó nữa”. (sách đã dẫn, tr.194)
+ Rồi Đức Giêsu quay sang nói với “đám đông”. Sau khi đã vượt lên trên sự đối nghịch sạch, ô uế theo nghi lễ, Ngài đi ngược lên tận nguồn gốc của sự ô uế luân lý, nơi xuất phát mọi kết định của con người: đó là “lòng” họ. Chỉ có một sự ô uế thật sự mà con người mắc phải khi tự do quyết định: “Chính cái từ con người xuất ra, là cái làm con người ra ô uế”.
M. Quesnel khẳng định: “Chắc chắn đó là bài học chủ yếu của đoạn Tin Mừng này không có gì ở ngoài con người có thể làm họ trở nên dơ. Về điều này, Maccô là một nhà cách mạng đối với người Do thái thời ông; ông tỏ rõ rằng những người tin vào Đức Kitô và gia nhập Giáo hội không còn lệ thuộc vào sự tuân giữ những luật lệ của Israel về sạch, ô uế nữa: đụng một xác chết hay một người cùi ăn uống với người ngoại, uống máu những con vật, đối với người Do thái, tất cả những hành vi này gây ra sự ô uế về lễ nghi, nhưng đối với người tin vào Đức Kitô, thực sự chúng không còn chút khả năng nào để tách rời họ khỏi Thiên Chúa”. (Đọc Tin Mừng Thánh Máccô thế nào?, Seuil, p. 125)
+ Nhưng điều Đức Giêsu vừa nói với đám đông thì lập tức tiếp đó Ngài nói với các môn đệ “trong nhà”. Sau khi đã kể ra một loạt những thói xấu và tội lỗi, Ngài kết luận: “Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra, và làm con người ra ô uế”.
2. Từ phân biệt đến cởi mở và thông hiệp:
Chính Maccô giải thích: “Như vậy Đức Giêsu tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch”. Câu này (không có trong sách bài đọc) chắc chắn gây nên một cú sốc: “Ngay lập tức, Đức Giêsu tuyên bố những truyền thống nhằm chia xã hội thành hai khối: người tốt và kẻ xấu theo cách của đạo manichéisme (đạo thiện ác) là những truyền thống lạc hậu. Theo kiểu phân chia này, một bên là những người sạch, tức người biệt phái (nghĩa từ này là “những người được tách biệt ra”) và bên kia là những người ô uế, nên tránh, tức những người tội lỗi. Như vậy, Đức Giêsu vừa thiết lập một xã hội mới. Phần Thiên Chúa, người thông hiệp với tất cả những ai là nạn nhân của sự phân biệt xã hội và tôn giáo do chủ trương của phái ‘những người sạch và khắc nghiệt’ tức những người biệt phái. Ngài ăn uống với những kẻ ô uế, “những kẻ bị loại trừ” (người thu thuế, đĩ điếm, lính Rôma, v.v.) Chính điều mới mẻ này sẽ xô đổ những ngăn cách tai hại vào thời Đức Giêsu. (J. Hervieux, “Tin Mừng thánh Maccô”, Centurion, tr. 103)
– Một lời nói rõ ràng và có sức giải phóng dành cho những người đọc Tin Mừng Maccô ở một thời đại mà Giáo hội sơ khai đang trải qua những căng thẳng và xung đột giữa những Kitô hữu gốc Do thái và Dân ngoại. J. Potin nhận xét thêm: “Điều phê phán trên chứng tỏ rằng việc áp dụng giáo huấn này không dễ dàng, như sách Tông đồ Công vụ đã chứng minh: Phêrô đã phản đối: Trong đời tôi, không bao giờ tôi ăn những gì nhơ nhớp và ô uế, khi trong thấy một rổ những loài vật thiên thần mời ông ăn trong giấc mơ (10,14). Nhưng vì người Do thái và dân ngoại cùng hiện diện đồng bàn trong cộng đoàn Kitô hữu nên bắt buộc phải bãi bỏ những điều cấm về ẩm thực dành riêng cho người Do thái một khi chúng không có chiều kích luân lý”. (Sách đã dẫn, tr. 195–196) Qua việc công tố về sạch và ô uế, Đức Giêsu mở ra con đường của tự do Kitô giáo.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Giới răn của Thiên Chúa và tập tục phàm nhân.
(Nocent, trong “Célébrer Jésus Christ” Editions Univer-sitaires, số 7, tr.20-22)
Một cộng đoàn Kitô trẻ trung gặp khó khăn trong đời sống trước những luật lệ phải bỏ và phải duy trì. Không phải chỉ thời Cựu ước và trong đạo Do thái người ta mới bị cám dỗ muốn ẩn trốn sau những tập tục và giới luật để được an tâm. Cũng không phải chỉ ở thời đại chúng ta Kitô giáo mới biết đến những cám dỗ như thế. Chính Giáo hội sơ khai cũng đã phải trải qua những cám dỗ này.
Thánh Phaolô chứng minh cho chúng ta thấy những luật lệ Do thái và sự trong sạch nệ luật gây ra những thái độ cần phải chỉnh đốn. Sách Tông đồ Công vụ, thư gởi tín hữu Galata, thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô, thư gởi tín hữu Rôma đều lần lượt ám chỉ đến vấn đề này.
Thư gởi tín hữu Galata cho chúng ta thấy chính Phêrô cũng do dự trước tình hình nghiêm trọng do phản ứng mạnh của một số người. Ông dùng bữa chung với người ngoại giáo, nhưng khi một số người thân cận của Giacôbê từ Giêrusalem đến, ông lẩn tránh mà không dám tiếp xúc với người ngoại giáo nữa vì sợ những người đã cắt bì. Thấy vậy, một số người Do thái khác cũng bắt chước ông. Thánh Phaolô đã kịch liệt đả kích thái độ “ỡm ờ” này (Galata 2,11-14)
Chương 10 trong Tông đồ công vụ thuật lại: trong lúc Phêrô phải đương đầu với những khó khăn này thì một thị kiến đã dạy ông thái độ cần có và ông đã vào nhà viên bách quan dù theo luật như chính ông đã biết: người Do thái bị cấm vào nhà người ngoại giáo.
Một vấn đề khác, đó là việc cắt bì. Một số muốn dân ngoại khi trở lại phải chịu cắt bì (Ac 15). Chính Phêrô, thủ lãnh của Giáo hội, cũng cảm thấy khó mà quyết định về những vấn đề này; ông đã can đảm giải quyết nó nhưng không phải là không phân vân.
Thánh Phaolô cảm thấy cần phải nhấn mạnh tầm quan trọng thứ yếu của những tập tục về thức ăn, nên ông viết: “ Thức ăn dành cho bụng và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ hủy diệt cả cái này lẫn cái kia”. (1 Cor. 6,13) Trong thư gởi tín hữu Rôma, về vấn đề này, ông đưa ra một phán đoán rất quân bình: “ Nước Thiên Chúa không phải chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần”. (14,17)
Tuy nhiên, bằng cách khích lệ là cần phải làm đúng lúc vì “những người yếu đuối”, Phaolô nói tiếp: “Đừng vì một thức ăn mà phá hủy công trình của Thiên Chúa” (14,20) Tất nhiên mọi thức ăn đều sạch, nhưng chúng sẽ trở nên sự dữ đối với người ăn chúng mà gây gương mù. Những sự kiện này giúp chúng ta hiểu rõ hơn giáo huấn của thánh Máccô dành cho các tín hữu của ông”
2. Truyền thống là gì?
(H. Vulliez, trong “Thiên Chúa rất gần. Năm B”, Desclée de Brouwer, tr.146).
“Những người biệt phái trách các môn đệ Đức Giêsu không rửa tay trước khi ăn”, nghĩa là không trung thành với truyền thống. Nhưng truyền thống là gì?
Trong đạo Do thái, luật bắt buộc các tư tế phải rửa tay trước khi cử hành phụng vụ (Xh 30,17-21). Các Rabbi biến luật này thành phức tạp hơn khi thêm vào đó những chi tiết và những giải thích cho rõ ràng hơn.
Đàng khác, họ áp đặt lễ nghi này cho mọi người Do thái trước khi họ dùng bữa, “lấy cớ là tất cả các bữa ăn đều làm một hành vi tôn giáo và toàn thể Dân Israel là dân tư tế”. Rồi, dựa vào một tiến trình mà ai cũng biết để biện minh cho những luật lệ này, họ nói rằng chúng có nguồn gốc từ thời ông Môisen, người đã giải phóng dân tộc. Nên đó là “Truyền thống”.
Nhằm phá vỡ tính máy móc của sự khép kín này, cũng như nhằm tháo bỏ nó khỏi chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa nệ truyền thống khởi đi từ sự đối lập giữa sạch và ô uế, cái bên trong và ăn ngoài, Đức Giêsu lập luận: “Không có gì từ bên ngoài trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; chúng chính cái từ con người xuất ra mới là cái làm con người ra ô uế”.
Khi bên ngoài lấn át bên trong, dáng vẻ bề ngoài lấn át con tim, lễ nghi lấn át ý nghĩa, trình diễn ngoạn mục lấn át nội tâm, tỉ lệ lấn át tinh thần; thì đó sẽ là điều đồi bại. Bản văn chính thức chúng ta đọc trong chúa nhật này đã bỏ đi một câu tố cáo sống sượng sự phản bội dưới vỏ bọc của một truyền thống sai lạc: “Bất cứ cái gì lừ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm con người ra ô uế được, bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng vào bụng người ta rồi thải ra ngoài”.
Chỉ có một truyền thống đích thực, đó là dòng chảy từ con tim của Thiên Chúa đến con tim của con người. Nhưng để dòng chảy lưu thông thông suốt, đương nhiên cần có những ống dẫn. Những ống này càng mịn màng tinh tế càng ít cản trở dòng chảy”.
3. Đức Giêsu giải phóng chúng ta
(Mgr Daloz, trong “Vậy, Ngài là ai?”, Desclée de Brouwer, tr.43)
“Đức Giêsu là con người tự do. Ngài giải phóng. Ngài là người con say mê tìm vinh quang của Cha mình. Ngài bảo vệ các môn đệ chống lại các cuộc tấn công của những kẻ nệ luật; Ngài bảo vệ giới luật của Thiên Chúa không để chúng bị thay thế bởi những luật lệ loài người. Đức Giêsu mới gọi chúng ta đi đến tận “tâm điểm”, tức tận trung tâm của con người mà từ đó phát xuất ra những gì là sạch và ô uế. Ngài kêu mời chúng ta phải lãnh trách nhiệm của chính mình. Ngài cũng kêu gọi hãy có sự trong sạch của tâm hồn, chứ không phải của đôi bàn tay. Chính khi làm thế chúng ta ở trong chân lý, không giả hình, không biện minh vụn vặt cho những chọn lựa nhỏ nhặt của mình, không kết án nhân danh những luật lệ chính chúng ta nặn ra. Đức Giêsu bắt người ta vừa phải đối diện với chính mình, với cái “tâm” của mình, vừa phải đối diện với “giới luật của Thiên Chúa”. Đó chính là hai tiêu chuẩn để đo lường sự chính trực. Như vậy, Đức Giêsu đưa chúng ta trở về với điều cốt yếu nhất và giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ của những điều vụn vặt, những hình thức bên ngoài…”
75. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
TRONG SẠCH VÀ DƠ BẨN
LUẬT LỆ CON NGƯỜI VÀ GIỚI RĂN THIÊN CHÚA
I. VẤN ĐỀ TRONG SẠCH VÀ DƠ BẨN.
1. Lời Chúa Giêsu.
Câu châm ngôn (maschal) về trong sạch của Chúa Giêsu (bây giờ được phát biểu dưới hình thức đối thoại) ở 7,15 chắc chắn thuộc về tình trạng cổ xưa nhất của truyền thống bản văn. Ngay cả những phê bình khắt khe nhất về truyền thống Nhất lãm cũng không phủ nhận việc gán cho Chúa Giêsu lời này. Nếu cất bớt đi khỏi câu văn một vài thêm thắt về sau, người ta sẽ được một châm ngôn dễ dàng dịch lại sang Aram ngữ và có nhiều đặc tính của văn chương Do thái cổ xưa, như đối ngẫu, vận ép với nhưng lối chơi chữ và một tiết điệu rõ rệt:
“Không gì ở ngoài con người có thể làm cho nó ra nhơ uế”. Nhưng chính cái xuất tự con người là cái làm cho uó ra nhơ uế.
a/ Các yếu tố.
Người ta có thể hiểu phần sau của châm ngôn, như Mc 7,19b đã mạnh dạn tả chân, là nói về phần dơ uế theo nghĩa của sách luật (x. Đnl 23,13-15); nhưng nửa phần đầu thì nói ngược lại sách Luật là sách vốn nhận có nhiều vật “nhơ bẩn” và vì vậy “gây dơ uế” (x. Lv 11-15). Hai mối tương quan khác nhau đó với sách Luật làm nổi bật hai nghĩa của châm ngôn và đó là một sự hàm hồ đánh động thính giả.
“Bên trong” và “bên ngoài” con người là những hạn từ không những liên hệ tới những đồ ăn đưa từ ngoài vào trong, mà còn nói lên hai lãnh vực khác nhau của con người: lĩnh vực ngoại biên và lãnh vực trung tâm, trung tâm của ngôi vị và “ngoại biên” của con người. Chính trung tâm ngôi vị, theo ngôn ngữ Kinh Thánh: cõi lòng, là cái mà câu châm ngôn nhắm tới, như lời giải thích nó (c.21) và văn mạch tổng quát (c 6) nhấn ngạnh. Ngay trong phần đầu của châm ngôn: “Không có gì ở ngoài người ta có thể làm cho người ta ra nhơ uế, đã nói đến lòng, nói đến trung tâm của con người cách mặc nhiên. Con người không thể bị bên ngoài, ví dụ như đồ ăn “dơ bẩn”, làm cho hoen ố được. Nhận xét đó của nữa đầu châm ngôn (maschal) đưa ra câu hỏi sẽ được phần sau giải đáp: nỗi đe dọa của sự dơ bẩn thật sự đè nặng trên con người chỗ nào?
b/ Tầm mức, ý nghĩa
Vấn đề “trong sạch” và “dơ bẩn”, một vấn đề đã từng đóng vai trò quan trọng trong các tương quan giữa người Do thái với nhau và trong việc họ tách biệt với “chư dân”, không thể tiên thiên gạt đi bằng lối phân biệt (thông thường đối với chúng ta) giữa phạm vi tế tự và phạm vi luân lý. Ý niệm dơ bẩn không chỉ xuất phát từ một phê phán nông cạn và từ một tiên triển của Luật sau này, nhưng còn diễn tả một kinh nghiệm hiện sinh về cái chết, truyền lại từ xưa và không ngang tái tục. Lãnh vực của “trong sạch” thiết yếu là lãnh vực của sự sống (phụng tự diễn tả điều này một cách rất đặc biệt), lãnh vực của “dơ bẩn” là lãnh vực của sự chết (được diễn tả qua phụng tự ngoài dân).
Những quy định về trong sạch của sách Tora, đặc biệt áp dụng cho các tư tế trong việc thi hành phận vụ, ngoài ra đã được hiểu một cách duy luật và được nới rộng thêm do lòng đạo đức của Biệt phái, nhưng ý niệm dơ bẩn tự nó không vì thế mà bị xem là phi lý trong Do thái giáo (như có lẽ đối với lương dân hy lạp). Thành ra lời của Chúa Giêsu, được truyền thống lưu giữ (c.15), không phải là một bác luận thuần lý hay duy lý chống lại ý niệm dơ bẩn như truyền thống cũng đã hiểu sớm. Sự thay đổi quan niệm mà Chúa Giêsu tìm cách gây nên nơi các thính giả nhờ câu châm ngôn của người có tính chất cách mạng hơn, vì nó nằm trên bình diện những ý tưởng thịnh hành lúc ấy. Chúa Giêsu không tuyên cáo, Người không theo phe ủng hộ cái bên trong chống lại cái bên ngoài (cõi lòng vẫn được coi như ổ của sự ác!) cũng chẳng có ý đương đầu với lề luật Giao ước cũ.
Qua câu nói uy nghi, Chúa Giêsu kêu mời con người thoát khỏi tình trạng xấu xa của mình để hối cải, chứ không phải để nỗ lực tri thức. Câu “khó hiểu” của Chúa Giêsu thật là dễ hiểu; nó không đòi hỏi nhiều kiến thức, nhưng đòi hỏi một sự hoán cải tận căn: “Công việc này không lớn lao, nhưng gây nhiều hậu kết. Chúa Giêsu cho rằng quyền lực chết chóc của sự dữ – “dơ bẩn” – đè nặng trên con người, và Người cho thấy sự đe dọa của nó phát xuất từ đâu. Nó không chạm tới con người từ bên ngoài do của ăn, nhưng tấn công bên trong con người, và chính từ đó nó tung ra các cuộc tấn công của nó. Lời Chúa Giêsu tập trung ảnh hưởng của sự dơ bẩn trên cái bên trong, trên cõi lòng, trung tâm của mọi quyết định: Như thế, một phần lớn, mà đã không bao giờ bị bỏ quên, của các quan niệm Cựu ước về dơ bẩn nhận được một giá trị tuyệt đối. Sự dơ bẩn đích thực, duy nhất là sự dơ bẩn mà con người mắc phải khi tự do chọn lựa sự ác” (W.Paschen, Rein und Unrein. Eine wortgeschichtlicho Untorsuchung der Vorstellungen im biblischon Hobraisch und ihres Fortlebons in Qumran und in der ro de Jesu, Wurzburg, 1969, tr.275t).
Qua lời nói uy nghi ấy, Chúa Giêsu cho con người một sự tự do lạ lùng; theo ý Chúa Giêsu, tự do đó phải ý thức về trách nhiệm mình trước mặt Thiên Chúa và trước mặt mọi người. Được khỏi mọi thiệt hại do những vật bên ngoài như miếng ăn v.v…, nó càng không có quyền phát xuất ra cái gây dơ bẩn, cái gây tại hại chết chóc cho mọi người; nếu làm như vậy chính nó sẽ bị “hóa ra dơ bẩn”, chỉ còn nước chết.
c/ Khung cảnh.
Khung cảnh mà c.14 và 16 tạo ra cho lời Chúa Giêsu tương ứng với hình thức tiên tri của châm ngôn. Hoàn cảnh lúc bấy giờ không phải là cuộc tranh luận thông thái, nhưng là một bài giảng đánh động của Chúa Giêsu: “Hết thảy hãy nghe Ta mà hiểu lấy!”. Chính đấy là cách Chúa Giêsu thường trình bày cho dân chúng các dụ ngôn của Người: “Hãy nghe đây!”.
Lời kêu gọi chú ý (c.16); “Nếu ai có tai để nghe thì hãy nghe” có lẽ là một thánh ngôn lấy từ Mc 4,23 và được thêm về sau vào đây, nó nhấn mạnh sự khẩn thiết của sứ điệp. (Cũng xin xem các câu kết của 7 bức thư gởi các Giáo Hội trong Kh 2-3).
Thái độ nghe và hiểu, theo Is 6,9 (Mc 4,12) vắng bóng nơi những kẻ cứng lòng vốn đi tìm nguồn gốc của “dơ bẩn” không đúng nơi và vì vậy không đáp ứng ý của Thiên Chúa (và chẳng dùng tự do riêng của họ) nhưng để lòng mình xa cách Ngài (Is 29,13; Mc 7,6).
Rõ ràng Chúa Giêsu đã nhìn thấy tình trạng của những con người Người muốn tiếp xúc như thế; thánh sử còn củng cố cảm tưởng này khi gọi những người thân cận với Chúa Giêsu, tức các môn đồ, như những kẻ ngu độn không hiểu gì hết (Mc 7,18; x. 8,17tt). Tuy nhiên ta sẽ lầm lẫn nếu cho cách thức Chúa Giêsu nhìn xem con người như vậy là bi quan; đúng ra phải gọi là thực tế (tả thực); đó cũng là điều tác giả Tin Mừng thứ 4 đã ghi chú: “Người biết mọi cái có trong con người” (Ga 2,25).
Những lối giải thích thánh ngôn trong Giáo Hội sơ khai.
Vấn đề thanh sạch về thức ăn đã đóng một vai trò quan trọng trong Giáo Hội sơ khai (x. Gl 2,11-14; Cv 10 và 15) đối với việc cùng nhau dùng bữa và nhất là cùng nhau cử hành Tiệc thánh giữa Kitô hữu trở lại từ Do thái giáo và ngoại giáo. Nơi nào mà Kitô hữu gốc Do thái nhấn mạnh đến việc tuân giữ luật thanh sạch thức ăn, thì họ không thể không tìm cách loại ra khỏi bữa tiệc những kẻ “dơ bẩn”, những Kitô hữu gốc lương dân, là những người có thói quen dùng hết mọi của ăn, và họ bắt đầu phủ nhận việc những người đó hoàn toàn tham dự vào cộng đoàn. Sự dơ bẩn hiểu một cách vật chất đã là một nguyên nhân chia rẽ, và càng nguy hiểm hơn vì người ta đã khẳng định rằng nó bắt nguồn từ trong luật Cựu ước và có vai trò trong cộng đoàn Kitô hữu Do thái.
Lời Chúa Giêsu, một lần nữa, đã phải thị uy trong hoàn cảnh này, và đã được Giáo Hội sơ khai giải thích nhiều cách mà toàn bản văn cho ta hai ví dụ (cc. 18-20.21-23; x. 1Cr 6, 13: “Của ăn dành cho bụng và bụng dành cho của ăn, và đôi đàng. Thiên Chúa sẽ hủy ra không”; Rm 14,20: “Vì một thức ăn, ngươi đừng phá hủy công trình của Thiên Chúa. Mọi sự đều trong sạch, nhưng ăn mà gây dịp vấp phạm là sự chẳng lành”).
a. Giải thích đầu tiên về lời Chúa Giêsu (cc. 18-20).
Lời giải thích được đặt trong khung cảnh một giáo huấn riêng cho các môn đồ (x. Mc 4,10-12), một khung cảnh nói lên vấn đề đặc biệt của cộng đoàn Kitô hữu lời giải thích lấy lại thể đối ngẫu của châm ngôn (cc.18b-20) và giải thích nửa phần như cách sống sượng (c.19a): của ăn không vào trong thâm tâm, nhưng chỉ vào trong bụng, và từ đó xuất ra nơi nhà xí. Truyền thống Giáo Hội sơ khai đã hiểu đúng hậu quả hàm chứa trong châm ngôn Chúa Giêsu: “Như thế người tuyên bố mọi thức ăn đều sạch” (c.19b; x. Rm 14,20; Cv 10,15: “Những gì mà Thiên Chúa đã tẩy sạch thì ngươi đừng gọi là tục, là nhơ. Tuy nhiên, trọng tâm của lời Chúa Giêsu, tức sự đòi hỏi trong sạch tâm hồn, cùng lúc bị xoay hướng: lời giải thích chỉ đề cập đến sự dơ bẩn đồ ăn, và tuyên bố là trong sạch mọi của ăn mà không nói đến trung tâm thật sự nguy hiểm của sự dơ bẩn là tâm hồn. Vì thế cần một giải thích khác; lời giải thích này có thể đã bắt nguồn từ chính Chúa Giêsu nhưng khoa phê bình Tin Mừng thường không thừa nhận.
b. Giải thích thứ hai (cc.21-23)
Theo trước tác mới của bài Tin Mừng Chúa nhật, thì lời giải thích thứ hai này đi liền sau châm ngôn của Chúa Giêsu. Nó muốn làm nổi bật trọng tâm của châm ngôn đó; nó chủ ý đề cập đến ‘lòng’ như là nơi con người bị đe dọa nhiễm sự nhơ bẩn sẽ mang lại cái chết và chia rẽ nhân loại với nhau. ‘Lòng’ của con người không trong sạch là sào huyệt của mọi tính xấu gây ra sự hư vong cho nó; lòng được trình bày như một kho dự trữ: “Người lành tự kho lành lòng mình mà đem ra sự lành và người ác tự tính ác mà đem ra sự ác: vì lòng chứa đầy những gì thì miệng nó nói ra” (Lc 6,45).
Theo chiều kích của chính câu nói Chúa Giêsu, lời giải thích chỉ kể ra những “kho tàng” của lòng xấu xa, tồi bại. Những tư tưởng xấu và hậu quả của chúng đều được trình bày dưới hình thức cổ truyền của một bảng liệt kê các thói xấu. Phân tách các nhãn hiệu “những suy tính xấu xa” (c.21a) và “những điều bậy bạ” (c.23), thấy có mười hai danh từ, sáu ở số nhiều và sáu ở số ít, chỉ cái thật sự gây nên dơ bẩn: dâm bôn, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam và (mọi loại) độc ác; giảo quyệt, phóng đãng, phân bì, gièm pha, kiêu hãnh và (mọi thứ) vô lương tri. Hai loại, mỗi loại gồm ba cặp tính xấu, đều kết thúc bằng một “tính xấu” nói chung. Việc trích dẫn nhiều thói hư như vậy có mục đích cho thấy lòng người có khả năng đáng sợ đến thế nào” (R. Schnackenburg).
Sự “vô lương tri” đã được chủ tâm đặt cuối hai loại: nó là nguồn gốc của mọi sự ác, vì làm cho ta đánh giá lầm lẫn (ví dụ quá nhấn mạnh đến sự dơ bẩn bên ngoài) thực tại (xét như thực tại trước mặt Thiên Chúa). Con người vô lương tri, con người ngu độn, là kẻ “không biết Thiên Chúa”, quên Thiên Chúa và khinh bỉ Ngài (Tv 10,3t; 14,1), là con người mù quáng và chai đá. Điều đó soi sáng lần nữa lời Chúa Giêsu kêu gọi hãy nghe và hiểu (cc. 14.18).
So sánh bảng danh sách các thói xấu và khung cảnh của nó với Châm Ngôn 6, 16-l9 vốn có thể là khuôn mẫu, ta có lẽ được phép nghĩ rằng lời giải thích thứ hai này bắt nguồn từ chính Chúa Giêsu. Tuy nhiên cho dù chính cộng đoàn đã chú giải lời Chúa Giêsu như vậy, thì cộng đoàn đã hiểu đúng chính cõi lòng tà mang lại giữa con người sự chia rẽ và cái chết chứ không phải tâm hồn đã hoán cải; của ăn không thể chia rẽ con người với Thiên Chúa và với nhau; các luật về thức ăn không thể trói buộc họ thực sự; cái chia rẽ con người chính là tâm hồn xấu; cái kết hợp họ lại chính là tâm hồn mới mẻ mà Thiên Chúa tạo nên trong họ hết thảy, trong họ là những kẻ tội lỗi, Do thái và lương dân (như Giáo Hội sơ khai và thánh sử hiểu).
II. TRUYỀN THỐNG TIỀN NHÂN VÀ GIỚI RĂN THIÊN CHÚA
1. Phụng tự và luân lý?
Nửa phần đầu của bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay (cc 18) là dưới hình thức bởi chỉ là một đoạn trích từ bản văn Mc, đã liên kết một cách hữu lý vấn đề “trong sạch và dơ bẩn” với việc phụng tự Thiên Chúa (cc.6-7). Tư tưởng và hành động của con người, sự chia rẽ và quy tụ loài người không nằm trong một lãnh vực luân lý độc lập với việc phụng tự; nhưng bảng thứ hai của bộ luật Môisen, mà danh sách các thói xấu ám chỉ đến (cc.21-23), không được đặt ngay liền với bảng thứ nhất, mà câu trích dẫn ngôn sứ đã nhắc lại (cc.6b-7).
Khi việc phụng thờ Thiên Chúa trở nên một sinh hoạt độc lập thì con người trở nên những kẻ “giả hình” (c.6a), chỉ có “ngoại điện” và chỉ lo những cái “ngoại biên”; bấy giờ họ nhìn thấy mối nguy dơ bẩn không đúng chỗ của nó. Những con người ấy thường càng dễ để cho dơ bẩn phía không được bảo vệ. Hàng rào (bao quanh Lề Luật) mà các giáo sĩ gọi là “truyền thống tiền nhân” (xung quanh đó đã diễn ra một cuộc tranh luận trong Tin mừng) không thể là một sự bảo vệ hữu hiệu khi những cuộc tấn công chẳng từ “bên ngoài” mà đến. Đó là một khẳng định căn bản của bản văn mà, trong trước tác mới, đã được nổi bật một cách đặc biệt.
Sợi dây liên kết hai phần lẫn của bản văn không chỉ được bảo đảm bởi tiếng móc “dơ uế” nhưng còn bởi động từ “noi theo” (c.5). Đây là vấn đề noi theo giới răn Thiên Chúa. Theo ý kiến Chúa Giêsu, “truyền thống tiền nhân” không chỉ cho thấy con đường ngay thật, vì nó chẳng thấy đâu là những nguy hiểm thực sự đang đe dọa con người; Cái làm cho con người thấy được và dạy một cách sống đẹp lòng Thiên Chúa, đó là giới răn Thiên Chúa, như Chúa Giêsu đã bảo khi trích dẫn ngôn sứ Isaia. Giới răn Thiên Chúa có thể bị cải biến thành một nhân luật đè bẹp con người và tiêu diệt tự do của họ.
2. Tinh thần duy luật Biệt phái.
Theo bản văn Mc, Chúa Giêsu đặt đối lập giới răn Thiên Chúa với truyền thống con người (c.8) và minh họa sự xung khắc này bằng tập tục về “của cúng” (cc.9-13). Thế mà đối với Biệt phái, “truyền thống tiền nhân” có cùng giá trị như lề luật. Truyền thống tiền nhân, đó là các chỉ dẫn mà bao tiến sĩ luật đưa ra để giải thích và áp dụng luật. Biệt phái tưởng có thể dùng chúng để chặn đứng sự vi phạm luật cùng thánh hóa theo kiểu tư tế toàn quốc gia; ngoài ra họ cũng nỗ lực nhiều khi đòi buộc phải tuân giữ tỉ mỉ các quy khoản nhỏ nhặt nhất. Những người Do thái nào không tuân theo chúng thì bị xem như “lũ dân quèn không biết Lề luật” (Ga 7,49) và bị khinh bỉ như những người vi phạm chính Luật. Các “truyền thống tiền nhân”, mà các quy định về thanh sạch chỉ là một phần, có thể vì thế đã gây nên chia rẽ. Thế là lề luật của Thiên Chúa thì hướng tới sự công chính nghĩa là quy tụ toàn dân. Khi bỏ qua một bên những lời công kích tập tục của cúng, bài Tin Mừng hôm nay muốn đặt sự đối lập giữa quy tắc con người với Lề luật của Thiên Chúa trong tương quan trực tiếp với vấn đề “trong sạch và dơ bẩn”. Như vậy có lẽ nó thiết lập lại được hoàn cảnh tranh luận khởi nguyên (người ta khám phá ra hoàn cảnh này ở cc. 1-2.5 và có thể nó đã là cơ hội cho Chúa Giêsu giảng dạy dân chúng). Các Biệt phái và ký lục của họ, những kẻ áp dụng các quy định của tư tế về trong sạch trong đời sống hàng ngày, đã quở trách môn đồ Chúa Giêsu là không theo “truyền thống tiền nhân” và đã ăn uống với bàn tay “dơ bẩn”. Chắc họ ngầm bảo là tay dơ bẩn sẽ làm dơ bẩn đồ ăn và đến lượt đồ ăn làm dơ bẩn cả con người.
Maccô nghĩ phải cho độc giả Kitô hữu gốc lương dân và thuộc môi trường Hy lạp của ông một giải thích về những tập tục (lạ lùng) đó: ông đặt giải thích này trong một ngoặc đơn (cc.3-4) giữa nhận xét của Biệt phái, ký lục và câu chất vấn của họ về vấn đề ấy. Ở đây thánh sử hơi phóng đại khi bảo “hết thảy người Do thái” đều giữ tập tục đặc biệt của Biệt phái và nói (một cách mỉa mai) đến nhiều tập tục cổ truyền khác như “rửa chén bát, bình ché và các đồ đồng” (c.4).
Có lẽ lời giải thích của ông cảm hứng từ một lời khác của Chúa Giêsu, mà Mt và Lc đã lưu giữ cho ta theo nguồn của các lời tuyên phán: “Khốn cho các ngươi ký lục và Biệt phái giả hình, các ngươi rửa sạch bề ngoài chén dĩa, mà bề trong thì đầy tham ô và vô độ. Hỡi Biệt phái mù quáng, hãy lo rửa sạch bên trong chén dĩa đi, ắt bên ngoài nó cũng được sạch” (Mt 23,25tt).
Maccô nói quá, nhưng nhờ vậy mà dược kết quả này là trường hợp riêng biệt vốn đã làm đầu mối cho cuộc tranh luận (ăn với bàn tay chưa rửa) nay mang một giá trị phổ cập và vấn đề mà Biệt phái và ký lục đưa ra đã được xét đến tận gốc. Thái độ đối với Lề luật, biểu lộ trong “truyền thống tiền nhân”, trong tinh thần duy luật tỉ mỉ, đã bị vạch trần như là giả hình, đạo đức ngụy tạo. Một truyền thống có tinh thần duy luật chỉ lưu tâm đến bên ngoài, đến ngoại diện, đến những biên giới, và rốt cục đến sự dơ bẩn thể chất; và ngay cả khi nó dùng lý trí giải quyết một cách khác vấn đề “trong sạch và dơ bẩn”, thì nó vẫn tiếp tục trong tình thần duy luật của nó, là đòi hỏi sự tuân giữ tỉ mỉ những quy khoản, và lẫn lộn quy tắc con người với lề luật Thiên Chúa.
Ta có một thí dụ khá nổi tiếng về vấn đề này trong lời của Rabbi Akiba: “Trong cuộc sống các anh, không phải xác chết gây ra dơ uế, cũng chẳng phải nước là tẩy được sạch, nhưng là luật của Vua các vua. Thiên Chúa đã phán; Ta đã thiết lập một quy tắc, Ta đã truyền ra một huấn lệnh; không ai được quyền vi phạm huấn lệnh Ta”.
Đối với Chúa Giêsu và (đối với Giáo Hội sơ khai) mọi tinh thần duy luật đều phải chịu lời kết án vị ngôn sứ tuyên ra, là sấm ngôn Thiên Chúa mà Isaia, kẻ lên án tế tự bên ngoài, đã truyền lại Tế tự bên ngoài có thể tạo nên tranh chấp giữa giới răn Thiên Chúa và ơn rỗi của con người, trong khi giới răn Thiên Chúa được ban là để cứu rỗi con người, như kẻ không để lòng xa cách Thiên Chúa thường hiểu. Sự cao vượt của Chúa Giêsu, như ta có thể gián tiếp khám phá ở đây, dựa trên việc người để tâm hồn Người gần kề Thiên Chúa.
Cộng đoàn Giáo Hội đã truyền lại nhiều bản văn như bản văn trên bởi lẽ chính cộng đoàn cũng luôn bị đe dọa sa vào một thứ đạo đức giả dối. Đối với thánh sử, sự quan trọng của truyền thống này đặc biệt nằm ở chỗ: việc gạt bỏ những hàng rào bất chính và việc tiếp nhận giới răn Thiên Chúa trong ý nghĩa nguyên thủy mới kết hợp, trong cộng đoàn, những người Do thái và hy lạp, và như thế mới giúp thờ phượng Thiên Chúa cách thật sự “trong thần khí và chân lý”, như thánh Gioan sẽ nói về sau (Ga 4,23). Các quy luật nhân loại vốn chia rẽ con người thì cũng chia rẽ họ với Thiên Chúa; còn giới răn của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu tóm gọn và đơn giản hóa một cách diệu kỳ (Mc 12,28-33) thì kết hợp con người với nhau và như thế kết hợp họ với Thiên Chúa.
KẾT LUẬN
Phần đầu của bản văn Tin Mừng như thế được một tính cách thời sự đặc biệt; tính cách này thêm vào cho giá trị trường cửu của giáo thuyết và của những bài học nơi phần thứ hai. Giáo Hội mà có lẽ hôm nay hơn lúc nào hết, cũng thường bị cám dỗ từ bỏ giới răn Thiên Chúa để theo truyền thống con người, bị cám dỗ chỉ tôn thờ Thiên Chúa ngoài môi. Nhưng trong lòng thì xa cách Ngài vạn dặm. (Rudolf Pesch, Assemblées du Seigneur 53, tr.50-59).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Thái độ của Biệt phái trong đoạn văn hôm nay chỉ là quy trách. Họ nhìn Chúa Giêsu và nhìn các thái độ Người muốn môn đồ theo với một thành kiến. Họ có những ý kiến của họ về tôn giáo, về lòng trung thành, về thói đạo đức. Đây là một não trạng đã được nắn đúc dần dần bởi nhiều thế hệ, được lưu truyền một cách tỉ mỉ bởi cả một truyền thống. Phải nhận rằng đây cũng là não trạng của nhiều cộng đoàn Kitô hữu chúng ta, của môi trường những “người suy nghĩ đúng”. Các ý tưởng của chúng ta về tôn giáo, về đạo đức, về các thái độ phải có hay khung nên có đặc biệt nơi kẻ khác chẳng cứng nhắc, cố định mãi mãi đó sao? Chúng khiến ta thành những người chẳng có khả năng nhận ra các giá trị tôn giáo là luân lý không diễn tả trong những phạm trù riêng của ta. Xin đan cử một thí dụ: những phán đoán đầy quở trách và lên án của một vài Kitô hữu đối với các “thánh lễ giới trẻ”. Và ngược lại là phán đoán của nhiều ngươi trẻ về các buổi hội phụng vụ cổ truyền hơn mà họ cho là duy hình thức, có vẻ biệt phái. Và trong lãnh vực luân lý, có biết bao phê phán bất công về nhiều cách hành động mà đôi khi thực ra chỉ là những hình thái diễn tả của cùng một giá trị duy nhất. Điều đó không muốn nói là phải đi đến chỗ chấp nhận tất cả, coi mọi cái có giá trị như nhau. Nhưng chỉ có kẻ sống bởi Thánh Thần mới có thể nhận ra chân lý và sự sống trong những hình thái khác biệt nhất của chúng.
2. Con người lệ thuộc vào môi trường. Nhưng trong con người có một chỗ thiêng liêng, nơi đó một mình họ có quyền định đoạt sự lựa chọn của mình. Con người chịu trách nhiệm đến mức nào? Điều đó là một bí mật của Thiên Chúa. Đấng ngự trị các đền thờ đông kín nhất. Nhưng con người có phần trách nhiệm, phần trách nhiệm ngự tại cõi lòng” (theo ý nghĩa Kinh Thánh). Hình từ cõi lòng, con người xây dựng cuộc sống luân lý mình. Tâm hồn trong sạch hay không trong sạch không phải vì do những hoàn cảnh phụ thuộc bên ngoài, nhưng do những quyết định mà con người chọn hy một cách ý thức và tự do trong thâm tâm thành. Quan niệm Thánh Kinh về sự trong sạch hay không trong sạch căn cứ trên cách thức con người phải trình diện trước sự thánh thiện của Thiên Chúa. Tin mừng dạy rằng con người được mời gọi để trở nên con cái Thiên Chúa nghĩa là trong con người đã có một sự hiện diện của Thiên Chúa chí thánh và nếu con người đã chịu phép Rửa tội thì lại có một sự hiện diện thần linh hóa của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đứng trước sự kiện này, trong sạch và không trong sạch là gì? người Kitô hữu biết ngay điều gì phù hợp hay không phù hợp với sư hiện diện ấy, cái gì trong sạch và không trong sạch. Điều đó xảy ra trong cõi lòng. Vì thế, Chúa Giêsu dạy rằng tư tưởng, ý muốn hành động là trong sáng hay vẩn dục, tốt hay xấu, đạo đức hay tội lỗi thì tùy theo nguồn của chúng tức là cõi lòng. Chính trong tâm hồn mà điều gì được phán quyết phù hợp hay không phù hợp với sự thánh thiện của Thiên Chúa.
3. Giả hình là khi ta tăng gia những lề luật phải giữ là giữ một cách hình thức để tự trấn an hoặc để cảm thấy mình tốt hơn những ai không giữ như vậy. Giả hình là khi ta chủ trương không cần lề luật, hình thức, để sống theo cảm hứng của lòng ham muốn, nhân danh tự do, viện cớ đạo tại tâm, đạo trong cõi lòng.
4. Bài Tin Mừng hôm nay đặt cho ta một câu hỏi cụ thể xác định: đâu là sự trong sạch cần thiết để đến với bí tích Mình Máu Chúa Giêsu? Thưa: sự trong sạch chính là có mặt tâm hồn rộng mở, sẵn sàng đón nhận ân huệ của Thiên Chúa. Trái lại, sự dơ bẩn bất xứng là có một tâm hồn đóng kín trong những thái độ luân lý và tôn giáo giả tạo.
76. Chú giải của William Barclay.
SẠCH VÀ KHÔNG SẠCH (Mc 7,1-4)
Chỗ khác nhau về cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với người Pharisêu và các Kinh sư mà chương sách này ghi lại vô cùng quan trọng. Vì nó cho ta thấy hai đường hướng trái ngược nhau giữa Chúa Giêsu với người Do Thái chính thống giáo vào thời của Ngài.
Vấn đề đặt ra là: Tại sao Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài không giữ theo truyền thống của người xưa? Truyền thống đó là gì và tinh thần vận dụng đó là gì?
Đối với dân Do Thái, thì luật có hai nghĩa. Thứ nhất và quan trọng hơn hết là Mười Điều Răn và thứ hai là năm quyển sách đầu của Cựu Ước hoặc gọi theo cách của họ là Ngũ Kinh (Pentateuch). Sự thật, Ngũ Kinh hàm chứa một số quy tắc và chỉ dẫn chi tiết, nhưng về các vấn đề đạo đức, những gì được nêu lên chỉ là một loạt nguyên tắc mà người ta phải tự cắt nghĩa và ứng dụng cho riêng mình. Qua một thời gian dài, dân Do Thái bằng lòng với việc làm ấy.
Nhưng đến thế kỷ thứ tư và năm TCN, một giai cấp các chuyên gia về luật xuất hiện, được biết với biệt danh là “các Kinh sư”. Nhóm người này không hài lòng với các nguyên tắc lớn về đạo đức, họ có một đam mê có thể gọi là chứng bệnh thích định nghĩa. Họ muốn triển khai, phóng đại, phân tích các nguyên tắc lớn ấy biến chúng thành hàng ngàn luật lệ, quy tắc nhỏ nhặt, để điều khiển từng hành động, từng hoàn cảnh riêng lẻ của đời sống. Các luật lệ và quy tắc ấy không hề được viết ra, cho đến sau thời Chúa Giêsu một thời gian dài. Chúng vẫn được gọi là Luật Truyền Khẩu. Đây chính là cái gọi là tương truyền của người xưa.
Người xưa đây là các đại chuyên viên về luật của các thời kỳ về trước, chẳng hạn như Hillel và Shammai. Đến cuối thế kỷ 3 SCN, người ta mới tóm tắt tất cả các luật lệ và quy tắc đó và viết lại thành sách, phần tóm lược đó gọi là Kinh Mishnah.
Các luật lệ, quy tắc của đoạn sách này có hai điểm thường xuất hiện trong cuộc tranh luận. Một là việc rửa tay. Các Kinh sư và Pharisêu tố cáo các môn đệ của Chúa đã ăn với bàn tay ô uế. Từ Hy văn là koinos, có nghĩa là bình thường, thông thường, rồi nó được dùng để mô tả vật gì thông thường theo nghĩa là không thánh, vật gì phàm tục, đối lập với vật thánh, thiêng liêng. Và cuối cùng như ở đây, nó mô tả một việc ô uế về mặt lễ nghi, không thích hợp cho việc phụng vụ và thờ phượng Thiên Chúa.
Có nhiều luật lệ rõ ràng và nghiêm nhặt về việc rửa tay. Nhưng cần ghi nhận là việc rửa tay ở đây không nhằm quan tâm vấn đề sạch sẽ về phương diện vệ sinh, nó là sạch sẽ về mặt lễ nghi. Trước khi dùng bữa và giữa hai món ăn, người ta phải rửa tay và phải rửa theo một cách thức nhất định. Để bắt đầu, phải làm cho đôi bàn tay không còn dính đất cát với vữa đá sỏi vụn hay các vật tương tự. Nước rửa tay phải được đựng trong những ché đá lớn đặc biệt để chính chúng không hề được dùng vào việc nào khác và chẳng có vật gì rơi rớt hay lẫn lộn, pha trộn vào đó. Trước hết bàn tay được xòe ra, các đầu ngón tay chỉ lên trên, nước phải được đổ phía trên và chảy xuống ít nhất là đến cổ tay, lượng nước tối thiểu phải dùng là ¼ log, tương đương với số nước đựng đầy một vỏ quả trứng rưỡi. Trong lúc hai bàn tay hãy còn ướt, phải rửa tay này bằng mu bàn tay kia. Đây là câu cắt nghĩa cách thức rửa tay này bằng mu bàn tay kia: mu bàn tay này phải kỳ cọ vào lòng bàn tay kia và toàn thể bề mặt của bàn tay kia. Như thế có nghĩa là trong giai đoạn này, hai bàn tay đã ướt nước, nhưng bây giờ nước đó đã bị dơ vì đã tiếp xúc với hai bàn tay dơ rồi. Một lần nữa, phải chụm các ngón tay lại, chúc xuống dưới rồi đổ nước lên, sao cho nước từ cổ tay chảy xuống khắp các đầu ngón tay. Sau khi đã làm đúng như thế, thì hai bàn tay mới được sạch.
Dưới mắt người Do Thái, nếu ai không làm đúng như vậy, chẳng những là kẻ cư xử xấu xa, dơ dáy theo nghĩa có hại cho sức khỏe, nhưng còn là kẻ ô uế trước mặt Chúa. Ai ăn với đôi tay không rửa sạch thì bị con quỷ gọi là Shibta tấn công. Không rửa tay như vậy sẽ có thể bị nghèo khổ, tán gia bại sản. Ăn bánh với đôi tay không sạch, chẳng khác gì ăn phân. Có lần nọ, một Rabbi quên giữ nghi lễ đó đã bị khai trừ có nghĩa là được làm lễ an táng với nghi thức dứt phép thông công. Một Rabbi khác, trong lúc bị người Roma cầm tù, đã dùng nước để rửa tay vì để uống, cuối cùng ông ta đã gần chết vì khát, vì ông ta nhất định giữ luật rửa tay thay vì uống cho đỡ khát.
Với người Do Thái theo Pharisêu và Kinh sư, thì đó là tôn giáo. Đó là nghi thức, nghi lễ, luật lệ, quy tắc, được xem như chính việc phụng vụ. Tôn giáo đạo đức đã bị chôn sâu dưới một khối khổng lồ những cấm kỵ, quy tắc và luật lệ.
Những câu sau của đoạn sách này đề cập sâu xa hơn quan niệm về sự ô uế này. Một vật theo nghĩa thông thường là hoàn toàn sạch sẽ, nhưng lại kể là ô uế theo nghĩa luật lệ. Có vài điểm liên quan đến sự ô uế này được chép trong Lêvi 11,15. Dân số 19. Một vật theo nghĩa bình thuờng là hoàn toàn sạch sẽ. Ngày nay chúng ta thường nói đến những điều bị cấm thay vì bảo rằng chúng bị ô uế. Có một số thú vất vốn là ô uế (Lv 11); một sản phụ bị xem là ô uế sau khi sanh nở; một người phong bị ô uế; ai chạm đến một xác chết bị ô uế. Mà đã ô uế thì làm ô uế luôn những vật nào mình chạm đến. Một người ngoại là ô uế, thức ăn mà người ngoại chạm đến cũng ô uế, bất ký cái chén, cái bình, vật dụng nào người ngoại chạm đến đều là ô uế cả. Cho nên, mỗi khi một người Do Thái giữ đạo nghiêm nhặt đi chợ về, anh ta phải ngâm toàn thân trong nước để được sạch.
Những vật dụng như bình, lọ, chén, bát rất dễ bị ô uế. Một người ô uế có thể chạm vào đó, hoặc người ta dùng nó đựng một thức ăn ô uế. Đây chính là điều đoạn sách này muốn nói đến khi đề cập đến việc rửa chén, bình bằng đất, bằng đồng. Trong Kinh Mishnah có không dưới mười hai bài thảo luận đề cập loại ô uế đó. Lấy vài ví dụ cụ thể, chúng ta sẽ thấy vấn đề ấy đi xa tới đâu. Một bình bằng gốm có thể nhiễm ô uế ở phía trong chứ không ở phía ngoài. Điều này có nghĩa là việc ai hoặc vật gì chạm đến nó từ bên ngoài thì không thành vấn đề, nhưng cái gì đã chạm đến nó từ bên trong. Một khi đã bị ô uế thì phải đập bỏ nó đi và miểng bể của nó phải không còn lớn đủ để người ta có thể dùng đựng dầu đủ xức cho ngón chân út. Một cái đĩa dẹt không có đường viền thì không bị ô uế, nhưng cái đĩa có viền miệng thì có thể bị ô uế. Các đồ dùng làm bằng da, xương hoặc thủy tinh mà bằng phẳng, thì không thể nhiễm ô uế. Nếu chúng là đồ dùng rỗng, thì có thể bị ô uế cả ngoài lẫn trong. Một khi đã bị ô uế thì phải đập bỏ chúng đi, chỗ đập bể phải to hơn trái lựu trung bình. Bình gốm phải đập bỏ mới không còn bị ô uế, các loại bình khác phải được ngâm nước, nấu sôi hay tẩy uế bằng lửa, còn các bình bằng kim khí thì phải đánh bóng lại. Một cái bàn ba chân có thể bị ô uế, nếu nó mất đi một hoặc hai chân thì không thể bị ô uế, nhưng nếu nó mất cả ba chân, thì có thể bị ô uế, vì người ta có thể dùng nó làm tấm bảng, mà một tấm bảng thì có thể bị ô uế. Các vật làm bằng kim khí có thể bị ô uế ngoại trừ cửa, then cài cửa, khóa cửa, bản lề, đồ gõ cửa và máng xối. Phần gỗ dùng trong các vật dụng bằng kim khí có thể bị ô uế nhưng phần bằng kim khí trong các đồ dùng bằng gỗ thì không. Như vậy chiếc chìa khóa bằng gỗ với răng bằng kim khí có thể bị ô uế, nhưng chiếc chìa khóa bằng kim khí có răng bằng gỗ thì không.
Chúng ta đã dành thì giờ để đề cập đến các luật lệ của các Kinh sư, các luật truyền khẩu của người xưa, vì đó là những điều mà Chúa Giêsu đã chống lại. Với các Kinh sư Pharisêu, thì các luật lệ, quy tắc ấy chính là tôn giáo. Tuân giữ chúng là làm đẹp lòng Chúa, vi phạm chúng là phạm tội. Đó là ý kiến của họ về điều thiện và việc phục vụ Chúa. Trong ý niệm tôn giáo thì Chúa Giêsu và số người này đã nói bằng những ngôn ngữ khác nhau. Chính vì Ngài chẳng cần dùng đến một quy tắc nào trong tất cả các quy tắc ấy, cho nên họ xem Ngài là kẻ xấu. Ở đây có hai khuynh hướng căn bản: khuynh hướng của người xem đạo giáo chính là nghi thức, lễ nghi, luật lệ, quy tắc với khuynh hướng của người xem đạo giáo là yêu mến Chúa và yêu thương đồng bào đồng loại.
Đoạn sách tiếp theo đây sẽ khai triển vấn đề đó, nhưng rõ ràng ý kiến của Chúa Giêsu với các Kinh sư cùng những người Pharisêu liên hệ đến đạo giáo chẳng có điểm nào giống nhau.
LUẬT ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ LỆ CỦA LOÀI NGƯỜI (Mc 7,5-8)
Các Kinh sư và Pharisêu thắc mắc khi thấy các môn đệ Chúa Giêsu không tuân giữ những điều tỉ mỉ truyền khẩu và luật người xưa về việc rửa tay trước khi dùng bữa. Chúa giêsu trích dẫn Isaia 29,13 cho họ nghe. Trong câu đó, Isaia tố cáo người thời bấy giờ chỉ tôn vinh Thiên Chúa bằng đầu môi chót lưỡi, trong khi đó lòng họ đã lạc xa Ngài. Trên nguyên tắc, Chúa Giêsu đã tố cáo các Kinh sư và Pharisêu hai điều:
1/ Ngài tố cáo họ là giả hình. Từ hupokrites có một lịch sử lý thú và vạch rõ nhiều điều. Thoạt tiên nó chỉ có nghĩa đơn giản là người trả lời, rồi nó tiến đến nghĩa người trả lời trong một cuộc đối thoại nào đó hay trong một cuộc đàm thoại nhất định, nghĩa là một diễn viên, cuối cùng, nó chỉ chỉ có nghĩa đơn thuần là một diễn viên trên sân khấu, nhưng là kẻ suốt đời diễn kịch, đóng tuồng, chẳng có chút thành thật nào trong hành động của mình. Với bất cứ ai mà đạo giáo chỉ là việc tuân giữ luật lệ, với bất cứ ai mà tôn giáo chỉ có nghĩa là vâng giữ luật lệ và quy tắc bên ngoài, với bất cứ ai mà tôn giáo hoàn toàn liên hệ với một số lễ nghi và tuân giữ một số cấm kỵ thì đến cuối cùng, nhất định người ấy sẽ trở thành kẻ giả hình như nghĩa trên đây. Đó là vì kẻ ấy tin rằng mình là người thánh thiện nếu giữ được hành vi, cử chỉ bên ngoài cho đúng, bất chấp tấm lòng và tư tưởng mình ra sao. Cứl ấy trường hợp của người Do Thái giữ luật vào thời Chúa Giêsu thì rõ, có thể tự thâm tâm người ấy ghen ghét đồng bào mình, có thể người ấy đầy lòng tham lam, ghen tỵ và che dấu cay đắng, kiêu ngạo, những người ấy sẽ chẳng chút bận tâm về những điều ấy khi còn giữ đúng quy tắc rửa tay, giữ đúng các luật lệ về thanh sạch và ô uế. Chủ nghĩa duy luật chỉ quan tâm đến các việc làm bề ngoài của con người mà chẳng đếm xỉa gì đến các cảm xúc nội tâm. Người ấy tỉ mỉ phục vụ Thiên Chúa bằng các việc làm bề ngoài, nhưng trắng trợn bất tuân những điều trong nội tâm và như thế là giả hình. Người theo Hồi giáo hằng ngày có thể cầu nguyện với Thượng Đế một số lần nào đó. Để làm việc ấy, người đó đem theo mình một chiếc chiếu, bất cứ ở đâu, lúc nào, người ấy cũng có thể trải chiếu ra, quỳ gối xuống, đọc bài cầu nguyện rồi đứng dậy tiếp tục đi. Có câu chuyện kể về người Hồi Giáo đuổi theo một người nọ, giơ dao lên định giết người ấy. Đúng lúc ấy có tiếng chuông báo đến giờ cầu nguyện, quỳ gối xuống đọc bài cầu nguyện thật nhanh, rồi đứng lên tiếp tục rượt đuổi người kia. Cầu nguyện chỉ là một hình thức, một nghi lễ, một việc tuân giữ bề ngoài, chỉ làm trì hoãn một cách phải lẽ việc giết người của anh ta. Thật chẳng có cơ nguy nào nghiêm trọng hơn cơ nguy đồng nhất hóa tôn giáo với việc tuân giữ bề ngoài. Không có sai lầm nào kinh khủng hơn sai lầm đồng nhất hóa điều thiện với một số hành động gọi là tôn giáo. Đi nhà thờ, đọc Kinh Thánh, dâng cúng, cả đến có một thời khóa biểu để cầu nguyện vẫn không khiến người ta trở thành tốt hơn. Vấn đề căn bản là tấm lòng phải như thế nào đối với Chúa và với đồng bào mình? Và nếu lòng người ấy là thù địch, cay đắng, giận ghét và kiêu ngạo, tất cả việc tuân giữ luật lệ tôn giáo bề ngoài nhập lại, cũng chẳng khiến người ấy trở thành một người khác hơn là một kẻ đạo đức giả.
2/ Lời tố cáo thứ hai của Chúa Giêsu ngầm đưa ra chống lại bọn người chỉ giữ luật đó, họ đã lấy những luật ngô nghê của loài người để thay cho các luật của Chúa. Họ không lắng nghe tiếng Chúa phán dạy để hướng dẫn đời sống mình, mà chỉ nghe theo những lý luận, những tranh luận khôn khéo, những cách nói lẩn quẩn tinh vi, những lý giải tài tình do các chuyên gia về luật soạn ra. Sự khôn khéo không bao giờ có thể dùng làm nền tảng cho đạo giáo chân chính. Đạo giáo chân chính không bao giờ có thể là sản phẩm của trí tuệ con người. Đạo giáo chân chính không do các khám phá tài tình của loài người mà ra, nhưng phải do tấm lòng chân thật, lắng nghe và tiếp nhận tiếng Chúa phán dạy.
SỰ Ô UẾ THẬT SỰ (Mc 7,14-23)
Tuy ngày nay, dường nhu sự việc không phải như vậy, nhưng lần đầu tiên lúc Chúa Giêsu phán những lời được ghi lại đây, thì hầu như đó là một trong những phần có tính cách mạng nhất trong Tân Ước. Chúa Giêsu đang tranh luận với các chuyên gia luật về nhiều phương diện khác nhau của luật truyền khẩu. Ngài đã cho thấy sự không thích hợp của những cách rửa tay cầu kỳ tỉ mỉ, Ngài cũng cho thấy lối bám riết lệ truyền khẩu cách cứng ngắc, thật ra có nghĩa là bất tuân luật của Chúa. Thế nhưng ở đây, Ngài còn nói một điều gây kinh ngạc nhiều hơn nữa. Ngài tuyên bố chẳng có một vật gì từ ngoài vào lại có thể khiến người ta thành ô uế được, vì nó chỉ được thân thể thâu nhận rồi chính thân thể tự giải quyết chúng bằng các đường lối vật lý thông thường.
Chẳng có một người Do Thái, nhất là người Do Thái chính thống chịu tin như thế. Lêvi 11 có một bảng liệt kê dài về những con vật không sạch, không nên dùng làm thức ăn. Sự việc ấy gây hậu quả trầm trọng như thế nào thì người ta đã thấy rõ ràng trong nhiều biến cố xảy ra dưới thời anh em Macabêô. Thời bấy giờ, Antiochus Epiphanes, vua Syri muốn nhổ tận gốc đạo Do Thái. Một trong những đòi hỏi của vua ấy là dân Do Thái p hải ăn thịt heo, nhưng hàng trăm người Do Thái đã thà chịu chết chứ không chấp hành luật ấy. “Nhiều người Israel đã quyết tâm không chịu ăn vật không sạch. Cho nên họ thà chịu chết chứ không chịu để cho thức ăn khiến họ bị ô uế, để khỏi xúc phạm Giao Ước thánh và họ đã chịu chết” (1Mcb 1,62-63), Sách có kể lại chuyện một phụ nữ nó có bảy con trai. Người ta buộc họ phải ăn thịt heo, họ từ chối. Người anh cả bị cắt lưỡi rồi bị chặt hết các bàn tay, bàn chân, sau đó bị chiên trong chảo; người thứ hai bị lột hết da đầu và lần lượt từng người một bị tra tấn, hành hạ cho đến chết, trong lúc người mẹ đã cao tuổi chứng kiến mọi việc, và khích lệ nung trí họ. Họ thà chịu chết chứ không chịu ăn vật gì không sạch. Chính trong một hoàn cảnh như thế, Chúa Giêsu đã nói lên câu nói hết sức cách mạng rằng chẳng có gì từ ngoài vào lại có thể khiến người ta bị ô uế. Chỉ bằng một cái khua tay, Ngài đã xóa sạch mọi luật lệ mà vì đó, dân Do Thái chịu đau khổ và chịu chết. Cho nên các môn đệ Ngài đã kinh ngạc thì chẳng có gì lạ.
Thật ra, Chúa Giêsu muốn nói tự chúng thì vật này, vật nọ không thể là sạch hay không sạch bất luận ý nghĩa tôn giáo nào. Chỉ có con người mới có thể thật sự bị ô uế mà thôi, điều làm ô uế con người chính là các hành động của người ấy, vì chúng vốn xuất phát từ lòng người ta. Đây là một giáo lý mới mẻ, một giáo lý có sức mạnh đập tan mọi sự. Dân Do Thái vốn có, hiện tại vẫn còn có cả một hệ thống các vật kể là sạch và không sạch. Bằng một câu nói quét sạch tất cả, Chúa Giêsu tuyên bố mọi chuyện đó đều không thích hợp, điều ô uế chẳng dính dấp đến các vật người ta đưa từ ngoài vào thân thể, nhưng vốn liên hệ với những gì từ trong lòng người đưa ra.
Chúng ta hãy xét những điều Chúa Giêsu liệt kê, khi Ngài bảo chúng vốn từ lòng người mà ra, và khiến người ta bị ô uế. Ngài bắt đầu vằng các ác tưởng (dialogismoi). Mỗi hành động tội lỗi bộc lộ ra ngoài đều do một hành động chọn lựa trước từ trong lòng, cho nên Chúa Giêsu bắt đầu với tư tưởng gian ác, vốn là nguồn gốc của việc làm gian ác. Kế đó là dâm dục (porneiai), sau đó Ngài cũng kể thêm sự tà dâm (moicheiai), từ trước vốn có nghĩa rộng, nó ám chỉ mọi thói xấu liên hệ đến tính dục. Tiếp theo đó là trộm cướp (klopai). Trong tiếng Hy Lạp chữ chỉ người trộm cướp là kleptes và lestes. Baraba là một lestes, tướng cướp (Ga 12,6). Ăn trộm là kẻ đê tiện, gian xảo, chuyên bòn rút mà không biết xấu hổ, nó không hề có được phẩm chất đáng kể nào, chẳng hạn sự gan góc, liều lĩnh mà không một tướng cướp nào bắt buộc phải có. Giết người và tà dâm được kể tiếp đó, ý nghĩa rất rõ ràng. Tiếp theo là các hành động tham lam (pleonexiai). Chữ này vốn do hai từ Hy văn mà ra, có nghĩa là muốn có nhiều thêm. Nó được định nghĩa là ham thích sở hữu đáng rủa sả. Nó cũng được định nghĩa là “muốn chộp lấy vật mình không có quyền lấy”, “cái tham lam thèm muốn tai hại điều vốn thuộc về người khác”. Đó là tinh thần muốn chụp lấy mọi vật, không phải để bo bo giữ chặt như kẻ keo kiệt, nhưng là tiêu xài hoang phí trong tham dục và xa hoa. Cowley định nghĩa nó là “sự tham lợi không phải vì chính mối lợi, nhưng vì ý thức tiêu xài nó ngay vào các con đường kiêu ngạo, xa xỉ khác”. Do không phải là lòng tham muốn tiền bạc hay đồ vật mà gồm cả lòng tham quyền, sự tham dục không hề chán của xác thịt. Plato nói: Lòng tham củ con người giống như lỗ thủng của một cái bình mà dù có cố gắng tới đâu cũng không có thể đổ đầy được”. Pleonexia là sự tham dục muốn sở hữu và sung sướng nơi những vật thấy được, thay vì thấy hạnh phúc nơi Chúa. Tiếp theo là những việc làm hung ác. Trong Hy văn, có hai từ chỉ gian ác. Kakos chỉ một vật tự nó là xấu, là gian ác và chữ poneros chỉ một người hay một vật tích cức làm xấu, làm ác. Từ được dùng ở đây là poneriai, người poneros là kẻ có tâm địa làm hư hại. Như Bengel nói, anh ta “tập tành làm mọi tội ác và được trang bị đầy đủ để gây điều ác cho bất cứ ai”. Jeremy Taylor thì định nghĩa sự hung ác (poneria) này là “tánh sẵn sàng để gây chuyện rắc rối, tánh thích lừa dối và gây thảm kịch, muốn gây tai họa cho người lân cận, làm hại người ta, khi giao thiệp với ai thì thích hành động gây hư hỏng, lệch lạc, buồn lo cho người ấy”. Chữ poneria chỉ kẻ không chỉ làm hư chính mình mà còn gây tai hại cho người khác nữu. Poneros (kẻ ác) chính là danh hiệu của Satan. Người làm công việc của Satan là kẻ tệ hại nhất trong loài người, là kẻ bản thân vốn đã xấu mà còn khiến người khác trở nên xấu như mình. Tiếp theo là từ dolos được dịch là gian dối. Nó vốn do một từ được dùng để chỉ sự mồi chài và có nghĩa là lường gạt, gian lận. Chẳng hạn nó được dùng để chỉ cái bẫy chuột. Lúc người Hy Lạp vây thành Troa nhưng không vào được, họ mang đến cho dân thành Troa một lễ vật là một con ngựa bằng gỗ như biểu tượng của thiện chí. Dân thành Troa mở cửa thành để đem nó vào. Nhưng trong bụng ngựa là binh sĩ Hy Lạp, đêm ấy họ chui ra để tàn diệt và phá hủy thành, đây đích thực là dolos, là một lường gạt quỷ quyệt, khéo léo, tinh vi do kẻ có đầu óc gian xảo nghĩ ra. Tiếp theo bảng liệt kê là hoang đàng (aselgeia). Người Hy Lạp định nghĩa chữ này là “tinh thần thù ghét mọi kỷ luật”, và tinh thần không thừa nhận sự kiềm chế, dám liều lĩnh làm tất cả những gì mà thói hỗn láo ngang tàng của hắn có thể nghĩ ra”. Đặc điểm quan trọng nhất của kẻ mang tội (aselgeia) là anh ta không còn biết luân lý, đạo đức, không còn biết xấu hổ là gì nữa cả. Người làm tội ác có thể giấu tội mình và luôn tìm đủ cách để giấu nó, nhưng kẻ aselgeia phạm tội mà không thèm thắc mắc, chẳng chút phân vân, ngần ngại khi làm hại đồng bào, đồng loại của mình. Giêsabên là thí dụ cổ điển về kẻ mang tội aselgeia khi bà ta cho xây một đền thờ ngoại đạo trong thành Giêrusalem là thành thánh. Con mắt ganh ghét là con mắt nhìn vào thành công và hạnh phúc của người khác như chỉ muốn nguyền rủa và nếu được sẵn sàng gây tai hại cho người ta. Tiếp theo là lộng ngôn. Từ Hy văn là Blasphemia, khi dùng để chỉ những lời lẽ chống lại loài người, nó có nghĩa là gièm pha, khi dùng chỉ những lời lẽ chống lại Thiên Chúa, thì đó là phạm thượng, lộng ngôn. Nó có nghĩa là kẻ xỉ nhục loài người và Thiên Chúa. Tiếp theo là kiêu ngạo (Huperephania), nghĩa đen của từ này trong Hy văn là “tự xem mình ở trên”. Nó mô tả thái độ của người khinh dể tất cả mọi người, ngoại trừ chính mình. Điều thú vị về chữ này theo cách dùng của người Hy Lạp là nó mô tả thái độ chẳng bao giờ tỏ ra trước công chúng cả.có thể trong thâm tâm, một người luôn luôn tự so sánh mình với kẻ khác cách thầm kín. Có thể người ấy vẫn làm bộ nhún nhường nhưng trong lòng thì kiêu ngạo. Nhưng dĩ nhiên, thỉnh thoảng tánh kiêu ngạo vẫn bộc lộ rõ ràng. Người Hy Lạp có một truyền thuyết về sự kiêu ngạo này. Họ nói rằng những người khổng lồ con trai của Tartarus và Gê, do kiêu ngạo, đã tìm cách quâỵ phá thiên đàng nhưng đã bị Hercules ném xuống. Đó là kiêu ngạo (Huperephania). Đó là chống lại Thiên Chúa, đó là “chiếm quyền Chúa”, chính vì thế mà có người gọi nó là “tột đỉnh của mọi thói xấu”, và đó là lý do “Chúa chống kẻ kiêu ngạo” (Gc 4,6). Cuối cùng là sự điên cuồng (aphrosune). Đây không phải là sự điên cuồng do trí não suy nhược hay khiếm khuyết của bộ óc, nó ám chỉ sự điên cuồng về mặt đạo đức. Nó không mô tả một người điên cuồng vì thiếu trí óc, nhưng là kẻ chọn thủ vai điên cuồng.
Đây quả thật là một bảng liệt kê khủng khiếp mà Chúa Giêsu nêu lên về những điều như vốn xuất phát từ lòng người. Khi khảo sát tỉ mỉ, chúng ta phải rùng mình kinh sợ. Đây không phải lời khuyên chúng ta phải tránh những điều đáng ghê tởm đó, nhưng phải cẩn trọng, thành thật xét lại chính mình.
77. Gậy ông lại đập lưng ông – Như Hạ
Cộng đồng nào cũng có những người bảo thủ và cấp tiến. Sống chung không tránh khỏi vấn đề. Người bảo thủ lúc nào cũng lo giữ đúng luật. Đúng quá đến độ “bảo hoàng hơn vua”. Người cấp tiến lúc nào cũng tìm cách phóng xa hơn hiện tại. Xa quá đến độ buông thả. Giữa hai loại người đó, Đức Giêsu sẽ đứng ở vị trí nào? Luật lệ lúc nào cũng cần. Nhưng cần tới mức nào? Đâu là tiêu chuẩn?
Tố ngược
Đức Giêsu xuất hiện giữa một xã hội dầy đặc những tập tục lâu đời. Dầy đặc đến nỗi người ta không còn nhìn thấy ánh sáng Tin Mừng Đức Giêsu mang tới nữa. Chính nơi đây mâu thuẫn giữa Đức Giêsu và những người lãnh đạo Do thái không bao giờ chấm dứt. Họ tìm mọi cách bắt bẻ thày trò Đức Giêsu. Cơ hội đã đến. Ngày đó, “thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, những người Pharisêu và một số kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” (Mc 7:2.5) Họ tố cáo các môn đệ Đức Giêsu thiếu đạo đức vì không giữ luật cha ông. Nhưng họ đã bị Đức Giêsu tố ngược. Sự thật cho thấy họ mới là những người vi phạm luật hơn ai hết. Đối với những đầu óc duy luật như họ, luật pháp là cứu cánh.
Lối bắt bẻ các môn đệ Đức Giêsu đó tố cáo những suy tư hời hợt vì đạo đức vụ hình thức. Đức Giêsu không thể chịu đựng nổi những cách phản ứng một chiều đó. Bởi vậy, Người lên tiếng tố cáo:”Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả.” (Mc 7:6) Đạo đức giả vì họ chỉ nhấn mạnh vào hình thức mà không lo hoán cải tâm hồn. Họ có khuynh hướng đồng hóa những giới luật thứ yếu với chính luật Tôra. Trong một vài trường hợp, họ còn coi luật lệ con người hơn luật Chúa. Ví dụ luật coban “hủy bỏ lời Thiên Chúa”, không cho người ta “giúp cha mẹ” (Mc 7:12) Truyền thống đã lấn át lời Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao Tin Mừng không thể lọt vào những não trạng nặng nề hình thức. Đức Giêsu vạch rõ bản chất những kẻ đạo đức giả: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.” (Mc7:8a)
Một Pharisêu thời đại như Ted Turner, vua truyền thông Mỹ, mới đây cũng phê bình Kitô giáo “không có lòng khoan dung” và không chấp nhận tự do tín ngưỡng. Ong tự cho mình đạo đức hơn người khác và lên giọng kẻ cả phê bình những nguyên tắc Kitô giáo. Cô Judie, đại diện cho một giáo phái Tin lành đã phản pháo mãnh liệt: “Tôi cho rằng tiền bạc có thể làm cho người ta có địa vị trong xã hội, dám bạo mồm bạo miệng. Tuy nhiên, tiền không làm cho người ta khôn hơn và không che đậy được sự dốt nát.” (VietCatholic 1/9/2000) Ong Mikhail Gorbachev, cựu tổng bí thư đảng Cộng sản Liên sô nhận định: “Ong Turner không có tư cách gì để nói về lòng khoan dung. Trong khi trẻ con Iraq chết dần mòn vì suy dinh dưỡng và thiếu thuốc men cũng như những điều kiện y khoa cần thiết” vì lệnh cấm vận của Mỹ, thì “chỉ có Vatican là dám mạnh mẽ tố cáo chính sách diệt chủng của Mỹ ở Iraq.” (VietCatholic 1/9/2000)
Ông Môsê dạy “phải giữ và đem ra thực hành những mệnh lệnh của Đức Chúa.” (Đnl 4:2.6) Nếu thi hành đúng như Môsê dạy, người Do thái đã được coi là “một dân khôn ngoan và thông minh” vì “được Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người.” (Đnl 4:7) Nhưng họ đã thiếu khôn ngoan khi đưa ra luật coban, một luật phản với thiên nhiên và luật Thiên Chúa. Những người già cả đã phải đau khổ biết chừng nào vì luật đó! Họ cứ tưởng làm xong nhiệm vụ đối với Chúa là miễn khỏi giữ bổn phận đối với cha mẹ. “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.” (Mt 23:4)
Thật là một cú tát nẩy lửa. Những người Pharisêu và kinh sư choáng váng. Họ chưa kịp phản ứng, Đức Giêsu đã dạy cho một bài học đắt giá về cuộc sống đạo đích thực. Mọi canh tân phải bắt đầu từ bên trong. “Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu.” (Mc 7:21) Chỉ lo sửa đổi hình thức, quên khuấy nội dung là chính lòng người, cuộc canh tân trở thành vô nghĩa và sẽ thất bại thê thảm. Đức Giêsu dạy các môn đệ phải phân biệt nghi thức bên ngoài và việc đạo đức đích thực (Mc 7:21-23) Mọi luật lệ phải dựa trên lòng kính sợ Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu cũng tôn trọng khuôn khổ căn bản của pháp luật Do thái. Người không chủ trương phá bỏ luật lệ: “anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.” (Mt 5:17) Luật Môsê và sứ ngôn là những lời mạc khải. Cao điểm là Đức Giêsu. Chính nơi cao điểm này, mọi sự sẽ đạt tới mức thập toàn.
Tinh thần Tin Mừng
“Truyền thống của người phàm” chỉ làm cho cuộc sống nặng nề và mất hạnh phúc. Một cuộc ép duyên trắng trợn giữa “truyền thống của người phàm” và “điều răn của Thiên Chúa” không thể chấp nhận được. Chính vì thế, Đức Giêsu đã mạnh mẽ tố cáo: “Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.” (Mc 7:7) Anh em Tin Lành rất thích đoạn Tin Mừng hôm nay, vì cho thấy sự khác biệt giữa Kinh thánh và truyền thống. Họ nhìn về phía Công giáo như một tổ chức đầy những truyền thống cồng kềnh, coi việc giải thích lời Chúa hơn chính lời Chúa. Đối với họ chỉ có Kinh Thánh mà thôi. Họ đề cao việc cải cách. Họ không muốn chấp nhận truyền thống, vì truyền thống làm cho lời Chúa bị hiểu sai lạc. Chỉ có Thánh Linh mới giúp tín hữu hiểu đúng lời Chúa. Không cần những nhà chuyên môn như giáo sĩ trong Giáo Hội. Tóm lại, truyền thống và Tin Mừng, Thánh Linh và chuyên môn chống đối nhau.
Có thật như thế không? Giáo hội Công giáo quả thực có một truyền thống lâu đời. Nhưng không phải truyền thống luôn luôn xấu. Cũng không phải cải cách nào cũng tốt. Giáo hội luôn phải canh tân. Nhưng không thể canh tân đến nỗi đánh mất bản chất và đi xa đường hiệp nhất. Kinh thánh không phải là một cuốn sách, nhưng là kết quả của truyền thống. Chẳng hạn, Tin Mừng không ghi nhận trực tiếp những lời từ miệng Chúa, nhưng là nơi ghi lại nhịp sống lời Chúa trong truyền thống Mathêu, Mátcô, Luca và Gioan. “Đức tin Kitô giáo hiểu truyền thống như một biến cố đang tiếp diễn với những nhân vật chính là con người và Thiên Chúa.” (Pottmeyer 1995:1119) Nếu thế, bất cứ Giáo hội nào cũng đang tạo những truyền thống ghi lại cuộc sống giữa Thiên Chúa và con người. “Thánh Kinh không những truyền lại nội dung truyền thống, mà cả những kiểu mẫu giải thích truyền thống đó nữa.” (Pottmeyer 1995:1121) Thánh Kinh “là Lời Thiên Chúa vì Chính Thánh Linh làm cho cộng đoàn tiên khởi sống, hiểu và truyền lời Chúa lại cho hậu thế. Thánh Linh vẫn còn làm việc không ngừng.
Chính Thánh Linh làm cho Thánh Kinh và truyền thống không đối chọi nhau. Cũng không có gì mâu thuẫn giữa Thánh Linh và các nhà chuyên môn. Ngay trong các Giáo hội Tin Lành, các mục sư cũng là những nhà chuyên môn. Nếu không, tại sao phải mất nhiều công sức, thời giờ và tiền bạc huấn luyện các mục sư? Bởi thế, trong khi làm việc trực tiếp trong tâm hồn các tín hữu, Thánh Linh vẫn không bỏ qua những nỗ lực con người. Đúng hơn, con người cộng tác với Thánh Linh để đào sâu lời Chúa. Nhờ đó mới có thể “đem Lời ấy ra thực hành.” (Gc 1:22) “Lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em,” (Gc 1:21b) vì “Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống” (Ga 6:63).
78. Khi đại bàng vỗ cánh – Lm. Đỗ Vân Lực
Đầu óc tôi lúc này cứ miên man suy nghĩ về lời nhận định nhức nhối của một viên chức cao cấp ở Tòa Thánh Vatican. Vị ấy cho rằng giáo dân Việt nam sống đạo sốt sắng, nhưng lòng đạo không sâu. Không hiểu tại sao vị ấy lại nói như thế? Căn cứ vào đâu để khẳng quyết như vậy? Có bằng chứng gì không? Nếu đúng thế, phải làm cách nào cải thiện tình trạng bi đát ấy?
Thiết nghĩ câu nói ấy hàm ý chê giáo dân Việt nam chúng mình không đạo đức thật. Sống đạo chỉ vụ hình thức, lễ nghĩa, theo truyền thống như những người Pharisêu và kinh sư ngày xưa. Tôi bắt đầu tìm bằng chứng. Không phải vô tình viên chức đó đã phán đoán công khai như vậy. Có nhiều bằng chứng xác đáng lắm.
Trước khi kê khai những bằng chứng, tôi tự hỏi thế nào là sống đạo sâu? Thánh Giacôbê trả lời ngay: lòng đạo sâu xa căn cứ trên việc “khiêm tốn đón nhận Lời” và “đem Lời ấy ra thực hành.”[1] Câu trả lời này quả thực đã giúp chúng ta hiểu được những quan tâm của những người Pharisêu và kinh sư hôm nay. Họ đã đặt vấn đề với Chúa: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?”[2] Câu hỏi của họ có thực sự tỏ lộ họ đang quan tâm tới Lời Chúa không? Nếu thực sự quan tâm tới lời Chúa, họ có quá chú ý tới những hình thức bên ngoài và vụn vặt đó không?
Những quan tâm của họ lộ ngay trong vấn đề nêu lên với Đức Giêsu. Họ bám sát Thày trò Đức Giêsu để moi móc và chỉ trích. Dựa trên những tiêu chuẩn truyền thống bên ngoài, họ kết luận về giá trị đạo đức của các môn đệ.[3] Có lẽ trước khi ăn, nhiều lần Đức Giêsu cũng chẳng rửa tay. Nhưng tại sao họ không dám đụng tới Người? Câu hỏi của họ không còn thuần túy nằm trong lãnh vực tự nhiên. Rửa tay trước khi ăn không phải vì lý do vệ sinh, nhưng đã trở thành một truyền thống và lễ nghi tôn giáo. Họ thắc mắc để nhằm tới lãnh vực tâm linh, đạo đức và tôn giáo.
Theo Thomas Merton, khi thắc mắc như thế, không những người Pharisêu và kinh sư để lộ những quan tâm, mà còn cho thấy cách nhận thức về chính mình và thế giới. Đó cũng là cách tấn công và tố cáo đối phương một cách tế nhị. Nhưng qua đó người ta cũng thấy lộ ra những giấc mơ và khát vọng muôn đời của họ. Nắm rõ ý đồ hiểm độc của họ, Chúa Giêsu đã cao giọng “xỉa thẳng” vào mặt họ và mở rộng vấn đề. Vượt trên truyền thống và nghi lễ, Người muốn định nghĩa cho mọi người thấy thế nào là con người có lòng đạo đức đích thực và sâu xa.
Đã đến lúc con người phải nhìn thật rõ những gì đang diễn ra chung quanh mình. Những tội ác ghê tởm không phải tự trên trời rơi xuống hay dưới đất mọc lên, nhưng từ lòng người chui ra. Đó là những sản phẩm của con người. Những sản phẩm đó sẽ ảnh hưởng ngược lại và tạo ra một thứ người không phải là người. Dơ nhớp đến độ họ cũng không thể tưởng tượng và chịu đựng nổi chính mình![4] Những tội ác Chúa liệt kê ở đây tương ứng với những lời Chúa dạy về sự công chính mới phát xuất từ Bát Phúc, sự công chính dẫn tới sự thanh sạch nội tâm.[5]
Đáng lý có những vấn đề cần phải đặt nặng hơn như “công lý, lòng nhân và thành tín.”[6] Đó mới là những đức tính cốt lõi trong Bài Giảng Trên Núi. Những đặc tính đó làm thành ba mặt của lòng thanh sạch không thể tách rời nhau như Chúa Giêsu đã truyền.[7] Nhờ đó, ta có thể nhận ra ai là người có lòng đạo đích thực và sâu xa. Chúa không chê trách những việc theo truyền thống và nghĩa vụ xã hội.[8] Nhưng phải biết tôn trọng những bậc thang giá trị. Đạo đức bao giờ cũng phải chiếm vị thế ưu việt. Tâm hồn trong sạch là điều kiện cần thiết để con người tiến gần đến sự thánh thiêng của Thiên Chúa, chiêm ngưỡng Thiên Nhan, và trở thành người thờ phượng Thiên Chúa đích thực. “Trong Tân Ước, trong sạch là một công trình của Thần Khí, Đấng hoạt động trong tâm hồn các môn đệ qua đức tin và ơn Thanh tẩy.”[9]
Những vấn đề thiêng liêng như thế làm sao lại có thể ngang hàng với những vấn đề trần tục, kể cả truyền thống cha ông? Người Pharisêu và kinh sư đã đặt sai vấn đề, chỉ vì tâm hồn họ không thanh sạch. Cái nhìn của họ thật giới hạn. Họ chỉ chú tâm tới vật chất và hoàn toàn theo những truyền thống cha ông. Cha ông bảo sao, cứ thế mà làm. Chẳng cần suy nghĩ nhiều. Quần chúng lại càng ít đặt vấn đề hơn. Bởi thế, chạnh lòng thương đám đông, Chúa mới mời mọi người suy nghĩ về bản chất của sự thanh sạch và đạo đức thực sự.
Chỉ có tâm hồn thanh sạch mới có thể bay bổng để nhìn rõ mọi sự như Chúa. Cần phải được giải thoát khỏi “cái tôi,” con người mới có thể nhìn cao hơn và sâu hơn. Đàng khác, “Muốn hiệp thông với Đức Kitô và chiêm ngưỡng dung nhan Chúa, muốn nhận ra khuôn mặt Chúa nơi anh em và trong những công việc hàng ngày, cần phải có bàn tay vô tội và tâm hồn thanh sạch. Bàn tay vô tội được chân lý tình yêu chiếu sáng. Tình yêu này vượt trên sự lãnh đạm, nghi ngờ, sai lầm và ích kỷ. Hơn nữa, rất cần những tâm hồn thanh sạch, những tâm hồn đã được vẻ đẹp Chúa thu hút trọn vẹn, những tâm hồn mang dáng vẻ dung nhan Chúa Kitô.”[10]
Trở lại vấn đề đặt ra ở đầu bài suy niệm hôm nay, chúng ta thấy lời chê trách của người ngoài có hợp lý không? Đã thấy đủ bằng chứng về lòng đạo của chúng ta hay chưa? Chúng ta quá coi trọng lễ nghi hình thức, trong khi lại coi thường những vấn đề công bình, lòng nhân đạo và sự thành tín. Chúng ta rất khó hiệp nhất, tha thứ, đối thoại với nhau. Công lý trở thành thứ yếu trước những truyền thống, quyền lợi, tổ chức, cơ cấu v.v. Những vấn đề này đã được nói đến quá nhiều rồi. Mỗi người có thể kiếm thấy bằng chứng đầy dẫy chung quanh mình và ngay nơi chính mình nữa.
Lạy Chúa, xin cho con đôi cánh đại bàng để con có thể bay thật cao và nhìn thật rõ những gì đang diễn ra trên mặt đất và trong tận đáy lòng con. Xin sai Thần Khí đến hoạt động trong con để con trở thành người thờ phượng Chúa đích thực. Amen.
(Ngày 03.09.2006)
[1] Gc 1:21b.22.
[2] Mc 7:5.
[3] x. Mc 7:5.
[4] x. Mc 7:21-23; Mt 15:10-20.
[5] x. Servais Pinckaers, O.P., The Pursuit of Happiness – God’s Way – Living the Beatitudes, trans. Sr. Mary Thomas Noble, O.P, 1998, tr. 131.
[6] Mt 23:23.
[7] x. Servais Pinckaers, O.P., The Pursuit of Happiness – God’s Way – Living the Beatitudes, trans. Sr. Mary Thomas Noble, O.P, 1998, tr. 131.
[8] x. Mt 23:23.
[9] Servais Pinckaers, O.P., The Pursuit of Happiness – God’s Way – Living the Beatitudes, trans. Sr. Mary Thomas Noble, O.P, 1998, tr. 131.
[10] ĐGH Bênê đictô XVI: Seek Christ With Pure Hearts, Zenit, 01.09.2006.
79. Thanh sạch hay ô uế đều phát xuất từ cõi lòng
(Suy niệm của Giuse Đỗ Anh Dũng)
Lẽ thường trong dân gian quan niệm rằng: “Nội Dung” thì quan trọng hơn “Hình Thức”, “Bên Trong” thì tốt hơn “Bên Ngoài”, “Chất” thì quý hơn “Lượng”, “Tinh Thần” thì cao cả hơn “Vật Chất”. Ông bà ta cũng đã từng đúc kết: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, Cái nết đánh chết cái đẹp.
Tin Mừng thánh Mác-cô hôm nay thuật lại việc một số người Pha-ri-sêu chỉ trích các môn đệ Chúa Giêsu dùng bữa mà không rửa tay. Thật vậy, người Do Thái, đặc biệt là những người Pha-ri-sêu có truyền thống là: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận, thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn…(x.Mt 7,3-4), họ còn quan niệm thịt heo và thịt thỏ là những vật ô uế, không thanh sạch nên họ không ăn (Đnl 14,7-8). Những điều này thì cũng hợp tự nhiên thôi nhưng họ lại xem như là điều chính yếu trong đạo. Vì thế, khi thấy các môn đệ Chúa Giêsu dùng bữa mà chưa rửa tay thì họ đã xét đoán. Họ chú trọng sự dơ bẩn bên ngoài nhưng lại không quan tâm gì đến sự nhơ bẩn bên trong cõi lòng. Chúa Giêsu – nhà cách mạng tôn giáo – muốn “khử thiêng” những hình thức bên ngoài này và khuyên con người khi thực hành tôn giáo thì phải chú trọng đến ý nghĩa tinh thần bên trong của luật và việc thanh tẩy tâm hồn mới là điều chính yếu trong đạo.
Hơn nữa, Chúa Giêsu khẳng định sự thanh sạch hay ô uế đều xuất phát từ trong lòng con người vì mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp (x.St 1,31) nên không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ trong con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế (x.Mc 7,15). Chúa Giêsu đã mặc khải lên đến nguồn gốc của tội lỗi: đó là sự ước muốn bất chính, vô độ trong lòng. Kinh Thánh cũng nói: “Tội ác thì thào trong thâm tâm kẻ dữ. Nằm trên giường hắn bày ra chước độc mưu thâm” (Tv 35, 2a.5a). Tội lỗi len lỏi vào trong cõi lòng nhơ uế và phát xuất những tưởng suy, những ý định xấu xa: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, kiêu ngạo, ngông cuồng (Mc 7,21-22).
Ước muốn bất chính làm ô uế tâm hồn, làm mất đi tính thiện nơi con người. Chúa Giêsu quả quyết: “Cây mà tốt thì quả cũng tốt, cây sâu thì quả cũng sâu; người xấu thì làm sao nói điều tốt được? vì lòng có đầy, miệng mới nói ra (x.Mt 12,33-34). Tâm có tốt thì lời nói chân thực và hành động mới ngay chính, tâm xấu xa thì lời nói giả dối và hành động gian manh vì hành động là tiếng nói của cõi lòng. Chúa Giêsu đã thấu biết lòng dạ thiếu ngay thẳng của người Pharisêu (x.Mc 2,8): họ ăn chay, cầu nguyện, bố thí không phải vì lòng mến nhưng là để tự cao, tự tôn rằng mình công chính, đạo đức hơn người, khoe sự giàu sang khi dâng cúng thì cố ý cho thiên hạ nghe thấy tiếng kêu của những đồng tiền va vào thùng. Tương phản với hình ảnh người Pharisêu, người thu thuế không tự phụ việc ăn chay, cầu nguyện và bố thí của mình mà chỉ khiêm nhường nhận mình tội lỗi và xin lòng thương xót của Thiên Chúa nên được Chúa kể là người công chính (x.Lc 18,9-14). Cũng vậy, người đàn bà góa chỉ dâng hai đồng xu nhỏ thôi nhưng là dâng cả tấm lòng của bà, tuy không có tiếng kêu của đồng tiền nhưng tấm lòng quảng đại của bà thì vang mãi (x.Mc 12,41-44). Việc đạo đức của ta phải chăng đôi khi cũng có tà ý: Ta ăn chay mà lòng chẳng chay tịnh chút nào khi tự nhủ: phải chi hôm nay không phải là ngày ăn chay để đi ăn tiệc. Khi cầu nguyện, ta cũng đọc kinh, tham dự thánh lễ nhưng lại chẳng có một chút tâm tình yêu mến nào vì lòng ta còn đang bận rộn với bao công việc, hay đang để tâm tới một mối lợi nào đó. Khi bố thí, ta lại muốn được đưa tin, quảng cáo, xướng danh cho thiên hạ biết đến mình.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con thường có khuynh hướng đánh giá nhau theo cái nhìn bên ngoài. Xin thanh tẩy lòng trí chúng con và ban thần trí Ngài để chúng con đừng xét đoán lương tâm của nhau vì điều này chỉ dành cho Ngài, và chỉ có Ngài mới thấu hiểu lương tâm mỗi người (Tv 32,15).
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con hiểu rằng: việc quan trọng và cần thiết là năng thanh tẩy linh hồn. Với một tâm hồn thanh sạch, chúng con sẽ nhận biết Chúa, sẽ gặp gỡ Chúa (mối phúc thứ sáu) trong kinh nguyện và thánh lễ; trong thinh lặng của cõi lòng và trong cả những ồn ào, bận rộn của cuộc sống để nghe Chúa đang nói những gì với chúng con.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho lòng chúng con đừng ham muốn những sự đời này, vì khi chưa có thì ao ước, có rồi lại thấy chán; nhưng xin cho lòng chúng con ước ao những niềm vui thiêng liêng, vì bao lâu chưa có thì luôn ước ao, mà khi đã có rồi thì lại càng ước ao hơn (thánh Ghê-gô-ri-ô). Amen.
80. Lề luật của Thiên Chúa
(Ts. An tôn Phạm Trọng Quang)
“Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm.”
Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Câu Lời Chúa chúng ta vừa nghe, nằm trong lời tường thuật của thánh Maccô về một cuộc trao đổi giữa Chúa Giêsu với nhóm biệt phái và những Pharisêu về việc giữ luật. Khi thấy vài môn đệ của Chúa Giêsu không rửa tay trước khi dùng bữa, thì những người biệt phái và Pharisêu thắc mắc, tại sao các ông ấy không giữ luật của tiền nhân: là phải rửa tay, tức tẩy uế trước khi ăn, thức gì mua ngoài chợ về cũng phải rảy nước trước rồi mới ăn… Chúa Giêsu liền trả lời: thật các ông là những người đạo đức giả. Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm. Qua lời trình thuật trên chúng ta mới thấy được khuôn mặt thật của những người biệt phái và Pharisêu: những người luôn nhân danh lề luật mà làm những việc thiếu tinh thần của lề luật. Bề ngoài họ làm bộ công chính, đạo đức nhưng thực ra họ luôn giò xét người khác, áp đặt, bắt buộc người khác làm những điều mà không bao giờ họ đụng tới. Chúa Giêsu rất bất bình với những ai sống giả hình, chỉ tay năm ngón, nên Ngài đã dùng lời của tiên tri Isaia mà nói thẳng trước mặt họ rằng “Dân này thờ Thiên Chúa bằng môi bằng miệng nhưng lòng họ lại xa Ngài.” Có lần Chúa Giêsu đã ví họ như nấm mộ tô vôi, bề ngoài được quét một lớp vôi sáng sủa nhưng bên trong đầy những chất thối tha.
Quả thật, lề luật của Thiên Chúa là lề luật yêu thương. Thiên Chúa ban lề luật của Ngài là để cho con người nhờ đó mà được sống yên vui hạnh phúc. Thiên Chúa ban lề luật là để cho con người được sống bình đẳng. Thiên Chúa ban lề luật là để cho con người biết sống hoà thuận với nhau hơn. Thế nhưng con người lại quá nại đến lề luật mà xử sự với đồng loại của mình thiếu tình bác ái. Xét cho cùng nhiều người đã núp đàng sau lề luật mà xử sự với người khác theo ý của mình.
Một lần, có một cô gái ngoại đạo đến nhà thờ với bạn bè của mình. Khi cô bước vào giữa mọi người, một người có trách nhiệm trong nhà thờ tiến lại đứng trước mặt, ngăn cản: “Cô không thể vào đây được, mời cô ra ngoài” Cô gái hỏi tại sao thì được giải thích là: “Chúng tôi không chấp nhận kiểu ăn mặc như cô” Người bạn của cô (người có đạo) mới phân trần: “Cô ấy là người ngoại, chưa biết lối quy định ăn mặc của chúng ta, xin cho cô ấy ở lại” (Quy định của giáo xứ này là ngày Chúa nhật mọi người phụ nữ phải mặc áo dài… trong khi cô gái này lại mặc áo sát nách) Nhưng vị chức trách ấy càng gắt khao hơn: “Tôi bảo người Công giáo chúng ta không chấp nhận kiểu ăn mặc như thế”
Cô gái đó xấu hổ bước ra vì bao ánh mắt đang hướng thẳng về cô. Cô rất buồn và hết sức thất vọng. Từ hôm đó cô đánh mất thiện cảm với người công giáo, thậm chí rất tức giận. Và cũng kể từ đó cô không bao giờ đặt chân đến nhà thờ nữa.
Vâng, kính thưa quí ông bà và anh chị em. Đã bao lần chúng ta nhân danh luật lệ mà làm hại danh dự của người khác. Hoặc đã bao lần chúng ta nhân danh lề luật Thiên Chúa mà có những xử sự thiếu bác ái khiến cho người ta nghĩ sai về Thiên Chúa tình yêu. Nhiều lắm, tôi nghĩ như thế. Trong cuộc sống hằng ngày, khi chúng ta nhân danh lề luật mà đoán xét người khác là chúng ta tước đi quyền xét đoán của Thiên Chúa. Khi chúng ta căn cứ vào ý nghĩ cá nhân mà bác bỏ hoặc từ chối ý kiến của người khác là chúng ta đã hạ thấp phẩm giá của họ. Hoặc khi chúng ta quá đề cao phẩm giá của mình (xỉ diện) mà từ chối một người nghèo, bệnh tật, cô thân cô thế… là chúng ta đã gạt bỏ giới luật yêu thương của Thiên Chúa rồi.
Kính thưa quý ông bà và anh chị em. Qua những chia sẻ trên đây, tôi xin mời mọi người hãy kiểm điểm lại đời sống của mình và khiêm tốn lắng nghe lời Chúa dạy hôm nay: Sách Đệ-nhị-luật dạy rằng: “Đừng thêm gì vào lời Thiên Chúa dạy cho chúng ta, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Thiên Chúa. Chúa chúng ta” (4,2). Và thánh Giacôbê thì dạy: “Hãy khiêm tốn đón nhận lời đã gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy đem lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (1,21-22)
Lời Chúa là lời sự thật, là lời mời gọi yêu thương, là lời ban sự sống. Xin cho tất cả chúng ta biết khiêm nhường và biết cởi mở tâm hồn để đón nhận lời Thiên Chúa dạy, để cho lời Ngài được thấm nhập và biến đổi cuộc đời của chúng ta, giúp chúng ta biết yêu thương, cởi mở với mọi người trong lề luật, chứ đừng vì lề luật mà tỏ ra khắt khe, đòi buộc nhiều điều nơi người khác. Amen.
81. Giả hình, giả dối
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)
Rửa tay trước khi ăn, đối với người Do thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các người Pha-ri-sêu và kinh sư nói riêng và dân Do thái nói chung, thường rất khắt khe với tục lệ này. Họ cho đó là một nghi thức truyền thống quan trọng phải tuân giữ triệt để, để tỏ ra mình thanh sạch trước mọi người. Cái tục rửa tay của họ rất phức tạp chứ không đơn giản như kiểu chúng ta rửa tay để ăn uống: rửa ngón tay, bàn tay, cổ tay. Phải đổ nước từ từ cẩn thận từng chút, từng chỗ…thật cầu kỳ, phiền phức. Khi rửa tay như vậy, họ nghĩ rằng họ đã làm đẹp lòng Thiên Chúa vì đã làm đúng luật lệ và họ tin rằng một nghi thức bên ngoài như vậy có sức làm cho họ được thanh sạch. Vì thế, khi thấy các môn đệ của Chúa ngồi vào bàn ăn mà không rửa tay, không làm theo tập tục của họ, họ bực tức khó chịu, nên đã hạch hỏi và bắt bẻ Chúa.
Nhân dịp này Chúa Giêsu đã dạy cho họ một bài học thế nào là bẩn hay sạch. Trước hết, Chúa trưng lời ngôn sứ I-sai-a: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Chúa nhắc lại lời này để tố cáo họ đã khoác bên ngoài một bộ áo đạo đức để che lấp đi những hành vi xấu xa tội lỗi bên trong. Như thế là giả hình, giả dối. Họ đã coi cái vỏ quan trọng hơn cái ruột; cái hình thức hơn nội dung; cái bên ngoài cần hơn tấm lòng.
Vấn đề rửa tay trước khi ăn. Thử hỏi việc rửa tay cần hay rửa tấm lòng là cần? Thật tình, nếu tay bẩn, chúng ta có thể dùng đũa, dùng thìa, chúng ta có ăn bốc đâu. Còn của ăn, tự nó là sạch, và được nấu nướng vệ sinh là sạch. Vì thế, Chúa nói cái làm cho bẩn là tấm lòng. Đúng vậy, lòng có đầy mới tràn ra ngoài bằng lời nói hay hành động: miệng nói ra những tư tưởng chất chứa trong lòng. Nếu đó là những tư tưởng tốt đẹp sẽ hướng dẫn con người hành động thiện hảo. Ngược lại, tư tưởng xấu sẽ dẫn người ta đến hành vi độc ác, xấu xa.
Thực vậy, chính cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, việc tốt hay xấu. Chính từ cõi lòng này mà sinh ra mười hai nết xấu Chúa kể trong Tin Mừng. Đó là mười hai tội chính và còn biết bao ác quả phụ tùng kèm theo nữa. Cho nên, người đời đã phải than rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò. Lòng người nham hiểm ai đo cho tường”; “Lòng người thăm thẳm mù khơi. Không bờ không bến biết nơi nào dò”. Tục ngữ còn nói: “Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm”, để diễn tả người mang mặt nạ giả danh bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc bên trong; hạng người như hạng tú bà bị Nguyễn Du châm biếm trong truyện Kiều: “Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao”. Câu truyện sau đây là một bằng chứng: Trịnh Tụ là vợ của vua nước Sở, ghen tức với một mỹ nữ đã lọt vào mắt đen của nhà vua. Bà đã nghĩ ra một kế để hạ tình địch của mình. Một hôm, bà làm ra vẻ thân mật nói với mỹ nữ rằng: “Nhà vua có tính không thích người khác thở hơi vào mình. Nên khi vào hầu vua, thì phải giữ ý bịt mũi lại”. Mỹ nữ tưởng thật nghe theo. Mỗi lần tới hầu vua là lấy tay bịt mũi. Nhà vua lấy làm lạ hỏi tại sao vậy? Trịnh Tụ mau mắn trả lời: “Dạ thưa, người ấy sợ đại vương thân thể hôi hám, nên mới có cử chỉ như vậy”. Vua Sở giận truyền đem mỹ nữ cắt mũi đi. Lòng dạ con người thật nham hiểm.
Tuy nhiên chúng ta hãy nhớ: loài người không dò thấu được lòng nhau, nhưng Thiên Chúa thấu suốt cõi lòng mỗi người: “Ta là Thiên Chúa, Ta thấu suốt tâm can mỗi người từng gang tấc”, “Thiên Chúa, Đấng thấu suốt nơi kín nhiệm, sẽ thưởng công cho ngươi”, “Loài người nhìn bên ngoài, nhưng Thiên Chúa nhìn bên trong”, “Không có gì có thể che giấu được Thiên Chúa”…Lời Chúa thật rõ ràng, chúng ta không thể sống che giấu Thiên Chúa được. Chúng ta có thể sống đóng kịch, giấu diếm một số người, một số nơi, một số năm tháng, nhưng chúng ta không thể che giấu nổi Thiên Chúa.
Chúng ta hãy suy nghĩ xem: chúng ta có thường mắc phải cái tật xấu giả hình, giả dối của những người Pha-ri-sêu và kinh sư không? Chúng ta có coi nước sơn bên ngoài quan trọng hơn thứ gỗ bên trong không? Chúng ta nghĩ gì về một đời sống đạo đức, sốt sắng đọc kinh dâng lễ, nhưng có thể bị đánh giá là chỉ tôn kính Chúa bên ngoài môi miệng, còn lòng thì xa Chúa? Sống với nhau, chúng ta có đối xử với nhau theo kiểu chỉ có bề ngoài không? Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình. Ít nhất một bài học chúng ta có thể rút ra từ bài Tin Mừng là: cố gắng thành thật với chính mình và lo hoán cải sửa đổi bên trong hơn là lo trang điểm, trình diễn bên ngoài. Thà “xanh vỏ đỏ lòng” còn hơn là “Tốt mã rã đám”.
82. Giáp mặt – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Tại thủ đô Hà Nội, cách đây ít lâu, có một cuộc triển lãm, lấy tên là “hàng thật hàng giả”. Cuộc triển lãm này nhằm giới thiệu bộ mặt hàng hóa trong bối cảnh thị trường hiện nay, để nhà sản xuất và người tiêu dùng có cơ hội nắm vững tình hình. Qui mô triển lãm không lớn, thời gian trưng bày không lâu, nhưng ý nghĩa của nó được đánh giá không phải là nhỏ. Bởi lẽ nó gợi mở một dư luận đúng đắn trong đạo đức kinh doanh, nhằm tẩy chay hàng giả và cổ võ hàng thật, đồng thời góp phần hình thành một cung cách làm ăn sao cho chữ tín được tôn trọng và bảo vệ. Nhiều tờ báo đã đánh giá cao cuộc triển lãm này, có báo cho rằng đó là “một cuộc giáp mặt đầy lý thú”.
Bài Tin Mừng hôm nay, dầu chẳng liên quan gì đến cuộc triển lãm, nhưng cũng diễn ra như một cuộc giáp mặt giữa một bên là những người Pha-ri-sêu và kinh sư, còn bên kia là Chúa Giêsu và các môn đệ, với câu hỏi mở đầu xoay quanh vấn đề “sạch và dơ” theo luật lệ, để rồi cuối cùng trong câu trả lời mang tính cật vấn, Chúa Giêsu đã trực tiếp tố giác một lối sống đạo đức giả hình, và qua đó gián tiếp dạy bảo một lối sống mới trong đạo đức đích thực.
Trong Tin Mừng chúng ta hay nghe nói đến những người Pha-ri-sêu và kinh sư. Đây là những người sinh ra và lớn lên trong bầu khí đạo giáo, có người lại được huấn luyện nâng cao để trở thành những chuyên viên luật lệ, cuộc đời họ dường như gắn bó với luật lệ. Nếu chỉ có thế thì chẳng có gì phải nói, nhưng đàng này, dần dần họ cấu kết với nhau thành một nhóm nắm quyền giải thích và áp dụng luật lệ, để rồi tha hồ thao túng đến nỗi lấn lướt cả quyền lập pháp khi họ tự ý thêm bớt đủ điều, làm cho luật lệ mất đi dáng dấp nguyên thủy, đành lép vế dưới lớp áo truyền thống phàm nhân. Trên cơ sở đó, Chúa Giêsu đã tố giác: “Các ông gạt bỏ điều răn Thiên Chúa mà giữ lấy tập tục loài người”.
Rồi như một hệ lụy, những người Pha-ri-sêu và kinh sư thường xuất hiện công khai qua dáng vẻ tự phụ, cánh tay họ thò vào mọi ngõ ngách của cuộc sống: dòm ngó, xét nét, hạch sách người khác ngay trong những điều nhỏ nhặt như việc các môn đệ không rửa tay trước khi ăn kể lại trong Tin Mừng hôm nay.
Nhưng chính ở đây, bằng thái độ không khoan nhượng, Chúa Giêsu đã giật rơi chiếc mặt nạ đạo đức trên khuôn mặt họ, để trần trụi ra họ chỉ là những kẻ giả hình. Rõ trơ trẽn, xấu mà hay làm tốt. Điều làm cho người ta thành dơ bẩn không phải ở chỗ giữ hay không giữ tập tục rửa tay trước khi ăn mà chính là tâm địa của người ta. Đạo đâu phải là tuân giữ các tập tục và thực hành các nghi thức mà là một thái độ sống.
Thế là người cật vấn bây giờ trở thành kẻ bị cật vấn. Qua những người Pha-ri-sêu và kinh sư, Chúa Giêsu tố giác một lối sống giả hình, giả dối: thể hiện bên ngoài thì khác và trong lòng thì nghĩ khác, như tục ngữ đã nói: “Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt dạ ớt ngâm” để diễn tả những người mang mặt nạ giả danh tốt đẹp bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc bên trong. Hạng người như hạng tú bà bị Nguyễn Du châm biếm trong truyện Kiều: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Chúng ta có thường mắc phải cái tật xấu giả hình, giả dối của những người Pha-ri-sêu và kinh sư không? Chúng ta có coi nước sơn bên ngoài quan trọng hơn thứ gỗ bên trong không? Sống với nhau, chúng ta có đối xử với nhau theo kiểu chỉ có bề ngoài không? Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình.
Không những chúng ta không được sống giả hình, giả dối mà còn phải đấu tranh chống lại những cái giả chung quanh nữa. Những cái giả này ngày nay xuất hiện dưới nhiều hình thức và ở nhiều cấp độ khác nhau giữa chốn chợ đời, cụ thể nhất là hàng giả và thuốc giả. Mỗi cái giả đều có cái giá của nó trong sự tác hại: hàng giả gây nên “tiền mất” cho người mua sắm, thuốc giả gây thêm “tật mang” cho kẻ tin dùng. Còn người ta, một khi đã trở thành giả, như giả nhân giả nghĩa thì quả là một thảm họa không chỉ cho bản thân mà còn cho những người lân cận nữa. Trong cuộc chơi, như trong bóng đá chẳng hạn, động tác giả được xem là mưu trí, nhưng trong cuộc đời, động tác giả chỉ có thể là trò trí trá của những con người đã đánh mất phẩm chất đạo đức nơi mình.
Cuộc giáp mặt giữa những người Pha-ri-sêu và kinh sư với Chúa Giêsu và các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta liên tưởng tới những cuộc giáp mặt khác trong cuộc đời. Quả thực, dù muốn dù không chúng ta cũng sẽ thấy, sẽ gặp, sẽ chứng kiến những cuộc giáp mặt cụ thể và quyết liệt, như giữa hàng thật và hàng giả, của công và của tư, phim sạch và phim đen, mặt phải và mặt trái v.v… không có sẵn giải pháp cho từng trường hợp, nhưng vẫn có lời gọi hãy đứng về phía chân lý và hãy sống trung thực trong bất cứ trường hợp nào.
Dĩ nhiên sự thật tất thắng, nhưng đường đi đến sự thật là cả một cuộc đấu tranh sinh tử một mất một còn. Phân biệt thật giả đã khó, yêu mến và thi hành sự thật lại càng khó hơn, nó đòi hỏi lý trí và ý chí cũng như sự trợ giúp của ơn thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhận diện lại cuộc sống đạo đức của mình, đồng thời cũng là lời mời gọi hãy giành lấy phần thắng giữa những cuộc giáp mặt trong đời.