CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – C

Suy niệm CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – C
Lời Chúa: Gv. 1,2; 2,21-23; Cl. 3, 1-5.9-11; Lc. 12, 13-21
MỤC LỤC
1. Những kho lớn hơn 4
2. Biết dùng tiền của – ViKiNi 7
3. Ðổi mới cuộc đời 11
4. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 19
5. Cách dùng của cải đời này 32
6. Tiền của 46
7. Làm giầu – Lm. Anphong Trần Đức Phương 49
8. Kính sợ Thiên Chúa 52
9. Sống là chuẩn bị chết 54
10. Khi đồng tiền lên ngôi? – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 57
11. Thương xác theo tiếng nói của linh hồn 61
12. Thương xác theo tiếng nói linh hồn 65
13. Của cải và cái chết 69
14. Gia tài – Lm. Giuse Trần Việt Hùng 74
15. Ông phú hộ ngốc 79
16. Tiền bạc và giàu sang 83
17. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 86
18. Bấp bênh – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP 89
19. Làm giầu trước Thiên Chúa 96
20. Cái tạm thời và cái bền vững 100
21. Nghệ thuật làm giàu – Thiên Phúc 104
22. Đừng lãng quên linh hồn 107
23. Tích trữ kho tàng trên trời 110
24. Tiền bạc của cải sẽ về tay ai? 113
25. Cuộc đời là phù vân 118
26. Hãy mặc lấy Đức Kitô 121
27. Chúa Nhật 18 Thường Niên 126
28. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi 131
29. Đồ dại! – André Sève. 136
30. Ba thái độ đối với tiền của 138
31. Làm giàu vì biết chia sẻ – Achille Degeest 142
32. Suy niệm của Charles E. Miller 144
33. Nguy hại của việc tham lam của cải – Veritas 147
34. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên 151
35. Chuyện biết rồi vẫn cứ nói 154
36. Bao nhiêu mới đủ – McCarthy 158
37. Đời sống chẳng nhờ nơi của cải 165
38. Hạnh phúc không nơi tiền của 170
39. Hãy thu tích kho tàng trên trời 172
40. “Lấy gì mà đổi được linh hồn mình” 175
41. Xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi 181
42. Nghèo 185
43. Kho tàng 188
44. Khờ dại 192
45. Sự khôn ngoan đích thực – Lm. GB. Trần Văn Hào 196
46. Suy niệm của Lm. Uyen Nguyen 200
47. Phù vân 204
48. Điều làm con người thành vĩnh cửu 208
49. Tích trữ của cải – Lm. Giacobê Tạ Chúc 211
50. Bảo hiểm linh hồn – Lm. Bùi Quang Tuấn 214
51. Suy niệm của JKN 218
52. Có tiền mua tiên không được? 224
53. An toàn vĩnh cửu – Lm. Trần Bình Trọng 227
54. Hãy sống như sẽ chết – Lm. Vũ Xuân Hạnh 229
55. Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Nghĩa 233
56. Suy niệm của Lm Augustine 236
57. Đi tìm sự sống đời đời – Lm. An Phong 241
58. Bấp bênh – Như Hạ 244
59. Con người, tiền bạc và cuộc sống 251
60. Đừng trông cậy vào của cải – Lm Trọng Thưởng 253
61. Hãy giữ mình khỏi mọi tham lam 255
62. Lòng ham hố của cải – R. Gutzwiller 262
63. Một cơ hội làm giàu – Đỗ Lực, OP 266
64. Suy niệm của Gp. Vĩnh Long 274
65. Đừng thu tích của cải 282
66. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin 286
67. Chú giải của Noel Quesson 288
68. Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long 294
69. Sự giàu có đích thực 299
70. Nơi để của cải vật chất – William Barclay 305
71. Chúa Nhật 18 Thường Niên 311
72. Đời sống chẳng nhờ nơi của cải 320
73. Cẩn trọng khi sử dụng tiền của 325
74. Hãy dùng tiền để mua lấy Nước Trời 330
75. Tiền bạc: Ông chủ hay đầy tớ? 335

1. Những kho lớn hơn
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Cái kho là quan trọng. Kho bạc quan trọng đối với một đất nước. Kho lẫm cần cho người làm nghề nông.
Mỗi gia đình, mỗi công ty thường có kho riêng. Có thể là một tủ sắt để trong nhà hay ở ngân hàng.
Mọi lợi nhuận đều thu vào kho.
Ai cũng muốn cho kho của mình bành trướng.
Sau một vụ mùa bội thu, mối bận tâm lớn nhất của ông phú hộ trong dụ ngôn là tìm cho ra chỗ để tích trữ hoa màu của mình, vì những kho cũ không đủ sức chứa nữa. Cuối cùng ông đã tìm ra giải pháp này: phá những kho cũ, làm những kho mới lớn hơn, rồi bỏ tất cả hoa màu, của cải vào đó, khóa lại cho thật kỹ, đề phòng kẻ trộm.
Khi nhà kho đã an toàn thì tương lai của ông vững vàng ổn định. Nhiều của cải cho phép ông sống thoải mái trong nhiều năm. Những cái kho lớn cho ông tha hồ vui chơi, ăn uống. Ông thấy mình chẳng cần đến Chúa, chẳng cần đến ai. Của cải trong kho bảo đảm cho ông sống hạnh phúc. Những cái kho là nơi ông đặt lòng mình (x. Lc 12,34). Xin đừng ai xâm phạm vào chỗ thiêng liêng ấy.
Kho là nơi của cải đổ vào, sinh sôi nẩy nở. Kho không phải là chỗ chia sẻ cho người khác. Ông phú hộ sống cô độc, khép kín như cánh cửa kho. Ông sống với cái kho, sống nhờ cái kho.
Ông tưởng mình đã tính toán khôn ngoan, nhưng ông không ngờ cái chết đến lúc đêm khuya, hay có thể có biết bao rủi ro khác xảy đến. Ông chợt nhận ra mình phải bỏ lại tất cả. Cái kho không níu được ông, cũng không vững như ông nghĩ. Những gì ông thu tích như giọt nước lọt qua kẽ tay.
Ai trong chúng ta cũng có một hay nhiều kho. Có thể chúng ta ôm mộng làm giàu hay đang giàu lên, chúng ta định nới kho cũ hay xây kho mới. Chúng ta chăm chút cái kho cho con cháu mai này.
Thật ra của cải không xấu, xây kho cũng không xấu. “Nhưng phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam” (12,15).
Phải mở rộng những cánh cửa kho của mình, để kho không phải chỉ là nơi tích trữ cho tôi, nhưng là phương tiện để tôi giúp đỡ tha nhân. Đừng để nhà kho, két sắt, ví tiền thành mục đích.
Người giàu đáng yêu trước mặt Thiên Chúa là người biết mở kho để trao đi và thấy Thiên Chúa liên tục làm cho kho mình đầy lại. Làm thế nào để khi ra trước toà Chúa, chúng ta thấy kho của mình trống trơn vì vừa mới cho đi tất cả.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đất nước chúng ta phải đối diện với nạn tham nhũng. Đất nước nghèo đi trong khi kho của một số người phình ra. Theo ý bạn, tôn giáo giúp gì để đẩy lui nạn tham nhũng?
Tiền bạc là điều cần thiết cho cuộc sống, nhưng tiền bạc cũng là điều nguy hiểm. Theo ý bạn, đâu là những nguy hiểm do tiền bạc của cải đem lại?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng, có bao điều con lãng phí bên cạnh những Ladarô túng quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu. Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa. Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con. Con phải chịu trách nhiệm về cảnh người nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng. Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt, vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo là vì chúng con giữ quá điều cần giữ. Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.

2. Biết dùng tiền của – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Tục ngữ có câu: “Có tiền mua tiên cũng được” nhưng có tiền như: “Vua Ngô ba mươi sáu lọng vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì”.
Đức Giêsu cũng nói với đám đông và chúng ta rằng: “Anh em phải coi chừng, phải tránh xa mọi thứ tham lam, vì dẫu có dư giả, thì mạng sống con người cũng không được bảo đảm đâu”. Vậy phải dùng tiền của thế nào để mạng sống con người được bảo đảm?
Chúng ta, ai cũng biết đến giải thưởng nổi tiếng nhất thế giới là giải thưởng Nobel do tài sản khổng lồ của ông Alfred Nobel để lại. Ông đã dùng tiền của thế nào?
Ban đầu, ông Nobel đã dùng tiền của để sáng chế ra chất nổ làm cốt mìn và thuốc súng không khói. Kết quả là nhà thí nghiệm kho chất nổ của ông bị phát nổ tan tành, và bộ chiến tranh nước Ý đã lập cho ông một phòng thí nghiệm khác ở San Remo năm 1891. Để ông làm đạn và mìn. Do đó, nhiều người cho ông là hung thần phá hoại. Bà Bertha Suttner nói với ông “ông là tên sát nhân”. Có lẽ nhờ những lời đó mà ông thay đổi cách dùng tiền của.
Trước khi tạ thế, Nobel đã làm chúc thư gởi tất cả tiền của vào ngân hàng để lấy tiền lời thưởng hàng năm cho những ai có công nhất với nhân loại về năm công trình sau đây:
Thứ nhất giải thưởng cho ai có công xây dựng hòa bình.
Thứ hai giải thưởng cho ai có công phát minh về sinh học, y học.
Thứ ba giải thưởng về vật lý.
Thứ tư giải thưởng về hoá học.
Thứ năm giải thưởng văn chương cho tác phẩm nêu lên được lý tưởng cao đẹp cho nhân loại.
Như vậy, ông Nobel, lúc đầu đã dùng tiền của làm những việc bất nhân, về sau, ông đã biết dùng tiền của giúp ích cho nhân loại.
Đức Giêsu không nói tiền của là xấu, nhưng đã cảnh giác lòng tham lam tiền của và phải coi chừng đừng dùng tiền của ăn chơi bất chính và gây những việc bất nhân. Tin Mừng hôm nay nói đến một người đến xin Đức Giêsu: “Xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”.
Chắc hẳn cha mẹ anh đã chết, chỉ còn lại hai anh em chung sống với nhau thôi. Thế mà em đòi anh phải chia gia tài. Có lẽ anh không chịu nên em đến xin Đức Giêsu lấy quyền như một vị tiên tri bắt anh chia gia tài cho em. Như vậy em đã coi tiền của hơn tình nghĩa anh em ruột thịt. Nó coi của hơn người. Nó chọn chia rẽ hơn đoàn kết, tranh chấp hơn hòa thuận.
Chúa Giêsu còn thấy rõ tâm trạng người em này muốn có tiền để ăn chơi, phung phá, nên Người đã nói với nó phải tránh xa mọi thứ tham lam, tránh xa cái thói ăn chơi như hạng phú hộ kia, ông có nhiều ruộng sinh nhiều hoa lợi, xây những kho lẫm lớn tích trữ để ăn uống vui chơi cho đã. Nhưng khốn cho ông ta, “đồ ngốc! đêm nay, người ta sẽ đòi mạng ngươi”. Quả thực, chỉ qua một đêm thôi, đến sáng người ta đã lo đóng hòm, bó chặt lại, khiêng ông đi chôn cho sâu, nén cho chặt để khỏi bốc ra những mùi thối tha. Quả vậy, chỉ một cơn gió độc đêm nay, mắt ta nhắm nghiền lại, không bao giờ còn liếc nhìn, lườm nguýt ai nữa, mồm ta câm lại, không bao giờ ăn nhậu say sưa nữa, không còn cãi nhau, chửi nhau, vu oan vu vạ, nói hành nói xấu nữa, lòng dạ gan ruột xẹp lép không con hờn giận, ghen ghét căm thù nữa. Chỉ còn linh hồn ra trước tòa Chúa để chịu phán xét thôi.
Nếu biết sử dụng tiền của ở đời này để trở nên giầu có trước mặt Thiên Chúa thì thật vinh phúc biết bao cho ta khi ra trước tòa Chúa phán xét. Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ này thật phong phú, và dựng nên con người đầy tài năng phi thường để con người khai thác phát triển làm đẹp cuộc đời mình, làm vinh quang đời sống mình cho đến muôn đời; chứ không phải cho con người của cải, như cho một đứa con hư, chỉ ăn chơi phung phá làm hại cuộc đời mình, phá hoại đời sống nhân loại. “Của cải là đầy tớ tốt” khi con người biết sai khiến nó giúp đỡ mình. Nhưng tiền của là “ông chủ xấu” khi tiền của sai khiến ta, khi lòng tham tiền của xúi đẩy ta làm những điều bất nhân, bất công.
Thực trạng của thế giới ngày nay, không biết dùng tiền của. Để tiền của xúi giục mình đi vào chỗ chết. Ngày 21/07/1983 đài Hà Nội đưa tin Mỹ âm mưu chế tạo máy bay MX tốn phí hai trăm triệu đô một chiếc, bằng hai trăm triệu gịa lúa năm 1983; nghĩa là năm chiếc nuôi được cả nước Việt Nam một năm. Trong khi đó, ngày 21/07/1986, cơ quan Lương Thực Thế Giới là FAO họp ở Rôma đã thống kê Á Châu có ba trăm triệu người đói ăn. Thế giới đang chơi trò tận thế rồi!
Còn chúng ta, muốn khỏi mất mạng sống, muốn được hạnh phúc thật, phải biết dùng tiền của mua sắm những thứ cần thiết hằng ngày như cơm ăn, áo mặc, nhà ở, phải biết dùng tiền của mua sắm những thứ cần thiết hơn nữa như sách vở, học hành, sách giáo dục nhân bản, sách tiến bộ khoa học; nhất là những sách giáo lý, Thánh kinh, đạo đức hướng dẫn đời sống mình nên người lương thiện, tài giỏi, nhất là nên con Thiên Chúa. Đức Giêsu đã đặc biệt kêu gọi chúng ta hãy dùng tiền của để mua sắm những bạn hữu đón tiếp ta vào nước trời. Làm được thế, chúng ta đã dùng tiền của để nên giầu có trước mặt Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin dậy chúng con biết khôn ngoan dùng của cải đời này để làm giầu của cải trên trời. Xin cho chúng con đừng bao giờ là “đồ ngốc” tham lam, keo kiết và sống bê tha tội lỗi, Amen.

3. Ðổi mới cuộc đời
(Trích dẫn từ tập sách ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ – của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Bài đọc Kinh Thánh hôm nay đụng chạm đến đời sống thực tế của con người. Thoạt tiên chúng ta có thể đã cảm thấy nhiều điều chói tai. Bài sách Giảng viên không để lộ ra một quan điểm bi quan, yếm thế sao? Bài thư Phaolô dường như cũng có những lời khuyên xuất thế. Và bài Tin Mừng có vẻ không thích những con người tính toán làm ăn. Nhưng chính vì Lời Chúa hôm nay đề cập đến những vấn đề thực tế như vậy mà chúng ta phải tìm hiểu kỹ lưỡng. Chúng ta sẽ thấy chẳng có gì là bi quan xuất thế và mạt sát công ăn việc làm của con người. Ngược lại, chúng ta sẽ được khuyến khích nhìn xa hơn các công việc của ngày hôm nay, làm sao để lao công vất vả của con người ở đời được thành tựu lâu dài; và như vậy Lời Chúa chỉ muốn mạc khải cho chúng ta một lẽ sống để hoàn thành các nhiệm vụ ở trần gian.
1. Trước hết bài sách Giảng Viên khuyến khích chúng ta tìm hiểu về lẽ sống ở đời
Ðây là những lời của một con người có thao thức tìm hiểu. Người ấy tự xưng là Qohelet, con của Ðavít, vua ở Giêrusalem. Thế thì ông là Salomon mất rồi. Nhưng tại sao ông lại bảo mình là Qohelet? Thật ra danh từ này chỉ có nghĩa là “cộng đoàn”. Tác giả muốn nhân danh cộng đoàn dân Chúa mà giảng dạy. Thành ra chúng ta gọi là Giảng viên cho tiện. Và vì lời giảng của ông là những suy tư về sự khôn ngoan và lẽ sống ở đời, nên sách Giảng viên được liệt vào sổ các sách Khôn ngoan ở trong bộ Cựu Ước. Và hết mọi sách Khôn ngoan đều lấy Salomon làm tổ phụ. Do đó ở đây tác giả Giảng viên xưng mình là Qohelet, con của Ðavít, vua ở Giêrusalem. Tất cả những điều đó chỉ có nghĩa là bài sách và quyển sách Giảng viên này nói lên giáo huấn đã suy tư một cách khôn ngoan, khởi hứng từ thời Salomon, vị hoàng đế nổi danh là khôn ngoan tuyệt trần.
Vậy, các suy nghĩ khôn ngoan đã dẫn tác giả đến những kết luận nào? Câu đầu của đoạn sách đọc hôm nay cũng là câu đầu tiên của tác phẩm, tóm tắt thành quả suy nghĩ của tác giả. Ông nhận thấy: phù vân, rất mực phù vân, thảy là phù vân.
Chúng ta muốn lắc đầu chép miệng, vì sao mà yếm thế bi quan vậy? Nhưng đó là luận điệu của hầu hết các bậc khôn ngoan thánh hiền ngày xưa, nơi bất cứ dân tộc nào. Lão Tử, Thích Ca đều có những lời lẽ tương tự. Nếu chúng ta kính trọng các ngài thì đừng vội lắc đầu, chép miệng. Hãy tự coi như chúng ta chưa nhận ra sự khôn ngoan nơi những câu nói như vậy. Nhất nữa là ở đây: sách Khôn ngoan đã mặc hình thức lời linh ứng! Chúng ta hãy thử tìm hiểu lời Giảng viên muốn nói gì.
Ðể dễ xét đoán chúng ta hãy đọc thêm mấy câu nữa. Tác giả nói đến mình, nói đến Salomon đã lao nhọc và trổ tài khôn ngoan dưới ánh dương. Ông đã đem lao động tay chân và trí óc ra xây dựng sự nghiệp. Nhưng bây giờ ông tự hỏi: Công trình ấy sẽ để lại cho ai, sẽ rơi vào tay người nào? Phần ông chắc chắn sẽ chẳng mang theo được gì và không hiểu sẽ đi về đâu? Nghĩ như vậy mà không thấy hết thảy là phù vân sao?
Nhận xét này không bi quan, không yếm thế mà chỉ khắc khoải. Tác giả không hề tiếc vì đã lao nhọc. Ông không mảy may buồn vì đã trổ tài khôn ngoan ra ở dưới ánh dương. Ông chỉ ưu tư thắc mắc: Sự nghiệp ấy rồi sẽ rơi vào tay ai? Chắc chắn nó sẽ thành sở đắc của con người đã không lao nhọc gầy dựng nên. Nó có được đánh giá đúng mức để được tiếp tục xứng đáng không, hay sẽ lọt vào tay kẻ không xứng đáng mà tiêu tan ra mây khói? Sự nghiệp của con người như vậy không có tương lai bảo đảm. Nó chẳng phải là phù vân, tức là mau qua như gió thổi và không có rễ sâu chắc chắn sao? Rồi đến con người làm ra nó, tác giả đã vận dụng tay chân và trí óc để xây dựng, con người sẽ đi về đâu sau khi từ giã cuộc đời? Chẳng có gì bảo đảm tương lai cả. Ðời sống con người cũng thật là phù vân vậy.
Những suy tư này chân thật và thực tế. Chúng có thể dẫn sang những kết luận bi quan yếm thế. Người ta có thể dựa vào đó để suy nghĩ rằng cuộc đời chẳng có gì đáng sống; rồi lao nhọc làm gì để rồi ra đi với hai bàn tay không? Nhưng đó không phải là ý nghĩa của tác giả sách Giảng viên.
Lập trường của ông rất tích cực. Ông nêu lên những nhận định trên và đặt ra những câu hỏi về tương lai, không phải để khuyên yếm thế và vô vi. Nhưng ngược lại, ông thôi thúc độc giả và chúng ta tìm ra lẽ sống trường tồn cho cuộc đời. Ông nói lên khát vọng muốn được trường sinh và không mất mát chút gì về các sự nghiệp ở đời. Ông khắc khoải về tương lai và muốn nắm chắc định mệnh đời người. Trong cả tác phẩm của ông, không hề có thái độ nào muốn buông xuôi, chán nản chẳng muốn làm việc và xây dựng nữa. Ông tự hào vì đã lao nhọc và trổ tài khôn ngoan ở dưới ánh dương. Ðiều duy nhất làm cho tác phẩm của ông có vẻ ưu buồn là ông trách Chúa không cho con người biết rõ về tương lai và định mệnh của mình. Tức là ông vươn tới đời sau và bình diện cao hơn ở đời, đang khi vẫn ý thức rõ ràng cuộc sống của con người ở đời phải lao nhọc và trổ tài khôn ngoan ở dưới ánh dương.
Nói cách khác, bài đọc sách Giảng viên hôm nay khuyên chúng ta không nên thiển cận chỉ biết ngày hôm nay, nhưng phải nhìn xa về tương lai, phải nhìn cao hơn bình diện đời này để xây dựng không uổng phí và sự nghiệp khỏi trở thành phù vân. Ðó dường như cũng là ý tưởng của bài Tin Mừng Luca mà chúng ta tìm hiểu bây giờ.
2. Ðức Giêsu khuyên chúng ta phải biết làm giàu nơi Thiên Chúa
Hôm ấy có người trong đám đông nói với Người: “Thưa Thầy xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi”. Không hiểu thói quen thời bấy giờ có thể chúng ta thấy hành động của người ấy lố bịch. Ai lại đưa vấn đề chia gia tài ra nói với Ðức Giêsu! Và lại đưa ra khi Người đang ở giữa quần chúng như thế! Ở đây Người không phải là vị tiên tri đang rao giảng Lời Chúa sao? Người đâu có đến để làm thẩm phán hay trọng tài trên của cải vật chất?
Nhưng người kia đã theo thói quen thời bấy giờ, thời mà pháp luật và việc thi hành pháp luật khá uyển chuyển. Pháp luật dạy gia tài cha mẹ để lại thì phải chia cho con cái và người con cả có quyền được nhiều hơn. Nhưng lòng tham của người này có thể khiến việc phân chia không được công bằng và kịp thời. Người con cả có thể trì hoãn việc phân chia để có thì giờ ăn huê lợi, hoặc có thể không chia đủ phần cho các em. Những người này có thể đem nội vụ ra kiện cáo trước pháp luật. Nhưng thường khi sự thủ tục phức tạp và tốn phí, người ta có thể xin những người có uy tín trong xã hội giúp đỡ. Các tiên tri ở trong số những người này. Và uy tín của Chúa Giêsu bấy giờ có khả năng sắp đặt những câu chuyện như thế.
Tuy nhiên, Người lại không phải là hạng người như vậy. Ðang lúc ở giữa đám đông rao giảng Tin Mừng cứu độ. Người càng muốn tránh những thái độ thông thường khiến người ta có thể lầm về sứ mạng của mình.
Hơn nữa, ở đây, căn cứ vào những lời Người nói tiếp theo, kẻ đứng ra kiện cáo có vẻ là con người tham lam, ít ra thánh Luca đã hiểu như vậy. Người dùng câu chuyện này làm tiền đề đi vào giáo huấn của Chúa. Chính giáo huấn này mới là cốt yếu. Chúng ta phải để ý đến giáo huấn này, chứ đừng đứng lại trong câu chuyện chia gia tài kia và thắc mắc vô ích.
Ðó chỉ là cớ và khởi điểm cho một huấn thị về đời sống đạo đức. Thấy có kẻ để hở ra lòng tham lam của cải, Ðức Giêsu quay ra nói với quần chúng: “Hãy coi chừng, hãy lo giữ mình khỏi mọi thứ tham lam vì không phải ai được sung túc là đời sống kẻ ấy được bảo đảm đâu”.
Rồi Ðức Giêsu kể ví dụ về người phú hộ tưởng có nhiều của là được hạnh phúc vững bền, bởi vì nhỡ đêm nay chết, mọi điều người ấy đã sửa soạn sẽ về tay ai? Không nghĩ xa như vậy, thì thật là ngốc, không khôn ngoan như tác giả các sách khôn ngoan nói chung và như tác giả sách Giảng viên nói riêng, và vì ngốc như vậy, kẻ phú hộ ở đây được mô tả với những lời lẽ không được gây thiện cảm.
Quả vậy trong bài sách Giảng viên, chúng ta đã thấy con người khôn suy nghĩ được đồng hóa với Salomon, với con người đã lao nhọc và trổ tài khôn ngoan ở dưới ánh dương. Còn ở đây kẻ phú hộ được mô tả suy tính trong lòng mình: “Ta phải làm gì? Ta phải phá các lẫm cũ đi, xây những lẫm to hơn, chất lúa má vào đó, rồi sẽ nhủ hồn ta rằng: hồn ơi mày có chán của cải, nghỉ đi, ăn đi, hưởng đi”. Tất cả nói lên một lòng dạ bẩn thỉu, ích kỷ, không biết nghĩ gì tới người khác và xã hội. Tác giả Luca theo Chúa Giêsu, ghét những tâm lý như vậy; và không thể chấp nhận được những kẻ làm giàu để hưởng thụ. Chúa tể của hạng người này là cái bụng! Khốn cho kẻ giàu có! Họ cậy có chắc của cải, tưởng là bảo đảm được đời sống. Nhưng đồ ngốc, ngay đêm nay, người ta (tức là Thiên Chúa) đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi điều ngươi đã sửa soạn kia sẽ về tay ai?”. Dĩ nhiên người này sẽ được dùng, nhưng còn ngươi sẽ thế nào?
Kết luận Chúa Giêsu bảo người ta: “Như thế đó, kẻ lo cất cho mình mà không biết làm giàu nơi Thiên Chúa”. Người muốn nói không nên chỉ lo cất cho mình; mà nhất là phải biết làm giàu nơi Thiên Chúa nữa. Người cũng không lên án việc làm ăn ở đời. Người đòi chúng ta phải biết nghĩ đến tha nhân và xã hội nữa khi làm ăn. Và nhất là Người dạy chúng ta phải chất chứa công phúc trước mặt Chúa.
Phải chăng Ðức Giêsu đã chẳng trả lời cho thắc mắc xao xuyến của tác giả sách Giảng viên. Ông lo lắng về tương lai sau khi lao nhọc và trổ tài khôn ngoan ở dưới ánh dương; thì Ðức Giêsu bảo đang khi sống ở đời này chúng ta phải biết làm giàu nơi Thiên Chúa. Những tích trữ này, mối mọt không làm gì được, như lời sách Tin Mừng Mátthêu đã viết. Còn những gì có thể tích trữ được như thế, thì bài thư Phaolô hôm nay có thể trả lời cho chúng ta được một phần nào.
3. Thánh Tông Ðồ khuyên chúng ta đổi mới cuộc đời
Thoạt nghe, chúng ta thấy bài thư hôm nay nói đến những sự trên trời và những sự dưới đất. Chúng ta dễ tưởng tượng có những của chúng ta đem chất được vào kho tàng trên trời và có những việc chúng ta làm sẽ hư đi ở dưới đất…
Nghĩ như vậy là vong thân, là biến mình nên của cải, là đồng hóa mình thành công việc, là coi mình đã trở nên hàng hóa khi làm việc. Quan niệm lao động như vậy là quan niệm theo tư bản và bóc lột sức lao động. Chúng ta phải quan niệm ngược lại. Lao động phát triển khả năng của con người, làm giàu cho nhân cách, đưa con người vươn lên, khiến họ được vinh quang… Thành tích lao động nằm trong sự vật rất đáng kể, nhưng ghi lại trên con người và biến đổi họ thành đáng kể hơn.
Nói cách khác, con người đang thành thân bằng lao động, đang xây dựng mình bằng lao nhọc và trổ tài khôn ngoan ở dưới ánh dương. Theo Kitô giáo và như lời thư Phaolô hôm nay bản thân con người đang thành hình nơi chúng ta nhờ sinh hoạt ở đời, sẽ chỉ tỏ hiện khi Ðức Kitô hiện đến. Ánh sáng của Người sẽ chiếu vào chúng ta và con người thật của chúng ta bấy giờ sẽ biểu lộ nguyên hình.
Chúng ta muốn mình khi ấy tốt hay xấu? Nếu muốn đẹp thì ngay bây giờ chúng ta phải bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới, con người cũ luôn luôn tìm kiếm dâm bôn, ô uế… tham lam, hà tiện… và nói dối người khác. Nó hướng về những sự dưới đất. Còn con người mới cư xử chiếu theo hình ảnh của Ðấng đã dựng nên nó trong sự thánh thiện và duy nhất, nên không ngừng tìm kiếm những điều trong sạch và hòa thuận, là những điều mà Phaolô gọi là những điều ở trên cao, hay ở trên trời.
Dĩ nhiên chúng ta có thể trao đổi thêm với tác giả bức thư này về những điều vừa nói. Nhưng thiết tưởng vừa nhìn qua, chúng ta cũng đã hiểu được ý của tác giả. Thánh Phaolô khuyên chúng ta khi sinh sống ở đời phải nhìn đến tương lai và định mệnh, tức là phải vươn tới sự thành thân trong vinh quang. Và cho được như vậy phải sát phạt chi thể của con người cũ là từ bỏ những công việc xấu xa tội lỗi gồm tóm trong các hành vi tham lam và thiếu hòa thuận.
Ngược lại, phải mặc lấy con người đã được canh tân khỏi những khuynh hướng xấu xa trên, để thi hành những công việc trong sạch và hòa hợp theo hình ảnh con người Thiên Chúa đã dựng nên. Lời giáo huấn của Phaolô cũng nằm trong chiều hướng của bài Tin Mừng và bài sách Giảng viên. Chúng ta thấy tất cả đều tích cực và lạc quan… hơn nữa đó là quan điểm khôn ngoan và thánh thiện.
Chúng ta có thể đem ra thi hành kể từ giờ phút này. Thánh lễ có sức giúp chúng ta lột bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới. Tình bác ái của Ðức Giêsu thôi thúc chúng ta đã thấy hạnh phúc ở nhà thờ, nơi chúng ta được hiệp nhất và hòa đồng trong sự thánh thiện, thì khi ra về, phải lao nhọc và trổ tài khôn ngoan ra ở dưới ánh dương, tức là trong đời sống, để xây dựng cuộc đời trong sự trong sạch và hòa thuận. Cuộc đời như vậy chắc chắn sẽ không phù vân. Sự nghiệp chúng ta xây dựng sẽ tồn tại và vinh quang.

4. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Chớ cậy vào của cải vật chất
“Những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12, 20)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta đang sống trong nền kinh tế thị trường và trong nền văn minh hưởng thụ. Bởi đó chúng ta bị thu hút bởi tiền bạc của cải. Nhưng của cải vật chất vừa có lợi vừa có hại.
Lời Chúa hôm nay sẽ cho ta thấy rõ mặt phải và mặt trái của tiền bạc của cải. Xin Chúa giúp chúng ta có lập trường đúng đắn đối với của cải vật chất.
II. Gợi ý sám hối
Nhiều khi chúng con đã coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa anh em.
Nhiều khi chúng con đã vì tiền mà lỗi đạo với Chúa.
Thực tình chúng con cậy dựa vào tiền bạc hơn vào Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Gv 1, 2; 2, 21-23)
Sách Giảng viên gom góp những suy tư khôn ngoan của nhiều thế hệ. Trong đoạn này, có nhiều ý tưởng xem ra bi quan yếm thế nhưng lại rất đúng:
Có người suốt đời vất vả làm việc để thu tích của cải vật chất nhưng khi chết phải bỏ lại tất cả.
Ích gì có được nhiều tiền nhưng đêm ngủ không yên vì sợ tiền bị mất.
2. Đáp ca (Tv 94)
Tv này như một lời khuyên tiếp nối những nhận định bi quan của bài đọc I: cách sống khôn ngoan nhất là mỗi ngày hãy lắng nghe tiếng Chúa dạy và cứ sống theo đó.
3. Tin Mừng (Lc 12, 13-21)
Vấn đề của đoạn Tin Mừng này được gợi lên từ việc anh em tranh dành gia tài.
Dụ ngôn nói tới một người phú hộ đã lo tích trữ được rất nhiều của cải và cho rằng từ nay cuộc đời mình sẽ được bảo đảm.
Nhận định của Chúa Giêsu về người phú hộ đó: hắn là đồ ngốc vì đã lấy của cải vốn không bền để mà bảo đảm cho cuộc đời mình. Người khôn phải dùng của cải không bền ở đời này mà làm phúc để mua lấy của cải bền vững đời sau. Đó mới là bảo đảm chắc chắn thật sự cho cuộc đời.
4. Bài đọc II (Cl 3, 1-5. 9-11)
Thánh Phaolô tiếp tục dạy các kitô hữu về cuộc sống mới của họ sau khi chịu phép Rửa:
Vì họ đang sống một cuộc sống mới nên từ nay hãy có một quan tâm mới: đừng tìm những sự dưới đất mà hãy tìm những sự trên trời.
Hãy cởi bỏ con người cũ theo xác thịt để mặc lấy con người mới theo hình ảnh Chúa Giêsu Kitô.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Có tiền và xài tiền
Một lão trọc phú keo kiệt kia đã tích lũy được một số tiền rất lớn và đang mơ tới tương lai hạnh phúc đang chờ đón lão. Tuy nhiên trước khi lão kịp vung tiền ra mua lấy hạnh phúc thì thần chết hiện ra đòi bắt hắn xuống âm phủ.
Lão thương lượng: “Xin Thần chết cho tôi sống thêm ba ngày nữa thôi. Tôi sẽ chia cho Ngài một nửa tài sản của tôi”. Thần chết không chịu. Lão xuống giá: “Vậy xin cho tôi sống thêm một ngày. Tôi sẽ giao cho Ngài tất cả tài sản”. Thần chết vẫn không chịu. Lão nài nỉ “Xin cho tôi một phút thôi, để tôi kịp viết lời trối”. Thần chết đồng ý. Lão ngồi xuống, cầm bút viết câu sau đây:
“Gửi người nào gặp được tờ giấy này. Nếu bạn có đủ tiền để sống thì đừng uổng phí cuộc đời để kiếm thêm nhiều tiền nữa làm chi. Hãy lo sống thôi! Tiền bạc của tôi rất nhiều, nhưng chỉ một giờ để sống tôi cũng chẳng mua được!”
Tiền của không phải để sở hữu mà để hưởng dùng. Nói nôm na, tiền bạc không phải để “có” mà để “xài”. Nhiều người rất biết cách “sở hữu” nhưng lại không biết cách “hưởng dùng”. Rốt cuộc họ không hạnh phúc bằng một đứa trẻ, sở hữu rất ít nhưng hưởng dùng rất nhiều. Người giàu thật không phải là người có nhiều mà là người hưởng dùng nhiều. Cố gắng để có thật nhiều tiền mà không thể hưởng dùng thì chẳng khác gì một người mù cố gắng thu góp thật nhiều băng Vidéo.
Vấn đề đặt ra là “hưởng dùng” và “xài” tiền như thế nào.
* 2. Nghệ thuật làm giàu
Một ngày nọ, vua Nghiêu đi tuần thú đất Hoa, viên quan địa phương đất ấy ra nghênh đón và chúc vua rằng: “Xin chúc nhà vua sống lâu”. Vua Nghiêu nói: “Đừng chúc thế!” Viên quan lại chúc: “Chúc nhà vua giàu có”. Vua Nghiêu lại nói: “Đừng chúc thế”. Viên quan chúc nữa: “Xin chúc nhà vua đông con trai”. Vua Nghiêu lại nói: “Đừng chúc thế”. Quan lấy làm lạ mới hỏi nhà vua: “Sống lâu, giàu có, đông con trai, ai cũng thích cả, sao nhà vua chẳng muốn?” Vua Nghiêu đáp: “Đông con trai thì sợ nhiều. Giàu có thì việc nhiều. Sống lâu thì nhục nhiều. Ba điều ấy không mang lại nhân đức nên ta từ chối”.
Viên quan tâu: “Nhà vua nói thế thực là bậc quân tử. Nhưng trời sinh ra mỗi người phải có một việc. Nếu đông con trai, hãy cắt đặt mỗi người một nhiệm vụ thì có lợi chứ có gì mà sợ? Giàu có mà đem phân phát cho người nghèo thì còn công việc gì mà lo? Ăn uống có chừng mực, thức ngủ có điều độ, trong lòng thanh thoả, thiên hạ tài giỏi thì vui cái vui của họ, trăm tuổi nhắm mắt về cõi trời. Một đời chẳng gây tai hoạ gì, hỏi có gì là nhục?”
***
Đứng trước tiền của, người ta có những thái độ rất khác nhau: Vua Nghiêu vì quá thận trọng chỉ nhìn thấy mặt trái của đồng tiền, nên của cải không sinh ích gì cho ông. Người phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay lại quá cậy dựa vào tiền của, nên khi thần chết bất ngờ đến thì tiền muôn bạc nén cũng không cứu được linh hồn ông. Duy chỉ có viên quan địa phương là có thái độ đúng mực về tiền bạc: Nếu giàu có thì đem chia sẻ cho người thiếu thốn. Đó chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay: Hãy dùng của cải đời này mà “làm giàu trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12, 21). Đó chính là “nghệ thuật làm giàu” đích thực.
Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta chỉ là những con người nghèo khó. Cho dù có xây bao nhiêu kho lẫm, bao nhiêu két sắt, bao nhiêu tài khoản ngân hàng, cũng chỉ là con số không. Chúng ta chỉ thực sự giàu có trước mặt Thiên chúa khi chúng ta dốc cạn kho cho người nghèo khó, mở hầu bao giúp kẻ khốn cùng. Chúa phán: “Hãy bán của chi mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12, 33).
Quả thật, một kho lẫm dù có được khoá chặt đến đâu cũng không ngăn cản được kẻ trộm. Nhưng chỉ có những tài sản đích thực mà không ai có thể đánh cắp, chính là những tài sản thiêng liêng.
Thực ra, khi người giàu chia sẻ của cải cho kẻ nghèo, cũng chỉ là bổn phận của người quản lý mà thôi. Augier đã nói một câu chí lý: “Trong dự tính của Thiên Chúa, người giàu chỉ là viên thủ quĩ của người nghèo”. Vì thế, những ai “ê hề của cải, dư xài nhiều năm” mà “cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã” (Lc 12, 19) chính là những kẻ ăn cắp. Thánh Tôma Aquinô quả quyết: “Những người giàu đã đánh cắp của người nghèo khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa”.
Có thể nói, chúng ta đánh cắp của người nghèo khi chúng ta thu lợi quá mức trên sức lao động của kẻ khác.
Chúng ta đánh cắp của người nghèo khi chúng ta giữ lại đồ đạc tiện nghi mà chẳng bao giờ dùng đến.
Chúng ta đánh cắp của người nghèo khi chúng ta ăn chơi, mua sắm như ném tiền qua cửa sổ.
Thánh Basilio không một chút ngần ngại nói với chúng ta rằng: “Tấm bánh mà bạn giữ lại là của người đói khổ, chiếc áo mà bạn cất trong vali là của kẻ trần trụi”.
***
Lạy Chúa, Chúa để 80% của cải trên thế gian này vào tay 20% những người giàu có, là để họ biết chia sẻ cho những người thiếu thốn, là để họ “làm giàu trước mặt Thiên Chúa”, chứ không phải để biến họ thành những kẻ đánh cắp.
Xin dạy chúng con chỉ nên giữ lại những gì cần thiết, và biết san sẻ hồng ân của Chúa cho mọi người, để thế giới này không còn cảnh bất công, nghèo đói, nhưng sẽ là một thế giới công bằng và yêu thương. Amen. (TP)
* 3. Túi tham không đáy
Tolstoi kể rằng một người nông dân kia tên là Pakhom rất ham thích có một mảnh đất làm tài sản riêng. Sau một thời gian làm lụng cực nhọc, anh tậu được một mảnh đất 40 mẫu. Anh mừng lắm. Nhưng chẳng bao lâu anh muốn một mảnh đất rộng hơn. Anh lại làm lụng và để dành, bán mảnh đất cũ, cộng thêm tiền để dành, mua được một mảnh đất 80 mẫu. Nhưng anh chưa thoả mãn, muốn tìm một mảnh đất khác rộng hơn nữa. Có người cho anh biết rằng ở vùng bên kia núi có một bộ lạc mà dân chúng sống rất đơn giản, họ có rất nhiều đất, ai muốn mua bao nhiêu cũng được.
Ngay sáng hôm sau, anh nông dân đi sang vùng bên kia núi. Vị tù trưởng bộ lạc nói: “Anh chỉ cần trả 1000 rúp thì có thể sở hữu được một vùng đất mà anh đi được trong một ngày. Nhưng cần nhớ là anh phải trở lại đúng nơi điểm xuất phát cũng trong ngày đó. Nếu về không kịp thì kể như mất tiền vô ích”.
Đêm đó người nông dân sung sướng ngủ không được. Vừa rạng sáng hôm sau anh nhờ người đánh dấu điểm xuất phát rồi bắt đầu bước đi. Càng đi anh càng sung sướng vì thấy đất của mình càng rộng thêm. Anh cứ đi và đi mãi quên mất thời gian. Khi thấy mặt trời bắt đầu xuống núi anh mới hốt hoảng quay về. Nhưng vì anh đã đi quá xa sợ về không kịp nên anh cắm đầu chạy. Đến điểm mốc, anh ngã gục xuống.
Vị tù trưởng đến chúc mừng: “Xin chia vui với anh. Từ trước tới nay tôi chưa gặp được người nào đi xa được như anh. Anh hãy nhận phần đất của anh”. Nhưng người nông dân không đứng dậy được nữa để nhận lấy tài sản của mình, vì anh đã chết!
Có được một số tiền bạc của cải để sống là điều cần thiết. Vì thế trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu không phê phán việc chúng ta tìm cái ta cần, mà phê phán lòng tham hơn mức ta cần (tiếng anh: not about need but about greed). Nếu người nông dân trong chuyện trên biết dừng lại khi đã có 40 mẫu đất anh cần thì anh đã sống hạnh phúc, nhưng anh đã chết vì anh cứ mãi mê chạy theo lòng tham của mình. Lòng tham giống như ngọn lửa: ta càng thoả mãn nó bằng cách chất thêm củi vào thì lửa càng bùng to lên và càng đòi nhiều củi thêm. Chứng bệnh trầm trọng nhất của con người trong nền kinh tế thị trường và văn minh hưởng thụ này là con người không biết khi nào mình đủ. Có của không phải là tội, nhưng tham của thì thành tội.
Hãy xem những con chim. Khi chúng xây dựng tổ ấm, chúng chỉ tìm vài nhánh cây đủ cho cái tổ ấy rồi thôi. Hãy xem những con nai. Khi chúng khát, chúng chỉ uống vừa đủ rồi thôi. Sao chúng ta không đơn giản như những con chim và những con nai kia!
* 4. Gia tài để lại cho con cái
Có thể chúng ta cố gắng kiếm tiền không phải để cho mình hưởng, nhưng để làm gia tài trối lại cho con cái.
Xin hãy nghe câu chuyện sau đây:
Người kia làm việc trong một công ty đang phát triển mạnh, lương anh khá cao cho nên gia đình rất hạnh phúc. Anh có một ngôi nhà xinh xắn, một người vợ hiền và mấy đứa con ngoan.
Nhưng anh tự nghĩ: mình còn trẻ, sức lực còn nhiều. Mà công ty hiện không thiếu việc. Thế là anh làm thêm giờ phụ trội. Thu nhập càng cao hơn. Anh lại nghĩ: nếu mình phấn đấu để lên chức thì sẽ được tăng lương nữa. Và anh phấn đấu, và quả thực anh lên chức.
Cho đến một hôm đi khám bệnh, anh được biết mình đã mắc phải một chứng bệnh nguy hiểm và đã tới giai đoạn cuối cùng. Nghĩa là anh không sống được bao lâu nữa. Lúc sắp rời bỏ vợ con ấy, anh mới biết rằng xưa nay anh chẳng hiểu vợ con bao nhiêu, và con cái anh cũng chẳng hiểu anh bao nhiêu. Và anh chết, để lại cho con cái một gia tài lớn. Đối với người khác, anh là một con người thành đạt. Nhưng đối với vợ con thì anh là một con người thất bại. Vợ con anh hưởng gia tài của anh mà chẳng nghĩ tới anh bao nhiêu: bấy lâu nay họ sống không có anh, sau này họ cũng tiếp tục sống không cần anh.
Bởi vậy trong bài Tin Mừng này Chúa Giêsu đã không quan tâm đến gia tài. Khi một người đến nhờ Ngài phân xử việc tranh chấp gia tài. Ngài đã không xử, lại còn cảnh cáo “Các ngươi hãy coi chừng giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu”.
* 5. Tiền bạc
Người ta nói trên đời quan trọng nhất là 2 chữ T: tình và tiền. Hôm nay chúng ta có dịp bàn đến chữ T thứ 2, Tiền. Tiền bàn ở đây không phải chỉ là những tờ giấy bạc, mà còn bao gồm tất cả những gì là của cải tài sản vật chất như nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ, máy móc v.v.
Cách chung thì ai ai cũng cần tiền và cũng ham tiền hết. Không có tiền thì đói rách, con cái nheo nhóc, mặc cảm với bạn bè… Còn nếu có tiền thì ta ăn ngon mặc đẹp, con cái được giáo dục tử tế, bạn bè xã hội trọng nó… Tóm lại câu nói “có tiền mua tiên cũng được” có thể là câu nói diễn tả quan niệm chung của nhiều người.
Nhưng hình như đó lại không phải là quan niệm của Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay.
– bài đọc 1 trích từ sách Giảng viên thì coi tiền bạc là thứ phù hoa “Phù hoa nối tiếp phù hoa trần gian tất cả chỉ là phù hoa”
bài đọc trích từ thư thánh Phaolô gởi tín hữu thành Colossê thì kêu gọi “Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất”.
Còn bài Tin Mừng thì mô tả một người phú hộ hả hê với những của cải chất đầy từ kho này tới kho khác, nhưng bị Chúa trách “Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay Ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?”, và Chúa Giêsu kết luận: Kẻ nào tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy.
Phải chăng Chúa không muốn cho ta có tiền? Phải chăng Chúa muốn người có đạo phải nghèo? Phải chăng Chúa khuyên chúng ta phải chạy trốn tiền bạc? Thưa không, không bao giờ, bởi vì những của cải vật chất trên đời này do đâu mà có? Do chính Chúa tạo dựng nên, và Chúa tạo dựng nên chúng là để cho con người hưởng dùng. Cho nên không những Chúa không muốn con người phải đói khổ, mà Chúa còn muốn sao cho con người được đầy dư của cải. Hãy nghe một lời chúc phúc của Chúa ghi trong Tv 71.
Khắp xứ sở đầy dư gạo thóc
Đỉnh non cao gợn sóng lúa vàng
Và trong Tv 64:
Thăm trái đất mưa nhuần Chúa rải.
Cho tràn trề của cải sinh ra…
Vùng hoang địa cỏ hoa đua nở
Cảnh núi đồi hớn hở xinh tươi.
Chiên bò gặm cỏ đồng xanh.
Nương vàng sóng lúa lượn quanh dạt dào.
Câu hò tiếng hát trổi cao…
Rõ ràng là Chúa muốn con người sung túc vật chất. Nhưng Chúa cũng biết tiền bạc vật chất vì có khả năng đem lại cho con người rất nhiều tiện nghi sung sướng nên cũng có thể khiến con người chỉ say mê nó mà quên hết mọi giá trị khác. Bởi đó Chúa mới nói “Kẻ giàu có vào nước Thiên Chúa thật là khó, còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim”. Nhưng, tuy có khó thật chứ cũng có những người giàu có được vào nước Thiên đàng: trong Tin Mừng ta thấy Chúa cũng đề cao những người giàu có, chẳng hạn như ông Giakêu, tuy giàu nhưng biết sử dụng tiền bạc mình để làm những việc nghĩa.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay không đề cao tiền bạc mà cũng không khinh rẻ chúng. Chúa chỉ muốn chúng ta lưu ý hai điều: một là nhận định đúng giá trị của tiền bạc và hai là sử dụng đúng những tiền bạc mà Chúa đã ban.
Bây giờ chúng ta hãy nhận định giá trị của tiền bạc:
tiền bạc là một yếu tố quan trọng làm cho đời ta được sung sướng
nhưng nó cũng là một con dao hai lưỡi, nghĩa là nó vừa có thể giúp ta sống tốt hơn “Phú quý sinh lễ nghĩa”, mà cũng có thể làm ta thành xấu đi, xấu đi vì tham lam, xấu đi vì gian lận, xấu đi vì lòn cúi…
vả lại tiền bạc không được bền vững: thiếu gì người hôm nay đang giàu sụ, thế mà ngày mai đã trở thành tay trắng.
và nhất là khi chết ta không thể mang tiền bạc theo được.
Sau khi đã nhận định đúng giá trị của tiền bạc, chúng ta hãy lắng nghe Chúa dạy phải xử dụng tiền bạc như thế nào: Hãy dùng tiền bạc đời này để làm giàu cho đời sau.
* 6. Chuyện minh họa
a/ Ba người bạn
Người kia có 3 người bạn. 2 người trước là bạn rất thân, người thứ ba thường thường vậy thôi. Ngày kia ông bị tòa bắt xử liền xin 3 người bạn đi theo để biện hộ. Người bạn thứ nhất từ chối ngay, viện cớ bận việc quá không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến cửa quan nhưng lại không dám vào. Chỉ có người thứ ba tuy không được ông yêu thích nhưng tỏ ra trung thành vào tận tòa án biện hộ cho ông ta không những trắng án mà còn được thưởng nữa.
Người bạn thứ nhất là Tiền bạc. Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta, chỉ để lại cho ta một chiếc chiếu và một cái hòm. Người bạn thứ hai là Bà Con Bạn Hữu. Họ khóc lóc đưa ta tới huyệt rồi về. Người bạn thứ ba là các Việc Lành. Chúng theo ta đến tòa phán xét và đưa ta vào cửa thiên đàng. (Trích “Phúc”)
b/ Những thứ tiền không mua được
George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, có lần viết: “Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn.”
Có thể kể những thứ sau đây tiền không mua được:
Tiền không mua được tình bạn chân thực.
Tiền không mua được lương tâm trong sạch.
Tiền không mua được niềm vui mạnh khoẻ.
c/ Đổi tiền
Đến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Đó là ý nghiã Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.
* 7. Mảnh suy tư
Một buổi tối, tôi thả bước lang thang
Tôi đi từ những khu phố lấp lánh ánh đèn
Bước chân dần dần đưa tôi đến vùng ngoại ô vắng vẻ
Ở đấy tôi thấy ngàn vạn ánh sao còn rực rỡ gấp bội.
Và tôi chợt hiểu ra rằng những ngọn đèn trần thế dễ che lấp những ngọn đèn trời đến mức nào.
Và tôi cầu nguyện: Lại Chúa xin cho những hào nhoáng của đời này đừng bao giờ làm cho con mù lòa không còn thấy ánh vinh quang Nước Trời.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, chia cơm sẻ áo cho những người nghèo khổ là cách làm giàu tốt nhất trước mặt Thiên Chúa. Với ước moong sống trọn vẹn tinh thần bác ái của Tin mừng, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh luôn quan tâm giúp đỡ bất cứ ai đang gặp đau khổ / bệnh tật / nghèo đói / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho công cuộc từ thiện của Hội thánh / xoa dịu được phần nào đau khổ của nhân loại.
2. Tiền bạc của cải không đem lại hạnh phúc thật sự cho con người / trái lại làm nhiều người trở nên hư hỏng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / biết sử dụng đúng đắn tiền bạc có được / do lao động lương thiện của mình.
3. Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết sống tinh thần nghèo khó của Tin mừng.
4. Giúp đỡ những ai đang gặp khó khăn là bổn phận của người Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thật tình chia sẻ cơm áo cho những ai đói nghèo.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khôn ngoan tích trữ kho tàng trên trời bằng những việc lành phúc đức của chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Trong kinh Lạy Cha có câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày”. Điều Chúa nhấn mạnh hơn trong câu này không phải là chữ “lương thực” cho bằng chữ “hằng ngày”, nghĩa là chúng ta vừa xin cho có lương thực vừa xin cho khỏi lòng tham, nhưng biết phó thác cuộc sống cho Chúa quan phòng.
VII. Giải tán
Chúng ta sắp trở lại cuộc sống mà trong đó mọi người bon chen, tranh dành nhau tiền bạc của cải. Là những môn đệ của Chúa, chúng ta hãy cố gắng sao để vừa làm ăn kiếm tiền vừa không bị tiền làm cho mình ra xấu xa tội lỗi.

5. Cách dùng của cải đời này
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Người đời coi trọng tiền của, coi nó như chìa khóa thành công trong cuộc đời vì người ta tôn vinh nó bằng câu: ”Có tiền mua tiên cũng được”. Có người coi mục đích cuộc đời chỉ là kiếm cho ra nhiều tiền để hưởng thụ, cho nên họ đã để cho lòng đam mê tiền của chi phối họ, xúi dục họ làm những điều sai trái. Họ coi tiền của là một bảo đảm vững chắc cho cuộc sống của họ. Nhưng tác giả sách Giảng viên có nói:”Phù vân, ôi phù vân. Tất cả chỉ là phù vân” (Gv1,2). Như vậy, tiền của có phải là một bảo đảm cho cuộc sống không?
Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay không chỉ trích việc thu tích của cải để làm giầu, cũng không khinh chê của cải. Ngài chỉ khuyên người ta trong khi thu tích tiền của để làm giầu thì đồng thời cũng phải biết làm giầu trước mặt Thiên Chúa. Đừng bắt chước người phú hộ ngu ngốc chỉ biết thu tích cho nhiều của cải vật chất để hưởng thụ, coi của cải như một bảo đảm vững chắc cho cuộc sống để ăn chơi xả láng, mà bỏ quên Thiên Chúa, quên cả linh hồn mình. Vả lại, con người đâu có phải sống được mãi, một khi phải chết thì những của cải đó để cho ai?
Đối với chúng ta tiền của không có gì là xấu vì tất cả những gì Thiên Chúa dựng nên thì đều tốt. Tuy thế, tiền của cũng có thể trở nên một đứa đầy tớ trung thành của chúng ta mà cũng có thể trở nên một ông chủ khắc nghiệt biến chúng ta thành những tên nô lệ khốn nạn của nó.. Chúa khuyên chúng ta hãy tránh thói tham lam, hãy biết chia sẻ. Một trong những cách làm giầu trước mặt Thiên Chúa là biết chia sẻ, biết giúp đỡ những người túng thiếu. Tất cả những gì chúng ta cho đi đều còn ở lại với chúng ta và đó là cơ sở để Chúa ban thưởng bội hậu cho chúng ta trên quê hương vĩnh cửu.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Gv 1,2 ; 2,21-22.
Côhêlét là tác giả sách Giảng viên, đã thu góp những tư tưởng thâm thúy và khôn ngoan của nhiều thế hệ. Ngay câu mở đầu, tác giả đã khẳng định:”Phù vân, ôi phù vân, tất cả là phù vân”.
Tư tưởng này diễn tả một cái nhìn bi quan về cuộc sống của con người trên trần gian, nhưng lại rất đúng. Nếu chỉ đứng trên quan điểm nhân sinh trần tục mà nhìn thì ý nghĩa của cuộc đời chẳng qua là một sự phù phiếm, và do đó, đời không đáng sống. Bởi vì:
– Có người suốt đời làm ăn vất vả để thu tích của cải vật chất nhưng khi chết đi lại phải bỏ lại tất cả.
– Nhiều tiền nhiều của mà phải áy náy, đêm ngủ không yên thì ích lợi gi?
Thái độ bi quan này của tác giả chất vấn chúng ta: Đời không còn một giá trị nào khác nữa sao?
+ Bài đọc 2: Cl 3,1-5.9-11.
Thánh Phaolô nhắc nhở cho tín hữu Côlôssê cuộc sống mới của họ sau khi chịu phép rửa tội.
Thật vậy, nhờ phép Rửa tội, người tín hữu đã trở nên con người mới và hy vọng sẽ được sống cùng Thiên Chúa mãi mãi. Vì thế, họ phải cởi bỏ con người cũ theo tính xác thịt với những đam mê trần tục, hãy mặc lấy con người mới theo hình ảnh của Đức Giêsu Kitô.
Do đó, người môn đệ của Đức Giêsu cần biết cân nhắc các yếu tố trong cuộc sống và chọn lựa: đừng tìm những sự dưới đất mà hãy tìm những sự trên trời.
+ Bài Tin mừng: Lc 12,13-21.
Đức Giêsu từ chối can thiệp vào vấn đề phân chia gia tài giữa hai anh em. Sở dĩ Đức Giêsu từ chối làm trọng tài trong vụ tranh chấp gia tài vì Ngài cho rằng của cải không thể đảm bảo cho cuộc sống đúng nghĩa.
Dụ ngôn về người phú hộ thật là phù phiếm. Mặc dầu anh ta có biết lo liệu, nhưng anh ta chỉ có cái nhìn thiển cận: chỉ lo hưởng thụ mà không lo gì đến sự tích lũy những của thiêng liêng không hư nát.
Theo nhận định của Đức Giêsu, anh ta là đồ ngốc vì đã lấy của cải vốn không bền mà bảo đảm cho đời mình. Chết đi anh để của cải lại cho ai? Nếu anh ta khôn thì hãy chia sẻ cho những người nghèo, thì khi anh chết đi, gia sản của anh sẽ biến thành kho tàng không bao giờ hư nát. Đó mới là bảo đảm chắc chắn thật sự cho cuộc đời.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Kho tàng không hề hư nát.
I. ĐỒNG TIỀN LIỀN KHÚC RUỘT.
Người ta thường nói:”Đồng tiền liền khúc ruột” nói lên cái tâm lý của con người yêu chuộng tiền của mình có, cố giữ lấy, không thể tin ai, buông cho ai được. Động đến tiền là cảm thấy đau xót như “Của đau con xót”: tâm lý đau xót khi của cải bị mất mát cũng như con cái bị người ngoài bắt nạt, hành hạ.
1. Người ta đánh giá cuộc đời.
Đời là một cuộc chiến đấu. Phải chiến đấu để mà sống. Nhưng khi nói tới cuộc sống người ta chỉ nghĩ đến cơm ăn áo mặc, nhà ở, phương tiện di chuyển và giải trí. Nó chỉ là đời sống vật chất. Vậy còn đời sống tinh thần thì sao , nhất là đời sống siêu nhiên?
Nhìn vào cuộc sống, không biết thi sĩ Tản Đà Nguyễn khắc Hiếu suy tư thế nào mà phát biểu một câu có tính cách triết lý:
Đời đáng sống hay không đáng sống
Nhấp chén quỳnh xin hỏi bạn tri âm?
Nếu có phải trả lời cho thi sĩ thì phần lớn người ta sẽ trả lời là đời đáng sống, nhưng sống để làm gì? Ta hãy nghe một số sinh viên Mỹ trả lời trong một cuộc phỏng vấn:
Năm 1987, Hội đồng Quốc gia Hoa kỳ đặc trách giáo dục, đã thực hiện một cuộc phỏng vấn các sinh viên sắp mãn Đại học về mục đích cuộc đời của họ trong tương lai: Họ muốn gì? Họ nhằm điều gì trước hết? Kết quả như sau: 75% trong số 200.000 sinh viên được hỏi ý kiến đã trả lời cho biết:”Mục đích cuộc đời tương lai của họ là làm sao kiếm được thật nhiều tiền”. Các sinh viên này cho biết:”Sau khi học xong, họ muốn có một việc làm tốt với đồng lương cao để sống thoải mái”.
2. Giá trị cuộc đời.
Người ta nói: ”Có tiền mua tiên cũng được”. Tiên là nhân vật tưởng tượng trong truyện thần thọai, tượng trưng cho người đẹp nhất, quí nhất. Đây là quan niệm đề cao đồng tiền: có tiền mua gì được nấy. Vì vậy người ta mới nói:
Đồng tiền là tiên là phật
Là sức bật của con người
Là nụ cười của tuổi trẻ
Là sức khỏe của tuổi già
Là cái đà danh vọng
Là cái lọng che thân
Là cán cân công lý…
Trong cuộc tương giao của con người trong đời sống xã hội, đồng tiền vẫn giữ vai trò chủ chốt, nó chi phối sự tương giao, nó làm lệch cán cân công lý, nó có thể đổi trắng ra đen, như người ta nói:
Đồng tiền không phấn không hồ,
Đồng tiền khéo điểm, khéo tô mặt người.
Qua kinh nghiệm của cuộc sống, trước sức mạnh của đồng tiền chi phối con người, thi sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm đã phải than một cách chua cay:
Nếu không điều lợi khôn thành dại,
Đã có đồng tiền dở cũng hay.
Ngạn ngữ La tinh có nói:”Tiền của là tên đầy tớ rất tốt, nhưng lại là người chủ rất xấu”. Và người ta cũng nói chơi với nhau:”Vô văn bất nhóc nhách”, có ý nói không có tiền của, không thể làm gì được.
3. Lòng tham của con người.
Khi từ quan về ở ẩn, thi sĩ Nguyễn công Trứ khuyên người ta đừng chờ đợi những gì quá sức mình, hãy biết dừng lại, bằng lòng với những cái mình đang có, cũng như thi sĩ biết hưởng cái thú an nhàn trong bài thơ “Chữ Nhàn”:
Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc,
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn.
Biết đủ tức là đủ, đợi đủ biết bao giờ đủ,
Biết nhàn tức là nhàn, đợi nhàn biết bao giờ nhàn.
Ông Eùsope, một thi sĩ ngụ ngôn của Hy lạp, đã nói lên cái lòng tham vô đáy của con người trong câu truyện sau đây:
Truyện: ông già và con ngỗng.
Một ông già nghèo ngồi bên cửa sổ lo lắng cho tương lai. Một người lạ mặt ôm một con ngỗng đến tặng ông già và nói: ”Ông hãy chăm sóc con ngỗng này chu đáo thì nó sẽ giúp ích cho ông”. Rồi người đó đi mất.
Ông già nghèo đưa con ngỗng về nhà, cho nó ăn, cho nó uống, ban đêm cho nó ngủ trong một cái lồng sạch sẽ. Sáng hôm sau khi nhìn vào chiếc lồng ông vui mừng thấy một quả trứng ngỗng bằng vàng. Ôâng mang quả trứng ra tiệm bán được một số tiền lớn, mua được đủ mọi thứ cần thiết cho cuộc sống. Hôm sau ông được thêm một quả trứng ngỗng bằng vàng nữa. Hôm sau nữa cũng vậy. Cứ thế mỗi ngày ông nhặt được một quả trứng vàng. Từ đó ông không còn nghèo nữa, ông sống rất thoải mái.
Nhưng dần dần ông trở thành tham lam. Ông không chịu mỗi ngày chỉ có một trứng, ông không thể chờ cho hết tuần mới có được 7 trứng. Ôâng muốn có ngay một lúc tất cả những trứng vàng của con ngỗng. Thế là ông mổ bụng con ngỗng ra. Nhưng ông chẳng thấy quả trứng nào trong đó cả. Ôâng vội may bụng ngỗng lại mong nó đừng chết. Nhưng vô ích. Khi đó người lạ mặt kia trở lại và nói:”Trước đây đã chẳng bảo với ông rằng nếu ông chăm sóc con ngỗng tử tế thì nó sẽ giúp ích cho ông sao? Bây giờ cả ông lẫn tôi đều đã mất tất cả”.
4. Người ta đánh già đồng tiền.
Người đời cũng có kinh nghiệm về đồng tiền: nếu ta biết dùng tiền của cho đúng mức, cho xứng đáng thì nó trở thành đầy tớ trung thành của ta; nhưng khi ta không biết dùng nó thì nó sẽ quay trở lại làm một ông chủ khắc nghiệt và biến ta thành một tên nô lệ khốn nạn của nó.
Nhưng dù sao, con người lên voi xuống chó là lẽ thường. Tiền của đem con người lên, nhưng cũng chính tiền của đã hạ con người xuống. Và sau cùng con người cũng sẽ phải chết và của cải cũng tiêu tan theo, ra đi chẳng mang được gì ngoài hai bàn tay trắng:
Vua Ngô băm sáu tàn vàng
Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì.
II. ĐỨC GIÊSU VỚI VẤN ĐỀ TIỀN CỦA.
1. Vấn đề phân chia tài sản.
Theo luật Do thái (Đnl 21,17), trong việc thừa kế, người con trai cả được hưởng trọn phần di sản nếu là bất động sản, nghĩa là đất đai và nhà cửa. Và người con trai cả ấy cũng nhận được, theo luật pháp qui định, phần gấp đôi các động sản. Luật pháp này chung cho toàn bộ Đông phương cổ đại, và nhiều nền văn minh trong dòng lịch sử ; luật ấy muốn gìn giữ di sản của gia tộc với việc lập nên “người gia trưởng” được hưởng đặc quyền: Đó là quyền con trưởng. Đức Giêsu đối diện với điều đó (Quesson).
Nhưng trường hợp ở đây, hình như người con trưởng chiếm hết phần gia tài mà không chịu thừa kế bằng cách dùng uy tín để gây áp lực với người con trưởng bất công, vì Ngài được coi như một rabbi nổi danh, Ngài làm cách có uy quyền.
Đức Giêsu đã từ chối không muốn tham dự vào việc tranh chấp về tiền bạc. Đức Giêsu không đáp lại yêu cầu này, không phải không nhạy cảm về những bất công có thể có trong phạm vi gia đình, nhưng Ngài không muốn can thiệp vào những việc không liên hệ trực tiếp đến sứ mạng cứu rỗi. Câu trả lời của Ngài ngụ ý rằng Ngài chỉ chú trọng đến công cuộc thuộc linh và Ngài không muốn xâm phạm vào địa hạt luật pháp dân sự hay chiếm đọat địa vị của nhà cầm quyền:”Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay chia gia tài cho các anh”?
2. Dụ ngôn người phú hộ ngu ngốc.
Đức Giêsu đã từ chối “chia gia tài”. Việc từ chối này có ý nói lên rằng, tuy Ngài có quyền xét xử kẻ sống kẻ chết (Cv 10,42), nhưng sứ mạng lịch sử của Ngài ở trần gian là sứ mạng tôn giáo chứ không phải việc trần tục. Nhân dịp này Ngài nhắn nhủ với tích cách cảnh cáo rằng cần phải tránh mọi thứ tham lam, vì của cải không làm cho đời sống được bảo đảm. Lời cảnh cáo này có ý nhắc khéo rằng đừng an tâm, đừng cậy dựa vào bất cứ một vật nào khác ngoài Thiên Chúa.
Để nói lên ý tưởng đó, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn người phú hộ ngu ngốc. Dụ ngôn này cho thấy rằng người phú hộ rất thành công về ngành nông nghiệp. Sự thành công này làm cho ông ta say sưa và suy tính đến việc mở mang rộng lớn kho lẫm của ông. Trong cảnh sống giầu có, sung túc này, ông ta vui chơi ăn uống thả dàn, không nghĩ đến Thiên Chúa, bỏ quên cả linh hồn của mình; nhưng ông ta không nghĩ rằng:”Đêm nay người ta sẽ đến đòi linh hồn ngươi” thì lúc đó:”Những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai”?
Ông ta không hề nhìn xa hơn thế giới của mình. Mọi chương trình của ông ta chỉ đặt nền tảng cuộc sống luẩn quẩn trong thế giới của ông ta.
Truyện: Rồi sao nữa?
Ngày xưa, thánh Philipphê Nêri muốn thuyết phục Phanxicô Spaoãano, một sinh viên Rôma , đã hoàn toàn tin tưởng ở sự hướng dẫn của ngài về một chân lý ngàn năm. Một hôm Phanxicô Spaoãano hớn hở đến báo tin cho ngài biết mình đã thành công rực rỡ trên đường khoa nghiệp. Thánh nhân trả lời:
– Khá lắm. Cha xin mừng với con. Nhưng rồi con sẽ làm gì?
– Con sẽ làm trạng sư, sẽ biện hộ ở tòa án.
– Rồi sao nữa?
– Con sẽ có nhiều tiền.
– Rồi sao nữa?
– Con sẽ lập gia đình.
– Rồi sao nữa?
– Con sẽ sống hạnh phúc.
– Rồi sao nữa?
Chàng sinh viên suy nghĩ một lúc rồi trả lời:
– Rồi… rồi con cũng sẽ chết như bất cứ ai khác.
– Rồi sao nữa?
Chàng sinh viên im lặng bỏ đi, trầm tư và u buồn. Tuy nhiên, câu hỏi cứ nhắc đi nhắc lại mãi, chàng cứ bị ám ảnh hoài. Và để đảm bảo cho cái “Rồi sao nữa” kia, cuối cùng, chàng từ giã đường trần khóac áo tu trì.
Khi giải thích dụ ngôn này của Chúa, thánh Athanasiô đưa ra lời khuyên:”Ai sống như phải chết mỗi ngày – vì biết rằng cuộc sống này tự nó là tạm bợ, không chắc chắn – sẽ không phạm tội, vì sợ hãi Chúa dập tắt một phần lớn lòng tham lam ; trái lại, ai nghĩ mình còn sống lâu sẽ dễ dàng để cho mình bị dục vọng cai trị”.
Trong dụ ngôn này Đức Giêsu có ý nói lên sự nguy hiểm của giầu sang, và sự tham lam của cải vật chất. Vì vậy, Ngài dùng dụ ngôn này để cảnh giác cho hết mọi người: Người giầu có lo tích trữ của cải, cũng như người nghèo tham lam của cải. Ở đây Chúa trách người con trưởng tham lam chiếm đọat gia tài mà không chia cho người em, đồng thời Ngài cũng trách người em vì ham mê của cải mà tranh chấp gia tài với người anh.
III. CHÚNG TA VỚI VẤN ĐỀ TIỀN CỦA.
1. Ưu tiên hàng đầu của cuộc sống.
Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại những gì là ưu tiên hơn cả trong cuộc sống. Những lời sách Giảng viên đã nhắc nhở chúng:”Phù vân, quả là phù vân. Phù vân quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân. Lợi lộc gì đâu khi con người phải chịu đựng bao gian lao vất vả dưới ánh mặt trời”. Chúng mô tả một quan điểm bi đát về cuộc sống, nhưng điều chúng ta muốn nói khiến chúng ta phải hỏi:”Mục đích của đời sống là gì”? Chắc chắn không phải là tích lũy của cải – của cải trong mọi trường hợp phải để lại đàng sau.
Những sự vật trần gian không bao giờ có thể thỏa mãn tâm hồn con người. Chỉ Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta hạnh phúc mà tâm hồn chúng ta khao khát. Vì thế thánh Phaolô nói:”Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”. Và Đức Giêsu khuyên chúng ta:”Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”. Cái làm cho chúng ta giầu có trước mặt Thiên Chúa không phải là chúng ta có gì hoặc làm gì, nhưng chúng ta là gì.
2. Tiễu trừ tính tham lam.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu không chỉ nói về những người giầu có, nhưng nói với tất cả mọi người vì bất cứ ai cũng có tính tham lam. Người nghèo cũng tham lam của cải như người giầu, không phải vì có nhiều tiền bạc hay ít của cải làm cho một người ra tham lam, nhưng khi người ta bị ám ảnh bởi của cải vật chất, người ta không còn biết thế nào là đủ. Túi tham vô đấy, chẳng bao nhiêu cho vừa. Người La mã có câu ngạn ngữ:”Của cải như nươc muối, bạn càng uống thì càng khát”.
Sách Giáo lý Công giáo số 2536 dạy như sau:”Điều răn thứ mười cấm chỉ sự thèm thuồng, ước ao của cải trần gian cách vô độ; nó cũng cấm tính tham lam thái quá, sinh ra từ sự đam mê vô độ, sự giầu có và quyền lực do sự giầu sang mang lại”.
Chúng ta thường nghe nói:”Tham thì thâm”, quả là đúng. Trên đời này không thiếu gì những người có lòng tham và ích kỷ đến nỗi muốn đi mượn hòm để chôn mình thay vì bỏ tiền ra mua. Cũng có những người vất vả suốt cả đời lo thu tích của cải đến nỗi không dám ăn no, ngủ ngon, để rồi nửa đời người còn lại phải dùng của cải đã thu tích để bồi dưỡng lại sức khỏe đã mất chỉ vì lòng ích kỷ và tham lam quá mức. Thật vậy, những người quá lo thu tích của cải sẽ trở nên mù quáng, họ liều mình đánh mất không những tự do mà còn mất cả đời sống mình.
Truyện: ham mê của cải.
Ham mê của cải tiền bạc là cái tật mà xưa nay có ngàn lẻ một chuyện từng được kể. Nhưng thời nay lại có câu chuyện lý thú thế này: Một thanh niên nọ tình cờ nhặt được một đồng đôla bằng bạc trên đường. Thế là từ đó, mỗi lần đi đâu, anh đều cúi đầu xuống để chú tâm tìm kiếm. Kết quả là sau ba mươi năm anh ta nhặt được 3,5 đôla tiền bằng bạc, 37 đồng nửa đôla bằng đồng, gần 18.500 nút áo đủ cỡ, khoảng 14.400 cây kim may và kim gút đủ lọai. – Nhưng anh phải đổi bằng cái tật khòm lưng. Một tâm trạng bi quan cộng thêm một tính khí khó thương. Vì đôi mắt anh từ lâu đã không nhìn lên bầu trời và bao hoa lá cỏ cây xinh đẹp… Tính ham mê của cải đã “giết chết con người anh”.
Phương pháp làm cho chúng ta được hạnh phúc là biết chấp nhận. Hạnh phúc không phải là có cái chúng ta mong muốn, nhưng là chấp nhận cái chúng ta có. Dù giầu hay nghèo, hạnh phúc là bằng lòng với cái mình đang có, và ngay cả cái mình không có nữa. Hãy biết chấp nhận mọi sự như chương trình của Thiên Chúa đã sắp đặt với lòng biết ơn rằng có Thiên Chúa là có tất cả mọi sự (Dt 13,5-6). Một người không bằng lòng với những cái mình đang có sẽ không bao giờ có hạnh phúc. Họ luôn sống trong bất mãn và đau khổ, vì lúc nào cũng tham muốn có thêm.
3. Hãy biết chia sẻ.
Chúa dạy chúng ta:”Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”. Cái làm cho chúng ta giầu có trước mặt Thiên Chúa không phải là chúng ta có gì hoặc là làm gì, nhưng chúng ta là gì. Antoine de Saint Exupéry nói:”Khi giờ sau cùng của bạn giáng xuống, bạn chỉ nên dựa vào điều mà bạn đã trở thành”.
Có hai cách xài của cải đưa đến hai kết quả khác nhau:
a) Xài một cách ích kỷ cho riêng mình, kết quả là không bảo đảm cho sự sống đời đời.
b) Dùng tiền của để làm giầu trước mặt Thiên Chúa thì kết quả là sự sống đời đời được bảo đảm.
Thực ra, khi người giầu chia sẻ của cái cho người nghèo, cũng chỉ là bổn phận của người quản lý mà thôi. Augierđã nói một câu chí lý:”Trong dự tính của Thiên Chúa, người giầu chỉ là viên thủ quỹ của người nghèo”. Vì thế, không ai “ê hề của cải, dư xài nhiều năm” mà “cứ nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã”(Lc 12,19) chính là những kẻ ăn cắp. Thánh Tôma Aquinô quả quyết:”Những người giầu đã đánh cắp của người nghèo khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa”.
4. Phần thưởng bội hậu trên trời.
Trong bài dụ ngôn hôm nay, Đức Giêsu không đả kích sự tích lũy của cải. Ngài không phê phán công việc làm ăn của mỗi người, mà chỉ đả kích ý nghĩ khờ dại của một số người khi họ lấy việc thu tích của cải vật chất là quan trọng hơn sự tích lũy của cải thiêng liêng.
Sứ điệp mà Đức Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay: Hãy dùng của cải đời này mà “làm giầu trước mặt Thiên Chúa”(Lc 12,21). Đó chính là nghệ thuật làm giầu đích thực.
Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta chỉ là những con người nghèo khó. Cho dù có xây bao nhiêu kho lẫm, bao nhiêu két sắt, bao nhiêu tài khoản ngân hàng, cũng chỉ là con số không. Chúng ta chỉ thực sự giầu có trước mặt Thiên Chúa khi chúng ta dốc cạn kho cho người nghèo khó, mở hầu bao giúp kẻ khốn cùng. Chúa phán:”Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”(Lc 12,33).
Ở Kenya bên Phi châu có một vị thừa sai kể rằng có một số dân Phi châu vẫn còn giữ tập tục lấy đi tất cả quần áo người chết đang mặc trước khi chôn cất người ấy. Một trong những mục đích của tục lệ này nhằm nói lên rằng chúng ta rời khỏi thế gian này cũng y hệt như khi chúng ta vào thế gian. . Đây chính là điều thánh Phaolô đã đề cập đến trong thư thứ nhất gửi choTimôthê:”Chúng ta đã chẳng mang gì vào trong thế gian, và chúng ta cũng không thể mang bất cứ cái gì ra khỏi đó”(1Tm 6,7).
Tuy thế, chúng ta có thể mang đi theo khi đi ra khỏi đời này với nhữøng cái mà chúng ta làm giầu trước mặt Thiên Chúa, tức là tất cả những gì chúng ta đã cho đi. Những cái chúng ta đã cho đi làm thành một kho tàng trên trời dành riêng cho chúng ta. Những cái chúng ta đã cho đi ở trần gian này vẫn còn tồn tại không bao giờ hư nát, và đấy cũng là những công nghiệp chúng ta dâng cho Chúa để được hưởng hạnh phúc đời.
Truyện: Cho một được mười triệu.
Đang lững thững đi trong một đường phố, có một người ăn mày đến xin bố thí, người kia móc túi da đưa cho một đồng bạc.
Tám hôm sau, nhà từ thiện đã hết sức ngạc nhiên, vì ông nhận được bức thư nặc danh, trong có ngân phiếu 10 triệu quan. Bức thư viết thế này:
Có lẽ ông còn nhớ một hôm ngao du ở Nice, ông đã bố thí cho một người ông tưởng là hành khất. Trong 10 người tôi ngửa tay xin, chỉ có một ông đã thí cho một đồng bạc. Xin ông biết cho rằng: tôi đây là một nhà triệu phú đã trá hình làm người hành khất đó, với mục đích là nắm được phần thưởng trong cuộc đánh đốù. Tôi đã được cuộc, vậy xin ông cho phép tôi chia với ông số tiền thuởng đó.
Truyện rất hào hứng này, đã được tất cả các báo thuật lại và là truyện có thật. Người ta đóan ông Ernest Ingram chủ tiệm vàng ở Nice bên nước Pháp, chính là vai chủ động trong truyện.

6. Tiền của
Phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cập tới tiền bạc và của cải vật chất. Tôi muốn dừng lại và suy nghĩ về cách sử dụng, đó là đừng phú phí.
Sự phung phí là một hiện tượng đã có từ lâu đời, vẫn còn và có lẽ sẽ còn mãi mãi bao lâu con người hiện diện trên trái đất này. Nó là một hiện tượng phổ quát nhưng lại xuất hiện dưới nhiều hình thức và thường được che đậy bằng những danh hiệu, nếu không tốt đẹp thì ít ra cũng vô hại. Người ta ít ai ý thức rằng mình phung phí tiền bạc, nhưng bao giờ người ta cũng có đủ lý do để phung phí tiền bạc một cách bừa bãi. Điều đáng chú ý là không phải chỉ những kẻ dư tiền bạc mới phung phí, trái lại, những kẻ nghèo lại là những người phung phí nhiều nhất. Người ta kể lại, trên miền thượng, có một người đồng bào sắc tộc trúng số độc đắc, anh ta đã dùng cả mấy chục triệu bạc đó kể tổ chức nhậu nhẹt cho cả làng: ăn cho đến hết thì thôi. Nghe câu chuyện trên, chắc nhiều người tác lưỡi tiếc thầm: Giá mình trúng số thì hay biết mấy. Người ta có rất nhiều những dự định với cái “giá mà” kia. Nhưng điều quái lạ là người ta ít khi biết sử dụng cho đúng đắn, hợp lý những tiền bạc, không phải là của trời cho, mà do công lao khó nhọc, mồ hôi nước mắt mà có. Chẳng hạn hiện tượng ăn tết hay là những hội hè đình đám, những tổ chức làm đám ma, đám cưới, nhiều khi đưa các gia đình tới chỗ kiệt quệ, hay ít ra cũng lâm vào cảnh nợ nần. Dĩ nhiên việc ăn tết, tổ chức ma chay cưới hỏi là những việc làm tốt đẹp và cần thiết.
Vấn đề chúng ta đặt ra ở đây không phải là đưa tới cho huỷ bỏ những tập tục nói trên, nhưng là để cho thấy cách tiêu xài phung phí quá đáng. Nhu cầu tổ chức những hội hè đình đám là một nhu cầu tự nhiên của con người muốn thoát ra ngoài cuộc sống tẻ nhạt, thực hiện một thế quân bình tâm lý bằng cách làm giảm bớt hay quên đi những lao nhọc vất vả. Thực vậy, cuộc sống thường ngày luôn luôn là một sự tranh sống. Làm để mà ăn. Ăn để mà sống và sống để mà làm. Nếu cái vòng luẩn quẩn ấy cứ tiếp tục hoài, thì cuộc sống nếu không phi lý thì cũng buồn tẻ không đáng sống. Bởi đó ở mọi nơi và trong mọi lúc, con người luôn tìm cách vượt ra khỏi cái vòng lẩn quẩn kia bằng cách làm những gì không trực tiếp đáp ứng nhu cầu sinh tồn hơn là chỉ để lấp đầy sự đói khát của dạ dày. Do đó mới có những ngày lễ, những cuộc hội hè đình đám. Làm ở đây không còn là lắm ăn nữa và ăn ở đây không còn là để sống mà là ăn lấy thơm lấy tho, chứ không phải ăn cho no cho béo. Làm cho vui, ăn cho sướng.
Ngoài tính cách mua vui trong những hội hè đình đám, đối với người Việt Nam, thì đó còn là một dịp khoe giàu sang, khoe danh vọng. Từ đó xuất phát ra cái tục ăn khao ăn mừng. Vô vọng bất thành quan, kẻ làm quan kẻ đỗ đạt phải được trình diện xóm làng để làm vẻ vang cho gia đình họ hàng. Việc cưới hỏi ma chay cũng thế, đó thường là dịp cho các gia đình khoe khoang cái danh vọng, cái chữ hiếu của mình, được đánh giá bằng số mâm số cỗ và những người được mời. Thú ăn chơi cộng với tính khoe khoang đã làm cho nhiều người khánh kiệt điêu đứng hay ít ra cũng lâm vào cảnh nợ nần: Kiếm củi ba năm đốt một giờ. Bao nhiêu tiền dành dụm do mồ hôi nước mắt đổ ra, đổi lấy chút danh tiếng hão huyền. Tệ hơn nữa, nhiều gia đình thường phải vay mượn để tổ chức ma chay đình đám, rồi sau đó suốt bao nhiêu ngày tháng phải kéo cày trả nợ. Kẻ chết trở thành một gánh nặng mà gia đình phải gánh chịu nhiều năm và nụ cười trong đám cưới trở thành nếp nhăn trên khuôn mặt cặp vợ chồng trẻ trong một thời gian lâu dài. Bởi đó, cần phải tiều xaì tiền bạc một cách hợp tình và hợp lý để bảo đảm đời sống vật chất cho gia đình, và nhát là để mua lấy Nước Trời bằng những hành động bác ái yêu thương.

7. Làm giầu – Lm. Anphong Trần Đức Phương
Chúa Nhật hôm nay nói đến thái độ của chúng ta phải có đổi với của cải và những thực tại chóng qua ở trần gian. Bài Đọc I (Sách Giảng Viên 1: 2;2:21-23): Mọi sự trần gian sẽ qua đi. Mọi người, dù giầu hay nghèo, bình dân hay quyền quý, cũng qua đi và khi chết phải bỏ lại tất cả không mang theo được gì, trừ những điều tốt lành người ta đã làm khi còn sống ở trần gian này. Bài Đọc II (Thơ Côlôsê 3:1-5, 9-11): Thánh Phaolô khuyên chúng ta khi còn sống ở trần gian, hãy làm việc lành và xa tránh mọi quyến dũ của thế gian do lòng ham danh, lợi, thú gây ra; hãy luôn hướng tâm trí về cuộc sống đời sau, về quê hương thật nước Trời; hãy “mặc lấy con người mới, con người đã được đổi mới nên giống hình ảnh Đấng đã dựng nên chúng ta.” Bài Phúc Âm (Luca 12:13-21): Chúa Giêsu kể dụ ngôn về người phú hộ có nhiều của cải và chỉ biết thu tích cho mình để được sống sung sướng thoải mái; nhưng cái chết bất ngờ đến với ông, mọi của cải vật chất ông không mang đi được, thật dại dột. Kết luận Chúa Giêsu dạy chúng ta một bài học và cũng là một câu hỏi “những kẻ chỉ lo tích trữ của cải trần gian mà không biết làm giầu (nhân đức và các việc lành) trước mặt Chúa thì được ích gì!”
Khi dựng nên con người, Thiên Chúa đã ban cho con người có trí thông minh để thống trị mọi loài thụ tạo. Thiên Chúa cũng ban cho con người có óc sáng tạo để con người góp phần vào việc phát triển thế giới này (Sách Khởi Nguyên 1:27-30). Việc “làm giầu” cũng là điều rất tốt. “Làm giầu” để làm phong phú thế giới, để phát triển con người, gia đình và quê hương đất nước. Siêng năng làm việc để phát triển thế giới cũng là bổn phận của mọi người chúng ta. Nhờ bao nổ lực siêng năng làm việc của bao người trải qua các thế hệ mà nhân loại được văn minh như ngày nay.
Tuy nhiên, “làm giầu” mà chỉ lo tích trữ của cải cho mình được thụ hưởng, mà không biết chia sẻ cho người nghèo khó như người phú hộ trong bài Phúc Âm hôm nay thì lại là điều thật dại dột. Vì của cải đời này rồi cũng qua đi, chính cuộc đời của con người cũng “chóng qua như hoa, như cỏ! ” “như bóng ngựa qua cửa sổ!” và cái chết đến với mọi người luôn là một bất ngờ.
Việc “làm giầu” cũng mang một ý nghĩa xấu, khi làm giầu một cách bất công dưới nhiều hình thức khác nhau, như ‘buôn người’, buôn ma túy, buôn bán gian lận, lừa đảo người khác, trốn thuế, gian lận, trộm cắp, v.v…
Vì quá ham mê làm giầu mà nhiều khi chúng ta bỏ cả bổn phận đời sống gia đình, săn sóc con cái; bỏ cả bổn phận thờ phượng Chúa, như đi dâng Thánh Lễ cuối tuần, chẳng hạn.
Các Bài Đọc Sách Thánh hôm nay giúp chúng ta cùng suy nghỉ về việc “xử dụng tiền của” (Luca 12:33-34; 16:9-15), suy nghỉ về cuộc sống của chúng ta ở đời này, để làm sao chúng ta sống cuộc đời này có ý nghĩa, vì luôn biết chung tay xây dựng thế giới nên tốt đẹp hơn. Một cuộc đời có ý nghĩa vì luôn biết yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau, biết phục vụ Chúa qua các người nghèo khó. Khi nhắm mắt lìa đời vào bất cứ lúc nào, chúng ta cũng có thể mỉm cười vì đã luôn cố gắng sống một cuộc đời tốt đẹp và Thiên Chúa cũng sẽ mỉm cười với chúng ta và đón nhận chúng ta vào quê hương Nước Chúa, và nói với chúng ta “Con hãy vào dự tiệc Nước Trời, vì xưa Cha đói các con đã cho ăn, Cha khát các con cho uống, Cha trần trụi các con đã cho áo mặc…” (Matthêu 25:31-46).
Xin Chúa, nhớ lời Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh chuyển cầu, chúc lành cho mọi người chúng ta, giúp chúng ta luôn biết sống khiêm tốn, yêu thương và phục vụ lẫn nhau, nhất là giúp đỡ những người cùng khổ trên thế giới.

8. Kính sợ Thiên Chúa
Như chúng ta đã biết vua Salomon được coi như là người khôn ngoan nhất ở đời, bởi vì ông đã chỉ xin Thiên Chúa sự khôn ngoan mà thôi. Và Ngài đã cho ông được toại nguyện. Theo ông thì tất cả những cái chúng ta có đều là hồng ân của Thiên Chúa. Bởi vậy, khi chúng ta hưởng dùng những niềm hạnh phúc ấy chúng ta phải biết đem lòng kính sợ Thiên Chúa. Chỉ người nào kính sợ Thiên Chúa mới thực sự hạnh phúc. Và đầu mối của sự khôn ngoan cũng chính là lòng kính sợ Thiên Chúa.
Đây cũng là điều Đức Kitô muốn nói với chúng ta qua dụ ngôn người phú hộ. Ông ta không phải là kẻ hà hiếp bóc lột người khác, cũng không phải là kẻ gian lận hay có bất cứ hành vi xấu xa nào. Ông ta biết làm ăn và trở nên giàu có. Ông ta đáng được hưởng công lao do tay mình làm ra. Thế nhưng ông ta chỉ thiếu có một điều, đó là lòng kính sợ Thiên Chúa. Ông ta không ý thức được rằng hạnh phúc mà ông đang được hưởng là một hồng ân của Chúa. Hồng ân này chỉ được ban cho ông đời này mà thôi, nghĩa là ông ta sẽ chẳng thể đem được những thứ ông đang có sng thế giới bên kia.
Trong dụ ngôn này, chúng ta không thấy Chúa Giêsu gợi ý nên dùng của cải dư thừa làm gì, nhưng trong toàn bộ Tin Mừng, nhất là Tin Mừng theo thánh Luca, chúng ta thấy rõ khuynh hướng của Ngài là luôn khuyên chúng ta chia sẻ cơm ăn áo mặc cho người khác, thậm chí Ngài còn đòi hỏi những ai muốn theo làm môn đệ Ngài, phải bán tất cả tài sản mà phân phát cho người nghèo. Kết thúc dụ ngôn người quản gia bất lương, Ngài bảo các môn đệ: Hãy dùng tiền của bất chính mà mua bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào gia cư vĩnh cửu.
Chúa Giêsu không khinh ghét của cải bởi vì chính Ngài cũng đã lao động để làm ra của cải, nhưng Ngài không bao giờ để cho của cải chi phối, thống trị mình. Của cải vật chất là những phương tiện cần thiết cho cuộc sống của mỗi người, nó cũng là phương tiện để chúng ta thực hành lòng bác ái yêu thương. Nó chỉ trở nên xấu xa bất chính khi vì nó mà người ta chà đạp, bóc lột kẻ khác, hay là khi người ta sử dụng nó một cách ích kỷ, không đem chia sẻ cho những kẻ khó nghèo. Chúa Giêsu đã từ chối không làm phép lạ hoá đá thành bánh, nhưng Ngài lại không do dự làm cho bánh hoá nhiều để nuôi những kẻ đến nghe Ngài giảng dạy.
Trong thế giới chúng ta đang sống, không thiếu gì những ông phú hộ và những người ăn mày như Lagiarô. Những ông phú hộ là những kẻ làm giàu cho mình bằng đủ mọi mánh lới thủ đoạn, làm giàu trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác. Trong khi đó hơn ba phần tư nhân loại ngày càng nghèo đói thêm. Vấn đề không phải là bảo những người giàu đừng làm giàu nữa, vì đó là điều không thực tế, nhưng là đòi hỏi họ phải chia sẻ những của cải dư thừa mà họ đang tích luỹ nhờ xương máu của chính những người nghèo, để giúp người nghèo khỏi chết đói.
Vấn đề còn là làm sao cho người giàu hiểu rằng bao nhiêu của cải họ đang khư khư nắm giữ cho mình sẽ vĩnh viễn tuột khỏi tay họ, khi họ nhắm mắt ra đi. Bởi vì chúng ta vào đời với hai bàn tay trắng, thì chúng ta cũng sẽ ra đi với hai bàn tay trắn, không còn khả năng nắm giữ nổi dù chỉ một hạt lúa mà thôi.

9. Sống là chuẩn bị chết
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có người bi quan bảo rằng: “sống là chuẩn bị chết”. Mỗi ngày sống là một nhịp cầu tiến gần đến cái chết hơn nữa. Cái chết nó đến cũng thật bất ngờ. Bất ngờ như tên trộm đột nhập vào nhà và lấy đi sự sống của chúng ta. Cái chết nó cũng không chờ đợi lứa tuổi để mà có thể sống theo tuần tự: sinh – bệnh – lão – tử. Cái chết đến với người già cũng như người trẻ ngang nhau. Có người chết trẻ. Có người chết già. Có người chết bất thình lình. Có người chết từng giờ vì cơn bệnh nan y.
Vào ngày 10/04/2010 cả thế giới cũng ngỡ ngàng trước sự ra đi đột ngột của vợ chồng tổng thống Ba Lan cùng đoàn tuỳ tùng gần 200 người. Họ đã tử nạn trong một chuyến bay đến Nga để dự lễ kỷ niệm 70 năm ngày khoảng 22,000 binh sĩ Ba Lan bị sát hại. Chiếc máy bay đã không đưa họ đến nơi dự định mà đã đưa họ về với trời cao vào lúc 11g00 trưa cùng ngày. Họ đã kết thúc cuộc đời vào lúc mà họ không ngờ, và chắc chắn họ vẫn chưa chuẩn bị cho chuyến đi định mệnh một cách vĩnh viễn này.
Mỗi ngày chúng ta cũng chứng kiến biết bao cái chết tức tưởi bởi đột quỵ hay bởi tai nạn giao thông. Trung bình ở Việt Nam mỗi ngày có hơn 32 người chết bởi tai nạn giao thông. Mỗi năm thiên tai lũ lụt cũng gây nên biết bao cái chết oan khiên đắng cay. Pakistan mới trải qua cơn lũ kinh hoàng đã cướp đi hơn 1500 sinh mạng. Sự chết dường như không kiêng nể ai. Sự chết có thể đến với bất cứ ai và ở mọi nơi, mọi lúc.
Xem ra sự sống và sự chết không nằm trong những toan tính dự định của chúng ta. Chúng ta không có quyền chọn lựa để tiếp tục sống hay chết. Không có quyền chọn lựa về cách chết. Và càng không có quyền chọn lựa thời gian để chết. Sự chết dường như vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Sự chết sẽ chấm dứt mọi sự nơi dương gian của chúng ta. Công danh, sự nghiệp. Giầu có hay khó nghèo cũng kết thúc như nhau với nấm mồ nhỏ bé bốn tấc đất như nhau.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức để chờ đợi chủ trở về. Sự chờ đợi khôn ngoan là chăm chỉ làm việc bổn phận của mình. Sự chờ đợi tích cực là tích luỹ kho tàng không bao giờ bị hao hụt hay mối mọt phá hoại là những việc lành phúc đức. Sự chờ đợi trong kiên nhẫn, dầu là lúc đêm khuya hay lúc bình minh sắp ló rạng vẫn luôn tỉnh thức vì không biết chủ về vào lúc nào. Chủ về với hàm ý chính Thiên Chúa sẽ đến viếng thăm mỗi người chúng ta qua các ơn lành, qua các bí tích… Chủ về cũng có nghĩa là ngày Chúa đến để đưa linh hồn chúng ta ra khỏi thế gian. Chủ về cũng có nghĩa là ngày cánh chung, ngày đó sẽ khép lại toàn bộ lịch sử của nhân loại. Chủ sẽ vui mừng thấy chúng ta tỉnh thức hay chủ sẽ giận dữ thấy chúng ta đang u mê lười biếng. Chủ sẽ thưởng công hay luận phạt tuỳ theo thái độ sống của chúng ta.
Thế nên, sự khôn ngoan mời gọi chúng ta hãy sống giây phút hiện tại một cách tích cực. Hãy sử dụng thời gian một cách hợp lý. Ðừng dùng giây phút hiện tại để phạm tội. Ðừng lao vào những đam mê mù quáng. Hãy sống tích đức để mua lấy Nước Trời mai sau. Nhưng đáng tiếc cho nhân loại hôm nay vẫn còn đó những người sống thiếu tỉnh thức bằng đời sống lười biếng và thiếu trách nhiệm trong bổn phận của mình, vẫn còn đó những người sống ngụp lặn trong đam mê tội lỗi, vẫn còn đó những người sống tham lam bất chính hơn là tích đức cho đời sau. Họ sẽ mất cơ hội tham dự tiệc của tình yêu mà chính Thiên Chúa sẽ thiết đãi họ.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy sống giây phút hiện tại như là giây phút cuối cùng của đời mình để chúng ta sống có trách nhiệm hơn, sống tỉnh thức hơn. Ước gì mỗi người chúng ta cùng được chủ vui mừng đón tiếp trong bữa tiệc vĩnh cửu nơi quê hương trên trời. Amen.

10. Khi đồng tiền lên ngôi? – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Nếu nhìn vào toàn cảnh Việt Nam, người ta thấy kinh tế càng ngày càng khó khăn. Đồng tiền kiếm được ít ỏi, lại mất giá. Giá xăng liên tục tăng, giá vàng lên xuống thất thường. Trong khi thông tin về tình hình kinh tế không mấy sáng sủa thì đồng thời, trên các phương tiện truyền thông lại liên tục cập nhật những vụ việc “mẹ tự thiêu vì con rể nợ 2 chỉ vàng”; “Bẻ gãy tay mẹ vì đòi chia tài sản”…
Ngày 08/7, báo Bà Rịa-Vũng Tàu đưa tin, người dân ở khu phố Hải Dinh, phường Kim Dinh hết sức bức xúc việc bà Nguyễn Thị Thanh (61 tuổi) bị con gái là Đặng Thị Thủy, đánh gãy tay, phải vào viện. Bà Thanh nói: “Nỗi đau của tôi không phải ở bàn tay bị gãy, mà ở sự hỗn hào, bất hiếu của con cái”
Theo lời bà Thanh, gần đây, Thủy muốn bà Thanh bán lô đất trị giá hơn 1 tỷ để chia cho Thủy một phần, nhưng bà không đồng ý.
Thủy chửi bới, chì chiết, xưng hô mày tao với mẹ. Quá đau lòng, bà Thanh đã dùng tay tát Thủy, không ngờ bị con gái nắm được tay bà và bẻ ngang khiến bà Thanh bị gãy ngón tay giữa, phải đi bó bột ở bệnh viện Bà Rịa. “Nếu không có hàng xóm vào can ngăn thì có lẽ nó đã đánh chết tôi rồi”- bà Thanh xót xa nói.
Trước hành động quá đáng của con gái, bà Thanh đã gửi đơn lên phường mong xử phạt và răn đe, giáo dục con gái. “Máu chảy ruột mềm, thật lòng tôi chỉ muốn con gái tới xin lỗi mình, chứ không ai muốn con dính vào luật pháp, nhưng con nào có hiểu được lòng mẹ”- bà Thanh ngậm ngùi nói.
Câu chuyện đau lòng phải kể đến là trường hợp cụ bà Nguyễn Thị Bương (83 tuổi, trú thôn Phước Lương, xã Hòa Xuân Tây, Đông Hòa) đã tự thiêu bằng xăng ngay tại trước bậc sảnh Toà Án Nhân Dân huyện Đông Hòa (Phú Yên), ngày 05/7.
Theo người nhà cụ Bương, nhiều khả năng cụ tự thiêu vì bức xúc chuyện ông Lập, con rể, chưa trả hết 3 chỉ vàng đã mượn, lại còn lấy vợ khác.
Những câu chuyện đắng lòng khiến người ta phải đặt câu hỏi, phải chăng kinh tế khó khăn khiến tình người càng thêm cạn kiệt?
Đành rằng cuộc sống rất cần tiền, nhưng không phải nhờ tiền mà ta sống được lâu dài hơn. Không phải nhờ giầu có tiền của mà ta sống giá trị hơn. Điều quan trọng mà Chúa muốn nhắc chúng ta là phải làm giầu trước mặt Chúa. Làm giầu ở đây, không phải là giầu của cải vật chất, mà là giầu đức hạnh, giầu việc lành bác ái với tha nhân. Lòng tham con người vô đáy. Nếu cuộc sống chỉ theo đuổi tính tham lam của mình, con người sẽ trở nên bủn xín keo kiệt với anh em. Nếu cuộc sống con ngưởi chỉ biết nghĩ đến mình, con người sẽ sống trong ốc đảo cô đơn và tuyệt vọng.
Thế nhưng, con người ngày nay chỉ cần tiền. Họ quan tâm tới tiền. Họ sống vì tiền và họ đặt mọi quan hệ trên đồng tiền. Họ coi đồng tiền là phương tiện để họ gắn kết với nhau hơn. Thế nên, thế giới càng giầu của cải thì tình người càng cạn kiệt hơn. Người ta vì tiền mà phản bội nhau, lừa dối nhau và giết hại lẫn nhau. Vì tiền mà con người đánh mất tình người và đôi khi đánh mất chính bản thân mình đến nỗi vì tiền mà sống hèn hạ, mất danh dự nhân phẩm của một con người.
Có lẽ chúng ta đã không còn lạ về những câu chuyện bi thương giữa những người thân trong gia đình đã tàn sát lẫn nhau chỉ vì tiền, vì của cải, vì tài sản… Cha mẹ bỏ rơi con cái chỉ vì tiền. Con cái sát hại cha mẹ cũng vì tiền. Và vợ chồng bất trung với nhau cũng vì tiền. Đồng tiền lên ngôi là lúc tình người lại xuống thấp. Đề cao đồng tiền cũng đồng nghĩa giảm đi tình người.
Sự khôn ngoan mời gọi chúng ta hãy xét lại xem “nếu ngay trong đêm nay ta từ giã cuộc đời này ta sẽ được gì?” Đồng tiền có mua được bạn hữu khi ta đã nhắm mắt xuôi tay. Sự gian ác, tàn nhẫn, thiếu tình người chỉ vì coi trọng đồng tiền, có mang ta đi về thế giới đời sau trong an nhàn hạnh phúc hay lo âu sợ hãi khi phải đối diện với tử thần? Con người sinh ra, rồi cũng sẽ chết, nhưng cái chết đến, chúng ta sẽ mang theo được điều gì? Là tiền bạc hay việc làm phúc đức? Điều gì ta mang theo, sẽ mang lại cho chúng ta hạnh phúc ngàn thu?
Người đời hay có câu giỡn với nhau: “Làm chi cho nhiều, chết rồi cũng để lại cho ‘dượng’ nó xài, vợ con mình ‘dượng’ nó sai…”. Lời Chúa hôm nay thì bảo: “Đồ ngốc, Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? Ấy, kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.”
Có lẽ không ai muốn chết mà không có bạn bè, người thân bên cạnh trong lúc lâm chung? Có lẽ không ai muốn sau cái chết, là mất mát, là đau khổ? Vậy, chúng ta phải làm điều gì để có bạn bè, có người thân bên cạnh chúng ta hôm nay và mãi mãi? Thưa, đó chính là một cuộc sống đặt tình người lên trên của cải, và biết sống vì mọi người và cho mọi người. Một cuộc sống vị tha sẽ mang lại cho cuộc đời chúng ta thêm ý nghĩa và hạnh phúc. Đúng như Nguyễn Công Trứ đã nói:
“Người trồng cây hạnh, người chơi.
Ta trồng cây phúc để dành đời sau.”
Xin cho chúng ta luôn biết khôn ngoan chọn lựa cái vĩnh cửu hơn là những phù vân mau qua, biết chọn tình người hơn là của cải, và biết chọn Chúa hơn là danh lợi thú trần gian. Amen.

11. Thương xác theo tiếng nói của linh hồn
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Nhiều người tin rằng linh hồn người chết về nhập vào người sống để nói chuyện, nói những điều quá khứ, hiện tại, tương lai đúng như bong. Cho nên, nhiều người tin chạy đến các ông thầy bùa ngãi xin gọi hồn về cho biết ý kiến phải quyết định như thế nào trong những việc hệ trọng, và hồn nói gì phải làm đúng theo dù có phải mất tiền của hay phải chết. Vì vậy, chẳng lạ gì vào thời đại 4.0 này mà còn có nhiều người chạy theo phong trào “gọi vong báo oán” diễn ra một vài nơi trên đất nước chúng ta mới đây.
Ai cũng công nhận rằng người có hồn có xác, có hồn mà không xác, hồn đi lang thang, người ta gọi là “hồn ma vất vưởng”. Ngược lại, chỉ có xác mà không hồn, người ta bảo là “xác chết không hồn”. Cho nên, con người là tổng hợp của cả hồn và xác. Hồn và xác có tương quan với nhau chặt chẽ, hồn an thì xác mạnh. Thân xác có tiếng nói của thân xác là ngôn ngữ. Hồn có ngôn ngữ của hồn là tiếng nói lương tâm, tiếng Chúa nói. Vậy người ta “gọi hồn” người chết về hỏi nên làm điều này không làm điều kia, thì hồn đó cũng là người đã khuất nói người còn sống hãy làm điều này tránh điều kia để bình an và hạnh phúc đời này và đời sau. Còn “Hồn” nói làm điều dữ là quỷ chứ không phải là hồn ma, vì ông bà nói ma hiền quỷ dữ.
Trong đời sống thường nhật, đồng ý là vật chất rất cần thiết, nhưng tinh thần có giá trị đẹp hơn vật chất. Chẳng hạn, lòng chung thuỷ thì đáng ca ngợi hơn nhan sắc. Tình yêu thương thì quý hơn bạc vàng. Vì thế, mới có những người hy sinh cho người mình yêu, có kẻ chết vì lý tưởng, cho Tin Mừng, cho Chúa, cho Hội Thánh… Cụ thể, Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài là Chúa Giêsu đến trần gian mặc lấy xác phàm rao giảng, thương xót, phục vụ chăm sóc mọi người và cuối cùng chết trên cây thánh giá để cứu độ muôn người, tức là không chỉ cứu cho con người được hồn an xác mạnh mà còn cho xác sống lại trong ngày hết. Cho nên, theo gương Thầy Chí Thánh, Thánh Têrêsa Calcutta suốt 65 năm tận tụy hy sinh phục vụ cho lý tưởng Tin Mừng- thương xót và phục vụ bệnh nhân, người nghèo hèn, người khuyết tật, người bị xã hội bỏ rơi… vì Thánh nữ coi thân xác linh hồn họ quý trọng biết bao, họ là con người được Chúa sinh ra, là con cái Chúa, là người được Chúa cứu chuộc và họ là hình ảnh của Chúa Giêsu đau khổ đang cần giúp đỡ và yêu thương chăm sóc nâng niu.
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta ít nghe tiếng “hồn gọi”, nhưng thực tế hồn luôn gọi thân xác. Chẳng hạn, khi xác đói, ta giơ tay muốn lấy trộm củ khoai, hồn bảo: Không! Tội lỗi! Khi ta định bỏ lễ ngày Chúa nhật để đi ăn chơi, hồn nói: “Coi chừng mắc tội trọng, mất linh hồn”. Cho nên, tiếng “hồn gọi” là tiếng nói lương tâm Thiên Chúa đặt để nơi con người nên bao giờ cũng đúng, linh hồn chỉ đạo cho xác làm lành lánh dữ, dẫn đưa thân xác đến sự sống vĩnh hằng và bình an. Cho nên, Thánh Phaolô chí lý nói: “Hướng đi của xác thịt là sự chết, còn hướng đi của hồn là sự sống và bình an” (Rm 8,6).
Vì vậy, trang Tin Mừng hôm nay không kể chuyện gọi hồn người chết mà là hồn gọi người sống! Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: “Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa màu!” Rồi ông ta tự bảo: “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, và tích trữ tất cả lúa và của cải của mình vào đó. Lúc đó ta sẽ nhủ lòng: hồn tôi hỡi, mình bây giờ ê chề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” (Lc 12:16-19). Cho nên, lúc ông nghĩ bụng, ông tự bảo lòng mình… chính là ông gọi hồn, chứ không phải là hồn gọi vì ông đã chết đâu mà gọi hồn về. Làm sao hồn có thể ăn mà lại gọi hồn đến ăn? Vì hồn là tinh anh, thiêng liêng làm sao mà ăn uống cho đả đời. Cụ thể, chúng ta thầy có người đem bánh trái heo quay ra mộ thắp hương rồi lại đem về còn in như vậy. Vâng, hồn thuộc thế giới thiêng liêng, làm sao lấy thịt thà, rượu bánh là vật chất mà đãi hồn, hồn thuộc một thế giới vô hình? Vậy mà ông phú hộ mời hồn đến “ăn uống vui chơi cho đã.” Cái lầm lẫn của ông ta là hồn ăn được nên tiếng “gọi hồn” của ông là một nghịch lý và hoang tưởng. Phúc Âm kết thúc: “Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó” (Lc 12,20-21).
Hãy để ý trong câu chuyện gọi hồn của ông phú hộ, ta thấy trong căn nhà ấy rất vắng. Không có ai. Không thấy ông nói đến vợ con, anh em, bạn bè, hàng xóm, mà chỉ có mình ông ta lẻ loi. Nổi bật lên là một thế giới khép kín lạnh lùng, ích kỷ, vô cảm, không giao du với ai, một mình ông trong căn nhà vắng rất ảm đạm, u ám và hoang tàn. Cho nên, ông không có ai để mà gọi, chỉ xác của ông gọi hồn ông thôi. Hồn không ăn được thóc chứa trong kho, hồn không uống được ly rượu trên bàn nên Ông gọi sai chỗ, ông cho lầm đối tượng. Tại sao vậy? Ông sống làm sao mà không ai chơi với ông, chẳng có ai chung quanh cuộc đời và ông là người cô độc?
Một triết gia nói: “Con người sinh ra là sống cho, sống với và sống nhờ”. Cho nên, sống trong cuộc sống này chúng ta hãy tạo cho mình một mối tương quan với Chúa và với tha nhân. Sống với và sống cho Chúa để Ngài nâng đỡ, che chở và dìu dắt ta đi trong ánh sáng chân lý Ngài để hồn xác được hạnh phúc và bình an. Còn sống với và sống cho tha nhân để tình người được thêm chan chứa khi vui và bình an khi vui hay buồn, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe có như thế mới là con người hồn xác hoàn hảo Vì vậy, Lời Chúa trong bài đọc 2 dạy: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Vậy, anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em: ấy là gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam. Anh em đừng nói dối nhau, vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi, và anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá, để được ơn cứu chuộc”.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta sống trong đời này luôn tạo cho mình một mối tương quan mật thiết giữa Chúa và ta, giữa ta với tha nhân và giữa ta với hồn bằng việc mến Chúa yêu người. Amen.

12. Thương xác theo tiếng nói linh hồn
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Nhiều người tin là có những thầy bùa có thể gọi hồn người chết về nhập vào người sống để nói chuyện. Có người đến xin hồn cho biết ý kiến phải quyết định như thế nào trong những việc hệ trọng. Người có hồn mà không có xác, hồn đi lang thang, người ta gọi là “hồn ma vất vưởng”. Ngược lại, chỉ có xác mà không hồn, người ta bảo là “xác ma không hồn”. Con người là tổng hợp của cả hồn và xác. Thiếu một trong hai thì người ta gọi là “ma”. Hồn và xác có tương quan với nhau chặt chẽ, hồn an thì xác mạnh. Thân xác có tiếng nói của thân xác, ngôn ngữ. Hồn có ngôn ngữ của hồn, tiếng nói lương tâm, tiếng Chúa nói. Vậy người ta “gọi hồn” người chết về hỏi nên làm điều này không làm điều kia, thì hồn cũng gọi người ta hằng ngày làm điều này tránh điều kia để bình an và hạnh phúc đời này và đời sau.
Trong đời sống thường nhật, đồng ý là vật chất rất cần thiết, nhưng tinh thần có giá trị đẹp hơn vật chất. Chẳng hạn, lòng chung thuỷ thì đáng ca ngợi hơn nhan sắc. Tình yêu thương xót thì quý hơn bạc vàng. Vì thế, mới có những người hy sinh cho người mình yêu, có kẻ chết vì lý tưởng, cho Tin Mừng. Cụ thể, Thiên Chúa thương xót thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài là Chúa Giêsu đến trần gian mặc lấy xác phàm rao giảng, thương xót, phục vụ chăm sóc mọi người và cuối cùng chết trên cây thánh giá để cứu độ muôn người, tức là không chỉ cứu cho con người được hồn an xác mạnh mà còn cho xác sống lại đời đời. Theo gương Thầy Chí Thánh, Chân phước mẹ Têrêsa Calcutta suốt 65 năm tận tạo hy sinh phục vụ cho lý tưởng Tin Mừng- thương xót và phục vụ bệnh nhân, người nghèo hèn, người khuyết tật, người bị xã hội bỏ rơi… vì Mẹ coi thân xác họ quý trọng biết bao, họ là con người được Chúa sinh ra, là con cái Chúa, là người được Chúa cứu chuộc và họ là hình ảnh của Chúa Giêsu đau khổ đang cần giúp đỡ và yêu thương chăm sóc nâng niu.
Ta ít nghe nói đến “hồn gọi”, nhưng trong đời sống hằng ngày, hồn luôn gọi xác. Khi xác đói, ta xoè tay muốn lấy trộm củ khoai, hồn bảo: Không! Tội lỗi! Tiếng “hồn gọi” là tiếng lương tâm Thiên Chúa in dấu nơi con người nên bao giờ cũng đúng, nó chỉ đạo cho xác làm lành lánh dữ, dẫn đưa ta đến sự sống và bình an. Cho nên, Thánh Phaolô chí lý nói: “Hướng đi của xác thịt là sự chết, còn hướng đi của hồn là sự sống và bình an” (Rm 8,6).
Bài Phúc Âm hôm nay không kể chuyện gọi hồn người chết mà là hồn gọi người sống! Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: “Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa màu!” Rồi ông ta tự bảo: “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, và tích trữ tất cả lúa và của cải của mình vào đó. Lúc đó ta sẽ nhủ lòng: hồn tôi hỡi, mình bây giờ ê chề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” (Lc 12:16-19).
Đã chết đâu mà ông phú hộ ấy gọi hồn về. Làm sao hồn có thể ăn mà lại gọi hồn đến ăn? Có người đem khoanh thịt ra mộ bia rồi lại đem về in như vậy. Đó là biểu tượng nhớ thương nhiều hơn là tin rằng hồn thực sự ăn. Hồn thuộc thế giới thiêng liêng, làm sao lấy thịt thà, rượu bánh là vật chất mà đãi hồn, hôn thuộc một thế giới vô hình? Vậy mà ông phú hộ mời hồn đến “ăn uống vui chơi cho đã.” Cái lầm lẫn của ông ta là cho hồn thứ không thể ăn. Tiếng “gọi hồn” của ông ở đây là một nghịch lý hoang tưởng. Phúc Âm kết thúc cái phi lý đó: “Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó” (Lc 12,20-21).
Hãy để ý trong câu chuyện gọi hồn của ông phú hộ, ta thấy trong căn nhà ấy rất vắng. Không có ai. Không thấy ông nói đến vợ con, anh em, bạn bè, hàng xóm, mà chỉ có mình ông ta lẻ loi. Nổi bật lên là một thế giới khép kín lạnh lùng, ích kỷ, vô cảm, không giao du với ai. Cho nên, ông không có ai để mà gọi, chỉ xác của ông gọi hồn ông thôi. Hồn không ăn được thóc chứa trong kho, hồn không uống được ly rượu trên bàn. Ông gọi sai chỗ, ông cho lầm đối tượng. Tại sao vậy? Ông sống làm sao mà không ai chơi với ông, chẳng có ai chung quanh cuộc đời và ông thành cô độc? Hình ảnh chỉ có một mình ông trong căn nhà vắng là bóng hình rất ảm đạm, u ám và hoang tàn.
Một triết gia nói: “Con người sinh ra là sống cho, sống với và sống nhờ”. Cho nên, sống trong cuộc sống này chúng ta hãy tạo cho mình một mối tương quan với Chúa và với tha nhân. Sống với Chúa để Ngài nâng đỡ, che chở và dìu dắt ta đi trong ánh sáng chân lý Ngài để hồn xác được hạnh phúc và bình an. Sống với và sống cho tha nhân để tình người được thêm chan chứa khi vui cũng như buồn, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe có như thế mới là con người hoàn hảo vì nói như Lời Chúa Giêsu “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích gì” (Mt 16,26). Vì vậy, Lời Chúa trong bài đọc 2 dạy: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo”.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta sống trong đời này luôn tạo cho mình một mối tương quan mật thiết giữa Chúa và ta, giữa con người với ta và giữa ta với hồn bằng các hành động thương xót người thân cận cả thân xác lẫn tâm hồn. Amen

13. Của cải và cái chết
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Từ câu chuyện của đời thường
Uy tín của Ðức Giêsu đối với dân chúng thật rộng rãi, đến nỗi người ta coi Người như một quan án thời Cựu Ước. Dân chúng tìm đến để nghe Ðức Giêsu giảng dạy, đồng thời đưa ra những thắc mắc để Người giải quyết. Hôm nay, một anh bạn trẻ tìm đến Ðức Giêsu để xin Người can thiệp vào việc chia gia tài. Thế nhưng, khác với sự chờ đợi của nhiều người, Ðức Giêsu đã từ chối lời đề nghị của người bạn trẻ. Tại sao thế? Phải chăng Ðức Giêsu không muốn can thiệp vào những câu chuyện cụ thể? Phải chăng việc giải quyết những trục trặc của đời sống không nằm trong sứ mạng của Người?
Thực ra, lời thỉnh cầu của anh bạn trẻ là một đòi hỏi cụ thể của sự công bằng. Người anh cả đã vượt quá những quy định của lề luật, và dành lấy hết cả phần gia tài, không chia lại cho người em. Theo thói quen thời ấy, anh bạn trẻ đến gặp Ðức Giêsu, anh tin tưởng rằng Người có thể giúp anh được hưởng phần gia tài theo đúng luật đã định. Nếu như Ðức Giêsu có can thiệp giùm anh, có dùng uy tín của mình để giải quyết bất công, điều đó cũng phải, cũng cần thiết lắm chứ. Vậy mà Ðức Giêsu đã từ chối. Kể là cũng khó hiểu. Có thể giải thích thái độ của Ðức Giêsu theo những khía cạnh sau đây.
Trước hết, anh bạn trẻ tìm đến Ðức Giêsu không phải để sẵn sàng nghe Người giảng dạy. Anh đến và đặt vấn đề anh đang bận tâm. Anh muốn Ðức Giêsu sử dụng uy tín của mình để giúp anh đạt được mục tiêu của mình. Anh đã có sẵn lời giải đáp, anh có một thế giới riêng và anh muốn tìm phương thế để mục tiêu của mình được thành tựu. Anh không muốn ra khỏi thế giới của mình, nhưng muốn người khác đi vào thế giới đó, làm cho thế giới đó được tốt đẹp theo cách nghĩ của anh.
Ðàng khác, có thể nói Ðức Giêsu công nhận lời thỉnh cầu của anh bạn trẻ là chính đáng, nhưng Người không muốn giải quyết cho cá nhân anh để rổi đám đông dân chúng, và cả chính anh, hiểu lầm về sứ mạng của Người. Ðã có nhiều lần, Người từ chối không giải quyết những bận tâm của dân chúng, của môn đệ. Sứ mạng của Ðức Giêsu có tính cách cao cả, dứt khoát, chứ không phải là giải quyết phần ngọn của vấn đề. Ðức Giêsu được sai đến trần gian để giải thoát con người khỏi tội lỗi, khỏi sự dữ, khỏi quyền lực của ma quỷ, để đưa họ vào sống trong tự do, trong tình yêu thương của Thiên Chúa. Ở đây, nếu Ðức Giêsu can thiệp giùm người bạn trẻ, thì đương nhiên Người cho dân chúng có cảm tưởng rằng cuộc sống tuỳ thuộc vào của cải. Bởi đó, Ðức Giêsu đã không đi vào vấn đề cụ thể của người bạn trẻ, nhưng nhân đó để nói đến những điều sâu xa hơn, có tính căn bản cho mọi người và mọi thời.
Ðiều tương đối và điều tuyệt đối
Từ đó, Ðức Giêsu đưa ra giáo huấn của Người về của cải, về tiền bạc. Cuộc sống con người không tuỳ thuộc vào những gì người ta có. Thật là điên rổ khi có người nghĩ rằng của cải là một bảo đảm vững chắc cho đời sống của mình. Ðức Giêsu bác bỏ sự thống trị của điều xem ra là có “giá trị” nhất trần gian: của cải, tiền bạc. Trong giáo huấn của Ðức Giêsu, sự an toàn do vật chất chỉ là một thứ điên rổ. Nếu không hiểu điều ấy, sự giàu có sẽ trở thành một nhà tù, và người giàu có trở thành tù nhân trong căn phòng ấy. Càng nỗ lực thu góp của cải, người ta lại càng củng cố nhà tù của mình thêm vững chắc.
Giới hạn cuối cùng làm sáng tỏ vấn đề khi cái chết xuất hiện. Của cải không thể bảo tổn sự sống và cũng chẳng đáng là gì so với sự sống. Mạng sống là mục đích của của cải mà còn tương đối thì huống chi những thứ phụ thuộc. Của cải chỉ là để phục vụ cho sự sống, chứ không có giá trị nào khác. Và sâu hơn nữa là sự sống đích thực được đặt trên nền tảng vững chắc: mối tương giao với Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa là vững bền và chính Người có quyền trên cuộc sống.
Ðàng khác, nếu ngụp lặn trong sự giàu sang để hy vọng được sống lâu, sống hạnh phúc là một điều điên rổ, thì cũng điên rổ không kém khi cho rằng giàu có là để hưởng thụ cho riêng mình. Lòng tham lam, sự say mê của cải làm cho con người chỉ nghĩ đến bản thân mình, đổng thời ngăn cản sự quan tâm đến người khác. Nó làm cho người ta chỉ nghĩ đến bản thân và cuộc sống hiện tại. Từ đó, sự tham lam kéo theo nhiều sự bất công với mục đích củng cố sự giàu có của mình, sẵn sàng chà đạp lên cuộc sống của người khác, miễn là sự giàu có của mình được bảo đảm.
Như thế, Ðức Giêsu trả lại vị trí tương đối cho của cải. Người đề cập đến “nền tảng” của vấn đề. Người mời gọi đi vào một viễn tượng mới: “Sự giàu có nơi Thiên Chúa.” Chính vũ trụ này mới làm cho sống, bởi vì nó được đặt trên, không phải sự an toàn giả tạo, nhưng trên sự hiệp thông trong tình yêu. Trước mắt người đời, thực tại này có thể bị coi là điên rổ, nhưng lại là thực tại vững chắc nhất, thực tại mở ra sự sống.
Bởi đó, với kinh nghiệm cá nhân, thánh Phao-lô đã giải thích cho tín hữu Phi-líp-phê: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Ðức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi còn coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Ðức Giêsu Ki-tô, Chúa của tôi, vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đổ bỏ, để được Ðức Ki-tô” (Pl 3,7-8).
Cuộc đấu tranh trường kỳ
Thế nhưng, trong thực tế, của cải vẫn là ám ảnh rất lớn. Ðây thực sự là một cuộc đấu tranh để lựa chọn giữa Thiên Chúa và của cải. Không phải là trận chiến trong một vài ngày, vài năm, nhưng kéo dài suốt cả cuộc đời. Bởi vì, trong khi tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa, người Ki-tô hữu vẫn phải làm việc, vẫn phải kiếm tiền để sinh sống. Biết đâu là giới hạn, để coi tiền bạc như là phương tiện chứ không hướng tới như một mục đích, đó vẫn là điều rất khó khăn, ngay cả trong những việc lành thánh nhất. Ðó là một thái độ phải lựa chọn, và người Ki-tô hữu phải hợp lý với chính mình, không quá say mê của cải trần gian, nhưng cũng không phải là chỉ nghĩ đến Thiên Chúa để bỏ quên mọi thứ của trần gian.
Theo sách Giảng viên, mọi sự đều là phù vân. Ðúng vậy, so với Thiên Chúa, tất cả đều không có giá trị. Ngày nay, trong quan điểm của lòng tin, mọi sự đều là hổng ân. Nếu coi mọi sự mình đang có là hổng ân, người Ki-tô hữu sẽ sử dụng hổng ân một cách tốt đẹp nhất, ích lợi nhất, cho chính mình và cho cả người khác. Nếu mọi sự chúng ta có đều do nhận được, thì chúng ta cũng sẽ không giữ cho mình, không coi là của mình, để rổi biết đem chia sẻ cho người khác, và nhất là để làm vinh danh Ðấng đã ban tặng những của cái đó.
Bấy giờ, cái chết đến, và không phải là lúc chúng ta buông xuôi, mất đi mọi của cải, nhưng nhận lại được gấp trăm. Cái chết làm cho chúng ta ra trắng tay, nhưng Thiên Chúa lại cần đến để đỗ tràn nơi chúng ta vinh quang vĩnh cửu.
* * *
Có những người nghĩ rằng
họ sẽ sống mãi mãi,
và quyền hành thuộc về họ muôn đời.

Bạn đừng bao giờ thất vọng
khi thấy người nào đó giàu lên,
khi thấy họ có nhiều của cải,
và được người người ca tụng.
Vì trong cái chết,
họ sẽ chẳng còn quyền lực nào.
Họ sẽ phải đi đến nơi vĩnh viễn,
không có một tia sáng.
Họ cứ tưởng rằng
mình sẽ chẳng bao giờ chết;
họ quên mất một điều
họ sẽ phải chết như mọi loài.
phỏng theo F. Cardenal.

14. Gia tài – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Người ta kể rằng ở miền rừng núi, dân Thượng có một lối bẫy khỉ rất đơn giản. Họ làm một cái lồng có nhiều lỗ nhỏ vừa tay con khỉ. Rồi họ buộc lồng vào một gốc cây và bỏ vào đó ít hạt bắp rang. Các chú khỉ ngửi mùi bắp thơm thì thò cả hai tay vào bốc. Lúc đó người bẫy khỉ ngồi xa xa cứ việc tiến lại bắt chú khỉ. Con khỉ cuống cuồng muốn thoát chạy nhưng không rút tay ra được. Lý do đơn giản là hai tay còn nắm chặt hai nắm hạt bắp.
Tác giả sách Giảng Viên đã suy gẫm sự đời một cách rất sâu lắng. Phản ánh một triết lý sống. Thực ra cuộc sống con người rất phức tạp và đa diện. Chúng ta nên quan sát và suy gẫm rất cẩn thận để tìm một hướng đi thích hợp. Trước khi chúng ta được mở mắt chào đời, vũ trụ và muôn loài đã có đó. Khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay, muôn sự vẫn cứ tiếp tục hiện hữu. Cuộc đời của mỗi người xuất hiện đó, rồi biến mất. Không có gì tồn tại mãi ở trần gian này. Giảng Viên đã dạy rằng: Hư không trên các sự hư không, hư không trên các sự hư không và mọi sự đều hư không ((Gv 1,2). Hư không diễn tả một khía cạnh vô thường của cuộc sống này. Có nghĩa là mọi sự hiện hữu như gió thoảng mây bay. Giảng Viên chia sẻ kinh nghiệm sinh hoạt cuộc sống hằng ngày và gẫm suy: Vì kẻ này làm việc vất vả trong sự khôn ngoan, hiểu biết và lo lắng, rồi phải để sự nghiệp lại cho người ở nhưng không, thì thật là hư không và tai hại lớn lao (Gv 2, 21).
Chúng ta không nhìn cuộc sống một cách bi quan hay tiêu cực. Vì sự sống là một hồng ân. Chuỗi ngày sống là một chuỗi ân sủng nối tiếp. Sống là hiện hữu. Mọi sự hiện hữu đều hữu ích. Sự sống cần được sinh hoa kết trái. Thể xác con người cần được lớn lên và phát triển mỗi ngày. Đời sống tâm linh cũng được bồi dưỡng để tiến tới sự hoàn hảo hơn. Sinh ra là khởi đầu. Bắt đầu bước vào một cuộc lữ hành trần thế. Cuộc lữ hành cần có hướng đi và cùng đích. Trong các loài thụ tạo, sứ mệnh của con người thật cao quí. Vì con người được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa trao ban cho con người có ý chí, lý trí và tự do. Với những khả năng ưu việt, con người có bổn phận và trách nhiệm xây dựng một xã hội giầu mạnh, thịnh đạt và an bình. Với khối óc và bàn tay lao động, con người góp phần làm cho thế giới ngày tốt đẹp hơn.
Con người được trao quyền làm chủ trái đất và cai quản mọi loài. Làm chủ chứ không làm nô lệ cho của cải vật chất. Của cải trần thế là phương tiện thiết yếu giúp con người đạt tới cứu cánh. Con người dùng những sản phẩm do mình tạo ra để phục vụ đời sống. Con người không thể lệ thuôc làm tôi tớ cho của cải vật chất. Chúng ta không thể vừa làm tôi Thiên Chúa và vừa làm tôi tiền của. Chúa Giêsu nhắc nhở: “Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu” (Lc 12, 15). Tất cả vũ trụ đều đang thay đổi, nay còn mai mất. Của cải không thể bảo đảm kéo dài đời sống hạnh phúc. Các phương tiện vật chất chỉ giúp cho cuộc sống con người được thanh thản, thoải mái và tiện lợi hơn. Biết rằng ai cũng cần có tiền bạc của cải để nâng cao mức sống và đáp ứng những nhu cầu cần thiết.
Câu truyện Phúc âm, Chúa Giêsu giúp chúng ta nhận rõ về giá trị về việc tìm kiếm và sử dụng của cải trần đời. Cần có thái độ chọn lựa đối với vật chất phù vân. Chúng ta còn có gia sản tinh thần quí báu hơn. Hãy dùng của cải hay hư nát để mua Nước Trời. Hãy dùng tiền bạc thế gian để đổi lấy bạn hữu. Hãy dùng của giả để đổi lấy của thật. Hãy tráo đổi giá trị trần thế để mua gia sản nước trời. Đổi tiền giả ra tiền thật. Đó là dùng tiền bạc hay của cải để bố thí hoặc làm việc bác ái, chúng ta sẽ tích trữ được khó báu trên trời. Chúa Giêsu đã dậy: Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu (Lc 16, 9).
Điều quan trọng là chúng ta phải đặt đúng giá trị của sự việc. Tiền bạc của cải không thể trở thành chủ nhân ông. Đừng qúa tham lam thu tích của cải phù hoa thế trần, nhưng luôn ý thức hướng tới mục đích sau cùng. Chúa Giêsu cảnh báo: ‘Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai? (Lc 12, 20). Người đời nghĩ rằng phải cố gắng làm việc để trở nên giầu có và có của ăn của để, phòng khi hữu sự. Điều này thật phải lẽ! Đối với các tín hữu, chúng ta được mời gọi không chỉ làm giầu gia sản vật chất nhưng quan trọng hơn là làm giầu trước mặt Chúa. Chúa Giêsu nói tiếp: Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy” (Lc 12, 21). Khi lao động làm việc hay kiếm sống bằng mồ hôi nước mắt, các thành qủa đều có giá trị giúp thăng hoa cuộc sống. Chúng ta không chỉ tích trữ gom góp tiền bạc để thụ hưởng riêng mình, nhưng sử dụng của cải để sinh hoa qủa cho tha nhân và xã hội. Biến đổi giá trị vật chất phàm hèn tới giá trị tinh thần cao siêu trước mặt Chúa.
Những lời huấn dụ trong Kinh Thánh xem ra khó áp dụng cuộc sống đời thường. Vì chúng ta thấy ai ai cũng đang mải mê lao động kiếm kế sinh nhai và vun đắp gia sản vật chất. Chúng ta nêu đủ lý do để biện minh cho sự tham lam và tích trữ của cải. Nói rằng nếu không cực lực lao động, lấy gì mà trả bills và các món nợ chồng chất. Chúng ta đầu tư mọi vốn liếng và khả năng để lo làm giầu mỗi ngày. Lòng tham vô đáy. Chúng ta chắt chiu từng đồng và thấy vẫn cần thiếu một xu. Chúng ta dần bị chìm đắm trong sự ham mê của cải vật chất. Thế là cuộc sống kéo lôi vào sự kiếm tìm không ngừng nghỉ. Biết rằng lao động kiếm sống là tốt. Dành dụm tiền bạc để tiêu xài cũng tốt. Nhưng điều quan trọng hơn là chúng ta hãy biết làm giầu trước mặt Thiên Chúa qua việc sử dụng tiền bạc của cải đúng cách để sinh hoa kết trái đời này và đời sau.
Truyện kể có người giầu có kia chết, chôn chưa được ba ngày, một tên đạo tặc giữa đêm lén đào mả lên, lột hết vàng bạc trong mình kẻ chết, rồi lại vác búa đập bể đầu, bể miệng. Sao lại thù hằn dữ vậy? Không, chỉ vì khi chôn, người ta cho ông ngậm viên ngọc quí đó thôi. Giầu có sống không yên, chết cũng chẳng yên.
Lợi lộc gì chứ khi chúng ta chỉ biết cắm đầu lo làm giầu sở hữu của cải vật chất. Hãy ngước nhìn lên và nhắm hướng về cùng đích. Cuộc đời của chúng ta có những gia trị cao quí hơn nhiều. Vì sự sống của chúng ta được chuộc lại bởi giá Máu châu báu của Chúa Giêsu. Thánh Phaolô diễn tả: Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa (Col 3, 1). Quê hương đích thực của chúng ta là trời cao. Tại sao chúng ta xả thân miệt mài thu tích của cải dưới đất nơi mối mọt rúc rỉa? Hãy tìm kiếm những sự cao siêu hơn: Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất (Col 3, 2).
Thánh Phaolô đã từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa. Ngài đã trở thành con người mới hoàn toàn. Sống phó thác và tin tưởng vào Đấng tạo thành vũ trụ. Phaolô lên tiếng: Anh em chớ nói dối với nhau; anh em hãy lột bỏ người cũ cùng các việc làm của nó, và mặc lấy người mới, con người được đổi mới theo hình ảnh của Đấng đã tạo thành nó (Col 3, 9-10). Theo gương thánh Phaolô, tuy chúng ta còn khoảng cách rất xa trên con đường trọn lành. Mỗi người chúng ta có thể khởi đầu từ hôm nay để chọn lựa một thái độ và thực hành sống lời Chúa cách tích cực hơn.
Lạy Chúa, chúng con xin chọn Chúa làm gia nghiệp đời chúng con. Tiên vàn chúng ta hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và mọi sự Chúa sẽ ban thêm. Có Chúa, chúng con sẽ có tất cả.

15. Ông phú hộ ngốc
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Bài Tin Mừng kể lại: Một hôm Chúa Giêsu đang giảng dạy trong hội đường thì có một thanh niên lên tiếng xin Chúa giải quyết giúp vụ tranh chấp gia tài của anh em họ. Người Do Thái vẫn có thói quen đem trình mọi vấn đề rắc rối cho vị đạo trưởng như vậy. Chính luật Mô-sê cũng không phân biệt rõ luật hình, luật sự, luật đạo, luật đời hay luân lý. Cho nên, một vị đạo trưởng là phải “nghề”, phải “sành” mọi thứ luật để giải quyết cho dân. Trường hợp người thanh niên này, có lẽ anh đã tranh đấu đòi người anh trả lại quyền lợi một phần ba gia tài như luật định mà người anh đã tham lam ngốn hết tất cả, không chia chác gì cho ai, nên mới có chuyện.
Nhưng Chúa Giêsu đã không can thiệp vào sự việc đó, Chúa muốn cho thấy ranh giới giữa các thứ luật. Vấn đề chia chác của cải không thuộc lãnh vực của Chúa, không thuộc sứ mệnh của Ngài mà thuộc về lãnh vực xã hội. Nhưng nhân dịp này Chúa dạy mọi người một bài học: đừng sống tham lam, đừng ích kỷ. Để dễ hiểu, Chúa đưa ra một dụ ngôn về một người giàu có kia, suốt đời cắm cúi lo thu tích hoa mầu, của cải, dù là cách lương thiện, nhưng đời sống lại là hưởng thụ ích kỷ, sản xuất hoa mầu được nhiều, nhưng thu cất hết vào kho lẫm, chỉ lo cho vinh thân phì da. Trước mặt Thiên Chúa, Tin Mừng nói, đó là kẻ ngốc, tức là kẻ dại dột. Dại dột ở chỗ ông ta chỉ để ý đến vật chất mà không chú ý đến linh hồn, chỉ để ý vào của cải đời này mà quên mất đời sau, giàu ở đời này nhưng nghèo ở đời sau thì ích gì? đời này chỉ là tạm bợ, đời sau mới trường tồn. Kẻ giàu sụ kia đã chết bất ngờ, mất cả của lại mất cả linh hồn. Như vậy, có của không có nghĩa là có hạnh phúc. Hạnh phúc nước trời phải được mua sắm bằng của cải thiêng liêng là việc lành phúc đức, bác ái, chia sẻ.
Sau đây chúng ta tìm hiểu ít điều về lòng tham: lòng tham là thế nào và tai hại ra sao? Chúng ta phải có thái độ thế nào đối với của cải vật chất?
Chúng ta vẫn thường nghe nói: “Lòng tham vô đáy”, “tham thực cực thân”, “lòng tham là một cái túi thủng, mà những người sống nửa cuộc đời hay vướng mắc, bởi vì tuổi trẻ thì hay phung phí, còn tuổi già thì hay hà tiện”. Kẻ tham lam không bao giờ bằng lòng với số phận hiện có của mình, những gì họ có vẫn còn là ít, là nhỏ, là thiếu, cho nên, đạt được mục tiêu này, họ lại thấy có bao nhiêu điều khác phải với tới, họ không bao giờ lường đúng được giá trị thật của họ, họ luôn bị thúc đẩy phải đi kiếm thêm cho đầy túi, đầy bị hay đầy két sắt. Khi chúng ta tham lam, chúng ta sẽ mắc ngay phải một tính xấu là ghen ghét. Người khác có hơn chúng ta cái gì, chúng ta không chịu được, chúng ta thèm khát những thứ người ta có mà chúng ta chưa có. Từ chỗ thèm khát đến ganh tị ghen ghét, từ ghen ghét đến hận thù và tàn hại nhau. Kinh nghiệm đau thương cho thấy lòng tham lam là mối cực lòng nhất trong đời, nó không đem lại hạnh phúc cho ai cả. Có tiền có của thì lại lo lắng bảo vệ, lo lắng mất mát. Có tiền của tất nhiên sẽ xoay trở làm sao cho có sức mạnh, có uy quyền. Đã có mạnh lại muốn mạnh hơn, đã có quyền lại muốn có nhiều quyền hơn. Nếu mình có quyền, tất nhiên là bớt quyền của người khác, ít là hạn chế, giới hạn quyền lợi của người anh em. Nếu hạnh phúc đến trên căn bản như thế, thì hạnh phúc chỉ đến với một số người, và sẽ không bao giờ đến với một số người khác.
Đàng khác, lòng tham còn tạo ra nhiều bất công xáo trộn, vì người tham sẽ tìm mọi cách để vơ vét của người khác, bất kể phương tiện tốt xấu, mọi phương tiện đều tốt cho lòng tham vô đáy, trong khi đó lại khép chặt lòng trước bất cứ ai, họ không yêu thương người khác, mà cũng chẳng yêu thương được chính mình, vì chính họ cũng phải ti tiện, dành dụm, không dám tiêu pha, chỉ mong sao cho có thật nhiều, bảo đảm cho đời mình được an toàn, được kéo dài. Và như vậy họ giết chết nhân đức phó thác vào Thiên Chúa quan phòng. Đối với họ, tiền của sẽ thay thế Chúa quan phòng cho họ, từ đó, ma quỷ sẽ chen vào, sẽ thổi phồng lòng tham lên nữa, và sẽ khống chế, bắt họ phải làm những tội ác khác nữa.
Chúng ta thấy lòng tham thật nguy hiểm và tai hại, nó tạo ra ghen tương, đố kỵ, xung đột, mọi cuộc chiến tranh lớn nhỏ đều bắt đầu từ đó, mọi đau khổ cũng có thể bắt nguồn từ đó, cho nên, vấn đề là làm sao loại bỏ được lòng tham. Nhưng chúng ta hãy nhớ rằng: lòng tham đã trở nên một thành phần của con người, ai cũng có lòng tham, không nhiều thì ít, do đó, loại bỏ được lòng tham không phải là dễ, tức là khó chứ không phải là không loại bỏ được. Chúng ta có thể loại bỏ được và chúng ta phải loại bỏ bằng cách ý thức rõ ràng về của cải vật chất, đó là lời Chúa dạy bảo hôm nay. Chúa nhắc nhở chúng ta phải luôn ý thức tính cách mong manh, tạm bợ, nay còn mai mất của mọi của cải trần gian, tất cả chỉ là phù vân, là mây khói, nếu chúng ta không biết hướng chúng lên cao, không biết dùng chúng để đạt đến mục đích sau cùng của mình. Biết bao người đã kinh nghiệm tính cách phù vân, tương đối của tiền bạc, danh vọng, hưởng thụ… và họ đã bộc lộ ra qua những câu văn, những lời thơ để nhắc nhở mọi người, như “Của phù vân không chân hay chạy, sớm hợp tối tan”, “Ôi nhân sinh là thế ấy, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao. Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào, vừa tỉnh giấc nồi kê chưa chín”, “Của trời trời lại lấy đi, giương hai mắt ếch làm chi được trời”, “Của thiên trả địa”, “Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì”, “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”, “Cái vòng danh lợi cong cong, kẻ hòng ra khỏi người mong buớc vào”.
Tóm lại, một trong những vấn đề quan trọng và căn bản nhất của đời sống là chọn Chúa hay chọn vật chất, của cải? Trên lý thuyết, dĩ nhiên ai cũng chọn Chúa, nhưng trong thực tế có thực sự như thế không? Xin đề nghị một điều, đó là hãy làm việc thiện. Có tiền của nhiều hay ít, chúng ta hãy giàu lòng, một đàng sẽ giải phóng chúng ta khỏi tính tham lam, ích kỷ, đàng khác, lại tích lũy công phúc cho đời sau, nghĩa là sống bác ái, chia sẻ sẽ giúp chúng ta thấy mình hữu ích cho nhân quần xã hội, mà còn là một cách chúng ta ký thác công phúc vào ngân hàng trên trời.

16. Tiền bạc và giàu sang
Có người đã kết án: Kitô giáo là đạo của những người giàu và Giáo Hội thì chạy theo tư bản! Vậy đâu là thái độ của Chúa Giêsu và lập trường của Giáo Hội đứng trước vấn đề của cải và giàu sang? Như chúng ta đã biết Chúa Giêsu muốn sống thật nghèo hèn. Sinh ra không nơi ẩn trú, lớn lên không chốn tựa đầu và chết đi một cách trơ trụi trên thập giá, thế nhưng, Ngài cũng đã chấp nhận quyền tư hữu.
Thực vậy, trong 10 giới răn được công bố có giới răn thứ 7 và thứ 10 cấm chúng ta không được ước ao, lấy hay giữ của người khác một cách trái phép. Với chàng thanh niên giàu có, trước hết Ngài đã phán: Hãy tuân giữ những giới luật. Sau đó, Ngài thêm: Nếu con muốn trở nên trọn lành, hãy về bán tất cả những gì con có, phân phát cho người nghèo, rồi hãy đến mà theo Ta.
Chúa Giêsu luôn tỏ ra thương xót những kẻ nghèo hèn và cùng khốn, tuy nhiên Ngài cũng có những người giàu ở bên cạnh, chẳng hạn như Giakêu, như Giuse Arimathia. Ngài cũng đã vào nhà ông Simon, một người biệt phái giàu có.
Tuy nhiên Ngài đã cảnh giác: Sự giàu sang là một nguy hiểm cho phần rỗi linh hồn và người giàu có khó mà vào được Nước Trời. Ngài nói rằng khó chứ không bảo rằng không có thể. Theo Ngài, sự giàu có, hay nói đúng hơn lòng đam mê tiền bạc là như một bụi gai, bót nghẹt hạt giống lời Chúa được gieo trồng trong tâm hồn chúng ta.
Ngài không kết án sự giàu sang chính đáng, được tạo nên bởi mồ hôi nước mắt, bởi công lao vất vả của chúng ta. Điều Ngài kết án đó là lòng đam mê tiền bạc một cách mù quáng, đến nỗi quên mất cả Thiên Chúa và linh hồn của mình. Chính trong chiều hướng này mà Ngài đã nói: Khốn cho những kẻ giàu sang, vì không ai có thể vừa làm tôi Thiên Chúa, lại vừa làm tôi tiền bạc được. Ngài cũng căn dặn chúng ta về việc sử dụng tiền của: Hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn hữu. Đồng thời Ngài đặc biệt nhắc bảo chúng ta hãy thu tích cho mình một kho tàng thiêng liêng, trộm cắp không thể lấy đi và mối mọt không thể gậm nhấm… bởi vì được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi chi. Và như thế dưới mắt Chúa Giêsu thì phần rỗi linh hồn quý trọng hơn mọi của cải vật chất.
Tiếp đến là Giáo Hội, noi gương Thầy chí thánh, Giáo Hội không kết án của cải tiền bạc nhưng kết án thói xa xỉ phung phá, lòng đam mê tiền bạc quá đáng, cũng như sự keo kiệt và cõi lòng chai đá. Theo giáo huấn của Giáo Hội, thì Thiên Chúa là chủ mọi tạo vật. Vì thế, con người sẽ phạm tội nếu không sử dụng của cải trong tinh thần công bằng và bác ái. Giáo Hội không ngừng khơi dậy một tình thương: Hỡi người người giàu hãy than khóc vì những tại hoạ đổ xuống, của cải sẽ mục nát, vàng bạc sẽ bị han rỉ, tiền công của thợ gặt mà các ngươi đã gian lận đang kêu lên và tiếng kêu ấy đã thấu tới Chúa. Các thánh giáo phụ cũng đã dùng những lời lẽ gay gắt để chỉ trích những kẻ cho vay nặng lãi và những kẻ bóc lột người nghèo. Rồi các Đức Giáo Hoàng gần đây không ngừng cổ võ cho một sự công bằng xã hội. Đức Thánh Cha Léo XIII trong thông điệp “Tân sự” đã bênh vực thợ thuyền và xác định những quyền lợi của giới công nhân. Tiếp đến, các Đức Thánh Cha Piô XI, Piô XII, Gioan XXIII, Phaolô VI cũng đi vào con đường đó, các ngài lên tiếng phải cải tạo xã hội dựa theo công bằng và tình thương Kitô giáo. Như thế chúng ta thấy cả Chúa Giêsu lẫn Giáo Hội đều không phải là những người chạy theo tư bản. Mặc dù bênh vực quyền tư hữu, nhưng luôn kết án lòng đam mê tiền bạc, hoang phí tiền của và cư xử bất công đối với những người nghèo. Vì thế, hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa trước đã. Tiền bạc chỉ là phương tiện, chứ không phải là mục đích cuối cùng của đời sống chúng ta.

17. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG
Từ khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới ít chú ý đến chính trị. Mọi nỗ lực đều tập trung vào phát triển kinh tế. Xưa kia, nước mạnh dùng sức mạnh quân sự để áp chế những nước yếu. Ngày nay những nước giàu dùng sức mạnh kinh tế để chèn ép những nước nghèo. Kinh tế trở thành một sức mạnh. Tiền bạc trở thành một vũ khí lợi hại. Chính vì thế ai cũng mong làm ăn phát đạt để trở nên giàu có. Thế mà Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay dường như đi ngược chiều với xã hội. Phải chăng Chúa chống lại sự phát triển, sự sung túc thịnh vượng của xã hội?
Nếu đọc kỹ Lời Chúa và quan sát đời sống của Chúa Giêsu, ta sẽ thấy.
1) Chúa Giêsu xuống trần gian không nhằm giải quyết vấn đề kinh tế.
Khi người thanh niên đến xin Người phân xử vụ chia gia tài, Người đã trả lời: “Ai đặt ta làm quan án cho các ngươi?” Người đến không phải để giải quyết các vấn đề kinh tế. Việc phân chia tài sản là việc giữa con người với nhau.
Sau khi chứng kiến phép lạ bánh hoá ra nhiều, dân chúng muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua. Nhưng Người đã lánh đi nơi khác. Người muốn cho con người thoát ra khỏi lãnh vực vật chất trong cuộc sống.
2) Chúa Giêsu muốn nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tuy không quan tâm đến vấn đề kinh tế, nhưng Chúa Giêsu không chống lại việc làm giàu, tích lũy của cải. Người chỉ muốn cho việc tích lũy của cải có một ý nghĩa.
Khi nói với đám đông: “Anh em phải coi chừng, phải tránh xa mọi thứ tham lam, vì dẫu có dư giả thì mạng sống con người cũng không nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”, Chúa Giêsu muốn cho ta hiểu: đời sống đâu chỉ gói gọn trong vấn đề cơm, áo, gạo, tiền. Đời sống còn là cái gì cao hơn thế, đẹp hơn thế.
Triết học phân chia con người ra hai phạm trù: “avoir” (có) và “être” (là). Tôi có gì thuộc phạm vi khối lượng. Tôi là gì thuộc phạm vi chất lượng. Những gì tôi có như của cải, quần áo, chỉ là những gì ở ngoài, không làm thành giá trị con người. Những gì tôi là mới tạo thành bản thân tôi, gắn bó thân thiết với tôi, tạo thành giá trị đời tôi.
Khối lượng không quí hơn chất lượng. Đừng lầm tưởng rằng ý nghĩa cuộc đời sẽ tăng theo khối lượng của cải. Chúa Giêsu muốn đời nghèo khổ, không của cải, nhưng không phải vì thế mà cuộc sống của Người không có giá trị. Giuđa chết khi túi đầy tiền bạc, nhưng không phải vì thế mà ông có giá trị hơn người khác.
Truyện kể: xưa có nhà hiền triết sống rất đơn sơ. Ông không cần quần áo, nhà cửa. Nhà của ông là một chiếc thùng phuy. Một hôm, vị hoàng đế đến thăm hỏi xem ông có cần gì không. Ông trả lời: “Tôi chỉ cần nhà vua đứng tránh ra, kẻo che mất ánh mặt trời của tôi”. Trong hai người ấy, ai cao quý hơn, ai đáng kính trọng hơn?
Chất lượng cuộc sống làm con người sống nên người hơn, cao quý hơn, sung mãn nhân cách hơn. Của cải chỉ có ý nghĩa khi giúp con người đạt được chất lượng cuộc sống. Của cải chỉ là phương tiện. Đừng biến phương tiện thành mục đích.
3) Chúa Giêsu mở tầm nhìn vô biên
Ông phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay đã coi của cải là mục đích. Có được của cải rồi, ông không còn biết làm gì hơn là hưởng thụ. Tầm nhìn của ông quá hạn hẹp. Chỉ biết có vật chất. Chỉ nhìn thấy đời này. Lời Chúa phán: “Hỡi đồ ngốc! Nội đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sửa đó sẽ về tay ai” đã mở tầm nhìn ra vô biên. Người ta đâu sống mãi mà hưởng thụ. Khi chết thì của cải dù nhiều cũng tan theo mây khói.
Nhưng chưa hết, chết rồi người ta còn phải ra trước toà Chúa mà chịu phán xét. Chúa không đánh con người theo khối lượng những gì họ có, nhưng đánh giá theo chất lượng của đời sống. Theo cách đánh giá của Chúa, những gì ta thu tích cho bản thân sẽ hết, sẽ qua đi. Nhưng những gì ta cho đi sẽ tồn tại.
Lời Chúa hôm nay dạy ta đừng hạ thấp đời sống con người trong một tầm nhìn hạn hẹp vào việc thu tích của cải cho riêng mình. Nhưng hay nâng cao cuộc sống, mở rộng tầm nhìn để biết tích trữ những kho tàng nơi Thiên Chúa, kho tàng ấy sẽ không bao giờ mất được.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Tiền bạc cần thiết cho cuộc sống, nhưng tiền bạc cũng nguy hiểm. Theo bạn đâu là những nguy hiểm do tiền bạc?
2- Tham nhũng, hối lộ đang trở thành phổ biến, người tín hữu phải có thái độ nào đối với tiền bạc?
3- Bạn nghĩ gì về Lời Chúa: “Hãy dùng tiền của phi nghĩa mà mua lấy bạn hữu trên trời”?
4- Tiền bạc có phải là tất cả? Hay đời sống con người còn cần nhiều thứ khác cao quý hơn?

18. Bấp bênh – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP
Mọi người đang chóng mặt với giá cổ phần trồi sụt thất thường. Sức mạnh nền kinh tế thể hiện rõ nét qua sinh hoạt thị trường. Mức phát triển trì trệ hôm nay đã làm cho bao người thất nghiệp. Người ta đổ xô đi tìm những phương tiện sinh sống. Bao nhiêu tay tư bản đang thi đua khám phá những cách làm giàu nhanh nhất. Nhưng cuộc chạy đua đó đang hướng về đâu?
NHỮNG CÁCH LÀM GIÀU.
Cuộc chạy đua đó đang mang lại cho cuộc sống mọi thứ tiện nghi và bảo đảm. Con người ngày càng hạnh phúc và tin tưởng vào năng lực của mình. Chính của cải đã khiến họ có thể an tâm tọa hưởng tất cả những nguồn lợi thiên nhiên. Giữa cuộc sống dư thừa đó, con người dễ quên tất cả. Chỉ còn một mình với những phương tiện dồi dào đáp ứng những đòi hỏi ích kỷ của mình. Đó chính là tâm trạng của nhà phú hộ trong Tin Mừng hôm nay.
Nhà phú hộ tràn ngập niềm vui vì “ruộng nương sinh nhiều hoa lợi.” (Lc 12:16) Nhìn về tương lai, ông thấy rất yên tâm, vì “bây giờ ê hề của cải.” (Lc 12:19) Nhưng ông vẫn phải tính toán để bảo đảm cho những của cải khỏi hư hao vì giông bão, mối mọt, hay trộm cướp. Oâng tự nhủ: “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó.” (Lc 12:18) Lúc nào ông cũng chỉ có một quan tâm duy nhất về cái tôi của mình. Trên đỉnh cao danh vọng, ông thấy hoàn toàn tự mãn về sự nghiệp lớn lao của mình. Ông không cần chia sẻ với ai. Người nghèo hay cộng đồng nằm ngoài đối tượng phục vụ của ông. Thiên Chúa cũng bị gạt ra ngoài mọi ưu tư và cuộc sống của ông.
Trong khi ông quả quyết “mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” (Lc 12:19), “Thiên Chúa bảo ông ta: ‘Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?’” Nhà phú hộ không suy nghĩ sâu xa. Oâng tưởng cái tôi là nền tảng vững chắc nhất cho hạnh phúc. Tất cả hạnh phúc hôm nay đều xoay quanh và dựa trên cái tôi của ông. Nhưng chính cái tôi đó lại không có mấu cứ, làm sao có thể làm nền tảng cho hạnh phúc? Hạnh phúc chỉ lànhững dong dêu trôi nổi trên dòng sông dật dờ. Đúng là dã tràng xe cát biển đông. Khác với ông Gióp, ông không bị mất của cải. Oâng chỉ bị đòi mạng. Khi bị đe dọa trầm trọng như thế, ông giật mình. Ông không thể không suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời và giá trị những thực tại trần gian. Tiền bạc, của cải là gì trước cái chết? Mạng sống chỉ có một. Của cải dư tràn cũng không thể sánh với mạng sống. Bởi đấy mất mạng, của cải trở thành vô nghĩa. Chính ông Côhelét đã cảm thấu được sự vô nghĩa đó khi thuật lại: “Có người đã đem hết khôn ngoan và hiểu biết mà làm việc vất vả mới thành công, rồi lại phải trao sự nghiệp của mình cho một người đã không vất vả gì hết. Điều ấy cũng chỉ là phù vân và lại là đại họa.” (Gv 2:21) Thật là cái vòng luẩn quẩn! Bao nhiêu tim óc đầu tư tìm kiếm của cải. Bao nhiêu thời giờ và công sức xây dựng cơ ngơi, sự nghiệp. Tất cả có thể biến đi trong nháy mắt hay phải trao lại cho người khác. Nhìn lại cuộc đời, ông Côhelét phải thốt lên: “Trọn cuộc đời chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Điều ấy cũng chỉ là phù vân!”(Gv 2:23) Nghĩ cho cùng, “tất cả chỉ là phù vân.” (Gv 1:2) Nếu thế, tại sao con người phải bon chen dành giựt?
Của cải vật chất không thể mang lại ý nghĩa giá trị đích thực cho con người. Chính Đức Giêsu đã vạch trần sự thật ấy: “Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.” (Lc 12:21) Cái tôi là trở ngại lớn nhất cho mọi thực tại hướng về Thiên Chúa. Muốn “làm giàu trước mặt Thiên Chúa” phải có một cái nhìn mới lạ và phải vận dụng những phương tiện khác hẳn với lối làm giàu bình thường. Quả thế, Đức Giêsu đã mách nước: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu,” (Lc 16:9) tức là Nước Thiên Chúa. Càng có nhiều bạn bè như thế, càng tích trữ được một kho tàng lớn lao trên trời. Bạn bè đó chính là người nghèo.
Trong khi bao người nghèo rên siết, ôâng phú hộ chỉ lo “ăn uống vui chơi cho đã!” Tiền bạc là một cám dỗ lớn lao. Oâng đã không chống cưỡng nổi ma lực của đồng tiền. Muốn làm môn đệ Chúa Kitô, “phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.” (Lc 12:15) Chỉ có một bảo đảm duy nhất là “Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta.” (Cl 3:4) Kho tàng của chúng ta đang được ẩn giấu nơi Đức Kitô. Đúng hơn, “sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa.” (Cl 3:3) Chúng ta phải đầu tư bao nhiêu thời giờ và tim óc để có thể tạo được một sự sống đúng nghĩa như thế?
Đầu tư đó bắt đầu bằng nỗ lực “mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa, để được ơn thông hiểu.” (Cl 3:10) Con người cũ đầy những giới hạn, nên chúng ta không thấy hết vấn đề. Một khi đã tìm lại được hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình, chúng ta có thể dễ dàng phá tung những giới hạn trần gian để thấy “hình ảnh Đấng Tạo Hóa” nơi anh em. Tất cả giới hạn về chủng tộc, văn hóa, ngôn ngữ, đẳng cấp trở thành vô nghĩa. Trong Đức Kitô “không còn phải phân biệt Hi lạp hay Do thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ.” (Cl 3:11) Thật là tuyệt vời! Đức Kitô đã trở thành mối giây liên kết tất cả loài người.
Nhìn thấy đầu giây mối nhợ đó, ta sẽ thấy bản thân mình không còn là chủ thể tối cao và đối tượng phục vụ nữa. Trái lại, những người anh em nghèo khổ mới là chính Đức Kitô cần phải được chia sẻ. Ta sẽ không “thu tích của cải cho mình” nữa, nhưng cho Đức Kitô và các chi thể của Người. Phục vụ một đối tượng lớn lao như thế tức là đang “làm giàu trước mặt Thiên Chúa” vậy. Kiên nhẫn đầu tư theo lối này, ta sẽ “sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá.” (Lc 12:33) Phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có thể kiếm được những túi tiền và kho tàng đó. Tóm lại, đó là một cuộc hi sinh vô bờ bến có khi mất cả mạng sống. Thế nhưng, phàm ai từ bỏ mọi sự “vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp.” (Mt 19:29) Chính vì mối lợi lớn lao đó, chúng ta nên tự kiểm hằng ngày về mức độ từ bỏ của mình. Nếu không, chúng ta sẽ hụt hẫng khi giáp mặt với những thực tại thiên giới.
THẾ GIỚI HÔM NAY.
Bước hụt hẫng đó chính người phú hộ đã kinh nghiệm khi rơi xuống “âm phủ, ông ta ngước mắt lên thấy Lagiarô trong lòng tổ phụ.” (Lc 16:23) Nơi trần thế, ông ngất ngưởng trên cao với những “lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình.” (Lc 16:19) Oâng chỉ lo “thu tích của cải cho mình” và hưởng thụ một mình. Người nghèo Ladarô không lọt vào mắt xanh của ông. Nhưng từ dưới âm phủ cũng ánh mắt đó ngước lên tìm một chút lòng thương xót từ nơi tổ phụ Abraham và Ladarô.
Ngày nay trên thế giới biết bao nhiêu phú hộ đang sống phè phỡn trên 80% tài nguyên thế giới giữa một đại dương nghèo đói chỉ chiếm khoảng 20% của cải thế giới mà thôi. Giữa đại dương nghèo đói đó, đa số nhân loại không đủ cơm ăn áo mặc, không đủ thuốc chữa trị những bệnh nguy hiểm như liệt kháng, ung thư, đau tim v.v Họ là những người thấp cổ bé họng, bị gạt ra ngoài lề xã hội, bị đàn áp bất công. Họ không có tiếng nói. Bởi vậy, nhân dịp nhóm G8 họp Hội Nghị Thượng Đỉnh tại Genova, Đức Gioan Phaolô II đã kêu gọi: “Các Siêu cường, các Vị quyền hành trên thế giới … hãy nghĩ đến các nước nghèo, hãy lắng nghe tiếng kêu than của các người nghèo.” (VietCatholic 28/7/2001) Hãy chấm dứt tình trạng “thu tích của cải cho mình.” Bao lâu còn nghèo đói, thế giới không thể hòa bình. Thế giới không thiếu lương thực, nhưng thiếu những vòng tay mở rộng. Bất công tràn lan vì người giàu ôm chặt tài sản và chỉ lo thỏa mãn những nhu cầu giả tạo, mặc cho những người nghèo phấn đấu một mình với cơn nghèo đói, rách nát. Bằng chứng, “ các vị lãnh đạo các Siêu Cường nhắc lại cam đoan dùng 0.7% lợi tức cũa mức sản xuất để dành cho việc cộng tác phát triển các dân tộc. Nhưng với thời gian qua đi, không một quốc gia ‘ân nhân’ nào đóng góp vào quĩ, trừ mấy nước miền Bắc Aâu. Thậm chí, các Siêu Cường (Pháp, Anh, Ý, Canada) đã giảm bớt số viện trợ cho các quốc gia nghèo ở miền Nam Bán Cầu.” (VietCatholic 28/7/2001) Đúng là đánh trống bỏ dùi! Mới đây tại Genova lại hứa viện trợ 1 tỉ 200 ngàn Mỹ kim cho Phi châu chũa trị bệnh liệt kháng và các chứng bệnh thông thường. Số tiền đó chỉ bằïng ngân khoản Hoa Kỳ dành mỗi năm cho việc chế tạo hỏa tiễn chống hỏa tiễn mà thôi. (xc. VietCatholic 28/7/2001) Chẳng biết bao giờ mới thực hiện lời hứa đó. Các phú hộ vẫn chễm chệ trên những bàn tiệc thịnh soạn, không thèm thí những miếng bánh vụn cho người nghèo.
Nếu ngày xưa người phú hộ sớm nhận ra sự liên đới và trách nhiệm đối với Ladarô, tình trạng không đến nỗi quá cách biệt sau cái chết như vậy. Thực ra, ông đã không hề đối xử bất công với người nghèo Ladarô. Oâng không sai đầy tớ đánh đập hay xua chó cắn Ladarô. Thực tế, ông chỉ hưởng những của cải của ông, chứ không xâm phạm quyền lợi ai. Nhưng ông đã giữ một khoảng cách quá xa với Ladarô. Oâng chủ trương “sống chết mặc bay”. Tội ông ở chỗ đó!
Ngày nay, để xóa bỏ khoảng cách giữa giàu nghèo, không thể theo chủ trương “đấu tranh giai cấp”. Nhưng cần phải kêu gọi tình liên đới nhân loại. Tình liên đới là một giá trị lớn lao trong tiến trình toàn cầu hóa. Không cảm thấy liên đới, người giàu không bao giờ thấy được bổn phận đối với người nghèo. Sở dĩ ï có liên đới với nhau, vì họ thuộc về một gia đình duy nhất. Theo ĐHY Sodano, “ơn gọi nguyên thủy của nhân loại là xây dựng một gia đình duy nhất.” (VietCatholic 28/7/2001) Kitô giáo là một điển hình. Tất cả các Kitô hữu đích danh đều gắng sức xây dựng Giáo hội thành một gia đình, trong đó Thiên Chúa là Cha và mọi người đều là anh em với nhau. Chính vì thế, “Kitô giáo là một tôn giáo có tính toàn cầu,” (ĐHY Sodano, VietCatholic 28/7/2001) bắt đầu từ tình liên đới giữa những người cùng chia sẻ một niềm tin và một tình yêu. Từ đó, người Kitô hữu sẽ nhận thấy trách nhiệm của mình đối với việc toàn cầu hóa tình liên đới. Ngày nay, nhân loại không còn lựa chọn nào khác. Liên đới hay là chết! Thời gian cấp bách lắm rồi! Trong công cuộc này, giáo dân là những đội quân tiền phong. Họ có nhiệm vụ phá tan những tảng băng giá trong lòng người và khơi dậy những ngọn lửa thương yêu, đoàn kết, liên đới.
Khi cố gắng liên đới với anh em, chúng ta đang hoàn thành ơn gọi của mình. Chính ơn gọi này giúp chúng ta nhận ra địa vị cao cả của mình trong vũ trụ và giá trị đích thực của những thực tại trần thế. Ý thức này sẽ đẩy xa mọi đam mê ích kỷ và giúp con người tìm lại được chính mình. Nhưng muốn liên đới với anh em, chúng ta phải sẵn sàng từ bỏ cái tôi. Liều thân vì anh em là liều mạng vì Thiên Chúa. Đức Giêsu nhắn nhủ: “Ai liều mất mạng sống vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Lc 9:24) Nhưng ai có thể đạt tới mức hi sinh lớn lao đó, nếu không phải là những người đang sống giữa những thực tại trần gian mà lòng vẫn “tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3:1) Chỉ những người siêu thoát như thế mới có thể hiệp nhất tất cả trong Đức Kitô. Nhờ sức mạnh Thánh Linh, giữa thế giới đầy xáo trộn và thù nghịch hôm nay, họ vẫn có thể làm chứng cho mọi người thấy: “chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người.” (Cl 3:11)

19. Làm giầu trước Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Đọc câu chuyện dụ ngôn về ‘nhà phú hộ lo thu tích’, tôi trộm nghĩ: Đức Giêsu đúng là một hiền triết thứ thiệt. Từ cổ chí kim các nhà hiền triết đều dạy các điều tương tự như thế. Không ai còn lạ gì với tư tưởng uyên thâm: mọi của cải vật chất chỉ là phù phiếm, có những của cải khác còn đáng giá hơn nhiều; “Phù vân, mọi sự chỉ là phù vân!” (Gv 1:2 và xem thêm 1:16-18)… Tư tưởng này biện minh cho thái độ khinh chê giàu sang phú quí được nhiều người đề cao, hầu có được tâm hồn thanh thoát chuyên chăm vào các việc khác cao thượng hơn, như thu thập kiến thức, sống lịch lãm quân tử, khổ luyện đắc đạo chân tu… hầu lưu danh lâu dài cho hậu thế. Tuy nhiên như tất cả chúng ta đều biết, Đức Giêsu đâu có tới trần gian để chỉ dạy một triết lý sống; người không cần làm điều đó, vì nó chẳng có gì là mới mẻ cả, biết bao người khác cũng đã từng dạy môn sinh của mình như thế! Vì thế tôi rất mừng vì: trong một dịp khác Người đã từ chối trở thành người cầm cân nảy mực cho công lý: “Ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?” (Lc 12:14), cho dầu vào thời đại của Người, có lẽ xã hội đang rất cần những con người như thế (thử nghĩ tới những bóc lột, áp chế của đế quốc Rô-ma thống trị… , hay chế độ nô lệ bất nhân và hà khắc rất phổ biến). Không, Đức Giêsu không muốn được ai coi mình là thầy dạy luân lý; vì sứ mệnh của Người hoàn toàn khác!
Cái ‘triết lý’ xem ra Người muốn diễn đạt qua bài du ngôn dứt khoát phải theo định hướng Tin Mừng: Người muốn dẫn đưa con người tiến vào một tương quan đích thực với Thiên Chúa là Cha của Người. Theo Người: bất cứ cái gì cản trở mối tương quan đó đều phải dứt khoát loại bỏ. Dầu không sử dụng thành ngữ ‘làm nghèo trước mặt Thiên Chúa’, nhưng rõ ràng Đức Giêsu muốn ám chỉ điều đó khi Người nói: “Kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó”. Trong nội dung này thì ‘của cải’ ở đây phải bao gồm luôn cả kiến thức, thanh danh, đạo đức… được các triết lý sống khác thường đề cao. Ngoài việc nhắc nhở phải tránh lòng tham, bài học Đức Giêsu dạy còn liên quan tới một điều khác nữa tích cực hơn: làm cách nào để trở nên ‘giầu / nghèotrước mặt Thiên Chúa. Rất tiếc là bài Tin Mừng Chúa Nhật XVIII dừng lại ở câu 21; lẽ ra nó còn phải được tiếp tục tới đoạn sau, là mục tiêu chính của bài huấn dụ: sống hoàn toàn tin tưởng phó thác nơi Thiên Chúa là Cha. Qua hình ảnh người phú hộ lo thu tích, nội dung ‘làm nghèo trước mặt Thiên Chúa’ đã lộ rõ; “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng người, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?… vì không lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”.
Thế nhưng thế nào là ‘làm giầu’ trước mặt Thiên Chúa thì đoạn văn trên vẫn chưa làm sáng tỏ đủ? Ai có thể được coi là ‘giầu có’ trước mặt Thiên Chúa, phải chăng là các bậc tài cao học rộng, những người đạo đức thánh thiện, hay các vị chân tu đạo sĩ…? Đối với một thương nhân ‘giầu’ thì ‘làm giầu’ sẽ có nghĩa là làm ra lắm tiền nhiều của; đối với một nghệ nhân thì giầu là phát triển tài năng thiên phú; đối với nhà thông thái thì lại là trau dồi học thức uyên thâm v.v…; còn thì ‘làm giầu trước mặt Chúa’ thì cũng tùy thuộc rất nhiều vào quan niệm ta có về Thiên Chúa. Cựu Ước đề cao hình ảnh một Thiên Chúa quyền phép, thánh thiện, khôn ngoan, công minh; và thế là ta có các mẫu người ‘giầu trước mặt Thiên Chúa’ như Mô-sê hùng mạnh, như Ê-li-a thánh thiện, như Sa-lô-môn khôn ngoan, như Da-vít công minh…; vậy thì, Đức Giêsu khi kêu gọi ta ‘lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa’, Người đang có trong đầu hình ảnh nào về Thiên Chúa? Thiên Chúa mà Đức Giêsu phác họa chắc chắn không thiếu các nét trên vì Ngài bao gồn tất cả; tuy nhiên nét nổi bật và độc đáo nhất mà Cựu Ước chưa hề có, hoặc mới chỉ được các ngôn sứ phác thảo mờ mờ chưa rõ ràng đó là: Thiên Chúa nhân ái và đầy lòng xót thương, một Thiên Chúa cứu độ. Đây mới là nét chân dung trung thực nhất về Thiên Chúa mà Đức Kitô Giêsu, và chỉ duy nhất mình Người mà thôi, có thể vẽ lên. Đó đồng thời cũng là bản chất của ‘vương quốc’ giầu sang mà Người công bố và mời gọi chúng ta hết lòng chăm lo tìm kiếm cho bằng được (xem Lc 12:30).
Hiểu như thế: ‘làm giầu trước mặt Thiên Chúa’ theo cách nói của Đức Giêsu, còn cao xa hơn cả sống thánh thiện, khôn ngoan, công chính, làm phép lạ…, nó phải là nội dung trung thực nhất của đời sống Kitô hữu; đó chính là đón nhận lòng nhân ái xót thương vô điều kiện Thiên Chúa ban…, và rồi thực thi lòng nhân ái đó cách quảng đại đối với tha nhân. Đương nhiên đời sống tín hữu Kitô không được phép thua kém luật pháp Do Thái trong các khía cạnh luân lý đạo đức, tuy nhiên nó không dừng lại ở đó! Trong số các giá trị Tin Mừng thì đón nhận và sống lòng xót thương phải là cao trọng hơn tất cả! Kitô hữu phải đặt điều này lên tầm cao tuyệt đối, và rồi toàn tâm toàn lực thực thi nó; đó là mục tiêu cao cả nhất mà chỉ những ai dám đứt bỏ mọi thứ thu tích (=làm nghèo) mới có thể thực hiện nổi.
Thế nhưng ngay trong công tác ‘làm giầu trước mặt Thiên Chúa’ này, Đức Giêsu không quên khuyến cáo: không có gì phải lo lắng, phải gò ép, phải luyện tập…, chỉ cần một điều kiện duy nhất là tín thác trọn vẹn vào lòng nhân ái của Thiên Chúa: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em” (Lc 12:32).
Ôi, thật an ủi xiết bao!
Lạy Thiên Chúa từ nhân, cảm tạ Chúa đã đưa con vào vương quốc yêu thương của Người. Ngay từ khi trở thành Kitô hữu, con đồng thời đã trở nên giầu có vô song, vì được sở hữu cách trọn vẹn lòng Chúa xót thương; xin đừng bao giờ để con bị rơi trở lại vào tình trạng nghèo nàn cố hữu, khi chỉ chuyên lo thu tích các của cải vật chất cũng như tinh thần mong làm cho đời mình thêm phong phú. Xin cho con biết ngày càng làm cho mình nên giầu sang hơn cho ‘vương quốc Nước Trời’, nhờ thủ đắc ngày càng trọn vẹn hơn lòng lân tuất vô biên của Thiên Chúa cứu độ. Amen.

20. Cái tạm thời và cái bền vững
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
“Hư không trên các sự hư không”. Đây là lời của ông Cô-he-lét con vua Đa-vít trong sách Giảng Viên, (Bài đọc I). Cô-hé-let là một vị vua khôn ngoan, ông nhìn thế giới với cái nhìn hướng thượng và truyền lại cho các môn sinh. Một trong các môn sinh lấy lại lời dạy của Thầy và đào sâu hơn: “Hư không trên các sự hư không, và mọi sự đều hư không” (Gv 1,2). Sự khôn ngoan này đã trở thành cách ngôn dân gian để mọi người nhìn thế giới mình đang sống với sự tỉnh táo, không ảo tưởng, với hy vọng những cố gắng của con người sẽ không bị tiêu tan vô ích trong một thế giới thấp hèn!
Tuy nhiên, đây là dịp để chất vấn chúng ta về vị trí của mình trên trái đất này và cách thức chúng ta quản lý thế giới. Chính trong bối cảnh này mà Đức Giêsu ngang qua dòng người, ở giữa đám đông vây quanh, với tất cả khổ đau và kêu cứu, một người trong nhóm họ lên tiếng thưa: “Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi” (Lc 12, 13). Đức Giêsu bỗng dưng bị đặt làm trọng tài giữa hai người trong tương quan nhân loại. Có người hỏi: vì lý do gì mà người kia lại thưa với Đức Giêsu một điều như thế, Người đâu phải là một quan tòa chuyên xử các vụ chia cắt gia tài của các gia đình? Tuy nhiên chúng ta không vội kết án người này. Anh ta có hai lần đúng khi chạy đến nhờ Đức Giêsu. Trước hết bởi vì đối với Đức Giêsu không có gì vô nghĩa, thứ đến Đức Giêsu với tư cách là Thầy, Ngài hoàn toàn có quyền làm trọng tại để giải quyết cho anh vấn đề anh nêu ở trên, nên chạy đến Người cầu cứu!
Tuy nhiên Đức Giêsu nhanh chóng gạt đi và dứt khoát từ chối can thiệp vào những chuyện như thế: “Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc làm người chia gia tài cho các ngươi?” (Lc 12,14). Đức Giêsu không can thiệp, nhưng Người lại chỉ cho cách cần phải giải quyết những vấn đề đó với tinh thần nào: “Các ngươi phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu” (Lc 12,15).
Trở lại bài đọc I ta thấy: “Kẻ này làm việc vất vả trong sự khôn ngoan, hiểu biết và lo lắng, rồi phải để sự nghiệp lại cho người ở nhưng không, thì thật là hư không và tai hại lớn lao” (Gv 1,3). Ở đây “kẻ làm việc vất vả trong sự khôn ngoan” phải kể đến là cha mẹ hai anh, nên hai anh có lý để tranh dành của cải họ được kế thừa.
Câu “Hư không trên các sự hư không” không thể hiện điều cam chịu nhưng mở ra con đường ân sủng cứu độ. Thật khôn ngoan khi biết rằng thế giới mà chúng ta đang sống không mang lại ý nghĩa tối hậu chúng ta tìm kiếm trong cuộc đời. Nhưng cũng thật sai lầm khi để mình bị giam hãm trong sự phi lí của thế gian này. Thánh Phaolô trong bài đọc II mời gọi chúng ta tìm kiếm những sự cao siêu trên trời (Cl 3, 1).
Câu hỏi được đặt ra cho chúng ta: chúng ta đang bám víu vào ai và cái gì? Dụ ngôn Đức Giêsu kể trên dành cho chúng ta là những kẻ đang ngồi đây, đang tiêu tán do những dự án và lo lằng mà không biết rằng thế giời này là hư không (ý nghĩa văn chương hư không có nghĩa là hơi nước đọng lại, phù du), chúng ta hy vọng sẽ thỏa mãn và ổn định lâu dài. Một ngày kia, người giầu tỉnh giấc, đau buồn vì của cải thế gian này không còn là của ông nữa.
Người nhà giầu bị trách, không phải vì ông thu góp của cải, những của cải, vật chất đời này không phải là xấu, nhưng tự bản chất, chúng không có giá trị bền vững. Xấu là ở chỗ lòng ông bám bíu trọn vẹn vào chúng, ông đã quên đi cái được cái mất và ý nghĩa cuộc đời. Ông muốn “nghỉ ngơi”, ông muốn bình an “trong nhiều năm” (x. Lc 12,19). Liệu có phải là mục đích cuộc đời của ông không? Tại sao? Ông có chắc rằng ông có thể tự cho mình nghỉ ngơi vui chơi không? Những thứ ông đang sở hữu có mang lại sự nghỉ ngơi, bình an và niềm vui không?” Đó chính là lý do mà Đức Giêsu cho ông là “kẻ ngu dại” (Lc 12,20). Vì hạnh phúc bền lâu không đến từ thế gian này mà đến từ Thiên Chúa. Ông đã nhầm khi chọn cái tạm bợ (đời này) làm chỗ dựa bền vững.
Mỗi lần “kẻ ngu dại” trong Tin Mừng xuất hiện là một lần Thánh Phaolô hỏi chúng ta về vấn đề này: trong cuộc đời, anh em có “bê tha, nhơ bẩn, dục vọng, ước muốn sấu và thèm khát hưởng thụ không”? Chúng ta có chắc rằng “Hư không trên hết các sự hư không”? Trong đời ta có còn những thần tượng tạm bợ ở đời này không? Đây là lúc chúng ta gạt bỏ “những thủ đoạn của người xưa”, vì ngu dại chọn lựa sự hư không khi Đức Kitô trao bạn cho chúng ta những phương tiện để xây dựng trên sự bền vững.
Phải chăng lời của ông Cô-he-lét trong sách Giảng Viên: “Hư không trên hết các sự hư không” (Gv 1,2), không phải là một tiếng kêu đầy thất vọng và chán chường sao? Tác giả của Sách Giảng Viên đã bày tỏ nỗi buồn và thất vọng của mình về sự đời, về những việc làm thuần túy nhân loại, vì chúng không mang lại lợi ích bền lâu cho những người ra công thực hiện chúng và chúng không hề có giá trị tồn tại vĩnh cửu.
Đức Giêsu và tác giả Sách Giảng Viên nhắn nhủ chúng ta hay rằng, tất cả là hư không, là lầm lẫn khi con người chỉ lo tìm địa vị, quyền hành và đặt hết tin tưởng của mình vào những sự vật chóng qua, mà lại sao nhãng việc tích trử các của cải thiêng liêng, thực thi các việc lành phúc đức bác ái, thì chỉ là những kẻ dại dột và thua thiệt. Vì một ngày kia, khi chết, chúng ta sẽ làm được gì với những thứ của cải vật chất kia mà chúng ta từng ký cóp cả đời? Chúng ta đã trang bị, sửa soạn cho mình được những gì khi phải ra đứng trước tòa Thiên Chúa? Mọi vất vả khó nhọc của những kẻ sống như thế sẽ hoàn toàn hư không!
Đây là một lời dạy khôn ngoan luôn mang tính cách thời sự. Vì trong thời đại chúng ta, con người đang bỏ quên đi các giá trị tinh thần vĩnh cửu và cố chạy theo tìm kiếm những tạm thời sẽ qua và sẽ hết.
Qua những suy tư trên, chúng ta thấy điều cơ bản cho cuộc sống vĩnh cửu mà con người cần phải tìm đạt tới, không phải là thế giới hữu hình, nhưng là những thực tại của Nước Thiên Chúa, những thực tại tinh thần chứa đựng các giá trị vĩnh cửu.

21. Nghệ thuật làm giàu – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một ngày nọ, vua Nghiêu đi tuần thú đất Hoa, viên quan địa phương đất ấy ra nghênh đón và chúc vua rằng: “Xin chúc nhà vua sống lâu”. Vua Nghiêu nói: “Đừng chúc thế!” Viên quan lại chúc: “Chúc nhà vua giàu có”. Vua Nghiêu lại nói: “Đừng chúc thế”. Viên quan chúc nữa: “Xin chúc nhà vua đông con trai”. Vua Nghiêu lại nói: “Đừng chúc thế”. Quan lấy làm lạ mới hỏi nhà vua: “Sống lâu, giàu có, đông con trai, ai cũng thích cả, sao nhà vua chẳng muốn?” Vua Nghiêu đáp: “Đông con trai thì sợ nhiều. Giàu có thì việc nhiều. Sống lâu thì nhục nhiều. Ba điều ấy không mang lại nhân đức nên ta từ chối.
Viên quan tâu: “Nhà vua nói thế thực là bậc quân tử. Nhưng trời sinh ra mỗi người phải có một việc. Nếu đông con trai, hãy cắt đặt mỗi người một nhiệm vụ thì có lợi chứ có gì mà sợ? Giàu có mà đem phân phát cho người nghèo thì còn công việc gì mà lo? Ăn uống có chừng mực, thức ngủ có điều độ, trong lòng thanh thỏa, thiên hạ tài giỏi thì vui cái vui của họ, trăm tuổi nhắm mắt về cõi trời. Một đời chẳng gây tai họa gì, hỏi có gì là nhục?”
Đứng trước tiền của, người ta có những thái độ rất khác nhau: Vua Nghiêu vì quá thận trọng chỉ nhìn thấy mặt trái của đồng tiền, nên của cải không sinh ích gì cho ông. Người phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay lại quá cậy dựa vào tiền của, nên khi thần chết bất ngờ đến thì tiền muôn bạc nén cũng không cứu được linh hồn ông. Duy chỉ có viên quan địa phương là có thái độ đúng mực về tiền bạc: Nếu giàu có thì đem chia sẻ cho người thiếu thốn. Đó chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay: Hãy dùng của cải đời này mà “làm giàu trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12,21). Đó chính là nghệ thuật làm giàu đích thực.
Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta chỉ là những con người nghèo khó. Cho dù có xây bao nhiêu kho lẫm, bao nhiêu két sắt, bao nhiêu tài khoản ngân hàng, cũng chỉ là con số không. Chúng ta chỉ thực sự giàu có trước mặt Thiên Chúa khi chúng ta dốc cạn kho cho người nghèo khó, mở hầu bao giúp kẻ khốn cùng. Chúa phán: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12,33)
Quả thật, một kho lẫm dù có được khóa chặt đến đâu cũng không ngăn cản được kẻ trộm. Nhưng chỉ có những tài sản đích thực mà không ai có thể đánh cắp, chính là những tài sản thiêng liêng.
Thực ra, khi người giàu chia sẻ của cải cho kẻ nghèo, cũng chỉ là bổn phận của người quản lý mà thôi. Augier đã nói một câu chí lý: “Trong dự tính của Thiên Chúa, người giàu chỉ là viên thủ quỹ của người nghèo”. Vì thế, những ai “ê hề của cải, dư xài nhiều năm” mà “cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã” (Lc 12,19) chính là những kẻ ăn cắp. Thánh Tôma Aquinô quả quyết: “Những người giàu đã đánh cắp của người nghèo khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa”.
Có thể nói, chúng ta đánh cắp của người nghèo khi chúng ta thu lợi quá mức trên sức lao động của kẻ khác.
Chúng ta đánh cắp của người nghèo khi chúng ta giữ lại đồ đạc tiện nghi mà chẳng bao giờ dùng đến.
Chúng ta đánh cắp của người nghèo khi chúng ta ăn chơi, mua sắm như ném tiền qua cửa sổ.
Thánh Basiliô không một chút ngần ngại nói với chúng ta rằng: “Tấm bánh mà bạn giữ lại là của người đói khổ, chiếc áo mà bạn cất trong vali là của kẻ trần trụi”.
Lạy Chúa, Chúa để 80% của cải trên thế gian này vào tay 20% những người giàu có, là để họ biết chia sẻ cho những người thiếu thốn, là để họ “làm giàu trước mặt Thiên Chúa”, chứ không phải để biến họ thành những kẻ đánh cắp.
Xin dạy chúng con chỉ nên giữ lại những gì cần thiết, và biết san sẻ hồng ân của Chúa cho mọi người, để thế giới này không còn cảnh bất công, nghèo đói, nhưng sẽ là một thế giới công bằng và yêu thương. Amen.

22. Đừng lãng quên linh hồn
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Gia đình ông bà Năm có hai đứa con. Đứa anh là Tý và đứa em là Tèo. Bao nhiêu tình thương và chăm sóc của ông bà Năm đều dồn cho Tý. Ông bà không từ chối Tý bất cứ điều gì nó muốn, thậm chí Tý đòi hỏi những điều trái khoáy, ông bà cũng chiều theo.
Trong khi đó, ông bà chẳng đoái hoài gì đến Tèo: Không cho ăn, không cho mặc, không cho học hành, không chăm sóc khi đau ốm, không đếm xỉa gì đến nó… Nói chung là coi như nó không có mặt trên đời.
Cách đối xử bất công của ông bà Năm đối với con cái như thế khiến hàng xóm bất bình. Ai cũng oán trách ông bà Năm đối xử với Tèo cách vô tâm và tệ hại đến thế.
Về phần chúng ta, có ai trong chúng ta đồng tình với cách đối xử bất công với con cái như thế không? Chắc chắn là không. Trái lại còn lên án là đàng khác.
Giờ đây, tôi xin mời mỗi người trong quý ông bà anh chị em nhìn lại mình, xem mình có đối xử tệ hại như vậy đối với người nhà của mình không.
Mỗi người chúng ta cũng có “hai người con”: Một đứa là linh hồn và đứa kia là thân xác. Chúng ta đã đối xử với thân xác, với linh hồn ra sao?
Có người nói với tôi: Bao nhiêu năm qua tôi quá chú trọng thân xác mà quên mất linh hồn. Châm ngôn sống của tôi là: Tất cả cho thân xác này, tất cả cho cuộc sống đời này.
24 giờ của một ngày, tôi đều dành trọn cho thân xác, chẳng dành cho linh hồn phút giây nào.
168 giờ của một tuần, tôi cũng đều dành trọn cho thân xác.
720 giờ của một tháng cũng đều dành trọn cho thân xác.
Và cứ thế, từ ngày này trải qua ngày khác, hết tháng này đến tháng kia, tôi chỉ biết chăm lo cho thân xác mà thôi.
Còn linh hồn thì bị bỏ rơi, không được đoái hoài. Suốt 24 giờ của mỗi ngày, 168 giờ của mỗi tuần, 720 giờ của một tháng… tôi chẳng dành cho linh hồn một phút nào.
Tôi dồn hết thời giờ, tiền bạc, công sức, tài năng, trí tuệ, nghị lực của tôi cho thân xác, y như nhà đầu tư dốc hết 100% vốn liếng của mình vào một dự án kinh doanh quan trọng.
Tôi hỏi lại người đó: Thế rồi mai đây thân xác anh sẽ ra sao? Anh sẽ thu hoạch được gì? Người đó thinh lặng suy nghĩ, chẳng biết trả lời ra sao.
Điều chắc chắn là sớm muộn gì mỗi người chúng ta cũng phải nằm xuống, nhắm mắt xuôi tay…
Thế là cuối cùng, thân xác tôi cũng như của mọi người trên mặt đất này chỉ còn là một bộ xương khô, một nắm tro bụi li ti.
Không lẽ hôm nay tôi đầu tư hết tất cả thời gian, công sức, trí tuệ, tài năng, nghị lực, tiền bạc của mình cho thân xác này để rồi cuối cùng chỉ thu hoạch được một bộ xương khô hay một nắm tro!
Không lẽ tôi đầu tư 100% vốn liếng của mình cho thân xác và cho cuộc sống tạm bợ đời này, để rồi cuối cùng chỉ thu hoạch được một nắm tro nằm dưới đáy mồ!
Còn linh hồn thì vì không được chăm sóc nuôi dưỡng, nên phải trầm luân trong hỏa ngục vô cùng đau khổ.
Sống như thế thì quả là dại dột, y như lão phú hộ được nhắc đến trong Tin mừng Lu-ca trích đọc hôm nay.
“Khi ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, ông “mới nghĩ bụng rằng: ‘Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!’ Rồi ông ta tự bảo: ‘Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: Hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12, 16-20).
Chỉ biết chăm lo cho thân xác nầy, cho cuộc sống đời nầy mà chẳng biết lo cho linh hồn, chẳng biết lo cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau thì đúng là ngốc thật.
Biết thế thì ta phải công bằng với linh hồn ta. Thân xác này nay còn mai mất thì ta chăm sóc vừa đủ, còn linh hồn ta sống mãi muôn đời thì phải được chăm lo chu đáo hơn.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin dạy chúng con biết chăm lo, nuôi dưỡng linh hồn mình ngay từ hôm nay bằng cách thực hành mến Chúa yêu người, dành thời giờ để thờ phượng Chúa cũng như để yêu thương phục vụ những anh chị em chung quanh. Nhờ đó, mai đây chúng con sẽ được Chúa ban thưởng hạnh phúc muôn đời trên thiên quốc.

23. Tích trữ kho tàng trên trời
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Có một vị lãnh chúa rất giàu có, gia sản ruộng vườn bao la. Gần nơi ông đang ở có một người nông dân nghèo nhưng lòng đầy tham lam. Ngày nọ, vị lãnh chúa nói với người nông dân: “Tôi sẽ cho anh tất cả những phần đất nào mà anh có thể chạy bao quanh, tính từ khi mặt trời bắt đầu mọc cho đến khi mặt trời lặn. Nếu anh trở về đến điểm xuất phát trước khi mặt trời chìm khuất sau đồi, thì anh sẽ làm chủ tất cả những vùng đất anh đã chạy bao quanh. Nếu không, anh chẳng được gì.”
Người nông dân nghe lời hứa đó mà tưởng như mơ! Đúng là một cơ hội ngàn vàng. Thế là đến sáng hôm sau, khi mặt trời vừa nhô lên khỏi rặng núi, anh bắt đầu cắm đầu cắm cổ chạy trối chết. Trước hết, anh chạy bao quanh một khu rừng già đầy gỗ quý. Thế là chỉ trong buổi sáng, anh đã trở thành một chủ nhân của hàng trăm mẫu rừng.
Mặt trời lên cao, nắng như đổ lửa, mồ hôi đầm đìa, nhưng anh vẫn tiếp tục chạy phăng phăng bao quanh đồng lúa phì nhiêu bao la bát ngát. Thế là đến trưa, anh đã là người điền chủ giàu có nhất vùng.
Mặt trời sắp lặn, chỉ cách ngọn đồi chỉ chừng một con sào, anh lại thấy một con suối lớn nước chảy lênh láng tràn bờ. Anh tự nhủ lòng: Nếu ta không làm chủ được con suối nầy thì toàn bộ cánh đồng mà ta vừa thu tóm được phải đành bỏ khô. Thế là anh dồn hết hơi tàn lực kiệt, quyết chạy bao quanh con suối.
Cuối cùng, lồng ngực như muốn vỡ tung ra, anh thở hồng hộc như con bò bị thọc tiết… Mặt trời bắt đầu lặn, chỉ còn là một vầng bán nguyệt đỏ ối sắp chìm xuống đỉnh đồi. Anh phải cố chạy nhanh cho tới nơi xuất phát, nếu không kịp thì chỉ còn là hư không.
Và rồi khi chỉ còn mươi bước nữa là tới đích, anh ngã gục xuống. Vỡ tim!
Thế là cuối cùng, anh chỉ còn được hưởng vài thước đất để chôn vùi thân xác!
(Phỏng theo câu chuyện nhan đề: “Chỉ cần ba tấc đất” của Văn Hào Leon Tolstoi)
* * *
Người phú hộ trong Tin Mừng hôm nay cũng học theo sách đó.
Khi ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, ông “mới nghĩ bụng rằng: ‘Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!’ Rồi ông ta tự bảo: ‘Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!’ Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: ‘Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?’ Rồi Chúa Giêsu kết luận: “Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.”
Xét cho cùng, trong thế giới hôm nay, những hạng người ngốc nghếch như vậy không hề thiếu.
Trong tôi vẫn có lòng tham của người nông dân ngu dại trên đây, hằng thúc đẩy tôi thu tóm, ky cóp cho thật nhiều, không bao giờ thấy đủ.
Trong tôi cũng có một gã phú hộ dại khờ, tìm cách cơi nới thêm kho lẫm để chất cho đầy của cải chóng qua.
Nếu chỉ biết thu gom, ki cóp của cải vật chất đời nầy, chỉ biết lo cho nhu cầu vật chất mà lãng quên linh hồn thì chúng ta cũng đang đi vào vết xe của người phú hộ đáng thương kia.
Tất nhiên là mỗi người cũng cần phải tạo thêm nhiều của cải để bảo đảm cho đời sống phần xác, cho mình và cho xã hội, nhưng nếu chưa tạo được kho báu thiêng liêng thì khác gì “dã tràng xe cát biển đông”!
Trái lại, nếu hôm nay chúng ta tích trữ thật nhiều của cải thiêng liêng, trở nên người giàu có trước mặt Thiên Chúa, thì chúng ta có thể an tâm tự nhủ lòng mình: Hồn ta ơi, hãy hoan lạc và mừng vui, vì ngươi đã có một kho báu trên trời. Mai đây tha hồ vui hưởng!

24. Tiền bạc của cải sẽ về tay ai?
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Trong xã hội duy vật mà chúng ta đang sống, lời Chúa hôm nay là một lời cảnh báo nghiêm trọng cho mỗi người tín hữu chúng ta. Chúa Giêsu đặt chúng ta trước một vấn đề quan trọng, đó là thái độ của chúng ta trước tiền bạc của cải. Chúng ta phải sử dụng tiền bạc của cải thế nào mới đúng với ý Chúa?
Một người đã đến xin Chúa Giêsu làm trọng tài để chia gia tài cho anh. Đối với người Do thái, tài sản của cải cha mẹ để lại thường là dưới quyền quản lý của người anh cả, vì gia đình sống chung, rất ít trường hợp ra riêng như chúng ta hiện nay. Gia tài là tài sản chung của cả gia đình, và Luật Môsê cũng không đề cập đến vấn đề nầy một cách rõ rệt. Việc chia gia tài tùy thuộc vào cha mẹ hay người anh cả. Như trong dụ ngôn người con trai hoang đàng, người em xin cha chia gia tài cho mình khi anh trưởng thành. Trong trường hợp nào đó, người ta cũng có thể nhờ các tư tế đứng làm trung gian khi có tranh chấp về tài sản.
Trong trường hợp Chúa Giêsu, được yêu cầu làm trung gian, Ngài khước từ một cách rõ rệt. Ngài đến không phải để giải quyết những vấn đề linh tinh, Ngài mang một sứ mệnh khác quan trọng hơn, nhưng nhân tiện, Ngài cho chúng ta một bài học quí báu: “Phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam…”
Căn bệnh tham lam như một căn bệnh dịch lan tràn khắp nơi, và đã đưa thế giới hôm nay vào một bế tắc ghê tởm. Thế giới hôm nay được chia thành hai thành phần: những người giàu thiểu số và thành phần nghèo đa số.
Những người giàu càng giàu hơn và phung phí một cách vô độ. Những người nghèo lại nghèo hơn, đến nỗi nhiều người phải chết đói.
Đối với những nhà xã hội, kinh tế hay đạo đức học thì đó là một điều không thể chấp nhận, trong một thế giới mà người ta cho là văn minh tiến bộ này. Nhưng có ai cho đó là một điều phi lý đâu! Và thế giới vẫn quay cuồng trong cái vòng lẩn quẩn đó. Những người giàu vẫn tiếp tục khai thác người nghèo, và người nghèo chỉ biết tiếp tục sống kiếp nô lệ.
Trong dụ ngôn người giàu kia, Chúa Giêsu cho thấy: sự giàu sang không bảo đảm được mạng sống. Người giàu có đủ điều kiện để bảo đảm sức khỏe: mâm cao cỗ đầy, thuốc bổ đắt tiền, bác sĩ luôn chờ bên cạnh để chăm nom săn sóc, nhưng rồi số phận cũng như nhau: “Đêm nay người ta sẽ đòi mạng sống ngươi”.
Giá trị con người không ở trong của cải sang giàu. Người giàu có kẻ hầu người hạ, xem ra vinh vang trước mặt thiên hạ, nhưng giá trị con người không chỉ có thế. Những người làm giàu trên xương máu của đồng loại thì cũng chỉ như “con vật một ngày kia phải chết”. Thánh vịnh đã nói như thế, và hơn nữa: “Nào phàm nhân sống mãi được sao, mà chẳng phải đến ngày tận số? Kìa thiên hạ thấy người khôn cũng chết, kẻ ngu đần cũng tiêu vong, bỏ lại tài sản mình cho kẻ khác”.
Chúa Giêsu không cấm chúng ta làm giàu hay phát triển kinh tế, nhưng giàu có để hưởng thụ một mình không nghĩ đến ai là một điều tồi tệ. Vì thế, Chúa Giêsu đã mạnh dạn lên án: “Khốn cho các ngươi là những người giàu!”
Dụ ngôn người giàu và anh Ladarô nghèo ngồi trước cửa là một ví dụ rõ ràng. Chúa Giêsu thẳng thừng lên án những loại người giàu vô tâm như thế.
Thiên Chúa tạo nên vũ trụ nầy cho mọi người, vì thế, không ai có quyền sở hữu một mình mà không nghĩ đến anh em. Thiên Chúa không tạo nên vũ trụ nầy cho một thiểu số người giàu: “ở đời muôn sự của chung”.
Nhiều người tưởng lầm rằng do tài khéo của mình mà đã làm nên sự nghiệp, và tôi có quyền hưởng một mình.
Họ không biết rằng họ đã lãnh nhận tất cả, họ chỉ có công sử dụng những gì Chúa ban cho mà thôi. Nếu Chúa không ban cho họ sức khỏe dồi dào, trí khôn minh mẩn để học, những hoàn cảnh thuận lợi … thì họ được gì? Nếu Chúa cho họ sinh ra tàn tật, hay đần độn thì họ sẽ ra sao?
Người Công giáo chúng ta cần nhìn thấy bàn tay và hồng ân Chúa trong cuộc sống hôm nay để luôn cảm tạ và sử dụng mọi sự theo ý Ngài.
Hãy nhìn Chúa Giêsu để biết sống thế nào cho đúng. Thiết tưởng không cần nhắc lại nếp sống nghèo hèn của Ngài. Từ máng cỏ cho đến đỉnh núi Canvê, chúng ta thấy Ngài như không cần gì. Ngài là Thiên Chúa, là chủ tể vạn vật, thế nhưng Ngài chỉ cần những gì thiết yếu nhất thôi, vì “Nước tôi không ở trần gian nầy”. Ngài đến trong trần gian để cứu vớt mọi người và mọi sự, Ngài thánh hóa tất cả trần gian và cuộc sống con người bằng chính sự thánh thiện của Ngài. Ngài dạy chúng ta sử dụng mọi sự cho sáng danh Cha trên trời và giúp anh em chúng ta hạnh phúc. Ngài sử dụng trần gian mà không lệ thuộc. Ngài trở nên nghèo hèn để làm giàu cho chúng ta, như thánh Phaolô đã nói, và chúng ta “lãnh nhận ơn nầy đến ơn khác từ sự sung mãn của Ngài”.
Vinh quang của Ngài không phải là được kẻ hầu người hạ, sang trọng quí phái, mà “chết cho bạn hữu”, ban mạng sống làm giá chuộc cho muôn người.
Ngày vinh quang của Ngài khi vào thành Giêrusalem trong tiếng hoan hô tưng bừng của dân, nhìn nhận Ngài là “Đấng nhân danh Chúa mà đến”, Ngài chỉ cần một con lừa con.
Thái độ của Chúa Giêsu đối với của cải là quá rõ, không ai là không thấy.
Thế giới hôm nay thờ tiền: “Khách hàng là thượng đế, thì đồng tiền là chúa tể”. Người ta chạy theo tiền bạc, thu góp cho thật nhiều, để hưởng thụ. Thế giới hôm nay tưởng mình văn minh tiến bộ, nhưng lại man rợ hơn lúc nào hết; vì những người thờ tiền bao giờ cũng dã man vì họ không còn biết thương ai, ngay cả đối với những người ruột thịt của họ.
Chúa Giêsu đi ngược lại với tinh thần thế tục: “Dù lợi lộc cả trần gian mà mất linh hồn thì được ích gì? Không ai làm tôi hai chủ, không ai có thể làm tôi tiến bạc và làm tôi Thiên Chúa được”.
Đối với Chúa Giêsu, chỉ một tình yêu duy nhất, chỉ có một hạnh phúc duy nhất là Thiên Chúa mà thôi.
Thực ra tiền bạc của cải không tốt cũng không xấu, nhưng tùy cách sử dụng. Nó cũng là một món quà Thiên Chúa ban cho con người, nhưng sử dụng cách nào mới mang lại hạnh phúc. Thánh Phaolô nói với chúng ta: “Thời gian còn chẳng bao lâu… Vậy từ nay, những người có vợ hãy sống như không có…ai mua sắm, hãy làm như không có gì; kẻ hưởng dùng của cải đời nầy, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian nầy đang biến đi”.
Người tín hữu không phải là người thoát tục mà là con người dấn thân vào trần gian; nhưng không nô lệ, mà là người chủ khôn ngoan. Chúng ta hãy làm phép rửa cho thực tại trần gian để sử dụng mọi sự cho một tình yêu cao cả hơn, để thánh hóa trần gian, biến nó thành của lễ đẹp lòng Thiên Chúa.
Hãy xem trong túi chúng ta có gì, có tiền thôi hay sao, hay có cả một kho tàng tình yêu?
Chúa Giêsu đã sử dụng những thực tại trần gian, không phải để hưởng thụ mà để cho không tất cả. Ngài đã sử dụng một tấm bánh, một chén rượu để biến tất cả thành của ăn hằng sống cho mọi người. Hãy ăn lấy Chúa để sống với Ngài mối tình tuyệt hảo của Ngài, là cho không và cho hết. Chúng ta dám không?

25. Cuộc đời là phù vân
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc đời là phù vân. Đó là một chân lý mà mỗi người chúng ta đều nhìn nhận. Không có gì trong cuộc đời là bền vững, là vĩnh cửu. Tất cả đều tàn phai theo thời gian. Tiền tài, danh vọng và sắc đẹp rồi cũng sẽ có một ngày vuột ra khỏi tầm tay của chúng ta. Thế nhưng, mỗi người lại sống cuộc đời gọi là phù vân này rất khác nhau. Có người nghĩ cuộc đời quá ngắn nên tranh thủ hưởng thụ bằng cuộc sống ăn chơi sa đoạ. Có người lại “tối mày tối mặt” để tích lũy cho mình thật giầu có. Có người tìm công danh. Có người trau truốt cho sắc đẹp. Có người đi tìm tình bạn. Có bao nhiêu người là có bấy nhiêu cách sống khác nhau.
Vua Salomon đã hiểu ý nghĩa cuộc đời là phù vân, nên ông đã thốt lên rằng: “Phù vân rất mực phù vân, khó nhọc vất vả thế rồi phải trao lại cho kẻ không vất vả hưởng”.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy hai nhân vật tiêu biểu cho hai hạng người: tham quyền và tham tiền. Kẻ tham quyền thì dùng quyền bính để ăn chận tài sản người khác. Kẻ tham tiền thì lo vun quén cho đầy kho. Mẫu số chung của cả hai loại người này là ích kỷ, chỉ lo cho bản thân và không màng tới tha nhân, cho dù đó là người thân của mình. Người anh đã dùng quyền bính để khước từ việc chia gia sản cho người em. Người phú hộ vì tham tiền nên chỉ lo nghĩ đến việc tích góp của cải đến nỗi không còn thời giờ dành cho tha nhân. Xem ra cuộc đời của họ không có hạnh phúc vì họ không có tình bạn. Họ coi tha nhân là kẻ thù, là kẻ đang tranh giành địa vị và tiền tài với mình. Họ không cần tình bạn, họ chỉ cần tiền. Họ không cần người thân, họ chỉ cần lợi dụng người khác cho tham vọng của mình. Sống không có tình bạn như cây xanh thiếu lá, chỉ trơ trụi và khô cần. Cuộc đời của họ sẽ không có niềm vui và hạnh phúc. Cuộc đời của họ càng không có hậu. Vì họ không có gia sản để dành cho đời sau là những việc lành phúc đức trong cuộc đời hôm nay.
Nhưng tiếc thay, nhân loại hôm nay vẫn còn đó những con người như thế. Tiền và quyền luôn làm xa lìa tình người. Tiền và quyền luôn làm cho con người biến chất đến tha hoá không còn tính người. Xã hội vẫn đầy dẫy những bất công và bất nhân. Bất công vì kẻ đổ mồ hôi lao nhọc mà vẫn đói nghèo xác xơ trong khi đó lại có kẻ “ngồi nhà mát ăn bát vàng”. Các quan tham từ nông thôn đến thành thị đều rủng rỉnh bạc vàng còn dân lành lại lầm than cơ cực. Bất nhân vì thiếu tôn trọng lẫn nhau, đến nỗi coi mạng người như phương tiện để khai thác trục lợi. Xã hội hôm nay cho rằng sống là để tranh đấu. Tranh đấu nên có kẻ được người thua. Tranh đấu nên phải giành giựt lẫn nhau, nhanh thì được chậm thì mất. Cuộc sống trở nên một bãi chiến trường. Kẻ thắng thì cười. Người thua thì khóc. Tất cả như những con thiêu thân đang lao vào cuộc chơi mà không hề biết nguy hiểm đang chờ trước mắt, cái chết gần kề mà lời Chúa hôm nay nhắc nhở: “Hỡi kẻ dại khờ, nội trong đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi thì những gì ngươi sắm sẽ thuộc về ai?”.
Có ai đó đã ví von về cách tìm kiếm và sử dụng của cải đời này như sau:
“Người công nhân thì đổ mồ hôi để có được nó
Kẻ hoang phí thì đốt nó
Chủ ngân hàng đem nó đi vay
Đàn bà xài nó
Kẻ lưu manh làm giả nó
Nhân viên thuế vụ lấy nó
Người hấp hối lìa bỏ nó
Kẻ thừa kế tiếp thu nó
Người tiết kiệm thèm khát nó
Kẻ ăn trộm chộp lấy nó
Người giầu gia tăng nó
Người cờ bạc bị mất nó
Phần tôi thì dùng nó”.
Về phần tôi thì dùng nó, có lẽ đó là sự khôn ngoan mà Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Hãy làm giầu trước mặt Chúa”. Hãy sử dụng tiền bạc và quyền bính để mang lại lợi ích cho xã hội và cho con người. Đừng dùng nó cho bản thân của mình. Cũng đừng xem nó như cứu cánh đời mình. Của cải và danh vọng không thể sánh với con người nên đừng vì nó mà bán rẻ lương tri, đừng vì nó mà đánh mất tình người, đừng vì nó mà lãng quên tình Chúa. Tất cả chỉ là phù vân. Sự sống đời sau mới là vĩnh cửu. Và sự sống vĩnh hằng không thể mua bằng tiền bạc, càng không thể tìm kiếm bằng vũ lực mà bằng lòng nhân nghĩa. Lòng nhân nghĩa đối với đồng loại bao hàm tinh thần yêu thương và phục vụ. Yêu thương nên sẵn lòng dấn thân và phục vụ vì lợi ích của tha nhân. Yêu thương nên sẵn lòng nhường nhịn và chia sẻ lẫn nhau. Yêu thương nên sẵn lòng hy sinh bản thân mình để tìm niềm vui trong phục vụ tha nhân.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết dùng gia sản là tài năng và khả năng của mình để mua lấy bạn hữu Nước Trời mai sau. Amen.

26. Hãy mặc lấy Đức Kitô
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Đêm Cầu Nguyện 25-7-2013, tại bãi biển Copacabana, Rio de Janeiro, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với giới trẻ rằng: “Hôm nay, cha muốn mỗi người chúng ta chân thành tự hỏi: Chúng ta đặt niềm tin của mình vào ai? Vào chính mình, vào vật chất, hoặc vào Chúa Giêsu? Tất cả chúng ta bị cám dỗ đặt mình ở trung tâm, nghĩ rằng mình là cái rốn của vũ trụ, tin rằng một mình mình, tự mình có thể xây dựng cuộc đời mình, hay nghĩ rằng đời sống mình chỉ có thể hạnh phúc nếu được xây dựng trên của cải, tiền bạc hay quyền lực. Nhưng tất cả chúng ta đều biết rằng không phải như thế! Chắc chắn rằng của cải, tiền bạc và quyền lực có thể cung cấp cho chúng một cảm giác sung sướng nhất thời, một ảo tưởng được hạnh phúc, nhưng chúng cuối cùng sẽ sở hữu chúng ta và làm cho chúng ta luôn luôn muốn có nhiều hơn, không bao giờ thỏa mãn. Cuối cùng, chúng ta được “đổ đầy” mà không bao giờ được nuôi dưỡng, và thật rất đáng buồn khi thấy những người trẻ “được đổ đầy” mà yếu đuối. Tuổi trẻ phải mạnh mẽ, phải được nuôi dưỡng bằng đức tin chứ không phải được đổ đầy bằng những thứ khác”.
Của cải, tiền bạc và quyền lực không phải là cùng đích của đời người. Tin Mừng hôm nay nói về dụ ngôn ông phú hộ dại khờ. Ông phú hộ nghĩ rằng: tiền bạc, của cải là tài sản có giá trị tuyệt đối. Với tài sản đồ sộ, ông tưởng rằng bản thân mình từ nay sẽ được sung sướng, được an toàn mạng sống. Ông tưởng mình đã tính toán khôn ngoan, nhưng ông không ngờ cái chết đến lúc đêm khuya, hay có thể có biết bao rủi ro khác xảy đến. Ông chợt nhận ra mình phải bỏ lại tất cả. Tài sản không níu được ông, cũng không vững như ông nghĩ. Những gì ông thu tích như giọt nước lọt qua kẽ tay. “Đồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi điều ngươi đã soạn kia sẽ về tay ai?”. Tiền bạc, của cải, quyền lực, danh vọng, cuối cùng vẫn chỉ là phù vân (Gv 1,2), chẳng có nghĩa lý gì hết, nếu người ta không biết sử dụng nó. “Vì không phải dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu” (Lc 12,15).
Nhưng những dự định ông phú hộ cho là khôn ngoan thì Chúa Giêsu lại bảo đó dại khờ.
Nhà phú hộ dại khờ vì không phân định đâu là tài sản đích thực và đâu là tài sản tạm thời chóng qua, mau hư nát. Dại khờ vì ông nghĩ rằng có thể xây dựng cuộc đời mình trên nền tảng của cải nhưng nó chỉ là những thứ chóng tàn phai, nay còn mai mất. Dại khờ vì ông chỉ nghĩ đến của cải vất chất mà quên mất Thiên Chúa.
Kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu dạy: Hãy lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa.
Làm giàu trước mặt Thiên Chúa là trở nên giàu có như Chúa Giêsu, luôn “yêu thương, khiêm nhu, hiền từ, đại lượng” (Cl 3,12) và “trên tất cả là lòng mến, giềng mối của mọi trọn lành”. (Cl 3,14).
“Lắm của cải đâu quý bằng danh thơm tiếng tốt, vàng với bạc nào trọng bằng được mến được thương” (Cn 22,1). Trong cuộc đời này, có biết bao người giàu tình thương, chăm lo cho bệnh nhân, chăm sóc trẻ em tật nguyền, tiếp đón người khổ đau bất hạnh, ưu tư lo lắng cho người sầu khổ, dấn thân phục vụ cho các hoạt động xã hội, bác ái và thăng tiến con người…
Có thể nói được là không ai giàu có, tự do, và mạnh mẽ hơn ‘người giàu trước mặt Chúa”, người mà niềm tin vào Chúa giúp họ vượt lên trên mọi tài sản trần gian, vì đã có “Chúa là nơi họ ẩn náu”(Tv 13,6). Vì thế, mối phúc đầu tiên được dành cho người nghèo, người “đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân” (Gr 17,7). Người giàu trước mặt Chúa không phải là người có nhiều tài sản, mà là người tài sản chỉ đủ dùng nhưng biết lo tìm kiếm Nước Trời: “chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. Vậy nếu có cơm ăn áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ” (1Tm 6,7-8).
Phải biết coi trọng con người hơn tiền bạc. Tình người đáng giá hơn giàu sang phú quý. Tiền bạc rồi sẽ hết. Chẳng ai mang theo gia tài khi chết. Có chăng là tình yêu thương đã chia sẻ với tha nhân nơi trần thế này để trở nên “giàu có trước mặt Thiên Chúa” trên Thiên Quốc. Hãy sống quảng đại, mở rộng quả tim, mở rộng bàn tay để chia sẻ và cảm thông với mọi người, như thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy làm ơn làm nghĩa, hãy giàu có việc lành, hãy hào phóng, rộng rãi chia sẻ để tích trữ vốn liếng cho cuộc đời mai sau”.
Để “giàu có trước mặt Thiên Chúa”, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các bạn trẻ đến với Đức Kitô, để sống đức tin, hy vọng và tình yêu.
“Hãy mặc lấy đức tin” và cuộc sống của các con sẽ có một hương vị mới, nó sẽ có một la bàn để chỉ đường cho các con.
“Hãy mặc lấy hy vọng” và mỗi ngày của các con sẽ được soi sáng và chân trời của các con sẽ không còn tăm tối, nhưng sáng sủa.
“Hãy mặc lấy tình yêu” và cuộc đời của các con sẽ như một căn nhà được xây trên đá, cuộc hành trình của các con sẽ là cuộc hành trình vui mừng, bởi vì các con sẽ gặp nhiều bạn bè để cùng hành trình với các con.
Nhưng ai có thể ban cho chúng ta tất cả những điều ấy? Đó chính là Chúa Giêsu, Đấng mang Thiên Chúa đến với chúng ta và mang chúng ta đến với Thiên Chúa. Với Người, toàn thể cuộc đời của chúng ta được biến đổi, đổi mới, và chúng ta có thể nhìn thực tại với cái nhìn mới, từ quan điểm của Chúa Giêsu, với đôi mắt của Người (x.TĐ Lumen Fidei,18).
“Hãy mặc lấy Đức Kitô” trong cuộc sống của các con, và các con sẽ tìm thấy một người bạn mà nơi Người các con luôn luôn có thể tin tưởng.
“Hãy mặc lấy Đức Kitô” và các con sẽ thấy đôi cánh hy vọng giang ra để các con hành trình với niềm vui hướng về tương lai.
“Hãy mặc lấy Đức Kitô” và cuộc đời các con sẽ tràn đầy tình yêu của Người; nó sẽ là một cuộc đời sinh đầy hoa trái. Vì tất cả chúng ta đều muốn một cuộc đời sinh hoa trái, một cuộc đời nói về sự sống với những người khác!
“Hãy mặc lấy Đức Kitô” trong cuộc sống của các con. Trong những ngày này, Người đang chờ các con: hãy cẩn thận lắng nghe Người và sự hiện diện của Người sẽ làm cho tâm hồn các con được hăng say.
“Hãy mặc lấy Đức Kitô”: Người đang chờ các con trong Bí Tích Hòa Giải, để lòng thương xót của Người chữa lành tất cả mọi vết thương gây ra bởi tội lỗi. Đừng sợ cầu xin ơn tha thứ của Thiên Chúa! Ngài không bao giờ biết mệt khi tha thứ cho chúng ta, như một người cha yêu thương chúng ta. Thiên Chúa là lòng thương xót tinh tuyền! “Hãy mặc lấy Đức Kitô”: Người đang chờ các con trong Thánh Thể, Bí Tích của sự hiện diện, và của sự hy sinh vì tình yêu của Người, và Người cũng chờ đợi các con trong lòng nhân đạo của nhiều người trẻ là những người sẽ phong phú hóa các con với tình bằng hữu của họ, khuyến khích các con bằng việc làm chứng cho đức tin của họ, và dạy các con ngôn ngữ của đức ái, sự tốt lành và phục vụ. Các người trẻ thân mến, các con cũng có thể làm những chứng nhân vui vẻ của tình yêu của Người, chứng nhân can đảm của Tin Mừng của Người, để mang đến trong thế giới này một chút ánh sáng của Người. Hãy để cho mình được Chúa Giêsu yêu thương, Người là người bạn không bao giờ lừa dối. (x.Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi Cầu Nguyện ở Copacabana).
Giáo huấn của Thánh Phaolô trong bài đọc 2 gởi tín hữu Côlôsê là: anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá. Đấng Tạo Hoá là Chân Thiện Mỹ. Hướng về Chân Thiện Mỹ, mọi người đều được nâng cao, trở nên con người đúng nghĩa hơn, trọn vẹn hơn, gần với Thiên Chúa hơn, giống Chúa Giêsu hơn.

27. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
Nếu ta sống trong mối quan hệ với Thiên Chúa như cha con và tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Người thì tại sao ta còn phải tìm cách cậy dựa vào những quyền lực trần gian như tiền bạc, của cải? Trong huấn dụ về việc làm môn đệ, Chúa Giê-su đã đòi hỏi ta phải tuyệt đối gạt bỏ mọi thứ trở ngại vương vấn để hoàn toàn dấn thân theo Người (Lc 9:57-62). Một trong những trở ngại lớn lao nhất, đó là tiền bạc của cải làm cho ta bận tâm và không còn thiết tha theo Chúa nữa. Đây cũng là một đề tài căn bản dành cho mọi Ki-tô hữu suy nghĩ để biết mình phải có thái độ nào đối với tiền bạc của cải đời này. Nhân dịp một người đến xin Chúa Giê-su lấy uy tín của Người để đòi người anh của anh ta phải chia gia tài cho anh, Người đã nắm lấy cơ hội này để trình bày một chân lý căn bản cho việc chuẩn bị tương lai vĩnh cửu của ta: hãy lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa.
a) Bảo đảm mạng sống
Ta có thể hiểu là vì tham lam, người anh trong câu truyện đã không chia phần gia tài cho người em theo lẽ công bằng. Anh ta tham lam muốn có dư giả của cải để bảo đảm cho mạng sống mình. Người đời chỉ nhìn thấy sự sống trước mắt và lo lắng về sự sống ấy, chứ ít khi nghĩ đến và chuẩn bị cho sự sống đời sau. Do đó, Chúa Giê-su thường nói về sự sống đích thực tức là sự sống đời đời trong các lời giảng của Người, nhất là trong Tin Mừng Gio-an. Người đã khẳng định sự sống đời đời là: “Tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6:40).
Chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng bảo đảm sự sống đích thực cho ta, vì Người làm chủ sự sống của ta. “Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10:28).
Chúa Giê-su, trong bài giảng trên núi đã cho ta thấy tính cách ưu việt của sự sống đích thực. Ngay đến sự sống thể xác cũng đã được Thiên Chúa quan phòng chăm sóc cho ta (Mt 6:25-34), huống chi là sự sống thiêng liêng. Người đi tới kết luận: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công bình của Người,” tức là hãy lo lắng cho tương lai vĩnh cửu của ta.
b) Nỗi ưu tư của nhà phú hộ
Đâu phải cứ giàu có, dư đầy của cải là tâm hồn được thảnh thơi! Ta cứ xem gương nhà phú hộ trong dụ ngôn Chúa Giê-su kể. Ông ta lúc nào cũng lo lắng làm giàu. Của cải đã trở thành một áp lực và một câu hỏi luôn đè nặng đầu óc: “Mình phải làm gì đây?” Ông ta mơ ước có một lúc nào đó sẽ dừng lại không còn lo làm giàu nữa và sẽ lo nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã! Nhưng sẽ chẳng bao giờ có “lúc ấy” cả, vì đối với ông không có giới hạn nào gọi là đủ, mà chỉ có thiếu thôi.
Nỗi ưu tư của nhà phú hộ không vượt quá bản thân mình. Ông ta lo cho mình, chứ không lo cho ai cả. Ông quy hướng mục đích làm giàu về một tương lai mà ông không bao giờ nắm chắc được, đó là một cuộc sống phong lưu nhờ của cải ông ta có. Ai có thể tự mình kéo dài thêm cuộc sống của mình được? (Mt 6:27). Cái chết chẳng kiêng nể một ai, kể cả nhà phú hộ. Cho nên ưu tư kiểu ấy đã được Chúa Giê-su “tặng” cho một mỹ từ là “đồ ngốc”!
Ưu tư cho những nhu cầu của anh chị em và nhất là cho những kẻ nghèo đói là ưu tư đích thực mà Chúa Giê-su đã nêu gương. Một thoáng mệt nhọc trên khuôn mặt các tông đồ cũng không qua khỏi con mắt Chúa Giê-su. Người bảo họ: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6:31). Bà mẹ vợ ông Phê-rô nằm liệt và lên cơn sốt là mối ưu tư của Chúa Giê-su (Mt 8:14-15). Dân chúng vất vưởng như bầy chiên không người chăn dắt đã làm cho Chúa Giê-su chạnh lòng thương (Mt 9:36-38). Chúa Giê-su không lo làm giàu cho mình, nhưng cho tha nhân và lợi ích của họ.
c) Lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa
Thiên Chúa là Cha. Người ban cho chúng ta mọi sự vật chất lẫn tinh thần thì Người đâu cần thấy mỗi người chúng ta phải là triệu phú. Nhưng Thiên Chúa muốn ta giàu có về phương diện khác, nghĩa là phải giàu có như chính Người. Trong Kinh Thánh, ta thường gặp đi gặp lại những tư tưởng về sự giàu có của Thiên Chúa. Người giàu có tình yêu đến độ sẵn sàng ban Con Một Người cho thế gian. Người giàu lòng từ bi và nhân hậu đến nỗi không chấp tội ta và còn tìm đủ mọi cách để cứu chuộc ta.
Thấy ta nghèo nàn vì đã bị tội lỗi tước bỏ mọi sự, Thiên Chúa muốn phục hồi sự giàu có cho ta nhờ Chúa Giê-su. Trước hết Người muốn cho ta được giàu có sự sống, nhờ Chúa Giê-su là Đấng Chăn chiên lành. “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10). Qua Thánh Thần, Thiên Chúa ban cho ta quyền làm con, được cùng với Chúa Giê-su thừa kế gia nghiệp của Thiên Chúa (Rm 8:14-17).
Như vậy, càng sống trọn vẹn thân phận làm con Chúa bao nhiêu, ta càng trở nên giàu có bấy nhiêu. Muốn giàu có như vậy, ta phải trải qua một cuộc biến đổi. Càng trở nên giống với Chúa Giê-su thì ta càng giàu có với những giá trị của Tin Mừng. Cuộc Ki-tô hóa thể hiện nơi ta sẽ phục hồi tất cả những gì bị mất đi do tội lỗi. Gia nghiệp của Thiên Chúa cứ mỗi ngày một thuộc về ta và vinh quang Thiên Chúa càng gần kề ta hơn nữa.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Của cải tiền bạc đã chi phối cuộc sống tôi như thế nào? Tôi có thực sự làm nô lệ cho chúng không?
Tôi có lo lắng cho anh chị em trong những nhu cầu dù bé nhỏ nhất của họ không?
Là người môn đệ của Chúa Giê-su, tôi có trông lên Chúa như mẫu gương để có thái độ đúng khi sử dụng tiền của không?
Tôi khám phá được những gì nơi sự giàu có của Chúa Giê-su?
Cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.”
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 13)

28. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
“Phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam”. Đó là lời dạy của Chúa Giê-su. Người không viết một bài khảo luận để nói với ta về sự tham lam, nhưng Người kể một dụ ngôn, dụ ngôn nhà phú hộ. Việc làm và não trạng của nhà phú hộ phản ảnh không biết bao nhiêu người mọi thời mọi nơi và là câu truyện có thể áp dụng vào mọi lãnh vực cuộc sống, từ giàu có về vật chất của cải cho đến giàu có về danh tiếng chức vị. Dụ ngôn còn đưa ta tới một chân lý vô cùng quan trọng cho ý nghĩa cuộc đời: làm giàu trước mặt Thiên Chúa.
1) Lòng tham không đáy
Không biết ai đã nghĩ ra được hình ảnh cụ thể này để diễn tả lòng tham lam của con người! Đúng vậy, không có đáy thì chẳng bao giờ có thể đầy được. Đáy là phần cần thiết của một vật chứa đựng để giữ lại những gì trong đó và cho ta thấy thế nào là đầy là vơi. Một ly nước dù to hay nhỏ, nhờ đáy ly giữ lại phần dung tích, ta biết chúng đầy khi nước lên tới miệng ly. Không phải vì ly nhỏ mà ta bảo nó không đầy khi so sánh với ly lớn.
Làm sao ta biết nhà phú hộ trong dụ ngôn Chúa kể, lại là người có lòng tham không đáy? Lòng tham của ông ta biểu lộ qua tính toán và ích kỷ. Tính toán để làm tăng thêm của cải tiền bạc và ích kỷ vì không muốn dùng của cải tiền bạc ấy cho bất cứ người nào khác ngoài mình ra. Thoạt đầu dụ ngôn, ta đã tưởng nhà phú hộ sẽ dừng lại, bằng lòng với sự giàu có của ông và có một kế hoạch để sử dụng cho đúng những tài sản ông ta đang có. “Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!” Nhưng trái lại, ông ta đã không vượt quá con người của ông để nhìn thấy có biết bao công việc lợi ích ông có thể làm với núi tài sản của ông. Nào là giúp đỡ những người cùng khổ đang sống bên cạnh ông, tăng lương cho những người làm công cho ông. Nào là đóng góp xây dựng cho ngôi trường học tại thành phố của ông để con em có nơi học hành tử tế. Hội đường của cộng đồng ông đang cần nới rộng thêm để nơi thờ phượng được xứng đáng hơn… Chắc chắn ông đã nhìn thấy những nhu cầu đó. Tuy nhiên những nhu cầu xã hội ấy lại không thể cân nặng bằng sự “nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã” của ông. Do đó, ông ta lại thấy vẫn còn chỗ để tích trữ hoa mầu và vẫn có những việc để ông ta làm cho riêng mình. Thế là ông ta lại lên kế hoạch làm giàu. Cái đáy tưởng đã có, giờ đây lại rơi đâu mất rồi!
Người tham lam bao giờ cũng có kế hoạch. Họ chỉ nhắm một mục đích làm giàu. Cho nên họ rất nhạy bén trước cơ hội và tìm cách nắm bắt cơ hội. Vì “còn chỗ đâu mà tích trữ hoa màu” nên kế hoạch của nhà phú hộ là phá những kho cũ đi và xây những kho mới lớn hơn. Nhưng rồi chẳng biết những kho mới xây sẽ lớn hơn cho tới bao giờ, hay cũng chỉ vài ba năm lại không đủ chỗ chứa! Rồi kế hoạch sau khi xây kho mới là “nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi cho đã”. Hay kế hoạch này rồi cũng lại phải hoãn lại vì tiền bạc của cải chưa đủ? Đúng là cái vòng luẩn quẩn, cái kho không đáy và không bao giờ dừng lại được.
2) Dừng!
Năm chục năm trước, cha Vũ minh Nghiễm, dòng Chúa Cứu Thế, có viết một cuốn sách suy niệm lấy tên là Dừng! Những bài suy niệm mời gọi ta phải biết dừng lại trong mọi lãnh vực cuộc sống, để hướng về cầu nguyện, suy nghĩ và dành những giây phút cho Chúa. Một trong những lãnh vực khó dừng nhất, đó là làm giầu. Thay vì dừng để nghĩ tới Chúa và tha nhân, người ta chỉ biết nghĩ đến tiền. Họ cũng nghĩ tới Chúa và tới người khác, nhưng thường là cớ để họ lao đầu đi kiếm tiền thêm. Họ nêu lên lý do: tôi phải làm nhiều tiền để giúp nhà thờ (!), cho tương lai của con cái. Thế là lễ Chúa Nhật chẳng đi, con cái cũng chẳng được vài ba giờ với cha mẹ mỗi ngày.
Người ta không biết dừng làm giàu, vì họ gán cho tiền bạc của cải một giá trị thực sự chúng không có. Họ theo triết lý “có tiền mua tiên cũng được”. Nhưng lầm. Chúa Giê-su nói thẳng: “Không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”. Bao nhiêu người giàu có đã chết, cả khi chưa kịp “nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã”.
Cho nên điều quan trọng là phải biết giá trị đích thực của tiền bạc của cải. Giá trị của chúng chỉ có giới hạn và là những ơn lành Chúa ban để ta sử dụng cho những mục đích tốt lành. Vì giá trị tương đối của chúng, nên ta không thể đặt chúng lên hàng đầu được. Chúa Giê-su dạy ta biết phải làm gì. Người nói: “Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:32-33). Làm theo lời Chúa dạy như thế là ta đang “lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa”, vì “cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11:9). Những gì ta tích trữ dưới thế này ta sẽ không mang theo được khi chết, nhưng ta “hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được” (Mt 6:20).
3) “Bán của cải đi mà bố thí”
Thánh Lu-ca ghi lại những lời dạy của Chúa Giê-su về việc sử dụng của cải tiền bạc trong chương 12. Kết luận là lời khuyên của Chúa: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí” (Lc 12:33). Tiền bạc của cải phải có một hướng đi cho đúng. Ta không thể để chúng lẩn vẩn đầu óc và chi phối cuộc sống. Nhưng chúng phải được luân lưu, chuyên chở những giá trị tinh thần và đạo đức, tạo một thế quân bình trong đời ta. Khi ta “bán” của cải đi và “bố thí” thì không có nghĩa là mất, mà là dùng nó để tạo nên một giá trị mới nơi ta và nơi tha nhân. Nếu ta chỉ ôm của cải tiền bạc cho mình, ta cũng sẽ giống như ông nhà giàu, trái tim càng ngày càng nhỏ lại và chai cứng trước nỗi khổ đau của anh La-da-rô nghèo khó (Lc 16:19-31). Trái lại, nếu ta dùng của cải tiền bạc để làm việc hữu ích và lo cho tha nhân, ta sẽ có trái tim mang chiều kích của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, quan phòng nuôi nấng muôn loài muôn vật.
Chúa Giê-su đến để ta được sống và sống phong phú theo tầm vóc của Người (Ga 10:10). Sự sống nơi Người đã được phát triển toàn hảo theo sự giàu có Thiên Chúa muốn thực hiện, để làm gương mẫu cho mỗi người noi theo mà đạt tới sự giàu có ấy. Chúa Giê-su không chỉ bán của cải mà bố thí, nhưng Người còn “bán đi” chính thân mình để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ nhân loại. Người đã yêu thương nên cho đi tất cả những gì Người có. Người đã sống nghèo khó để làm giàu cho Thiên Chúa và nhân loại. Ước mong ta được Chúa ban cho những ơn lành vật chất, thì xin Người cũng cho ta biết cách sử dụng những ơn đó theo tình yêu, bác ái và lòng thương xót Người hằng dạy dỗ ta.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tham lam là một tính xấu rất khó nhận diện trong cuộc sống, len lỏi vào từng lãnh vực nhỏ bé nhất. Vậy có bao giờ tôi thử tìm ra những “vi khuẩn” tham lam trong đời sống của tôi không? Tôi có để ý tập sống quảng đại, để diệt trừ dần dần tính tham lam không?
Tiền bạc của cải có giá trị nào trong cuộc sống của tôi?
Tôi đang làm giàu trước mặt Chúa như thế nào?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su,
xin cho con một tâm hồn
theo hình ảnh Tấm Bánh Thánh
Một tâm hồn trong trắng,
cố tránh cả những ô uế nhỏ mọn
để luôn xứng đáng với Chúa.
Một tâm hồn khiêm hạ
tìm chiếm chỗ nhỏ bé,
nhưng luôn luôn muốn bày tỏ
một tình yêu lớn lao.
Một tâm hồn đơn sơ,
không biết đến những phức tạp của ích kỷ,
và tìm hiến dâng mà không đòi lại.
Một tâm hồn lặng lẽ,
hạnh phúc khi thấy sự quảng đại của mình
không được người khác biết đến.
Một tâm hồn nghèo khó,
chỉ làm giàu cho mình
nhờ chiếm được chính Chúa.
Một tâm hồn luôn hướng về tha nhân,
quan tâm đến những nhu cầu và ước muốn của họ.
Một tâm hồn luôn kết hiệp với Chúa,
và múc lấy nguồn sống từ nơi Chúa.”
– Cha Galot
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 103)

29. Đồ dại! – André Sève.
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Tôi lắng nghe người dại này đang suy tính như thể ông là người duy nhất trên thế giới và hoàn toàn làm chủ cuộc đời của mình: Tôi… tôi… Những kho lẫm của tôi, lúa gạo của tôi… Tích trữ, lợi dụng cuộc sống lâu dài, luôn mãi. Ông ta điên, ông ta làm tôi ghê tởm. Ông ta là người duy vật đến độ đó! Ăn uống phủ phê, từ chối nhìn xa hơn. Tôi vỗ tay khi Chúa la ông ta: “Đồ dại!” Thật là đúng. Nhưng thế giới đã trở nên một xã hội tiêu thụ trứ danh. Xã hội này có sản sinh loại người dốt đặc cán mai này hay không? Sự “Khắc Khổ” Tây phương dù sao thì cũng là sự dồi dào và tôi không thoát được sự tìm kiếm an ninh và tiện nghi như tất cả mọi người. Những ý tưởng của tôi là gì? Sức khoẻ, lương bổng, căn nhà phải trả góp, cái máy truyền hình phải đổi, chiếc xe hơi, số tiền hưu…
Những ý tưởng xấu chăng? Đúng, nếu đó là những ý tưởng hoàn toàn cai trị tôi, xua đuổi dần những ý tưởng Kitô lớn lao của tôi: Yêu mến Chúa, thay đổi thế giới, hiến thân cho anh em, dùng thì giờ để cầu nguyện.
Chúng ta là một chiến trường thật sự đối với hai loại ý tưởng độ lượng và ích kỷ, tin tưởng và duy vật. Khi Chúa thấy chúng ta đang sa lầy trong những dự định trong đó chỉ có vấn đề tham vọng và tiện nghi, làm sao Ngài không la lên “Đồ dại!” được? May cho người vừa nghe tiếng la này đúng lúc! Bởi vì có câu tiếp theo: “Đêm nay, linh hồn ngươi sẽ bị đòi lại”. Điều đó có lẽ không gây ấn tượng cho chúng ta. Toàn là thấy những người khác chết mà thôi. Tuy nhiên, rồi chúng ta cũng phải chết!
Nếu chúng ta để mình bị lây nhiễm; có ai mà hoàn toàn miễn nhiễm! – do thuyết định mệnh của người ngoại đạo, chúng ta hãy xem lời mắng của Chúa Giêsu là dành cho chúng ta: “Đồ dại!” Một người khôn, một Kitô hữu, không thể sống mà không nghĩ rằng cuộc sống của mình bao gồm hai giai đoạn: ở dưới thế này và vĩnh cửu. Cuộc sống trần thế của chúng ta chỉ huy cuộc sống vĩnh cửu của chúng ta. Thực sự là dại dột khi chỉ nghĩ đến những gì sắp diệt vong mà không chú ý tới những gì sẽ tồn tại. Chúng ta có nguy cơ chết như người đặt cuộc đời mình trên những vựa lúa: “Đó là điều xảy đến với kẻ thu tích của cải cho mình thay vì làm giàu trước nhan Thiên Chúa.”
“Trước nhan Thiên Chúa” Điều này cho chúng ta biết ý nghĩa của từ dại trong Thánh Kinh: “Người dại dột chính là kẻ quên lãng Thiên Chúa.” Chính vì thế, người ấy mất dần điều mà người ấy có được khi lui tới với Chúa nhờ sự khôn ngoan. Người ấy dấn sâu vào chủ nghĩa duy vật và sự bế tắc của tất cả những gì người ấy không thể để vào quan tài của mình.
Vở kịch nhỏ về tâm lý: tôi thấy mình đang nằm trên giường bệnh viện, đang hấp hối. Tôi mang gì theo lên trời? Người ta chỉ mang theo tình yêu thực sự đã được sống, thứ tình yêu dần dần dệt nên ở dưới thế này hữu thể vĩnh cửu của chúng ta. Lạy Chúa, xin hãy làm cho con từ bây giờ lại trở nên ham mê tình yêu chứ không phải của cải.

30. Ba thái độ đối với tiền của
(Suy niệm của Lm. Anphongsô Nguyễn Công Minh – lấy ý từ bài viết của ĐGM. Bùi Tuần)
Bài Tin Mừng hôm nay nói về của cải: tích trữ của cải. Nhưng của cải thường được quy ra tiền để dễ xếp thứ hạng xem ai giàu nhất.Ta thử suy gẫm về “tiền” theo gợi ý của Đức Giám Mục Bùi Tuần:
Tiền không biết nói, nhưng bao giờ cũng có tiếng nói về đồng tiền. Tuy nhiên nói chưa nhiều bằng nghĩ. Mấy gia đình không có những người nghĩ đến tiền, dù chỉ trong một buổi. Tiền chẳng cần ai, nhưng ai cũng cần tiền. Cần mà không dễ có. Muốn có phải lo tìm. Tìm hoài vẫn thường không đủ. Không đủ nên mới lại cần; cái vòng luẩn quẩn đó dắt con người làm quen với tiền. Từ quen tới quen thuộc. Từ quen thuộc tới quen thân, cứ thế đồng tiền ung dung đi vào cuộc đời con người bằng đủ mọi đường mọi ngả.
Đồng tiền là vật chất nhưng nó không như sự vật khác. Dù rách, dù hôi nó vẫn được quí. Dù đẹp dù xấu nó vẫn được yêu. Dù mới tinh còn thơm mùi mực in hay cũ kỹ nhầu nát, nó vẫn được cất giữ. Phải chăng tương quan giữa người và tiền có gì đặc biệt?
Ta có thể kể ra 3 tương quan:
1. Con người cần tiền.
Con người cần tiền không phải vì tiền. Mà con người cần tiền vì tiền cho những trị giá, cho những trị giá vật chất và cho cả trị giá tinh thần. Trị giá vật chất là tôi cần ăn, tiền cho tôi những ký gạo. Tôi cần uống, tiền cho tôi chai nước cam. Tôi cần mặc, tiền cho tôi quần áo. Tôi cần nơi ở, tiền cho tôi mái nhà…
Trị giá tinh thần là khi tôi cầm tiền trao cho một người túng thiếu, tôi không mua được cái gì vật chất, nhưng tôi có niềm vui vì đã giúp đỡ. Trị giá tinh thần là khi tôi mua một cuốn sách: sách kiến thức mở mang tâm trí tôi, sách thiêng liêng, dạy tôi kết hợp với Chúa hơn. Sách nhân bản giúp tôi sống xứng đáng là người hơn. Một con người hơn con vật nhờ tinh thần: Linh ư vạn vật
Trị giá tinh thần cũng có thể là những ngày nghỉ ngơi, những giờ giải trí, những phút vui chơi, tạo thảnh thơi tâm hồn. Phải có tiền mới có những giá trị đó. Dùng tiền để mua những nhu cầu, những cái cần thiết cho cuộc sống, đó là thái độ thông thường nhất của những con người trong tương quan với tiền: Con người cần tiền.
Nhưng người ta cũng thường nói: được voi đòi tiên. Muốn được tiên, phải có tiền. Có tiền mua tiên cũng được. Vì thế, từ “cần tiền”, con người khi thấy mãnh lực hấp dẫn của nó sẽ dễ dàng chuyển sang “mê tiền.”
2. Con người mê tiền
Khi thấy đồng tiền không chỉ mua được những trị giá vật chất và tinh thần cần thiết, mà còn có thể mua được nhiều cái hơn thế nữa, nhất là trong xã hội tư bản chuộng đồng tiền, thì người ta mê tiền, khi mê thì ca tụng nó:
Đồng tiền là tiên là phật – Là sức bật của tuổi trẻ, là sức khoẻ cuả tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng che thân, là cán cân công lý. Ôi đồng tiền, hết ý!
Rồi nhìn vào xã hội, thấy người có nhiều tiền được kính nể. Nghề có nhiều tiền được coi là nghề quí. Người khéo làm ra tiền được coi là người giỏi. Vì thế mà đồng tiền lôi cuốn người ta theo nó. Con người trở thành kẻ mê tiền, để có tiền thì sẽ được nể nang, được khen là người giỏi, nhanh nhẹn tháo vát thành công. Để được gọi là ông. “Còn tiền còn bạc còn đệ tử, hết cơm hết gạo hết ‘ông tôi’ ” (Nguyễn Bỉnh.Khiêm).
Con người cần tiền để giải quyết các nhu cầu. Mà nhu cầu thì diễn ra hàng ngày. Do đó con người có thói quen dùng tiền. Mà thói quen nào cũng có thể chuyển thành đam mê. Quen chơi bài thành mê bài bạc. Quen chọi gà thành mê đá gà. Quen dùng tiền, thấy tiền tiện lợi, bỏ túi được, đưa cho ai họ cũng nhận, không trả giá kỳ kèo như khi trao đổi đồ vật – thì mê tiền. Mê đến cực độ thì mù quáng. Ta gọi đó là tương quan thứ ba:
3. Con người thờ tiền
Đam mê cái gì quá mức thì tôn thờ cái đó, trở thành mù với tất cả mà chỉ sáng chỉ thấy với cái mình thờ. Người ta nói đâm mê sắc dục thì mù quáng nhất, nhưng thiết tưởng tính mê tiền cũng mù quáng không kém. Người đam mê sắc dục tới độ nào đó sẽ biết mình lỗi lầm, hối hận. Còn người mê tiền thì có thể mơ đến nó suốt đêm, bàn đến nó suốt ngày, vơ vét nó suốt tháng và tích trữ nó cả năm mà vẫn không thấy (tức là mù quáng) vấn đề ít ra thỉnh thoảng cần xét lại. Họ tự phụ trong cái mê đó, nhiều khi còn mặc cho nó chiếc áo đạo đức: tôi kiếm tiền như thế mới giúp đỡ kẻ khó, mới mở rộng Nước Chúa được, mới đủ điều kiện giáo dục con cháu.
Bây giờ thử hỏi chúng ta có phải là kẻ mê tiền không thì chắc gần như 90% ta sẽ trả lời là không, huống hồ là câu hỏi ta có thờ tiền không – thì càng trăm phần trăm “không!”. Vì trên bàn thờ của ta trong gia đình vẫn là “Lái” Tim Chúa chứ đâu có đồng bạc nào. Ta đâu có thờ nó!
Nhưng ta không để tiền trên bàn thờ mà để trong lòng trong trí ta hầu lúc nào cũng nhớ đến nó. – thì còn thờ nó hơn 100 lần ta để trên bàn thờ. Mà có cái lạ là càng giàu, càng nghĩ tới nó. Thử làm một quan sát nhỏ: mỗi tuần có một thánh lễ Chúa nhật, tạm gọi là giờ thờ phượng Chúa đúng nghĩa. Nhưng thử xem ai là kẻ đến trễ, ai là kẻ về sớm, ai là kẻ không đi? Hình như xã hội, lớp người càng khá giả ra, càng làm ra tiền thì càng xa Chúa hơn. Ấy là chưa nói thánh lễ giờ kinh ngày thường, thường vắng bóng họ.
Đồng tiền là khúc ruột. Đụng tới tiền bạc là đụng tới khúc ruột của nhiều người. Muốn đụng tới mà không đau, cần phải có nhiều giờ để rào trước đón sau, diễn giải dẫn dụ, nhưng điều đó lại không làm được trong giờ phút ngắn ngủi chia sẻ Lời Chúa này vì cũng còn phải kết thúc sớm đặng về lo làm ăn kiếm tiền – dù hôm nay là Chúa nhật nữa chứ!
Nhưng ta nhớ rằng Chúa Giêsu nói không ai có thể thờ hai chủ: vừa thờ Thiên Chúa vừa thờ Tiền Của! Cái nguy cơ là ta thờ tiền mà ta không biết. Xin cho lời kinh Tin Kính mà ta sắp tuyên xưng trong đó ta tuyên xưng chỉ thờ một Thiên Chúa duy nhất, chỉ tin kính mình Ngài, luôn ở mãi trong tâm trí ta, để dù bận rộn làm ăn, ta vẫn không đặt Chúa bên lề, mà để Tiền Của bên trên. Amen.

31. Làm giàu vì biết chia sẻ – Achille Degeest
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Một trong những nét bất biến của tâm lý nhân loại là bất cứ điều gì cũng quy về mình. Chúng ta để sang một bên những khảo sát công phu chẳng ràng buộc gì hết, có thể được chú ý như một trò chơi luyện trí. Chúng ta tạm đứng ở tầm mức người ta cảm thấy cuộc sống cuộc sống mình, quyền lợi mình bị liên quan. Một lời giảng dạy cao siêu sẽ bị hiểu theo chiều nào thuận cho quyền lợi riêng. Ở đây cũng vậy.
Đức Giêsu vừa dạy rằng con người sống ở thế gian phải quan tâm đến sự phán xét của Thiên Chúa sau này. Một thính giả thấy vậy ngỏ lời: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi”. Nghe rõ lời Chúa, nhưng người ấy giải thích theo lòng tham, cho rằng: Rabbi này nói hay, hình như có uy quyền, ta xin Thầy can thiệp giải quyết dùm vấn đề tranh chấp gia tài. Lời dạy rất quan trọng của Đức Kitô lọt vào tai người ấy, biến thành một cách giải thích lợi cho mình, hợp với quyền lợi riêng tư.
Đức Giêsu trả lời như vẫn thường làm: Phải phân biệt chính yếu và phụ thuộc, vĩnh cửu và chóng qua, quan trọng và kém quan trọng. Gia tài, tư sản giúp được gì cho người ta khi đến trước tòa Thiên Chúa? Nguy cơ là muốn áp dụng lối giải thích vụ lợi, muốn thu hẹp lời dạy cao siêu của Phúc Âm. Chúng ta liệu có tránh được cám dỗ ấy không?
1) Điều quan trọng là không được biến Phúc Âm thành một bộ luật cách mạng xã hội, không được định nghĩa sứ mạng dưới thế của Đức Kitô như một cách mạng định kỳ với mục tiêu phân chia của cải. Phúc Âm chủ trương công bằng, nhưng đòi hỏi nhiều hơn nữa. Trong quan hệ người với người, công bằng chưa đủ, vì nhược điểm nhỏ nhất của nó là tính chất bấp bênh. Phúc Âm đi vào vấn đề chính yếu, bắt buộc con người phải ý thức rõ về mình trước con mắt Thiên Chúa. Đức Giêsu nói: “Hà tất tranh giành nhau về những của cải chóng qua, chóng hết? Tại sao có thể tự tại trong tình trạng an toàn vật chất giả dối? Chốc nữa đây, khi phải trả lời câu hỏi tối hậu của Thiên Chúa về cuộc đời mình, các ngươi sẽ ăn nói làm sao? Những câu hỏi này của Đức Kitô đặc biệt gửi đến những Kitô hữu và cả đến những xã hội, những nền văn minh nữa. Những kẻ có trách nhiệm trực tiếp nhất phải trả lời là những Kitô hữu. Chúng ta nhận xét thêm, sở dĩ một số cách mạng phát sinh bởi trước kia hoặc hiện nay người Kitô hữu không trả lời đúng cách những câu hỏi của Đức Kitô.
2) Đức Giêsu nói về sự cần thiết tránh tích trữ của cải cho chính mình, trái lại phải làm giàu theo ý định của Thiên Chúa. Ở đây Chúa nói ra một ý tưởng Người thường nhắc tới, là sự chia sẻ trong tình huynh đệ. Công bằng chỉ đưa ra những đòi hỏi giới hạn, công bằng là một thái độ đối xử tối thiểu. Vấn đề chính yếu trong con mắt Thiên Chúa là sự công bằng sung mãn liên kết người với người như anh em ruột thịt, nó hậu thuẫn cho tình yêu, cho bác ái. Không thể có tình huynh đệ nếu thiếu điều kiện tiên quyết là sự công bằng. Tuy vậy, công bằng mà tuyệt nhiên không thương yêu nhau thì cách đối xử công bằng cũng chẳng bền vững.
Chính tình yêu mở rộng tấm lòng để sẵn sàng chia sẻ, tình yêu khiến chúng ta trở nên giàu có trước con mắt Thiên Chúa.

32. Suy niệm của Charles E. Miller
(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’)
CẦU NGUYỆN NHƯ NHỮNG NGƯỜI CÔNG GIÁO VỚI ĐỨC GIÁO HOÀNG.
Trong cuốn sách Bước qua ngưỡng cửa hy vọng, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trả lời câu hỏi: “Giáo Hoàng đã cầu nguyện như thế nào, cho ai và cầu nguyện những gì?” Ngài đã trả lời bằng một câu mở đầu của Hiến chế vè Giáo Hội trong thế giới ngày nay của Công đồng Vatican II, điều này không có gì ngạc nhiên bởi vì ngài là Giám mục của Công đồng, ngài có mặt trong một ủy ban soạn thảo tài liệu này và được viết bằng tiếng Latin là Vui Mừng và Hy Vọng. Đây là đoạn Đức Giáo Hoàng thuộc nằm lòng: “Niềm vui và hy vọng, đau thường và những lo âu của dân chúng trong thời đại này, đặc biệt là những người nghèo khổ hoặc bị đau buồn bởi bất cứ cách nào là niềm vui và hy vọng, những đau thương và lo âu của những người đi theo Đức Kitô”. Đây là tâm tình và sự hoàn hảo theo phẩm giá của Chúa Giêsu: “Hãy tránh tham lam trong mọi hình thức”. Tham làm thúc đẩy chúng ta cầu nguyện cho những lý do ích kỷ hơn là cầu nguyện cho những người có nhu cầu như Đức Giáo Hoàng đã làm.
Dĩ nhiên Đức Giáo Hoàng như là mục tử của Giáo Hội phổ quát, dĩ nhiên ngài không được quên bất cứ ai hoặc bất cứ nhu cầu nào có liên quan đến ngài, đặc biệt trong lời cầu nguyện của ngài. Và những gì là đúng cho Đức Giáo Hoàng thì điều đó cũng đúng với mỗi người chúng ta theo những cách thế riêng của mình khi chúng ta mang danh”là người Công giáo”, một danh xưng chỉ định rằng chúng ta là một Giáo Hội phổ quát và không giới hạn trong một dân tộc nào, một quốc gia nào, một văn hóa nào.
Chủ nghĩa Công Giáo của chúng ta và những nỗ lực của chúng ta để lướt thắng những tham lam được tỏ hiện bằng việc chúng ta cầu nguyện trong khi cử hành phụng vụ Thánh Thể. Điều đặc biệt ý nghĩa là lời kinh của các tín hữu. Danh xưng này chỉ định rằng, sự cầu nguyện là phần thực hành của chức linh mục cộng đồng, điều đó được tuôn tràn từ bí tích Rửa tội, chức linh mục cộng đồng đã được tuôn tràn từ bí tích Rửa tội. Được biết như là”sự cầu bầu phổ quát”. Danh xưng này chỉ định rằng chúng ta có bổn phận phải cầu nguyện cho tất cả mọi người chứ không phải chỉ đơn giản những nhu cầu riêng biệt của chúng ta. Chúng ta phải dâng lời cầu xin cho Giáo Hội tại địa phương cũng giống như trên khắp thế giới, cho các vị lãnh đạo đời, những người bị áp bức và những người có nhu cầu, cũng như cho tất cả mọi người được ơn cứu độ. (x.. lời giới thiệu chung của sách lễ Roma số 45).
Kinh nguyện Thánh Thể cũng liên hệ trong câu mở đầu của Hiến chế về Giáo Hội trong thế giới ngày nay. Lời kinh nguyện Thánh Thể thứ ba đã cầu nguyện một cách đặc biệt hầu như không bỏ sót hoặc quên bất cứ ai: “Lạy Chúa xin cho lễ hy sinh này tuôn đổ bình an và ơn cứu độ cho tất cả thế giới. Xin hãy cho tăng thêm sức mạnh cho đức tin và lòng mến… cho toàn thể mọi người mà con của Cha đã tụ họp lại. Trong tình yêu nhân từ và hợp nhất toàn thể con cái của Cha ở bất cứ nơi nào mà họ hiện diện… Xin hãy tiếp đón vào vương quốc của Cha… tất cả những ai rời bỏ thế gian này trong tình thân hữu với Cha”.
Dĩ nhiên, chúng ta có thể và sẽ cầu nguyện trong chính những nhu cầu của chúng ta, cho những người mà chúng ta yêu mến, chúng ta cũng cần nhắc nhở về lời của Thánh Phaolô rằng: “Chúng ta phải đưa tâm trí của chúng ta đến với những lãnh vực cao hơn. Chúng ta sẽ hướng tới những lãnh vực cao hơn khi chúng ta quảng đại và không ích kỷ trong lời cầu nguyện. Phải thêm rằng chỉ có kinh nguyện cho những người có nhu cầu thôi thì không đủ. Chúng ta cũng cần hành động, hành động đó đã được linh hứng và thúc đẩy bởi kinh nguyện. Người khác có thể lâm vào sự nghèo khổ, coi thường những người lãnh lương hưu trí, khinh bỉ dân nhập cư, và chọn lựa cuộc sống tách biệt khỏi những khốn khổ của con người nhưng họ không phải là những người Công giáo. Chúng ta tin rằng”niềm vui và hy vọng”, đau thương và những lo âu của mọi người trong thời đại này, đặc biệt là những người nghèo khổ hoặc bất cứ những đau buồn cách nào, là những niềm vui và hy vọng, đau thương và lo âu của người môn đệ Đức Kitô”.

33. Nguy hại của việc tham lam của cải – Veritas
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Bài Phúc âm hôm nay tựu trung có thể nhắc chúng ta nhớ lại một điểm quan trọng, đó là người đồ đệ của Chúa cần phải xây dựng đời sống của mình trên chính Chúa, chứ không phải trên những của cải lợi ích vật chất. Lời xin của một người vô danh, một người trong đám đông đến nghe Chúa Giêsu giảng: “Xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi”. Lời xin này xem ra là một yêu cầu hết sức hợp lý từ quan điểm của người đến xin Chúa Giêsu.
Theo thói quen trong xã hội Do thái thời Chúa Giêsu, những vị thông luật, những biệt phái lãnh đạo dân chúng thường có vai trò như những thẩm phán của xã hội của chúng ta ngày nay. Họ giúp dân chúng giải quyết những tranh tụng hàng ngày. Vả lại, Chúa Giêsu cũng rao giảng Tin Mừng của công bằng, tình thương, bác ái. Vì thế, người đến xin Chúa: “Xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi”. Để nhìn về Chúa Giêsu như là một người có uy tín, một vị trọng tài uy tín có thể giúp anh giải quyết vấn đề với người anh trong gia đình, anh có quyền nghĩ như thế và đòi như thế. Vì Chúa Giêsu giảng dạy sự khôn ngoan, giảng dạy lẽ phải và sự công bằng. Nhưng chúng ta hơi ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu từ chối lời yêu cầu của anh: “Ai đặt tôi làm trọng tài xét xử những việc này” Nhưng thật ra đây không phải là lời từ chối, nhưng những gì Chúa Giêsu kể tiếp về dụ ngôn cho chúng ta thấy là Chúa Giêsu giúp anh hay giúp mỗi người chúng ta giải quyết những vấn đề vật chất của mình.
Chúa Giêsu kể tiếp dụ ngôn về người giàu có chỉ biết xây dựng đời mình trên của cải vật chất mà quên đi mối liên hệ sâu xa hơn với Chúa, mối liên hệ của cuộc sống đời này và hạnh phúc đời sau. Chúa Giêsu nhắc lại một sự thật căn bản là đời sống con người không phải chỉ giới hạn trên trần gian này mà thôi, và cũng không phải chỉ được xây dựng trên của cải vật chất.
Nếu quả thật đời sống con người chỉ có trần gian này mà thôi thì nếp sống của chúng ta có thể sẽ phải như là nếp sống mà một nhà hiền triết Hy Lạp đã nói: “Cà phê đi em, hãy hưởng thụ cho đã rồi thôi”. Nhưng không phải chỉ có thế, đời sống con người trên trần gian này là một giai đoạn của một cuộc sống mãi mãi trong Chúa. Đây là sự thật căn bản mà Chúa Giêsu muốn nhắc lại cho tất cả mọi người cũng như cho người đến xin Chúa giải quyết một trường hợp cụ thể trong cuộc sống hàng ngày là chia gia tài cho tôi.
Đặt cuộc sống con người trong viễn tượng đời đời mà mỗi người chúng ta cần thực hiện điều này luôn luôn trong mọi giây phút. Chúng ta cần đặt cuộc sống của mình trong viễn tượng đời đời, để rồi từ đó chúng ta mới có thể nhận được sự soi sáng mà dễ dàng giải quyết những xung đột nhỏ nhoi, những tranh chấp, ganh tị, thù hận làm mất sự bình an trong tâm hồn.
Chúng ta hãy xác tín rằng, Phúc âm Chúa đòi buộc ta sống công bằng, chia sẻ và yêu thương. Nhưng đòi buộc này không phải là chỉ đòi buộc những việc cụ thể bên ngoài mà thôi, mà đòi buộc ăn sâu vào trong lương tâm mỗi người chúng ta. Phúc âm Chúa không phải chỉ là trọng tài để giải quyết những xung đột của nhau, nhưng là giúp cho mọi người sống trọn giới luật yêu thương.
Áp dụng vào trường hợp của Giáo Hội hôm nay, chúng ta cũng có thể nói Giáo Hội trong thời đại chúng ta đang sống cũng bị thách thức như Chúa Giêsu ngày xưa. Có những người muốn Giáo Hội dấn thân thật cụ thể vào trong một đảng phái chính trị, bênh vực lập trường của đảng phái chính trị nào đó, trình bày những giải đáp kỹ thuật cụ thể cho những vấn đề được đặt ra trong xã hội.
Đôi khi đây cũng là những cám dỗ cho những người đồ đệ của Chúa, cho mỗi người chúng ta. Nhưng ơn gọi và sứ mạng của Giáo Hội là một cái gì sâu xa hơn, ăn sâu vào trong lương tâm của mỗi người. Giáo Hội được mời gọi rao giảng, nhắc nhở cho mỗi người sống về sự thật căn bản mà Chúa đã mạc khải. Đời sống con người không hạn hẹp trên trần gian này, nhưng là một mở rộng hướng về cõi đời đời và được tiếp tục trong cõi đời đời.
Giáo Hội được mời gọi đề nghị và bảo vệ một tinh thần, tinh thần Phúc âm và tinh thần này tác động sâu xa nơi từng lương tâm con người. Giáo Hội mà mỗi người chúng ta không nên để mình bị ràng buộc bởi những chế độ, bởi những lợi ích của phe nhóm. Chúng ta không đến với Chúa để xin Chúa bảo anh tôi chia gia tài cho tôi. Mặc dù đây là một yêu cầu hết sức hợp lý, nhưng chúng ta hãy đến với Chúa để Chúa soi sáng cho mỗi người chúng ta được nhận thức rằng, đời sống con người của chúng ta trên trần gian này là một chuẩn bị để đi về trời, để bước vào cõi đời với Chúa.
Trong viễn tượng, mỗi người chúng ta được mời gọi sử dụng những của cải, những tài năng Chúa ban cho để phục vụ cho anh chị em và xây dựng một xã hội tốt đẹp. Và cũng trong viễn tượng này mà mỗi người chúng ta được mời gọi giải quyết những xung đột nhỏ nhoi, những tranh chấp, những ganh tị, những thù hận làm mất đi sự bình an trong tâm hồn.
Một khi đã đặt cuộc đời mình trong cuộc sống đời đời, trong viễn tượng cuộc sống đời đời; một khi đã đặt cuộc sống mình trên nền tảng là Chúa Giêsu thì chúng ta sẽ biết giải quyết dễ dàng những xung đột hằng ngày xảy ra trong cuộc sống. Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trưởng thành trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.

34. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Lời sách Giảng Viên đã có một thời được đón nhận, suy niệm và lưu truyền trong xã hội Kitô Giáo, nó trở thành sách gối đầu giường của bao thế hệ trẻ, ngày nay người ta coi như nó là cái cản trở cho mọi tiến bộ văn minh, như tư tưởng phản động làm trì trệ mọi nhiệt tình xây dựng một xã hội thịnh vượng và trù phú. Những giòng tư duy đang có ảnh hưởng trên nhân loại ít nhiều đều chối bỏ, và kết án tính cách bi quan yếm thế của nó. Tuy nhiên, lời sách chỉ là một phản ánh trung thực tâm tư con người đứng trước những mầu nhiệm lớn lao của cuộc sống mà không có những yếu tố cho một câu trả lời. Lời sách mở ra sự trông chờ một mạc khải lớn lao hơn. Xét theo góc độ này, thì lời sách giảng viên mang tính nhân bản và hiện sinh biết bao? Cách đặc biệt trong giai đoạn kinh tế khủng hoảng như hôm nay. Bao nhiêu tích lũy có tính toán và được kỹ thuật hỗ trợ đang đi gần đến con số không?
Mạc khải ấy theo thánh Phaolô đã được dứt khoát trao tặng con người trong mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô. Lời sách giảng viên đưa chúng ta đến gần Đức Giêsu hơn, đó chính là khẳng định trong sách Gương Chúa Giêsu, một sách đạo đức của mọi thời đại. Ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống đã có câu trả lời toàn vẹn trong Đức Giêsu, Đấng đã phục sinh từ cõi chết để khơi nguồn sự sống mới (Kinh nguyện Thánh Thể 4). Trong mầu nhiệm ấy, “những gì thuộc về hạ giới”, “con người cũ”, đều đã bị đóng đinh, để “chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người”.
“Con người mới” đã được đặt lên không phải để “làm người xử kiện hay người chia gia tài”, hoặc “thu tích của cải cho mình”, nhưng là người “trở nên giàu có trước mặt Thiên Chúa”. Bởi vì, như chính Đức Giêsu khẳng định “Dẫu có được dư giả, thì mạng sống con người cũng không nhờ của cải mà được bảo đảm đâu.” Lý do thật đơn giản “Nội đêm nay người sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”. Vấn đề là làm sao để trở nên “giàu có trước mặt Thiên Chúa”?
Ngay sau dụ ngôn này, Đức Giêsu đã chỉ cho thấy “Chớ bồn chồn lo lắng! Các điều đó dân ngoại nơi thế gian kiếm tìm. Nhưng Cha các ngươi biết rõ, các ngươi cần đến các điều ấy. Song hãy tìm kiếm Nước của Người, và các điều ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi.”. Như vậy câu trả lời thật rõ ràng: “Nước Thiên Chúa” đó là của cải không thể hư hao mà chúng ta phải ra sức kiếm tìm.
Nước Thiên Chúa đã hiện diện với con người Đức Giêsu Kitô. Theo đó, cuộc sống là một “Tấm Bánh” được bẻ ra và trao ban cho một thế giới mới được khai sinh, là “Tình Yêu biết thí mạng sống mình vì người mình yêu”.
Từ hơn 2000 năm qua, chính “văn minh tình thương” ấy đã cứu vãn nhân loại trước những nguy cơ diệt vong và là tiếng nói sinh tồn của mọi nỗ lực nhân sinh. Ngày nay người ta say mê với những tiến bộ khoa học, với cái xu thế toàn cầu hóa, thế nhưng cũng chính những công trình ấy đang hình thành một thế lực hầu như không còn khả năng kiểm soát, nó biến con người trở thành những tù nhân của chính mình. Những suy thoái kinh tế chỉ là hậu quả tất yếu của cuộc cạnh tranh tàn nhẫn và vô nhân. Người ta bảo các đại công ty thua lỗ nên tạo ra ảnh hưởng giây chuyền: khiến cho các chỉ số cổ phiếu sụt giảm… Nhưng vấn đề không phải thế, những chỉ số cổ phiếu kia chỉ là những giá trị giả định được xã hội công nhận. Và khi xã hội có những biến động thì tất nhiên những giá trị giả định cũng đổi thay. Khi xã hội để bị lôi vào một chiều hướng phát triển không lấy con người trong sự toàn vẹn của nó làm nguyên tắc chỉ đạo, một sự phát triển phi nhân, tất nhiên xã hội không thể tồn tại. Cho dù xã hội làm ra thật nhiều của cải vật chất, nhưng ở khắp nơi con người vẫn bị thiếu thốn, và xem chừng không có chút tiến bộ nào và ngược lại còn gia tăng. Người ta đã nói tới 40% dân số thế giới sống trong sự nghèo đói. Ngày nay hơn bao giờ hết, người ta cần tới Tin Mừng “văn minh tình thương” để tránh nguy cơ bùng nổ chiến tranh địa phương cũng như chiến tranh toàn cầu.

35. Chuyện biết rồi vẫn cứ nói
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Tiền, bạc, của cải, một đề tài mà tín hữu Kitô dường như nghe đã quá nhiều. Oái ăm thay, những người thường lên giọng về đề tài của cải, tiền bạc thì hầu như ít bị chi phối bởi đồng tiền bát gạo kiểu cảnh “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” hay ‘dãi dầm mưa nắng’ để có cái lót dạ và sinh hoạt cho bản thân và gia đình.
Cuộc đời thật lắm điều trớ trêu. Chuyện nghịch lý như không còn là chuyện lý thuyết. Người hô hào “vô sản” thì của tiền hằng hà vô số. Người cam kết sống khó nghèo thì thật khó mà nghèo. Người chủ trương duy vật thì rất chi là chủ quan, duy ý chí, lại còn mê tín đủ điều. Người mong được rỗi linh hồn thì quá lo lắng chuyện nhà cửa, tiện nghi vật chất, cơ sở… Dù nghịch lý hay trớ trêu, thì chúng ta cũng phải đối diện với Lời hằng sống truy vấn chúng ta về thái độ của chúng ta với của cải, bạc tiền.
Ngài Côhêlét lớn tiếng: “Phù vân trên mọi phù vân, tất cả đều là phù vân”(x.Gv 1,2). Của cải, bạc tiền thảy đều chóng qua như gió thổi, như mây nổi, như chim bay. Thưa Ngài Côhêlét: Phù vân đây, chóng qua đấy, nhưng cuộc đời này không thể thiếu gió, vắng mây. Hễ bắt tay làm việc gì, dù lớn nhỏ, dù xây Nhà Thờ, nhà xứ hay lo cho con cái sắp vào niên học mới… thì thảy đều phải bước qua ngưỡng cửa “đầu tiên” là “tiền đâu?” Phù vân mà rất thân thiết, vì đồng tiền dính liền khúc ruột.
Thánh Tông đồ dân ngoại nói với tín hữu Côlôxê rằng hãy hướng lòng trí đến những gì thuộc về thượng giới và đừng chú tâm đến những gì thuộc về hạ giới. Thưa thánh nhân: “đói thì đầu gối phải bò”; “có thực mới vực được đạo”… Đôi tay ngài đã không từng sần sùi, chai sạm với nghề dệt lều vải đấy ư? Và ngài đã không từng kết án những người lười biếng, không chịu lao động đấy sao?
Quả thật vẫn có đủ đầy những luận lý để bào chữa cho thái độ sống quyến luyến với của cải vật chất. Dĩ nhiên chẳng ai dám to gan nói xóc, nói xỉa ngài Côhêlét hay thánh Tông đồ dân ngoại, nhưng vẫn có đó những lời nói cạnh, nói khía đến các “đấng bậc làm thầy” trong Giáo Hội. Các ngài đâu có lo bữa mai chạy bữa hôm như chúng mình. Các ngài đâu có quặn thắt khi con cái ốm đau hay phải chịu cái cảnh nợ nần chồng chất. Thế nhưng dù có biện bạch cách này cách khác thì chúng ta cũng phải chân nhận sự cám dỗ của đồng tiền và sức mạnh của vật chất. Chúng có thể huỷ hoại hạnh phúc chúng ta ngay trong cuộc đời này và có thể làm nguy hại hạnh phúc vĩnh cửu. Trong thực tiển, dù lắm khi sức mạnh của đồng tiền như “là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khoẻ của tuổi già, là cái đà của danh vọng…”, nhưng chính Chúa Kitô đã từng minh định: Không được làm tôi hai chủ. Không được vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của (x.Mt 6,24). Và Người còn cảnh tỉnh chúng ta rằng người giàu có vào Nước Trời khó hơn cả con lạc đà chui qua lỗ kim (x.Mt 19,24).
Của cải, tiền bạc tự nó không xấu mà trái lại là tốt đẹp vì đều do Thiên Chúa dựng nên. Thế nhưng cần phân biệt những cái tốt mang tính giới hạn, vì nó chỉ là phương tiện chứ không phải là cùng đích. “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”(Lc 12,15). Và cũng chắc chắn rằng không phải nhờ của tiền dư giả mà hạnh phúc vĩnh cửu được bảo đảm. Theo thánh Phaolô thì tham lam là một hình thức thờ ngẫu tượng. Ngẫu tượng chỉ có thể dẫn chúng ta đến chỗ diệt vong. Xin đừng quên tham lam là mối tội thừ hai trong “bảy mối tội đầu”.
Thiên Chúa không hề chỉ dạy chúng ta xem thường của cải vật chất và cũng chẳng bảo chúng ta khinh rẻ các tiện nghi vật chất. Người đã minh nhiên truyền lệnh cho chúng ta lao tác không chỉ để có cái sinh nhai mà còn để có điều kiện phát triển và hoàn thiện đúng phận người, loài thọ tạo cao cả nhất trong các loài hữu hình Người đã dựng nên, vốn là hình ảnh của Người (x.St 1,27). Vấn đề đặt ra là chúng ta cần tìm kiếm vật chất, của tiền với mục đích gì? Điều đáng trách của người phú hộ trong câu chuyện dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể đó là đã không biết trả lời câu hỏi: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”(Lc 12,20).
Cái “ngốc”của người phú hộ là khi ra sức thu tích của cải mà “không biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Nếu giả như viên phú hộ trả lời rằng của cải của con sẽ để lại cho con cháu hầu giúp chúng có điều kiện phát triển hoặc để phần nào đó giúp cho người bất hạnh thoát cảnh nghèo khổ thì có lẽ ông ta chẳng bị nguyền rủa là “đồ ngốc”.
Làm giàu truớc mặt Thiên Chúa chính là chiếc chìa khoá giúp chúng ta thoát ra khỏi sự tham lam vị kỷ. Hạn từ giàu khiến chúng ta liên tưởng đến sự phong phú, đến tình trạng được có nhiều hơn. Ai là người giàu có trước mặt Thiên Chúa? Không chút ngại ngần, xin thưa đó là người có tấm lòng quảng đại, vị tha. Vẫn từng có đó những con người lắm tiền, nhiều của cải mà con tim luôn rộng mở, tấm lòng rất quảng đại, vì Danh Chúa, vì hạnh phúc của đồng loại như ông Tôbia, hoặc như bà Gioanna, vợ ông Khuda, bà Sudana và nhiều bà khác mà tin mừng Luca ghi lại (x.Lc 8,3). Tuy nhiên, sự cám dỗ của vật chất cũng đã và đang làm nhiều người băng hoại. Cha ông chúng ta vốn cảm nghiệm rằng khi của tiền càng phình ra thì con tim thường bị bó hẹp lại. Biết bao nghĩa tình mẹ cha con cái, bao nghĩa tình huynh đệ đã nhạt nhoà, đổ vỡ chỉ vì chút của tiền, chút lợi lộc đang nhan nhãn trước mắt chúng ta đây đó.
Để nên giàu có ở đời này thì hoạ hiếm mới có chuyện đột xuất như trúng số độc đắc mà thường là do quá trình kinh doanh, tích luỷ có mục tiêu, có phương pháp và biện pháp thích hợp, hữu hiệu. Cũng vậy, để nên giàu có trước mặt Thiên Chúa, tức là ngày càng biết sống quảng đại, vị tha, vì Danh Chúa và vì hạnh phúc đồng loại thì không gì hơn hãy tìm phương thế và biện pháp để mở rộng tấm lòng của mình. Một kinh nghiệm sống từng được chia sẻ như sau: một giáo dân thú nhận rằng mình rất ngại ngần với chuyện “làm phúc, bố thí” cho người ăn xin. Tìm cặn kẻ nguyên cớ mới vỡ lẽ đó là vì trong túi anh ta thường chỉ có những tờ bạc mệnh giá lớn (50 hay 100 ngàn đồng trở lên). Sau khi được mách bảo rằng hãy luôn để trong túi một số “tiền lẻ”, thì anh ta đã tập được thói quen tốt là làm phúc bố thí cho người nghèo. Sau một vài lần sống theo lời khuyên rằng thỉnh thoảng làm một hành vi quảng đại gấp ba, gấp bốn, thậm chí gấp mười sự tính toán của bản thân, thì tấm lòng của anh ấy đã rộng thêm và như đã vượt qua một mức nào đó. Và chẳng biết tự bao giờ, chuyện lấn cấn khi “làm phúc bố thí” cho người nghèo vốn có trước đây như biến mất. Một nhân đức (thói quen tốt) đã hình thành. Không biết ở mức độ nào nhưng anh ta đang làm giàu trước mặt Thiên Chúa.

36. Bao nhiêu mới đủ – McCarthy
Suy Niệm 1. CĂN BỆNH THÍCH TÍCH TRỮ
Tolstoy kể lại câu chuyện về một người nông dân tên là Pakhom rất muốn có một ít đất đai. Ông ta dành dụm từng đồng và mua được bốn sào. Ông ta hết sức vui mừng. Tuy nhiên, ít lâu sau, ông ta cảm thấy còn chật chội, ông bèn bán bốn sào đất đó đi và mua tám sào ở một vùng khác. Nhưng điều đó không làm ông thoả mãn lâu, nên ông bắt đầu tìm kiếm ở chỗ khác.
Một buổi tối nọ, một người khách lạ đến. Pakhom đã nói về ước muốn của ông có thêm nhiều đất đai. Người khách lạ nói với ông rằng bên kia dãy núi nơi sinh sống của một bộ tộc. Những con người đơn sơ ở đây có rất nhiều đất đai muốn bán.
Ngày hôm sau, ông ra đi. Người tộc trưởng tiếp đón ông và nói: “Chỉ cần bỏ ra một ngàn rúp, ông sẽ có được một số đất đai mà ông rảo bước trong một ngày. Nhưng ông phải quay về điểm xuất phát cũng trong ngày hôm đó, nếu không kịp, ông phải chịu mất số tiền”.
Pakhom sung sướng rộn ràng. Suốt đêm đó ông không ngủ được mải nghĩ đến những đất đai sẽ thuộc về ông. Ngay khi mặt trời vừa ló dạng ở chân trời, người ta cắm một cái mốc trên đỉnh gò, và ông xuất phát. Có những người cỡi ngựa theo sau và đóng xuống đất những cọc để đánh dấu lộ trình mà ông đã đi qua.
Ông bước đi nhanh và mỗi lúc một nhanh hơn. Càng đi xa đất càng màu mỡ hơn. Trong lúc tham lam, ông đi một vòng thật lớn mà quên mất thời gian. Và rồi ông hoảng hốt khi thấy mặt trời bắt đầu xuống thấp. Ông quay đầu chạy về cái gò, nơi ông xuất phát thật nhanh. Khi ông vừa lên đến đỉnh gò thì mặt trời đã lặn. Tuy nhiên, ngay lúc đó ông đã ngã quỵ xuống, úp mặt trên đất.
“Tôi khen ngợi ông” người tộc trưởng nói “Ông đã có nhiều hơn bất cứ người nào mà tôi còn nhớ”. Nhưng Pakhom không đáp lại. Người ta lật ngửa ông lên. Ông đã chết.
Một số lượng nào đó về tiền bạc và của cải vật chất là cần thiết. Dụ ngôn của Đức Giêsu không nói về nhu cầu mà nói về lòng tham. Người phú hộ đã bắt đầu với sự giàu có, nhưng ông vẫn không thoả mãn. Lòng tham giống như một ngọn lửa, lửa càng lớn khi người ta càng chất củi vào, người tham có nhiều của càng tham. Một trong những vấn đề chính của thời đại chúng ta là người ta không biết khi nào mới sung túc, phong lưu.
Elvis Presley chết ở tuổi bốn mươi hai vì lạm dụng thuốc. Ông có tám ô tô, sáu mô tô, hai máy bay, mười sáu cái tivi, một lâu đài và một số tài khoản lớn ở ngân hàng.
Khi một con quạ làm tổ trong rừng, nó chỉ chiếm một cành cây mà thôi. Khi con hươu ra bờ sông để làm nguôi cơn khát, nó không uống quá nhu cầu của nó trong lúc đó. Vậy tại sao con người lại lo tích trữ?
Con người khao khát được an toàn. Trong thời đại của Kinh Thánh, khi nạn đói là một đe doạ thường tái diễn, người ta tìm kiếm sự an toàn bằng việc tích trữ ngũ cốc. Trong thời đại của chúng ta, người ta tìm sự an toàn trong việc tích trữ của cải và tài sản. Người ta tích trữ đồ vật và bám chặt vào chúng, bởi vì chúng cho họ ảo tưởng về sự an toàn. Nhưng sự an toàn không thể tìm thấy được trong của cải. Nó chỉ có thể được tìm thấy trong Thiên Chúa.
Cùng với sự an toàn, người ta cũng tìm thấy giá trị của bản thân trong của cải. Trong xã hội chúng ta, người ta đánh giá con người qua những gì họ có. Có nhiều của cải làm người ta trở thành một cái gì đó. Không có của cải trở thành không có gì cả.
Mahatma Gadhi là một trong những người vĩ đại nhất của thế kỷ hai mươi. Tuy nhiên, ông sống trong một căn nhà đơn sơ làm bằng gỗ và bùn. Về của cải ông chỉ có những vật dụng thiết yếu. Của cải sẽ không bao giờ cho chúng ta sức mạnh nội tâm. Chúng là những cái nạng cho một người què quặt tâm linh.
Đức Giêsu nói thay vì tích trữ của cải trong kho tàng, chúng ta phải tìm cách làm cho mình giàu có trước mặt Thiên Chúa. Điều làm cho chúng ta giàu có trước mặt Thiên Chúa không phải là điều chúng ta có, cũng không phải là điều chúng ta đã làm.
Không phải có của cải là có tội nhưng chính là óc chiếm hữu. Từ bỏ không có nghĩa là dửng dưng hoặc không quan tâm. Từ bỏ là không chiếm hữu. Đời sống là một quà tặng mà chúng ta phải biết ơn chứ không phải một sở hữu để chúng ta bám víu. Một đời sống không chiếm hữu là một đời sống tự do.
Của cải duy nhất đáng cho chúng ta tích luỹ là của cải của tâm hồn. Một tâm hồn quảng đại là một kho tàng. Có tâm hồn quảng đại là giàu có trước mặt Thiên Chúa. Sợ hãi và tham lam là những kẻ thù thật sự. Nỗi khiếp sợ đói khát khi kho lẫm đầy tràn là cơn đói khát không bao giờ có thể thoả mãn.
Suy Niệm 2. GIA TÀI TỐT NHẤT
Dù người ta là người khôn ngoan, thành công và khéo léo đến đâu, người ấy không thể đem theo tài sản của mình lúc chết. Những người khác sẽ thừa hưởng thành quả sự lao nhọc của người ấy. (Bài đọc 1). Điều làm cho sự việc tệ hại hơn là của cải mà người ấy để lại sau lưng có thể làm cho gia đình người ấy chia rẽ, xâu xé. Gia tài có thể là một lời chúc lành hoặc một lời chúc dữ. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy hai anh em tranh giành gia tài. Quả là đáng buồn khi nhìn thấy người ta bị lòng tham và ganh tỵ thúc đẩy đã cãi vã; gây gỗ nhau không tiếc lời.
Ngày trước, có một người làm việc trong ban quản trị một công ty thịnh vượng. Ông ta sống với vợ và gia đình trẻ ấy cư ngụ trong một căn nhà đẹp ở vùng ngoại ô thuận tiện. Tuy nhiên, ông không bằng lòng. Ông còn trẻ, đầy năng lực và tham vọng. Ông dường như có thể làm được mọi việc. Vì thế ông tự nhủ: “Tôi có thể làm tốt hơn thế này. Tôi chỉ cần làm việc nhiều hơn”.
Ông làm thêm nhiều giờ phụ trội và có được thu nhập gấp đôi. Ông dọn nhà đến một căn nhà lớn hơn trong khu sang trọng của thành phố. Dù ông đã làm việc xuất sắc, ông vẫn không hài lòng. Ông đã mơ tưởng đến một căn nhà mà ông chưa đủ tiền để mua. Nhưng ít năm nữa, ông sẽ có.
Ông đã không bao giờ có được căn nhà mơ ước ấy, bởi lẽ ông đã ngã bệnh là căn bệnh cuối cùng. Ông thình lình thấy mình ở ngưỡng cửa sự chết. Rồi ông kinh hoàng thấy rằng ông hầu như không hiểu gì cả về vợ con ông. Tệ hơn nữa là ông đã nhận ra mình không thật sự sống. Ông đã trì hoãn đời sống cho đến ngày mọi mục tiêu của ông sẽ đạt được.
Trong con mắt của công ty và của những người láng giềng ông đã trở thành lớn. Nhưng trong con mắt của riêng ông, ông biết rằng ông đã thất bại. Ông đã để vuột mất những điều quan trọng nhất trong đời sống, ông cảm thấy trống rỗng trong tinh thần và trong cảm xúc. Giờ đây khi cuộc hành trình trần thế sắp chấm dứt, ông cảm thấy tình trạng của ông thật bất hạnh. Ông ao ước bắt đầu lại lần nữa. Chắc ông sẽ làm những việc khác hẳn.
Và ông để lại cho con cái ông cái gì? Đúng là nhiều tiền bạc. Nhưng những cái khác? Không hoàn toàn không có. Thực tế là các con ông đã lớn lên không có ông, và giờ đây chúng sẽ tiếp tục sống mà không có ông.
Ngày nay, nhiều cha mẹ nhận thức rằng họ cần dành nhiều thời gian cho con cái hơn thay vì chỉ nghĩ đến của cải. Qua sự tiếp xúc thân mật để dạy dỗ con cái họ, chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng họ thật sự yêu thương săn sóc chúng. Những đứa con này thừa kế một loại gia tài quan trọng nhất, và là chủ sở hữu một tài sản mà tiền bạc không thể mua được.
Người điên dại giàu có đã khám phá quá muôn rằng tài sản vật chất không phải là còn mãi. Bởi vì ông ta đem hết mọi năng lực để tích trữ của cải, và không có gì có thể nhắc ông nhìn lại chính ông, và cái chết bày tỏ bản chất nghèo nàn của ông.
Những gia tài đáng phải tranh giành là những gia tài mà cái chết không thể lấy mất, nhưng trường tồn trong sự sống đời đời.
“Khi giờ sau cùng của bạn giáng xuống, bạn chỉ nên dựa vào điều mà bạn đã trở thành” (Antoine de Saint Exupery).
Có một người tốt lành đã từ chối làm chúc thư, nhưng ông nói rằng ông muốn để lại cho con cái điều tốt nhất mà ông có: gương mẫu của đời ông. Bạn hãy cho đi những tài sản, bổng lộc và tình yêu thương của bạn ngay từ bây giờ. Đừng chờ cho đến lúc một người nào khác làm chính việc đó khi bạn đã chết.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Một ông chủ ngân hàng người Mỹ giàu có nọ đứng trên cầu tàu của một ngôi làng duyên hải ở Mêhicô thì một chiếc tàu nhỏ với một người ngư phủ cặp vào bờ. Bên trong tàu là một con cá ngừ to. Ông chủ ngân hàng ngợi khen người đánh cá về mẻ lưới của ông ta, rồi hỏi tiếp: “Ông ra khơi trong bao lâu?”.
“Ồ, một hoặc hai giờ” người ngư phủ đáp.
“Tại sao ông không ở ngoài khơi lâu hơn để bắt được nhiều cá hơn?”
“Tôi chỉ ở ngoài khơi để kiếm đủ cho nhu cầu trực tiếp của gia đình tôi”
“Nhưng ông làm gì với thời gian còn lại?”
“Tôi ngủ dậy trễ, đánh cá chút đỉnh, chơi đùa với các con tôi, ngủ trưa vào buổi trưa và buổi tối tôi đi dạo trong làng, nhắm nháp tí rượu, chơi đàn ghi-ta và nói chuyện phiếm với bạn bè. Tôi dám chắc, tôi có một đời sống đầy đủ”. Người đánh cá nói.
Ông chủ ngân hàng không thấy có gì ấn tượng: “Ông nên dành thêm thời gian để đánh cá”, ông nói: “Rồi khi công việc tiến triển, ông có thể mua một chiếc tàu lớn hơn. Với cái đà đó, ông có thể mua được mấy chiếc tàu. Sau cùng ông sẽ có một đoàn tàu đánh cá. Kế đó, ông có thể mở mang thêm nhà xưởng và nhà máy đóng đồ hộp. Lúc đó, ông cần phải rời bỏ ngôi làng này và chuyển đến ở thành phố Mêhicô, rồi đến Angeles, và sau cùng đến New York, từ nơi này ông có thể mở rộng việc kinh doanh”.
“Mọi việc ấy cần bao nhiêu thời gian?”. Người đánh cá nói.
“Khoảng hai mươi năm”, ông chủ ngân hàng đáp.
“Và rồi sau đó?” Người đánh cá hỏi.
“Khi gặp thời cơ, ông có thể bắt đầu đăng ký công ty ông vào thị trường chứng khoán và bán cổ phiếu cho công chúng và trở thành triệu phú”.
“Rồi sau đó?” người đánh cá hỏi
“Sau đó ông có thê rút lui và chuyển về sống trong một ngôi làng nhỏ miền biển, ở đó ông có thể ngủ dậy trễ, đánh cá chút đỉnh, chơi đùa với con cái ông, ngủ trưa vào buổi trưa, đi dạo trong làng vào buổi chiều tối và có một vài cuộc vui với bạn bè”.
“Ông nghĩ coi, hiện bây giờ tôi làm gì nào?” người đánh cá hỏi.

37. Đời sống chẳng nhờ nơi của cải
(Suy niệm của Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 12:13-21 nằm trong mạch văn của hành trình lên Giêrusalem; thuộc giai đoạn thứ nhất (9:51-13:21). Mạch văn gần là đoạn 12:1-13:9, bàn đến việc chuẩn bị cho sự phán xét sắp đến, về hành vi và thái độ đối với những chuyện ở đời nầy. Đoạn 12:13-21 nằm giữa hai đoạn đều bàn về sự sống dưới hai khía cạnh khác nhau: – Khuyến dụ đừng sợ những người chỉ giết được thân xác; do đó chỉ sợ Đấng cất luôn cả sự sống phần hồn (12:1-12); và – Khuyến dụ đừng quá lo lắng về của ăn cái mặc, mà chỉ lo tích trữ kho tàng trên trời (12:22-34). Liên hệ chặt chẽ với hai đoạn trước và sau, đoạn 12:13-21 đưa ra một dụ ngôn minh họa sự phi lý của sự tham lam và tích trữ của cải để mong bảo đảm sự sống đời nầy. Hai đoạn đối đáp giữa Chúa Giêsu với một người nào đó giữa đám đông (12:13-15) và dụ ngôn (12:16-21) có thể liên kết với nhau thành một câu chuyện và một chủ đề duy nhất.
Đoạn 12:13-15. Lời yêu cầu của một người từ giữa đám đông chuyển sự chú ý qua chủ đề về của cải: phần gia sản (c. 13), mọi thứ tham lam, sung túc, của cải riêng (c. 15). Trong câu trả lời, Chúa Giêsu trước tiên ngỏ trực tiếp đến người ấy (c. 14); sau đó, Người cho “họ”, là các môn đệ và dân chúng, một giáo huấn về thái độ đối với của cải. Một người nào đó đặt ra vấn đề chia gia tài (c.13). Ông gọi Chúa Giêsu là “Thầy”, như là người có uy quyền phán xét việc nầy (x. Ds 27:8-11; 36:7-9; Đnl 21:17). Vấn đề cụ thể về chuyện gia tài giữa hai anh em không được ghi nhận, nên có thể hiểu là nó không quan trọng. Điều đáng chú ý là lời yêu cầu về điều nầy. Từ vựng “chia phần”, merizō (c. 13), “người chia phần” meristēs (c. 14) trong lời đối đáp giữa Chúa Giêsu và người ấy rất quan trọng. Người ấy muốn chia phần gia tài, nghĩa là muốn chiếm giữ riêng phần gia sản thuộc về mình. Người ấy có thể hy sinh sự bình an của gia đình bởi đòi hỏi nầy (x. 15:12).
Chúa Giêsu từ chối can thiệp (c.14). Khi gọi “Nầy ông!” Người biểu lộ sự không hài lòng đối với người ấy. Câu hỏi của Người đặt ngược lại với người ấy là có phải Người được cắt đặt để làm chuyện ấy không. Động từ kathistēmi có nghĩa là “cắt đặt”, “thiết lập”, bổ nhiệm một người để làm một việc gì: chẳng hạn chăm sóc các gia nhân (12:42), tài sản của chủ nhân (12:44). Chúa Giêsu không để người ấy nhầm lẫn về sứ mệnh Người. Người không được sai đến để giải quyết những chuyện thế trần như thế. Hơn nữa, Người không chỉ từ chối làm người chia của cải, mà còn xem đòi hỏi của người ấy như là một sự tham lam (c.15). Đối với Luca và cộng đoàn của ông, của cải không phải là một sở hữu của riêng ai. Được thừa hưởng là để phân phát và chia sẻ. Luca ghi lại cách sống lý tưởng của những tín hữu đầu tiên và nhiều mẫu gương có thái độ đúng đắn nầy trước của cải (x. Cv 4:32.34-35.37).
Chúa Giêsu kêu gọi giữ mình khỏi lòng tham lam (c.15). Luca muốn nhấn mạnh nên dùng liên tiếp hai động từ ở thể mệnh lệnh: “Hãy coi chừng!”, nghĩa đen là “hãy nhìn”; và “Hãy giữ mình!”, phylassō. Luca dùng động từ phylassō ở thể chủ động, chỉ việc thức đêm để quan sát và bảo vệ súc vật (2:8), canh giữ nhà cửa an toàn (11:21); tù ngục (Cv 12:4; 23:35). Luca dùng động từ nầy theo nghĩa bóng để chỉ việc giữ mình khỏi bị rơi vào thói xấu tham lam; tương tự như giữ mình khỏi những thức ăn đã cúng cho các ngẫu thần (x. Cv 21:25). Từ “tham lam”, pleonixia, chỉ xuất hiện một lần trong Luca, và được dùng nhiều trong các thư. Đó là ước ao cách ham hố chiếm hữu nhiều hơn, đặc biệt những điều thuộc về người khác (x. Rom 1:29; Eph 4:19; 5:3; Col 3:5; 1 Thess 2:5; 2 Phêrô 2:3); nên đây là ước muốn chiếm đoạt và thống trị.
Lý do của hai mệnh lệnh trên được biện bạch trong mệnh đề tiếp theo “bởi vì không phải người ở trong sự dư dật, sự sống của họ là bởi của cải của họ” (c.15b). Từ perisseuō không chỉ có nghĩa là sung túc, đầy đủ, mà trong Luca còn có nghĩa là dư dật, dư thừa; chẳng hạn 12 thúng bánh vụn (9:17); người giàu bỏ tiền dư thừa vào hòm cúng đền thờ (21:4). Từ hypachō chỉ “của cải” (8:3; 11:21; 12:33.44; 14:33; 16:1…). Như thế, Chúa Giêsu chỉ cho thấy người tham lam sai lầm khi nghĩ rằng sự sống được bảo đảm nơi những gì họ có; nên họ tìm cách thu góp hơn cả những gì cần thiết cho cuộc sống. Điều nầy sẽ thấy rõ hơn trong dụ ngôn người giàu ngốc. Câu nầy được dùng như vừa kết luận phần đầu và chuyển ý sang dụ ngôn tiếp theo.
Dụ ngôn người giàu có ngốc (12:16-21)
Bố cục của đoạn nầy: – Người giàu có và suy nghĩ của ông (c. 16-17); – Việc làm của ông (cc. 18-19); – Việc của Thiên Chúa (c. 20); – Kết luận (c. 21). Đặc tính của câu chuyện này là độc thoại; tương tự người con hoang đàng (15:17-19); người quản lý bất trung (16:3-4); người quan toà bất công (18:4-5); người Pharisêô và người thu thuế (18:9-14). Vấn đề Luca muốn đặt ra được trình bày qua chân dung “một người” (x. 10:30; 14:2.16; 15:11; 16:1.19; 18:2; 15:8; 7:37). Đây là một người giàu có. Sự sung túc và dư dật của ông được mô tả qua sự phong phú của từ vựng: “người giàu có”, “ ruộng nương được mùa” (c. 16), “tích trữ”, “hoa màu” (c. 17), “xây lẫm lớn”, “lúa má”, “của cải” (c. 18), nghỉ, ăn uống, hưởng (c. 19). Chōra của ông có thể hiểu là đất nước, vùng (x. 3:1; 8:26; 15:14), cũng có nghĩa là cánh đồng (2:8). Euphoreō “được mùa” “sai trái”, tương đương với từ telesphoreō trong dụ ngôn Người gieo giống (8:14-15). Đất đai sinh hoa màu dư dật cho ông là điều tích cực; tuy nhiên, điểm Luca chú tâm chính là lời từ miệng ông “hoa màu của tôi” (c. 17), “của cải của tôi” (c.18). Ông có ý định phá kho lẫm cũ để xây cái lớn hơn đủ sức chứa hoa màu và của cải của ông (c.18). Sau lời độc thoại (cc. 17-18), ông nói với linh hồn của ông, psychē. Trong Luca psychē đồng hoá với con người (1:46; 6:9; 9:24; 10:27; 14:26; 17:33; 21:19). Lời của ông bộc lộ sự gắn bó bản thân ông vào những gì ông đang có: “Mầy có bao của cải” (c.19), và bày ra chương trình cho cuộc sống của ông. Điều sai lầm là ông quên rằng của cải đời nầy gắn liền cách bền vững với sự sống của ông và việc cố giữ sự sống nầy thì sẽ mất (x. 9:24; 14:26; 17:33).
Chúa Giêsu gọi người giàu có ấy là “ngốc!” (c. 20). Chữ “ngốc” trong Luca chỉ người không có một sự phán đoán đúng đắn (x. 10:40). Họ không hiểu thực tại, biết điều đúng để làm, và nhất là không biết ý của Thiên Chúa. Lời Người nói với ông như một phán quyết. “Đêm nay” gợi lên bóng tối của sự chết, hãi hùng, và sự việc sẽ xảy ra cách nhanh chóng. “Linh hồn ngươi”chính là người giàu có. Luca thường dùng động từ “chuẩn bị” cho việc dọn đường Chúa đến cứu độ (1:17.76; 3:4; 9:52; 12:47…). Tuy nhiên ở đây, những gì người giàu có nầy chuẩn bị của cải vật chất để thụ hưởng, thì dự tính ấy không thực hiện được, của cải ấy sẽ không thuộc về ông nữa và ông còn mất luôn cả sự sống!
Câu kết luận xác quyết cách gián tiếp là người giàu có đã tích trữ của cải “không trong Thiên Chúa” (c. 21), và những ai hành động như ông thì cũng sẽ bị đối xử như ông đã chịu. Cách làm giàu trong Thiên Chúa sẽ được đề cập đến trong đoạn tiếp theo. Đó là bán của cải mình có và cho người nghèo (12:33-34). Làm như thế là tích trữ kho tàng không hư mất trong Thiên Chúa.
Sự phi lý và sai lầm của con người là tìm bảo đảm cuộc sống trong của cải, nên tìm cách chiếm hữu nhiều chừng nào có thể, và dừng lại trên nó. Cái chết đến sẽ cho thấy điều nầy là sai lầm. Chỉ Thiên Chúa mới là sự sống của con người.

38. Hạnh phúc không nơi tiền của
(Suy niệm của Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)
“Những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai!”
Chúng ta thường nói: “Đồng tiền nối liền khúc ruột”. Tiền của cần cho sự sống, cho việc sống đạo nữa. Có thực mới vực được đạo.
Thái độ của Chúa Giêsu đối với tiền bạc như thế nào? Chúa không ngại nói đến tiền bạc. Ngài nói đến như một thứ cần dùng, có giá trị nữa. Ngài nói đến người đàn bà đánh mất một đồng bạc, thắp đèn quét nhà tìm kiếm, kiếm được vội chạy đi khoe đầu làng cuối xóm. Ngài nói đến người đầy tớ nhận năm nén bạc làm lợi thành mười và Ngài khen là đầy tớ tốt và trung tín.
Đành rằng Phúc Âm không cho biết Chúa Giêsu có cầm tiền không? Nhưng không lạ, nếu Ngài cũng dùng tiền như mọi người. Các tông đồ có một túi tiền chung do Giuđa giữ và Chúa dạy đi mua sắm (Ga 12,6; 13,29). Chúa sống trong thế giới Do thái tiền bạc và Ngài là nạn nhân tiền bạc, Ngài bị bán với giá 30 đồng.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa dạy dùng tiền nhưng đừng ham tiền. Hạnh phúc con người không lệ thuộc vào tiền của. Và Chúa kể câu chuyện người giàu có thiếu khôn ngoan, xây mộng vàng hạnh phúc trên tiền của rồi chết bất ưng. Chúa kết luận: “Đồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi điều ngươi đã soạn kia sẽ về tay ai?”. Và thánh Luca kết luận bằng một câu, có lẽ lấy ở nơi khác: “Như thế đó, kẻ lo chất kho cho mình, mà không biết làm giàu nơi Thiên Chúa”.
Năm 1923, tại Chicago, có hội nghị các thương gia Mỹ. Chín người được coi là thành công nhất, trong số có ông chủ hãng thép, điện, xăng, hỏa xa, ngân hàng International Settlement. Nhưng mà, gần hết các ông vua tiền ấy đã kết thúc cuộc đời trong cảnh nghèo túng, thất vọng hay đã tự tử.
Thánh Phaolô nói: “Vì tham tiền là cội rễ mọi sự dữ. Cầu thỏa lòng tham, thì có kẻ đã lạc xa đức tin và bị bao nỗi đớn đau xâu xé” (1Tm 6,10).
Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê (Tv 144).

39. Hãy thu tích kho tàng trên trời
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Lc 12: 13-21 Sứ điệp mà Đức Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay: hãy dùng của cải đời này mà “làm giầu trước mặt Thiên Chúa”
Tolstoy kể lại câu chuyện về một người nông dân tên là Pakhom. Ông ta dành dụm từng đồng và mua được bốn sào. Ông ta hết sức vui mừng. Tuy nhiên, ít lâu sau, ông ta cảm thấy còn chật chội, ông bèn bán bốn sào đất đó đi và mua tám sào ở một vùng khác. Nhưng điều đó không làm ông thoả mãn lâu, nên ông bắt đầu tìm kiếm ở chỗ khác.
Một buổi tối nọ, một người khách lạ đến. Pakhom đã nói về ước muốn của ông có thêm nhiều đất đai. Người khách lạ nói với ông rằng bên kia dãy núi nơi sinh sống của một bộ tộc. Những con người đơn sơ ở đây có rất nhiều đất đai muốn bán. Ngày hôm sau, ông ra đi. Người tộc trưởng tiếp đón ông và nói: “chỉ cần bỏ ra một ngàn rúp, ông sẽ có được một số đất đai mà ông rảo bước trong một ngày. Nhưng ông phải quay về điểm xuất phát cũng trong ngày hôm đó, nếu không kịp, ông phải chịu mất số tiền đặt cọc”.
Pakhom sung sướng rộn ràng. Suốt đêm đó ông không ngủ được mải nghĩ đến những đất đai sẽ thuộc về ông. Ngay khi mặt trời vừa ló dạng ở chân trời, người ta cắm một cái mốc trên đỉnh gò, và ông xuất phát. Có những người cỡi ngựa theo sau và đóng xuống đất những cọc để đánh dấu lộ trình mà ông đã đi qua. Ông bước đi nhanh và mỗi lúc một nhanh hơn. Càng đi xa đất càng màu mỡ hơn. Trong lúc tham lam, ông đi một vòng thật lớn mà quên mất thời gian. Và rồi ông hoảng hốt khi thấy mặt trời bắt đầu xuống. Ông quay đầu chạy về cái gò, nơi ông xuất phát thật nhanh. Khi ông vừa lên đến đỉnh gò thì mặt trời đã lặn. Tuy nhiên, ngay lúc đó ông đã ngã quỵ xuống, úp mặt trên đất. Người tộc trưởng nói “tôi khen ngợi ông, ông đã có nhiều hơn bất cứ người nào mà tôi còn nhớ”. Nhưng Pakhom không đáp lại. Người ta lật ngửa ông lên. Ông đã chết.
Trong câu chuyện người phú hộ mà thánh Luca kể lại, Chúa Giêsu không phê phán việc chúng ta tìm cái chúng ta cần, mà phê phán lòng tham của chúng ta. Cũng như trong câu chuyện của Tolstoy, nếu Pakhom biết dừng lại khi đã có tám sào đất anh cần thì anh đã sống hạnh phúc, nhưng anh đã chết vì anh cứ mải mê chạy theo lòng tham của mình. Lòng tham giống như ngọn lửa, ta càng thỏa mãn nó bằng cách chất thêm củi thì lửa càng bùng lên và càng đòi thêm nhiều củi.
Và trong bài dụ ngôn hôm nay, Chúa Giêsu cũng không đả kích sự tích lũy của cải mà chỉ đả kích sự khờ dại của những người chỉ biết thu tích của cải vật chất mà quên đi nhiệm vụ thu tích của cải thiêng liêng. Sứ điệp mà Đức Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay: hãy dùng của cải đời này mà “làm giầu trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12,21).
Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta chỉ là những con người nghèo khó. Cho dù có xây bao nhiêu kho lẫm, bao nhiêu két sắt, bao nhiêu tài khoản ngân hàng, cũng chỉ là con số không. Chúng ta chỉ thực sự giầu có trước mặt Thiên Chúa khi chúng ta biết quảng đại với những người nghèo khó.
Ở Kenya bên Phi Châu, một vị thừa sai kể rằng có một số dân Phi Châu vẫn còn giữ tập tục lấy đi tất cả quần áo người chết đang mặc trước khi chôn cất người ấy. Một trong những mục đích của tục lệ này nhằm nói lên rằng chúng ta rời khỏi thế gian này cũng y hệt như khi chúng ta vào thế gian. Tuy nhiên, chúng ta có thể mang đi theo khi đi ra khỏi đời này với những cái mà chúng ta làm giầu trước mặt Thiên Chúa, tức là tất cả những gì chúng ta đã cho đi. Những cái chúng ta đã cho đi làm thành một kho tàng trên trời dành riêng cho chúng ta. Những cái chúng ta đã cho đi ở trần gian này vẫn còn tồn tại không bao giờ hư nát, và đấy chính là những công nghiệp chúng ta dâng cho Chúa để được hưởng hạnh phúc đời.
Chúng ta đã chuẩn bị gì cho cuộc sống mai hậu?
Vào một buổi sáng nọ ông Alfred Nobel mở tờ nhật báo ra và thấy bài cáo phó của mình ở trong đó. Một phóng viên người Pháp đã cẩu thả loan tin ông từ trần thay vì em của ông. Ông Alfred thật bàng hoàng, vì lần đầu tiên trong đời, ông nhìn về chính mình dưới con mắt của người khác. Ông thấy chính mình như một “ông vua thuốc nổ” đã dùng toàn thể cuộc đời để chế tạo vũ khí sát hại và tiêu diệt.
Sáng hôm ấy, ông Nobel quyết tâm thay đổi hình ảnh người ta nhìn về ông. Sự quyết tâm của ông đã đưa đến kết quả là các giải thường Nobel hằng năm trong các lãnh vực vật lý, hóa học, y học, văn chương và hòa bình.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta hãy thi hành giống như ông Alfred Nobel.
Nó mời gọi chúng ta hãy tưởng tượng đọc bài cáo phó của mình.
Nó mời gọi chúng ta nhìn về con người thực sự của mình.
Nó mời gọi chúng ta nhìn về chính mình như Thiên Chúa nhìn chúng ta.
Nếu chúng ta phải ra trước mặt Thiên Chúa tối nay để báo cáo về cuộc đời trần thế này, thì liệu Thiên Chúa có nói với chúng ta như Người đã nói với ông phú hộ kia: “sao con dại thế! Nếu đêm nay con phải từ giã cuộc đời này thì ai sẽ hưởng tất cả những gì con cất giữ cho mình?” Một điều đáng cho chúng ta phải suy nghĩ. Amen.

40. “Lấy gì mà đổi được linh hồn mình”
Tại Palestine người ta thường đem đến những vấn đề tranh cãi đến xin các rabbi phân xử. Đối với nhân vật trong đoạn này, ông coi Chúa Giêsu là một vị thầy có thế giá có thể giải quyết vấn đề cho ông, nhưng Chúa Giêsu từ chối không muốn tham dự vào vấn đề tranh chấp về tiền bạc. Có những người đến với thẩm quyền tôn giáo không phải để xin những chỉ dẫn về đời sống thuộc linh, mà lại xin giải quyết những vấn đề vật chất. Chúa Giêsu không đáp lại yêu cầu này, không phải không nhạy cảm về những bất công có thể có trong phạm vi gia đình, nhưng Ngài không muốn can thiệp vào những việc không liên hệ trực tiếp đến sứ mạng cứu rỗi. Câu trả lời của Chúa ngụ ý rằng Ngài chỉ chú trọng đến công việc thuộc linh và Ngài không muốn xâm phạm vào địa hạt luật pháp dân sự hay chiếm đoạt địa vị của nhà cầm quyền: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?”
Có thể câu trả lời này chứa đựng một thông điệp cho thời đại chúng ta, cảnh cáo chúng ta đừng lẫn lộn những nhiệm vụ của Giáo Hội và Nhà Nước. Địa hạt của Giáo Hội là thuộc linh, thẩm quyền của Giáo Hội không phải là để quyết định những vấn đề kinh tế và chính trị. Tuy nhiên Giáo Hội óc những cống hiến và ghi khắc những nguyên tắc liên quan đến các vấn đề luân lý và quyết định về sự công bình và lẽ phải trong mọi lãnh vực nhân sinh.
Chúa Giêsu đã từ chối “chia gia tài”, nhưng Ngài đã nhìn sâu vào căn nguyên lời yêu cầu và thấy rằng người ấy đã bỏ qua luật lệ dân sự để đến nhờ một giáo sư tôn giáo giúp đỡ là do lòng tham lam thúc đẩy. Nhân cơ hội này Chúa chỉ dạy cho kẻ theo Chúa phải có thái độ nào đối với vấn đề vật chất, và Ngài dạy qua một câu chuyện. Câu chuyện về lão phú hộ ngu dại dạy ta rằng tiền của không tạo nên nội dung thật của sự sống, cho nên chỉ mải lo tìm kiếm vàng bạc mà quên Thiên Chúa là điều khờ dại.
Có hai điều đáng chú ý về người giàu này:
– Ông ta không hề nhìn xa hơn chính mình: không có dụ ngôn nào nhiều chữ “mình” như trong dụ ngôn này: “Hoa màu của mình, kho lẫm của mình.” Đó là những chữ rất khó nghe mà người ích kỷ hay dùng đến. Người giàu ích kỷ chỉ biết nỗ lực tập trung vào mình. Có lời phê bình nổi tiếng về người ích kỷ như sau: “Có quá nhiều cái tôi trong vũ trụ của hắng!” Khi người này đã có của cải dư dật, ông không bao giờ nghĩ đến việc chia sẻ. Tất cả thái độ của ông đi ngược lại hẳn với tinh thần Kitô giáo. Thay vì từ chối mình, ông ta lại bảo vệ mình một cách khiêu khích; thay vì tìm hạnh phúc trong sự san sẻ, ông ta đã cố sức bám lấy hạnh phúc bằng cách bám chặt của cải. Luật sống của John Wesley Oxford ông có số lương là ba mươi bảng Anh một năm. Ông tiêu hai mươi tám đồng và cho đi hai đồng. Khi lương của ông tăng lên sáu mươi, rồi chín mươi, rồi một trăm hai mươi đồng một năm, ông chỉ tiêu xài hai mươi tám đồng, còn bao nhiêu thì cho đi. Khi viên kế toán trưởng của công ty đồ gia dụng xin ông gửi bảng liệt kê những gì cần mua, ông trả lời “Tôi có hai thìa cà phê bạc tại Luân Đôn và hai cái tại Bristol, đó là tất cả đồ bằng bạc mà tôi có hiện giờ, và tôi không mua thêm cái nào nữa trong lúc biết bao nhiêu người chung quanh tôi không có bánh ăn.” Châm ngôn La-mã có câu: “Tiền bạc khác nào nước biển, ai càng uống thì càng khát thêm.” Bao lâu người ta có thái độ giống như người giàu ngu dại thì người ta cứ ước ao được giàu thêm mãi – và đó là thái độ ngược với tinh thần Kitô giáo.
– Ông ta không hề nhìn xa hơn thế giới của mình. Mọi chương trình của ông ta chỉ đặt nền tảng cuộc sống lẩn quẩn trong thế giới của ông ta. Sau đây là cuộc đàm thoại giữa một chàng thanh niên ham số và một ông lão hiểu đời:
Chàng nói: “Tôi sẽ học buôn bán.” Ông lão hỏi: Rồi sao nữa?
Rồi sao nữa?” – “Tôi sẽ mở hiệu buôn.” Rồi sao nữa? – “Tôi sẽ dựng nên cơ nghiệp lớn!” “Rồi sao nữa? – Tôi sẽ trở về già, hưu hạ và sống bằng tiền bạc của tôi!” Rồi sao nữa? – Ờ có lẽ một ngày kia tôi sẽ chết. Rồi sao nữa?
Câu hỏi sau này cũng như một lưỡi dao. Người nào không hề nghĩ rằng có một thế giới bên kia thì người đó sẽ có ngày phải gặp một bất ngờ và cũng khủng khiếp.
Khi giải thích dụ ngôn này của Chúa, thánh Athanasiô đưa ra lời khuyên: “Ai sống như phải chết mỗi ngày – vì biết rằng cuộc sống này tự nó là tạm bợ, không chắc chắn – sẽ không phạm tội, vì sợ hãi Chúa dập tắt một phần lớn lòng tham lam; trái lại, ai nghĩ mình còn sống lâu sẽ dễ dàng để cho mình bị dục vọng cai trị.”
Ngu dại của người giàu này là coi tiền có của như là mục đích duy nhất của đời sống, nó bảo đảm vững bền khát vọng của con người. Có được các cần thiết để sống và phát triển là chân chính, nhưng coi việc thâu góp tài sản như là một lý tưởng sẽ đưa đến phá huỷ con người và xã hội: “Đối với một dân tộc cũng như đối với một cá nhân, có thêm nhiều của cải hơn không phải là mục đích tối hậu. Mỗi một sự thăng tiến đều có hai mặt: nó cần thiết để con người được nên người hơn, nhưng đồng thời nó cũng giam hãm con người một khi nó trở thành giá trị cao cả nhất, không còn cho nhìn thấy giá trị nào khác. Lúc đó lòng người trở nên chai đá và tinh thần khép kín lại, con người không còn đến với nhau vì tình nghĩa, nhưng chỉ vì lợi lộc. Lợi lộc dễ làm cho con người chống đối nhau và chia rẽ nhau.Vì thế nếu chỉ tìm kiếm của cải mà thôi thì không những sẽ làm cản trở cho sự phát triển của con người, mà còn phản lại sự cao cả bẩm sinh cảu con người. Đối với một quốc gia cũng như đối với một con người, tội tham lam là một hình thức lộ liễu nhất của tình trạng luân lý thấp kém.” (Đức Phaolô VI, Phát triển 19)
Người Do thái hay kể truyện ngụ ngôn cũng về A-lịch-sơn Đại đế. Vị danh tướng mệt mã vì đi bộ đường xa, bèn ngồi nghỉ bên bờ một suối kỳ lạ. Ông uống nước và cảm thấy sảng khoái lạ lùng. Ông nhúng cá muối vào nước cho đỡ mặn và ngạc nhiên khi thấy nước làm cho cá có vị ngon lạ thường. Ông tự nghĩ: chắc hẳn đây không phải là nước thường, nó phải xuất phát từ một kỳ diệu nào, ta phải lần đến tận nguồn xem sao.” Ông đi mãi cho tới cổng thiên đàng. Cổng khoá, ông gõ cổng xin vào, nhưng bên trong chỉ có một tiếng đáp lại: “Ngươi không được vào đây, vì cổng này thuộc về Chúa.” Vị đại tướng trả lời ngạo nghễ: “Ta là Chúa của trái đất. Ta là A-lịch-sơn chiến thắng, không mở cửa cho ta sao?” – Không, chúng ta chẳng biết kẻ chiến thắng nào hết. Chúng ta chỉ biết những người đã chiến thắng dục vọng thấp hèn của mình, chỉ những người công chính ngay thẳng, mới được vào thiên đàng. A-lịch-sơn giận dữ như điên cuồng, nhưng chẳng ảnh hưởng chi hết đến người giữ cổng thiên đình. Ông đổi ra o bế và hối lộ, nhưng vẫn vô hiệu, bàn nài nỉ lần chót: “Ta là vua lớn và được mọi nước suy phục. Dầu không cho ta vào thiên đàng, nhưng ít ra cũng cho ta vật gì đem về để chứng tỏ với người thế gian rằng ta đã được đến nơi chưa từng có ai đến. Người gác cổng đáp: “Đây, hỡi tên khùng kia, ta cho ngươi điều ngươi xin, cầm về tìm hiểu ý nghĩa của nó. Nó sẽ cho ngươi bài học khôn ngoan mà chưa từng có ai dạy ngươi. A-lịch-sơn vồn vã đưa tay nhận gói quà và vội vàng trở về trại quân mở ra coi. Lạ quá, trước mắt ông, chỉ là một mảnh sọ người. Giận dữ, ông quẳng mảnh xương xuống đất, la to: Đây là quà tặng cho vua và anh hùng sao? Công ta lặn lội vất vả chỉ xứng như thế này sao? Nhưng trong đoàn tuỳ tùng có một người thông thái, ông khuyên vua: “Tâu đức vua, xin chớ khinh vật nhỏ bé này, nó có tính chất rất lạ kỳ đáng đức vua để ý. Hãy cân nó với vàng bạc báu vật của đức vua, thử xem bên nào nặng hơn. Theo lệnh vua, họ đem cân tới, mảnh sọ một bên, còn bên kia chất vàng bạc, bảo ngọc… lạ thay, xương vẫn nặng hơn. Người ta chất thêm vàng, bạc, bửu thạch nữa… Xương vẫn nặng hơn. Càng thêm bao nhiêu, mảnh xương càng nặng hơn bấy nhiêu! Vua kinh ngạc: “Một mảnh sọ lại nặng hơn bấy nhiêu vàng bạc! Có gì nặng hơn mảnh sọ này không? Nhà thông thái đáp: “Thưa có, chỉ một mất hết trọng lượng, nhảy bồng lên, bên kim khí nặng hạ xuống. A-lịch-sơn la hoảng: “Cái này còn lạ hơn nữa!” Nhà thông thái giải thích: “Mảnh sọ này là lỗ mắt con người, dầu nhỏ bé, nhưng sự ham hố của nó không có giới hạn. Hết thảy của cải trần gian không làm cho nó thoả sự ham muốn của nó. Nhưng khi nó bị đất bao phủ và chôn vùi trong mồ mả, thì sự ham hố trần thế của nó mới hết.
Chúa Giêsu phán: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào được ích gì? Hoặc lấy gì mà đổi được linh hồn mình?” (Mc 8,36-37). Tác giả Thánh Vịnh suy luận: “Chúng cậy vào của cải, lại vênh vang bởi lắm bạc tiền, nhưng nào có ai tự chuộc nổi mình, và trả được giá thục hồi cho Thiên Chúa. Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời…” (49,7-9). Vậy chúng ta hãy sống khôn ngoan theo lời khuyên của Thánh Gioan: “Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không xuất phát từ Chúa Cha, nhưng xuất phát từ thế gian; mà thế gian đang đi qua cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi.” (1Ga 2, 15-17).

41. Xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Để hiểu bài Tin Mừng hôm nay, cần biết luật pháp Dothái thời đó. Luật quy định trong việc thừa kế: Bất động sản thuộc con trai trưởng như nhà cửa, đất đai. Động sản như tiền bạc, bàn ghế, tủ sập… chia đều cho các con, con trai trưởng vẫn được gấp đôi và chỉ con trai được hưởng, con gái thì không. Đó cũng là luật chung cho toàn bộ Đông Phương cổ đại và nhiều nền văn minh trong dòng lịch sử. Sở dĩ có luật ấy, vì người Đông Phương muốn lập nên “người gia trưởng” để gìn giữ gia sản của gia tộc.
Trong giới Dothái xưa cũng như nay, người ta thường yêu cầu một giáo trưởng Dothái danh tiếng đứng làm trọng tài trong các vấn đề lề luật. Chính vì thế, cậu trai út đã cầu cứu uy tín của Đức Giêsu: “Xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”. Đối với mọi người, Đức Giêsu sẽ nói với người anh cả chia lại cho người em, bởi trong suốt Tin Mừng, Đức Giêsu thường giảng dậy: “Anh em hãy yêu thương nhau”, thế nhưng Đức Giêsu đã hỏi người em út: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?”. Phải hiểu và giải thích câu hỏi của Đức Giêsu thế nào?
Phần đông các nhà chú giải cho rằng, Đức Giêsu đã dùng cách thức của người Đông Phương, trả lời bằng một câu hỏi hay một ẩn ngữ làm cho người ta phải suy nghĩ. Khi lạc mất trong đền thờ, Mẹ Người hỏi: “Con ơi! Sao lại xử với cha mẹ như vậy?”, Người trả lời: “Tại sao cha mẹ lại tìm Con? Cha mẹ không biết là Con có bổn phận ở nhà của Cha Con sao “(Lc 2, 49). Với các con trai ông Giêbêđê xin được ngồi bên hữu và bên tả trong Nước Người, Người hỏi họ: Có uống nổi chén Người sắp uống không? (Mt 20,23).
Ở đây cũng thế, từ chối can thiệp vào vấn đề chia gia sản, không phải là Đức Giêsu không quan tâm đến những vấn đề trần thế. Là Cứu Chúa, Đức Giêsu cứu chuộc con người cả xác và hồn, quả tim và ý thức, thể chất và tinh thần. Trong những năm rao giảng, Đức Giêsu không ngừng chú trọng đến con người toàn diện đó. Người đã nuôi dưỡng hồn họ bằng của ăn Lời Chúa, Người lại nhân năm cái bánh và hai con cá lên nhiều để nuôi dưỡng thể xác họ. Khi rao giảng, các bệnh nhân đến, đều được Người chữa lành. Tuy nhiên, không phải mọi bệnh nhân Dothái thời đó đều được Đức Giêsu cứu chữa, cũng như mọi người bệnh tật của thế giới sau này, không được Đức Giêsu chữa lành. Công việc đó là của con người. Người ta phải đào tạo các bác sĩ, phải lo có bệnh viện, phải tìm ra các thứ thuốc để chữa các bệnh nhân. Cũng vậy, các vấn đề xã hội như chia gia tài, giải quyết những tranh chấp bất hoà là nhiệm vụ của các quan toà, các thẩm phán, những nhà phụ trách thế tục… Đức Giêsu từ chối đặt mình vào vị trí của những người ấy.
Trong chiều hướng đó, công đồng Vatican II đã không ngừng đưa giáo dân về với ý thức và năng lực riêng của họ: Giáo dân hãy mong đợi ánh sáng và sức mạnh tinh thần nơi các linh mục. Thế nhưng, họ đừng vì thế, mà nghĩ: Các linh mục có đủ khả năng chuyên môn về mọi vấn đề. Thực ra có nhiều vấn đề mà linh mục không biết, nhất là những vấn đề không thuộc lãnh vực của linh mục. Với những vấn đề ấy, giáo dân phải tìm cách giải quyết, vì đó là trách nhiệm và thuộc lãnh vực của mình (Gs 43.)
Mặc dù Đức Giêsu không trực tiếp đảm nhận những nhiệm vụ trần thế, Người uỷ thác cho những vị có chức quyền, nhưng Người đưa ra một nguyên tắc để các nhà hữu trách áp dụng cho những trường hợp cụ thể. Nguyên tắc đó là không nên lẫn lộn phương tiện với mục đích. Mục đích là con người, của cải là phương tiện. Nhà nước cũng như chính quyền tạo ra của cải không phải để tiêu thụ tối đa, nhưng là phục vụ con người. Chính sự sống con người đứng đầu chứ không phải của cải. Sự sống con người gồm: Sự sống, thể xác và linh hồn, sự sống đời này và đời sau. Dĩ nhiên sự sống linh hồn, sự sống đời sau là cơ bản, sự sống thể xác, sự sống đời này là tạm bợ. Trong hai cái tạm bợ và cơ bản, cái sau quan trọng hơn cái trước.
Để làm sáng tỏ, Đức Giêsu kể dụ ngôn người phú hộ và những kho lẫm. Qua dụ ngôn, Đức Giêsu lên án nhà phú hộ, một tay duy vật hoàn hảo, tin vào những kho lẫm mang lại hạnh phúc cho mình. Thế nhưng, Đức Giêsu cảnh giác: “Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”
Ông phú hộ thật sai lầm, ông nhầm lẫn hoàn toàn. Sự giầu sang không mang lại hạnh phúc… không có mối liên hệ giữa việc có nhiều của cải trần thế và sự an toàn mạng sống. Sự sống của một người không phụ thuộc vào những của cải của người ấy. Tiền bạc không mua được thời gian. Ông phú hộ đã bị Đức Giêsu gọi là “đồ ngốc”. “Đồ ngốc” với “dại” không hơn gì nhau., “dại” với “điên” là một. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu không ngừng đặt đối lập “kẻ điên dại” (nabal) với “người khôn ngoan” (maskil). Năm cô thiếu nữ không mang theo dầu cho đèn mình, là dại, năm cô mang theo dầu cho đèn, là khôn (Mt 25,2). Người mù để cho người mù dẫn đường là dại (Lc 6,39). Người biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại là khôn (Lc12,56). Nhưng cái khôn ai cũng cần phải có, đó là nhận ra của cải chân thực, nhận ra ý nghĩa đích thực của đời sống, đó là đời sống vĩnh cửu.
Đức Giêsu, Người sắp chết trong ít ngày nữa, không muốn làm việc cho một người dù đó là quyền lợi chính đáng. Việc chia gia tài, không phải là việc làm đích thực cho anh. Có một tiếng nhỏ âm vang trong chúng ta: “Ngài có lý”. Ngài biết rõ điều Ngài nói: “Anh em hãy coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”.

42. Nghèo
Vào thời Chúa Giêsu, cũng như vào thời nay, những người nghèo khó bao giờ cũng bị khinh chê. Sénèque đã viết như sau: – Lòng thương xót là một thói xấu của những kẻ yếu đuối. Còn người khôn ngoan sẽ không bao giờ thương xót.
Có kẻ đã đặt câu hỏi: – Đâu là sự khác biệt giữa một chiếc cày, một con bò và một tên nô lệ?
Và rồi người ta đã trả lời: – Chiếc cày thì không biết nói, con bò thì biết rống, còn tên nô lệ thì biết nói. Nhưng cả ba đều là những đồ dùng không đáng giá.
Còn Chúa Giêsu thì sao? Ngài đã nghĩ gì về sự nghèo khó?
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy Ngài đã mặc lấy thân phận nghèo khó.
Thực vậy, khi xuống thế làm người, Ngài đã chọn Mẹ Maria và thánh Giuse, là những người nghèo khó để giúp đỡ mình. Khi mở mắt chào đời, Ngài đã được sinh ra trong cảnh nghèo khó của hang đá máng cỏ ngoài đồng vắng Bêlem.
Ngài không phải chỉ sinh ra trong nghèo khó, mà còn lớn lên trong túng thiếu, phải lao động cực nhọc với đôi bàn tay của mình để kiếm tìm chén cơm manh áo. Thiên hạ đã chẳng bàn tán với nhau rằng: – Há Ngài chẳng phải là một bác phó mộc, con bà Maria sao?
Trong suốt quãng đời công khai, Ngài cũng đã sống vất vưởng, nay đây mai đó, như Ngài đã diễn tả: – Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có lấy một chốn tựa đầu.
Sau cùng Ngài cũng đã chết trong cảnh nghèo khó với cây thập giá được dựng lên giữa trời và đất. Ngay cả ngôi mộ, nơi yên nghỉ cuối cùng cũng chẳng có nữa. Chúng ta có thể đúc kết về cuộc đời của Ngài như sau: – Sinh ra trong nghèo khó, lớn lên trong túng cực và chết đi trong thiếu thốn.
Ngài đã sống và sau đó đã giảng dạy về sự nghèo khó. Mở đầu bài giảng trên núi về tám mối phúc thật, Ngài nói: – Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ.
Qua lời xác minh trên, Ngài đã thực hiện một cuộc cách mạng, làm đảo lộn bậc thang giá trị. Kể từ nay, những kẻ giàu sang sẽ trở thành nghèo túng và những người nghèo túng sẽ trở thành giàu sang. Ngài đã truyền dạy: – Không ai có thể làm tôi hay chủ, vì nếu mến chủ này thì sẽ ghét chủ kia. Cũng vậy, các ngươi không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của được… Con lạc đà chui qua lỗi kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước trời.
Nơi khác, Ngài cũng xác quyết mình thực hiện những gì tiên tri Isaia đã loan báo: – Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Ngài xức dầu cho tôi và sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó…
Ngài đồng hóa mình với nhưng kẻ khó nghèo, bởi vì trong hoạt cảnh về ngày phán xét, Ngài đã nói: – Khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn. Khi Ta khát, các ngươi đã cho uống. Khi Ta mình trần các ngươi đã cho mặc. Khi Ta đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm. Vì mỗi khi các ngươi làm những việc ấy cho một kẻ hèn mọn nhất, thì đó là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Giáo hội tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, luôn quan tâm bênh vực quyền lợi và giúp đỡ những người nghèo khó, bởi vì họ cũng có một linh hồn bất tử, họ cũng là con cái Thiên Chúa và họ cũng được cứu chuộc bằng giá máu châu báu của Đức Kitô.
Chúng ta có thể tìm thấy biết bao nhiêu mẫu gương sáng chói trong lòng Giáo hội. Một Đamiêng đã phục vụ những người phong cùi tại hải đảo xa xôi. Một Phêrô Claver đã chăm sóc những người nô lệ. Một Vincentê đã lo lắng cho những người túng thiếu. Một Têrêsa Calcutta đã giúp đỡ những người bát hạnh, những người hấp hối bị bỏ rơi tại Ấn độ… Và con biết bao nhiêu dòng tu khác chuyên lo cho những người già cả, đau yếu và mồ côi.
Giáo hội không phải chỉ giảng dạy mà còn thực thi đức bác ái.
Noi gương Chúa Giêsu và Giáo hội, chúng ta hãy có một tinh thần siêu thoát đối với của cải đã đành, mà còn phải có một tình yêu thương đối với những người nghèo khó.
Những hành động bác ái của chúng ta sẽ là một cách thức truyền giáo hữu hiệu nhất vì ngay từ đầu những người ngoại đã phải ngạc nhiên về các tín hữu sơ khai: – Kìa xem họ yêu thương nhau biết chừng nào.
Thương giúp kẻ khó nghèo là thương giúp cho chính Chúa, là thu tích cho mình một kho tàng thiêng liêng trên trời.

43. Kho tàng
Năm 1987, Hội đồng quốc gia Hoa Kỳ đặc trách giáo dục, đã thực hiện một cuộc phỏng vấn các sinh viên sắp mãn đại học, về mục đích cuộc đời của họ trong tương lai: Họ muốn gì? Họ nhằm điều gì trước hết? Anh chị em có biết kết quả như thế nào không? 75% trong số 200.000 sinh viên được hỏi ý kiến đã trả lời cho biết: “Mục đích cuộc đời tương lai của họ là làm sao kiếm được thật nhiều tiền”. Các sinh viên này cho biết: “Sau khi học xong, họ muốn có một việc làm tốt với đồng lương cao để sống thoải mái”.
Không phải chỉ có những người trẻ này mới có ý nghĩ về cuộc sống hưởng thụ những của cải vật chất như vậy. Trong một xã hội thấm nhiễm tinh thần hưởng thụ và vật chất như ngày nay, nhiều người bị cám dỗ sống chỉ nghĩ đến nhà cửa, quần áo, ăn uống, tiền bạc, và được hưởng dùng càng nhiều phương tiện càng tốt. Nhiều người có thái độ giống như ông phú hộ giàu có được Chúa Giêsu mô tả trong Tin Mừng.
Đây là một dụ ngôn của Chúa Giêsu, thường được gọi là dụ ngôn người phú hộ ngu ngốc hay dại dột. Bởi vì ông ta chỉ nghĩ đến đời sống trần gian mà quên mất số phận vĩnh cửu của mình. Ông ta chỉ lo làm giàu mà không biết rằng: tất cả sự giàu sang của ông chỉ là hư vô mà thôi, vì tất cả những gì ông đang có ông không thể đem chúng theo ông vào cuộc sống vĩnh cửu, ông phải để lại cho những người khác. Hơn nữa, ông lại chỉ tìm sự an nhàn, hưởng thụ vinh thân phì da mà không nghĩ tới Thiên Chúa, không nghĩ tới người khác, và cũng không nghĩ tới đời sau. Đó là lý do tại sao ông phú hộ này bị Chúa bảo là ngu ngốc, dại dột, vì ông tham lam, thích sống hưởng thụ mà quên mất đời sống vĩnh cửu của mình.
Câu chuyện sau đây cũng tương tự như vậy, minh họa cho chúng ta hiểu rõ hơn chủ trương sai lầm của ông phú hộ ấy: Có một người kia rất giàu có, ruộng đất mênh mông thẳng cánh cò bay. Ông có một tên đầy tớ vốn có lòng tham của và ham danh vọng. Một hôm, ông gọi đầy tớ đến và bảo: “Ta sẽ cho ngươi ruộng đất của ta như lòng ngươi ước nguyện. Ngươi có thể chạy bao nhiêu tùy ý, chạy đủ một vòng từ lúc mặt trời mọc cho tới khi mặt trời lặn. Ta sẽ cho ngươi hết số ruộng đất mà ngươi đã chạy được, nhưng phải nhớ điều này: nếu ngươi trở về đây chỉ sau một phút khi mặt trời đã lặn rồi, ngươi sẽ không được gì hết, cho dù chỉ một tấc đất thôi”.
Người đầy tớ rất sung sướng làm theo lời ông chủ. Mặt trời vừa lóe lên những tia nắng đầu tiên, hắn đã sẵn sàng khởi hành, trong lòng nghĩ rằng: “Thật là sung sướng biết bao, chỉ trong vòng một ngày thôi mình sẽ trở thành một người điền chủ giàu có”. Với niềm vui sướng đó, hắn bắt đầu cắm cổ chạy, chạy không kịp thở, chạy không biết mệt. Mặt trời đã đứng ngọ, lẽ ra đến lúc phải quay đầu chạy vòng trở về cho kịp trước khi mặt trời lặn mới phải, nhưng trước mặt hắn, đồng cỏ vẫn còn xanh tươi, ruộng lúa chín vàng. Lòng tham đã khiến hắn chóa mắt. Thế là hắn cứ cắm đầu chạy mãi, chạy tiếp nữa. Đến khi hắn quay đầu chạy về thì trời đã xế chiều, nhưng đường vẫn còn xa, hắn ước ao mặt trời đứng lại để chạy về cho kịp. Hắn lo sợ, gắng sức chạy nhanh hơn. Khi hắn tới cửa nhà ông chủ, cũng vừa lúc mặt trời lặn. Nhưng tiếc thay cũng là lúc hắn hết hơi, ngã gục tắt thở dưới chân ông chủ. Thật đúng “Nhân tham tài tắc tử cũng như điểu tham thực đắc vong”. Và ông chủ cho anh như là phần số một chỗ nghỉ vừa dài vừa rộng không quá ba tấc đất.
Chúng ta thường nghe nói; “Tham thì thâm” quả là đúng. Trên đời này không thiếu gì những người có lòng tham và ích kỷ đến nỗi muốn đi mượn hòm để chôn mình thay vì bỏ tiền ra mua. Cũng có những người vất vả suốt cả đời lo thu tích của cải đến nỗi không dám ăn no, ngủ ngon, để rồi nửa đời người còn lại phải dùng của cải đã thu tích để bồi dưỡng lại sức khỏe đã mất chỉ vì lòng ích kỷ và tham lam quá mức. Thật vậy, những người quá lo thu tích của cải sẽ trở nên mù qaung, họ liều mình đánh mất không những tự do mà còn mất cả chính đời sống nữa.
Của cải vật chất, lúa gạo, quần áo, nhà lầu, xe hơi, vàng bạc là phương tiện cần thiết để sống, nhưng không bao giờ là tất cả. Không thể vì chúng mà người ta tự cho phép mình làm tất cả mọi cách, kể cả làm gian bán lận, xâm phạm mạng sống cũng như tiết hạnh của kẻ khác, tham ô, tham nhũng hoặc khai thác “con người” và “thiên nhiên” cách bất chính. Tiền bạc, của cải tự nó không phải là xấu. Ai cũng cần có tiền bạc, của cải để sống xứng đáng với nhân phẩm. Tuy nhiên, tiền bạc, của cải vẫn luôn là con dao hai lưỡi. Nếu được sử dụng như một phương tiện, tiền bạc sẽ giúp cho con người sống tốt đẹp, hạnh phúc. Trái lại, nếu chạy theo tiền bạc mà quên mất những giá trị khác trong cuộc sống, thì thật là nguy hiểm và tai hại. Nó có thể đem lại ấm no hạnh phúc đời này, nhưng thiệt mất linh hồn thì ích gì? Bởi vì cái chết sẽ đóng dấu chấm hết cho mọi cuộc sống giàu nghèo, sang hèn. Quan trọng là khi nhắm mắt, số phận đời đời của chúng ta sẽ ra sao? Của cải trần gian có giúp chúng ta tìm được hạnh phúc bất diệt hay lôi kéo chúng ta vào chỗ trầm luân?
Chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình. Chúng ta phải nhận định cho đúng bậc thang giá trị của cuộc sống. Trong khi bôn ba vất vả kiếm sống hằng ngày, chúng ta phải tìm kiếm nước Chúa và những giá trị của nước Chúa trước hết. Trong khi tìm kiếm nhu cầu vật chất, chúng ta phải dứt khoát khước từ mọi hành động bất chính, mọi thỏa hiệp với lừa đảo, gian dối. Chúng ta phải biết hài lòng với những gì mình đang có, đồng thời không sống ích kỷ, đóng kín, chỉ biết có mình, bất cần người khác. Trái lại, hãy sống quảng đại, mở rộng quả tim, mở rộng bàn tay để chia sẻ và cảm thông với mọi người, như thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy làm ơn làm nghĩa, hãy giàu có việc lành, hãy hào phóng, rộng rãi chia sẻ để tích trữ vốn liếng cho cuộc đời mai sau”.

44. Khờ dại
Bài Phúc âm hôm nay có nói tới một người giàu có đã lo tích trữ rất nhiều của cải, và cho rằng từ nay cuộc đời mình sẽ được hạnh phúc, bảo đảm. Ông nghĩ rằng: “Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi hưởng thụ cho đã!”. Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “kẻ khờ dại”. (nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?).
Nếu ông ta sống vào thời đại này, mọi người sẽ xem ông là một nhân vật vị vọng, một con người có địa vị cao trong xã hội, có thể sai khiến người khác, được mọi người nể trọng. Thế mà Chúa Giêsu lại gọi ông là kẻ dại khờ. Chúa Giêsu không lên án ông là kẻ dại khờ, vì có thể ông đã làm giàu một cách bất chính. Câu chuyện cho thấy ông đã lao động cật lực, đã biết tận dụng thiên thời địa lợi và hoạch địch một chương trình dài hạn như một nhà doanh nghiệp tài ba. Vậy tại sao ông lại được xem là một kẻ dại khờ?
Đời sống của ông bị nhận chìm bởi các con sóng là các phương tiện vật chất như áo quần, xe cộ, nhà cửa và các tiện nghi trong cuộc sống. Đời sống của ông bị bởi các hành trang vật chất chỉ giúp ông duy trì và phát huy cuộc sống trong cuộc lữ hành ngắn ngủi của một đời người. Ông ta quên rằng con người sống nhờ phương tiện nhưng lại sống cho cùng đích, và cùng đích của con người là “tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho. Và thảm kịch của cuộc sống chính là lo lắng tìm kiếm phương tiện, và để cho cùng đích tan biến trong phương tiện.
Người đàn ông này nếu càng giàu có về của cải vật chất thì đời sống tinh thần và thiêng liêng càng trở nên nghèo nàn. Có thể ông có rất nhiều sách quí, nhiều đĩa nhạc hay, nhưng chắc rằng ông chẳng bao giờ nghe, và chẳng bao giờ đọc. Vì ông còn đang mải mê kiếm tiền và giữ tiền. Cho nên đời sống tinh thần và thiêng liêng của ông trở nên nghèo nàn. Vậy, ông đúng là kẻ khờ dại.
Ông chỉ sống cho cá nhân của ông chứ không biết quan tâm đến người khác. Có một người nọ thật giàu muốn gì cũng có, tuy vậy ông không thấy hạnh phúc vì ông chỉ nhận được những cái nhìn soi mói, coi thường và khinh miệt của người khác. Ông tìm đến hỏi một người nổi tiếng là khôn ngoan: “Tại sao người ta lại coi thường và khinh miệt tôi cho tôi là kẻ keo kiệt bủn xỉn? Người ta đâu biết rằng sau khi chết, tôi sẽ hiến tất cả gia tài của tôi cho người nghèo và cho những công việc từ thiện”. Để trả lời, nhà khôn ngoan kể cho ông một câu chuyện như sau: Một chú heo than thở cùng chị bò cái: “Tôi cũng như chị, chúng ta cống hiến thịt mình cho loài người. Thế thì tại sao họ thân thiện với chị mà xa lánh tôi?” Ngẫm nghĩ giây lát, chị bò cái trả lời: “Thịt chúng ta chỉ cống hiến cho loài người khi chúng ta chết. Còn bây giờ có lẽ tại tôi hiến cho họ sữa lúc tôi còn sống nên họ quí mến tôi chăng”.
Thật vậy, nhìn vào cuộc sống hằng ngày thì chúng ta sẽ nhận ra ngay, những người có điều kiện về vật chất biết quan tâm giúp đỡ chia sẻ với anh em thì sẽ được nhiều người yêu mến và kính nể.
Ông nhà giàu này mang trong mình căn bệnh vị kỷ, nên không thấy rằng của cải của ông là do của cải tập thể mang lại, ông cũng không nhận ra rằng ông đã thừa hưởng một kho tàng ý tưởng và các tiến bộ mà những người đang sống cũng như đã chết góp phần tạo nên. Ông nghĩ rằng mình có thể sống huy hoàng trong thế giới nhỏ bé chật hẹp. Ông là một con người sống theo chủ nghĩa cá nhân và suốt đời ông chỉ có một mình không có ai làm bạn. Ông thật là kẻ khờ dại.
Ông đã không biết rằng ông có được của cải như ngày nay chính là do Thiên Chúa đã ban cho ông. Và bây giờ ông nói với chính mình: bây giờ tôi có nhiều của cải rồi, ta cho xây kho để cất của cải vào đó, giờ ta chỉ có hưởng thụ, đi du lịch, an dưỡng tuổi già. Nhưng đêm hôm đó Thiên Chúa gọi ông. Vậy ông quả là một kẻ khờ dại vì khi chết ông đâu mang theo được vật chất gì.
Có lẽ ông nhà giàu này nghĩ rằng của cải, quyền thế ở trần gian này là một thứ bảo hiểm chắc chắn cho hạnh phúc và sự sống đến nỗi ông quên cả cái chết rình rập, bất xét đến phần rỗi đời đời. Ông là kẻ khờ dại vì cứ bo bo giữ lấy của cải cho thật nhiều để tiêu xài, ăn chơi thỏa thích, cung phụng cho bản thân để rồi không biết khôn ngoan dùng của cải mua lấy bằng hữu trong Nước Trời.
Ngày nay có nhiều người lẫn lộn giữa hạnh phúc và cái bóng của hạnh phúc; họ mải mê rong ruổi chạy theo cái bóng này, để rồi mau chóng thất vọng khi nó vỡ tan như bong bóng xà phòng.
Chúa Giêsu coi người giàu có này là kẻ khờ dại vì ông không phân biệt được phương tiện và cùng đích cuộc đời; ông không ý thức được mình lệ thuộc vào người khác; ông không ý thức được mình phải lệ thuộc vào Thiên Chúa.
Thế thì, qua bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta điều gì? Chúa Giêsu không hề lên án người giàu có chỉ vì họ có nhiều của cải, nhưng chỉ cảnh báo những người quá coi trọng tiền bạc, của cải và không biết sử dụng tiền bạc cho đúng. Tiền bạc tự thân không có giá trị đạo đức. Nó có thể sử dụng cho việc tốt cũng như việc xấu. Nó chỉ là phương tiện, một khí cụ, một đồ dùng. Như con dao chẳng hạn, cái làm cho nó tốt hay xấu chính là cách sử dụng. Con dao có thể giúp người mẹ dùng để sửa soạn bữa ăn, hay giúp cho bác sĩ phẫu thuật để cứu sống bệnh nhận, nhưng nó cũng có thể được dùng để sát nhân. Và việc sử dụng tiền bạc cũng thế. Nếu chúng ta sử dụng đúng và tốt, như giúp đỡ anh em khi họ thiếu thốn, hay làm một công việc từ thiện nào đó là chúng ta cứu sống họ, nhưng nếu dùng đồng tiền mà mua chuộc, đút lót với ý đồ xấu là chúng ta đã hại người khác.
Dưới cái nhìn của Chúa, làm giàu một cách lương thiện không phải là xấu, tiêu dùng của cải do mình làm ra không hề là một điều xấu. Nhưng điềm nhiên hưởng thụ và nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của anh em lại là một tội ác, dù có ý thức hay không ý thức, mỗi người chúng ta là một con nợ đối với người khác (người quen biết hay không quen biết). Vậy chúng ta phải trả món nợ thế nào? Câu trả lời thật giản đơn: cho kẻ đói ăn, cho kẻ trần truồng áo mặc, chăm sóc người đau ốm.
Chúa Giêsu muốn chúng ta sống một cách sống khôn ngoan. Người khôn ngoan phải biết đâu là giá trị thật và giả, cái gì trường tồn và nhất thời. Người khôn ngoan biết nhìn sự vật theo bậc thang giá trị: sẵn sàng hy sinh cái tạm bợ để theo đuổi cái vĩnh hằng. Cuộc đời Kitô hữu chúng ta là phải sống siêu thoát, nghĩa là của cải, danh vọng, địa vị, quyền lực, quyền lợi được sử dụng như phương tiện để đạt đến mục đích tối hậu. Kitô hữu chúng ta không miệt thị những thực tại trần thế nhưng hướng tất cả các thực tại trần thế vào việc xây dựng Nước Trời. Thực tại trần thế giúp thăng tiến con người trong xã hội và Giáo Hội. Như thánh Phaolô đưa ra một xác tín cho chúng ta: Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô thì chúng ta sẽ cùng sống lại với Người. Đức Kitô trở thành Người mẫu, dạy chúng ta sống tốt đạo đẹp đời.

45. Sự khôn ngoan đích thực – Lm. GB. Trần Văn Hào
Sống ở đời, ai cũng muốn tỏ ra mình là người khôn ngoan để tồn tại. Tục ngữ Việt Nam có câu ‘Khôn sống, bống chết’. Kẻ khôn ngoan sẽ sống, còn kẻ khờ dại sẽ bị đào thải. Cả 3 bài đọc lời Chúa hôm nay đều nói về sự khôn ngoan, nhưng không theo quan niệm trần thế mà theo hướng đích của Tin mừng. Vậy đâu là sự khôn ngoan đích thực?
Nguyên lý căn bản của khôn ngoan: ‘Memento Finis’ (hãy nghĩ đến cùng đích)
Ngay từ thời cổ đại, triết gia Socrates cũng đã nói đến nguyên lý này. Nhưng ông ta chỉ giới hạn quan điểm trong phạm trù triết học mà thôi. Nền triết học Hy lạp ngày xưa không thể đưa dẫn con người đến cùng đích tối hậu của cuộc sống như Kinh thánh mặc khải, mặc dù họ vẫn biết rằng sự khôn ngoan ở đời là hãy nghĩ đến mục đích sau cùng. Họ không biết và cũng không thể xác định được đích đến của cuộc sống hôm nay là gì, ở đâu và như thế nào. Trong bài đọc thứ nhất, tác giả sách Giảng viên từ từ hé mở thực tại này với nhận định ‘Phù vân, tất cả chỉ là phù vân’. Mọi giá trị trần gian chỉ mang tính tương đối và rất tạm bợ. Tiền bạc, danh vọng hay sắc đẹp rồi sẽ biến tan như mây khói khi chúng ta đối diện trước cái chết. Nhưng tác giả vẫn chưa soi tỏ cho chúng ta biết thực tại sau cái chết sẽ ra sao.
Mãi muộn thời sau này, ý niệm về cuộc sống mai hậu mới từ từ được hé mở. Anh em nhà Ma-ca-bê (thế kỷ thứ 2 trước công nguyên) đã quyên tiền xin lễ cầu nguyện cho những người đã chết. Đây là quyển sách đầu tiên trong Kinh thánh Cựu ước nói về niềm tin vào cuộc sống mai sau. Niềm tin đó được Chúa Giêsu dần dần mặc khải rõ nét qua các giáo huấn của Ngài. Đặc biệt, Đức Giêsu đã tiến nhận cái chết và đi vào vinh quang Phục sinh để diễn bày chân lý mà Thánh Phaolô diễn tả: “Những ai cùng chết với Đức Kitô, sẽ được cùng sống lại với Ngài”.
Trong cái nhìn thần học ấy về cánh chung, Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Côlôssê mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay, cũng tổng lược một viễn ảnh cuộc sống tương lai đặt nền tảng trên niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh để giúp chúng ta có một thái độ sống khôn ngoan đích thực. Ngài viết:”Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa…Khi Đức Kitô xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Ngài và cùng Ngài hưởng phúc vinh quang.” (Col 3,1-5).
Sự khôn ngoan của Tin mừng: Tinh thần nghèo khó và sống thanh thoát.
Mối phúc đầu tiên trong bát phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi, chính là nếp sống khó nghèo. “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì nước trời là của họ”. Mối phúc đó cũng được Chúa Giêsu nhắc lại gián tiếp qua dụ ngôn trong bài Tin mừng hôm nay. Tên nhà giàu bám vào của cải vật chất và sống cuộc sống hưởng thụ đã bị Chúa kết án một cách gay gắt. Chúa gọi anh ta là ‘đồ ngốc’ (c 20). Ngài còn răn đe một cách mạnh mẽ: “Kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng sẽ giống như vậy (c 21).
Alexandre Đại Đế (thế kỷ thứ tư trước công nguyên) là một ông vua rất nổi tiếng trong thế giới Hy lạp ngày xưa. Ông đã chiến thắng lẫy lừng và chinh phục hầu hết các nước miền Trung Đông. Ông chết lúc còn rất trẻ, mới 30 tuổi. Trước khi chết, ông dặn các cận thần hãy để thi hài của ông trong cỗ quan tài với hai bàn tay thò ra ngoài. Ông muốn cho mọi người thấy rằng, một con người như ông với bao danh vọng và của cải giầu sang, khi chết cũng chỉ còn 2 bàn tay trắng. Giai thoại này rất tương thích với nội dung mà lời Chúa hôm nay đề cập đến. Chúng ta đã nghe nói khá nhiều về tinh thần nghèo khó mà Chúa Giêsu mời gọi, nhưng trong thực tế, tiền bạc vẫn luôn là tên cám dỗ khủng khiếp nhất ở bất cứ thời đại nào. Nó tấn công tất cả mọi người, không loại trừ ai. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta từng chứng kiến nhiều trường hợp, ngay cả cha mẹ và con cái đem nhau ra tòa chỉ vì tranh chấp một căn nhà hay vài ba thước đất. Có biết bao nhiêu bài học cay đắng và nghiệt ngã chúng ta đã rút ra từ vấn đề tiền bạc. Lúc còn nghèo xác nghèo xơ, chẳng ai thèm ngó ngàng tới. Khi trở thành việt kiều với đô la rủng rỉnh trong túi trở về thăm quê hương, căn nhà lúc nào cũng đầy ắp bạn bè đến hỏi han. Trong tiểu thuyết ‘Những con chim ẩn mình chờ chết (les oiseaux se cachent pour mourir)’ tác giả cũng nêu lên một thực tế phũ phàng đã và đang xảy ra, đó là tiền bạc như một ma lực làm tha hóa và biến chất rất nhiều người, ngay cả các anh em linh mục.
Kết luận
Ngày xưa có một ông vua nuôi một thằng ngốc trong cung để giải sầu. Những lúc buồn, ông gọi thằng ngốc đến để mua vui. Khuôn mặt ngờ nghệch và những cử chỉ ngô nghê của nó cũng giúp nhà vua khuây khỏa đôi chút. Nhà vua thưởng cho nó một cây gậy bằng bạc và dặn: “Tao thưởng cho mày cây gậy này vì mày rất ngốc. Khi có ai ngốc hơn mày, mày hãy trao cây gậy cho nó”. Một bữa kia, nhà vua lâm trọng bệnh và rất nguy kịch. Ông cho gọi thằng ngốc đến để giải khuây. Ông nói với nó: “Ngốc ơi, ta sắp đi xa rồi”. “Đức vua đi đâu và chuẩn bị hành trang gì chưa?” Thằng ngốc hỏi lại. “Ta chưa chuẩn bị gì và ta cũng chẳng biết đi đâu nữa”. Nghe vậy, thằng ngốc nhẩy cẫng lên và trao cây gậy bạc cho đức vua. Nó nói: “Bây giờ, con đã tìm ra được một người ngốc hơn con rồi, đó là chính đức vua. Đức vua sắp đi xa mà không biết mình đi đâu và cũng chưa chuẩn bị gì thì chắc chắn đức vua là người ngốc nhất trên đời”.
Đúng vậy, điều xuẩn ngốc nhất trên trần gian là ta đang sống mà không biết mình từ đâu đến, sống để làm gì và cuộc sống mai sau sẽ đi về đâu. Tên nhà giầu trong bài Tin mừng hôm nay cũng được Chúa gọi là ‘đồ ngốc’. Lời Chúa nhắc nhở để chúng ta biết sống khôn ngoan thực sự theo hướng đích của Tin mừng.

46. Suy niệm của Lm. Uyen Nguyen
CỦA CẢI DƯ GIẢ CÓ BẢO ĐẢM ĐƯỢC MẠNG SỐNG CON NGƯỜI
Là vấn đề được Đức Giêsu nêu lên không riêng cho người đòi chia gia tài mà còn cho mọi người trong đám đông theo Người. Gia tài là gia bảo để lại, vừa là vật thể, vừa là tinh thần. Vật thể chỉ để sử dụng, tinh thần biểu trưng công ơn cha mẹ tạo ra giờ các ngài đã khuất. Điều đó, trên nguyên tắc, được phân chia đồng đều cho các con. Hôm nay giữa đám đông, có người lên tiếng xin Đức Giêsu lấy quyền ‘chia phần gia tài công bình cho anh’. Có lẽ do Đức Giêsu dạy cầu nguyện hấp dẫn từ kinh Lạy Cha trước đây. Anh mạnh dạn mạo muội lên tiếng xin Người phân giải.
Đứng ra chia gia tài? Đức Giêsu không làm được! Vì, ở đây bây giờ, Người không xử kiện, không là quan tòa ‘chợ đời’. Người đang mang sứ mệnh, dành cho Người, tuyệt đối cao cả, trên đường lên Giêrusalem chịu chết. Cái chết của Người sẽ lập nên ‘cơ đồ’ thiêng liêng mà muôn người trần thừa hưởng bất tận. Đó là điều Người cũng muốn mọi người đồng tâm cùng thực hiện.
Trong câu chuyện kể cho mọi người, Đức Giêsu nêu hai vấn đề đối chiếu, vật chất dư giả và sự tồn vong mạng sống. Nên khi lấy vật chất dư giả để bảo đảm mạng sống thật là điều hão huyền. Thế mà không ít người, trong khi miệt mài lo thu tích gom góp những gì chóng qua, quên mất những gì là trường cửu. Vì thế Người đã nói: “Ấy người nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa thì số phận cũng như thế đó”(c.21)! ‘Làm giàu’ theo đường lối của Người là gầy dựng những gì ‘công đức’, sự nghiệp, tài sản thiêng liêng trường cửu, là sự công chính. Đây là chủ đích giáo huấn của Đức Giêsu như đã thấy trong Tin Mừng Matthêu: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. (x.6,19-20)
Biết rằng mọi ‘vật chất’ hiện có là do Thiên Chúa tạo ‘chung’ cho con người hưởng dùng. Chính những vật chất này làm nên cơ sở để con người lấy năng lực bẩm sinh làm ra nhu cầu cần dùng. Vật chất luôn vô tri. Dù vậy khi ở trước con người, vật chất đã trở nên duyên cớ phát sinh mọi sự phức tạp rối ren. Điều đó được trải nghiệm qua bao thời giữa mọi người, mọi nước, mọi dân. Và Đức Giêsu cũng đã chỉ ra nguyên nhân, duyên do nội tại là ‘mọi thứ tham lam’ của con người đã, thật cụ thể, gây ra bao tiêu cực làm suy suyển tình anh em đồng loại và cuộc sống chung an bình đấy.
Tuy nhiên, đứng trước tâm địa con người, vật chất cũng đã chịu số phận đảo điên. Vì con người, dù trong chiều hướng tâm linh nào, cũng có thể có quan điểm và đánh giá khác nhau về chúng. Ở tiêu cực, một bộ phận cho là phù phiếm chóng qua; bộ phận khác, cách tích cực, tha thiết gắn bó, như Thần Tài Thổ địa, có tầm vóc mang lại may mắn vượt cung cầu không hề chấp nhận thiếu thốn hoặc chỉ đủ. Một bộ phận khác nữa nhìn vật chất là công cụ để thi thố tài cán nội tại sẵn nơi chính mình. Như tôi đã đọc thuộc câu này, ở đâu bao giờ, mà không nhớ nổi rằng: “Ngày xưa hạn hán cầu trời, ngày nay hạn hán mời trời xuống coi”. Không hề không đồng tình điều người xưa nói: Tận nhân lực tri thiên mệnh”.
Ở góc độ tiêu cực như đã nói, không thể không trích dẫn cụ đồ nho Nguyễn Sinh Sắc để thấy được quan điểm chung không ít, vì rất gần với thời hiện đại. Có lẽ trong khi dồi mài kinh sử tiến quan qua nhiều phen thành bại thăng trầm, đã không khỏi nhìn mọi sự thật đáng tủi buồn chê chán. Qua mấy vần thơ khá hấp dẫn, cụ đã bộc lộ rõ quan điểm của mình trước mọi sự đời: “Nhân sinh nhược đại mộng, thế sự như phù vân”. Quan điểm này rất trùng lập với tư tưởng vua Salomon cách cụ gần mấy nghìn năm trong bài đọc thứ I: “Mọi sự là phù hoa”.
Với Đức Giêsu! Người không đưa ra đánh giá phê phán nào đối với vật chất. Vì Người quá am tường tính chất cùng mức độ giá trị của chúng, bởi Người là Đấng tạo dựng nên chúng: ‘mọi sự đều thiện hảo’, thiện hảo theo cung cách ‘Chủ Tác’ tạo thành. Thế vậy, Người thẳng thắn chỉ dạy lập trường sống cho con người mỗi khi đối diện với vật chất đã tạo thành. Là luôn vận dụng khối óc, con tim, tình cảm để lọc chọn hành vi tốt, thực hiện hoạch định, sao đạt được điều độ phải cách, đúng phép và trách nhiệm! Chỉ thế là theo cách hướng dẫn mà Người nói với đám đông dân chúng trên đường theo Người qua đoạn Tin Mừng được trích công bố để suy nghĩ và tâm đắc hôm nay.
Với Phaolô, vị tông đồ yêu mến Đức Giêsu chí tình, qua mỗi bước trên đường rao giảng, đã nghiền ngẫm học hỏi rập khuôn vói Đức Giêsu, xác tín dạy dỗ các giáo đoàn tòng đạo. Bởi vì ánh sáng Đức Giêsu nhập tâm ngài. Trước vật chất là những gì con người phải biết tự phòng, nếu còn muốn ở mãi, và tha thiết bảo toàn đời sống công chính, điều cần thiết là khôn ngoan trong sử dụng, thức tỉnh trước cám dỗ và chất hấp dẫn hiểm nguy của chúng! Tuy không là tên cám dỗ, nó vẫn có ma lực cuốn hút vào vòng hấp lực xoáy ốc của nó kích động cái ‘bụng hèn yếu’ ở con người. Không phải chứ, cái bụng con người, nếu không có tâm linh đạo như ‘vòng khóa kiểm định hãm mở tự động’ thì không là túi tham không đáy đấy ư?
Điển hình với mọi người, Phaolô luôn có tâm ý khuyên bảo hãy có một tinh thần tự do và thái độ hưởng dùng mà không để lòng tha thiết gắn bó với của cải. Ngài viết trong thư gởi giáo đoàn Côrintô: “Kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi” (x. 7,31). Thánh nhân cũng không quên nhắc điều như vậy với các cộng sự của ngài, như với Timôtê, trong vai trò chăn dắt đàn chiên, dạy cho họ biết đặt trọn hi vọng và niềm trông cậy vào Thiên Chúa Đấng là chủ mọi sự và thấu suốt mọi sự thì hơn, đặc biệt lưu tâm đến những người giàu của cải:”Những người giàu ở trần gian này, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng” (tđd. 6,17).
Nhìn chung, Giáo Hội xưa nay trung thành với giáo huấn của Đức Giêsu, vị Thầy không ngừng toàn tâm ý hướng dẫn đoàn dân Chúa đón nhận giáo huấn của Người vì nơi hội tụ Nước trời. Bởi giá trị nhân linh được mua lấy bằng máu vô giá Đấng Cứu Độ. Giá trị đó đã trở nên vô cùng cao quý. Chỉ còn một điều mọi người biết trân trọng giữ lời dạy của Đức Giêsu, khi người phán: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”(Mt 6,33). Tâm quyết này là kiên định dành cho những ai, trên đường lữ hành, diễn tả rực sáng niềm hi vọng.
Lạy Cha! chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày! Chúng con xin cảm tạ Cha.

47. Phù vân
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Tác giả sách Giảng Viên nghiên cứu những sự việc xảy ra trên đời, sau những năm tháng dài suy tư, Ngài nói: “Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân” (Gv.1, 2). Thành công lẫn thất bại, danh thơm tiếng tốt cũng như những tài sản một người có thể có, cũng chỉ là phù vân. Vất vả cực nhọc làm việc, an nhàn hưởng thụ, cũng chỉ là phù vân. Tất cả đều qua đi, chẳng có gì tồn tại. Phù vân, tất cả chỉ là phù vân. Tất cả những gì con người vất vả lam lũ để có, hoặc chịu đựng, dường như chẳng có chi trường tồn.
Có nhiều người đi tìm tiền bạc chức quyền, tưởng rằng những điều đó đem lại cho con người hạnh phúc, nhưng họ khổ vẫn khổ. Có thể họ sung sướng thỏa mãn trong một thời gian, nhưng rồi sau đó lại thấy bất hạnh! Thành công cũng làm con người thỏa mãn trong một khoảng khắc nào đó, nhưng rồi tất cả cũng qua đi. “Nào ai giầu ba họ, nào ai khó ba đời!” “Dù ai ruộng sâu trái núi, đụn lúa kho tiền, bất qua cũng thủ tài chi lỗ.” Tiền bạc tài sản, tất cả sẽ qua đi. Kể cả mạng sống con người, cũng qua đi. Thời gian đưa tất cả đến chỗ “kết” của nó.
“Cái vòng danh lợi cong cong, kẻ hòng ra khỏi người mong được vào.” Danh lợi, tình tiền, bao nhiêu là mong ước, bao nhiêu là trói buộc! Tất cả đã qua đi, đang qua đi, và sẽ qua đi; dường như chẳng có gì tồn tại với con người. Người ham tiền bạc, có thể bị người khác dùng tiền bạc để điều khiển sai khiến; người ham công danh chức quyền cũng tương tự vậy, cũng có thể bị người khác chi phối điều khiển bằng cái mồi công danh. Người ham danh tiếng, bị cái sợ chi phối: sợ bị người khác hiểu lầm, sợ bị người này hiểu thế này thế kia, và họ trở thành nô lệ.
Đức Yêsu đã sống thân phận con người như tất cả và từng người chúng ta. Ngài đã thấy có những người quá lo cho cơm ăn áo mặc, lo đến độ sống bất an. Những người đó không tin rằng Thiên Chúa yêu thương họ; họ không tin rằng Thiên Chúa đã cho họ được sinh ra, thì Ngài cũng sẽ ban cơm ăn áo mặc cho họ và cho con cái họ. Dĩ nhiên, khi Thiên Chúa ban cho con người lý trí, là để con người có thể nhìn trước thấy sau, để họ có thể toan tính dự trù; điều đáng trách ở đây là họ làm như thể Thiên Chúa không yêu thương không quan tâm đến họ, nên họ lo lắng đến độ bất an. Với những người này, Đức Yêsu dạy họ: hãy tín thác nơi Thiên Chúa quan phòng (Mt.6, 25-34).
Tin mừng theo thánh Luca hôm nay cho thấy Đức Yêsu được một người xin Ngài can thiệp: “xin thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi.” Có người lạc quan thấy rằng qua biến cố này, Đức Yêsu là người được tin tưởng và cậy nhờ; nhưng người khác cho rằng trong vụ việc này Đức Yêsu cũng chỉ là phương tiện mà thôi; đối với người xin Đức Yêsu can thiệp này, bất cứ ai giúp họ đạt được yêu cầu “được người anh chia gia tài” là anh ta có thể cậy nhờ. Chính Đức Yêsu cũng không hài lòng về điều này: “này anh, ai đặt tôi là người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?” Người ta quá bận tâm về tiền bạc, người ta tưởng rằng có của là có tất cả. Điều quan trọng người ta không lo tìm kiếm, mà lại quá bận tâm về những sự mau qua. Dụ ngôn người phú hộ cho thấy cái chết sẽ làm cho người ta nhận ra sự thật về con người. Cái chết giúp con người bình đẳng với nhau trước nhan thánh Chúa. Người ta không thể mang tiền của đi theo mình được; những gì người ta cố công thu góp lại để cho người khác hưởng. Danh tiếng một người sẽ được cái chết đưa vào dĩ vãng. Người chết chẳng nhận danh tiếng mà chỉ người sống mới có thể nhận lời ca tụng của người khác.
Mỗi người hãy sống hạnh phúc ngay từ giây phút này, không phải chờ tới tương lai hay ngày mai. Sống hạnh phúc chính hôm nay và ngay bây giờ, đó mới là điều quan trọng. Hạnh phúc tương lai một Kitô hữu mong đợi, cũng phải hàm chứa người đó bình an ngay giây phút này. Một Kitô hữu phải là người liên đới với mọi người, mong ước điều tốt cho mọi người và đặc biệt những người mình thương yêu, nhưng vẫn phó thác tất cả cho Thiên Chúa, có như vậy người đó mới có thể sống bình an và hạnh phúc thật sự. Kitô hữu phải xác tín, Thiên Chúa là Cha của tất cả, Thiên Chúa yêu thương tất cả và từng người, hơn bất cứ ai ở trần gian này. Chính Thiên Chúa sẽ lo lắng và săn sóc cho tất cả và từng người mà mình thương mến lo lắng. Nếu mình lo lắng quá đáng, là dấu chỉ cho thấy chưa nhận biết và tin vào Thiên Chúa là Thiên Chúa tình yêu.
“Thưa anh em, anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl.3, 1). Để có thể có được những gì tốt đẹp thường hằng, chúng ta cũng phải sống như Đức Yêsu Kitô. Mỗi người chúng ta được mời gọi để sống như có Thiên Chúa là gia nghiệp, như Thiên Chúa là tất cả cho mình, nghĩa là, Thiên Chúa là gì quý nhất mà mỗi người chúng ta ao ước và khao khát. Mỗi người chúng ta được mời gọi để sống theo ơn gọi và bản tính của con cái Thiên Chúa, vì mỗi người chúng ta là con cái Thiên Chúa. “Thiên Chúa là tình yêu, ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy” (1Ga.4, 16). Chúng ta được mời gọi để sống yêu thương, để muốn điều tốt cho người khác, để tôn trọng tự do của mỗi người, để thương yêu và giúp đỡ những người cần đến sự giúp đỡ của mỗi người chúng ta.
Gia nghiệp của Kitô hữu, là chính Thiên Chúa và những người mà mình đã cộng tác với Thiên Chúa để giúp họ có Thiên Chúa là tất cả. Yêu thương như Đức Yêsu đã yêu thương. Đức Yêsu là mẫu gương, là lý tưởng sống, là thần tượng của mỗi Kitô hữu. Con người khi chưa được hiện hữu thì chưa có, nhưng một khi đã được hiện hữu thì tồn tại mãi mãi. Tất cả những sự trần gian sẽ qua đi, nhưng Thiên Chúa thì vĩnh cửu, và con người còn mãi với Thiên Chúa. Nếu chúng ta cùng cộng tác với Thiên Chúa, giúp cho một người nhận ra sự thật về chính họ, giúp họ sống an bình hạnh phúc, giúp họ thuộc trọn vềThiên Chúa và trở thành tình yêu của Thiên Chúa cho người khác, thì sự nghiệp của chúng ta tồn tại mãi mãi. Yêu thương Thiên Chúa và con người, là đang tạo cho mình một gia tài tuyệt vời và vĩnh cửu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn mong ước thành người thế nào trong tương lai? Theo bạn mơ ước, sự nghiệp của bạn sẽ là gì?
2. Sự nghiệp của ba mẹ bạn là gì? Sự nghiệp của vua Quang Trung là gì? Sự nghiệp của vua Gia Long là gì?
3. Theo bạn, sự nghiệp của Đức Maria là gì?
4. Sự nghiệp của Đức Yêsu là gì?

48. Điều làm con người thành vĩnh cửu
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Thu tích kiến thức và học tập những kỹ xảo, tìm cách sở hữu gia tài một cách công bằng, lo lắng để mình hưởng nhàn sau những cố gắng lao nhọc, cũng chỉ là phù vân. Vậy cái gì trường tồn?
Cái chết giúp con người nhận ra chân lý
Trong cuộc đời rao giảng, Đức Giêsu đã gặp nhiều loại người. Có những người tìm đến với Đức Giêsu để nghe Ngài dạy điều hay lẽ phải, nhưng cũng có người muốn nhờ Ngài giải quyết những tranh chấp, cụ thể là vấn đề chia gia tài. Đức Giêsu đã từ chối can thiệp vào những việc này. Tại sao Đức Giêsu lại không giúp anh ta, khi anh ta bị người anh đối xử không công bằng? Phải chăng Đức Giêsu biết rằng Ngài cũng không thành công nếu Ngài can thiệp vào, hay Ngài cho rằng điều đó không quan trọng, và không là sứ mạng của Ngài: “Ai đã đặt tôi làm quan toà hay người trọng tài để phân xử?”? Hơn nữa, Đức Giêsu còn dùng cơ hội này để giúp con người ý thức về “lòng tham” của mình dưới mọi hình thức.
Người giầu có trong đoạn Tin Mừng sở hữu nhiều của cải, tính toán để tích chứa những gì ông ta có do lao động một cách hợp lý hợp pháp, đâu có gì xấu. Thế nhưng Thiên Chúa nói với ông ta: “Đồ khùng, nếu đêm nay anh phải chết, thì kho tàng đó để cho ai?” Điều khùng ở đây là người nhà giầu không biết dùng của cải để giúp người nghèo, để thu tích kho tàng không mục nát và không bị mối mọt đục khoét.
Cái chết, giúp người ta nhận ra chân lý, giúp người ta biết điều mình toan tính thu tích có giá trị thực sự không? Nếu thu tích, bỏ công sức để được cái gì đó, mà cái chết sẽ đến đêm nay huỷ diệt tất cả, thì ích lợi gì?
Tất cả chỉ là phù vân
Sách Giảng Viên cho thấy những suy tư của ông về sự đời. “Lợi lộc gì khi con người phải chịu đựng bao nhiêu gian lao vất vả?” Với Giảng Viên, việc thu góp được bao nhiêu điều khôn ngoan hơn tất cả những người trước, việc phân biệt được đâu là khôn ngoan, đâu là tri thức, điên rồ hay khờ dại, cũng chỉ là phù vân (Gv.1, 16-17).
Khôn lắm cũng khổ, hiểu lắm cũng khổ. Tận hưởng thú vui, nếm mùi hạnh phúc, cũng chỉ là phù vân. “Tất cả đều chết, người khôn cũng như kẻ dại” (Gv.2, 16). Cái chết giúp người ta biết con người là ai, những lao nhọc vất vả của mình có giá trị gì, đâu là điều trường tồn và có gía trị thực sự? Cái chết, là nỗi sợ của nhiều người, nhưng cũng là một quà tặng cho nhiều người, và nó cũng có tính giải phóng con người khỏi u muội mê lầm. Cái chết, là khởi đầu của hạnh phúc.
Đức Kitô là tất cả trong mọi sự
Chỉ một điều quan trọng, điều ảnh hưởng dứt khoát trên cuộc sống con người, là Thiên Chúa và tình yêu của Ngài nơi Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thương con người, làm những vất vả của con người trở nên có ý nghĩa và trọn vẹn trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Đức Giêsu Kitô. Tất cả những gì được thực hiện trong Thiên Chúa và trong Đức Giêsu Kitô, sẽ có giá trị vĩnh viễn.
Hành vi bác ái yêu thương, là hành vi “vĩnh cửu” nhờ Đức Giêsu. “Nếu tôi làm được điều này điều kia, nếu tôi được ơn này ơn kia, mà không có bác ái, thì cũng như tiếng phèng la vang dội, não bạt vang vang”. Yêu thương, là hành vi làm con người trở nên vĩnh cửu, là hành vi làm con người trở nên con Thiên Chúa và nên giống Thiên Chúa.
Đức Giêsu là mẫu gương và thầy dạy con người về yêu thương.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, điều nào quan trọng nhất đối với người đời? Tại sao?
2. Theo cái nhìn của bạn, điều nào làm hành vi của bạn trở thành vĩnh cửu? Tại sao?
3. Bạn có sợ chết không? Cái chết của những người khác, thường gợi gì nơi bạn?

49. Tích trữ của cải – Lm. Giacobê Tạ Chúc
Trong thời gian gần đây, báo chí hay đưa tin những doanh nghiệp làm ăn thành công cũng như thất bại. Thậm chí có những tên tuổi của những người trong giới văn nghệ sỹ, rất được công chúng hâm mộ, nhưng rồi khi hay tin doanh nhân này, ca sỹ nọ, người mẫu kia làm ăn thua lỗ, nợ nần chồng chất… Rồi cũng rất nhiều những ông to bà lớn mà tài sản của họ rất kếch sù, không phải là những con số nhỏ mà là lên đến một vài tỷ mỹ kim. Xem ra của cải vật chất như là thước đo của khoảng cách giàu nghèo trong xã hội. Người giàu ngày càng muốn giàu hơn, trong khi kẻ nghèo cũng cật lực để làm cho mình có của cải tiêu dùng. Ai cũng muốn đầu tư tích trữ, như nhà phú hộ mà Tin mừng Luca giới thiệu, ông không biết để đâu, hay làm gì nữa, vì ông ta có quá nhiều của cải.
Trước hết, dùng của cải vật chất như là những phương tiện
Khi sáng tạo nên con người, Thiên Chúa đã đặt để Adam canh gác vười Ê-den, Ngài cho con người tự do canh tác, làm lụng vất vả để có lương thực nuôi sống bản thân. Con người là chủ tế vạn vật, và cũng là những quản lý vườn nho cho Chúa. Đức Giê-sa cũng dạy các môn đệ làm việc và Ngài cũng là người tích cựa làm việc từ sáng sớm cho đến lúc hoàng hôn. Vật chất, tiền bạc tự nó không xấu, vì đó là điều kiện tối cần cho nhu cầu của con người. Tiền bạc là phương tiện, nó giúp mỗi người đạt đến cứu cánh là ơn cứu độ. Giáo hội cũng luôn khuyến khích con cái mình hãy ra sức làm việc, để cải thiện đời sống, để thoát khỏi cảnh nghèo nàn, và cũng là để có cơ hội chia sẻ và hoạt động cho công cuộc truyền giáo, bác ái xã hội của toàn thế giới.
Thứ hai, của cải vật chất là ân huệ của Chúa thương ban
Khi Ngài rộng mở tay ban,
Là bao sinh vật, thoả thuê muôn vàn.(Tv 144, 16).
Lời Thánh vịnh nhắc nhở mỗi người hiểu rằng, tất cả những gì mình đang có, hay đang sở hữu là do hồng ân của Thiên Chúa thương ban, như Chúa Giêsu khẳng định: “Không có Thầy, chúng con chẳng làm được gì”. Thật vậy: “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 126 (127). Không phải tôi tài giỏi cho bằng Đấng đã dựng nên tôi, đã cho tôi trí khôn, sức khoẻ và có điều kiện, cũng như cộng vào đó là một chút may mắn, gặp thời vận. Nên tôi thành công, tôi có nhiều của cải, nhưng cũng nên nhớ một điều mà chính người Phú hộ đã ldạy cho chúng ta một bài học, đang khi ông mải mê tính toán, xây thêm nhiều kho lẫm thì: “Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”(Lc 12, 20).
Sau cùng, hãy làm giàu trước mặt Thiên Chúa
Nhiều lần, Chúa Giêsu đã dạy dỗ mỗi người: “ Chúng con đừng lo lắng, áy náy…”, hãy kiếm tìm những giá trị vĩnh cửu hơn là những thứ chóng qua ở đời này. Người môn đệ của Chúa, luôn tìm kiếm những cúu cánh vững bền, đó là hạnh phúc thiên đàng, chứ không phải ảo ảnh trần gian. Mặc dù đang khi hoàn tất số mạng lữ hành trần gian, họ vẫn phải chu tất mọi trách nhiệm, sự liên đới đầy nhân văn trong thế giới hiện đại hôm nay. Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người không thể tách rời ra khỏi cuộc sống của các Kitô hữu. Thế nhưng, những tín hữu vẫn luôn ý thức thức rằng: “Chúng con sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian”.
Những bất thuận bất hoà, những tranh chấp, bất công, đàn áp như là những trì trệ, nó làm cho con người không thể vươn lên để xây dựng một cuộc sống văn minh tình thương. Trong khi đó, biết chia sẻ áo cơm cho những người đói khát, biết cảm thông và giúp đỡ lẫn nhau sẽ thăng tiến con người và đưa họ đến gần Thiên Chúa hơn.

50. Bảo hiểm linh hồn – Lm. Bùi Quang Tuấn
“Những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?” (Lc 12:20)
Nasruddin đang bò gối trên thảm cỏ trước nhà, hình như đang tìm kiếm vật gì. Người hàng xóm của anhta thấy thế bèn cất tiếng:
– Này Nasruddin, anh đang tìm gì vậy?
– Tôi tìm chiếc chìa khoá. Nasruddin trả lời.
Thế là người hàng xóm liền tỏ lòng hào hiệp. Anh cùng bò gối trên sân để tìm chiếc chìa khoá cho Nasruddin. Sau một hồi lâu tìm kiếm mà không được, anh hàng xóm ngước mắt lên hỏi:
– Mà Nasruddin nè, anh làm rơi chiếc chìa khóa ở chỗ nào vậy?
– À, tôi làm rớt ở trong nhà.
Nghe câu trả lời, người hàng xóm ngẩn ra vì tức:
– Rơi ở trong nhà… nhưng tại sao anh lại tìm ở đây?
Nasruddin tỉnh bơ đáp lại: “Bởi vì ở ngoài này sáng hơn, còn trong kia tối quá.”
Thế đấy! Ở trên đời có không ít người đi tìm hạnh phúc, nhưng lại chẳng tìm đúng nơi. Cũng có lắm kẻ đã đến đúng nơi rồi nhưng lại không biết minh nên tìm thứ gì.
Có nhiều người tầm sư học đạo mà tìm mãi không ra, nhưng cũng có lắm kẻ đang ở trong chính đạo, nhưng lại cứ kiếm những thứ gì đâu! Có bao giờ bạn đặt câu hỏi với chính mình: “Tôi đã thuộc về chính đạo chưa? Nếu rồi, thì nơi đó tôi đang muốn điều chi?”
Đặt câu hỏi như vậy là để xác định cho mình một mục tiêu, nếu chưa có. Hỏi như thế cũng là để chỉnh đốn hướng đi, nếu như mình đang bước không đúng với tinh thần của đạo.
Khi yêu quí thứ gì thì người ta đâu muốn bị mất mát hư hao. Cho nên nếu có phương cách để bảo vệ, tất họ sẽ không ngần ngại thi hành. Đây là tâm lý chung mà nhiều kẻ nhờ biết khai thác và kinh doanh đã trở nên giàu to. Bao dịch vụ hay công ty mang danh bảo hiểm – insurance – đã xuất hiện để bồi hoàn cho những mất mát hay hư hao đó.
Kết quả là nhiều thứ bảo hiểm xuất hiện: nhà cửa, xe cộ, vật dụng, công việc, sức khoẻ, nhân thọ. Thậm chí còn có bảo hiểm cho cả chó mèo chim chóc trong nhà.
Không có thứ bảo hiểm nào lại không liên quan đến sự sống người ta. Tôi mua bảo hiểm cho chiếc xe, cài nhà, cửa tiệm, bức tranh, chiếc nhẫn kim cương… là vì những thứ đó có dính dáng đến cuộc sống của tôi phần nào.
Nhưng thử hỏi có mấy thứ bảo hiểm người ta đang có mà lại không đụng đến đồng tiền? Phải nói rằng trong thực tế, thứ nào cũng cần có tiền mới mua được. Thành ra để bảo hiểm cho thứ này vật kia, tôi phải nai lưng ra kiếm tiền; để bảo vệ sự sống, tôi phải lo lắng vất vả thức khuya dậy sớm cày thêm tí “job” để có tiền đóng bảo hiểm. Rốt cuộc, tôi đã tiêu hao sự sống để bảo vệ sự sống. Trực tiếp giữ gìn sự sống thân xác trong khi đã gián tiếp đánh mất nó. Mà nhiều khi lại đánh mất trong hãnh diện và tự hào mới khốn chứ!
Quả là phù vân tiếp nối phù vân, hư không trên các sự hư không.
Nếu không thoát được bao sự hư không phù phiếm đó thì tôi sẽ chẳng khác chi gì “người phú hộ giàu có” trong Tin mừng của thánh Luca: gặp năm được mùa, lúc thóc dư tràn, người phú hộ không biết để đâu cho hết. Sau nhiều hôm trằn trọc băn khoăn, cuối cùng ông tìm được một kế: phá quách các kho nhỏ, đóng một kho thật lớn để chất tất cả tài sản thóc gạo vào đó. Thế rồi, khi mọi sự hoàn tất, được bảo đảm bởi một kho lẫm chắc chắn, ông phú hộ mới nói với linh hồn: “Hãy ăn đi, uống đi, hãy nếm cho thoả thích mùi đời đi, hỡi linh hồn của ta.”
Nhưng bất thần có tiếng Chúa phán: “Đồ ngốc,ngay đêm nay người ta sẽ đòi lại hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ kia sẽ để lại cho ai đây?” (Lc 12:16-21)
Mới đọc qua dụ ngôn, không ít người thắc mắc: một kẻ làm ăn cần cù, có lẽ không gian dối lừa gạt bóc lột ai, nhưng sao lại bì kết án “đồ ngốc” nặng nề như vậy? Thế nhưng, suy nghĩ một chút người ta sẽ phải công nhận người giàu có kia đã phạm phải ba lỗi lầm chứng tỏ ông ta ngốc thật.
Lỗi lầm thứ nhất: ông tưởng của cải vật chất là yếu tố căn bản có thể mang lại sự sống cho linh hồn, một hữu thể vô vật chất. Ông ngây ngô khi nói với linh hồn mình hãy cứ ăn uống những thứ mà ông thu tích được kia.
Lỗi lầm thứ hai: ông phá được các kho lẫm ích kỷ nhỏ nhoi của mình để rồi xây lại một cái khác to lớn hơn.
Phải chăng trong thực tế cũng có không ít người phá được hầu bao của mình để dâng cho Chúa một chút tiền công đức thì lại cứ muốn tên tuổi được khắc ghi trên bia đồng hay bia đá, hoặc có những người vừa thoát được cái thế giới thầm lặng khép kín của mình để ra đóng góp cho cộng đoàn tha nhân thì lại xây ngay một cái kho khác lớn hơn: cái kho của tự cao tự phụ – “mọi người phải biết đến phần đóng góp của tôi, nếu không thì tôi rút lui.”
Đó không phải là nẻo đường chân chính của Phúc âm. Trái lại, theo tinh thần Kitô giáo, phá kho là để trao ban cho người chứ không phải xây lên kho khác để rồi lại tích lũy cho mình.
Điều lầm lẫn thứ ba của người phú hộ là chỉ biết hướng về những sự dưới đất, những chuyện thế gian, những phạm vi thân xác, và thiếu quan tâm đến những thiêng liêng hay cuộc sống mai sau.
“Người ta sẽ đòi linh hồn ngươi.” Câu nói này đã bộc lộ một chân lý: Đến giờ chết thân xác sẽ tiêu tan, trở về với cát bụi, chẳng ai còn tha thiết với nó. Những gì sẽ được đem đi chính là linh hồn. Cho nên thật là khờ dại khi chỉ tích trữ, trang điểm, vỗ béo cho thân xác mà quên mất hay coi nhẹ việc tô điểm hoặc bảo hiểm cho linh hồn.
“Người ngốc” được nói đến trong Phúc âm là kẻ chỉ biết có hiện tại, tìm kiếm và hưởng thụ những giá trị hữu hình.
Người khôn ngoan chính là người sống trong hiện tại nhưng biết hướng về tương lai, ở trong thế giới hữu hình nhưng luôn chuẩn bị cho mình những giá trị và tài sản vô hình thiêng liêng.
Người khôn ngoan “khi còn sống trên địa cầu biết kiềm chế các chi thể là sự gian dâm, ô uế, dục tình, đam mê xấu xa và hà tiện, tức là những sự thờ quấy… (cùng với) nóng giận, gắt gỏng, thâm độc, chửi rửa, thô tục” (Col 3:5,8)
Người khôn ngoan là người biết rằng không có gì quí bằng linh hồn, không có gì quan trọng cho bằng sự sống mai sau với Đức Kitô. Từ chỗ nhận biết này người khôn ngoan sẽ lo việc bảo hiểm linh hồn của mình nhiệt thành hơn.
Có rất nhiều phương cách để giúp bảo hiểm linh hồn, nhưng có một phương cách mà ai chịu khó đầu tư cũng đều nắm chắc phần thắng. Đó là cầu nguyện. Thánh Anphongsô từng khẳng định: “Ai cầu nguyện nhất định được rỗi linh hồn.” Bởi vì qua cầu nguyện, người ta sẽ vững bước trên con đường tiến về Thiên Chúa

51. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Sự sống của con người phải chăng chỉ là những sinh hoạt của thân xác với những nhu cầu vật chất và tinh thần thông thường? Còn có gì khác nữa?
2. Muốn sống cho phong phú, tràn đầy, hạnh phúc, phải sống thế nào?
3. So sánh hạnh phúc trong đời sống của thân xác và trong đời sống tâm linh, ta thấy có những điểm khác biệt căn bản nào? (đặc biệt về tính lâu bền)
Suy niệm
1. Sự sống duy nhất nhưng có nhiều mặt nơi con người
Điều quan trọng nhất đối với con người là sự sống. Sự sống là một thực tại duy nhất nhưng có nhiều mặt, có thể phân loại và sắp xếp theo thứ tự từ cụ thể đến trừu tượng như sau:
* Sự sống tự nhiên hay trần thế, là sự sống có thể bị hủy hoại (nay còn mai mất), lệ thuộc vào những cái chóng qua, những cái dễ bị thay đổi, vào những điều kiện của thời và không gian của trần thế, gồm:
a) Đời sống thể chất: liên quan nhiều đến thể xác, cần được nuôi dưỡng bằng vật chất, đồ ăn thức uống, tiền bạc, tiện nghi, sắc dục, v.v…
b) Đời sống tinh thần: liên quan đến những khía cạnh tinh thần của thể xác, như tri thức, tình cảm, ý chí, sở thích, tự do, danh vọng, quyền bính, cần được nuôi dưỡng bằng học hỏi, hiểu biết, tình yêu, lời khen, địa vị, quyền lực, điều kiện và khả năng làm theo sở thích, v.v…
* Sự sống siêu nhiên hay tâm linh: là sự sống khó bị hủy hoại nơi bản thân, liên quan nhiều đến linh hồn, đến những thực tại bất tử, siêu việt, siêu thời gian và không gian; được thể hiện thành khát vọng đạt tới Chân Thiện Mỹ, vươn tới Tuyệt Đối; được nuôi dưỡng bằng sự tiếp xúc, tương giao với Tuyệt Đối, với những thực tại siêu việt, bằng những tâm tình hay ý tưởng cao thượng, bằng tình yêu phổ quát mang tính dâng hiến (tức lòng bác ái đích thực). Đây là sự sống của chính Thiên Chúa mà Ngài đã thông ban cho con người khi nâng con người lên hàng con cái Ngài.
Đó không phải là những sự sống khác nhau, biệt lập nhau, mà là những phương diện hay hình thức sống khác nhau của một sự sống duy nhất. Những phương diện ấy quyện lấy nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, và có thể phát triển với mức độ khác nhau tùy từng người.
2. Hiện nay, người ta quá quan tâm đến đời sống trần thế mà quên đi đời sống tâm linh
Phương diện của sự sống mà con người cảm nghiệm được dễ dàng nhất là đời sống thể chất, vì đó là những gì cụ thể, thấy được, sờ được, cảm nhận được. Vì thế, với những người suy tư còn thấp kém, sự sống chủ yếu chỉ là thể chất, với ham muốn ăn ngon mặc đẹp, nhiều tiền bạc, nhà cao cửa rộng, tiện nghi đầy đủ… Với những người suy tư cao hơn, đời sống còn là tinh thần, với ham muốn học hỏi, yêu thương, có danh tiếng, địa vị, quyền lực…
Còn đời sống tâm linh, chỉ những ai phản tỉnh cao, sống nội tâm sâu xa, mới cảm nghiệm được sự sống này ở nơi mình, với những nhu cầu cũng rất cấp thiết đòi hỏi phải được thoả mãn của nó: nhu cầu vươn lên đỉnh cao Chân Thiện Mỹ, trở nên một với Tuyệt Đối hay Thiên Chúa là nguồn tình yêu và cũng là sức mạnh vô biên của mình, nhu cầu xả thân, quên mình, làm cho mọi người nên tốt đẹp và hạnh phúc. Họ cảm thấy đời sống phong phú và ý nghĩa hơn, hạnh phúc cũng tăng lên rất nhiều khi thực hiện và thỏa mãn được những nhu cầu ấy. Đời sống tâm linh phát triển mạnh khi con người biết quên mình, sống tinh thần “tự hủy”, không còn sống cho bản thân mà sống cho Thiên Chúa và tha nhân. Đời sống thần bí là một dạng của đời sống tâm linh cao, có cảm nghiệm tương đối rõ rệt về Thiên Chúa và những thực tại siêu việt hay thần linh. Cũng có rất nhiều người chỉ nghe nói về đời sống tâm linh chứ không tự mình cảm nghiệm được, nên tin có đời sống tâm linh, và đã có những sinh hoạt có vẻ tâm linh, như đọc kinh, cầu nguyện, đi lễ, bên ngoài giống như những người đã cảm nghiệm được đời sống tâm linh. Nhưng vì vẫn tiếp tục chạy theo đời sống thể chất, không đầu tư cho đời sống tâm linh, nên đời sống tâm linh của họ không phát triển được.
Hiện nay, do văn minh thế giới phát triển theo hướng vật chất với những thành tựu của khoa học trên vật chất, nên đời sống vật chất lên cao hẳn so với đời sống tâm linh. Vì thế, đối với rất nhiều người, sự sống bị giản lược vào những sinh hoạt thể chất và tinh thần. Họ chỉ biết lo cho đời sống trần thế của mình được trù phú sung túc, mà quên đi hoặc không biết tới những nhu cầu tâm linh, khiến cho đời sống tâm linh của họ nghèo nàn, kém phát triển. Thực ra, đời sống tâm linh có phát triển thì sự sống mới trở nên dồi dào, phong phú. Đức Giêsu đến là để giúp con người đạt được sự sống đó: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
3. Thiếu đời sống tâm linh, con người không thật sự hạnh phúc
Con người là một sinh vật cao cả, được dựng nên giống Thiên Chúa và theo hình ảnh của Ngài (St 1,26). Vì thế, con người không chỉ có đời sống tự nhiên hay trần thế, mà còn có đời sống tâm linh hay siêu thế, là sự tham dự vào đời sống thần linh của Thiên Chúa. “Sống dồi dào” theo tinh thần của câu Tin Mừng Ga 10,10 là sống đầy đủ mọi chiều kích của sự sống con người. Vì thế, khi con người chỉ sống trong những chiều kích thấp của sự sống, thì con người cảm thấy không hạnh phúc lắm. Hơn nữa, nếu hoàn toàn đắm chìm và bị thu hút trong những “cảnh giới” thấp ấy, không hề có nỗ lực vươn lên “cảnh giới” cao hơn, con người sẽ cảm thấy chán chường, đau khổ, cho dù trong những cảnh giới thấp ấy đời sống có đầy đủ đến đâu chăng nữa. Chúng ta đã từng nghe nói có những siêu sao màn bạc, thành công tột đỉnh cả tiền tài, tình cảm lẫn danh vọng, nhưng vẫn thấy tâm hồn trống rỗng, buồn chán đến nỗi không chịu nổi phải tự vẫn. Chúng ta cũng nghe nói: những nước có phân xuất tự tử cao nhất thế giới lại là những quốc gia có đời sống vật chất cao nhất, bảo đảm nhất ở Bắc Âu. Điều đó chứng tỏ hạnh phúc đích thực và sự đầy đủ tinh thần lẫn vật chất về mặt trần thế không luôn luôn đi đôi với nhau. Để hạnh phúc đích thật, con người cần có một đời sống tâm linh phát triển.
4. So sánh giữa sự sống trần thế và sự sống siêu thế
Sự sống thần linh ở trong ta mới là cái quí nhất, tồn tại mãi. Còn sự sống trần thế dù là thể chất hay tinh thần, hay dù có lên cao đến đâu, cũng đều chóng qua và hết sức giả tạm: chỉ cần một biến cố cũng đủ làm thay đổi, làm mất đi phần nào hay tất cả. Vì thế, giá trị của nó không thể sánh được với giá trị của đời sống tâm linh hay thần linh. Tin Mừng nói: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16,26).
Thử so sánh giữa hai phương diện ấy của sự sống ta thấy: sự phong phú của sự sống trần thế hết sức bấp bênh. Biết bao người giầu có với nhà cao cửa rộng, ruộng vườn ngàn mẫu, và địa vị quyền thế không phải nhỏ. Nhưng chỉ cần một cơn bệnh, một cuộc đổi đời, một tai họa, một vụ trộm hay cướp… cũng có thể trở thành trắng tay, thậm chí vào tù, hoặc lâm vào cảnh rất đau khổ, v.v… Để sự sống trần thế của mình trở nên phong phú, nhiều khi ta phải đánh đổi: phải thất đức, phải làm cho người khác nghèo khổ, mất địa vị, thậm chí chết hoặc đau khổ tột cùng. Người ta vẫn nói: “vi phú bất nhân”. Sự thất đức luôn luôn có hậu quả hết sức tai hại cho đời sống tâm linh và đời sống hậu thế (sau khi chết). Sự sống trần thế có phong phú tới đâu thì cũng chỉ kéo dài nhiều lắm là một đời. Tới lúc chết, phải buông bỏ hết và ra đi với hai bàn tay trắng. Tiền bạc, quyền lực, địa vị mình làm nên không đem theo được, mà phải hoàn toàn bỏ lại cho người khác, như sách Giảng Viên trong bài đọc I nói: “Có người đã đem hết khôn ngoan và hiểu biết mà làm việc vất vả mới thành công, rồi lại phải trao sự nghiệp của mình cho một người đã không vất vả gì hết. Điều ấy cũng chỉ là phù vân và lại là đại hoạ” (2,21).
Còn đời sống tâm linh, chỉ những ai đã hưởng nếm được, mới cảm nhận được sự ngọt ngào và hạnh phúc của nó. Vì đời sống tâm linh không tùy thuộc vào những thực tại bấp bênh và chóng qua của trần thế, mà liên quan tới những thực tại siêu việt, siêu không gian và thời gian, nên thành quả và hạnh phúc của nó lâu bền, không ai lấy mất được. Hạnh phúc ấy không tùy thuộc vào những hoàn cảnh đổi thay bên ngoài. Chính vì thế, một người có đời sống tâm linh cao vẫn có thể hạnh phúc trong những nghịch cảnh: nghèo nàn, tù đày… Họ có thể nghèo mà không khổ, bị tù mà tinh thần vẫn tự do, thoải mái, tự tại. Thiết tưởng mọi người Kitô hữu, là những người tin vào Chúa, vào những thực tại siêu việt, đều phải có đời sống tâm linh cao, nhờ đó, đời sống họ luôn luôn hạnh phuc, bất chấp những hoàn cảnh thay đổi có lợi hay bất lợi.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã ban cho con sự sống thần linh của Cha như một mầm sống mà con phải nuôi dưỡng và phát triển trong con. Vì thế, xin cho con biết quan tâm đến sự sống ấy trong con, và sẵn sàng làm tất cả để nuôi dưỡng và phát triển sự sống ấy. Amen.

52. Có tiền mua tiên không được?
(Suy niệm của Lm. Fx. Nguyễn Hùng Oánh)
Theo Đệ Nhị Luật, trưởng nam là kẻ thừa kế gia tài cha mẹ, được nhận gấp đơi phần của cac em (Đnl 21,17).
Luật quy định rõ ràng như vậy, nhưng người ta vẫn vi phạm. Bài Tin Mừng (Lc 12, 13-21) kể truyện một người tới thưa với Chúa: “Thưa thầy, xin thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi”. Có lẽ người anh đã chiếm giữ tất cả, người em chỉ còn nước đi kiện. Thông thường, người bị thiệt tới xin các thầy Pharisiêu, ký lục xét xử. Phán quyết của họ có giá trị trước cộng đoàn, bắt đôi bên nguyên / bị phải tuân theo.
Tới Chúa Kitô xin Ngài xét xử, người ta xem Chúa như một thầy ký lục hoặc Pharisiêu nghĩa là xem Chúa ở bậc “thầy dạy”. Chúa không phân xử chính ngay nội dung vụ người ta yêu cầu. Chúa nói: “Này anh, ai đặt tôi làm thẩm phán hay làm trọng tài giữa các anh”. Qua vụ kiện nầy Chúa vạch ra cho biết nguyên nhân sâu xa là lòng tham lam tiền bạc và mọi thứ tham lam khác. Chúa đả kích quan niệm xem tiền bạc là bảo đảm đời sống người ta.
Dụ ngôn Chúa đưa ra rất cụ thể: một phú hộ của cải nhiều, phát đạt quá, phải làm nhà kho lớn để tích trữ thóc lúa. Ông ta tự thỏa mãn, bảo với chính mình hãy hưởng giàu sang, phú quý cả đời chưa hết, tiền bạc bảo đảm ơng. Chúa bảo ông ta là hạng ngốc (Giêremia 17, 11) vì cái chết đến tiền bạc trở nn vơ ích với ơng.
Dụ ngôn trên cho ta biết hai điều: tiền tài giúp người ta sống, có thể sống lâu, nhưng không thể sống lâu theo ý muốn người ta. Cái chết đến bất thình lình, lúc người ta không muốn, khi người ta đang ham sống và tiền của tỏ ra bất lực trong vấn đề này. Thứ hai lo thu tích nhiều tiền của, khi chết, hai tay buông xuôi, mọi sự vất lại cả, không có gì mang theo.
Đúng là nhà phú hộ hạng ngốc. Thánh vịnh nói hạng ngốc sống không cần biết Chúa (Tv 13 (14), 1). Ông này chỉ biết đến tiền bạc và hưởng phú quý do tiền bạc đem lại. Cái chết đến, đống tiền của,hưởng vinh hoa phú quý trở nn vơ nghĩa với ơng. Trái lại, người làm giàu nơi Thiên Chúa sống theo ý Chúa, cái chết đến là lúc họ đạt tới đích của cuộc sống, tới cùng cực ý nghĩa đời sống trần gian, họ trở thành giàu có trong Thiên Chúa.
Nói như vây, không phải khinh chê tiền bạc. Tiền bạc, của cải vật chất tự nó có giá trị để phục vụ con người, để con người không bị lệ thuộc, sống đúng với nhân phẩm của mình. Tiền bạc thực sự không làm thêm tuổi đời, kéo dài đời người, nhưng giúp con người đạt tới tuổi thọ của mình. Thí dụ, vì nghèo khổ thiếu dinh dưỡng, người ta chỉ sống đến 30 tuổi, thay vì tuổi thọ 60, 90, 100. Tiền bạc sẽ giúp người ta cải thiện cuộc sống, tạo nên thuận tiện cho cuộc sống, đạt tới tuổi thọ 100. Rõ ràng tiền bạc, của cải không phải là đảm bảo tuyệt đối cho đời sống, nó chỉ là phương tiện “gia hạn” cho cuộc sống trần gian. Người phú hộ đã tưởng rằng tiền của nhiều bảo đảm đời sống ở mức tuyệt đối, cuộc sống viên mãn ở trần gian, mà không nghĩ cái chết đến chấm dứt tất cả.
Kẻ sáng suốt biết tính toán đúng, biết giá trị của tiền của, biết sử dụng nó để làm phong phú đời sống, làm giàu cho đời sống nơi Chúa, không thể dùng tiền bạc để mua Nước Trời. Có tiền mua tiên cũng được? Chắc chắn tiền bạc không thể mua Nước Trời, trái lại tiền của có lúc là thần Mammon đối nghịch với Thiên Chúa (Lc 16, 13). Phải biết sử dụng tiền của để sống theo Ý Chúa, làm giàu nơi Chúa bằng bác ái. Kẻ chỉ sống với tiền bạc, hưởng thụ mọi thứ không lành mạnh ở trần gian, cậy tiền của nhiều sống theo dục vọng, thỏa mãn lòng tham quyền chức làm thiệt hại bản thân, linh hồn và thể xác, họ đã dùng tiền của mua lấy án phạt đời đời.

53. An toàn vĩnh cửu – Lm. Trần Bình Trọng
Một trong những mối khát vọng lớn của loài người là ước muốn được an toàn. Những quảng cáo bảo hiểm, để dành tiền trong nhà băng đều đánh đúng vào cái bản năng muốn được an toàn và sinh tồn. Xét về đời sống vật chất, người ta đều sửa soạn dự liệu cho tương lai khi về hưu. Người ta mong có tiền an sinh xã hội khi về già. Người ta cũng sửa soạn cho tương lai của con cháu, cho những người tuỳ thuộc vào họ trong trường hợp họ chết sớm.
Mỗi người đều ý thức về cái thiếu thốn, cái bất toàn của mình, và người ta tìm đến người này vật nọ mà có thể cung cấp cái thiếu thốn của họ. Con người giống như là cái khoảng trống trong máy hút bụi, cần có người nọ vật kia để lấp đầy sự trống rỗng, và cô đơn của mình. Họ cần đến người nọ vật kia để cậy dựa, để cho họ cái bảo đảm, cái an toàn, cái ý nghĩa và mục đích của cuộc sống. Kết quả là nhiều người đi tìm sai chỗ. Do đó họ không tìm thấy cái mà họ muốn tìm. Có những người cậy dựa vào những sự vật trần thế mong manh, làm mất thế đứng của mình. Họ là những người xây nhà trên cát như Chúa ví. Điều đó giải thích cho nhiều vấn nạn của loài người. Mặc dầu với những bảo đảm về phương diện vật chất, với kỹ thuật và khoa học tiến triển, họ vẫn không có hạnh phúc. Cái bất an và lo lắng đã lên tới mức 1o ngại trong thời đại ta đang sống. Thuốc an thần, thuốc chống lo âu, thuôc trị chán đời đang tràn ngập thị trường và được tiêu thụ với số lượng đáng kể.
Như vậy thì ta phải giải quyết thế nào cho vấn đề thiếu hạnh phúc ở đời này? Có phải ta cần tìm đến khoa học, kỹ thuật, tìm đến y học, hay xì ke ma tuý, hay tìm đến cái gì khác? Bài trìch sách Giảng viên hôm nay nói về những người làm việc vì công việc, nghĩa là họ coi công việc làm là cùng đích của đời mình. Sách Giảng viên gọi những cố gắng của họ là hư không vì nó không dựa trên những sự vật vĩnh cửu, nó làm cho họ ăn không ngon, ngủ không yên. Vì thế mà Thánh Phaolô trong Thư gửi tín hữu Colossê căn dặn ta hãy tìm kiếm những sự trên trời và đừng quá lo bận tâm vào những sự vật trần thế. Bài Phúc âm hôm nay bàn đến một trường hợp cụ thể. Nhân vật trong dụ ngôn có được mùa gặt hái tốt đến nỗi anh ta không có đủ kho nẫm để chứa. Anh ta bèn xây nhà kho mới. Và rồi anh ta tự nhủ mình: Hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư sài nhiều năm. Thôi cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã (Lc 12: 19).
Chúa Giêsu thấu hiểu cái ước muốn đưọc an toàn của loài người. Và trong Phúc âm Chúa muốn ta đặt cho đúng chỗ cái ước muốn đó. Chúa muốn ta đáp ứng cái bản năng muốn được an toàn về phưong diện vật chất. Ta biết tiền của là phương tiện cần thiết cho đời sống thể chất. Chính Chúa cũng đã đặt một tông đồ lo việc giữ tiền. Tuy nhiên ta sẽ phạm một điều sai lầm lớn, nếu ta nghĩ rằng tiền của có thể bảo đảm cho ta một đời sống an toàn. Và cái khát vọng cho đời sống an toàn vĩnh cửu không thể nào được thoả mãn với những sự vật có tính cách chóng qua.
Đọc tin mừng Phúc Âm hôm nay, ta không thấy có dấu hiệu gì ám chỉ người phú hộ kia đã làm giàu cách bất chính hay lường gạt ai. Cái điều sai lầm của người phú hộ là ông ta nghĩ mình nắm được vận mệnh trong tương lai. Ông ta cậy dựa vào chính mình để bảo đảm đời sống an toàn vật chất mà quên lãng an toàn vĩnh cửu. Ông ta chỉ tìm cái an toàn ở đời này mà không nhìn xa trông rộng đủ để tìm kiếm một thứ an toàn mà chí có Thiên Chúa mới có thể bảo đảm. Ông ta đã không nhìn ra ngoài chính bản thân cho tới lúc quá trễ.

54. Hãy sống như sẽ chết – Lm. Vũ Xuân Hạnh
Một học sinh miệt mài học tập, sau những năm dài chăm chỉ, hy vọng sẽ nắm trong tay mảnh bằng cấp, nhờ đó có thể vun đắp cho tương lai đời mình. Tương tự, người lao động muốn làm việc thành thạo, phải có một thời gian gắn bó với việc mình làm, biết đâu nhờ đó tương lai rạng sáng hơn… Như vậy, sau những năm dài học tập hay làm việc đều là một quá trình. Để làm thành quá trình, đòi phải có thời gian…
Cùng là một quá trình, đời người là sự góp nhặt thời gian. Để làm thành một cuộc đời, ai cũng phải một lần có mặt trong thời gian. Thời gian là cánh cửa mở rộng với cuộc đời của người này, nhưng cũng có thể khép chặt nơi cuộc đời của người khác. Vì có những cuộc đời dài đến trăm năm, nhưng không ít mảnh đời chỉ mới thành thai trong lòng dạ một ai đó đã vội tắt. Dẫu thời gian có một chiều dài hay chỉ là khoảng ngắn, đủ để ta gọi đó là cuộc đời. Cuộc đời là một quá trình dài ngắn khác nhau, cũng giống như học tập hay làm việc đòi cả một quá trình.
Giống nhau đến vậy. Nhưng lại không giống chút nào với quá trình học tập, làm việc của một học sinh hay một người lao động. Rất khác, khác xa, khác đến nỗi không thể so sánh! Sao giống rồi khác? Chẳng phải mâu thuẫn lắm sao?
Một quá trình học tập, làm việc của một người, đưa tới niềm hy vọng và tương lai sáng sủa phía trước. Nhưng cái đích cuối cùng mà mỗi cuộc đời phải chạm tới không bao giờ là tương lai sáng sủa, ngược lại, rất oan nghiệt, vì đó là cái chết. Chết là kết thúc của một hành trình sống. Chết là không bao giờ hiện diện nữa, là mất hút, là thối rữa, hoặc chỉ còn một chút tro tàng. Nói cho cùng: Nếu chỉ nhìn trên bình diện thể xác và vật chất, con người chẳng khác một con vật: sống để rồi chết; chết để rồi tàn phai.
Nói như thế, có thể bị coi là bi quan. Nhưng đó là sự thật. Vì chân lý cuối cùng trong cuộc đời mỗi người sẽ quy về một sự thật hiển nhiên Là: Có sống, sẽ có chết! Bạn và tôi đều đặn nhịp bước trong cuộc đời, vẫn cần những khoảnh khắc dừng chân nhìn thẳng vào sự thật bị coi là bi quan ấy để nhận ra mình, nhận ra lẽ sống mà mình đang chọn, cách sống mà mình đang thực hiện. Nếu cần, hiệu chỉnh cho phù hợp.
Thật ra, sống hay chết chẳng bi quan với hết mọi người. Chỉ những ai thiếu đức tin, không tin, nếu có lúc bất chợt suy tư, trước mặt họ đúng là đáng sợ, bi quan, là cả một bầu trời vô định và đen tối, một khoảng không vô tận không biết lấy gì lấp đầy.
Nhưng với người có đức tin, lẽ sống họ chọn sống là chính đức tin, sẽ cung cấp cho họ lối sống phù hợp với đức tin. Đức tin ấy nung đốt trong lòng họ niềm mến yêu con người, mến yêu cuộc đời. Chính vì lẽ sống đức tin, niềm mến yêu ấy, họ sống dị tha, khoang dung, biết khước từ sự sang trọng giả tạo, khước từ đam mê sở hữu, đam mê vật chất một cách tha hóa, biến chất đến độ mất lương tri, chẳng còn nhân phẩm…
Bởi đó, nếu thời gian là thước đo những tháng năm dài học tập, làm việc của người học trò hoặc của người lao động, thì thời gian cũng sẽ là cán cân đong đếm cuộc đời mỗi người. Chiếc cán cân ấy khắc ghi từng con số. Nếu bạn là người có đức tin, hãy sử dụng cuộc đời mình để khi thời gian càng dài, cán cân thời gian đo cuộc đời càng thêm những chỉ số của sự cộng tác với ơn Chúa, lòng đạo đức, sự thánh thiện, chứ không phải khắc thêm chỉ số của bần tiện, gian dối, giả trá, tội lỗi…
Nếu nói nghĩ về cuối hành trình của cuộc đời mỗi người để nhận ra cái chết đang chờ đón là bi quan, thì hôm nay, trong Tin Mừng, Chúa Giêsu mời gọi hãy nhìn thẳng vào nỗi bi quan ấy và suy nghĩ cách thấu đáo về lối sống và lẽ sống mà mình chọn sống. Đó là câu chuyện nhà phú hộ có dư thừa của cải kia, chỉ biết xây dựng cuộc sống của mình trên đống của cải ấy. Chính khi ngụp lặn trong đam mê vật chất, nhà phú hộ đã đánh đổi Thiên Chúa, thay vào đó là cái kho của cải to lớn mà ông còn đang dự định xây lại một cái kho khác còn to lớn hơn.
Nhưng khốn nạn cho ông! Chính khi nhà phú hộ khép kín đời mình trên đống của; khi còn đang ảo tưởng về sự tính toán khôn ngoan của mình; khi ông chất chứa, không chỉ trong kho, nhưng trong chính lòng ông mọi thứ tham vọng trần tục, kiêu ngạo và hưởng thụ, là chính lúc cái chết đang ập đến trên ông. Lời của Thiên Chúa qua môi miệng Chúa Giêsu còn đó, như một bản án khắc nghiệt dành cho những ai đam mê thế tục đến mức che mờ đức tin, nặng hơn: chối từ đức tin: “Nhưng Thiên Chúa bảo anh ta rằng: ‘Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?’”. Và Chúa kết luận, một lời kết luận cũng khắc ngiệt không kém: “Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy”.
Hóa ra nghĩ về cuối hành trình của sự sống để chuẩn bị cho giờ chết chẳng phải bi quan, nhưng là thái độ lạc quan, rất lạc quan và khôn ngoan, rất khôn ngoan. Vì nếu ai biết sống như sẽ chết, nghĩa là chuẩn bị sẵn sàng cho cái chết của bản thân như đức tin dạy bảo, chắc chắn người đó thanh thản lắm, tâm hồn thơ thới bình an lắm. Những người như thế sẽ để lại trong lòng người ở lại nhiều niềm thương, nỗi nhớ vô cùng.
Ngược lại, kẻ chỉ biết xây dựng đời mình bằng cách loại trừ đức tin, bằng hưởng thụ, tham lam, đam mê xấu, tha hồ ngụp lặn trong tội lỗi, suốt đời là những bước đi vô định, để cuối cùng, đứng trước cái chết, rơi vào nỗi hoang mang, lo sợ, lương tâm dằn xé, đó mới chính là nỗi bi quan đến tột cùng, bi quan không gì bằng! Nỗi bi quan lớn như vậy là bởi sống không định hướng. Mà sống đã không định hướng, chết tất sẽ mịt mù, bi đát.
Bạn và tôi là người có đức tin, hãy nhớ điều này: Thật ra của cải không xấu. xây kho hay hưởng thụ vừa phải những gì Thiên Chúa ban cũng không xấu, “nhưng phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam” (Lc 12, 15). Đừng để nhà kho, két sắt, ví tiền thành mục đích. Vì người giàu đáng yêu trước mặt Chúa là người biết cho đi. Làm sao để cuối hành trình trần thế, đến trước tòa Chúa, chúng ta thấy kho của mình trống trơn, vì vừa mới cho đi tất cả.

55. Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Nghĩa
CÂU HỎI GỢI Ý:
1. Một số người chủ trương: “Có thực mới vực được đạo.” Điều này có mâu thuẫn với lời khuyên của Tin mừng: “Hãy tìm những gì thuộc thượng giới” không?
2. Đừng nhầm lẫn giữa phương tiện và mục đích.
3. Một số phương thế giúp chúng ta luôn hướng thượng.
SUY TƯ GỢI Ý:
1. Xem ra có vẻ mâu thuẫn.
Nếu xét về mặt văn chương thì đoạn văn của Vua Co-he-lét, con Vua Đavit, đạt đểm rất thấp vì đã sử dụng đến 7 lần chữ PHÙ VÂN. Nhưng về nội dung, ông đã lột trần được một sự thực phủ phàng là “Tất cả chỉ là phù vân”. Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, chóng qua, chóng tàn. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người chúng ta đều là phù vân. Báo chí ngày 26-07-01 đưa tin về vụ hoả hoạn đã thiêu rụi 92 căn nhà tại chợ Năm Căn với biết bao tiếng rên xiết kêu la thảm khốc, có trường hợp muốn đi đến quyên sinh vì tiếc của. Ý thức được điều này, Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Rồi đến lượt Đức Giêsu khuyên chúng ta:” Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải hễ ai được dư gia, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu” (Lc 12, 15). Câu nói của Chúa Giêsu rất đúng ngay cả nghĩa đen. Thật vậy, chính những người giàu có mới bị trộm cướp thanh toán, hãm hại, khi đi đường hoặc lúc canh khuya. Nhưng có người lại chủ trương “Có thực mới vực được đạo”. Nghĩa là trước tiên ta cần phải sống, rồi sau đó mới có khả năng làm gì thì làm. Ý tưởng này cũng đúng vì sống là nhu cầu căn bản của con người. Ai cũng ham sống, sống hạnh phúc và sống thọ. Điều kiện ắt có và đủ cho sự sống là tài sản. Vậy muốn sống phải ra sức làm ra tài sản. Như thế, xem ra có sự mâu thuẫn giữa Lời khuyên của Chúa Giêsu và cuộc sống thực tế cần vật chất của chúng ta?
2. Không lẫn lộn giữa mục đích và phương tiện.
Suy nghĩ kỹ, ta không thấy có chút mâu thuẩn nào giữa thực tế cuộc sống của ta và lời khuyên của Chúa Giêsu. Ngài còn khuyên chúng ta hãy sống và sống dồi dào. Đức đương kim Giáo Hoàng Phaolô II, trong bài đáp từ với Tổng Thống Hoa kỳ G.W. Bush dịp hội kiến ngày 23-07-01 vừa qua, đã nói lên ưu tư của mình về sự chia sẻ của cải vật chất cho mọi người:”… trong đó, toàn dân chúng thế giới đóng góp cách tích cực cho nền thịnh vượng kinh tế chung và cũng phải được chia sẻ hậu quả của chúng …” Không lẽ Đức Giáo hoàng, khi cổ vũ cho việc phát triển kinh tế vật chất, là đi ngược lại với Tin Mừng? Thực ra, Diều Ngài phát biểu còn nói lên Tin Mừng là đàng khác:”…phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam…”(Lc 12, 15a). Tham lam là vơ vén tích lũy của cải về chỉ cho riêng mình, cho đất nuớc và dân tộc mình. Hãy tạo cho mọi người được quyền hưởng lợi từ quả đất là mái nhà chung. Như vậy, không có mâu thuẫn giữa nhu cầu vật chất của con người và lời chỉ dạy của Chúa Giêsu. Chỉ còn một điều là ta không nên lẫn lộn giữa mục đích và phương tiện. Ai cũng ước ao cuộc sống mình trường tồn mãi mãi. Vậy cuộc sống viên mãn mai hậu là mục đích. Còn cuộc sống đời này, với nhu cầu tiền bạc tài sản của nó, phải được xem là phương tiện. Nếu chúng ta xem nó là mục đích thì tự ta, ta đã mâu thuẫn với chính ta, vì:” Trăm năm nào có gì đâu. Chẳng qua một đám cỏ khâu xanh rì. (Kiều).
3. Một số phương thế giúp chúng ta hướng thượng.
– Trước hết, chúng ta phải thấy rõ một sự thực là xã hội mà ta đang sống hết sức thực dụng. Thực dụng có nghĩa la ta chỉ nhắm ích lợi hoặc hiệu quả trước mắt,không cần suy nghĩ tới hệ quả lâu dài. Người ta có thể đổi lấy một chút hư ảo của làn khói bạch phiến để suốt đời vật vả vì nó. Người ta có thể biển thủ để có nhiều tiền cho những canh bạc thâu đêm suốt sáng mà bất chấp những ngày sau đó có thể vào tù ra khám hay thậm chí dựa cột như ông Phạm Huy Phước trước đây. Xa hơn nữa, “Con người” có thể đắm chìm theo những đam mê của cái “CON” (thú tính) mà không đếm xỉa gì đến hậu vận của kiếp “NGƯỜI” sau khi chết. Chúng ta cần phải lội ngược dòng trong sự lạc quan. Có những thân hình lúc la lúc lắc theo điệu nhạc cuồng nhiệt dưới ánh đền sân khấu thì cũng có những con người đang thầm lặng quì chầu trước Thánh Thể để múc nguồn sống vô tận.
– Kế đến, nếu chúng ta nghĩ rằng sự chết đến bất cứ lúc nào, có thể là trong phút giây sắp tới, ta sẽ bớt tham lam của cải vật chất hơn, bớt ham muốn giành dân lất đất hơn. Kinh nghiệm cho thấy, sau mỗi lần vào nhà thương ung bướu, tính tình chúng ta trầm lại, suy tư.
– Cuối cùng, ta nên chiêm niệm Chúa Giêsu trần trụi trên khổ giá. Ngài đã được nâng lên khỏi đất sau khi vứt bỏ tất cả những gì khong cần thiết. Ngài chỉ giữ lại một THÂN XÁC PHỤC SINH.
Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã hứa cùng con rằng, khi nào Chúa bị treo lên khỏi đất, Chúa sẽ kéo mọi sự lên cùng Chúa. Giờ đây xin Chúa thực hiện lời hứa ấy với con. Xin cho con luôn can đảm dành sự ưu tiên cho những gì thuộc thượng giới. Sự can đảm này chính là một bảo chứng cho con được vào cõi trường sinh. Amen.

56. Suy niệm của Lm Augustine
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Tin Mừng hôm nay nói về cuộc biến hình: Đó là một biến cố rất quan trọng để hiểu sứ mạng của Đức Giêsu cũng như để củng cố niềm tin của các tông đồ, tức là của Giáo Hội.
Thực tại tuyệt vời tàng ẩn
Trước hết nhờ cuộc biến hình, Đức Giêsu cho ta thấy thực tại tuyệt vời tàng ẩn phía sau dung mạo nhân loại của Người hàng ngày. Chính Người một hôm đã hỏi Nhóm Mười Hai: “Người ta nghĩ Thầy là ai?” “Riêng với anh em, thì Thầy là ai?” Câu hỏi đó còn đòi một cuộc dấn bước thêm nữa. Bởi lẽ đó là câu hỏi cơ bản Nhóm Mười Hai sẽ phải trả lời: Sứ mạng của Nhóm trong tương lai chính là để nói cho thế giới biết Đức Giêsu là ai. Ông Phêrô đã đại diện Nhóm để trả lời rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Qua cuộc biến hình, chính Thiên Chúa trả lời câu hỏi đó: Đó là lúc Đức Giêsu tỏ lộ thực tại sâu thẳm của Người và Chúa Cha xác nhận Người chính là Con mà Ngài yêu dấu. Điều đó cho thấy Đức Giêsu thuộc về gia đình nơi thế giới của Thiên Chúa: đó là Ba Ngôi.
Nhưng Đức Giêsu cũng thuộc về gia đình nơi thế giới loài người. Bởi lẽ trên núi Đức Giêsu được bao bọc bởi các vị tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê. Điều đó có ý cho thấy rằng toàn Giáo Hội trần thế có mặt trên núi. Nhưng Giáo Hội là gì? Chính Đức Giêsu cắt nghĩa vấn đề này trong Tin Mừng theo thánh Matthêu 18,20 khi Người nói tới một nhóm những con người nơi đó có Người hiện diện ở giữa.
Giữa Trời và Đất
Nhưng ở trên núi Đức Giêsu cũng hiện diện ở giữa một bên là các tông đồ, một bên là Chúa Cha, ông Môsê và ông Êlia, nghĩa là giữa trời và đất. Điều vừa nói cho thấy sứ mạng của Đức Giêsu: Đó là qui tụ Trời và Đất, mang nhân loại tội lỗi trở về lòng Chúa Cha, tập họp con cái Thiên Chúa bị tản mác do tội, trở về trong sự hiệp nhất của Chúa Cha. Chính nhờ vậy mà các tông đồ hiểu được căn tính của Đức Giêsu cũng như căn tính riêng của họ. Đức Giêsu là Người Con Chí Ái của Chúa Cha và chính các tông đồ được mời gọi tham dự vào tính cách làm con đó, tức là trở nên con cái của Thiên Chúa như sau này thánh Phaolô cắt nghĩa: “Anh em là … người nhà của Thiên Chúa” (Ep 2,18-19).
Như vậy cùng lúc Đức Giêsu là Người Con của Thiên Chúa Cha và là thủ lãnh của Nhân Loại Mới. Đức Giêsu không bao giờ là một cá vị lẻ loi. Người luôn chung sống, luôn kết hợp với Cha và với chúng ta. Người là Đấng kết hợp thế giới của Thiên Chúa với thế giới của loài người. Người là Đấng đưa ta vào nhà Cha “nơi ta được khỏe khoắn” (c.33). Người là Đấng mang lại cho ta Gia Đình đích thực: Đó là Ba Ngôi Thiên Chúa. Vậy là ta không còn cảm thấy mồ côi nữa. Cách nào đó từng bị mồ côi như bé Diễn. Diễn là một em Mỹ lai chừng 10 tuổi. Má em qua đời tại Việt Nam. Em bị bán cho một gia đình người Hoa và được đưa tới Hoa Kỳ.
Giấc mơ nơi máng cỏ
Đó là vào chiều lễ Sinh Nhật. Diễn chưa bao giờ cảm thấy cô đơn như vậy. Trong gia đình người Hoa, em không tìm được tình yêu vì bị hành hạ, bị coi là người tôi tớ hơn là một người con. Chiều lễ Sinh Nhật hôm đó, em chạy trốn vì quyết tâm đi tìm kiếm cha mình: em không thể sống một mình được do nhu cầu cần được âu yếm. Mẹ em đã trối lại cho em tên của bố em là Giuse Minh Lễ (Joe Miller) cùng với tấm ảnh của bố. Diễn bước đi trên vỉa hè của thành phố lấp lánh ánh sáng. Nó thấy các trẻ em ra vào các cửa tiệm cùng với gia đình thân yêu của mình. Nó nghĩ “Ôi những trẻ em ấy sung sướng biết bao vì có ba má bên cạnh”. Mỗi lần Diễn gặp một người đàn ông có dáng vẻ giống bố nó, nó liền hỏi xem người đó có phải là ông Giuse Minh Lễ chăng, nhưng xem ra chẳng có ai có tên đó cả. Cuối cùng giữa lúc đói và mệt mỏi, nó bước vào nhà thờ ngay trong thánh lễ nửa đêm. Diễn được thu hút do máng cỏ: Nó dán mắt nhìn trẻ Giêsu giữa hai bố mẹ Giuse và Maria và mấp máy đôi môi với lời van xin “Chúa thật sung sướng hơn con. Xin giúp con tìm ra người bố của con!” Thế rồi vì mệt lữ nó nằm trong một góc nhà thờ mà ngủ. Nó mơ giấc mơ của máng cỏ: Thánh Giuse người cha vuốt ve và cho nó rất nhiều quà… Khi nó thức dậy đã ban ngày thì thấy một người đàn ông nhìn nó với một nụ cười: đó chính là cha sở, người đã khám phá ra bé Diễn đang ngủ trong nhà thờ.
– Con làm gì ở đây?
Diễn dán mắt nhìn vị linh mục rồi thay vì trả lời, nó cho vị linh mục thấy bức ảnh của bố nó là Giuse Minh Lễ.
– Con nhặt tấm ảnh này ở đâu?
– Chính mẹ con khi chết đã cho con.
– Giuse Minh Lễ chính là cha đây.
Chấm dứt tình trạng mồ côi
Diễn liền nhảy chồm lên cổ vị linh mục, hôn lấy hôn để. Giuse Minh Lễ đã từng đi lính tại Việt Nam, nhưng khi về nước, ông đã thay đổi cuộc sống, đã vào học ở chủng viện và đã chịu chức linh mục. Bé Diễn mừng rỡ vì đã tìm thấy bố và đã chấm dứt tình trạng mồ côi cha.
Tái tạo hiệp nhất
“Hai vị … nói về cuộc xuất hành của Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem…” (c.31). Hai ông Môsê và Êlia nói về cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu. Lý do vì đó là phương tiện Thiên Chúa dùng để tái tạo sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa và loài người: “Vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu” (Cv 4,12). Điều đó có nghĩa là con đường duy nhất để nhập gia đình của Thiên Chúa (tức là được cứu) đó là tình yêu tự hiến cho đến cùng: Tình yêu hoàn toàn biết cho đi tất cả đến mức chết vì những người mình yêu. Đó là tình yêu mà Đức Giêsu đã yêu ta, một tình yêu khiến Người chịu đánh đập, chịu đội mão gai, chịu đóng đinh và chết trên thập giá như một tội nhân.
Tất cả những điều đó quá đòi hỏi đối với đức tin yếu đuối của các tông đồ là những con người đã từng được nuôi dưỡng bằng ý nghĩ về một vị cứu tinh quyền năng và vinh hiển. Vì thế nên Đức Giêsu muốn cho họ thấy một chút về thực tại thần linh của Người cũng như về kế hoạch Người có về tình yêu: Người muốn soi sáng và củng cố đức tin của các ông bằng cách cho các ông thấy rằng đau khổ mà được chấp nhận vì tình yêu, sẽ mang lại vinh quang lớn lao hoàn toàn đáng ước ao.
Chính chúng ta cũng cần để cho đức tin của chúng ta được soi sáng và được củng cố. Bởi lẽ chúng ta không có những con đường khác đưa ta tới hạnh phúc và vinh quang thuộc gia đình Thiên Chúa, ngoài con đường tình yêu biết hy sinh tất cả, biết quên mình, biết quên cả đau khổ riêng bản thân để nâng đỡ những người khác đang chịu đau khổ. Cần hành xử như Đức Giêsu trên đường Can-vê, Người đã quên nỗi khổ đau và nhục nhã bản thân để an ủi những người phụ nữ đang than khóc (Lc 23,28tt).
Quên nỗi đắng cay riêng
Có lẽ gương của chị Lưu Bích (Chiara Lubich) là người sáng lập phong trào Tổ Ấm Fô-cô-la-rê, cũng giúp soi sáng vấn đề ta đang tìm hiểu: Đó là vào năm 1944, gia đình chị để tránh bom đạn, đã bỏ thành phố Trentô lên núi tỵ nạn.
Khi ấy chị Lưu Bích 24 tuổi, chị nghe thấy tiếng Chúa mời gọi chị lo cho công việc tông đồ của Người. Chị chỉ tháp tùng gia đình tới quả đồi gần thành phố, kế đó chị đã quay bước trở về. Chị đã phải khóc thương gia đình nhiều, nhưng vẫn hy sinh tách khỏi gia đình để thể hiện ý Chúa. Trên đường về, chị Lưu Bích gặp một phụ nữ đang kêu gào: “chúng đã giết chết 4 con tôi!” Quả thật các con của bà này đều đã bị giết dưới làn bom đạn.
Ta thấy chị Lưu Bích đã quên nỗi đắng cay riêng của mình để hoàn toàn lo an ủi người phụ nữ bất hạnh nói trên. Đó quả là một gương đáng kể về tình huynh đệ!
Một số câu hỏi gợi ý
1. Có khi nào bạn có kinh nghiệm về điều bé Diễn và biết bao trẻ mồ côi khác từng trải qua: như kinh nghiệm về lẻ loi, về thiếu tình thương và thiếu tình thân mật gia đình? Chẳng lẽ bạn không cảm thấy?
Vậy mỗi lần bạn đọc kinh Lạy Cha hoặc kinh Sáng Danh, bạn hãy tưởng tượng như chính bạn là bé Diễn vào lúc bé ấy tìm được người bố của mình và hãy cám ơn Chúa đã trao đứa con lại cho bố nó.
2. Bạn hãy thử lập lại kinh nghiệm của chị Lưu Bích: Mặc dầu chịu khổ, bạn vẫn quên nỗi khổ đó của bạn để nâng đỡ nỗi khổ của người khác. Đó sẽ là kinh nghiệm của niềm vui chư thánh nghiệm thấy ở trên trời.

57. Đi tìm sự sống đời đời – Lm. An Phong
Chúng ta hiện sống trong một thế giới khủng hoảng nặng nề về nhiều phương diện. Ta có thể nói được rằng: đứng trước một hoàn cảnh như vậy, nhiều khi con người không còn biết phương hướng nào mà sống nữa. Con người cảm thấy mình bị hụt hẫng, chao đảo, hoang mang, ray rứt, bất an…
Thậm chí nhiều kitô hữu như mất hẳn niềm tin, muốn buông thả và để mình rơi vào cám dỗ, cứ lao mình vào cuộc tìm kiếm cho được nhiều vàng bạc của cải và thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con người… Đang khi đó người kitô hữu lại được Chúa mời gọi sống vươn lên trong chính nếp sống nhiễu nhương này…
Lời Chúa của Chủ Nhật 18 Thường Niên hôm nay muốn soi sáng cho chúng ta…
Trước tiên, căn cứ vào bài đọc Cựu ước và bài Phúc âm, ta thấy Chúa tha thiết nhắn nhủ ta rằng:
1. Cuộc sống con người tại thế chỉ là cuộc sống tạm bợ, mau qua mà thôi.
Đây là điều mà trong Thánh kinh, rải rác đó đây Lời Chúa đã nhắc nhở cho ta. Ta chỉ cần đọc lại một số bản văn tiêu biểu như: Tv 38; Tv 48; G 1,21, v.v. cũng đủ thấy rồi.
Cuộc sống con người chóng qua như hoa đồng cỏ nội: chỉ một cơn gió thoảng qua cũng đủ làm nó biến đi… Đây là nếp sống chóng qua như làn gió thoảng, như bóng câu lướt qua cửa sổ. Nhiều danh vọng và vật chất, người ta thấy mình có được bảo đảm hạnh phúc đâu.
Tóm lại: Trần trụi sinh ra từ lòng mẹ, con người sẽ trần trụi trở về lòng đất.
2. Nếu kiếp sống con người tại thế mong manh, phù du như vậy mà con người còn lo lắng, bồn chồn ngày đêm: ăn không ngon, ngủ không yên, chỉ mong tích lũy được nhiều vàng bạc, của cải vật chất, thì thật là điên rồ biết chừng nào! Bởi vì vất vả, lo lắng ngày đêm như thế để rồi khi phải nhắm mắt lìa đời, thì vàng bạc, của cải vật chất có mang theo được? Danh vọng, giàu sang có bảo đảm được sự sống?
3. Vậy con người tại thế hãy làm giàu cho mình trước mặt Thiên Chúa bằng cách
– Hoặc là đem chia sẻ cho anh em đồng loại đói khát, nghèo nàn, cần sự giúp đỡ của ta.
– Hay là dùng của cải tích lũy được để đền bù gấp ba, gấp bốn cho kẻ ta làm thiệt hại, theo gương của ông Giakêu đã làm…
– Hoặc là cao thượng và quảng đại hơn thì ta hãy đem bán đi tất cả những gì ta có, để bố thí cho kẻ nghèo đói, rồi đến theo Chúa…
– Sau cùng, căn cứ vào đoạn Thánh thư gởi cho giáo hữu Côlôsê, ta thấy thánh Tông đồ ân cần nhủ bảo ta thế này: Vì được chỗi dậy với Chúa Kitô, ta hãy tìm kiếm những sự trên trời. nơi Chúa Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha. Đừng tìm kiếm những của cải vật chất ở đời này.
Tìm kiếm những sự thuộc thiên giới như thế có nghĩa là chấp nhận như Chúa Kitô, chết đi cho thành kiến, nết hư, cho mọi thứ tội lỗi của con người cũ và mặc lấy con người mới.
Sống được như thế, người kitô hữu sẽ có được một sức sống mới giấu kín với Đức Kitô trong Thiên Chúa, và sự sống mới này sẽ đem họ tới vinh quang toàn vẹn.
Lạy Chúa,
Chúa đã sinh chúng con vào trong cuộc đời mong manh,
đầy cạm bẫy nơi trần thế đây,
là để thử xem chúng con có thật tình tin vào tình thương
và quyền năng của Chúa hay không.
Xin Chúa luôn giúp chúng con
biết sử dụng của cải phù vân
để làm phương tiện đi về với Chúa,
mà vẫn một niềm kiên quyết
tín thác vào Chúa mà thôi. Amen.

58. Bấp bênh – Như Hạ
Mọi người đang chóng mặt với giá cổ phần trồi sụt thất thường. Sức mạnh nền kinh tế thể hiện rõ nét qua sinh hoạt thị trường. Mức phát triển trì trệ hôm nay đã làm cho bao người thất nghiệp. Người ta đổ xô đi tìm những phương tiện sinh sống. Bao nhiêu tay tư bản đang thi đua khám phá những cách làm giàu nhanh nhất. Nhưng cuộc chạy đua đó đang hướng về đâu?
NHỮNG CÁCH LÀM GIÀU
Cuộc chạy đua đó đang mang lại cho cuộc sống mọi thứ tiện nghi và bảo đảm. Con người ngày càng hạnh phúc và tin tưởng vào năng lực của mình. Chính của cải đã khiến họ có thể an tâm tọa hưởng tất cả những nguồn lợi thiên nhiên. Giữa cuộc sống dư thừa đó, con người dễ quên tất cả. Chỉ còn một mình với những phương tiện dồi dào đáp ứng những đòi hỏi ích kỷ của mình. Đó chính là tâm trạng của nhà phú hộ trong Tin Mừng hôm nay.
Nhà phú hộ tràn ngập niềm vui vì “ruộng nương sinh nhiều hoa lợi.” (Lc 12:16) Nhìn về tương lai, ông thấy rất yên tâm, vì “bây giờ ê hề của cải.” (Lc 12:19) Nhưng ông vẫn phải tính toán để bảo đảm cho những của cải khỏi hư hao vì giông bão, mối mọt, hay trộm cướp. Ông tự nhủ: “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó.” (Lc 12:18) Lúc nào ông cũng chỉ có một quan tâm duy nhất về cái tôi của mình. Trên đỉnh cao danh vọng, ông thấy hoàn toàn tự mãn về sự nghiệp lớn lao của mình. Ông không cần chia sẻ với ai. Người nghèo hay cộng đồng nằm ngoài đối tượng phục vụ của ông. Thiên Chúa cũng bị gạt ra ngoài mọi ưu tư và cuộc sống của ông.
Trong khi ông quả quyết “mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” (Lc 12:19), “Thiên Chúa bảo ông ta:?Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai??” Nhà phú hộ không suy nghĩ sâu xa. Ông tưởng cái tôi là nền tảng vững chắc nhất cho hạnh phúc. Tất cả hạnh phúc hôm nay đều xoay quanh và dựa trên cái tôi của ông. Nhưng chính cái tôi đó lại không có mấu cứ, làm sao có thể làm nền tảng cho hạnh phúc? Hạnh phúc chỉ lànhững dong dêu trôi nổi trên dòng sông dật dờ. Đúng là dã tràng xe cát biển đông. Khác với ông Gióp, ông không bị mất của cải. Ông chỉ bị đòi mạng. Khi bị đe dọa trầm trọng như thế, ông giật mình. Ông không thể không suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời và giá trị những thực tại trần gian. Tiền bạc, của cải là gì trước cái chết? Mạng sống chỉ có một. Của cải dư tràn cũng không thể sánh với mạng sống. Bởi đấy mất mạng, của cải trở thành vô nghĩa. Chính ông Côhelét đã cảm thấu được sự vô nghĩa đó khi thuật lại: “Có người đã đem hết khôn ngoan và hiểu biết mà làm việc vất vả mới thành công, rồi lại phải trao sự nghiệp của mình cho một người đã không vất vả gì hết. Điều ấy cũng chỉ là phù vân và lại là đại họa.” (Gv 2:21) Thật là cái vòng luẩn quẩn! Bao nhiêu tim óc đầu tư tìm kiếm của cải. Bao nhiêu thời giờ và công sức xây dựng cơ ngơi, sự nghiệp. Tất cả có thể biến đi trong nháy mắt hay phải trao lại cho người khác. Nhìn lại cuộc đời, ông Côhelét phải thốt lên: “Trọn cuộc đời chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Điều ấy cũng chỉ là phù vân!”(Gv 2:23) Nghĩ cho cùng, “tất cả chỉ là phù vân.” (Gv 1:2) Nếu thế, tại sao con người phải bon chen dành giựt?
Của cải vật chất không thể mang lại ý nghĩa giá trị đích thực cho con người. Chính Đức Giêsu đã vạch trần sự thật ấy: “Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.” (Lc 12:21) Cái tôi là trở ngại lớn nhất cho mọi thực tại hướng về Thiên Chúa. Muốn “làm giàu trước mặt Thiên Chúa” phải có một cái nhìn mới lạ và phải vận dụng những phương tiện khác hẳn với lối làm giàu bình thường. Quả thế, Đức Giêsu đã mách nước: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu,” (Lc 16:9) tức là Nước Thiên Chúa. Càng có nhiều bạn bè như thế, càng tích trữ được một kho tàng lớn lao trên trời. Bạn bè đó chính là người nghèo.
Trong khi bao người nghèo rên siết, ông phú hộ chỉ lo “ăn uống vui chơi cho đã!” Tiền bạc là một cám dỗ lớn lao. Ông đã không chống cưỡng nổi ma lực của đồng tiền. Muốn làm môn đệ Chúa Kitô, “phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.” (Lc 12:15) Chỉ có một bảo đảm duy nhất là “Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta.” (Cl 3:4) Kho tàng của chúng ta đang được ẩn giấu nơi Đức Kitô. Đúng hơn, “sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa.” (Cl 3:3) Chúng ta phải đầu tư bao nhiêu thời giờ và tim óc để có thể tạo được một sự sống đúng nghĩa như thế?
Đầu tư đó bắt đầu bằng nỗ lực “mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa, để được ơn thông hiểu.” (Cl 3:10) Con người cũ đầy những giới hạn, nên chúng ta không thấy hết vấn đề. Một khi đã tìm lại được hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình, chúng ta có thể dễ dàng phá tung những giới hạn trần gian để thấy “hình ảnh Đấng Tạo Hóa” nơi anh em. Tất cả giới hạn về chủng tộc, văn hóa, ngôn ngữ, đẳng cấp trở thành vô nghĩa. Trong Đức Kitô “không còn phải phân biệt Hi lạp hay Do thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ.” (Cl 3:11) Thật là tuyệt vời! Đức Kitô đã trở thành mối giây liên kết tất cả loài người.
Nhìn thấy đầu giây mối nhợ đó, ta sẽ thấy bản thân mình không còn là chủ thể tối cao và đối tượng phục vụ nữa. Trái lại, những người anh em nghèo khổ mới là chính Đức Kitô cần phải được chia sẻ. Ta sẽ không “thu tích của cải cho mình” nữa, nhưng cho Đức Kitô và các chi thể của Người. Phục vụ một đối tượng lớn lao như thế tức là đang “làm giàu trước mặt Thiên Chúa” vậy. Kiên nhẫn đầu tư theo lối này, ta sẽ “sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá.” (Lc 12:33) Phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có thể kiếm được những túi tiền và kho tàng đó. Tóm lại, đó là một cuộc hi sinh vô bờ bến có khi mất cả mạng sống. Thế nhưng, phàm ai từ bỏ mọi sự “vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp.” (Mt 19:29) Chính vì mối lợi lớn lao đó, chúng ta nên tự kiểm hằng ngày về mức độ từ bỏ của mình. Nếu không, chúng ta sẽ hụt hẫng khi giáp mặt với những thực tại thiên giới.
THẾ GIỚI HÔM NAY
Bước hụt hẫng đó chính người phú hộ đã kinh nghiệm khi rơi xuống “âm phủ, ông ta ngước mắt lên thấy Lagiarô trong lòng tổ phụ.” (Lc 16:23) Nơi trần thế, ông ngất ngưởng trên cao với những “lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình.” (Lc 16:19) Ông chỉ lo “thu tích của cải cho mình” và hưởng thụ một mình. Người nghèo Ladarô không lọt vào mắt xanh của ông. Nhưng từ dưới âm phủ cũng ánh mắt đó ngước lên tìm một chút lòng thương xót từ nơi tổ phụ Abraham và Ladarô.
Ngày nay trên thế giới biết bao nhiêu phú hộ đang sống phè phỡn trên 80% tài nguyên thế giới giữa một đại dương nghèo đói chỉ chiếm khoảng 20% của cải thế giới mà thôi. Giữa đại dương nghèo đói đó, đa số nhân loại không đủ cơm ăn áo mặc, không đủ thuốc chữa trị những bệnh nguy hiểm như liệt kháng, ung thư, đau tim v.v Họ là những người thấp cổ bé họng, bị gạt ra ngoài lề xã hội, bị đàn áp bất công. Họ không có tiếng nói. Bởi vậy, nhân dịp nhóm G8 họp Hội Nghị Thượng Đỉnh tại Genova, Đức Gioan Phaolô II đã kêu gọi: “Các Siêu cường, các Vị quyền hành trên thế giới. hãy nghĩ đến các nước nghèo, hãy lắng nghe tiếng kêu than của các người nghèo.” (VietCatholic 28/7/2001) Hãy chấm dứt tình trạng “thu tích của cải cho mình.” Bao lâu còn nghèo đói, thế giới không thể hòa bình. Thế giới không thiếu lương thực, nhưng thiếu những vòng tay mở rộng. Bất công tràn lan vì người giàu ôm chặt tài sản và chỉ lo thỏa mãn những nhu cầu giả tạo, mặc cho những người nghèo phấn đấu một mình với cơn nghèo đói, rách nát. Bằng chứng, ” các vị lãnh đạo các Siêu Cường nhắc lại cam đoan dùng 0.7% lợi tức cũa mức sản xuất để dành cho việc cộng tác phát triển các dân tộc. Nhưng với thời gian qua đi, không một quốc gia?ân nhân? nào đóng góp vào quĩ, trừ mấy nước miền Bắc Âu. Thậm chí, các Siêu Cường (Pháp, Anh, Ý, Canada) đã giảm bớt số viện trợ cho các quốc gia nghèo ở miền Nam Bán Cầu.” (VietCatholic 28/7/2001) Đúng là đánh trống bỏ dùi! Mới đây tại Genova lại hứa viện trợ 1 tỉ 200 ngàn Mỹ kim cho Phi châu chũa trị bệnh liệt kháng và các chứng bệnh thông thường. Số tiền đó chỉ bằ?g ngân khoản Hoa Kỳ dành mỗi năm cho việc chế tạo hỏa tiễn chống hỏa tiễn mà thôi. (xc. VietCatholic 28/7/2001) Chẳng biết bao giờ mới thực hiện lời hứa đó. Các phú hộ vẫn chễm chệ trên những bàn tiệc thịnh soạn, không thèm thí những miếng bánh vụn cho người nghèo.
Nếu ngày xưa người phú hộ sớm nhận ra sự liên đới và trách nhiệm đối với Ladarô, tình trạng không đến nỗi quá cách biệt sau cái chết như vậy. Thực ra, ông đã không hề đối xử bất công với người nghèo Ladarô. Ông không sai đầy tớ đánh đập hay xua chó cắn Ladarô. Thực tế, ông chỉ hưởng những của cải của ông, chứ không xâm phạm quyền lợi ai. Nhưng ông đã giữ một khoảng cách quá xa với Ladarô. Ông chủ trương “sống chết mặc bay”. Tội ông ở chỗ đó!
Ngày nay, để xóa bỏ khoảng cách giữa giàu nghèo, không thể theo chủ trương “đấu tranh giai cấp”. Nhưng cần phải kêu gọi tình liên đới nhân loại. Tình liên đới là một giá trị lớn lao trong tiến trình toàn cầu hóa. Không cảm thấy liên đới, người giàu không bao giờ thấy được bổn phận đối với người nghèo. Sở dĩ?có liên đới với nhau, vì họ thuộc về một gia đình duy nhất. Theo ĐHY Sodano, “ơn gọi nguyên thủy của nhân loại là xây dựng một gia đình duy nhất.” (VietCatholic 28/7/2001) Kitô giáo là một điển hình. Tất cả các Kitô hữu đích danh đều gắng sức xây dựng Giáo hội thành một gia đình, trong đó Thiên Chúa là Cha và mọi người đều là anh em với nhau. Chính vì thế, “Kitô giáo là một tôn giáo có tính toàn cầu,” (ĐHY Sodano, VietCatholic 28/7/2001) bắt đầu từ tình liên đới giữa những người cùng chia sẻ một niềm tin và một tình yêu. Từ đó, người Kitô hữu sẽ nhận thấy trách nhiệm của mình đối với việc toàn cầu hóa tình liên đới. Ngày nay, nhân loại không còn lựa chọn nào khác. Liên đới hay là chết! Thời gian cấp bách lắm rồi! Trong công cuộc này, giáo dân là những đội quân tiền phong. Họ có nhiệm vụ phá tan những tảng băng giá trong lòng người và khơi dậy những ngọn lửa thương yêu, đoàn kết, liên đới.
Khi cố gắng liên đới với anh em, chúng ta đang hoàn thành ơn gọi của mình. Chính ơn gọi này giúp chúng ta nhận ra địa vị cao cả của mình trong vũ trụ và giá trị đích thực của những thực tại trần thế. Ý thức này sẽ đẩy xa mọi đam mê ích kỷ và giúp con người tìm lại được chính mình. Nhưng muốn liên đới với anh em, chúng ta phải sẵn sàng từ bỏ cái tôi. Liều thân vì anh em là liều mạng vì Thiên Chúa. Đức Giêsu nhắn nhủ: “Ai liều mất mạng sống vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Lc 9:24) Nhưng ai có thể đạt tới mức hi sinh lớn lao đó, nếu không phải là những người đang sống giữa những thực tại trần gian mà lòng vẫn “tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3:1) Chỉ những người siêu thoát như thế mới có thể hiệp nhất tất cả trong Đức Kitô. Nhờ sức mạnh Thánh Linh, giữa thế giới đầy xáo trộn và thù nghịch hôm nay, họ vẫn có thể làm chứng cho mọi người thấy: “chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người.” (Cl 3:11)

59. Con người, tiền bạc và cuộc sống
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Liêm)
Người đời thường quan niệm: “Có tiền mua tiên cũng được”. Do đó ai cũng tìm cách kiếm tiền, càng nhiều càng tốt. Làm ăn hợp pháp cũng có mà một cách bất nhân cũng không thiếu phải thú nhận rằng thời đại nào tiền bạc cũng dễ có mùi hôi hám! Tiền bạc hôi nhưng người ta vẫn ham, mà vì ham tiền nên người đời sẵn sàng làm bất cứ mọi cách để có tiền. Nhiều khi chỉ để sống mà phải làm ra tiền, nhất là nơi đất khách quê người. Cái gì cũng phải bằng tiền: Tiền nhà, tiền thuế, tiền bảo hiểm, tiền ăn, tiền học, tiền điện, tiền nước, ra ngoài đường đi tiểu cũng tiền…
Thời buổi khủng hoảng kinh tế, nạn thất nghiệp đe dọa cuộc sống. Nên nhiều đồng hương phải mở nhà hàng làm đầu tắt mặt tối từ 9 giờ sáng tới 3 giờ khuya, không còn thì giờ cho vợ chồng con cái nữa, nói chi tới thời giờ cho Thiên Chúa, thì giờ tới nhà thờ tìm một chút nghỉ ngơi bên Ngài.
Rốt cuộc giầu bạc nhưng nghèo tình… cuộc sống trở thành nô lệ cho dồng tiền, sức khỏe hao mòn, tính tình bẳn gắt, vợ chồng xào xáo nhau còn hơn xào rau xáo thịt nữa. Con cái thì phải thuê người coi sóc. Chúng gặp người tốt thì may, còn đụng phải người coi trẻ cốt để kiếm tiền sống thì lại phù hoa nối tiếp phù hoa. Chúng học điều tốt thì ít mà cái xấu thì nhiều. Thiếu tình yêu thương mẹ cha, chúng đi kiếm thứ tình ba xu và hậu quả ra sao ai cũng biết!!!
Mở quán ăn đêm khuya, chạy xe taxi suốt đêm làm việc hì hục hai Job để kiếm tiền thì dù sao cũng là mồ hôi nước mắt của mình.
Nhưng có người làm giàu trên xương máu của kẻ khác (tôi nói có người chứ không phải tất cả). Họ tham nhũng bất công. Họ thâm thủng ngân quỹ. Họ mượn danh nhân nghĩa rồi cuỗm tiền đi chỗ khác làm ăn. Nhiều người chúng ta có kinh nghiệm thương đau bị lừa đảo vì chơi hụi, chơi số đề!!! Ai cũng nhớ chuyện làm ăn phi pháp kiểu Nguyễn Văn Mười Hai bên nhà. Vụ ngân hàng nổi danh của Luân Đôn bị tiêu tùng do chàng trai chưa tròn 30 tuổi đời; cũng như cách đây mấy chục năm vụ bê bối của ngân hàng Ambrasio tại Ý, mà trong đó có dính líu tên tuổi một vị “tai mắt”.
Tin mừng hôm nay nhấn mạnh hãy lo “làm giầu trước mặt Thiên Chúa”. Sự giầu có lâu bền, vĩnh cửu; chứ không phải của đời này chóng qua, phù vân và bấp bênh.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên giầu có như Đức Kitô, con yêu quý của Ngài! “yêu thương, khiêm nhu, hiền từ, đại lượng” (Cl 3,12) và “trên tất cả là lòng mến, giềng mối của mọi trọn lành”. (Cl 3,14).
Tôi đã gặp trong đời thường biết bao người giầu tình thương lo cho bệnh nhân, chăm sóc trẻ em tật nguyền tiếp đón người tị nạn, ưu tư lo lắng cho người sầu khổ, dấn thân hy sinh phục vụ cho các hoạt động xã hội, bác ái và thăng tiến con người…
Chính vì thế mà Thiên Chúa mời gọi chúng ta, đương nhiên phải có tiền để sống, nhưng phải biết coi trọng con người hơn tiền bạc của cải. Con người đây là chính nhân vị của mình, tha nhân và Thiên Chúa nữa. Tình người đáng giá hơn giầu sang phú quý. Tiền bạc rồi sẽ hết. chẳng ai mang theo gia tài khi chết. Có chăng là tình yêu thương đã chia sẻ với anh chị em chúng ta nơi trần thế này để trở nên “giầu có trước mặt Thiên Chúa” trên Thiên Quốc.

60. Đừng trông cậy vào của cải – Lm Trọng Thưởng
Một biệt thự nguy nga bị cháy, ngọn lửa bốc cao ngút trời. Đội cứu hỏa bắc thang định tiếp cứu một thiếu phụ đang kêu la từ cửa sổ trên lầu cao. Một nhân viên cứu hỏa can đảm trèo lên thang, nhưng khi tới nơi thì bà kia chạy vào trong nhà, không thấy trở ra. Người tiếp cứu gọi ta, nhưng không thấy trả lời… Vì còn phải cấp cứu nhiều người nên không thể đứng đợi… Sau cùng ngôi nhà bị thiêu rụi, trong đống tro tàn, người ta thấy xác người thiếu phụ chết thiêu bên đống vàng, bạc, của cải.
Đừng cậy dựa vào của cải trần gian. Đó là sứ điệp Chúa Kitô muốn nhắc nhở chúng ta qua bài tin mừng. Vì tranh giành gia tài cha mẹ để lại, hai anh em đến xin Chúa Giêsu phân xử. Nhân cơ hội này Chúa dạy bài học hãy đặt tiền bạc, vật chất vào chỗ thứ yếu, vì chúng không phải là cái đáng để cho anh em tranh giành nhau đến chỗ mất đi tình nghĩa. Tuy nhiên trong thực tế đã có chuyện vì tiền bạc mà mất đi tình nghĩa anh em, ruột thịt, hay bạn bè. Điều đó cho thấy giầu sang vật chất dễ lôi cuốn, chi phối con người.
Giầu có vật chất là tình trạng bấp bênh hơn sức tưởng tượng của con người. Thông thường người ta cho rằng tiền bạc bảo đảm cuộc sống, vì thế họ lao đầu tìm kiếm, giành giật cho được nhiều của cải. Nhiều người làm việc hao mòn cả thân xác, làm đêm làm ngày để có được nhiều tiền. Có người bất chấp mọi thủ đoạn gian dối, lừa lọc trân tráo, bán rẻ lương tâm để có tiền. Khi có nhiều tiền, cái gì sẽ xẩy ra cho họ? Liệu người ta có được hưởng niềm vui sướng mà tiền bạc đem lại không? Hay một ngọn lửa nhỏ cũng đủ tiêu tán tất cả sản nghiệp gầy dựng suốt một đời, hoặc một cơn bệnh liệt, cơn bệnh ung thư hay những chuyện tương tự đến với họ khiến cho giả như có được tất cả của cải trên trần gian cũng trở nên vô ích.
Phải chăng Chúa Kitô nói chúng ta đừng làm ăn gì nữa, cứ đi ăn xin để không có gì phải lo lắng bị mất?
Điều đó không đúng. Chúa muốn dạy chúng ta biết tiền bạc có uy thế giả tạo đánh lừa, lôi kéo con người. Ai trong chúng ta cũng cảm thấy phần nào hấp lực của đồng tiền, hoặc chứng kiến những thí dụ sống động của những người ham mê, cậy dựa vào tiền của. Hơn nữa có lẽ chúng ta cũng thấy được những kết cục không mấy tốt đẹp cho những người như thế. Tài sản giầu có gầy dựng thu tích không phải dễ, nhưng tan biến xụp đổ trong chốc lát là chuyện xảy ra rất nhiều. Cái cảm giác, an toàn vững chắc do tiền bạc đem lại chỉ là lừa lọc. Tiền bạc không nâng đỡ được sự bấp bêny của kiếp sống con người. Những hãng bảo hiểm đánh vào tâm lý người ta là ước mong bảo đảm cho cuộc sống vật chất. Họ chỉ nhắm vào yếu điểm đó để là tiền, bên ngoài mang danh nghĩa là phục vụ. Họ nhận tiền rất dễ dàng, nhưng khi bồi thường cho tai nạn là chuyện khó khăn, sau đó còn đòi tăng tiền đóng hằng tháng.
Thật là sai lầm lớn và dại khờ nếu chúng ta lo bảo hiểm vật chất mà không lo bảo hiểm sự sống thiêng liêng, sự sống đời đời. Để bảo đảm cho linh hồn chỉ cần chúng ta biết liên kết với Thiên Chúa qua sự cầu nguyện, và xa tránh tội lỗi. Khi phạm tội, chúng ta chối bỏ Thiên Chúa, và trở nên nô lệ cho ma quỉ. Tội lỗi đưa ta đến chỗ bất hạnh là phải xa Chúa đời đời. Đứng trước những bấp bêny của cuộc sống, chúng ta chỉ có một điểm tựa duy nhất là chính Thiên Chúa. Chúng ta phải liên kết với Ngài bằng cầu nguyện và xa tránh tội lỗi.

61. Hãy giữ mình khỏi mọi tham lam
(Suy niệm của Lm Cao Tấn Tĩnh)
Đọc bài Phúc Âm Chúa Nhật XVIII Mùa Thường Niên Năm C hôm nay, có thể nói, tương đối là dễ hiểu, so với các bài Phúc Âm trước đây, nhất là bài Phúc Âm Chúa Nhật X Thường Niên về Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, hay bài Phúc Âm Chúa Nhật XIVvề các điều Chúa Giêsu căn dặn 72 môn đệ khi sai các vị đi rao giảng v.v. Tuy nhiên, trong vấn đề suy niệm Phụng Vụ Lời Chúa nói chung, nhất là bài Phúc Âm là bài đọc chính trong Phụng Vụ Lời Chúa nói riêng không phải chỉ đơn giản có thế, nghĩa là không phải chỉ cần biết ý nghĩa của bài Phúc Âm nói gì là xong, còn phải để ý đến ba yếu tố khác nữa, những yếu tố rất quan thiết mà nếu thiếu sẽ không bảo đảm tính chất chính xác nơi ý nghĩa phụng vụ của bài Phúc Âm như chúng ta tưởng. Vậy ba yếu tố này là gì? Theo tôi, trước hết, chúng ta phải xét xem ý nghĩa của bài Phúc Âm như chúng ta nghĩ đó có hợp với chủ đề Mùa Phụng Vụ của mình hay chăng; sau nữa, ý nghĩa của bài Phúc Âm theo chúng ta nghĩ, nếu hợp với chủ đề Mùa Phụng Vụ của mình thì chắc chắn cũng phải ăn khớp với bài Phúc Âm tuần trước đó và tuần sau đó; sau hết, ý nghĩa của bài Phúc Âm theo chúng ta nghĩ, chẳng những hợp với chủ đề Mùa Phụng Vụ của mình và ăn khớp với các bài Phúc Âm trước sau, mà còn phải gắn liền với ý nghĩa của bài đọc một và bài đọc hai được Giáo Hội cố ý chọn đọc chung với bài Phúc Âm ấy nữa. Căn cứ vào ba yếu tố này, khi gặp một bài Phúc Âm khó hiểu, chúng ta cũng có thể nhờ đó suy ra ý nghĩa của bài Phúc Âm. Chẳng hạn, chúng ta hỏi chủ đề chung của Mùa Phụng Vụ có bài Phúc Âm này là gì; nếu vẫn chưa suy ra ý nghĩa sâu xa của bài Phúc Âm, chúng ta có thể hỏi tiếp, vậy ý nghĩa của bài Phúc Âm tuần trước và tuần sau là gì mà Giáo Hội lại chọn bài Phúc Âm này chen giữa hai bài đó; sau cùng, ý nghĩa của bài Phúc Âm sẽ sáng tỏ hơn, nếu chúng ta thấy được mối liên hệ giữa bài Phúc Âm với bài đọc một và bài đọc hai trong cùng Thánh Lễ; đấy là chúng ta chưa kể đến mối liên hệ giữa ba bài đọc của chu kỳ này, chẳng hạn của Năm C hiện nay, phải ăn khớp cả với hai chu kỳ kia, Năm A và B nữa. Vậy, chúng ta thử áp dụng phương pháp suy diễn này vào bài Phúc Âm Chúa Nhật XVIII Mùa Thường Niên Năm C dễ hiểu hôm nay xem sao. Trước hết, ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay là gì? Tiếp đến, ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay có hợp với chủ đề của chung Mùa Phụng Vụ không? Sau nữa, ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay có ăn khớp với ý nghĩa của bài Phúc Âm tuần trước và tuần sau không? Và sau hết, ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay có thật sự liên hệ với hai bài đọc một và hai hôm nay không?
1. Ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay là gì?
Phải chăng ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay là giá trị của cải cải trần gian hay là phần rỗi đời đời của con người? Bởi vì, về giá trị của cải trần gian, Chúa Giêsu phán dạy trong bài Phúc Âm rằng: “Con người có thể hưởng giầu sang, nhưng những gì họ có không bảo đảm cho họ được sự sống”. Và về phần rỗi đời đời, Chúa Giêsu cũng khuyên dạy: “Đồ ngốc, ngay đêm nay ngươi sẽ bị đòi mạng. Tất cả mọi thứ giầu sang phú quí mà ngươi tích lũy ấy sẽ thuộc về ai đây?” Thế nhưng ý nghĩa nào trong hai ý nghĩa này hợp với chủ đề của chung Mùa Phụng Vụ Hậu Phục Sinh, với ý nghĩa của bài Phúc Am tuần trước và tuần sau, cũng như với ý nghĩa của cả bài đọc một lẫn bài đọc hai hôm nay? Riêng tôi, tôi thấy rằng cả hai ý nghĩa trên đây không phải là ý nghĩa chính thực về phụng vụ của bài Phúc Am hôm nay. Để có thể nắm được ý nghĩa thực sự của một bài Phúc Am, ngoài yếu tố đối tượng Chúa muốn nói tới cũng như yếu tố khung cảnh của bài Phúc Âm, chúng ta cũng cần phải chú trọng đến chính văn từ nữa, tức đến ý chính của bài, tức là ý tưởng then chốt, ý tưởng chi phối các ý tưởng khác trong bài. Theo tôi, ý chính của bài Phúc Am hôm nay nằm ngay ở lời Chúa Giêsu khuyên dạy: “hãy giữ mình khỏi mọi tham lam”. Tại sao “hãy giữ mình khỏi mọi tham lam”? Bởi vì, của cải tự nó không thể cứu rỗi linh hồn con người, như hai câu trích từ lời Chúa phán dạy và khuyên dạy vừa được trích dẫn. Lý do “hãy giữ mình khỏi mọi tham lam” này, như thế, bao gồm cả hai ý nghĩa liên quan đến giá trị của sản vật trần gian cũng như đến phần rỗi đời đời. Nếu lời Chúa Giêsu khuyên dạy “hãy giữ mình khỏi mọi tham lam” thực sự chi phối các ý tưởng hay ý nghĩa khác như thế thì quả nhiên, xét theo nội dung riêng của bài Phúc Am được Giáo Hội chọn đọc hôm nay, nó là ý chính hay ý nghĩa đích thực của bài Phúc Am Chúa Nhật XVIII Mùa Thường Niên hôm nay vậy. Tuy nhiên, để biết chắc ý nghĩa được suy diễn này có thực sự và hoàn toàn đúng như thế hay không, chúng ta hãy đối chiếu nó với chủ đề chung của Mùa Phụng Vụ Thường Niên Hậu Phục Sinh, với ý nghĩa của hai bài Phúc Âm trước sau Chúa Nhật XVIII này, cũng như với ý nghĩa của hai bài đọc một và hai hôm nay.
2. Ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay có hợp với chủ đề của chung Mùa Phụng Vụ không?
Ý nghĩa “hãy giữ mình khỏi mọi thứ tham lam” của bài Phúc Âm Chúa Nhật XVIII hôm nay rất hợp với ý nghĩa của Mùa Thường Niên đưọc Giáo Hội đang cử hành kể từ sau Mùa Phục Sinh đến nay. Thật vậy, theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 670 thì “kể từ biến cố Thăng Thiên dự án của Thiên Chúa đã đạt thành. Chúng ta đang ở vào ‘giờ khắc sau hết’ (1Jn 2:18; x. 1Pt 4:7)”. Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 672 cũng xác nhận: “Trước cuộc Thăng Thiên về trời của mình, Chúa Kitô xác nhận rằng chưa tới giờ vinh quang thiết lập vương quốc thiên sai như dân Do Thái trông đợi, một vương quốc, theo các tiên tri, làm cho tất cả mọi người sống trong trật tự công chính, yêu thương và an bình.Theo Chúa thì thời hiện đại đây là thời của Thần Linh cũng là thời của chứng nhân…” Bởi vậy, nếu Phụng Niên là việc Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, mà kể từ sau khi Chúa Kitô Thăng Thiên về trời, nhân loại sống trong “thời của Thần Linh cũng là thời của chứng nhân”, thì quả thực Mùa Thường Niên sau Mùa Phục Sinh đây thực sự là thời điểm Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô tiếp tục tỏ mình trên thế gian cho đến tận thế qua Giáo Hội là chứng nhân của Người, một Giáo Hội, như Sắc Lệnh của Công Đồng Chung Vaticanô II về Truyền Giáo Ad Gentes đoạn 2 tuyên nhận, “tự bản chất là truyền giáo”. Thế nhưng, Giáo Hội nói chung và Kitô hữu nói riêng không thể truyền giáo, nếu không thực hiện lời khuyên của Chúa Kitô “hãy giữ mình khỏi mọi thứ tham lam”, đúng như tinh thần của các bài Phúc Âm trước tuần này và sau tuần này.
3. Ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay có ăn khớp với ý nghĩa của bài Phúc Âm tuần trước và tuần sau không?
Thật vậy, Giáo Hội nói chung và Kitô hữu nói riêng không thể truyền giáo, nếu không thực hiện lời khuyên của Chúa Kitô “hãy giữ mình khỏi mọi tham lam”, đúng như tinh thần của các bài Phúc Âm trước tuần này và sau tuần này. Đối với các bài Phúc Âm trước tuần này, ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay hay lời khuyên dạy của Chúa Giêsu “hãy giữ mình khỏi mọi tham lam” rất ăn khớp với ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật XVI cách đây hai tuần, bài Phúc Âm Chúa Giêsu trách cứ và khuyên dạy Matta rằng: “Con lo lắng bối rối về nhiều chuyện quá… Chỉ có một điều cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt hơn và nó sẽ không bị mất đi phần tốt hơn này”. Lời khuyên dạy của Chúa Giêsu “hãy giữ mình khỏi mọi tham lam” làm nên ý nghĩa bài Phúc Âm tuần này cũng rất ăn khớp với ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật XVII tuần vừa rồi nữa, vì tuần vừa rồi Chúa dạy các môn đệ cầu nguyện với tinh thần tin tưởng đến nỗi “xin sẽ được”, nghĩa là, như tôi đã chia sẻ: “Người cầu xin Chúa với lòng tin tưởng mãnh liệt hoàn toàn thú nhận trước nhan Ngài rằng họ là người bần cùng thiếu thốn, hoàn toàn trông đợi mọi sự ở nơi Ngài, đến nỗi, không có Ngài họ không thể làm gì được”. Chưa hết, lời khuyên dạy của Chúa Giêsu “hãy giữ mình khỏi mọi tham lam” làm nên ý nghĩa bài Phúc Âm tuần này còn ăn khớp cả với ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật XIV bốn tuần trước nữa, bài Phúc Âm Chúa Giêsu sai từng cặp môn đệ ra đi rao giảng dọn đường với lời khuyên: “đừng mang theo túi xách, bao bị, giầy dép”. Đối với bài Phúc Âm Chúa Nhật XIX tuần tới, lời khuyên dạy của Chúa Giêsu “hãy giữ mình khỏi mọi tham lam” làm nên ý nghĩa bài Phúc Âm tuần này cũng ăn khớp nữa, vì ý chính của bài Phúc Âm tuần tới là “Hãy thắt lưng và thắp đèn lên sẵn sàng”, tức là khía cạnh tích cực của lời Chúa Giêsu khuyên “hãy giữ mình khỏi mọi tham lam” trong Phúc Âm tuần này. Vì ý nghĩa của các bài Phúc Âm trước sau liên hệ với nhau theo cùng một chủ đề của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh như thế, chúng ta mới thấy được lý do tại sao, Giáo Hội đã bỏ gần hết đoạn 11 của Phúc Âm Thánh Luca, sau bài Phúc Âm Chúa Nhật XVII tuần trước từ câu 1 đến 13, và nhẩy sang phần giữa và cuối của đoạn 12 cho 3 tuần lễ liền sau đó, Chúa Nhật XVIII tuần này từ câu 13 đến 21, Chúa Nhật XIX tuần tới từ câu 35 đến 40 hay 32 đến 48, và Chúa Nhật XX từ câu 49 đến 53.
4. Ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay có thật sự liên hệ với hai bài đọc một và hai hôm nay không?
Lời khuyên dạy của Chúa Giêsu “hãy giữ mình khỏi mọi tham lam” làm nên ý nghĩa bài Phúc Âm tuần này chẳng những ăn khớp với các bài Phúc Âm trước và sau tuần này như vừa dẫn chứng, mà còn ăp khớp với cả bài đọc một và hai trong phần Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XVIII Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh hôm nay nữa. Thật vậy, Bài đọc một theo Sách Giảng Viên hôm nay đã cho thấy lý do tâm lý tại sao con người “hãy giữ mình khỏi mọi tham lam”, đó là vì “tất cả mọi sự đều là hư không… Vì con người được lợi lộc gì nơi tất cả những cực nhọc và lo toan làm họ phải chịu vất vả dưới ánh mặt trời này? Cả ngày họ quằn quại với sầu muộn và đau thương; ngay đêm về họ cũng còn trằn trọc. Hư không cũng là như thế nữa”. Lời khuyên dạy của Chúa Giêsu “hãy giữ mình khỏi mọi tham lam” làm nên ý nghĩa bài Phúc Âm tuần này còn được bài đọc hai theo Thư Thánh Phaolô Tông Đồ gửi Giáo Đoàn Côlôsê diễn giải sâu rộng hơn về nền tảng tu đức, thực hành tu đức và thành quả tu đức đối với lời khuyên này như sau. Trước hết, bài đọc hai cho thấy nền tảng tu đức của lời khuyên “hãy giữ mình khỏi mọi tham lam”, đó là “Vì anh em đã chết, và sự sống của anh em giờ đây đã được tiềm ẩn nơi Chúa Kitô trong Thiên Chúa”. Sau nữa, bài đọc hai còn chỉ cách thực hành tu đức đối với lời khuyên “hãy giữ mình khỏi mọi tham lam” như sau: “Anh em hãy hủy diệt nơi bản tính mình những gì gắn liền với mặt đất này, đó là gian dâm, ô uế, đam mê, tà vọng và tham lam là việc tôn thờ ngẫu tượng”. Sau hết, bài đọc hai cũng cho thấy cả thành quả tu đức đối với lời khuyên “hãy giữ mình khỏi mọi tham lam” nữa, ở chỗ, một khi biết “giữ mình khỏi mọi tham lam” như thế, Kitô hữu mới có thể sống tinh thần của thành phần môn đệ chứng nhân Chúa Kitô là trở nên một con người quốc tế, một con người theo tinh thần yêu thương đại kết của bài Phúc Âm Chúa Nhật XV cách đây 3 tuần không đặt vấn đề chọn lựa trong việc yêu thương “ai là tha nhân của tôi”, một tinh thần “không còn Hy Lạp hay Do Thái, cắt bì hay không cắt bì,… nô lệ hay tự do nữa. Trái lại, Chúa Kitô là mọi sự nơi tất cả anh em”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Lời Chúa Giêsu khuyên dạy “hãy giữ mình khỏi mọi tham lam” trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XVIII Mùa Thường Niên Năm C Hậu Phục Sinh hôm nay, chắc chắn áp dụng cho “mọi” thứ “tham lam” tiêu cực bất chính, như “tham” của, “tham” vọng, “tham” quyền cố vị, “tham” thực cực thân v.v. Tuy nhiên, chữ “mọi” Chúa nói ở đây có áp dụng cho cả các thứ “tham lam” tích cực lành mạnh không, như “tham” việc là những gì chỉ thêm vất vả cho bản thân mình, trong khi, theo khuynh hướng tự nhiên ai cũng muốn hưởng nhàn, hay có áp dụng cho các thứ “tham lam” lành thánh không, như “tham” của ăn thiêng liêng, ở chỗ lúc nào cũng muốn được ơn an ủi? Lý do tại sao có hay không?

62. Lòng ham hố của cải – R. Gutzwiller
Đề nghị dân chúng phải đề cao cảnh giác khỏi men Biệt phái, coi chừng họ, xem ra còn quá dễ, vì đó là đề phòng người khác; việc đề cao cảnh giác nói sau đây khó thực hiện hơn: đó là lời cảnh tỉnh nói với mỗi người, vì cái tham vọng lo tích luỹ ky cóp, ít nhiều gì cũng chi phối cuộc sống con người.
1. Đầu đuôi câu truyện
Có người đến xin Chúa Kitô chia gia tài dùm. Anh của hắn –có lẽ là anh cả- là người thừa kế chính thức, nên hắn phận em lo mình phải thiệt thòi. Hắn xin Chúa như vậy có lý lắm. Vì là con cùng cha, mà bị xử tệ như vậy sao?
Dẫu thế, Đức Giêsu vẫn từ chối không giải quyết. Xét cho cùng những thỉnh nguyện của bạn trẻ này hợp lý lắm, nhưng chỉ vì hắn bận tâm lo lắng quá về truyện đó. Cuộc đời hắn để cho vật chất đóng vai trò lớn quá. Hắn khó hội ý được những lời kỳ diệu của Chúa Kitô về nước Thiên Chúa, một thế giới linh thiêng và tình yêu Thiên Chúa. Hắn đã bị daỳ vò bởi quá lo lắng đến công kia việc nọ mà chẳng hề nghĩ đến những lý tưởng cao hơn. Đó là tình trạng cũng thường thấy thôi.
Nhiều người ‘cũng’ quan tâm đến việc đạo (thậm chí còn quan tâm nhiều nữa) nhưng thực ra đối với họ việc đó chỉ là thứ yếu. Họ chấp nhận việc đạo vơí điều kiện họ còn thời giờ, còn sức lực, khi đời sống vật chất còn được bảo đảm. Trước hết phải là kế sinh nhai, làm ăn sinh sống, của ăn áo mặc, thể thao giải trí rồi mơí nói đến đạo nghĩa. Vì chẳng những vấn đề đạo nghĩa làm mất biết bao thì giờ mà còn phải chú ý và mất sức lực nữa.
Cho nên, những việc tôn giáo đó, gác lại đến những ngày cuối đời –không hẳn là lúc gần chết-. Đàng khác, có những người coi yếu tố kinh tế như nguyên nhân gốc và ưu thắng của mọi cuộc biến hoá đến nỗi việc thiêng liêng –thậm chí cả tôn giáo- xem ra chỉ là cái phụ trội, thêm thắt không hơn, không kém (nếu không muốn nói là dư thừa hoặc nguy hại nữa)…
Tư tưởng đó đã nhiễm vào lãnh vực tinh thần: một số người công bố rằng con người hãy lo bảo đảm đời sống vật chất trước đã, rồi sau đó mới nói đến nước Chúa. Còn Tin mừng thì đã mang một thứ ngôn ngữ khác hẳn.
2. Giáo huấn của Đức Giêsu
Chúa trả lời rât minh xác: ‘Vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải đảm bảo cho đâu’. Những lời này được coi như một chủ đề được phát biểu gắt gao và mang hai ý tưởng.
Trước nhất những của cải vật chất không bảo đảm cho đời sống. Điều này ngày nay là một thực tế trước mắt. Việc phát triển kinh tế đã hoàn toàn rút mất khỏi cá nhân khả năng định đoạt số mệnh.
Cá nhân lệ thuộc vào chủ mình; và ông chủ, chính ông cũng lại tuỳ thuộc vào những tương giao kinh tế qui mô của khu vực, mà khu vực kinh tế lại tuỳ thuộc vào miền Kinh tế. Và cứ thế miền kinh tế vượt khỏi ranh giới xứ sở và đại lục.
Như thế vận mệnh mỗi người nằm trong tay người khác và những thế lực vô danh không có chút khả năng cạnh tranh. Ngoài cái bấp bênh về mặt kinh tế, còn có cái bấp bênh trên thực tiễn vì vào thời đại chúng ta, cuộc chiến nào cũng mang những chiều kích vĩ đại và đưa đến biết bao đổ nát hoang tàn và tai ương khốn khó khiến hàng triệu người phải mệnh số. Không còn chi là an toàn chắc chắn cả.
Thật rất nực cười: chính vì coi vật chất là nhất mà đánh mất đi sự an toàn đó; bởi vì những hiệp ước, khế ước, bảo đảm, trách nhiệm và lương tâm là những thực tại tri thức thực tế hôm nay đã biến dạng, vì vật chất đã làm mất ý nghĩa và bản chất đích thực của những cái đó.
Chỉ có những lợi điểm và sức mạnh vật chất là đáng kể: khi vật chất làm chủ thì người ta thường hay cười trừ làm lơ với những rắc rối lương tâm, đạo đức và luật pháp.
Thứ đến, dù cá nhân được đảm bảo về mặt của cải song không phải vì thế mà cuộc sống thực danh được bảo đảm đâu.
Bằng một ví dụ, Chúa Kitô phản ảnh ý tưởng này thật rõ rệt. Ngài trình bày một người không thiếu gì cả. Ruộng vườn sinh lợi dư thừa, vừa hoàn thành kho lẫm mới, mùa màng được nhiều đem chất vào đó. Thế là không lo mất mát, tổn hại gì nữa.
Hắn được toàn quyền định đoạt mọi sở hữu của mình, tức là hắn biết cái ưu tiên hy hữu của sự an toàn thực sự vật chất. Tuy nhiên đó chỉ là ảo tưởng, vì cái chết là một sức mạnh không thể kháng cự.
Do đó, vào giờ đã định, hắn bó buộc phải từ bỏ những thứ hào nhoáng giả dối kia và dù muốn dù không cũng phải trút bỏ hết khi xuôi tay nằm xuống, trước mặt Chúa mọi sự đều bị phơi trần. Phán quyết Thiên Chúa sẽ nói hắn là kẻ ‘điên rồ’. Hắn tưởng mình có quyền sở hữu tất cả và ròi quá hiển nhiên là hắn chẳng giữ được chi hết vì chẳng mang theo được chi. Tất cả những thứ hắn có thực chẳng giá trị gì. Và cái hắn phải lo tìm kiếm, thì hắn lại không có.
Thực ra, cuộc đời hắn đã đến lúc suy sụp cả phần vật chất lẫn tinh thần. An toàn đảm bảo chỉ tìm được nơi Thiên Chúa thôi, đó là điều Chúa muốn giải thích trong phần cuối dụ ngôn. Đức Giêsu khuyên bảo hãy làm giầu cho Thiên Chúa.
Những kho tàng ân sủng thiêng liêng và những công nghiệp con người chu toàn bằng việc hợp tác với Chúa: những cái đó mới đáng kể. Cái chết vẫn là tiêu chuẩn tất yếu của tính xác thực ấy. Khi những gì thuộc phàm trần qua đi thì những gì thuộc về Chúa sẽ tồn tại. Trò chơi cao giá này người ta chỉ thắng cuộc khi nhắm đến Thiên Chúa.
Thật là điên rồ cho ai chỉ bù đầu suốt đời vào những cái phàm tục. Người khôn ngoan là người biết vượt qua của cải phù vân để nghĩ tưởng đến vĩnh cửu. Chỉ có ai biết tích luỹ tất cả những gì chắc chắn và cất giữ nơi kho cuả Chúa mới bảo đảm được cuộc sống bất diệt.

63. Một cơ hội làm giàu – Đỗ Lực, OP
Thế giới đã xích lại gần nhau nhờ nhanh chóng toàn cầu hóa truyền thông, vận chuyển và thị trường. Khắp thế giới sự phát triển kinh tế hầu như đã nâng cao mức sống mọi người so với những thời kỳ trước đây trong lịch sử nhân loại. (1) Một cơ hội làm giàu đang đến với nhiều người.
Từ ngày gia nhập WTO, Việt nam đã trở thành điểm thu hút đầu tư của nhiều quốc gia, nhất là Hoa Kỳ. Phải chăng đây là lúc nên nghĩ đến chuyện làm giàu? Càng mở rộng cửa, Việt nam càng tạo nên nhiều lớp người giàu. Nhưng khoảng cách giàu nghèo ngày càng mở rộng có bảo đảm cuộc sống sẽ càng ổn định và hạnh phúc không?
Dụ ngôn người phú hộ trong Tin Mừng hôm nay có soi sáng cho ta thấy hạnh phúc đích thực của con người không? Phải chăng tất cả đều tùy thuộc vào của cải và tiền bạc? Ðâu là cơ hội làm giàu đích thực?
NGƯỜI PHÚ HỘ NGU NGỐC
Tự bản chất, của cải có một giá trị lớn lao, vì là hồng ân Thiên Chúa. Nhưng theo mẹ Têrêsa, còn có những giá trị cao cả hơn. Thiên Chúa mời gọi chúng ta lựa chọn những giá trị này. Tất cả đều sự thánh thiện tùy thuộc vào việc lựa chọn hôm nay.
Trong Tin Mừng Luca có hai ông phú hộ. Ông nào cũng có cái nhìn không vượt qua những giới hạn trần gian và chính bản thân. Nói khác, cả hai ông đều tin tưởng tuyệt đối vào của cải vật chất và không hề đoái tới những người nghèo khổ chung quanh. Ich kỷ là điểm chung của hai ông. Không gì trái ngược với Tin Mừng hơn!
Ích kỷ vì cả hai người phú hộ đều không thấy mối liên hệ với Thiên Chúa và tha nhân. Của cải là chỗ dựa duy nhất. Tất cả hạnh phúc và mọi bảo đảm đều lệ thuộc của cải, trong khi đáng lẽ phải tùy thuộc Thiên Chúa. Lòng tham đã che mờ lý trí đến nỗi con người chỉ còn một nơi trú ẩn vững chắc nhất là của cải mà thôi. Lòng tham có thể khiến kẻ thông minh và thành công nhất trong việc kinh doanh thành ngu đần và thất bại. Trong câu 18-19, người phú hộ trở nên “thằng ngốc,” vì suốt ngày say mê chính mình. Vì những bận tâm đầy ích kỷ đó, hắn đã loại trừ Thiên Chúa và tha nhân ra khỏi tầm nhìn. (2)
Nhưng tử thần thình lình ập tới. Thời gian thật vắn vỏi, nhưng cũng đủ để con người nhìn lại toàn bộ: “Những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12:20) Tất cả đều khựng lại. Câu hỏi thật bất ngờ và có sức quật ngược mọi toan tính. Mọi người buộc phải suy nghĩ về một vấn đề cơ bản nhất: cuộc sống có ý nghĩa gì? Thánh Luca tự đưa ra câu trả lời: nhìn nhận Thiên Chúa và bố thí cho kẻ túng cực là tìm thấy ý nghĩa cuộc sống. (3) Như thế, cuộc đời còn có một cái gì hơn của cải vật chất. Mối liên hệ với Thiên Chúa và tha nhân còn quan trọng hơn nhiều.
Khi cầu nguyện, chúng ta trình bày với Thiên Chúa những vấn đề. Ngược lại, Thiên Chúa cũng cho ta thấy những vấn đề tương tự. Người cho biết phải làm cách nào để chúng ta thay đổi và lớn lên trong thái độ của mình đối với vấn đề. Ðây thường không phải là câu trả lời chúng ta tìm kiếm, nhưng giúp chúng ta dõi theo bàn tay Thiên Chúa để tìm thấy ý Chúa trong cuộc đời mình một cách hiệu quả.
Cuộc sống tốt đẹp không liên quan gì tới việc làm giàu. Trái lại, “không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.” (Lc 12:15) Ngày nay, các nhà quảng cáo bỏ ra hằng triệu đô la để quyến rũ chúng ta mơ tưởng rằng càng mua sắm nhiều hàng hóa của họ, càng hạnh phúc, càng thỏa mãn, càng tiện nghi. Làm cách nào phản ứng lại áp lực mua bán liên tiếp như thế? Hãy tìm cách bưng tai bịt mắt trước những quyến dũ mắc tiền và tập trung chú ý vào cuộc sống thực sự tốt đẹp – sống tương quan với Thiên Chúa và làm công việc Người dạy.
Người phú hộ trong truyện chết trước khi có thể bắt đầu hưởng dùng những gì ông đã tích trữ trong những kho lẫm lớn. Lập chương trình về hưu – chuẩn bị cho cuộc sống trước khi chết – đó là khôn ngoan. Nhưng khinh thường cuộc sống sau khi chết, đó là một thảm họa. Nếu thu tích của cải chỉ để làm giàu, mà không quan tâm giúp đỡ tha nhân, chúng ta sẽ bước vào cõi vĩnh hằng với hai bàn tay trắng. (4)
TIN MỪNG, MỘT ÐÒI HỎI CÔNG LÝ
Nhân danh sự an toàn cá nhân và gia đình, ngày nay rất nhiều người chỉ quan tâm tới hạnh phúc riêng và phớt lờ trước những nạn nhân đang rên siết dưới chế độ bất công. Như thế có làm chứng cho Ðức Kitô được không? Nếu nắm vững tinh thần Ðức Kitô, sẽ thấy toàn bộ Kinh Thánh đòi chúng ta phải nỗ lực tạo nên một xã hội công bình hơn. (5) Nỗ lực đó sẽ lôi chúng ta ra khỏi những giấc mơ tầm thường của thế giới cái tôi.
Chỉ khi nào thoát khỏi mọi thứ tham lam, con người mới tiêu hủy được căn nguyên tội lỗi, bẻ gãy nanh vuốt ma quỷ và không bị tiêu hủy theo nó mà thôi. Bởi đó, Chúa Giêsu mới lên tiếng cảnh cáo: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam.” (Lc 12:15) Không những của cải không bảo đảm hạnh phúc, mà còn gây bao tai họa nữa. Khi lòng tham vô đáy, con người chỉ còn biết quanh quẩn với cái tôi. Tình yêu trở thành tự mãn. Yêu mình quá mức là nguyên nhân sinh ra mọi tội lỗi. (6)
Khi nào yêu mình quá mức? Nếu bất chấp mọi luật lệ Thiên Chúa và lý trí con người, mà mải mê với những của cải vật chất và trần tục một cách thái quá, con người yêu mình quá mức. Họ có thể yêu vật tốt, nhưng theo đường lối xấu. Cũng có thể họ mải mê hưởng dùng vật tốt ấy, bất chấp sự thiệt hại xảy ra cho mình và sự xúc phạm đến Thiên Chúa. Người phú hộ không phải không thấy của cải tốt lành. Nhưng ông đã dùng để phục vụ chính mình mà thôi. Nghĩa là ông đã yêu mình quá mức. Không còn thứ tội nào không sinh ra từ tình yêu lệch lạc này.
Chính vì chỉ nghĩ đến chuyện ăn uống, tích trữ lương thực cho mình, người phú hộ không xứng đáng hưởng Nước Trời. Làm sao có thể sống bình an và xây dựng cho nhau giữa cảnh “kẻ ăn không hết, người lần không ra”? Chỉ có Tin Mừng mới giúp ông phú hộ làm điều tốt (thực thi công lý) đối với người nghèo. Ðó là con đường đem lại hoa quả thánh thiện và lòng trắc ẩn bao la.
Muốn có một đời sống tốt lành, Kitô hữu phải ý thức và thực thi đòi hỏi duy nhất của Tin Mừng là công lý. Ðúng thế, “Nước Trời là sự công chính …” (Rm 14:17) Công lý là bản chất của Nước Thiên Chúa trong khắp vũ trụ, chứ không của riêng giáo hội nào. Bởi đó, tranh đấu cho công bình xã hội không phải là đặc điểm của Giáo Hội Ðại Hàn, Zimbabwe, Venezuela v.v. Không thể biện minh cho thái độ ngại dấn thân cho công lý mà loại trừ đặc điểm đó ra khỏi GHVN.
Việc chia sẻ với những người cùng khổ là một đòi hỏi của công lý, chứ không tùy thuộc lòng quảng đại của ông phú hộ. Chính vì những người giàu như ông không biết chia sẻ, nên mới nảy sinh những bạo động khắp thế giới. Tính ích kỷ đã thành căn bệnh trầm kha trong xã hội hôm nay. Nó mang tầm vóc quốc tế, chứ không giới hạn trong một lãnh vực hay lãnh thổ nào. Muốn bước ra khỏi vỏ ốc ích kỷ, chúng ta không cần phải có con mắt khinh dể trần gian. Ai tưởng trần gian này quá đầy đủ và có thể thỏa mãn lòng người, họ sẽ thấy điều đó hoàn toàn dối trá và lừa phỉnh. Ðiều đó khiến chúng ta dễ dàng nhúng tay vào thế giới tội ác và gian tà. Phải tìm về sự thật là Thiên Chúa mới thấy được tất cả những của cải vô hình và làm giàu “trước mặt Thiên Chúa.” (Lc 12:21) Ðó mới là đường lối thực khôn ngoan và đầy hạnh phúc.
Muốn rút ngắn khoảng cách giàu nghèo, thiết tưởng trước tiên cần phải ý thức tính cách mỏng dòn của vạn vật trên trần gian, giá trị của các thực tại và sự ngắn ngủi của cuộc đời. Tuy phù du và mỏng dòn, của cải cũng có thể trở thành phương tiện giúp chúng ta liên đới với người nghèo và đáp ứng những đòi hỏi của công lý.
Ngày nay còn nhiều người vẫn tự hỏi: đâu là giá trị cuộc đời? Làm cách nào để biến đổi cuộc đời tầm thường này thành một giá trị phong phú và đầy ý nghĩa? Tin Mừng trả lời bằng một phản đề: những công trình phong phú nhất không phải là những công trình kiên cố nhất. Giá trị một đời người không tính bằng số lượng của cải thâu góp cho mình. Tin Mừng mời gọi chúng ta đừng sống cho chính mình, nhưng hãy thu tích của cải để chia sẻ cho người khác. Chúng ta chỉ thành công khi tương quan với tha nhân và Thiên Chúa trở thành một hòa điệu. Chính phẩm chất các tương quan này làm nên ý nghĩa cuộc đời . Thánh Augustinô nói: “Giá trị của tôi là chính tình yêu của tôi.”
Giá trị cuộc sống hôm nay không tương đương với số tiền có trong ngân hàng hay những lời nịnh hót phe phẩy bên tai. Ðúng hơn, giá trị cuộc đời hệ tại tất cả những gì chúng ta cho đi. Ðó là chất xi măng duy nhất để Thiên Chúa củng cố công trình cuộc đời ta. Chỉ mình Chúa mới biết giá trị cuộc đời. Ðó là lý do tại sao chúng ta có thể nói với thánh Phaolô “cuộc sống chúng ta tiềm tàng với Ðức Kitô nơi Thiên Chúa.” (Cl 3:3) Không còn nơi nào kiên cố và vững bền hơn. Tình yêu Thiên Chúa vô cùng mãnh liệt và huyền nhiệm. Khi được tình yêu Thiên Chúa xác định cuộc đời còn giá trị nào hơn?
XÂY … CẤT
Sau khi nghe Tin Mừng hôm nay, nhiều người có những phản ứng rất khác nhau. Tin Mừng đã gây sốc cho rất nhiều người. Nhiều người cho rằng cái đáng kể trong cuộc đời là thu tích nhiều của cải, nhà cửa, bất động sản, đầu tư, xe cộ, thuyền bè v.v. Một số người khác cảm động sâu xa. Lắng nghe tiếng Chúa gọi, họ sẽ bán tất cả tài sản mà đi tu, để thu tích của cải thiêng liêng. Trong số những người cực kỳ giàu có, để hưởng lợi sau này, một số sẽ cho ướp xác ngay sau khi chết, hy vọng sẽ sống lại khi y khoa tìm được thuốc chữa bệnh cho họ. Sau khi dâng lễ, một số khác sẽ về nhà và bắt đầu làm tờ Di Chúc. Họ cố quyết định xem phải chia của cải cho ai, lựa chọn người khôn ngoan và loại bỏ người ngu đần. Ðối với nhiều người khác, Lời Thiên Chúa vô tai này ra tai kia. Họ không nhận ra sự khôn ngoan thiêng liêng của Thiên Chúa trong bài đọc.
Qua tất cả những phản ứng khác nhau đó, chúng ta thấy rõ tuy mau qua, nhưng của cải có một ảnh hưởng lạ lùng trên tâm thức nhân loại. GHVN có phản ứng nào trước Tin Mừng hôm nay? Nhìn vào một xã hội đang đói khát chân lý và công lý như Việt nam hiện nay, có lẽ chúng ta sẽ xác định được vị trí và sức mạnh của GHVN.
Ðứng trước một xã hội đang băng hoại, ÐHY Phạm Minh Mẫn đã lên tiếng:
“Sau 30 năm, tôi thấy báo chí thông tin kết quả của một cuộc điều tra xã hội: 30-40% học sinh Tiểu học nhiễm thói gian lận, lừa dối, 40-50% học sinh Trung học nhiễm thói đó, lên Đại học thì tỷ lệ là 50-60%. Trong một lần sinh hoạt với giáo chức công giáo, tôi hỏi tỷ lệ mà báo chí đưa ra có đúng không? Một giáo viên trả lời rằng thực tế thì còn hơn thế.”
“Trong tinh thần hợp tác, 16 dòng tu theo lời tôi kêu gọi gửi gần 100 thành viên tình nguyện đi phục vụ bệnh nhân SIDA tại Trung Tâm Trọng điểm mấy năm nay. Các vị lãnh đạo TP cho tôi biết lúc đầu chỉ có lối 20% trong số hơn 30.000 bạn trẻ cai nghiện trong lối 20 Trung Tâm là nhiễm HIV, sau những năm cai nghiện thì tỷ lệ nhiễm HIV là trên 60%, có vị nói là trên 80%.”
“Báo chí cũng thông tin những ngành liên hệ với y tế thì toa rập nhau trấn lột bệnh nhân… Hình như các ngành, thay vì biến giai cấp vô sản thành người đầy tớ phục vụ nhân dân theo như lời Bác dạy, thì thực tế cho thấy là giai cấp vô sản biến nhân dân thành vô sản, và tự biến mình thành một giai cấp mới mà tôi nghe nhiều người gọi là tư sản đỏ. Ngày nay khi mà một viên chức Nhà Nước phải chia 1.000 tỷ đồng cho người vợ ly dị, thì không còn là tư sản nữa, mà phải gọi là tư bản hay đại gia đỏ. Lâu lâu rồi, tôi thấy báo chí tường thuật lời ông Tổng Bí Thư tuyên bố tham nhũng là quốc nạn. Có lẽ là quốc nạn cho người dân, chớ còn đối với nhiều đày tớ của nhân dân, đó là cơ hội tốt để trở thành đại gia đỏ.” (7)
Cám ơn ÐHY đã can đảm nói lên sự thật vô cùng đau lòng đó! Sự thật đó tố cáo tầm ảnh hưởng của GHVN quá yếu ớt. Yếu ớt không phải vì GHVN chỉ là thiểu số, nhưng vì đã đánh mất hay làm phai lạt phẩm chất và bản chất sứ mệnh cứu độ. Vấn đề không phải vì cộng tác hay không cộng tác, nhưng vì GHVN đã không tìm được một thế đứng và tiếng nói giữa một xã hội quá ồn ào như Việt nam hôm nay. Sức mạnh đích thực chỉ có thể tìm thấy trong chân lý và công lý mà thôi. Dù chỉ là số ít, cha ông tử đạo Việt nam đã không hổ thẹn khi chứng minh GHVN đủ sức để phục vụ Nước Trời và làm chứng cho Thiên Chúa trong một tình huống bi đát nhất.
Lạy Chúa, không có Chúa, chúng con hoàn toàn bất lực trước những vấn đề quá lớn của xã hội hôm nay. Xin cho chúng con can đảm nhìn nhận sự thật về chính mình và chu toàn sứ mệnh Chúa trao để kịp thời đáp ứng những nhu cầu khẩn thiết của thời đại. Amen.
————————————————
1. United States Conference of Catholic Bishops, National Directory for Catechesis 2005:26.
2. The New Jerome Biblical Commentary 1990:704.
3. ibid.
4. x. Life Application Study Bible 1991:1830.
5. x. Lời Chúa Cho Mọi Người 2005:345.
6. Summa Theologiae, Ia-IIae, qu. 77, art. 4, corp.
7. http://www.vietcatholic.net/News/Html/45841.htm

64. Suy niệm của Gp. Vĩnh Long
SUY NIỆM 1
Anh chị em thân mến.
Các khác du lịch đến thăm Trung Quốc, ai cũng muốn một lần chứng kiến kỳ quang thế giới, hiện đang tọa lạc trên đất nước đông dân nhất thế giới nầy. Đó là vạn lý trường thành. Công trình vĩ đại của vua Tần Thủy Hoàng đã lưu lại cho đến ngày nay, một công trình làm kinh ngạc cho cả thế giới. Tần Thủy Hoàng là một vị vua đã có công thống nhất đất nước, ông xây Vạn Lý Trường Thành để phòng thủ. Ông là một vị vua đầy quyền lực và giàu có. Ông cũng muốn dùng những gì mình đang có để tìm lấy sự sống cho chính mình. Ong đã tìm thuốc trường sinh bất tử, không ngại tốn kếm và cả sự tàn ác. Nhưng cuối cùng ông đành bất lực. Quyền thế trong tay không giúp gì được cho ông. Tiền bạc của cải cũng vô dụng. Ong phải từ giã cõi đời mà ông không muốn xa nó vào tuổi 52. Ông dường như có tất cả, nhưng ông không có được sự sống như ông mong muốn, nên ông cũng mất tất cả. Ong cũng là một người khôn ngoan, ông muốn đi tìm sự sống, nhưng tìm không đúng cách, nên ông không có được sự sống.
Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của cải ngươi tích trử, sẽ để lại cho ai?
Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ và những người thời bấy giờ về cuộc sống khôn hay dại. Người ta chạy đến với Ngài, không phải để nghe những lời giảng dạy, cũng không phải để đi theo Ngài. Nhưng muốn lôi kéo Ngài vào những lợi ích riêng tư của họ, lôi kéo Ngài vào những tranh chấp cá nhân. Họ quên rằng, Ngài là một Vì Thiên Chúa nên Ngài không bao giờ bị con người lôi kéo hay khống chế. Ngài mới cho họ bài giáo huấn về cuộc sống, về sự khôn dại trước mặt Thiên Chúa: Một người chỉ biết gom góp tích trử cho riêng mình, để rồi quá cậy dựa vào những gì mình có mà tự hào. Ngài gọi những người đó là: “Hỡi kẻ ngu dại,…” Chúa Giêsu cũng nói như thế với những người của ngày hôm nay, những người đang quý trọng mạng sống, những người đang tìm đến Ngài. Chúa Giêsu cũng muốn nói với từng người trong chúng ta, những người môn đệ thân thương của Ngài, những người đang hướng về cuộc sống đời đời. Ngài nhắc nhở chúng ta, lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa để cuộc sống được bảo đảm.
Chúng cũng đang lo cho cuộc sống, chúng ta cũng đang tìm sự bảo đảm cho tương lai, đang tích trử, đang thu gom. Có nhiều lúc cũng tự mãn về những gì mình đang có. Chúng ta cũng thường xuyên đến với Chúa. Nếu nhìn lại và suy nghĩ một chút, thường chúng ta đến để tìm những gì? Chúng ta nói gì với Chúa? Còn trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta không sống đúng với những gì mình cầu xin, chúng ta chỉ biết thu gom góp cho bản thân, tích trử cho thật nhiều, để rồi vui mừng, tự hào, an tâm. Khi đó Chúa Giêsu cũng lập lại:”Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của cải ngươi tích trử, sẽ để lại cho ai”.
Mỗi lần trong cuộc sống mà chúng ta biết ban phát cách tự nguyện, chịu mất đi một chút của cải, một chút sức lực, chịu thiệt thòi đi một chút những gì mình đang dự trử, đang thu gom. Đó là những lúc chúng ta đang mua lấy sự sống đời đời, đang làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Chúng ta cũng đang cố gắng để sống, đang dùng tất cả những gì mình có để phục vụ, để đi tìm sự sống. Nhưng chúng ta có đi đúng hướng để mua được sự sống đời đời. Hay chúng ta cũng đi sai đường như Tần Thủy Hoàng, nếu như thế, chúng ta cũng sẽ đi vào cõi hư vô mà bỏ lại tất cả, vì không tìm được sự sống đích thực.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho mỗi người biết năng chạy đến với Chúa và tìm được sự sống do chính Chúa tặng ban.
SUY NIỆM 2: ĐỪNG THAM LAM TIỀN CỦA
1. “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, kiếp phù hoa trông thấy nực cười” đó là cảm nghĩ của ông Nguyễn Công Trứ trước đời người ngắn ngủi, mau qua. Bài đọc I, Sách Giảng Viên từ hàng ngàn năm trước cũng đã cho ta thấy tính tạm bợ của vũ trụ vạn vật: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”(Gv 1,2). Vâng tất cả đều là phù vân, chóng qua, nay còn, mai mất! Vậy mà có những người sống như không bao giờ mình phải chết, chỉ lo tranh giành, tham lam thu tích tiền của và mọi thứ khác cho mình, mà không lo cho sự sống đời sau, là điều quan trọng hơn, Đức Giêsu đã cảnh giác những người sống như thế.
2. Trong đoạn Tin Mừng được chọn đọc hôm nay kể lại việc một người đến xin Đức Giêsu phân xử việc chia gia tài. Nhân đó Đức Giêsu nhắc nhở anh, cũng là nhắc nhở mọi người chúng ta đừng tham lam của cải bằng cách Người kể dụ ngôn người phú hộ. Qua đó cho thấy tiền của không thể là chỗ dựa vững chắc cho ta được. Ông phú hộ này xem ra là người thành đạt trong công việc làm ăn và biết lo xa; nhưng ông chỉ biết thu tích của cải cho mình mà không biết chia sẻ cho người khác. Cuối cùng ông chết trên đống của cải đó, mà nó chẳng giúp ích gì cho ông! Vì thế, Đức Giêsu xem ông là kẻ khờ dại: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”, rồi Người nói thêm “Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó”.
3. Chắn rằng Thiên Chúa không muốn con người phải sống nghèo khổ. Từ thưở ban đầu, tạo dựng, Thiên Chúa đã giao cho con người làm chủ vũ trụ, vạn vật và khai thác nó để phục vụ cho đời sống của con người (x. St 1,26.29). Thánh Vịnh 65 cũng cho ta thấy giàu sang là điều mà Thiên Chúa muốn cho con người:”Thăm trái đất, Ngài tuôn mưa móc, cho ngập tràn phú túc giàu sang…” (Tv 65,10). Ai trong chúng ta cũng dễ thấy rằng tiền bạc của cải, tuy không là trên hết, nhưng rất cần cho đời sống của con người. Thực ra của cải vật chất, tự nó không tốt mà cũng chẳng xấu, xấu tốt do ý hướng của người làm ra, sở hữu và sử dụng nó.
Đức Giêsu không chê trách người phú hộ kia vì ông ta có nhiều của cải. Mà trách ông ta chỉ biết lo thu tích của cải mà mà không nghĩ đến những giá trị khác cao hơn. Chúa trách ông không biết dùng của cải chóng qua để làm giàu trước mặt Thiên Chúa như làm phúc, bố thí… Đúng như một danh nhân đã nói “tiền bạc là người đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ xấu”. Biết làm ra của cải, tiền bạc cách chính đáng và dùng nó để làm sáng danh Chúa, giúp đỡ tha nhân và sử dụng cho những nhu cầu chính đáng của mình, thì nó trở thành người đầy tớ tốt. Còn ngược lại, khi nào ta bị của cải, tiền bạc chi phối đến đánh mất cả lương tri, thì nó trở thành ông chủ ác nghiệt. Đọc Kinh Thánh, bên cạnh những người giàu đáng chê trách, ta còn thấy không thiếu những người giàu biết dùng tiền của vào việc tông đồ, giúp người nghèo khổ (x. Lc 8,3; Cv 9,39), thật đáng khen.
4. Lên án người giàu mà không biết dùng của cải, tiền bạc làm ta cũng nhớ rằng người nghèo không hẳn là đương nhiên được vào Nước Trời! Giuđa Iscariốt xem ra bỏ nghề nghiệp, nhà cửa mọi sự để theo Chúa, nhưng mà không bỏ được lòng tham! Cho nên đã can tâm cả việc phản Thầy. Trong cuộc sống, không thiếu những người nghèo khổ nhưng lương tâm ham hố, keo kiệt sinh ra trộm cắp, làm những điều bất chính… Vậy Tin Mừng không nhằm kêu gọi người Kitô hữu phải sống trong cảnh nghèo khổ cho bằng thái độ không lệ thuộc đối với của cải, tức tinh thần nghèo khó. Chỉ ai có tinh thần nghèo khó thực sự thì mới có thể phục vụ Thiên Chúa và tha nhân tốt được.
5. Lo lắng về vật chất, tiền của cho bản thân, gia đình là bản tính tự nhiên của con người, nhất là trong thời buổi kinh tế thị trường, giá cả bất ổn. Nhưng đừng quên trước hết là hãy lo làm đẹp lòng Thiên Chúa, như chính Đức Giêsu đã dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho (Mt 6,33). Đức Giêsu cũng nhắc bảo chúng ta: “Các ngươi hãy coi chừng giữ mình tránh mọi thứ tham lam…” (Lc 12,15). Người muốn chúng ta không chỉ tránh tham lam về tiền của, mà còn tránh mọi sự tham lam khác như danh vọng, chức quyền… bởi vì tất cả đều là “phù vân” và nó không ích lợi gì cho mạng sống thật của chúng ta (x.Lc 9,25)
6. Hãy luôn trong tâm tình cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã cho chúng ta làm con người, hơn nữa được làm con Chúa và được mời gọi sống hạnh phúc với Ngài, đó là điều quý nhất. Giàu nghèo ở đời nầy chỉ là chóng qua, hãy cảm tạ Thiên Chúa nếu như Ngài thương ban cho gia đình chúng ta khá giả; nếu gia đình chúng ta còn nhiều khó khăn chúng ta đừng buồn mà hãy nhớ rằng chính Đức Giêsu đã sinh ra trong gia đình khó nghèo để cảm thông với người nghèo. Trên hết, xin Chúa giúp chúng ta dù giàu, dù đủ tiêu dùng hay nghèo túng, nhưng không bao giờ làm điều gì sai trái. Nhờ ơn Chúa giúp, chúng ta quyết không tham lam, không nô lệ cho tiền của, mà hãy biết dùng tiền của cách chính đáng, làm việc nghĩa chính là làm giàu trước mặt Thiên Chúa vậy.
SUY NIỆM 3: GIÀU CÓ ĐÍCH THẬT
Anh chị em thân mến,
Câu chuyện dụ ngôn của bài TM ngày chúa nhật hôm nay trình bày: một anh nhà giàu, chỉ biết thu tích tiền của vật chất; khi anh thấy mùa màn sắp tới đầy thắng lợi, anh bèn nghĩ ra cách xây thêm kho lẫm mới để dự trữ, xong rồi ông thấy của cải mình dư dật xài không hết, anh tự nhủ lòng: chà chà nay mình quá giàu rồi. Vậy từ nay cứ ăn uống vui chơi cho thỏa thích, không còn phải bận tâm gì nữa…. Nhưng Chúa bảo: này tên ngốc, ngay đêm nay, Chúa sẽ đến để đòi linh hồn anh. Vậy những gì bao lâu nay anh cố thu tích, sẽ để lại cho ai? Câu cuối cùng của bài Phúc âm là lời kết cho bài dụ ngôn này: “người nào thu tích của cải mình mà không làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận sẽ như thế đó.”
a/. Sức mạnh của đồng tiền: người ta thường nói: “Có tiền chán vạn kẻ theo, nghèotiền thì bạn cũng đòi bỏ đi..” hoặc: “đồng tiền liền khúc ruột” hay:
“Ghê thay mãnh lực bạc tiền, tưởng rằng hể có là tiên trên đời. Biết bao bài học ai ơi, Thân danh lụn bại tiếng đời buốn thay!” Câu nói chơi: “Tiền là Tiên là Phật, là sức bậc của con người, là nụ cười của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà cho danh vọng, là cái lộng cho tương lại…”
Đồng tiền có sức hút mê hoặc như thế, nên người ta cũng nói: “Tiền là tên đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu”. Khi người ta sữ dụng đồng tiền để phục vụ con người, nó là phương tiện tối hảo, nhưng khi con người nô lệ nó, coi nó là ông chủ, thì đồng tiền sẽ trở nên vô cùng xấu xa. Hiểu rõ như thế nên Chúa Giêsu cảnh giác các môn đệ: đừng để mình thành nô lệ của tiền bạc. Chúa không cấm các ông sử dụng tiền của. Nhưng rõ ràng, Người muốn họ thoát khỏi nanh vuốt của bạc tiền: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được…” Chính bài dụ ngôn hôm nay cho ta hiểu rõ điều đó.
b/. Một câu chuyện: Một thanh niên nọ tình cờ nhặt được một đồng đô la bằng bạc trên đường đi, thế là từ đó, khi ra đường, anh đều cúi xuống nhìn dưới đất tìm kiếm, không nhìn lên trời nữa. Kết quả là sau 30 năm, anh nhặt được: 3 đô la rưởi tiền bằng bạc – 37 đồng nửa đô la bằng đồng – 18.400 nút áo đủ cở – 14.600 đinh óc – kim may, kim gút đủ loại. Kết quả đó đổi lại bằng cái tật khòm lưng – tâm trạng bi quan và tính khí khó thương – kể cả đôi mắt anh không hề nhìn lên bầu trời xanh, hay nhìn chung quanh ngắm cỏ cây xinh đẹp, cảnh trí hùng vĩ của sông nước… Chính lòng ham mê của cải đã giết chết con người của anh ta… Bài dụ ngôn trong Phúc âm hôm nay, giống y câu chuyện trên đây. Chúa đưa ra một giáo huấn về tính phù du, về tiền của và cả tính mạng con người nữa. Chúa cũng phân định rõ ràng: Trước hết phải lo tìm kiếm Nước TC trước đã, phải biết sáng suốt lo thu tích của cải trên Nước Trời. Anh nhà giàu chỉ biết thu tích của cải trần gian, không lo làm giàu của cải thiêng liêng, nên khi Chúa kêu phải ra trước tòa Chúa, anh ta đã chưa sẵn sàng gì cả.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Tiền bạc thực ra cũng cần phải có để sống, nhưng không phải cần thiết nhất. Mấy ai hiểu được điều này? Nếu đã hiểu, người ta sẽ không bỏ cả ngày giờ, sức khỏe, để chỉ lo tìm nó. Người ta vẫn biết của cải sẽ không theo mình qua thế giới bên kia, nhưng họ vẫn khư khư bám vào của cải. Tại sao thế? Vì người ta nghỉ rằng mình không phải chết, hoặc vì không tin có sự sống đời sau, có thưởng có phạt, hoặc vì biết, nhưng họ làm ngơ giả điếc, như không hiểu gì. Bài Tin Mừng hôm nay là một bài học thấm thía cho những người đó. Chúng ta nên thường đọc đi đọc lại câu nói của chúa Giêsu: “ Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì của cải ngươi có sẽ để lại cho ai?

65. Đừng thu tích của cải
(Chú giải của Học viện Piô Giáo hoàng)
1. Luật Môisen đã qui định luật thừa kế của người Do thái. Theo giả thiết dân quê, người anh cả thừa kế 2/3 gia tài (Đnl 21,17), với điều kiện để phần còn lại cho anh em khác. Trong trường hợp người ta đem đến Chúa Giêsu, hình như người anh cả chẳng chịu nhường chi cả. Vì quyền thừa kế bị luật pháp chi phối, nên các thầy thông thái và các nhà chuyên môn về luật thường sẵn sàng góp ý kiến và quyết định. Anh chàng kia tìm gặp Chúa Giêsu, như một nhà tiến sĩ luật để xin phân định về vấn đề thừa kế và dùng uy tín gây áp lực với người anh bất công. Vì Ngài được coi như một tiến sĩ luật nổi danh, nói và làm cách uy quyền. Khi dân chúng tìm đến Chúa Giêsu để trình bày những xấu xa của thân thể và tâm hồn mình, họ thấy Ngài luôn giúp đỡ mình, nhưng khi anh chàng kia đến trình bày công việc thừa kế thì Ngài lại từ chối. Tại sao?
Chúa Giêsu từ chối làm quan án cho bất cứ ai. Dĩ nhiên, Ngài không chấp nhận sự bóc lột, cướp đoạt như thế. Nhưng những lời Ngài sắp nói là những lời tố giác sự nguy hiểm giàu sang, có giá trị đối với mọi người, đối với người bóc lột cũng như người bị bóc lột và nhất là đối với người bóc lột. Vì Chúa Giêsu không đến gây chia rẽ, để vạch lá tìm sâu như những bậc thày trần gian thường làm, Ngài không đến để tu chỉnh một số bất công nhưng để giải phóng con người và trước tiên giải phóng con người khỏi người ràng buộc của chính mình. Ngài không đến để lên án, nhưng để tự cho con người lên án. Không để xử án, nhưng để con người tự xét xử, để rồi tự mỗi người khám phá ra điều bất chính của mình và dốc quyết từ bỏ.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu muốn có công bình và ít kẻ trộm cướp, bóc lột. Nhưng Ngài sẽ không bao giờ bắt nạt ai bằng thế lực hay bằng sức mạnh quyền uy của Ngài. Ngài chỉ có thể và chỉ muốn khuyên bảo dạy dỗ. Khuyên bảo để người ta được giải phóng và được công bình. Vì thế dụ ngôn này là một lời răn bảo, dạy ta không nên đồng hóa cuộc sống mình với của cải, đừng an tâm cậy dựa vào một vật gì khác ngoài một mình Thiên Chúa.
2. Lý do Chúa Giêsu đưa ra để cảnh giác chống lại tính tham lam là: dù rất giàu có, cuộc sống con người không tùy thuộc vào của cải. Thật là điên rồ, người giàu nào tưởng tượng rằng của cải trần gian là một bảo đảm chống lại sự chết, rằng ông ta có thể thu xếp đời mình không tùy thuộc vào tư tưởng chết chóc, như thể Thiên Chúa không phải là chủ để gọi ông đúng giờ theo ý muốn toàn năng của Ngài. Những của cải trần gian không thể kéo dài cuộc sống, dù chỉ kéo dài trong chốc lát, ngoài kỳ hạn Thiên Chúa đã định và cái chết bất ngờ chia lìa chúng ta.
Nhưng dụ ngôn còn có một bài học khác: nếu ngụp lặn trong sự giàu sang, hy vọng sống lâu hạnh phúc là một điều điên rồ, thì cũng điên rồ không kém chi cho rằng giàu có là để hưởng thụ cho riêng mình. Đáng ra Lc trích dẫn 2 cách áp dụng vào phần cuối dụ ngôn, nhưng ông đã đưa ra một áp dụng trong phần nhập đề (c.15) và trong phần kết luận (c.21). Do đó dụ ngôn dạy hai bài học: giàu sang phú quí không giúp cho sống lâu trường thọ, và khi thu tích cho riêng mình, người ta chẳng thu tích được gì. Nhưng phải nhìn nhận như nhiều nhà chú giải bài học thứ hai này không mấy ăn khớp với dụ ngôn: vì dụ ngôn ít nói đến vấn đề dùng của cải (dĩ nhiên người giàu ấy không nhắm đến những tiêu xài ích kỷ, nhưng người ta không nhấn mạnh đến khía cạnh ấy), mà nói đến quan niệm về sự giàu sang như là một thứ bảo đảm tuyệt đối chống lại sự chết. Theo quan niệm ấy, câu kết luận của dụ ngôn thật ra đã nằm ở câu nhập đề rồi (c.15 và câu 21 chỉ làm rộng nghĩa câu kết, bao hàm bài học về việc dùng của cải).
KẾT LUẬN
Dùng của cải một cách ích kỷ thì nhất định phải mất mát. Để được giàu có đích thực, phải biết ký thác tiền bạc mình vào ngân hàng của TC, bằng cách ban phát bố thí dưới mọi hình thức. Vì, chính tiền bạc không thể kéo dài cuộc sống trần thế thêm một giây. Người ta chết bất đắc kỳ tử và phải để tiền bạc lại cho kẻ khác. Có điên rồ mới bám víu vào tiền bạc để mưu tìm hạnh phúc cho mình trong cuộc đời này thôi. Những gì mình có thể tích lũy là hạnh phúc của cuộc sống bên kia, nhưng với điều kiện là chia sẻ cho kẻ không có gì.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Ttrong bài phúc âm này, Chúa Giêsu không chịu làm trọng tài phán xử việc thừa kế, không phải vì vấn đề công bằng (justice distributive) không quan trọng, nhưng vì nghĩ vấn đề ấy không tìm thấy được giải đáp đích đáng ở trong lề luật. Chúa Giêsu có ý vượt quá tư tưởng bách phân đơn giản kia (2 phần gia tài trao cho người anh cả, một phần trao cho người em út), quân bình kinh tế, thực thi đúng những qui ước của luật pháp … Ngài có ý đưa ra môt giải pháp căn bản cho mọi vấn nạn thuộc bình diện trần thế bằng cách dò thấu tận đáy lòng người là nơi phát sinh “những dự định xấu xa, giết người, trộm cắp, chứng gian, phỉ báng” (Mt 15,19). Ở đây, giải pháp của Chúa Giêsu là lột trần nơi anh em lòng tham của cải, vì lòng tham là nguồn mạch chia rẽ. Nếu con tim được giải phóng khỏi lòng tham thì không cần đến lề luật bên ngoài, cải vả, thưa kiện nữa; vì các điều ấy mà Chúa Giêsu không để mình bị lôi kéo vào phạm vi luật pháp là phạm vi không thể giải quyết thỏa đáng những vấn đề gây chia rẽ giữa người với người.
2. Không những Chúa Giêsu tấn công tận cơ sở vấn đề người ta trình bày cho Ngài, bằng cách cảnh giác họ đừng tham lam, nhưng Ngài còn cho thấy, tại sao con người không có lý do xác đáng nào để tự bảo vệ mình nhờ của cải: tiền bạc không phải là thứ vững bền ta có thể bám víu vào cách an toàn. Không môt thứ của cải vật chất nào có thể bảo đảm an toàn cho chúng ta trong cuộc sống này, vì chính cuộc sống cũng có thể bị cất khỏi chúng ta trong nháy mắt. Vậy thật là điên rồ khi tìm sự an toàn trong cái dễ hư mất.
3. Và Chúa Giêsu kết luận: nếu của cải bất lực trong việc tạo hạnh phúc cho ta, không thể cho ta sống lâu trường thọ, thì cách tốt nhất là hãy sử dụng và biến chúng trở nên những của cải trường tồn đem ký thác ở ngân hàng Thiên Chúa để sinh lời, bằng cách dùng chúng để phục vụ tha nhân.
4. Tiền bạc, tự nó không tốt không xấu. Nó chỉ là phương tiện, một khí cụ, một đồ dùng, như con dao chẳng hạn. Cái làm cho nó tốt hay xấu chính là sự xử dụng. Con dao có thể giúp người mẹ dùng để sửa soạn hay giúp bác sĩ giải phẫu cứu sống bệnh nhân nhưng cũng có thể dùng để sát nhân. Tiền bạc cũng thế, cái bị lên án trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, là lòng tin tưởng quá đáng vào tiền bạc và việc người giàu có xử dụng tiền bạc cách quá ích kỷ. Nếu được dùng để mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân, tiền bạc có thể là một phương tiện làm cho ta trở nên vĩ đại trước mặt Chúa và nhờ đó được sống muôn đời.

66. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI CỦA CẢI ĐỜI NÀY
Sau khi Chúa Giêsu nói chuyện riêng với các môn đệ, đám đông nhắc đến sự hiện diện của Ngài (xc.1). Tiếp theo một lời thỉnh cầu, Chúa Giêsu cho biết thái độ phải có đối với của cải đời này, trong khi đề phòng thính giả khỏi mọi thứ tham lam (c.13,21). Tiếp theo là một cuộc nói chuyện riêng lần thứ hai với các môn đệ kéo dài tới 12, 53. Đề tài thứ nhất kéo dài giáo huấn cho đám đông nhưng nhấn mạnh vào một điểm khác: từ lòng tham lam Chúa Giêsu nói đến sự lo lắng cho ngày mai (cc.22-34) –một tình cảm ăn rễ sâu trong con người.
Nói với dân chúng: Giữ mình khỏi mọi thứ tham lam
Một người xin Chúa Giêsu can thiệp giúp trong vấn đề chia gia tài. Anh ta gõ lầm cửa rồi, vì Chúa Giêsu đâu phải là một Kinh sư như các vị khác mà vai trò chính là để lo những công việc luật pháp. Nhiệm vụ của Chúa Giêsu là loan báo Tin Mừng của Vương Quốc và kêu gọi người ta hoán cải; như vậy nhiệm vụ đó tác động tới tận gốc rễ của việc tranh chấp giữa hai anh em (cc.13-15); cho nên Ngài từ chối đóng vai trò mà người kia yêu cầu, rồi Ngài nói với đám đông. Vượt quá sự nhắc nhở của Lề Luật (“Ngươi không được thèm muốn nhà của người bên cạnh” Xh 20,17), đó là một cảnh giác chống lại mọi tham lam vô độ muốn chiếm hữu thêm hay là chiếm hữu hơn cả cái cần dùng. Một câu ngạn ngữ đưa ra lý do: của cải vật chất không cho ta được một sự an toàn đích thực; cuộc sống không được đảm bảo bởi có dư dật của cải (x. đã có ở 9, 25). Người ta sẽ hiểu rằng từ chối xử kiện hay chia gia tài không có nghĩa là Ngài chấp nhận trên thực tế một sự bất công.
Dụ ngôn về người phú hộ ngu ngốc là một minh hoạ cho điều này (cc. 16-21). Là địa chủ, ông quyết định nới rộng kho lẫm để chứa hoa màu thu bội và như vậy có thể dự trữ cho riêng ông, và ông có thể nghỉ ngơi một cách an toàn trong nhiều năm. Vậy thì ông sẽ phá những kho lẫm cũ quá nhỏ bé, nhưng có thể là rất hữu dụng cho người khác… Hoàn toàn hướng về một thực hiện ích kỷ chỉ nhắm vào đời sống hiện tại, ông ta không quan tâm đến cái chết, cái chết của chính ông, trong khi giải quyết vấn đề của ông. Trong việc đó, ông ta tỏ ra ngu ngốc, bởi vì Thiên Chúa, chủ tể sự sống, sẽ thu hồi sự sống của ông, ngay trong đêm đó; con người này đã thiếu khôn ngoan khi không tìm kiếm cho mình một hạnh phúc vững bền. Ở câu 21, phần áp dụng dụ ngôn cảnh giác ta về một thái độ ích kỷ như thế (thu tích của cải cho mình). Thực ra, phải làm giàu trước mặt Thiên Chúa; tuy còn một ít khó hiểu, bài học này sẽ được làm sáng tỏ một cách đầy đủ bởi kết luận của toàn bộ phần khai triển ở câu 33-34.

67. Chú giải của Noel Quesson
Có người trong đám đông nói với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”
Đây là một vấn đề cụ thể, hiện thực luôn luôn mang tính thời sự. Hỡi ơi! Anh em xung đột nhau trong lúc chia gia tài là chuyện thường thấy!
Để hiểu câu trả lời của Đức Giêsu, phải biết luật pháp thời đó. Theo luật Do Thái (Đnl 21,17), trong việc thừa kế, người con trai cả được hưởng trọn phần di sản nếu là bất động sản nghĩa là đất đai và nhà cửa. Và người con trai cả ấy cũng nhận được, theo luật pháp quy định, phần gấp đôi các động sản. Chỉ có các con trai mới được quyền hưởng di sản. Luật pháp này chung cho toàn bộ Đông Phương cổ đại, và nhiều nền văn minh trong dòng lịch sử; luật ấy muốn gìn giữ di sản của gia tộc với việc lập nên “người gia trưởng” được hưởng đặc quyền: Đó là quyền con trưởng. Đức Giêsu đối diện với điều đó. Vậy hoàn cảnh xem ra đúng nhất có lẽ là một người “con trưởng” đã chiếm hết mọi tài sản và từ chối trả lại cho người em phần nhỏ bé mà người này được hưởng. Ngày nay trong giới Do Thái, người ta thường yêu cầu một giáo trưởng. Do Thái giáo danh tiếng đứng làm trọng tài trong các vấn đề về Luật.
Chính trong bối cảnh rõ ràng đó, người ấy đã cầu cứu uy tín đạo đức của Đức Giêsu. Đối với mọi người, câu trả lời chắc hẳn sẽ sáng tỏ và rõ ràng; phải nói với người anh ấy chia lại cho người em, đó là công lý đơn giản? Đó cũng là chính lộ xuyên suốt, Tin Mừng mà Đức Giêsu đã nhiều lần lặp lại: Anh em hãy yêu thương lẫn nhau… Vả lại, câu trả lời của Đức Giêsu làm người ta ngạc nhiên.
Người đáp: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?
Vậy là một lời từ chối. Đức Giêsu tránh né. Trước một sự bất công lộ liễu, Đức Giêsu từ khước xem xét trường hợp đó là dường như không muốn quan tâm đến. Thật là quá đáng. Điều đó đi ngược lại với toàn bộ Tin Mừng, với mọi lời hướng dẫn của Giáo hội và với cả lương tâm đơn giản và sơ đẳng của con người. Người Kitô hữu không nên làm mọi việc để chấm dứt những bất công của thế giới này đó sao? Phải chăng Kitô hữu có quyền thờ ơ những công việc trần thế để chỉ nghĩ đến Thiên đàng? Vậy phải hiểu sự từ chối này. Có thể có nhiều lời giải thích và có lẽ chúng bổ túc cho nhau:
1. Theo Tin Mừng của Luca, Đức Giêsu đang trên đường đi lên Giêrusalem tức thành phố nơi Người sẽ chết trong vài ngày nữa: Thầy “giáo trưởng” trẻ này còn có nhiều ưu tư khác trong đầu hơn là những cuộc tranh cãi phù du ấy, mà sau cùng cũng được giải quyết ổn thỏa không ngày này thì ngày khác.
2. Với tâm thức cá nhân rất đông phương, Đức Giêsu thường trả lời bằng một “ẩn ngữ”, một “số ý lộn xộn” để làm cho người ta phải suy nghĩ. Thông thường, chúng ta thấy Đức Giêsu đưa ra một câu nghịch lý và gần như thái quá trong lời Người. Người trả lời một câu hỏi người ta đặt ra bằng cách đặt một câu hỏi khác. Tính cách này, Đức Giêsu đã có từ khi còn rất trẻ: Lúc mười hai tuổi, Người trả lời cho mẹ Người một cách bí hiểm. “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy?”. Đó là lúc cậu bé Giêsu trốn ở lại Đền Thờ đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con?” Trong nhiều dịp, Đức Giêsu dường như không đáp lại: đó là phương cách tốt nhất của “người bị hiểu lầm”, thường gặp trong các cuộc tranh cãi giữa Đức Giêsu với giới trí thức Do Thái giáo, theo thánh Gioan, có sự chênh lệch, Người nói về các sự việc khác mặc dù cũng dùng những từ ngữ ấy.
Phải đọc lại những câu từ chối bên ngoài của Đức Giêsu. Những câu nói ấy không phải tình cờ. Ở Cana, Người dường như từ chối mẹ ruột Người, phép lạ đầu tiên (Ga 2,3-4) Người nói rằng Người không lên Giêrusalem “một cách công khai”, dù vậy Người cũng lên (Ga 7,3-6) Với các con trai của ông Dêbêđê đã xin được “ngồi bên hữu và bên tả trong Nước Người”, thì Người hỏi họ có uống nổi chén Người sắp uống không (Mt 20,23). Người từ chối nói Ngày quang lâm đồng thời khẳng định rằng Người không biết bởi vì “chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi” (Mt 24,36).
Khi các người Do Thái xin Người các “dấu chỉ”, Người từ chối nói rằng Người chỉ cho họ dấu lạ của ngôn sứ Giôna (Mt 16,1.4-12.38-40). Vậy ở đây cũng thế, từ chối can thiệp vào vấn đề chia di sản không nhất thiết có nghĩa là Đức Giêsu không quan tâm đến: Đã hẳn, diễn tiến của câu chuyện sẽ đem lại cho chúng ta tư tưởng sâu sắc của Người.
3. Chính Đức Giêsu đã nêu ra lý do có khả năng đúng nhất của sự “từ chối” việc can thiệp đó trong một câu hỏi: “Ai đã đặt tôi làm người xử kiện?”. Phải, qua đó Người nói rằng những việc trần thế, hoặc tiền bạc ấy không phải là vai trò và sứ mạng của Người. Con người luôn bị cánh dỗ tìm kiếm trong Tin Mừng một thứ bảo hiểm, một sự thánh thiêng hóa các chọn lựa trần tục: Sáp nhập Tin Mừng vào phe mình, vào các lợi ích của mình. Đức Giêsu từ chối sự lẫn lộn ấy. Người từ chối đặt mình vào vị trí của chúng ta. Trút trách nhiệm của chúng ta qua người khác, hoặc tìm một giải pháp có sẵn là việc quá dễ dàng.
Trong chiều hướng đó, Công đồng Vatican II đã không ngừng đưa giáo dân về với ý thức và năng lực của riêng họ: “Giáo dân hãy mong đợi ánh sáng và sức mạnh tinh thần nơi các linh mục. Tuy nhiên họ đừng vì thế mà nghĩ rằng: Các chủ chăn có đủ thẩm quyền chuyên môn để có thể có ngay một giải pháp cụ thể cho mọi vấn đề xảy ra, kể cả những vấn đề quan trọng” (G.S. 43). Đức Giêsu đã làm điều đó. Người trả vấn đề thừa hưởng di sản cho sự xét xử của cấp thẩm quyền.
Và Người nói với họ: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”.
Sự từ chối của Đức Giêsu, không trực tiếp đảm nhận một nhiệm vụ trần thế, do đó không có nghĩa Người không có gì để nói về các vấn đề trần thế. Đức Giêsu sẽ nhắc lại một lý tưởng cũng là một nguyên tắc chủ yếu. Vai trò của Người thuộc bình diện này và có tính chính trị theo ý nghĩa sâu xa của từ này; nghĩa là sứ mệnh và sứ điệp của Đức Giêsu liên quan đến đời sống của thành đô trần thế. Giáo Hội cũng như Đức Giêsu không trung lập Giáo Hội có bổn phận phải chuyển giao một sứ điệp, phải đưa ra các phán đoán về những công việc thế trần nhưng đồng thời phải để cho các quan tòa, các thẩm phán, những người phụ trách thế tục trách nhiệm áp dụng cụ thể sứ điệp của Giáo Hội.
Nguyên tắc mà Đức Giêsu khẳng định ở đây là phần trách nhiệm của Người, sứ giả của Thiên Chúa. Các ông không nên lẫn lộn mục đích! Thành đô trần thế không có mục đích tạo ra và tiêu thụ tối đa của cải! Không, điều chủ yếu không phải là phục vụ tiền bạc và lợi nhuận, mà là phục vụ “con người”!. Chính “sự sống con người” đứng đầu chớ không phải của cải! Và sự sống này không phụ thuộc vào của cải? Đức Giêsu sẽ làm sáng tỏ tư tưởng của Người khi kể lại một dụ ngôn, đầy sự ngẫu hứng để chế giễu nhấn mạnh đến những lối lo toan của một ông phú hộ.
Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này: “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: ‘Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!’ Rồi ông ta tự bảo: ‘Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!
Người đọc ‘kinh tin kính’ của một tay duy vật hoàn hảo: đức tin dựa vào hạnh phúc do vật chất mang lại? Đức Giêsu lên án ông ta, nhấn mạnh vào tính ích kỷ của ông ta dẫu sao cũng còn được cái chân thật: “Tôi… Tôi… Tôi… Mình… Mình… Mình sẽ làm… mình sẽ phá… mình sẽ xây mùa màng của mình; của cải của mình… kho lẫm của mình… thóc lúa của mình… chính bản thân mình…”.
Nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi! Từ ngữ Hy Lạp dùng ở đây cũng là từ mà Luca sẽ dùng chỉ bữa tiệc tiếp đãi của “đứa con hoang đàng” (Lc 15,23). Phải, Đức Giêsu đã biết xung quanh Người các “tiệc tùng”, ở đó người ta “tiêu tiền như nước” “ăn uống no say” cùng với tiếng đàn, tiếng hát.
Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: ‘Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?
Điên dại! Mọi tính toán của ông phú hộ sai lầm một cách thảm hại. Ông ta nhầm lẫn hoàn toàn: Sự giàu sang không mang lại hạnh phúc. Không có mối liên hệ giữa việc có nhiều của cải trần thế và sự an toàn chân thật. Sự sống của một con người không phụ thuộc vào những của cải của người ấy. Tiền bạc không mua được thời gian! Kinh Thánh không ngừng đặt đối lập kẻ điên dại “nabal” với người khôn ngoan “maskil”. Đức Giêsu cũng khẳng định rằng không biết nhận ra của cải chân thật, ý nghĩa đích thực của đời sống quả là thiếu khôn ngoan. “Điên”, năm thiếu nữ khờ khạo không mang theo dầu dự phòng cho đèn mình trong đêm chờ đón Tân Lang (Mi 25,2). “Điên”, những người đồng thời với Đức Giêsu không biết đọc ra những “dấu chỉ của thời đại” (Lc 12,56). “Dại” người mù để cho người mù khác dẫn đường là liều mình “rơi xuống hố” (Lc 6,39). “Điên” ông nhà giàu giới hạn tầm nhìn của mình vào đất đai, mùa màng, kho lẫm, cái bụng của mình.
Và đây là lý do sâu xa (cũng là lý do thứ tư) khiến Đức Giêsu từ chối can thiệp vào những công việc trần thế một cách tức thời và trực tiếp: Một cách mạnh mẽ và khó nghe; Người khẳng định rằng “đời sống” con người không hoàn tất ở trần gian này. Sứ điệp chủ yếu, sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu là đây: Phần chính yếu của đời sống, rất hay bị quên lãng thì to lớn vô cùng so với sự hạn hẹp cố chấp của chủ nghĩa duy vật. Còn, Đức Giêsu -người sắp chết trong ít ngày nữa- không muốn làm giàu cho một người, dù đó là quyền lợi chính đáng của anh ta: việc chia gia tài ấy không phải là điều tốt lành đích thực cho anh ta. Chúng ta phải thành thật thú nhận rằng một cách tự phát, chúng ta suy nghĩ ngược lại với Đức Giêsu. Tuy nhiên, có một tiếng nói nhỏ trong chúng ta nói với chúng ta: Người có lý. Người biết rõ điều Người nói.
Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó
Chúng ta chớ hiểu sai tư tưởng của Chúa. Sự giàu sang tự nó không là điều xấu. Tiền bạc có thể trở nên tốt nếu nó không chỉ “vì mình” (Lc 12,33-34).

68. Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long
MỨC ĐỘ CỦA ĐỜI SỐNG NHƯ LÀ GIÁ TRỊ LỚN NHẤT
Của cải sở hữu không phải là giá trị cao nhất, khiến ta phải hy sinh mọi sự để có cho bằng được. Đức Giêsu sẽ minh họa điểm này bằng dụ ngôn Ông phú hộ.
1.- NGỮ CẢNH
Những lời Đức Giêsu ngỏ với các môn đệ trước mặt một đám đông (12,1-12.22-34) bị cắt ngang bởi lời thỉnh cầu của một người trong đám đông để xin Đức Giêsu can thiệp vào một vụ tranh tụng giữa anh ta và người anh liên hệ đến chuyện gia tài (12,13-15). Sự cố này lại là dịp để Đức Giêsu kể Dụ ngôn Ông phú hộ (cc. 16-21). Như thế, đề tài chuyển đi từ những lời nói về việc thụ hưởng cho bản thân đến những thái độ đối với của cải trần thế (12,13-34): “Phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam” (c. 15). Bài dụ ngôn tiếp theo có thể được coi như một bài bình luận cho câu nói của Đức Giêsu về sự tham lam (c. 15).
2.- BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Một vụ kiện (12,13-15);
2) Dụ ngôn Ông phú hộ (12,16-20);
3) Nhận định kết luận của Đức Giêsu (12,21).
3.- VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
– Thưa Thầy (13): Bởi vì vấn đề chia gia tài được bàn đến trong Bộ Ngũ Thư (chẳng hạn Đnl 21,15-17; Ds 27,1-11; 36,7-9), một vị tôn sư về đạo giáo hoặc một kinh sư là những con người thích hợp để tham vấn.
– Này anh (14): Dịch sát là “này người” (hô-cách của anthrôpos, “người”; x. 5,20). Từ này thường được dùng theo dạng này để từ chối, hay diễn tả sự dè dặt.
– tham lam (15): Từ Hy-lạp pleonexia thường có trong những đoạn văn khuyến thiện của Tân Ước (Rm 1,29; 2 Cr 9,5; Cl 3,5; Ep 4,19; 5,3; 2 Pr 2,3.14). Đây là sự ham muốn có thêm nữa, quá mức cần thiết (x. 1 Tm 6,10).
– Thiên Chúa bảo ông ta (20): nghĩa là trong một giấc mơ ban đêm. Ông này được chính vị Chúa tể của sự sống ngỏ lời với, trong khi ông sắp xếp chương trình sống không có Ngài.
– ngốc (20): Từ hy-ngữ aphrôn có nghĩa là “kẻ mất trí, ngu dốt, ngu ngốc, điên, rồ dại” (x. 11,40).
– người ta sẽ đòi lại mạng ngươi (20): Động từ aitousin ở ngôi thứ ba vô định số phức tương đương với một thái bị động thay tên Thiên Chúa: “Thiên Chúa sẽ đòi lại mạng ngươi”.
– cho mình (21): nghĩa là không phải cho người khác, như người nghèo, quả phụ, trẻ mồ côi, người ngụ cư (x. Đnl 24,17-22; 2 Cr 6,10b).
4.- Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Một vụ kiện (13-15)
Đức Giêsu lấy khởi điểm để giáo huấn là một vụ kiện về vấn đề chia gia tài. Rất có thể đây là một người em trong gia đình không đồng ý với cách quản lý và thụ hưởng chung gia tài, nên muốn có phần của mình để dùng theo cách độc lập. Trong những vụ tranh cãi như thế, người ta thường đến gặp các kinh sư, để xin soi sáng vấn đề. Đức Giêsu dứt khoát từ chối can thiệp. Yêu cầu của người ấy và yêu cầu của Đức Giêsu ở trên hai bình diện khác nhau. Người ấy thì muốn có một phần sở hữu độc lập. Đức Giêsu thì dựa vào đó để nói về tương quan của con người với của cải. Chính các tranh chấp về gia tài thường đưa ra ánh sáng một liên hệ chặt chẽ với sở hữu và thường đưa đến những mối thù nghịch kéo dài suốt đời. Điều này có lẽ khiến chúng ta hiểu vì sao ở đây Đức Giêsu khuyến cáo chống lại lòng tham lam mạnh mẽ đến thế. Của cải sở hữu không phải là giá trị cao nhất, khiến ta phải hy sinh mọi sự để có cho bằng được. Đức Giêsu sẽ minh họa điểm này bằng dụ ngôn tiếp theo.
* Dụ ngôn Ông phú hộ (16-21)
Với dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng giá trị của các của cải trần thế rất nhỏ bé, nên bám víu vào đó là một tính toán sai lầm.
Theo một quan niệm nào đó về cuộc sống, hoàn cảnh Đức Giêsu phác ra có thể coi là lý tưởng. Con người này giàu có. Không hề có nguy cơ là của cải của ông sẽ giảm thiểu đi, bởi vì ông đang nhắm tới một vụ thu hoạch dồi dào. Vấn đề duy nhất ông đặt ra là: “‘Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!”. Đây là một vấn đề cũng dễ giải quyết. Như thế, ông này có trong tay các phương tiện để sống một cuộc sống không phải bận tâm lo lắng; ông có thể tự do sống theo ý thích, trong sự sung túc.
Đức Giêsu mô tả là Thiên Chúa và cái chết sẽ ập vào cuộc đời ấy như thế nào. Cái chết đột ngột đảo lộn tất cả các toan tính nhắm thụ hưởng an toàn trong nhiều năm trời. Tất cả những gì đã thu tích được và tất cả những gì người ta đã dự phóng cách hợp lý trở thành vô giá trị. Đức Giêsu cho biết rằng một cuộc sống chỉ dành cho chuyện ăn uống và hưởng thụ tiện ích thì chẳng có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Một người sống như thế thì không giàu có trước mặt Thiên Chúa. Đức Giêsu khẳng định rằng để đạt được sự sống đời đời, cần có tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận (10,25-37). Chỉ nhờ đi trên nẻo đường này, người ta mới trở thành giàu có trước nhan Thiên Chúa.
* Nhận định kết luận của Đức Giêsu (21)
Câu kết luận của Đức Giêsu cho hiểu rằng có lẽ đời sống trần thế tùy thuộc các của cải trần thế, nhưng đời sống này không được đảm bảo hay đạt được mức thành toàn nhờ các của cải ấy. Chúng ta phải nhận được sự thành toàn cuộc đời chúng ta từ lòng nhân lành của Thiên Chúa.
+ KẾT LUẬN
Đức Giêsu không quan tâm đến những điểm tranh luận phụ thuộc; Người chỉ cứu xét những câu hỏi lớn liên quan đến sự sống: đâu là điều quan trọng nhất? Ta có thể tín nhiệm vào điều gì? Điều gì ta phải tìm cách đạt cho được? Ta phải sử dụng cuộc sống và dấn thân thế nào để đạt được mục tiêu cuộc đời? Đức Giêsu nói rõ ràng các của cải vật chất không thể đảm bảo cho cuộc sống và sự sung túc, thoải mái, không thể là nội dung của cuộc sống được. Sự thành toàn chỉ được một mình Thiên Chúa ban cho mà thôi. Vậy trong cuộc sống này, chúng ta có thể và phải tính sổ với Thiên Chúa. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình trước mặt Ngài.
5.- GỢI Ý SUY NIỆM
1. Vấn đề thu hoạch dồi dào đến nỗi người ta không biết để của cải ở đâu đã trở thành phổ biến, vào thời đại hôm nay. Mỗi người cần phải tự hỏi theo ý mình, thế nào là cuộc sống lý tưởng, mình vận dụng sức lực cho chuyẹn gì, nếu lại không phải là “mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!”. Ở bên ngoài các giá trị này, còn những giá trị và mục tiêu nào có thể nên được nhắc đến?
2. Cái chết “phá rối”, ai cũng biết. Người ta tìm mọi cách để đối xử với nó. Người ta cản bước nó tối đa bằng các cách tri liệu y khoa. Người ta ít nghĩ tới nó chừng nào tốt chừng đó. Người ta tránh để cho lòng mình bị xúc động trước cái chết của người khác. Dĩ nhiên người ta vẫn không tránh được cái chết. Do đó, người ta phải khai thác tối đa thời gian của cuộc sống được ban cho ta. Cũng phức tạp, nhưng cách nào đó, người ta có thể “đạt thắng lợi” trên cái chết. Nhưng làm thế nào đạt thắng lợi trên vị Thiên Chúa “phá rối”? Người ta cũng tìm cách tránh xa Ngài, quên Ngài đi. Người ta có thể không nói đến Ngài nữa và sống y như thể không có Ngài. Tuy thế, người ta không thể tránh né Ngài kiểu tiêu cực. Phải sống làm sao để cuộc sống của mình có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Người nào chỉ sống cho những nhu cầu riêng và những đòi hỏi vật chất, thì đã chết trong cuộc đời này rồi, vì bị cô lập trong tính ích kỷ của mình. Tình trạng cô lập này trở nên trọn vẹn và được xác nhận bằng cái chết.
3. Cuộc sống viên mãn chỉ hệ tại tình yêu. Chỉ cuộc sống nào nhắm đến tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân thì mới là cuộc sống trung thực. Chỉ một cuộc sống như thế mới có thể được Thiên Chúa chuẩn nhận và được Ngài đưa đến chỗ thành toàn với ân ban là sự sống đời đời. Chúng ta đã nhận đời sống từ Đấng Tạo hóa, thì chúng ta cũng phải nhận cả ý nghĩa của đời sống từ Ngài. Và đối với Ngài, ý nghĩa của đời sống không phải là tiện nghi, mà là tình yêu.

69. Sự giàu có đích thực
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Phụng vụ Chúa nhật XVIII hôm nay mời gọi mọi người suy gẫm nghiêm túc về ý nghĩa cuộc đời mình. Một bài học về sự khôn ngoan. Mối bận tâm thiết thân nhất của phần lớn con người hôm nay là gì? Phải chăng đó chính là làm sao sở hữu được thật nhiều của cải vật chất, càng sung túc, càng giàu có càng tốt đẹp? Nhiều người cho rằng của cải vật chất sung túc sẽ bảo đảm cho mình trước những bất trắc của cuộc sống. Thật là điều ảo tưởng! Ngu dốt! Chúa Giêsu đã khẳng định như thế: “Hỡi kẻ ngu dại! Đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?”
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy ra sức hướng hành động, thái độ, những đau khổ và niềm vui của cuộc đời mình theo ánh sáng Tin mừng. Đấy chính là sự khôn ngoan ở đời này. Chính sự khôn ngoan này mới mang lại điều thiện hảo và sự giàu có cao quí đích thực.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA: Tin mừng Lc 12,13-21
Mối hiểm nguy của sự giàu có vật chất
Dù rất giàu có, cuộc sống con người không tùy thuộc vào của cải. Thật là điên rồ nếu ai đó cho rằng của cải thế gian là một bảo đảm cho sự sống.
Của cải trần gian không thể kéo dài cuộc sống dù chỉ trong chốc lát khi mà hạn định của Thiên Chúa đã đến. Và cũng thật điên rồ nếu như chỉ biết thu tích của cải để hưởng thụ một mình vì khi chết đi nó sẽ xa lìa con người vĩnh viễn. Những gì cần tích lũy chính là tài sản của Thiên quốc, nơi bảo đảm hạnh phúc và sự sống đích thực. Tích trữ bằng đời sống hiện tại biết mến Chúa và quảng đại cho đi của cải chúng ta sở hữu tại trần thế này.
a. Chúa Giêsu từ chối làm quan án cho người đến xin Ngài chia gia tài. Việc Chúa Giêsu từ chối không phải vì Ngài chấp nhận sự bất công hay bóc lột. Nhưng Ngài muốn con người phải cảnh giác trước những hiểm họa của tiền bạc, của sự giàu có. “Chẳng phải sự sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm đâu”. Chúa Giêsu không đến để lên án, nhưng để con người tự lên án, tự xét xử, để rồi mỗi người khám phá ra sự lầm lạc, tội lỗi của mình mà thay đổi.
b. Qua dụ ngôn người phú hộ ngu dại, Chúa Giêsu đã vạch ra cho thấy hiểm họa của việc tích trữ, hưởng thụ của cải vật chất đời này mà quên đi việc tích trữ của cải đời sau. Điều đó thật là “đồ ngốc”! Cựu ước dùng từ “Ngốc” để chỉ người chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa (x. Tv 13,10: người ngốc nói trong lòng rằng không có Thiên Chúa). Người phú hộ này được coi là ngốc vì đã quên mất Thiên Chúa, chỉ nghĩ đến sự giàu có và của cải thế gian.
c. “Làm giàu trước mặt Thiên Chúa”: Kết luận của dụ ngôn cho thấy rõ ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng ban phát hạnh phúc và của cải cũng như mọi ân phúc khác cho con người. Con người có hay không là tùy thuộc vào Người. Do đó, đừng thu tích của cải trần thế mà hãy phó thác tất cả cuộc sống này cho Thiên Chúa. Bản thân hãy lo sống đúng Lời Chúa. Làm giàu trước mặt Chúa chính là những việc lành phúc đức, là tình bác ái, là sự chia sẻ của cải cho anh chị em nghèo khổ chung quanh. Ở đời này biết cho đi là biết làm giàu trước mặt Chúa.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Lòng tham của con người, nguồn gốc sự ngu dại tâm linh:
Khi từ chối làm quan án xét xử việc phân chia gia tài, Chúa Giêsu khẳng định: hãy giữ mình tránh khỏi mọi thứ tham lam. Chẳng phải sung túc mà đời sống được bảo đảm đâu. Chính bởi lòng tham mà có sự chia rẽ, nếu hai anh em kia thực lòng thương yêu nhau, không tham lam của cải thì đâu đến nỗi phải tranh giành, nhờ đến người khác phân xử. Nếu con tim được giải thoát khỏi lòng tham thì đâu cần đến luật pháp xét xử, đâu có sự cãi vã tranh giành… Cuộc sống thực tế hôm nay nhiều gia đình ly tán, con cái bất hiếu từ bỏ cha mẹ, anh chị em chia rẽ bất hòa chỉ vì lòng tham một vài tấc đất, một ít gia tài của mẹ cha. Chính lòng tham là nguyên nhân đưa đến sự mê muội trong đời sống tâm linh, khiến cho con người không còn khả năng nhận định đâu là điều bảo đảm cho cuộc sống của mình, mà chỉ đơn giản cho rằng chính của cải vật chất là bảo đảm tốt nhất, cần thiết nhất mà thôi. Của cải tiền bạc không phải là thứ vững bền, không thể bảo đảm cho cụôc sống được, vì chính khi đã chết rồi thì của cải còn lại nghĩa lý gì.
Tất cả là hư không mà thôi.
Kitô hữu chúng ta phải triệt để loại bỏ khỏi mình lòng tham của cải, tập sống bác ái quảng đại. Làm sao để lòng mình siêu thoát khỏi những cuốn hút của tiền tài vật chất. Đây là một nỗ lực rèn luyện nhân cách, nhân đức liên lỉ. Cần phải cầu nguyện, phải thực thi Lời Chúa, sống tình bác ái với nhau mới có thể cho đi, thay vì tìm mọi cách thu vén cho cá nhân mình.
2. Sự khôn ngoan và ngu dại trước mặt Thiên Chúa:
Sống ở đời người ta thường nói: “Có thực mới vực được đạo”. Làm gì thì làm, chắc cái bụng đã. Đây chính là kinh nghiệm đúc kết từ thực tế cuộc sống của bao đời người. Điều này tất nhiên đúng và có giá trị. Tuy nhiên, chuyện gì cũng có mặt trái của nó. Chỉ hoàn toàn chú tâm đến chuyện tiền bạc vật chất, để nó chi phối toàn bộ cuộc sống thì xem ra lại là sự dại khờ. Tiền bạc không thể kéo dài sự sống cho dù nhờ có tiền, con người có thể thụ hưởng những phương tiện chăm sóc sức khỏe tốt nhất. Vì tới giờ Chúa gọi rồi thì làm sao trì hoãn được. Tiền bạc có thể giúp con người chúng ta có được mọi tiện nghi, có được nhiều thứ cần thiết cho cuộc sống, cho gia đình nhưng xem ra lại bất lực trong việc kiến tạo hạnh phúc, là điều chỉ có nhờ Thiên Chúa và tình yêu. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã cho rằng người phú hộ trong dụ ngôn là ngu dại. Cứ lo tích trữ của cải để hưởng thụ và tự mãn về tài sản của mình quên đi việc chăm sóc cho đời sống tâm linh, quên đi việc thực thi Lời Chúa để rồi khi Thiên Chúa đòi mạng sống thì tất cả đều sụp đổ. Tiền bạc vật chất tự nó không xấu cũng không tốt, nó chỉ là phương tiện mà thôi. Nếu không biết khôn ngoan sử dụng thì sẽ trở nên nô lệ cho nó, đó chính là sự khờ dại. Sống chỉ biết hưởng thụ vật chất đời này mà không biết lo liệu cho cuộc sống mai sau thì còn là điều dại khờ hơn nữa. Cho nên, cần phải khôn ngoan nghĩa là biết dùng của cải theo ý Chúa. Biết sống vì mục đích tối thượng là hạnh phúc, sự sống nơi Thiên Chúa.
Đứng trước sự hấp dẫn của tiền tài vật chất, con người rất dễ bị sa ngã. Không chỉ vì đời sống kinh tế khó khăn mà chính vì lòng tham, sự ích kỷ làm cho chúng ta trở nên mê muội và sa ngã vào hấp lực của đồng tiền. Lời Chúa hôm nay mời gọi Kitô hữu hãy có thái độ khôn ngoan, biết sử dụng đồng tiền để mưu cầu hạnh phúc cho mình và tha nhân. Hãy khôn ngoan lo liệu cho cuộc sống mai hậu của mình.
3. Tìm kiếm và tích trữ kho tàng Nước Trời ngay từ cuộc sống trần gian:
Kết thúc dụ ngôn người phú hộ khờ dại, Chúa Giêsu kết luận tích trữ của cải mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa là ngu dại và chả được tích sự gì. Vì khi chết, của cải cả đời tích lũy phải để lại cho người khác còn bản thân lại chẳng được gì. Làm giàu trước mặt Thiên Chúa là một thái độ sống ngược hẳn với sự làm giàu theo nghĩa thế gian. Làm giàu là làm sao cho mình có thật nhiều của cải, là sự thu tích. Còn làm giàu trước mặt Chúa là một sự cho đi, quảng đại chia sẻ của cải tiền bạc của mình cho anh chị em nghèo khổ chung quanh. Những gì mình có thể tích lũy nơi kho tàng Nước Trời chính là những gì mình quảng đại cho đi trong cuộc sống thế trần này. Ở đời này càng biết cho đi thì đời sau càng tích trữ nhiều. Gắn bó chặt chẽ với tiền tài của cải ở đời này nhưng khi nhắm mắt ra đi thì nó sẽ ở lại và xa lìa mình vĩnh viễn ; người nào yêu thương gắn bó mật thiết với mình nhất thì cũng chỉ đi theo mình tới nấm mồ. Chỉ có nhân đức và lòng bác ái sẽ theo mình mãi tới cuộc sống nơi Thiên Chúa. Đây mới chính là của cải đích thực mà mỗi Kitô hữu cần phải tích trữ và làm giàu.
Trong thực tế xã hội hôm nay, khi mà sự phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng mạnh mẽ ; khi mà đồng tiền đang lên ngôi ngự trị trong mọi lãnh vực của cuộc sống thì việc làm giàu trước mặt Thiên Chúa đối với Kitô hữu quả là một thách đố lớn lao. Mỗi người cần phải tin tưởng, phó thác và thực lòng yêu mến Chúa mới có khả năng làm giàu được. Hãy nhìn lại mình xem hôm nay tôi đang làm giàu trước mặt Chúa như thế nào?
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là nguồn mạch mọi ân phúc và sẽ làm no thỏa mọi khát vọng của nhân loại chúng ta. Trong niềm tin tưởng, chúng ta cùng dâng lên lời nguyện xin.
1. Giáo hội được Chúa Giêsu thiết lập với ước muốn vì người nghèo và là một Giáo hội nghèo khó. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo hội luôn biết quảng đại chia sẻ cuộc sống với những người nghèo khổ trên toàn thế giới.
2. Ngày nay lối sống hưởng thụ ích kỷ đã và đang làm băng hoại xã hội, làm cho nhiều người nhà tan cửa nát, nhiều người phải lâm vào cảnh đói khổ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người, nhất là các vị lãnh đạo quốc gia biết đồng tâm hiệp lực xây dựng một nếp sống công bằng bác ái trong xã hội, để nhờ đó mọi người được ấm no hạnh phúc.
3. Phải biết khôn ngoan làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết sống quảng đại, vị tha và biết bác ái chia sẻ cuộc sống vật chất với những anh chị em nghèo khổ trong cộng đoàn.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống. Chúng con cảm tạ Chúa đã dạy chúng con biết của cải vật chất không bảo đảm cho sự sống đời đời mà phải biết lo làm giàu trước mặt Chúa bằng đời sống bác ái. Xin ban cho mỗi người chúng con tình yêu và sự hy sinh của Chúa, để tất cả chúng con biết thành thực quảng đại, yêu thương nhau. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

70. Nơi để của cải vật chất – William Barclay
Tại Palettin người ta thường đem những vấn đề tranh cãi đến xin các rapbi phân xử. Đối với nhân vật trong đoạn này, ông coi Chúa Giêsu là một vị thầy có thế giá có thể giải quyết vấn đề cho ông, nhưng Chúa Giêsu từ chối không muốn tham dự vào vấn đề tranh chấp về tiền bạc. Có những người đến với thẩm quyền tôn giáo không phải để xin những chỉ dẫn về đời sống thuộc linh, mà lại xin giải quyết những vấn đề vật chất. Chúa Giêsu không đáp lại yêu cầu này, không phải không nhạy cảm về những bất công có thể có trong phạm vi gia đình, nhưng Ngài không muốn can thiệp vào những việc không liên hệ trực tiếp đến sứ mạng cứu rỗi. Câu trả lời của Chúa ngụ ý rằng Ngài chỉ chú trọng đến công việc thuộc linh và Ngài không muốn xâm phạm vào địa hạt luật pháp dân sự hay chiếm đoạt địa vị của nhà cầm quyền: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?”
Có thể câu trả lời này chứa đựng một thông điệp cho thời đại chúng ta, cảnh cáo chúng ta đừng lẫn lộn những nhiệm vụ của Giáo Hội và Nhà Nước. Địa hạt của Giáo Hội là thuộc linh, thẩm quyền của Giáo Hội không phải là để quyết định những vấn đề kinh tế và chính trị. Tuy nhiên Giáo Hội có những cống hiến và ghi khắc những nguyên tắc liên quan đến các vấn đề luân lý và quyết định về sự công bình và lẽ phải trong mọi lãnh vực nhân sinh.
Chúa Giêsu đã từ chối “chia gia tài”, nhưng Ngài đã nhìn sâu vào căn nguyên lời yêu cầu và thấy rằng người ấy đã bỏ qua luật lệ dân sự để đến nhờ một giáo sư tôn giáo giúp đỡ là do lòng tham thúc đẩy. Nhân cơ hội này Chúa chỉ dạy cho kẻ theo Chúa phải có thái độ nào đối với vấn đề vật chất, và Ngài dạy qua một câu chuyện. Câu chuyện về lãi phú hộ ngu dại dạy ta rằng tiền của không tạo nên nội dung thật của sự sống, cho nên chỉ mải lo tìm kiếm vàng bạc mà quên Thiên Chúa là điều khờ dại.
Có hai điều đáng chú ý về người giàu này:
– Ông ta không hề nhìn xa hơn chính mình: không có dụ ngôn nào nhiều chữ “mình” như trong dụ ngôn này: “Hoa màu của mình, kho lẫm của mình, thóc lúa và của cải của mình, linh hồn của mình”. Đó là những chữ rất khó nghe mà người ích kỷ hay dùng đến. Người giàu ích kỷ chỉ biết nỗ lực tập trung vào mình. Có lời phê bình nổi tiếng về Ngài người ích kỷ như sau: “Có quá nhiều cái tôi trong vũ trụ của hắn!” Khi người này đã có của cải dư dật, ông không bao giờ nghĩ đến việc chia sẻ. Tất cả thái độ của ông đi ngược lại hẳn với tinh thần Kitô giáo. Thay vì từ chối mình, ông ta lại bảo vệ mình một cách khiêu khích; thay vì tìm hạnh phúc trong sự san sẻ, ông ta đã cố sức bám lấy hạnh phúc bằng cách bám chặt lấy của cải. Luật sống của John Wesley là tiết kiệm hết sức mình và ban phát hết sức mình. Khi ông ở Oxford ông có số lương và ba mươi bảng Anh một năm. Ông tiêu hai mươi tám đồng và cho đi hai đồng. Khi lương của ông tăng lên sáu mươi, rồi chín mươi, rồi một trăm hai mươi đồng một năm, ông chỉ tiêu xài hai mươi tám đồng, còn bao nhiều thì cho đi. Khi viên kế toán trưởng của công ty đồ gia dụng xin ông gửi bảng liệt kê những gì cần mua, ông trả lời “Tôi có hai thìa cà phê bạc tại Luân đôn và hai cái tại Briston, đó là tất cả đồ bằng bạc mà tôi có hiện giờ, và tôi không mua thêm cái nào nữa trong lúc biết bao nhiều người chung quanh tôi không có bánh ăn”. Châm ngôn La mã có câu: “Tiền bạc khác nào nước biển, ai càng uống nó thì càng khát thêm”. Bao lâu người ta có thái độ giống như người giàu ngu dại thì người ta cứ ước ao được giàu thêm mãi và đó là thái độ ngược với tinh thần Kitô giáo.
– Ông ta không hề nhìn xa hơn thế giới của mình. Mọi chương trình của ông ta chỉ đặt nền tảng cuộc sống lẩn quẩn trong thế giới của ông ta. Sau đây là cuộc đàm thoại giữa một chàng thanh niên ham hố và một ông lão hiểu đời:
Chàng nói: “Tôi sẽ học buôn bán”. Ông lão hỏi: “Rồi sao nữa? Rồi sao nữa?” – “Tôi sẽ mở hiệu buôn”. Rồi sao nữa? – “Tôi sẽ dựng nên cơ nghiệp lớn!” Rồi sao nữa? – “Tôi sẽ trở về già, hưu hạ và sống bằng tiền bạc của tôi!” Rồi sao nữa? – Ờ có lẽ một ngày kia tôi sẽ chết. Rồi sao nữa?
Câu hỏi sau cùng như một lưỡi dao. Người nào không hề nghĩ rằng có một thế giới bên kia thì người đó sẽ có ngày phải gặp một bất ngờ và cũng khủng khiếp.
Khi giải thích dụ ngôn này của Chúa, thánh Anatasiô đưa ra lời khuyên: “Ai sống như phải chết mỗi ngày – vì biết rằng cuộc sống này tự nó là tạm bợ, không chắc chắn – sẽ không phạm tội, vì sợ hãi Chúa dập tắt một phần lớn lòng tham lam; trái lại, ai nghĩ mình còn sống lâu sẽ dễ dàng để cho mình bị dục vọng cai trị”.
Ngu dại của người giàu này là coi có tiền có của như là mục đích duy nhất của đời sống, nó bảo đảm vững bền khát vọng của con người. Có được các cần thiết để sống và phát triển là chân chính, nhưng coi việc thâu góp tài sản như là một lý tưởng sẽ đưa đến phá hủy con người và xã hội: “Đối với một dân tộc cũng như đối với một cá nhân, có thêm nhiều của cái hơn không phải là mục đích tối hậu. Mỗi sự thăng tiến đều có hai mặt: nó cần thiết để con người được nên người bạn, nhưng đồng thời nó cũng giam hãm con người một khi nó trở thành giá trị cao cả nhất, không còn cho nhìn thấy giá trị nào khác. Lúc đó lòng người trở nên chai đá và tinh thần khép kín lại, con người không còn đến với nhau vì tình nghĩa, nhưng chỉ vì lợi lộc. Lợi lộc để dễ làm cho con người chối đối với nhau và chia rẽ nhau. Vì thế nếu chỉ tìm kiếm của cải mà thôi thì không những sẽ làm cản trở cho sự phát triển của con người, mà còn phản lại sự cao cả bẩm sinh của con người. Đối với một quốc gia cũng như đối với một con người, tội tham lam là một hình thức lộ liễu nhất của tình trạng luân lý thấp kém”. (Đức Phaolô VI, Phát triển 19)
Người Do thái hay kể truyện ngụ ngôn cũng về A-lịch-sơn Đại đế. Vị danh tướng mệt mã vì đi bộ đường xa, bèn ngồi nghỉ bên bờ một suối kỳ lạ. Ông uống nước và cảm thấy sảng khoái lạ lùng. Ông nhúng cá muối vào nước cho đỡ mặn và ngạc nhiên khi thấy nước làm cho cá có vị ngon lạ thường. Ông tự nghĩ: chắc hẳn đây không phải là nước thường, nó phải xuất phát từ một kỳ diệu nào, ta phải lần đến tận nguồn xem sao”. Ông đi mãi cho tới cổng thiên đàng. Cổng khóa, ông gõ cổng xin vào, nhưng bên trong chỉ có một tiếng đáp lại: “Ngươi không được vào đây, vì cổng này thuộc về Chúa”. Vị đại tướng trả lời ngạo nghễ: “Ta là Chúa của trời đất. Ta là A-lịch-sơn chiến thắng, không mở cửa cho ta sao?” – Không, chúng ta chẳng biết kẻ chiến thắng nào hết. Chúng ta chỉ biết những người đã chiến thắng dục vọng thấp hèn của mình, chỉ những người công chính ngay thẳng, mới được vào thiên đàng.
A-lịch-sơn giận dữ như điên cuồng, nhưng chẳng ảnh hưởng chi hết đến người giữ cổng thiên đình. Ông đổi ra o bế và hối lộ, nhưng vẫn vô hiệu, bèn nài nỉ lần chót: “Ta là vua lớn và được mọi nước suy phục. Dầu không cho ta vào thiên đàng, nhưng ít ra cũng cho ta vật gì đem về để chứng tỏ với người thế gian rằng ta đã được đến nơi đưa từng có ai đến. Người gác cổng đáp: “Đây, hỡi tên khùng kia, ta cho ngươi điều ngươi xin, cầm về và tìm hiểu ý nghĩa của nó. Nó sẽ cho ngươi bài học khôn ngoan mà chưa từng có ai dạy ngươi. A-lịch-sơn vồn vã đưa tay nhận gói quà và vội vàng trở về trại quân mở ra coi. Lạ quá, trước mắt ông, chỉ là một mảnh sọ người. Giận dữ, ông quẳng mảnh xương xuống đất, la tô: Đây là quà tặng cho vua và anh hùng sao? Công ta lặn lội vất vả chỉ xứng như thế này sao? Nhưng trong đoàn tùy tùng có một người thông thái, ông khuyên vua: “Tâu đức vua, xin chớ khinh vật nhỏ bé này, nó có tính chất rất lạ ký đáng đức vua để ý. Hãy cân nó với vàng bạc báu vật của đức vua, thử xem bên nào nặng hơn. Theo lệnh vua, họ đem cân tới, mảnh sọ một bên, còn bên kia chất vàng, bạc, bửu thạch nữa… xương vẫn nặng hơn. Càng thêm bao nhiêu, mảnh xương càng nặng hơn bấy nhiêu! Vua kinh ngạc: “Một mảnh sọ lại nặng hơn bấy nhiều vàng bạc! Có gì nặng hơn mảnh sọ này không? Nhà thông thái đáp: “Thưa có, chỉ một chút đất thôi”. Ông liền lấy đất phủ lên mảnh sọ, lập tức, xương mất hết trọng lượng, nhảy bồng lên, bên kim khí nặng hạ xuống. A-lịch-sơn la hoảng: “Cái này còn lạ hơn nữa!” Nhà thông thái giải thích: “Mảnh sọ này là lỗ mắt con người, dầu nhỏ bé, nhưng sự ham hố của nó không có giới hạn. Hết thảy của cái trần gian không làm cho no thỏa sự ham muốn của nó. Nhưng khi nó bị đất bao phủ và chôn vùi trong mồ mả, thì sự ham hố trần thế của nó mới hết.
Chúa Giêsu phán: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào được ích gì? Hoặc lấy gì mà đổi được linh hồ mình?” (Mc 8,36-37). Tác giả Thánh vịnh suy luận: “Chúng cậy vào của cải, lại vênh vang bởi lắm tiền bạc, nhưng nào có ai tự chuộc nổi mình, và trả được giá thục hồi cho Thiên Chúa. Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời…” (49,7-9).
Vậy chúng ta hãy sống khôn ngoan theo lời khuyên của thánh Gioan: “Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi”. (1Ga 2,15-17).

71. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta đừng để hết tâm trí vào việc thu tích của cải mà quên làm giàu trước nhan Thiên Chúa, vì đó mới là “kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá”.
Gv 1: 2; 2: 21-23
Sách Giảng Viên vạch trần cho thấy những công lao khó nhọc của con người và sự giàu sang phú quý ở đời này chỉ là phù vân.
Cl 3: 1-5, 9-11
Trong thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng người Kitô hữu phải siêu thoát khỏi mọi sự thế này mà chú tâm tìm kiếm những thực tại trên trời. Nhờ phép Rửa, người Kitô hữu được dự phần vào sự Phục Sinh của Chúa Kitô, họ trở thành một tạo vật mới.
Lc 12: 13-21
Trong Tin Mừng, thánh Lu-ca tường thuật dụ ngôn người phú hộ dại khờ, ông chỉ biết thu tích của cải cho thật nhiều để vui hưởng cuộc đời cho riêng mình. Cái chết bất ngờ đến nội trong đêm đó, lúc đó ông không có của cải trường tồn “trước nhan Thiên Chúa”.
BÀI ĐỌC I (Gv 1: 2; 2: 21-23)
“Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”. Câu mở đầu sách Giảng Viên này đã trở thành tục ngữ. Chữ “phù vân” theo ngôn ngữ Híp-ri có nghĩa “làn gió thoảng”, “hơi sương khói”, vì thế được dùng như hình ảnh để chỉ những gì chóng qua, không bền chắc. Câu mở đầu này theo nguyên văn: “phù vân của những phù vân”, diển tả sự so sánh ở bậc cao nhất, có nghĩa, phù vân nhất, phù vân hết mức, không có gì phù vân hơn nữa.
1. Tác giả và tác phẩm:
Giảng Viên là một cuốn sách rất đặc thù, không như những cuốn sách khác trong toàn bộ Kinh Thánh. Tuy nhiên, cái nhìn bi quan về cuộc đời của sách rất gần với sách Gióp. Cả hai cuốn sách này đều chạm đến mầu nhiệm Thiên Chúa và ý định mầu nhiệm của Ngài trên nhân loại.
Nhan đề của sách: “Giảng Viên”, có nghĩa người chủ trì cộng đoàn hay người lên tiếng trong cộng đoàn. Tác giả đặt những diễn từ yếm thế của mình trên môi miệng của vua Sa-lô-mon, vị vua được truyền tụng là khôn ngoan bậc nhất. Đây là hình thức rất phổ biến vào thời xưa nhằm tạo uy tín và thế giá cho những lời bình phẩm của mình. Niên biểu tác phẩm có lẽ vào đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, chắc chắn phải trước hai sách Ma-ca-bê, bởi vì trong hai sách này niềm hy vọng vào sự sống lại ở bên kia nấm mồ được chứng thực. Đối với tác giả sách Giảng Viên, sau khi chết, người khôn và kẻ dại đều cùng chung một số phận như nhau, trong cõi âm ty tăm tối và buồn phiền (2: 14-16).
2. Công lao khó nhọc chỉ là phù vân:
Sau câu mở, vừa tóm tắt tinh thần vừa hình thành nên điệp khúc của tác phẩm, phụng vụ đề nghị cho chúng ta một đoạn văn rất gần với dụ ngôn Tin Mừng hôm nay. Trong đoạn văn này, tác giả phác họa bức tranh tăm tối về sinh hoạt của con người, vì hai lý do: Trước hết, toàn bộ sự nghiệp do công lao khó nhọc của mình làm nên đều phải trao lại cho người khác, việc thừa kế quả là một đại họa; thứ nữa, bao công lao khó nhọc chỉ đem lại ưu phiền cả ngày lẫn đêm.
– Việc thừa kế quả là một đại họa:
Phải trích dẫn rộng hơn đoạn văn này: “Tôi đã chán ghét mọi gian lao vất vả tôi phải chịu dưới ánh mặt trời, những gì tôi để lại cho người đến sau tôi. Nào ai biết được người ấy khôn hay dại? Nhưng người ấy lại là kẻ có thẩm quyền trên những gì tôi đã phải vất vả và khôn khéo mới làm ra dưới ánh mặt trời. Chuyện đó cũng chỉ là phù vân!” (2: 18-19). Tác giả nhắm đến một con người đơn độc một mình, không gia đình, không con cái, không bạn bè, chỉ biết thu tích của cải cho riêng mình, không bao giờ biết chia sẻ, biết cho, biết sử dụng thành quả công lao khó nhọc của mình để phục vụ tha nhân. Đó là lý do tại sao nỗi xao xuyến về ngày mai đã gậm nhấm lòng mình và chỉ thấy bất công khi để lại cho tha nhân niềm vui hưởng của cải mà mình đã đổ bao công lao khó nhọc làm nên. Vì thế, sự nghiệp mà con người phải vất vả làm nên trong cõi đời này chỉ là công dã tràng.
– Bao công lao khó nhọc chỉ đem lại ưu phiền:
“Phải đối với người ấy, trọn cuộc đời chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Điều ấy cũng chỉ là phù vân!”. Đây quả thật là cái phi lý của cuộc đời mà tác giả sách Giảng Viên muốn vạch trần. Khi biết sự nghiệp mà mình phải đổ bao công sức mới làm nên chỉ là chuyện phù vân, người ấy sinh lòng chán chường thất vọng.
Tư tưởng sau cùng của tác giả chính là cuộc đời con người là một mầu nhiệm mà chỉ mình Thiên Chúa mới biết được: “Tôi nhận ra tất cả là việc Chúa làm. Quả thật, con người không thể khám phá những gì được thực hiện dưới ánh mặt trời” (8: 17). Vì thế, phải phó thác vào Người. Lời kết của tác phẩm thì rõ ràng và giản dị: “Hãy kính sợ Thiên Chúa và tuân giữu các mệnh lệnh Người truyền, đó là tất cả đạo làm người” (12: 13).
BÀI ĐỌC II (Cl 3: 1-5, 9-11)
Bản văn sách Giảng Viên là lời dẫn nhập tuyệt vời vào đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-lô-xê. Lời khuyên của thánh nhân: hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, là câu trả lời cho nỗi bận lòng của tác giả sách Giảng Viên. Lời khuyên này được viết trong khi thánh nhân bị giam cầm ở Rô-ma giữa những năm 60 và 63.
1. Lập luận của thánh Phao-lô:
Trước đó, thánh Phao-lô đã trình bày thần học về phép Rửa (Chúa Nhật tuần trước); giờ đây thánh nhân khai triển những hậu quả của nó khi dựa vào ý nghĩa của các nghi thức thánh tẩy: chết và sống lại, cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới.
Lập luận của thánh nhân xem ra tự nó mâu thuẫn. Trước tiên, thánh nhân nói: “Anh em đã được sống lại cùng Đức Kitô”, tiếp đó: “Anh em đã chết với Chúa Kitô” (nghĩa là chết cho tội lỗi). Thật ra, đây là một trong những phương thức thánh nhân thường dùng để đặt lên hàng đầu thực tại tinh thần và tiếp đó cho thấy những hệ lụy liên quan đến con người và những đòi hỏi luân lý phát xuất từ đó.
2. Thực tại tinh thần:
Phép Rửa hiệp nhất người Kitô hữu với Đức Kitô Phục Sinh, Đức Kitô thiên giới ngự trị bên hữu Chúa Cha rồi, theo cách diễn tả của thánh vịnh gia: “Sấm ngôn của Đức Chúa ngỏ cùng Chúa Thượng tôi: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị” (Tv 110). Nhờ phép Rửa, người tín hữu trở thành công dân Nước Trời, họ “phải hướng lòng trí mình về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”.
3. Con người mới:
Mầu nhiệm hiệp nhất này đem lại kết quả ngay lập tức, sự biến đổi nội tâm: “sự sống mới của anh em đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa”. Về phương diện bên ngoài, không có gì thay đổi, nhưng một năng lực thần linh ở trong người Kitô hữu mà ánh vinh quang sẽ chỉ được tỏ lộ tròn đầy vào ngày tận thế. Sống theo Đức Kitô đảm bảo cho chúng ta vinh quang tương lai.
4. Mặc lấy Đức Kitô:
Cuộc đổi mới nội tâm này giúp người Kitô hữu vượt thắng những vị kỷ, những đam mê, những thói hư tật xấu. Phải trở nên người Kitô hữu chính danh. Phép Rửa cho chúng ta năng lực biến đổi này. Ở nơi khác, thánh Phao-lô nói rằng nhờ phép Rửa, người Kitô hữu được đóng ấn Thánh Thần (Ep 1: 13; 3: 16; 4: 30). Ở đây, thánh nhân diễn tả hùng hồn hơn: “Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa”. Không còn cách diễn tả nào có thể gợi lên tác động của ân sủng tốt hơn nữa.
“Con người cũ” sẽ nhường chỗ cho “con người mới” như thế nào, thì người chịu phép Rửa cũng trở nên một thọ tạo mới như vậy, khi bước ra khỏi nước thánh tẩy, mặc lấy y phục mới, trắng tinh. Thánh Phao-lô là văn sĩ Tân Ước duy nhất sử dụng ngôn từ này; thánh nhân còn dùng nhiều lần khác (Rm 6: 6; Ep 4: 22-24). Y phục mới trắng tinh không là vật trang điểm bên ngoài, nhưng đích thật “mặc lấy Đức Kitô”, nghĩa là, để cho con người của Đức Kitô thấm nhuần con người của mình, sáp nhập cuộc đời của mình vào cuộc đời của Đức Kitô. Thánh Phao-lô đã giải thích điều này cho các tín hữu Ga-lát (đoạn văn hoàn toàn sóng đôi với đoạn văn của chúng ta): “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Giêsu Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện phân biệt Dothái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 2: 27).
5. Ơn thông hiểu:
“Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa, để được ơn thông hiểu”. Một trong những khía cạnh đặc trưng của các thư được viết trong tù đó là điểm nhấn được đặt trên ơn thông hiểu. Ngay từ đầu thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-xê này, thánh Phao-lô đã thông báo Mặc Khải Kitô giáo đã khai lòng mở trí cho chúng ta như thế nào. Ngỏ lời với các tín hữu Cô-lô-xê, thánh nhân viết: “Quả thật, tôi muốn anh em biết tôi phải chiến đấu gay go thế nào vì anh em, vì những người Lao-đi-ki-a, và vì bao người khác chưa thấy tôi tận mắt; như vậy là để họ được phấn khởi trong tâm hồn, và được liên kết chặc chẽ với nhau trong tình thương, họ đạt tới sự thông hiểu phong phú và đầy đủ, khiến họ nhận biết mầu nhiệm của Thiên Chúa, tức là Đức Kitô, trong Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết” (Cl 2: 1-3).
Thánh Phao-lô đối lập sự khôn ngoan của Thiên Chúa và sự dại khờ của con người. Những suy gẫm của thánh nhân trong cảnh tù đày đã khiến thánh nhân nhấn mạnh hơn nữa ơn thông hiểu Kitô giáo đánh dấu mức độ hiểu biết cao hơn, giúp khai mở mầu nhiệm con người và thoáng thấy mầu nhiệm Thiên Chúa.
TIN MỪNG (Lc 12: 13-21)
Trong phân đoạn Tin Mừng này, thánh Lu-ca kết tập nhiều lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế; vài lời dạy trong số này cũng được gặp thấy tại thánh Mát-thêu. Tuy nhiên, câu chuyện mở đầu (12: 13-15) và dụ ngôn người phú hộ dại khờ (12: 16-21) thuộc nguồn riêng của thánh Lu-ca. Đoạn Tin Mừng hôm nay thuộc vào những lời cảnh giác về sự giàu có như chướng ngại trên con đường dẫn đến Nước Trời.
1. Đức Giêsu từ chối lời thỉnh cầu:
“Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”. Theo phong tục thời đó, khi gặp phải vấn nạn trong cuộc sống, người ta thường đến gặp thầy thông luật để xin ông một lời khuyên, thậm chí để xin ông đứng ra phân xử một sự bất đồng hay giải hòa đôi bên. Chúa Giêsu nổi tiếng là một bậc thầy đưa ra những nhận định thích đáng và khôn ngoan. Thật chính đáng khi chàng thanh niên này đến gặp Chúa Giêsu để xin Ngài đứng ra phân xử cho anh về vấn đề chia gia tài. Theo Luật Do thái, con trai trưởng có quyền ưu tiên thừa kế hai phần sản nghiệp (Đnl 21: 17). Có lẽ người này bị người anh cả lấy hết phần gia tài.
Chúa Giêsu từ chối lời thỉnh cầu của anh: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người phân xử hay người chia gia tài cho các anh?”. Chúa Giêsu cũng sẽ từ chối như vậy đối với tất cả những lời cầu xin xa lạ với sứ mạng của Ngài. Ngài đến không để giải quyết những tranh chấp về của cải vật chất, nhưng quan tâm đến của cải tinh thần. Thiết tưởng chúng ta cần nhắc lại phản ứng quyết liệt của thánh Phao-lô trong những trường hợp tương tự: những tín hữu Cô-rin-tô khi có những tranh chấp giữa nhau, đem nhau ra tòa để kiện cáo nhau, thánh nhân viết cho họ: “Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh em rồi. Tại sao anh em chẳng thà chịu bất công? Tại sao anh em chẳng thà chịu thiệt thòi?” (1Cr 6: 6-8).
2. Sự giàu có đích thật:
Chúa Giêsu chẳng những từ chối lời thỉnh cầu của anh mà còn cảnh giác đám đông về vấn đề của cải nữa: “Anh em phải coi chừng, phải tránh xa mọi thứ tham lam, vì dẫu có được dư giả, thì mạng sống con người cũng không nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”. Để minh họa cho lời dạy của mình, Ngài kể một dụ ngôn về người phú hộ dại khờ.
Một phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới tự nhủ rằng “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc đó ta sẽ tự nhủ lòng: hồn tôi ơi, bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!”. Nổi bận lòng duy nhất của người phú hộ là làm thế nào thu tích cho thật nhiều của cải như sự đảm bảo duy nhất cho cuộc sống của mình và chỉ nghĩ đến vui hưởng một cách ích kỷ những thành quả do công lao khó nhọc của mình.
Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, Ta đòi lại mạng sống ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”. “Đồ ngốc”, từ ngữ Kinh Thánh chỉ những ai chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa: “Kẻ ngu si tự nhũ: Làm chi có Chúa Trời!” (Tv 13: 1). Ở đây, Chúa Giêsu có chung tư tưởng của sách Giảng Viên, nhưng vượt qua ngay lập tức: “Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không trở nên giàu có trước nhan Thiên Chúa, thì số phận cũng như vậy”. Lời kết này muốn nói rằng cái chết trên cõi thế không thật sự là bi thảm; chính cái chết mai hậu mới là bi thảm. Người phú hộ bị cho là dại khờ bởi vì ông đã đổ hết công sức vào việc thu tích cho thật nhiều của cải trần thế như một sự đảm bảo chắc chắn cho tương lai của mình, mà không trở nên giàu có trước nhan Thiên Chúa. “Trở nên giàu có trước nhan Thiên Chúa”, nghĩa là thu tích kho tàng trên trời, được nhắc đến nhiều lần trong Tân Ước, như: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh em ở đó” (Lc 12: 33).
Một người phú hộ chỉ biết thu tích của cải trần thế và vui hưởng thành quả do công lao khó nhọc của mình một cách ích kỷ mà còn bị khiển trách đến như vậy, huống gì những kẻ làm giàu bất chính và thụ hưởng trên xương máu, mồ hôi đồng loại thì thật đáng bị khiển trách đến mức nào.

72. Đời sống chẳng nhờ nơi của cải
Đoạn 12:13-21 nằm trong mạch văn của hành trình lên Giêrusalem; thuộc giai đoạn thứ nhất (9:51-13:21). Mạch văn gần là đoạn 12:1-13:9, bàn đến việc chuẩn bị cho sự phán xét sắp đến, về hành vi và thái độ đối với những chuyện ở đời nầy. Đoạn 12:13-21 nằm giữa hai đoạn đều bàn về sự sống dưới hai khía cạnh khác nhau: – Khuyến dụ đừng sợ những người chỉ giết được thân xác; do đó chỉ sợ Đấng cất luôn cả sự sống phần hồn (12:1-12); và – Khuyến dụ đừng quá lo lắng về của ăn cái mặc, mà chỉ lo tích trữ kho tàng trên trời (12:22-34). Liên hệ chặt chẽ với hai đoạn trước và sau, đoạn 12:13-21 đưa ra một dụ ngôn minh họa sự phi lý của sự tham lam và tích trữ của cải để mong bảo đảm sự sống đời nầy. Hai đoạn đối đáp giữa Chúa Giêsu với một người nào đó giữa đám đông (12:13-15) và dụ ngôn (12:16-21) có thể liên kết với nhau thành một câu chuyện và một chủ đề duy nhất.
Đoạn 12:13-15. Lời yêu cầu của một người từ giữa đám đông chuyển sự chú ý qua chủ đề về của cải: phần gia sản (c. 13), mọi thứ tham lam, sung túc, của cải riêng (c. 15). Trong câu trả lời, Chúa Giêsu trước tiên ngỏ trực tiếp đến người ấy (c. 14); sau đó, Người cho “họ”, là các môn đệ và dân chúng, một giáo huấn về thái độ đối với của cải. Một người nào đó đặt ra vấn đề chia gia tài (c.13). Ông gọi Chúa Giêsu là “Thầy”, như là người có uy quyền phán xét việc nầy (x. Ds 27:8-11; 36:7-9; Đnl 21:17). Vấn đề cụ thể về chuyện gia tài giữa hai anh em không được ghi nhận, nên có thể hiểu là nó không quan trọng. Điều đáng chú ý là lời yêu cầu về điều nầy. Từ vựng “chia phần”, merizò (c. 13), “người chia phần” meristès (c. 14) trong lời đối đáp giữa Chúa Giêsu và người ấy rất quan trọng. Người ấy muốn chia phần gia tài, nghĩa là muốn chiếm giữ riêng phần gia sản thuộc về mình. Người ấy có thể hy sinh sự bình an của gia đình bởi đòi hỏi nầy (x. 15:12).
Chúa Giêsu từ chối can thiệp (c.14). Khi gọi “Nầy ông!” Người biểu lộ sự không hài lòng đối với người ấy. Câu hỏi của Người đặt ngược lại với người ấy là có phải Người được cắt đặt để làm chuyện ấy không. Động từ kathistèmi có nghĩa là “cắt đặt”, “thiết lập”, bổ nhiệm một người để làm một việc gì: chẳng hạn chăm sóc các gia nhân (12:42), tài sản của chủ nhân (12:44). Chúa Giêsu không để người ấy nhầm lẫn về sứ mệnh Người. Người không được sai đến để giải quyết những chuyện thế trần như thế. Hơn nữa, Người không chỉ từ chối làm người chia của cải, mà còn xem đòi hỏi của người ấy như là một sự tham lam (c.15). Đối với Luca và cộng đoàn của ông, của cải không phải là một sở hữu của riêng ai. Được thừa hưởng là để phân phát và chia sẻ. Luca ghi lại cách sống lý tưởng của những tín hữu đầu tiên và nhiều mẫu gương có thái độ đúng đắn nầy trước của cải (x. Cv 4:32.34-35.37).
Chúa Giêsu kêu gọi giữ mình khỏi lòng tham lam (c.15). Luca muốn nhấn mạnh nên dùng liên tiếp hai động từ ở thể mệnh lệnh: “Hãy coi chừng!”, nghĩa đen là “hãy nhìn”; và “Hãy giữ mình!”, phylassò. Luca dùng động từ phylassò ở thể chủ động, chỉ việc thức đêm để quan sát và bảo vệ súc vật (2:8), canh giữ nhà cửa an toàn (11:21); tù ngục (Cv 12:4; 23:35). Luca dùng động từ nầy theo nghĩa bóng để chỉ việc giữ mình khỏi bị rơi vào thói xấu tham lam; tương tự như giữ mình khỏi những thức ăn đã cúng cho các ngẫu thần (x. Cv 21:25). Từ “tham lam”, pleonixia, chỉ xuất hiện một lần trong Luca, và được dùng nhiều trong các thư. Đó là ước ao cách ham hố chiếm hữu nhiều hơn, đặc biệt những điều thuộc về người khác (x. Rom 1:29; Eph 4:19; 5:3; Col 3:5; 1 Thess 2:5; 2 Phêrô 2:3); nên đây là ước muốn chiếm đoạt và thống trị.
Lý do của hai mệnh lệnh trên được biện bạch trong mệnh đề tiếp theo “bởi vì không phải người ở trong sự dư dật, sự sống của họ là bởi của cải của họ” (c.15b). Từ perisseuò không chỉ có nghĩa là sung túc, đầy đủ, mà trong Luca còn có nghĩa là dư dật, dư thừa; chẳng hạn 12 thúng bánh vụn (9:17); người giàu bỏ tiền dư thừa vào hòm cúng đền thờ (21:4). Từ hypachò chỉ “của cải” (8:3; 11:21; 12:33.44; 14:33; 16:1…). Như thế, Chúa Giêsu chỉ cho thấy người tham lam sai lầm khi nghĩ rằng sự sống được bảo đảm nơi những gì họ có; nên họ tìm cách thu góp hơn cả những gì cần thiết cho cuộc sống. Điều nầy sẽ thấy rõ hơn trong dụ ngôn người giàu ngốc. Câu nầy được dùng như vừa kết luận phần đầu và chuyển ý sang dụ ngôn tiếp theo.
Dụ ngôn người giàu có ngốc (12:16-21)
Bố cục của đoạn nầy: – Người giàu có và suy nghĩ của ông (c. 16-17); – Việc làm của ông (cc. 18-19); – Việc của Thiên Chúa (c. 20); – Kết luận (c. 21). Đặc tính của câu chuyện này là độc thoại; tương tự người con hoang đàng (15:17-19); người quản lý bất trung (16:3-4); người quan toà bất công (18:4-5); người Pharisêô và người thu thuế (18:9-14). Vấn đề Luca muốn đặt ra được trình bày qua chân dung “một người” (x. 10:30; 14:2.16; 15:11; 16:1.19; 18:2; 15:8; 7:37). Đây là một người giàu có. Sự sung túc và dư dật của ông được mô tả qua sự phong phú của từ vựng: “người giàu có”, “ ruộng nương được mùa” (c. 16), “tích trữ”, “hoa màu” (c. 17), “xây lẫm lớn”, “lúa má”, “của cải” (c. 18), nghỉ, ăn uống, hưởng (c. 19). Chòra của ông có thể hiểu là đất nước, vùng (x. 3:1; 8:26; 15:14), cũng có nghĩa là cánh đồng (2:8). Euphoreò “được mùa” “sai trái”, tương đương với từ telesphoreò trong dụ ngôn Người gieo giống (8:14-15). Đất đai sinh hoa màu dư dật cho ông là điều tích cực; tuy nhiên, điểm Luca chú tâm chính là lời từ miệng ông “hoa màu của tôi” (c. 17), “của cải của tôi” (c.18). Ông có ý định phá kho lẫm cũ để xây cái lớn hơn đủ sức chứa hoa màu và của cải của ông (c.18). Sau lời độc thoại (cc. 17-18), ông nói với linh hồn của ông, psychè. Trong Luca psychè đồng hoá với con người (1:46; 6:9; 9:24; 10:27; 14:26; 17:33; 21:19). Lời của ông bộc lộ sự gắn bó bản thân ông vào những gì ông đang có: “Mầy có bao của cải” (c.19), và bày ra chương trình cho cuộc sống của ông. Điều sai lầm là ông quên rằng của cải đời nầy gắn liền cách bền vững với sự sống của ông và việc cố giữ sự sống nầy thì sẽ mất (x. 9:24; 14:26; 17:33).
Chúa Giêsu gọi người giàu có ấy là “ngốc!” (c. 20). Chữ “ngốc” trong Luca chỉ người không có một sự phán đoán đúng đắn (x. 10:40). Họ không hiểu thực tại, biết điều đúng để làm, và nhất là không biết ý của Thiên Chúa. Lời Người nói với ông như một phán quyết. “Đêm nay” gợi lên bóng tối của sự chết, hãi hùng, và sự việc sẽ xảy ra cách nhanh chóng. “Linh hồn ngươi” chính là người giàu có. Luca thường dùng động từ “chuẩn bị” cho việc dọn đường Chúa đến cứu độ (1:17.76; 3:4; 9:52; 12:47…). Tuy nhiên ở đây, những gì người giàu có nầy chuẩn bị của cải vật chất để thụ hưởng, thì dự tính ấy không thực hiện được, của cải ấy sẽ không thuộc về ông nữa và ông còn mất luôn cả sự sống!
Câu kết luận xác quyết cách gián tiếp là người giàu có đã tích trữ của cải “không trong Thiên Chúa” (c. 21), và những ai hành động như ông thì cũng sẽ bị đối xử như ông đã chịu. Cách làm giàu trong Thiên Chúa sẽ được đề cập đến trong đoạn tiếp theo. Đó là bán của cải mình có và cho người nghèo (12:33-34). Làm như thế là tích trữ kho tàng không hư mất trong Thiên Chúa.
Sự phi lý và sai lầm của con người là tìm bảo đảm cuộc sống trong của cải, nên tìm cách chiếm hữu nhiều chừng nào có thể, và dừng lại trên nó. Cái chết đến sẽ cho thấy điều nầy là sai lầm. Chỉ Thiên Chúa mới là sự sống của con người.

73. Cẩn trọng khi sử dụng tiền của
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Đã từ lâu đời, nơi xã hội loài người, con người luôn coi trọng đồng tiền. Đồng tiền nhiều khi đóng vai trò quyết định thành công hay thất bại… chẳng thế mà người ta thường nói:
“Đồng tiền là tiên là phật
Là sức bật của con người
Là nụ cười của tuổi trẻ
Là sức khỏe của tuổi già
Là cái đà danh vọng
Là cái lọng che thân
Là cán cân công lý…!”.
Và còn có những người mạnh miệng hơn khi tuyên bố rằng: “Có tiền mua tiên cũng được”.
Tuy nhiên, phụng vụ Lời Chúa hôm nay chỉ ra sự giới hạn của đồng tiền. Đồng thời cũng dạy cho chúng ta bài học về cách sử dụng tiền của sao cho hợp lý, để nó không chỉ có ích cho cuộc sống, mà còn có lợi cho phần hồn và ơn cứu chuộc.
1. Thái độ của con người về tiền bạc
Khi diễn tả tâm lý của con người về sự quý chuộng đồng tiền, người ta đã đúc kết qua một câu nói: “Đồng tiền liền khúc ruột”.
Bởi vậy, nhiều người đã dành cả một cuộc đời cặm cụi kiếm tiền, tìm mọi cách để giữ tiền và không chịu rời bỏ đồng tiền. Khi phải sử dụng hay mất mát, họ cảm thấy như mất đi một phần cuộc sống, chẳng khác gì: “Của đau con xót”.
Thực ra, việc kiếm tiền và giữ tiền tự bản chất không xấu. Tuy nhiên, sử dụng tiền làm sao cho hợp lý mới là điều đáng lưu tâm.
Đáng buồn thay, trong thực trạng xã hội hiện thời, người ta coi trọng đồng tiền đến độ tôn thờ nó như ông chủ. Họ sẵn sàng sử dụng đồng tiền để làm cho cán cân công lý bị lệch chuẩn cũng như đổi trắng thành đen…
Thật vậy:
“Đồng tiền không phấn không hồ,
Đồng tiền khéo điểm, khéo tô mặt người”.
Chính vì lẽ đó, mà thi sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thốt lên một cách chua chát:
“Nếu không điều lợi khôn thành dại,
Đã có đồng tiền dở cũng hay”.
Nếu sử dụng đồng tiền cho tốt thì nó sẽ trở thành tên đầy tớ trung thành, còn nếu sử dụng sai, nó sẽ là ông chủ bất nhân và lẽ đương nhiên, ta trở thành nô lệ cho nó.
Kinh nghiệm cuộc sống của mỗi người đã dạy cho chúng ta bài học về đồng tiền. Thật vậy, đồng tiền nó cũng có thể trang điểm cho chúng ta vinh quang, danh dự và giúp chúng ta trở thành con người có nhân nghĩa với anh chị em đồng loại. Nhưng ngược lại, đồng tiền nó cũng nhấn chìm chúng ta xuống tận bùn đen và nó tước hết tất cả những gì là danh thơm tiếng tốt nơi mỗi người nếu đặt để chúng sai vị trí!
2. Thái độ và lời dạy của Đức Giêsu về tiền bạc
Bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca cho thấy thái độ của Đức Giêsu về vấn đề tiền bạc và làm toát lên lời dạy của Ngài cho người đương thời biết sự giới hạn của đồng tiền.
Câu chuyện được khỏi đi từ việc có hai anh em đến nhờ Ngài phân chia tài sản, bởi lẽ, trước mắt họ, Đức Giêsu là một bậc thầy rabbi có uy tín trong dân, nên việc nhờ Ngài phân chia tài sản là điều cần thiết.
Tuy nhiên, trước lời đề nghị này, Đức Giêsu đã thẳng thắn từ chối vai trò trung gian. Ngài từ chối, không phải vì Ngài thờ ơ, lạnh lùng với thực trạng cuộc sống của hai anh em này. Nhưng qua đó, Ngài muốn khẳng định rằng: sứ vụ Thiên Sai của Ngài không phải là để làm những chuyện như thế, mà là loan báo ơn cứu độ và phần rỗi của con người. Vì thế, Ngài đã trả lời khi được đề nghị: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay chia gia tài cho các anh”?.
Nhân dịp thuận lợi này, Đức Giêsu đã dạy cho hai anh em này bài học: hãy tránh xa mọi thứ tham lam, bởi lẽ những của cải chiếm dụng được sẽ không đảm bảo cho được sống đời đời. Vì thế, đừng cậy dựa vào chúng quá lẽ.
Như một sự chứng minh, Đức Giêsu đã kể cho họ nghe dụ ngôn nhà phú hộ giàu có, nhưng đã không biết sử dụng tiền của cách chính đáng và hữu ích.
Lý do, ông phú hộ này khi có tiền của dư thừa, đã chè chén say sưa, xây dựng đền đài kho lẫm khổng lồ; ăn chơi phung phí, không hề nghĩ đến việc chia sẻ cho người nghèo và mưu cầu sự sống mai sau, tức là phần hồn. Ông ta coi những thứ đó như là một thứ đảm bảo cho cuộc sống của ông. Vì thế, ông ta đã ngủ mê trên sự giàu có, nhưng thực ra, đến ngày tận cùng, sự giàu có đó đã tố cáo ông và làm cho ông trắng tay.
Kết thúc câu chuyện, Đức Giêsu đưa ra giả thiết: “Đêm nay người ta sẽ đến đòi linh hồn ngươi” thì lúc đó: “Những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai”?.
3. Thái độ của người Kitô hữu về việc sử dụng tiền bạc
Lời cảnh tỉnh trên của Đức Giêsu đã là một sự cảnh báo cho mỗi người chúng ta hôm nay.
Vì thế, với tư cách là Kitô hữu, chúng ta phải chọn sao cho trọn. Tức là trước khi lựa chọn, chúng ta hãy xét đến sự ưu tiên.
Sách Giảng Viên trong bài đọc I đã đưa ra lời nhắc nhở: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”.
Sang bài đọc II, thánh Phaolô tiếp nối tư tưởng đó để khuyên bảo tín hữu của ngài khi đã trở nên thụ tạo mới, mặc lấy Đức Kitô và thuộc về Ngài qua Bí tích Rửa Tội, thì: “Hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”.
Và, như một sự mặc khải, Đức Giêsu đã chỉ dạy thật rõ ràng: “Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”.
Nhưng oái oăm thay! Nhiều người trong chúng ta không mảy may đến những lời cảch báo trên, mà ngược lại, chúng ta đã thượng tôn đồng tiền đến độ tôn thờ chúng. Coi chúng như gia tài. Giữ chúng như kho báu. Nên đã tìm mọi thủ đoạn để chụp giật được đồng tiền, đôi khi bán rẻ cả lương tâm để có được đồng tiền. Khi có nó, chúng ta đã phung phí cách thỏa thích nơi các cuộc ăn nhậu vô bổ, hút chích cũng như những việc làm bất chính khác…!
Trước những thái độ trên, hẳn là chúng ta đã đi vào vết xe đổ của nhà phú hộ ngu ngốc trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sứ điệp Lời Chúa dạy chúng ta rằng:
Nhiều tiền lắm bạc không phải là tội hay xấu xa, nếu đồng tiền được làm ra bởi công khó của mình. Mặt khác, giàu có mà biết sử dụng đúng mục đích thì thật là hữu ích không chỉ cho phần xác, mà còn cả phần hồn. Vì thế, giàu có trước mặt Thiên Chúa không hệ tại ở đồng tiền, mà là ở cách sử dụng đồng tiền.
Cần nhớ rằng: “Chúng ta đã chẳng mang gì vào trong thế gian, và chúng ta cũng không thể mang bất cứ cái gì ra khỏi đó” (1Tm 6,7).
Vì thế, đừng bám víu quá lẽ vào tiền bạc, mà hãy: “Sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12,33), đó là sự sẻ chia cho người nghèo.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rằng: chỉ có sự cho đi thì mới là gia tài của chúng con. Bởi vì khi nằm xuống, những gì chúng con đang có, cũng phải trả lại cho đời. Những gì thuộc về chúng con thì từ nay không còn nữa. Chỉ những gì đã cho đi vì lòng mến thì mới thuộc về chúng con và nó sẽ theo chúng con đến trước tòa phán xét để bênh vực chúng con mà thôi. Amen.

74. Hãy dùng tiền để mua lấy Nước Trời
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Trong cuộc sống, con người thường hay coi trọng tiền bạc, bởi vì người ta thường nói: “đồng tiền liền với khúc ruột”; hay: “có tiền mua tiên cũng được” hoặc có những câu nói mỉa mai như: “Tiền là Tiên là Phật;là sức bật của lò xo; là thước đo của lòng người; là tiếng cười của tuổi trẻ;là sức khỏe của tuổi già;là cái đà danh vọng;là cái vọng che thân;là cán cân công lý”. Chính vì thế, rất nhiều người khi đã kiếm được đồng tiền, người ta lo hưởng thụ, ăn chơi và dùng đồng tiền để làm những điều bất chính. Họ tôn vinh đồng tiền như một ông chủ trong cuộc sống của họ.
Nhưng với người Công Giáo, chúng ta có được coi đồng tiền là mục đích, là tất cả không? Và, sử dụng thế nào cho hợp theo ý Thiên Chúa muốn để được sự sống đời đời?
1. Thái độ của Đức Giêsu về vấn đề tiền bạc
Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật việc một người trong đám đông cất tiếng xin Chúa làm người phân xử và chia gia tài cho anh ta: “Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi”, nhưng Đức Giêsu trả lời: “Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc làm người chia gia tài cho các ngươi?”. Rồi Người bảo họ rằng: “Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu”. Qua câu nói đó của Đức Giêsu, Ngài muốn xác định sứ mạng của Ngài là loan báo ơn cứu độ để cho con người được sự sống đời đời chứ không phải chuyện phân chia tài sản; đồng thời mời gọi chúng ta hãy tìm nước Thiên Chúa trước tiên, mọi sự khác Chúa sẽ lo cho sau.
Như vậy, Đức Giêsu không lên án, cũng chẳng ủng hộ việc này. Ngài cũng không thượng tôn tiền bạc cũng lại không khinh chê nó. Nhưng Ngài lại hướng cho anh ta và đám đông đang đứng quanh đó một hướng đi mới; hướng đi của ơn cứu độ. Hướng đi ấy chính là biết cách sử dụng đồng tiền sao cho hợp lý và biết cách làm giàu trước mặt Chúa để được hạnh phúc đời đời chính là Nước Trời.
Nhân cơ hội này, Đức Giêsu dạy họ phải biết tránh mọi thứ tham lam; đồng thời nhắc cho mọi người biết là của cải không thể đem lại hạnh phúc đích thực nếu không biết sử dụng nó theo ý Chúa, vì thế đừng có an tâm và cậy dựa vào nó một cách thái quá.
Đức Giêsu cũng đưa ra hình ảnh của nhà phú hộ ngu ngốc. Ông ta sẵn sàng bỏ quên Chúa, không lo cho phần hồn của mình, ngược lại, ông ta tìm mọi cách để thu tích của cải trần gian và hả hê với những gì đạt được. Nhưng, Đức Giêsu đã khiển trách ông rất nặng nề: “Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai? Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy”. Qua lời cảnh cáo đó, Đức Giêsu cũng tiên báo cho những người chung quanh đó biết rằng: sự sống sự chết là ở trong tay Chúa, nên đừng như nhà phú hộ kia, nên hãy lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa để được hưởng sự sống đời đời. Nhà phú hộ kia đã mơ tưởng hão huyền, nhưng chưa kịp hưởng thụ như trong mơ thì ông đã chết.
Quả thật, con người chúng ta có 3 người bạn luôn theo chúng ta trong cuộc đời, đó là: bà con, tiền bạc và phúc đức. Tuy nhiên, khi giờ chết đến, chỉ có ông bạn phúc đức là theo chúng ta sang thế giới bên kia và tiếp tục là bạn chung thủy của chúng ta mà thôi. Còn bà con họ hàng thì bỏ lại chúng ta ngay tại cửa mồ. Tiền bạc sẵn sàng chia tay chúng ta ngay khi chúng ta chết, nhưng nó lại sẵn sàng, hăng say tố cáo chúng ta trước tòa Phán xét. Ấy thế mà nhà phú hộ cứ ngỡ nó là người bạn tốt: “Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi”. Ông ta đâu biết rằng cuộc sống của mình chỉ được cộng lại bằng những hơi thở ngắn ngủi, mong manh và người bạn bạc bẽo nhất chính là đồng tiền mà ông ta đang thượng tôn nó.
2. Người Kitô hữu và việc sử dụng tiền bạc
Bài đọc 1 cho chúng ta thấy: hư không trên các sự hư không; phù vân, quả là phù vân.Thật vậy, không có gì và không một ai trên trần gian này làm cho ta thỏa mãn với bản năng của con người, lại không thể đảm bảo cho chúng ta sự sống đời đời được. Chính vì thế, thánh Phaolô nói: “Anh em hãy hướng lòng trívề những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gìthuộc hạ giới”.Đức Giêsu thì truyền cho chúng ta một cách cụ thể hơn khi nói: “Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”. Hãy loại trừ tính tham lam. Khi tham lam là ta bất chấp mọi thủ đoạn. Làm lớn có thủ đoạn của người làm lớn, làm nhỏ cũng có những mánh khóe của người làm nhỏ. Nào là: bóc lột, tham nhũng, gian dối, lọc lừa… Nhưng thảm hại thay, dù có làm đủ mọi cách, con người chúng ta cũng không bao giờ thỏa mãn, bởi vì “tham thì thâm”. Câu ngạn ngữ của người Lamã thật chí lý: “Của cải như nước muối, bạn càng uống thì càng khát”. Người Việt Nam của chúng ta cũng thường hay nói: “lòng tham vô đáy”.
Thật vậy, hạnh phúc của chúng ta chỉ có thể đạt được nó khi ta bằng lòng với những gì mình đang có. Nó hoàn toàn xa vời khi đó chỉ là những ước ao hão huyền. Cuộc sống của chúng ta phải cố gắng, nhưng cần phải có thái độ phó thác: “hãy phó thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Ngài, Ngài sẽ ra tay”;”Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”.Được như vậy, chúng ta sẽ hạnh phúc ngay cả những cái không có nữa. Nếu không, chúng ta sẽ bất hạnh và cảm thấy rất đau khổ cũng như luôn có thái độ bất mãn…
Augierđã nói một câu làm cho chúng ta phải suy nghĩ: “Trongdự tính của Thiên Chúa, người giầu chỉ làviên thủ quỹ của người nghèo”. Thánh TômaAquinônói thêm và ngài nhấn mạnh: “Những người giầu đã đánh cắp của người nghèo khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa”.
Như vậy, trong cuộc sống, chúng ta phải nhạy bén và biết liên đới với những người sống chung quanh ta, đặc biệt là người nghèo. Vì xét cho cùng, mỗi người chúng ta đều là kẻ nghèo khó trước mặt Thiên Chúa. Vì thế, đừng kiêu ngạo, tự phụ là do công sức của mình hoàn toàn rồi hả hê, an tâm với những gì mình đạt được một cách tự mãn. Thánh Công đồng Vaticanô IIđã dạy cho chúng ta biết: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô”.
Quả thật, tiền bạc không phải là xấu, nhưng nó xấu đi là vì chúng ta biến nó thành ông chủ tồi thay vì là đầy tớ tốt.
Vì thế, đừng bao giờ đặt cho mình mục đích sống chỉ để kiếm tiền, bởi vì: “người giàu cũng khóc”. Cũng đừng vì tiền mà đánh mất lương tri và trà đạp người khác để đạt được mục đích. Đồng tiền không mua được hạnh phúc thật. Sự sống đời đời cũng không thể có nếu ta bóc lột, tham nhũng, bất chính…
Sứ điệp mà Đức Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay: hãy dùng của cải đời này mà “làm giầu trước mặt Thiên Chúa” (x. Lc 12,21). “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắpkhông bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12,33).
Như vậy, vấn đề không phải là giàu hay nghèo mà là thái độ sống trong các mối tương quan của ta với Chúa và tha nhân. Ưu tiên của tôi là cái gì: Thiên Chúa và anh em đồng loại hay tiền bạc? Xin để lại suy nghĩ cho mỗi người chúng ta!

75. Tiền bạc: Ông chủ hay đầy tớ?
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
1. Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay gồm hai phần chính như sau:
– PHẦN THỨ NHẤT: Một anh thanh niên đến khiếu nại xin Đức Giêsu can thiệp để người anh phải chia gia tài cho anh ta. Nhưng Người từ chối, và nhân dịp này đã dạy mọi người phải tránh thói tham lam ích kỷ, cũng đừng trông cậy vào sự bảo đảm của tiền bạc cho tương lai cuộc đời mình.
– PHẦN THỨ HAI: Người kể ra dụ ngôn về một người giàu có chỉ lo thu tích của cải và làm giàu cho bản thân. Điều đó thật là dại khờ! Vì chính lúc anh ta tưởng rằng tương lai cuộc đời của mình được của cải bảo đảm, để yên tâm nghỉ ngơi ăn uống và vui chơi thỏa thích, lại là lúc cái chết thình lình ập đến. Thế thì số tài sản của anh ta tích trữ kia sẽ về tay ai? Cuối cùng Người kêu gọi người ta hãy lo làm giàu về thiêng liêng, để những của cải này sẽ có giá trị trước tòa phán xét sau này.
2. CHÚ THÍCH:
– C 13-15: + “Xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”: Luật Mô-sê qui định: trong việc thừa kế, chỉ con trai mới được chia gia tài. Trưởng nam được hưởng trọn phần di sản về bất động sản như đất đai nhà cửa, và còn được gấp đôi phần động sản như tiền bạc, hoa màu… nữa (x. Đnl 21,17). Vậy có một người anh cả kia sau khi cha chết đã chiếm hết tài sản cha để lại và không chia cho người em phần nhỏ bé mà lẽ ra anh ta được hưởng. Thời Đức Giêsu người Do thái thường yêu cầu một luật sĩ đứng ra làm trọng tài khi có sự tranh chấp về Luật pháp. + Ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?: Tuy “là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết” (Cv 10,42), nhưng Đức Giêsu đã từ chối can thiệp về việc chia gia tài này, vì điều cấp bách mà Người sắp phải chu toàn là đi lên Giê-ru-sa-lem chịu khổ nạn, nên Người tránh mất thì giờ vào việc riêng cá nhân, vốn thuộc thẩm quyền của các đầu mục Do thái (x. Xh 2,14). + Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam…: Tuy từ chối can thiệp, nhưng Đức Giêsu không nhắm mắt làm ngơ. Người nhân cơ hội này giúp cho anh ta và những người hiện diện tránh lòng tham tiền bạc của cải và tránh trông cậy quá đáng vào sự bảo đảm của tiền bạc cho tương lai cuộc đời của mình.
– C 16-19: + Có một nhà phú hộ kia: Dụ ngôn cho thấy ông phú hộ đã thành công trong công việc làm ăn. Ông mở rộng thêm nhà kho để tích trữ thóc lúa dư thừa cho an toàn. + Ta sẽ nhủ lòng: đồng nghĩa với: “Tôi sẽ bảo hồn tôi”. Danh từ “hồn” có nghĩa là một con người sống động. + Cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!: Của cải vật chất đã tác động làm cho ông nhà giàu không những chi lo làm giàu, mà còn dẫn ông ta đến chỗ ăn chơi sa đọa và lười biếng làm việc bổn phận, đồng thời trông cậy số tài sản lớn lao đã tích trữ được kia sẽ bảo đảm cho tương lai cuộc đời của mình.
– C 20-21: + Đồ ngốc: Cựu ước dùng kiểu nói “ngốc, ngu dại” để ám chỉ những người chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa như lời Thánh vịnh đă viết: “Kẻ ngu si tự nhủ: Làm chi có Chúa Trời” (x. Tv 14,1). Người phú hộ này được coi là kẻ ngu dại, vì đã lãng quên Thiên Chúa, do quá bon chen về việc kiếm thêm của cải vật chất. + Nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng ngươi: Có nghĩa là đêm nay Thiên Chúa sẽ gọi ngươi ra khỏi thế gian bằng cái chết. + Những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?: Thiên Chúa mới là chủ của sự sống và sự chết chứ không phải tiền bạc. Của cải trần gian không thể bảo đảm cho người ta được sống mãi mãi. Khi chết thì cả người anh giàu có khờ dại và đứa em nghèo khó tham lam đều không thể mang theo mình sang thế giới bên kia được. Như thế: Lòng tham lam và sự tích trữ của cải là một hành động khờ dại và vô ích! + Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa thì số phận cũng như thế đó: Đức Giêsu nhắn nhủ về việc sử dụng của cải. Nếu dùng của cải để hưởng thụ một mình thì sẽ bị trắng tay khi giờ chết đến. Nhưng nếu dùng của cải để làm việc thiện, quảng đại chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói, thì đó là một cách để làm giàu trước mặt Thiên Chúa và sẽ đem lại hạnh phúc vĩnh viễn cho mình ở đời sau (x. Lc 12,33; 18,22; 16,9; Mt 25,40).
3. CÂU HỎI: 1) Tại sao người em lại yêu cầu Đức Giêsu can thiệp để người anh chia gia tài cho mình? 2) Đức Giêsu đã từ chối can thiệp về việc chia gia tài này vì lý do gì? 3) Đức Giêsu đã khuyên bảo thế nào về thái độ phải có đối với tiền bạc của cải trần gian? 4) Tại sao Đức Giêsu gọi kẻ chỉ biết thu tích của cải vật chất và quá trông cậy vào giá trị của đồng tiền là “đồ ngốc”? 5) Người muốn các tín hữu phải sử dụng tiền bạc của cải trần gian thế nào cho có lợi ở đời sau?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó” (Lc 12,21).
2. CÂU CHUYỆN: TỪ “MỘT TÊN SÁT NHÂN” TRỞ THÀNH ÂN NHÂN CỦA THẾ GIỚI.
Cách đây khá lâu, vào một buổi sáng sớm, khi mở mấy tờ báo hằng ngày ra đọc, ON-PHIT NÔ-BƠN (Alfred Nobel) vô cùng sủng sốt khi nhìn thấy trên nhiều tờ báo hằng ngày được phát hành số lượng rất lớn, đã đồng loạt đưa tin về cái chết của ông với những hàng tít trên trang nhất, kèm theo những bài bình luận đầy ác cảm đối với ông. Họ dùng những từ có tính bôi nhọ, hạ nhục cá nhân ông như: “Nô-bơn, ông vua cốt mìn đã chết”, “Tên đồ tể Nô-bơn đã bị tiêu đời”, “Nô-bơn, một tên sát nhân đã chế tạo các thứ vũ khí giết người hàng loạt giờ đây không còn nữa!”… Sau đó dư luận mới té ngửa rằng: người chết không phải là Nô-bơn nhưng là người anh ruột có tên gần giống với ông. Mặc dù các tờ báo kia sau đó đã phải đính chính và xin lỗi về sự loan tin thất thiệt. Nhưng dù sao các bài bình luận đó cũng là một cú “sốc” đối với Nô-bơn. Nó đánh thức lương tâm khiến ông luôn suy nghĩ và tự hỏi: “Tại sao báo chí lại coi ta là một tên đồ tể giết người như vậy? Tại sao dư luận lại tỏ ra ác cảm và thù hận ta như thế? Tại sao chẳng thấy ai nói một lời an ủi thông cảm và lấy làm tiếc về cái chết của ta?” Sau thời gian này, Nô-bơn đã quyết định phải biến đổi hình ảnh xấu trong dư luận đang có về mình. Ông đã nhờ luật sư lập tờ di chúc để trao tặng toàn bộ số tài sản kếch sù đang gửi trong ngân hàng, số tiền do ông kiếm được nhờ bán các phát minh khoa học về cốt mìn cho chính phủ. Từ đó mỗi năm một ủy ban quốc tế đã lấy ra số tiền lời, chia thành 5 phần thưởng có giá trị lớn để trao tặng cho những người có công về các lãnh vực: hòa bình, vật lý, hóa học, y học và văn chương. Nô-bơn đã thành công trong việc sử dụng tiền của vào việc tốt đẹp. Việc đó không những làm cho ông lấy lại quân bình về tinh thần, mà nó còn giúp ông biến đổi dư luận đang coi ông là “một tên đồ tể giết người”, công khai nhận ông là một vị đại ân nhân của nhân loại.
3. SUY NIỆM:
1) Phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam: Đó là lời dạy của Chúa Giêsu nhân có người yêu cầu Người can thiệp để người anh chia gia tài cho anh ta. Người từ chối khi trả lời: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?”. Sau đó, Đức Giêsu đã kể ra dụ ngôn về một nhà phú hộ đã lo làm giàu rồi lo hưởng thụ số tài sản kiếm được, để dạy cho mọi người phải tránh thói tham lam ích ký như sau:
– Thói tham lam: Lòng tham của nhà phú hộ biểu lộ qua sự tính toán làm giàu. Tính toán để làm tăng thêm lợi nhuận tiền bạc như sau: “Ta sẽ phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó”.
-Thói ích kỷ: Lẽ ra nhà phú hộ có thể làm được biết bao việc tốt cho tha nhân với số tài sản kếch sù của ông. Chẳng hạn: giúp đỡ những người nghèo khổ đang sống bên cạnh ông, tăng lương cho những người đang làm công cho ông; Đóng góp xây dựng trường học tại địa phương để trẻ em có nơi học hành tử tế; Góp phần tu bổ hội đường làng ông đang ở để nên khang trang xứng với việc thờ phượng hơn… Nhưng ông đã không nghĩ đến tha nhân mà chỉ quan tâm thỏa mãn các nhu cầu hưởng thụ ích kỷ, thể hiện qua quyết định như sau: “Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!”
2) “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi…”:
Cách đây ít năm, một vị thừa sai tại Phi châu đã cho biết như sau: Có một số dân Phi châu hiện vẫn giữ tục lệ này là: Khi có người chết, trước khi liệm xác chết vào quan tài, họ lột bỏ tất cả y phục mà kẻ đó đang mặc rồi đem đi chôn. Tục lệ này nói lên sự thật này là: chúng ta sẽ rời bỏ thế gian mà không mang theo được bất cứ vật gì như tiền bạc châu báu và mọi vật dụng khác theo với mình! Thánh Phao-lô dạy: “Chúng ta không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được” (Tm 6,7). Đây cũng là ý mà Đức Giêsu muốn dạy trong Tin mừng hôm nay: Khi chúng ta chết thì cái ta cần đến không phải là những gì ta đã tích trữ được khi còn sống, mà chính là con người của ta đã được biến hóa như thế nào trong suốt cuộc sống ở trần gian.
Người ta không ngừng làm giàu, vì họ gán cho tiền bạc của cải một giá trị mà thực ra chúng không có như sau: Đồng tiền có sức mạnh vạn năng: “Có tiền mua tiên cũng được” hoặc “Kim ngân phá lề luật”. Đồng tiền là chúa tể mọi sự: “Đồng tiền là tiên là phật, là sức bật của lò xo, là sức đo của loài người, là tiếng cười của tuổi trẻ, là sức khỏe của người già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý, là đồng chí thật thân thương, là đồng hương rất thân cận, là thời vận để thanh xuân, là vui mừng và phấn khởi”… Nhưng thực ra họ đã lầm.
3) “Không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”: Bao nhiêu người giàu có đã chết, cả khi chưa kịp “nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã”. Cho nên điều quan trọng là phải biết giá trị đích thực của tiền bạc của cải. Chúng chỉ có tương đối ở đời này và là ơn Chúa ban để ta sử dụng phục vụ Nước Chúa và tha nhân, hầu đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Vì chỉ có giá trị tương đối, nên ta sẽ không coi chúng là ông chủ, nhưng chỉ là đầy tớ của mình. Vì “Đông tiền sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu”.
4) “Hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời”: Đức Giêsu dạy ta biết phải làm gì đối với tiền bạc vật chất. Người nói: “Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,32-33). Làm theo lời Chúa dạy như thế là ta đang “lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Những gì ta tích trữ dưới thế này sẽ không thể mang theo được khi chết, nhưng ta có thể biến đồng tiền vật chất ở đời này trở thành đồng tiền thiêng liêng có giá trị ở đời sau, bằng việc thực thi bác ái, chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói bệnh tật chung quanh chúng ta theo lời dạy của Đức Giêsu: “Hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được” (Mt 6,20).
4. THẢO LUẬN: 1) Có hai cách sử dụng đồng tiền: Nếu dùng tiền cách ích kỷ thì ta sẽ bị mất sự sống ở đời sau. Ngược lại nếu dùng tiền của đời này một cách bác ái vị tha thì ta sẽ có sự sống vĩnh hằng. Vậy bạn quyết tâm sẽ dùng tiền bạc của bạn như thế nào? 2) Bạn sẽ làm gì trong những ngày này để biến các đồng tiền vật chất trở thành loại đồng tiền thiêng liêng có giá trị sau khi chết?
5. NGUYỆN CẦU
– Lạy Chúa Giêsu. Bài học Chúa dạy chúng con hôm nay là phải biết khôn ngoan sử dụng tiền bạc của cải mà Chúa đã ban cho chúng con. Trong thực tế những kẻ đang giàu lại muốn ngày một giàu thêm. Còn những kẻ nghèo mà có lòng tham thì “bao nhiêu cũng không vừa”! “Cái khó bó cái khôn” “Của vào nhà khó như gió vào nhà trống”: cảnh nghèo thật khổ lắm chắc Chúa đã quá rõ.
– Lạy Chúa. Xin ban cho chúng con “mưa thuận gió hòa”, cho con người biết nghĩ tới nhau và biết chia sẻ cho nhau các nhu cầu cần thiết. Xin Chúa soi sáng cho người giàu biết thực hành Lời Chúa dạy hôm nay để lo làm giàu về phần thiêng liêng, bằng cách sẵn sàng quan tâm chia sẻ cơm áo vật chất cho người đói khổ bất hạnh. Xin cho người nghèo đừng chỉ miệt mài đi tìm kiếm tiền của như mục đích tối hậu hay như lẽ sống cuộc đời của mình. Xin cho mọi người chúng con biết thực hành theo Lời Chúa dạy: “Trước hết hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các sự khác như ăn gì mặc gì thì Người sẽ thêm cho chúng con sau” (Mt 6,33).
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.