CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY C
Lời Chúa: St 15,5-12.17-18; Pl 3,17–4,1; Lc 9,28b-36
MỤC LỤC
1. Vinh quang của Đức Giêsu. ……4
2. Khuôn mặt Ngài biến đổi …….7
3. Học hỏi Phúc Âm CN 2 Mùa Chay …….9
4. “Đấng tín trung” …….12
5. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc …….15
6. Suy niệm chú giải Lời Chúa CN 2 Mùa Chay …….19
7. Tin là tín thác vào Chúa …….31
8. Biến hình và đổi đời – ViKiNi ……..35
9. Cùng bước theo Đức Giêsu ……..39
10. Biến hình ……..43
11. Theo Chúa đến núi Tabor – Nguyễn Hiếu ………45
12. Từ đau khổ đến vinh quang ……….52
13. Biến đổi ………54
14. Sống xứng tầm người con Thiên Chúa ………57
15. Nhìn vào mặt tốt – Lm. Ignatiô Trần Ngà ………60
16. Biến hình trong đời thường ………63
17. Hãy vui lên – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm. ……..68
18. Chúa Nhật 2 Mùa Chay ……..72
19. Sống trong niềm tin – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm ……….75
20. Vinh quang ………78
21. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái ……….80
22. Thập giá vinh quang ……..94
23. Đau khổ và vinh quang – Cố Lm Hồng Phúc ……..97
24. Lắng nghe lời – Lm. Anmai, CSsR …….100
25. Hãy biến hình để được sống trong vinh quang …….105
26. Qua Thập Giá đến vinh quang ……110
27. Kinh ngạc – Lm. Vũ Đình Tường …….114
28. Nếm trước – Lm. Vũ Đình Tường ……118
29. Chúa biến hình, xin cho con được ơn biến đổi …….121
30. Suy niệm của Lm. Nguyễn Thái …….126
31. Qua đau khổ đến vinh quang …….132
32. Hai ngọn núi. …….136
33. Hình ảnh Đức Kitô vinh quang ……138
34. Vinh quang và đau khổ – Thu Băng, CMR …….145
35. Núi Tabor và cuộc sống hằng ngày …….147
36. Cầu nguyện biến đổi – AM Trần Bình An …….151
37. Ai được lên Núi Chúa? – AM. Trần Bình An ……….156
38. Từ Đức Kitô đến chúng ta. …….160
39. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành ……..162
40. Biến hình – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. ………167
41. Vững bước trong đức tin – Dã Quỳ ………170
42. Vinh quang Chúa ……..173
43. Hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa. ……..177
44. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long ……..182
45. Chúa biến hình – Cao Huy Hoàng ……..185
46. Những câu chuyện biến hình ………189
47. Rất sáng và rất ngắn ……..193
48. Chúa Nhật 2 Mùa Chay ………..197
49. Suy niệm của Lm. Đaminh Hương Quất …….200
50. Vượt qua những thử thách khó khăn. ………204
51. Chúa hiển dung – R. Veritas ………208
52. Chúa Giêsu biến hình – Lm. Damien OFM ……….211
53. Kiên nhẫn vượt qua ………215
54. Thập giá vinh quang – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền ……….218
55. Thích khoe của – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền ……….221
56. Lạc Chúa ở đâu? – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền ……….223
57. Hãy hiển dung hình ảnh Chúa cho anh em ……….225
58. Con đường của mọi thăng hoa biến thái ………228
59. Qua thập giá đến vinh quang. ………230
60. Chúa biến hình – McCarthy ………234
61. Đỉnh núi vinh quang. ……….241
62. Chúa Giêsu hiển dung – Hugues Cousin ………244
63. Loan báo thương khó lần hai – R. Gutzwiller ………248
64. Đau khổ và vinh quang. ……….250
65. Biến hình ………252
66. Yêu dấu …….255
67. Đau khổ ……..258
68. Lên núi ………261
69. Giao ước ……….265
70. Ơn gọi ……….268
71. Hai ngọn núi ………271
72. Nét mặt ……….273
73. Vinh quang ……….275
74. Người vẫn đồng hành – Thiên Phúc ………277
75. Hành trình đức tin – Lm Giuse Nguyễn Hữu An ………279
76. Suy niệm của JKN ………286
77. Chúa Giêsu biến hình đổi dạng – John Nguyễn ……….291
78. Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng ……….296
79. Sống trong niềm tin ……….299
80. Cứ gặm mãi cho đến khi lạc lối ……….302
81. Đức Giêsu hiển dung – Lm PX Vũ Phan Long ………305
82. Chú giải của Noel Quesson ……..314
83. Chú giải của Fiches Dominicales ……..320
84. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt ……..328
85. Mùa chay biến đổi đời sống – Lm. Đan Vinh ……..334
86. Biến đổi cuộc đời như Chúa ……..344
87. Biến hình với Chúa – Huệ Minh ………348
1. Vinh quang của Đức Giêsu.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui…” Một bài hát của Trịnh Công Sơn đã bắt đầu như thế.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ba môn đệ của Đức Giêsu đã chẳng phải chọn một niềm vui. Niềm vui chợt đến với họ như một quà tặng.
Đêm hôm ấy, một đêm giống như nhiều đêm, Đức Giêsu lên núi cầu nguyện cùng với ba môn đệ. Ngài chìm sâu trong cuộc đối thoại thân tình với Cha. Ngài biết khá rõ những gì đang chờ mình: khổ đau, nhục nhã, cái chết và phục sinh (x Lc 9,22). Đức Giêsu đón lấy con đường Cha muốn Ngài đi.
Đêm đã khuya, Ngài vẫn còn trò chuyện với Cha. Các môn đệ đã chìm sâu trong giấc ngủ. Khi chợt tỉnh, họ ngất ngây trước cảnh tượng phi thường. Thầy Giêsu đang đàm đạo với hai ông Môsê và Êlia. Vinh quang rạng ngời bao trùm ba đấng. Khuôn mặt Thầy Giêsu trở nên đổi khác. Cả y phục Ngài cũng trở nên trắng tinh chói lọi.
Không rõ các môn đệ đã chiêm ngưỡng cảnh này bao lâu, nhưng chắc chắn họ muốn kéo dài hạnh phúc đó. Khi ông Phêrô thấy hai vị sắp chia tay Đức Giêsu, ông đòi dựng ba lều để tất cả ở lại qua đêm.
Đêm đẹp quá, đêm huyền diệu! Đêm bừng sáng như ban ngày! Bỗng chốc một đám mây bao phủ các môn đệ, đưa họ đi vào huyền nhiệm của sự hiện diện thần linh. Họ khiếp sợ khi thấy Thiên Chúa quá ư gần gũi.
Tất cả những gì đã xảy ra đều nhằm chuẩn bị để các môn đệ nghe được lời giới thiệu của Cha:
“Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn”,
và đón nhận lời Cha nhắn nhủ: “Hãy vâng nghe lời Người”.
Kinh nghiệm thấy Đức Giêsu toả sáng thật cần thiết. Nó là một nâng đỡ cho các môn đệ đang cùng đi với Thầy trên đường lên Giêrusalem. Nó giúp các ông đón nhận số phận như Thầy, để được cùng Thầy chia sẻ vinh quang (x. Lc 9,23-26).
Vinh quang của Con Thiên Chúa được dấu ẩn khi làm người. Vinh quang ấy loé sáng lúc Ngài biến hình trên núi. Nhưng ngay sau Phục Sinh, Ngài cũng chẳng tỏ hết vinh quang.
Vinh quang tỏ tường chỉ bừng toả khi Ngài trở lại.
Đám mây rồi cũng tan, Môsê và Êlia biến đi. Chỉ còn mình Đức Giêsu ở lại, với khuôn mặt bình thường, với con đường phía trước.
Rồi hôm sau Thầy trò lại xuống núi ruổi rong.
Trong mùa Chay, chúng ta cần gặp được Chúa bừng sáng. Và chúng ta cũng cần được biến hình.
Sám hối đích thực, dẫn tới sự bừng sáng rực rỡ.
Bừng sáng qua cầu nguyện thâm trầm, qua chay tịnh lặng lẽ.
Bừng sáng qua chia sẻ với tha nhân.
Ước gì tôi bừng sáng qua việc biến đổi lối nghĩ, lối sống.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cầu nguyện, ăn chay, chia sẻ cho người nghèo: đó là 3 hướng chính của mùa Chay. Bạn thấy 3 hướng đó cần thiết không và bổ sung cho nhau như thế nào?
Nhiều đoàn phẫu thuật giúp trẻ em tìm lại nụ cười trên khuôn mặt tươi tắn. Bạn nghĩ mình có thể đem lại nụ cười cho ai trong mùa Chay này?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng, có bao điều con lãng phí bên cạnh những Ladarô túng quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu. Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa. Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con. Con phải chịu trách nhiệm về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt, vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau. Thế giới còn nhiều người đói nghèo là vì chúng con giữ quá điều cần giữ. Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
2. Khuôn mặt Ngài biến đổi
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Khuôn mặt phản ánh đời sống nội tâm của con người.
Ai cũng muốn mình có khuôn mặt dễ mến. Người ta bỏ ra nhiều tiền để sửa sang lại khuôn mặt, vì họ muốn người khác đổi cái nhìn về họ.
Bài Tin Mừng hôm nay mời chúng ta chiêm ngắm khuôn mặt ngời sáng của Chúa Giêsu trên núi cao. Chỉ mình thánh Luca nói rõ chi tiết này: “Đang khi Ngài cầu nguyện, thì khuôn mặt Ngài biến đổi”.
Gần đèn thì sáng.
Gặp gỡ Thiên Chúa làm biến đổi nội tâm con người, thậm chí làm biến đổi thân xác, biến đổi khuôn mặt, và cả những gì con người sử dụng cũng bừng toả: “y phục Ngài nên trắng ngời như chớp sáng”.
Trong mùa Chay, chúng ta muốn biến đổi cuộc sống mình, chúng ta muốn mang bộ mặt mới. Chúng ta đã làm nhiều điều, trừ một điều quan trọng, đó là lên núi cao để gặp gỡ Thiên Chúa.
Núi cao ở ngay trong sâu thẳm lòng ta, nơi đây ta gặp gỡ Ngài, diện đối diện.
Mọi biến đổi nơi cá nhân cũng như tập thể, nơi gia đình, giáo xứ, dòng tu và cả Giáo Hội đều phải khởi đi từ việc tiếp xúc với Thiên Chúa.
Chúng ta dễ lãng quên việc gặp Chúa mỗi ngày, lấy cớ mình bận làm những việc của Chúa.
Thế giới hôm nay đói những người cầu nguyện, và thừa ứ những người lăng xăng… Ba môn đệ thân tín cũng đâu có cầu nguyện. Họ ngủ li bì.
Sau này ở núi Cây Dầu, họ cũng say ngủ. Thế nên họ chẳng biến đổi gì.
Dù họ chợt tỉnh và thấy khuôn mặt ngời sáng của Chúa, điều đó chỉ đem lại cho họ chút hưng phấn chóng qua, nhưng không cho họ sức để trung thành theo Chúa.
Họ mơ ước dựng lều ở ngọn núi thánh này, vì họ thích ngắm khuôn mặt rực sáng của Đức Giêsu. Nhưng họ không có can đảm ở lại Núi Sọ, để chiêm ngưỡng khuôn mặt đầy thương tích của Thầy.
“Các ngươi hãy nghe Ngài”: một lời nhắc nhở hiếm hoi của Chúa Cha dành cho ta.
Bạn có nghe thấy lời nào của Đức Giêsu vang vọng nơi lòng bạn trong mùa Chay không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Các môn đệ buồn ngủ khi cầu nguyện. Còn bạn, bạn gặp khó khăn nào khi cầu nguyện? Làm sao vượt qua được những khó khăn đó?
“Con người cầu nguyện có khả năng biến đổi thế giới”: Bạn có tin điều đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước gì mọi người thấy nét mặt tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
3. Học hỏi Phúc Âm CN 2 Mùa Chay
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu S.J.
1. So sánh Mc 9,2-3 với Lc 9,28-29. Có gì khác biệt không? Đâu là nét đặc biệt của Luca?
2. So sánh Lc 3,21-22 với Lc 9,28-35. Có gì giống nhau và khác nhau không?
3. So sánh tiếng nói từ trời ở Lc 3,22 với tiếng từ đám mây ở Lc 9,35, có gì khác nhau không?
4. Trong các sách Tin Mừng Nhất lãm, Đức Giêsu được hiển dung sau những biến cố nào? Đọc Mt 17,1-9; Mc 9,2-10; Lc 9, 28-36 và những đoạn đi trước ba đoạn này.
5. Mục đích chủ yếu của việc Đức Giêsu được Chúa Cha hiển dung là gì?
6. Hai vị Môsê và Êlia nói về cuộc xuất hành của Đức Giêsu mà Người sẽ hoàn tất ở Giêrusalem (câu 31). Cuộc xuất hành (exodos) ở đây nghĩa là gì? Đọc Lc 24,246.
7. Trong bài Tin Mừng này có mấy từ vinh quang, mây. Tại sao ba môn đệ lại hoảng sợ?
8. Tại sao Giáo hội luôn cho đọc bài Tin Mừng về việc Chúa Hiển dung vào tuần 2 Mùa Chay? Chúa Giêsu được hiển dung, có nâng đỡ chúng ta trong Mùa Chay không?
9. Chúa Cha phán: “Các ngươi hãy lắng nghe Người” (Lc 9,35). Câu này có giống chút nào với câu Đức Maria nói với gia nhân ở tiệc cưới Cana không: “Các anh hãy làm tất cả những gì Người bảo.”
CÂU HỎI SUY NIỆM:
Nhiều người đi thẩm mỹ để có được khuôn mặt đẹp. Trong Mùa Chay, chúng ta cần làm gì để có được khuôn mặt bừng sáng như Chúa Giêsu?
PHẦN TRẢ LỜI
1. Có hai khác biệt giữa Mc 9,2-3 với Lc 9,28-29. Theo Mác-cô, biến cố Hiển Dung xảy ra “sáu ngày” sau khi Đức Giêsu tiên báo cái chết và sự phục sinh của Ngài, nghĩa là vào ngày thứ bảy (xem Xh 24,16). Còn theo Luca, biến cố này xảy ra “khoảng tám ngày sau.” Nhìn chung biến cố Hiển Dung xảy ra khoảng một tuần sau khi Đức Giêsu tiên báo cuộc Khổ nạn. Điểm khác biệt quan trọng hơn, đó là chỉ Luca mới nói rõ mục đích của Đức Giêsu khi lên núi là để cầu nguyện. Và Ngài đã được bừng sáng khi đang cầu nguyện.
2. Lc 3,21-22 và Lc 9,28-35 có những điểm giống nhau: đang khi Đức Giêsu cầu nguyện thì xảy ra biến cố, và có tiếng của Chúa Cha. Tuy nhiên cũng có những điểm khác nhau: lúc Đức Giêsu chịu phép rửa thì chưa có mặt các môn đệ; lúc Đức Giêsu hiển dung thì không nói đến sự hiện diện của Thánh Thần, nhưng lại có mặt hai ông Môsê và Êlia; khi chịu phép rửa, tiếng Chúa Cha từ trời nói trực tiếp với Đức Giêsu (Lc 3,22), còn khi hiển dung, tiếng Chúa Cha từ đám mây nói với các môn đệ (Lc 9,35).
3. Trong Mc 3,22, Chúa Cha từ trời long trọng tuyên bố cho Đức Giêsu biết Ngài thật là Con yêu dấu của Cha, được Cha yêu dấu và hài lòng. Còn trong Lc 9,35, Chúa Cha từ dám mây giới thiệu Đức Giêsu cho các môn đệ và khuyên họ hãy vâng lời Người.
4. Trong các sách Tin Mừng Nhất lãm, Đức Giêsu được hiển dung sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin (Mc 9, 27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,18-21), sau khi Ngài tiên báo cuộc Khổ nạn lần thứ nhất (Mc 8,31-33; Mt 16,21-23; Lc 9,22), và dạy về những đòi hỏi của ơn gọi làm môn đệ (Mc 8,34 – 9,1; Mt 16,24-28; Lc 9,23-27).
5. Ba môn đệ thân tín đã có những kinh nghiệm độc nhất vô nhị trên núi. Họ đã được thấy vinh quang của Đức Giêsu, và của hai ông Mô-sê và Êlia (Lc 9, 31-32). Kinh nghiệm được thấy tận mắt khuôn mặt và y phục của Đức Giêsu bừng sáng khi Ngài đang cầu nguyện (câu 29), kinh nghiệm thấy Ngài trò chuyện với hai nhân vật quan trọng là Mô-sê và Êlia (câu 30), cùng với kinh nghiệm được nghe tận tai lời nhắn nhủ của Chúa Cha từ đám mây (câu 35). Tất cả những kinh nghiệm đó chủ yếu nhằm nâng đỡ đức tin của ba môn đệ, trước khi họ chứng kiến cuộc khổ nạn nhục nhã và cái chết kinh hoàng của Đức Giêsu trên thập giá.
6. Trong Lc 9,31, hai ông Mô-sê và Êlia nói đến cuộc xuất hành mà Đức Giêsu sắp hoàn tất tại Giêrusalem. Cuộc xuất hành ở đây (exodos) để chỉ cái chết, sự phục sinh và lên trời của Đức Giêsu. Đức Giêsu sẽ chết ở Giêrusalem, sẽ được phục sinh và hiện ra ở đó, rồi cuối cùng lên trời từ đó (Lc 24,51). Cuộc xuất hành cũng là cuộc Vượt qua của Đức Giêsu, vượt qua đau khổ mà vào vinh quang (Lc 24,26), vượt qua cõi chết để vào cõi sống (Lc 24,46).
7. Trong bài Tin Mừng này có hai từ vinh quang (các câu 31 và 32) và ba từ đám mây (các câu 34 và 35). Ba môn đệ hoảng sợ khi thấy mình ở trong đám mây (Lc 9,34). Đối với người Do-thái, đám mây là dấu hiệu cho sự hiện diện của Thiên Chúa (x. Xh 24,15-18), và Thiên Chúa phán ra từ đám mây (Lc 9,35). Các môn đệ hoảng sợ vì họ tin rằng “không ai thấy Thiên Chúa mà còn sống được” (Xh 33,20).
8. Trong tuần 1 Mùa Chay, Giáo Hội luôn cho chúng ta đọc bài Tin Mừng về Chúa chịu cám dỗ và đã chiến thắng. Tuần 2 Mùa Chay luôn là bài về Chúa Hiển dung. Mầu nhiệm Chúa Hiển Dung nâng đỡ đức tin chúng ta, để khi chúng ta nhìn thấy khuôn mặt dị dạng của Đức Giêsu trên thập giá, chúng ta vẫn tin Ngài là Người Con yêu quý của Thiên Chúa.
9. Cả hai câu cho thấy Chúa Cha và Mẹ Maria đều mời gọi chúng ta vâng phục Đức Giêsu.
4. “Đấng tín trung”
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Một trong những phẩm tính của Thiên Chúa được Kinh Thánh nhấn mạnh, đó là sự trung thành của Ngài. Thiên Chúa là Đấng tín trung. Điều này đã được lịch sử chứng minh. Kinh Thánh chính là cuốn sách về lòng tín trung của Thiên Chúa.
Tín trung, hay trung thành, là luôn giữ những gì mình đã hứa, trước sau như một, dù có phải thiệt thòi hệ luỵ. Trong lịch sử, khi thiết lập mối tương quan với con người, Chúa đã khởi đầu bằng giao ước với ông Abraham. Đây là giao ước đầu tiên Thiên Chúa ký kết với con người. Một vị Thần linh cao cả mà lại đi ký giao ước với con người! Đó là điều không tưởng theo suy luận trần thế, nhưng là một điều kỳ diệu của tình thương. Bởi lẽ ở đời, người ta chỉ ký kết hợp đồng giữa các đối tác tương đương về khả năng tài chính hoặc ảnh hưởng quyền lực. Một người có số vốn một ngàn tỷ đồng chẳng bao giờ ký hợp đồng làm ăn với người chỉ có vốn vài trăm triệu đồng. Đức Thánh Cha Phanxicô đã dùng ngôn ngữ của giới kinh doanh để nói rằng, Thiên Chúa đầu tư luôn luôn chấp nhận lỗ và thua thiệt. Thiên Chúa là Đấng cao cả. Abraham chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt, đến người nối dòng còn chẳng có vào lúc gần đất xa trời. Ấy vậy mà Chúa lại ký kết giao ước với ông, đồng thời hứa hẹn với ông những điều ông không dám mơ ước: đó là một dòng dõi (Dân tộc) và một quê hương (Đất hứa).
Và thế là, từ đời nọ đến đời kia, Chúa luôn trung thành giữ giao ước của Ngài.
Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể đến trần gian để thiết lập giao ước mới. Nói cách khác, Người đến trần gian để đưa giao ước này lên một tầm cao mới. Qua Đức Giêsu, mối tương quan Thiên Chúa – Nhân Loại không còn phải qua trung gian như thời xưa nữa, tức là thời của ông Môisen và ông Êlia. Con người có thể được gặp gỡ trực tiếp Thiên Chúa, “ai thấy Thày là thấy Cha” (x. Ga 14,9). Cuộc biến hình trên núi mà cả ba tác giả Tin Mừng Nhất lãm đều kể lại, chính là một bằng chứng về lòng trung thành của Thiên Chúa. Những gì Thiên Chúa trong Cựu ước đã ngỏ lời qua truyền thống Lề luật (ông Môisen) và truyền thống Ngôn sứ (ông Êlia) nay đã được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu nhân độ thế. Đức Kitô vừa là Ngôn sứ vừa là Lề Luật. Kitô giáo tách ra khỏi truyền thống Do Thái, nhưng không đi ngược lại với truyền thống đó. Do Thái giáo, hay truyền thống Ngôn sứ và Lề luật nay đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử. Hình ảnh ông Môisen và ông Êlia đàm đạo với Chúa Giêsu, như một gạch nối và chuyển giao giữa Cựu ước và Tân ước.
Nếu như Thiên Chúa là Đấng trung tín, thì con người lại dễ dàng phản bội. Lịch sử Cứu độ ghi lại những bất trung của dân riêng. Đã bao lần Thiên Chúa yêu thương bao bọc và chở che tha thứ, nhưng con người vẫn chống lại Ngài. Không chỉ lịch sử Do Thái, mà là lịch sử nhân loại, là chính chúng ta, những con người sống ở mọi nơi mọi thời cũng đang có khuynh hướng chống lại Thiên Chúa, khi vô tình hay hữu ý phá vỡ chương trình của Ngài. Con người từ khởi đầu luôn có khuynh hướng kiêu ngạo chống lại Thiên Chúa và có ý định phản loạn. Tội lỗi chính là sự phản loạn ấy. Tội lỗi cũng là sự bất trung. Tội lỗi gây hậu quả huỷ diệt chính bản thân mình.
Ba môn đệ gần gũi với Thày Giêsu, là ông Phêrô, Gioan và Giacôbê, đã trải qua kinh nghiệm biến hình. Các ông được chiêm ngưỡng Chúa như Người là, tức là được chiêm ngưỡng Người trong chính vinh quang do bản tính Thiên Chúa của Người. Những lúc thông thường khác trong cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã ẩn vinh quang của Người. Trên núi cao, Người đã tỏ bày vinh quang cho các ông thấy, như một lời hứa hẹn và khích lệ để khẳng định với các ông: nếu các ông trung tín với Thày, các ông sẽ được chia sẻ vinh quang với Thày. Trên núi cao, một cuộc thần hiện (Epiphany) kỳ diệu đã diễn ra: lời Chúa Cha khẳng định: Đây là Con Ta yêu dấu, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Lời này đã vang lên lúc Đức Giêsu chịu phép Rửa ở sông Giordan, để dân chúng nghe thấy và nhận biết Đấng Messia (x. Mt 3,17). Lời này hôm nay lại vang lên trên đỉnh núi, trong giờ phút Chúa Giêsu biến hình, như một nhắc nhở: hãy trung tín với Người.
Mùa Chay là thời điểm lắng đọng tâm hồn, để tôn vinh Thiên Chúa là Đấng tín trung trong lịch sử nhân loại và lịch sử cá nhân mỗi người. Mùa Chay cũng là thời điểm tự vấn lương tâm, để soi xét về lòng trung thành của người tín hữu đối với Chúa và đối với tha nhân. Thánh Phaolô đau lòng ứa lệ khi thấy có những tín hữu bất trung. Họ không tìm Thiên Chúa, mà chỉ tìm những gì dễ dãi cho đời mình. Vinh quang và lý tưởng của họ là những thứ chóng qua. Người yêu mến Chúa sẽ tìm vinh quang thượng giới, là hạnh phúc vững bền. Chính lòng yêu mến và trung thành sẽ giúp chúng ta biến đổi cuộc đời, trở nên con người mới, mặc lấy Đấng Phục sinh, sáng láng tinh tuyền và vinh quang thánh thiện, như Đấng đã biến hình trên núi năm xưa.
5. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
Chúng ta bước vào tuần thứ hai Mùa Chay thánh, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng dung mạo Chúa Giêsu khi Ngài cầu nguyện trên đỉnh núi.
Thánh Luca hơn các thánh sử khác, luôn chú tâm đến một đặc điểm của Chúa Giêsu là cầu nguyện. Ngài cầu nguyện khi chịu phép rửa của Gioan tại sông Giođan, trước khi chọn các tông đồ, và hôm nay, chúng ta thấy Ngài cầu nguyện trên núi. Đây là lúc khởi đầu của giai đoạn quan trọng nhất của đời Ngài là cuộc tử nạn sắp tới. Ngài biết những gì Ngài phải làm và những gì đang chờ đợi Ngài, và Ngài sẵn sàng dấn thân vào con đường đau khổ mà Cha trên trời đã định cho Ngài.
Ngài cầu nguyện vì Ngài không làm việc một mình, Ngài luôn kết hiệp với Cha Ngài. Đây chính là một bài học quí báu đối với chúng ta. Chúng ta thường làm việc một mình, không cần đến Chúa. Khi gặp gian nan thử thách, lúc ấy chúng ta mới nhìn về Chúa, mới cảm thấy cần Chúa.
Ngài đang cầu nguyện, “dung mạo Ngài bỗng đổi khác, y phục Ngài trở nên trắng tinh chói lòa”. Không phải vô tình mà thánh Luca chú ý đến chi tiết này. Vinh quang của Chúa Giêsu được tỏ hiện khi Ngài hoàn toàn chìm sâu trong Chúa Cha, lúc ấy Ngài thực sự là Con của Chúa Cha, là “Người Con Một đầy ân sủng và chân lý”, và chính lúc ấy Ngài được Chúa Cha công nhận là “người Ta tuyển chọn”.
“Y phục Ngài trở nên trắng tinh chói lòa” Không những dung mạo Ngài biến đổi mà cả y phục của Ngài cũng chói ngời rực rỡ.
Điều này chứng tỏ Ngài không thuộc về thế gian nữa. Ngài mang lấy xác phàm, nhưng Ngài là Thiên Chúa. Vì thế, dù Ngài có bước vào cuộc Xuất Hành của Ngài, nghĩa là bước vào đau khổ và tử nạn, Ngài vẫn là Thiên Chúa.
Vinh quang phục sinh đã tỏ hiện nơi thân xác của Ngài.
Hai nhân vật tiêu biểu của Cựu Ước xuất hiện, “rạng ngời vinh hiển”, và đàm đạo với Ngài về cuộc Xuất Hành Ngài sắp thực hiện tại Giêrusalem. Chỉ có Luca mới nói đến nội dung của cuộc đàm đạo này. Môsê, đại diện cho Lề Luật, Êlia đại diện cho các tiên tri. Sự xuất hiện của hai vị này minh chứng rằng sứ mệnh của Ngài là kiện toàn Giao Ước và những lời tiên tri. Chúa Giêsu sẽ thiết lập Giao Ước mới và vĩnh cửu mà Giao Ước thời Môsê chỉ là hình bóng. Ngài đến “không phải để hủy bỏ mà kiện toàn”. Ngài kiện toàn Luật cũ nơi thân xác của Ngài bằng sự vâng phục tuyệt đối thánh ý Chúa Cha. Ngài thay thế những cách thờ phượng của Giao Ước cũ bằng cách hiến dâng chính bản thân Ngài. Ngài là của lễ thay thế cho của lễ chiên bò. Ngài dạy chúng ta phải thờ phượng Chúa Cha thế nào, là thờ phượng “trong tinh thần và sự thật”: “Hãy hiến dâng thân mình anh em làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”. Ngài lập Giáo Ước mới trong máu Ngài. Dòng máu thần linh này sẽ tẩy xóa tội lỗi nhân loại và biến chúng ta thành con cái của Chúa Cha. Ngài trở thành vị tư tế duy nhất và hiến lễ của Ngài cũng là hiến lễ duy nhất. Hãy biến đổi mọi lao nhọc cực khổ của chúng ta thành của lễ, cùng với Ngài.
Vì thế, chúng ta hãy làm như thánh Phaolô dạy: “Anh em hãy cởi bỏ con người cũ là con người hư nát… Anh em hãy để cho Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa…”
Nhờ đó, thân xác hay chết của chúng ta sẽ mặc lấy vinh quang của Người Con Một…
Phêrô và các bạn ngủ mê mệt. Tại sao lại ngủ đang lúc ở với Thầy? Rồi đây các ông sẽ ngủ nữa trong vườn cây dầu khi Thầy của các ông “buồn có thể chết được” và mướt mồ hôi máu.
Chúng ta cũng như các ông, cứ ngủ vùi trong sự hờ hững của chúng ta. Chúng ta không cảm thấy cần phải cố gắng. Chúng ta ngại khó, ngại những gì đòi hỏi chúng ta cố gắng. Chúng ta chọn sự dễ dàng, nhàn hạ, mặc cho ai chết sống…
Khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu. Phêrô xin dựng ba lều. Để làm gì? Để sống với Thầy trên đỉnh núi, vì “chúng con ở đây thật là hay!” Chúng ta cũng thế thôi. Khi gặp gian khó, chúng ta chạy trốn hay ngủ vùi; khi gặp điều vừa ý, chúng ta hăng hái ủng hộ.
Chúa Giêsu không như thế. Cuộc sống trần gian của Ngài mãi mãi là một hiến dâng. Ngài chấp nhận một cách bình thản những gì là lao khổ, cực nhọc và cả cái chết thê thảm trên thập giá, miễn là đẹp lòng Chúa Cha.
Mặc dù chúng ta ham vui… nhưng không phải lúc nào cũng chỉ tìm thỏa mãn những đòi hỏi của bản thân mà quên đi những gì cao đẹp. Nhiều người đã sống như thế và cuộc đời của họ trở thành một cực hình cho những người chung quanh. Thánh Phaolô căn dặn chúng ta: “Đừng theo thói thế gian… Đừng sống đối nghịch với thập giá Chúa Kitô… Đừng thờ cái bụng… Quê hương chúng ta ở trên trời… Bộ mặt thế gian này qua đi…” “Chúng ta đang chờ đợi trời mới đất mới” (Thánh Phêrô).
Nơi Chúa Giêsu hiển dung, chúng ta nhìn thấy vinh quang của chính chúng ta. Chúng ta sẽ được vinh quang như Ngài vì chúng ta đã được dìm mình với Ngài trong phép rửa tội để được sống lại vinh quang với Ngài. Vì “Ngài có quyền năng biến đổi thân xác hư hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài”.
Trên đỉnh núi, chính Chúa Cha, một lần nữa đã xác nhận: “Này là người Ta tuyển chọn, Hãy nghe lời Người”.
Chính Chúa Cha đã cho chúng ta biết, Người đã sai Con Một của Người đến cứu chúng ta, đưa chúng ta vào sự sống thần linh của Người. Chúng ta không thể nào trở lại với cuộc sống tội lỗi, với ách nô lệ gian ác. Chúng ta hãy vui mừng tạ ơn vì tình thương của Người đã thể hiện qua Chúa Giêsu. Bình minh của sự sống lại đã rạng ngời, chúng ta không thể nghi ngờ về hạnh phúc tương lai của chúng ta, khi “thân xác hư hèn của chúng ta mặc lấy sự bất tử”.
Vì thế, chúng ta hãy vui mừng luôn mãi… và tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”.
Sống hôm nay của chúng ta là nghe lời Đấng mà Chúa Cha đã sai đến cho chúng ta. Ngài là Lời ban sự sống, là Đấng dẫn đưa chúng ta đến sự sống…
Chúa Giêsu hiển dung hôm qua cũng là Chúa Giêsu hôm nay. Ngài hiện diện với chúng ta và cho chúng ta nơi bàn tiệc yêu thương này. Hãy ăn lấy Ngài hôm nay để được hiển dung với Ngài trong Nước Tình Yêu của Ngài, dù phải Xuất hành qua nhiều gian khổ.
6. Suy niệm chú giải Lời Chúa CN 2 Mùa Chay
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Trong cả ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay là Chúa Nhật của biến cố Biến Hình. Biến cố Biến Hình vừa soi sáng mầu nhiệm Nhập Thể, đồng thời cũng vận mệnh nhân loại. Chúng ta sẽ khám phá mầu nhiệm này trong các bản văn của Chúa Nhật II Mùa Chay năm C này.
St 15: 5-12, 17-18
Lộ trình tâm linh của nhân loại được vén mở lên cho đến kinh nghiệm tôn giáo của ông Áp-ra-ham, vị tổ phụ đặt trọn niềm tin của mình vào những lời hứa của Chúa.
Pl 3: 17-4: 1
Theo thánh Phao-lô, cuộc Biến Hình của Đức Giê-su loan báo cuộc “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”, đó là giai đoạn cuối cùng lộ trình của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải trung tín.
Lc 9: 28-36
Tin Mừng tường thuật biến cố Biến Hình theo thánh Lu-ca.
BÀI ĐỌC I (St 15: 5-12, 17-18)
Chuyện tích này được trích từ “chuyện dài nhiều tập” của tổ phụ Áp-ra-ham từ chương 12: 1 đến chương 25: 18 sách Sáng Thế. Chuyện tích này tường thuật cuộc Thần Hiển. Nỗi sợ hãi của tổ phụ Áp-ra-ham trước việc Thiên Chúa tỏ mình ra có thể sánh ví với nỗi khiếp sợ của thánh Phê-rô và các bạn đồng môn vào lúc Chúa Giê-su bày tỏ vinh quang của Ngài trong biến cố Biến Hình.
Đức Chúa tái khẳng định những lời hứa mà Ngài đã hứa cho tổ phụ Áp-ra-ham. Ngài đã hứa ban đất cho người du mục lang thang này (St 12: 2-3 và 12: 7) và cũng đã hứa ban một dòng dõi đông đúc như sao trên bầu trời cát dưới bãi biển cho một cụ già hiện nay không con này (St 13: 14-16). Nhưng những lời hứa này chậm được thực hiện, vì thế, vị tổ phụ bắt đầu sốt ruột. Trước hết, Đức Chúa trấn an ông, đoạn đưa ra một lời cam kết long trọng được đóng ấn bởi một hy lễ.
1. Tổ phụ Áp-ra-ham, con người của niềm tin
Đức Chúa tái khẳng định với tổ phụ Áp-ra-ham rằng ông sẽ có một đứa con nối dõi tông đường sinh ra từ huyết thống của ông (St 15: 4), đoạn Ngài bảo ông ngước mắt lên trời thử đếm các vị sao và nói với ông: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!”.
Đức Chúa mở ra cho vị tổ phụ một viễn cảnh không thể tin được, ấy vậy, “ông tin Đức Chúa”. Đây là lần đầu tiên trong Cựu Ước động từ “tin” xuất hiện. Theo ngôn ngữ Híp-ri, từ ngữ này có cùng ngữ căn với từ “A-men”, từ gợi lên sự vững bền, chắc chắn. Như vậy cuộc mạo hiểm của tổ phụ Áp-ra-ham không chỉ đánh dấu việc chào đời của một dân tộc, nhưng còn khai mào lịch sử của niềm tin, bước khởi đầu của lịch sử cứu độ. Tổ phụ Áp-ra-ham là người tín hữu đầu tiên; ông tin vào lời Thiên Chúa, bất chấp mọi sự việc có thể khiến ông nghi ngờ. Ông là cha của những người tin. “Đức Chúa kể ông là người công chính”, nghĩa là, ông sống một lòng một dạ với những gì Thiên Chúa chờ đợi từ ông. Chúng ta biết thánh Phao-lô sẽ khai triển thần học của mình từ câu này, qua đó thánh nhân sẽ minh họa đề tài đức tin của mình: chính nhờ đức tin, chứ không Lề Luật và công nghiệp của mình, mà chúng ta được ơn công chính hóa.
2. Tổ phụ Áp-ra-ham, con người của Giao Ước:
Lời hứa thứ hai nhắm đến việc sở hữu đất. Đức Chúa lập lại lời hứa này cho ông Áp-ra-ham: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu”. Đây là biểu thức tiêu biểu cho phần dẫn nhập của một hiệp ước, như người ta đọc thấy trong nhiều bản văn miền Cận Đông, vào giữa thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Vị bá vương đề xuất giao ước của mình, mở đầu với việc nhắc lại những ân lộc mà ông đã ban cho chư hầu của mình. Sách Xuất Hành dẫn nhập Thập Giới hay điều khoản Giao Ước Xi-nai theo cùng một cách như vậy: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20: 1).
3. Hy tế Giao Ước:
Tổ phụ Áp-ra-ham xin Thiên Chúa một dấu chỉ. Dấu chỉ này sẽ là một hy tế có tính chất đặc biệt, một hy tế giao ước. Trong loại giao ước này, những con vật bị sát tế, được xẻ đôi và hai bên ký kết đi qua giữa các tế vật xẻ đôi, nữa này đối diện với nữa kia, theo cách nào đó gợi lên số phận sẽ là như vậy, nếu hai bên không chu toàn những lời cam kết của mình. Từ đó, nguyên ngữ Híp-ri “cắt một giao ước” đồng nghĩa với ký kết một giao ước. Loại hy tế này còn được gợi lên vào thời ngôn sứ Giê-rê-mi-a khi Đức Chúa công bố Ngài sẽ trừng phạt những ai đã không tuân giữ huấn lệnh bảy năm một lần phóng thích những người nô lệ: “Những kẻ đó, Ta sẽ biến thành một con bò tơ cho người ta xẻ làm đôi và băng qua giữa hai phần” (Gr 34: 18).
4. Giấc ngủ mê:
“Lúc mặt trời gần lặn, thì một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Áp-ra-ham”. Từ ngữ Híp-ri được dùng ở đây không chỉ giấc ngủ tự nhiên. Từ ngữ này chỉ xuất hiện trong Cựu Ước để diễn tả giấc ngủ siêu nhiên. Cũng một từ ngữ được dùng để chỉ giấc ngủ của nguyên tổ A-đam vào lúc Đức Chúa lấy cái xương sườn của ông để dựng nên người đàn bà. Chuyện tích về giấc ngủ của nguyên tổ A-đam và giấc ngủ của tổ phụ Áp-ra-ham đều có chung một tác giả Gia-vít. Giấc ngũ huyền nhiệm nầy muốn nói rằng con người không xứng đáng được nhìn thấy công việc của Thiên Chúa. Trong tất cả văn chương tôn giáo, giấc ngủ hay cái chết muốn nói lên cuộc vượt qua từ cuộc sống này đến cuộc sống khác cao vời hơn. Tổ phụ Áp-ra-ham sắp trở thành người cùng phe với Thiên Chúa, người được ân nghĩa với Thiên Chúa. Đức Chúa cam kết với ông, và lời cam kết này được chuẩn nhận bởi một hy tế.
Vì chính Thiên Chúa có sáng kiến ký kết Giao Ước với ông Áp-ra-ham, nên chỉ mình Thiên Chúa, dưới hình ngọn lửa, đi băng qua giữa những tế vật: “Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, thì bổng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật bị xẻ đôi”. Việc Thiên Chúa ký kết Giao Ước với ông Áp-ra-ham căn cứ trên đức tin của tổ phụ và có tính cách đơn phương về phía chỉ một Thiên Chúa. Giao Ước Xi-nai sẽ là Giao Ước được ký kết bởi đôi bên và căn cứ trên Lề Luật.
BÀI ĐỌC II (Pl 3: 17-4: 1)
Trước khi đề cập đến câu chuyện Biến Hình theo Tin Mừng Lu-ca, chúng ta đọc đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê, trong đó thánh nhân nói về cuộc thay hình đổi dạng của chính chúng ta. Khi nói về cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta, thánh nhân không trực tiếp dựa trên sự kiện Biến Hình của Chúa Ki-tô, nhưng trên cái lô-gíc của biến cố Phục Sinh. Quả thật, thánh Phao-lô trước tiên là nhà thần học về biến cố Phục sinh: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”.
Xin được nhắc lại rằng thánh Phao-lô thành lập Giáo Đoàn Phi-líp-phê, thuộc miền Ma-xê-đô-ni-a, vào những năm 49-50. Bức thư mà thánh nhân gởi cho cộng đoàn này xem ra được viết vào năm 56 hay 57, lúc đó, thánh nhân đang bị cầm tù, chắc chắn ở Ê-phê-xô.
1. Bắt chước thánh Phao-lô như thánh nhân bắt chước Đức Ki-tô:
Thánh Phao-lô đã sinh ra các tín hữu Phi-líp-phê trong đức tin; lòng nhiệt thành tông đồ của thánh nhân được sánh ví với nỗi bận lòng của một người cha mong muốn con cái noi gương mình mà sống phù hợp với giáo huấn của Đức Ki-tô: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em”. Thánh nhân liên kết những cộng tác viên của mình vào chung cùng mẫu gương mà thánh nhân đưa ra. Đây không là lần duy nhất thánh nhân diễn tả ước nguyện của mình (x. 1Cr 4: 16; 11: 1; 1Tx 1: 6; 2Tx 3: 7-9). Trong thư gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân xác định: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô” (1Cr 11: 1).
2. Hai con đường:
Thánh Phao-lô phác họa hai bức tranh tương phản: bức tranh thứ nhất nêu lên tất cả những người “chỉ nghĩ đến những sự thế gian” và bức tranh thứ hai nói về những công dân Nước Trời.
Ở đây, chúng ta nhận ra đề tài kinh điển về hai con đường như trong Thánh Vịnh 1, sách Đệ Nhị Luật (11: 26-28; 30: 15-20), sách Châm Ngôn (8: 32-36), cũng như sự đối lập giữa hai con đường thường được sử dụng trong các giáo huấn của các kinh sư. Chúa Giê-su lấy lại kiểu nói này trong dụ ngôn của Ngài về hai con đường: con đường thênh thang dẫn đến họa diệt vong, còn đường chật hẹp thì dẫn đến sự sống. Theo giáo huấn của thánh Phao-lô, con đường dẫn đến họa diệt vong là con đường mà những kẻ phóng đãng, những kẻ trụy lạc đi theo: “Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn”. Tuy nhiên, qua những từ ngữ này, chúng ta không thể loại trừ rằng thánh Phao-lô nhắm đến những Ki-tô hữu gốc Do thái vẫn duy trì quá mức những kiêng cử đồ ăn thức uống theo luật Mô-sê; còn trầm trọng hơn nữa, họ vẫn cứ đòi buộc những người Ki-tô hữu gốc lương dân phải chịu phép cắt bì. Quả thật, kiểu nói: “cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn” gợi lên điều này, bởi vì thánh nhân vừa mới bàn đến những kẻ cắt bì giả mạo và những người cắt bì đích thật, tức là những người thờ phượng Thiên Chúa nhờ Thần Khí của Người, những người hiên ngang hãnh diện vì Đức Giê-su Ki-tô, chứ không cậy vào tính xác thịt (Pl 3: 2-3).
3. Trời và Đất:
Dù thế nào, thánh Phao-lô đối lập những công dân Nước Trời với những người mà Chúa của họ là cái bụng. Dường như thánh nhân đã chọn kiểu nói này khi quy chiếu đến thể chế chính trị đặc thù của thành phố Phi-líp-phê. Thành phố này là thuộc địa của Rô-ma, dân cư có “quyền công dân”; vì thế họ là công dân Rô-ma. Thánh nhân nói cho họ biết rằng quê hương đích thật của người Ki-tô hữu là Nước Trời.
Chính ở nơi tước vị công dân Nước Trời này mà chúng ta mong đợi cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta”. Thánh Phao-lô dùng cùng những ngôn từ như khi thánh nhân nói về Đức Ki-tô trong bài thánh thi ở đầu thư gởi tín hữu Phi-líp-phê này. Như vậy, sau khi tự hạ mình và chịu chết, Đức Ki-tô được tôn vinh để đảm bảo cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta.
TIN MỪNG (Lc 9: 28-36)
Câu chuyện Biến Hình được cả ba sách Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại. Mỗi năm trong ba năm phụng vụ trình bày một trong ba bài trình thuật này vào Chúa Nhật II Mùa Chay. Vào Phụng Vụ Năm C này, chúng ta đọc bài trình thuật theo thánh Lu-ca.
Xét về cơ bản, cả ba bài trình thuật khá giống nhau. Tuy nhiên, chính những sắc thái của mỗi bài trình thuật làm cho chúng khác nhau. Thánh Lu-ca đem đến những xác định riêng của mình.
Trước tiên, thánh Lu-ca gợi lên khoa thần học về vinh quang được liên kết với viễn cảnh của cuộc Tử Nạn và Phục Sinh; nhờ sắc thái này, bài trình thuật của thánh ký mang một âm hưởng của Tin Mừng Gioan. Người ta đã nghĩ rằng nguồn thông tin của thánh ký đã có thể là thánh Gioan, một trong ba nhân chứng trực tiếp của biến cố Biến Hình này.
Thứ nữa, như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca định vị biến cố Biến Hình chỉ vài ngày sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô và lời loan báo đầu tiên của Chúa Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Tuy nhiên, thánh Lu-ca đặt lời tuyên xưng của thánh Phê-rô ngay liền biến cố “hóa bánh ra nhiều” như thánh Gioan, chứ không sau này như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu.
Ngoài ra, thánh Lu-ca cũng khác biệt với hai Tin Mừng nhất lãm kia về một điểm có ý nghĩa khác, ngay trước bài trình thuật của mình về cuộc Biến Hình. Khi Chúa Giê-su loan báo cho các môn đệ của Ngài cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp tới của Ngài, Ngài liên kết lời loan báo của Ngài với hai thị kiến để làm yên lòng các môn đệ: thị kiến “Con Người từ cõi chết sống lại” và thị kiến “Con Người ngự đến trong vinh quang”. Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu viết: “Con Người ngự đến trong vinh quang của Cha Người” (Mc 8: 38; Mt 16: 27); còn thánh Lu-ca đính chính: “Người ngự đến trong vinh quang của mình và vinh quang của Chúa Cha” (Lc 9: 26). Theo thánh Lu-ca, vinh quang của chính Chúa Giê-su sẽ là một nét đặc trưng trong bức tranh về biến cố Biến Hình.
Biến cố này phải được khảo sát dưới hai khía cạnh: biến cố Biến Hình được sống bởi Chúa Giê-su và biến cố Biến Hình được sống bởi các nhân chứng.
1. Biến cố Biến Hình đối với Chúa Giê-su:
A- Chúa Giê-su cầu nguyện:
“Đức Giê-su lên núi cầu nguyện”. Địa danh của Núi không được nêu tên, có lẽ một ngọn đồi miền Ga-li-lê mà Đức Giê-su có thói quen rút lui một mình. Nhưng trong Kinh Thánh, núi được liên kết với mặc khải của Thiên Chúa. Vả lại, núi này sắp mặc lấy một dáng dấp núi Xi-nai trong vài giây phút. Hơn nữa, khi kể ra việc Chúa Giê-su lên núi cầu nguyện, thánh Lu-ca có chủ ý nhấn mạnh thái độ này của Đức Giê-su. Quả thật, chỉ một mình thánh ký kể ra việc Chúa Giê-su cầu nguyện vào giây phút này, cũng như chỉ một mình thánh ký đã chỉ ra việc Chúa Giê-su cầu nguyện khi Ngài chịu phép rửa của Gioan Tầy Giả. Trong cả hai trường hợp, “Trời” đã đáp trả bằng mặc khải hầu như giống nhau.
Trong khi Chúa Giê-su cầu nguyện, “dung mạo của Ngài bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa”. Thánh Lu-ca mô tả những thay đổi như vậy để tránh kiểu nói: “biến đổi hình dạng” được thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu sử dụng, bởi vì đối với thánh Lu-ca, kiểu nói: “biến đổi hình dạng” âm vang ngôn từ ngoại giáo. Như vậy, thánh ký định vị biến cố Biến Hình ở lòng cuộc sống nội tại của Chúa Giê-su, như một thực tại thần bí xuất phát từ chính Chúa Giê-su; Ngài không đón nhận biến cố này từ bên ngoài; vào lúc đó, nhân cách thực sự của Ngài được bày tỏ ra một cách tỏ tường.
B- Sự hiện diện của hai nhân chứng có thế giá: ông Mô-sê và ông Ê-li-a:
“Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a”. Rõ ràng, thánh ký ám chỉ luật Mô-sê, theo đó tính xác thực của một sự kiện chỉ được chấp nhận nếu ít nhất có hai nhân chứng (Đnl 19: 15). Cả hai nhân vật này: ông Mô-sê và ông Ê-li-a, đều đã gặp gỡ Thiên Chúa trên núi thánh; và cả hai, theo truyền thống, đều được đưa lên trời bên cạnh Thiên Chúa một cách mầu nhiệm: ông Ê-li-a được đưa lên trời trên một chiếc xe lửa, trước mắt của người môn đệ mình là ông Ê-li-sê (2V 11-12); còn ông Mô-sê, không ai đã thấy ngôi mộ của ông (Đnl 34: 5-6). Chắc chắn ông Mô-sê tiêu biểu Lề Luật, còn ông Ê-li-a đại diện trào lưu ngôn sứ, nhưng trên hết, không ai xứng đáng hơn hai nhân vật này làm chứng về Đấng Mê-si-a.
“Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển”. Đây là lời ghi chú riêng của thánh Lu-ca, ông Mô-sê và ông Ê-li-a được dự phần vào ánh vinh quang của Thiên Chúa. “Họ nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem”. Chỉ một mình thánh Lu-ca xác định điều này. Từ “xuất hành” gợi lên rằng Chúa Giê-su là Mô-sê mới, Đấng sắp giải phóng con người khỏi cảnh đời nô lệ và hướng dẫn dân Ít-ra-en Mới về vương quốc Thiên Chúa, qua cuộc Vượt Qua của Ngài từ Tử Nạn đến Phục Sinh.
Như vậy, biến cố Biến Hình nhằm củng cố niềm tin của chúng ta: hậu cảnh của cuộc quy tụ ở trên núi Biến Hình này là đồi Gôn-gô-tha và vinh quang sau này của Ngài. Vào lúc Chúa Giê-su khởi sự phần khó khăn nhất của sứ mạng Ngài, Ngài nhận được niềm an ủi đặc biệt. Chúa Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp đi qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã sở hữu trước khi nhập thể, và vào lúc này Ngài lấy lại một thoáng ánh vinh quang này. Biến cố Biến Hình là sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng bậc nhất mà Chúa Giê-su đã đón nhận trong suốt sứ vụ của Ngài, ít ra trong chừng mực mà chúng ta có thể biết.
2. Biến cố Biến Hình đối với ba môn đệ:
A- Họ sẽ là những nhân chứng:
Đức Giê-su “đem theo các ông Phê-rô, Gioan và Gia-cô-bê”. Đây cũng là ba vị Tông Đồ mà Chúa Giê-su cũng đã chọn làm nhân chứng về cuộc phục sinh bé gái của viên trưởng hội đường, ngỏ hầu họ hiểu một cách chính xác mối liên hệ giữa Biến Hình và Phục Sinh. Cũng chính ba người môn đệ này mà Chúa Giê-su sẽ đem theo riêng với Ngài vào vườn Ô-liu ở đó họ sẽ là nhân chứng về cơn hấp hối của Ngài.
B- Giấc ngủ của ba môn đệ:
Trong khi Chúa Giê-su cầu nguyện, các môn đệ “ngủ mê mệt”. Sự kiện chính xác sẽ được tái diễn ở vườn Ô-liu ở đó cũng chính ba môn đệ này ngủ mê mệt. Chắc chắn là giấc ngủ tự nhiên, trừ phi là một trong trong những giấc ngủ đánh dấu khoảng cách giữa con người và mầu nhiệm Thiên Chúa, như giấc ngủ của tổ phụ Áp-ra-ham trong Bài Đọc I, hay giấc ngủ của ông A-đam trong sách Sáng Thế.
“Khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Chúa Giê-su và hai nhân vật đứng bên Người”. Việc kể ra vinh quang của Chúa Giê-su ở trung tâm bài trình thuật của Lu-ca khiến người ta nghĩ đến Tựa Ngôn của Gioan: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14). Sau này, thánh Phê-rô và các bạn đồng môn của ông sẽ phải đảm nhận một công việc khó khăn là rao giảng một Đức Ki-tô bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp, vào giây phút này lại chiêm ngưỡng cũng một Đức Giê-su vinh quang giữa hai nhân vật nổi danh của lịch sử Ít-ra-en. Núi Biến Hình là phản đề của đồi Gôn-gô-tha.
C- Cuộc Thần Hiển:
Thánh Phê-rô, bốc đồng và nhiệt thành, muốn thời gian dừng lại, cố định thị kiến này mãi mãi. Thánh nhân đề nghị dựng ba cái lều, một cho Đức Giê-su, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a; thánh nhân không nghĩ đến mình, cũng như các bạn đồng môn của mình. Nhưng “ông không biết mình đang nói gì” vì biến cố vượt quá khả năng hiểu biết của thánh nhân.
“Ông còn đang nói, thì bổng có một đám mây bao phủ các ông”, như quyền năng của Chúa Thánh Thần đã bao phủ Đức Ma-ri-a, và như Đám Mây trong Cựu Ước biết bao lần vừa bày tỏ vừa che phủ sự hiện diện của Thiên Chúa, đó cũng là đám mây trên đó Con Người sẽ ngự xuống vào ngày cánh chung…
“Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ”. Đám mây này bao phủ các ông, như vậy hiệp nhất các ông với Đức Giê-su và liên kết các ông với mầu nhiệm của Ngài, vào trong bí mật của một mặc khải mà các ông sẽ không dám thuật lại cho bất kỳ ai về những điều mình đã chứng kiến.
Một tiếng nói vang lên ngỏ lời với các ông công bố Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, Đấng mà Chúa Cha đã chọn, như vào lúc Chúa Giê-su chịu phép rửa, nhưng thêm vào một mệnh lệnh khẩn thiết: “Hãy vâng nghe lời Người”. Mệnh lệnh này chắc chắn ám chỉ đến kinh “Shema Israen”, kinh bắt đầu với “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en”. Thánh Phê-rô và các bạn đồng môn đại diện dân Ít-ra-en mới.
“Hãy vâng nghe lời Người!”: mọi điều Thiên Chúa muốn nói cho nhân loại Ngài đã nói qua Đức Ki-tô, thời gian viên mãn đã đến (x. Dt 1: 1). Thánh Gioan Thánh Giá giải thích: “Hãy chăm chú nhìn vào một mình Ngài, vì ở nơi Ngài Ta đã nói và mặc khải cho con mọi điều, và ở nơi Ngài con sẽ gặp thấy thậm chí nhiều hơn điều con xin và ước muốn… Hãy lắng nghe Ngài, vì Ta không có thêm niềm tin để mặc khải, cũng không có thêm những điều gì để tuyên bố” (Ascent o f Mount Carmel, book 2, chap. 22, 5).
3. Bài học của biến cố Biến Hình:
Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su củng cố đức tin của các môn đệ Ngài bằng cách mặc khải thân thể vinh quang của Ngài sau khi Ngài sống lại. Ngài muốn họ nhận ra rằng cuộc Tử Nạn của Ngài sẽ không là dấu chấm hết, nhưng đúng hơn con đường Ngài phải đi qua để đạt đến vinh quang của Ngài. “Đối với một người đi liền một mạch trên đường, người ấy phải có một sự hiểu biết nào đó về cùng đích – giống như một cung thủ sẽ không bắn liền ngay mũi tên trừ khi trước hết người ấy thấy mục tiêu… Điều này đặc biệt cần thiết nếu con đường thì cam go hay gập ghềnh, cuộc ra đi nặng nhọc, thì cùng đích lại thú vị” (St Thomas Aquinas, Summa theologiae, III, q. 45, a. 1).
Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su vén mở một trong những phẩm chất của thân thể được tôn vinh, thân thể của các thánh sẽ rạng ngời vinh hiển như lời của Chúa Giê-su được ghi lại trong Tin Mừng Mát-thêu: “Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ” (Mt 13: 43). Về phẩm chất thân xác được tôn vinh này, thánh Phao-lô khi thì gọi vinh quang: “Gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang” (1Cr 15: 43), khi khác thì gọi vinh hiển: “Người có quyền năng… mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 21). Về vinh quang này, dân Ít-ra-en đã chiêm ngắm một hình bóng nào đó trong sa mạc, khi gương mặt của ông Mô-sê, sau cuộc gặp gỡ và trò chuyện với Thiên Chúa trên núi Xi-nai, đã chói sáng rạng rỡ đến mức họ không thể nhìn vào gương mặt của ông (Xh 34: 29; 2Cr 3: 7). Tất cả mọi thân thể của các thánh sẽ không bị hư nát, nhưng dự phần vào hạnh phúc trọn vẹn bên cạnh Thiên Chúa.
7. Tin là tín thác vào Chúa
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Bài đọc 1 nghe kể lại câu chuyện việc Thiên Chúa lập giao ước với tổ phụ Abraham vì ông tin Chúa. Qủa thế, tổ phụ Abraham đã tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa, tin vào lời Ngài hứa và tương lai mà Thiên Chúa hoạch định ra cho ông, ngay khi mà ông chưa có được gì cả. Chính thái độ tín thác hoàn toàn này khiến Abraham thành mẫu gương và là cha của những người có lòng tin thuộc mọi thời đại. Tin như tổ phụ Abraham nghĩa là tín thác bước đi theo chương trình Thiên Chúa đề nghị với chúng ta. Một chương trình bí nhiệm khác với những gì chúng ta tưởng nghĩ và mong ước. Tin có nghĩa là sẵn sàng ra khỏi môi trường sống đảm bảo, ra khỏi những thói quen, kiểu cách sống qui ước của loài người để đưa ra tay ra nắm chặt lấy bàn tay của Chúa để cho Ngài hướng dẫn và bước đi theo Ngài, chỉ cậy dựa vào và tín thác vào Thiên Chúa và Lời Thiên Chúa.
Cho nên, bài Tin Mừng thuật lại việc Chúa Giêsu biến hình có ông Mô-sê và ông Ê-li-a. Tại sao không phải là tổ phụ Abraham hay Gia-cóp mà là ông Mô-sê và Ê-li-a, bởi vì hai ông là hai gương mặt diễn tả tất cả Thánh Kinh, diễn tả tất cả Lời Chúa mà tín hữu cần phải biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa chỉ dạy mỗi ngày. Qua biến cố biến hình, Thiên Chúa không chỉ mời gọi chúng ta biết lắng nghe và sống Lời Ngài là Tin Mừng của Chúa Giêsu, mà còn mời gọi chúng ta bước vào cuộc sống giao ước mà chúng ta ký kết với Ngài trong sự phó thác và tin tưởng khi nhận lãnh Bí tích Rửa Tội.
Vì vậy, đối với Kitô Giáo, tôi theo Đạo không chỉ là tin Chúa và Lời Chúa mà theo Đạo là tôi bước vào một giao ước với Thiên Chúa, có nghĩa là tôi bước vào đời sống đức tin với Chúa trong yêu thương, tín thác và sẵn sàng thi hành Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Như vậy, người có Đạo Công giáo là người có đức tin sống động giữa ta với Thiên Chúa, gọi là sống Đạo. Qủa thế, đức tin dẫn chúng ta vào giao ước với Thiên Chúa. Giống như cuộc sống hôn nhân đòi hỏi quan trọng của giao ước là trung tín. Ví dụ, một anh thanh niên có thể có 5-7 cô bồ nhưng khi thành hôn với một cô nào đó thì phải giữ lời cam kết giao ước là trung tín đến cùng: “Anh sẽ giữ lòng trung tín với em khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe…”. Đời sống với Thiên Chúa cũng vậy, chúng ta được mời gọi trung tín với Thiên Chúa và tín thác vào lòng thương xót Chúa trong lúc bình an cũng như trong đêm tối của cuộc sống đức tin.
Chúng ta đang trong Tháng Kính Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Mẹ Maria, Tin Mừng kể chúng ta thấy cuộc đời Ngài cũng lắm thách đố và đau khổ. Chẳng hạn, chàng trai cưới vợ nhưng chưa chung sống thì vợ mình đã có thai, Giuse phải đau khổ lắm! Thế nhưng, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho Ngài biết “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20); rồi Thiên Thần khuyên Giuse “rước Maria về nhà mình” (Mt 1,20). Nhận ra thánh ý Thiên Chúa “Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về” (Mt 1,24) trong khi bị người đời chê trách, vì có ai biết đó là ý Chúa đâu? Rồi, Đức Mẹ sinh Chúa khó khăn cực khổ tại Bêlem, thì Chúa lại bảo ông chỗi dậy đi ngay giữa đêm khuya, không hành trang, không tiền bạc sang Aicập sống kiếp lưu đày. Cuộc sống trước mắt của Thánh Giuse lúc ấy là lắm gian truân vất vả, nhưng thánh Giuse luôn tin và tín thác vào Chúa nên ngài đã vâng phục “Chỗi dậy, ông đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Aicập ngay giữa đêm khuya” (Mt 2,14). Rồi khi đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ quê người với một cơ ngơi bé nhỏ mà Giuse đã gầy dựng từ hai bàn tay trắng, Chúa lại bảo ông phải bỏ lại tất cả để ra đi, đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel” (Mt 2,21), thánh Giuse vâng lời thánh ý Chúa lên đường về lại quê hương. Rồi các môn đệ hôm nay trên núi Tabor, họ thấy vinh quang Chúa tỏ hiện như một ánh chớp. Sau đó vinh quang ấy tắt lịm rồi đến vườn cây Dầu nơi đó Thầy mình như một con người bình thường run rẩy sợ hãi đến nỗi toát mồ hôi máu. Rồi, Quan Philatô giới thiệu Chúa Giêsu cho toàn dân “Đây là người, các ngươi nhìn coi con người này có đáng là người không?” Bởi vì bị đánh bơi tờ cả đêm đau còn hình tượng người ta nữa. Tiếp sau đó là đồi Gôngôtha Thầy bị treo lơ lững trên không gian bị người ta sỉ vả, nguyền rủa.
Trong tăm tối của đức tin đó, Thánh Giuse, các môn đệ vẫn tín thác vào Chúa và theo Chúa đến cùng. Còn đời sống đức tin của chúng ta như thế nào? Chắc chắn đời sống đức tin của chúng ta cũng lắm lúc tăm tối: tăm tối đến từ chính bản thân, gia đình và xã hội. Lúc mới theo Đạo, chúng ta sốt sắng lắm nhưng 1,2,5-10 năm.. thì việc sống Đạo của chúng ta trở nên lạnh nhạt, Đức tin của chúng ta yếu dần, không còn hăng hái trong việc kinh lễ đều đặng nữa vì hoàn cảnh của cuộc sống: học hành, sự nghiệp, thành công, thất bại trong tình trường và thương trường, trong tu trì, sức khỏe, bệnh tật, nghèo quá, giàu quá… Thêm vào đó, văn hóa hưởng thụ, tệ nạn xã hội tràn lan, văn hóa vứt bỏ, văn hóa dững dưng vô cảm của xã hội làm chúng ta chẳng còn kính mến Chúa, tin Chúa và tín thác vào Chúa nữa! Và lại nữa, thời đại hôm nay giá trị Tin mừng: yêu thương, hiền lành, bao dung, thương xót, tha thứ… bị người ta đóng đinh vào thập giá, phủ nhận chúng. Lúc đó, liệu chúng ta có còn tin và tín thác vào Chúa? Chúng ta có còn gắn bó, tín thác với một Đấng trao ban cho tôi niềm hy vọng và sự tin tưởng? Chúng ta có ý thức được rằng chính Thiên Chúa đã tự tỏ lộ ra nơi Đức Kitô, đã cho thấy gương mặt thương xót của Người và thực sự Ngài đang sống, đồng hành với ta? Chúng ta có thầm tín rằng không phải ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người thương xót ta và luôn ban sự lành từ những sự tối tăm trong cuộc sống chúng ta như thánh Giuse và các tông đồ?
Thánh Phaolô trong bài đọc 2 nói rằng Thiên Chúa vẫn hằng nâng đỡ và “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21). Vì vậy, ước gì Mùa Chay Thánh này, xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết sống hết mình cho giao ước tình yêu với Chúa trong niềm tin yêu và tín thác vào Chúa, nhờ đó, chúng ta sẽ lớn mạnh trong đức tin, mạnh mẽ trong yêu thương và tín thác vững vàng đời mình cho Thiên Chúa như Thánh Giuse, các Tông đồ cho dẫu đời sống chúng ta có hạnh phúc, bình an hay khi gặp thử thách hay đau khổ vì “CHÚA là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? CHÚA là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa?” (Tv 27,1). Amen.
8. Biến hình và đổi đời – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Michel Ange và Raphael là hai kiến trúc sư thiên tài, còn là họa sĩ và điêu khắc gia nổi tiếng nhất thế giới, đã được Đức Giáo Hoàng Juliô II trao cho nhiệm vụ thiết kế xây cất và trang trí Đại Thánh đường Thánh Phêrô và địện Vatican ở Rôma.
Suy về đề tài Chúa Biến Hình, Raphael đã thực hiện một bức họa có 3 cấp: Cấp trên là Đức Giêsu đứng giữa cụm mây sáng láng, cấp giữa là Thánh Phêrô, Gioan và Giacôbê, cấp cuối là nhóm các môn đệ và dân chúng vây quanh một thiếu nhi bệnh họan đang nằm chờ chết bên cạnh có 2 môn đệ: một môn đệ đang chỉ tay lên Đức Giêsu, môn đệ kia đang chỉ tay vào bệnh nhân” (ĐGM. Althur Tone). Bức họa đã lột được hết ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay là chỉ có Đức Giêsu mới biến đổi những kẻ bệnh hoạn nên lành thánh. Tin Mừng hôm nay đã giới thiệu Đức Giêsu lên núi cầu nguyện, đang lúc Người cầu nguyện dung nhan Người bỗng biến đổi sáng láng, chói lòa trong vinh quang. Người cầu nguyện để biến đổi ý mình trọn vẹn theo Thánh ý Chúa Cha, Người cầu nguyện cho cuộc tử nạn của Người sẽ phải hoàn tất tốt đẹp tại Giêrusalem và biến cuộc sống ta nên vinh hiển. Người cầu nguyện cho ánh sáng tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần soi sáng cho khắp nhân loại, từ Adam Eva đến Abraham, Maisen, Êlia, từ Phêrô, Gioan, Giacôbê đến những người đang đứng chờ dưới chân núi được sống lại trong vinh quang nước Chúa. Người cầu nguyện nhất là cho các môn đệ và chúng ta biến thành đồng dạng với Con Chúa Cha và biết vâng lời Người: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”.
Phải vâng lời Người để “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta, nên giống thân thể vinh hiển của Người”.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến sự biến đổi con người chúng ta nên giống con người của Đức Giêsu Kitô nhờ vâng lời Thiên Chúa.
Bài I: Abraham đã được Chúa biến đổi từ dòng dõi con cháu thành U của tà thần, nên tổ phụ công chính của một dòng dõi đông đảo sáng láng như các vì sao trên trời. Nhưng ông phải biết nhận Thiên Chúa là Đức Chúa của ông, phải biết vâng lời Chúa từ bỏ Candê tới đất Chúa chỉ định. Ở đó ông dâng lễ tạ ơn Chúa và đón nhận giao ước của Ngài, nhờ đó Abraham đã đổi đời: từ kẻ thờ tà thần nên tổ phụ dòng dõi thờ Thiên Chúa.
Bài II: Thánh Phaolô bảo dân Philiphê hãy noi gương đổi đời của ông. Ông đã đổi đời từ kẻ hung ác bắt bớ hành hung các tín hữu của Đức Giêsu trở thành tông đồ hăng hái nhiệt tình nhất rao giảng Đức Giêsu. Nhưng còn nhiều kẻ chưa đổi đời như ông, họ vẫn còn thờ cái bụng, thờ cái ô nhục của thế gian. Thánh Phaolô đã thương khóc họ, vì họ sẽ phải hư vong. Ông cầu nguyện cho họ nhận ra quê hương thật ở trên trời để họ mong đợi Đức Giêsu Kitô đến biến đổi họ nên giống Người, sống kết hợp khăng khít vững vàng với Người. Đó là niềm vui và vinh dự thực sự của họ và của Phaolô.
Bài Tin Mừng cho ta thấy rõ sự biến đổi của Đức Giêsu Kitô: từ xác phàm loài người, Đức Giêsu đã biến đổi sang thân xác vinh quang chói lọi. Maisen và Êlia cũng được biến đổi nên sáng láng rực rỡ khi đến gặp gỡ Đức Giêsu.
Maisen từ một thanh niên hèn nhát chạy trốn đã biến đổi thành một vị lãnh đạo vĩ đại của dân Israel, nhờ Thiên Chúa đã kêu gọi ông, dạy bảo ông phải về thương lượng với vua Pharaon để giải phóng dân đang làm nô lệ nhà vua, được trở về đất hứa. Maisen đã nghe lời Thiên Chúa đến gặp nhà vua, ông không còn khiếp sợ vua nữa. Trái lại vua và cả dân Ai Cập khiếp sợ Maisen và thúc giục Maisen mau mau dẫn dân Israel ra khỏi Ai Cập. Nhờ Maisen vâng lời Thiên Chúa, Pharaon đã đổi lòng và cả dân tộc Israel nô lệ được đổi đời làm dân Thiên Chúa.
Êlia cũng biết nghe lời Chúa, đến giáp mặt vua Akhab và hoàng hậu Israel đang lùng bắt ông. Thiên Chúa bảo Êlia bỏ lối sống ẩn nấp giữa khe suối rừng hoang, ông đã vâng lời Chúa đến gặp Akhab. Thoạt thấy ông, Akhab nói: “Đây chính là kẻ giáng họa cho Israel”. Êlia đáp: “Không phải tôi, nhưng là chính ông giáng họa, vì ông đã bỏ lệnh truyền của Thiên Chúa, bây giờ ông hãy triệu tập dân chúng cùng 450 sư sãi thần Baal và 400 kẻ ăn nơi bàn Esabel tại núi Karmel”. Khi dân chúng đến, Êlia nói: “Cho đến bao giờ nữa, các ngươi còn khập khễnh đi hai giò? Nếu Giavê là Thiên Chúa, thì hãy theo Người; nếu là Baal thì hãy theo đi”. Rồi hai bên lập bàn thờ để chứng tỏ đâu là Thiên Chúa thật, 450 sư sãi đặt con bò trên đống củi và khấn thần Baal đem lửa đến thiêu của lễ, họ kêu suốt ngày vô ích. Còn Êlia bảo dân lấy nước đổ đẫm của lễ và đống củi, rồi ông cầu nguyện: “Lạy Giavê xin nhận lời tôi, khiến dân này nhận biết chính Người là Thiên Chúa thật, xin giáng lửa xuống thiêu của lễ với củi và cả đá bụi nữa”. Thấy thế, toàn dân sấp mặt xuống và nói: Giavê chính là Thiên Chúa. Họ đã từ bỏ Baal, đổi đời trở về tôn thờ Thiên Chúa. Nhờ đâu Abraham, Maisen, Êlia, Phaolô và dân Isarel được biến đổi như thế. Tin Mừng trả lời: Họ đã vâng lời Người.
Tất cả những ai muốn biến đổi sáng láng, muốn như Phêrô khao khát được ở trên núi vinh quang rực rỡ thì: “Hãy vâng nghe lời Người”. Mùa Chay chính là thời thuận tiện để chúng ta tập luyện vâng nghe lời Chúa dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng như Gioan, Phaolô và Giacôbê.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biến đổi xác phàm ra xác thánh, đau khổ ra vinh quang, chết ra sống lại vinh hiển vì Người đã vâng lời Đức Chúa Cha. Xin cho con biết vâng lời Người biến đổi con người tội lỗi ra người thánh, đau khổ thành hy sinh, chúng con mới được Chúa cho đổi đời trong ánh sáng Phục sinh của Chúa.
9. Cùng bước theo Đức Giêsu
Chúng ta đang bước vào Mùa Chay, Chúa nhật thứ II. Mùa Chay thánh bắt đầu với ngày Thứ Tư lễ Tro. Trong mùa Chay, Giáo Hội muốn chúng ta trở về với Chúa, nhận ra tình yêu và ân sủng Thiên chúa ban cho để chúng ta can đảm và mạnh dạn chạy đến nương náu lòng thương xót của Thiên Chúa. Nhờ đó, tâm hồn chúng ta bình an và đời sống chúng ta đi trên đường thánh ý Chúa, yêu mến Chúa và yêu thương mọi người.
Con người luôn khát vọng biết về cùng đích của mình. Biết về cùng đích để chúng ta phân định cuộc sống và đưa ra đường lối sống thích hợp cho cùng đích ấy. Mạc khải cho chúng ta biết, chúng ta có quê hương thật là Nước Trời, nơi đó có Thiên Chúa và những người lành hiện hữu. Đó còn là nơi mà chính Con Một Thiên Chúa đã phục sinh, đi vào và mở lối cho chúng ta đi vào. Đó là nơi cùng đích của con người, là nơi con người được mời gọi “tiến vào”. Tuy nhiên để tiến vào hưởng hạnh phúc đời đời trong vinh quang của Nước ấy thì trong cuộc sống thế trần này, mỗi người chúng ta phải can đảm chiến đấu với những thử thách trong thế gian, phải chạy cho hết quãng đường trần gian và giữ vững đức tin.
Khi còn sống tại thế, Đức Giêsu đã loan báo con đường khổ nạn và phục sinh. Ngài cho thấy con người chúng ta phải trải qua gian khổ như Ngài rồi mới tiến vào cuộc phục sinh. Sau khi tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất (Mt 16, 21; Mc 8, 31; Lc 9, 22) Đức Giêsu biến hình để cho ba tông đồ Phêrô, Giacôbê, Gioan thấy vinh quang phục sinh mà Ngài sẽ đạt được. Vì thế, chúng ta khám phá được một sự thật, Mùa Chay không phải là khoảng thời gian chúng ta phải đối đầu với những cám dỗ, hay cũng không phải là khoảng thời gian để chúng ta phải tự buộc mình chịu đựng những sự đau khổ mà không tìm cách tránh né. Mùa Chay đầu tiên là một sự mạc khải về thân phận, về định mệnh, trong tiến trình tự nhiên của con người, và những kinh nghiệm phải có từ ý chí bề ngoài của cuộc sống. Một trong những kinh nghiệm đó chúng ta có được về việc biến hình của Đức Giêsu, trong bài Phúc Âm theo thánh Luca hôm nay.
Thánh Luca diễn tả, đang khi cầu nguyện, diện mạo của Đức Giêsu biến đổi khác thường, diện mạo chói loà hào quang ánh sáng. Nhưng Ngài vẫn là Ngài. Ngài vẫn là Chúa Giêsu, Con của Thiên Chúa. Một quang cảnh huy hoàng của cuộc đàm đạo giữa Đức Giêsu với Môisê và Êlia, đến nỗi khi được chiêm ngắm, các môn đệ đã phải thốt lên: “Lạy Thầy, nếu chúng tôi được ở đây thì tốt lắm. Chúng tôi xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Êlia” (Lc 9, 33). Họ muốn ở lại nơi họ đã được chứng kiến. Một Thầy trong vinh quang và ân sủng.
Như chúng ta biết, Môisê và Êlia là hai tiên tri Cựu ước, Môisê là người đã được Chúa tuyển chọn để đưa dân Ngài ra khỏi ách nô lệ của nước Ai Cập. Êlia là tiên tri đã được kêu gọi để làm cố vấn cho giao ước, dân Do Thái muốn chối từ những ơn Chúa. Khi đề cập đến biến cố này, các thánh sử nói rằng: ông Môsê và ông Êlia đàm đạo với Đức Giêsu (Lc 9, 33). Đức Giêsu sẽ thực hiện cái chết tại Giêrusalem. Một cái chết không phải là dấu hiệu kết thúc của công trình cứu chuộc, nhưng là một cái chết mở lối cho sự sống lại trong vinh quang trong nước Ngài. Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, sự chết, sự sống lại và lên trời của Đức Giêsu là một, nó được thể hiện cùng một lúc trong biến cố biến hình này. Sự chết trong thân xác hay chết của nhân tính của Đức Giêsu là một sự chuẩn bị cho sự vinh quang vĩnh cửu của một đời sống khác trong thiên tính của Đức Giêsu.
Nhờ Phúc âm hôm nay, chúng ta cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng kiến việc Đức Giêsu biến hình. Từ đó, chúng ta gia nhập vào việc khổ nạn và cuộc Phục sinh của Chúa trong những ngày sắp tới. Chúng ta ý thức rằng sự Chết và Phục Sinh, thập giá và vinh quang là hai mặt của cùng một thực tại cứu độ không thể tách rời nhau. Vinh quang mà không có khổ nạn chỉ là vinh quang của thế tục, sẽ nhạt nhòa theo năm tháng; ngược lại, khổ nạn mà không có vinh quang thì vô nghĩa và là một thất bại hoàn toàn. Do đó, sống tinh thần Mùa Chay có nghĩa là gắn bó chặt chẽ với cái Chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô: chết đi cho con người cũ và tội lỗi, chết đi thói hư tật xấu, chết đi cho con người đối nghịch với Thập giá để cùng sống lại với Đức Kitô, Đấng có thể “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Bài đọc 2). Chắc hẳn, đây chính là một quá trình đầy gian khổ nhưng cũng tràn ngập vinh quang. Có trải qua gian khó, khổ cực thì mới mong có ngày đạt vinh quang. Để có thể trung thành bước theo con đường Đức Giêsu đã sống và đã vạch ra, người Kitô hữu không thể coi nhẹ hay dửng dưng với tâm tình cầu nguyện. Chính trong giây phút cầu nguyện, chìm sâu trong cuộc gặp gỡ ân tình với Chúa Cha, Đức Giêsu đã đón nhận kế hoạch cứu độ của Cha như lẽ sống của đời mình, đây cũng là lúc Ngài biến hình vinh quang, được tỏ lộ khi Ngài chấp nhận cái chết như một phương thế tuyệt hảo để tỏ lòng vâng phục Cha và yêu thương nhân loại đến nỗi hiến dâng chính mạng sống mình. Vì thế, trong cuộc sống còn lắm vất vả và không hề thiếu vắng những cạm bẫy thử thách, chỉ có sự chuyên cần cầu nguyện, gặp gỡ Thiên Chúa và nhờ sức mạnh ơn Chúa đỡ nâng, chúng ta mới mong an tâm, không hoang mang sợ hãi nhưng chủ động và mau mắn chu toàn trách nhiệm phải thi hành. Vì thế, quê hương vĩnh cửu khởi đi ngay từ mặt đất nay, ngay hôm nay, trong chính từ cuộc sống này đòi buộc chúng ta phải xây dựng và làm cho phát triển mỗi ngày. Như thế, chúng ta hãy đi theo Đức Giêsu trên con đường khiêm tốn phục vụ anh em và can đảm kiên vững bước theo Chúa trên các nẻo đường đau thương và tử nạn thập giá với Ngài, với niềm xác tín rằng Đức Kitô Phục Sinh sẽ chia sẻ vinh quang cho các tín hữu trung thành.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con can đảm bước theo Chúa đến cùng, trên đường gian khổ của Thập giá và cũng được tham dự vào vinh quang phục sinh với Ngài. Amen.
10. Biến hình
Mùa Chay không phải chỉ là thời gian sám hối ăn năn mà còn là thời gian nhận biết bản tính và vận mạng đích thực của chúng ta ở bên kia những sự vật hữu hình, đó chính là ý nghĩa của việc Chúa biến hình hôm nay.
Thực vậy, Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi, trong lúc Ngài biến hình thì các ông có lẽ đang ngủ và câu chuyện hình như xảy ra vào ban đêm. Đêm thường là biểu tượng của sự tối tăm khiến chúng ta không còn nhận ra cách trực tiếp những thực tại siêu nhiên.
Rồi Ngài nói chuyện với Maisen và Elia. Sự hiện diện của hai vị này cũng như câu chuyện trao đổi liên kết một cách mầu nhiệm trong thân phận con người và vinh quang của cuộc đời mai hậu. Điều này chứng tỏ rằng giữa những đau khổ ở đời này, con người sẽ được sống lại và được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.
Sau đó tầng trời mở ra và có tiếng nói: Này là con Ta. Cảnh tượng giống như lúc Ngài chịu phép rửa bên bờ sông Giođan. Vì thế, Chúa Giêsu chịu phép rửa cũng là Chúa Giêsu biến hình. Ngài là người đầy tớ thực hiện ý định của Chúa Cha, cho nên chúng ta phải tin tưởng, lắng nghe và thực thi những điều Ngài truyền dạy.
Sự kiện biến hình trên đây cho chúng ta thấy được ý nghĩa đích thực của con người là phải qua đau khổ và sự chết để được thông phần vinh quang của Thiên Chúa. Đồng thời nó còn là bảo chứng thần linh của con người và sứ mạng của Đức Kitô, thắp lên cho mỗi người chúng ta niềm hy vọng, bởi vì sự kiện trên cho chúng ta thấy được ý nghĩa của mầu nhiệm sự chết và sống lại, cả hai liên kết mật thiết với nhau, vì trong sự chết, chúng ta sẽ tiến tới quê trời, cái chết chính là khung cửa hẹp dẫn chúng ta vào quê hương vĩnh cửu.
Lúc bấy giờ thân xác khổ đau của chúng ta sẽ được mặc lấy vinh quang của Thiên Chúa, như một con sâu cắn chiếc kén để trở thành một cánh bướm xinh đẹp. Sự thay đổi này được thực hiện nhờ vào tâm tình sám hối. Với tâm tình sám hối, thân xác tội lỗi này sẽ được chế ngự và đổi mới bởi đời sống trong ơn sủng và tình thương của Chúa.
Vì vậy, sống sự biến hình là một đòi hỏi hằng ngày của người Kitô hữu. Nói cách khác, từng ngày sống, người Kitô hữu chúng ta không ngừng lột xác, không ngừng đổi mới để được trở nên giống Đức Kitô hơn. Đây cũng là ý tưởng câu thánh Phaolô, ngài nói: Đức Kitô sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của chúng ta cho nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh quang của Ngài. Đồng thời ngài rất đau buồn khi nhận thấy có những kẻ sống thù nghịch với thập giá. Hãy góp phần vào sự biến hình của chính thân xác mình bằng cách khử trừ tội lỗi, uốn nắn sửa đổi lại những thói hư tật xấu, để trong ngày sau hết chúng ta sẽ được mặc lấy ánh vinh quang của Thiên Chúa.
11. Theo Chúa đến núi Tabor – Nguyễn Hiếu
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Biến hình đổi dạng
Trong cuốn phim “Mặt nạ,” có chuyện cậu Rocky Dentris. Cậu mắc chứng bệnh khác thường. Do đó gương mặt cậu trông thật kinh dị lạ thường, không giống ai. Dù vậy, Rocky vẫn bằng lòng chấp nhận, không bao giờ tủi thân than oán.
Ngày nọ, Rocky đi công viên chơi với bạn. Họ vào nhà kính (nhà có bọc kính xung quanh). Họ nhìn vào kính và cười đùa chế giễu nhau về thân hình và gương mặt của nhau. Bỗng Rocky giật mình trông thấy trong kính gương mặt kỳ dị của cậu đã biến đổi thành một gương mặt đẹp đẽ lạ thường. Đây là lần đầu tiên các bạn của cậu mới thấy con người thực sự xinh đẹp bên trong của cậu được bộc lộ ra bên ngoài.
Câu chuyện đó cũng đã xảy ra cho Chúa Giê-su trong Tin Mừng hôm nay. Lần đầu tiên các tông đồ trông thấy Chúa hoàn toàn mới mẻ, sáng láng đẹp đẽ lạ thường, khiến thánh Phê-rô phấn khởi thốt lên: “Thưa Thầy, chúng con ở đây hay quá!…”
Tại sao cuộc biến hình sáng láng vinh hiển của Chúa Giê-su lại được chọn làm bài Tin Mừng trong Mùa Chay, là mùa buồn sầu ảm đạm, mùa của sám hối, chay tịnh, mà không được xếp vào bài Tin Mừng của mùa Phục Sinh, mùa mừng Chúa sống lại vinh hiển sáng láng?
Có hai lý do:
Trước hết, Chúa giúp cho các tông đồ nhận biết giá trị của mầu nhiệm từ thập giá của Người, vì các ông không hiểu, cũng chẳng chấp nhận. Chúa có chết đau khổ mới sống lại vinh quang. Có thập giá mới có ơn cứu rỗi.
Kế đến, Giáo hội chọn đọc bài Tin mừng về cuộc biến hình của Chúa Giêsu trong mùa chay, để cho chúng ta thấy rõ mối dây liên kết chặt chẽ giữa cuộc biến hình với cơn hấp hối của Chúa. Người chịu hấp hối, tâm hồn buồn rầu đến chết được” (Mt.26,38) trong vườn Cây Dầu để được biến hình sáng láng vinh hiển trên núi Ta-bor. Có hấp hối đau khổ mới có ngày biến hình đổi dạng vinh quang. Đó là bài học Chúa muốn dạy các Kitô hữu của Chúa thực hành hằng ngày, đặc biệt trong mùa Chay. Có “bỏ mình vác thánh giá hằng ngày” mới xứng đáng làm môn đệ, làm con yêu dấu và đồng thừa tự với Chúa Giêsu (Theo “Sunday Homilies”).
2. Thập giá Chúa Kitô
Ở Hoa Kỳ, một trong những phi trường quốc tế lớn nhất và đầy đủ tiện nghi nhất là phi trường Pensylvania. Gần phi trường này có một ngôi thánh đường đồ sộ cao vút, nhất là có cái tháp chuông chọc trời, khiến cho mọi người sợ nguy hiểm cho máy bay mỗi khi bay lên đáp xuống. Để giúp mọi người thoát khỏi nỗi lo sợ đó, giáo dân trong xứ đã gắn trên ngọn tháp chuông một ngọn đèn ne-on thật to theo hình thánh giá. Từ đó, mỗi lần bay lên đáp xuống phi đạo, các phi công đều nhắm vào Thánh giá đó như một tiêu chuẩn bảo đảm an toàn chắc chắn…
***
Thập giá Chúa Kitô đã trở thành dấu chỉ của an toàn, của giải thoát, của hy vọng, và của sự sống cho con người. Ai muốn khỏi chết, phải nhìn lên thập giá. Ai muốn được sống, phải nhờ thập giá. Ai muốn được cứu rỗi, phải vác thập giá hằng ngày. Đó là những cuộc biến hình cao quý và cần thiết của mỗi người. (Theo “Như lòng Chúa khoan dung”).
3. Cởi bỏ con người cũ
Thời lập quốc, Hoa Kỳ có ra một đạo luật: ai bị bắt quả tang trộm cắp, phải bị hình phạt khắc hai chữ S.T lên trán, để răn dạy mọi công dân. Ngày nọ có hai anh em bị bắt quả tang ăn trộm cừu. Cả hai bị xử phạt khắc hai chữ S.T. lên trán, có nghĩ đây là kẻ ăn trộm.
Một trong hai người anh em đó không chịu nỗi sỉ nhục nên trốn sang vùng đất khác. Nhưng anh không thể xóa đi hai chữ khắc trên trán. Ai nhìn thấy anh cũng tra hỏi ý nghĩa của hai chữ đó. Nhục nhã quá, anh không sống nổi nữa. Anh đã kết liễu cuộc đời mình!…
Ngược lại, người em của anh tự nhủ:
– Dù đi đâu, tôi cũng mang danh là kẻ trộm xấu xa. Tôi vẫn ở lại đây, cương quyết tái tạo lại niềm tin cho mọi người…
Với quyết tâm đó, ngày ngày anh cố gắng sống công bình chính trực, cặm cụi làm ăn sinh sống, không nhờ vả ai cũng chẳng làm thiệt hại ai, mà còn sẵn sàng giúp đỡ mọi người, nhất là những người bệnh hoạn cùng khổ chung quanh.
Chẳng bao lâu, anh được mọi người trong xứ mến phục. Nhiều người thấy anh sống công bình bác ái hơn mọi người như thế mà sao trên trán có khắc hai chữ S.T. Họ thắc mắc hỏi một cụ già về ý nghĩa hai chữ đó. Cụ trầm ngâm một lúc rồi đáp:
– Tôi cũng không rõ ý nghĩa của hai chữ đó. Nhưng nhìn vào cuộc sống của anh, tôi nghĩ hai chữ đó có nghĩa là “Thánh thiện”.
***
Thế là người em trong câu truyện trên đây đã biết lột xác, thay hình đổi dạng, cởi bỏ con người cũ tội lỗi, mặc lấy con người mới hoàn hảo. Phải chăng đó là tấm gương sáng chói cho chúng ta? Phải chăng đây cũng là một cuộc biến hình sáng láng mà Chúa kêu gọi chúng ta thực hiện hằng ngày, nhất là trong mùa Chay thánh?…
4. Khu ổ chuột ở Ấn Độ
Một đêm nọ, ký giả Trey Ketler đi bách bộ xuyên qua một khu ổ chuột tại thành phố Calcutta, Ấn Độ. Thình lình ông nghe một âm thanh kỳ lạ. Ông quay lại và thấy một cậu bé ăn xin tàn tật đang lết về phía ông. Người ký giả lấy tiền lẻ trong túi và trao cho cậu bé. Không đầy một phút sau, ông lại nghe một cuộc chửi rủa inh ỏi. Ông quay lại, thấy cậu bé ăn xin tàn tật bị đám ăn xin tàn tật khác trấn lột!…
Ngày nọ, một người nữ khác cũng đến khu ổ chuột đó. Bà thấy cảnh quá nghèo khổ của khu này, bà dốc hết những gì bà có biến đổi khu này. Đầu tiên, bà chỉ cất được một phòng học cho trẻ. Tấm bảng là nền nhà, bàn ghếcũng là nền nhà. Ít năm sau tức là năm 1997, khi bà qua đời, khu ổ chuột đã có 100 trường học trang bị đầy đủ: 750 phòng phát thuốc miễn phí, 150 nhà dành cho những kẻ bị bỏ rơi, và trên 40 ngàn thiện nguyện từ khắp nơi đến trợ giúp. Người nữ đó chính là Mẹ Têrêsa Calcutta.
***
Phải chăng đó là một cuộc biến hình Chúa dùng con cái Người thực hiện.
Mùa Chay Chúa muốn chúng ta thực hiện nhiều cuộc biến hình như thế. (Theo “Ánh Sáng thế gian”)
5. Nhận lỗi
Liszt là một nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng khắp nước Hungary vào cuối thế kỷ 19. Nhưng càng nổi danh ông càng bị người ta mạo danh.
Một hôm tại một thành phố bên Đức, một thiếu nữ quảng cáo buổi độc tấu dương cầm và cô ta là học trò của nhạc sĩ Liszt. Nhưng một ngày trước khi biểu diễn, cô hoảng hốt hay tin nhạc sĩ đại tài đó đến thành phố. Như thế sự mạo danh của cô sẽ bị khám phá và tương lai cô sẽ tiêu tan. Nhưng thay vì bỏ cuộc, cô đã can đảm đến gặp nhạc sĩ và thú nhận việc mạo danh của cô. Nhạc sĩ ôn tồn lắng nghe cô và dịu dàng nói:
– Cháu đã phạm một lỗi lầm. Nhưng trong đời không ai tránh được lầm lỗi. Cháu đã biết lỗi và hối hận. Điều đó tốt lắm rồi. Bây giờ cháu hãy biểu diễn thử cho bác nghe.
Cô liền ngồi lên dương cầm, biểu diễn cho ông ta nghe. Nghe xong, ông ta sửa lại những sai sót rồi nói:
– Dù bác dạy cho cháu rất ít, nhưng cháu cũng là học trò của bác. Ngày mai cháu cứ đi trình diễn và loan báo: Bác sẽ trình tấu bản cuối cùng.
***
Cách cư xử của nhạc sĩ Liszt trên đây nhắc chúng ta cách đối xử của Chúa đối với chúng ta. Những vấp váp lỗi lầm của chúng ta luôn được Chúa tha thứ sửa đổi lại cho tốt đẹp. Tất cả những thất bại khổ đau và ngay cả những vấp ngã của chúng ta cũng được Người biến đổi thành những cơ may để mời gọi chúng ta tiến bước theo Người, cùng vác thánh giá theo Người để được cùng Người sống lại vinh quang.
Mùa Chay chính là thời gian đặc biệt để chúng ta thực hiện điều đó.
(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập II).
6. Một cuộc hoán cải lạ lùng
Trong một nhà giam các tù nhân trọng án, có một tù nhân khét tiếng hung ác tên là SITA ĐÊLI (Starr Daily). Anh ta vào tù ra khám nhiều lần vì tội say sỉn đánh lộn làm mất an ninh trật tự xã hội. Trong lần tuyên án thứ năm, quan tòa đã tuyên bố: “Chúng tôi biết rằng có bắt anh ở tù thêm cũng chẳng có kết quả. Phải nói thật là: chúng tôi hoàn toàn thất vọng về anh! Nhưng chúng tôi không thể không tuyên án cho anh. Lần này anh bị phạt tù giam 10 năm”.
Sau khi vào nhà tù, Đêli vẫn tỏ thái độ ngoan cố và còn coi thường kỷ luật nhà tù hơn trước. Anh thường hay đánh đập các bạn tù và phản đối lại cai tù, đến nỗi anh bị biệt giam trong một căn hầm tối dơ bẩn đầy gián hôi và lũ chuột cống… Một hôm, khi đang nằm ngủ trên nền gạch lạnh giá, đột nhiên Đêli nghe có tiếng nói như sau: “Hỡi Đêli, tại sao mi lại bị nhốt riêng trong căn hầm khủng khiếp này? Tại sao mọi người đều thù ghét mi? Tại sao mi không dùng sức khỏe để phục vụ mà cứ tiếp tục làm điều ác chống lại kẻ khác như thế? ”… Tư tưởng này đã đánh động tâm hồn khiến Đêli nhiều phen suy nghĩ. Rồi một đêm kia Đêli đã gặp được Đức Giêsu trong giấc mơ, Đấng mà anh đã xua đuổi ra khỏi cuộc đời anh từ khi mười hai tuổi. Cũng từ đây, hình ảnh của Đức Giêsu thường xuyên xuất hiện trong tâm trí anh. Anh mơ thấy Người đến bên âu yếm nhìn và nói với anh những lời mà anh đã từng thuộc lòng khi còn bé: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng”, “Hãy yêu thương kẻ khác như yêu chính mình ngươi”… Anh cảm thấy tâm hồn được bình an mà từ trước đến nay chưa khi nào được hưởng. Rồi khuôn mặt của những kẻ đã từng bị anh hãm hại lần lượt xuất hiện trong tâm trí khiến anh rất hối hận. Lần đầu tiên, anh đã mở miệng cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 18,13).
Cảm nghiệm ấy đã biến Đêli từ một người hung ác gian tham và thù hận, trở thành một người đầy độ lượng nhân ái! Sự biến đổi nội tâm khiến Đêli không còn la hét đập phá như trước, Các nhân viên cai ngục đã nhận ra có sự thay đổi rõ rệt xảy ra nơi anh, họ cho phép anh được trở lại trại giam thường phạm. Tại đây anh bắt đầu đối xử tốt với các bạn tù: Anh luôn bênh vực những người mới đến, nên dần dần anh được mọi người trong trại quý mến. Rồi anh được giảm án tù từ mười xuống còn 5 năm. Mãn hạn tù, anh gia nhập vào “Nhóm cải thiện chế độ lao tù”. Cùng với cha tuyên úy và các bạn, Đêli đi thăm và động viên các tù nhân còn bị giam và khuyên họ hãy học tập cải tạo tốt. Nhờ đó nhiều bạn tù đã sớm được về đoàn tụ với gia đình. Linh mục Pitơ Mácsôn (Peter Marshall) đã bình luận về sự hóan cải của Đêli như sau: “Đây là một bằng chứng sống động cho thấy: Sita Đêli không chỉ là một người cũ được tân trang lại, nhưng chính là một tạo vật hoàn toàn mới của Thiên Chúa!”
Biến hình lời nói
Biến hình việc làm, lối suy nghĩ
Biến hình tình thương # ghen ghét
Biến hình tránh tội lỗi
Biến hình là năng chịu bí tích nhất là phép giải tội.
Biến hình là không lân la đến dịp tội (LeoV)
12. Từ đau khổ đến vinh quang
Chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh hiện đại. Thời buổi của một lối sống bị ảnh hưởng bởi nền công nghiệp hóa. Người người tranh nhau chạy để vật lộn với cuộc sống. Do đó, người ta chuộng những gì đó mau lẹ và gọn nhẹ. Ðến nỗi thức ăn người ta cũng chỉ muốn cái gì có liền chứ không cần phải khổ cực nấu nướng nữa.
Dường như tâm thức muốn nhanh lẹ này cũng đã có nơi thánh Phêrô khi ngài và hai vị Tông đồ được cùng với Chúa Giêsu cầu nguyện trên núi. Một sự kiện lạ thường xảy ra lạ thường trước mắt các ông. Ðó là dung mạo của Chúa Giêsu trở nên rực rỡ chói ngời. Trông thấy cảnh vinh quang ấy của Chúa Giêsu, thánh Phêrô đã nhanh chóng không chút e ngại mà thưa rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.” (Lc 9, 33)
Thiết nghĩ với lời thưa này, Phêrô chỉ muốn mình và hai vị Tông đồ kia được ở mãi trong tình trạng như thế. Bởi lẽ, đây là tình trạng không còn phải đau khổ nữa. Chúa Giêsu được trở về tình trạng vinh quang như chính Người là. Dầu vậy, vì thương loài người mà Người sẵn sàng sống trong thân phận con người như bao nhiêu con người khác.
Lời phán bảo của Chúa Cha: “Ðây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9, 35b) là lời nhắn nhủ với ba Tông đồ và cũng là lời nhắn nhủ cho mọi người chúng ta. Muốn đến được vinh quang phải trải qua đau khổ thử thách.
Ông bà chúng ta nói: Dục tốc bất đạt nghĩa là có nhiều chuyện làm trong hấp tấp vội vàng sẽ không mang đến kết quả tốt. Cũng vậy, đối với tình trạng vinh quang cao cả này cần phải có thời gian. Mặc dù, tình trạng vinh quang ấy là tình trạng hiển nhiên của Người nhưng Người vẫn chu toàn tốt sứ mạng cứu rỗi loài người trong sự tiệm tiến.
Cho nên, Chúa Cha đã kêu mời hãy biết vâng nghe lời của Người. Vâng nghe trong sự kiên nhẫn và vâng nghe trong sự noi gương bắt chước cách sống của Người. Nhiều khi trong đời sống đạo chúng ta thường hay đòi buộc Chúa và Giáo hội ban ngay cho mình những điều mình muốn. Ðang khi đó việc hy sinh sống đạo theo lời dạy của Chúa và Giáo hội thì chúng ta bỏ qua. Ði dự lễ thì muốn cho mau lẹ thậm chí bỏ đầu bỏ đuôi. Ðối với các giới răn thì yêu cầu Giáo hội phải nới lỏng cho hợp với thời đại. Ðó là chúng ta thiếu sự hy sinh, thiếu sự đón nhận gian nan đau khổ. Chính những sự hy sinh và đón nhận gian nan đau khổ trong đời sống đức tin sẽ là hành trang cho chúng ta đạt được vinh quang trong Nước Trời.
13. Biến đổi
Hãy biến đổi là một chủ đề nổi bật trong toàn bộ Tin mừng. Lời rao giảng trước tiên của Chúa Giêsu khi Ngài đi rao giảng Tin mừng là “Hãy ăn năm sám hối và tin vào Tin mừng” (x. Mc. Ăn năn và sám hối thật sự chính là biến đổi, là chuyển từ tình trạng xấu nên tốt hơn).
Tin mừng hôm nay cũng nói đến một sự biến đổi. Chúa Giêsu biến đổi hình dạng trước mặt các Tông đồ thân tín của Ngài. Chúa đã bày tỏ vinh quang vốn có của Ngài cho các tông đồ thấy để các ông thêm lòng tin mà tiến bước theo Chúa, nhất là khi Chúa đi vào cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa. Chúa biến đổi hình dạng là Chúa đã để cho thiên tính được tỏ bày ra. Và điều đáng chúng ta lưu tâm là khi nhìn thấy thiên tính của Chúa Giêsu được tỏ hiện, các tông đồ đã ngất ngây và say đắm. Tôi thiết nghĩ, chúng ta cũng có chung thái độ như thế nếu chúng ta được diễm phúc nhìn thấy vinh quang của Chúa được tỏ hiện vì đó là phần thưởng mà chắc ta vẫn hằng mong ước: diện kiến tôn nhan Chúa. Chắc chắn chúng ta cũng sẽ được nhìn thấy vinh quang ấy nếu như hôm nay, trong từng ngày sống của chúng ta, chúng ta không ngừng cùng với Chúa biến đổi để làm cho cuộc sống chúng ta nên” hoàn hào như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo”. Khi chúng ta làm cho những cái xấu nên tốt, những điều tốt được nên tốt hơn, những cái chưa hoàn hảo nên hoàn hảo trước mặt Thiên Chúa. Đó là cuộc biến hình mà Chúa đang mời gọi ta và đang chờ đợi ta thực hiện với Chúa.
Cuộc biến đổi đích thật nào cũng đòi hỏi một thái độ độ anh hùng và dứt khoác để chối từ những quyến luyến đang vây kéo chúng ta. Abraham ngày xưa đã rất can đảm khi ông làm cuộc thay đổi trong cuộc đời của ông. Ông đã quyết tình chọn Chúa và theo Chúa dù ông đã cao niên, cơ ngơi đã ổn định… Ông quyết đi theo tiếng Chúa gọi vì ông tin vào Thiên Chúa quyền năng và tình yêu luôn làm điều tốt đẹp cho ông. Khi hành động như thế Abraham sẽ bị người khác cho là kẻ lắm tham vọng và tin hão huyền: bỏ cái đang có, đi tìm cái viển vông; bỏ ruộng vườn và nhà cửa theo ơn gọi để tìm sự vất vả, sống thiếu thốn và khó khăn; lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Trước mặt Abraham là giải sa mạc mênh mông, đất cày lên sỏi đá… Nhưng vì tin yêu Thiên Chúa, Abraham đã tiến bước ra đi và đã thành công, nêu gương sáng muôn đời cho chúng ta và trở thành người được chúc phúc!
Phaolô cũng làm một cuộc biến đổi ngoạn mục: từng là người hăng say bắt bớ những người tín hữu Chúa Kitô trở thành người sống chết vì Tin mừng của Chúa! Phaolô đã vui vẻ đón nhận thử thách và trung thành đến giọt máu cuối cùng vì Đức Kitô và Thập Giá của Ngài. Phaolô đã được lột xác và biến đổi, một cuộc biến đổi không thể ngờ, thậm chí khó tin nếu nhìn theo khía cạnh loài người.
Lịch sử Giáo hội đánh dấu nhiều cuộc biến đổi lạ lùng, cụ thể:
Một Agustinô: từ say rượu đến say Chúa.
Một Maria Mađalêna: từ gái giang hồ thành thánh và là chứng nhân nhiệt thành cho việc Phục sinh của Chúa.
Một Inhaxiô Loyola: từ trai chinh chiến trở thành đấng lập dòng.
Một Têrêsa Avial: từ kẻ khô khan đến người sốt mến
Một Giakêu: từ người tham lạm, hà khắc trở thành kẻ rộng lượng và khoan nhân…
Đó là công việc của Chúa và con người hợp tác nhờ sức mạnh tình thương của Chúa. Đó là những cuộc canh tân và biến hình đã, đang và còn tiếp tục diễn ra trong lòng Giáo hội. Những điều cụ thể đó đủ chứng minh rằng ơn Chúa luôn tràn trề trong lòng mọi người dù cho họ có thể nào đi nữa, có ở trong hoàn cảnh và tình trạng nào đi nữa! Bất cứ khi nào, con người quyết tâm làm lại cuộc sống, biết đứng lên sau những vấp váp, sau những té ngã thì “Ơn Ta vẫn đủ cho ngươi”. Chúa đang ở cùng ta và giúp chúng ta chiến thắng ma quỉ, xác thịt và thế gian nơi cung lòng mỗi chúng ta. Chúa đã nói với chúng ta rằng: “Thầy đã thắng thế gian!” và “Các con đừng sợ!”. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về chính mình, nhưng hãy biết can đảm đứng lên làm lại cuộc sống mỗi ngày và nhiệt tâm giúp đỡ những ai đang chán chường vì những thất bại và vấp ngã trên đường đời. Hãy lôi kéo họ đến với lòng thương xót của Chúa để họ được ơn biến đổi và trở thành kẻ chiến thắng thế gian nhờ sứac mạnh của Thánh Thần Chúa.
14. Sống xứng tầm người con Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Nhìn vào dáng vẻ bên ngoài của Chúa Giê-su, người đời nhận thấy Ngài chỉ là anh thợ mộc giản dị làng Na-da-rét hoặc là một ông thầy giảng dạy lôi cuốn, hấp dẫn mà thôi.
Thế rồi, qua việc Chúa Giê-su tỏ lộ thần tính, tỏ lộ chân dung đích thực của Ngài trên núi cao, ba môn đệ Phê-rô, Gioan và Gia-cô-bê mới phát hiện ra căn tính của Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, là Đấng cao cả tuyệt vời, ẩn mình dưới hình hài con người bình dị.
Đối với những ki-tô hữu, chúng ta cũng thấy điều tương tự:
Nhìn vào dáng vẻ bên ngoài, chúng ta cũng chỉ là những con người hèn mọn, vô danh tiểu tốt.
Tuy nhiên, bản chất của chúng ta rất cao đẹp, rất tuyệt vời.
Dù chúng ta mang kiếp bụi trần, thân phận mỏng giòn yếu đuối, vậy mà nhờ lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, Thiên Chúa nâng chúng ta lên, cho chúng ta được trở thành con Thiên Chúa, trở thành người con chí ái của Chúa tể trời đất. Cao trọng biết bao!
Dù chúng ta mang đầy tội lỗi, mang xác thịt hư hèn, vậy mà nhờ lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, Chúa Giê-su cất nhắc chúng ta lên, nâng hạt bụi thấp hèn này lên… để tháp nhập vào Thân mình Ngài, cho chúng ta trở thành một chi thể trong Thân thể Ngài! Cao cả biết chừng nào!
Và nhờ trở thành một chi thể trong Thân thể Chúa Giê-su, sự sống của Thiên Chúa ba Ngôi, sự sống rất cao vời và viên mãn, không bao giờ lụi tàn, được thông ban cho chúng ta, như nhựa sống từ thân nho chuyển sang cành nho, để chúng ta được sống đời đời với Chúa! Tuyệt vời khôn tả!
Và qua Bí tích Thánh thể, Chúa Giê-su ban thịt máu Ngài cho chúng ta lãnh nhận, để nhờ đó, chúng ta được nên một với Chúa Giê-su, đồng huyết nhục với Ngài và nhờ đó, được sống vĩnh cửu với Ngài. Đây là một hồng ân vô cùng cao quý.
Vậy thì chúng ta hãy vui mừng hoan lạc, hết lòng cảm tạ Chúa và phải sống làm sao cho xứng với ân huệ Chúa ban cho mình.
Ý thức mình là con Thiên Chúa để vươn lên
Một người thợ săn bắt gặp một ổ trứng phượng hoàng trong khu rừng nguyên sinh. Anh đem ổ trứng ấy về nhà, trộn chung vào ổ trứng của gà mẹ đang ấp. Mấy tuần sau, một chú phượng hoàng con xinh đẹp chào đời và được gà mẹ dẫn đi ăn chung với đàn gà con bé nhỏ.
Phượng hoàng con lớn lên bên cạnh những con gà khác, luôn nghĩ rằng mình cũng thuộc nòi giống gà như những con gà cùng lứa, cùng cào bới đống rác, đống phân… để kiếm ăn như những con gà kia.
Thế rồi, vào ngày định mệnh ấy, một con phượng hoàng oai phong từ trên cao thình lình đáp xuống khiến cả đàn gà hoảng hốt chạy tán loạn. Phượng hoàng tiến đến gần chú phượng hoàng con, chỉ cho nó biết nó không phải là chú gà tầm thường, nhưng thuộc giống nòi phượng hoàng oai phong lẫm liệt.
Thế là từ hôm đó, phượng hoàng con ngẩng cao đầu, vươn cao cổ, bắt đầu xoè cánh tập bay và chẳng bao lâu, nó xoải rộng đôi cánh, phóng mình vút lên, bay lượn giữa khung trời cao xanh lộng gió, trông thật oai hùng.
Ban đầu, khi không ý thức mình là phượng hoàng mà tưởng mình chỉ là gà, nên phượng hoàng sinh hoạt như những con gà khác, suốt ngày quanh quẩn trong sân gà vịt, moi móc rác rến kiếm ăn; nhưng một khi nó phát hiện ra mình không phải là thứ gà tầm thường mà là thuộc nòi giống phượng hoàng oai vệ, thì nó từ bỏ góc sân gà vịt, từ bỏ việc cào phân bới rác để xoải cánh bay lượn trên khung trời cao rộng,
Tương tự như thế, chúng ta cũng cần phải phát hiện ra phẩm giá cao đẹp của mình là người con Thiên Chúa, là chi thể của Chúa Giê-su… Nhờ đó, chúng ta không để mình bị vùi dập bởi những thói hư tật xấu, không đắm mình trong lối sống ươn hèn, nhưng chuyên chăm tập rèn những đức tính tốt, trau dồi cho mình những phẩm chất cao đẹp, để sống xứng tầm người con Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giê-su,
Từ địa vị thấp hèn, Chúa nâng chúng con lên bậc con Thiên Chúa, trở nên chi thể của Chúa và được thừa hưởng sự sống viên mãn của Ngài. Xin giúp chúng con dứt khoát từ bỏ nếp sống cũ đầy tội lỗi và bất xứng, để bắt đầu cuộc đời mới, cuộc đời cao đẹp của người con Thiên Chúa.
15. Nhìn vào mặt tốt – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Khi Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ biết Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu thương khó và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn. Không lẽ cuộc đời của Thầy Giêsu lại kết thúc cách bi đát như thế? Đã bao lần họ mơ tưởng một ngày nào đó được ngồi bên tả bên hữu vua Giêsu trong vương quốc vinh hiển của Ngài, lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói? Nếu Chúa Giêsu mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ ra như thế nào đây?
Không thể chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phê-rô kéo riêng Chúa Giêsu ra và lên tiếng trách móc, tìm cách ngăn cản Ngài đừng chấp nhận con đường đau thương ấy (Mc 8, 32).
Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, tám ngày sau, Chúa Giêsu đưa ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình lên núi cao để cầu nguyện. “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem.”
Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn “ông Phê-rô thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”
Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông… Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”
Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giêsu trong giờ phút vinh quang của Ngài ở đây, ít nữa là có môn đệ Gioan đã vững bước theo Chúa Giêsu đến cùng trên đường khổ nạn.
* * *
Cuộc đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.
Cuộc đời Chúa Giêsu cũng có mặt sáng mặt tối. Mặt tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm, mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi Tabor. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen tối, mặt u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giêsu bộc lộ nhân tính hèn yếu của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng… mà không thấy được mặt sáng của Ngài trên núi Tabor thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các ngài đào tẩu hết, lấy ai làm chứng nhân cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?
Vì thế, Chúa Giêsu cho các ông thấy mặt sáng của đời Ngài trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Ngài, tỏ cho họ thấy Ngài là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha, Người được Thiên Chúa Cha tuyển chọn” (câu 35) để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm vườn Dầu sắp đến.
* * *
Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền của nó, người ta sẽ đánh giá thấp về nó, sẽ thất vọng vì nó.
Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ nhìn mặt trái sần sùi và trơ trọi của tấm huy chương mà không nhìn mặt đẹp của nó, thì chẳng ai thèm nhận huy chương.
Hoa hồng rất đẹp rất kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến vẻ đẹp của bông hoa thì thật là đáng tiếc! Nhờ giá trị của những bông hoa hồng đẹp rực rỡ kiêu sa và hương thơm dịu dàng của nó, người ta quên đi những gai nhọn đáng phàn nàn của nó.
Đối với người anh em chung quanh cũng thế. Mỗi người đều có mặt sáng và mặt tối, mặt tốt và mặt xấu, không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mặt đen tối của một con người, mà quên đi mặt sáng của họ, nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm của họ, thì chúng ta sẽ rất thất vọng về người đó. Chúng ta đánh giá người đó chẳng ra gì.
Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín thấy mặt sáng láng vinh hiển của Ngài trên núi cao để chuẩn bị tinh thần cho các ông đón nhận mặt đen tối của đời Ngài trong đêm vườn Dầu và đêm khổ nạn, cũng là bài học cho chúng ta trong tương quan với người khác.
Một người dù có bị xem là xấu xa đến đâu chăng nữa cũng có những điểm sáng, những nết tốt tiềm ẩn bên trong. Ước gì chúng ta biết nhìn vào điểm sáng, điểm tốt, nhìn vào ưu điểm của họ để dễ dàng thông cảm với những mặt trái, mặt xấu của họ. Nhờ đó, chúng ta cảm thấy những người quanh ta dễ thương hơn, tương quan của ta với người khác được cải thiện tốt đẹp hơn và đời sống giữa chúng ta với nhau sẽ hạnh phúc hơn.
16. Biến hình trong đời thường
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Lc 9: 28-36: Trên núi Tabor, Chúa Giêsu từ hình dáng loài người biến thành hình dáng Thiên Chúa; ở Vườn Dầu, từ hình dáng Thiên Chúa biến ra hình dáng con người yếu đuối.
1. Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan trên núi Tabor
Vừa nghe bài Phúc Âm hôm nay, chắc có người thắc mắc là tại sao Chúa Giêsu lại chọn Phêrô, Giacôbê và Gioan. Tại sao Đức Giêsu lại quyết định chọn ba ông từ Nhóm Mười Hai và cho ba ông chiêm ngưỡng vinh quang của Người trên núi Tabor?
Phải chăng các ông là những người tốt lành thánh thiện hơn trong số Mười Hai anh em? Đọc lại Tin Mừng, chúng ta thấy chính ba ông lại đầy những khiếm khuyết lỗi lầm. Chúa Giêsu biết rõ điều này hơn ai khác. Chúa biết biết rõ tâm tính của các ông. Người biết các ông vốn là những ngư phủ chất phác, nhiệt tình nhưng lại bộp chộp. Các ông hăng say đi theo Người, hết lòng cộng tác vào sứ mệnh của Người, nhưng cũng từng có những phản ứng nóng nảy, bộc phát. Trong các câu chuyện kể của Tin Mừng, chúng ta thấy Simon Phêrô có lần đã can ngăn Chúa Giêsu lên Giêrusalem, và Phêrô lúc đó đã bị Chúa quở trách nặng lời: “Satan, lui lại đàng sau Thầy, con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà của loài người”. Còn hai ông Gioan và Giacôbê thì cũng bộp chộp không kém, vì tính tình nóng nảy, hai ông đã được Chúa Giêsu đặt cho biệt hiệu là con của thiên lôi. Hai ông đã bị Chúa khiển trách vì đã muốn cho lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Samari không chịu tiếp đón Người. Và nhất là đang khi Chúa Giêsu chuẩn bị cho các ông chấp nhận tiến về Giêrusalem thì hai ông lại là người muốn tranh giành chỗ cao chỗ nhất trong anh em. Vì biết rõ sự yếu đuối của các ông, nên sau khi tiên báo lần thứ nhất về cuộc Thương Khó của mình, Chúa Giêsu đã đem riêng các ông theo Người lên núi cầu nguyện và cho các ông chứng kiến vinh quang của Người. Các ông cần phải được lĩnh hội những bài học tâm linh. Niềm tin của các ông phải được kiện cường hầu đủ sức để đương đầu với những khó khăn sắp xảy tới: con đường đau khổ, con đường Thập Giá.
2. Bây giờ chúng ta cùng nhau trở lại Núi Tabor trong bài Tin Mừng.
Trên Núi Tabor, bầu trời trong sáng và Đức Giêsu đang cầu nguyện. Trong khi Người cầu nguyện, khuôn mặt toả sáng, áo Người trắng như tuyết. Bên cạnh Người, có Môsê – người ban bố luật vĩ đại và Êlia – vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các ngôn sứ. Rồi một đám mây bao phủ họ, nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa.
Họ được nghe thấy tiếng nói của Chúa Cha phát ra từ đám mây:“đây là Con yêu dấu của Ta, Người Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Phêrô thốt lên: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hạnh phúc! Nếu Thầy muốn, con sẽ dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Êlia, và một cho Môsê”. Phêrô muốn được ở lại trên núi. Ông muốn xây dựng một thiên đàng an toàn tại đó, xa khỏi những rắc rối và nguy hiểm. Nhưng mục đích của cuộc biến hình không phải để khuyến khích họ trốn thoát thực tại, mà để khích lệ các ông, giúp các ông có khả năng đương đầu với những thử thách sau này.
Họ cần rất nhiều sự nâng đỡ! Bởi vì sẽ đến một ngày và ở trên một ngọn đồi khác, lúc đó bầu trời sẽ trở nên tối tăm, khuôn mặt Đức Giêsu, sẽ đầm đìa mồ hôi và máu. Áo của Người sẽ không còn chói sáng nữa. Sẽ không còn tiếng nói phát xuất từ trời cao, nhưng là những giọng nói chế giễu và nhạo báng, chính vì vậy làm chúng ta liên tưởng đến Vườn Dầu. Tabor và Vườn Dầu, cả hai đều xảy ra trên núi.
– Trên núi Tabor, Chúa Giêsu từ hình dáng loài người biến thành hình dáng Thiên Chúa; ở Vườn Dầu, từ hình dáng Thiên Chúa biến ra hình dáng con người yếu đuối.
– Trên núi Tabor, các môn đệ thấy được thiên tính vinh quang của Chúa Giêsu, khiến họ ngất ngây sung sướng, muốn ở mãi trong tâm trạng ngất ngây đó; trên Vườn Dầu, họ thấy Chúa Giêsu trong nhân tính yếu đuối của một con người.
Hai biến cố giúp chúng ta hiểu được con người của Chúa Giêsu và cũng giúp chúng ta nhận ra thân phận con người trên trần thế. Quả thực hai sự kiện có liên hệ chặt chẽ với nhau. Và cả hai lần, họ đều ngủ, còn Chúa Giêsu lại thức để cầu nguyện. Điều duy nhất còn lại, đó là một lần nữa, Đức Giêsu vẫn cầu nguyện. Điều giúp Người trải qua, cả trong những giây phút sáng sủa lẫn tối tăm ảm đạm, đó chính là mối tương quan của Người với Thiên Chúa Cha.
3. Tabor và Vườn Dầu đối với chúng ta
Hy vọng rằng tất cả chúng ta đều có thể có được những kinh nghiệm về Tabor, ngọn núi của niềm vui mừng và hớn hở, nhưng chắc hẳn chúng ta cũng cần phải làm quen với Vườn Dầu. Trên Núi Tabor, chúng ta được thoáng thấy vẻ đẹp của Thiên Đàng: do được khích lệ, được phấn chấn, có thể chúng ta đã nghĩ rằng “thật tốt đẹp khi được ở đây”, nhưng chúng ta lại cũng cần phải được chìm đắm trong u tối của Vườn Dầu “tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14,34).
Tabor và Vườn Dầu mạc khải nét tương phản sinh động giữa nhân tính và thiên tính của Ngài. Hai biến cố này không thể tách lìa nhau như hai mặt của một đồng tiền, và như thế cho chúng ta thấy Ngài vừa là người thật vừa là Thiên Chúa thật. Hãy chấp nhận thập giá cuộc đời để nhờ đó chúng ta sẽ được chia sẻ phần vinh quang phục sinh với Ngài.
4. Biến Hình trong Đời Thường
Nhà tâm lý học Abraham Maslow kể lại câu chuyện một người mẹ trẻ như sau: “vào một buổi sáng nọ, cô sửa soạn bữa sáng cho gia đình. Nhà bếp chan hòa ánh sáng, những đứa con của cô đang cười đùa vui vẻ, và chồng cô đang đùa giỡn với đứa con út. Trong khi cô đang trét bơ trên bánh và rót nước cam, ngay lúc đó, cô cảm thấy tràn trề niềm vui sướng và yêu thương trong gia đình. Rưng rưng nước mắt, cô đã cảm động đến nỗi không thể nói lên lời.”
Maslow gọi lúc đó là giây phút tột đỉnh. Nó là những giây phút ngắn ngủi quí báu chúng ta nhìn thấy những biến cố thông thường cách siêu thường. Nó là giây phút giống như là Thiên Chúa chiếu ánh sáng của Ngài vào những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình đang ở trong một thế giới khác.
Ý tưởng về giây phút tột đỉnh giúp chúng ta hiểu được phần nào những gì mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã cảm nghiệm trong bài Tin Mừng hôm nay. Các ngài đã cảm nghiệm được những giây phút tột đỉnh.
Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã thấy được Chúa Giêsu trong một hình thức hoàn toàn khác biệt. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã thấy Thiên Chúa chiếu rọi qua con người bề ngoài của Chúa Giêsu. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã nhìn thấy một thế giới vượt trên thế giới này. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã thấy từ ngoại diện của Chúa Giêsu đến những gì bên trong nội diện: Con Thiên Chúa vinh hiển và tuyệt mỹ.
Đó chính là mục đích của việc Chúa Giêsu hiển dung trên núi Tabor. Tuy nhiên trong cuộc đời Chúa Giêsu cũng có mặt sáng mặt tối. Mặt tối là đêm Vườn Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen tối, mặt u ám của đêm Vườn Dầu, lúc Chúa Giêsu bộc lộ nhân tính hèn yếu của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mặt sáng của Người trên núi cao thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các ngài đã bỏ đi hết, thì lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?
Vì thế, Chúa Giêsu cho các môn đệ thấy mặt sáng của Người trước, qua việc tỏ cho các ngài thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Người, tỏ cho các ngài thấy Người là “Con Yêu Dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm Vườn Dầu sắp đến.
Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm Vườn Dầu và đêm khổ nạn. M.Twain người Mỹ đã từng nói “ai cũng có một vầng trăng và một đám mây đen.” Quả thật, trong cuộc sống, có những giây phút chúng ta cảm thấy thật hân hoan phấn khởi, nhưng cũng không thiếu những lúc chúng ta phải lầm lũi trong cô đơn trong sầu muộn. “Vầng trăng” và “đám mây” luôn đan xen trong cuộc đời chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ vinh quang trên núi Tabor để củng cố đức tin cho các môn đệ khi các ông gặp gian truân thử thách. Xin Chúa cũng nâng đỡ đức tin non yếu của chúng con để chúng con tin tưởng rằng: nếu cùng với Chúa vượt đêm đen của Vườn Dầu hôm nay thì chắc chắn cũng được chung phần vinh quang phục sinh với Chúa. Amen.
17. Hãy vui lên – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm.
Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu biến hình trước mắt ba tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê. Cũng chính ba tông đồ này là những người sẽ chứng kiến Đức Giêsu biến hình ở vườn dầu: “Ngài kinh hoảng âu sầu”. Ở vườn dầu, Đức Giêsu sấp mình xuống đất cầu xin cùng Thiên Chúa Cha để nếu có thể cho Ngài khỏi phải uống chén đắng; còn ở đây, Đức Giêsu hiển dung vinh hiển và Thiên Chúa xác chuẩn Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng tuyển chọn Ngài. Ba tông đồ đã được chứng kiến Ngài hiển dung, để có thể chứng kiến Ngài buồn sầu xao xuyến: “linh hồn thầy buồn sầu đến chết được”. Đức Giêsu hiển dung, dấu chỉ cho thấy thân xác con người sẽ được biến đổi trở nên vinh hiển sáng láng, cho dù hiện tại người ta thấy thân xác mong manh mỏng dòn.
Thân xác con người sẽ được biến đổi. Đức Giêsu chết trần trụi trên thập giá và toàn thân Ngài bị biến dạng bởi những vết thương do người ta hành hạ, nhưng khi Ngài phục sinh thì thân xác Ngài trở nên tuyệt vời. Thân xác con người trước phục sinh và sau phục sinh tuy là một nhưng rất khác nhau. Đức Giêsu khi còn tại thế vẫn là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, Đức Giêsu Phục Sinh và Đức Giêsu trước đó vẫn là một tuy dù người ta thấy Ngài rất khác qua biến cố Phục Sinh. Theo niềm tin Kitô hữu, thân xác con người ở dương gian và lúc sống lại vào ngày cánh chung tuy là một nhưng vẫn khác. Theo thánh Phaolô, sống lại là thân xác thần thiêng, khác với thân xác dương thế biến đổi theo thời gian và cái chết (1Co.15, 44)
Con người thật lạ kỳ. Thân xác con người giới hạn và có những nhu cầu rất tự nhiên. Có người sống đời tại thế này chỉ biết lo thỏa mãn những nhu cầu của thân xác, mà quên đi một chiều kích siêu việt của con người. Khi chỉ thỏa mãn những nhu cầu vật chất, con người trở nên ích kỷ nhỏ nhen, không đạt được hạnh phúc thật ở trần gian này. Nếu người giầu chỉ biết lo tìm tiền bạc mà không chú trọng đến những nhu cầu tinh thần của mình và của những người thân của mình, thì họ không thể hạnh phúc thật. Con người có liên đới với người thân, với gia đình cha mẹ anh chị em họ hàng, và đặc biệt với con cái. Nếu không lo cho con cái triển nở, nếu không biết giáo dục con cái, con người sẽ không thể hạnh phúc được cho dù họ có tiền bạc dư giả, cho dù họ có địa vị chức quyền.
Phaolô đã có một thời bắt bớ những người tin vào Đức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ ông đã miệt mài rao giảng Đức Giêsu Phục Sinh. Chính niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đã làm Phaolô bình an hạnh phúc hơn. Phaolô đã tìm ra con đường hạnh phúc thật. Bây giờ, niềm vui niềm tự hào của ông là Thiên Chúa và những người thuộc về Ngài. Tuy rằng con người có thể thay đổi lòng dạ nhưng vì tin vào Thiên Chúa nên Phaolô vẫn an lòng. Trừ phi Thiên Chúa thất bại, còn không Phaolô luôn chiến thắng, vì Phaolô chọn những gì Thiên Chúa chọn. Cho dù ngay cả những lúc Phaolô cảm thấy rơi lệ khi thấy những con cái ngài đã thay lòng đổi dạ, đã chọn thực tại trần gian trên hết: “Chúa của họ là cái bụng”, thì Phaolô vẫn hy vọng họ sẽ trở lại với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Đấng trung tín. Thiên Chúa vẫn kiên trì đến với con người, và sẽ làm con người trở lại với Ngài.
Qua những chọn lựa của mình trước những thực tại trần gian mà con người hình thành chính mình. Phaolô đã là một con người khác qua biến cố té ngựa trên đường đi Damas. Phaolô đã hình thành chính mình trong suốt đời ngài. Mỗi người trong chọn lựa sống của mình, làm mình trở thành người tuyệt vời hay chỉ giống con vật, trở nên con cái Thiên Chúa hay trở nên con cái ma quỷ. Qua hành vi yêu thương mà con người ra khác và trở thành tuyệt vời hơn. Con người không chỉ chờ đến ngày Phục Sinh mới được biến đổi, nhưng mỗi người cũng đã đang biến đổi ngang qua chọn lựa sống từng ngày.
Con người vui mừng, vì Thiên Chúa đã yêu thương và cứu độ con người qua Đức Giêsu. Thiên Chúa đã và đang làm tất cả qua Đức Giêsu Kitô. Ngày xưa Thiên Chúa ký kết giao ước với Abraham, ngày nay giao ước mới đã được ký kết với con người bằng máu Đức Giêsu Kitô. Máu Đức Giêsu là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người. Làm sao không vui khi biết Thiên Chúa yêu thương mình như yêu chính Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô (Ga.17, 23)?!
Thiên Chúa đã ký kết giao ước với Abraham. Thiên Chúa ký kết giao ước với con người vì con người chứ không phải vì Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần giao ước vì Ngài luôn chân thật và thành tín. Thiên Chúa luôn trung thành, không bao giờ Ngài phản bội. Chỉ có con người mới bất trung và hay thay đổi, vì vậy mới cần giao ước. Thiên Chúa đã thề hứa với con người, để con người được biết tình yêu của Ngài đối với con người, để con người có thể sống an bình hạnh phúc vì mình được Chúa Tể hoàn vũ thương yêu.
Thiên Chúa đã đặt nơi Abraham ước vọng có con cháu nối dòng, và chính Thiên Chúa cũng là Đấng hứa ban cho ông con cháu đông như sao trên trời như cát bãi biển. Thiên Chúa cũng là Đấng giao ước với ông, để ông thuộc về Thiên Chúa, để Thiên Chúa lo cho ông. Thiên Chúa vẫn luôn ở với con người, giúp con người đi tìm chính Ngài, làm con người thuộc về Ngài trong suốt quá trình sống. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài đang làm con người sống trong tình yêu và thuộc về tình yêu. Chính khi con người sống trong tình yêu và làm tất cả vì tình yêu, thì con người được hạnh phúc, vì lúc đó con người nên giống Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Một năm vừa qua, bạn có hài lòng với chính mình không? Bạn thấy mình khá hơn hay dở hơn? Bạn có biết tại sao không? Xin bạn chia sẻ, nếu được.
2. Bạn có kinh nghiệm về một niềm vui thiêng liêng không? Xin chia sẻ nếu được.
3. Hiện tại bạn có ao ước điều gì cách đặc biệt không? Điều bạn ao ước phản ánh chính con người bạn với những thao thức và giá trị sống, bạn có biết hơn gì về bạn qua ao ước này không? Bạn có sẵn sàng chia sẻ với các bạn khác về điều bạn ao ước không? Nếu được, xin mời bạn.
18. Chúa Nhật 2 Mùa Chay
Anh chị em thân mến.
Anh chị em đã nhiều lần xem văn nghệ, ca nhạc. Chúng ta nhìn thấy những nghệ sĩ trên sân khấu, họ biểu diển rất sinh động, sáng chói, khiến cho bao nhiêu người phải hâm mộ tài năng của họ. Nhưng chúng ta thử suy nghĩ xem: có phải tự nhiên mà họ có thể làm được như thế, mà trái lại không phải khổ công tập luyện, học hỏi trong một thời gian rất dài mới có thể bước lên trước mặt mọi người như thế. Đồng thời họ còn phải nhờ đến nhiều người khác, nhiều thứ phụ thuộc khác để phụ giúp cho tài năng của mình. Họ phải nhờ đến khung cảnh, âm thanh, ánh sáng. Nếu khi đang biểu diễn màbất ngờ nguồn điện không hoạt động, ánh sáng không còn nữa, thì xem như cuộc biểu diễn của nghệ sĩ đã thất bại. Họ phải tự luyện tập để tài năng của mình được vững vàng. Nhờ đến khung cảnh để tài năng được nhiều người biết đến. Nhờ đến ánh sáng bên ngoài để mình được tỏa sáng trong khung cảnh hơn.
Chúng ta vừa chứng kiến một khung cảnh sáng chói tuyệt đẹp mà các tông đồ đang ngất ngây. Các ông đang vui thích ngở ngàn vì mình được hưởng nhờ ánh sáng như thế. Các ông định dựng lều để ở trong ánh sáng đó mãi. ” Lạy Thầy chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môi sen và một cho Elia”. Các ông đang vui thích tận hưởng nguồn vinh quang mà mình không hề mất công để chuẩn bị. Các ông đang vui thích hưởng vinh quang không phải của mình. Vinh quang mà các ông đang nhìn thấy là vinh quang của Chúa Giêsu, Ngài được sáng chói trong khi cầu nguyện. Ngài được biến đỗi trong khi phải vượt lên núi cao, phải tỉnh thức và kế hợp với Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì đang ngủ. Các ông giật mình vì ánh sáng chói lòa. Các ông muốn tận hưởng điều không phải của mình. Khi các ông còn đang nói thì ánh sáng chợt biến mất, vì các ông nói điều không phải. Các ông chợt tỉnh ngộ vì tiếng nói: ” Đây là Con Ta yêu dấu, Người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Các ông đã vâng nghe và đã hưởng vinh quang thật.
Tiếng phán ngày xưa với các Tông đồ, cũng từng lập lại với chúng ta. Các Tông Đồ đã tĩnh ngộ, đã biết vâng nghe Lời, đã biết chuẩn bị để mình được biến đỗi trong ánh sáng. Còn chúng ta cũng như các Tông Đồ khi xưa, rất vui thích khi tận hưởng ánh vinh quang không phải của mình, chúng ta còn muốn chiếm hữu nó, và không muốn rời xa. Bổng nhiên ánh sáng vụt biến mất, chúng ta ngỡ ngàn, tiếc nuối, đôi khi còn có cả sự tức giận, vì ngở rằng đó là những gì của chính bản thân mình.
Trong đời sống hằng ngày, có những lúc chúng ta cảm thấy hạnh phúc bất ngờ, niềm vui bổng từ đâu hiện đến và ở bên chúng ta, rồi cũng vụt bay đi như khi đến, hết sức bất ngờ. Cũng có những lúc chúng ta đạt được thuận lợi trong công việc mà không cần phải tốn nhiều công sức; và còn có những của cải chúng ta đạt được không bằng con đường ngay chính. Chúng ta rất vui thích. Chúng ta ngỡ rằng, bằng chính tài năng, sức lực của mình mà có. Nếu bổng nhiên chúng ta mất đi tất cả, lúc đó chúng ta có biết nhận ra được sự thật như các Tông Đồ khi xưa: Biết nhìn vào chính mình, để lo chuẩn bị những cuộc khổ luyện đi lên núi, cầu nguyện thân tình với Chúa trong sự tỉnh thức để được tỏa sáng thật sự trong Chúa. Hay chúng ta kêu la phiền trách, đòi cho được những điều không phải là của chính mình. Chúng ta muốn mãi ở trong ánh sáng của người khác như thế sao? Thiên Chúa không cho chúng ta như thế đâu. Ngài sẽ cho ánh sáng biến đi khi chúng ta vừa có những ý nghĩ không chính đáng, để nhắc nhở và bảo mỗi người hãy quay về chính mình, hãy khổ công tập luyện như người nghệ sĩ, để có thể bước lên sân khấu. Hãy khổ công với những bước chân vượt lên núi, cầu nguyện thân tình với Chúa trong từng giây phút, từng công việc của cuộc sống. Khi đó mới được biến đỗi và trở nên sáng chói thật sự trước mặt Chúa. Khi đó ánh sáng sẽ không còn bị mất đi hay bị che phủ nữa.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết vâng nghe Lời Chúa, biết sống đúng với những gì mình lắng nghe, để được sáng chói trong vinh quang của Chúa.
19. Sống trong niềm tin – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Không ai sống mà không tin. Tin vào Thiên Chúa giúp người ta sống bình an, vui và hạnh phúc hơn.
Abraham tin vào Thiên Chúa
Thiên Chúa mời gọi Abram bỏ quê cha đất tổ để đi tới nơi Thiên Chúa sẽ chỉ cho, rồi Thiên Chúa sẽ làm cho ông có con cháu nối giòng, có đất để sống. 75 tuổi được gọi và ra đi (St.12, 4) nhưng đến 99 tuổi, Abraham vẫn chưa có con với Sara (St.17, 1.17). Khi Sara chết, ông vẫn không có đất để chôn vợ (St.23, 1-20). Lời hứa có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển, cũng như lời hứa có đất làm cơ nghiệp vẫn chưa được thực hiện hoàn toàn khi Abraham chết. Dưới cái nhìn của người đời, Abraham là người dại vì đã tin vào Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã thực hiện lời Ngài “quá trễ” đến độ người ta nghĩ rằng Ngài đã quên; tuy vậy Abraham vẫn một lòng tin vào Thiên Chúa, và vì thế ông là người mẫu cho các tín hữu. Thiên Chúa đã hứa, và Abraham đã tin. Tuy dù Abraham sống như những người khác, nhưng ông đã vâng phục Thiên Chúa trong mọi chuyện, kể cả việc sẵn sàng hiến tế Isaac. Chính vì tin vào Thiên Chúa mà ông trở nên công chính (St.15, 6).
Tin là thái độ của con người đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn ở gần bên mỗi người, mời gọi mỗi người bỏ mình để theo Ngài, và Ngài sẵn sàng can thiệp vào cuộc sống mỗi người khi cần. Xin cho chúng ta tin vào Thiên Chúa như Abraham.
Đức Giêsu lắng nghe Thiên Chúa trong cầu nguyện
Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đem Phêrô, Gioan và Giacôbê theo Ngài lên núi để cầu nguyện, và trong khi cầu nguyện Ngài đã biến hình. Có lẽ nhờ cầu nguyện, mà mỗi người được biến đổi, được trở nên giống Thiên Chúa hơn.
Phêrô rất phấn khởi khi được chứng kiến những điều đang xảy ra. Ông muốn ở lại luôn trên núi, ông sẵn sàng làm lều cho các Ngài. Phêrô nói mà không biết mình nói gì!
Khi Phêrô đang nói thì có đám mây che các Ngài, và có tiếng từ trời: “đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Thiên Chúa muốn con người vâng nghe Đức Giêsu. Thiên Chúa không muốn Con Ngài và những người theo Con Ngài ở hoài trên núi; Ngài muốn họ xuống núi để sống cuộc sống bình thường của họ giữa con người thời đại mình. Giây phút biến hình không biết kéo dài khoảng bao nhiêu phút, nhưng thất bại và thập giá còn hoài trong suốt cuộc sống của Đức Giêsu và các tông đồ, kể cả khi Đức Giêsu đã phục sinh từ cõi chết.
Cầu nguyện để thấy ánh sáng, để có sức sống, và được nghỉ ngơi trong cuộc sống tất bật mỗi ngày.
Tin vào Thiên Chúa được tỏ lộ qua cách sống
Thánh Phaolô sống rất tuyệt, nên Ngài đã dám nói với tín hữu ở thành Philipphê: “anh em hãy bắt chước tôi”. Ngài là người đã được ơn trở lại trên đường đi bắt các Kitô hữu tại Đamas, và kể từ đó Ngài đã hoàn toàn thuộc về Chúa. Ngài đã bôn ba đi rao truyền Lời Chúa, và thiết lập các cộng đoàn. Những bức thư Ngài viết cho các cộng đoàn trở thành “Lời Chúa” cho con người của mọi thời đại. Thuộc về Thiên Chúa trong chính cuộc sống và hành động của thánh Phaolô, là mẫu gương sống cho con người hôm nay.
Thánh Phaolô yêu thương những con cái mà Ngài đã sinh ra trong Chúa. Khi xa Ngài, đã có một số người sống như không có Thiên Chúa. Họ đã lấy những của vật chất làm Chúa của họ, họ tự hào nơi những điều đáng lẽ phải hổ thẹn. Thánh Phaolô kêu gọi họ hãy sống trong niềm tin vào Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu sẽ biến đổi thân xác chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài. Không kiên vững trong niềm tin vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, không thể đứng vững trong cuộc sống hiện tại.
“Hỡi những người anh em chí thân chí thiết của tôi, anh em là triều thiên và niềm vui của tôi, anh em hãy đứng vững trong niềm tin vào Chúa”. Ước gì mỗi người có thể nói với những người mình phục vụ như thánh Phaolô đã nói với những con cái của Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, điều khó nhất đối với Abraham trong việc vâng phục Thiên Chúa là gì?
2. Theo bạn, đâu là thập giá lớn nhất đối với thánh Phaolô? Tại sao bạn nghĩ vậy?
3. Tin vào Thiên Chúa đòi hỏi điều gì?
20. Vinh quang
Người ta thường nói:
“Có làm thì mới có ăn
Không dưng ai dể đem phần đến cho”
Hay: “Càng cao danh vọng càng dầy gian nan”
Thật vậy, muốn đạt được điều gì trong cuộc sống ta đều phải chịu nhiều hy sinh, vất vả. Càng gian lao khổ cực thì kết quả đạt được càng có giá trị cao. Một nông dân muốn vụ mùa của mình thu hoạch cao tất nhiên anh phải chịu gian lao, dầm mưa dãi nắng. Một sinh viên muốn được tuyển sinh cũng bắt buộc phải thức khuya dậy sớm dùi mài kinh sử…
Hôm nay Chúa Giêsu dẫn 3 môn đệ lên núi và Người đã biến hình sáng láng trước mặt các ông. Điều này đã làm cho các ông cảm thấy hạnh phúc tột độ. Đến nổi Thánh Phêrô đã thốt lên: ” Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.” (Lc 9, 33b). Đây chính là vinh quang thật của Chúa Giêsu. Vinh quang đã có tử thuở đời đời. Vinh quang được Chúa Cha xác nhận: ” Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người! ” (Lc 9, 35)
Do đâu mà Chúa Giêsu đã được vinh quang ấy? Vì Chúa Giêsu đã biết vâng theo ý Chúa Cha. Vâng theo ý Chúa Cha để sống thân phận làm người. Vâng theo ý Chúa Cha để đi con đường thập giá. Con đường mà có lúc Chúa Giêsu đã thốt lên: ” Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha “. (Mt 26, 42)
Tất cả chỉ vì yêu thương con người. Từ thuở ban đầu Thiên Chúa đã ban cho con người được hưởng hạnh phúc và vinh quang. Tiếc thay điều ấy đã bị đánh mất do tội nguyên tổ. Ba môn đệ hôm nay thay mặt cho loài người hưởng vinh quang ấy trong chốc lát. Vinh quang ấy sẽ được vững bền khi ta biết đi theo con đường mà Chúa Giêsu đã đi. Người đã nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy “. (Ga 14, 6)
Như vậy, ta cũng sẽ được gọi là ” Con yêu dấu ” của Chúa Cha nếu ta biết sống và đi con đường như Chúa Giêsu. Con đường thập giá đi đến vinh quang. Một nhà Tu đức có nói: ” Nếu bạn tìm Chúa Giêsu không Thập giá thì bạn sẽ gặp được Thập giá mà không có Chúa Giêsu ” Và hãy nhớ ta không đi một mình mà luôn có Chúa Giêsu cùng đi. Người đã hứa: ” Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20b).
Khi ta chu toàn tốt bổn phận trong cương vị hiện tại của mình cách chu đáo và gương mẫu là ta đang sống và đang đi theo Chúa Giêsu đấy.
21. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
MAU BIẾN ĐỔI
Chúa Giêsu Biến Hình
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến,
Chắc hẳn nhiều lần chúng ta phải thất vọng vì con người của mình sao mà tồi tệ xấu xa quá. Nhiều lần chúng ta cố gắng sửa đổi bản thân cho tốt hơn. Nhưng cũng nhiều lần chúng ta thất bại.
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu biến hình ra vinh quang; Thánh Phaolô hứa chúng ta cũng sẽ được biến đổi như thế nhờ quyền năng Thiên Chúa.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy kết hợp với Chúa Giêsu và xin Ngài biến đổi chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta đã được dựng nên giống hình ảnh Chúa, nhưng do tội lỗi, càng ngày chúng ta càng khác xa Ngài.
Sở dĩ chúng ta ngày càng khác xa Chúa là vì chúng ta hay dung dưỡng con người xác thịt mà không bồi dưỡng con người thần linh trong chúng ta.
Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Chúng ta gần gũi tội lỗi nhiều hơn là gần gũi với ơn Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (St 15,5-12.17-18)
Các bài đọc Cựu Ước từ Chúa nhật II Mùa Chay trở đi tuần tự nhắc lại những chặng đường quan trọng của Lịch sử Cứu độ. Hôm nay, đoạn sách Sáng thế đề cập đến chặng đầu tiên: Thiên Chúa kết giao ước với Abraham. Nhân loại cũ do nguyên tổ Ađam kể như đã hư mất vì tội lỗi. Thiên Chúa quyết định thành lập một nhân loại mới bắt đầu từ Abraham. Nếu Abraham chọn Thiên Chúa là Chúa của mình và tin vào Ngài, thì Thiên Chúa sẽ là Đấng bảo vệ ông, Ngài sẽ làm cho có một dòng dõi đông đức, là dân riêng của Ngài.
Giao ước được ký kết theo nghi thức thời xưa: Một số con vật được xẻ đôi đặt ở hai bên; những người kết ước đi giữa những con vật xẻ đôi ấy, ngụ ý rằng nếu không tuân giữ giao ước thì cũng sẽ bị chết phanh thây như những con vật ấy. Trong bài tường thuật này, chỉ có Thiên Chúa (được tượng trưng bởi lửa và khói) đi qua những con vật ấy, Abraham không đi qua, bởi vì đây là giao ước đơn phương: chỉ mình Thiên Chúa cam kết thôi.
Hình ảnh những mãnh cầm tượng trưng cho những thế lục thù địch. Chúng xà xuống trên những con vật để phá việc ký kết giao ước ấy. Nhưng Abraham đã xua đuổi được chúng.
2. Đáp ca (Tv Tv 26)
Thánh vịnh 26 được phụng vụ chọn đọc tiếp theo bài đọc I vì nó diễn tả đúng tâm tình của Abraham: quyết chọn Chúa là chỗ nương tựa của mình và tuyệt đối tin tưởng nơi Ngài.
3. Tin Mừng (Lc 9,28-36)
Chúng ta nên để ý tới bối cảnh của việc Chúa Giêsu biến hình:
1. Ngài biến đổi hình dạng ra vinh quang sáng láng đang lúc cầu nguyện.
2. Có một số chi tiết cho thấy cuộc biến hình này có liên quan tới việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại:
Việc biến hình xảy ra “khoảng 8 ngày sau”, tức là sau việc Ngài báo tin chịu nạn lần thứ nhất (xem Lc 9,22)
Hai ông Môsê và Êlia đàm đạo với Ngài “về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
Tiếng Chúa Cha từ trời phán “Đây là Con Ta, người Ta tuyển chọn” là trích những đoạn Cựu Ước nói về Người Tôi Tớ của Giavê chịu khổ để chuộc tội cho loài người.
Như thế Chúa Giêsu hôm nay biến hình để cho 3 môn đệ thân tín thấy trước một chút vinh quang thật của Ngài, nhờ đó các ông sẽ đỡ hoang mang khi sau này thấy Ngài chịu nạn chịu chết.
4. Bài đọc II (Pl 3,17–4,1)
Mở đầu trích đoạn này, Phaolô kêu gọi tín hữu Philipphê hãy noi gương bắt chước Ngài. Sở dị Phaolô dám kêu gọi như thế vì Phaolô cũng đã bắt chước tổ phụ Abraham, đặt trọn niềm tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa.
Phaolô còn khuyến khích rằng nếu chúng ta đặt trọn niềm tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa thì Ngài sẽ dùng quyền năng của Ngài mà chế ngự tất cả những yếu đuối của thân phận con người và biến đổi chúng ta thành vinh hiển như Ngài.
IV. Gợi ý giảng
*1. Ơn gọi và Biến hình
Ơn gọi của Abraham là bỏ xứ Ur thuộc Mesopotamie tiến vào Canaan. Người không đức tin sẽ cho Abraham là kẻ lắm tham vọng và tin hão huyền: bỏ cái đang có, đi tìm cái viển vông. Abraham bỏ ruộng vườn, nhà cửa theo ơn gọi, tìm sự vất vả, sống thiếu thốn và khó khăn. Ông lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Trước mặt ông là giải sa mạc mênh mông, nắng cháy da diết, cỏ cây úa vàng, giọt nước quí hơn kim cương. Vì tín trung với ơn gọi, Abraham đã thành công, trở thành anh hùng lập quốc, được chúc phúc và biến hình.
Ơn gọi của Phaolô là quên đi dĩ vãng, diệt cái kiêu căng và cuồng tín Biệt Phái. Từ thái cực là một kẻ hung hăng bắt đạo, Phaolô đã mềm nhũn và ngoan hiền dưới ánh sáng kỳ diệu với lời trách nhẹ nhàng: “Saulê, sao người bắt bớ Ta?”. Phaolô làm bạn với nhóm 12 và trở thành Tông Đồ Dân Ngoại. Phaolô vui nhận thử thách, không ngừng thuyết giảng, và trung thành đến giọt máu cuối cùng. Phaolô đã được lột xác và biến hình.
Lịch sử Giáo hội ghi nhận nhiều cuộc biến hình khác. Từ say rượu đến say Chúa; từ gái giang hồ thành thánh nhân; từ trai tứ chiếng nên đấng lập dòng; từ kẻ khô khan đến người sốt mến; từ người tham lạm, hà khắc trở thành kẻ rộng lượng và khoan nhân… Đó là những cuộc canh tân và biến hình đã, đang và còn tiếp tục xảy ra trong Giáo hội. Đồng thời chứng minh rằng ơn Chúa dư đủ cho mọi người và Chúa đang thắng ma quỉ, xác thịt và thế gian nơi cung lòng mỗi cá nhân.
Phúc Âm hôm nay hé lộ một chút vinh quang và sự cả sáng của Cứu Chúa khi Ngài đàm đạo với hai nhân vật lịch sử nổi tiếng và kính yêu là Elia và Môisen. Tại thế, vì sứ mệnh cứu độ, Chúa Giêsu che giấu tất cả uy quyền và dũng lực của Ngôi Lời, để sống đời hèn mọn, bất lực và tầm thường của một thế nhân. Ngài cần ăn uống, nghỉ ngơi. Ngài phải đau buồn, bị chê bai và chỉ trích. Ngài lo lắng, và bồn chồn về cuộc thảm tử sắp đến. Nhưng điều khác biệt là Ngài vui đón ý Chúa Cha. Bởi vậy, một lần nữa, Chúa Cha đã khen thưởng “Đây là Con Ta Dấu Yêu, hãy nghe lời Ngài”. Trong phút giây ngút ngàn thân thương ấy, Ngài bước ra khỏi cuộc đời lam lũ và ô trọc để vui hưởng phút vinh quang ngây ngất và tuyệt vời của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Không phải chỉ có Abraham, Môisen, Êlia, Tông đồ mới có ơn gọi và được biến hình. Trái lại, ơn gọi phổ quát “Hãy nên hoàn thiện như Cha các con ở trên trời” đã được trao tặng và mời gọi mỗi cá nhân. Thực thi ơn gọi ấy một cách hoàn hảo và trọn vẹn thì chúng ta ắt sẽ được biến hình.
Giám mục John Quinn trong lễ Thêm sức cho 50 em tại Sacramento năm 1983 đã mô tả ơn gọi và sứ mạng của người Việt Nam tại Mỹ như sau: “Cha rất hài lòng khi thấy các con họp nhau tôn thờ và ca tụng Chúa bằng tiếng mẹ đẻ. Các con hãy duy trì nền văn hóa và truyền thống cổ truyền, đừng để nó mai một đi. Cha vui mừng vì hình thức đạo đức bên ngoài biểu lộ đức tin anh hùng và sâu xa chúng con thừa hưởng do công quả của các Đấng tử đạo Việt Nam. Cha cảm động vì sự hiện diện của chúng con ở đây nên ánh sáng và muối đất cho những người khác”.
Tin đạo, thực hành đạo là ơn gọi của chúng ta. Sống đạo và mang đạo vào đời là phương thế trong lành, thánh thiện và vĩ đại chúng ta phải thực hiện để “danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện”. Đừng để phú quý tạo tâm kiêu và bất cần Chúa. Đừng để ghen tương đốt cháy và tiêu hủy thiện chí. Đừng để tị hiềm gây bất mãn, đố kỵ và tranh chấp. Đừng để ích kỷ hủy hoại tình đồng hương và khóa cửa lòng. Hãy nhận diện ra ai là đồng chí để cùng nắm tay, dìu nhau bước tới và biến hình và ai là kẻ thù đang khai trừ và bắt bớ Đức Kitô trong Giáo hội để cẩn trọng, đề phòng và cảm hóa. Và nhất là hãy can đảm cùng Chúa Kitô “vạn lý trường chinh” trong âm thầm, chịu đựng. tự hủy, hy sinh, khiêm tốn, tin tưởng và phó thác. Chúng ta không bao giờ lầm đường khi bước trên những dấu chân của Đức Kitô. Đó là con đường biến hình duy nhất của ông bà, anh chị và của tôi. (Lm Nguyễn Bình An, Nguyệt san “Dân Chúa Mỹ Châu”)
*2. Hai ngọn núi
Hãy so sánh cảnh hôm nay với cảnh trên núi Cây Dầu:
– cùng xảy ra trên một ngọn núi: núi biến hình (Tabor?) và núi Cây Dầu.
– ở 2 nơi Chúa Giêsu đều biến hình: ở núi biến hình, Chúa Giêsu từ hình dáng loài người biến thành hình dáng Thiên Chúa; ở núi Cây dầu, từ hình dáng Thiên Chúa biến ra hình dáng con người yếu đuối.
Cả 2 sự biến hình đều diễn ra trước 3 nhân chứng: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Và 2 điểm phụ: 2 lần ấy, họ đều ngủ, còn Chúa Giêsu đều thức và cầu nguyện.
Nhưng 2 cuộc biến hình này bổ túc ý nghĩa cho nhau: Trên núi biến hình, các môn đệ thấy được thiên tính của Chúa Giêsu vinh quang hơn bao giờ hết, khiến họ ngất ngây sung sướng, muốn ở mãi trong tâm trạng ngất ngây đó; Trên núi Cây dầu, họ thấy Thầy trong nhân tính yếu đuối hơn bao giờ hết. Con người thật của Chúa Giêsu vừa có thiên tính vừa có nhân tính. 2 biến cố bổ túc nhau giúp ta hiểu được con người thật của Ngài.
* Suy gẫm 2 biến cố này, ta cũng thấy được con người thật của ta: trong ta có một phần là Adam con của xác thịt, một phần là Con của Chúa.
– Cũng như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình, có nhiều lúc chúng ta cảm thấy ngất ngây sung sướng; thấy mình sốt sắng quá, gần Chúa qua, yêu thương anh chị em quá, sẵn sàng làm những điều tốt cho anh chị em, sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình…
– Nhưng cũng như Chúa Giêsu trên núi Cây dầu, lại có những lúc chúng ta suy sụp trầm trọng; phần Adam nổi lên lấn áp phần Con của Chúa. Khi đó ta thấy đời thật buồn nản, thấy không ai thương mình, không ai hiểu mình, Chúa hình như cũng xa mình… Từ đó ta nguội lạnh với Chúa, ích kỷ với anh chị em, khe khắt với những kẻ làm khổ mình.
+ Nhưng có một điều rất quan trọng ta hãy nhớ: Chúa Giêsu luôn cầu nguyện khi biến hình vinh quang trên núi biến hình cũng như khi biến hình thảm não trên núi Cây dầu. Cầu nguyện giúp thống nhất con người chúng ta đúng theo kế hoạnh Thiên Chúa. Đặc biệt nhớ cầu nguyện trong lúc suy sụp.
+ Và nếu ta biết cầu nguyện để thống nhất hóa con người mình như thế thì ta sẽ cũng như Chúa Giêsu được Chúa Cha âu yếm nói “Đây là con yêu dấu của Ta” (trên núi biến hình), và được thiên thần Chúa an ủi (trên núi Cây Dầu).
“Lạy Chúa
Xin cho con được nếm những giây phút ngất ngây như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình.
Trong những giây phút đó, xin cho con biết làm như Chúa Giêsu xưa: con sẽ hướng về Chúa để cầu nguyện và con sẽ được nghe lời Chúa nói: Con là con yêu dấu của Cha.
Và lạy Chúa
Khi con gặp những lúc suy sụp, xin cũng cho con biết làm như Chúa Giêsu xưa: Con cũng hướng về Chúa để cầu nguyện. Và khi đó con cũng được bàn tay Chúa an ủi, nâng đỡ và xoa dịu con.” (Viết theo Mark Link, Sunday homilies)
*3. Nét mặt con người
Nét mặt con người rất quan trọng. Nhớ ai là nhớ mặt người đó. Khi ta không nhớ mặt người nào thì kể như người đó đã trở thành một chiếc bóng.
Những sắc thái của nét mặt diễn tả được rất nhiều điều đến độ đáng ngạc nhiên, bởi đó nét mặt là đối tượng nghiên cứu rất thú vị. Nét mặt luôn biểu lộ cho biết ta là ai và cuộc sống của ta như thế nào. Điều này giải thích lý do người ta hay dùng tiếng “mặt” để nói về người khác. Chẳng hạn: “Từ lâu rồi tôi không thấy mặt nó”. Nhìn nét mặt một người, ta có thể đoán được cảm giác bên trong của người ấy: họ đang vui hay buồn, hay thờ ơ…
Chúng ta cũng thường nói “mất mặt”. Trong trường hợp này, ‘mặt” chính là danh dự của con người. Khi ta nói người nào đó có “hai mặt” thì có nghĩa đó là một con người dối trá…
Mỗi người chúng ta có nhiều nét mặt, được biểu lộ trong nhiều tình huống khác nhau: khi thì hạnh phúc, khi thì buồn rầu, khi thì bạo dạn, khi thì nhút nhát, khi thì bình thản, khi thì sợ sệt, khi thì đau đớn, khi thì vui mừng, khi thì thân thiện, khi thì giận dữ… Điều này chẳng có gì đáng xấu hổ cả, vì đó là một phần của thân phận làm người của chúng ta. Điều duy nhất đáng xấu hổ là nét mặt giả tạo, vì tất cả những nét mặt được kể trước đó đều nói lên sự thật, còn nét mặt giả tạo nói lên sự dối trá.
Tại sao người ta ngại cho kẻ khác thấy mét mặt thật của mình? Tại sao người ta hay mang mặt nạ? Phải chăng vì người ta sợ người khác biết sự thật yếu kém của mình? Có lẽ chính vì thế mà nhiều khi người ta cố làm một nét mặt tươi cười đang khi trong lòng thì muốn khóc.
Bài Tin Mừng hôm nay nói khi Chúa Giêsu ở trên núi thì mặt Ngài trở nên sáng chói như mặt trời. Thật lầm khi nghĩ rằng đó chính là nét mặt thật của Chúa. Thực ra, điều mà các môn đệ đã thấy là thật, nó tỏ lộ vinh quang bên trong của Ngài, sự vinh quang mà thường khi Ngài che dấu. Nhưng nói rằng nét mặt vinh quang trên núi hôm ấy là nét mặt thật thì khiến người ta tưởng rằng những nét mặt khác là không thật, là giả.
Nét mặt mà Chúa Giêsu tỏ lộ trên núi là một nét mặt đặc biệt nhưng không phải là nét mặt duy nhất của Ngài. Ngài có tất cả những nét mặt như chúng ta ta có, chỉ trừ những nét mặt giả tạo. Chúng ta đã thấy có khi Ngài mệt, có khi Ngài giận, có khi Ngài buồn, có khi Ngài vui, có khi Ngài trìu mến, có khi Ngài cảm thông… Tất cả những nét mặt ấy đều thật, vì đàng sau những nét mặt ấy là bản chất thật của Ngài: vừa là người hoàn toàn giống chúng ta (chỉ trừ tội lỗi), vừa là Thiên Chúa vinh quang, như tiếng từ trời phán “Đây là Con yêu quý của Ta”.
Mặc dù người ta nói nét mặt là cửa sổ của tâm hồn, nhưng mỗi nét mặt che dấu nhiều hơn là biểu lộ. Điều cốt lõi của con người vẫn còn vô hình không thấy được. Mỗi người là một huyền nhiệm.
Cũng như Abraham, chúng ta phải sống bằng đức tin. Đức tin dạy rằng đàng sau những nét mặt bình thường của một người là thân phận của một người con của Chúa, một người anh chị em của Chúa Giêsu, hướng tới một vinh quang đời đời. (FM)
*4. Một thoáng vinh quang
Trên núi Tabor, ánh vinh quang của Thiên Chúa đã tỏa chiếu từ thân xác Chúa Giêsu, và Ngài được biến hình. Các môn đệ đã ngây ngất trước vẻ đẹp và sự sáng ngời ấy. Đó không phải chỉ là vẻ bề ngoài, mà là vinh quang thật từ bên trong thoáng tỏ lộ ra. Nói tắt một lời: Đó là chính Thiên Chúa ở trong Chúa Giêsu.
Chúng ta cũng có vinh quang thần linh ở trong chúng ta, bởi vì chúng ta đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta cũng có những thoáng biến hình. Van Gogh nói: “Một người tiều phu hay một người thợ mỏ nghèo nhất cũng có thể có những thoáng cảm hứng khiến anh ta cảm thấy gần như đang ở thiên đàng”.
Một người nghèo sống trong khu nhà dành cho những kẻ vô gia cư đã kể câu chuyện sau đây. Một hôm ông đi dạo trên phố và tình cờ vào một ngôi nhà thờ lúc nào không hay. Ông không nhớ là lúc đó ông có cầu nguyện không, nhưng ông nhớ là cảm thấy tâm hồn mình chìm ngập trong ánh sáng. Mọi buồn chán đều tan biến hết, chỉ có bình an. Ông cảm thấy mình rất gần Chúa và được Chúa yêu thương. Cảm nghiệm này rất sâu đậm mặc dù chỉ thoáng qua trong phút chốc. Ông nói rằng ông sẵn sàng đánh đổi cả đời để có được một thoáng cảm nghiệm ấy. Khi ông rời nhà thờ, cảm nghiệm ấy tan loãng dần. Về sau, ông trở lại nhà thờ nhiều lần để mong có lại cảm nghiệm tuyệt vời ấy, nhưng không được.
Điều sai lầm của người vô gia cư trên là muốn bám cứng vào một cảm nghiệm thoáng qua. Nói cách khác, ông muốn đi lùi chứ không đi tới. Nói rõ hơn nữa: lẽ ra ông phải biết dùng cái cảm nghiệm thoáng qua ấy để soi sáng cuộc đời tăm tối của mình, và nhờ đó mà can đảm tiến bước trong hy vọng.
Phêrô cũng sai lầm như thế. Ông muốn ở lại mãi trên núi. Ông muốn bám cứng vào cảm nghiệm vinh quang hạnh phúc. Ông không muốn xuống núi tiếp tục cuộc sống thường ngày. Nhưng Chúa Giêsu đã giục ông xuống núi để đối diện với tương lai. Ngài không muốn cảm nghiệm trên núi ấy trở thành chỗ cho Phêrô ẩn trốn khỏi cuộc chiến đấu đang đợi chờ phía trước. Một thoáng ánh sáng Ngài ban cho ông là để giúp ông trực diện với giờ tăm tối sắp đến.
Nghe lời Chúa, Phêrô đã xuống núi. Nhưng lạ thay, cảm nghiệm thoáng qua hôm ấy vẫn còn sáng mãi trong lòng ông. Nhiều năm sau ông còn viết: “Chúng ta đã được chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi… Khi ấy có tiếng phán từ trời rằng: Đây là Con yêu quý của Ta, Ta hài lòng về Ngài” (1 Pr 1,17-18).
Chúng ta cũng những thoáng cảm nghiệm được ánh sáng và niềm vui. Những thoáng cảm nghiệm ấy cho ta thấy được đất hứa mà chúng ta phải tiến đến trong đức tin. Nhưng nên biết rằng Chúa ban những thoáng biến hình ấy là để thêm sức cho chúng ta sống những nhiệm vụ hằng ngày.
Tín ngưỡng và sự cầu nguyện không phải là những chỗ ẩn trốn, mà là những trợ lực giúp chúng ta đương đầu với gian lao thử thách. (FM)
*5. Người vẫn đồng hành
Truyện ngụ ngôn kể về một nhà thiên văn có thói quen mỗi buổi tối lại nhìn lên các ngôi sao, nghiên cứu các vì tinh tú đang xoay vần, chuyển đổi trong vũ trụ bao la.
Một lần kia, đang đi dạo mát quanh vùng, mải mê suy nghĩ những chuyện trên trời, ông ta vô ý ngã xuống giếng cạn. Tiếng kêu cứu thất thanh, khiến một người đi ngang qua đó nghe được. Ông vội vàng chạy đến miệng giếng, liền đoán được việc gì đã xay ra, bèn nói với nhà thiên văn: “Này ông, ông cứ muốn biết những việc xảy ra trên trời, còn những việc sờ sờ dưới đất sao ông không thấy?”
***
Đêm hôm ấy, Chúa Giêsu cùng với ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện.
Trong lúc Người thân mật cầu nguyện với Chúa Cha thì các ông lại mê mệt trong giấc ngủ say. Nhưng khi tỉnh dậy, thấy Chúa Giêsu vinh quang chói loà, cả hai ông Môsê và Êlia đàm đạo với Người cũng rạng ngời vinh hiển, thì Phêrô mau mắn thưa: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, hay quá!” (Lc 9,33). Các ông thích ở chốn vinh quang sáng láng, nhưng lại không tỉnh thức cầu nguyện. Các ông muốn cắm lều trên núi cao, nhưng lại chìm sâu trong cơn ngủ mê. Sau này trong vườn Cây Dầu, cũng chính ba môn đệ này vẫn còn mê ngủ, cho đến khi kẻ thù đến bắt mất Thầy. Đó là thân phận yếu hèn của mỗi người chúng ta…
Chính vì biết các môn đệ yếu chuối mà Chúa Giêsu đã cho các ông được chiêm ngắm vinh quang của Người, dù chỉ trong chốc lát, để củng cố niềm tin của các ông trong cuộc khổ nạn mà Người sắp thực hiện tại Giêrusalem. Đồng thời để các ông có bằng chứng loan báo về việc Người phục sinh sau này.
Việc biến hình sáng láng hôm nay cũng là để chứng thực cho lời tuyên xưng của Phêrô ở Xêdarê cách đây tám ngày: “Thầy là đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).
Nếu cuộc biến hình vinh quang của Chúa Giêsu là sự đáp trả của Chúa Cha qua việc Người chấp nhận cuộc khổ nạn, thì sự vâng theo ý Chúa hôm nay, xem ra vất vả nặng nề, cũng sẽ trở nên nguồn vui bất diệt cho chúng ta ngày mai.
Nếu đang khi cầu nguyện, dung mạo Người bỗng biển đổi, thì việc gặp gỡ, kết hiệp với Chúa trong suy niệm và cầu nguyện sẽ biến đổi tâm hồn, cuộc sống và cả con người chúng ta mỗi ngày để nên giống Chúa hơn.
Nếu sau cuộc biến hình, Chúa Giêsu trở lại với khuôn mặt bình thường, Thầy trò lại tiếp tục cuộc sống thường nhật, thì sau những niềm vui khôn tả Chúa ban trong cầu nguyện, chay tịnh và bác ái, Người vẫn tiếp tục đồng hành với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc sống.
***
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biến hình sáng láng trên núi Tabo và đã hấp hối bi thảm trên núi Cây Dầu. Nhưng trong hai lần ấy, Chúa đều cầu nguyện mật thiết với Chúa Cha. Xin cho chúng con biết cầu nguyện, lúc hạnh phúc cũng như khi đau khổ, khi an vui cũng như lúc gặp thử thách, để chúng con luôn kết hiệp với Chúa và để Chúa nâng đỡ chở che. Amen. (Thiên Phúc)
*6. Chuyện minh họa
a/ Biến đổi
Một người bán gỗ cho xưởng mộc. Anh thường thủ lợi bằng cách đo gỗ thiếu. Ngày kia, có tin đồn đến xưởng là anh ta nhập đạo. Nghe thấy thế, mọi người bán tín bán nghi rồi bàn thảo mỗi người mỗi ý. Có một người lặng lẽ ra kho gỗ, một lúc sau trở vào dõng dạc tuyên bố:
– Đúng, anh ta nhập đạo thật.
– Sao anh biết?
– Tôi vừa xem lại số gỗ anh ta chở tới hôm qua. Tôi thấy là đúng với qui cách ta đặt, không thiếu nữa.
Người nào tiếp nhận đức Kitô cũng phải thay đổi cuộc đời và sống ngay chính.
b/ Đổi tiền
Đến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Đó là ý nghiã Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, nhờ mầu nhiệm Hiển dung, Chúa mời gọi chúng ta vâng nghe lời Đức Kitô và đổi mới cuộc đời. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Chúa Giêsu phải trải qua đau khổ thập giá / rồi mới bước vào vinh quang phục sinh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa hiểu rằng / đó cũng là con đường mà mỗi Kitô hữu phải đi qua.
2. Như thánh Phêrô / ai cũng đều mong muốn được hạnh phúc trọn vẹn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người hiểu rằng / họ chỉ được hạnh phúc thật sự / khi tận tụy phục vụ tha nhân.
3. Trong đời sống thường ngày / con người gặp biết bao nhiêu là thử thách gian truân / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / trong những giờ phút đen tối nhất của cuộc đời / được ánh vinh quang Chúa tỏ hiện nơi Đức Kitô soi sáng đỡ nâng.
4. Đây là Con yêu dấu của Ta / Ta hết lòng quý mến / Các ngươi hãy vâng nghe lời Người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết chăm chỉ lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cởi bỏ con người cũ và loại trừ những việc làm xấu xa tội lỗi, để mặc lấy con người mới theo hình ảnh Đức Kitô là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Chúa Cha rất yêu thương Ngài và vừa lòng về Ngài. Chúng ta được hạnh phúc thông chia quyền làm con của Chúa Giêsu. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài dâng lên Chúa Cha những tâm tình hiếu thảo của chúng ta.
– Lúc chúc bình an: Chúng ta hãy chúc bình an cho nhau trong tâm tình mến yêu nhau thực sự; và cũng hãy nghĩ đến những người xích mích với chúng ta mà hiện không có mặt trong Thánh lễ này, với quyết tâm cũng muốn hòa giải với họ nữa.
VII. Giải tán
Sau khi các môn đệ được chứng kiến vinh quang Chúa Giêsu trên núi, Chúa Giêsu đã bảo các ông xuống núi tiếp tục cuộc sống hằng ngày. Chúng ta cũng vừa chứng kiến vinh quang Chúa trong Thánh Lễ. Giờ đây chúng ta hãy trở lại cuộc sống, tiếp tục những nhiệm vụ thường ngày với một sức mạnh mới.
22. Thập giá vinh quang
Chúa Giêsu biến hình hôm nay là một biến cố lạ kỳ đối với các môn đệ. Một người Thầy mà các ông đã gần gũi, từng chia sẻ buồn vui sao giờ lại trở nên vinh hiển đến khó tả? Tin Mừng chỉ nói dung mạo Ngài khác thường, áo Ngài trở nên trắng tinh. Với cách diễn tả rất vắn tắt cuộc hiển dung của Chúa Giêsu, Tin Mừng dẫn người nghe đến ý nghĩa cần thiết: Chúa Giêsu đang chuẩn bị cho cuộc khổ nạn của mình tại Giêrusalem, vinh quang Ngài tỏ ra trong phút chốc gieo cho môn đồ một niềm tin trước một biến cố đau buồn sắp xảy ra.
Các ông Phêrô, Gioan, Giacôbê lần đầu tiên chứng kiến là lùng này đến lạ lùng khác. Trước hết là gương mặt và y phục của Thầy mình: ” Dung mạo Người trở nên khác thường, y phục Người trở nên trắng tinh”. Gương mặt Chúa Giêsu giờ đây được mặc lấy vinh quang của Thiên Chúa Cha. Nói cách khác, vinh quang Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu được biểu lộ cách rõ ràng cho các ông. “Á o của Người trở nên trắng tinh ” nghĩa là Chúa Giêsu đã tiến vào khung cảnh của thiên đàng. Đức Giêsu tạm thời mặc lấy vinh quang phục sinh mà Ngài sẽ được hưởng khi sống lại.
Chúa Giêsu không tự ý quyết định điều gì ngoài ý Chúa Cha. Việc Ngài biến hình trong lúc cầu nguyện đã nói lên rằng Ngài cần biết thật chắc rằng Chúa Cha muốn Ngaì làm điều mà Ngaì sắp làm. Qủa thật , Ngài cần biết rõ ý Chúa Cha là Ngài phải lên Giêrusalem để chịu chết và chết trên thập giá.
Sự lạ kế đến đó là sự xuất hiện của Môisê và Elia. Đây là hai nhân vật vĩ đại của lịch sử Do thái. Môisen là nhà lập pháp vĩ đại, là người đã đem luật pháp của Thiên Chúa đến với loài người. Còn Elia là người vĩ đại hơn hết trong các tiên tri, qua ông mà Thiên Chúa phán dạy cách đặc biệt với loài người. Nhưng 2 ông xuất hiện ở đây để làm gì? Có thể nói 2 nhân vật vĩ đại này đến với Chúa Giêsu để ủng hộ Ngài, cứ mạnh bước đi! Hai ông muốn làm chứng rằng Chúa Giêsu đã đi đúng đường.
Điều lạ thứ 3 là hình ảnh đám mây sáng láng xuất hiện bao trùm lên các ông. Nếu đám mây này xuất hiện bao trùm thì cũng là chuyện thường tình, vì trên núi cao mây tụ lại là hết sức nhanh. Chỉ trong vài phút mây có thể tụ lại đầy ấp trên đỉnh núi rồi lại tan ra cũng nhanh như vậy. Tuy nhiên, có một điều đặc biệt là từ trong đám mây có tiếng nói của Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người”. Chính Chúa Cha đã thừa nhận Chúa Giêsu là con của Ngài. Một lần nữa Chúa Cha đã chuẩn nhận con đường Chúa Giêsu sắp đi là hoàn toàn đúng đắn.
Chúa Giêsu giờ đây không còn nghi ngờ gì về quyết định của mình nữa. Con đường thánh giá Ngài sẽ qua trước hết có sự xác minh của lịch sử, có nhà lập pháp và vị tiên tri vĩ đại. Nhưng rồi một điều quá rõ ràng là chính Chúa Cha cũng đã chuẩn y con đường mà Chúa Giêsu đã chọn. Chính việc xảy ra trên núi này đã khiến Chúa Giêsu bước đi không nao núng trên con đường tới thập giá.
Cuộc biến hình của Chúa Giêsu mang lại cho các tông đồ niềm hy vọng và là một lời khích lệ cho các tín hữu. Đời sống của chúng ta tuy còn khó khăn, khổ cực, còn nhiều gánh nặng nhưng tất cả sẽ trở nên giá trị cứu độ khi ta biết thông phần với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Nếu ta chấp nhận khốn khó cùng Đức Kitô thì chắc chắn chúng ta cùng được hưởng vinh quang như Người. Cùng với 3 môn đệ xưa kia, ta ý thức rằng con đường thập giá hoàn toàn khổ nhục nhưng đằng sau đó là vinh quang mà Thiên Chúa sẽ ban cho ta. Các ông đã thấy được vinh quang bên kia cảnh nhục nhã, khải hoàn bên kia cảnh khổ đau.
Trong niềm mong chờ được hưởng vinh quang mỗi kitô hữu phải để Lời Chúa hướng dẫn từng ngày. Lời phán dạy của Chúa Cha ” Hãy vâng nghe lời Người ” như là điều kiện tiên quyết mà người môn đệ phải có. Khi ta để lời Chúa hướng dẫn, khi sống theo Chúa Kitô thì người tín hữu mới thoát khỏi cảnh hoang mang sợ hãi.
Điều nguy hiểm nhất ngày nay là con người không biết đâu là chân lý của cuộc đời. Con người sống trong nghi ngờ tất cả. Phần chúng ta thật may mắn vì Chúa Cha đã gửi gấm chúng ta cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chính là thầy dạy khôn ngoan và đang tin cậy nhất. Đời sống của kitô hữu không chủ trương đi tìm sự khổ nhục, vì chính tự sự khổ nhục không đem lại giá trị cứu rỗi. Chúng ta được mời gọi bước theo Chúa Kitô, con đường Chúa kitô là chấp nhận đau khổ. Chính khi chấp nhận đau khổ cùng Chúa Kitô chúng ta mới được hưởng vinh quang cùng với Ngài. Vinh quang không xuất hiện vì chính nó, nhưng nó xuất hiện để khoát lên một vẽ đẹp rực rỡ cho những công việc bình thường mà chúng ta thực hiện trên con đường theo Chúa Kitô.
23. Đau khổ và vinh quang – Cố Lm Hồng Phúc
Phúc Âm thánh Luca thường được gọi là Phúc Âm cầu nguyện. Tin Mừng nói đến 15 lần việc Chúa đi cầu nguyện thì 11 lần do thánh Luca.
Hôm nay, Chúa đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện và việc Chúa biến hình xảy ra trong giờ cầu nguyện đó. Nhiều khi người ta cũng chứng kiến cảnh một số các thánh mặt rạng rỡ trong khi đăm chiêu đàm đạo với Chúa.
Chúa Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor, cao khoảng 600 thước và cho các ông được chứng kiến vinh quang của Ngài, như một ngày kia các ông sẽ là nhân chứng cuộc hấp hối của Ngài trong vườn Cây Dầu. Trong đời của Chúa, đau khổ và vinh quang gắn liền với nhau thì trong cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng vậy. Sự đọc kinh cầu nguyện sẽ giúp ta vượt thắng đau khổ lo âu, biến hóa đau khổ thành vinh quang.
Đang khi Chúa cầu nguyện thì “diện mạo Ngài đổi khác thường”, như có ánh sang từ châu than loan tỏa ra, “áo Ngài trắng tinh sáng láng”, và hai bên có Moisê và Êlia xuất hiện. Hai nhà tiên tri đại diện Cựu ước cũng đã từng được chứng kiến vinh quang của Thiên Chúa trên núi Horeb (I Vua 19, 13-21), và Sinai (X.H 20, 2-17).
Ba Đấng đàm đạo về việc gì?
Luca là người duy nhất cho biết: “Về sự chết của Chúa sẽ thực hiện tại Giêrusalem”.
Chúa Giêsu là Con Chiên sẽ gánh hết tội nhân loại. Ngài là vật tế sinh. Ngài biết rằng Ngài đến cũng vì mục đích ấy. Vinh quang núi Taborê không làm quên lãng khổ nạn đồi Calvê. Khuôn mặt sang chói hôm nay, một ngày kia sẽ “không còn hình tượng” (Isaia). Áo chói lọi hôm nay, một ngày kia sẽ bị lột trần phân chia.
Là một người như chúng ta, Chúa cũng có tình cảm, cũng cần được chia sẻ trong những phút ưu phiền cô đơn, Moisê và Êlia đã từng bị bắt bớ có thể mang lại phân nào chút thông cảm và an ủi, trước giờ quyết định quan trọng.
Nhưng, nhất là lời kinh của Chúa đến thẳng Đức Chúa Cha “Đấng hằng tôn vinh Chúa Con” (Gio 8, 54). Bấy giờ từ trong đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Ba lần, có tiếng bởi trời vọng xuống để long trọng tôn vinh Đức Chúa Con; đó là sau khi Ngài chịu phép Rửa, khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, hôm nay trên núi biến hình và ngày mai khi sắp bước vào tuần tử nạn. Cuộc biến hình là một suy tôn bằng hành động rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa.
Câu kết luận Chúa dành cho chúng ta hôm nay: HÃY NGHE LỜI NGƯỜI. Moisê và Êlia đã biến mất, đạo cũ đã lùi vào dĩ vãng. Mọi chủ thuyết triết học, mọi ý thức hệ vắng bóng một thời rồi cũng sẽ bị lãng quên. “Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu”.
Văn hào André Froissard thuộc Hàn lâm viện Pháp đã được ơn “trở lại” lạ thường. Ông đã thuật lại trong cuốn sách thời danh “Có Thiên Chúa và tôi đã gặp Ngài”. Thân phụ ông, TTK đảng cộng sản Pháp, đã từng tuyên bố: “Nếu có Thiên Chúa thì tôi khuyên ‘ông ấy’ lo rút lui vì không ai thích ông”. Nhưng chính con ông lại được gặp gỡ Chúa và khẳng định: “Khi người ta được may mắn gặp Thiên Chúa thì mọi sự khác chỉ là trò hề. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng không làm cho tôi thất vọng kể từ một buổi sáng năm ấy, 1935” (Phỏng vấn của Paris Match 8-4-1988).
“Lạy Chúa Giêsu là Đức Chúa và là Cứu Chúa của con, trong tay Ngài con được an toàn. Nếu Ngài gìn giữ con, nào con sợ chi.
Nếu Ngài ruồng bỏ con, con không còn gì để hy vọng nữa. Con xin Chúa ban điều tốt nhất cho con.
Và con xin phó thác hoàn toàn cho Chúa” (HY Newman).
24. Lắng nghe lời – Lm. Anmai, CSsR
Thiên Chúa là một vị Thiên Chúa đầy quyền năng. Thiên Chúa vẫn bày tỏ quyền năng của mình bằng cách này hay cách khác, qua người này hay người kia để cho dân của Ngài biết rằng Ngài có quyền năng cũng như Ngài yêu thương dân của Ngài. Những ai được Thiên Chúa tỏ mình là những người được thương một cách đặc biệt, được chọn một cách hết sức là ưu ái.
Hôm nay, trang Tin mừng chúng ta vừa nghe, Thánh Luca thuật lại chuyện “Chúa Giêsu biến hình” để cho các môn đệ thấy vinh quang của Ngài. Rõ ràng, các môn đệ hôm nay được Chúa dẫn lên núi là những môn đệ được Chúa yêu hơn. Sự lựa chọn các môn đệ đi theo cũng mang tính chất biểu tượng: “Phêrô, Gioan và Giacôbê” những môn đệ được kêu gọi đầu tiên, những người tại nhà Zairô, đã là chứng nhân của sự toàn thắng trên cái chết (8,31-56).
Trang Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta dung mạo khác, dung mạo tuyệt vời chưa từng có của Chúa Giêsu do Thánh Luca thuật lại. Nếu để ý, trừ hai ba chi tiết, Thánh Luca ba lặp lại y nguyên những chi tiết giống như Máccô và Matthêu để gợi lại một kinh nghiệm không diễn tả được.
Nơi biến cố diễn ra hoàn toàn có tính cách biểu tượng đó là một “ngọn núi”. Theo truyền thống Thánh Kinh, núi chính là nơi con người gặp Thiên Chúa và cũng là nơi Thiên Chúa tỏ bày mạc khải của Người cho dân của Người.
Khung cảnh của biến cố này cũng mang tính chất biểu tượng: Đó là cảnh Chúa Giêsu cầu nguyện. Chỉ mình Luca đề cập đến chi tiết này. Theo Thánh Luca, lời cầu nguyện luôn đi theo những giây phút trọng đại trong sứ vụ Chúa Giêsu.
Lúc Người “cầu nguyện” trong ngày chịu phép rửa, trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người và có tiếng từ trời phán ra (3, 21-22). Sau khi lánh vào “núi rừng để cầu nguyện”, Người đã chọn 12 môn đệ (6, 12- 16). Khi Người “cầu nguyện một mình” Người đã đưa ra câu hỏi dẫn tới lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (9, 18-20). Và chẳng bao lâu nữa, ta sẽ thấy Người cầu nguyện trong vườn Giếtsêmani để tìm sức mạnh đảm đương cuộc chiến cuối cùng; biến hơi thở cuối cùng thành lời cầu nguyện (23.34 và 46); Phục sinh rồi giã từ môn đệ khi đọc lời nguyện chúc phúc cho họ (24,50-5 1).
Tại nơi đây, trên núi cao, chính “đang khi cầu nguyện” mà Chúa Giêsu chiếu lên luồng ánh sáng thần linh. Khác với Máccô và Mátthêu, Luca không nói về sự biến hình biến dạng; Thánh sử chỉ nói “dung mạo Người trớ nên khác thường” và “Y phục Người trắng rực rỡ”. Sau đó Thánh Luca viết rằng: “Phêrô và các bạn tỉnh giấc và được thấy vinh quang Chúa Giêsu”.
“Mặc lấy vinh quang” có nghĩa là tham dự vào ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa hằng sống, được nâng lên địa vị siêu tôn; y phục trắng ánh chớp, có nghĩa Chúa Giêsu đã tiến vào khung cảnh thiên đường. Như thế, Chúa Giêsu như được tạm thời mặc trước nguồn vinh quang Phục sinh mà Người sẽ được thừa hưởng khi sống lại. Tuy nhiên Luca nghĩ rằng có lẽ nguồn vinh quang này đã tiềm ẩn trong Chúa Giêsu từ trước Phục sinh và do kết quả của việc cầu nguyện, Chúa Giêsu không thể ngăn chặn luồng vinh quang ấy chiếu toả từ thân thể Người “Tin Mừng theo thánh Luca”
Một chi tiết khác rất giàu biểu tượng đó là: Sự hiện diện của hai khuôn mặt lớn trong Cựu ước: Môsê và Êlia, là hai nhân vật tóm tắt tất cả Lề Luật (Môsê) và các tiên tri (Êlia), hai nhân vật chính của Cựu ước đã loan báo rằng: “Đức Kitô phải chịu đau khổ rồi mới bước vào vinh quang” (Lc 24,26-27).
Sự hiện diện của các ngài là bằng chứng hết sức sống động nói rằng lời tiên báo của Chúa Giêsu về tương lai của Người hoàn toàn phù hợp với Kinh Thánh.
Một chi tiết riêng của Thánh Luca đó là “cuộc lên đường của Người” mà hai nhân vật Cựu ước bàn tới. Môsê là một nhân chứng sống trong cuộc Xuất hành, của núi Si- nai, của cuộc vượt qua Biển Đỏ sao vì ông là người thay mặt cho Chúa để điều khiển dân và cũng là đại diện cho dân để gặp gỡ Thiên Chúa. Còn Êlia, Êlia chẳng là vị tiên tri lớn đã phải chịu đau khổ vì Thiên Chúa và vì dân tộc trước khi được cất lên trong vinh quang thần thánh.
Chúa Giêsu cũng được mời gọi chịu đau khổ trước khi được “cất lên” như một Êlia mới vậy. Trong vinh quang thiên quốc Người cũng là Môsê mới trong cuộc Xuất hành mới, trong lễ Vượt Qua mới của một Giao ước mới, sẽ vượt qua biển sự chết để giải phóng dân Người và dẫn đưa họ đến Đất Hứa thật sự là Vương quốc của Cha Người.
Phêrô đã nhớ đến lễ Lều như một biểu tượng báo trước sự chấm dứt của lịch sử, đã đề nghị nắm chặt khoảnh khắc hiện tại bằng cách dựng “ba lều”. Nhưng Luca đã ghi nhận rằng mong ước cuộc thần hiển này kéo dài “ông không biết phải nói gì” vì ông vẫn chưa nhìn thấy viễn cảnh hổ nạn như một đoạn đường bắt buộc phải đi qua.
Lúc ấy Phêrô, Gioan và Giacôbê bị bao phủ trong “một đám mây” – Trong Thánh Kinh đó là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa – giống như Đức Maria trong ngày truyền tin, đám mây ấy “phủ bóng che rợp” các ngài. Các ngài “sợ hãi”.
Chính lúc ấy “một tiếng nói” vang lên trong đám mây cũng là tiếng nói khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan. Nhưng hôm nay, tiếng ấy không còn nói với Chúa Giêsu nữa (“Con là Con Ta, hôm nay Cha đã sinh ra Con”) nhưng nói với các môn đệ của Người: “Đây là Con Ta mà Ta đã tuyển chọn”. Người Tôi Tớ đau khổ (Is 42,1-8). Chúa Giêsu, Người đang đồng hành với họ, thường che giấu vinh quang của mình, nay đã thoáng tỏ ra cho họ. là Người con, nơi Người, Cựu ước được hoàn thành; Người là Đấng nói năng với một uy quyền lớn hơn Môsê và Êlia nên ta phải “lắng nghe” Người là Đấng ta phải đi theo trên con đường dẫn về Giêrusalem: về vinh quang, qua thập giá.
Những trải nghiệm hôm nay của các môn đệ cách riêng của Phêrô là trải nghiệm hết sức tuyệt vời vì đã được tận mắt chứng kiến vinh quang của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi Thầy của mình. Trong hạnh phúc tuyệt vời ấy Phêrô đã có ý muốn dựng 3 cái lều, muốn được ở lại trong vinh quang của Chúa Giêsu lắm nhưng khi trở về với đời thường thì khác. Trong hành trình theo Chúa, trong hành trình loan báo Tin mừng, đã hơn một lần Phêrô đã cản Chúa không cho Chúa lên Giêrusalem chịu nạn và cũng đã chối Chúa. Cuộc đời của Phêrô vẫn đâu đó vấp phải những điều chẳng hay chẳng lành.
Những điều mà Phêrô vấp phải cũng là những điều mà chúng ta cũng phải kinh qua. Nhìn lại cuộc đời của chúng ta, đã hơn một lần chúng ta cũng được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa trong đời mình nhưng sau đó chứng nào vẫn tật nấy, chuyện gì cứ y như cũ vậy và thậm chí còn tệ hơn trước nữa là đàng khác.
Từng say sưa với những thành công vang dội của Thầy, giờ đây họ chán nản khi gặp chống đối dữ dội. Đã hơn một lần các môn đệ thán phục và đón nhận Đấng Mêsia bây giờ vỡ mộng khi thấy Người bị phản đối. Cứ phân vân chọn lựa giữa “những sự dưới đất” và “những sự trên trời”. Cuộc đời mình có thể tin tưởng vào ai, tin tưởng cái gì? Đây là lúc thuận tiện để tỉnh cơn mê, vươn vai đứng dậy để chiêm ngưỡng “dung nhan của Chúa” và sẵn sàng lắng nghe Lời Người. Ánh sáng chói chan, làn sóng hạnh phúc khôn tả, thị kiến thoáng qua về “thế giới khác” với cõi phàm trần nơi các môn đệ cư ngụ. Bỗng dưng quá hạnh phúc khi thấy Thầy mình biến đổi và rồi cơn cám dỗ muốn bám vào cái kinh nghiệm tuyệt vời trong phút chốc lại đến. Từ nay các môn đệ đã biết rằng Chúa Giêsu là Đấng được Cha sai đến. Các môn đệ đã nhìn thấy vinh quang của Người khiến dung mạo Người ra khác. Tuy đã thấy dung nhan đời đời thực sự của Người, nhưng từ nay họ vẫn chỉ được nhìn khuôn mặt xác phàm của Người, khuôn mặt chẳng bao lâu nữa sẽ rướm máu cùng với đầu đội triều thiên là vòng gai.
Sau ngày Chúa Giêsu chịu khổ nạn và nhất là chịu chết ấy thì các môn đệ đã ra chán nản, thất vọng nhưng nhớ lại quyền năng và đặc biệt là Lời của Chúa Giêsu thì các môn đệ hăng hái lên đường rao giảng Tin mừng. Lời của Chúa mà hôm nay Chúa Cha nhắc cho các môn đệ cũng như nhắc cho mỗi người chúng ta thật tuyệt vời.
Hãy nghe Lời Người! Nghe Người và theo Người trở về với con con đường đầy chông gai của cuộc đời. Chỉ có Lời của Chúa Giêsu, giáo huấn của Ngài mới có thể khoả lấp mọi khát vọng của con người, mới lấp đầy mọi khoảng trống trong lòng của nhân loại. Nếu chúng ta để cho Lời của Chúa chi phối trong cuộc đời của chúng ta thì bảo đảm cuộc đời của chúng ta bình an và hạnh phúc và bình an đó, hạnh phúc đó là bình an và hạnh phúc thật chứ không như bình an và hạnh phúc của trần gians.
Nguyện xin Chúa ban thêm sức cũng như lòng tin nơi mỗi người chúng ta để cuộc đời của chúng ta dẫu thế nào đi chăng nữa cũng biết vâng nghe theo lời Chúa nói với chúng ta để chúng ta cũng như các môn đệ xưa hăng hái đi theo Chúa cho đến cuối cuộc đời dẫu cuộc đời của chúng ta còn nhiều chông gai, còn nhiều cạm bẫy.
25. Hãy biến hình để được sống trong vinh quang
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tin mừng Lc 9: 28-36: Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để mỗi người chúng ta sống tinh thần chiến đấu với ma quỷ cũng như những khuynh hướng xấu của tội. Đồng thời cũng là mùa của những đổi mới.
Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để mỗi người chúng ta sống tinh thần chiến đấu với ma quỷ cũng như những khuynh hướng xấu của tội. Đồng thời cũng là mùa của những đổi mới. Đổi mới từ con người nhu nhược, yếu hèn, trở nên một con người can trường, khẳng khái, cương quyết trước cám dỗ; từ con người bất xứng sang thánh thiện; từ con người già nua, tội lỗi, trở nên con người thanh xuân trong ân sủng.
Lời mời gọi đổi mới được chính Đức Giêsu mạc khải qua biến cố Biến Hình mà chúng ta cử hành hôm nay.
1. Ý nghĩa cuộc biến hình của Đức Giêsu
Thánh sử Luca trình thuật việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor. Sự kiện này diễn ra sau khi Ngài tiên báo về cuộc khổ nạn lần thứ nhất (x. Lc 9, 22) cũng như nói về điều kiện cần có của người môn đệ khi đi theo Ngài (Lc 9, 23-26), đồng thời nó cũng diễn ra trong bối cảnh Phêrô vừa tuyên xưng đức tin (x. Lc 9,18-21).
Qua việc biến hình, Đức Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các Tông đồ trước khi chứng kiến cuộc khổ nạn của Ngài, để các ông can đảm, trung thành làm chứng và chấp nhận chịu đau khổ khi cơm thử thách ập đến.
Mặt khác, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các ông biết rõ căn tính của Ngài là Thiên Chúa, Đấng từ trời xuống để đem con người về với Thiên Chúa trong vinh quang.
Khi mạc khải như thế, Đức Giêsu muốn lật tẩy những xu hướng và đam mê của các Tông đồ về Ngài theo kiểu trần tục, đó là việc thiết lập triều đại chốn trần thế…, để rồi chính bản thân các ông sẽ được bù đắp bằng những ân lộc trần gian chốn quan trường!
Qua đó, Ngài mời gọi các ông đi trên chính con đường mà Ngài đã đi, con đường đó là con đường tự hủy và khổ giá. Nếu sẵn sàng từ bỏ ý riêng, vác thập giá để đi theo Chúa, thì cuối con đường đó mới nở hoa vinh quang, vì: hạnh phúc, vinh quang không bao giờ dành cho những người trốn tránh đau khổ. Nếu có thì cũng chỉ là thứ vinh quang phù phiếm, hão huyền do con người tưởng tượng ra và gán ghép rồi đặt tên cho nó là hạnh phúc, chứ thực ra không có thật! Vinh quang có thật chính là vinh quang của những người can dự vào mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của chính Đức Giêsu; để đi từ đau khổ đến vinh quang.
Vì thế, muốn chiếm được vinh quang Nước Trời, người môn đệ phải chiến đấu không ngừng nghỉ, phải chấp nhận chết cho tội, ý riêng và ngay cả sự sống thể xác… Hành trình này quả là cam go, không dễ, sẽ có người chán nản mà bỏ cuộc, nên đây là lý do Đức Giêsu biến hình trước mặt các Tông đồ để củng cố niềm tin cho các ông.
2. Chúng ta cũng được mời gọi biến hình
Chúng ta không được diễm phúc chiêm ngưỡng cuộc biến hình của Đức Giêsu như Phêrô, Giacôbê và Gioan khi xưa! Nhưng chúng ta lại được mời gọi đi ngay vào cuộc biến hình của chính mình để được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.
Cuộc biến hình đầu tiên, đó chính là ngày chúng ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, khi ấy, con người tự nhiên của chúng ta có thể ví như được đặt vào một khuôn đúc mới để xuất hiện một hình ảnh mới, hình ảnh Đức Kitô, Đấng đã phục sinh.
Nhờ cuộc biến hình này, mà mỗi người chúng ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thành con Thiên Chúa và là đền thờ Chúa Thánh Thần.
Tuy nhiên, trải qua thời gian với những thăng trầm, yếu đuối của bản thân, nên sự tinh tuyền ấy bị ô uế, tâm hồn trong trắng bị vấy đục, khiến chúng ta trở nên con người cũ do tội lỗi vây phủ.
Điều này cho thấy, nơi con người chúng ta, luôn mang hình ảnh, dáng dấp, thái độ của Tông đồ Phêrô, hay như các Tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay. Khi cơn sốt sắng đến, chúng ta sẵn sàng từ bỏ mọi sự để được ở với Chúa, nhưng khi bả vinh hoa phú quý chào mời, chúng ta cũng tranh dành quyền lực và ganh đua nhất nhì với nhau trong sự ích kỷ, đê tiện của bản năng. Kinh nghiệm này đã được Thánh Phaolô thốt lên: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,19).
Thế nên, Mùa chay chính là thời điểm thuận tiện để chúng ta làm mới lại con người của mình, để xứng đáng với hồng ân cao quý mà chúng ta đã lãnh nhận thủa ban đầu nơi Bí tích Thánh Tẩy. Điều này đã được thánh Phaolô khuyên dạy: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24).
Như vậy có thể nói: nếu muốn được hạnh phúc, vinh quang, chúng ta sẽ phải biến đổi như thánh Phaolô mời gọi. Đây là điều kiện để được chung phần với Đức Giêsu trong vinh quang.
3. Không biến hình thì chẳng được chung phần với Chúa!
Khi cử hành lễ Chúa Biến Hình, chúng ta cần xác tín rằng: Thiên Đàng hay hạnh phúc không thể có được nếu chúng ta cứ sống một cuộc sống bê tha, ăn chơi, đàn điếm! Hạnh phúc Nước Trời chỉ có được sau những đêm ngày chiến đấu với bản năng, ý riêng, để chỉ sống cho Thiên Chúa và những giá trị Nước Trời, khi đã sẵn sàng khước từ sự níu kéo đầy hấp dẫn của thế gian.
Vì thế, có lẽ chúng ta phải lội ngược dòng để chấp nhận lột xác, có khi phải chấp nhận mất mát, cay đắng và đôi khi phải đánh đổi ngay cả mạng sống.
Các thánh là những người đã chấp nhận sống ngược đời vì chân lý và Tin Mừng để được đổi mới. Chẳng hạn như:
Môsê đã biến hình khi ông từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa. Êlia cũng vậy. Đức Giêsu thì đến chỉ để làm theo ý Chúa Cha. Phêrô và các Tông đồ, trong đó phải kể đến Phaolô, tất cả đều đã biến đổi từ con người nhát đảm, ham danh, hám lợi trở thành một con người can đảm, trung thành sống chết với đức tin, để chỉ còn giữ lại một mối lợi tuyết đối, đó là được biết Đức Giêsu và được ở trong Ngài.
Rồi nơi lịch sử Giáo Hội, đã có biết bao gương sáng về những cuộc đổi đời ngoạn mục đến kỳ diệu! Thật vậy, có những vị từ một người nghiện rượu, xì ke, ma túy đến nghiện Giêsu; từ những kẻ khát tình, trác táng chốn ăn chơi, trở thành người say mê Giêsu đến độ vì Ngài mà bỏ hết mọi sự; lại có người từ gái làng chơi trở thành vị thánh; có người dùng cả một hệ tư tưởng để chống đối đạo, đi theo bè rối, khi được biến đổi, họ đã trở thành người bảo vệ các chân lý đức tin đến chết trong anh dũng, kiên trung; có người từ trai tứ chiếng, đầu đường xó chợ lại trở thành đấng lập dòng…
Đây chính là mẫu gương điển hình về những cuộc biến hình trong Giáo Hội thời xưa và thời nay cũng như mãi về sau.
Mong sao, nơi sự kiện Chúa biến hình và những mạc khải của Ngài cũng như qua gương sáng nơi các thánh, chúng ta cũng hãy làm một cuộc biến hình mới của mỗi người để được trở nên giống Chúa và được chung hưởng hạnh phúc với Ngài bên các thánh trong Nước Hằng Sống. Amen.
26. Qua Thập Giá đến vinh quang
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Lc 9: 28-36: Chính trong giây phút cầu nguyện, chìm sâu trong cuộc gặp gỡ ân tình với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã đón nhận kế hoạch cứu độ của Cha như lẽ sống của đời mình, đây cũng là lúc Ngài biến hình vinh quang, được tỏ lộ khi Ngài chấp nhận cái chết…
Năm 1982, các nữ tu Dòng Con Đức Bà Phù Hộ, quen gọi là Dòng Nữ Salêsiên ở Cáp bên Haiti, muốn thuê nhà điêu khắc Pêrikhết làm một cây thánh giá lớn để đặt trong nhà thờ mới của các chị. Nhưng lúc đó, ông Pêrikhết đã bị ung thư nặng.
Các chị nhờ một nữ tu cùng dòng đến gặp nhà điêu khắc để nói về ý định này. Hôm đó viên bác sĩ của ông cũng có mặt, ông nói với chị nữ tu:
– Lẽ ra chị phải đến đây sớm hơn. Rất tiếc là bây giờ căn bệnh ung thư của ông Pêrikhết đã quá nặng rồi. Im lặng một lát, bác sĩ quay sang nói với nhà điêu khắc:
– Ông là người có đức tin, vậy ông cứ tiếp tục hy vọng dù có điều gì xảy ra đi nữa.
Từ ngày đó, nhà điêu khắc Pêrikhết chẳng muốn cầm búa để rèn tác phẩm nghệ thuật nào nữa.
Vài ngày sau, một nữ tu lại đến gặp ông và năn nỉ:
– Ông Giovani Pêrikhết à, các nữ tu ở nhà thờ mới tại Cáp mong muốn ông làm cho các chị ấy một cây thánh giá thật đẹp, dài hai mét. Họ biết tài năng của ông mà. Trước khi trả lời dứt khoát cho họ, tôi muốn hỏi ý kiến ông một lần nữa.
Nhà điêu khắc trầm ngâm suy nghĩ và cầu nguyện, rồi ông bình thản nói với chị nữ tu:
– Tôi xin nhận lời. Cây thánh giá nầy sẽ là tác phẩm cuối cùng, tôi sẽ làm cây thánh giá nầy để chuẩn bị chết, và xin Chúa thương xót tôi.
Thế là nhà điêu khắc bắt tay vào công việc với tất cả tâm hồn của một người mong gặp được Chúa Giêsu. Đây thật là một công việc nặng nhọc vì bệnh tình của ông. Nhưng ông cảm thấy một điều thật lạ lùng, mỗi nhát búa đập trên thanh sắt nóng đỏ, thay vì làm cho ông mệt mỏi thêm, thì lại làm cho ông cảm thấy như được bồi dưỡng sinh lực trở lại. Ông tiếp tục làm việc ngày qua ngày, và khi ông hoàn thành cây thánh giá thật đẹp, ông cảm thấy như khỏe hẳn. Chúa Giêsu đã giải thoát ông khỏi căn bệnh quái ác.
Ngày nay, cây thánh giá do ông thực hiện vẫn còn được treo ở nhà thờ thành phố Cáp và tiếp tục thu hút nhiều tín hữu: người lành mạnh cũng như người đau yếu đến kính viếng.
Anh chị em thân mến,
Nhà điêu khắc Giovani Pêrikhết tưởng rằng cây Thánh giá ở nhà thờ thành phố Cáp ấy sẽ là tác phẩm cuối cùng. Ông dùng cây thánh giá ấy để chuẩn bị chết. Nhưng với niềm tin và lòng hăng say rèn cây thánh giá, Pêrikhết đã được Chúa thương cách đặt biệt và chữa cho khỏi bệnh ung thư. Đó là hình ảnh ơn cứu độ mà Thánh giá Chúa Kitô đã, đang và sẽ còn đem đến cho nhân loại. Chính vì để củng cố niềm tin và hy vọng của chúng ta vào ơn cứu độ và sự sống vinh quang ngang qua mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô, mà hằng năm, vào Chúa Nhật 2 Mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội cho nghe bài đọc Tin Mừng tường thuật cuộc Biến Hình vinh quang của Chúa Giêsu, nhờ đó người kitô hữu ý thức rằng Sự Chết và Phục Sinh, Thập Giá và Vinh Quang là hai mặt của cùng một thực tại cứu độ không thể tách rời nhau. Vinh quang mà không có khổ nạn chỉ là vinh quang của thế tục, sẽ nhạt nhòa theo năm tháng; ngược lại, khổ nạn mà không có vinh quang thì vô nghĩa và là một thất bại hoàn toàn. Do đó, sống tinh thần Mùa Chay có nghĩa là gắn bó chặt chẽ với cái chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô: chết đi cho con người cũ, con người tội lỗi, đối nghịch với Thập giá để cùng sống lại với Đức Kitô, Đấng có thể “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Bđ 2).
Đây chính là một quá trình lột xác đầy gian khổ nhưng cũng tràn ngập vinh quang mà sự kiện Chúa Biến Hình được gợi lại trong Chúa Nhật hôm nay, đã trở nên như một lời loan báo và một lời động viên khích lệ. Loan báo điểm tới là Phục Sinh đang ở phía trước, đồng thời động viên khích lệ người kitô hữu hãy can đảm tiếp tục cuộc hành trình.
Để có thể trung thành bước theo con đường Chúa Giêsu đã sống và đã vạch ra, người kitô hữu không thể coi nhẹ hay dửng dưng với tâm tình cầu nguyện. Chính trong giây phút cầu nguyện, chìm sâu trong cuộc gặp gỡ ân tình với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã đón nhận kế hoạch cứu độ của Cha như lẽ sống của đời mình, đây cũng là lúc Ngài biến hình vinh quang, được tỏ lộ khi Ngài chấp nhận cái chết như một phương thế tuyệt hảo để tỏ lòng vâng phục Cha và yêu thương nhân loại đến nỗi hiến dâng chính mạng sống mình. Vì thế, trong cuộc sống còn lắm vất vả bon chen và không hề thiếu vắng những cạm bẫy thử thách hôm nay, chỉ có sự chuyên cần cầu nguyện, thường xuyên đón nhận ánh sáng soi dẫn, và sức mạnh đỡ nâng của Chúa, người kitô hữu mới thoát khỏi sự hoang mang sợ hãi hay trạng thái mê ngủ, trốn tránh thực tại trần thế với những bổn phận và trách nhiệm phải thi hành. Đành rằng quê hương vĩnh cửu ở trên trời nhưng đường lên trời lại khởi đi từ mặt đất, từ chính cuộc sống phải xây dựng và làm cho phát triển mỗi ngày.
Anh chị em thân mến,
Một khi đã chiêm ngưỡng Đức Giêsu Kitô trên núi Biến Hình như Phêrô, Giacôbê và Gioan rồi, thì việc còn phải làm là đi theo Ngài trên con đường khiêm tốn phục vụ anh em và không vắng mặt trên các nẻo đường tiến lên đỉnh Golgôta, những nẻo đường đau thương và tử nạn thập giá với Ngài, với niềm xác tín rằng Đức Kitô Phục Sinh sẽ chia sẻ vinh quang cho các tín hữu trung thành.
Ước gì Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa chúng ta lãnh nhận trong thánh lễ hôm nay sẽ bổ sức, giúp chúng ta mạnh mẽ bước vào lòng đời để sống cho Chúa và cho enh em. Một cuộc sống lắm hy sinh gian khổ, nhưng cũng không kém vinh quang, vinh quang thấp thoáng hôm nay và sẽ bộc lộ trọn vẹn mai sau.
27. Kinh ngạc – Lm. Vũ Đình Tường
Kinh ngạc bao gồm hai ý nghĩa, khi thì rất đỗi ngạc nhiên, khi thì thất đảm kinh hồn. Đời người là một chuỗi những kinh ngạc liên tục xảy ra. Những kinh ngạc này như giây tơ vô hình nối chặt đời người giữa quá khứ với tương lai. Dựa vào những kinh ngạc xảy ra trong đời con người tìm hiểu nhận biết về chính mình.
Có những ngạc nhiên chúng ta vui vẻ chấp nhận. Lại có những ngạc nhiên chúng ta bàng hoàng và có những ngạc nhiên chúng ta sửng sốt đến sững sờ, không biết phải phản ứng như thế nào cho thích hợp. Cả hai kinh nghiệm ngạc nhiên, thất đảm đều cần thiết vì chúng giúp cân bằng cuộc sống. Nếu toàn thất đảm kinh hồn đời ảm đạm, thê lương. Khi đời lắm hào quang rực rỡ, ánh quang đốt cháy lòng khiêm nhường, chối bỏ ngay cả Đấng dựng nên ta.
Lanh lẹ hay chậm chạp, khôn hay khờ là kết quả của tự học những kinh ngạc trong đời. Không sách vở nào hướng dẫn, chỉ bảo, thay thế được kinh nghiệm kinh ngạc cá nhân. Chính cá nhân đó phải trải qua kinh nghiệm bản thân để khám phá ra con người thật của mình, hiểu biết thêm về mình nhiều hơn. Đời quả là thú vị nếu chịu học hỏi vì ngạc nhiên này dẫn đến ngạc nhiên khác, liên tục nối tiếp nhau khám phá mới lạ trong đời. Nguồn sống đó không bao giờ cạn, chỉ có thời gian tìm hiểu bị giới hạn, sức khoẻ và ý chí khám phá mỏi mòn.
Huyền Bí
Thắc mắc huyền bí cuộc đời, câu trả lời thường đến sau biến cố. Sự việc xảy ra xong, nhìn lại, kiểm điểm mới nhận biết câu trả lời có từ trước nhưng giờ này mới nhận ra. Con người luôn khao khát muốn biết thêm về những huyền diệu, mầu nhiệm đời người. Vì lẽ đó nhiều người, trong đó có cả Kitô hữu, bị các nhà thần bí dụ dỗ, lung lạc niềm tin. Thay vì tìm hiểu mầu nhiệm cuộc đời họ đi khám phá những huyền bí trong đời. Đã gọi là huyền bí thì không thể khám phá. Khám phá được thì không phải là huyền bí. Tìm câu trả lời cho tương lai dựa vào bói toán, chỉ tay, tướng số, tử vi một cách nào đó biểu lộ lòng tin hời hợt. Thiên Chúa sáng tạo huyền bí cuộc đời tin vào lời Ngài chính xác và chính đáng hơn là tin vào lời kẻ thông dịch huyền bí. Tin hời hợt khổ hơn là không tin.
Mầu Nhiệm Đời Người
Mỗi Kitô hữu là một mầu nhiệm trong tay Thiên Chúa sáng tạo. Vì thế không có hai người giống hệt nhau. Trông từa tựa thì có, giống hệt thì không vì Chúa không bao giờ lập lại cùng công việc Ngài đã sáng tạo. Mỗi giây, phút đều khác nhau, mỗi người là tạo vật đặc biệt duy nhất trong Chúa. Không giờ nào giống giờ nào, không ai giống ai nên các nhà huyền bí dựa vào đâu để đoán. Dựa vào giờ sanh, năm tháng, đồng hồ bệnh viện thường chênh lệch nhau vài phút. Sai một li đi một dặm. Dựa vào chỉ tay, khuôn mặt, tướng đi là tiên đoán ngoài da, không đi sâu vào tim, óc, lòng người. Vấn đề tâm linh phức tạp vạn lần hơn tim óc. Hoa tay, chỉ chân, mụn ruồi đâu giải thích nổi mầu nhiệm tình yêu sáng tạo.
Nói đến võ đoán là chấp nhận đúng/ sai. Nếu tin câu trả lời luôn đúng thì vần đề không phải là đoán mà là xác quyết. Để xác định cần có dữ kiện. Sự việc xảy ra rồi mới có dữ kiện. Đoán vận mệnh tương lai dựa vào dữ kiện là việc làm thừa, mông lung. Không ai cầm giữ được dữ kiện tâm linh chính xác vì không thể cân đo, thử nghiệm, lập đi lập lại được. Thiếu các điều kiện cân đo, thử nghiệm, câu trả lời thuộc phạm vi võ đoán. Đã là võ đoán thì ai cũng có thể đoán được cần chi đến các nhà huyền bí coi tướng số, chỉ tay, tử vi trọn đời.
Đời người là một mầu nhiệm. Vì là mầu nhiệm nên có tính thần thiêng, linh thánh. Thiên Chúa yêu thương con người nên tạo dựng con người. Thiên Chúa còn yêu thương mặc khải mầu nhiệm tình yêu qua các biến cố trong đời để giúp con người học biết đáp trả tình yêu Chúa và yêu thương đồng loại. Mặc khải không xảy ra cùng lúc nhưng từ từ bộc lộ để con người học biết, trưởng thành và khám phá thêm về chính mình, hương vị tình yêu và ý nghĩa cuộc sống. Toàn thể mầu nhiệm con người tóm gọn trong mối tình Chúa yêu ta. Tình yêu chân chính đòi dấn thân và hy sinh. Đó là con đường vinh quang của thập giá.
Chìa Khoá Yêu Thương
Tình yêu mặc khải qua biến cố, lo âu, đau khổ, bệnh tật, già nua Kitô hữu gọi đó là thập giá. Tình yêu còn mặc khải qua niềm vui, hạnh phúc, hoan lạc Kitô hữu coi đó là vinh quang thập giá. Đời người pha trộn giữa thập giá và vinh quang. Chìa khoá duy nhất khai phá mầu nhiệm này là thực hành cầu nguyện, chay tịnh và bác ái.
Thánh Luca 9 thuật lại dung mạo Chúa thay đổi trong lúc Ngài cầu nguyện và đàm đạo với tổ phụ Môisê và Êlia về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Jerusalem. Cuộc xuất hành chính là con đường khổ nạn Chúa sắp lãnh nhận.
Biến cố gồm niềm vui, nỗi buồn, đau khổ, bệnh tật. Chúa dạy các Tông đồ biến cố trên đời thường chóng, qua, tạm bợ như lều tạm các ông muốn xây trên núi thánh. Biến cố có thể gây cao hứng, chói loà mắt, làn mây mù che mờ mắt, mơ màng của giấc ngủ và xuống núi. Dựa vào Lời Chúa biến cố đều là chìa khoá tháo gỡ mầu nhiệm tình yêu. Đức Tin mạnh giúp nhận ra tình yêu Chúa qua biến cố. Tin nửa vời thường thông dịch là Chúa phạt.
Mầu nhiệm tình yêu hoàn toàn tháo gỡ khi con người trở về cùng Đấng đặt mầu nhiệm vào đời họ. Khám phá cuối cùng và cũng là khám phá thú vị nhất đến sau sự chết. Vì thế không ai có thể kể lại cho người khác biết về những gì họ đã biết. Nhân chứng duy nhất là Đức Kitô sống lại từ cõi chết kể lại có kẻ tin, người không. Trong số những kẻ tin lại có kẻ tin nửa vời, bán tín, bán nghi. Đời quả lắm ngạc nhiên.
28. Nếm trước – Lm. Vũ Đình Tường
Người nấu ăn thường hay thử trước món ăn đang nấu. Thử trước với mục đích tốt. Nhờ nếm thử trước mà biết được cần nêm nếm, thêm, bớt gia vị cho món ăn hoàn chỉnh, ngon miệng, hài lòng với thành quả. Vì nếm thử nên không bao giờ ăn nhiều. Nếu thử đến no bụng, thử biến thành ăn trước.
Hầu như mọi công việc, cẩn trọng đều tốt hơn là cẩu thả. Cẩn trọng cần thiết ngay cả trong lời nói vì thế sách Huấn Ca 26,16-21 ca tụng người cẩn ngôn là ân huệ Chúa ban.
Hình thức thử
Có nhiều hình thức thử khác nhau. Thầy giáo khuyên học sinh học ôn, tập luyện bài học trước khi các em dự thi. Thợ mộc đo đi, thử lại nhiều lần tránh trường hợp cắt sai, cưa dài, làm hư mộng, lệch khớp. Châm ngôn ‘thực hành dẫn đến hoàn thiện’ được các nhà thể thao triệt để áp dụng.
Sai đi
Đức Kitô sai môn đệ đi rao giảng Tin Mừng từng hai người một. Ngài dặn dò kĩ càng trước khi sai các ông đi. Sai đi trong Kinh Thánh chính là cho nếm thử tương lai. Tương lai mà ba môn đệ nếm thử đó là vinh quang nước trời. Các ông học được nhiều bài học quí về niềm tin và con người Đức Kitô.
Mặc khải
Bài học đầu tiên Chúa mặc khải cho các tông đồ biết vinh quang Chúa. Một vinh quang vượt quá mắt trần, trí tưởng và cảm xúc con người có thể cảm nhận được. Vinh quang ngời sáng bao trùm tâm trí Phêrô đến độ nói mà không nhận biết mình nói gì. Đây là một mặc khải đặc biệt.
Mỗi người Kitô hữu đều nhận được những mặc khải cá nhân mà đôi khi chúng ta không nhận ra đó là mặc khải, hoặc gọi bằng một từ khác đi. Thực ra, lần nào đó khi cầu nguyện mà cảm thấy tâm hồn sảng khoái, giờ cầu nguyện thoáng qua như phút giây. Đó chính là lúc con người cảm nhận ân sủng Chúa mặc khải riêng cho cá nhân đó. Cảm giác các tông đồ nhận được trên núi thánh là thấy Chúa gần kề, ngời sáng, hùng vĩ, oai phong nhưng lại rất gần, rất thực. Chúng ta nhận ra Chúa trong cuộc sống, qua câu nói, sự biết ơn hay niềm vui khi tha thứ và khi thực thi đức ái. Đây là những mặc khải cá nhân Chúa ban riêng cho từng cá nhân. Hãy trân trọng đón nhận những mặc khải cá nhân đó. Chúa ban ơn mặc khải riêng ta dường như ít trân trọng đón nhận. Trái lại ước mong đón nhận mặc khải Chúa ban cho người khác. Cũng là ơn mặc khải, sao lại khi trọng, khi coi thường. Bên trọng, bên khinh không phải là tâm tình chân chính, yêu Chúa chân tình.
Tông đồ phản ứng
Phản ứng nhất thời của các tông đồ phát xuất vì thiếu đắn đo suy nghĩ. Nói rõ ra phản ứng một cách vội vã, thiếu tinh thần cầu nguyện, thiếu cân nhắc ơn Thánh Thần hoạt động trong phán đoán. Mọi quyết định thiếu hướng dẫn của Thánh Thần đều là những quyết định thiếu khôn ngoan vì Thánh Thần là Đấng ban ơn khôn ngoan. Thiếu ý kiến, hướng dẫn của Thánh Thần thì không thể gọi là khôn ngoan được. Các ông phản ứng trong lúc tâm hồn mê man vì cảnh đẹp, rực rỡ, hào quang Thiên Chúa sáng rực bầu trời. Chính trong lúc tinh thần cao ngất các ông đưa ra quyết định, chọn lựa xin phép Chúa làm ba lều để cư ngụ trên núi thánh. Đức Kitô không đáp lại lời yêu cầu ngủ mê đó, dù phát xuất do thành tâm.
Ngủ mê
Tinh thần căng thẳng mấy ai ngủ ngon giấc. Trong tâm có thao thức, chao đảo, lo lắng, bồn chồn, mất ngủ là việc bình thường. Một người ngủ một cách êm thắm, bình an, người đó phải có một tâm hồn bình an, một thần khí sảng khoái. Đó chính là tâm tình của các tông đồ ngủ trên núi thánh. Các ông tìm được bình an nội tâm, các ông ngủ ngon vì có Chúa ở bên cạnh. Khác với giấc ngủ trên vườn Cây Dầu. Giấc ngủ đó có hơi men vì các ông dùng bữa Tiệc Li, có men rượu trước khi Thầy trò leo núi cộng với mệt mỏi.
Giấc ngủ yên lành là hạnh phúc Chúa ban. Chúng ta dâng lời cảm tạ do tinh thần thanh thản, thân xác thoải mái an bình.
Xuống núi
Tình trạng xuống núi biểu tỏ tâm tình của người sống trong cuộc sống hiện tại. Trong cầu nguyện đôi khi con người đụng chạm đến thần linh cũng cảm thấy tinh thần cao vời vợi, thần trí hoan lạc, mừng vui và muốn tiến bước mãi, không mệt mỏi, không chán nản. Rồi đùng một cái quay trở lại với thực tại, với hiện thực, với cuộc sống thường nhật.
Trên đường xuống núi Chúa cũng dậy các tông đồ bài học xuống núi. Cuộc sống thực tế không phải lúc nào cũng nhìn thấy trời quang, mây trắng bay, cảnh hùng vĩ của thiên nhiên. Cái đẹp ngây ngất của đất trời.
Cuộc sống thực tế có nhiều khó khăn đời người ai cũng ít nhiều trải qua. Cần trải qua gian nan, đau khổ trước khi thực sự sống cảnh vinh quang nước trời. Vinh quang được ban cho nhưng phải phấn đấu và trân trọng giữ gìn. Không thể coi thường, coi nhẹ.
Chúa nhắc nhở các môn đệ xuống núi đừng nói gì về điều tai nghe, mắt thấy vì vẻ huy hoàng, rực rỡ Chúa lớn hơn trí hiểu con người. Trần thế không gì sánh bằng. Để cảm nhận cần có đức tin. Không đức tin lời nói của các tông đồ trở nên truyện thần tiên, giả tưởng cho người nghe. Vì thế Chúa khuyên các ông nên giữ làm kỉ niệm riêng trong đời.
29. Chúa biến hình, xin cho con được ơn biến đổi
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm biến cố Biến Hình của Chúa Giêsu, một mầu nhiệm vĩ đại. Lịch sử cho thấy ba Tông Đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê thực sự là là những tấm gương sám hối suốt Mùa Chay dẫn dắt tâm hồn chúng ta tới Đại lễ Phục Sinh, khi chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của tinh thần trên thể xác, của ơn cứu chuộc trên tội lỗi.
PHỤNG VỤ LỜI CHÚA NĂM A –
– St 12, 1-4a: Ơn gọi của Abraham
– Tv 33, 4: Lạy Chúa, xin đổ tình thương xuống trên chúng con
– 2 Tim 1, 8-10: Thiên Chúa kêu gọi chúng ta nhận biết Vinh Quang Ngài
– Mt 17, 1-9: Cuộc biến hình của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta
* PHỤNG VỤ LỜI CHÚA NĂM – B
– St 22, 1-2; 9a; 10-13; 15-18: Thiên Chúa để Abraham bị thử thách
– Tv 106, 10: Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa
– Rm 8, 31b-34: Ai có thể tách chúng tôi ra khỏi Tình Yêu Đức Kitô.
– Mc 9, 2-10: Cuộc biến hình của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta
* PHỤNG VỤ LỜI CHÚA NĂM – C
– St 15, 5-12; 17-18: Giao Ước của Thiên Chúa với Abraham
– Tv 27,1: Chúa là ánh sáng và là Đấng Cứ Độ
– Phil 3, 17-4,1: Đức Kitô sẽ biến đổi chúng ta
– Lc 9, 28-36: Cuộc biến hình của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta
Hôm nay, thánh sử Luca nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện… Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia…. Một số câu hỏi được đặt ra chung quanh biến cố Chúa Biến Hình:
1. Tại sao Đức Giêsu Biến Hình?
2. Tại sao Môi-se và Ê-li lại có mặt lúc Chúa Giêsu Biến Hình?
3. Tại sao không phải là các Tông đồ khác mà lại là Phêrô, Giacôbê và Gioan được Đức Giêsu đưa lên núi?
Chúng ta biết rằng, Đức Giêsu sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng chừng năm ngàn người ăn no (Lc 9, 14). Với vẻ chưng hửng của các Tông đồ về tương lai tươi sáng, và sự mãn nguyện về vị Thiên sai của dân chúng. Khi thăm dò ý kiến chung, Đức Giêsu đã loan báo cuộc thương khó lần thứ I: “Con người phải chịu nhiều đau khổ, và bị hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục phế thải, bị giết đi, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Lc 9, 22). Như thế, Ngài đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Ngài đến với những đau khổ, cuộc tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh sáng vinh quang. Nhưng các ông đâu có chấp nhận, khi nghe vậy Phêrô liền can ngăn: “Thiên Chúa thương! Chứ sẽ có đâu như thế!” (Mt 16,23). Chính vì thế, Chúa muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ, đồng thời giúp các ông sẵn sàng chấp nhận và hiệp thông với cuộc khổ nạn của Ngài, nên Ngài đã Biến Hình tám ngày sau đó, các tác giả Tin Mừng như (Mt 17, 1-9) và (Mc 9, 1-9) thì sáu ngày sau. Nhưng vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi Tabore (Lc 9, 33). Và như thế là Phêrô đã muốn biến cái tạm bợ trở thành vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với thập giá và khổ đau.
Trở lại câu hỏi tại sao Đức Giêsu lại chọn ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, phải chăng là vì họ hoàn hảo hơn những người khác?
Về vấn đề này, Thánh Gioan Kim Khẩu nói: Vì Phêrô đã từng tuyên xưng Đức Giêsu là “Ðức Kitô của Thiên Chúa” và được Đức Giêsu trao cho chìa khóa Nước Trời “Ta sẽ trao cho ngươi chìa khóa Nước Trời” (Mt 16, 19). Hơn nữa cũng bởi Phêrô đã yêu mến Chúa Giêsu Kitô nhiều hơn, “Lạy Chúa, Chúa thông hay mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa!” Phần Gioan, vì Gioan đã yêu mến nhiều, nên được mệnh danh là (người môn đệ Chúa yêu) (Ga 21, 15). Còn Thánh Giacôbê, là vì ##phản ứng của ông đã thực hiện cùng với anh trai mình: “Chúng tôi có thể uống chén của Thầy” và ông đã giữ lời, đã đi đến cùng của lời cam kết, khiến người Do Thái không chịu nổi, đã xử trảm ông.
Tại sao không phải là một tiên tri hay ngôn sứ nào khác mà lại là Môi-sen và Ê-lia?
Sứ vụ công khai của Chúa Giêsu tại Galilê đã khiến cho dân chúng đồn đoán về con người của Ngài. Có người cho rằng Ngài là Đấng Kitô, là Môi-sen hoặc Ê-lia, Giê-rê-mia hay là một tiên tri (Lc 9,19). Chúng ta cũng biết rằng người Do Thái không ngừng buộc tội Chúa Giêsu Kitô là người vi phạm luật, kẻ nói phạm thượng, kẻ chiếm đoạt vinh quang, mà theo họ, vinh quang đó không thuộc về Đức Giêsu, vinh quang của Thiên Chúa Cha. Họ thường nói: “Con người ấy không bởi Thiên Chúa được, vì hắn không giữ Hưu lễ!” (Ga 9, 16) Và chỗ khác họ nói: “Không phải vì một việc trọn hảo mà chúng tôi ném đá ông; nhưng vì một lời phạm thượng! ông là một người phàm mà dám cho mình là Thiên Chúa” (Ga 10, 33). Đức Giêsu muốn chỉ cho mọi người biết, vì nghen tương mà họ gán cho Chúa hai tội danh ấy. Khi Ngài biến hình đàm đạo với hai nhân vật là Môi-sen và Ê-lia, Ngài khẳng định mình còn hơn cả Môi-sen và Ê-lia nữa. Môi-sen là người đã trao ban lề luật cho dân chúng, nên những người Do Thái không thế nói rằng vị tiên tri thánh này đã muốn chịu đau khổ vì một người vi phạm lề luật. Còn Êlia xuất hiện cùng Đức Giêsu, Đức Giêsu dạy chúng ta rằng Ngài là Chúa của kẻ sống và kẻ chết, cả trên trời và trong địa ngục. Đó là lý do Ngài biến hình cùng với Ê-lia là người đã không chết.
Tin Mừng cũng khai mở cho chúng ta biết rằng Đức Giêsu muốn cho các môn đệ thấy được vinh quang của thập giá. Ngài muốn củng cổ niềm tin của Phêrô và các môn đệ trước cuộc khổ nạn sắp đến, giúp họ thêm can đảm. Vì Môi-sen, Ê-lia cùng với Chúa Giêsu, cả ba không im lặng, nhưng: “Hai người đang đàm đạo với Ngài… Hai vị nói đến việc ra đi Ngài sắp hoàn tất tại Yêrusalem” (Lc 9, 30-31), có nghĩa là cuộc khổ nạn và thập giá. Đó chính là điều mà các tiên tri hay nói đến. Đức Giêsu cũng muốn các môn đệ mình noi theo Môi-sen và Ê-lia về những nhân đức trổi vượt trong quá khứ, và Ngài cũng muốn rằng: “Ai muốn theo Thầy, hãy vác thập giá mình mà theo”.
Một điều rất thú vị là Môisen đã rẽ đôi nước biển để cho dân chúng đi ráo chân, phần Phêrô ông cũng đã đi trên mặt nước, để rồi chữa lành tất cả bệnh hoạn tật nguyện cho dân chúng, xua trừ ma quỉ, đưa toàn thể mọi người về với Đức Kitô. Ê-lia đã làm cho kẻ chết sống lại, các tông đồ cũng đã làm cho kẻ chết được sống lại, khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Đó là những lý do Chúa Giêsu chọn Môi-sen và Ê-lia hiện ra đàm đạo với mình.
Đối với chúng ta ngày hôm nay, biến cố Chúa Biến Hình loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng đôi mắt con tim để nhìn thấy mầu nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Như thế, nếu chúng ta muốn biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Người. Có sẵng sàng vác thập giá Chúa gửi trao mới được theo Chúa là Đường là Sự Thật là Sự Sống để được hưởng vinh quang Phục sinh với Ngài.
Chúa biến hình vinh quang sáng láng để nêu gương cho chúng ta, để chúng ta cũng biết biến đổi hình dạng như thế: biến đổi từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; biến đổi từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; biến đổi từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.
Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của thập giá Chúa và ban ơn cho chúng con biết sống mầu nhiệm thập giá Chúa trong cuộc đời, để được sống lại vinh quang với Ngài. Amen.
30. Suy niệm của Lm. Nguyễn Thái
“Đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường.”
Sau một trận cháy rừng ở Yellowstone Park, tiểu bang Wyoming, Hoa Kỳ, những nhân viên kiểm lâm đã khám phá thấy một con chim bị cháy thành than rồi khô cứng lại dưới một gốc cây. Thật đau buồn khi phải dùng cây gậy đâm nhẹ vào mình chim mẹ để nhận thấy ba chim con thu mình dưới đôi cánh của chim mẹ. Người ta đã đặt giả thuyết rằng chim mẹ đã đem được con của nó tới gốc cây, tập hợp chúng lại dưới đôi cánh . Theo bản năng chim mẹ biết rằng hơi độc của đám khói cháy rừng đang bừng lên. Chim mẹ đã có thể bay đi thoát nạn, nhưng nó khong nỡ bỏ rơi con của mình để thoát thân. Ngay cả khi bị đốt cháy, nó vẫn không nhúc nhích để bảo vệ bầy con, và sẵn sàng chịu chết để bầy con đước sống dưới đôi cánh của mình.
Hình ảnh hy sinh của chim mẹ đã dùng chính mạng sống mình để bảo vệ bầy chim con, cũng đã được Chúa Giêsu dùng để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Người khi nhìn thành thánh Giêru salem và than trách rằng: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu” (Lc 13:34).
Mùa chay là thời gian để ý thức về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Trong Tông Huấn Tertio Milennio Adveniete, ĐGH Gioan Phaolô II đã viết: “Đối với các tôn giáo khác thì đầu tiên là con người đi kiếm tìm Thiên Chúa. Còn theo Kitô giáo thì điểm khởi đầu là cuộc Nhập Thể của Ngơi Lời. Ở đây ta thấy không còn chỉ là con người kiếm tìm Thiên Chúa, mà chính Thiên Chúa đích thân đến nói với con người và vạch chỉ cho họ con đường đạt tới Người” (đoạn 6). “Trong Đức Kitô Thiên Chúa không chỉ nói với con người moà còn là tìm kiếm con người” (đoạn 7).
Không phải căn cứ vào những việc đạo đức chúng ta làm trong Mùa Chay để nói rằng đó l à những nỗ lực đi tìm kiếm Thiên Chúa! Một tuần kiêng thịt một lần. Một chút sám hối trong tòa giải tội. Vài việc bác ái chưa đếm hết các ngón tay. Đọc thêm mấy câu kinh, đi mất chặng dàng thánh giá, sụt sùi với mất vần kinh cầu chịu nạn… Tình cảm dâng cao khóc thương cho những đau khổ Chúa Giêsu phải chịu vì tội lỗi nhân loại. Với bấy nhiêu việc làm đó mà ta dám nghĩ rằng mình đã yêu thương Thiên Chúa và đi tìm kiếm Ngài thực sự hay sao?
Chúng ta phải khiêm tốn nhận rằng con người xác thịt của mình rất yêu đuối, cứ muốn đắm chìm trong sự phù vân của trần thế tội lỗi. Con người vẫn lẩn tránh Thiên chúa. Sách Giảng Viên có lời khuyên dạy: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân” (GV 1:2).
Họa sĩ C. Allan Gilbert đã vẽ một bức tranh mà tôi đặt tên là “Phù Vân”. Họa sĩ có một cái nhìn vừa đạo đức – theo sự gợi ý của lời khuyên trong sách Giảng Viên – vừa trào phúng khi vẽ bức hình diễn tả người phụ nữ đẹp đẽ sang trọng đang trang điểm, soi ngắm mình trong gương. Trên mặt bàn trang điểm, bày đủ loại phấn son, những chai dầu thơm hảo hạng, hoa tươi và ngọn nến. Mặc chiếc áo thời trang bằng tơ lụa mỏng của Tây phương, người phụ nữ hơi khom mình về phía trước để ngắm khuôn mặt cho rõ hơn. Rõ ràng người phụ nữ này đang có tất cả mọi sự thế gian cung ứng cho nàng – sắc đẹp, của cải và tuổi xuân.
“Với một phối cảnh rộng hơn, gương mặt xinh đẹp biến thành hình ảnh chiếc sọ người”.
Nhưng nếu bước lùi ra xa một chút, người nhìn sẽ phải ngạc nhiên ngay. Với một phối cảnh rộng hơn, người phụ nữ đang say đắm ngắm mình trong gương bị biến thành hình ảnh một chiệc sọ người! Thật là mỉa mai, tất cả những sự sang trọng của thế gian chỉ là phù vân như sách Giảng viên khuyên dạy. Của cải, tài sản, khoái lạc, và ngay cả sự khôn ngoan của loài người cũng chỉ là một đám mây mờ bay qua bầu trời hay “hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi” (Gc 4:14).
Ngày 7 tháng 12 năm 1998 ở tây Bắc Armenia xảy ra trận động đất lớn với độ rung là 6.9, đã làm xụp đổ bình địa thành phố với khoảng 25 ngàn người bị thiệt mạng với câu chuyện rất cảm động như sau:
Sau trận động đất, giữa nhừ đám người hoảng hốt và lo sợ, có một người cha đang tuyệt vọng rảo bước qua những con đường đầy gió bụi đổ nát và điều tàn. Ông vội vã tiến về phía trường học đi tìm người con trai yêu quí đi học từ sáng sớm. Vừa bước đi ông vừa nghĩ tới những lời hứa hẹn đã thề thốt với con ông: “Armand con ơi, bất cứ chuyện gì xảy ra, ba cũng luôn luôn ở với con!”
Vừa tới vị trí trường học, ông nhận ra chỉ còn là một đống gạch vụn. Đứng lau chùi nước mắt… rồi phỏng đoán phương hướng lớp học của con ông, ông cúi xuống lượm từng miếng gạch vỡ quăng ra ngaoài. Bằng tay không, ông bắt đầu đào bới. Nào là gạch, ván tường, tôn kẽm… Những người qua lại tuyệt vọng nói với ông: “Thôi đi ông ơi! Chúng chết hết rồi!” Nhưng ông ngẩng lên trả lời: “Các bạn chỉ trích tôi hay giúp tôi nâng những viên gạch này ra?” Một số người cũng tiếp tay với ông thu dọn gạch vụn, nhưng chẳng được bao lâu họ cũng bỏ cuộc vì mệt mỏi và tay chân đau nhức. Riêng ông vẫn làm việc không ngưng nghỉ vì ông luôn luôn nghĩ tới sinh mạng của con ông. Ông kiên trì làm việc từ giờ này qua giờ khác, 2 giờ qua đi… 18 giờ… 24 giờ… 36 giờ… và sau cùng, vào giờ thứ 38 ông nghe được một tiếng rên rỉ yếu ớt phát ra từ phía dưới một mảng tường đổ nát. Ông nắm lấy mảng gạch, lay mạnh và gọi lớn: “Armand! Aramand! Armand!” Từ bóng tối phía dưới bức tường đổ vang lên một giọng trẻ thơ trả lời: “Ba! Ba! Ba!” Tiếp ngay sau đó là những tiếng gọi yếu ớt khác của những em học sinh sống sót vang dội lên. Công việc đào bới để cứu các em ra khỏi tai nạn được các bậc phụ huynh thực hiện ngay sau đó.
Người đã cứu được 14 em học sinh trong tổng số 33 em. Khi em Armand được cứu thoát em vẫn mạnh mẽ khẳng định: “Đã bảo mà, cha tôi không bao giờ quên tôi”.
Bác sĩ Scott đã kể lại câu chuyện trên trong cuốn sách nổi tiếng của ông có nhan đề “A Father Who Keeps His Promises” – “Người Cha giữ lời hứa”. Và ông đã kết luận như sau: “Đó là loại đức tin mà chúng ta đang cần, bởi vì đó là Người Cha mà chúng ta có”.
Chúa chúng ta là Người Cha yêu thương luôn giữ lời hứa, và tìm kiếm ta về với Ngài. Qua những thiên tai động đất nhức nhở chúng ta ý thức rằng trái đất mà chúng ta coi là vững bền “Terra Firma” quả không bền vững tí nào! Đừng ngủ quên trên sự phù vân của vật chất trần gian. Cuộc sống trần thế này chỉ là phù vân. Tất cả những của cải trần gian đều tùy thuộc vào sự mong manh của trái đất nử lời giáo hội kêu gọi khi nhận tro: “Hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro”.
Bài phúc âm hôm nay, Lc 9:28b-36, kể lại chuyện Chúa Giêsu biến hình trên núi khi Ngài đang cầu nguyện. Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa chính là nền tảng vững chắc giúp chúng ta xây dựng cuộc đời của mình. Ngài đã biểu tỏ vinh quang và thập giá của ngài cho Pherô, Giacobe và Gioan. Ngài đã biểu lộ cho nhân loại thấy chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa khởi sự từ thời Cựu Ước với các vị tổ phụ và các tiên tri của dâng Israel, Môse và Êlia. Mạc khải này làm cho những ai đặt ngưỡng vọng nơi trần thế phù vân này phải bối rối và thất vọng.
Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô cảnh tỉnh con người rằng: “Có nhiều người sống thù nghịch với thập giá Đức Kitô. Chung cuộc, đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này. Phần chúng ta, quê hương của chúng ta ở trên trời…” (Phil 3:20).
Thi nhập quốc tịch hoa kỳ, để chính thức trở nên một người công dân với bổn phận và quyền lợi là một điều quan trọng đối với nhừ người di dân. Nhưng đối với các cụ già đó là điều vô cùng gay go. Các cụ phải học Anh Ngữ, phải biết lịch sử nước Hoa Kỳ, rồi trải qua một cuộc thi khảo vừa nghe, vừa đọc và nói. Có cụ thi mãi không đậu, lo lắng mất ăn mất ngủ, vì có quyền công dân mới bảo lãnh con cái sang Mỹ được. Có cụ ốm đau gần chết mà vẫn cứ lo quốc tịch! Có cụ khôn ngoan hơn, âm thầm làm các việc đạo đức, chuẩn bị cho mình quyền công dân của Nước Trời mới là quan trọng! Ai thi cũng được. Ngôn ngữ của Nước Trời là tình yêu, có sẵn trong tim, không cần phải học vất vả, chỉ đem ra áp dụng Nước Trời, một quê hương mới, “Một Cõi Đi Về” an nghỉ. Còn nước Hoa Kỳ này vẫn chỉ là phù vân, như “hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi” (Gc 4:14).
Thành phố Chicago có nhiều sắc dân. Nét độc đáo của một xứ đạo là tính cách đa chủng tộc. Tôi thường nghe dân chúng than van, họ luôn luôn nhớ về quê hương của họ. Nhớ đồ ăn thức uống. Nhớ dòng sông con kênh. Nhớ thân bằng quyến thuộc, bạn bè. Mặt trời lặn ở quê nhà với khói lam chiều vẫn đẹp hơn mặt trời Hiệp Chủng Quốc! Ai cũng ngóng trông về quê nhà. Trong mỗi người đều mang một nỗi nhớ, một nỗi buồn vương vấn thật sâu trong lòng mình. Đó là khúc ruột ngàn dặm vì chúng ta luôn thuộc về quê hương của mình. Không bỏ được. Các nhà thương mại bán vé máy bay thuyết phục rằng chỉ cần cầm lấy vé máy bay là bạn trở về quê hương ngay. Điều đó đúng với quê hương phù vân trần thế!
Nhưng còn quê hương vĩnh cứu trên trời thì sao? ĐGH Gioan Phaolô II trả lồi rằng: “Con người trên dường lữ hành về với Đấng Tuyệt Đối: Đời sống con người trên trái đất là một cuộc lữ hành… Đức tin lữ hành của con người hướng con người về Thiên Chúa, giúp con người chọn lựa những gì sẽ làm cho mình đạt tới sự sống vĩnh hằng. Do vậy, mỗi giây phút trong cuộc lữ hành trên trái đất đều quan trọng – quan trọng với những thách đố và những chọn lựa của nó.” (TVNNTB, Đức Tin).
Trong Mùa Chay giáo hội cảnh tỉnh chúng ta đừng ngủ quên trong sự phù vân của trần thế, phải ý thức chúng ta là những người lữ hành đang đi về quê hương vĩnh cửu trên trời (Pl 3:20; 2Cr 5:1). Con đường về Nước Trời đó chính là con đường Chúa Giêsu Kitô đã đi qua với thập giá trên vai. Đi theo Ngài, “Đức Kitô, Đấng dẫn ta về với Thiên Chúa Cha” (ĐGH Gioan Phaolô II, TVNNTB, Đức Tin).
31. Qua đau khổ đến vinh quang
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Minh Chánh)
1/ Trong cuộc sống khi làm bất cứ việc gì cũng đòi hỏi một sự đầu tư tương xứng. Muốn làm một ngôi nhà đẹp và hiện đại, thì đòi hỏi đầu tư tiền của thật nhiều, thời gian xây dựng cũng không phài là ít, về phương diện mỹ thuật cũng không quá xơ xài. Hay trong lãnh vực tinh thần: Một người nam muốn đi tu làm linh mục cũng phải trải qua thời gian tu học thật chu đáo trong môi trường đào tạo, thật nghiêm túc đối với bản thân. Đến khi tuyển chọn để phong chức linh mục khách quan phải có sự đánh giá rất nghiêm túc của bề trên, của những vị có trách nhiệm về cách sống của ứng viên qua quá trình tu học, cũng như thời gian thực tập mục vụ…
Như vậy dầu trong lãnh vực tinh thần hay vật chất, nếu ta không đầu tư cho công việc cách chính trực và chính đáng thì sẽ không thu lợi, nhưng đó là điều bất lợi cho cá nhân và tập thể, cuối cùng sẽ gây nên tai hại khó lường.
2/ Cuộc đời của Đức Giêsu Kitô trong tư cách là con người, Chúa cũng đi theo quy luật trên. Khi chiêm ngắm sự kiện Chúa biến hình trên núi Tabor, đó là câu trả lời cho chúng ta biết trước sự kiện Chúa hiển dung là kết quả công trình đầu tư của Đức Giêsu. ” Đang khi Chúa cầu nguyện dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà”(Lc 9,29). Đây là hình ảnh báo trước về cuộc phục sinh siêu tôn của Chúa. Thế nhưng để đi đến con đường vinh quang phục sinh, trước hết Chúa phải trải qua con đường đau khổ, đường thập giá, cuối cùng là cái chết. Vì tám ngày trước khi Chúa biến hình, Chúa đã báo trước cho các tông đồ biết là Ngài” phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”(Lc 9,22).
Như vậy đường phục sinh vinh hiển mà Chúa đến đó không phải là con đường rộng dễ đi, nhưng là con đường phiêu lưu với nhiều khó khăn và đau khổ. Hơn nữa đó không phải là con đường để Chúa thể hiện sức mạnh bằng cuộc chiến đấu tranh giành theo kiểu trần thế, nhưng là con đường Chúa hạ mình nhận lấy phần xấu nhất của loài người qua việc đón nhận thập giá và chết trên thập giá. Con đường này là con đường Chúa Giêsu đầu tư theo Thánh ý Chúa Cha khi cứu độ loài người. Công trình ấy còn rất quan trọng cho con người, vì có liên quan đến sự sống vĩnh cửu của con người.
3/ Thông thường ai trong chúng ta cũng muốn sống và sợ chết. Riêng đối với sự sống vĩnh cửu thì chúng ta lại càng mong muốn hơn. Thế nhưng muốn được sống hạnh phúc vĩnh cửu, chúng ta hãy can đảm đầu tư cho sự sống cao quý ấy ngay từ bây giờ. Phải hy sinh từ bỏ ý riêng để chấp nhận ý Chúa, chấp nhận thập giá và chết trên thập giá. Đây như là một kiểu nói rất quen thuộc đối với chúng ta, bên cạnh đó vẫn còn rất xa với hành đông đáp trả của chúng ta. Lý do đa số chúng ta chưa cảm nghiệm đầy đủ về chiều sâu, chiều rộng, chiều cao của thập giá Chúa Giêsu. Hay phần nhiều chúng ta còn rất mơ hồ về ý nghĩa thập giá của Chúa trong đời sống của mình. Từ đó chúng ta rất xa lạ với thập giá, rất sợ đón nhận thập giá. Khi càng xa lạ và càng loại trừ thập giá ra khỏi đời sống, chắc chắn công trình đầu tư cho đời sống vĩnh cửu của chúng ta sẽ kém chất lượng, nó giống như “người ngu dại xây nhà trên cát, gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành”(Mt 7, 26-27).
4/ Người ta kể một câu chuyện tưởng tượng nhưng mang một ý nghĩa sâu sắc:
Một đoàn người bước theo Chúa Giêsu với thập giá trên vai. Chúa Giêsu dẫn đầu cũng mang thập giá mà Ngài đã vác hôm xưa trên đường núi sọ. Trong đoàn, có một chàng thanh niên kéo lê thập giá của mình một cách mệt mỏi. Miệng anh luôn kêu trách phàn nàn vì nghĩ rằng thập giá anh nặng hơn và dài hơn của những người khác. Chẳng mấy chốc anh là người kéo lê cuối đoàn. Cuối cùng anh quyết định dừng lại và cưa bớt thập giá của anh một đoạn để có thể nhẹ nhàng bắt kịp những người đi trước. Khi đoàn đến cuối đường thì gặp một hố sâu. Chúa Giêsu bảo: Bây giờ mỗi người hãy đặt thập giá mình ngang qua miệng hố làm cầu và tiến vào thiên đàng. Chúa Giêsu đặt thánh giá của ngài xuống và bước ngang qua, những người khác cũng đều làm theo, lạ lùng thay, thập giá cỡ nào cũng vừa khoảng cách hai bờ miệng hố, tất cả mọi người theo Chúa Giêsu đều vào thiên đàng, ngoại trừ anh chàng kia, vì anh cưa ngắn một đoạn thập giá nên anh không được vào thiên đàng.
Câu chuyện trên như muốn dạy chúng ta bài học: Khi càng tạo thập giá theo ý mình thì chúng ta sẽ loại trừ thập giá của Chúa ra khỏi đời ta. Vì Chúa muốn chúng ta vác thập giá theo ý Chúa chứ không phải theo ý ta. Hơn nữa khi càng xa thập giá của Chúa trong đời sống thì con đường hạnh phúc mai sau sẽ rất xa lạ đối với chúng ta. Ngược lại khi chấp nhận vác thập giá theo ý Chúa, thì mỗi ngày chúng ta sẽ trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Khi đời ta luôn gắn bó với thập giá của Chúa thì đó là dấu hiệu chúng ta đang gắn bó với hạnh phúc sau này.
Mẹ Maria là người rất có kinh nghiệm về việc vác thập giá trong đời. Xin Mẹ giúp chúng ta ngay từ bây giờ biết làm quen với thập giá của Đức Giêsu, biết vui lòng đón nhận thập giá của Đức Giêsu. Vì muốn vươn đến cuộc sống toàn thiện mai sau, điều cơ bản chúng ta phải từ bỏ tất cả để vác thập giá theo Đức Giêsu. Đây chính là cuộc đầu tư chính xác nhất cho sự sống vĩnh cửu trên thiên đàng. Vì qua sẽ đau khổ đến vinh quang.
32. Hai ngọn núi.
Có một cuốn phim mang tựa đề “Mặt nạ”, kể lại một câu chuyện về chú bé 16 tuổi, tên là Rocky. Chú mắc phải một chứng bệnh kỳ lạ khiến cho sọ và xương mặt chú phát triển khác thường, làm cho khuôn mặt chú bị biến dạng thật khủng khiếp. Nhiều người trông thấy chú, phải vội vã quay đi vì sợ hãi. Có kẻ lại chọc ghẹo, chế nhạo chú. Riêng chú thì chẳng bao giờ cảm thấy tủi thân, vì chú chấp nhận nó như một phần cuộc sống mình. Ngày nọ, chú và vài người bạn đi thăm khu công viên vui chơi. Họ vào một ngôi nhà được ráp kiếng và bật cười vì khuôn mặt họ bị những tấm gương làm cho biến dạng. Còn chú thì giật mình khi nhìn vào một tấm gương đã biến khuôn mặt méo mó của chú thành một khuôn mặt bình thường, nếu không muốn nói là rất đẹp trai. Lần đầu tiên trong đời, bè bạn chú đã nhìn thấy chú trong một trạng thái hoàn toàn mới mẻ. Họ đã nhìn thấy con người thực sự xinh đẹp bên trong của chú được bộc lộ ra bên ngoài.
Một điều tương tự như thế đã xảy ra cho Chúa Giêsu quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Trong lúc Ngài biến hình, các môn đệ đã nhìn thấy Ngài trong một trạng thái hoàn toàn mới lạ. Lần đầu tiên họ được trông thấy sự vinh quang tươi đẹp bên trong của Con Thiên Chúa được bộc lộ ra bên ngoài. Điều này khiến chúng ta tự hỏi: Tại sao cuộc biến hình lại được xếp vào Mùa Chay là mùa vốn mang màu sắc ảm đạm?
Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta phải đọc lại toàn bộ bài Phúc Âm nói đến cuộc biến hình. Việc này xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu báo cho các môn đệ rằng Ngài phải lên Giêrusalem để chịu nạn chịu chết. Khi nghe Chúa nói thế, Phêrô liền la lớn: Lạy Thầy, xin đừng để điều đó xảy ra cho Thầy. Lập tức Chúa Giêsu trả lời cho Phêrô một cách gay gắt: Hỡi Satan, hãy xéo đi, đừng cản trở Ta. Ngươi không suy nghĩ theo đường lối Thiên Chúa mà chỉ theo đường lối của con người. Có lẽ Phêrô, Giacôbê và Gioan cần được chích một mũi thuốc bổ thiêng liêng sau khi bị cú sốc Chúa hướng các ông về cuộc tử nạn. Và đó cũng là lý do khiến Giáo Hội nói về cuộc biến hình vào Mùa Chay như một trợ lực cần thiết cho chúng ta trước khi bước vào tuần thánh.
Nếu để ý một chút chúng ta sẽ thấy được sự tương phản giữa cuộc biến hình và cơn hấp hối trong vườn Cây Dầu. Cả hai đều xảy ra trên những ngọn núi, trước sự chứng kiến của ba môn đệ thân yêu. Và cả hai sẽ bổ túc cho nhau. Thực vậy, trên đỉnh Tabor ba môn đệ nhìn thấy Ngài xuất thần, và qua đó được chiêm ngắm thiên tính của Ngài. Còn trên núi Cây Dầu họ nhìn thấy Ngài hấp hối và qua đó nhân tính của Ngài được bộc lộ một cách rõ nét hơn cả.
Tabor và Cây Dầu mạc khải nét tương phản sinh động giữa nhân tính và thiên tính của Ngài. Hai biến cố này không thể tách lìa nhau như hai mặt của một đồng bạc, và như thế cho chúng ta thấy Ngài vừa là người thật vừa là Thiên Chúa thật.
Hãy chấp nhận thập giá cuộc đời để nhờ đó chúng ta sẽ được chia sẻ phần vinh quang phục sinh với Ngài.
33. Hình ảnh Đức Kitô vinh quang
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Lc 9: 28-36: Tin mừng hôm nay ghi lại một khung cảnh vừa hùng vĩ vừa huyền nhiệm: Chúa Giêsu biến hình trước các môn đệ thân tín.
Với thân phận yếu đuối phải chết, cuộc đời con người hầu như tiến bước trong đêm tối. Cuộc đời xem ra được hình thành từ nghi ngờ, sợ hãi và nước mắt. Chúng ta cần một chút ánh sáng chiếu soi vào bóng tối của mỗi người. Ánh sáng ấy đến từ đâu?
Cuộc biến hình của Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời: Chính Người là ánh sáng. Ngay khi vừa loan báo về cuộc khổ nạn của mình cho các môn đệ, Chúa Giêsu đã cho thấy vinh quang rực rỡ của Người. Sống kết hiệp với Người thì ngay trong đau khổ sẽ có ánh sáng chiếu tỏa từ Người, từ trái tim của Người làm cho chúng ta đựơc hạnh phúc, được vui sống. Khi ấy chúng ta cũng sẽ thốt lên như Phêrô: “Lạy Chúa, chúng con được ở đây thì tốt lắm.”
I. Tìm Hiểu Lời Chúa
1. Bài đọc I: St 15, 5-18
Giao Ước Với Abraham
Thiên Chúa ký kết một giao ước với Abraham, theo ngôn từ của giao ướic này thì Thiên Chúa hứa ban cho ông có một dòng dõi đông đúc và một miền đất phì nhiêu làm gia sản. Mặc dầu đã già và vợ không sinh nở được, nhưng Abraham vẫn tín thác hoàn toàn vào lời hứa của Thiên Chúa.
Một cảnh tượng dị thường để đóng dấu cho giao ước. Để nắm bắt được ý nghĩa của biến cố này, cần phải hiểu rõ về những lễ nghi thực hành của một lễ ký kết giao ước theo văn hóa Phương Đông, khi hai người hay hai hai bên muốn hợp tác với nhau. Ở Cận Đông cổ đại, khi giao ước với nhau, đôi bên đi qua giữa những mảnh thịt đầy máu và cầu cho mình số phận mà các con vật bị xẻ đôi này phải chịu, nếu họ vi phạm điều cam kết.
Ở đây, chính Thiên Chúa đã mời gọi và chủ động ký kết giao ước với Abraham, khi chỉ có một mình Thiên Chúa, dưới biểu tượng lửa đi qua các con vật bị xẻ đôi. Như thế, đây là một giao ước đơn phương từ sáng kiến giao ước đến tương lai của giao ước đều do Thiên Chúa chủ động thực hiện. Với Abraham, Thiên Chúa chỉ cần ông tin mà thôi.
Thiên Chúa là Đấng trung tín không thay đổi, chúng ta phải hoàn toàn tin tưởng phó thác mọi sự trong tay của Ngài. Trình thuật Kinh Thánh cho thấy Abraham đã tin vào Thiên Chúa, ông tin vào những lời hứa của Chúa sẽ được thực hiện. Ông đã tin nên Chúa đã cho hành động ấy là một công nghiệp, kể ông là người công chính ( Đnl 24, 13; Tv 106, 31). Từ đó, Thánh Phaolô kết luận rằng con người được cứu độ, nên công chính vì tin chứ không phải vì công kia việc nọ.
2. Bài đọc II: Pl 3, 17-4,1
Sự biến hình của Kitô hữu
Thánh Phaolô thúc giục mạnh mẽ các công sự của Ngài, những tín hữu Philipphê phải sống không như những người Do thái thù nghịch với thập giá Đức Kitô nhưng như những công dân của nước Trời, theo hình ảnh của Đức Kitô. Tất cả sẽ được người biến đổi nênh giống như thân xác vinh quang của Người.
Thánh Phaolô, theo như Ngài nói, đã gặp phải một đau khổ lớn lao, một sự buồn sầu ứa lệ, là vì có những người gọi là sống theo Đức Kitô, nhưng họ lại chỉ muốn chọn lựa theo những sự dưới đất để rồi lấy cái bụng là Chúa tể của mình.
Trái lại, qua bí tích Thanh Tẩy Kitô hữu trở nên công dân của Nước Trời phải đồng hóa với Đức Kitô, phải biến đổi trong Người, đồng thời, phải khuân theo những cách cư xử của Người như Thánh Phaolô đã sống.
Thánh Phaolô mời gọi hãy “vững vàng trong Chúa.” Vững vàng trong Chúa là thái độ tin tưởng và theo Chúa để Người hướng dẫn, biến đổi trong mọi nghịch cảnh của cuộc sống. Vững vàng trong Chúa là thái độ biết từ bỏ mọi sự thế gian, từ bỏ chính mình để trung thành theo Đức Kitô.
3. Tin mừng: Lc 9, 28-36
Chúa Giêsu Biến Hình
Tin mừng hôm nay ghi lại một khung cảnh vừa hùng vĩ vừa huyền nhiệm: Chúa Giêsu biến hình trước các môn đệ thân tín.
Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, Người đưa theo ba Tông đồ: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Đang khi cầu nguyện ‘dung mạo Người biến đổi khác thường’. Chỉ có Luca ghi lại rõ Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện và cuộc biến hình sảy ra đang khi Người cầu nguyện, như thể là kết quả của cầu nguyện.
Như các biến cố khác trong cuộc đời của Chúa Giêsu, biến hình cũng qui chiếu vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Người. Sự kiện Người biến hình như một chứng từ củng cố cho niền tin của các môn đệ trước cuộc khổ nạn sắp tới của Người.
Qua bí tích Thanh Tẩy, Kitô hữu cũng được biến hình với Đức Kitô, nghĩa là cũng chiếu tỏa vinh quang của Người cho con người và thế giới hôm nay. Nhưng vinh quang chỉ thực sự tỏ rạng khi băng qua những đau khổ và sự khiêm hạ củathập giá.
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Biến Hình, lời khích lệ đức tin: Cuộc biến hình của Chúa Giêsu là lời đáp trả của Chúa Cha đối với việc Người chấp nhận chịu tử nạn vì tình yêu. Trước khi biến hình Chúa Giêsu đã loan báo với các môn đệ về cuộc thương khó sắp đến của Người. Người biết Người đang tiến đến Giêrusalem đón nhận cái chết theo ý muốn của Chúa Cha để cứu chuộc nhân loại. Đáp lại sự vâng phục đầy tình yêu của Chúa Giêsu, Chúa Cha sẽ ban lại vinh quang, danh dự và quyền uy tối thượng cho Người. Biến hình là hình ảnh báo trước vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu mà Chúa Cha sẽ dành cho Người. Khi nghe Thầy mình tuyên bố về cuộc khổ nạn, các Tông đồ mà đại diện là Phêrô đã cảm thấy bất an, lo âu và muốn tháo lui. Các ông đã ngăn cản Người lên Giêrusalem. Cho nên, việc Người biến hình cho các ông thấy trước vinh quang mà người sẽ nhận được sau khổ nạn là lời động viên các ông hãy can đảm đón nhận những biến cố bi thương sắp sảy đến; là lời khích lệ đức tin các ông hãy kiên tâm, bền đỗ đến cùng.
Trong đời sống đức tin, việc theo Chúa Giêsu sống vâng phục Thánh ý Chúa Cha luôn là những thách đố, những thập giá phải vác, chúng ta hãy tin chắc rằng tương lai sau sự vâng phục, sau khổ nạn luôn là niềm vui và vinh quang lớn lao. Như Abraham đã tin vào lời hứa của Thiên Chúa để can đảm dấn thân lên đường theo lời Chúa và đã trở nên Cha của những kẻ tin; như lời Thánh Phaolô khẳng định: theo Đức Giêsu Kitô Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người, ngày nay mỗi Kitô hữu cần trung thành với đức tin của mình và bền tâm vững chí hy vọng vào lời hứa của Chúa.
2. Biến Hình, lời mời gọi dấn thân theo Đức Giêsu Kitô: Trong biến cố biến hình, Chúa Cha đã xác nhận Chúa Giêsu chính là ” Con yêu dấu của Chúa Cha” và mời gọi hãy nghe lời Người. Đây là lời mạc khải cho biết về thân phận của chính Chúa Giêsu, Người là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Vì thế, việc nghe lời Người là điều tất yếu. Nghe theo Người là chấp nhận vác thập giá, chấp nhận khổ đau vì phần rỗi của tha nhân. Nghe Người là cộng tác với Người để đưa tình yêu cứu độ đến với mọi người. Nghe Người là lên đường dấn thân mang ánh sáng Tin mừng chiếu soi vào trong cuộc đời đầy tăm tối của sự dữ, của tội lỗi và của sự chết chóc. Sau khi biến hình trên núi với một thoáng vinh quang, một chốc lát ngập tràn hạnh phúc, Thầy trò lại xuống núi để tiếp tục hành trình lên Giêrusalem đến tận đồi Canvê. Đây chính là lúc để các môn đệ xác tín vào quyết định dấn theo theo Thầy mình vào cuộc khổ nạn. Đã nghe báo trước cuộc khổ hình, đã thấy trước vinh quang Thầy sẽ có sau khổ giá vậy mà các Tông đồ vẫn sợ hãi, trốn chạy, thế mới hay: Nghe theo Chúa Giêsu, đi con đường của Người không phải dễ dàng đơn giản cứ muốn là được. Đòi hỏi mỗi người phải mạnh chí trong đức tin, bền gan trong đức cậy và sắt son trong đức mến mới có thể đi trọn được.
Biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, biết là phải nghe lời Người nhưng thực tế cuộc sống, Kitô hữu ngày nay đã làm gì? Đã sống như thế nào để có thể nói được là đã tin nghe và dấn thân theo Người trên đường khổ giá?
3. Biến Hình, lời nhắc nhở con người nhớ mình là hình ảnh của Thiên Chúa: Ngay từ khởi đầu, con ngừơi đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Nghĩa là nơi con người đã được mang lấy những phẩm chất cao quí, vinh quang của Thiên Chúa. Vinh quang ấy nơi Thiên Chúa không bao giờ thay đổi hay bị suy giảm mất đi theo thời gian. Với con người cũng vậy, Thiên Chúa muốn cho những phẩm giá cao quí ấy tồn tại mãi mãi và không ngừng gia tăng. Tuy nhiên, con người đã phản bội lại tình yêu Thiên Chúa; tội lỗi đã làm lu mờ đi hình ảnh của Thiên Chúa nơi mỗi người, làm suy giảm thận chí mất đi những phẩm giá cao quí mà Thiên Chúa đã ban tặng khi tạo dựng. Chúa Giêsu đã đến để phục hồi phẩm gía con người là hình ảnh của Thiên Chúa bằng cuộc tử nạn và phục sinh của Người. Hơn thế nữa, không chỉ mang hình ảnh, mang những phẩm giá của Thiên Chúa, con người còn đựơc nâng lên địa vị làm Con Thiên Chúa như Người. Lời Chúa Cha mạc khải trong biến cố biến hình về Chúa Giêsu: Đây là Con yêu dấu của Ta cũng sẽ là Lời Chúa Cha nói với mọi người ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Thánh tẩy.
Vì thế, Biến hình còn là lời Thiên Chúa nhắc nhở con người về thân phận của mình, tất cả đựơc dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, qua cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu tất cả đã trở nên Con Thiên Chúa. Vậy phải sống thế nào để luôn chói sáng những phẩm giá của một người con. Cuộc Biến hình của Chúa Giêsu phải được mỗi người tiếp nối trong hiện tại này, để qua chúng ta mọi người nhận biết vinh quang của Thiên Chúa là Cha chúng ta.
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, trên đường tiến tới cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu đã mạc khải vinh quang của Người qua biến cố biến hình để củng cố niềm tin cho các môn đệ. Trong niền tin tưởng chúng ta cùng dâng lên Chúa những ước nguyện của chúng ta.
1. Giáo Hội là nhiệm thể của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần của Giáo Hội luôn tỏa sáng khuân mặt khả ái của Người giữa lòng trần thế hôm nay bằng chính đời sống gương mẫu của mọi người.
2. “Đây là con yêu dấu của Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”. Chúng ta cùng cầu xin cho các nhà lãnh đạo quốc gia luôn biết đề ra những quốc sách đưa dân nước đi đúng vào con đường phát triển đề cao công lý, hoà bình và tự do; làm cho mọi công dân được sống đúng phẩm giá của mình.
3. Chúa Giêsu biến hình mạc khải vinh quang của Người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết nỗ lực sống thực thi Lời Chúa để cuộc đời mỗi người dù trong đau khổ, thử thách vẫn rạng ngời hình ảnh của Chúa Giêsu đầy lòng nhân ái.
* Kết Nguyện: Lạy Chúa là Cha nhân từ, Chúa đã muốn cho Chúa Giêsu biến hình để thắp sáng con đường đức tin của chúng con và để đổi mới con tim chúng con. Xin cho chúng con được tràn đầy ơn thánh của Chúa để chúng con cũng tỏa sáng nhân đức làm cho mọi người nhận biết tình yêu và vinh quang của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
34. Vinh quang và đau khổ – Thu Băng, CMR
Chúa đưa Phêrô, Giacobê, và Gioan lên núi cao và biến hình trước mặt các ông, lại có Elia và Moise hiện đến nói chuyện với Ngài. (Lc.09:28-36).
Chúa Giêsu đưa 3 môn đệ lên một ngọn núi cao, khoảng chừng 600 thước và các ông chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa cũng như đã xem thấy sự đau khổ của Ngài trong vườn cây dầu.
Ngài mạc khải cho thấy sự đau khổ của Ngài pha lẫn với vinh quang sáng lạn. Ngài phải chết nhục nhã, đau thương rồi mới khải hòan trong phục sinh vinh hiển. Đau khổ như cánh bèo trôi dạt trên sông, đau thương là thung lũng nước mắt. giữa thế gian đau khổ, là nguyên nhân gây nên bực bội buồn phiền. Chúng ta chấp nhận đau khổ vì sau đau khổ là vinh quang phục sinh, cũng như sau cơn mưa trời lại sáng, sau mùa xuân trời lại sang xuân.
Xưa có một anh làm nghề bưng trống tên là Năm. Anh thường đem đến làng khác để bán. Một hôm leo đồi lặn suối gánh trống đi bán, đến gốc cây đa đầu làng anh mệt lả, liền nghỉ chân thì thấy bác Sáu đã ngồi thở hổn hển bên cạnh. Hai người bắt chuyện rồi Năm đem cơm nắm ra chia sẻ. Cuối cùng anh Năm nhờ ông Sáu gánh giúp một đoạn đường. Hai người bắt đầu xuống dốc và khát nước, họ liền ghé cái giếng kiếm nước uống, thành giếng lại rêu rong và dốc lại không có gầu. Anh Năm nghĩ ra kế buộc dây vào lưng ông Sáu cho tụt xuống uống nước, uống xong anh kéo lên. Đến lượt anh Năm xuống giếng thì ông Năm để cho anh uống nước no rồi gánh gánh trống đi biệt. Anh la hét cũng không có tiếng trả lời, chịu trận cho đến tối mới có người ra giếng kéo anh lên. Đi một quãng đường nữa thì tối, anh phải vào một ngôi chùa xin sư cụ cho trú chân. Trong chùa lại có 4 con qủy hay đi ăn đêm về trễ, sợ bị ăn thịt, sư cụ chỉ cho một cái hang bên chùa để trú an toàn. Nữa đêm bầy qủy về trước cửa chùa nói chuyện:
– Nhà chùa có chôn 4 chum bạc bên cạnh và 4 chum vàng đàng sau cửa ra vào. Tên khác lại nói:
– Trong hang có một cục Ngọc Thạch nguy hiểm ai mà nhặt được ném chúng ta thì chết. Nghe thấy vậy, anh Năm thò tay vơ lấy cục Ngọc mà ban chiều anh đã trông thấy. Anh ném bày qủy, bất chợt bị chết tốt, thế là anh thoát nạn, cám ơn sư cụ cầm cục Ngọc ra đi rồi hôm sau quay trở lại đào lấy mấy chum vàng và bạc về làm giầu.
Ông Sáu gánh trống đi xa, đến chập tối vào xin trọ ở cái miếu cây đa đầu làng. Miếu cũng thường có qủy hiện hình ban đêm, ông nằm lăn ra ngủ, để gánh trống ở cửa miếu. Đến khuya qủy hiện hình bước lên mặt trống kêu tùng tùng khiến chúng hoảng sợ bỏ chạy. Một con qủy chạy trốn vào trong miếu thấy có người liền bóp cổ chết. Nó lại ra ghõ trống kêu gọi lũ qủy về miếu ăn mừng vì đã hạ sát được kẻ bày mưu.
Trong lúc đau khổ mất trống, anh Năm lại gặp hên là được của về làm giầu. Trong lúc ông Năm đánh cáp được gánh trống, lại gặp xui (lũ qủy bóp cổ chết). May rủi, sống chết là đau khổ và vinh quang, cũng như Chúa tỏ cho các môn đệ thấy cái khổ nhục, bị chết treo trên thánh giá rồi mới được phục sinh. Cuộc đời chúng ta cũng sẽ gặp những lúc đau khổ, nhục nhã, mất mát, tàn lụi rồi mới đến lúc vinh quang. Chúng ta hay biết tuân theo thánh ý Chúa trong mọi lúc và trong mọi sự.
35. Núi Tabor và cuộc sống hằng ngày
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
“Thật phi thường! Quá trời! Không thể tưởng tượng được! Số dách! Số một! Kinh khủng! Hạng nhất!” và còn bao nhiêu danh từ kỳ cục khác, nếu không nói là nhiều khi còn vô nghĩa nữa, mà chúng ta đã xử dụng khi phải diễn tả một sự kiện ngoại thường mà chúng ta chưa tìm ra được những danh từ và những ý niệm thích hợp. Ðó là những sự kiện hay biến cố điển hình đã làm cho chúng ta quá sung sướng và ngạc nhiên, những sự kiện và biến cố cực kỳ lạ thường, độc nhất vô nhị và không sao diễn tả hết! Và trong hoàn cảnh đó, chúng ta thường nói: “Tôi không có đủ lời để nói; nó làm cho tôi hết đổi sững sờ và không sao nói lên lời; thật không sao diễn tả hết!”
Các môn đệ xưa kia cũng đã từng đứng trước những trường hợp kỳ lạ tương tự. Bởi vì Ðức Giêsu đã làm những việc “có một không hai”, như: Người làm cho bệnh nhân nan y lành mạnh, mở mắt người mù, cho người chết sống lại, v.v… Nhiều người sau khi gặp gỡ và nói chuyện với Người đã cảm thấy được giải thoát, cảm thấy lòng mình thơ thới nhẹ nhàng, đầy vui mừng. Họ trở nên lạc quan và như được biến đổi hoàn toàn. Vì thế, xưa kia các môn đệ chắc chắn cũng đã tự hỏi: “Làm thế nào mà Người có thể hành động được như vậy, là thay đổi được bao nhiêu người khác và cả chính chúng tôi nữa?”
Những điều được tường thuật trong bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, đã giúp cho các môn đệ – ít là từ từ – hiểu được Ðức Giêsu cách sâu xa và rõ ràng hơn.
Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt, và đã trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Thế nhưng biến cố Tabor đối với các môn đệ vào lúc bấy giờ còn là một điều xa lạ, không trực tiếp liên quan đến họ. Họ chỉ nhìn thấy được trong biến cố đó sự quan hệ của Ðức Giêsu với Thiên Chúa, Cha của Người, trong sự vinh quang thần thiêng, chứ họ chưa cảm nhận được rằng biến cố đó xảy ra là vì họ. Chẳng những thế, họ còn tỏ ra rối rắm và mất hết tự chủ. Bởi vì một biến cố như thế không nằm trong khả năng hiểu biết về đức tin, cũng như không thuộc về phạm vi thực hành đức tin của họ. Họ cảm thấy mình là những người ngoại cuộc! Cũng vì thế họ đã ngủ gật, tương tự như sau đó ít lâu tại Vườn Cây Dầu: Trong khi Ðức Giêsu đầy lo âu sợ hãi trước cuộc khổ nạn, đến đổ mồ hôi máu ra, thì các môn đệ vẫn dửng dưng và ngồi ngủ gật!
Chỉ sau đó khá lâu, các ông mới khám phá ra được ý nghĩa quan trọng của biến cố Tabor. Ðó là lúc các ông cảm nhận và hiểu rõ được cuộc khổ nạn vả sự vinh hiển trong biến cố phục sinh của Ðức Giêsu. Bấy giờ lòng trí các ông mở ra và hiểu được những gì mà các ông đã từng cảm nhận và từng chứng kiến phần nào trong cuộc sống trần thế của Ðức Giêsu. Nhất là họ hiểu được một cách sâu xa đầy đủ, tại sao họ cần phải lắng nghe các giáo huấn của Ðức Giêsu và chiêm ngưỡng cuộc đời của Người. Bởi vì đã có tiếng từ trời bảo họ: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”
Dĩ nhiên đối với Phêrô, Gioan và Giacôbê: Biến cố trên núi Tabor là một hiện tượng có một không hai. Ðó là một biến cố không ai có thể áp đặt hay tạo ra được. Ðối với ba ông, đó là một điều ngoại lệ. Ðể hiểu được như vậy, đòi hỏi người ta phải có tâm hồn cởi mở và thuần phục. Nếu không, người ta sẽ nói ngay: “Ðiều đó chẳng có gì liên quan tới tôi cả! Tôi chẳng có ý kiến gì về chuyện đó cả!”
Những biến cố đặc biệt và độc nhất vô nhị trên núi Tabor, ngày nay cũng vẫn còn xảy ra trong nhiều lãnh vực – thuộc tôn giáo cũng như dân sự -, thí dụ:
Những ai khi đi vào trong rừng rậm xa lạ, mà vẫn tìm ra lối đi, chứ không bị lạc đường, sẽ cảm thấy sung sướng.
Một nhà thể thao sau khi đã đạt được những thành công vàng son của mình, anh sẽ bày tỏ cho người khác hay sự hạnh phúc của mình. Và anh càng được động viên trong những nỗ lực mới.
Khi một người nhận được sự thông cảm và tha thứ mà anh không dám chờ đợi. Phải chăng đó không phải là một sự kiện quan trọng đáng mừng?
Hay khi một người có được một cảm nghiệm ngọt ngào và đầy an ùi trong khi cầu nguyện, mà người đó không hề dám nghĩ tới. Ðiều đó chắc chắn sẽ giúp anh ta rất nhiều trong việc tiếp tục trông cậy vào Thiên Chúa hay lại có được sự phó thác vào Thiên Chúa, v.v…
Vâng, đức tin của chúng ta sống nhờ những cảm nghiệm đặc biệt và cả những cảm nghiệm bình thường hằng ngày. Trong cuộc sống cụ thể, nhiều khi chúng ta cảm thấy lòng đầy sốt sắng và hạnh phúc trong việc đọc kinh xem lễ, và chúng ta rất vui mừng khi tiếp xúc với cộng đồng dân Chúa. Thế nhưng, thường tình thì chúng ta lại phải đối mặt với cuộc sống vật lộn hằng ngày.
Ðúng vậy, Ðức Giêsu không để các môn đệ ở lại trên “núi Tabor của những an ủi” lâu, ngay sau đó Người đã dẫn họ trở lại với cuộc sống thường nhật của họ. Người không để họ xây dựng những căn lều trên núi Tabor, nhưng ở dưới thung lủng của cuộc sống đức tin hằng ngày với bao những thử thách. Vâng, cuộc sống hằng ngày phải thực sự là nơi các môn đệ vâng nghe Ðức Giêsu, là nơi họ phải hướng nhìn lên Người, và là nơi họ phải bước theo Người.
Tuy nhiên, biến cố trên núi Tabor vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của họ trong suốt tiến trình theo Ðức Giêsu. Cũng vậy, trong cuộc sống đức tin, trong cuộc sống đạo hằng ngày, chúng ta cần có ơn an ủi đỡ nâng của Thiên chúa, để chúng ta có thêm sức mạnh chống chọi với các thách đố của cuộc sống, nhưng chính chúng ta phải tự ra tay chiến đấu lấy. Và để cuộc chiến đấu đức tin đạt được thắng lợi, chúng ta phải thực hành theo lời khuyên đến từ trời cao: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” Amen.
36. Cầu nguyện biến đổi – AM Trần Bình An
Hơn 10.000 người đã tụ tập tại một nhà thờ làng thuộc Tổng giáo phận Tellicherry ở Kerala, sau khi tin tức lan truyền rằng khuôn mặt của Chúa Giêsu xuất hiện trên Bánh Thánh trong Thánh Lễ buổi sáng. Tổng giáo phận đã vội vã tập hợp một đội điều tra hiện tượng xảy ra tại Nhà thờ Chúa Kitô Vua, Vilakannur, khoảng 50 km về phía đông của thành phố Kannur.
Linh mục chánh xứ Cha Thomas Pathickal, 60 tuổi, nói với trang web mattersindia. Vị linh mục đã cai quản Giáo xứ này từ ba năm trước, cho biết ngài đã làm theo sự hướng dẫn của Đức Tổng Giám Mục George Valiamattam, của Tổng giáo phận Tellicherry để giữ cho “phép lạ” Thánh thể bên trong Nhà tạm Thánh thể trong nhà thờ.
Hơn 500 giáo dân đang cầu nguyện trong nhà thờ, khi họ chờ đợi các cuộc điều tra Tổng giáo phận, quyết định phổ biến cho mọi người biết. Các quan chức cảnh sát cấp cao từ các Quận, Huyện và địa phương cũng kéo đến, cũng như người dân từ các Giáo xứ khác kéo đến Vilakannur. Nhiều phương tiện xe cộ cũng kéo đến đông nghẹt cả con đường đến vùng Paithalmala, nơi đây cũng là một địa điểm nổi tiếng cho du khách ưa du lịch mạo hiểm.
Cha Thomas Pathickal nói hiện tượng này xảy ra khi Giáo xứ đang chuẩn bị cho lễ Chúa Kitô Vua vào ngày 24 tháng 11. Tường thuật lại sự việc, Cha nói tại thời điểm trong Thánh Lễ sáng lúc 7:00, Cha nhận thấy một điểm trên Bánh Thánh, “trở nên lớn và sáng hơn, sau đó xuất hiện khuôn mặt Chúa Giêsu.” Ngài để Bánh Thánh đó sang một bên và tiếp tục Thánh Lễ bằng Bánh Thánh khác trong Nhà tạm.
Sau Thánh lễ, Cha gọi ông thủ từ đến, người này sau khi xem cũng nói với Cha rằng đó là gương mặt của Chúa Giêsu. Sau đó Cha đặt Bánh Thánh đó vào Mặt nhật và để lên bàn thờ trong Thánh đường. Hàng trăm người khác cũng nhìn thấy khuôn mặt sáng ngời của một người đàn ông râu tóc dài. “Chỉ có màu đen và trắng, ngoài ra không có màu nào khác”, Cha Pathickal nói khuôn mặt sáng ngời đó vẫn có thể nhìn thấy được, sau khi Cha cất Bánh Thánh trong Nhà tạm, lúc đó khoảng 11 giờ sáng theo như sự hướng dẫn của Đức Tổng giám mục. Cha Thomas cho biết lòng tin của Cha trở nên mạnh mẽ sau khi nhìn thấy “Phép lạ”. Cha cho biết mình phải đến Naduvil, trụ sở chính quyền địa phương của vùng này (cách 3 km về phía đông) vì một số vấn đề khi họ nghe về tin này. “Tôi đã chạy vội đến đây và thật may mắn khi được thấy Chúa Giêsu,” Cha nói thêm. Cha cho biết nhiều người đã thất vọng khi Cha từ chối để cho họ được nhìn thấy Bánh Thánh.
Được thành lập vào năm 1962, Giáo xứ có hơn 500 gia đình và 1.250 người Công giáo và hầu hết trong số họ là thế hệ thứ hai và thứ ba của những người đã di cư từ Trung tâm Kerala thế kỷ trước. (Miracle at Vilakkannoor, Kannur, Kerala, India 2013)
Từ hơn hai năm nay, Lm Thomas và giáo xứ Vilakannur được diễm phúc chiêm ngưỡng thánh nhan Chúa Giêsu trên Thánh Thể, như xưa ba môn đệ đã được hưởng phúc chiêm ngưỡng Người hiển dung.
Trong Tin Mừng thánh Luca Chúa nhật thứ hai Mùa Chay hôm nay, tường thuật Đức Giêsu sau khi cầu nguyện, đã biến hình sáng láng, diệu kỳ trước ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Hai ông Môisen và Êlia, đại diện cho Lề Luật và Ngôn sứ, cùng hiện đến đàm đạo với Người về cuộc Xuất Hành sắp đến. Trong khi ba đấng còn mải mê ngủ vùi, khi chợt tỉnh dậy thì cuộc hiển dung sắp kết thúc, được nghe tiếng phán từ trời: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người.”
Như vậy, qua Tin Mừng, cầu nguyện hàm chứa nhiều ý nghĩa quan trọng, như hạnh ngộ cùng Thiên Chúa, lắng nghe Thánh Ý Chúa để vâng phục thi hành, cùng niềm hy vọng Nước Trời.
Cầu nguyện hạnh ngộ
Hàng ngày, sau khi giảng dạy, Đức Giêsu luôn lui vào nơi thanh vắng để cầu nguyện, như đúc kết những những thành quả và thất bại trong ngày, giãi bày cùng Đức Chúa Cha, lẫn tâm sự vui buồn. Tuy có rất nhiều người hăng hái, đón nhận, nghe theo Người rao truyền ơn cứu độ, nhưng cũng không ít người phản đối, chống báng, vì lời dạy quá tân kỳ, gây “sốc” với mọi người.
Trước những biến cố quan trọng, hay khúc quanh cuộc đời sắp diễn ra, Đức Giêsu càng hết sức tha thiết cầu nguyện: Khi Người chịu phép rửa (Lc 3, 21), sau khi nổi tiếng chữa người phung (Lc 5, 16), cầu nguyện suốt đêm trước khi chọn 12 Tông đồ (Lc 6, 12), trước khi loan báo sự thương khó lần thứ nhất (Lc 9, 18), trước khi Người hiển dung (Lc 9, 28), vui mừng tạ ơn Đức Chúa Cha (Lc 10, 21) Trước khi dạy Kinh Lạy Cha (Lc 11, 1), cầu xin cho Phêrô vững lòng tin (Lc 22, 32), cầu nguyện trước khi chịu thương khó (Lc 22, 41- 42), cầu xin tha thứ cho kẻ dữ hại mình (Lc 23, 34), cầu nguyện phó linh hồn trong tay Chúa Cha (Lc 23, 46)…
Cầu nguyện vốn là việc rất cần thiết và cấp bách của người Kitô hữu, con của Chúa, hầu luôn được hân hạnh gặp gỡ Ngài. Bước vào mùa Chay Thánh, Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi mọi người chay tịnh qua ba cách thức chính yếu. Đó là cầu nguyện, ăn chay và bác ái. “Cầu nguyện giữ vị thế đầu tiên, đó là việc tỏ ra cởi mở và tin tưởng vào Chúa: nó là cuộc gặp gỡ riêng tư với Người, việc thu ngắn khoảng cách gây ra bởi tội lỗi. Cầu nguyện tức là nói rằng: “Con là kẻ thiếu thốn, con cần Chúa. Chúa là sự sống của con và là ơn cứu độ của con.” (Đức Thánh Cha Phanxicô, Bài Giảng lễ Tro 10. 2. 2016)
“Giờ cầu nguyện là giờ tâm sự với Chúa là Cha, chứ không phải là giờ làm bài, là giờ của quả tim, chứ không phải là giờ của luận lý. Đừng nặn óc bóp trán để trình bày với Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 142)
Cầu nguyện hiệp nhất
Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Cả hai người đại diện cho Cựu Ước đến an ủi, chia sẻ, đồng cảm và đồng tình với Đức Giêsu, dấn thân vào cuộc thương khó và tử nạn sắp đến.
Cầu nguyện còn là tỉnh thức lắng nghe, đón nhận và tìm hiểu Thánh Ý, thể hiện qua các chứng nhân, dấu chỉ, ngôn sứ, cùng chấp nhận, vâng phục đau khổ, gian nan, thách đố, mà cao điểm là dâng hiến cuộc đời, hiệp nhất vào cuộc tử nạn của Đức Giêsu.
“Con tìm bạn để an ủi, nâng đỡ con khỏi cô đơn. Sao con không tìm người bạn không bao giờ phản bội con, và có thể ở với con liên lỉ bất cứ nơi nào?” (Đường Hy Vọng, số 130)
Cầu nguyện hy vọng
Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Với con người, cầu nguyện còn có khả năng biến hình, thăng hoa, thánh hoá, bộc lộ thần tính mà Thiên Chúa đã ẩn giấu, khắc ghi trong từng người, ngay từ khi Ngài tạo dựng. Nhờ lời cầu nguyện của Đức Giêsu, ba môn đệ được hạnh phúc chiêm ngưỡng Nước Trời, như Người đã phán: “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt tại đây, có những kẻ sẽ không phải chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa.” (Lc 9, 27)
Như thế, cầu nguyện liên lỉ với Thiên Chúa, sẽ gia tăng niềm hy vọng được vào Nước Chúa, cùng thoát khỏi cái chết vĩnh viễn. Nhờ sốt sắng cầu nguyện, các thánh thường được xuất thần, vinh dự “thấy Nước Thiên Chúa,” ngay khi còn sống dưới dương thế.
Với người giáo dân bình thường, cầu nguyện là đặt tất cả niềm hy vọng vào Chúa Quan Phòng trong mọi tình huống vui buồn, đau khổ, gian nan, phó dâng lên Chúa, để được an ủi và bình an. Thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu Roma luôn siêng năng cầu nguyện trong lúc nguy nan:“Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện.” (Rm 12, 12)
“Chúa dạy đọc kinh để giúp con cầu nguyện, nhưng việc chính là gặp gỡ, nói chuyện giữa Cha và con: “Khi con cầu nguyện, đừng lo phải nói gì! Hãy vào phòng đóng cửa, cầu nguyện với Cha của con cách kín đáo, và Cha con thấy mọi sự, sẽ nghe lời con.”Không cần hình thức, chỉ cần tâm tình phụ tử.”(Đường Hy Vọng, số 127)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biến hình khi đang cầu nguyện, dung nhan sáng láng, thánh thiện, biểu lộ Thần tính của Người, xin phù trợ, đốt lửa mến cho chúng con sốt sắng cầu nguyện, để chúng con cũng được biến đổi, có thể hạn chế nhân tính, kềm hãm thú tính, hầu chăm sóc, nuôi dưỡng, phát triển Thần tính, siêng năng gặp gỡ, tâm tình, hiệp nhất với Thánh Ý, cũng như hoàn toàn tin cậy, phó thác, hy vọng vào Lòng Thương Xót Chúa vô biên, xứng đáng làm con Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy chúng con luôn tha thiết cầu nguyện, luôn biết lắng nghe tiếng gọi đi theo Chúa, luôn sống theo Thánh Ý nhiệm mầu, mặc dù gian nan, đau khổ, hiểm nguy thách thức, hầu luôn được hiếp nhất với Chúa trong niềm hy vọng tràn trề. Amen.
37. Ai được lên Núi Chúa? – AM. Trần Bình An
Vào ngày 12-4 -1961, Yuri Gagarin trở thành phi hành gia người Nga đầu tiên. Chiếc phi thuyền Vostok-1 bay được một vòng quanh qũy đạo trái đất trong 1 giờ 48 phút, với vận tốc 17,000 miles một giờ. Anh trở thành một anh hùng của dân tộc Nga vào lúc đó, vì đã làm cho cả nước Nga hãnh diện vì sự tiến bộ của họ. Sau đó, đã có một buổi tiếp tân rất lớn để vinh danh anh. Người bạn thân và đồng nghiệp của anh là phi hành gia Alexei Leonov thuật lại.
Lúc đó Tổng bí thư Nikita Khrushchev hỏi dồn Gagarin: “Vậy nói cho tôi biết, anh có thấy Thiên Chúa trên đó không?” Lưỡng lự một chút, Gagarin trả lời dứt khoát: “Vâng thưa ngài, tôi có thấy!” Khrushchev cau mày, ông dặn dò: “Đừng nói với bất kỳ ai.” Vài phút sau, người đứng đầu Giáo Hội Chính Thống Nga lại bên, hỏi Gagarin: “Vậy, con cho cha biết, con có nhìn thấy Thiên Chúa trên đó không?” Gagarin do dự trả lời: “Không, thưa cha con không thấy.” Ngài dặn: “Đừng nói với bất cứ ai.” (Giai thoại trong New Age Journal, Vol. 7 (1990), p. 176)
Thực tế Yuri Gagarin đã được rửa tội trong Giáo Hội Chính Thống, nhưng do áp lực của Soviet đối với Kitô giáo, anh buộc phải dè chừng lại chính mình. Sau khi bay vào vũ trụ, Gagarin đã tới nhà thờ Ba Ngôi Thiên Chúa của Đan viện Thánh Sergi lớn nhất nước Nga, để tạ ơn Thiên Chúa đã cho chuyến bay thành công tốt đẹp…
Xưa kia, ông Môsê lên núi Sinai, được Thiên Chúa ban 10 Điều Răn, rồi ngôn sứ Êlia lên núi Khôrép, được Thiên Chúa ban cho sứ vụ. Nay Chúa Giêsu lên núi Tabor cùng với ba vị Tông đồ, Phêrô, Gioan, Giacôbê, diện mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. Người đàm đạo với hai vị tiền bối Môsê và Êlia về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
Nhưng muốn được vinh dự lên núi Chúa, đâu phải đơn giản, dễ dàng và thoải mái như bây giờ leo núi bằng cáp treo.
Thanh tẩy
Chuẩn bị lên núi Thiên Chúa, Ông Môsê nhắc nhở dân chúng phải tấy uế, giữ mình thanh sạch cả tâm hồn lẫn thể xác. “Ông Môsê từ trên núi xuống nói với dân và bảo họ giữ mình cho khỏi nhiễm uế; họ giặt quần áo. Ông Môsê bảo: “Trong ba ngày, anh em phải chuẩn bị sẵn sàng. Đừng gần gũi đàn bà.” (Xh 19, 14 -15)
Trước khi bước vào công cuộc rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu vốn chẳng hề vương vấn tội nhơ, vẫn lặng lẽ, khiêm hạ đến cùng ngôn sứ Gioan Tiền Hô, để được chịu phép Thanh Tẩy, cùng được tràn đầy ơn Đức Chúa Thánh Thần.
Nhưng than ôi, chiếc áo trắng ngày chịu Phép Rửa Tội của tôi, nay đã hoen ố, lốm đốm, đen đúa, vền vện đỏ đen, lấm lem dầu nhớt, lỗ chỗ vết thủng, rách rưới, tả tơi. Chẳng còn tươm tất, nguyên vẹn, sạch sẽ, trinh nguyên, như tâm hồn trẻ thơ nữa. May thay, sau khi ăn năn, sám hối, nhờ ơn Hòa Giải, tấm áo đã được tấy trắng, tuy không còn được như mới, nhưng cũng trở nên sạch sẽ, thơm tho, lành lặn, không còn là mớ giẻ rách bỏ đi, chỉ đáng vất vào lò lửa không bao giờ tắt.
Chay tịnh và cầu nguyện
Ông Môsê dẫn dắt dân Israel bốn mươi năm trong sa mạc, một cuộc lữ hành trường kỳ, gian lao, khổ cực, một cuộc chay tịnh hoàn hảo, chỉ có bánh manna và nước lã. Tuy nhiên lòng dạ dân Israel vẫn chưa tĩnh, còn ngồn ngang trăm bề, nhung nhớ củ hành của tỏi Ai Cập, lẫn bụt thần dân ngoại.
Khi đào thoát khỏi tay hoàng hậu Ideven, ngôn sứ Êlia chạy trốn trong sa mạc, kiệt sức, ông được thiên sứ dưỡng nuôi bánh và nước. Tâm hồn thanh tịnh, phó thác vào tay Chúa Quan Phòng, ngôn sứ Êlia đi một mạch, suốt bốn mươi đêm ngày tới Khôrép, là núi của Thiên Chúa, để được giao sứ vụ. (1V 19, 8)
Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu độ nhân thế, bằng bốn mươi ngày đêm chay tịnh và cầu nguyện trong hoang mạc, chịu tôi luyện hết cơn cám dỗ này đến cám dỗ khác. Một lòng một dạ trung kiên, đi theo Thánh Ý Chúa Cha, đã được công khai xác nhận: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng lời Người!” (Lc 9, 35)
Bước vào Mùa Chay Thánh, tôi lại coi chay tịnh chỉ như nghi thức bắt buộc của tín hữu Công giáo, nên chỉ tuân giữ theo hỉnh thức: kiêng thịt và ăn chay. Mà lòng dạ chẳng hề chay tịnh, chẳng hề thay đổi được gì. Vẫn cứ ham hố sự đời: tình, tiền, chức tước, địa vị… Cứ làm như tôi qua mặt Chúa dễ dàng, như lừa dối ông giám thị nhà trường, hay đốc công, giám sát tại công ty, xí nghiệp. Tôi đang theo đạo, giữ đạo, sống đạo hình thức, chứ nào sống trung thực Tin Mừng! Làm sao tôi xứng đáng lên núi Chúa?
Từ bỏ mình & Vác thánh giá
Cuộc xuất hành của dân Israel ra khỏi Ai Cập trước tiên có ý nghĩa từ bỏ tất cả những gì dính líu đế thân phận nô lệ. Ông Môsê đã giải thoát dân Israel, và dẫn đưa về miền Đát Hứa. Còn Chúa Cứu Thế sau này giải phóng con người toàn diện, khỏi ách nô lệ cũa ma qủy.
Không những từ bỏ những cám dỗ của thế gian, xác thịt và ma quỷ, Chúa Giêsu còn đòi hỏi từ bỏ chính mình, bỏ cái tôi kiêu căng, tự phụ, lố bịch, để chấp nhận đau khổ, sỉ nhục và đọa đầy, vác thánh giá mà theo Người, nếu ai muốn lên Núi Chúa.
“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay thiệt thân, thì nào có lợi ích gì?” (Lc 9, 23 -25)
Ông Môsê, ngôn sứ Ê lia, và cả Chúa Giêsu đã sẵn sàng từ bỏ mình, nhập thể, chấp nhận vác thập giá, chấp nhận đau khổ, thử thách, để được vinh dự đến với Thiên Chúa. Còn tôi lại chạy trốn khó khăn, khổ cực, đòn vọt, để yên thân, no cơm ấm cật. Tôi từ bỏ vợ con, anh em, bè bạn, để lấy vợ bé, để ngoại tình, để kết bè kết bạn với kẻ xấu, với ma quỷ, hầu được vinh hoa phú quý, sao dám mơ tưởng lên Núi Chúa?
“Abraham đã ra đi, vì hy vọng đến Đất Hứa. Maisen đã ra đi, vì hy vọng cứu dân Chúa khỏi nô lệ. Chúa Giêsu đã ra đi từ trời xuống đất, vì hy vọng cứu nhân loại.” (Đường Hy Vọng, số 4)
Lạy Chúa Giêsu, được diện kiến Thiên Chúa là cõi phúc tuyệt vời, xin cho con luôn sống trong nguồn ơn thánh của Chúa, để linh hồn con có thể cảm nghiệm được sự vui sướng ngọt ngào, khi có Chúa ở cùng.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con thanh tẩy, thắng vượt mọi cám dỗ, biết từ bỏ mình, để được diện kiến Thánh Nhan Chúa. Amen.
38. Từ Đức Kitô đến chúng ta.
Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại sự việc Chúa Giêsu biến hình vinh quang trên đỉnh Taborê. Biến cố này làm cho tôi nhớ tới cơn hấp hối của Ngài trong vườn cây dầu. Cả hai đều xảy ra trên những ngọn núi dưới sự chứng kiến của ba môn đệ thân tín. Một biến cố thì cho chúng ta chiêm ngưỡng thiên tính của Ngài. Còn một biến cố cho chúng ta thấy rõ nhân tính của Ngài. Tuy nhiên cả hai đều bổ túc cho nhau, để rồi chúng ta tin nhận Ngài vừa là người thật; lại vừa là Thiên Chúa thật.
Từ đó chúng ta rút ra một sứ điệp quan trọng, đó là giống như Đức Kitô, mỗi người chúng ta cũng có hai chiều kích, một thuộc về nhân tính, một thuộc về thiên tính. Mỗi người chúng ta đều mang trong mình một nét giống Adong và một nét giống Thiên Chúa.
Cũng như Đức Kitô trên đỉnh Tabor, chúng ta từng cảm nhận những giây phút xuất thần, khi mà nét giống Chúa được toả sáng khiến chúng ta cảm thấy Ngài thật là gần gũi dường như chúng ta có thể đụng chạm được. Trong những giây phút quý giá này, chúng ta ngạc nhiên thấy cuộc sống sao mà tươi hồng, sao mà đẹp đẽ thế. Chúng ta cảm thấy muốn yêu thương mọi người, muốn tha thứ tất cả.
Thế nhưng xét theo mặt khác, cũng như Đức Kitô trong vườn cây dầu, chúng ta từng cảm nghiệm được những giây phút hấp hối, khi mà đường nét giống Adong rực cháy trong chúng ta khiến cho đường nét của Chúa bị nhạt nhoà gần như mất hẳn.
Trong những giờ phút đen tối ấy, chúng ta cảm thấy cuộc sống thật tồi tệ làm sao. Chúng ta cảm thấy ai cũng khó thương, khiến chúng ta nghi ngờ bạn bè, gây gổ với người chung quanh và trả đũa đích đáng kẻ thù của chúng ta. Ngay cả đến sự hiện diện của Thiên Chúa chúng ta cũng muốn chối bỏ.
Thế nhưng, dù ở trong giờ phút hấp hối hay xuất thần, chúng ta hãy nhớ đến hình ảnh hai ngọn núi Tabor và Cây Dầu. Chúng ta cũng hãy nhớ lại Chúa Giêsu đã từng cảm nghiệm được cả hai khoảnh khắc vinh quang và thê thảm nhất trong cuộc đời Ngài. Và quan trọng hơn, đó là chúng ta cần phải nhớ rằng: Cả hai khoảnh khắc ấy Chúa Giêsu đều ở trong trạng thái cầu nguyện.
Nếu cầu nguyện là cách thức Ngài dùng để đáp lại những khoảnh khắc ấy, thì chúng ta cũng nên làm giống như Ngài, nhờ đó chúng ta cũng sẽ nghe được Thiên Chúa Cha nói với chúng ta như đã nói với Chúa Giêsu trong lúc biến hình: Này là con Ta yêu dấu. Cũng như Đức Kitô từng chịu hấp hối trên núi câu dầu, chúng ta cũng sẽ cảm nhận được Thiên Chúa Cha đang chạm đôi tay của Ngài để chữa lành chúng ta.
39. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Tin Mừng hôm nay tường thuật cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabore. Lâu nay, các Tông Đồ chỉ xem thấy Ngài dưới hình dạng một con người bình thường.
Hôm nay, các ông thấy Ngài biến đổi thành một vị Thiên Chúa. Mùa chay là mùa tập luyện nhân đức để được biến đổi. Có hai cách biến đổi: Biến đổi theo hướng tích cực và biến hình theo hướng tiêu cực. Từ một con người xấu trở thành con người tốt hoặc từ một người tốt trở thành con người tốt hơn gọi là biến đổi theo hướng tích cực. Ngược lại, từ một con người tốt trở thành con người bình thường hoặc từ một con người tốt trở thành con người xấu gọi là biến đổi theo hướng tiêu cực.
1. Biến đổi theo hướng tích cực
Lần giở lại Kinh Thánh chúng ta bắt gặp nhiều trường hợp đã biến đổi theo hướng tích cực này. Chẳng hạn, dân thành Ninivê, từ vua chúa đến thường dân, khi nghe lời rao giảng của tiên tri Giona, đã ăn năn sám hối, biến đổi cuộc sống của mình. Lêvi, Giakêu, Madalêna là những người có quá khứ tội lỗi nhưng khi gặp Đức Kitô, các ngài đã trở thành những con người tốt. Rồi, sự biến đổi của Phaolô, Phêrô…Lịch sử Giáo hội cho chúng ta thấy bao nhiêu người từ tội nhân đã trở thành thánh nhân. Trong chuyến thăm Ciudad Juarez – Mễ Tây Cơ tuần này, Đức Phanxicô đến thăm ‘Centro de Readaptacion Social estatal no. 3’ nơi giam giữ khoảng 3000 phạm nhân đang chịu án. Một nữ tù nhân nói với Ngài: “Khi bị tuyên án, chúng con khóc. Chúng con cảm thấy cùng quẫn, chúng con tuyệt vọng. Và chúng con bắt đầu tự hỏi mình những câu mà chúng con không muốn biết câu trả lời: Khi nào sẽ được ra? Gia đình có còn thương mình không? Họ có quên mình không? Chúng con cảm thấy nguy hiểm, yếu đuối, và cô độc”. Đáp lại những lời day dứt đau đớn này, Đức Phanxicô nói: “Người đã phải chịu đau khổ lớn nhất, có thể nói là ‘đã trải qua địa ngục’ có thể trở thành một ngôn sứ trong xã hội” (x. phanxico.vn ngày 18/02/2016).
Với chúng ta, từ những con người mang thân phận tội lỗi Adong, nhờ Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được biến đổi trở thành con Thiên Chúa. Và không thiếu những lần chúng ta đã sa vào con đường tội lỗi, nhưng với lòng sám hối ăn năn, Bí Tích Hoà Giải đã biến đổi chúng ta trong sạch, trả lại tình trạng ban đầu. Xin Chúa luôn gìn giữ chúng ta, giúp chúng ta dầu trong hoàn cảnh nào cũng biết hy vọng tin tưởng vào Chúa để được biến đổi theo hướng tích cực này.
2. Biến đổi theo hướng tiêu cực
Đáng tiếc thay, có những người không biến đổi theo chiều hướng tích cực mà lại biến đổi theo chiều hướng tiêu cực. Nghĩa là từ một con người tốt đã trở thành con người bình thường, thậm chí từ một con người tốt trở thành một con người xấu. Một Giuđa Tông Đồ, đã biến thành kẻ phản bội, người bán Chúa. Có những kitô hữu lúc đầu tốt nhưng rồi trở thành những người đam mê cờ bạc, rượu chè, trai gái, gian dối, lừa đảo…Có những bậc cha mẹ sống vô trách nhiệm, không quan tâm giáo dục con cái; có những người con bất hiếu, không quan tâm đến cha mẹ khi các ngài yếu đau bệnh tật…Nếu ai đang sống trong tình trạng trên, hãy dùng Mùa Chay thánh này để biến đổi, trở thành những người tốt có ích cho bản thân, gia đình, Giáo hội và xã hội.
3. Để biến đổi theo chiều hướng tích cực, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Thứ nhất, phải trải qua Thập giá: Khi Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn, Thánh Phêrô đã can ngăn Chúa. Nhưng khi thấy Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê, Thánh Phêrô lại xin Chúa lưu lại ở đó. Phản ứng của Phêrô cũng là phản ứng của con người qua mọi thời đại: “Thích sướng ngại khổ”. Nhưng để tới vinh quang cần phải qua đau khổ. Chính Chúa Giêsu đã đi con đường đó, Ngài nói: “Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”(Lc 9,22). Các Tông đồ, đặc biệt là các thánh Tử đạo cũng đã đi con đường đau khổ mà Chúa đã đi. Đến lượt chúng ta, muốn tới vinh quang cũng không thể bỏ qua con đường đau khổ. Chúa Giêsu đã nói: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống”(Mt 16, 24). Nơi khác, Ngài nói:“Nước trời phải chiếm bằng sức mạnh”(x. Mt 11,12); “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”(x. 13,24).
Kinh nghiệm cuộc sống thường ngày cũng cho chúng ta thấy, cần phải qua đau khổ mới tới vinh quang. Học sinh muốn đỗ đạt trong các kỳ thi cần phải chịu khó trau dồi kinh sử. Nông phu muốn có mùa màng bội thu cần phải cày sâu cuốc bẫm. Người cha người mẹ muốn có tương lai tốt đẹp cho con cái cần phải nuôi nấng, săn sóc và dạy dỗ chúng nên người. Nếu chúng ta biết vận dụng đau khổ thì đau khổ là phương tiện để biến đổi chúng ta trở thành người tốt, trở nên hoàn thiện như Cha chúng ta là Đấng hoàn thiện.
Thứ hai, hãy bắt chước Thánh Phaolô: Thánh Phaolô đã kêu gọi chúng ta bắt chước Ngài: “Anh em hãy bắt chước tôi” (Pl 3,17). Ngài muốn chúng ta bắt chước Ngài về sự biến đổi: Từ một người bắt bớ Giáo hội, Ngài đã biến đổi thành một vị tông đồ loan báo Tin mừng cho dân ngoại. Bắt chước Ngài ở lòng tin vững mạnh, Ngài luôn xác tín rằng: “Tôi biết tôi tin vào ai”(x. 2Tm 1,12). Bắt chước Ngài ở niềm cậy trông vào Chúa là vị thẩm phán chí công: “Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện”(2Tm 4,8). Bắt chước Ngài ở lòng mến sắt son: “Không có gì tách biệt chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa”(x. Rm 8, 39). Thánh Phaolô đã sống nhưng không còn là Ngài sống nữa mà là Đức Kitô sống trong Ngài (x. Gl 2,20). Ngài đã đồng hoá mình với chính Đức Kitô.
Để biến đổi chính mình, chúng ta cần bắt chước Thánh Phaolô về Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến. Bởi vì, chính chúng ta cũng phải làm gương cho những người khác, nhất là những người thuộc trách nhiệm chúng ta coi sóc: Người mục tử nói với đoàn chiên “Hãy bắt chước tôi”; Người trên nói với người dưới “Hãy bắt chước tôi”; Thầy cô giáo lý viên nói với các học sinh của mình “Hãy bắt chước tôi”; Các bậc làm cha mẹ nói với con cái “Hãy bắt chước tôi”. Bắt chước những điều tốt đẹp để hoàn thiện mình mỗi ngày nên giống Chúa. Được như vậy, xã hội chúng ta sống sẽ bớt đi các tệ nạn, con người sống với nhau sẽ có tình nghĩa. Mọi người, mọi nhà sẽ được an vui.
Thứ ba, hãy cầu nguyện: Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy: “Đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện, thì khuôn mặt Ngài được biến đổi”(x. Lc 9,29). Trong ba năm sống công khai, Chúa Giêsu không những dạy cho chúng ta cầu nguyện mà Ngài còn làm gương cho chúng ta. Ngài cầu nguyện trước các biến cố quan trọng: Trước khi chọn các tông đồ; trước khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều; trước khi bước vào cuộc khổ nạn. Ngài dạy chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện. Bởi vì: “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Mt 7,7).
Thật vậy, lời cầu nguyện có sức biến đổi lạ thường. Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã nói: “Ai nói được mãnh lực của lời cầu nguyện? Sốt sắng như các Tông đồ và Đức Mẹ trong nhà tiệc ly, phó thác như Chúa Giêsu ở vườn cây Dầu, quyết định như Maisen giang tay trên núi, được tha thứ như người trộm lành”(ĐHV số 135). Đức Thánh Cha Phanxicô đã xác quyết rằng: “Lời cầu nguyện chân thành khiến phép lạ xảy ra và giúp con tim chúng ta không bị chai cứng. Lời cầu nguyện sẽ biến đổi Giáo hội. Không phải chúng tôi, các Giáo hoàng, Hồng y, Giám mục, linh mục làm cho Giáo hội tiến về phía trước mà là chính các thánh.” (Bài chia sẻ ngày 12.01.2016 tại nhà nguyện Thánh Marta).
Mùa chay là mùa tập luyện để được biến đổi. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết biến đổi mình bằng cách: “từ bỏ mình vác thập giá mỗi ngày”, bắt chước gương biến đổi của Thánh Phaolô Tông đồ và siêng năng nguyện cầu.
Lạy Chúa Giêsu, qua Bí tích Rửa tội Chúa đã biến chúng con thành Con Thiên Chúa, thành hình ảnh của Ngài. Nhưng qua thời gian, hình ảnh đó đã bị thay đổi. Trong mùa chay thánh này, xin cho mỗi chúng con biết cố gắng tập luyện nhân đức, biết siêng năng cầu nguyện, “bắt chước” thánh Phaolô để biến đổi mình trở về tình trạng ban đầu, đó chính là hình ảnh của chính Chúa. Amen.
40. Biến hình – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Mùa Chay mang mầu tím ảm đạm. Mầu tím buồn để ta nhớ đến thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Mầu tím buồn để đến cuộc sống mong manh chóng tàn nơi cõi thế. Mầu tím buồn đưa ta đi theo bước Chúa Giêsu trên đường khổ nạn. Mầu tím buồn nhắc ta nhớ đến cái chết đau khổ của Người trên thánh giá.
Giữa bầu khí ảm đạm của mùa Chay, hôm nay bỗng bừng lên làn ánh sáng chói chang từ đỉnh núi Ta bo. Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện. Đang khi cầu nguyện, dung mạo Người bỗng dưng đổi khác. Thần tính phát lộ khiến dung mạo Người trở nên sáng láng, ánh sáng rực rỡ làm say mê tâm hồn các môn đệ. Được sống trong khung cảnh thần thiêng thánh thiên, các ông không muốn rời bỏ đỉnh núi nữa.
Ta hãy nhớ lại, trước đó 8 ngày, khi Chúa Giêsu loan báo Người đi lên Giêrusalem để chịu khổ và chịu chết, Phêrô đại diện cho các môn đệ đã phản đối. Ông không muốn chấp nhận thánh giá. Ông không muốn Thầy mình dấn thân vào con đường chịu chết khổ nhục. Thế mà hôm nay, đứng trước vinh quang của Thầy, ông đã say mê và đề nghị Thầy trò cùng ở lại trên ngọn núi hạnh phúc. Trốn khổ tìm sướng vẫn là cái thường tình của con người. Nhưng Chúa Giêsu đã dẫn các môn đệ xuống núi để tiếp tục con đường lên Giêrusalem chịu chết.
Việc Chúa Giêsu biến hình trên núi như thế là có chủ đích. Người hé lộ thần tính của Người để các môn đệ thêm niềm tin tưởng. Người cho các ông thấy vinh quang của thần tính để các ông chấp nhận con đường đau khổ Người sắp trải qua.
Việc Chúa biến hình ban cho các môn đệ niềm hy vọng. Hy vọng đó là: con đường đau khổ sẽ dẫn đến hạnh phúc. Cái chết tủi nhục sẽ dẫn đến ngày Phục Sinh hân hoan. Thiếu niềm hy vọng không ai có thể sống ở đời. Người nông phu chăm bẵm mảnh ruộng, thức khuya dậy sớm, dãi nắng dầm mưa cấy cầy, vì hy vọng vào mùa gặt bội thu. Người học sinh kiên nhẫn ngày ngày cắp sách đến trường, đêm đêm chong đèn đọc sách, vì hy vọng vào kết quả mùa thi tốt đẹp. Người cha, người mẹ tần tảo sớm hôm, quên mình để lo cho con cái, vì hy vọng tương lai con cái sẽ tốt đẹp hơn. Niềm hy vọng vào vinh quang Phục Sinh sẽ giúp các môn đệ can đảm chấp nhận cuộc khổ nạn thương đau và cái chết tủi nhục của Thầy chí thánh.
Việc Chúa Giêsu biến hình đã biến đổi cách nhìn của các môn đệ về con người và cuộc đời. Từ nay các ông sẽ không nhìn ở bề mặt mà biết nhìn vào bề sâu. Bên trong thân xác phàm nhân của Chúa Giêsu có ẩn chứa bản tính Thiên Chúa. Bên trong cuộc khổ nạn tủi nhục có gieo sẵn mầm mống Phục Sinh vinh quang. Cũng thế, bên trong mỗi thân xác có hiện diện của một linh hồn. Bên trong mỗi con người phàm trần có ẩn tàng mầm mống thần linh. Bên trong những thửa ruộng khổ đau có gieo sẵn hạt mầm hạnh phúc. Trong những vất vả nhọc nhằn tăm tối hôm nay đã hứa hẹn thành công tươi sáng của ngày mai.
Việc Chúa biến hình giúp các môn đệ hiểu biết định mệnh con người. Bản tính Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu đã chiếu sáng trên xác phàm con người. Con người được rạng ngời vinh quang Thiên Chúa. Đó là điềm báo trước: mang sẵn trong mình mầm mống thần linh, con người sẽ trở về với Thiên Chúa. Cuộc trở về phải vượt qua những đớn đau, những gian nan, những thử thách. Nhưng đã biết được đích đến, ta sẽ vui lòng đón nhận tất cả. Vì thế, đạo Công giáo tuy đề cao đau khổ, nhưng không rơi vào yếm thế, bi quan. Đau khổ chỉ là phương tiện. Chấp nhận thánh giá, vì đó là nhịp cầu cần thiết để con người vượt qua từ sự chết đến sự sống, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ tủi nhục đến vinh quang.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Những đau khổ góp phần rèn luyện bạn nên người. Bạn có kinh nghiệm gì về điều đó?
2. Bạn thường đánh giá người khác theo tiêu chuẩn nào? Qua diện mạo bên ngoài, hay qua giá trị bên trong?
3. Qua thập giá tới vinh quang. Bạn có quyết tâm gì để thực hiện điều đó trong mùa Chay năm nay?
41. Vững bước trong đức tin – Dã Quỳ
Trong cuộc sống thường ngày, chắc hẳn chúng ta đã gặp những người mà dường như họ được sở hữu một nụ cười rất tươi. Nhìn vào khuôn mặt họ, ta thấy như chiếu lên ánh sáng từ bên trong tâm hồn. Khi tiếp xúc với người khác, họ mang đến một niềm tin tưởng và bình an. Đó là những biểu hiện tự nhiên hay có thể được phát xuất từ niềm vui và sự an bình nội tâm của họ. Thế nhưng, với mỗi người Kitô hữu, chúng ta cần nhìn lại chính mình. Khi mang danh Chúa Kitô, ta đã phản ánh được khuôn mặt của Đấng là nguồn Niềm Vui, Ánh Sáng, Bình An và Tình Yêu trên chính khuôn mặt của ta hay chưa? Và đó cũng là phản chiếu đức tin của ta vào Chúa Kitô.
Mỗi người chúng ta nhiều lúc trong cuộc sống dường như quá đau khổ, quá căng thẳng và cảm thấy như không thể thoát ra khỏi đó được hoặc không thể nắm giữ được tình thế! Chúng ta như đi trong một đường hầm tăm tối, không ổn định vì những biến cố như sụp đổ hôn nhân, mất công việc, tai nạn hay một căn bệnh nan y… Hành trình của ta như đi vào ngõ cụt. Bước đi của ta bị nặng nề vì buồn khổ, giận dữ…!Thế nhưng, ta có thể xác tín rằng không có một cuộc sống nào bị xáo trộn và tan nát nếu như cuộc sống ấy được đụng chạm thực sự vào Chúa Kitô và được biến đổi nhờ Chúa Kitô.
Trong Tin Mừng hôm nay, các môn đệ của Chúa Giêsu được chuẩn bị để sống một kinh nghiệm như thế. Chúa Giêsu sắp đi lên Giêrusalem, ở đó Người sẽ chịu đau khổ và bị giết chết. Đây sẽ là một thử thách lớn cho những ai ở xung quanh Người. Một chút khởi đầu cho biến cố này: Phêrô, Giacôbê và Gioan đi cùng và ở trên núi với Thầy. Và ở đó, họ được nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu. Người tỏa chiếu vẻ rực rỡ nơi thân xác hữu hình mà Người đã mặc lấy như con người. Khuôn mặt Người sáng như mặt trời và y phục trắng như tuyết. Người đã mạc khải cho môn đệ sự vinh quang và cao cả của Tước Vị mà vì sự tự hạ của Người đã ẩn giấu. Ân huệ này sẽ làm cho môn đệ vững vàng hơn trên đường Thánh Giá của Người trong những ngày sắp tới.
Hôm nay, chúng ta hãy dành thời gian để sống cách cá nhân thân tình với Chúa. Chúa Giêsu, Đấng sắp trải qua đau khổ thử thách vào ngày thứ Sáu Thánh, được mang y phục vinh quang Phục Sinh và là Đấng sẽ thay đổi hình dạng thế giới. Chúa cho chúng ta thấy chính mình trong tương lai. Chúng ta, những chi thể của Chúa cũng được hy vọng chia sẻ những vinh dự mà Người đã tỏ hiện vinh quang cho các môn đệ như lời Thánh Phaolô khẳng định “Tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta.”(Rm 8,18)
Giữa những thử thách trong cuộc sống, chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa không? Người hiện hữu trong những tia sáng nhỏ, cũng như trong những lúc tối tăm hơn của cuộc sống. Những biến hình nho nhỏ này nói với chúng ta rằng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Cho dù những thử thách có thể làm cho chúng ta đau đớn, nhưng với Chúa và trong Chúa, ta sẽ sống và sống sung mãn trong vinh quang với Người “Anh em đã chết và sự sống mới của anh em hiện đang được tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống mới của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người và cùng Người hưởng phúc vinh quang.” (Cl 3,3-4)
Vậy hãy đặt ta vào trong ánh sáng của Chúa Giêsu, bởi vì từ nay chúng ta có một sự đổi mới, một hơi thở thứ hai trong cuộc sống gia đình, nghề nghiệp và cộng đoàn của ta. Để rồi ta có thể hăng hái thưa với Chúa như thánh Phêrô: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay!”(Lc 9,33) Dẫu Thập giá vẫn có đó, nhưng Ánh sáng Tình yêu và Xót thương của Chúa sẽ trợ giúp chúng ta. Ước gì niềm hy vọng này mang lại trong chúng ta ngay lập tức sự can đảm, khởi đầu một sự thay đổi trong đời sống, dám bước ra khỏi những mảng tối cuộc đời và vững bước trong đức tin.
Lắng nghe Lời Con Yêu Dấu, mở lòng đón nhận và dấn thân thực hành trong cuộc sống sẽ làm cho bước đi của ta vững vàng, khuôn mặt ta rạng rỡ. Lời Chúa là ánh sáng và chúng ta được mời gọi trở nên ánh sáng của Chúa giữa trần gian. Xin cho lòng nhân hậu, tình yêu thương, bác ái và nhiệt tâm của chúng ta là những phản chiếu ánh sáng của Chúa cho mọi người ta gặp gỡ, nhất là những người đau khổ, tội lỗi và bị bỏ rơi để nhờ đó họ được nâng đỡ, được ơn biến đổi mà trở về với Chúa trong Mùa Chay Thánh này. Giáo Hội và mỗi Kitô hữu mang sứ mệnh là khuôn mặt của Lòng Thương Xót Chúa. Nguyện xin Chúa thổi vào từng lời nói và những hành động để những gì chúng ta biểu lộ đều mang lại sự sống sung mãn của ơn Tha Thứ, của Hy Vọng, của Niềm Vui và Đức Tin.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang bước đi theo Chúa. Xin sự hiện diện của tình yêu, ánh sáng và bình an của Chúa giữ gìn chúng con trong những lúc vui cũng như những khi thử thách giúp chúng luôn hy vọng và tiến bước trong niềm tin. Amen.
42. Vinh quang Chúa
(Suy niệm của Lm JB. Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R)
Người Việt Nam đã quan niệm “Sống gửi thác về”.
Quan niệm này thật đáng trân trọng. Tuy nhiên “về đâu” thì lại còn tùy thuộc vào kinh nghiệm tâm linh của từng người.
Riêng người tín hữu, được lời Chúa hướng dẫn, trên cuộc lữ hành trần thế, họ bước đi theo ánh sáng của vinh quang thiên giới mà đích đến sẽ là quê trời vĩnh cửu.
Là người, ai cũng cần đến nhu cầu vật chất để tồn tại. Để có vật chất, nhiều người đã vất vả ngược xuôi để tìm định cư nơi những miền đất trù phú tràn trề sữa mật…; không ít người xây dựng cuộc đời trên những theo cách trần thế. Nhiều vị vua trần gian còn xây những lăng mộ cho chính mình để kéo dài sự tồn tại của bản thân bên kia cái chết.
Trái lại, ngày nọ, trong khi ông Áp-ra-ham già nua cùng với gia đình sống giàu sang sung túc thì Đức Chúa đã kêu gọi ông phải từ bỏ tất cả để đi theo tiếng Chúa (x. St 12, 1-9). Đức Chúa đã hứa ban cho cho ông: có đất làm gia nghiệp, có con để nối dõi. Người còn hứa ban cho ông được dòng dõi đúc như những vì sao trên vòm trời. Để giữ đúng lời hứa, Đức Chúa đã kết giao ước với ông (x. St 15, 5-12.17-18).
Thì ra, tất cả sang trọng của thế gian chỉ là phù vân; của cải, tài sản, niềm vui, ngay cả những khôn ngoan của con người cũng chỉ là phù vân. Ông Áp-ra-ham đã không rơi vào cơn cám dỗ đắm mình trong những phù vân. Ông đã hoàn toàn tin tưởng Đức Chúa và bước đi theo đường lối của Người.
Nối tiếp lòng tin của ông Ap-ra-ham, hôm nay, các môn đệ Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê cũng theo Đức Giêsu lên núi và đã chiếm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu.
Trên núi cao Đức Giêsu đã mạc khải chính Người là trung tâm của lịch sử khi đàm đạo với hai nhân vật đặc biệt trong lịch sử cứu độ: ông Mô-sê đại diện cho lề luật, ông Ê-li-a đại diện cho các ngôn sứ. Như thế, tất cả lề luật và lời dạy của các ngôn sứ đã hướng về Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa làm người.
Đang khi Đức Giêsu cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa (Lc 9, 28). Thánh Mác-cô còn xác định “Y phục người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (Mc 9, 3). Rõ ràng không có điều gì ở trần gian có thể so sánh được với Đức Giêsu. Người là Thiên Chúa vĩnh cửu “là một hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi mãi đến muôn đời (Dt 13, 8).
Dung mạo Đức Giêsu rực rỡ, y phục Người đã chói lòa vinh quang thiên giới. Vinh quang ấy đã tỏa sáng trên cuộc đời các môn đệ, cuốn hút các ông đến nỗi ông Phê-rô tràn ngập niềm hạnh phúc quyết định nhanh chóng và vui sướng thốt lên: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a” (Lc 9, 33).
Vinh quang thiên giới đã được Đức Giêsu mạc khải và cuốn hút ông Phê-rô khiến ông quên đi tất cả chuyện trần gian, quên luôn bản thân mà chỉ còn biết phục vụ Thiên Chúa, phục vụ lề luật, phục vụ lời ngôn sứ, phục vụ ơn cứu độ.
Vinh quang thiên giới tiếp tục cuốn hút thánh Phao-lô khi ngài xác tín: “Quê hương chúng ta ở trên trời và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl3, 3) và mời gọi: “Anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng như vậy” (Pl 4, 1).
Vinh quang thiên giới cũng đang cuốn hút người tín hữu hướng tới và mở ra cho họ cách thế để đạt thấu bằng đời sống đón nhận và “vâng nghe lời Người” (Lc 9, 35).
Vinh quang thiên giới đã được Đức Giêsu mạc khải nhưng trong thực tế nhiều người trong nhân lọai vẫn “sống đối nghịch với thập giá của Đức Ki-tô” (Pl 3, 18). Họ chỉ nghĩ đến “cái bụng” nghĩ đến chuyện thế gian, đắm mình trong những đam mê của thế trần,
Mùa chay thánh là lúc Hội Thánh khẩn thiết nhắc nhở người tín hữu:
– Hướng về Chúa Giêsu nguyện xin Người soi sáng để cảm nhận ánh sáng siêu nhiên của Chúa đang chiếu soi tâm hồn mình và sẽ cuốn phăng đi những tội lỗi và thay thế vào lòng yêu mến Chúa và dấn thân yêu thương phục vụ tha nhân.
– Từ bỏ cái tôi hầu mở rộng tấm lòng thiện chí để vâng nghe lời Chúa, để ý thánh Chúa được lớn lên trong cuộc đời, để ý kiến của người khác được đón nhận, để cộng đòan được hòa điệu hầu trở thành nơi tin tưởng chốn yêu thương.
– Nhìn mọi sự với ánh mắt tâm linh để chọn lựa thánh ý Chúa, hầu tự chủ đới với bản thân, kiên nhẫn với người vô kỷ luật, nâng đỡ những người yếu, khuyến khích người nhút nhát, luôn làm điều thiện.
– Theo gương Đức Giêsu, trước những thử thách không óan trách thiên hạ, đối thủ, xã hội, Thiên Chúa… không chui vào cái vỏ tủi thân, cay đắng buông xuôi chán đời… nhưng đón nhận đón nhận khổ chế như cơ hội “vàng” để rèn luyện và thánh hóa bản thân nên giống Chúa Giêsu.
Tất cả những điều nêu trên sẽ thể hiện qua những việc thực hành đạo đức: gia tăng cầu nguyện, xưng tội, dâng lễ, nghe giảng dạy, chay tịnh, khổ chế… hầu trở thành thói quen nhân đức khiêm tốn, giúp tan biến đi những tội lỗi hư đốn, thêm sức mạnh để vực dậy những đau khổ, hướng đến quê trời là niềm hy vọng bất diệt.
Thiên Chúa tạo dựng mọi sự đều tốt đẹp. Sử dụng những tiện ích trần gian thuộc họat động chính đáng của con người.
Tuy nhiên, mùa chay Hội Thánh nhắc nhở người tín hữu đừng ngủ quên trong những phù vân trần thế mà hãy chọn con đường về trời là con đường luyện tập chiến đấu thiêng liêng.
Con đường ấy Đức Giêsu đã đi với thập giá trên vai.
43. Hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Rít Rítpphai Vô-đơn-Spring là một mục sư phục vụ một bệnh viện làng Bethel, ở miền Bắc Palestin. Ông là người đạo đức. Có một bận, y sĩ trưởng phòng giải phẫu cùng với vị phụ tá đến báo tin cho ông biết tình trạng thất vọng của một bệnh nhân, mà họ đã giải phẫn không lâu. Mục sư Vô-đơn-Spring hỏi:
– Bác sĩ đã cầu nguyện cho bệnh nhân được tai qua nạn khỏi chưa?
Vị y sĩ trưởng phòng giải phẫu và y tá mỉm cười kín đáo mà không trả lời. Mục sư Vô-đơn-Spring nhận ra điều đó và nói:
– Nghĩa là chưa. Thôi được rồi, tôi muốn bàn chuyện này với Chúa.
Vậy là trong một giờ liên tiếp, mục sư quỳ sụp xuống trong phòng, ông cầu nguyện với tất cả tâm hồn. Sau đó đến phòng người bệnh trầm trọng ấy. Vừa thấy ông, cô y tá đã vội vàng nói:
– Đã từ nửa giờ bệnh nhân thấy đỡ hơn.
Vài tuần sau đó bênh nhân lành hẳn. Bác sĩ trưởng phòng giải phẫu đến gặp mục sư và nói:
– Thưa mục sư, tôi sẽ không bao giờ mỉm cười nghi ngờ nữa.
Thái độ của mục sư Vô-đơn-Spring hoàn toàn tin tưởng phó thác mọi sự cho Thiên Chúa quan phòng có thể giúp chúng ta hiểu được các sứ điệp Chúa nhật hôm nay.
Tin có nghĩa là hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa và sẵn sàng nhắm mắt đưa chân bước vào cuộc phiêu lưu mạo hiểm với Ngài. Đoạn 12-25 sách Khởi Nguyên kể lại cuộc đời của Abraham và cho chúng ta thấy một khúc rẽ mới trong lịch sử cứu độ. Sau khi loài người phạm tội chặn đứng tương quan tâm tình với Thiên Chúa và đánh mất đi cuộc sống hạnh phúc của mình, Thiên Chúa lại tìm ra mối dây liên hệ mới qua việc tuyển chọn Abraham và khiến ông trở thành cha của một nhân loại mới. Các trình thuật này của tổ phụ Abraham bao gồm hai nguồn truyền thống văn chương khác nhau với cách diễn tả và quan niệm thần học riêng.
– Truyền thống Giavít: biên soạn ở vương quốc miền Nam, thế kỷ IX trước Tây lịch, trong đó Giavê là tên gọi của Thiên Chúa. Truyền thống này luôn coi Thiên Chúa là người đối thoại chân tình với tổ phụ Abraham và với loài người. Soạn giả Giavít dùng thuật hành văn nhân hình để miêu tả Thiên Chúa. Nghĩa là ông cho thấy Thiên Chúa có kiểu cách nói năng và hành xử y như một người. Ngài nói chuyện đối thoại, hoạch định chương trình, ngồi ăn uống với tổ phụ Abraham. Ngài chấp nhận sự tiếp đón của ông chân tình như một người bạn. Ngài sẵn sàng làm mọi sự cho Abraham, ban cho ông một người con ông hằng mong ước, một vùng đất làm gia nghiệp và một dân tộc. Ngài sẵn sàng làm cho ông trở thành danh tiếng, thành tổ phụ của một dòng dõi đông đúc. Sẽ đặt tên cho ông một tên mới, vừa diễn tả sự kiện ấy vừa nói lên sự liên hệ của ông với Ngài. Do đó khi đọc lại các văn bản Kinh Thánh, chúng ta cũng phải khám phá ra tình bạn hữu ấy của Thiên Chúa và mối dây liên hệ thân tình của Ngài đối với chúng ta.
– Truyền thống văn chương tại vương quốc miền Bắc vào thế kỷ thứ VIII trước Tây lịch gọi là Êlohít. Vì trong các văn bản này tác giả gọi Thiên Chúa là Êlohim. Truyền thống này nêu rõ lòng tin và sự sống lòng tin của tổ phụ Abraham hay cũng còn gọi là sự công chính của Abraham. Lòng tin là một thực tại giàu ánh sáng và tương lai, nhưng con người hay nghi ngờ như Ađam, hình ảnh diễn tả toàn nhân loại đã nghi ngờ. Abraham trái lại đã tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa, tin vào các lời Ngài hứa và tương lai mà Thiên Chúa hoạch định ra cho ông, ngay khi mà ông chưa có được gì cả. Chính thái độ ký thác hoàn toàn này khiến Abraham thành mẫu gương và là cha của những người có lòng tin thuộc mọi thời đại. Aman từ đó phát sinh ra tiếng Amen mà chúng ta thường dùng để kết thúc một lời nguyện là động từ “tin” trong tiếng Do Thái, nhưng nó có nghĩa gốc là cậy dựa trên, dựa vào. Tin như thế có nghĩa là chỉ cậy dựa vào Thiên Chúa và lời Thiên Chúa mà thôi.
16,5-12.17-18 sách Khởi Nguyên bao gồm cả hai truyền thống kể trên. Trình thuật kết thúc với nghi thức cổ xưa của giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với tổ phụ Abraham. Hai bên ký kết các giao ước để giữa các thú vật được chặt đôi nhằm khẳng định, bên nào không thực hiện giao ước thì cũng sẽ chịu một số phận như vậy. Tin như tổ phụ Abraham nghĩa là tín thác bước đi theo chương trình Thiên Chúa đề nghị với chúng ta. Một chương trình bí nhiệm khác với những gì chúng ta tưởng nghĩ và mong ước. Tin có nghĩa là sẵn sàng ra khỏi môi trường sống đảm bảo, ra khỏi những thói quen, kiểu cách sống qui ước của loài người. Tin có nghĩa là đưa ra nắm chặt lấy bàn tay của Chúa để cho Ngài hướng dẫn và bước đi theo Ngài. Đó cũng là ý nghĩa của trình thuật Chúa Giêsu biến hình trên núi trong 9,28-36 của thánh Luca.
Đối với dân Do Thái, Môisê và Êlia là hai gương mặt diễn tả tất cả Kinh Thánh, diễn tả tất cả Lời Chúa mà tín hữu cần phải biết lắng nghe và đem ra thực hành mỗi ngày. Qua biến cố biến hình, Thiên Chúa không chỉ mời gọi chúng ta biết lắng nghe và sống Lời Ngài hứa là Tin Mừng của Chúa Giêsu, mà còn biết thoát ly khỏi những gì ràng buộc ngăn cản chúng ta không cho bước vào cuộc sống thần thiêng sáng láng với Ngài nữa.
Qua biến cố biến hình, Chúa muốn cho ba môn đồ thân tín thấy rằng: sau con đường tiến về Giêrusalem dẫn Ngài tiến đến cái chết trên thập giá, là ánh sáng rạng ngời của cuộc sống. Trong Kinh Thánh hình ảnh cái lều diễn tả cuộc sống vô định nay đây mai đó của dân du mục. Do đó thái độ của Phêrô muốn dựng 3 lều ở trên núi Tabor mà không hiểu sâu hơn nữa có nghĩa là, Phêrô muốn biến cái tạm bợ trở thành vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với con đường thập giá và khổ đau. Thái độ đó là kiểu cách thiếu lòng tin. Vì đó là một cách tránh né chương trình vào con đường của Thiên Chúa. Thái độ này bị thánh Phaolô gọi là cách hành xử đặc thù của những kẻ thù nghịch với thập giá Chúa Kitô.
Trong thư gởi giáo đoàn Philipphê 3,17-4,1 thánh nhân khuyến khích mọi người bắt chước ngài và theo gương các anh chị em có lòng tin vững mạnh, sống phù hợp với giáo huấn Tin Mừng của Chúa. Thánh Phaolô không tự cho mình là người hoàn thiện, vì Ngài cũng đang phải chiến đấu với thân xác yếu hèn của chính mình, với mọi đam mê và chước cám dỗ như tất cả mọi Kitô hữu khác. Cũng như mọi người, ngài đang chạy đua với hết sức lực mình để đạt đích. Thánh Phaolô cũng không khuyên nhủ tín hữu tôn thờ thần tượng một ai đó trong cộng đoàn. Bởi vì những người này cũng đang chạy đua và cố gắng như mọi người khác, chiến đấu với những thiếu sót bất toàn và tội lỗi của họ, và bởi vì vị thầy duy nhất đáng tôn thờ là chính Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu Kitô là mẫu gương duy nhất cần phải theo và Tin Mừng của Ngài là kim chỉ nam duy nhất có thể đảm bảo cho con thuyền cuộc đời của người tín hữu đến bến bình an. Khi khuyến khích tín hữu cộng đoàn Philipphê bắt chước mình, thánh Phaolô mời cố gắng chạy, cố gắng chiến đấu như ngài, luôn hướng tấm lòng về tới đích cuộc đời là Thiên Chúa, là hạnh phúc mai sau. Đừng để các thú vui mau qua của đời này níu kéo mà khiến cho họ quên đi mục đích tối hậu của cuộc sống là ơn gọi Kitô.
Nói cách khác, thánh nhân nhắc nhở cho chúng ta biết rằng cuộc sống của chúng ta trên trần gian này là cuộc hành trình tiến về quê hương vĩnh cửu, là quê trời nơi Thiên Chúa đang chờ đón để ban cho chúng ta cuộc sống thần thiêng vĩnh cửu. Do đó phải luôn biết ý thức và tỉnh thức, đừng để cho các thú vật chất hay bất cứ thứ gì trên đời này trói buộc và cầm chân chúng ta. Ngoài ra, thánh nhân cũng khuyến khích tín hữu cũng noi gương ngài không chạy theo các điều luật, các cấm đoán tỉ mỉ và các hình thức lễ nghi bề ngoài, mà chỉ lấy Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh làm chỉ huy duy nhất và làm bánh lái sống lòng tin mà thôi.
44. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
TABORÊ – MỘT THOÁNG VINH QUANG THIÊN GIỚI
Cũng vào dịp đầu Mùa Chay này năm trước, người CGVN khắp nơi, đặc biệt ở Giáo phận Xuân Lộc đang xôn xao về hiện tượng Đức Mẹ hiển dung tại Giáo xứ Bạch Lâm, thuộc Giáo hạt Gia Kiệm. Sự thật đến đâu, xin để cho giáo quyền xác nhận. Tuy nhiên, rất nhiều người chứng kiện hiện tượng đã chia sẻ những cảm nghiệm chung như sau:
Nếu ai đã trơng thấy sự kiện thay đổi dung nhan nơi Thánh tượng Đức Mẹ Bạch lâm thì đều mang một tấm lịng yếu mến nồng nàn đối với Đức Trinh Nữ Maria. Tất cả những ai đã một lần gặp được khuôn mặt kiều diễm của Mẹ sau nhiều ngày đêm thao thức thì lại thấy trong lịng vang lên tiếng mời gọi đến gặp Mẹ nhiều hơn. Tất cả những ai gặp khuơn mặt thánh thiện của Mẹ thị đều run sợ và nhận ra thân phận tội lỗi của mình để xin sự thứ tha của Chúa và để bắt đầu lại cuộc sống của mình.
Câu chuyện về Đức Mẹ Bạch lâm Hiển dung và những cảm nghiệm về hiện tượng đó có lẽ cũng gợi lại cho chúng ta câu chuyện về biến cố Chúa Giêsu hiển dung cách đây hơn 2000 năm. Vậy thì đâu là ý nghĩa của biến cố Chúa Giêsu hiển dung?
– Trước hết, biến cố hiển dung là biến cố chứng thực cho sự sống sau cái chết.
Quan niệm của người Dothái về sự sống lại, và sự sống sau cái chết vẫn còn có nhiều bất đồng và mơ hồ. Thậm chí nhóm Sađốc còn chủ trương không tin là có sự sống lại. Tuy nhiên, trong biến cố hiển dung, sự xuất hiện rạng ngời vinh hiển của hai nhân vật quá cố thời Cựu ước xa xưa là Môisê và Êlia, như một bằng chứng hiển nhiên và chắc chắn nói cho các môn đệ rằng có sự sống lại và sự sống sau cái chết. Nói cách khác, qua biến cố hiển dung các môn đệ có thể khẳng định một cách không sai lầm rằng có thế giới bên kia, và hai vị đại tiên tri đang sống hạnh phúc trong thế giới đó.
– Thứ đến, biến cố hiển dung là biến cố biểu lộ vinh quang thần tính của Đức Kitô.
Trong cuộc sống thường nhật, Chúa Giêsu thường chỉ biểu lộ nhân tính của Ngài là một con người như mọi người ngoại trừ tội lỗi. Còn thần tính của Ngài vẫn còn ẩn dấu. Thế nhưng, qua biến cố hiển dung, vinh quang Thiên Chúa, tức thần tính của Đức Giêsu tỏ hiện rõ nét và rạng ngời. Rõ nét đến độ, thánh Mathêu mô tả là các môn đệ choáng ngợp, té sấp mặt xuống đất: “Dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, y phục Ngài trắng sáng như sơn tuyết”. Rạng ngời đến độ các môn đệ chỉ còn muốn sống mãi trên núi với Chúa mà thôi. Chính thánh Phêrô xác nhận điều này: Lạy Thầy, chúng con ở đây thì tuyệt cú mèo rồi. Nếu Thầy muốn, con xin làm 3 lều….. Rõ ràng nếu các môn đệ không nhìn thấy vinh quang thần tính của Đức Giêsu thì các ông không thể có những phản ứng như thế. Dù vinh quang ấy chỉ một thoáng thôi cũng đủ làm cho các môn đệ ngây ngất cõi lòng.
– Sau nữa, biến cố hiển dung còn là biến cố khích lệ niềm tin cho các môn đệ trước viễn tượng cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
Ta thấy rằng khi Chúa Giêsu bị bắt thì ít là có 2 trong 3 môn đệ đã từng chứng kiến biến cố hiển dung đã không bỏ trốn như các môn đệ khác. Điều này chứng tỏ niềm tin của 3 môn đệ này được củng cố rất nhiều, nhờ thấy trước vinh quang phục sinh của Đức Giêsu. Đối tượng cụ thể của niềm tin đó chính là Đức Kitô, Con Một Yêu Dấu của Chúa Cha trên trời. Và vì tin vào Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, các ông cần phải lắng nghe lời dạy của Ngài: “Đây là Con Ta yêu dấu. Các Ngươi hãy nghe lời Ngài”. “Lời Ngài” mà Chúa Cha muốn nói ở đây là lời Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó tử nạn và phục sinh của Người. Lời Ngài ở đây là lời tiên báo về sự bắt bớ, tra tấn, đánh đập và bị giết chết nhục nhã trên Thánh Giá. Nghe để không bị chao đảo, nghe để không bị mất đức tin trước những thử thách nặng nề như thế.
Khi tái khám phá những ý nghĩa của biến cố hiển dung, chúng ta được mời gọi điều gì? Chúng ta được mời gọi mỗi khi đối diện với những bế tắc, nghiệt ngã trong cuộc sống vô thường ở đời này, hãy chiêm ngắm biến cố hiển dung để hy vọng, để cậy trông vào một cuộc sống vĩnh phúc đích thực mai sau. Sau nữa chúng ta còn được gọi mời khi gặp những đau thương thử thách của thập giá, hãy hướng lòng trí lên Đức Kitô vinh quang trên núi Taborê để được khuyến lệ, để được vấn an hầu có thể vượt qua những thử thách đau thương trong cuộc đời này.
45. Chúa biến hình – Cao Huy Hoàng
Giáo Hội là Mẹ Thánh Thiện. Phụng vụ trong Giáo Hội là con đường đưa dẫn mọi thành phần dân Chúa vươn đến đích thánh thiện tuyệt đối. Vì thế, khi khai mạc Mùa Chay Thánh với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo Hội nhắc nhớ tôi về thân phận con người phải trở về với tro bụi, và Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay cảnh báo con người phải tỉnh thức trước những cơn cám dỗ để chiến đấu và chiến thắng, thì hôm nay, Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, xây dựng cho con cái Giáo Hội một niềm tin, một niềm hy vọng vững chắc về một tương lai phục sinh vinh hiển. Hạt bụi vô danh kia, chút tàn tro bé bỏng ấy, không còn là nỗi ám ảnh kinh hoàng cho thân phận con người nữa, nhưng chính hạt bụi vô danh ấy, chút tàn tro bé nhỏ ấy, là con đường để con người ta biến hình nên sáng láng rực rở trong một thế giới mà không còn cái goi là thời gian chế ngự.
Đức Kitô mặc khải Thần Tính
Suốt những ngày theo chân Đức Ki tô, trong lòng các môn đệ luôn ấp ủ những vinh hoa trần thế. Đức Ki tô là con nguời thật. Vì thế, họ có quyền nghĩ đến một một Vua Ki tô khôi phục lại giang san, và chính họ, sẽ phải hưởng được một phần vinh quang của Ngài. Nhưng không, hôm nay Đức Ki tô đã cho họ thấy tận mắt dung mạo rực rỡ của Ngài là Con Thiên Chúa thật. Hai bản tính trong cùng một con người, trong cùng một thân xác, mà bản tính Thiên Chúa đã làm cho họ ngây ngất và sung sướng đến mức thánh Phêrô phải thốt lên ” Lạy Thầy ở đây thì tốt lắm…” mà thánh Luca nhận định là “ông nói mà không biết mình nói gì” (Luc 9,33). Và lúc ấy, chính Thiên Chúa Cha xác nhận:”Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, các ngươi hãy nghe Lời Người” (Luc 9, 35) để cũng cố thêm niềm tin đã được mặc khải.
Nhưng, dung mạo sáng láng ấy chỉ lóe lên một thoáng để xây dựng nơi ba vị tông đồ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan một niềm tin chắc chắn vào Đức Giêsu Ki tô là Con Thiên Chúa thật. Ngài đã không mang dung mạo sáng láng huy hoàng ấy vào công cuộc cứu thế, nhưng ngược lại, Ngài mặc lấy dung mạo của con người thấp hèn nhất, đúng như Thánh Vịnh 30 đã nói: ” Tôi trở nên đồ ô nhục đối với những người thù, nên trò cười cho khách lân bang, và mối lo sợ cho người quen biết- gặp tôi ngoài đường, họ tránh xa tôi. Tôi bị người ta quên, không để ý tới, dường như đã chết. Tôi trở nên như cái bình bị vỡ tan.” (Tv. 30, 12-13). Đúng vậy, không lưu lại trên Núi Tabor- nơi Cha Con dạt dào thương mến, không giữ lại sự hiển vinh chói lói- thần tính nguyên sơ của Ngài, Ngài đã đưa các tông đồ xuống núi để đi vào cuộc thương khó vĩ đại nhất, mà cho đến hôm nay, sau hai ngàn năm, không có cuộc thương khó nào, không có đau khổ nào, không có sự trừng phạt nào, không có án tử nào của con người có thể sánh nỗi- cuộc thương khó dẫn đến cái chết của một con người thật-chết thật, tro bụi thật. Nhưng thần tính của Ngôi Vị Thiên Chúa đã phục sinh thân xác hư nát, thành thân xác vinh hiển chói ngời như thân xác mà các tông đồ đã chiêm ngưỡng trên núi Tabor hôm ấy.
Bài học “trở nên đồ vô dụng”.
Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa uy quyền đã trở nên thành phần thấp hèn nhất trong thiên hạ, đã chấp nhận trở thành vô dụng, để cho ý định cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa Cha được thực hiện cách hoàn hảo nhất nơi chính “cốt nhục” của Người, Người Con Chí ái. Vì hoàn toàn để cho “Ý Cha thể hiện” nên Ngài đã tuân phục thánh ý Chúa Cha cách triệt để, phó thác hoàn toàn trong tay Cha, Ngài đã trải qua những đau khổ kinh khiếp nhất của đời người, nhờ sức mạnh của sự tuân phục mang tính thần tính là nội lực ở bên trong một thân xác phàm trần yếu đuối, mỏng dòn…
Bài học “trở nên đồ vô dụng” đối với mỗi con người luôn luôn là một bài học khó. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu biến hình thân xác Người, cho tôi một chìa khóa để có thể tiếp thu bài học ấy. Chỉ có lòng khiêm hạ chấp nhận để cho Thiên Chúa thực hiện ý định của Ngài trong tôi, trong bạn, trong mỗi con người chúng ta, thì chúng ta mới có thể hóa giải thân xác yếu hèn nầy nên thân xác vinh hiển, thân xác phục sinh. Không phải chờ đến lúc da mồi tóc bạc, nằm im bất động trên giường, trả lại cho đời bao nhiêu bằng cấp, bao nhiêu của cải bạc vàng… mới thấy mình là người vô dụng, nhưng phải hiểu là chúng ta đã vô dụng ngay trong mỗi thành công rực rỡ trong đời, vì tất cả đều là sự thể hiện của Thánh Ý Thiên Chúa.
Bài Giáo Lý cuối cùng của đời người Công Giáo: “Tôi tin xác loài người sẽ sống lại”
– Đứng trước thi hài của Mẹ, người con cả thưa với Mẹ: ” Mẹ thân yêu của chúng con, chính qua thân xác nầy mà chúng con đón nhận bao nhiêu ơn lộc của Thiên Chúa, ơn được làm người, ơn được biết Thiên Chúa, được làm con cái thiên Chúa… Vì chính thân xác mẹ đã cộng tác với chương trình của Thiên Chúa trên đường thương khó với Chúa Giêsu để yêu thương và phục vụ chúng con hết mình. Chúng con tin, thân xác mẹ sẽ vinh hiển sáng láng trong nước Chúa. Nguyện xin Chúa thương tha các lầm lỗi cho Mẹ, và sớm cho Mẹ phục sinh vinh hiển”.
– Một người bạn tôi, Anh Nguyễn Văn Úy, hơn 30 năm tận lực làm ca trưởng ca đoàn Giáo Xứ Hòa Nghĩa, Cam Ranh, đang lâm bệnh nặng, nằm cấp cứu ở Bệnh viện Nha Trang, có thể phải chạy thận để kéo dài sự sống- cách đây vài hôm đã nói với anh em: “Những gì mình đã nỗ lực, đã cống hiến cho Ca đoàn, cho Giáo Xứ, cho gia đình, đều là của Chúa, không có gì của mình cả. Xin Chúa thực hiện tiếp những gì Ngài muốn nơi mình”.
– Chúa Giêsu biến hình, là niềm hy vọng của mỗi người công giáo chúng tôi. Nhưng không hẳn thân xác nào cũng “sống lại và sáng láng vinh hiển” như thân xác biến hình của Chúa Giêsu, vì hạnh phúc ấy, chỉ dành cho những thân xác đã hoàn toàn trở nên “vô dụng” cho Thánh Ý Thiên Chúa, thân xác đã “Nghe và thực hiện Lời Thiên Chúa, thân xác đã tan nát dập vùi vì yêu thương và phục vụ như chính Đức Giêsu Yêu Thương-Phục Vụ. Chính niềm tin và niềm hy vọng biến hình, hạt bụi vô danh kia, tàn tro bé bỏng ấy… không còn là nỗi ám ảnh kinh hoàng, để phải thốt lên giai điệu bi thảm “hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi…” (Trịnh Công Sơn)
Lạy Chúa Giêsu biến hình, xin cho chúng con biết quên mình, chấp nhận hy sinh để yêu thương và phục vụ Chúa, phục vụ tha nhân như ý Chúa muốn.
46. Những câu chuyện biến hình
(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Tác giả cuốn sách The Seven Habits of Highly Effective People (“Bảy Thói Quen Của Người Làm Việc Có Hiệu Quả”), Steve Covey, trên một chuyến xe điện ngầm tại thành phố New York vào một sáng Chúa nhật, đã thu được một kinh nghiệm sống rất quí như sau. Steve kể:
Mọi người ngồi yên lặng. Vài kẻ đang đọc báo. Số khác đang chập chờn ru giấc ngủ. Số khác nữa đang suy nghĩ miên man. Thật là một cảnh yên tĩnh, thanh bình.
Tàu dừng lại tại một nhà ga. Một người đàn ông và mấy đứa nhỏ, có lẽ là con ông ta, bước lên. Lập tức bầu khí yên bình bị phá tan. Những đứa bé la hét om sòm. Chúng vất đồ đạc qua lại. Thậm chí còn lấy báo của người khác vò lại ném nhau. Thật là phiền hà hết sức! Nhưng sao người cha của mấy đứa bé kia lại không có phản ứng nào?
Steve cảm thấy bực bội khó chịu trước thái độ của cha con những người khách mới. Anh ta không thể hình dung ra được trên đời này lại có những kẻ vô cảm và vô tâm như gã đàn ông kia. Con cái quậy phá làm phiền biết bao nhiêu người, thế mà vẫn cứ ngồi im. Steve quan sát và thấy nhiều hành khách khác cũng có vài nếp nhăn khó chịu.
Cuối cùng, khi sức kiên nhẫn đã vượt mức tối đa, Steve bèn lên tiếng với người bố: “Thưa ông, con ông đang làm phiền nhiều người lắm đấy. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy ông không làm gì để kiềm chế chúng một chút.” Người đàn ông nhướng mắt nhìn Steve như vừa sực tỉnh lại từ một ưu trầm lắng. Nén tiếng thở dài, ông ta nói: “Tôi thành thật xin lỗi. Tôi cũng không biết phải làm sao. Chúng tôi mới rời khỏi bệnh viện nơi mẹ chúng nó vừa qua đời cách đây một giờ. Tôi suy nghĩ mãi mà không biết cuộc đời rồi đây sẽ ra sao khi không còn nhà tôi, và chắc là chúng nó cũng không biết chịu đựng thế nào khi chẳng còn có mẹ.”
Steve kết luận bài viết của mình: “Bạn có thể tưởng tượng được cảm giác của tôi lúc đó như thế nào không? Ngay lập tức tôi thấy mọi sự đổi khác. Vì thấy mọi sự đổi khác nên thái độ của tôi cũng đổi theo. Cơn khó chịu bực bội trong tôi biến mất. Thay vào đó là niềm cảm thông cho nỗi đau của người chồng mất vợ và những đứa con mất mẹ.”
Nhờ “thấy” được chiều sâu tâm hồn của cha con người đồng hành mà Steve đã thắng vượt những khó chịu bực bội trong mình, và sau đó đã đến với họ bằng tâm tình cởi mở chân thành. Phải chăng trong đời sống, người ta cũng cần có con mắt nội tâm để “thấy” được nền tảng và ý nghĩa của cuộc đời hầu có những thái độ và cách sống thích hợp? Phải chăng nhờ sự biến hình trên núi Tabor, các môn đệ đã “thấy” được hình ảnh phục sinh vinh quang của Đức Giêsu, để từ đó họ bớt nao núng khi bước vào nẻo đường thánh giá và đón nhận khổ nạn với Ngài? Phải chăng đời ta và đời người cũng cần những giây phút biến hình để dung nhan Thiên Chúa, trong tha nhân và nơi mình tôi, được bừng sáng, đón nhận, và tin yêu hơn?
Trong một bài báo tự thuật, Malcolm Muggeridge có kể lại việc nhóm chuyên viên truyền hình của anh ta cố gắng thực hiện một bộ phim tài liệu về Mẹ Têrêsa Calcutta.
Họ muốn quay cảnh mẹ cùng các chị nữ tu Bác ái đang làm việc trong căn nhà Hấp Hối, bên cạnh những kẻ sắp từ biệt cõi đời. Thế nhưng nhóm của Malcolm đã gặp phải một vấn đề khó khăn: căn phòng họ tính quay phim hơi tối, không đủ ánh sáng cần thiết cho việc thâu hình, mà trong nhà lại không có một ổ cắm điện nào cả.
Tuy nhiên, sau khi bàn thảo, họ quyết định cứ tiến hành thu hình trong cảnh tranh sáng tranh tối của căn phòng Hấp Hối.
Nhưng rồi, kết quả, trước bao cặp mắt ngạc nhiên, những thước phim thâu được lại tuyệt vời quá sức tưởng tượng. Ánh sáng trong các hình ảnh đạt đến mức độ hoàn hảo. Dường như đã có một luồng sáng ấm dịu nào đó phát ra trong lúc họ đang quay phim.
Malcolm, người mà sau này trở thành một Kitô hữu, lúc bấy giờ đã bị thuyết phục hoàn toàn với ý nghĩ là ánh sáng đã phát ra từ tình thương mà người ta có thể bắt gặp khắp nơi trong căn nhà Hấp Hối kia. Malcolm viết lại trong nhật ký của mình: “Chính tình yêu đã chiếu sáng, một thứ ánh sáng giống như hào quang trên đầu các thánh mà tôi từng được xem thấy.”
Phải chăng đó cũng là thứ ánh sáng mà Đức Giêsu đã tỏ cho ba môn đệ thân tín là Phêrô, Gioan và Giacobê khi Ngài biến hình trước mặt các ông? Trong cuộc biến hình này, các môn đệ được nghe một lời phán bảo: “Đây là Con Ta yêu dấu, kẻ Ta đã chọn, các ngươi hãy nghe lời Ngài” (Lc 9:35). Trong chương kế tiếp, Thánh sử Luca đã khéo léo trình bày việc “nghe lời” Đức Giêsu không gì khác hơn là ra đi rao giảng Tin mừng Tình thương. Chương 10 đã kể việc Chúa sai 72 môn đệ lên đường truyền giáo, đồng thời cũng làm nổi bật giáo lý của Đấng Cứu Thế qua câu hỏi “giới răn nào trọng nhất” của một luật sĩ và qua câu chuyện “Người Samari Nhân Hậu” như những minh hoạ cho giáo lý yêu thương.
Cao điểm của cuộc biến hình là lời mời gọi “Hãy nghe Ngài”. “Nghe Ngài” là để tiếp nối những cuộc biến hình khác, giữa cuộc đời này, bằng tình yêu. Chính nhờ tình yêu mà Mẹ Têrêsa đã biến những thân xác tanh hôi, đau yếu, bị bỏ rơi, nên những con người có đầy đủ phẩm giá và đáng tôn trọng. Chính nhờ tình yêu mà mẹ đã biến đổi tâm hồn của Malcolm, một kẻ “coi trời bằng vung”, nên cung điện tươi xinh cho Thiên Chúa ngự trị.
Không phải Chúa Giêsu đã từng nói: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đệ của Ta: ấy là các ngươi có lòng mến thương nhau” (Ga 13:35)? Chính với yêu thương, cảm thông, cứu giúp, chia sẻ mà tha nhân thấy được dung mạo của Đức Kitô trong cuộc đời của bạn và tôi.
Ước gì tình yêu thương nhau sẽ biến hình đời ta và biến đổi đời người. Ước gì tình yêu đó cũng giúp ta thắng vượt bao gian nan, trắc trở, và khổ giá trên đường đời, để tiến đến một ngày Phục sinh tươi sáng.
47. Rất sáng và rất ngắn
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
Trong thánh lễ cưới, cô dâu thường mặc áo trắng, hoặc soirée trắng hoặc áo dài trắng với voile phủ đầu cũng trắng. Nhưng màu trắng đó khi gặp bóng chiều buông xuống – nếu lễ cưới vào buổi chiều. Hoặc như mấy nhà thờ quê, lễ cưới vào giấc 4:30 hay 5 giờ sáng, gọi là sáng, nhưng trời còn tối. Ngoài trời tối mà trong nhà thờ, đèn có sáng mấy cũng không đủ làm cho màu trắng áo cô dâu sáng lên được. Chỉ thỉnh thoảng khi ánh đèn flash của máy ảnh loé lên để ghi hình cô dâu chú rể, thì màu trắng của y phục cô dâu mới thật là trắng. Đèn flash bật lên rất sáng và cũng rất ngắn.
Cuộc hiển dung của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay cũng rất sáng và cũng rất ngắn.
Sáng đến độ diện mạo Chúa biến đổi khác thường, còn áo Ngài mặc thì trắng tinh sáng láng [Marcô thì ghi rõ: không thợ giặt trần gian nào giặt trắng đến thế! Chuyên viên tẩy rửa Omo, hay Tide+ cũng không làm trắng đến như thế. Bột giặt với mẩu quảng cáo yêu nhau cởi áo cho nhau trên TV hẳn cũng không cho màu áo trắng sáng được như áo Chúa trong cuộc hiển dung!].
Rất sáng, nhưng lại cũng rất ngắn.
Phêrô vui mừng tột độ, nhưng nói chưa hết câu “làm 3 lều”, thì đã thấy chỉ còn mình Chúa Giêsu, bình thường, chẳng sáng là mấy… Cuộc hiển dung của Chúa rất sáng và rất ngắn. Tại sao?
Tại sao Vinh quang của Chúa lại xuất hiện rất sáng, nhưng cũng rất ngắn như một tia chớp mau qua như thế?
Thưa đó là qui luật muôn đời của đức tin.
Vinh quang Thiên Chúa bao giờ cũng chỉ được ban cho ta trong một chớp sáng mau qua vào những lúc ta cần được an ủi nhất: vừa sáng đủ để củng cố đức tin của ta mà cũng vừa ngắn đủ để khỏi xâm phạm tự do của ta. Ta tìm hiểu thêm về sáng và ngắn.
Rất sáng:
Các nhà giảng thuyết cũng như các nhà giải thích Kinh Thánh đều đồng ý với nhau về ý nghĩa bối cảnh của cuộc hiển dung. Đó là sau khi tiên báo mình sẽ chịu đau khổ, chịu chết tại Giêrusalem, những môn đệ theo Chúa buồn bã rồi nghi ngờ về người Thầy mà mình đang theo. Ông Giêsu này là ai, mà tương lai ông đen tối như thế: nào là đau khổ, nào là chết trên thập giá. Ông lại còn nói “ai theo ông cũng phải vác thập giá”: cả một bầu trời u ám tối đen! Giữa lúc ấy thì Chúa hiển dung vinh quang sáng láng, trước khi Ngài hai lần nữa loan báo về khổ đau và cái chết của Ngài: lần 2, lần 3 (thêm: bị nộp, bị khạc nhổ, xỉ vả, đánh đập).
Các nhà canh tân Phụng vụ cũng muốn đồng ý với lối giải thích trên, nên trong Mùa Chay, mùa sám hối đền tội, mùa trời giăng màu tím, ngay sau lễ tro rồi Chúa nhật I Mùa Chay bị cám dỗ, trước khi đến CN 3, 4, 5 thì chen nằm vào ngay giữa một ngày tường thuật cuộc hiển dung của Chúa: hôm nay Chúa nhật II, năm A hay B hay C đều là hiển dung sáng láng.
Vậy giữa mùa chay dài 40 ngày mang tính buồn rầu than khóc, sẽ có một Chúa nhật nói đến sự hiển dung vinh quang. Và Phụng vụ muốn mô phỏng 2000 năm về trước, giữa bầu khí u buồn và nghi hoặc nơi các tông đồ, Chúa đã hiển dung sáng láng ..
Cuộc hiển dung này phải thật sáng thì mới chiếu đủ ánh sáng vào không gian (bầu khí) ảm đạm u buồn khá đậm nơi các đồ đệ của Đức Giêsu. Và cũng phải thật sáng thì mới ảnh hưởng đến thời gian còn rất lâu mới tới một cuộc hiển dung khác là sự phục sinh của Ngài.
Giống như đèn flash phải thật sáng để chiếu vào không gian đen tối hầu lưu ảnh cho thời gian dài lâu, thì cuộc hiển dung phải rất sáng để đủ chiếu soi không gian u buồn rất lớn, và thời gian nghi hoặc rất dài. Cuộc hiển dung rất sáng để phá tan được ảm đạm và nghi ngờ nơi các Tông đồ, giúp củng cố niềm tin của các ông vào người Thầy mà mình đang đi theo. Nhưng cuộc hiển dung rất sáng đó, cũng diễn ra rất ngắn.
Rất ngắn. Tại sao lại rất ngắn
Thưa là để khỏi xâm phạm đến tự do của các Tông đồ. Tự do đi theo Ngài, và tin Ngài cách tự do. Giả sử Đức Giêsu cứ xuất hiện dưới dạng uy nghi sáng láng, thì tin vào Ngài là dễ dàng, là đương nhiên. Triết lý gọi là bó buộc, không tự do tin hay không tin tùy ý nữa. Và nếu Ngài cứ uy nghi sáng láng mãi thì đi theo Ngài cũng là bó buộc đương nhiên, nhất là khi Ngài hứa ai theo Ngài sẽ nên giống như Ngài. (Đèn flash mà cứ sáng hoài, ta cũng mất tự do, không dám co tay duỗi chân đập con muỗi!).
Trong cuộc sống thử thách ở trần gian này, Thiên Chúa vẫn cứ muốn là Thiên Chúa mai ẩn, giấu mình đối với những kẻ tin vào Ngài. Ngài muốn họ tự do. Tự do tin Ngài, theo Ngài, yêu mến Ngài. Khi cần, khi rất cần, để an ủi khích lệ những kẻ tin Ngài, Thiên Chúa mới tỏ vinh quang. Nhưng cũng như tia chớp, trong chốc lát. Rất rất ngắn. Vừa đủ sáng để củng cố đức tin ta vừa ngắn ngủi để khỏi xâm phạm đến tự do của ta.
Một hôm có người đến báo cho vua Louis IX (nước Pháp) là hãy đến ngay xem phép lạ tại nhà thờ kia: vị linh mục đọc lời truyền phép xong, thì chính Chúa Giêsu hiện nguyên hình trên tấm bánh. Tấm bánh sáng láng lạ thường. Vua Louis đáp lại: Ta không cần đến, vì ta vẫn tin như thế. Không phải vì thấy được ngời sáng mà ta tin hơn đâu. Những ai yếu tin, nghi ngờ thì cứ đến mà xem.
Không thấy sáng, không sờ được mà vẫn tin, cái tin đó mới tự do. Cái tin đó mới là Đức. Đức tin. Phúc cho ai không thấy mà tin. Chỉ cần nghe mà tin mới là phúc, mới là tự do. Tôi nghe nói, tôi nghe dạy: Chúa ngự thật trong hình bánh. Tôi tin. Tin “chất lượng” nhất vì có tự do, tức là tôi có thể tin hay không tin mà chẳng ai cho tôi là mát, là dị.
Còn khi vừa truyền phép xong, tấm bánh sáng láng lạ lùng và cứ sáng mãi bao lâu Chúa còn hiện diện thì tôi chỉ còn một con đường không có chọn lựa nào khác, là tin, là công nhận; nếu không thiên hạ gọi tôi là khùng là mát… Chính vì để khỏi xâm phạm đến tự do của các tông đồ mà Chúa đã hiển dung sáng láng rất ngắn.
Trong cuộc sống tại trần gian của Kitô hữu chúng ta, rất nhiều khi và rất rất nhiều người không hề gặp được một cuộc hiển dung nào của Chúa cả, cho dù là rất ngắn. Một chút của rất rất ngắn cũng không có!
Nhưng đừng có ganh tị. Bởi cuộc hiển dung xưa kia trên núi, Chúa Giêsu cũng chỉ mang theo ba vị: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Chín vị khác và đông đảo đệ tử có thấy được tí loé sáng vinh quang nào của Chúa đâu. Mà họ vẫn tin theo Chúa. Mà ba vị đó khi xuống núi cũng bị cấm không tiết lộ cho chín tông đồ khác và các môn đệ ngơ ngác kia, nhưng họ vẫn tin.
Xin cho chúng ta cũng được như vậy, dù Chúa không hoặc chưa hiển dung với ta, nhưng ta vẫn tin Ngài là Chúa, như kinh Tin Kính ta sẽ tuyên xưng bây giờ đây.
48. Chúa Nhật 2 Mùa Chay
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin mừng Lc 9: 28-36: Nếu lúc nào đó trong cuộc sống, sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa xem ra là một thập giá nặng nề, chúng ta hãy học nơi mẫu gương tổ phụ Abraham, ngài đã hoàn toàn đặt lòng tin tưởng vào Chúa hoàn toàn.
Suy niệm:
Những nghiên cứu khoa học gần đây đã chứng minh rằng vẻ bề ngoài có thể là yếu tố giúp người khác đánh giá tính cách và mức độ đáng tin cậy của bạn.
Thực ra ông bà ta cũng nhìn nhận “Trông mặt mà bắt hình dong”, khuôn mặt có nhiều khả năng là sự định giá của người khác dành cho bạn chỉ sau vài giây gặp gỡ. Ai cũng muốn mình có khuôn mặt tươi sáng, khả ái. Và người ta sẵn sàng chi nhiều tiền thẩm mỹ cho khuôn mặt mình, đặt mua nhiều loại sữa rửa mặt làm trắng da… chỉ vì muốn người khác có cái nhìn tốt đẹp về họ. Thế nhưng, khuôn mặt cũng phản ánh nét đẹp đời sống nội tâm của con người mà chúng ta cần nhắm tới.
Trong trang Tin Mừng Chúa Nhật thứ II Mùa Chay năm C hôm nay, Hội thánh mời chúng ta chiêm ngắm khuôn mặt ngời sáng của Chúa Giêsu trên núi Tabor khi Người biến hình. Chỉ mình thánh Luca nói rõ chi tiết Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện. Kết quả của lời cầu nguyện đó là: “Ðang khi Ngài cầu nguyện, thì khuôn mặt Ngài biến đổi”. Việc gặp gỡ Thiên Chúa làm biến đổi con người, biến đổi từ nội tâm đến thân xác, khuôn mặt, thậm chí “y phục Ngài nên trắng ngời”.
Và rồi khi chứng kiến việc biến hình của Chúa Giêsu, có sự hiện ra của Môisen và Êlia, các môn đệ lúc này chỉ muốn ở mãi trên núi để tận hưởng vinh quang hiển dung. Họ xin sẵn sàng làm ba lều cho Chúa Giêsu Thầy mình, cho Môisen là người đại diện cho Lề Luật và cho Êlia đại diện cho người loan báo lời ngôn sứ của Thiên Chúa.
Lúc này đây, Chúa Giêsu đang ở trong một khúc quanh quan trọng của sứ mạng Chúa Cha trao phó. Điều tất yếu của sứ mạng cứu chuộc nhân loại không thể nào thiếu chặng đường thập giá. Trước đó, Chúa Giêsu đã loan báo cho các tông đồ về cuộc khổ nạn sắp tới và việc Người sẽ chịu chết. Người hoàn toàn ý thức mình đang tiến về cái chết được biểu hiện bằng việc tiến về Giêrusalem. Người không phải là một thủ lãnh giải phóng chính trị oai phong hiển hách mà người đương thời mơ tưởng, nhưng là Đấng Messia, Người Tôi Trung chịu đau khổ. Và để đáp trả lời vâng phục đầy tự nguyện vì tình yêu của Con, Chúa Cha mặc cho Người Con ánh sáng và vinh quang trên núi cao, một hình ảnh tiên báo hoa trái của cuộc khổ nạn sẽ dẫn Người đến sự phục sinh. Có ba môn đệ thân tín là Phêrô, Gioan và Giacôbê được chiêm ngưỡng việc tỏ mình của “Người Con Yêu Dấu của Thiên Chúa Cha” để các ông được động viên tinh thần khỏi sa sút, thất vọng với những gì sẽ diễn ra trong đêm Vườn Dầu.
Trong đời sống nhân loại, ai mà không muốn mình được vinh quang, an nhàn, mãn nguyện và hạnh phúc. Chẳng ai dạy gì tìm kiếm khổ cực truân chuyên. Nhưng những nhà tu đức đã dạy các Kitô hữu rằng con đường Chúa đi không thể nào thiếu vắng thập giá. Vì thế, các Kitô hữu của Chúa cũng cần phải được thập giá thanh luyện, như “lửa thử vàng” vậy.
Nếu lúc nào đó trong cuộc sống, sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa xem ra là một thập giá nặng nề, chúng ta hãy học nơi mẫu gương tổ phụ Abraham, ngài đã hoàn toàn đặt lòng tin tưởng vào Chúa hoàn toàn. Ngay chính lúc tuyệt vọng khiến không còn lý do để tin tưởng, nhưng nhờ có đức tin vững mạnh, Abraham đã được toại nguyện như lời Chúa hứa. Và cao cả hơn, nhìn lên gương vâng phục của Thầy Chí Thánh trên thập giá, chúng ta sẽ được ủi an vì Chúa Giêsu sẽ biến thập giá khổ nạn thành Thánh giá cứu đời. Chính khi chịu treo như một kẻ tử tội bị chế nhạo thì lúc đó Người được vinh thắng vì Chúa Cha sẽ phục sinh Con Ngài trong ánh sáng và vinh quang.
Vậy phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta đặt trọn niềm tin của mình vào Chúa Kitô để biết biến đổi đời sống mình: những tính mê nết xấu, những lời gièm pha châm chọc, việc thiếu sống công bằng, sự thiếu sót trong các mối tương quan… Sẽ có những lúc Thiên Chúa ban cho chúng ta niếm chút vinh quang như một chớp sáng mau qua để an ủi đời sống thiêng liêng, vừa sáng đủ để củng cố cho đức tin, vừa ngắn ngủi để khỏi xâm phạm tự do đáp lại. Nhờ đó mà chúng ta luôn sống trong hy vọng cần phải hoán cải đời sống mình mỗi ngày để cũng xứng đáng được Chúa gọi là “con yêu dấu”. Khi chúng ta sắt son trong đức tin, muốn nên sống tốt và chân thành thay đổi, Chúa sẽ ban cho chúng ta hoa quả của lòng tin là một cuộc sống của người con Chúa.
Lạy Chúa, con cũng sẽ được gọi là “Con yêu dấu” của Chúa chỉ khi con biết sống và đi con đường như Chúa Giêsu, Con Dấu Ái của Ngài, con đường thập giá đi đến vinh quang. Xin cho con đừng mỏi mệt mà nản lòng và cần luôn ý thức rằng “Nếu con tìm Chúa Giêsu mà không với Thánh giá thì con chỉ gặp được thập giá mà không có Chúa Giêsu”. Amen.
49. Suy niệm của Lm. Đaminh Hương Quất
XUỐNG NÚI – MẬT ĐẮNG CUỘC SỐNG THÀNH MẬT NGỌT CỨU ĐỘ
Chúa nhật II Mùa Chay Thánh sử Luca đưa chúng ta lên núi Tabor, cùng với ba Tông đồ Phêrô- Giacôbê và Gioan chứng kiến Chúa Giêsu hiển dung, cho thấy- cho cảm nếm chút vinh quang thật của Chúa Giêsu. Phêrô vốn còn nặng cái nhìn trần thế, theo cảm tính đã ‘chớp’ ngay dịp may hiếm có này khi đề nghị dựng ba lều để ở lâu dài trên núi.
Thực ra việc Chúa Giêsu biến hình, tỏ thật vinh quang Thiên Tính vốn có của Ngài, như cách Chúa Giêsu cho nếm ‘mật ngọt’ thật của Thiên đàng để củng cố niềm tin cho các môn đệ, nhất là khi họ sẽ chứng kiến cuộc Tử nạn thương khó của Chúa Giêsu; khi gặp những vấn nạn- đau khổ sau này trong hành trình Loan báo Tin Mừng.
Đau khổ trần gian chẳng là gì cả so với mối phúc Thiên đàng!
Cũng như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình, có nhiều lúc chúng ta cảm thấy rõ, ngất ngây hạnh phúc trước Hồng ân Chúa ban; thấy mình sốt sắng quá, gần Chúa quá, yêu thương anh chị em quá; sẵn sàng làm những điều tốt cho anh chị em, sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình… nhưng giây phút “vinh quang” này thường ngắn ngủi, chớp nhoáng. Điều này chứng tỏ những an ủi thiêng liêng Chúa ban luôn có và luôn đồng hành cần đủ để củng cố Đức tin. Như biến cố Biến hình trên núi Tabor, chúng thường ngắn ngủi, chớp nhoáng một phần để khỏi xâm phạm đến tự do của ta, một phần tránh cho cho ta sống Đức tin bằng cảm tính.
Cũng như Chúa Giêsu và các Môn đệ, sau khi cảm nếm phúc ân Thiên Chúa đụng chạm đến đời mình, cùng Chúa Giêsu các Môn đệ lại xuống núi. Xuống núi để tiếp tục trực diện với trần thế, để sống theo ý Chúa, sẵn sàng đón nhận chén đắng trần thế trong Thánh ý Chúa.
Và chúng ta, sau những ngày Tết Nguyên đán nghỉ ngơi bên Chúa và bên gia đình, như Chúa Giêsu và các môn đệ, chúng ta lại xuống núi, lại tiếp tục với bao lo toan cuộc sống, tiếp tục trực diện những mật đắng trần gian…
Vấn đề khi gặp gian nan thử thách cuộc sống, khổ đau trần gian ta có nhận ra ý Chúa, có can đảm đón nhận sống theo ý Chúa hay không, kết hợp với Thập giá Chúa Giêsu! Một khi ta nhận ra ý Chúa và sống theo ý Chúa, nhờ Chúa Giêsu thì những mật đắng cuộc sống ấy trở thành mật ngọt Tin Mừng.
Quả thế, biến cố biến hình cho thấy một chân lý: Chúa Giêsu phải trải qua cái chết đau khổ- nhục nhã mới bước đến Phục sinh vinh hiển;Thánh Phaolô nhận rõ: Không có ơn Cứu độ nến không có đổ máu (x.Dt 9,15tt) và Vinh dự của tôi là Thập giá Đức Kitô. Theo Chúa không có hy sinh, không chịu cố gắng đời Kitô hữu sẽ nhạt nhẽo, vô vị, bế tắc và không cần phải đợi đến đời sau, ta đã thấy hoả ngục ngay tại đời này.
Đừng mơ có thành công mà không chịu cố gắng phấn đấu, không chấp nhận hy sinh. Cố gắng mỗi ngày để chu toàn bổn phận trong gia đình, cuộc sống, để nên người hơn, nên con cái Chúa hơn.
Đức Tân Giáo hoàng Phanxicô trong huấn từ đầu tiên đã nói “Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Đức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian”[1]
Nhờ Chúa Giêsu – Kitô Tử nạn – Phục sinh, trong Chúa Giêsu tất cả những khổ đau, những mật đắng- chén đắng cuộc đời đều là Hồng ân- đều có giá trị Tin Mừng Cứu độ. Đây chính là Tin Mừng lớn nhất, quan trọng nhất, là giá trị -động lực- mục đích cuộc sống trần thế của con người. Chỉ trong Đôi mắt Đức tin ta mới nhận ra chân giá trị cao đẹp này.
Tin Mừng ở chỗ, chính lúc ta đau khổ là lúc ta đang nên giống Chúa Giêsu, đang cho thấy rõ được cộng tác vào công trình Cứu độ của chính Chúa Giêsu. Một thụ tạo hèn mọn, tội lỗi như ta lại được Chúa mời gọi cộng tác vào công trình vĩ đại nhất của chính Chúa, ta phải thấy là niềm vinh dự, niềm vui lớn… Cảm niệm được điều đó thì đau khổ không còn đau khổ nữa, đau khổ có giá trị Tin Mừng. Trong Đức tin, chính nhờ khám phá Thập giá trong Chúa Giêsu trở nên Tin Mừng Cứu độ, do đó, các Thánh luôn khao khát được khổ đau vì Tình yêu Chúa Giêsu thúc bách.
Điều này thấy rõ thời Giáo hội sơ khai, khi Phêrô và Gioan rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu Tử nạn – Phục sinh, bị lãnh đạo Do Thái giáo bắt tù, đánh đập những tưởng làm các ngài lo sợ không có dám Loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu Tử nạn – Phục sinh, ai dè phản tác dụng. Sách Công vụ Tông đồ cho thấy rõ: bị tù đày, đánh đập… các ngài lại thấy hân hoan vì Danh Chúa Giêsu (x. 6, 40).
Điều này thấy rõ nơi các Thánh Tử Đạo mọi thời của Giáo hội, trong đó có hàng trăm ngàn tổ tiên chúng ta là những dấu chứng sáng rõ nhất cho chân lý Khổ đau- thậm chí khổ đau tột cùng là cái chết trong Chúa Giêsu đã nên Tin Mừng Cứu độ.
Xuống núi- trở về với cuộc sống đời thường, trực diện cuộc đời được coi là bể thẳm ấy, giờ đây nhờ có đôi mắt Đức tin ta khám phá bể thẳm ấy giờ thành biển Hồng ân.
Điểm đáng lưu ý: Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu biến hình khi đang cầu nguyện. Cầu nguyện- kêu xin Lòng thương xót của Chúa là ta đang để Chúa biến đổi nên giống Chúa. Nhờ ơn Biến đổi này ta mới khám phá mật đắng cuộc sống thành mật ngọt Cuộc đời; sẽ trải nghiệm sống đồng lời Chúa Giêsu: ách của ta thì êm ái, gánh ta nhẹ nhàng.
Xin Chúa gia tăng Đức tin- men Tin Mừng để hành trình theo Chúa- vâng nghe Lời Chúa, nhất là khi trực diện mật đắng trần gian chúng con khám phá Tin Mừng, nhất là trong Năm thánh Từ Bi này.
50. Vượt qua những thử thách khó khăn.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Chúng ta đang ở vào Mùa Chay, Chúa nhật thứ II. Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay thánh này với ngày Thứ Tư Lễ Tro. Điều gì chúng ta đã làm trong ngày Thứ Tư Lễ Tro này? Thưa rằng, chúng ta đã cho đại diện Giáo Hội xức tro lên trên đầu chúng ta, với dấu hiệu là chúng ta bởi đất, chúng ta sẽ trở về với đất.
Qua bài Phúc Âm Chúa nhật thứ I Mùa Chay tuần vừa qua, chúng ta lại đã nghe về cuộc hành trình của Chúa Giêsu trong sa mạc với những cám dỗ Ngài phải đương đầu. Những cám dỗ này chính là hình ảnh của những quyến rũ ma quỉ đặt trước chúng ta trong những ngày chay tịnh này, khi chúng ta sống trong bầu không khí của Mùa Chay. Việc biến hình của Chúa Giêsu với sự hiện diện của ba tông đồ Phêrô, Giacôbê, Gioan; với Môisê và Êlia đại diện trong cùng bối cảnh của Mùa Chay. Từ đó chúng ta khám phá được một sự thật, Mùa Chay không phải là khoảng thời gian chúng ta phải đối đầu với những cám dỗ do ma quỉ sắp đặt đưa ra. Mùa Chay cũng không phải là khoảng thời gian người tín hữu phải tự buộc mình chịu đựng những sự đau khổ mà không tìm cách tránh né. Mùa Chay đầu tiên là một sự mạc khải về thân phận, về định mệnh, trong tiến trình tự nhiên của con người, và những kinh nghiệm phải có từ ý chí bề ngoài của cuộc sống. Một trong những kinh nghiệm đó chúng ta có được về việc biến hình của Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm theo thánh Luca hôm nay.
Như thế này, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, Gioan lên núi cầu nguyện. Cứ theo cách diễn tả của thánh sử Luca, thì chúng ta có thể hiểu rằng biến cố đã xảy ra vào lúc ban đêm. Vì thường thường như chúng ta biết, sau khi giảng dạy và làm các phép lạ, Chúa Giêsu ẩn mình vào các nơi thanh vắng để cầu nguyện vào ban tối. Và nhất là căn cứ vào thái độ của các môn đệ khi sự việc xảy ra đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Thời gian ban đêm trong bài Phúc Âm đồng hóa với bóng tối được diễn tả ở đây, có thể là biểu hiện cho khuynh hướng xấu, biểu hiện cho phần bóng tối trong tâm hồn của mỗi con người chúng ta. Nó cũng là một trong những điều mà Luca diễn tả, khiến cho quang cảnh dễ gây xúc động hơn.
Đang khi cầu nguyện, diện mạo của Chúa Giêsu biến đổi khác thường, chói lòa hào quang ánh sáng. Nhưng Ngài vẫn là Ngài. Ngài vẫn là Chúa Giêsu. Con của Thiên Chúa, có khác chăng là về diện mạo và quang cảnh chung quanh. Một quang cảnh huy hoàng của cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu với Môisê và Êlia, đến nỗi khi được chiêm ngắm, các môn đệ đã phải thốt lên như trong một cơn mê sảng: “Lạy Thầy, nếu chúng tôi được ở đây thì tốt lắm. Chúng tôi xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Êlia”. Họ không muốn lìa xa nơi họ đã được chứng kiến. Một Thầy chí thánh với vinh quang và ân sủng, một vinh quang và ân sủng có thể hoà quyện trong mơ ước trần thế con người của họ trong những dịp đi theo Chúa.
Như chúng ta biết, Môisê và Êlia là hai tiên tri Cựu Ước, Môisê là người đã được Chúa tuyển chọn để đưa dân Ngài ra khỏi ách nô lệ của nước Ai Cập. Êlia là tiên tri đã được kêu gọi để làm cố vấn cho giao ước, dân Do Thái đã gần như chối từ những ơn Chúa trong đời sống họ. Khi đề cập đến biến cố này, các thánh sử khác thì nói rằng: Có một cuộc đàm đạo giữa Chúa và hai vị tiên tri. Trong khi Luca còn đi xa hơn, diễn tả ngay cả nội dung của cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu, Môisê và Êlia. Họ nói về sự chết của Chúa Giêsu sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Một cái chết không phải là dấu hiệu kết thúc của công trình cứu chuộc, nhưng là một cái chết khơi mào cho sự sống lại trong vinh quang trong nước Ngài. Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, sự chết, sự sống lại và lên trời của Chúa Giêsu được thể hiện cùng một lúc trong biến cố biến hình này. Sự chết trong thân xác hay chết của nhân tính của Chúa Giêsu là một sự sửa soạn cho sự vinh quang vĩnh cửu của một đời sống khác trong thiên tính của Chúa Giêsu.
Chịu đựng là vượt qua những thử thách khó khăn. Không phải chúng ta luôn luôn đương đầu với mọi cám dỗ và hoạt động của ma quỉ. Nhưng trong chính thời gian này, sự vinh quang của Thiên Chúa vẫn còn thể hiện trong chính các sinh hoạt của chay tịnh, sự thống hối, ăn năn, tha thứ trong 40 ngày. Lời phán từ trong đám mây minh chứng rằng Đức Giêsu biến hình ngày hôm nay, chính là Chúa Giêsu Kitô, là Con Thiên Chúa. Ngài đã lãnh nhận và thánh hóa bí tích Rửa tội nơi sông Giođan với Gioan Tẩy Giả, Ngài là Con của Thiên Chúa, là Lời của Thiên Chúa nói với nhân loại và nhân loại phải đón nhận Ngài: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.
Chúng ta cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng kiến việc Chúa Giêsu biến hình và cùng được dự phần vào việc đàm phán của Chúa với hai tiên tri. Từ đó, chúng ta có thể được dự phần vào việc khổ nạn và cuộc Phục sinh của Chúa trong những ngày sắp tới. Đó là một cách thế chúng ta tham dự trong bất toàn nhân tính, trong con người của Chúa Giêsu và chúng ta cũng sẽ được tham dự vào thiên tính bất diệt của Con Chúa trong ngày tới.
Điểm cuối cùng của biến cố biến hình của Chúa ngày hôm nay không phải chỉ mạc khải cho chúng ta về chương trình hành động của Thiên Chúa trong việc cứu rỗi con người. Biến cố này cho chúng ta thấy ngày lịch sử, nhân loại nhận biết sự xấu hổ của đời sống trần thế và ý nghĩa của sự chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu trong nhiệm vụ cứu rỗi. Biến cố này còn nhắc lại cho chúng ta một cách sống trọn vẹn và những hy sinh cay đắng trong cuộc sống. Chúng ta còn được dự phần trong sự vinh quang của Thiên Chúa là kết quả của việc chay tịnh, thống hối và tha thứ.
51. Chúa hiển dung – R. Veritas
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong Phụng Vụ Chúa Nhật thứ hai mùa Chay này, Giáo Hội cho chúng ta chia sẻ phần nào tâm tư của Chúa Giêsu và ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, là những người đã được Chúa Giêsu kêu gọi đầu tiên và cũng là những người được Chúa Giêsu đem theo vào vườn Giệtsêmani để cầu nguyện trước khi Người bước vào cuộc Thương Khó. Với tâm hồn tinh tế và ưu ái, Chúa Giêsu biết rõ tâm tính của các học trò mình, Người biết họ vốn là những ngư phủ chất phác, nhiệt tình nhưng khá bộp chộp. Họ hăng say đi theo Người, hết lòng cộng tác vào sứ mệnh của Người, nhưng cũng từng có những phản ứng nóng nảy, bộc phát. Trong các câu chuyện kể của Tin Mừng, chúng ta thấy không ít lần Simon Phêrô nhanh nhẩu thay mặt các đồng bạn trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu, cho dù các lời ấy có thể làm Thầy mình buồn lòng. Thậm chí, trong một lần cản ngăn Chúa Giêsu về việc Người sẽ tự nguyện lên Giêrusalem để chịu khổ hình, và Phêrô lúc đó đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời như sau: “Satan, lui lại đàng sau Thầy, con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà của loài người”. Còn hai ông Gioan và Giacôbê thì cũng bộp chộp không kém, vì tính tình nóng nảy, hai ông đã được Chúa Giêsu đặt biệt hiệu là con của thiên lôi, hai ông đã bị Chúa Giêsu khiển trách vì đã muốn cho lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Samari không chịu tiếp đón Người. Vì biết rõ tâm tính của các ông, nên sau khi tiên báo lần thứ nhất về cuộc Thương Khó của mình, Chúa Giêsu đã đem riêng các ông theo Người lên núi cầu nguyện và cho các ông chứng kiến vinh quang của Người. Ngay cả trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đọc hôm nay, ba ông vẫn còn nguyên vẹn tính chất phác của mình, nên khi Chúa Giêsu chuyên tâm cầu nguyện thì các ông lại vô tư nằm ngủ, và Chúa Giêsu vẫn để cho các ông ngủ say. Khi các ông bừng tỉnh thì một khung cảnh huy hoàng đã bao trùm lấy các ông, các ông được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong vẻ vinh quang sáng lạn của Người, có ông Môisen và ông Êlia xuất hiện để làm chứng rằng Người là Đấng Thiên Sai mà Kinh Thánh đã loan báo. Quá kinh ngạc vì cảnh tượng huy hoàng trước mắt, Phêrô đã nói như trong cơn mê sảng, kế đó ông lại được đám mây biểu hiện sự có mặt của Thiên Chúa bao trùm và được nghe tiếng Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Yêu Dấu của Ngài.
Khi nghe đoạn kể lại Chúa Giêsu tỏ mình vinh hiển trên đây, chúng ta thấy mình cùng ngây ngất, choáng ngợp trước cảnh tượng thánh thiêng huy hoàng ấy, chúng ta khâm phục các môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, vì các ông đã được chiêm ngắm vinh quang của Chúa Giêsu. Nhìn lại mình, chúng ta thấy đời sống đức tin của chúng ta sao mà nhạt nhẽo. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã Phục Sinh vinh hiển, nhưng dường như Người ở tận trên thiên cung xa vời. Còn chúng ta thì cứ loay hoay mãi với những chuyện đời thường nơi chốn trần gian này. Tâm trạng của chúng ta cứ buồn buồn sao ấy. Thật ra, chúng ta không chỉ mãi quẩn quanh với những thăng trầm thế sự mà thôi. Hiện giờ, Chúa Giêsu cũng quan tâm đến mỗi người chúng ta, như Người đã từng quan tâm đến các môn đệ như Phêrô, Gioan và Giacôbê ngày xưa. Người biết rõ tâm tính của mỗi người chúng ta với những ưu điểm và khuyết điểm của từng cá nhân, bằng những cách thế khác nhau. Qua những sự kiện và những dấu chỉ khác nhau, Người cũng cho chúng ta chia sẻ những giây phút vinh quang, hoan lạc của Người, để tỏ lộ cho chúng ta đại cuộc cứu độ của Người và giúp chúng ta vững bước trên đường sống đạo. Nếu chúng ta không nhận ra những lúc Người tỏ mình như thế, có thể vì chúng ta chưa đủ nhạy bén trong đời sống đức tin, hoặc vì chúng ta không nghĩ rằng mình được Chúa Giêsu ưu ái quan tâm đến thế.
Quả thật, Chúa Kitô Phục Sinh vẫn thường xuyên đến với mỗi người chúng ta dù không rực rỡ ánh hào quang như lúc tỏ lộ cho ba môn đệ ngày xưa, nhưng vẫn đủ để tạo ra những dấu ấn có sức củng cố đức tin của chúng ta. Đại thi hào Tagore đã viết về điều này trong tác phẩm Lời Dâng như sau: “Anh không nghe thấy ư? Bước chân Người thầm lặng. Người tới, tới và luôn luôn thường tới. Người tới, tới và luôn luôn thường tới. Hàng giờ, hàng đêm, hàng ngày, hàng thời đại, anh ơi”.
Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc sống đời thường của con, Chúa dùng muôn vàn phương cách để tỏ lộ cho con vinh quang của Ngài, nhưng nhiều lúc con chẳng nhận ra. Xin Chúa ban cho con đôi mắt biết rộng mở, đôi tai biết lắng nghe và tâm hồn biết thinh lặng để nhận ra Chúa. Xin cho con biết lưu giữ những kỷ niệm về những lần con gặp Chúa để mỗi khi gặp cơn sóng gió trong đời, con hồi tưởng lại những kỷ niệm tuyệt vời ấy mà vững tâm sống đạo.
52. Chúa Giêsu biến hình – Lm. Damien OFM
Trong những ngày chuẩn bị cho cuộc thương khó, sự kiên Chúa Giêsu biến hình là để củng cố đức tin cho các Tông Đồ trước cuộc thương khó sắp tới. Vì cuộc thương khó của Chúa là một thử thách rất lớn cho đức tin của các Tông Đồ.
Cùng với việc Ba vua thờ lạy Chúa, tiếng Chúa Cha phán khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, phép lạ nươc hóa thành rượu tại tiệc cưới Cana, việc Chúa biến hình hôm nay cũng là một sự kiện Chúa hiển linh:Chúa tỏ mình ra là Thiên Chúa.
Sự hiện diện của Elia và Mô-sê.
Sự hiện diện của hai nhân vật quan trọng của Cựu Ước, Môsê và Elia nói với ba Tông Đồ rằng Chúa Giêsu là chính Đấng mà các tiên tri đã loan báo. Sự hiện diện của hai nhân vật nầy cộng với sự kiện Chúa biến hình làm cho các Tông Đồ thấy rõ Ngài là Đấng Messia. Có lẽ nhờ chứng kiến sự kiện hiển linh trên nên và nghe tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con Ta yêu dấu”, mà sau nầy, khi Chúa hỏi các Tông Đồ: “Các con bảo Thầy là ai?, Phêrô liền tuyên xưng đức tin rằng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Khi đọc lại sự kiện Hiển Linh nầy, và dựa vào niềm tin của các Tông Đồ, chúng ta thấy niềm tin của mình vững vàng hơn, thấy Chuá là Thiên Chúa thật.
Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm.
Được chứng kiến cảnh tượng Chúa biến hình, ba Tông Đồ hết sức phấn khởi, và Phê-rô đại diện anh em, thưa với Chúa Giêsu như nói trong mơ rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm.” Họ muốn ở lại đó: “ở đây thì tốt lắm”, không muốn trở về thế gian nữa.
Nhưng để được chứng kiến cảnh huy hoàng và nếm cảm được bầu khí thiên đàng đó, các môn đệ đã phải khó nhọc trèo lên núi Tabo, một ngọn núi khá cao, và phải ở với Chúa Giêsu trên núi, và cầu nguyện với Ngài; bởi vì khi Chúa rút lui vào nơi thanh vắng, lên núi, vào sa mạc, là để cầu nguyện.
Khó nhọc trèo núi hôm nay là cố gắng vào cửa hẹp; ở với Chúa hôm nay là cầu nguyện, là nghe Lời Chúa, là rước lấy Chúa trong BT.Thánh Thể. Một khi chúng ta thực thi những điều đó cách nghiêm chỉnh thì chúng ta cũng sẽ được gặp Chúa, cũng sẽ được chứng kiến vinh quang của Chúa. Và khi ấy chúng ta cũng sẽ có một tâm tình như các Tông Đồ trên núi Tabo: “Lạy Thầy,chúng con được ở đây thì tốt lắm.”.
Họ chỉ thấy một mình Chúa Giêsu.
Sau khi đã củng cố niềm tin cho các Tông Đồ bằng sự kiện biến hình, Chúa Giêsu đem họ về với thực tại của trần gian. Cùng Ngài, họ xuống núi. Và Chúa Giêsu lại trở về với trạng thái cũ của Ngài, một con người bình thường và tầm thường là đằng khác. Nhưng kể từ đây, đối với các Tông đồ thì, đằng sau cái vỏ tầm thường ấy, ẩn dấu một kho tàng vĩ đại, Con Đấng Tối Cao. Họ giữ bí mật đó trong lòng, không dám nói ra.
Trong cuộc sống, có những cái không nên nói ra và không được nói ra, nếu không thì dễ mất, dễ tan vỡ, như tình yêu chẳng hạn. Một tình yêu càng kín đáo, như một bí mật của cuộc sống, lại càng mạnh liệt và sâu xa, và càng đẹp. Khi các thánh được ơn Chúa, họ ít tỏ ra bề ngoài, họ thường giữ kín trong lòng:”Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.”
Muốn thấy được vinh quang Phục sinh của Chúa Giêsu đã tỏ cho các môn đệ trên núi, muốn hưởng niềm vui của các Tông Đô trên núi Tabo, chúng hãy cùng nhau trèo lên núi với Chúa Giêsu, nghĩa là sống mùa chay thánh nầy một cách nghiêm túc trong đời sống sám hối và đền tội; cùng nhau ở với Chúa Giêsu, nghĩa là siêng năng nghe lời Chúa và rước lấy Chúa mỗi ngày.
Hãy biết bắt đầu lại.
Một thanh niên thấy cuộc sống mình bê bối, muốn sám hối ăn năn, đến gặp một linh mục và nói:
– Thưa cha, hôm nay con đến xin cha giúp con, con bê bối lắm nhưng con không biết bắt đầu từ đâu cả! Mười điều răn Đức Chúa Trời, sáu điều răn Hội Thánh, bảy mối toi đầu con đều phạm hết. Con nản quá! Bạn bè khuyên con, con trả lời rằng: Thôi đã lỡ phạm tội thì phạm cho hết mọi tội, xuống lót đáy hỏa ngục luôn. Nằm dưới đáy có lẽ đỡ nóng hơn lànằm hơ hơ trên ngọn lửa, nóng lắm! Nói thì nói thế cho vui, chớ con không yên tâm chút nào! Vị linh mục cười và nói:
– Cha lại thích mấy con cá bự, cá nhỏ ăn hoài chán rồi! Cả hai cha con cười xòa. Vị linh mục nói tiếp:
– Cha kể cho con một câu chuyện nhé: Một người con trai kia thất nghiệp, trở về nhà buồn bã. Người cha an ủi: Thôi con ơi, nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông thì nhất nông nhì sĩ; con trở lại với miếng ruộng của gia đình đi. Sáng mai con ra làm cỏ năm sào ruộng để mùa tới chúng ta sẽ xạ lúa. Người con nghe lời, sớm mai vác cuốc ra ruộng. Nhưng khi nhìn thấy đám ruộng mênh mông chỉ có cỏ với cỏ, anh ngán ngẩm, tìm một gốc cây nằm ngủ?
Người cha biết sự việc, không la rầy, ôn tồn nói với con: Mỗi ngày con làm cho cha chừng 20 mét vuông thôi, con làm được không?-Dạ ít vậy thì được. Và cứ như thế, chẳng bao lâu đám ruộng đã sạch cỏ.- Tâm hồn con bây giờ cũng như đám ruộng kia, đầy cỏ dại, nhưng con hãy bắt đầu đi, rồi con sẽ thấy kết quả. Rồi đây con sẽ còn sa ngã, nhưng cái quan trọng là luôn biết bắt đầu lại. Tội con Chúa đã tha rồi, Chúa chỉ đòi hỏi con cố gắng mà thôi. Mười năm sau đó, vào một buổi sáng đẹp trời, một tu sĩ bước vào nhà xứ và cúi đầu chào vị linh mục, rồi nói: cha còn nhớ con nữa không? Con là người cha đã chỉ cho cách làm cỏ cách đây khoảng mười năm.
53. Kiên nhẫn vượt qua
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có ai đó nói rằng: kiên nhẫn là chỗ dựa của thành công. Tài năng chỉ là xúc tác. Trên đời này có nhiều người có tài nhưng không thành công là do thiếu kiên nhẫn. Kiên nhẫn và dũng cảm là chìa khóa vạn năng đưa con người tới thành công.
Trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam cũng có những câu nhớ đời, ai đọc cũng phải suy ngẫm cho đến suốt đời, lúc nào cũng thấy đúng, đó là:
“Muốn no thì phải chăm làm, một hạt thóc vàng chín giọt mồ hôi”.
“Ở đời khôn khéo chi đâu, chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần”.
“Có công mài sắt có ngày nên kim”.
“Kiến tha lâu cũng đầy tổ”.
Có một chuyện ngụ ngôn kể rằng: Một hôm, bác nông dân có một chú lừa chẳng may bị lọt xuống một cái giếng cạn. Chú lừa tội nghiệp kêu la thảm thiết cả buổi mà bác chẳng biết làm cách nào đưa nó lên. Cuối cùng bác nông dân nghĩ ra cách đổ thêm cát vào giếng, thề là bác liền gọi hàng xóm giúp bác một tay.
Tất cả mọi người hè nhau lấy xẻng xúc cát đổ xuống giếng. Lúc đầu, chú lừa chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra với mình nên la hét khủng khiếp. Rồi bỗng dưng lừa ta im lặng khiến mọi người ngạc nhiên. Sau khi đổ đất được một hồi, bác nông dân nhìn xuống và kinh ngạc vô cùng trước những gì mình thấy: cứ một lớp đất đổ xuống lưng mình, nó giũ lớp cát xuống và giẫm chân lên. Khi mọi người tiếp tục đổ xuống đầu con vật, nó lại giũ lớp cát và giẫm chân lên một bước nữa. Cứ thế, cứ thế. Chẳng bao lâu con vật đã leo lên được thành giếng và bước ra ngoài trước sự sửng sốt của mọi người.
Cuộc đời luôn có khó khăn, nhưng lại luôn mở ra những lối đi để chúng ta vượt qua. Khó khăn nào cũng sẽ qua đi. Sau bóng đêm là ánh bình minh. Qua biến cố Chúa hiển dung, Ngài mời gọi chúng ta hãy can đảm đi vào thử thách với niềm tín thác vào Chúa. Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Thập giá là nhịp cầu đưa ta tới vinh quang Nước Trời. Chính Chúa Giê-su đã đi trước trên con đường thập giá. Chính Chúa đã đi qua thập giá để tiến vào vinh quang phục sinh.
Cuộc đời con người cũng là một hành trình đầy cam go và thử thách. Hãy xin Chúa cho ta được gặp gỡ thân tình với Chúa như các môn đệ trên núi Tabor để can đảm dấn thân vào cuộc sống. Năm xưa, trên núi Tabor Chúa Giêsu đã tỏ rõ dung nhan của một vì Thiên Chúa quyền năng. Ngài muốn dùng thứ ánh sáng từ trên núi cao ấy để chiếu rọi vào cuộc tử nạn mà Ngài sắp trải qua, để các môn đệ hiểu được “phải qua đau khổ mới tiến tới vinh quang”. Trên núi Tabor, Chúa Giê-su cho ba môn đệ nếm trước sự sống thần linh vinh quang của Chúa để thêm sức cho các ông, nhờ đó mà vượt qua những thập giá gian truân. Chính nhờ ánh sáng trên núi Tabor, sẽ giúp cho các ông can đảm đón nhận từng đớn đau, từng gian truân trong cuộc sống với tinh thần lạc quan, phó thác, chấp nhận và hân hoan.
Năm nay với chủ đề “đồng hành với gia đình khó khăn” như lời mọi gọi các gia đình đừng thất vọng, đừng buông xuôi. Hãy tin tưởng phó thách nơi Chúa. Hãy chạy đến với Chúa để thêm sức mạnh từ Ngài. Cuộc sống luôn có thập giá nhưng Chúa bảo phải qua đau khổ mới tới vinh quang. Đừng thất vọng than van trước khó khăn cuộc sống, nhưng hãy kiên nhẫn vượt qua. Đừng bi quan về những gì đang diễn ra chung quanh cuộc sống chúng ta, vì Chúa bảo sau đêm dài là ánh bình minh. Hãy can đảm đứng lên từ trong khó khăn vì phần thưởng chiến thắng đang chờ chúng ta phía trước. Hãy như con lừa biết trút bỏ mọi lo âu để tâm hồn được thảnh thơi, được nhẹ nhõm để bước đi trong thánh ý Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết đón nhận thập giá trong đời sống của mình với hai tiếng xin vâng. Xin cho chúng ta cùng đi với Chúa trong cuộc khổ nạn để mai sau cùng được chia sẻ vinh phúc trên quê trời. Amen.
54. Thập giá vinh quang – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một nhà vua đã hỏi các quan đại thần rằng:
– “Trong chiến trận thì cái gì cần nhất?”.
Một đại thần trả lời:
– Tâu bệ hạ, cần nhất là lòng dũng cảm.
Nhà vua liền hỏi:
– Thế còn sức mạnh và vũ khí? Nhà ngươi quên à?
Vị quan nói:
– Tâu bệ hạ, nếu người lính đã không có tinh thần dũng cảm thì sức mạnh và vũ khí của anh ta cũng chẳng giúp được tí gì.
Thực vậy, lòng dũng cảm sẽ giúp chúng ta vượt qua khó khăn. Lòng dũng cảm sẽ giúp chúng ta không bỏ cuộc trước nghi nan. Giữa giòng đời chúng ta đang sống đâu mấy khi bình yên! Sóng gió luôn làm cho cuộc đời đong đầy những nghi nan. Người không có lòng dũng cảm sẽ khó có cơ hội vươn lên. Người không có lòng dũng cảm sẽ bất lực buông xuôi mặc cho giòng đời đẩy đưa.
Những khó khăn, những thử thách theo ky-tô giáo chính là những thập giá trong cuộc đời. Thập giá cuộc đời như bóng với hình hòa quyện vào trong cuộc sống chúng ta. Thập giá trong bổn phận phải thi hành. Thập giá trong hy sinh từ bỏ những đam mê bất chính. Thập giá trong hy sinh để phục vụ anh em. Thập giá đôi khi đưa đến bất ngờ như những nghịch cảnh xảy đến trong cuộc đời. Thập giá quá nặng, nhưng sức người lại yếu đuối. Đó chính là một cám dỗ khiến chúng ta đôi khi muốn trốn chạy thập giá hay giũ bỏ để tìm sự nhàn rỗi cho bản thân.
Có lẽ, chính trong hành trình đầy cam go của giòng đời này. Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabor. Chúa Giêsu đã tỏ rõ dung nhan của một vì Thiên Chúa quyền năng. Ngài muốn dùng thứ ánh sáng từ trên núi cao ấy để chiếu rọi vào cuộc tử nạn mà Ngài sắp trải qua, cũng như chính nỗi hoang mang lo sợ của các môn đệ khi Ngài loan báo cái chết… Đau khổ làm cho con người sợ hãi, nhưng Chúa bảo “phải qua đau khổ mới tiến tới vinh quang”. Cái chết đó là nỗi sợ hãi tột cùng của con người. Nhưng Chúa bảo đừng sợ, vì sau ba ngày chôn cất trong mồ Ngài sẽ sống lại. Vì Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống. Nơi Ngài có sự sống đời đời. Trên núi Tabor, Chúa Giêsu cho ba môn đệ nếm trước sự sống thần linh vinh quang của Chúa để thêm sức cho các ông, nhờ đó mà vượt qua những thập giá gian truân. Chính nhờ ánh sáng trên núi Tabor, sẽ giúp cho các ông can đảm đón nhận từng đớn đau, thử thách trong cuộc sống với tinh thần lạc quan, phó thác, chấp nhận và hân hoan.
Cuộc đời luôn có khó khăn, nhưng lại luôn mở ra những lối đi để chúng ta vượt qua. Khó khăn nào cũng sẽ qua đi. Sau bóng đêm là ánh bình minh. Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm đi vào thử thách với niềm tín thác vào Chúa. Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Thập giá là nhịp cầu đưa ta tới vinh quang Nước Trời. Chính Chúa Giêsu đã đi trước trên con đường thập giá. Chính Chúa đã đi qua thập giá để tiến vào vinh quang phục sinh. Chính Chúa vẫn đang chờ đợi để trao phần thưởng Nước Trời cho những ai trung tín theo Ngài.
Người ta kể rằng: Một hôm, có một bác nông dân có một chú lừa chẳng may bị lọt xuống một cái giếng cạn. Chú lừa tội nghiệp kêu la thảm thiết cả buổi mà bác chẳng biết làm cách nào đưa nó lên. Cuối cùng bác nông dân nghĩ rằng chú lừa đã già lắm rồi, thôi thì đành lấp giếng đi vậy. Hơn nữa, một con lừa cũng chẳng đáng bao nhiêu. Nghĩ thế bác liên gọi hàng xóm giúp bác một tay.
Tất cả mọi người hè nhau lấy xẻng xúc cát đổ xuống giếng. Lúc đầu, chú lừa hiểu chuyện gì đang xảy ra với mình nên la hét khủng khiếp. Rồi bỗng dưng lừa ta im lặng khiến mọi người ngạc nhiên. Sau khi đổ đất được một hồi, bác nông dân nhìn xuống và kinh ngạc vô cùng trước những gì mình thấy: cứ một lớp đất đổ xuống lưng mình, nó giũ lớp cát xuống và giẫm chân lên. Khi mọi người tiếp tục đổ xuống đầu con vật, nó lại giũ lớp cát và giẫm chân lên một bước nữa. Cứ thế, cứ thế. Chẳng bao lâu con vật đã leo lên được thành giếng và bước ra ngoài trước sự sửng sốt của mọi người.
Cát bụi cuộc đời luôn đổ xuống trên chúng ta, như muốn nhậm chìm cuộc đời chúng ta. Nhưng vẫn còn có một cách để thoát khỏi chúng là giũ bỏ lớp cát và bước lên chúng mà đi. Bởi đâu ai muôn mình mãi là chú lừa mắc cạn mãi đâu! Cuộc sống luôn có thập giá nhưng Chúa bảo phải qua đau khổ mới tới vinh quang. Đừng thất vọng than van trước khó khăn cuộc sống, nhưng hãy kiên nhẫn vượt qua. Đừng bi quan về những gì đang diễn ra chung quanh cuộc sống chúng ta, vì Chúa bảo sau đêm dài là ánh bình minh. Hãy can đảm đứng lên từ trong khó khăn vì phẫn thưởng chiến thắng đang chờ chúng ta phía trước. Hãy như con lừa biết trút bỏ mọi lo âu để tâm hồn được thảnh thơi, được nhẹ nhõm để bước theo Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết đón nhận thập giá trong đời sống của mình với hai tiếng xin vâng. Xin cho chúng ta cùng đi với Chúa trong cuộc khổ nạn để mai sau cùng được chia sẻ vinh phúc vinh quang trên trời. Amen.
55. Thích khoe của – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Mùa chay chúng ta thường nói đến ba việc đạo đức không thể thiếu là ăn chay, cầu nguyện, và làm việc bác ái. Ba việc này giúp con người yếu đuối có dịp đền bù tội lỗi bằng hy sinh hãm mình trong chay tịnh để diệt trừ tính hưởng thụ, nuông chiều tính xác thịt, cùng cầu nguyện để trông cậy ơn Chúa giúp sửa bỏ lỗi lầm, nhất là biết làm việc bác ái để đền bù những lỗi công bằng bác ái với tha nhân.
Đây là việc tốt, việc nên làm, nhưng đáng tiếc nhiều người lại làm nhưng thiếu lòng sám hối chân thành. Dường như họ chỉ làm để phô trương việc danh thế nhiều hơn là vì muốn thăng tiến bản thân.
Đây là căn bệnh thành tích mà ngày nay người ta nói nhiều hay nói đến. Thích hoành tráng mà không cần cốt lõi. Thích khoe khoang bản thân mà sẵn sàng phung phí tiền của bừa bãi. Họ là loại người mà dân gian gọi là người thích phô trương.
Có thứ phô trương do sĩ diện, do tâm lý “con gà tức nhau tiếng gáy” và để thích “oai”, thích “oách” hơn người. Nhưng cũng có thứ phô trương nhằm mục đích trục lợi được ẩn hiện dưới nhiều hình thức hết sức kín đáo ngay cả trong việc bác ái, từ thiện…
Thói phô trương, huênh hoang đã trở thành một nhu cầu, một thói quen trong cuộc sống của họ đến mức không khoe những việc mình làm thì không thể nào chịu được. Việc nhỏ họ cũng khoe. Việc lớn càng khiến họ đánh bóng tên tuổi mình. Dường như khoe khoang phô trương là cách họ thỏa mãn tính tự cao tự đại của họ.
Có anh chàng tính hay khoe khoang. Một hôm, may được cái áo mới, liền đem ra mặc, rồi đứng hóng ở cửa, đợi có ai đi qua để người ta khen. Đứng mãi từ sáng đến chiều chả thấy ai hỏi cả, anh ta tức lắm.
Đang tức tối, chợt thấy một anh, tính cũng hay khoe, tất tưởi chạy đến hỏi to:
– Bác có thấy con lợn cưới của tôi chạy qua đây không?
Anh kia liền giơ ngay vạt áo ra, bảo:
– Từ lúc tôi mặc cái áo mới này, tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả!
Đây là truyện cười “Lợn cưới áo mới” trong kho tàng văn học Việt Nam. Cha ông ta muốn mượn tình huống hài hước, khoe khoang của hai người đàn ông để phản ánh và chế giễu những người có lối sống khoe của một cách quá trớn, khoe không có điểm dừng và không khéo léo. Hai anh khoe của chạm trán nhau, họ rất tự nhiên bộc lộ bản tính của mình nhưng dẫu thế nào cũng không giấu được thói khoe của, khoác lác đến lực cười, đến lố bịch. Câu chuyện là một bài học đầy ý nghĩa cho chúng ta trong cuộc sống.
Khởi đầu Mùa Chay Chúa Giê-su cũng nhắc chúng ta cần phải có tâm tình khiêm nhường trong các hành vi đạo đức. Làm việc đạo đức không phải để khoe khoang mình sốt sắng hơn người khác. Việc đạo đức của mình không phải để dạy người khác hay để đánh bóng tên tuổi mình. Việc đạo đức chúng ta làm là vì mến Chúa và mong muốn hoàn thiện mình mỗi ngày một tốt hơn.
Thế nên, sự sám hối chân thành là nhìn nhận sự yếu đuối của mình để đề ra phương thế canh tân đời sống qua 3 việc cụ thể là: ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái. Đây là việc đại đức để mình đẹp lòng Chúa hơn chứ không phải để mình được người khác khen thưởng tán dương.
Xin cho mùa chay thánh được sinh hoa kết trái tốt trong đời sống của chúng ta nhờ những việc lành phúc đức mà chúng ta làm vì lòng yêu mến Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta hoàn thiện mình mỗi ngày tốt hơn qua việc hy sinh chay tịnh, cầu nguyện và bác ái. Amen.
56. Lạc Chúa ở đâu? – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Một người hàng xóm nhìn thấy bạn mình quì gối và chống tay tìm kiếm vật gì đó ngoài sân. Ông lên tiếng hỏi:
– Ông bạn ơi! Ông đang kiếm gì đó?
– Tôi kiếm chìa khóa của tôi.
Cả hai người cùng quì gối để kiếm. Sau khi tìm kiếm một lúc lâu mà không thấy, người hàng xóm lên tiếng hỏi:
– Ông đã mất chìa khóa ở đâu?
– Ở trong phòng khách nhà tôi.
– Chúa ôi! Vậy tại sao ông lại tìm kiếm ở ngoài sân?
– Bởi vì ở đây sáng sủa hơn.
Kinh nghiệm cho thấy cái gì đã mất thì tìm lại rất khó. Cái để quên thì dễ tìm thấy, còn cái đã bị lấy đi khó mà tìm lại được. Cái lãng quên còn cơ hội tìm lại được, còn cái đã trao đổi khó mà hoàn lại được.
Không biết có mấy ai biết rằng mình còn Chúa hay đã mất? Mình lãng quên Chúa vì mải mê công việc hay đã vì danh lợi thú mà bán Chúa để có bổng lộc trần gian? Chúng ta đang ở trong ân sủng với Chúa hay đã trao linh hồn mình cho ma quỷ thống lĩnh mà xa rời Chúa.
Nếu phải tìm lại Chúa thì chúng ta phải bắt đầu tìm ở đâu? Chúng ta đã lạc mất Chúa từ khi nào và trong hoàn cảnh nào?
Phải bắt đầu tìm lại Chúa ngay chỗ mình đã bỏ Chúa mới mong tìm lại được. Nếu không biết lạc Chúa ở đâu thì cuộc tìm kiếm sẽ uổng phí như người đàn ông tìm chìa khóa ngoài ngõ chỉ vì nơi đó sáng hơn.
Vâng, có những người đã lạc mất Chúa khi tìm danh vọng trần gian. Có người bỏ Chúa vì đắm chìm trong sắc dục. Có người thờ ơ với Chúa vì họ đã tôn thờ bạc tiền. Họ đã chọn thụ tạo là danh lợi thú mà lạc xa tình Chúa.
Mỗi năm vào Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi các tín hữu hãy cùng với Đức Giêsu lên núi cao để chịu thử thách, để được tôi luyện … Và hãy lên núi cao để gặp gỡ Chúa và sống thân tình với Ngài. Chính giây phút riêng tư này sẽ giúp chúng ta nhìn lại tương quan của chúng ta với Chúa còn hay đã mất?
Các môn để đã trải nghiệm những giây phút thật hạnh phúc bên Chúa ở trên núi. Các ngài đã ngất ngây khi chiêm ngắm dung nhan thật của Chúa. Biết Chúa thật là Thiên Chúa và được ở bên Chúa là hạnh phúc vô biên.
Sự hiển dung của Chúa Giê-su dành cho các môn đệ khiến các ông dám đánh đổi mọi sự để được ở bên Chúa. Ước gì chúng ta có đủ niềm tin vào sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa trong cuộc đời chúng ta. Niềm tin vào Thiên Chúa hằng sống sẽ giúp chúng ta chọn Chúa hơn là những danh lợi thú trần gian. Niềm tin ấy giúp chúng ta can đảm vượt qua mọi thử thách để đi theo Chúa tới đỉnh đồi Calve.
Lạy Chúa, khi mang thân phận yếu đuối con người, con luôn luôn phải đối diện với những cơn cám dỗ thật ngọt ngào và hấp dẫn, con không đủ sức để vượt qua những níu kéo mời gọi đang bủa vây trong cuộc đời. Xin cho con cảm nghiệm được sự hiện diện ngọt ngào của Chúa để con nói không với tội lỗi hầu luôn trung thành với Chúa mãi đến cùng. Amen.
57. Hãy hiển dung hình ảnh Chúa cho anh em
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cái quý nhất của con nguời là được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Cái hạnh phúc lớn nhất của con người là gìn giữ nét đẹp cao qúy đó nơi phẩm giá làm người của mình. Và điều cần thiết nhất để có một cuộc sống tốt với mọi ngừơi là nhận ra tha nhân cũng chính là hình ảnh của Thiên Chúa.
Thế nhưng, nhiều người đã phủ nhận điều cao qúy nơi phẩm giá làm người của mình. Họ không tin rằng có Thiên Chúa. Họ chối từ sự sống thần linh mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Từ đó người ta cũng không lo gìn giữ cái đẹp của phẩm giá làm người của mình. Họ chỉ thấy con người là một loài vật có ăn có uống. Thế giới của họ là một thế giới mạnh thắng, yếu thua, và “cá lớn nuốt cá bé”. Họ không nhận ra sự liên đới giữa người với người đều là hình ảnh Thiên Chúa, cần phải tôn trọng và sống tốt với nhau. Con người đã tự khước từ phẩm giá cao qúy là hình ảnh Thiên Chúa nên cũng dễ dàng từ khước nhau và đầy đoạ lẫn nhau. Thế giới vẫn đầy những bất công và hận thù. Con người vẫn vì những tham sân si mà làm hại lẫn nhau.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.
Một lần kia nó nói với sư tử rằng:
-Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: “Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó”. Thằng cha này không coi ai ra gì cả!
Sư tử tức giận và bảo rằng: “Thế mày có nhắc đến tên tao không?”
-Thỏ trả lời: Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.
Sư tử càng tức điên người lên và hỏi: Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.
Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!
Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu…
Thất bại của sư tử là không nhận ra mình nên đã lao vào cắn xé chính hình ảnh của mình. Sư tử chỉ muốn nhất. Sư tử chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn sàng loại trừ tất cả các đối thủ có nguy cơ nguy hại đến vị trí số 1 của mình.
Nếu con người của mọi thời đại biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ muốn làm chúa sơn lâm nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại.
Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.
58. Con đường của mọi thăng hoa biến thái
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Phêrô đã tuyên xưng, đã công khai xác nhận Đức Giêsu là Đấng Messia. Đức Giêsu biết rõ niềm tin vào Đấng Messia có thể tự nhiên phát sinh thế nào trong tâm trí các tông đồ, các ông dễ sa vào nguy cơ trông đợi nơi Chúa một vương quốc thần kỳ, dẫu theo chế độ giáo quyền nhưng sẽ thiết lập trên thế gian. Phêrô, Giacôbê và Gioan được Chúa mời gọi cùng đi với Người đến nhà ông Jairô, sau này Chúa cũng mời gọi họ làm chứng nhân -nhưng than ôi, là những chứng nhân bị động– để tận mắt thấy Chúa trong cơn hấp hối tại vườn Cây Dầu. Chúa muốn mạc khải cho ba ông biết công cuộc cứu độ của Người sẽ hoàn tất thế nào. Người sẽ được quang vinh nhưng chỉ sau khi sống lại, trước đó chúa phải vượt qua giai đoạn đau khổ và chết. Chúng ta ghi nhận, thánh Luca mô tả sự biến hình của Chúa không phải do tác dụng một nguồn sáng từ bên ngoài thấm vào cơ thể Chúa, nhưng là do một thực tại từ bên trong tràn ra, toả ra ngoài. Dung nhan Chúa ra khác. Ba môn đệ lúc đó mi mắt nặng trĩu trong cơn thèm ngủ, nghe thấy Chúa đàm đạo với hai tiên tri Môsê và Êlia, nhưng không đủ tỉnh để có phản ứng. Các ông sửng sốt thấy Chúa sáng láng giữa Môsê và Êlia. Như tỉnh như mê, Phêrô đề nghị dựng ba căn lều. Ý Chúa rõ rệt là muốn cho ba môn đệ ý thức có một liên hệ giữa đau khổ và chết với sống lại và vinh quang. Chừng nào tới ngày thương khó, các ông dĩ nhiên sẽ hoang mang bối rối nhưng không thể quên lời Chúa hứa, các ông sẽ không đến nỗi hoàn toàn tuyệt vọng…
Chúng ta chú ý đến tiếng phán từ đám mây: “Người là Con Ta, kẻ Ta đã chọn, các ngươi hay nghe lời Người”.
1) Phẩm vị của Đức Giêsu được mạc khải. Đấng Messia đến thực thi những điều mà lề luật và các ngô sứ Môsê và Êlia tiên báo. Người là Chúa Con, kẻ được chọn, được Chúa Cha rất mực yêu dấu. Dường như ngay từ lúc đó Chúa Cha muốn chữa lành đau khổ của thế gian bằng đau khổ của Chúa Con. Muốn trông thấy vinh hiển của vũ trụ qua vinh hiển của Chúa Con. Thiên Chúa nhìn đau khổ và cái chết của chúng ta qua đau khổ và cái chết của Đức Giêsu, nghĩa là hứa cho chúng ta sẽ được sống lại và cứu rỗi. Về phần mình, chúng ta nhìn Thiên Chúa qua thiên tính rất hiền dịu của Đức Giêsu.
2) Các ngươi hãy nghe lời Người… và chỉ rao giảng về Người. Sứ điệp gửi đến nhân loại phải là dư âm lời của Đức Giêsu mới có giá trị. Thiên Chúa đòi hỏi một điều quá khó, cho nên nghe Lời Chúa có thể là rất khó, mang Lời Chúa đến cho người khác còn khó hơn. Chẳng ai muốn nghe nói đến đau khổ chết chóc xảy đến cho mình hay cho kẻ khác, dẫu phía sau cái chết có một niềm hy vọng. Tuy nhiên ý nghĩa bí tích thanh tẩy là gì, nếu chẳng là cùng với Chúa chết và sống lại? Tham gia vào cuộc Vượt qua kéo theo những hệ quả rõ rệt là xác định vị trí người Kitô hữu như là một dấu chỉ của sự mâu thuẫn. Dẫu sao, tín đồ nào của Đức Kitô chấp nhận sứ điệp tới cùng, nghe tới cùng, người ấy cũng là một con người đôi phen được thăng hoa biến thái.
59. Qua thập giá đến vinh quang.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Năm 1982, các nữ tu Dòng Con Đức Bà Phù Hộ, quen gọi là Dòng nữ Salêsiên ở Cáp bên Haiti, muốn thuê nhà điêu khắc Pêrikhêt làm một cây thánh giá lớn để đặt trong nhà thờ mới của các chị. Nhưng lúc đó, ông Pêrikhêt đã bị ung thư nặng.
Các chị nhờ một nữ tu cùng dòng đến gặp nhà điêu khắc để nói về ý định này. Hôm đó viên bác sĩ của ông cũng có mặt, ông nói với chị nữ tu:
– Lẽ ra chỉ phải đến đây sớm hơn. Rất tiếc là bây giờ căn bệnh ung thư của ông Pêrikhêt đã quá nặng rồi. Im một lát, bác sĩ quay sang nói với nhà điêu khắc:
– Ông là người có đức tin, vậy ông cứ tiếp tục hy vọng dù có điều gì xảy ra đi nữa.
Từ ngày đó, nhà điêu khắc Pêrikhêt chẳng muốn cầm bút để rèn tác phẩm nghệ thuật nào nữa.
Vài ngày sau, một nữ tu lại đến gặp ông và năn nỉ:
– Ông Giovani Pêrikhêt à, các nữ tu ở nhà thờ mới tại Cáp mong muốn ông làm cho các chị ấy một cây thánh giá thật đẹp, dài hai mét. Họ biết tài năng của ông mà. Trước khi trả lời dứt khoát cho họ, tôi muốn hỏi ý kiến ông một lần nữa.
Nhà điêu khắc trầm ngâm suy nghĩ và cầu nguyện, rồi ông bình thản nói với chị nữ tu:
– Tôi xin nhận lời. Cây thánh giá này sẽ là tác phẩm cuối cùng, tôi sẽ làm cây thánh giá nầy để chuẩn bị chết, và xin Chúa thương xót tôi.
Thế là nhà điêu khắc bắt tay vào công việc với tất cả tâm hồn của một người mong gặp được Chúa Giêsu. Đây thật là một công việc nặng nhọc vì bệnh tình của ông. Nhưng ông cảm thấy một điều thật lạ lùng, mỗi nhát búa đập trên thanh sắt nóng đỏ, thay vì làm cho ông mệt mỏi thêm, thì lại làm cho ông cảm thấy như được bồi dưỡng sinh lực trở lại. Ông tiếp tục làm việc ngày qua ngày, và khi ông hoàn thành cây thánh giá thật đẹp, ông cảm thấy như khoẻ hẳn. Chúa Giêsu đã giải thoát ông khỏi căn bệnh quái ác.
Ngày nay, cây thánh giá do ông thực hiện vẫn còn được treo ở nhà thờ thánh phố Cáp và tiếp tục thu hút nhiều tín hữu: người lành mạnh cũng như kẻ yếu đau đến kính viếng thường xuyên.
Anh chị em thân mến,
Nhà điêu khắc Giovani Pêrikhêt tưởng rằng cây thánh giá ở nhà thờ thành phố Cáp ấy sẽ là tác phẩm cuối cùng. Ông dùng cây thánh giá ấy để chuẩn bị chết. Nhưng với niềm tin và lòng hăng say rèn cây thánh giá, Pêrikhêt đã được Chúa thương cách đặc biệt và chữa cho khỏi bệnh ung thư. Đó là hình ảnh ơn cứu độ mà Thánh giá Chúa Kitô đã, đang và sẽ còn đem đến cho nhân loại. Chính vì để củng cố niềm tin của chúng ta vào ơn cứu độ và niềm hy vọng vào sự sống vinh quang ngang qua mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô, mà hằng năm, vào Chúa Nhật 2 Mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội cho nghe bài đọc Tin Mừng tường thuật cuộc biến hình vinh quang của Chúa Giêsu, nhờ đó người Kitô hữu ý thức rằng sự Chết và Phục Sinh, thập giá và vinh quang là hai mặt của cùng một thực tại cứu độ không thể tách rời nhau. Vinh quang mà không có khổ nạn chỉ là vinh quang của thế tục, sẽ nhạt nhoà theo năm tháng; ngược lại, khổ nạn mà không có vinh quang thì vô nghĩa và là một thất bại hoàn toàn. Do đó, sống tinh thần Mùa Chay có nghĩa là gắn bó chặt chẽ với cái Chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô: chết đi cho con người cũ và tội lỗi, chết đi cho con người đối nghịch với Thập giá để cùng sống lại với Đức Kitô, Đấng có thể “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Bđ. 2)/
Đây chính là một quá trình lột xác đầy gian khổ nhưng cũng tràn ngập vinh quang mà sự kiện Chúa biến hình được gợi lại trong Chúa nhật hôm nay, đã trở nên như một lời loan báo và một lời động viên khích lệ tín hữu. Loan báo điểm tới là Phục Sinh đang ở phía trước, đồng thời động viên khích lệ người Kitô hữu hãy can đảm tiếp tục cuộc hành trình dù lắm gian nan.
Để có thể trung thành bước theo con đường Chúa Giêsu đã sống và vạch ra, người Kitô hữu không thể coi nhẹ hay dửng dưng với tâm tình cầu nguyện. Chính trong giây phút cầu nguyện, chìm sâu trong cuộc gặp gỡ ân tình với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã đón nhận kế hoạch cứu độ của Cha như lẽ sống của đời mình, đây cũng là lúc Ngài biến hình vinh quang; được tỏ lộ khi Ngài chấp nhận cái chết như một phương thế tuyệt hảo để tỏ lòng vâng phục Cha và yêu thương nhân loại đến nỗi hiến dâng chính mạng sống mình. Vì thế, trong cuộc sống còn lắm vất vả bon chen và không hề thiếu vắng những cạm bẫy thử thách hôm nay, chỉ có sự chuyên cần cầu nguyện, thường xuyên đón nhận ánh sáng soi dẫn, và sức mạnh đỡ nâng của Chúa, người Kitô hữu mới thoát khỏi sự hoang mang sợ hãi hay trạng thái mê ngủ, trốn tránh thực tại trần thế với những bổn phận và trách nhiệm phải thi hành. Đành rằng quê hương vĩnh cửu ở trên trời nhưng đường lên trời lại khởi đi từ mặt đất, từ chính cuộc sống mà chúng ta phải xây dựng và làm cho phát triển mỗi ngày.
Anh chị em thân mến,
Một khi đã chiêm ngưỡng Đức Giêsu Kitô trên núi biến hình như Phêrô, Giacôbê và Gioan rồi, thì việc còn phải làm là đi theo Ngài trên con đường khiêm tốn phục vụ anh em và không vắng mặt trên các nẻo đường tiến lên đỉnh Golgotha, những nẻo đường đau thương và tử nạn thập giá với Ngài, với niềm xác tín rằng Đức Kitô Phục Sinh sẽ chia sẻ vinh quang cho các tín hữu trung thành.
Ước gì Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa chúng ta lãnh nhận trong thánh lễ hôm nay sẽ bổ sức, giúp chúng ta mạnh mẽ bước vào lòng đời để sống cho Chúa và hiến mạng vì anh em trong một cuộc sống lắm hy sinh gian khổ, nhưng cũng không kém vinh quang, vinh quang thấp thoáng hôm nay sẽ bộc lộ trọn vẹn mai sau.
60. Chúa biến hình – McCarthy
Suy Niệm 1. THOÁNG HIỆN CỦA VINH QUANG
Trên Núi Tabo, ánh sáng của Thiên Chúa toả ra từ cơ thể của Đức Giêsu, và Người được biến hình. Cả ba Tông đồ đều loá mắt trước vẻ đẹp và sự chói chang của ánh sáng này. Ánh sáng này không ở trên bề mặt, nhưng chiếu toả ra từ bên trong. Nói tóm lại, Thiên Chúa ở trong Đức Giêsu.
Chúng ta cũng có nét rạng ngời của thần tính nơi chúng ta, bởi vì chúng ta được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa. Do đó, chúng ta cũng có thể có những giây phút biến bình. Van Gogh nói “Người tiều phu hoặc thợ mỏ nghèo nàn nhất, vẫn có thể có những giây phút đầy xúc động và cảm hứng, giúp cho người đó được một cảm giác về một quê hương vĩnh cửu, mà họ đang ở gần”.
Có một người nghèo khổ đang sinh sống ở một trại tế bần, dành cho những kẻ vô gia cư ở Dublin, đã kể lại câu chuyện sau đây: Ngày kia, anh ta đang đi bộ dọc theo một con đường ở Dublin. Đến một lúc nào đó, anh phát hiện ra rằng mình đang ở bên ngoài một nhà thờ. Trước khi nhận ra điều này, thì anh đã ở bên trong đó rồi. Anh không thể nhớ lại được rằng mình có đọc bất cứ lời cầu nguyện nào hay không. Nhưng linh hồn của anh được tràn ngập ánh sáng. Nỗi phiền muộn của anh được cất đi, và một sự bình an đến với anh. Sau đó, anh mới cảm thấy rằng mình thuộc về trái đất này. Anh cảm thấy gần gũi với Thiên Chúa, và được Người yêu thương.
Dường như cảm nghiệm này diễn ra được một lúc lâu, tuy nhiên, anh vẫn có cảm giác rằng có thể nó chỉ kéo dài trong vài phút. Nhưng anh nói rằng anh sẵn sàng vui mừng dùng cả cuộc đời của anh, để đổi lấy vài giây phút đó. Điều làm cho cảm nghiệm này quá tuyệt vời đến thế, là do anh nhận ra rằng mình tuyệt đối không hề xứng đáng được như vậy. Đó thuần tuý là do ân sủng của Thiên Chúa đối với anh. Trong một giây phút ngắn ngủi, anh cảm nếm được vinh quang.
Tuy nhiên, sau giây phút đó kết thúc, một lần nữa, anh nhận thấy mình lại đang ở trên những con đường, và cứ đi dọc theo đó một cách vô định, giống như lúc trước. Những hiệu quả của cảm nghiệm đó mờ nhạt đi. Mặc dù anh đã trở lại ngôi nhà thờ đó nhiều lần, nhưng anh không bao giờ có thể tìm lại được giây phút ấy.
Người đàn ông vô gia cư kia mong muốn duy trì được cảm nghiệm đó. Anh ta cứ muốn quay trở lại, thay vì tiến lên phía trước, tuy anh ta vẫn có thể sử dụng cảm nghiệm vừa qua, để soi sáng cảnh tối tăm trong cuộc đời anh, và tiến lên phía trước một cách đầy hy vọng và can đảm hơn.
Phêrô cũng phạm phải cùng một khuyết điểm đó. Ông cứ muốn được ở lại trên đỉnh núi, muốn được khư khư giữ lấy ân sủng của cảm nghiệm này. Ông không muốn quay trở lại với cuộc sống hằng ngày và những thứ thông thường nữa, nhưng cứ muốn được mãi mãi ở lại trên vùng đất đầy niềm say mê phấn khích đó. Nhưng Đức Giêsu đã kêu gọi ông xuống núi, và đối diện với tương lai. Cảm nghiệm này không có ý tạo ra một sự trốn thoát khỏi cuộc đấu tranh đang nằm ở phía trước, nhưng là để giúp Người sẵn sàng đương đầu với cuộc đấu tranh đó. Giây phút đầy ánh sáng, là để giúp Người đương đầu với giây phút đầy bóng tối.
Tuy nhiên, rõ ràng là có một điều gì rất tuyệt vời của ngày hôm đó vẫn còn ở lại với Phêrô, và soi sáng cuộc sống của ông, bởi vì nhiều năm sau, ông đã viết “Chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người… khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến” (2P 1,17-18).
Chúng ta cũng có thể cảm nghiệm được những giây phút đầy ánh sáng và niềm vui hiếm hoi đó. Chúng ta đã được thoáng nhìn thấy miền đất hứa, mà chúng ta đang hướng tới trong lòng tin. Trong tình yêu dành cho chúng ta, Thiên Chúa cho phép chúng ta cảm nếm được ngay tại thế này, về những niềm vui của thế giới sắp tới. Nhưng chúng ta được ban cho những giây phút biến hình này, để củng cố chúng ta trong những bổn phận hằng ngày, và để mang lại cho chúng ta khả năng để đương đầu với thánh giá sẽ đến với từng người, dưới những hình thức hoặc hình dạng khác nhau. Giây phút vinh quang không tồn tại vì mục đích riêng của nó. Giây phú này tồn tại để khoác lên cho những sự vật thông thường một vẻ chói sáng, mà trước đây chúng chưa bao giờ có.
Lời cầu nguyện và đạo giáo không phải là sự trốn thoát, mà là những phương tiện để giúp đỡ chúng ta đương đầu với cuộc sống, với tất cả những khó khăn và thử thách của nó, để chúng ta nắm giữ được những giây phút cao cả lẫn thấp hèn của cuộc đời, cả đỉnh đồi cao lẫn tận dưới hố sâu.
Suy Niệm 2. GIAO ƯỚC
Có sự khác biệt lớn giữa Giao Ước và hợp đồng. Giao Ước thì dựa trên tình yêu thương và sự thân thiện, trái lại, hợp đồng là một sự sắp xếp công việc kinh doanh một cách chặt chẽ. Xã hội của chúng ta không còn có nhiều Giao Ước nữa, nhưng hầu hết mọi việc thường được xúc tiến bằng hợp đồng. Hợp đồng bị vi phạm, và mất đi sức mạnh ràng buộc của nó, khi một trong hai bên đối tác không thực hiện được phần việc của mình, theo như đã thương lượng với nhau. Thiên Chúa không ký kết hợp đồng với con người; nhưng người đã thực hiện một Giao Ước với chúng ta.
Thiên Chúa là Thiên Chúa của sức mạnh. Nhưng Người cũng là Thiên Chúa của tình yêu và lòng thương xót. Trong cách cư xử với chúng ta, Thiên Chúa chọn lựa đi theo con đường của tình yêu, hơn là con đường của sức mạnh. Thiên Chúa muốn được chúng ta yêu mến, chứ không phải là sợ hãi. Nếu bạn yêu mến một người nào đó, bạn nhường chỗ cho người đó, và tạo cho họ có quyền được là chính bản thân họ. Nếu bạn muốn có quyền lực trên người nào, thì bạn cứ cố gắng kiểm soát người đó, và buộc họ phải làm theo ý thích của bạn, mặc dù họ muốn hoặc không muốn. Nhưng bạn không thể đồng thời vừa yêu thương vừa sử dụng quyền lực, hai yếu tố này xung khắc với nhau.
Để yêu và được yêu, Thiên Chúa phải ban cho chúng ta phạm vi để chọn lựa. Người không thể giành lấy tất cả mọi quyền lực, và không để lại chút gì cho chúng ta. Giao Ước giữa Thiên Chúa và nhân loại phải có gì nhiều hơn là chủ đề về một Thiên Chúa toàn năng ban bố Lề Luật. Đây phải là sự thoả thuận một cách tự do giữa hai bên đối tác tự do.
Nếu chúng ta vâng phục Thiên Chúa, bởi vì chúng ta e sợ Người, bởi vì quá bị quyền lực của ngài áp đảo, đến nỗi chúng ta không dám phản kháng, thì Người chỉ có sự vâng phục của chúng ta, chứ không có được tình yêu của chúng ta.
Bài đọc 1 nói về Giao Ước long trọng mà Thiên Chúa đã thực hiện với Ápraham. Sau câu chuyện cuộc sáng tạo, đây là giây phút chủ yếu rong Cựu Ước. Có thể nói rằng câu chuyện cứu độ của chúng ta được bắt đầu ở đây. Thiên Chúa không từ bỏ dân tộc đã bị sa ngã của Người, nhưng thông qua Ápraham, Người đã đi vào một tương quan đặc biệt với họ. Mối tương quan này không giống như mối tương quan tồn tại giữa các bên đối tác trong kinh doanh, mà tương tự như mối tương quan tồn tại giữa vợ chồng. Có thể tóm tắt mối tương quan này trong một công thức, đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Cựu Ước: “Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi”.
Không phải Ápraham, mà là chính Thiên Chúa, đã đi bước đầu trong mối tương quan này. Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc và nguyên vẹn. Người cũng hứa rằng dòng dõi của ông sẽ có một vùng đất riêng của họ, và nói rằng thông qua ông, tất cả các dân tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc, bởi vì Đấng Mêsia sẽ đến từ dòng dõi của ông.
Mặc dù con người đã vi phạm Giao Ước của Thiên Chúa, nhưng Người vẫn không từ bỏ họ. Thay vào đó, thông qua Con của Người, Đức Giêsu Kitô, Người đã tự ràng buộc mình vào gia đình nhân loại một cách gần gũi hơn, bằng một sự ràng buộc không bao giờ có thể bẻ gãy được.
Lời hứa của Thiên Chúa với Ápraham đã được nên trọn nơi Đức Giêsu. Chính thông qua Người, mà tất cả các dân tộc trên trái đất đều được chúc phúc. Đức Giêsu đã hàn gắn lại Giao Ước bằng chính máu của Người. Thông qua Người, chúng ta được gần gũi hơn bao giờ hết với Thiên Chúa. Chúng ta không chỉ là dân Thiên Chúa, mà còn là những con trai và con gái của Người, chúng ta thuộc về gia đình của Người.
Đức Giêsu là người đứng đầu trong Dân Tộc mới của Thiên Chúa. Vùng đất mà Người đang đưa dẫn chúng ta hướng tới không phải là vùng đất nào đó ở trên trái đất, nhưng là vùng đất của sự sống đời đời.
CÂU CHUYỆN KHÁC: Tabo và Canvê
Không có gì lạ lùng khi sự biến hình của Đức Giêsu diễn ra trên một đỉnh một ngọn núi có một nét gì đó, nó mang lại cho chúng ta một tầm nhìn rộng rãi hơn và bao trùm lên tất cả. Ngọn núi cũng giúp chúng ta nhìn thấy khuôn mẫu của các sự việc, và đặt chúng vào một viễn cảnh. Ngọn núi còn nâng tâm hồn chúng ta lên. Chúng ta được ở trong sự hiện diện của sự uy nghiêm và nét đẹp vĩ đại. Chúng ta cảm thấy gần gũi Thiên Chúa. Thật vậy, chúng ta cảm thấy mình đang được ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa.
Trên Núi Tabo, bầu trời trong sáng. Đức Giêsu đang cầu nguyện. Trong khi Người cầu nguyện, khuôn mặt của Người toả sáng, và quần áo Người trắng như tuyết. Đứng bên cạnh Người, có Môsê –người ban bố luật vĩ đại. Phía bên kia, có Êlia –vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các ngôn sứ. Một đám mây chói sáng bao phủ họ, tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ được nghe thấy giọng nói của Chúa Cha phát ra qua đám mây, với những lời đầy yêu thương: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Phêrô thốt lên: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Nếu Thầy muốn, con sẽ dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Êlia, và một cho Môsê”.
Phêrô cứ muốn được ở lại trên núi. Ông muốn xây dựng một thiên đàng an toàn tại đó, cách xa khỏi tất cả những rắc rối và nguy hiểm. Nhưng mục đích của cuộc biến hình này không phải để khuyến khích họ trốn thoát thực tại, mà để khích lệ và củng cố Đức Giêsu và các Tông đồ nữa, để họ có khả năng quay trở lại, hầu đương đầu với những rắc rối và nguy hiểm mà họ đã để lại phía sau.
Họ cần có thật nhiều sức mạnh! Bởi vì sẽ đến một ngày và ở trên một ngọn đồi khác, lúc đó bầu trời sẽ trở nên tối tăm, khuôn mặt Đức Giêsu, sẽ đầm đìa mồ hôi và máu. Quần áo của Người sẽ không còn chói sáng nữa, mà sẽ bị lột khỏi thân mình Người. Đức Giêsu sẽ có hai tên trộm cướp làm bạn đồng hành. Sẽ không có tiếng nói phát xuất từ trời nữa, nhưng chỉ có những giọng nói chế giễu và nhạo báng mà thôi. Các môn đệ sẽ bị tản mác, và không muốn tham dự vào những sự việc đang diễn ra.
Điều duy nhất vẫn còn, đó là một lần nữa, Đức Giêsu sẽ lại cầu nguyện. Từ hình ảnh này, rõ ràng là điều giúp cho Người vẫn chịu đựng được, cả trong những giây phút sáng sủa lẫn tối tăm ảm đạm, đó là nhờ ở mối tương quan đặc biệt của Người đối với Chúa Cha.
Hy vọng rằng tất cả chúng ta đều có thể có được một số kinh nghiệm về Núi Tabo, ngọn núi của niềm vui mừng và hớn hở. Nhưng chắc hẳn chúng ta quen thuộc với Núi Canvê hơn. Chúng ta có khuynh hướng đi từ ngọn núi này sang ngọn núi kia. Trên Núi Tabo, chúng ta được thoáng thấy vẻ đẹp của Thiên đàng: do được khích lệ, được phấn chấn, có thể chúng ta đã nghĩ rằng “Thật tốt đẹp khi được ở đây”. Thật ra chúng ta lại bị đắm chìm trong nỗi đau khổ của Núi Canvê. Trên Núi Canvê, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta có thể học hỏi được cách nói rằng “Mọi sự sẽ hoàn tất”. Đây có thể là một phương pháp tốt, dành cho một bài giảng để chia sẻ. Chúng ta có thể bắt đầu bằng cách đặt ra câu hỏi như “Ngày nào hoặc kinh nghiệm nào là hạnh phúc nhất trong cuộc đời của bạn? Ngày buồn thảm hoặc tối tăm nhất trong cuộc đời bạn là gì?”
61. Đỉnh núi vinh quang.
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Đây là một trụ mốc khác trong cuộc đời Chúa Giêsu. Chúng ta nên nhớ rằng Ngài đang sửa soạn lên Giêrusalem và lên thập giá. Chúng ta đã chiêm ngưỡng giờ phút quan trọng khi Ngài hỏi các môn đệ xem họ nhận thức Ngài là ai để Ngài khám phá xem ai có hiểu được Ngài chưa. Nhưng có một điều Chúa Giêsu không bao giờ làm –Ngài không bao giờ thực hiện điều gì nếu không được sự chấp thuận của Chúa Cha. Trong khung cảnh này, đó là điều mà chúng ta thấy Ngài đang tìm kiếm và đang nhận lãnh. Những gì xảy ra trên Núi Biến Hình, chúng ta không bao giờ có thể biết được, chỉ biết rằng có một sự lạ lùng đáng sợ đã xảy ra. Chúa Giêsu đã đi đến đó để tìm kiếm sự chấp thuận của Chúa Cha cho bước quyết định mà Ngài sắp thực hiện. Tại đó có Môsê và Êlia hiện đến với Ngài, Môsê là nhà lập pháp lớn nhất của dân tộc Do Thái. Êlia là người lớn nhất trong các ngôn sứ. Việc này chẳng khác nào các thủ lãnh của dân Israel về đời sống, về tư tưởng, về tôn giáo cùng đến bảo Chúa Giêsu cứ tiến bước. Bây giờ Chúa Giêsu có thể tiến lên Giêrusalem vì biết rằng có một nhóm người đã hiểu biết Ngài là ai, biết công việc Ngài đang làm gồm tất cả đời sống, tư tưởng và hành động của dân tộc Ngài, và biết rằng Chúa Cha đã ưng thuận bước đường Ngài đang đi.
Có một câu rất linh động ở đây, câu này đề cập đến ba vị tông đồ, “khi tỉnh dậy, các ông đã nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu”.
1. Trong cuộc sống, chúng ta mất mát quá nhiều vì tâm trí chúng ta mê ngủ. Có nhiều điều thường làm cho trí chúng ta mê ngủ.
a. Thành kiến. Chúng ta có thể bị đóng khung trong tư tưởng đến nỗi trí chúng ta khép kín lại. Một ý tưởng mới đến gõ cửa lòng chúng ta, nhưng như người ngủ mê, chúng ta không muốn thức dậy.
b. Tê liệt tâm hồn. Nhiều người không thích cố gắng suy nghĩ. Plato nói “Một đời sống thiếu suy nghĩ là một cuộc đời không đáng sống”. Nhưng mấy ai trong chúng ta chịu khó suy nghĩ mọi việc cho đến cùng? Đôi khi chúng ta lười biếng đến nỗi không còn muốn đối diện với các vấn đề và các nghi hoặc của mình.
c. Thích an toàn. Có một thứ tinh thần tự vệ trong chúng ta khiến chúng ta tự nhiên đóng cửa lòng lại trước bất cứ tư tưởng rắc rối nào. Người có thể phục thuốc mê cho tâm trí mình tới độ nó ngủ say.
2. Nhưng đời sống cũng chứa đầy những sự việc có tính chất làm tỉnh thức chúng ta.
a. Sự đau buồn. Elgar đã nói về một ca sĩ trẻ tuổi, có tài năng, nhưng thiếu sức truyền cảm trong giọng ca: “Nàng sẽ nổi tiếng như cồn khi nào có một biến cố khiến lòng nàng tan vỡ”. Thường nỗi đau buồn có thể làm con người sực tỉnh, lúc ấy, qua mắt, người đó sẽ thấy được vinh hiển.
b. Tình yêu. Browing viết về hai người phải lòng nhau. Nàng nhìn chàng, chàng nhìn nàng bằng trái tim chan chứa tình yêu “và bỗng nhiên đời sống bừng tỉnh dậy”. Tình yêu thật khiến chúng ta thức tỉnh trước những chân trời mới mà chúng ta chưa bao giờ mơ tưởng đến.
c. Sự cảm biết nhu cầu. Có thể có một người đã sống khá lâu trong thói quen, nên đã như nửa tỉnh nửa mê, thế rồi bỗng đâu xảy đến trong đời người đó nan đề, một vấn nạn không thể giải đáp, một cám dỗ không thể lướt thắng, một tiếng gọi vượt xa quá khả năng mình. Lúc đó, người ấy không còn biết làm gì hơn là “kêu khóc nắm lấy vạt áo trời”. Và sự cảm biết nhu cầu như vậy thức tỉnh người đó đến với Chúa. Chúng ta phải cầu nguyện rằng “Lạy Chúa xin giữ con luôn tỉnh thức với Ngài”.
62. Chúa Giêsu hiển dung – Hugues Cousin
Cảnh này hiển nhiên là một trong những lời đáp chủ chốt cho câu hỏi khúc mắc của Hêrôđê. Liên hệ của nó với lời tuyên xưng của Phêrô không phải nhỏ: sau lời loan báo gây hoang mang về cuộc thụ nạn của Con Người (c,22), Phêrô và hai người bạn được củng cố khi mặc khải về vinh quang của Đấng Phục Sinh. Hơn nữa, cảnh này được gắn liền rõ rệt với cảnh trước (khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy (c.28) và thực hiện một phần những gì Chúa Giêsu vừa mới hứa (9,27). Cuối cùng nó khai mở một cách rõ rệt con đường hướng về Giêrusalem đối tượng cho phần tiếp theo của Tin Mừng Luca.
Thể văn khác biệt một cách sâu sắc với những gì chúng ta đã gặp cho tới bây giờ: chuyện phép rửa của Chúa Giêsu cũng là một dịp cho một cuộc hiển linh, một cuộc Thiên Chúa bày tỏ mình. Tuy nhiên ở đây, việc hiển linh cho ta nghe (cc.34-35), lại theo sau một loại hiển linh của Chúa Giêsu cho ta nhìn thấy (cc. 29-33). Như trong cuộc hiển linh ở phép rửa, chính căn tính của Chúa Giêsu là vấn đề được đặt ra từ đầu đến cuối.
Phần nhập đề (c.28) gồm hai nét cho thấy, nơi Luca, tính cách quan trọng của hoạt cảnh và sự gần gũi của Chúa Giêsu với Cha Ngài: núi và việc cầu nguyện (x. 6,12). Việc chọn Phêrô, Gioan và Giacôbê được giải thích bởi sự kiện họ đã từng là nhân chứng việc chiến thắng của Chúa Giêsu trên sự chết (8,31-35).
Chính trong khi cầu nguyện ban đêm mà dung mạo Ngài bỗng đổi khác (c.29) và ba môn đệ nhìn thấy vinh quang của Ngài (c. 32). Khác với Maccô, Luca không dùng từ “biến đổi” hình dạng những vẫn ở trên một bình diện; đó là một trong những cách diễn tả theo một vài phái của Do Thái giáo, niềm tin vào sự sống lại của những người công chính. Sau ngày phán xét “vẻ huy hoàng của những người công chính sẽ chói ngời khi được biến đổi: gương mặt họ sẽ biến đổi thành một vẻ đẹp sáng ngời để họ có thể chiếm hữu thế giới không hề chết… Họ sẽ giống như các thiên thần, họ sánh được với các tinh tú. Họ sẽ mang lấy tất cả mọi dáng vẻ tuỳ theo ý họ, từ cái đẹp đến vẻ huy hoàng, từ ánh sáng đến chói ngời vinh quang” (Khải huyền Syria của Baruch, 51 –cuối thế kỷ thứ nhất của kỷ nguyên ta). Mặc lấy vinh quang đó là tham dự ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa hằng sống, được nâng lên tới một phẩm giá tuyệt vời, còn y phục trắng tinh, chói loà, nó cũng nói lên rằng Chúa Giêsu đang đi vào lĩnh vực thiên giới. Bằng cách đó, Chúa Giêsu như đã mặc lấy, bằng việc tham dự trước và một cách tạm thời, vinh quang vượt qua mà Ngài sẽ thừa hưởng như Đấng Phục Sinh. Nhưng có lẽ Luca cũng nghĩ rằng vinh quang này đã ngự trị nơi Chúa Giêsu trước lễ Vượt Qua, và rằng, do hiệu quả của lời cầu nguyện, Ngài không thể ngăn cản nó chiếu toả ra từ thân xác Ngài.
Môsê và Êlia từ nay cũng thuộc về thế giới thiên quốc (cc.30-31). Hai nhân vật ngôn sứ này tượng trưng cho Luật và các ngôn sứ, hai cánh cửa chính của Thánh Kinh trong đó đã loan báo Chúa Kitô phải chịu khổ hình rồi mới vào trong vinh quang của Ngài (24,26-27). Các ông không bày tỏ với Chúa Giêsu về cuộc xuất hành sự việc thụ nạn và lên trời của Ngài –những điều mà Thầy vừa nói với các kẻ thuộc về Ngài (9,22). Các ông bày tỏ cho Ngài thấy rằng những điều đó phù hợp với chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Các ông cũng tiết lộ cho Chúa Giêsu và cho độc giả, nhưng không cho các môn đệ, vai trò trung tâm của Giêrusalem trong chương trình cứu độ ấy. Giấc ngủ mà ba môn đệ thoát ra được cách khó khăn muốn nói lên rằng họ thoáng nhận ra được cuộc mặc khải –Phêrô biết được lai lịch của các người nói chuyện- nhưng không đón nhận được hoàn toàn. Bài đọc Kinh Thánh về cuộc thụ nạn họ không hiểu nổi; họ còn phải đợi Chúa Giêsu mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh (22,44-45). Họ chỉ thấy vinh quang, mà không hiểu rằng phải qua đau khổ mới có thể đạt tới được (x.24,26). Và việc Môsê và Êlia ra đi cho thấy cuộc thị kiến làm họ hứng khởi sắp kết thúc, người phát ngôn mới tìm cách kéo dài giây phút ưu đãi này bằng lời đề nghị dựng lên những cái lều, là đặc điểm của Lễ Lều (Lv 23,33-36). Với tính cách Mêsia của nó, lễ này là thời gian vui mừng, như một tham dự trước vào thời tận cùng của lịch sử. Khi Phêrô ước mong cuộc hiển linh này kéo dài, ông không biết mình đang nói gì; chắc chắn viễn ảnh cuộc thụ nạn chưa ở trong tầm nhìn của ông.
Đám mây chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa (x. Ds 9,15-22) –điều này giải thích sự hoảng sợ thánh xâm chiếm các môn đệ. Trái với lần hiển linh ở phép rửa, khi ấy tiếng nói của Thiên Chúa phán bảo với Chúa Giêsu (3,22), ở đây chính ba ông được mặc khải rằng Chúa Giêsu là Con tiền hữu của Thiên Chúa (x.1,35): “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn; hãy vâng nghe Lời Ngài”. Tiếng nói ấy quy chiếu về Israel, đầy tớ được Thiên Chúa tuyển chọn (Is 42,1), và đặc biệt là quy về vị ngôn sứ giống như Môsê (Đnl 18,15); để được thuộc về dân Chúa cứu độ, từ nay chính Chúa Giêsu mà họ phải nghe lời bởi vì Ngài nói với một uy thế lớn hơn Môsê và Êlia (x. trích dẫn Đnl trong Cv 3,22-23). Trình thuật không dạy rằng tước hiệu “Con” là tước hiệu duy nhất thích hợp với Chúa Giêsu, ngay lúc nói lên tước hiệu đó, Luca cũng làm nổi bật con người ngôn sứ của Chúa Giêsu. Cùng với tước hiệu đó, cũng trong Lc 9, còn có tước hiệu Kitô và Con Người đau khổ. Nói Chúa Giêsu là ai thực ra đòi hỏi người ta không được chỉ dừng lại ở một kiểu nói. Chỉ còn thấy một mình Chúa Giêsu. Ghi chú này nhắc ta dù có những câu 34-35 rằng chính Chúa Giêsu chứ không phải các môn đệ là nhân vật chính của trình thuật. Về vinh quang thần linh giải toả từ Chúa Giêsu, thì chưa phải lúc để ba nhân chứng phổ biến, phải đợi tới khi Chúa Thánh Thần đến và khi Giáo Hội đã được thành lập.
63. Loan báo thương khó lần hai – R. Gutzwiller
Ở phần cuối những đoạn nói về cuộc thương khó lần nhất, Đức Kitô đã nói rõ rằng trong số những kẻ hiện diện, có một vài người không nếm biết cái chết trước khi thấy nước Thiên Chúa. Giờ đây điều ấy được thực hiện.
1. Đức Kitô biến hình
Đức Kitô đã biến hình trên núi: y phục và dung nhan Ngài biến đổi hoàn toàn. Nhờ vinh quang chói ngời của Thiên Chúa mà y phục và dung nhan Ngài nên sáng chói; Môisen và Êlia (biểu hiệu cho lề luật và tiên tri), cùng là nhân chứng sự việc.
Việc biến hình này là sự tỏ hiện trong vinh quang Ngài cách hữu hình và thoáng qua nước Thiên Chúa. Lúc ấy, trong nước này, Cựu ước và Tân ước đều dự phần vào sự uy nghi của Chúa Kitô. Ánh sáng tràn ngập mọi nơi tăm tối, mọi khổ đau đều tan biến trong ánh vinh quang ấy.
Nhưng ở đây chưa phải là tình trạng vĩnh cửu mà chỉ là một sự chuẩn bị cho cuộc khổ nạn và thập giá vì các vị trên nói đến ‘việc ra đi Ngài sắp hoàn tất tại Giêrusalem’. Chỉ sau khi phục sinh và thăng thiên thì cuộc biến hình ấy mới kéo dài trường cửu. Bây giờ nó giống như một tiền xướng của một Thánh vịnh một loé sáng bất ngờ vụt tới từ xa, như một chặng nghỉ của cuộc hành trình đi về cái chết và như sự mặc khải nhãn tiền về những gì sắp xẩy ra.
2. Các môn đệ.
Ở đây ta lại thấy ba tông đồ đã chứng kiến việc phục sinh con gái Giarô. Khi ấy, họ chứng kiến việc chiến thắng sự chết, còn ở đây, họ được chiêm ngắm sự biến hình theo sau đó; và họ đã quá sung sướng đến nỗi Phêrô muốn dựng lều và chỉ muốn kéo dài cái phút giây mau qua ấy.
Nhưng họ thiếu bước dứt khoát, bước đi trong đám mây. Vì một đám mây bao phủ Chúa và cả hai chứng nhân kia nữa. Đám mây này biểu hiệu sự tối tăm mà họ phải vượt qua và đồng thời biểu hiệu mầu nhiệm của Thiên Chúa mà chỉ cái chết mới mở cửa bí mật ấy được. Nên cuộc biến hình thiết yếu thuộc về tương lai.
Đức tin là sức mạnh sẽ dẫn đến mục tiêu vinh quang ấy qua con đường đau khổ. Điều này giải thích lời: ‘Ngài là Con Ta, Kẻ Ta đã chọn, các ngươi hãy nghe Ngài’. Vấn đề là các môn đệ phải lắng nghe sứ điệp về cuộc khổ nạn ấy, dầu họ nghe mà không hiểu. Đấng Cứu Thế dù tự tỏ mình là Đầy Tớ đau khổ của Giavê, nhưng lại thực là Con Thiên Chúa, là Kẻ được chọn. Đấy là lý do cho thấy, điều cốt yếu là phải lắng nghe lời tiên báo kỳ lạ đó.
Đoạn này trong Kinh Thánh kết thúc cách đầy ý nghĩa bằng một câu đơn giản: ‘Trong khi tiếng phát ra, thì chỉ còn gặp một mình Đức Giêsu ở đó’. Ánh sáng tan đi, sự chói sáng mờ tối, tiếng nói cũng hết. Chỉ có đức tin mới nói được Đức Giêsu là Ai, Ngài uy nghi làm sao, và Ngài tiến tới vinh quang nào. Các môn đệ bùi ngùi và xao xuyến; họ im lặng giữ kín bí mật.
Bởi thế, trong khung cảnh đặc biệt này, ánh sáng và tối tăm, rạng rỡ và khổ đau, sống đời đời và sống tạm gửi, phương tiện và mục tiêu, vĩnh cửu trong vinh quang và hạn hẹp trong đau khổ, lời Thiên Chúa và sự lặng im của con người, đều hoà nhập vào nhau bền chặt. Từ đây, đời sống Chúa Kitô nơi trần gian cũng diễn ra như thế. Tức là thiết yếu phải bước đi trong cảnh tranh tối tranh sáng, nhưng luôn hướng về ánh sáng đang loé lên ở đầu đường.
Đó là sự hiểu biết trong âm thầm một mầu nhiệm cao cả, nhưng lúc quyết định, chỉ xẩy ra trong tương lai.
64. Đau khổ và vinh quang.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên đỉnh Taborê, một ngọn núi cao khoảng 600 thước, và cho các ông được chiêm ngưỡng vinh quang rực rỡ của Ngài, cũng như một ngày kia cho các ông được chứng kiến cơn hấp hối thương đau của Ngài trong vườn Cây Dầu.
Nhìn vào cuộc đời của Chúa Giêsu, chúng ta thấy đau khổ và vinh quang luôn gắn liền với nhau. Thực vậy, mỗi khi loan báo về cuộc khổ nạn, Ngài đều nói:
– Con Người sẽ bị nhiều khổ đau, sẽ bị giết chết nhưng sau ba ngày sẽ sống lại.
Trong những lời giảng dạy, Ngài cũng cho biết như thế:
– Hạt lúa có mục nát đi thì mới đem lại nhiều bông hạt.
– Người đàn bà khi sinh nở thì đau đớn, nhưng sau đó sẽ mừng vui vì đã đem lại cho đời một người con.
Và sự thực đã xảy ra như vậy. Chính Ngài đã phải trải qua những khổ đau của ngày thứ sáu tuần thánh, để rồi mới có được vinh quang của ngày Phục sinh. Chính vì thế, chúng ta có thể xác quyết:
– Đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới Phục sinh.
Nếu Chúa Giêsu đã đi con đường đau khổ, con đường thập giá để tiến tới vinh quang Phục sinh, thì chúng ta, những người môn đệ của Ngài, muốn tiến tới vinh quang, muốn tiến tới Phục sinh thì cũng không có một con đường nào khác ngoài con đường đau khổ, ngoài con đường thập giá.
Thực vậy, giáo lý nhà Phật đã bảo:
– Đời là bể khổ, mà mỗi người chúng ta là như một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Trong khi đó chúng ta lại bảo đời là một thung lũng nước mắt, như trong kinh Lạy Nữ Vương chúng ta vốn thường đọc:
– Chúng con ở nơi khóc lóc than thở.
Đứng trước vấn đề đau khổ, nhiều người đã chán nản và tuyệt vọng để rồi xa lìa Chúa, nhiều người đã phẫn uất để rồi chống đối Chúa. Nếu Thiên Chúa là Đấng nhân từ tại sao Ngài lại để cho tôi phải khổ đau? Thái độ này không giải quyết được gì hết, bởi vì đau khổ chúng ta vẫn phải chịu và nó còn trở nên nguyên nhân gây nên những bực bội và tức tối, những thất vọng và buồn phiền.
Với chúng ta, những người có đức tin thì khác, chúng ta luôn vui mừng và hy vọng, bởi vì đau khổ và thập giá sẽ là như những hạt giống nảy sinh ra cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta không dừng lại ở những đau khổ với thái độ bi quan. Trái lại, chúng ta sẵn sàng chấp nhận khổ đau, và hơn thế nữa, chúng ta chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa, bởi chúng ta biết rằng sau những khổ đau, sau những thập giá là vinh quang của sự phục sinh. Cũng như sau cơn mưa trời lại sáng, sau mùa đông lạnh giá là mùa xuân nắng ấm.
Chúng ta hãy dâng lên Chúa những vất vả và khổ đau, những buồn phiền và cay đắng trong cuộc sống, vì mỗi hy sinh sẽ là một góp phần nhỏ bé của chúng ta vào vào thập giá Đức Kitô, nhờ đó, chúng ta sẽ được chia sẻ phần vinh quang Phục sinh với Ngài.
65. Biến hình
Giáo hội mời gọi chúng ta suy niệm về biến cố Chúa Giêsu biến hình, đặc biệt riêng cho ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan.
Biến cố Chúa Giêsu biến hình được thánh Luca kể lại liền sau những lời Chúa Giêsu mạc khải cho các tông đồ về cuộc thương khó mà Ngài sẽ phải chịu tại Giêrusalem và những lời Chúa loan báo về con đường thương khó mà những đồ đệ của Chúa phải đi qua: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”.
Những lời loan báo này có thể làm cho các tông đồ lúc đó chưa hiểu thấu về con người và sứ mạng của Chúa, làm cho các ông phải ngã lòng, nên biến cố Chúa Giêsu biến hình liền sau đó có thể hiểu như là một hồng ân đặc biệt Chúa cho các tông đồ và không phải cho tất cả, nhưng chỉ cho một nhóm nhỏ, cho những ai mà Ngài muốn mà thôi. Và để củng cố lòng tin của họ vào Thiên Chúa, Phúc âm thánh Luca ghi lại biến cố Chúa Giêsu biến hình như sau: Khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, tức là những lời: “Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta… và Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện”.
Thân phụ của văn hào nổi tiếng người Anh là André Possa thuộc Hàn lâm viện Pháp là một người bạn thân của Đức Thánh Cha. Ông đã hơn một lần tự kiêu và tự mãn công bố: “Nếu có Thiên Chúa thì tôi khuyên ông ấy rút đi, vì không ai thích ông ấy nữa cả “. Rồi chính André Possa sau này trong cuộc đời thanh xuân cũng đã là thành viên của đảng cộng sản Pháp. Nhưng một hôm ông được đánh động bởi sự hiện diện của Thiên Chúa, nói được là đã gặp được Thiên Chúa biến hình trong cuộc đời ông, nên ông đã ăn năn trở lại và sốt sắng tuyên bố: “Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Ngài”.
Lời tuyên xưng này trở thành bất hủ vì được chính văn hào André Possa chọn làm tựa đề cho tập sách tự thuật kể lại chính đời sống và cuộc trở lại nổi tiếng của mình: “Thiên Chúa hiện hữu. Tôi đã gặp Ngài”. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho tờ báo Paris số phát hành ngày 8.3.1988, André Possa đã nói về cuộc gặp gỡ Thiên Chúa của mình như sau: Khi người ta may mắn gặp được Thiên Chúa thì mọi sự khác chỉ là trò hề. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng không làm cho tôi thất vọng.
Chúng ta đã trải qua hơn một tuần lễ của mùa chay, đây chính là thời gian của ân sủng, của sự gặp gỡ Thiên Chúa, của sự canh tân đời sống. Nhưng trong thực tế, đôi khi chúng ta có thể có thái độ kiêu ngạo như thân phụ của văn hào André Possa mời Thiên Chúa đi chơi chỗ khác, mời Thiên Chúa rút lui khỏi cuộc sống của chính mình. Đó là những lúc chúng ta sống không theo lời dạy của Chúa mà theo cái bụng, theo cái lợi lộc ích kỷ của mình. Đó là nếp sống mà thánh Phaolô tông đồ phải buồn sầu mà nói ra với các tín hữu Philipphê sống nghịch lại với thập giá của Chúa Kitô, sống theo mệnh lệnh của cái bụng, của điều lợi lộc vật chất nghịch lại thập giá, sống trong tội lỗi.
Xin Chúa nhân từ cho chúng ta nhận ra được ân sủng của Ngài. Xin Ngài hãy đến đưa chúng ta lên núi và cho chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu Kitô biến hình như là Thiên Chúa vinh quang và đồng thời như là Đấng chịu treo trên thập giá để cứu chuộc con người. Xin cho chúng ta được gặp Chúa và khiêm tốn thốt lên như văn hào André Possa: “Thiên Chúa hiện hữu. Tôi đã gặp Ngài, và chứng minh rằng ta đã gặp Ngài bằng một đời sống thánh thiện. Lắng nghe lời dạy của Thiên Chúa, mệnh lệnh duy nhất Thiên Chúa Cha truyền cho ba tông đồ trong biến cố Chúa Giêsu Kitô biến hình trước mặt các tông đồ đó là: “Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”.
Một đời sống vâng phục Thiên Chúa, lắng nghe Chúa nói, đọc Kinh thánh, đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày, chúng ta hãy để cho chính Lời Chúa biến đổi cuộc sống của mình. Chúng ta thử xét mình xem tôi đã đọc Lời Chúa như thế nào? Tôi đã gặp được Thiên Chúa Cha chưa? Xin Chúa thương đến với chúng ta và cho phép chúng ta được gặp Chúa để canh tân đời sống mình trở về với Chúa và với anh chị em xung quanh.
66. Yêu dấu
Lời kêu mời của Giáo hội hướng chúng ta sống chay tịnh trong mùa chay này đã bắt đầu được hai tuần lễ. Trong hai tuần lễ vừa qua, chúng ta cũng đã chuẩn bị tâm hồn mình để trở về với Chúa. Dấu hiệu đầu tiên của sự trở về đó là sự tha thứ. Chúng ta không thể nào tha thứ được, nếu chúng ta không có sự khiêm nhường trong đời sống. Trong thánh lễ này chúng ta hãy hợp ý với nhau để xin Chúa cho chúng ta biết sống chay tịnh, biết bắt chước những ngày chay tịnh của Chúa trước khi Chúa dâng hiến chính mình Ngài để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta đang ở vào Chúa nhật thứ II Mùa chay, chúng ta đã khởi sự mùa chay thánh này vào ngày thứ tư lễ tro. Điều gì chúng ta đã làm trong ngày thứ tư lễ tro này? Thưa rằng, chúng ta đã để cho vị đại diện của Giáo hội xức tro lên trên đầu của chúng ta với dấu hiệu là chúng ta từ bụi đất sẽ trở về đất bụi. Qua bài Phúc âm Chúa nhật thứ I mùa chay tuần qua, chúng ta đã nghe về cuộc hành trình của Chúa Giêsu trong sa mạc với những cám dỗ mà Ngài đã phải đương đầu. Những cám dỗ này chính là hình ảnh của những quyến dũ ma quỉ sẽ đặt trước chúng ta trong những ngày chay tịnh này khi chúng ta sống trong bầu khí của mùa chay. Việc Chúa Giêsu biến hình trước sự hiện diện của Phêrô, Gioan và Giacôbê trong bài Phúc âm hôm nay giúp chúng ta khám phá ra được một sự thực, sự thực đó được diễn tiến như sau: Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Cứ như cách diễn tả của thánh sử Luca chúng ta có thể thấy rằng, biến cố xảy ra vào lúc ban đêm, vì như chúng ta biết là sau khi giảng dạy và làm các phép lạ, Chúa Giêsu thường đi vào các nơi thanh vắng để cầu nguyện, ăn chay và nhất là căn cứ vào thái độ của các môn đệ khi sự việc xảy ra, đó là việc Phêrô và hai bạn của ông đang ngủ. Dù cho ban đêm, bài Phúc âm đồng hoá với bóng tối được diễn tả ở đây có thể biểu hiện cho khuynh hướng xấu để hiểu cho phần bóng tối trong tâm hồn của mỗi con người. Nó cũng là một trong những điều được thánh Luca diễn tả khiến cho quang cảnh dễ gây xúc động hơn cho người đọc. Đang khi cầu nguyện, diện mạo Chúa Giêsu biến đổi khác thường, ánh sáng chói loà, nhưng Ngài vẫn là Ngài, Ngài vẫn là Chúa Giêsu Con của Thiên Chúa Cha. Có khác chăng chỉ là diện mạo và sự biến đổi xung quanh, một quang cảnh huy hoàng của cuộc đàm đạo của Chúa Giêsu với Elia và Môisen đến nỗi khi được chứng kiến và chiêm ngắm, các môn đệ hốt hoảng như trong một cơn mê sảng: “Lạy Thầy, nếu chúng tôi được ở đây thì tốt lắm, tôi sẽ dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Elia và một cho Môisen”. Quả thực, ba môn đệ đã được diễm phúc chứng kiến cuộc đàm đạo trong vinh quang của Thầy Chí Thánh. Khi đề cập đến biến cố này, các thánh sử khác chỉ nói rằng, cái chết của Chúa Giêsu thực hiện tại Giêrusalem, một cái chết không phải là kết thúc chương trình của ơn cứu chuộc, nhưng là một cái chết để sống lại trong vinh quang. Trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa thì sự chết, sự sống lại và lên trời của Chúa Giêsu Kitô là sự vinh quang của Thiên Chúa vẫn thể hiện trong chính cái sinh hoạt là ăn năn, tha thứ trong 40 ngày chay tịnh. Lời phán từ trong đám mây minh chứng rằng, qua những điều này, Chúa Giêsu Người đã lãnh nhận và thánh hoá Bí tích Rửa tội nơi sông Giócđan để trao ban cho chúng ta. Ngài là Con Thiên Chúa, là Con của Thiên Chúa nói với nhân loại và nhân loại hãy đón nhận Ngài. Chúng ta hãy cùng với thánh Phêrô và hai bạn ông chứng kiến việc Chúa Giêsu biến hình và cùng được dự phần vào việc đàm phán của Chúa với hai tiên tri. Từ đó, chúng ta có thể được dự phần vào cuộc Phục sinh của Chúa trong những ngày sắp tới. Đó là một diễm phúc, chúng ta tham dự trong bất toàn của nhân tính trong con người của Chúa Giêsu, để rồi chúng ta mới được tham dự vào nhân tính bất diệt là làm con Chúa trong ngày phán xét. Biến cố biến hình của Chúa Giêsu không chỉ là mạc khải cho chúng ta nhận biết được ơn cứu chuộc của Thiên Chúa trong việc cứu rỗi con người. Nhưng biến cố này còn cho chúng ta thấy tính cách của nhân loại, tính cách tối hậu của đời sống hạn chế và ý nghĩa của sự chết và sự Phục sinh trong nhiệm vụ cứu rỗi. Biến cố biến hình còn nhắc nhở và vạch sẵn cho chúng ta một cách sống trong mùa chay. Đi sâu vào chay tịnh của mùa chay thánh, chúng ta cần phải nổi bật trong sự vinh quang của Thiên Chúa là nhờ vào việc chay tịnh và thống hối của chúng ta. Anh chị em chúng ta hãy cầu nguyện nhiều cho nhau để sao cho mỗi người sống xứng đáng với ý nghĩa trong mùa chay thánh này.
67. Đau khổ
Mỗi năm, vào Chúa nhật thứ II Mùa chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng về việc Chúa Giêsu hiển dung trên núi Tabor. Hiển dung là thế nào? Là thay đổi hình dạng. Chúa tỏ hình dạng Thiên Chúa, Chúa bộc lộ thần tính của Ngài cho các môn đệ thấy. Nói một cách đầy đủ và đúng nghĩa là Chúa Giêsu để cho rạng sáng lên trong giây lát cái vinh hiển của “hình dạng” Thiên Chúa, đã bị che giấu đi trong cái “hình dạng” con người của Ngài. Vì thế, Tin Mừng cho biết: ba môn đệ đã thấy “vinh quang” của Ngài.
Đó là ý nghĩa của việc hiển dung. Còn mục đích của việc hiển dung là gì? Có hai mục đích: Thứ nhất, Chúa Giêsu tỏ ra cho các môn đệ thân tín và mọi người biết rõ ràng Ngài là Thiên Chúa làm người. Bởi vì người Do thái nói chung và nhất là các môn đệ, đã sống gần Chúa ba năm rồi, đã nghe biết bao lời Chúa giảng dậy, và đã chứng kiến nhiều phép lạ Chúa làm, nhưng họ vẫn chỉ thấy Ngài là một người như mọi người khác, họ không thấy chân tướng đích thực của Ngài. Hôm nay, qua sự kiện hiển dung, Chúa cho họ thấy rõ Ngài là vinh quang của Thiên Chúa, là Thiên Chúa vinh quang.
Mục đích thứ hai là để củng cố đức tin của các môn đệ. Bởi vì Chúa thấy các ông quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Ngài, nên Chúa đã hé mở vinh quang của Nước Thiên Chúa cho các ông thấy để tăng thêm cho các ông niềm tin và hy vọng vào ngày mai. Như vậy, việc Chúa hiển dung cũng dạy bảo cho các môn đệ biết: phải trải qua đau khổ mới vào cõi phúc, cõi hằng sống được.
Cũng như Chúa Giêsu đã dùng sự kiện hiển dung để chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận biến cố Vượt Qua, thì Giáo hội cũng làm như thế: trong khi dẫn chúng ta đến chiêm ngắm và tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua như điểm tới của mùa chay, Giáo hội cho chúng ta đọc đoạn Tin Mừng này để khích lệ chúng ta, nghĩa là bảo cho chúng ta biết: khổ giá mà không có vinh quang Phục sinh thì khổ giá vô nghĩa. Vinh quang Phục sinh mà không có khổ giá thì vinh quang không bao giờ có được. Vì thế, mỗi lần loan báo về cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu cũng nói đến Phục sinh vinh quang. Cũng vậy, sau khi nói về cuộc khổ nạn sắp xảy đến, Chúa Giêsu đã hiển dung cho các môn đệ thấy vinh quang của Ngài, để động viên khích lệ các ông và dạy cho các ông cũng như mọi người biết rằng: đau khổ chỉ là bước đường phải đi qua để đưa chúng ta tới quê trời, tới hạnh phúc đích thực mọi người mong đợi.
Sống trên đời, ai cũng có đau khổ, có mặt trên đời là có khổ: “Hữu sinh hữu khổ” là thế. Đời người là một chuỗi đau khổ đầy ứ. Nhà Phật thường nói: “Đời là bể khổ”. Kinh Thánh nói: “Đời là thung lũng nước mắt”. Một thi sĩ đã nói: “Đời là cây đàn thất huyền, có một dây vui và sáu dây sầu”. Như vậy, ai cũng có đau khổ, người khổ tinh thần, người khổ thể xác, có người khổ cả hai; người khổ lúc này, người khổ lúc khác, nên có người đã nói: “Đau khổ là một khách câm, không bao giờ bảo cho chúng ta biết tại sao nó đến phá rối đời chúng ta”. Không ai muốn đau khổ mà tại sao cứ gặp hoài? Vì đời trần gian là thế.
Chúng ta đều biết: đau khổ tự nó là một điều xấu, chẳng có giá trị gì cả. Nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc, chính là cách thức chúng ta xử lý chúng. Nếu chúng ta chán nản, buông xuôi, thất vọng, thì đau khổ càng đè nặng trên chúng ta. Ngược lại, nếu chúng ta bắt chước Chúa Giêsu, can đảm cúi xuống nâng chúng lên, thì chúng ta sẽ biến chúng thành năng lực tích cực, thành nguồn ban sức sống. Bởi vì chính những đau khổ ấy sẽ biến đổi chúng ta thành người tốt hơn, nhiệt tình hơn, khiêm tốn hơn, biết từ tâm hơn và biết thông cảm kẻ khác hơn.
Do đó, những khi gặp đau khổ, chúng ta đừng bao giờ kêu trách Chúa, Chúa đâu có gửi đau khổ đến cho chúng ta, Chúa đâu có muốn chúng ta phải đau khổ. Vì vậy, phàn nàn, kêu trách Chúa là oan cho Chúa và xúc phạm đến Chúa. Cũng thế, chúng ta đừng bao giờ rủa mình, than thân trách phận, chán nản, buông xuôi. Nhưng hãy gia tăng cầu nguyện để xin Chúa trợ giúp, vì Chúa đã nói: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với tôi, tôi sẽ nâng đỡ, bổ sức cho”. Chúng ta nên nhớ: Chúa nói Ngài “nâng đỡ, bổ sức” cho chúng ta chứ Ngài không cất gánh nặng cho chúng ta đâu. Bởi vì Ngài xuống trần gian không phải để làm cho hết đau khổ, nhưng chỉ muốn đem lại cho đau khổ một giá trị của nước trời.
Nếu chúng ta biết nương nhờ vào Chúa, Chúa sẽ giúp chúng ta. Người ta kể rằng: một bác tiều phu kia đi lấy được một xe bò củi chất đầy. Nhưng khi đi tới một khúc đường sình lầy thì đôi bò đứng lại. Xe bò sụp lún xuống bùn. Bác ta ngồi khóc than. Khóc một hồi bác ta nhớ ra có một vị thần và bắt đầu van xin. Vị thần hiện ra phán bảo: “Thay vì ngồi khóc thì ngươi hãy ghé vai vào xe thử đẩy đi và ta sẽ giúp”. Bác tiều phu làm theo lời vị thần, cố gắng mọi cách, cuối cùng chiếc xe bò đã vượt qua khúc đường sình lầy. Đó là ngụ ngôn dạy chúng ta phải cộng tác với một sức mạnh hơn để làm việc, để giải quyết mọi việc. Trong công việc hàng ngày, chúng ta còn biết nhờ vả vào những người khoẻ mạnh hơn, uy quyền hơn, tài năng hơn, thì tại sao chúng ta lại không nhờ cậy vào Chúa, là Đấng toàn năng và hay cứu giúp? Ngài sẽ giúp chúng ta vượt thắng đau khổ nếu chúng ta tin tưởng, cậy trông và kêu xin Ngài.
68. Lên núi
Trong Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi thường được xem là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa thần linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Thánh Kinh đều diễn ra trên núi. Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho dân riêng. Elia đã ròng rã 40 ngày đêm lên núi Horeb để gặp gỡ Chúa. Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện với Chúa Cha. Chúa Giêsu lên núi giảng dạy về các mối phúc.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Luca cũng nói đến việc Chúa Giêsu đưa ba môn đệ lên núi với Chúa. Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu xem: Tại sao Chúa Giêsu lại đưa ba môn đệ lên núi với Chúa? Cuộc lên núi này có ý nghĩa gì đối với các môn đệ và có ý nghĩa gì đối với mỗi người chúng ta hôm nay?
Phêrô, Giacôbê và Gioan đã bỏ thuyền, bỏ lưới mà theo Đức Giêsu, sự sợ hãi ban đầu đã nhường chỗ cho lửa nhiệt tình và những lời hứa về Nước Trời đã chắp cánh cho họ. Cho tới lúc Phêrô đại diện cho anh em tuyên xưng niềm tin vào Thầy là: “Đấng Mêsia của Thiên Chúa” – tám ngày trước biến cố lên núi – thì hành trình theo Chúa của các ông quả là tràn ngập niềm vui: Thầy đi đến đâu dân chúng đi theo đến đó, để lắng nghe Thầy giảng dạy và để được Thầy chữa lành mọi bệnh tật. Thầy nổi tiếng trò cũng được thơm lây. Các nhà lãnh đạo tôn giáo như nhóm Biệt phái và Luật sĩ có lên giọng hạch sách, bắt bẻ ư? Lập tức Thầy liền khoá miệng họ bằng những lời lẽ thật khôn ngoan. Các môn đệ ngỡ rằng hành trình theo Chúa cứ thế mà xuôi chèo mát mái.
Nhưng chính lúc này đây, Thầy lại bảo rằng: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục khai trừ, bị giết đi và ngày thứ ba sẽ sống lại”, và chính các ông sẽ phải “vác thập giá của mình để theo Người”. Rồi Thầy hứa thêm rằng: “Một số người sẽ không phải nếm cái chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa”.
Từng say sưa với những thành công vang dội của Thầy làm sao các môn đệ có thể chấp nhận Thầy bị bắt bớ, bị giết chết. Từng tuyên xưng Thầy là Đấng Mêsia làm sao họ có thể chấp nhận Đấng Cứu Thế cũng phải trải qua đau khổ, sự chết. Từng mơ ước theo Thầy sẽ làm nên sự nghiệp lớn, làm sao họ có thể chấp nhận từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Thầy. Rồi còn lời hứa của Thầy? Không thể hiểu nổi, không thể chấp nhận, họ hoang mang, lo lắng, thất vọng. Chính lúc này đây, Chúa Giêsu đưa họ lên núi với Chúa.
Ba môn đệ đã được đưa lên núi biến hình với Chúa. Một khi đã leo lên trên đó, các ông được đi vào một thế giới khác xem ra vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, một thế giới biến đổi ý nghĩa đời họ.
Từ trên núi, Chúa Giêsu đã tỏ vinh quang của Người cho các môn đệ. Từ trên núi, Phêrô, Giacô bê và Gioan đã nhận ra được Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa, là Đấng được Chúa Cha sai đến và cao điểm sứ mệnh cứu độ của Người là đón nhận đau khổ và cái chết mà Ngài sắp trải qua tại Giêrusalem. Và các ông cũng phải vác thập giá mình mà theo Người, phải vâng nghe lời Người. Từ trên núi, các môn đệ đã thấy vinh quang của Chúa như một lời hứa được thực hiện, như thành tựu của một sứ mệnh, như đích điểm của một con đường – con đường thập giá dẫn đến vinh quang.
Nhưng tiếp đó, họ phải xuống núi trở về với cuộc sống thường ngày. Người ta không lên núi để ở lại đó mà là để nhìn rõ hơn con đường phải đi. Đối với Chúa Giêsu, con đường đó là đau khổ và cái chết đang chờ đợi Người và Người đã xuống núi để giáp mặt với đời, để tiếp tục hành trình qua đau khổ, thập giá đến vinh quang. Từ trên núi, Chúa Giêsu cũng muốn đưa các môn đệ xuống núi trở lại với đời thường, trở lại gian lao, thử thách đang chờ họ.
Như thế, từ những người mù mờ về con người và sứ mệnh của Thầy, các môn đệ đã được hé mở cho thấy Thầy chính là Con Thiên Chúa và là Đấng cứu độ trần gian. Từ những người coi khổ nạn thập giá là cớ gây vấp phạm, các môn đệ đã nhận ra khổ nạn thập giá là con đường phải đi qua để đến được vinh quang.
Có thể nói rằng, cuộc lên núi với Chúa của các môn đệ đã thực sự biến đổi ý nghĩa cuộc đời họ. Còn mỗi người chúng ta thì sao? Cuộc lên núi với Chúa có ý nghĩa gì đối với mỗi người chúng ta?
Có thể nói, ba môn đệ trong Tin Mừng hôm nay là hình ảnh của mỗi Kitô hữu chúng ta. Trong hành trình đức tin, cho dù có say ngủ và thổn thức bất an hay sa lầy trong thói tật xưa cũ trên đường, chúng ta vẫn được Chúa mời gọi lên núi với Chúa. Vẫn có những giây phút chúng ta được đưa lên núi với Chúa: Núi của thánh lễ, núi của những phút giây cầu nguyện, núi của những lần hồi tâm sám hối trở về, núi của những dịp tĩnh tâm mùa chay. Đối với chúng ta, đó là những giây phút lên núi vắn vỏi để gặp gỡ Chúa, để lắng nghe, để chiêm niệm, để biến hình, rồi sau đó xuống núi với niềm phó thác, dấn thân sâu xa hơn trong mịt mờ sương mù của những cái thường ngày.
Nếu việc Chúa đưa ba môn đệ lên núi với Chúa đã làm cho tâm hồn các môn đệ được bình an, từ đó Người đã cùng với các ông từng ngày một đến gần cuộc thương khó và tử nạn mà Chúa Cha muốn để cứu độ nhân loại. Đối với chúng ta đó là được an bình trong những thử thách cam go, đồng thời tăng thêm nghị lực để chúng ta đi tới với thập giá trên vai, tiến về vinh quang nước trời.
Vấn đề còn lại là chúng ta biết theo Chúa lên núi, ở với Người một đôi phút trong mỗi ngày sống, nhìn thấy Người trong những biến cố lớn nhỏ của đời mình, của dòng lịch sử cứu độ, và lịch sử con người. Người còn đó khuôn mặt Người rạng rỡ yêu thương, để chúng ta tin tưởng Người và làm hết những gì mà chúng ta có thể làm, để cho từng ngày sống của chúng ta tốt đẹp hơn.
Chính vì biết các môn đệ yếu đuối mà Chúa Giêsu đã đưa các ông lên núi với Chúa, cho các ông được chiêm ngắm vinh quang của Người dù chỉ trong chốc lát, để củng cố niềm tin cho các ông trong bước đường khổ nạn sắp tới. Hôm nay, Chúa biết chúng ta cũng yếu đuối, dễ sa ngã. Và như ba môn đệ cũng sắp sửa cùng Chúa bước vào tử nạn, vì thế Chúa cũng mời gọi chúng ta lên núi với Chúa, để gặp gỡ Chúa, sống với Chúa và để Chúa củng cố đức tin cho chúng ta.
Ước mong mỗi thánh lễ Chúa nhật trong mùa chay này thực sự là một cuộc lên núi với Chúa của mỗi người chúng ta. Để nhờ đó, chúng ta có đủ sức mạnh và vững tin dấn bước vào đời, chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận vác thập giá mà không bỏ cuộc, chấp nhận bước theo Chúa trên con đường qua tử nạn – thập giá, đến Phục sinh – vinh quang.
69. Giao ước
Có sự khác biệt lớn giữa giao ước và hợp đồng. Giao ước thì dựa trên tình yêu thương và sự thân thiện, trái lại, hợp đồng là một sự sắp xếp công việc kinh doanh một cách chặt chẽ. Xã hội của chúng ta không còn có nhiều giao ước nữa, nhưng hầu hết mọi việc thường được xúc tiến bằng hợp đồng. Hợp đồng bị vi phạm, và mất đi sức mạnh ràng buộc của nó, khi một trong hai bên đối tác không thực hiện được phần việc của mình, theo như đã thương lượng với nhau. Thiên Chúa không ký kết hợp đồng với con người; nhưng Người đã thực hiện một giao ước với chúng ta.
Thiên Chúa là một Thiên Chúa của sức mạnh. Nhưng Người cũng là Thiên Chúa của tình yêu và lòng thương xót. Trong cách cư xử với chúng ta, Thiên Chúa chọn lựa đi theo con đường của tình yêu, hơn là con đường của sức mạnh. Thiên Chúa muốn được chúng ta yêu mến, chứ không phải là sợ hãi. Nếu bạn yêu mến một người nào đó, bạn nhường chỗ cho người đó, và tạo cho họ có quyền được là chính bản thân họ. Nếu bạn muốn có quyền lực trên người nào, thì bạn cứ cố gắng kiểm soát người đó, và buộc họ phải làm theo ý thích của bạn, mặc dù họ muốn hoặc không muốn. Nhưng bạn không thể đồng thời vừa yêu thương vừa sử dụng quyền lực, hai yếu tố này xung khắc với nhau.
Để yêu và được yêu, Thiên Chúa phải ban cho chúng ta phạm vi để chọn lựa. Người không thể giành lấy tất cả mọi quyền lực, và không để lại chút gì cho chúng ta. Giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại phải có gì nhiều hơn là chủ đề về một Thiên Chúa toàn năng ban bố lề luật. Đây phải là sự thoả thuận một cách tự do giữa hai bên đối tác tự do.
Nếu chúng ta vâng phục Thiên Chúa, bởi vì chúng ta e sợ Người, bởi vì quá bị quyền lực của Người áp đảo, đến nỗi chúng ta không dám phản kháng, thì Người chỉ có sự vâng phục của chúng ta, chứ không có được tình yêu của chúng ta.
Bài đọc 1 nói về giao ước long trọng mà Thiên Chúa đã thực hiện với Abraham. Sau câu chuyện cuộc sáng tạo, đây là giây phút chủ yếu trong Cựu ước. Có thể nói rằng câu chuyện cứu độ của chúng ta được bắt đầu ở đây. Thiên Chúa không từ bỏ dân tộc đã bị sa ngã của Người, nhưng thông qua Abraham, Người đã đi vào một tương quan đặc biệt với họ. Mối tương quan này không giống như tương quan tồn tại giữa các bên đối tác trong kinh doanh, mà tương tự như mối tương quan tồn tại giữa vợ chồng. Có thể tóm tắt mối tương quan này trong một công thức, đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Cựu ước: “Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi”.
Không phải Abraham, mà là chính Thiên Chúa, đã đi bước đầu trong mối tương quan này. Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc và nguyên vẹn. Người cũng hứa rằng dòng dõi của ông sẽ có một vùng đất riêng của họ, và nói rằng thông qua ông, tất cả các dân tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc, bởi vì Đấng Mêsia sẽ đến từ dòng dõi của ông.
Mặc dù con người đã vi phạm giao ước của Thiên Chúa, nhưng Người vẫn không từ bỏ họ. Thay vào đó, thông qua Con của Người, Đức Giêsu Kitô, Người đã tự ràng buộc mình vào gia đình nhân loại một cách gần gũi hơn, bằng một sự ràng buộc không bao giờ có thể bẻ gãy được.
Lời hứa của Thiên Chúa với Abraham đã được nên trọn nơi Đức Giêsu. Chính thông qua Người, mà tất cả các dân tộc trên trái đất đều được chúc phúc. Đức Giêsu đã hàn gắn lại giao ước bằng chính máu của Người. Thông qua Người, chúng ta được gần gũi hơn bao giờ hết với Thiên Chúa. Chúng ta không chỉ là dân Thiên Chúa, mà còn là những người con trai và con gái của Người, chúng ta thuộc về gia đình của Người.
Đức Giêsu là người đứng đầu trong dân tộc mới của Thiên Chúa. Vùng đất mà Người đang đưa dẫn chúng ta hướng tới không phải là vùng đất nào đó ở trên trái đất, nhưng là vùng đất của sự sống đời đời.
70. Ơn gọi
Ơn gọi của Abraham là bỏ xứ Ur thuộc Mesopotamie tiến vào Canaan. Người không đức tin sẽ cho Abraham là kẻ lắm tham vọng và tin hão huyền: bỏ cái đang có, đi tìm cái viển vông. Abraham bỏ ruộng vườn, nhà cửa theo ơn gọi, tìm sự vất vả, sống thiếu thốn và khó khăn. Ông lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Trước mặt ông là giải sa mạc mênh mông, nắng cháy da diết, cỏ cây úa vàng, giọt nước quí hơn kim cương. Vì tín trung với ơn gọi, Abraham đã thành công, trở thành anh hùng lập quốc, được chúc phúc và biến hình.
Ơn gọi của Phaolô là quên đi dĩ vãng, diệt cái kiêu căng và cuồng tín Biệt phái. Từ thái cực là một kẻ hung hăng bắt đạo, Phaolô đã mềm nhũn và ngoan hiền dưới ánh sáng kỳ diệu với lời trách nhẹ nhàng: “Saulê, sao người bắt bớ Ta?”. Phaolô làm bạn với nhóm 12 và trở thành tông đồ dân ngoại. Phaolô vui nhận thử thách, không ngừng thuyết giảng, và trung thành đến giọt máu cuối cùng. Phaolô đã được lột xác và biến hình.
Lịch sử Giáo hội ghi nhận nhiều cuộc biến hình khác. Từ say rượu đến say Chúa; từ gái giang hồ thành thánh nhân; từ trai tứ chiếng nên đấng lập dòng; từ kẻ khô khan đến người sốt mến; từ người tham lam, hà khắc trở thành kẻ rộng lượng và khoan nhân… Đó là những cuộc canh tân và biến hình đã, đang và còn tiếp tục xảy ra trong Giáo hội. Đồng thời chứng minh rằng ơn Chúa dư đủ cho mọi người và Chúa đang thắng ma quỉ, xác thịt và thế gian nơi cung lòng mỗi cá nhân.
Phúc âm hôm nay hé lộ một chút vinh quang và sự cả sáng của cứu Chúa khi Ngài đàm đạo với hai nhân vật lịch sử nổi tiếng và kính yêu là Elia và Môisen. Tại sao thế, vì sứ mệnh cứu độ, Chúa Giêsu che giấu tất cả uy quyền và dũng lực của Ngôi Lời, để sống đời hèn mọn, bất lực và tầm thường của một thế nhân. Ngài cần ăn uống, nghỉ ngơi. Ngài phải đau buồn, bị chê bai và chỉ trích. Ngài lo lắng, và bồn chồn về cuộc thảm tử sắp đến. Nhưng điều khác biệt là Ngài vui đón ý Chúa Cha. Bởi vậy, một lần nữa, Chúa Cha đã khen thưởng “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. trong phút giây ngút ngàn thân thương ấy, Ngài bước ra khỏi cuộc đời lam lũ và ô trọc để vui hưởng phút vinh quang ngây ngất và tuyệt vời của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Không phải chỉ có Abraham, Môisen, Elia, tông đồ mới có ơn gọi và được biến hình. Trái lại, ơn gọi phổ quát “Hãy nên hoàn thiện như Cha các con ở trên trời” đã được trao tặng và mời gọi mỗi cá nhân. Thực thi ơn gọi ấy một cách hoàn hảo và trọn vẹn thì chúng ta ắt sẽ được biến hình.
Giám mục John Quinn trong lễ thêm sức cho 50 em tại Sacramento năm 1983 đã mô tả ơn gọi và sứ mạng của người Việt Nam tại Mỹ như sau: “Cha rất hài lòng khi thấy các con họp nhau tôn thờ và ca tụng Chúa bằng tiếng mẹ đẻ. Các con hãy duy trì nền văn hoá và truyền thống cổ truyền, đừng để nó mai một đi. Cha vui mừng vì hình thức đạo đức bên ngoài biểu lộ đức tin anh hùng và sâu xa chúng con thừa hưởng do công quả của các đấng tử đạo Việt Nam. Cha cảm động vì sự hiện diện của chúng con ở đây nên ánh sáng và muối đất cho những người khác”.
Tin đạo, thực hành đạo là ơn gọi của chúng ta. Sống đạo và mang đạo vào đời là phương thế trong lành, thánh thiện và vĩ đại chúng ta phải thực hiện để “Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện”. Đừng để phú quí tạo tâm kiêu và bất cẩn Chúa. Đừng để ghen tương đốt cháy và tiêu huỷ thiện chí. Đừng để tị hiềm gây bất mãn, đố kỵ và tranh chấp. Đừng để ích kỷ huỷ hoại tình đồng hương và khoá cửa lòng. Hãy nhận diện ra ai là đồng chí để cùng nắm tay, dìu nhau bước tới và biến hình và ai là kẻ thù đang khai trừ và bắt bớ Đức Kitô trong Giáo hội để cẩn trọng, đề phòng và cảm hoá. Và nhất là hãy can đảm cùng Chúa Kitô “vạn lý trường chinh” trong âm thầm, chịu đựng, tự huỷ, hy sinh, khiêm tốn, tin tưởng và phó thác. Chúng ta không bao giờ lầm đường khi bước trên những dấu chân của Đức Kitô. Đó là con đường biến hình duy nhất của ông bà, anh chị em và của tôi.
71. Hai ngọn núi
Hãy so sánh cảnh hôm nay với cảnh trên núi Cây Dầu: – Cùng xảy ra trên một ngọn núi: núi biến hình (Tabor?) và núi Cây dầu.
– Ở hai nơi Chúa Giêsu đều biến hình: ở núi biến hình, Chúa Giêsu từ hình dáng loài người biến thành hình dáng Thiên Chúa; ở núi cây dầu, từ hình dáng Thiên Chúa biến ra hình dáng con người yếu đuối.
– Cả hai sự biến hình đều diễn ra trước ba nhân chứng: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Và hai điểm phụ: hai lần ấy, họ đều ngủ, còn Chúa Giêsu đều thức và cầu nguyện.
Nhưng hai cuộc biến hình này bổ túc ý nghĩa cho nhau: Trên núi biến hình, các môn đệ thấy được thiên tính của Chúa Giêsu vinh quang hơn bao giờ hết, khiến họ ngất ngây sung sướng, muốn ở mãi trong tâm trạng ngất ngây đó; trên núi cây dầu, họ thấy Thầy trong nhân tính yếu đuối hơn bao giờ hết. Con người thật của Chúa Giêsu vừa có thiên tính vừa có nhân tính. Hai biến cố bổ túc nhau giúp ta hiểu được con người thật của Ngài.
* Suy gẫm hai biến cố này, ta cũng thấy được con người thật của ta: trong ta có một phần là Ađam con của xác thịt, một phần là con của Chúa.
– Cũng như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình, có nhiều lúc chúng ta cảm thấy ngất ngây sung sướng; thấy mình sốt sắng quá, gần Chúa quá, yêu thương anh chị em quá, sẵn sàng làm những điều tốt cho anh chị em, sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình…
– Nhưng cũng như Chúa Giêsu trên núi cây dầu, lại có những lúc chúng ta suy sụp trầm trọng; phần Ađam nổi lên lấn át phần Con của Chúa. Khi đó ta thấy đời thật buồn nản, thấy không ai thương mình, không ai hiểu mình, Chúa hình như cũng xa mình… Từ đó ta nguội lạnh với Chúa, ích kỷ với anh chị em, khe khắt với những kẻ làm khổ mình.
+ Nhưng có một điều rất quan trọng ta hãy nhớ: Chúa Giêsu luôn cầu nguyện khi biến hình vinh quang trên núi biến hình cũng như khi biến hình thảm não trên núi cây dầu. Cầu nguyện giúp thống nhất con người chúng ta đúng theo kế hoạch Thiên Chúa. Đặc biệt nhớ cầu nguyện trong lúc suy sụp.
+ Và nếu ta biết cầu nguyện để thống nhất hoá con người mình như thế thì ta sẽ cũng như Chúa Giêsu được Chúa Cha âu yếm nói “Đây là con yêu dấu của Ta” (trên núi biến hình), và được thiên thần Chúa an ủi (trên núi cây dầu).
72. Nét mặt
Nét mặt con người rất quan trọng. Nhớ ai là nhớ mặt người đó. Khi ta không nhớ mặt người nào thì kể như người đó đã trở thành một chiếc bóng.
Những sắc thái của nét mặt diễn tả được rất nhiều đến độ đáng ngạc nhiên, bởi đó nét mặt là đối tượng nghiên cứu rất thú vị. Nét mặt luôn biểu lộ cho biết ta là ai và cuộc sống của ta như thế nào. Điều này giải thích lý do người ta hay dùng tiếng “mặt” để nói về người khác. Chẳng hạn: “Từ lâu rồi tôi không thấy mặt nó”. Nhìn nét mặt một người, ta có thể đoán được cảm giác bên trong của người ấy: họ đang vui hay buồn, hay thờ ơ…Chúng ta cũng thường nói “mất mặt”. Trong trường hợp này, “mặt” chính là danh dự của con người. Khi ta nói người nào đó có “hai mặt” thì có nghĩa đó là một con người dối trá…
Mỗi người chúng ta có nhiều nét mặt, được biểu lộ trong nhiều tình huống khác nhau: khi thì hạnh phúc, khi thì buồn rầu, khi thì bạo dạn, khi thì nhút nhát, khi thì bình thản, khi thì sợ sệt, khi thì đau đớn, khi thì vui mừng, khi thì thân thiện, khi thì giận dữ… Điều này chẳng có gì đáng xấu hổ cả, vì đó là một phần của thân phận làm người của chúng ta. Điều duy nhất đáng xấu hổ là nét mặt giả tạo, vì tất cả những nét mặt được kể trước đó đều nói lên sự thật, còn nét mặt giả tạo nói lên sự dối trá. Tại sao người ta ngại cho kẻ khác thấy nét mặt thật của mình? Tại sao người ta hay mang mặt nạ? Phải chăng vì người ta sợ người khác biết sự thật yếu kém của mình? Có lẽ chính vì thế mà nhiều khi người ta cố làm một nét mặt tươi cười đang khi trong lòng thì muốn khóc.Bài Tin Mừng hôm nay nói khi Chúa Giêsu ở trên núi thì mặt Ngài trở nên sáng chói như mặt trời. Thật lầm khi nghĩ rằng đó chính là nét mặt thật của Chúa. Thực ra, điều mà các môn đệ đã thấy là thật, nó tỏ lộ vinh quang bên trong của Ngài. Sự vinh quang mà thường khi Ngài che dấu. Nhưng nói rằng nét mặt vinh quang trên núi hôm ấy là nét mặt thật thì khiến người ta tưởng rằng những nét mặt khác là không thật, là giả. Nét mặt mà Chúa Giêsu tỏ lộ trên núi là một nét mặt đặc biệt nhưng không phải là nét mặt duy nhất của Ngài. Ngài có tất cả những nét mặt như chúng ta đã có, chỉ trừ những nét mặt giả tạo. Chúng ta đã thấy có khi Ngài mệt, có khi Ngài giận, có khi Ngài buồn, có khi Ngài vui, có khi Ngài trìu mến, có khi Ngài cảm thông… Tất cả những nét mặt ấy đều thật, vì đàng sau những nét mặt ấy là bản chất thật của Ngài: vừa là người hoàn toàn giống chúng ta (chỉ trừ tội lỗi), vừa là Thiên Chúa vinh quang, như tiếng từ trời phán “Đây là Con yêu quí của Ta”. Mặc dù người ta nói nét mặt là cửa sổ của tâm hồn, nhưng mỗi nét mặt che giấu nhiều hơn là biểu lộ. Điều cốt lõi của con người vẫn còn vô hình không thấy được. Mỗi người là một huyền nhiệm. Cũng như Abraham, chúng ta phải sống bằng đức tin, đức tin dạy rằng đàng sau những nét mặt bình thường của một người là thân phận của một người con của Chúa, một người anh chị em của Chúa Giêsu, hướng tới một vinh quang đời đời.
73. Vinh quang
Trên núi Tabor, ánh vinh quang của Thiên Chúa đã toả chiếu từ thân xác Chúa Giêsu, và Ngài được biến hình. Các môn đệ đã ngây ngất trước vẻ đẹp và sự sáng ngời ấy. Đó không phải chỉ là vẻ bề ngoài, mà là vinh quang thật từ bên trong thoáng tỏ lộ ra. Nói tắt một lời: Đó là chính Thiên Chúa ở trong Chúa Giêsu. Chúng ta cũng có vinh quang thần linh ở trong chúng ta, bởi vì chúng ta đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta cũng có những thoáng biến hình. Van Gogh nói: “Một người tiều phu hay một người thợ mỏ nghèo nhất cũng có thể có những thoáng cảm hứng khiến anh ta cảm thấy gần như đang ở thiên đàng”.Một người nghèo sống trong khu nhà dành cho những kẻ vô gia cư đã kể câu chuyện sau đây. Một hôm ông đi dạo trên phố và tình cờ vào một ngôi nhà thờ lúc nào không hay. Ông không nhớ là lúc đó ông có cầu nguyện không, nhưng ông nhớ là cảm thấy tâm hồn mình chìm ngập trong ánh sáng. Mọi buồn chán đều tan biến hết, chỉ có bình an. Ông cảm thấy mình rất gần Chúa và được Chúa yêu thương. Cảm nghiệm này rất sâu đậm mặc dù chỉ thoáng qua trong phút chốc. Ông nói rằng ông sẵn sàng đánh đổi cả đời để có được một thoáng cảm nghiệm ấy. Khi ông rời nhà thờ, cảm nghiệm ấy tan loãng dần. Về sau, ông trở lại nhà thờ nhiều lần để mong có lại cảm nghiệm tuyệt vời ấy, nhưng không được. Điều sai lầm của người vô gia cư trên là muốn bám cứng vào một cảm nghiệm thoáng qua. Nói cách khác, ông muốn đi lùi chứ không đi tới. Nói rõ hơn nữa: lẽ ra ông phải biết dùng cái cảm nghiệm thoáng qua ấy để soi sáng cuộc đời tăm tối của mình, và nhờ đó mà can đảm tiến bước trong hy vọng.
Phêrô cũng sai lầm như thế. Ông muốn ở lại mãi trên núi. Ông muốn bám cứng vào cảm nghiệm vinh quang hạnh phúc. Ông không muốn xuống núi tiếp tục cuộc sống thường ngày. Nhưng Chúa Giêsu đã giục ông xuống núi để đối diện với tương lai. Ngài không muốn cảm nghiệm trên núi ấy trở thành chỗ cho Phêrô ẩn trốn khỏi cuộc chiến đấu đang đợi chờ phía trước. Một thoáng ánh sáng Ngài ban cho ông là để giúp ông trực diện với giờ tăm tối sắp đến. Nghe lời Chúa, Phêrô đã xuống núi. Nhưng lạ thay, cảm nghiệm thoáng qua hôm ấy vẫn còn sáng mãi trong lòng ông. Nhiều năm sau ông còn viết: “Chúng ta đã được chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi… Khi ấy có tiếng phán từ trời rằng: Đây là Con yêu quí của Ta. Ta hài lòng về Ngài. Chúng ta cũng những thoáng cảm nghiệm được ánh sáng và niềm vui. Những thoáng cảm nghiệm ấy cho ta thấy được đất hứa mà chúng ta phải tiến đến trong đức tin. Nhưng nên biết rằng Chúa ban những thoáng biến hình ấy là để thêm sức cho chúng ta sống những nhiệm vụ hàng ngày.
Tín ngưỡng và sự cầu nguyện không phải là những chỗ ẩn trốn, mà là những trợ lực giúp chúng ta đương đầu với gian lao thử thách.
74. Người vẫn đồng hành – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Truyện ngụ ngôn kể về một nhà thiên văn có thói quen mỗi buổi tối lại nhìn lên các ngôi sao, nghiên cứu các vì tinh tú đang xoay vần, chuyển đổi trong vũ trụ bao la.
Một lần kia, đang đi dạo mát quanh vùng, mải mê suy nghĩ những chuyện trên trời, ông ta vô ý ngã xuống giếng cạn. Tiếng kêu cứu thất thanh, khiến một người đi ngang qua đó nghe được. Ông vội vàng chạy đến miệng giếng, liền đoán được việc gì đã xảy ra, bèn nói với nhà thiên văn::Này ông, ông cứ muốn biết những việc xảy ra trên trời, còn những việc sờ sờ dưới đất sao ông không thấy?”
Đêm hôm ấy, Chúa Giêsu cùng với ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện.
Trong lúc Người thân mật cầu nguyện với Chúa Cha thì các ông lại mê mệt trong giấc ngủ say. Nhưng khi tỉnh dậy, thấy Chúa Giêsu vinh quang chói loà, cả hai ông Môsê và Elia đàm đạo với Người cũng rạng ngời vinh hiển, thì Phêrô mau mắn thưa::Thưa Thầy, chúng con ở đây, hay quá!”. Các ông thích ở chốn vinh quang sáng láng, nhưng lại không tỉnh thức cầu nguyện. Các ông muốn cắm lều trên núi cao, nhưng lại chìm sâu trong cơn ngủ mê. Sau này trong vườn cây dầu, cũng chính ba môn đệ này vẫn còn mê ngủ, cho đến khi kẻ thù đến bắt mất thầy. Đó là thân phận yếu hèn của mỗi người chúng ta…
Chính vì biết các môn đệ yếu đuối mà Chúa Giêsu đã cho các ông được chiêm ngắm vinh quang của Người, dù chỉ trong chốc lát, để củng cố niềm tin của các ông trong cuộc khổ nạn mà Ngài sắp thực hiện tại Giêrusalem. Đồng thời để các ông có bằng chứng loan báo về việc Người phục sinh sau này.
Việc biến hình sáng láng hôm nay cũng là để chứng thực cho lời tuyên xưng của Phêrô ở Xêdarê cách đây tám ngày: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Nếu cuộc biến hình vinh quang của Chúa Giêsu là sự đáp trả của Chúa Cha qua việc Người chấp nhận cuộc khổ nạn, thì sự vâng theo ý Chúa hôm nay, xem ra vất vả nặng nề, cũng sẽ trở nên nguồn vui bất diệt cho chúng ta ngày mai.
Nếu đang khi cầu nguyện, dung mạo Người bỗng biến đổi, thì việc gặp gỡ, kết hiệp với Chúa trong suy niệm và cầu nguyện sẽ biến đổi tâm hồn, cuộc sống và cả con người chúng ta mỗi ngày để nên giống Chúa hơn.
Nếu sau cuộc biến hình, Chúa Giêsu trở lại với khuôn mặt bình thường, Thầy trò lại tiếp tục cuộc sống thường nhật, thì sau những niềm vui khôn tả Chúa ban trong cầu nguyện, chay tịnh và bác ái, Người vẫn tiếp tục đồng hành với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biến hình sáng láng trên núi Tabo và đã hấp hối bi thảm trên núi Cây Dầu. Nhưng trong hai lần ấy, Chúa đều cầu nguyện mật thiết với Chúa Cha. Xin cho chúng con biết cầu nguyện, lúc hạnh phúc cũng như khi đau khổ, khi an vui cũng như lúc gặp thử thách, để chúng con luôn kết hiệp với Chúa và để Chúa nâng đỡ chở che. Amen.
75. Hành trình đức tin – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Sau biến cố Gioan Tẩy Giả bị chém đầu (Mt 14,1-12; Mc 6,14-29), Chúa Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn sắp tới, Người sẽ lên Giêrusalem để chịu thương khó và chịu chết. Một đám mây đen che phủ các môn đệ.
Họ chao đảo niềm tin. Phêrô đại diện anh em phản đối kịch liệt. Phêrô không chấp nhận thập giá khổ nhục. Để khai quang đám mây đen đó và để cũng cố niềm tin cho các môn đệ, Chúa Giêsu đưa họ lên núi Tabor. Người biến hình, cho họ thấy một thoáng Phục sinh trước Phục sinh, cho họ hưởng nếm một chút Thiên đàng trước Thiên đàng. Nhờ đó các môn đệ thêm niềm tin, thêm mạnh mẽ, thêm xác tín.
Chúa đưa ba môn đệ lên núi cao. Các ông được đi vào một thế giới vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, làm biến đổi ý nghĩa cuộc đời.
Các ông thấy: “Dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (Mc 9,3); “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2); “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa” (Lc 9,29). Khi biến đổi hình dạng nên sáng láng, Chúa Giêsu cho các tông đồ thoáng nhận ra vinh hiển tương lai của Người.
Suy niệm biến cố Biến Hình, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết: “Chính nơi đây nổi bật sự liên hệ và sự khác biệt với gương mặt ông Môisen: “Khi ông Môisen từ trên núi Sinai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi, ông Môisen không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa” (Xh 34,29-35). Qua việc đàm đạo với Thiên Chúa, ánh sáng của Thiên Chúa chiếu sáng trên ông và làm cho ông sáng chói. Như thế, ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào ông làm cho ông sáng chói. Đức Giêsu chói sáng tự bên trong, không những Người đón nhận ánh sáng mà chính Người là ánh sáng bởi ánh sáng”. (x.Đức Giêsu thành Nazareth, Lm Aug Nguyễn Văn Trinh biên dịch, trang 268).
Cuộc kết hiệp đã đưa Chúa Giêsu đi vào thiên giới. Cảnh vật chung quanh cũng biến đổi theo cuộc kết hiệp vĩ đại đó: “Y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa”. Cuộc kết hiệp thần kỳ đã mở ra tất cả bí mật của thế giới Thiên Chúa. Rõ nét nhất là tương quan phụ tử: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn” (Lc 9,35). Tiếng Chúa Cha phán ra từ đám mây bao phủ các ông. Đám mây thiên linh, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Đám mây ngự trên Lều Hội Ngộ cho thấy sự hiện diện của Đức Chúa. Đức Giêsu là Lều Thánh, đám mây của sự hiện diện Thiên Chúa đậu trên Người và từ đó cũng sẽ “bao phủ” mọi người. Sự kiện thánh tẩy Đức Giêsu được tái hiện, nơi đó Chúa Cha từ đám mây công bố Đức Giêsu là Con: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1,11). (sđd, trang 172).
Các môn đệ còn thấy: “Có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia”. Đây là hai nhân vật quan trọng nhất trong Cựu ước, đại diện cho hai thực tại quan trọng nhất của Do Thái giáo. Môisen đại diện cho luật pháp. Êlia đại diện cho các ngôn sứ. Hai ông là biểu tượng tiên báo sự ra đời của Đức Giêsu. “Lề luật và ngôn sứ đàm đạo với Đức Giêsu và nói về Người. Trong một chú thích ngắn ngũi, thánh Luca trình thuật cho chúng ta về điều hai chứng nhân của Thiên Chúa nói với Đức Giêsu: “Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9,31). Đề tài đàm đạo của các ngài là thập giá, nhưng hiều ngầm là cả cuộc “Xuất hành của Đức Giêsu” phải diễn ra tại Giêrusalem. Thập giá Đức Giêsu là cuộc xuất hành, một việc bước ra khỏi cuộc sống này, vượt qua Biển Đỏ của cuộc khổ nạn và tiến đến vinh quang, dù vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn” (sđd trang 268).
Ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê có những trải nghiệm tuyệt vời về Thầy của mình. Cũng vẫn là Đức Giêsu bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, nhưng lần này, các ông được nhìn thấy Người dưới một dung mạo mới: thật sáng ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi. Các ông vững lòng tin tưởng.
Trên núi cao, Chúa Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Các môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc tuyệt vời. Các ông muốn ở lại trên núi để sống niềm hạnh phúc ngập tràn ấy. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môisen, và một cho ông Êlia”. Phêrô muốn dừng lại để định cư với những túp lều lý tưởng trên núi cao.
Các môn đệ muốn đăng ký thường trú trên núi Tabor, muốn đắm mình trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo của Thầy. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa. Nhưng Chúa Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Người chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Golgotha. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Chúa Giêsu phải chịu khổ nạn, chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào thiên đàng. “Cảm nghiệm sự kiện Hiển Dung đã giúp cho thánh Phêrô nhận thức trong lúc ngất trí, những thực tại được biểu trưng trong các nghi thức của ngày lễ đã được hoàn tất, biến cố Hiển Dung loan báo thời đại Messia đã bắt đầu. Mãi khi xuống núi, thánh Phêrô lại phải học hỏi một lần nữa, thời đại Messia trước tiên là thời đại của thập giá và việc Hiển Dung, Chúa biến dạng thành ánh sáng, sẽ bao trùm chúng ta trong ánh sáng của cuộc khổ nạn.” (sđd trang 269).
Chứng kiến Chúa Hiển Dung, thấy rõ tất cả sự thật về Thầy, các môn đệ vững tin hơn. Từ nay, các ông tin tưởng tuyệt đối “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21).
Sự kiện Chúa Giêsu biến hình cùng với sự xuất hiện của hai chứng nhân Cựu Ước, Môisen và Êlia, thêm một lần nữa, khẳng định sứ mệnh của Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Và còn hơn thế nữa, lời Chúa Cha giới thiệu: “Này là con Ta, người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Mọi người, mọi thời phải nghe Lời Chúa Giêsu, vì đây là Lời Chúa Cha, vì chỉ một mình Chúa Giêsu là Thầy mà thôi. Những chứng cứ về Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế thật quá rõ ràng. Con người muốn được sống và hưởng vinh quang Thiên Chúa, điều kiện cần và đủ, là tin vào Chúa Giêsu Kitô.
“Vâng nghe lời Người” là tất cả những gì cần thiết để con người đi đến bến bờ vinh quang của Thiên Chúa. Đó là cuộc hành trình của Đức Tin: “Con người trên đường lữ hành về với Đấng Tuyệt Đối. Đời sống con người trên trái đất là một cuộc lữ hành. Đức Tin lữ hành của con người hướng con người về Thiên Chúa, giúp con người chọn lựa những gì sẽ làm cho mình đạt tới sự sống vĩnh hằng. Do vậy, mỗi giây phút trong cuộc lữ hành trên trái đất đều quan trọng, quan trọng với những thách đố và chọn lựa của nó” (x.Tiến về ngàn năm thứ ba, ĐGH Gioan Phaolô II).
Tin vào Đức Kitô là đi con đường Thập Giá cùng với Người. Muốn ở lại trong vinh quang của Đức Kitô, phải vác thập giá với Người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).Vác thập giá hằng ngày là chấp nhận những khổ đau theo thánh ý Chúa, là đối diện với những thách đố của cuộc đời với lòng thanh thản trong sự phó thác vào tình yêu Thiên Chúa, là biết từ bỏ và chọn lựa những gì cần thiết để nuôi dưỡng niềm tin vào Thiên Chúa. Cuộc lữ hành Đức Tin đầy hiểm nguy sóng gió. Satan “như sư tử gầm thét, ngày đêm rình mò chờ chực cắn xé” (1 Pr 5,8).Satan luôn rình rập chung quanh chúng ta, nó “chờ đợi thời cơ” (Lc 4,13) thuận tiện và khai thác tất cả mọi thứ trong cuộc sống để làm lung lay niềm tin của chúng ta,
Nếu chúng ta”có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này ‘rời khỏi đây, qua bên kia!’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17,20-21). Sức mạnh đức tin thật lớn lao!
Bài đọc 1 kể về đức tin của Abraham. Nhờ “tin Đức Chúa” (St 15, 6), Abraham được “Đức Chúa lập giao ước” (St 15,18). Không những thế, ông còn trở thành tổ phụ của dòng dõi đông như sao trên trời (x. St 15,5). Nhưng trên hết, nhờ lòng tin, ông được “Đức Chúa kể ông là người công chính” (St 15,6). Lòng tin đã thực hiện một cuộc biến hình ngoạn mục trong đời Abraham. Đức tin đã khiến Abraham vượt núi băng rừng đến miền đất hứa.
Đất hứa đó, ngày nay không đóng khung trong ranh giới Do thái, vì miêu duệ Abraham là Giáo hội đã trải rộng khắp mặt đất. Mặc dù niềm tin đó đã gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn sống mạnh mẽ với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, Giáo hội đã biến hình và luôn phản ánh vinh quang Thiên Chúa giữa muôn dân.
Cuộc biến hình hôm nay còn ngoạn mục hơn Abraham nhiều. Chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu sẽ biến Kitô hữu thành người công chính, thành bạn hữu của Người để có thể đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa.
Trong bài suy niệm “Việc ĐGH Bênêđictô XVI từ nhiệm là một sứ điệp của Năm Đức Tin”, Đức Cha Bùi Tuần viết: “…Tin Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI từ nhiệm đã và đang gây xôn xao trong mọi tầng lớp xã hội và Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng từ nhiệm, đó là biến cố rất bất ngờ. Bất ngờ đó gây ra trong tôi một nỗi bàng hoàng choáng váng.Lấy lại sự bừng tỉnh nhờ cầu nguyện, tôi cúi đầu lắng nghe Chúa dạy bảo. Chợt tôi nhớ lại một chi tiết nhỏ riêng tư, lần tôi được gặp Đức Giáo Hoàng lúc Ngài còn là Hồng Y Bộ trưởng Bộ Đức Tin. Trong trao đổi, tôi thấy Ngài chú ý đặc biệt đến sự gặp gỡ Đức Kitô. Như thế căn cốt của đức tin là gặp gỡ riêng tư và thân mật với Đức Kitô, để bước theo Đức Kitô… Nên trong thinh lặng nội tâm lúc này, Chúa dạy tôi hãy dùng chi tiết đó như một ánh sáng để hiểu sự từ nhiệm của Đức Giáo Hoàng. Nhờ ơn Chúa giúp, tôi dần dần nhận ra rằng: Sự từ nhiệm của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô chứng tỏ Ngài đã và đang gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô… Theo Ngài, tin là gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô trong sự từ bỏ quyền lợi riêng, và bước xuống thân phận con người hèn yếu, vì yêu thương con người và để cứu chuộc loài người…”. (x.gplongxuyen.net).
Đức Thánh Cha đã đi trọn hành trình theo Đức Kitô,đã trở nên giống Chúa Kitô. Đức Thánh Cha từ nhiệm vào đầu Mùa Chay để sống tinh thần Mùa Chay: sám hối, chay tịnh, cầu nguyện cho Giáo Hội, thể hiện một tình yêu vô biên đối với Giáo Hội.
Gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô là một hành trình đức tin đi đến sự sống mới.Thánh Phaolô đã đi trọn hành trình ấy và ngài đúc kết kinh nghiệm về cuộc sống biến đổi trở nên giống Chúa Kitô. Tư tưởng “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (Pl 3,10) bàng bạc trong các bức thư của ngài và đã trở thành nguyên lý căn bản đưa chúng ta đến ơn cứu rỗi. Cuộc biến đổi để trở nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn là một tiến trình kéo dài cả đời người. Mỗi ngày một chút, rũ bỏ con người cũ, loại dần lối sống tội lỗi để làm con người mới với lối sống mới theo Thánh Thần, chúng ta sẽ gắn bó và thuộc về Chúa Kitô, và Người sẽ “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Bài đọc 2).
Thiên Chúa yêu thương con người là một tình yêu không “môn đăng hộ đối”, hoàn toàn do sáng kiến và lòng xót thương của Ngài. Thiên Chúa đã đi bước đầu trong mối tương quan và thiết lập giao ước với Apraham.Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc và nguyên vẹn. Thiên Chúa cũng hứa thông qua ông, tất cả các dân tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc, bởi vì Đấng Messia sẽ đến từ dòng dõi của ông. Lời hứa ấy đã được nên trọn vẹn nơi Chúa Giêsu. Biến cố biến hình chính là một mạc khải về tình thương lạ lùng đó. Thiên Chúa hiến mình cho con người: Cha hiến ban Con và Con hiến ban chính bản thân mình chịu chết để vào Phục Sinh khai mở con đường dẫn tới sự sống. Tin vào tình thương Thiên Chúa, nên chúng ta học theo lối sống của Chúa Giêsu bằng cách đọc và suy gẫm Tin Mừng, đem Lời Chúa vào cuộc sống, để cho Lời Chúa thay đổi cách suy nghĩ, nói năng và hành động của chúng ta được trở nên giống với cung cách của Chúa Giêsu. Đó là được biến hình trong Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa như Thánh Phaolô đã từng cảm nghiệm: ‘Tôi sống nhưng không phải tôi sống, chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2,10).
“Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở trong người đó…sẽ sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mỗi ngày nên giống Chúa trong lời nói việc làm, xin cho đời sống chúng con nên dấu chỉ yêu thương của Chúa giữa cuộc đời hôm nay. Amen.
76. Suy niệm của JKN
THẦN TÍNH NƠI ĐỨC GIÊSU VÀ NƠI MỖI NGƯỜI CHÚNG TA
Câu hỏi gợi ý:
1. Sự hiển dung của Đức Giêsu mặc khải điều gì? Dung mạo Ngài thay đổi, y phục chói loà, sự hiện diện của Môsê và Êlia có ý nghĩa gì?
2. Đức Giêsu có thần tính, vì Ngài là Con Một Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta có thần tính và có là con cái của Thiên Chúa không? Thần tính của Ngài và của ta khác nhau chỗ nào?
3. Ý thức về thần tính của mình quan trọng thế nào trong sự phát triển tâm linh? Bj không ý thức về nó, ta có sử dụng được nó không?
Suy tư gợi ý:
1. Thiên Chúa mặc khải thần tính của Đức Giêsu
Bài Tin Mừng nói về việc Thiên Chúa mặc khải cho các tông đồ biết Đức Giêsu có thần tính và là Đấng mà Môsê và các ngôn sứ loan báo mấy trăm năm trước. Trong đời sống thường ngày ở bên cạnh Đức Giêsu, các tông đồ chỉ thấy được nhân tính của Ngài. Vì Ngài sống không khác bất kỳ một người bình thường nào: cũng ăn, uống, cũng vất vả, mệt nhọc, cũng vui buồn, tức giận… y hệt mọi người. Nếu có gì khác thì chỉ là Ngài làm được những phép lạ phi thường. Điều này chỉ gợi ý cho các ông nghĩ rằng Ngài là một người phi thường tương tự các ngôn sứ xưa mà thôi, vì các ngôn sứ ngày xưa cũng lắm khi làm được những phép lạ.
Nhưng hôm nay Thiên Chúa tỏ cho các ông thấy Đức Giêsu không chỉ có nhân tính, mà còn có thần tính, nghĩa là Ngài là thần linh. Tuy nhiên, tất cả những gì các ông thấy hôm nay chỉ là những biểu tượng thần bí nói lên bản tính thần linh nơi con người Đức Giêsu mà các ông không thể thấy được bằng trí tuệ hay con mắt xác thịt của các ông.
– Trước hết các ông thấy: “Dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà”. Tin Mừng Matthêu nói: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời” (Mt 17,2). Và có tiếng phán từ trong đám mây “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”. Đó là những biểu tượng cho các ông thấy Đức Giêsu có thần tính: Ngài là Con Thiên Chúa, có bản tính Thiên Chúa.
– Các ông còn thấy “có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia”. Đây là hai nhân vật quan trọng nhất trong Cựu ước, đại diện cho hai thực tại quan trọng nhất của Do Thái giáo. Môsê đại diện cho luật pháp, vì ông là người lập ra luật pháp, nền tảng thành văn của Do Thái giáo. Êlia, ngôn sứ vĩ đại nhất, đại diện cho các ngôn sứ là những tiếng nói của Thiên Chúa giữa con người. Hai ông là biểu tượng tiên báo sự ra đời của Đức Giêsu. Trong sách Đệ Nhị Luật, Môsê viết: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy” (Đnl 18,15). Còn Êlia được ngôn sứ Malakia tiên báo là sẽ trở lại trước khi Đức Giêsu đến: “Này Ta sai ngôn sứ Êlia đến với các ngươi, trước khi ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng” (Ml 3,23). Đức Giêsu cũng xác nhận Êlia phải trở lại trước khi Ngài đến (x. Mt 17,10-12; Mc 9,12-13).
2. Thần tính của chúng ta, những người Kitô hữu
Đức Giêsu có thần tính, nghĩa là Ngài là thần linh, cũng là Thiên Chúa. Thế còn chúng ta, những con người được Thiên Chúa tạo dựng thì sao? Kinh Thánh mặc khải cho ta biết con người là “hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6), được tạo dựng “giống như Thiên Chúa” (St 1,26b). Hình ảnh của một người không phải là người ấy nhưng giống hệt như người ấy, khiến ai nhìn vào hình ảnh ấy có thể phần nào thấy được chính người ấy. Hai vật hay hai người đã gọi là giống nhau, nhất là khi nói người này là hình ảnh của người kia, ắt phải giống rất nhiều điểm, hay rất giống ở những điểm cốt yếu. Người và chó đều có thân xác vật chất (cũng có đầu, mình, tứ chi, mắt mũi, v.v…), nhưng không ai nói người và chó giống nhau. Vậy, con người “giống như Thiên Chúa” ở chỗ nào? Thánh Phêrô hé mở cho chúng ta biết: “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1,4). Như vậy, điều khiến con người giống Thiên Chúa chính là bản tính thần linh mà Thiên Chúa thông ban cho chúng ta. Bản tính thần linh chúng ta có được là do Ngài thông ban cho khi tạo dựng nên ta, khác với bản tính thần linh ở nơi Ngài là do tự bản chất vốn có của Ngài.
Nếu không có bản tính thần linh này trong chúng ta, chúng ta không bao giờ có thể nên thánh như Thiên Chúa đúng như Đức Giêsu đã mời gọi ta được: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Cũng như con chó không có bản tính người nên không thể có những đặc tính như con người (suy nghĩ, nói năng, yêu thương, hướng thượng, tự do…). Thiên Chúa tự bản chất là tình thương và là thánh, con người vì giống Thiên Chúa từ bản chất nên cũng có khả năng yêu thương và nên thánh. Vua Đavít đã được thần hứng để nhận ra và nói lên chân lý này: “Ta đã phán: Hết thảy các ngươi đây đều là bậc thần thánh, là con Đấng Tối Cao” (Tv 82,6; x. Ga 10,34-35). Nếu chúng ta không có bản tính thần linh, chúng ta không thể là con cái Thiên Chúa đúng nghĩa như Kinh Thánh vẫn nói: chúng ta “là con cái Thiên Chúa” (Lc 20,36; Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6). Chính vì chúng ta có thần tính mà Đức Giêsu dám quả quyết: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17,20). Điều quan trọng để thần tính ấy hoạt động là đức tin.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, biểu tượng nói lên bản tính thần linh của các tông đồ là: “có một đám mây bao phủ các ông”. Tiếng của Thiên Chúa phán ra từ đám mây, vì thế đám mây tượng trưng cho thần tính. Và trong bài đọc II, thánh Phaolô cho ta thấy nguồn gốc hay “quê hương của chúng ta là ở trên trời” (Pl 3,20; x. Dt 11,16). Đó cũng là một biểu trưng cho thần tính của chúng ta.
3. Ý thức bản tính thần linh của mình và sống với bản tính ấy là cốt tuỷ của đời sống tâm linh Kitô hữu
Cuộc hiển dung của Đức Giêsu cho thấy bản tính thần linh của Ngài. Chỉ những ai được Thiên Chúa mặc khải mới biết bản tính ẩn dấu này ở nơi Ngài. Thần tính của Đức Giêsu là thần tính thường hằng, không thay đổi. Còn thần tính của chúng ta là thần tính cần phải vun trồng mới phát triển. Có thể minh hoạ điều này bằng sự phát triển của một cái cây. Thần tính được Thiên Chúa thông phần và ươm sẵn trong chúng ta tương tự như một cái hạt có thể nảy mầm và phát triển thành cây tuỳ theo sự vun trồng, chăm sóc của mỗi người. Nếu không có sự quan tâm, chăm sóc, vun trồng, thì cái hạt tâm linh của ta vẫn mãi mãi là một cái hạt, hoặc nếu có nẩy mầm thì sẽ thành một cái cây èo ọt, không sinh hoa kết trái. Trái lại, nếu được vun trồng và chăm sóc cẩn thận, nó sẽ phát triển thành một cây lớn với cành lá xum xuê và sinh nhiều hoa trái. Dụ ngôn hạt cải của Đức Giêsu (x. Mt 13,31-32; Mc 4,30-32; Lc 13,18-19) có thể áp dụng cho thần tính hay Nước Trời, được ươm giống trong bản thân mỗi người chúng ta.
Điều quan trọng nhất để hạt giống thần linh hay mầm thần tính ấy phát triển là phải tin vào thần tính ấy, thường xuyên ý thức về nó, và sống phù hợp với thần tính ấy. Nếu không có thần tính, chúng ta không thể có sự sống siêu nhiên hay đời sống tâm linh. Nếu không ý thức về thần tính ấy, sự sống siêu nhiên hay đời sống tâm linh của ta không phát triển được. Thật vậy, làm sao sự sống siêu nhiên hay đời sống tâm linh có thể phát triển khi ta không hề ý thức mình có nó hay không hề cảm nghiệm được nó nơi bản thân? Càng ý thức về nó, càng sống phù hợp với ý thức đó thì tâm linh càng phát triển cùng với sức mạnh và quyền năng của nó. Người có đời sống tâm linh phát triển – tức người ý thức mạnh mẽ và thường xuyên về thần tính của mình – sẽ luôn luôn cảm thấy bình an, hạnh phúc, đầy tự tin vào sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa nơi mình. Thánh Phaolô kể ra những hoa trái của đời sống tâm linh hay sự sống bằng Thần Khí ấy: “Hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23). Ý thức thường xuyên về thần tính của mình là một hình thức cầu nguyện và kết hiệp với Chúa một cách thâm sâu. Nó sẽ đem lại một sự thay đổi sâu xa trong đời sống tâm linh của ta.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Cha đã thông ban thần tính hay sự sống siêu nhiên của Cha cho con người ngay từ khi tạo dựng nên con người. Con người sẽ hạnh phúc biết bao khi biết và ý thức được điều ấy, nhất là khi hưởng được hoa trái của thần tính ấy trong đời sống hằng ngày của mình. Xin cho con ý thức được ân huệ cao quý ấy mà Cha đã ban cho con. Đừng để con giống như người có một kho tàng vô cùng lớn lao nhưng không hề biết đến nên không hưởng được một ích lợi nào từ nó cả. Amen.
77. Chúa Giêsu biến hình đổi dạng – John Nguyễn
1. Chúng ta cũng giống như Đức Giêsu: có bản chất cao quí ẩn trong thân xác yếu đuối của kiếp người trần Cuộc biến hình của Đức Giêsu cho ta thấy bản chất sâu thẳm của Ngài, Ngài không chỉ là một con người yếu đuối, phải đau khổ, và chịu bao hạn chế của kiếp người như bao người khác, mà còn là một vị Thiên Chúa đầy vinh quang và quyền năng. Trước khi Ngài bước vào cuộc khổ nạn và chịu chết, Ngài đã cho ba môn đệ yêu dấu nhất của Ngài thấy được bản chất sâu thẳm của Ngài, để củng cố niềm tin của các ông. Nhất là trong những ngày sắp tới, đức tin của các ông sẽ bị chao đảo dữ dội, vì lúc ấy các ông chỉ có thể thấy được con người hết sức bất lực và hạn chế của Ngài. Nhưng thật ra, sự yếu đuối bất lực ấy chỉ là tạm thời, bản chất thường hằng của Ngài là bản chất đầy vinh quang, cao cả như các môn đệ đã chứng kiến trên núi Ta-bo. Bản chất ấy vẫn còn trong tình trạng ẩn dấu, chưa tỏ lộ.
Chúng ta cũng một phần nào tương tự như Đức Giêsu, chúng ta cũng có hai bộ mặt, với hai cách hiện hữu hết sức khác nhau. Một đằng chúng ta là con người như bao nhiêu người khác, nhưng đằng khác, chúng ta là con cái Thiên Chúa. Là con cái Ngài, ta được Ngài ban những ơn đặc biệt để trở nên xứng đáng với địa vị đó. Căn bản và cao quí nhất là Ngài thông ban cho chúng ta chính bản tính Thiên Chúa của Ngài. Thánh Phê-rô đã cho ta biết chân lý ấy: “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quí báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian” (2Pr 1,4).
2. Bản chất cao quí của chúng ta: là con cái của Thiên Chúa
Thông thường, ta ít khi ý thức được phẩm giá hết sức cao quí của mình cũng như của những Ki-tô hữu sống gần ta, chung quanh ta, tất cả đều là con cái Thiên Chúa. Không ý thức được điều ấy, nên ta không trân trọng đủ chính bản thân ta cũng như không trân trọng những Ki-tô hữu khác. Chúng ta sống giống như mình không phải là con cái của Ngài, vì nếu ta xác tín được mình là con cái của Ngài, đời sống chúng ta sẽ thay đổi rất nhiều. Chúng ta thử nghĩ, nếu ta là con một vị vua, là một hoàng tử, thì ta sẽ xử sự thế nào? Trước mặt mọi người, ta sẽ phải cư xử cho đúng với tư cách một vị hoàng tử. Đi đâu ta cũng không sợ bị ai ăn hiếp hay bắt nạt, vì đằng sau ta có cả một hậu thuẫn mạnh mẽ.
Tuy cũng có cái vỏ bề ngoài yếu đuối và đầy hạn chế như bao nhiêu người khác, nhưng bản chất của chúng ta vượt hẳn cái vỏ bề ngoài yếu đuối ấy. Chúng ta là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính của Thiên Chúa, đầy vinh quang, quyền năng, tình thương. Tình trạng của chúng ta giống như bức tượng bằng vàng trong câu chuyện minh họa sau đây.
Một ngôi chùa kia có một tượng Phật bằng vàng, nhưng trong thời chiến tranh loạn lạc, người ta phải che dấu sự quí giá ấy bằng một lớp đất sét bọc bên ngoài. Thành thử mọi người tới xem chỉ thấy đó là một bức tượng bằng đất sét, chẳng quí giá hơn những tượng đất sét khác. Chiến tranh kéo dài quá lâu, nên sau chiến tranh, người ta không còn nhớ bức tượng đó bằng vàng nữa, cho đến một hôm… Một hôm, sư trụ trì vô tình để một vật cứng chạm mạnh vào bức tượng, khiến bức tượng bị bể một mảnh lớn, và để lộ ra chất vàng lấp lánh sáng chói. Thế là ông bèn đập bỏ tất cả lớp đất sét bọc bên ngoài. Và tượng Phật bây giờ đã trở thành một bức tượng bằng vàng sáng chói, đầy giá trị.
Mỗi người Ki-tô hữu chúng ta đều có một cái gì giống như bức tượng đó. Bên ngoài dù chúng ta không khác gì ai, không hơn gì ai, nhưng thực ra, chúng ta là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh của chính Thiên Chúa, mang bản tính Thiên Chúa nơi bản thân. Dù ta có yếu hèn, tội lỗi, hay xấu xa đến thế nào đi nữa, thì bản tính Thiên Chúa trong chúng ta vẫn là bản tính của Thiên Chúa, đầy quyền năng, mạnh mẽ, trong sạch, thánh thiện. Vào thế kỷ thứ nhất của Ki-tô giáo, một giám mục thuộc phái Ngộ Đạo (gnosticisme) nói rằng: “Chúng ta, những người Ki-tô hữu, cũng giống như một thỏi vàng nguyên chất, dù có bị ném xuống bùn nhơ, cũng vẫn là một thỏi vàng nguyên chất với đầy đủ giá trị của nó. Chỉ cần rửa sạch lớp bùn bám bên ngoài, thì thỏi vàng lại sáng lên ánh sáng đặc trưng của nó”. Hay tương tự như một hoàng tử trong thời gian bị lưu lạc xa vua cha, dù có làm nghề gì thấp hèn đến đâu để sinh sống, thì cũng vẫn là hoàng tử. Chỉ cần hoàng tử ấy trở về với vua cha, thì hoàng tử sẽ lại trở thành hoàng tử chính hiệu, với quyền kế vị vua cha.
3. Chúng ta thường quên không ý thức được bản chất cao quý ấy
Rất nhiều khi người Ki-tô hữu chúng ta đã quên mất bản chất hết sức cao quí của mình là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh Thiên Chúa (nghĩa là giống như Thiên Chúa), là người mang trong mình bản tính của Thiên Chúa, và vì thế chúng ta có quyền thừa hưởng gia nghiệp cua Ngài với tư cách là con cái Ngài. Chính vì quên mất cái bản chất cao quí ấy, nên nhiều khi chúng ta đã sống không xứng đáng với bản chất ấy, nghĩa là cũng chỉ sống giống như bao người khác, thậm chí sống như con cái của ma quỉ, của thế gian, không phù hợp với phẩm giá của mình. Là con cái Thiên Chúa, nhưng nhiều khi chúng ta tin tưởng, cầu xin, khiếp sợ hoặc trông cậy vào những thế lực khác, vào sự can thiệp của những quyền lực không phải của Thiên Chúa, thậm chí đối nghịch với Thiên Chúa. Chúng ta đã hành xử như thể Thiên Chúa là một hữu thể xa lạ đối với mình, không phải là người Cha rất yêu thương mình, mà hành xử như một người có bản chất thấp hèn. Hành xử như thế, vô tình, chúng ta đã hạ thấp hoặc xúc phạm đến hình ảnh và bản tính Thiên Chúa trong chúng ta.
4. Hãy thường xuyên biểu lộ bản tính cao cả của chúng ta trong tư tưởng, qua lời nói và hành động
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy thần tính hay bản chất vinh quang cao cả của Đức Giêsu, vốn ẩn dấu trong thân xác đầy hạn chế của Ngài, nay hiện ra một cách tỏ tường trước mặt các tông đồ. Điều đó cũng nhắc cho chúng ta ý thức về bản tính hay hình ảnh của Thiên Chúa nơi thân xác yếu đuối của chúng ta. Chúng ta cần thường xuyên biểu lộ bản tính hay hình ảnh của Thiên Chúa nơi chúng ta qua tư tưởng, lời nói, hành động của mình. Làm sao để mỗi tư tưởng, mỗi lời nói, cũng như mỗi hành động của chúng ta đều nói lên được bản chất cao quí của chúng ta là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh trung thực của Thiên Chúa. Giống như người ta có thể nhìn vào cách ăn nói, xử sự của một người mà đoán được bản chất của người ấy. Hay như khoa học thời nay có thể căn cứ vào một sợi tóc, một tế bào của một người mà biết được tính chất hay tình trạng thể lý của người ấy. Cuộc sống của một người con cái Chúa cũng phải toát lên được bản chất ấy của mình.
Bài đọc 2 cũng nhắc lại cho ta biết quê hương đích thật của chúng ta là ở trên trời. Và trong tương lai thân xác yếu hèn của chúng ta cũng sẽ trở nên vinh hiển, mạnh mẽ như thân xác của Ngài. Tất cả những đau khổ, hạn chế của ta chỉ là tạm thời, sẽ qua đi, nhưng bản chất cao quí của ta thì mãi mãi tồn tại và không thay đổi.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin giúp con ý thức được bản chất cao quí của con là con cái Chúa, là hình ảnh của Chúa, và được Chúa thông phần bản tính của Chúa cho con. Xin cho con biết luôn ý thức bản chất cao quí của mình, và sống xứng đáng với bản chất ấy. Amen.
78. Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng
KHÔNG PHẢI HẾT CÁC TÔNG ĐỒ ĐƯỢC THẤY CHÚA BIẾN HÌNH
Chúa Giêsu nhận thức rằng cuộc khổ nạn của Người sẽ để lại một kinh nghiệm đau thương cho các tông đồ, nhất là cho Phêrô, Giacôbê và Gioan. Bộ ba tông đồ sẽ chứng kiến cảnh khổ nạn của Chúa trong Vườn Cây dầu. Việc ba Tông đồ phản ứng về cuộc Biến hình của Chúa đáng cho ta lưu ý. Thoạt tiên các ông tỏ ra phấn khởi với thị kiến biến hình, nên Phêrô đại diện ba Tông đồ thốt lên: Thưa Thày, chúng con mà được ở đây thì tuyệt vời (Lc 9:33). Cái hiệu quả của thần linh hiện diện khiến họ say mê đến nỗi muốn lưu trữ kinh nghiệm biến hình để làm bảo vật bằng cách xin dựng lều ở lại. Tuy nhiên khi nghe tiếng từ trời phán, họ lâm vào tình trạng sợ hãi.
Người Kitô giáo sống đức tin cũng có thể trải qua những kinh nghiệm biến hình nào đó trong cuộc sống. Có những khi họ phấn khởi trước tiếng gọi nên thánh. Đôi khi việc bày tỏ sự thánh thiện không là gì khác ngoài cảm giác cao hứng sống đạo giống như hiệu quả của thuốc kích thích thần kinh. Sách tu đức thần bí diễn tả cái hiện tượng khác thường như vậy là xuất thần hoặc bay bổng. Tuy nhiên những cảm giác đạo đức khác thường như vậy không bảo đảm cho sự thánh thiện. Người Kitô giáo cũng không nhất thiết phải có cảm giác thiêng liêng về đạo giáo như vậy. Đôi khi người ta nghe những lời phàn nàn cho rằng đạo giáo không giúp gì cho đời sống của người theo đạo được thay đổi. Người ta thấy không có gì khác biệt giữa người Kitô giáo và người không phải Kitô giáo. Cách suy tư hay lý luận như thế chẳng qua nảy sinh ra từ cái tiềm thức muốn thấy đức tin phải tạo ra những gì khác biệt hay những hiệu quả kỳ diệu. Những người mang tâm trạng như vậy ôm ấp cái ảo tưởng cho rằng đạo giáo phải cung ứng cho họ những cảm giác đạo giáo khác lạ. Có những người đòi hỏi Chúa làm cuộc biến hình trước mắt họ, nghĩa là đòi Chúa làm phép lạ cho họ thấy những việc kỳ diệu trước khi họ đặt tin tưởng vào Người. Họ muốn đi tìm những cảm giác thiêng liêng về đạo giáo. Nếu có cảm giác rồi, họ muốn đi tìm thêm nữa, nghĩa là họ nghiền cảm giác. Họ để cho cảm giác điều khiển cuộc sống thiêng liêng, nghĩa là khi cảm thấy thích thú thì họ giữ đạo, còn không thì bỏ cuộc.
Họ là loại người nhanh chân đi tìm đến những nơi mà người ta cho rằng có phép lạ hay hiện tượng lạ. Cái tính tò mò về đạo giáo của họ là muốn có kinh nghiệm bằng cảm giác, và khi cái tò mò tính của họ không được toại nguyện, họ đổ lỗi cho đạo giáo, đã không cung ứng cho họ cảm giác. Hôm nay ta cần nhận thức rằng cảm giác chỉ là cảm giác. Ngay cả cảm giác về đạo giáo cũng chỉ có ích lợi tới mức mà có thể là khởi điểm của việc hoán cải nội tâm, hoặc là khởi điểm cho việc thiết lập mối liên hệ gần gũi với Chúa. Ước mong quá nhiều cảm giác đạo giáo, hay tuỳ thuộc quá nhiều vào cảm giác đạo giáo là dấu hiệu chưa trưởng thành về đời sống đức tin.
Người công giáo không thể chỉ mong Chúa làm phép lạ biến hình cho thấy vinh quang của nước Chúa, hoặc cho họ cảm giác đạo giáo như là điều kiện để theo Chúa và để sống đạo. Người công giáo không thể để cho cảm giác đạo giáo điều khiển cuộc sống, như là hễ có cảm giác vui, hứng khởi về đạo giáo thì mới giữ đạo và thực hành đức tin. Người công giáo phải nhớ rằng không phải hết các tông đồ đều được thấy cảnh biến hình của Thầy mình, mà chỉ có ba ông được thấy. Và Chúa căn dặn các ông đã thấy cảnh biến hình ‘ không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại’ (Mt 17:9). Phúc âm ghi lại các Tông Đồ ‘tuân giữ lời căn dặn đó’ (Mc 9:10) và ‘suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.’ (Lc 9:36). Các Tông đồ không thấy cảnh biến hình của Chúa cũng đã chấp nhận hy sinh, đau khổ và thánh giá. Vậy nếu thấy được cảnh Chúa biến hình, hoặc nếu có được cảm giác đạo giáo, thì là điều tốt. Tuy nhiên người Kitô giáo không thể để cho cảm giác điều khiển cuộc sống. Chỉ có quyết định mới là quan hệ, vì những quyết định người ta làm bây giờ sẽ định hướng cho tương lai của cuộc đời. Để được tham dự vào cuộc phục sinh vinh hiển của Chúa, người Kitô giáo phải sẵn sàng vác thánh giá Chúa gửi đến, chứ không phải chỉ tìm cảm giác vui thích và hứng khởi về đạo giáo.
79. Sống trong niềm tin
Không ai sống mà không tin. Tin vào Thiên Chúa giúp người ta sống bình an, vui và hạnh phúc hơn.
Abraham tin vào Thiên Chúa
Thiên Chúa mời gọi Abram bỏ quê cha đất tổ để đi tới nơi Thiên Chúa sẽ chỉ cho, rồi Thiên Chúa sẽ làm cho ông có con cháu nối dòng, có đất để sống. 75 tuổi được gọi và ra đi (St.12, 4) nhưng đến 99 tuổi, Abraham vẫn chưa có con với Sara (St.17, 1.17). Khi Sara chết, ông vẫn không có đất để chôn vợ (St.23, 1-20). Lời hứa có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển, cũng như lời hứa có đất làm cơ nghiệp vẫn chưa được thực hiện hoàn toàn khi Abraham chết. Dưới cái nhìn của người đời, Abraham là người dại vì đã tin vào Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã thực hiện lời Ngài “quá trễ” đến độ người ta nghĩ rằng Ngài đã quên; tuy vậy Abraham vẫn một lòng tin vào Thiên Chúa, và vì thế ông là người mẫu cho các tín hữu. Thiên Chúa đã hứa, và Abraham đã tin. Tuy dù Abraham sống như những người khác, nhưng ông đã vâng phục Thiên Chúa trong mọi chuyện, kể cả việc sẵn sàng hiến tế Isaac. Chính vì tin vào Thiên Chúa mà ông trở nên công chính (St.15, 6).
Tin là thái độ của con người đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn ở gần bên mỗi người, mời gọi mỗi người bỏ mình để theo Ngài, và Ngài sẵn sàng can thiệp vào cuộc sống mỗi người khi cần. Xin cho chúng ta tin vào Thiên Chúa như Abraham.
Đức Giêsu lắng nghe Thiên Chúa trong cầu nguyện
Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đem Phêrô, Gioan và Giacôbê theo Ngài lên núi để cầu nguyện, và trong khi cầu nguyện Ngài đã biến hình. Có lẽ nhờ cầu nguyện, mà mỗi người được biến đổi, được trở nên giống Thiên Chúa hơn.
Phêrô rất phấn khởi khi được chứng kiến những điều đang xảy ra. Ông muốn ở lại luôn trên núi, ông sẵn sàng làm lều cho các Ngài. Phêrô nói mà không biết mình nói gì!
Khi Phêrô đang nói thì có đám mây che các Ngài, và có tiếng từ trời: “đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Thiên Chúa muốn con người vâng nghe Đức Giêsu. Thiên Chúa không muốn Con Ngài và những người theo Con Ngài ở hoài trên núi; Ngài muốn họ xuống núi để sống cuộc sống bình thường của họ giữa con người thời đại mình. Giây phút biến hình không biết kéo dài khoảng bao nhiêu phút, nhưng thất bại và thập giá còn hoài trong suốt cuộc sống của Đức Giêsu và các tông đồ, kể cả khi Đức Giêsu đã phục sinh từ cõi chết.
Cầu nguyện để thấy ánh sáng, để có sức sống, và được nghỉ ngơi trong cuộc sống tất bật mỗi ngày.
Tin vào Thiên Chúa được tỏ lộ qua cách sống
Thánh Phaolô sống rất tuyệt, nên Ngài đã dám nói với tín hữu ở thành Philipphê: “anh em hãy bắt chước tôi”. Ngài là người đã được ơn trở lại trên đường đi bắt các Kitô hữu tại Đamas, và kể từ đó Ngài đã hoàn toàn thuộc về Chúa. Ngài đã bôn ba đi rao truyền Lời Chúa, và thiết lập các cộng đoàn. Những bức thư Ngài viết cho các cộng đoàn trở thành “Lời Chúa” cho con người của mọi thời đại. Thuộc về Thiên Chúa trong chính cuộc sống và hành động của thánh Phaolô, là mẫu gương sống cho con người hôm nay.
Thánh Phaolô yêu thương những con cái mà Ngài đã sinh ra trong Chúa. Khi xa Ngài, đã có một số người sống như không có Thiên Chúa. Họ đã lấy những của vật chất làm Chúa của họ, họ tự hào nơi những điều đáng lẽ phải hổ thẹn. Thánh Phaolô kêu gọi họ hãy sống trong niềm tin vào Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu sẽ biến đổi thân xác chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài. Không kiên vững trong niềm tin vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, không thể đứng vững trong cuộc sống hiện tại.
“Hỡi những người anh em chí thân chí thiết của tôi, anh em là triều thiên và niềm vui của tôi, anh em hãy đứng vững trong niềm tin vào Chúa”. Ước gì mỗi người có thể nói với những người mình phục vụ như thánh Phaolô đã nói với những con cái của Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, điều khó nhất đối với Abraham trong việc vâng phục Thiên Chúa là gì?
2. Theo bạn, đâu là thập giá lớn nhất đối với thánh Phaolô? Tại sao bạn nghĩ vậy?
3. Tin vào Thiên Chúa đòi hỏi điều gì?
80. Cứ gặm mãi cho đến khi lạc lối
Một trong những trách nhiệm của người chủ chiên là phải canh chừng đoàn chiên không cho chúng đi lạc lối. Chúa Giêsu vẫn thường dùng hình ảnh đàn chiên và chủ chiên trong lời giảng dạy của Ngài. Một trong những dụ ngôn đẹp nhất là “Dụ Ngôn Về Đàn Chiên Lạc.” Lập đi lập lại Ngài miêu tả mình là một “Chủ Chiên Tốt Lành” với những người theo Ngài.
Nếu bạn hỏi bất cứ một người chăn chiên nào họ cũng sẽ nói với bạn là các con chiên không bao giờ được tự rời khỏi đàn chiên và đi lạc như là một hành động bất tuân quyền hành của chủ mình. Con chiên không bao giờ tự quyết định là không theo người chủ của mình nữa. Ngược lại, nó cứ quanh đi quẩn lại một cách lơ đãng không chú ý về sự nguy hiểm. Hễ khi nào nó thấy một đống cỏ tốt hơn chỗ nó đang ăn, thì nó chạy lại, và cứ như thế cho đến khi nó đi lạc. Một người chăn chiên lành nghề đã nói rằng con chiên đi lạc là bởi vì nó cứ lân la gặm cho đến khi lạc.
Trong đoạn thứ sáu của Phúc Âm Thánh Máccô có diễn tả một đoạn về Chúa Giêsu, về thể lý, Ngài đã mệt mỏi, và Ngài đã nói với các môn đệ của Ngài tìm chỗ để nghỉ ngơi. Tuy nhiên, cả ngàn người đã ồn ào kéo đến muốn nghe Chúa Giêsu giảng dạy và không để cho Ngài được nghỉ yên. Khi nhìn thấy dân chúng, Chúa Giêsu thương xót họ như những đàn chiên không người chủ chăn, và Ngài bắt đầu giảng dạy họ (Mc 6:34). Không một chút nghi ngờ, một số người lắng nghe, và một số thì không; một số người đã chú ý và một số người thì lơ đãng; một số người đã thực hành lời họ nghe được, và một số thì không; một số hiểu rõ và có những nhận thức mới về Lời Chúa; còn một số khác thì cứ từ từ gặm và lạc lối.
Điều mà chúng ta đang nói là những gì mà các cuốn sách “giúp chính mình” đã nói tới. Đó là chúng ta cần phải tìm lại con người thật của mình. Đó là chúng ta cần phải tập trung vào bản chất của chính mình. Đó là chúng ta cần phải đào sâu xuống cõi lòng của mình và xem coi điều gì cản trở bước tiến của mình.
Vấn đề là ở chỗ nhiều khi chúng ta đã cố gắng để tiêu hoá tất cả những thứ đó, tuy nhiên chúng ta vẫn cứ từ từ gặm cho đến khi mình bị lạc lối. Sự tai hại của rất nhiều người là họ bắt đầu từ một chỗ sai lối, đi tìm chính mình. Cách giải quyết tốt nhất cho các cơn khủng hoảng không bắt đầu từ chỗ đi tìm mình, nhưng là Thiên Chúa.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, sức mạnh vô biên của Chúa được tỏ hiện với ba người môn đệ của Chúa Giêsu trên núi biến hình. Ở đó, trong sự hiện diện của Phêrô, Giacôbê, và Gioan, vinh quang của Chúa Kitô được mặc khải với ánh sáng chói loà. Sau đó, một giọng nói từ trời phán với ba môn đệ, “Đây là Con Ta yêu dấu, Người Ta tuyển chọn. Hãy nghe Lời Người!” (Lc 9:35).
Hãy nghe Lời Ngài, hỡi tất cả mọi người trên thế giới đang bận rộn lo gặm cỏ và để cho mình đi lạc lối. Hãy nghe Lời Người!
Những ai tự đem mình lên sẽ bị hạ mình xuống, và những ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Ai muốn làm lớn ở trong anh em, thì hãy phục vụ mọi người.
Điều đó có nghĩa là tất cả chúng ta là con cái của Thiên Chúa tình yêu, tất cả đều đáng mến trước nhan Thiên Chúa. Chúng ta cũng phải biết nhìn nhau bằng cũng con mắt đó, biết kính trọng nhau, yêu thương nhau. Trong khi chúng ta làm những điều đó, thì chúng ta sẽ cảm nghiệm được Thiên Chúa Tình Yêu.
Nói về Thiên Chúa thì có lẽ quá sức tưởng tượng của nhân loại chúng ta. Tuy nhiên, trong con mắt Thiên Chúa, nếu chúng ta biết trung thành để giữ các điều Ngài truyền dạy, thì chúng ta sẽ tìm thấy được câu trả lời về con người của mình.
Nếu chúng ta còn chưa biết đem ra thực hành những lời Thánh Kinh dạy, thì chúng ta còn đang gặm cỏ dần dà rồi đi lạc hướng luôn.
Khi cầu nguyện, chúng ta đừng có ra lệnh cho Chúa. Chúng ta chỉ cần khiêm nhường tỏ bày tâm sự của mình với Chúa, bởi vì những ai khiêm nhường thì sẽ được nâng lên. Chúng ta cùng cầu nguyện:
Xin cho con, trong những lúc mệt mỏi, được một chút phấn khởi. Xin cho con biết phục vụ tốt hơn đối với những người mà con đang phải cố gắng chiến đấu. Xin cho con, trong lúc bị cám dỗ, được một chút dũng lực. Xin cho con được biết chiến đấu mạnh mẽ với tất cả nghị lực của con. Xin cho con được biết sống hiền lành với những người yếu đuối hơn con. Xin cho con được biết nghĩ đến những người đang sống chung quanh con.
81. Đức Giêsu hiển dung – Lm PX Vũ Phan Long
Cựu Ước không có ý nghĩa nếu không có Đức Giêsu, còn chính Người, nếu không có Cựu Ước, thì chỉ là một mầu nhiệm đối với chúng ta.
1 – Ngữ cảnh
Đây là biến cố cuối cùng trong thời gian hoạt động tại Galilê (Lc 3,1–9,50): Đức Giêsu đang ở tại một khúc quanh quan trọng trong sứ mạng; công việc rao giảng tại Galilê đã kết thúc; Phêrô mới đây đã tuyên xưng Người là “Đấng Kitô của Thiên Chúa” (9,20) và nhân dịp đó, Người đã củng cố thêm hiểu biết của các môn đệ bằng cách loan báo cuộc Thương Khó (9,22). Cũng giống như ở Mc 9,2-8, truyện Hiển Dung của Đức Giêsu trong TM III (9,28-36) đi theo sát lời Đức Giêsu nói về đời môn đệ và dường như trả lời một loạt các câu hỏi về chân tính của Đức Giêsu (x. 9,7-9.18-22). Cuộc Hiển Dung cho các môn đệ được thấy trước vinh quang của Đấng Phục Sinh, vinh quang Nước Trời. Truyện giới thiệu tư cách thuộc thiên giới của Đức Giêsu đối lại với hai dung mạo Cựu Ước và thúc bách các Kitô hữu lắng nghe Người như lắng nghe Con Một của Thiên Chúa và Đấng được Thiên Chúa ưu tuyển.
2 – Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:
1) Hoàn cảnh của cuộc Hiển Dung (9,28);
2) Cuộc Hiển Dung (9,29-35):
a) Lý do (cc. 29-32),
b) Cuộc đối thoại (cc. 33-35);
3) Kết thúc cuộc Hiển Dung (9,36).
3 – Vài điểm chú giải
– dung mạo Người đổi khác (29): Cụm từ này đã thay thế cho động từ “được biến hình” (metamorphôthê) trong Mc (9,2) và Mt (17,2) để tránh những truyện về hóa thân, hóa kiếp trong thần thoại ngoại giáo.
– có hai nhân vật (30): Vì được giới thiệu là “hai nhân vật, hai người đàn ông” (andres dyo), ta có thể nghĩ đến “hai người đàn ông y phục sáng chói” trong truyện Phục Sinh (Lc 24,4) hoặc “hai người đàn ông mặc áo trắng” trong truyện Thăng Thiên (Cv 1,10). Như thế, quả thật Môsê và Êlia là hai chứng nhân của Đức Giêsu, nhưng ở đây, hai vị có mặt trong tư cách là những nhân vật thuộc thiên giới, nhằm loan báo vinh quang tương lai của Đức Kitô. Và nếu vậy, quang cảnh này trước hết là một hình ảnh báo trước cuộc Lên Trời (x. Cv 1,9: đám mây).
– Xuất hành (31): Rất có thể tác giả Lc coi toàn bộ Thương Khó – Phục Sinh – Thăng Thiên là một cuộc Xuất Hành mới, đi từ Giêrusalem cứng tin (# Ai-cập) mà vào Vinh quang của Thiên Chúa (# Đất hứa).
– ngủ mê mệt (32): Dịch sát là “bị đè nặng trong giấc ngủ” (bebarêmenoi hypnô).
– vinh quang (32): Tác giả Lc là tác giả duy nhất sử dụng từ “vinh quang” ở đây. Kiểu ngài nối kết Khổ Nạn với Vinh quang ở đây rất gần với truyện Ga 12,27-28 (vẫn được coi như tương tự với truyện Hiển Dung trong các TMNL).
– thật là hay (33): Hay cho ai? Chúng ta không rõ. Dù sao, ta hiểu là Phêrô không hiểu rõ hoàn cảnh, nhưng cảm thấy vui, nên mơ ước kéo dài tình trạng này.
– đám mây (34): Phải chăng đám mây bao phủ cả các môn đệ, nên các ông mới sợ (sợ chết?)? có bao phủ ba nhân vật kia không? Nhưng bản văn lại nói là “từ đám mây có tiếng phán ra”. Vậy có lẽ các môn đệ ở ngoài đám mây. Nhưng dù thế nào, đám mây thường đi liền với cuộc thần hiển (x. Xh 16,10; 19,9.16; 24,15-16; Lv 16,2; Ds 11,25) và được coi như nơi ở (shơkinâh trong sách Talmud, có nghĩa là “sự hiện diện của Thiên Chúa”) của Thiên Chúa. Khi thấy đám mây xuất hiện và dường như còn bao trùm lấy mình, các môn đệ kinh hãi.
– Người được Ta tuyển chọn (35): Xem các “Bài ca về Người Tôi Trung” (Is 42,1; 49,7).
– trong những ngày ấy (36): nghĩa là trong thời gian Đức Giêsu đi hoạt động. Công thức này đối lại những gì được kể sau này, sau khi Đức Giêsu đã sống lại.
4 -Ý nghĩa của bản văn
Khung ảnh của bản văn này như sau: Ngay trước bài tường thuật này là các giáo huấn về đời môn đệ (Lc 9,23-27) và ngay sau bài, là truyện Đức Giêsu chữa lành một em bé bị quỷ ám (9,37-43). So với các Tin Mừng khác, ta thấy tác giả không kèm theo mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ trong khi các ngài xuống núi (x. Mc 9,9-10; Mt 17,9), cũng không có lời nói về ngôn sứ Êlia (x. Mc 9,11-13; Mt 17,10-13).
Độc giả đã thấy giáo huấn về đời môn đệ “vác thập giá” và thị kiến về “vinh quang” được nối kết chặt chẽ trong kinh nghiệm về cuộc Hiển dung. Không thể hiểu được ý nghĩa của biến cố huyền nhiệm này nếu không đặt nó vào bên trong hai chiều tư tưởng thần học chủ đạo: sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu, yêu cầu đi theo Người trên con đường thập giá, và ánh sáng vinh quang của sự phục sinh của Người.
* Hoàn cảnh của cuộc Hiển Dung (28)
Chỉ tác giả Lc xác định biến cố xảy ra vào “khoảng tám ngày sau khi (Đức Giêsu) nói những lời ấy” (c. 28), tức là các giáo huấn về đời môn đệ (cc. 23-27). Cả ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê vừa chứng kiến Đức Giêsu làm cho con gái ông Gia-ia sống lại (Lc 8,51-56), nay Người đưa các ông đi ra khỏi tình trạng ồn áo huyên náo của cuộc sống thường ngày và đưa các ông lên núi (không được xác định), biểu tượng của thế giới Thiên Chúa. Mới trước đó, Người yêu cầu “vác thập giá mà theo” Người, bây giờ Đức Giêsu quyết định “đem theo” ba môn đệ và kết hợp các ông vào sứ mạng của Người, để các ông có thể chia sẻ kinh nghiệm vinh quang nhằm đi tới chỗ hoàn tất trong Ngày Phục sinh.
Điều đáng ghi nhận: tác giả cho biết mục tiêu Đức Giêsu nhắm không phải là tỏ mình ra cho các môn đệ, nhưng là “cầu nguyện”. Việc cầu nguyện được đặc biệt nêu bật trong TM III.
* Cuộc Hiển Dung (29-35)
Đang khi Người cầu nguyện, thì “dung mạo Người đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà” (c. 29): cuộc hiển dung xảy ra như là kết quả của việc cầu nguyện. Tác giả không dùng động từ metamorphousthai (= biến hình) có trong Mc và Mt (x. Mc 9,2; Mt 17,2). Theo một vài nhà chú giải, tác giả Lc muốn tránh làm cho độc giả hiểu đây giống như những cuộc hóa thân của thần thánh ngoại giáo; có những tác giả khác lại cho rằng đây là một gợi nhắc đến biến cố Môsê đã trải qua trên núi Sinai (Xh 24,29-30): trong bản văn này có nói rằng dung mạo Môsê phản ánh vinh quang của Đức Chúa. Tầm quan trọng được gán cho biến cố huyền nhiệm này đưa độc giả đến chỗ nghĩ rằng Đức Giêsu đang tự mạc khải ra như là Đấng sống lại và đang ở trong thế giới siêu việt và vinh quang của Thiên Chúa.
Vậy, vẻ rạng rỡ của dung mạo và nét trắng tinh chói lòa nơi y phục của Người cho biết Người thông dự vào đời sống của Thiên Chúa, Người có bản tính Thiên Chúa, và báo trước cuộc Phục sinh. Các môn đệ nhận ra rằng dung mạo quen thuộc con người trần gian của Đức Giêsu lâu nay không diễn tả hết tất cả thực tại của Người; các ông hiểu rằng Người không bị khóa kín trong những giới hạn của thực tại trần gian. Đàng sau dung mạo phàm trần của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại siêu phàm thần thiêng của Người.
Không những các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt quá, các biên cương của thời gian cũng bị lướt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện hai ông Môsê và Êlia, hai dung mạo nổi bật trong lịch sử dân Israel (cc. 30-31). Môsê nhà giải phóng Dân tộc, cũng là trung gian đón nhận Luật Sinai. Êlia là vị ngôn sứ đã bảo vệ tôn giáo độc thần và tái lập giao ước của Thiên Chúa với Dân. Các ngài đại diện cho mối quan tâm săn sóc của Thiên Chúa và cuộc chiến đấu của Người cho dân tộc này. Các ngài cũng chia sẻ kinh nghiệm bị từ khước và bị bách hại. Nay hai ngài đàm đạo với Đức Giêsu về “cuộc xuất hành” Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem (c. 31). Tác giả Lc coi toàn bộ Thương Khó–Phục Sinh–Thăng Thiên là một cuộc Xuất Hành mới, đi từ Giêrusalem cứng tin (# Ai Cập) mà vào Vinh quang (# Đất hứa). Nhưng toàn bộ cuộc Xuất Hành mới này liên hệ đến lịch sử Israel (đại diện bởi Môsê và Êlia); Đức Giêsu sẽ đưa lịch sử của những mối quan tâm săn sóc của Thiên Chúa đối với dân Người đến chỗ hoàn tất.
Đáng tiếc là các môn đệ nặng nề trong giấc ngủ (c. 32). Khi Thầy làm phép lạ, hoặc khi đám đông hoan hô Người, các ông thức, nhưng khi Người bắt đầu nói đến chương trình của Thiên Chúa, việc hiến dâng mạng sống, phục vụ người nghèo, thì họ từ khước hiểu biết, họ nhắm mắt lại và ngủ. Sau này, tại núi Ô-liu, các ông cũng ngủ (Lc 22,45), bởi vì các ông chờ đợi được vỗ tay hoan hô và tôn vinh, chứ không hiểu vai trò của thập giá mà Thầy đang đi tới. Tuy nhiên Phêrô còn tìm ra sức mà lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều…” (c. 33). Ông mong muốn kéo dài mãi mãi kinh nghiệm về vinh quang này, tương quan đặc biệt này giữa thiên quốc và trần gian, một nếm cảm trước sự viên mãn cánh chung, thiết lập tức khắc Triều Đại Thiên Chúa trên mặt đất (G. Rossé). Chi tiết “dựng ba cái lều” vừa có tính lịch sử (Nhà Tạm của Hòm Bia Chứng Ước trong cuộc xuất hành qua sa mạc) vừa mang tính phụng vụ (Lễ Lều: Lv 23,42; Dcr 14,16-19). Thật ra, ông không biết mình đang nói gì” (c. 33). Ông chỉ dừng lại với một khoảnh khắc sống ở bình diện cá nhân chứ không nghĩ đến được số phận cánh chung của toàn thể Dân Giao ước. Ông không hiểu giá trị của cuộc Hiển dung trong chương trình cứu độ phổ quát.
Quang cảnh hiển vinh đột nhiên bị một đám mây che phủ. Khi đi vào trong hoàn cảnh mới này, các môn đệ hoảng sợ (c. 34), điều này cho hiểu là con người mỏng dòn đang tiếp cận với mầu nhiệm của sự thánh thiêng. Đám mây là sự chấm dứt kinh nghiệm về vinh quang, vừa là nơi phát ra tiếng nói thiên quốc. Đây là vai trò biểu tượng của đám mây (x. Xh 19,9.16; 24,15-18; 40,34t; 2 Mcb 2,8; Cv 1,9). Tiếng nói bảo: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (c. 35). Khẳng định được liên kết với mạc khải trong Phép rửa (Lc 3,22), nhưng khác biệt ở chỗ tại Phép rửa, tiếng nói ngỏ lời trực tiếp với Người Con, còn ở đây, mạc khải được gửi đến các môn đệ, với lệnh vâng nghe lời Người (autou akouete: lưu ý vị trí nhấn mạnh của đại từ. Diễn ra như sau: “Chính Người, anh em hãy nghe lời!”). Mạc khải từ trời đã tổng hợp hai trích dẫn Tv 2,7, nhằm nói về tư cách Con Thiên Chúa của Đức Kitô, và Is 42,1 nhắc đến sứ mạng ngôn sứ của Người Tôi tớ Đức Chúa, phải chịu đau khổ khi loan báo Lời Chúa. Đức Giêsu vừa có tư cách vừa mang sứ mạng được hai bản văn này giới thiệu. Mạc khải kết thúc với lời kêu gọi rút từ Đnl 18,15 nhắc nghe lời ngôn sứ Môsê (x. Cv 7,37). Từ nay, không còn phải là Môsê hoặc các ngôn sứ mà các môn đệ phải vâng lời, nhưng là chính Con Thiên Chúa, Đấng có uy quyền vượt xa uy quyền của mọi người từ xưa cho đến tận thế. Cách nào đó lời này phi bác ý muốn của Phêrô là thiết lập ngay từ bây giờ Nước Thiên Chúa trên mặt đất. Cần phải hiểu là sứ mạng Mêsia của Đức Giêsu vượt quá những nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia của dân Israel cà những nguyện vọng trần tục của các môn đệ.
Thế rồi bản văn Lc kết thúc đơn giản, so với Mc (Mc 9,8). Tiếng nói đã ngưng, các nhân vật Môsê và Êlia không còn ở đó nữa, chỉ còn lại Đức Giêsu và các môn đệ (c. 36). Tác giả không nhắc đến lệnh im lặng Đức Giêsu truyền cho các môn đệ (x. Mc 9,9; Mt 17,9), nhưng ghi nhận rằng các ông “nín thinh”. Đây là hậu quả của một kinh nghiệm đã ghi dấu sâu sắc trong lòng ba chứng nhân, họ nội tâm hóa biến cố này, họ không để lộ ra bên ngoài bao lâu Đức Giêsu còn ở với họ (“Trong những ngày ấy”).
* Kết thúc cuộc Hiển Dung (36)
Sau đó, các môn đệ giữ thinh lặng, không tiết lộ gì về những chuyện đã xảy ra trên núi. Ghi nhận sự thinh lặng này đúng ra là một câu tóm truyện Mc (Mc 9,9-13). Các ông cứ giữ thinh lặng như thế cho đến khi Đức Giêsu đã sống lại.
+ Kết luận
Biến cố Hiển Dung là trạm trung chuyển giữa ánh sáng loé lên quá mau của Phép Rửa và ánh sáng chói lọi của sáng ngày Phục Sinh. Trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, Đức Giêsu thấy mình được tiếng Chúa Cha chuẩn nhận trong sứ mạng Mêsia chịu đau khổ: Người sẽ thực hiện chương trình cứu độ qua thân phận bị sỉ nhục và thât bại. Nhưng qua lời giới thiệu của Chúa Cha, chúng ta biết Đức Giêsu là Lời mà ta phải lắng nghe, là vị hướng đạo chắc chắn trong cuộc Xuất Hành cuối cùng đưa đến cuộc sống viên mãn. Điều này được làm rõ ở cuối biến cố, khi tác giả nói là “chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu: Mục tiêu của Cựu Ước là dẫn chúng ta đến với Đức Giêsu, Đấng hoàn toàn vâng phục chương trình cứu độ của Chúa Cha. Sau Phục Sinh, biến cố Hiển Dung sẽ có một vị trí quan trọng trong truyền thống Hội Thánh, vì được coi là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất trong kinh nghiệm Kitô hữu (x. 2 Pr 1,16-28).
5 – Gợi ý suy niệm
1. Tác giả TM III cho biết vì sao Đức Giêsu lên núi: để “cầu nguyện” (c. 28). Người dành nhiều thì giờ mà cầu nguyện. Chỉ nhờ thế, Người mới dần dà hiểu được những gì sẽ xảy ra, đâu là nơi Cha Người đang dẫn Người đến. Giống như ba môn đệ ngày hôm ấy, chỉ khi để cho Đức Giêsu dẫn đưa vào nơi thanh vắng và đến gần Thiên Chúa, chúng ta mới ở trong hoàn cảnh thích hợp, thuận lợi, mà hiểu rõ hơn mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu và chương trình của Thiên Chúa. Nhờ có Người làm trung gian, chúng ta biết mọi điều mà Thiên Chúa có ý làm cho chúng ta và chúng ta biết cách xử sự với Thiên Chúa.
2. Trong khi cầu nguyện, dung mạo của Đức Giêsu “đổi khác” (c. 29). Tác giả không nói là “biến hình” như các Tin Mừng khác. Điều xảy ra trong truyện này không nhắm trước tiên cho Đức Giêsu, nhưng là cho ba môn đệ. Không phải Người là Đấng phải thực hiện một kinh nghiệm hoặc phải biết một điều gì mới, nhưng chính các ông mới phải tiến tới trong việc hiểu biết Người và tin tưởng vào Người. Ánh sáng trên dung nhan Đức Giêsu cho chúng ta hiể trong khi cầu nguyện, Người đã hiểu chương trinh cứu độ của Cha Người và đã chấp nhận chương trình đó. Hy sinh của Người sẽ không phải là một thất bại, mà là một bước tiến tới sự phục sinh và vinh quang.
3. Sự kiện Đức Giêsu xuất hiện giữa Môsê và Êlia và hai ông đàm đạo với Người cho các môn đệ một bằng chứng nữa để có thể nhận ra Đức Giêsu là ai: Người thuộc về thế giới Thiên Chúa. Nhưng Người cũng thuộc về lịch sử dân Chúa, một lịch sử được Thiên Chúa hướng dẫn. Người phải đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất; Người cũng đáng được trân trọng và nhận biết như hai người tôi tớ vĩ đại này. Đức Giêsu không xuất hiện bất ngờ như một sao băng không hề có liên hệ gì với quá khứ, nhưng Người tháp vào trong lịch sử dài gồm những săn sóc ân cần của Thiên Chúa đối với dân Ngài, và đưa lịch sử này đến chỗ hoàn tất.
4. Quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa không phải là một vấn đề lý thuyết, không quan trọng gì bao nhiêu đối với đức tin và lối sống Kitô hữu. Phải nói là chính trong tương quan này mà bản chất của tương quan của Người đối với loài người chúng ta cũng được làm sáng tỏ, cả ý nghĩa của Người đối với chúng ta, những chờ đợi mà chúng ta có thể có nơi Người, những bổn phận phát xuất từ tương quan này đối với chúng ta.
5. Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia, nay họ phải nghe lời Đức Giêsu. Tất cả Sách Thánh của Israel đều dẫn tới Đức Giêsu. Bằng bản thân, bằng hoạt động và bằng lời nói của Người, Đức Giêsu đưa đến cho dân chúng sứ điệp chung kết của Thiên Chúa. Cựu Ước không có ý nghĩa nếu không có Đức Giêsu, còn chính Người, nếu không có Cựu Ước, thì chỉ là một mầu nhiệm đối với chúng ta. Vào ngày Phục Sinh, để cho các môn đệ có thể hiểu ý nghĩa của cái chết và sự sống lại của Người, Người sẽ phải giải thích Cựu Ước cho họ (x. Lc 24,17).
82. Chú giải của Noel Quesson
Đức Giêsu đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê.
Thật đáng tiếc, sách bài đọc Chúa nhật đã cất bớt câu của Luca. Ông đã nồi “khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giêsu đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê”. Lại càng đáng tiếc hơn, vì ba Tin Mừng nhất lãm đều đồng ý liên kết chặt chẽ biến cố biến hình của Đức Giêsu với cuộc đàm thoại nầy của Người “khoảng tám ngày trước đó” (Mt 17,1-9,2; Lc 8,28). Đó là một trong những trường hợp biến cố mà hai giai đoạn trong cuộc đời của Chúa Giêsu được nối liền theo thời gian. Vâng các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê phải nhớ đến sự kiện này. Tám ngày trước, đâu có một cuộc đối thoại không thể quên được, gồm hai phần: Trước hết, Người đã hỏi các ông: “Anh em bảo Thầy là ai?” và Phêrô đã trả lời câu hỏi về “lý lịch” này, bằng cách tuyên xưng đức tin vào Chúa là “Đấng Mêsia của Thiên Chúa”… Rồi ngay sau đó, Đức Giêsu bắt đầu loan báo cho họ biết cái chết sắp tới của Người. “Thầy phải chịu đau khổ nhiều, bị loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại”. Đó là cuộc đàm đạo của các ông còn ghi nhớ trong tâm trí.
Việc biến hình liên quan mật thiết với cuộc thương khó và biến cố Phục Sinh. Trong vài tuần nữa, Đức Giêsu lại đem ba người theo Ngài, ba người bạn này đến vườn Ghếtsêmani (Mt 26,37; Mc 14,33). Gương mặt của Đức Giêsu mà họ sắp thấy rạng ngời vinh quang, lúc đó họ lại thấy thấm đầy mồ hôi và máu đỏ (Lc 22,44) bị vả tát, rồi phỉ nhổ (Mt 25,67).
Trong cuộc đàm đạo tám ngày trước, Đức Giêsu cũng loan báo cho các ông biết rằng, chính các ông sẽ phải “vác thập giá, của mình để theo Người” (Lc 9,23) và Người nói thêm rằng, “một số người sẽ không phải nếm cái chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa” (Lc 9,27)… “Vương quốc” bí mật này là sự phát triển vinh quang của Thiên Chúa trong nhân loại, thế thì biến cố biến hình phải chăng là một hình ảnh của vương quốc đó? Lạy Chúa, làm sao con có thể đạt được mềm vui Phục sinh, mà không phải ngang qua con đường khổ giá? Mùa Chay này có là dịp để giúp con thông hiệp với những đau khổ của Chúa không? Tuần lễ thứ hai Mùa Chay bắt đầu để “nhờ thập giá tiến đến niềm vui”. Thương khó – Biến hình, cũng là một mầu nhiệm.
Cùng với Phêrô, Gioan và Giacôbê, Người lên núi để cầu nguyện.
Oi! Thật các ông đã có một dịp may đặc biệt! Cầu nguyện với Đức Giêsu! Được thấy Người cầu nguyện! Nhưng chỉ lát nữa, chúng ta sẽ thấy ngay, dù các ông có hiện diện trong lúc đó, các ông cũng không xứng đáng hưởng dịp may này. Trong khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì các ông lại “ngủ”. Đức Giêsu thật là “con người của cầu nguyện”. Vào mỗi lúc quan trọng của cuộc đời, Người đều cầu nguyện (Lc 3,21 – 5,16 – 6,12 – 9,18 – 9,28 – 10,21 -11,1 – 22,32 – 22,41 – 42-23,84 – 23;46). Trong suốt Tin Mừng của ông, Luca luôn ghi nhận Đức Giêsu tìm sự cô tịch có thể gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Có một bí mật trong con người Đức Giêsu. Ngài sống trong sự thân mật đặc biệt với một Đấng nào đó mà Ngài gọi là “Cha”. Đức Giêsu là “con người muốn hướng về Chúa Cha”. Đó là chìa khoá khai mở lý lịch sâu xa của Ngài. “Cha” là lời xưng hô đầu tiên khi Ngài còn là một cậu bé 12 tuổi ở Đền Thánh (Lc 2,49) và cũng là lời thưa cuối cùng khi Ngài đã trưởng thành, lúc Ngài chết trên thập giá (Lc 23,46).
Vậy thì, trong Mùa Chay này, tôi sẽ hướng việc cầu nguyện của tôi như thế nào đây?
Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà.
Rõ ràng là Thánh Luca tránh dùng từ biến hình mà Mát-thêu (17,2) và Máccô (9,2) đã dùng để loan báo Tin Mừng cho người đương thời, chúng ta cũng phải biết thích nghi, có thể phải tránh một vài từ. Thính giả của Luca là những người gốc ngoại giáo, hấp thụ văn hoá Hy Lạp, có thể chỉ thấy trong từ “biến hình” một trong rất nhiều biến dạng của những thần linh có tính huyền thoại. Luca thích một thứ ngôn từ bề ngoài có vẻ khiêm tốn hơn nhằm trong lúc cầu nguyện, gương mặt của Đức Giêsu trở nên khác thường”. Thực tế, khi ngắm nhìn một số người nam nữ, trong lúc họ sốt sắng cầu nguyện ta cũng có thể thấy gương mặt của họ rạng ngời từ bên trong: cũng chính là con người đó, nhưng có một cái khác thường đang toát ra.
Trong văn hoá Kinh Thánh, biểu tượng “y phục” cũng giúp ta bổ sung cho sự quan sát đầu tiên này. Y phục “trắng tinh và chói loà” là “dấu chỉ” cho các hữu thể trên trời (Đn 7,9-10,5) Còn các Kitô hữu đầu tiên dùng để nói về Đức Giêsu. Phục Sinh (Kh 1,13, Lc. 17,23-24,4). Đó là tấm áo trắng các bé thơ của chúng ta thường mang khi chịu phép rửa… Ao trắng của những người lớn khi tuyên xưng lại đức tin… áo trắng của cô dâu trong ngày cưới, áo của linh mục trên bàn thờ… Đó là những dấu chỉ của Phục sinh, dấu chỉ của những môn đệ, chia phần vinh quang với Thầy (Kh 3,4-5 – 3,18-4,4 – 6,11-7,9-9,13)
Khi gợi lên cho ta thấy Đức Giêsu với “gương mặt biến đổi” nhờ cầu nguyện, Luca có ý khích lệ chúng ta. Trong cuộc sống đầy thử thách và thất bại, đầy đau khổ và tội lỗi chỉ có cầu nguyện, vào những lúc nào đó, mới có thể biến đổi chúng ta. Bởi vì chúng ta cũng được “biến đổi” phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương” (2 Cr 3,18). Khuôn mặt Mùa Chay, phải là khuôn mặt biến đổi!
Có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sấp hoàn thành tại Giêrusalem.
Chỉ mình Luca mới nói cho chúng ta biết về đề tài cuộc đàm đạo giữa Chúa và hai chứng nhân vĩ đại của Cựu ước: Họ nói về việc Chúa lên đường, cuộc “xuất hành” (exodou, theo từ Hy Lạp). Chúng ta không hiểu rõ Đức Giêsu đã sống bị ám ảnh và đeo đuổi trước viễn tượng về cái chết của mình như thế nào, cái chết mà Gioan gọi là sự “bước qua” cuộc vượt qua của Người (Ga 13, 1) và Luca gọi là “sự bốc đi” (Lc 9,51-24,51). Đức Giêsu là con người hy sinh chính thân mình. Người biết Người đến để làm gì, sẽ đi về đâu Ngời đi về cùng Chúa Cha, Người “bước vào trong vinh quang bằng cách ngang qua cái chết”, và kéo theo Người toàn thể nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu tại Giêrusalem, là tóm tắt toàn bộ lịch sử con người, tóm tắt định mệnh của tôi: Dù tôi muốn hay không, dù tôi ý thức hay không, tôi cũng đang bước đi trên con đường về với Chúa, bằng cách vượt qua cái chết. Tôi đang “xuất hành”, rời bỏ miền đất nô lệ để đến miền đất hứa. Giáo Hội bắt đầu Mùa Chay, vào ngày lễ tro, để nhắc cho ta nhớ định mệnh của ta: “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi!”. Nhưng cuộc biến hình sẽ biến đổi tình trạng phũ phàng của ta thành một viễn tượng vinh quang: Nhờ trở thành tro bụi, chúng ta mới bước vào trong Chúa. Niềm tin nơi Đức Giêsu là một điều lạc quan phi thường. Đó là ánh sáng cho mọi người? Chúng ta đang tiến về với Thiên Chúa.
Ong Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu và hai nhân vật đứng bên Người. Đang lúc hai vị này rời xa Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Người rằng: “Thưa Thầy chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy một cái cho ông Môsê, và một cái cho ông Êlia”. Ong không biết mình đang nói gì.
Trước cảnh tượng gây ngỡ ngàng mà các ông đang chứng kiến một lần nữa các tông đồ không hiểu gì. Các ông đang sống trong tình trạng tranh tối tranh sáng, vừa tỉnh vừa mê, nói linh tinh. Tiếp cận với thế giới thần linh, không thể nói lên bằng ngôn ngữ rõ ràng được. Khi mọi sự kết thúc, nghĩa là khi Môsê và Êlia đã ra đi, thì các ông mới nhập cuộc, mới ấp úng mở lời. Tại Ghếtsêmani, cả ba người này đều ngủ cả.
Môsê và Elia là những con người của núi Sinai (Xh 38,18-22; 1 V 19~9-14). Cả hai như bừng cháy lên vì được gặp cảnh tượng không thể diễn tả. Cả hai, đều đã khơi dậy công cuộc giải phóng dân tộc mình khỏi mọi thần tượng đang chiếm chỗ của Thiên Chúa duy nhất. Đức Giêsu đã đàm đạo thân mật với các vị ngôn sứ lớn trong cựu ước. Trong Mùa Chay tôi có dành thời giờ để mở Kinh Thánh không?
Ong Phêrô còn đang nói, thì có đám mây đến bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ.
Khác với Mát-thêu và Máccô, Luca đưa ba môn đệ vào trong “đám mây: là biểu tượng thường xuyên của thế giới thần linh. Vì các Ngài còn không hiểu gì về biến cố. Biến hình vua xảy ra, nên có thể nói, chính Chúa đã muốn mạc khải lần thứ hai cho các ông. Để bước vào trong Chúa, chúng ta cần phải trải qua nhiều giai đoạn liên tiếp. Và một lần nữa, chúng ta lại ghi nhận sự sợ hãi liên tiếp của những người được gặp gỡ Chúa: Vì đó là Đấng hoàn toàn khác”. Hơn nữa, họ đâu có gì về việc đó lần này họ cũng lại im lặng.. Tất cả những, định nghĩa tín tý, theo lý trí, về Thiên Chúa, chỉ là những lời lẽ phần lớn là sau những lời nói tầm phèo. Lạy Chúa, Chúa vượt trên mọi quan niệm, chúng con chỉ có thể gọi Chúa là Đấng mà chúng con “không thể nhận biết được”. Chúng ta nên im lặng, thinh lặng nội tâm: Chúng ta hãy bước vào bóng mờ của đám mây, trong màn sương mù tạo bóng tối, trong đó ta không thấy cách xa bốn thước, nơi đó, ta phải dò dẫm, tìm đường mà đi.
Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta chuyện chọn”. Hãy vâng nghe lời Người.
Ở đây Mát-thêu và Luca đã dùng từ “Con yêu dấu” (tiếng Hy Lạp là “Aga pèto). Chỉ có Luca dùng từ “Người con đã được tuyển chọn” (tiếng Hy Lạp là “eklegnlenos”). Những nhà duy lý đề cao lịch sử, thường đặt vấn đề: Thực sự tiếng nói đó đã hàm chứa điều gì? Các Tin Mừng không hề quan tâm đến việc trả lời sự tò mò đó. Từ “được tuyển chọn”, là do Luca tự ý viết ra. Luca tham chiếu nhiều đoạn sách ngôn sứ Isaia trong đó từ này nói về “dân Chúa” một cách tập thể, hay nói về nhân vật bí mật “Người tôi tớ của Thiên Chúa” (Is 42,1~3). Vào lúc Chúa bị đóng đinh, Luca cũng sẽ dùng lại từ này (Lc 23,35).
Chúng ta cũng vậy, chúng ta đã được tuyển chọn do phép rửa của mình và mọi người lựa chọn đều nhằm tách riêng con người ra, để phục vụ kẻ khác. Chúa đã tuyển chọn tôi vì Người đang mong đợi một điều nào đó nơi tôi, một cái gì rất độc đáo.
Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Con các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã xem thấy.
Như vậy thì tốt hơn! Các ông đã không hiểu gì ngay lúc đó. Sau này các ông sẽ hiểu, khi Đức Giêsu sẽ là “Người tôi tớ”, người “được tuyển chọn trong biến cố Vượt qua”, trong cuộc xuất hành của Ngài về với Chúa Cha.
83. Chú giải của Fiches Dominicales
ÁNH SÁNG TRONG BÓNG TỐI CỦA HÀNH TRÌNH VỀ GIÊRUSALEM
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Trong bước đi tăm tối về Giêrusalem
Rõ ràng thánh sử Luca muốn nối kết đoạn này vào những biến cố và những đoạn văn trước đó:
Câu hỏi then chốt của Hêrôđê về căn tính thực sự của Đức Giêsu: “Người này là ai mà ta nghe nói đến nhiều?”. Ong thắc mắc và “ông tìm cách gặp Người” (9,9)
Lời tuyên xưng của Phêrô với Đức Giêsu như với “Đấng Mêsia của Thiên Chúa” (9,2) và lời tiên báo lần đầu về cuộc
khổ nạn như một đoạn đường bắt buộc phải đi không chỉ đối với Đức Giêsu: “Con Người phải chịu đau khổ rất nhiều, chịu chối bỏ; chịu chết nhưng đến ngày thứ ba người sẽ sống lại (9,22), nhưng còn đối với các môn đệ thân tín của Người: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá hằng ngày rồi theo Ta” (9,23).
Jean-luc Vesco chú giải: “Định mệnh của trò cũng như của Thầy sẽ trải qua 2 giai đoạn, một giai đoạn khổ đau, một giai đoạn vinh quang. Các môn đệ khó mà hiểu được giai đoạn một. Nhưng Đức Giêsu vẫn kiên quyết. Ai muốn theo người đều phải nối kết vận mệnh của mình vào cuộc Khổ nạn là Phục Sinh của Người. Hai khía cạnh của mầu nhiệm cứu độ vẫn là bất khả phân ly” (“Giêrusalem và ngôn sứ của nó”, Cerf, trg 38).
Khoảng “8 ngày sau khi nói những lời này” là thời gian Luca đã định vị trình thuật về cuộc Hiển Dung, trong đó hai khía cạnh của mầu nhiệm vượt qua sẽ nối kết với nhau. Đó là.”khoảnh khắc thoáng qua lúc tấm màn che phủ căn tính Đức Giêsu được vén lên, lúc vinh quang tàng ẩn trong Người, nhờ qua đau khổ và cái chết, sẽ bừng lên vào buổi sáng lễ Phục sinh, sẽ từ thân thể Người chiếu toả ra.
2. Một thị kiến chói loà trên núi.
Trừ hai ba chi tiết, Tin Mừng thứ ba lặp lại y nguyên những chi tiết giống như Máccô và mát thêu để gợi lại một kinh nghiệm không diễn tả được.
* Nơi biến cố diễn ra hoàn toàn có tính cách biểu tượng đó là một “ngọn núi”, theo truyền thống Kinh Thánh, là nơi gặp Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa tỏ bày mạc khải của Người.
* Sự lựa chọn các môn đệ đi theo cũng mang tính chất biểu tượng: “Phêrô, Gioan và Giacôbê” những môn đệ được kêu gọi đầu tiên, những người tại nhà Zai-rô, đã là chứng nhân của sự toàn thắng trên cái chết (8,31-56).
* Khung cảnh của biến cố cũng mang tính chất biểu tượng: Đó là cảnh Đức Giêsu cầu nguyện. Chỉ mình Luca đề cập đến chi tiết này. Theo Tin Mừng thứ ba, lời cầu nguyện luôn đi theo những giây phút trọng đại trong sứ vụ Đức Giêsu.
Lúc Người “cầu nguyện” trong ngày chịu phép rửa, trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người và có tiếng từ trời phán ra (3.21-22). Sau khi lánh vào “núi rừng để cầu nguyện”, Người đã chọn 12 môn đệ (6, 12- 16). Khi Người “cầu nguyện một mình” Người đã đưa ra câu hỏi dẫn tới lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (9, 18-20). Và chẳng bao lâu nữa, ta sẽ thấy Người cầu nguyện trong vườn Giếtsêmani để tìm sức mạnh đảm đương cuộc chiến cuối cùng; biến hơi thở cuối cùng thành lời cầu nguyện (23.34 và 46); Phục sinh rồi giã từ môn đệ khi đọc lời nguyện chúc phúc cho họ (24,50-51).
– Tại nơi đây, trên núi cao, chính “đang khi cầu nguyện” mà
Đức Giêsu chiếu lên luồng ánh sáng thần linh. Khác với Máccô và Mátthêu, Luca không nói về sự biến hình biến dạng; Thánh sử chỉ nói “dung mạo Người trở nên khác thường” và “Y phục Người trắng rực rỡ”. Sau đó Người viết rằng: “Phêrô và các bạn tỉnh giấc và được thấy vinh quang Đức Giêsu”.
Hugues Cousin xác định: “Mặc lấy vinh quang” có nghĩa là tham dự vào ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa hằng sống, được nâng lên địa vị siêu tôn; y phục trắng ánh chớp, có nghĩa Đức Giêsu đã tiến vào khung cảnh thiên đường. Như thế, Đức Giêsu như được tạm thời mặc trước nguồn vinh quang Phục sinh mà Người sẽ được thừa hưởng khi sống lại. Tuy nhiên Luca nghĩ rằng có lẽ nguồn vinh quang này đã tiềm ẩn trong Đức Giêsu từ trước Phục sinh và do kết quả của việc cầu nguyện, Đức Giêsu không thể ngăn chặn luồng vinh quang ấy chiếu toả từ thân thể Người “Tin Mừng theo thánh Luca” Centurion, trg 137).
-Một chi tiết khác rất giàu biểu tượng đó là: Sự hiện diện của hai khuôn mặt lớn trong Cựu ước: Môsê và Êlia, là hai nhân vật tóm tắt tất cả Lề Luật Môsê) và các tiên tri (Êlia), hai nhân vật chính của Cựu ước đã loan báo rằng: “Đức Kitô phải chịu đau khổ rồi mới bước vào vinh quang” (Lc 24,26-27).
Sự hiện diện của các ngài là chứng cớ sống động rằng lời tiên báo của Đức Giêsu về tương lai của Người hoàn toàn phù hợp với Kinh Thánh.
-Một chi tiết riêng của Tin Mừng thứ ba đó là “cuộc lên đường của Người” (theo sát nghĩa là: cuộc “Xuất Hành” của Người: vừa chết, vừa Phục sinh, vừa được tôn vinh) mà hai nhân vật Cựu ước bàn tới. Môsê không phải là con người của cuộc Xuất hành. của núi Si-nai, của cuộc vượt qua Biển Đỏ sao? Và Êlia chẳng phải là vị tiên tri lớn đã phải chịu đau khổ vì Thiên Chúa và vì dân tộc trước khi được cất lên trong vinh quang thần thánh sao?
Như một Êlia mới, Đức Giêsu cũng được mời gọi chịu đau khổ trước khi được “cất lên” (9,51) trong vinh quang thiên quốc Người cũng là Môsê mới trong cuộc Xuất hành mới, trong lễ Vượt Qua mới của một Giao ước mới, sẽ vượt qua biển sự chết để giải phóng dân Người và dẫn đưa họ đến Đất
Hứa thật sự là Vương quốc của Cha Người.
– Phêrô có lẽ nhớ đến lễ Lều như một biểu tượng báo trước sự chấm dứt của lịch sử, đã đề nghị nắm chặt khoảnh khắc hiện tại bằng cách dựng “ba lều”. Nhưng Luca đã ghi nhận rằng mong ước cuộc thần hiển này kéo dài “ông không biết phải nói gì” vì ông vẫn chưa nhìn thấy viễn thống khổ nạn như một đoạn đường buộc phải đi qua.
– Lúc ấy Phêrô, Gioan và Giacôbê bị bao phủ trong “một đám mây” – Trong Kinh Thánh đó là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa – giống như Đức Maria trong ngày truyền tin, đám mây ấy “phủ bóng che rợp” các ngài. Các ngài “sợ hãi “.
– Chính lúc ấy “một tiếng nói ” vang lên trong đám mây. Cũng là tiếng nói khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan.
Nhưng hôm nay, tiếng ấy không còn nói với Đức Giêsu nữa (“ Con là Con Ta, hôm nay Cha đã sinh ra Con”) nhưng nói với các môn đệ của Người: “Đây là Con Ta mà Ta đã tuyển chọn”. Người Tôi Tớ đau khổ (xem Is. 42,1-8). Đức Giêsu, Người đang đồng hành với họ, thường che giấu vinh quang của mình, nay đã thoáng tỏ ra cho họ là Người Con, nơi Người, Cựu ước được hoàn thành; Người là Đấng nói năng với một uy quyền lớn hơn Môsê và Êlia nên ta phải “lắng nghe” Người là Đấng ta phải đi theo trên con đường dẫn về Giêrusalem: về vinh quang, qua thập giá.
3. Quy hướng về cuộc Xuất hành của Đức Giêsu.
Giờ đây mọi sự trở lại bình thường; “họ chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu “. Tạm thời, các môn đệ “im lặng” cho tới buổi sáng sau đêm khổ nạn, mọi sự chợt có ý nghĩa dưới ánh sáng ban mai ngày Phục sinh, ngày mà Chúa Thánh Thần của Lễ Hiện Xuống sẽ tháo cởi miệng lưỡi để họ làm chứng về những gì đã thấy đã nghe. Nhưng họ hiểu rằng từ nay họ sẽ cùng Người dấn thân vào một định mệnh vượt quá sức họ. Cần phải lên đường, đường đi về Giêrusalem chỉ mới bắt đầu. Định mệnh đó phải diễn ra trong niềm thao thức lắng nghe lời vị tiên tri, Con Thiên Chúa là Người Tôi tớ vừa mạc khải cho biết chuyến xuất hành lên Giêrusalem là thiết yếu. Giờ đây, Đức Giêsu chỉ còn một mình, nhưng ta phải bước theo Người.
Con Người tiến về sự chết, nhưng cũng là tiến về vinh quang cuộc biến hình vừa biểu lộ và các tông đồ đều được mời gọi bước theo số phận của Người.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Điểm dừng chân ơn phúc nơi cộng đoàn ngày Chúa nhật.
(F. Deleclos trong hãy cầm lấy Lời Chúa mà ăn”, Centurion-
Duculot trg 195).
Phêrô, Giacôbê và Gioan đã bỏ thuyền, bỏ lưới mà theo Đức Giêsu. Sự sợ hãi đã nhường chỗ cho lửa nhiệt tình và những lời hứa về Nước Trời đã chắp cánh cho họ. Nhưng đường thăm thẳm và đích điểm còn quá xa vời. Từng say sưa với những thành công vang dội của Thầy, giờ đây họ chán nản khi gặp chống đối dữ dội. Đã thán phục và đón nhận Đấng Mêsia bây giờ vỡ mộng khi thấy Người bị phản đối. Cứ phân vân giữa “những sự dưới đất” và “những sự trên trời”, ta có thể tin tưởng vào ai, tin tưởng cái gì?
Đây là lúc thuận tiện để tỉnh cơn mê, vươn vai đứng dậy để chiêm ngưỡng “dung nhan của Chúa” và sẵn sàng lắng nghe Lời Người. Ánh sáng chói chang, làn sóng hạnh phúc khôn tả, thị kiến thoáng qua về “thế giới khác” với cõi phàm trần nơi ta cư ngụ. Cám dỗ muốn bám vào cái kinh nghiệm tuyệt vời trong phút chốc.
Từ nay họ biết rằng Đức Giêsu là Đấng được Cha sai đến. Họ đã nhìn thấy vinh quang của Người khiến dung mạo Người ra khác. Tuy đã thấy dung nhan đời đời thực sự của Người, nhưng từ nay họ vẫn chỉ được nhìn khuôn mặt xác phàm của Người, khuôn mặt chẳng bao lâu nữa sẽ lênh láng máu.
Hãy nghe Lời Người! Nghe Người và theo Người tìm lại con đường phiêu lưu dưới đồng bằng.
Dù vật vã say ngủ và thổn thức bất an, hay sa lầy trong những thói tật xưa cũ trên đường, ta vẫn được Đức Giêsu mời gọi lên núi cầu nguyện.
Thánh lễ là điểm dừng chân ơn phúc, là ánh sáng chân lý là mạc khải hành trình là ý nghĩa cuộc hành hương của ta. Một dừng chân vắn vỏi để lắng nghe, để chiêm niệm, để biến hình, rồi sau đó với niềm phó thác, dấn thân sâu xa hơn trong mịt mờ sương mù của những cái thường ngày.
2. Khi con Người chiếu toả Thiên Chúa
(G. Bossière trong Thiên Chúa rất gần, năm C”, DDB, trg 35-36).
Khi bị khinh miệt, bị săn đuổi, các Kitô hữu vẫn giữ được lòng can đảm nhờ nói về Đức Giêsu. Trong số những kỷ niệm trao đổi cho nhau, có đoạn văn tươi đẹp này: Đức Giêsu hiển dung, đột nhiên chói ngời ánh sáng thần thiêng. Việc toả sáng phát xuất từ bên trong bản thân Người: “Dung mạo Người trở nên khác thường”. Một con người chiếu toả Thiên Chúa! Và khoảnh khắc khiêm tốn nhất của đời Người đã đem đến sự Hiện Diện như thế.
Hằng ngày, ta vẫn nghe nói. “Nhân loại không xinh đẹp”. Con người có thể làm được tất cả. Thật ra nhân loại thường bị biến dạng vì bạo lực, ích kỷ hèn hạ, và thật thảm hại, lịch sử những điều ghê sợ vẫn chưa chấm dứt. Cần phải tỉnh táo tiến bước. Tuy nhân:ân nhân loại thật sự là đẹp, và con người – theo kiểu nói mạnh của những Kitô hữu thế kỷ đầu tiên “có khả năng đạt tới Thiên Chúa”.
Biết bao người, nổi tiếng hay vô danh, đã biểu lộ Thiên Chúa qua lòng can đảm, qua sức mạnh tình yêu, qua sự hy sinh trong đời sống hằng ngày của họ. Sự biến hình diễn ra rạng ngày ở khắp nói trên trái đất: Sự biến hình là năng lượng thẳm sâu của lịch sử, năng lượng ấy giúp con người tiếp tục dong duổi đường trường. Môsê, Êlia là hai khuôn mặt vĩ đại của quá khứ hai con người bằng lửa đã đưa dân qua những chặng đường hiển hách. Các ngài cũng có mặt và nói về “cuộc lên đường của Đức Giêsu về “cuộc xuất hành” của Người. Một chuỗi các thế kỷ vừa khép lại và một kỷ nguyên mới sắp bắt đầu.
Ba tông đồ, ba kẻ thân tín nhất, muốn ở lại cắm lều trong ánh sáng, khai mạc thành đô và các lễ hội vinh quang. Không được phải đi thôi. Cuộc biến hình đó chính là một hành trình, phải mất hằng thiên niên kỷ. Ta vẫn chưa leo lên đỉnh núi, chưa cầu nguyện cho đủ đâu.
Còn Đức Giêsu đã hướng đích điểm về Giêrusalem, sự đương đầu, phiên toà và cái chết. Chính trên giá khổ hình mà Người đã xé đôi chân trời trần gian để thời gian liên tục.
Người vẫn là Tin Mừng, là nắm men trong các lương tâm, và Người chỉ cho ta thấy thành đô đang kêu gọi mọi xã hội hãy biến đổi tận gốc rễ. Đức Giêsu, tiêu điểm, chuẩn mực, là khuôn mặt thần linh của nhân loại chúng ta. Cuộc sống của Người sẽ mãi mãi biến hình cuộc sống của ta.
84. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
BIẾN HÌNH TRÊN NÚI
1. Chúa Giêsu đang ở trong một khúc quanh quan trọng của sứ mạng Ngài. Việc rao giảng ở Galilê đã kết thúc. Trong nội bộ nhóm môn đệ. Phêrô vừa suy tôn Ngài là Đức Kitô của Thiên Chúa (9,20) và Chúa Giêsu, khi đón nhận lời tuyên tín ấy, đã hoàn toàn thêm bằng việc loan báo cuộc tử nạn của Ngài (9,22): Ngài không phải là kẻ chinh phục hiển hách mà từ bao đời vẫn mong chờ, cũng không phải là Đấng giải phóng chính trị mà người đương thời mơ tưởng, nhưng là Đấng Messia chịu đau khổ. Thánh giá nằm cuối chặng đường sứ mạng Ngài và là luật sống của Ngài cũng như của các môn đệ (9,23-26): thật là một viễn tượng khắc khổ cay đắng, nhưng đưa đến vinh quang nước trời (9,27). Cuộc biến hình làm cho các môn đệ thấy trước chính vinh quang đó, hầu soi sáng ý nghĩa của cuộc thử thách sắp đến. Chúa Giêsu dành riêng mạc khải này cho ba môn đệ đã đến rất gần mầu nhiệm của Ngài: Phêrô, Giacobê và Gioan. Cả ba cũng vừa được chứng kiến sự sống lại của con gái ông Giairô (8,51-56).
2. Bài trình thuật của Lc về cuộc biến hình có các đặc điểm chung của phúc âm thứ ba. Tiếng metamorphpthê (“đã biến hình”, coi Mc 9,2; và Mt 17,2) xem ra Lc đã cố ý tránh không dùng; nó được thế bằng câu: “dung nhan mặt Ngài ra khác”. Quả vậy, phải tránh cho các độc giả Kitô giáo gốc lương dân hình dung ra một tương tự nào đó giữa biến cố này với những chuyện hoá thân của thần thoại ngoại giáo.
Chỉ có Lc ghi rõ Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện và cuộc biến hình xảy ra đang khi Ngài cầu nguyện, như thế là kết quả của lời cầu.
Trong Púc âm thứ ba. Môisen và Êlia cũng được mặc lấy vinh quang thiên quốc, hai ông được trình bày như sau: “Có hai người là Môisen và Êlia… hiện đến trong vinh quang”. Có nên từ đó suy luận rằng nhị vị ấy tiên báo”hai người mặc áo chói loà” trong trình thuật phục sinh (24,4) hoặc tiên báo “hai người y phục trắng ngời” (Cv 1,10) đến cắt nghĩa cuộc thăng thiên siêu phàm cho các tông đồ chăng? Điều đó xem ra hoàn toàn thích hợp với dòng tư tưởng của tác giả phúc âm thứ ba. Êlia đã được cất về trời (2V 2,11; 1Mac 2,58; Hđ 48,9); còn trong kinh thánh (Đnl 34,5), cái chết của Môisen bao trùm màn bí ẩn, nên chắc hẳn đã tạo cơ hội phát sinh cuốn nguỵ thư được người ta biết đến dưới cái tên “sự thăng thiên của Môisen”; sau cùng, việc Chúa Giêsu kết thúc đời trần gian được gọi là cuộc “siêu thăng”, như tiếng dùng cho Êlia (9,51; x.Cv 1,2.11.22; Mc 16,19) Tất cả những dự kiện góp chung lại đó làm cho chúng ta tin rằng sở dĩ Môisen và Elia có mặt trong bài trình thuật của Lc về cuộc biến hình là vì họ mang tư cách những nhân vật thiên quốc đến báo trước vinh quang tương lai của Chúa Giêsu. Các dữ kiện ấy cũng khiến ta tin rằng trong phúc âm thứ ba quang cảnh này trước hết là tiên trưng của biến cố thăng thiên. Đám mây, mà tác giả phúc âm muốn người ta chú ý vì đã làm cho các môn đệ sững sờ, có thể đem so sánh với đám mây thăng thiên (Cv 1,9) mà một ngày nào đó sẽ mãi mãi che khuất Chúa Giêsu khỏi mắt người đời.
3. Điểm đáng chú ý của bài trình thuật là việc Môisen và Elia đàm đạo với Chúa Giêsu về cuộc “xuất hành” của Ngài, nghĩa là cái chết của Ngài “sắp hoàn tất tại Giêtusalem (c.31). Cũng như ở chỗ khác, Lc là tác giả phúc âm duy nhất dùng tiếng doxa (vinh quang:c.32); mối liên hệ ông ta tạo ra giữa sự tử nạn và vinh quang rất gần với quang cảnh của Ga 12,27-28 mà người ta thường coi là tương ứng với câu chuyện Biến hình của phúc âm nhất lãm.
Người ta không nhất trí mấy về ý nghĩa chữ “xuất hành” (exodus). Nhiều người hiểu là “kết thúc” hay là “chết”. Theo nguyên tự, chữ đó có nghĩa là “ra đi”, mà người Pháp dịch là exode. Lc có lẽ xem toàn thể cuộc tử nạn, sống lại và lên trời như là một cuộc xuất hành mới: nhờ các cuộc tử nạn, sống lại và lên trời như là một cuộc xuất hành mới: nhờ các khổ đau của Ngài, Chúa Giêsu rời bỏ Giêruselem cứng tin, tương ứng với Ai cập, để đi vào vinh quang, tương ứng với Đất hứa của cuộc xuất hành xưa. Với lối chú giải này, người ta đi đến kết luận rằng: cuộc xuất hành mà trong Mc và Mt trùng vào những ngày Chúa Giêsu bắt đầu đời sống công khai, thì lại được Lc cũng như Gioan đặt vào chặng cuối của cuộc sống Ngài ở trần gian. Cuộc viễn du 40 năm của dân Do thái tiến về đất hứa tương ứng với 40 ngày (Cv 1,3) từ khi sống lại đến lên trời. Tuy nhiên phải nhận rằng cách giải thích này còn gây nhiều vấn đề nan giải. Điều chắc chắn là tiếng xuất hành (exodos) không phải là tiếng thường dùng để chỉ sự chết (x. F,. Josephe, Ant. Jud. 4,8,2). Nhưng trái với hoài niệm xuất hành, người ta thấy rõ là sách tông đồ công vụ gọi cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc “tiến vào” (trong sứ mạng công khai) và “đi ra” (1,21; 13,24).
4. Như các biến cố khác của cuộc đời Chúa Giêsu, kể cả phép rửa và cám dỗ, cuộc biến hình trong phúc âm thứ ba được qui hướng về tấn kịch cuối cùng và hướng về Giêrusalem. Ngoài những yếu tố khác nhau được ghi lại trên đây, Lc còn là người duy nhất ghi lại điều này: trong cuộc biến hình cũng như ở vườn Giêtsimani, các môn đệ mê ngủ mà họ chỉ chứng kiến sự kỳ diệu khi thức dậy. Trong cùng một ý nghĩa đó, việc Phêrô xin dựng ba lều để kéo dài thời gian đặc ân làm cho ta liên tưởng đến việc hai khách bộ hành đi Emmau cầu xin Đấng – sống – lại ở với họ lâu hơn nữa.
5. Ngày Chúa Giêsu chịu phép rửa, đã có tiếng từ trời phán ra để trao cho Ngài một sứ điệp tương tự: “Con là Con ta, hôm nay ta sinh ra con” (Lc 3,22). Đó là lời Chúa Cha nói với Con Ngài, là lời tấn phong Đấng Messia theo kiểu CƯ (Tv 2,7) là lời khai mạc sứ mệnh của Đấng cứu thế (theo Mt 3,17: lời Tc nói với đám đông để giới thiệu cho họ Đấng Messia)
Còn trong cuộc biến hình, Chúa Cha ngỏ lời cho chính các môn đệ. Ngài mạc khải cho họ mầu nhiệm Chúa Giêsu: Ngài là Con Đấng đã được chọn. Danh hiệu “Đấng đã được chọn” này, tái xuất hiện khi Chúa chịu treo trên thập giá (23,35), đã gợi lại hình ảnh người tôi tớ (trong Is 42,1), vị tiên tri mang ánh sáng đến cho muôn dân và dùng cái chết để chuộc tội muôn người.
KẾT LUẬN
Cuộc biến hình là một gạch nối giữa ánh sáng mau vụt qua của phép rửa và ánh sáng rạng ngời của ngày phục sinh. Trong việc lên Giêrusalem, Chúa Giêsu thấy mình được lời Chúa Cha xác nhận trong sứ mạng Messia chịu đau khổ: Chúa Giêsu là Lời mà hết thảy mọi người phải nghe, là vị hướng đạo chắc chắn cho cuộc xuất hành cuối cùng tiến về cuộc sống sung mãn.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Luật muôn đời của đức tin là: vinh quang Thiên Chúa bao giờ cũng chỉ được ban cho chúng ta trong một chớp sáng mau qua vào những lúc được an ủi thiêng liêng sâu xa nhất: vừa sáng đủ để củng cố cho đức tin, vừa ngắn ngủi để khỏi xâm phạm tự do của nó. Suốt thời gian thử thách Thiên Chúa vẫn là Vị Thiên Chúa mai ẩn đối với người tín hữu, bởi vì Ngài là Cha và vì Ngài muốn được các tâm hồn tự do yêu mến.
2. Cuộc biến hình của Chúa Giêsu là sự đáp trả của Chúa Cha đối với việc Ngài chấp nhận cuộc tử nạn với tình yêu. Quả thật, ít hôm trước, Chúa Giêsu đã loan báo cho các tông đồ cuộc tử nạn sắp đến của Ngài. Ngài hoàn toàn ý thức Ngài đang tiến về cái chết. Ngài đón nhận cái chết như do ý muốn Chúa Cha để cứu chuộc nhân loại. Và để đáp trả lời vâng phục đầy tình yêu của con, Chúa Cha mặc cho Chúa Giêsu ánh sáng và vinh quang. Một thời gian nữa, Thiên Chúa cũng làm cho như thế tại Giêrusalem. Chúa Giêsu sẽ uống chén đau khổ và chén sự chết vì tình yêu vâng phục thánh ý Chúa Cha. Và để đáp lại tình yêu đó, Chúa Cha sẽ phục sinh con Ngài trong ánh sáng và vinh quang. Trong đời sống Kitô hữu chúng ta cũng vậy. Nếu trong một vài lúc, sự vâng phục thánh ý Chúa Cha xem ra là một thánh giá nặng nề, chúng ta hãy tin chắc rằng ngày kia sư vâng phục đó sẽ là nguồn vâng phục khôn tả. Và ngay trong cuộc đời này, chúng ta đã được sự bình an của Chúa Giêsu. Với Ngài chúng ta có thể nói: “Tôi không ở một mình, vì có Cha ở với tôi, vì tôi hằng làm đẹp lòng Ngài” (Ga 8,29).
3. Chính đang khi cầu nguyện mà Chúa Giêsu được biến đổi. Thông thường các thánh, hình như cũng được biến đổi nhờ cầu nguyện và ngợi khen. Điều đó không lạ gì cả. Cầu nguyện là một sự gặp gỡ với Chúa Cha, làm chúng ta nên giống Ngài, ít ra là về tinh thần nếu không phải là về thể xác như trường hợp Chúa Giêsu và các thánh. Nếu chúng ta trung thành cầu nguyện, chắc chắn dần dần Chúa sẽ thông ban cho chúng ta ngay trong cuộc sống này một chút gì đó của sự bình an, của niềm hy vọng rạng rỡ của hạnh phúc Ngài.
4. Sau cuộc biến hình, các môn đệ gặp lại Chúa Giêsu với dáng vẻ tầm thường và cuộc sống thường nhật của Ngài lại tiếp tục. Và chỉ sau khi phục sinh, họ lại thấy Chúa Giêsu trong vinh quang của Ngài. Chúng ta cũng vậy, sau khi được an ủi nhiều, sau những cử hành phụng vụ đẹp mắt làm chúng ta sốt sắng, chúng ta lại trở về cuộc sống thường nhật. Tuy nhiên Chúa Giêsu vẫn tiếp tục ở với chúng ta trong mọi biến cố, mọi hành động thường ngày của đời sống. Trên đường đời, cho dù gặp nhiều thánh giá, nếu chúng ta bền tâm đi theo Ngài, một ngày kia chúng ta sẽ gặp Ngài trong mối thân tình êm ái còn hơn cả tình thân thỉnh thoảng chúng ta nếm được trên trái đất này. Vì khi đó, chúng ta sẽ thấy Ngài rõ ràng, mặt đối mặt. Khi đó, chính chúng ta cũng được biến đổi cho đến muôn đời.
85. Mùa chay biến đổi đời sống – Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Hiển dung trước mặt môn đệ
Cuộc hiển dung của Đức Giêsu xảy ra vào khỏang tám ngày sau khi Người tiên báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh mà Người sắp trải qua. Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan được theo Đức Giêsu lên núi (x. Lc 9,28). Đang lúc cầu nguyện, dung mạo Người đổi khác: y phục nên trắng tinh chói lòa (c.29), có Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Người về “cuộc Xuất hành” mà Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem (c.31). Phêrô đã xin Thầy cho dựng lều (c.33). Rồi có đám mây bao phủ các ông, và từ trong đám mây có tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Đây là Con Ta, Người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe Lời Người” (c.34-35). Sau cuộc biến hình, các môn đệ đã “nín thinh, không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã chứng kiến” (c.36).
CHÚ THÍCH:
– C 28b-29: + Đức Giêsu lên núi: Đây có thể là núi Hermon, cao 2.795 mét ở gần thành Xêdarê Philíp. Nhưng ngày nay đa số các nhà chú giải cho núi đó là Thabo, cao 562 mét, cách thành Xêdarê Philíp một đoạn đường, đi bộ mất từ 6 đến 8 ngày. + Cầu nguyện: Tin mừng Luca đã ghi lại nhiều lần Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha (x. Lc 10,21; 22,41-42; 33,34.46). + Đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê: Đây là ba môn đệ thân tín nhất, sau này ba ông cũng sẽ được chứng kiến giờ đau khổ tột cùng của Thầy trong vườn Cây dầu trước khi bị bắt (x. Mt 26,37). Vì thế hôm nay Đức Giêsu cho các ông thấy trước vinh quang của Người, hầu có thể vượt qua thử thách ấy.
– C 30-31: + Ông Môsê và ông Êlia: Môsê là một vị mục tử tài ba, sống vào thế kỷ XII trước Công nguyên. Ông có công cứu con cháu Giacóp thóat ách nô lệ cho dân Ai cập, biến dòng tộc Giacóp trở thành một dân tộc có luật pháp, tôn giáo và quân đội… Cuối cùng Môsê đã thành công trong việc đưa dân tộc Ítraen về tới hứa địa là xứ Canaan. Môsê là tiền ảnh của Đức Giêsu sau này.- Êlia: là một ngôn sứ sống vào thế kỷ IX trước Công nguyên vào thời các Vua. Ông có công chấn hưng tôn giáo, giải thóat dân Ítraen khỏi sự tôn thờ thần tượng của dân ngoại. Ông là tiền ảnh của Gioan Tiền sứ, có sứ vụ đi trước dọn đường cho Đấng Thiên Sai sau này (x Ga 1,21; Mc 9,11).- Hai vị hiện ra rạng ngời vinh hiển: Vì được tham phần vào công trình cứu độ, nên Môsê và Êlia cũng được tham phần vào vinh quang của Đức Giêsu.- Nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem: Cuộc “Xuất hành” của Đức Giêsu gồm mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, sắp được Người hoàn tất tại Giêrusalem.
– C 32-33: + Ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt: Sự kiện các môn đệ ngủ mê cho thấy cuộc biến hình xảy ra vào ban đêm. Sự kiện này tương tự như sau này, ba ông cũng ngủ mê khi Đức Giêsu cầu nguyện trước khi bị bắt trong vườn cây Dầu (x Mt 26,40.43.45). + Chúng con xin dựng ba cái lều: một cái cho Thầy, một cái cho ông Môsê và một cái cho ông Êlia: Câu này cho thấy khi ấy người Do thái đang mừng lễ Lều trại tại Giêrusalem (x. Lv 23,33-34; Ds 29,12-38).
– C 34-36: + Có một đám mây bao phủ các ông: Nhắc lại đám mây bao phủ dân Ítraen trong thời kỳ Xuất hành (x. Xh 40,35). Khi truyền tin, sứ thần cũng đề cập tới quyền năng Thiên Chúa sẽ bang trợ cho Maria như sau: “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lc 1,35). + “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn”: Chúa Cha từ trong đám mây xác nhận Đức Giêsu là Con, và là “Người Tôi trung được Thiên Chúa tuyển chọn” (x. Is 49,7). Trong cuộc khổ nạn, các thủ lãnh Do thái cũng nói rằng: “Nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, Người được tuyển chọn” (Lc 23,35). + “Hãy vâng nghe lời Người!”: Đức Giêsu là Ngôi Lời nhập thể (x. Ga 1,14). Người luôn nói Lời của Thiên Chúa cho loài người (x. Ga 3,34) và Lời Người cần phải được đón nhận. + Tiếng phán vừa dứt thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu: Cuộc hiển dung chấm dứt sau lời tuyên phán của Chúa Cha. Các môn đệ im lặng, chờ ngày các mặc khải kia được ứng nghiệm.
CÂU HỎI:
1) Đức Giêsu đã biến hình trên núi cao là núi nào?
2) Tại sao Đức Giêsu cho ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan được chứng kiến việc biến hình vinh quang của Người?
3) Hai nhân vật nào của Cựu ước đã hiện ra khi Đức Giêsu hiển dung và ba vị đã nói chuyện nội dung về vấn đề gì?
4) Cuộc biến hình xảy ra vào ban ngày hay ban đêm? Bằng chứng?
5) Đám mây bao phủ ba môn đệ nói lên điều gì?
6) Chúa Cha đã giới thiệu Đức Giêsu là ai?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Đang lúc cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác” (Lc 9,29)
2. CÂU CHUYỆN:
1) Được ơn biến đổi là bằng chứng của một đức tin thực sự:
Tân là một thanh niên chuyên bán thịt bò tại một cửa hàng thịt trong chợ AĐ. Anh nổi tiếng là người bán hàng gian dối khi thỉnh thoảng lại bán thịt heo giả làm thịt bò và còn thường hay cân thiếu cho khách hàng. Một ngày nọ, có người thấy anh theo học khóa giáo lý dự tòng để chuẩn bị kết hôn với một cô gái công giáo và sáu tháng sau anh đã được lãnh ba bí tích khai tâm gia nhập đạo. Nghe tin anh theo đạo, nhiều người quen biết tỏ vẻ không tin vì cho rằng anh chỉ giả bộ theo đạo để lấy vợ như câu người đời thường mỉa mai: “Cúi đầu lạy Chúa Ba Ngôi. Cho tôi được vợ tôi thôi nhà thờ!”. Nhưng sau nhiều ngày thấy anh cùng vợ thường xuyên dự lễ Chúa Nhật và tỏ ra vui vẻ thân thiện với mọi người, nhất là sau khi kiểm tra thấy việc buôn bán của anh không còn cảnh cân thiếu hay lừa đảo như trước thì họ mới tin anh thực tâm tin theo Chúa.
Lời Chúa Giêsu: “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em, nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà bẻ? Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt. Cây nào không sinh quả tốt, thì bị chặt đi và quăng vào lửa. Vậy, cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai” (Mt 7,15-20).
2) Được ơn chữa lành nhờ cây Thánh Giá:
Năm 1982, các nữ tu Dòng Con Đức Bà Phù Hộ, quen gọi là Dòng nữ Salêsiên ở Cáp bên nước Haiti, muốn thuê nhà điêu khắc PÊRIKHÊT làm một cây thánh giá lớn để đặt trong nhà nguyện mới của nhà dòng. Nhưng lúc đó, ông Pêrikhết lại mới bị phát hiện mắc bệnh ung thư. Viên bác sĩ riêng của nhà điêu khắc, cũng có mặt khi các nữ tu đến nhờ cậy, đã nói với các nữ tu như sau: “Thật tốt biết bao nếu các chị đến đây sớm hơn. Rất tiếc là bây giờ căn bệnh ung thư của ông Pêrikhêt đã quá nặng rồi”. Sau đó, viên bác sĩ quay sang nói với nhà điêu khắc: “Là một tín hữu, ông hãy cứ cậy trông vào Chúa, cho dù thực tế có xảy ra điều gì bất lợi đi nữa”.
Nhưng từ khi biết mình bị ung thư, nhà điêu khắc Pêrikhêt trở nên chán nản, chẳng còn thiết thực hiện thêm bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào nữa nên từ chối. Ít ngày sau, một nữ tu lại đến gặp Pêrikhêt và năn nỉ ông: “Này ông Pêrikhêt. Các nữ tu ở nhà thờ mới tại Cáp ước mong ông làm cho nhà dòng một cây thánh giá dài hai mét thật đẹp như ông đã làm. Họ rất ngưỡng mộ tài năng tuyệt vời của ông! Trước khi có câu trả lời dứt khoát cho họ, tôi muốn hỏi ý kiến ông thêm một lần nữa”. Bấy giờ nhà điêu khắc im lặng suy nghĩ trong giây lát rồi bình thản nói: “Tôi quyết định nhận lời làm cho nhà dòng. Cây thánh giá này sẽ là tác phẩm cuối cùng của đời tôi trước khi nhắm mắt. Cầu Chúa dủ lòng thương xót linh hồn tôi”.
Thế là từ hôm ấy nhà điêu khắc bắt tay vào công việc với tất cả nhiệt tâm của một người mong hoàn thành tác phẩm để sớm gặp được gặp Chúa. Công việc dĩ nhiên nặng nề khó khăn hơn do bệnh ung thư gây ra. Nhưng có điều lạ là mỗi nhát búa đập trên thanh sắt nóng đỏ, thay vì làm cho nhà điêu khắc bị mệt mỏi, lại làm cho ông thêm phấn chấn và sức khỏe tốt hơn. Ông tiếp tục làm việc ngày đêm cho chóng hoàn thành. Sau khi hoàn thành công việc thì nhà điêu khắc cũng hoàn toàn được bình phục. Ông đã được ơn Chúa biến đổi là được chữa lành khỏi căn bệnh ung thư quái ác đã bị mắc phải trước đó. Ngày nay, cây thánh giá do Pêrikhêt thực hiện vẫn còn treo trên gian thánh nhà thờ thành phố Cáp và tiếp tục thu hút nhiều tín hữu đến kính viếng. Mọi người đến đây đều cảm thấy như được gia tăng sức khỏe khi cầu nguyện trước cây thánh giá kỳ diệu này.
Thánh Phaolô cũng khẳng định về ơn chữa lành kỳ diệu này như sau: “Đức Giêsu có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21).
3) Một cuộc hoán cải lạ lùng
Trong một nhà giam các tù nhân trọng án, có một tù nhân khét tiếng hung ác tên là SITA ĐÊLI (Starr Daily). Anh ta vào tù ra khám nhiều lần vì tội say sỉn đánh lộn làm mất an ninh trật tự xã hội. Trong lần tuyên án thứ năm, quan tòa đã tuyên bố: “Chúng tôi biết rằng có bắt anh ở tù thêm cũng chẳng có kết quả. Phải nói thật là: chúng tôi hoàn toàn thất vọng về anh! Nhưng chúng tôi không thể không tuyên án cho anh. Lần này anh bị phạt tù giam 10 năm”.
Sau khi vào nhà tù, Đêli vẫn tỏ thái độ ngoan cố và còn coi thường kỷ luật nhà tù hơn trước. Anh thường hay đánh đập các bạn tù và phản đối lại cai tù, đến nỗi anh bị biệt giam trong một căn hầm tối dơ bẩn đầy gián hôi và lũ chuột cống… Một hôm, khi đang nằm ngủ trên nền gạch lạnh giá, đột nhiên Đêli nghe có tiếng nói như sau: “Hỡi Đêli, tại sao mi lại bị nhốt riêng trong căn hầm khủng khiếp này? Tại sao mọi người đều thù ghét mi? Tại sao mi không dùng sức khỏe để phục vụ mà cứ tiếp tục làm điều ác chống lại kẻ khác như thế? ”… Tư tưởng này đã đánh động tâm hồn khiến Đêli nhiều phen suy nghĩ. Rồi một đêm kia Đêli đã gặp được Đức Giêsu trong giấc mơ, Đấng mà anh đã xua đuổi ra khỏi cuộc đời anh từ khi mười hai tuổi. Cũng từ đây, hình ảnh của Đức Giêsu thường xuyên xuất hiện trong tâm trí anh. Anh mơ thấy Người đến bên âu yếm nhìn và nói với anh những lời mà anh đã từng thuộc lòng khi còn bé: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng”, “Hãy yêu thương kẻ khác như yêu chính mình ngươi”… Anh cảm thấy tâm hồn được bình an mà từ trước đến nay chưa khi nào được hưởng. Rồi khuôn mặt của những kẻ đã từng bị anh hãm hại lần lượt xuất hiện trong tâm trí khiến anh rất hối hận. Lần đầu tiên, anh đã mở miệng cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 18,13).
Cảm nghiệm ấy đã biến Đêli từ một người hung ác gian tham và thù hận, trở thành một người đầy độ lượng nhân ái! Sự biến đổi nội tâm khiến Đêli không còn la hét đập phá như trước, Các nhân viên cai ngục đã nhận ra có sự thay đổi rõ rệt xảy ra nơi anh, họ cho phép anh được trở lại trại giam thường phạm. Tại đây anh bắt đầu đối xử tốt với các bạn tù: Anh luôn bênh vực những người mới đến, nên dần dần anh được mọi người trong trại quý mến. Rồi anh được giảm án tù từ mười xuống còn 5 năm. Mãn hạn tù, anh gia nhập vào “Nhóm cải thiện chế độ lao tù”. Cùng với cha tuyên úy và các bạn, Đêli đi thăm và động viên các tù nhân còn bị giam và khuyên họ hãy học tập cải tạo tốt. Nhờ đó nhiều bạn tù đã sớm được về đoàn tụ với gia đình. Linh mục Pitơ Mácsôn (Peter Marshall) đã bình luận về sự hóan cải của Đêli như sau: “Đây là một bằng chứng sống động cho thấy: Sita Đêli không chỉ là một người cũ được tân trang lại, nhưng chính là một tạo vật hoàn toàn mới của Thiên Chúa!”.
3. THẢO LUẬN: Cầu nguyện, ăn chay và chia sẻ cơm bánh cho người nghèo là 3 việc làm tốt trong mùa Chay này để được ơn biến đổi nên tốt. Vậy trong những ngày Mùa Chay này mỗi người chúng ta sẽ làm ba việc đó thế nào?
4. SUY NIỆM:
1) Hai cuộc biến hình trong thời gian giảng đạo của Đức Giêsu:
Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đã hiển dung trước mắt ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan trên núi cao (x. Lc 9,28b-29). Về sau cũng ba ông này sẽ được chứng kiến Đức Giêsu thay đổi hình dạng tại Vườn Dầu vào đêm trước cuộc khổ nạn (x. Mc 14,33). Ở trên núi cao hôm nay, Đức Giêsu hiển dung nên vinh hiển và được Chúa Cha xác nhận là Con yêu được tuyển chọn. Ba môn đệ đã được chứng kiến Đức Giêsu hiển dung, sau này sẽ còn được chứng kiến giờ phút Người buồn sầu xao xuyến tại vườn Cây Dầu như Người đã tâm sự với các ông: “Linh hồn Thầy buồn sầu đến chết được” (Mc 14,34).
2) Ý nghĩa của hai cuộc biến hình của Đức Giêsu:
– Đức Giêsu hiển dung trên núi cho thấy thân xác loài người chúng ta sau này cũng sẽ được biến đổi trở nên vinh quang sáng láng, cho dù hiện tại thân xác ấy xem ra mỏng dòn yếu đuối. Rồi khi chịu chết đau thương trên cây thập giá, toàn thân Đức Giêsu đã bị biến dạng đầy những vết thương bầm dập do bị quân lính đánh đập hành hạ trong cuộc thương khó, nhưng khi phục sinh thì thân xác của Người lại trở nên tốt đẹp đến nỗi các người thân cận vẫn không nhận ra Người vào sáng ngày Phục Sinh (x. Ga 20,14-16) hoặc khi hiện ra đàm đạo với hai môn đệ ở làng Emmau (x. Lc 24,14-16).
– Đức Giêsu sau Phục Sinh và Đức Giêsu trước cuộc tử nạn vẫn là một, nhưng mang hai khuôn mặt khác nhau. Điều này cho thấy: Thân xác con người ở nơi trần gian và sau khi được sống lại trong ngày Tận Thế tuy là một, nhưng vẫn có sự khác biệt với nhau, như thánh Phaolô đã diễn tả trong thư I Côrinthô: “Đây tôi nói cho anh em biết mầu nhiệm này: không phải tất cả chúng ta sẽ chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi trong một giây lát, trong một nháy mắt, khi tiếng kèn cuối cùng vang lên. Vì tiếng kèn sẽ vang lên, và những kẻ chết sẽ trỗi dậy mà không còn hư nát; còn chúng ta, chúng ta sẽ được biến đổi. Quả vậy, cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt; và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử (1 Cr 15,51-53).
3) Bài học từ cuộc biến hình của Đức Giêsu:
– Qua cuộc biến hình trên núi cao, Đức Giêsu muốn tỏ cho ba môn đệ thân tín thấy khía cạnh sáng láng vinh hiển của Người để chuẩn bị cho các ông khi phải đón nhận khía cạnh đen tối của Người khi khởi đầu cuộc khổ nạn tại vườn Cây Dầu. Đây cũng là bài học cho chúng ta trong cuộc sống tương quan với tha nhân:
+ Một tội nhân dù có phạm tội xấu xa đến đâu cũng vẫn có những điểm sáng trong tâm hồn là những tính tốt. Khi đối diện với một tội nhân, cần tránh chỉ nhìn những tội lỗi xấu xa của họ để kết án, mà cần nhìn cả những ưu điểm tốt đẹp của họ để cảm thông và giúp họ hoán cải. Cụ thể: Thánh nữ Maria Mácđala hoặc thánh giám mục Augúttinô đã chẳng trải qua cuộc biến đổi nên thánh từ một quá khứ tội lỗi bất xứng đó sao?
+ Các cuộc biến đổi kỳ diệu từ xấu nên tốt đều do ơn Chúa Thánh Thần tác động nhờ lời cầu nguyện và sự vâng nghe Lời Chúa của những người trong cuộc:
* Nhờ ơn Chúa ban qua lời cầu nguyện: Cũng như Đức Giêsu đã thay hình đổi dạng khi đang cầu nguyện, thì các thánh nhân cũng được biến đổi nên con người mới, khi các ngài ý thức về thân phận tội lỗi của mình và cầu xin Chúa trợ giúp. Người tín hữu chúng ta cũng chỉ được biến đổi nên tốt lành thánh thiện khi cậy nhờ vào ơn Chúa như Đức Giêsu đã nói với các môn đệ sau Tiệc Ly: “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được!” (Ga 15,5).
* Nhờ sự vâng nghe và thực hành Lời Chúa:Trong cuộc hiển dung, Chúa Cha từ trong đám mây đã xác nhận Đức Giêsu là Con yêu dấu được tuyển chọn, và dạy các môn đệ: “Hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35). Chính Lời Chúa như thanh gươm sắc đã tỉa sạch các thói hư nơi con người cũ của các môn đệ và biến các ông trở nên tạo vật mới của Thiên Chúa (x. Ga 15,2).
4) Chúng tôi phải làm gì?:
Trong mùa Chay, chúng ta cần gặp được Chúa để được biến hình.
Sám hối đích thực là điều kiện dẫn tới nếp sống chiếu sáng trước mặt người đời. Chúng ta cần tham dự các tuần tĩnh tâm Mùa Chay để tỏ lòng ăn năn sám hối tội lỗi.
Chiếu sáng qua việc âm thầm cầu nguyện, qua lối sống hãm mình chay tịnh và qua hành động quảng đại chia sẻ cơm bánh với tha nhân.
Cụ thể trong Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót này, mỗi người chúng ta cần thể hiện tình thương thế nào đối với những người đang bị đau khổ bệnh tật và các tội nhân đang lạc xa Chúa?
5. NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Xin biến đổi con nhờ sự suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện hằng ngày:
Xin biến đổi cái nhìn của con nên nhân từ hơn sau mỗi lần con chiêm ngắm Chúa;
Xin thanh tẩy môi miệng con sau mỗi lần con lên rước Chúa vào lòng;
Xin biến đổi đôi tai con sau mỗi lần con lắng nghe lời Chúa phán;
Xin làm cho khuôn mặt của con rạng ngời ánh sáng tin yêu mỗi lần con gặp được Chúa.
Ước gì mọi người chung quanh nhìn thấy niềm vui của Chúa qua nụ cười rạng rỡ của con; Thấy sự ân cần dịu dàng của Chúa qua lời ăn tiếng nói và cách ứng xử của con.
– Lạy Chúa. Xin giúp con biết bỏ đi “cái Tôi” ích kỷ tự mãn và các thói hư gọi là mối tội đầu. Xin cho con sẵn sàng vác thập giá mình hằng ngày là các việc bổn phận, các đau khổ bệnh tật hay các điều cực lòng do người chung quanh gây ra… mà theo chân Chúa giữa đời thường. Nhờ đó hy vọng con sẽ được ơn biến đổi ngày một nên giống Chúa giàu lòng từ bi thương xót hơn, nhất là trong những ngày Mùa Chay Thánh này.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.
– Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
86. Biến đổi cuộc đời như Chúa
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Lc 9: 28-36: Với trang Tin Mừng hôm nay, ta bắt gặp Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi, trong lúc Ngài biến hình thì các ông có lẽ đang ngủ và câu chuyện hình như xảy ra vào ban đêm. Đêm thường là biểu tượng của sự tối tăm khiến chúng ta không còn nhận ra cách trực tiếp những thực tại siêu nhiên.
Với trang Tin Mừng hôm nay, ta bắt gặp Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi, trong lúc Ngài biến hình thì các ông có lẽ đang ngủ và câu chuyện hình như xảy ra vào ban đêm. Đêm thường là biểu tượng của sự tối tăm khiến chúng ta không còn nhận ra cách trực tiếp những thực tại siêu nhiên.
Rồi các môn đệ bắt gặp Ngài nói chuyện với Môsê và Elia. Sự hiện diện của hai vị này cũng như câu chuyện trao đổi liên kết một cách mầu nhiệm trong thân phận con người và vinh quang của cuộc đời mai hậu. Điều này chứng tỏ rằng giữa những đau khổ ở đời này, con người sẽ được sống lại và được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.
Khi Phêrô đang nói thì có đám mây che các Ngài, và có tiếng từ trời: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Thiên Chúa muốn con người vâng nghe Đức Giêsu. Thiên Chúa không muốn Con Ngài và những người theo Con Ngài ở hoài trên núi; Ngài muốn họ xuống núi để sống cuộc sống bình thường của họ giữa con người thời đại mình. Giây phút biến hình không biết kéo dài khoảng bao nhiêu phút, nhưng thất bại và thập giá còn hoài trong suốt cuộc sống của Đức Giêsu và các tông đồ, kể cả khi Đức Giêsu đã phục sinh từ cõi chết.
Sau đó tầng trời mở ra và có tiếng nói: Này là con Ta. Cảnh tượng giống như lúc Ngài chịu phép rửa bên bờ sông Giođan. Vì thế, Chúa Giêsu chịu phép rửa cũng là Chúa Giêsu biến hình. Ngài là người đầy tớ thực hiện ý định của Chúa Cha, cho nên chúng ta phải tin tưởng, lắng nghe và thực thi những điều Ngài truyền dạy.
Biến cố Chúa Biến Hình loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng đôi mắt con tim để nhìn thấy mầu nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Như thế, nếu chúng ta muốn biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Người. Có sẵng sàng vác thập giá Chúa gửi trao mới được theo Chúa là Đường là Sự Thật là Sự Sống để được hưởng vinh quang Phục sinh với Ngài.
Chúa biến hình vinh quang sáng láng để nêu gương cho chúng ta, để chúng ta cũng biết biến đổi hình dạng như thế: biến đổi từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; biến đổi từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; biến đổi từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.
Với biến cố biến hình nay, người Kitô hữu chúng ta được mời gọi từng ngày sống của mình không ngừng lột xác, không ngừng đổi mới để được trở nên giống Đức Kitô hơn. Đây cũng là ý tưởng câu thánh Phaolô, ngài nói: Đức Kitô sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của chúng ta cho nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh quang của Ngài. Đồng thời ngài rất đau buồn khi nhận thấy có những kẻ sống thù nghịch với thập giá. Hãy góp phần vào sự biến hình của chính thân xác mình bằng cách khử trừ tội lỗi, uốn nắn sửa đổi lại những thói hư tật xấu, để trong ngày sau hết chúng ta sẽ được mặc lấy ánh vinh quang của Thiên Chúa.
Trong thư gởi giáo đoàn Philipphê 3,17-4,1 thánh nhân khuyến khích mọi người bắt chước ngài và theo gương các anh chị em có lòng tin vững mạnh, sống phù hợp với giáo huấn Tin Mừng của Chúa. Thánh Phaolô không tự cho mình là người hoàn thiện, vì Ngài cũng đang phải chiến đấu với thân xác yếu hèn của chính mình, với mọi đam mê và chước cám dỗ như tất cả mọi Kitô hữu khác. Cũng như mọi người, ngài đang chạy đua với hết sức lực mình để đạt đích.
Thánh Phaolô cũng không khuyên nhủ tín hữu tôn thờ thần tượng một ai đó trong cộng đoàn. Bởi vì những người này cũng đang chạy đua và cố gắng như mọi người khác, chiến đấu với những thiếu sót bất toàn và tội lỗi của họ, và bởi vì vị thầy duy nhất đáng tôn thờ là chính Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu Kitô là mẫu gương duy nhất cần phải theo và Tin Mừng của Ngài là kim chỉ nam duy nhất có thể đảm bảo cho con thuyền cuộc đời của người tín hữu đến bến bình an. Khi khuyến khích tín hữu cộng đoàn Philipphê bắt chước mình, thánh Phaolô mời cố gắng chạy, cố gắng chiến đấu như ngài, luôn hướng tấm lòng về tới đích cuộc đời là Thiên Chúa, là hạnh phúc mai sau. Đừng để các thú vui mau qua của đời này níu kéo mà khiến cho họ quên đi mục đích tối hậu của cuộc sống là ơn gọi Kitô.
Nói cách khác, thánh nhân nhắc nhở cho chúng ta biết rằng cuộc sống của chúng ta trên trần gian này là cuộc hành trình tiến về quê hương vĩnh cửu, là quê trời nơi Thiên Chúa đang chờ đón để ban cho chúng ta cuộc sống thần thiêng vĩnh cửu. Do đó phải luôn biết ý thức và tỉnh thức, đừng để cho các thú vật chất hay bất cứ thứ gì trên đời này trói buộc và cầm chân chúng ta. Ngoài ra, thánh nhân cũng khuyến khích tín hữu cũng noi gương ngài không chạy theo các điều luật, các cấm đoán tỉ mỉ và các hình thức lễ nghi bề ngoài, mà chỉ lấy Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh làm chỉ huy duy nhất và làm bánh lái sống lòng tin mà thôi.
Cuộc đời luôn có khó khăn, nhưng lại luôn mở ra những lối đi để chúng ta vượt qua. Khó khăn nào cũng sẽ qua đi. Sau bóng đêm là ánh bình minh. Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm đi vào thử thách với niềm tín thác vào Chúa. Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Thập giá là nhịp cầu đưa ta tới vinh quang Nước Trời. Chính Chúa Giêsu đã đi trước trên con đường thập giá. Chính Chúa đã đi qua thập giá để tiến vào vinh quang phục sinh. Chính Chúa vẫn đang chờ đợi để trao phần thưởng Nước Trời cho những ai trung tín theo Ngài.
Để có thể trung thành bước theo con đường Chúa Giêsu đã sống và vạch ra, người Kitô hữu không thể coi nhẹ hay dửng dưng với tâm tình cầu nguyện. Chính trong giây phút cầu nguyện, chìm sâu trong cuộc gặp gỡ ân tình với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã đón nhận kế hoạch cứu độ của Cha như lẽ sống của đời mình, đây cũng là lúc Ngài biến hình vinh quang; được tỏ lộ khi Ngài chấp nhận cái chết như một phương thế tuyệt hảo để tỏ lòng vâng phục Cha và yêu thương nhân loại đến nỗi hiến dâng chính mạng sống mình.
Vì thế, trong cuộc sống còn lắm vất vả bon chen và không hề thiếu vắng những cạm bẫy thử thách hôm nay, chỉ có sự chuyên cần cầu nguyện, thường xuyên đón nhận ánh sáng soi dẫn, và sức mạnh đỡ nâng của Chúa, người Kitô hữu mới thoát khỏi sự hoang mang sợ hãi hay trạng thái mê ngủ, trốn tránh thực tại trần thế với những bổn phận và trách nhiệm phải thi hành. Đành rằng quê hương vĩnh cửu ở trên trời nhưng đường lên trời lại khởi đi từ mặt đất, từ chính cuộc sống mà chúng ta phải xây dựng và làm cho phát triển mỗi ngày.
87. Biến hình với Chúa – Huệ Minh
Tinh thần của Mùa Chay là đi vào sa mạc của lòng mình để ở với Chúa trong thinh lặng và cầu nguyện. Đối diện với Chúa, ta thấy rõ mình hơn và hiểu biết Chúa hơn.
Sau khi Chúa Giêsu loan báo lần thứ nhất về cuộc tử nạn và phục sinh, Người đưa ba tông đồ thân tín Phêrô, gioan và Giacôbê lên núi. Người biến hình trước mặt các tông đồ để củng cố niềm tin cho các ông. Biến cố Chúa biến hình trên núi chuẩn bị cho các tông đồ đi vào mầu nhiệm vượt qua: Tử nạn và Phục sinh, để cho các tông đồ xác tín rằng theo Chúa Giêsu không chỉ có Thập Giá, mà còn có cả vinh quang nữa. Đó là ý nghĩa chính của cuộc biến hình này.
Ngang qua tương quan gần gũi với Chúa, chúng ta được Ngài biến đổi để trở nên rạng ngời hơn. Lời Chúa hôm nay thuật lại cho chúng ta rằng: “Hôm ấy, Đức Giêsu lên núi cầu nguyện, đem theo các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan. Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà.” (Lc 9, 28-29)
Trang Tin mừng hôm nay là lời tuyên bố từ trong áng mây: “Đây là Con Ta, Người đã được tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Chính Thiên Chúa Cha giới thiệu Con của Người và xác nhận tư cách Thiên Sai của Chúa Giêsu, vị Thiên sai tôi tớ phải chết thay cho muôn người được cứu sống. Người kêu mời tất cả chúng ta hãy vâng nghe lời Con Thiên Chúa.
Gặp gỡ Thiên Chúa thực sự luôn đi kèm một thay đổi tích cực nào đó cho cả tâm hồn lẫn thể xác. Khuôn mặt phản ánh nội tâm. Nếu muốn thay đổi dung mạo của mình, cách hữu hiệu nhất là thay đổi tâm hồn.
Trong Mùa Chay, chúng ta có cơ hội tốt để đến gặp gỡ Thiên Chúa ngang qua nhiều hoạt động thiêng liêng với anh chị em trong đoàn thể của mình.
Cạnh đó, chúng ta cũng cần đi lên núi ở riêng với Chúa cách thân mật, để gặp gỡ Ngài diện đối diện. Đi lên núi là điều không dễ bởi nơi đó chỉ có một mình ta. Cuộc sống tấp nập khiến ta dường như không đủ tĩnh lặng để có thể một mình đi gặp Chúa. Nhiều khi chúng ta ngại phải đối diện với bản thân mình, ngại phải duyệt xét những vấp ngã của chính mình. Khi đó, ta thường hay thoái thác và miễn trừ cho mình những chuyến đi vào sa mạc của cõi lòng.
Khi nhìn thấy dung mạo sáng láng của Thầy, các tông đồ dường như muốn ở lại mãi trong vinh quang ấy và muốn “dựng lều” để ở lại nơi ấy. Các ông muốn ở lại trong vinh quang sáng ngời nhưng lại không hiểu hết về cuộc xuất hành Thầy mình sắp hoàn tất tại Giêrusalem. Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn chiêm ngắm dung mạo rạng ngời của Thầy Giêsu khi Ngài bày tỏ vinh quang, nhưng các ông lại trốn chạy không dám nhìn gương mặt đầy thương tích của Thầy trên núi Sọ.
Đi lên núi chiêm ngắm dung mạo rạng ngời của Chúa trong Chúa nhật hôm nay là lúc ta được bổ sức và biến đổi hầu có thể theo Chúa trong cả gian khó lẫn vinh quang. Biến cố biến hình và biến cố đồi Can-vê, cả hai đều xảy ra trên núi. Hai biến cố này mang dáng vẻ bên ngoài khác nhau nhưng diễn tả cũng một thực tại là Đức Giêsu vinh quang.
Quả vậy, theo thánh sử Gioan, thì chính lúc ở trên thập giá là lúc Đức Giêsu diễn tả vinh quang Thiên Chúa và lòng nhân hậu của Ngài cách tuyệt vời nhất. Qua mầu nhiệm thập giá, Đức Giêsu cho thấy Thiên Chúa vĩ đại và yêu thương đến thế nào! Một Thiên Chúa bị đánh đòn bầm dập và chịu treo trên cây gỗ cho đến chết. Một Thiên Chúa đã trở nên trò cười cho khách qua đường. Một Thiên Chúa không tìm cách trả thù, nhưng lại sẵn sàng lấp đầy yêu thương và tha thứ cho những bạo lực của con người. Chính vì thế mà chúng ta thấy Thiên Chúa cao cả và yêu thương ngay trong biến cố thập giá.
“Biến hình” cần thiết đối với các tín hữu trước hết là thay đổi cách sống. Mùa Chay là mùa sám hối canh tân, là thời điểm thuận lợi để lãnh nhận ơn Chúa. Rà soát lại hạnh kiểm của mình, mỗi tín hữu cần có những quyết tâm đổi mới cuộc đời dựa trên Lời Chúa. Qua cầu nguyện và chay tịnh, xin Chúa tăng sức và biến đổi tâm hồn mỗi người chúng ta hầu dung mạo chúng ta cũng được bừng sáng trong ân sủng và bình an.