CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – B

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Xh. 16, 2-4.12-15; Ep. 4, 17.20-24; Ga. 6, 24-35
MỤC LỤC
1. Bánh đích thực 4
2. Tìm kiếm giá trị tuyệt đối 7
3. Bánh từ nhà đem tới 11
4. Óc ngắn…! 13
5. Đọc được dấu lạ 17
6. Chúa Nhật 18 Thường Niên 21
7. Chúa Nhật 18 Thường Niên 25
8. Bánh Trường Sinh 29
9. Của ăn thiêng liêng 32
10. Đời còn thiếu 34
11. Sẽ không bao giờ đói khát 36
12. Sẽ không bao giờ đói khát 41
13. Bánh từ nhà đem đến. 46
14. Đằng sau vật chất hữu hình 48
15. Chúa Nhật 18 Thường Niên 56
16. “Lương Thực Vĩnh Cửu” 59
17. Bánh Ban Sự Sống 62
18. Tấm bánh được bẻ ra 64
19. Bánh Hằng Sống 69
20. Bánh hằng sống 72
21. Chúa Nhật 18 Thường Niên 77
22. Bánh bởi trời 80
23. Chúa Giêsu là bánh bởi trời 88
24. Chết trong danh dự 96
25. Con người tìm Chúa vì điều gì? 99
26. Hãy tìm kiếm Nước Trời 101
27. Vòng xoáy cuộc đời 104
28. Thánh Thể – Nguồn mạch tình yêu 107
29. Của ăn cho cuộc sống muôn đời 112
30. Vì của ăn tồn tại đến muôn đời 115
31. Lời ban sự sống. 119
32. Ý Thiên Chúa – Ý con người 121
33. Lương thực các Thiên Thần 126
34. Chính là Cha tôi cho các ông ăn 128
35. Tìm kiếm Chúa Giêsu 131
36. Chúa Nhật 18 Thường Niên 135
37. Làm hay là? 138
38. Chúa Nhật 18 Thường Niên 143
39. Lương thực Chúa ban 145
40. Chúa Nhật 18 Thường Niên 158
41. Chúa Nhật 18 Thường Niên 161
42. Chúa Nhật 18 Thường Niên 163
43. Sống tạm và Sống mãi 166
44. Chuyện hai bên bờ biển hồ 169
45. Chúa Nhật 18 Thường Niên 174
46. Chúa Nhật 18 Thường Niên 177
47. Dấu chỉ tình thương 188
48. Chúa Nhật 18 Thường Niên 192
49. Bánh Ban Sự Sống 198
50. Thánh Thể, Bí Tích Tình Yêu 201
51. Của không hư nát 206
52. Man-na – Thánh Thể 209
53. Thần lương 212
54. Bánh bởi trời 215
55. Đói khát 219
56. Chúa Nhật 18 Thường Niên 223
57. Làm việc để tìm kiếm Nước Trời 233
58. Chúa Nhật 18 Thường Niên 235
59. Ăn để sống… đời đời 239
60. Ta là Bánh Hằng Sống 244
61. Một trái tim đói khát 246
62. Chúa Nhật 18 Thường Niên 249
63. Thánh lễ 252
64. Chúa Nhật 18 Thường Niên 254
65. Chúa Nhật 18 Thường Niên 258
66. Không hư nát 262
67. Nhiều cơn đói 265
68. Chúa Nhật 18 Thường Niên 268
69. Trông cậy 270
70. Tự do 272
71. Tôi là Bánh Ban Sự Sống 275
72. Chúa Nhật 18 Thường Niên 284
73. Chú giải của Noel Quesson 289
74. Chú giải của Fiches Dominicales 295
75. Chúa Nhật 18 Thường Niên 301
76. Chú giải của William Barclay 305
77. Lương thực đời đời 312
78. Ẩm thực 319
79. Cái gì đây? 325
80. Chúa Nhật 18 Thường Niên 337
81. Đón nhận lương thực thần linh 345
82. Suy niệm các ngày trong tuần 18 TN 350

1. Bánh đích thực
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Dân chúng vẫn còn sôi nổi sau phép lạ bánh hoá nhiều.
Hôm sau, họ lên thuyền qua bờ bên kia để tìm Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy nỗ lực tìm kiếm của họ. Ngài biết họ tìm Ngài chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự… Miếng ăn là nỗi lo của người nghèo vùng Galilê. Đó cũng là nỗi lo của hàng tỉ người trên thế giới. Đức Giêsu không trách họ về chuyện này. Ngài chỉ muốn nâng họ lên cao hơn, bởi lẽ con người không chỉ là thân xác.
Dân chúng vất vả tìm chút lương thực mau qua. Đức Giêsu muốn họ đừng quên thứ lương thực thường tồn nhằm nuôi dưỡng tinh thần và đem lại sự sống vĩnh cửu.
Người dân Galilê chỉ nhớ đến chiếc bánh hôm qua. Họ bị sa lầy và ngừng lại trong phép lạ. Họ không thể đi xa hơn và cũng không mơ ước gì hơn.
Con người hôm nay có nét giống đám đông ngày xưa. Người nghèo thì bị hút vào công việc lam lũ nhọc nhằn, để thỏa mãn cái đói cấp bách của thân xác. Người giàu thì mê mải với bao tiện nghi đang mời gọi. Họ bị ám ảnh và chạy đua với những mặt hàng mới. Rốt cuộc, kẻ nghèo người giàu đều có nguy cơ như nhau, đó là đánh mất đi cái đói khát tinh thần, mãn nguyện với cái bụng no, hay với thứ nữ trang đắt giá.
Thật ra, cũng khó dập tắt nỗi khát khao về Tuyệt Đối mà Thiên Chúa đã đặt rất sâu trong lòng người.
Mọi thứ thức ăn trần gian, con người không lấy làm đủ. Người nghèo không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần tình thương. Người giàu dư cơm bánh, nhưng lại cần lẽ sống. Không thiếu những bạn trẻ nhà giàu, có học, có tương lai, nhưng lại thất vọng chán chường, thậm chí rơi vào trụy lạc. Họ có tất cả, nhưng vẫn thấy thiếu cái gì đó… Thiếu cái này thì mọi thứ khác trở thành thừa. Có khi sống sa đọa lại là cách họ biểu lộ cơn đói khác vô cùng về những điều cao cả.
Đức Giêsu khơi dậy những khát khao tốt đẹp đang ngủ quên. Ngài không cho dân chúng thứ manna từ trời rơi xuống, để mỗi ngày họ phải lượm mà ăn.
Ngài cho họ thứ bánh bởi trời đích thực, bánh ban sự sống đời đời cho toàn thế giới.
“Xin cho chúng tôi thứ bánh đó luôn luôn”
“Xin ông cho tôi thứ nước ấy” (Ga 4, 15).
Con người vẫn đói khát thức ăn tinh thần. Cơn đói này còn kinh khủng hơn cả cơn đói thân xác.
Hãy đến với Giêsu! Hãy tin vào Giêsu! Nếu bạn khao khát Tuyệt Đối thì chỉ Tuyệt Đối mới làm bạn no thỏa. Tuyệt Đối đã hiện diện nơi Đức Giêsu.
Ước chi bạn để cho Ngài nuôi bằng lời giáo huấn, và tin tưởng dấn thân theo Ngài bằng cả cuộc đời.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khi nói đến thức ăn tinh thần, người ta nghĩ ngay đến báo chí, sách vở, các phương tiện truyền thông đại chúng như tivi, phim ảnh, video. Bạn đánh giá thế nào về các món ăn tinh thần này? Bạn thích hình thức giải trí nào hơn cả?
Bạn có những khát vọng về mặt vật chất cũng như tinh thần. Khi đến với Đức Giêsu, bạn có thấy mình được mãn nguyện chút nào không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Những lúc con cảm thấy đói, xin ban cho con một ai đó đang cần của ăn.
Khi con khát, xin gởi đến cho con một ai đó đang cần nước uống.
Khi con lạnh lẽo, xin gởi đến cho con một ai đó đang cần được sưởi.
Khi con bị xúc phạm, xin ban cho con một ai đó đang cần ủi an.
Khi thập giá của con trở nên nặng nề, xin ban cho con thập giá của một người khác để cùng chia sẻ.
Khi con túng nghèo, xin dẫn đến cho con một người thiếu thốn.
Khi con không có thời giờ, xin ban cho con ai đó để con giúp họ giây lát.
Khi con nản chí, xin gởi đến cho con một người cần khích lệ.
Khi con chỉ biết nghĩ đến mình, xin xoay chuyển tư tưởng con hướng đến tha nhân.

2. Tìm kiếm giá trị tuyệt đối
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Cách đây khoảng 10 năm, tại bang California bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất cả đều là những thanh niên trẻ tuổi, con nhà giàu, có học thức. Nguyên nhân tự tử là vì họ mong về Thiên đàng. Năm ấy có sao chổi xuất hiện. Họ cho rằng sao chổi chính là chuyến xe về Thiên đàng. Mấy mươi năm mới có một chuyến, nên họ vội vàng ra đi, sợ nhỡ chuyến.
Tính tỉ lệ những người tự tử, ta thấy thanh niên các nước giàu tự tử nhiều hơn thanh niên các nước nghèo. Hiện nay trong nước ta, tại các thành phố lớn, đang có hiện tượng các thanh niên đua xe gắn máy, liều lĩnh coi thường mạng sống. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy đó là những thanh niên con nhà giầu có.
Những hiện tượng đó đáng cho ta suy nghĩ. Những người nghèo đói thật vất vả khổ sở. Họ chỉ mong sao cho có đủ cơm ăn áo mặc. Có cơm ăn áo mặc đã là hạnh phúc. Nhưng khi người ta đã có đủ cơm đủ áo, đủ mọi phương tiện, người ta vẫn không hạnh phúc. Nhìn những thanh niên giầu có chán đời đi tìm cái chết; nhìn những thanh niên chán cảnh nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm đeo ba-lô đi du lịch bụi đời, ta thấy rằng vật chất không phải là tất cả. Và những khao khát của con người là vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn. Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có ô – tô. Có ô – tô rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó. Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò: đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay với.
Hôm nay, đứng trước đoàn người hăm hở đi tìm lương thực, Đức Giêsu đã cảnh báo họ: “Đừng lo tìm những thứ lương thực hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người đã rõ giá trị tạm bợ của miếng cơm manh áo. Người cũng thấu rõ tâm hồn con người mau chán những gì đạt được. Người đã tạo dựng tâm hồn con người, nên Người hiểu lòng khao khát của con người là vô biên. Chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao ấy. Người đã mở đường để tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, vươn lên tìm kiếm những giá trị thiêng liêng cao cả, xứng với tầm vóc con Thiên chúa.
Thế nhưng ta tìm đâu ra những giá trị tuyệt đối để lấp đầy nỗi khao khát vô biên? Ta tìm đâu ra thứ bánh làm dịu được cơn đói hạnh phúc? Hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho ta thứ bánh đó. Đó là bánh đích thực, vì ăn rồi ta sẽ không bao giờ đói nữa. Đó là bánh ban sự sống, ai ăn sẽ không chết nữa. Đó là bánh ban hạnh phúc, ăn vào sẽ không còn khao khát điều gì khác. Đó là bánh Thiên Chúa ban chứ loài người không ban được. Đó là bánh từ trời chứ trần gian không sản xuất được. Tấm bánh đó là chính bản thân Người, Đức Giêsu Kitô.
Những người Do thái đã sai lầm khi đi tìm Đức Giêsu để được ăn bánh. Đức Giêsu đã cảnh tỉnh họ khi cho họ biết rằng không nên tìm bánh, vì như thế họ sẽ thất vọng. Bánh ăn rồi sẽ lại đói. Nhưng phải tìm chính Đức Giêsu. ở đây ta nhớ tới bài học Chúa đã dậy tổ phụ Ápraham. Thoạt tiên, Chúa kêu gọi tổ phụ Ápraham đi theo Chúa và hứa cho ông được một đất nước chảy sữa và mật và một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Nghe theo lời hứa, tổ phụ đã lên đường. Nhưng khi ông sinh được một người con trai duy nhất trong tuổi già, Chúa lại bảo ông phải sát tế dâng cho Chúa. Đây là một thử thách lớn lao, nhưng cũng là một lời mời gọi vươn lên. Ápraham được mời gọi thoát khỏi sự ràng buộc của lợi lộc vật chất. Theo Chúa chỉ vì Chúa chứ không phải vì lợi lộc vật chất. Ông hoàn toàn có lý vì ông đã chọn Chúa là sự Thiện tuyệt đối chứ không chỉ lựa chọn một vài sự thiện tương đối. Ông đã lựa chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc chứ không đuổi theo những ảo ảnh của hạnh phúc. Đức tin của ông hoàn toàn trưởng thành, nên ông đã trở thành Cha của những kẻ tin.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi, hãy noi gương tổ phụ Ápraham. Đừng tìm những mảnh vụn hạnh phúc, nhưng hãy đi đến nguồn mạch hạnh phúc. Đừng lo nắm giữ những của cải phù du, nhưng hãy tìm chiếm giữ kho tàng bền vững mối mọt không đục khoét được. Đừng đuổi theo những giá trị tương đối, nhưng hãy biết tìm kiếm giá trị tuyệt đối là chính Chúa. Chính Chúa sẽ làm ta no thoả. Chính Chúa sẽ lấp đầy những khát vọng của ta. Chính Chúa ban cho ta hạnh phúc tràn đầy, vĩnh viễn.
Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với thánh Âucơtinh: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có một thời người ta nói: “Đi đạo kiếm gạo mà ăn”. Bạn nghĩ gì về câu nói đó?
2) Mơ ước một đồ vật. Khi được rồi lại chán. Bạn có kinh nghiệm đó không?
3) Bạn có những khao khát về vật chất cũng như tinh thần. Khi đến với Đức Giêsu, bạn có thấy được thoả mãn phần nào không?

3. Bánh từ nhà đem tới
(Suy niệm của ĐGM. Arthur Tone)
Trong trận chiến ở Tây Ban Nha, một người lính bị thương nặng được đưa về bệnh viện dã chiến. Chàng có hy vọng bình phục nhưng chàng lại không chịu ăn. Các y tá các nữ tu đã tìm mọi cách thuyết phục, nhưng chàng từ chối mọi thức ăn đem tới. Một người bạn thân của chàng, biết chàng nhớ nhà, nên anh tình nguyện đi tìm nhà của người bạn, anh kẻ rõ hoàn cảnh. Người cha của người bị thương chuẩn bị lên đường thì mẹ chàng gói cho con bà một tấm bánh. Nạn nhân vui mừng khi thấy cha mình. Nhưng anh vẫn chưa chịu ăn, đến khi cha chàng nói: “Này con, đây là tấm bánh mẹ con đã nướng”. Người con tươi nét mặt nói: “Vâng, bánh mẹ con làm, cho con một miếng”. Từ đó, chàng bắt đầu trên đường bình phục.
Bạn và tôi ở trong câu chuyện đó. Chúng ta bị thương trong trận chiến cuộc đời bởi tội, bởi quên Chúa, bởi những điều phiền muộn, những gian nan và những khổ đau hàng ngày. Chúng ta hết muốn ăn những món ăn làm cho linh hồn chúng ta thêm mạnh mẽ. Chúng ta hãy nghe Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Cha Ta cho anh em Bánh bởi trời đích thực. Bánh của Thiên Chúa từ trời đến và ban sự sống cho thế gian”. Cũng giống như người cha trong câu chuyện nói với con mình “Đây là bánh mẹ con đã làm”. Bởi vậy, vị linh mục của bạn nhân danh Đức Kitô nói với bạn: “Đây là Bánh Cha bạn ở trên trời đã làm”.
Thánh Thể là bánh từ trên trời, bánh ban sự sống cho chúng ta, sự sống thiêng liêng thật, sự sống của Thiên Chúa. Bánh chữa lành thiêng liêng, ban sức khỏe và sức mạnh thiêng liêng.
Không có phù phép trong tấm bánh của người mẹ. Nhưng có tình yêu là phép màu. Bởi kinh nghiệm, người lính bị thương biết rằng tấm bánh mẹ chàng nướng gói ghém bao tình thương. Cũng thế, chúng ta những kẻ theo Chúa Kitô biết rằng Tình yêu ban tặng trong Thánh Thể, trong việc đem bánh bởi trời đến ngay nơi đây, trong giờ này.
Trong Thánh vịnh đáp ca, chúng ta lặp lại những lời của bài ca trong Cựu Ước, ca ngợi Chúa vì Chúa ban Mana, của ăn lạ lùng Chúa ban cho dân Người trên hành trình về đất hứa. Mana là hình ảnh bánh Thánh Thể chúng ta dùng cũng những lời người Do Thái cổ đã dùng khi cảm tạ và ca ngợi Chúa. Vì bánh Thánh Thể Chúa ban trong giờ phút này.
“Chúa đã cho họ bánh bởi trời”
“Người làm mưa Mana trên họ để làm của ăn
và Người cho họ bánh bởi trời”.
Loài người được ăn bánh của Đấng Toàn Năng. Thánh Thể bao gồm tất cả. Hôm nay tôi gợi ý chúng ta nhớ Bánh bởi trời là liều thuốc cho linh hồn đau yếu, là sự bổ dưỡng cho tâm hồn bị thương, là ánh sáng và sức mạnh cho tâm trí yếu đuối. Tất cả chúng ta sẽ thấy được điều người lính bị thương trong câu chuyện đã kinh nghiệm. Nếu chúng ta nhớ rằng: “Thánh Thể là bánh đem từ nhà tới, từ nhà của chúng ta ở trên trời”.
Xin Chúa chúc lành bạn.

4. Óc ngắn…!
(Suy niệm của Lm. Đaminh Hương Quất)
Trong cuộc sống, vẫn thường thấy những phát ngôn gây sốc của một số người đẹp có lối sống theo kiểu để nổi tiếng bất chấp tai tiếng; làm bồ nhí các đại gia, phá hủy hạnh phúc gia đình người khác, bất chấp luân lý- đạo đức… Khi có người phản đối, họ liền có những phất biểu chống chế thể hiện tầm thấp dưới trung bình của nhận thức (đại loại như câu ‘không quen đại gia gặm đất mà ăn à’)… Với những chân dài có lối sống buông thả kiểu này, nhiều người chỉ bữu môi: “chân dài mà óc ngắn”
Vì ‘óc ngắn’ nên nhiều người chỉ biết cái trước mắt; vì óc ngắn nên để có cuộc sống nhung lụa, nổi tiếng họ sẵn sàng làm tất cả, bất chấp đạo lý, trà đạp lương tâm… Đồng tiền không phải là tất cả, điều ai cũng biết, nhưng với họ sẵn sàng làm tất cả để có tiền.
Và đâu đó trong chúng ta, kể cả 1 bộ phận không nhỏ trong giới trẻ với lối sống bề ngoài, hình thức, hời hợt, cảm tính… chúng ta vẫn thể hiện lối sống theo kiểu ‘óc ngắn’…
Điều này càng thấy rõ: vì của ăn tạm bợ vật chất- tiền tài danh vọng ta sẵn sàng thờ ơ của ăn đích thực đảm bảo sự sống đời đời; để cho của cải trần thế lóa mắt và quên đời sau.
Bài Tin Mừng hôm nay, cho ta thấy rõ phần nào ‘óc ngắn’ của người Do Thái xưa mà trong đó vẫn tồn tại trong chúng ta đến tận hôm nay.
Sau khi được Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh và hai con cá, dân chúng ăn một bữa no nê, thỏa thích và có ý định tôn Chúa làm vua. Biết ý họ, Chúa Giêsu lánh đi nơi khác.
Họ muốn bầu Chúa Giêsu làm vua, hoàn toàn mang tính vật chất, tính toán theo thói thế gian. Giêsu mà làm vua sẽ chẳng còn lao động vất vả kiếm ăn, chẳng còn đói khổ, chẳng còn lo lắng bệnh tật bởi Người chữa được hết… bởi thế, khi thấy Chúa lánh đi, họ tiếp tục đi tìm Chúa, đoán Chúa đi hướng nào để đón đầu Chúa.
Khi gặp được Chúa, làm ra vẻ quan tâm, yêu thương Chúa Giêsu, hỏi một câu ‘giả nai’: Thưa thầy, thầy đến đây lúc nào vậy?.
Thấy rõ tâm địa của họ, Chúa Giêsu nói thẳng xem ra hơi khó nghe: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”,
Sau đó, Chúa hướng lòng họ cần tìm Lương thực cao quý hơn, lương thực không hư nát, không mất mát, lương thực đem lại sự sống đời đời. Ngài nói: “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ngươi, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.”
Một dạng sống theo kiểu óc “ngắn khác”, có đầy thiện chí song lại thiếu ý chí, thiếu quết tâm dứt bỏ tội lỗi vì thói quen xấu đã trở nên nặng nề; không biết bỏ ý mình để sống theo ý Chúa. Có thể nói, đây là kiểu sống hai mang, đu giây, kiểu nửa nạc nữa mỡ… nói như Chúa Giêsu không thể chấp nhận ‘kiểu làm tôi hai chủ’, vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền bạc, xem ra ‘tôi tiền’ năng hơn ‘tôi Chúa’
Lối sống của chàng thanh niên giầu có, đạo đức người Do Thái ngày nào đến xin Chúa chỉ dạy làm gì để có sự sống đời đời- cuộc sống thiện hảo, nhưng khi nghe Chúa đề nghị cách triệt để là bán hết gia tài cho người nghèo rồi đến theo Ngài và sẽ được kho tàng Nước Trời thì anh bỏ cuộc vì anh thuộc loại giàu có. Anh lưỡng lự vì làm tôi hai chủ…
Trong bài Tin Mừng hôm nay, người Do Thái xin Chúa cho của ăn đích thực song khi nghe của ăn đấy chính là Thịt- Máu Người, do bảo thủ thành kiến, do không chịu bỏ kiểu suy nghĩ ‘óc ngắn’ họ thấy chướng tai, phản đối, bỏ Chúa, kể cả những môn đệ theo Chúa. Dưới góc nhìn này, sống ích kỷ, không biết bỏ mình, bỏ ý riêng mình… cũng thuộc loại ‘óc ngắn’. Đói với Chúa Giêsu, ‘Môn đệ đích thực là biết bỏ mình vác thập giá mình mà theo Chúa’ cũng là cách để ta thoát sống ‘óc ngắn’.
Sống ‘óc ngắn’ còn thể hiện rõ qua việc bất chấp Lời Chúa dẫu đã được Người cảnh cáo.
Chẳng hạn: ‘Được lời lãi cả thế gian mà mất phần Linh hồn thì được ích gì’, nay vì ‘óc ngắn’ chỉ thấy và cần cái trước mắt họ sẵn sàng đánh đổi phần Linh hồn, cả sự sống đời đời để được cái quyền lợi- danh vọng trần thế.
Như vậy, tầm nhìn của ‘óc ngắn’ đạt đến mức chỉ biết cái trần gian- ‘duy trần gian’, loại bỏ Thiên Chúa, nguy hiểm chẳng khác nào đã bỏ một chân xuống miệng hỏa ngục. Ở góc độ này, ‘duy vật- vô thần’ cũng một dạng ‘óc ngắn nguy hiểm đến ơn Cứu độ.
Ở đây tôi muốn nói và nhấn mạnh ‘duy vật- vô thần’ thực tiễn. Thực tế, nhiều người nói mình có Đạo, xưng mình là Kitô hữu song thực tiễn để có đời sống ăn sung mặc sướng họ gạt Chúa qua bên, bất chấp lương tri, chà đạp đạo lý; trái lại không ít người ‘hạt giống đỏ; của chủ nghĩa duy vật- vô thần nhưng thực tế họ có niềm tin thưởng phạt đời sau nên ‘gắng làm người tử tế;1]
Minh họa: Tại hầm mộ trong tầng hầm nhà thờ Westminster nổi tiếng thế giới ở Luân Đôn, có một tấm bia mộ nổi tiếng thế giới, trên đó khắc ghi tâm nguyện người chết:
‘Khi tôi còn trẻ, còn tự do, trí tưởng tượng của tôi không bị giới hạn, tôi đã mơ thay đổi thế giới.
Khi tôi đã lớn hơn, khôn ngoan hơn, tôi phát hiện ra tôi sẽ không thay đổi được thế giới, vì vậy tôi rút ngắn ước mơ của mình lại và quyết định chỉ thay đổi đất nước của tôi.
Nhưng nó cũng như vậy, dường như là không thể thay đổi được. Khi tôi bước vào những năm cuối đời, trong một cố gắng cuối cùng, tôi quyết định chỉ thay đổi gia đình tôi, những người gần nhất với tôi.
Nhưng than ôi, điều này cũng là không thể. Và bây giờ, khi nằm trên giường, lúc sắp lìa đời, tôi chợt nhận ra: Nếu như tôi bắt đầu thay đổi bản thân mình trước, lấy mình làm tấm gương thì có thể thay đổi được gia đình mình, với sự giúp đỡ, động viên của gia đình mình, tôi có thể làm điều gì đó thay đổi đất nước và biết đâu đấy, tôi thậm chí có thể làm thay đổi thế giới!” Mơ mộng, sống xa thực tế cũng là dạng khác của ‘óc ngắn’.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trở thành Tấm Bánh nuôi dưỡng chúng con, đảm bảo cho chúng con hạnh phúc Nước Trời. Khi chúng con xa Chúa, bỏ Chúa, khi chúng con sống thiếu Chúa là lúc rơi vào kiểu sống thực dụng, óc ngắn, nguy hiểm có thể mất luôn sự sống đời đời.
Nhờ lời bầu cử của các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin cho chúng con, nhất là Giới trẻ ngày càng biết trân quý, khám phá Tin Mừng nơi kho tàng Bí tích Tình yêu là Thánh Thể nhờ vậy chúng còn biết gắn bó của cải trần gian với thực tại trên trời. Amen.
——————————-
[1] x. Vụn Vặt Suy Tư ‘Duy vật vô thần…xạo bà cố’-
http://conggiao.info/duy-vat—vo-than-xao-ba-co

5. Đọc được dấu lạ
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
“Họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây?” (Ga 6,30). Vâng, Chỉ có tác giả Gio-an dùng “dấu lạ”, các tác giả khác dùng là phép lạ. Phép lạ là gì? Dấu lạ là gì? Phép lạ là điều xảy ra cách lạ thường và ngoài quy luật tự nhiên. Ví dụ, tuần vừa rồi Chúa làm phép lạ 5 chiếc bánh và hai con cá hóa ra nhiều bánh. Còn dấu lạ là hành động lạ thường vượt trên tự nhiên và hành động là dấu chỉ để noi theo nên gọi là dấu lạ. Dấu lạ là thực tại khả giác chúng ta tiếp nhận bằng giác quan đồng thời chuyển tải nội dung tư tưởng mà ta không nhìn thấy bằng mắt thường. Ví dụ cái bắt tay chỉ đến tình thân ái, cái cúi đầu chỉ đến lòng kính trọng, tôn kính… Vậy làm thế nào chúng ta đón nhận dấu lạ Thiên Chúa gởi đến cho mình trong cuộc sống hôm nay?
Việt Nam muốn biết và hiểu được người nước ngoài thì phải học ngoại ngữ, mà ngôn ngữ là một hệ thống dấu chỉ giúp hiểu tâm tình và tư tưởng của con người. Vì thế, muốn đọc được dấu chỉ của Thiên Chúa, chúng ta phải hiểu được ngôn ngữ của Thiên Chúa, qua đó mình nghe tiếng Ngài và sứ điệp Ngài gởi cho ta. Học một sinh ngữ cần phải tiếp cận, ví dụ học tiếng Anh, chúng ta phải học từ vừng, phải thao luyện nghe, nói, đọc viết miệt mài…thì mới nói và hiểu thông thạo. Như thế, để tiếp cận ngôn ngữ của Thiên Chúa, chúng ta phải đọc, học Thánh Kinh và cầu nguyện để quen với tâm tư, tư duy của Thiên Chúa và đọc ra những dấu lạ Chúa làm qua dòng lịch sử cứu độ. Chúng là những dấu chỉ đưa ta về với Thiên Chúa nguồn cội yêu thương, hạnh phúc và bình an.
Nhân ngày lễ Lòng Chúa Thương Xót một chứng nhân kể rằng: “Con là Đỗ Minh Triệu sinh năm 1968, bị mắc chứng loạn dưỡng cơ quái ác làm teo cơ bắp từ năm 10 tuổi, tê liệt hầu như toàn thân, chỉ cử động được các ngón tay. Anh được mẹ chăm sóc, thay quần áo, tắm rửa, gội đầu, đút cơm… như bé sơ sinh. Nhiều lần phần thì bệnh hành hạ đau đớn vô cùng, phần thì thương mẹ khi nhìn mẹ tóc bạc da mồi ngày đêm vất vả lo cho con. Anh định tự tử vì muốn mẹ đừng thấy anh sống tật nguyền đau đớn, hình hài chẳng khác bộ xương cách trí… Nhưng nhìn thấy hành động yêu thương và nhớ lại lời mẹ nói với anh: “Con là lẽ sống của mẹ, cả đời mẹ được chăm sóc con như một em bé, mẹ rất hạnh phúc. Con cần can đảm sống để đối diện, thi gan, thử thách với bệnh tật. Con hãy nói với Chúa: Lạy Chúa, này con đây. Con đến để thực thi Ý Chúa!”, anh không tự tử nữa và làm theo lời mẹ bảo. Và được ơn Chúa, nhờ công ơn mẹ mà anh được bình phục hoàn toàn cho tới nay 40 tuổi. Anh nói đây là một dấu lạ, một sự tỏ rõ quyền năng của Đấng Tạo Hóa đã ban sự sống cho con người qua người mẹ.
Vâng, tình yêu là yếu tố làm nên phép mầu cho mẹ con anh Triệu. Cũng thế, dấu lạ Chúa ban man-na và chim cút cho dân Ít-ra-en như dấu chỉ tình thương xót Chúa dành cho con người. Ngài yêu thương chăm sóc con người từng miếng ăn, cơm bánh. Đỉnh cao của hành động yêu thương của Thiên Chúa là dấu lạ Chúa Giêsu là tấm bánh trường sinh. Ai đến với Chúa, không hề đói, ai tin vào Ngài sẽ chẳng khát bao giờ. Qủa vậy, Chúa Giêsu tấm bánh cho mọi người được sống muôn đời là dấu chỉ lòng thương yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Chúa Giêsu là tấm bánh trường sinh là dấu lạ gọi niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa chứ không phải để tin thì cần phải có dấu lạ. Không phải tấm bánh làm ra tình thương, mà chính tình thương làm ra tấm bánh và tấm bánh ấy chính Chúa Giêsu, bánh đích thực, bánh đem sự sống cho thế gian. Vì vậy, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 khẳng định rằng: “Anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang”.
Thế giới chúng ta ngày ngay thực ra đã không thiếu và không bao giờ thiếu cơm bánh, nhưng thiếu tình thương vì bánh đã không được bẻ ra cho hết mọi người. Cho nên, Thánh Giáo hoàng Gio-an Phaolô II nói rằng xã hội hôm nay tuy là văn minh nhưng thiếu tình thương, cho nên tuy văn minh thật nhưng văn minh sự chết. Hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thứ bánh của tình thương và dặn dò: “Anh em phải ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”. Lương thực trường tồn đó chính là Bánh Tình thương là chính Chúa Giêsu, Bánh sự sống, lương thực đem lại sự sống và là sự sống vĩnh cửu, bất hoại.
Và để đón lấy Chúa Giêsu, Bánh trường sinh làm sự sống và lẽ sống cho mình, thì “công việc” phải làm là “đến với” và “tin vào” Ngài. Vì thế, khi chúng ta đến nhận lãnh “Lời Hằng Sống” và “Bánh Sự Sống” qua mỗi Thánh lễ, chúng ta được đưa vào quỹ đạo yêu thương. Vì vậy, mỗi lần rước lấy Tấm Bánh Hằng Sống chúng ta phải cảm nghiệm được Chúa Giêsu như tâm điểm luôn thu hút chúng ta đến với Ngài và đến với nhau, làm cho tất cả nên một, một tấm bánh duy nhất: Bánh của tình thương. Tóm lại, Bánh tình thương là dấu lạ Chúa Giêsu làm cho chúng ta nên trong tình thương của Chúa. Vậy, tình thương dấu chỉ lớn nhất Chúa muốn chúng ta hôm nay hãy đọc ra, đón nhận và sẵn sàng chia sẻ cho gia đình, giáo xứ, giáo hội và xã hội được ấm no, an bình và hạnh phúc thật sự. Cho nên, trong bài giảng nhân “Thánh Lễ Cầu Cho Việc Phúc Âm Hóa Các Dân Tộc” tại nước Ecuador, Đức Thánh Cha nói: “Chúng ta phúc âm hóa không bằng các lời lẽ đao to búa lớn hay những quan niệm phức tạp, mà bằng “niềm vui Tin Mừng”, là niềm vui “tràn ngập cõi lòng và đời sống của tất cả những ai biết gặp gỡ Chúa Giêsu. Vì những người biết chấp nhận ơn cứu độ của Người đều được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn sầu, trống vắng và cô đơn nội tâm”.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay trong khuôn khổ của Năm Phúc Âm hóa giáo xứ và cộng đoàn, xin cho mỗi người chúng ta biết chia sẻ tình thương cho nhau qua việc phục vụ, thăm viếng, an ủi, hy sinh và tha thứ cho nhau. Đó chính là những việc làm và dấu chỉ cụ thể để Chúa và Phúc âm của Ngài được hiện hữu nơi môi trường giáo xứ hay cộng đoàn chúng ta vì chưng “Ubi caritas est, Deus ibi est”, đâu có tình yêu thương ở đó có Đức Chúa Trời. Amen.

6. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
THỰC THI Ý CHÚA ĐỂ SỐNG MUÔN ĐỜI
Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp tục mô tả một đám đông số đàn ông chừng năm ngàn chưa kể đàn bà và con trẻ đi theo Chúa, họ đã được nghe Chúa giảng dạy, chữa lành bệnh tật, chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhất là được ăn bánh và cá no nê. Một ngày kết thúc, Chúa giục các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia. Tất nhiên là họ không thấy Chúa nữa, các môn đệ Chúa cũng không, nên họ cũng xuống thuyền hướng về Capharnaum để tìm gặp Chúa. Thấy Chúa họ hết sức vui mừng và ôn tồn hỏi Chúa: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?” (Ga 6, 25). Câu hỏi này không làm Chúa vui, nên Chúa buôn lời phán với họ rằng: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê” (Ga 6, 26). Họ đã cất công tìm Chúa, ấy vậy khi gặp chẳng thấy Chúa an ủi vỗ về lại nhận được lời quở trách tìm Chúa vì cái bụng, thật là buồn. Chúa khuyên họ: “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời” (Ga 6, 26). Chúa gợi lên nơi họ sự sống đời đời để dù ăn, dù uống hay làm bất cứ điều gì thì cũng phải nhắm tới mục tiêu tối hậu là sự sống đời đời, khiến họ khao khát thưa Chúa rằng: “Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?” (Ga 6, 28) Chúa Giêsu đáp: “Đây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến” (Ga 6, 29).
Từ trên cung thánh nhìn xuống dưới, bên trong và bao quanh nhà thờ giờ đây cũng có một đám đông với đủ mọi tầng lớp, đàn ông, đàn bà và con trẻ, chắc số đàn ông chừng vài trăm. Nếu trong Tin Mừng, những người tìm kiếm Chúa với những thái độ khác nhau: có người tìm Chúa vì đã được ăn bánh no nê, có người thì mong gặp Chúa là Đấng làm những dấu lạ, một số người khác lăng xăng đi tìm Chúa bởi họ có kinh nghiệm về sự hiệp thông thân tình với Chúa họ thưa Chúa rằng: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh ấy luôn mãi” (Ga 6,34). Phần chúng ta, một câu hỏi được đặt ra cho chính chúng ta đang ngồi đây: Chúng ta đến đây để làm gì? Chúng ta tin Chúa, tìm Chúa và theo Chúa vì điều gì? Phải chăng là để được ăn bánh no nê? Có người sẽ nói, chúng con đến tham dự Thánh lễ, đến tìm gặp Chúa chứ còn gì nữa. Phần lớn câu trả lời sẽ là như vậy. Chắc chắn Chúa Giêsu rất vui khi thấy chúng ta đang nỗ lực tìm kiếm Chúa và đi theo Chúa.
Đúng, chúng ta đến đây tham dự Thánh lễ, xin ơn khỏe mạnh phần hồn, an lành phần xác, nhưng sự sống đời đời phải là mục tiêu chúng ta nhắm tới. Lời Chúa Giêsu nói với đám đông xưa kia, cũng là lời Chúa dạy chúng ta ngày hôm nay: “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời” (Ga 6, 27).
Chúng ta vẫn làm việc không ngừng đấy thôi, nhưng lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta. Ra công làm việc để có nhiều của cải thăng tiến bản thân, phục vụ gia đình, góp phần xây dựng xã hội và Giáo hội là điều chính đáng. Nhưng không thể làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm Chúa nhật dẫn đến bỏ lễ Chúa nhật và lễ trọng buộc, bỏ đọc kinh tối sớm là điều tối cần thiết cho sự sống đời đời. Hãy thực thi đức công bằng trong làm ăn, thuận mua vừa bán, đừng mùa thừa bán thiếu, đánh đổi trắng đen thu lời bất chính, có kiếm được lương thực dồi dào thì cũng hư nát và chỉ dành cho sự sống tạm bợ đời này. Lương thực không hư nát là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa là lương thực nuôi dưỡng phần linh hồn chúng ta, giúp chúng ta đạt đến cuộc sống vĩnh cửu sau này. Thứ lương thực cao quí ấy được ban bởi Đấng Hằng Sống. Mặc dù được trao ban cách miễn phí, nhưng muốn có được Bánh Hằng Sống ấy, con người phải làm việc, mà công việc Thiên Chúa muốn con người phải làm là hãy đến và tin vào Đức Ki-tô, vì “Ai đến với Ngài, không hề phải đói; ai tin vào Ngài, chẳng khát bao giờ” (x. Ga 6.35).
Người Do thái hỏi Chúa: “Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?” Xem ra không có liên quan gì đến “công việc của Thiên Chúa”, nhưng vẫn có liên quan vì Chúa Giêsu mời gọi họ « ra công làm việc … công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến”. Ra công làm việc nhưng hướng đến lương thực trường tồn đem lại sự sống đời đời, mà để có được sự sống ấy thì chúng ta phải nỗ lực tin vào Chúa Giêsu, tin đến độ lấy Chúa làm của ăn của chúng ta. Chính Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại: “Ai tin vào Người thì được sống muôn đời” ( Ga 3,15 ); “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người” (Ga 20, 15). Vì thế, tin không còn là công việc, nhưng là công trình của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã tự hiến mình làm của ăn cho chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể. Tin là “ra công làm việc… vì của ăn vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời” (Ga 6, 27).
Vậy, chúng ta hãy ra sức tìm những của ăn không hư nát là thánh ý Chúa, Lời Chúa, Mình Máu Thánh Chúa. Đừng để những lo lắng và cám dỗ thế gian làm chúng ta quên đi hay không dám sống cho những giá trị trường tồn này.
Lạy Chúa xin giúp chúng con hiểu rằng, đón nhận thánh ý Thiên Chúa là thứ lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh. Xin đừng để một ai trong chúng con lạc xa thứ lương thực cao quí này. Amen.

7. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
HÃY TÌM KIẾM BÁNH HẰNG SỐNG GIÊSU
Phúc Âm chương 6 Tin Mừng Gioan được đưa vào giữa năm phụng vụ, làm gián đoạn Tin Mừng Marcô đang được đọc trong mùa thường niên B. Khởi đi từ việc thấy dân chúng theo mình rất đông, Chúa Giêsu đã “chạnh lòng thương”, làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng. Họ theo Chúa vì cái bụng, Chúa không hài lòng nên trách móc: “Các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê” (Ga 6, 26). Chúa gợi lên cho họ lòng khát vọng tìm kiếm thay lương thực trường tồn là chính Chúa là tin vào Người (x. Ga 6).
Manna của ăn trong sa mạc
Nếu như vào một buổi sáng nọ, con cái Israel thấy có một thứ gì nho nhỏ mịn màng như sương muối phủ mặt đất, họ liền hỏi nhau: “Man hu? ” Nghĩa là: “Cái gì đây? ” (Xh 16, 14) Ngày hôm nay chúng ta cũng hỏi nhau Manna là cái gì?
Trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa đối với dân mà Ngài đã cưu mang và dẫn ra khỏi Ai cập. Trên hành trình về Đất Hứa để chứng tỏ tình thương và lòng thành tín của Chúa đối với dân giữa xa mạc khô cằn, Ngài đã ban cho họ Manna, theo Môsê, “Đó là bánh Thiên Chúa ban… làm của ăn” (Xh 16, 16), không chỉ làm lương thực đi đường mà còn giáo huấn họ về lòng yêu thương vô cùng của Chúa. Dân Israel vẫn quan niệm ông Môsê là người đã cho họ ăn bánh bởi trời, nhưng Chúa Giêsu đã chỉnh sửa lại là chính Thiên Chúa chứ không phải ông Môsê là Đấng cho họ của ăn trong sa mạc, đồng thời mời gọi họ nhìn nhận và tin vào chính Người là Bánh đích thực do Thiên Chúa của cha ông họ gửi đến lúc này đây.
Bánh Giêsu
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng được no nê tùy thích, tưởng rằng thời Mêssia đã đến, họ muốn tôn Chúa làm vua, nên tìm theo Chúa. Gặp họ, Chúa muốn họ đi xa hơn, đã mất công tìm kiếm, thì hãy “ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời” (Ga 6, 27). Chúa gợi lên nơi họ lòng khát vọng trường tồn, khiến họ đặt câu hỏi: “Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?” (Ga 6, 28) Câu hỏi xem ra không có gì liên quan đến Chúa Giêsu. Tuy nhiên, vẫn có một tương quan, đó là “công việc”. Chúa chỉ cho họ: “Công việc của Thiên Chúa là các người hãy tin vào Đấng mà Ngài sai đến”(Ga 6, 29).
Đức tin là điều căn bản. Đây không phải là theo một ý tưởng, một dự án, mà là gặp gỡ Chúa Giêsu, một người sống động, để cho mình được Chúa và Tin Mừng của Chúa lôi cuốn. Chúa Giêsu mời gọi dân chúng không dừng lại ở chân trời thuần túy nhân loại, nhưng mở rộng tới chân trời của Thiên Chúa, chân trời của niềm tin. Người chỉ đòi hỏi một công việc duy nhất là: tiếp nhận chương trình của Thiên Chúa, nghĩa là “tin nơi Đấng Thiên Chúa đã sai đến” (Ga 6, 29). Chúa Giêsu đã tự hiến chính mình, trở nên bánh đích thật, “bánh từ trời xuống”, chính Người là Lời hằng sống của Chúa Cha. Gặp gỡ Người là chúng ta gặp gỡ Một Thiên Chúa hằng sống.
Thật không phải dễ để dân chúng tin vào Người, họ đòi dấu lạ, gợi nhớ manna, bánh mà cha ông họ đã ăn trong sa mạc. Để giúp họ hiểu ý nghĩa sâu xa của phép lạ Chúa Giêsu đã làm thỏa mãn một cách lạ lùng cái đói thể lý của họ, Người mời gọi họ đón nhận lời loan báo chính Người là bánh từ trời xuống (x. Ga 6, 41) làm cho họ thỏa mãn một cách vĩnh viễn. Nếu như cha ông họ trong hành trình dài trong sa mạc đã sống kinh nghiệm về thứ bánh từ trời xuống là manna dưỡng nuôi họ cho tới khi vào Đất Hứa. Giờ đây Chúa Giêsu nói về chính Người là “bánh từ trời xuống”, có khả năng duy trì sự sống không phải chỉ trong một lúc hay một đoạn đường, mà luôn mãi. Người là lương thực ban sự sống vĩnh cửu, bởi vì Người là Con Một Thiên Chúa, ở trong lòng Thiên Chúa Cha, đến để trao ban cho con người sự sống tràn đầy, và đưa con người vào trong chính sự sống của Thiên Chúa. Chúa Giêsu khẳng định với họ rằng: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ” (Ga 6, 35). Người là bánh từ trời xuống làm no thỏa cái đói tinh thần con người. Người là Lời của Thiên Chúa nhập thể làm no thỏa cái đói khát của linh hồn con người một cách vĩnh viễn.
Theo thánh Agustinô: “Chúa Giêsu khẳng định Người là bánh từ trời xuống, và mời gọi dân chúng tin vào Người. Thật ra, ăn bánh hằng sống có nghĩa là tin vào Chúa, ai ăn thì tin và ai tin thì ăn. Trong một cách vô hình họ được no thỏa, cũng như trong một cách vô hình họ tái sinh vào một cuộc sống sâu xa hơn, đích thật hơn; họ tái sinh từ bên trong, trong nơi sâu thẳm của họ, và họ trở nên một con người mới” (Omelie su Vangelo di Giovanni, 26,1).
Thánh Thể thần lương vượt thế trần
Nếu như trong sa mạc, manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, thì hôm nay lòng thương xót ấy là Đức Giêsu Kitô Con Một Chúa, Đấng tự hiến mình làm Thần Lương không chỉ nuôi sống linh hồn mà còn củng cố khả năng hướng thiện của người rước lấy. Manna xưa chỉ là phương tiện cứu đói tạm thời, nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời vinh phúc. Trong sa mạc, manna chứng tỏ Chúa không bỏ dân của Chúa, ngày nay Chúa ở giữa Hội Thánh và trong thế giới bằng chính mình trong bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích ThánhThể, người cô đơn tìm được nguồn an ủi; người yếu đuối tìm được sức mạnh; người tội lỗi tìm được ơn tha thứ; người đau yếu tìm được sự chữa lành; người bất hạnh tìm được nghị lực tinh thần; người hấp hối tìm được sự đỡ nâng; người bị bỏ rơi tìm được nguồn tình yêu chất chứa đầy sự thông cảm và âu yếm… Và còn một ý nghĩa rất quan trọng, manna ngày xưa của ăn trong sa mạc, Thánh Thể thần lương vượt thế trần.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết ra đi tìm kiếm Chúa, biết quy tụ mọi sự về Chúa, biết tìm kiếm của ăn không hư nát là chính Chúa và đón rước Chúa hầu được sống muôn đời. Amen.

8. Bánh Trường Sinh
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Ga 6: 24-35: Bánh manna trong sa mạc hay bánh trong phép lạ bánh hóa nhiều, chỉ có thể nuôi sống phần xác. Những thứ bánh này ăn rồi lại đói, đói lại cần phải ăn. Nhưng con người chúng ta không chỉ có thân xác mà còn có linh hồn.
Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta phải đặt trong bối cảnh của nó. Ðó là thời kỳ Ðức Giêsu đang được quần chúng ngưỡng mộ nhất: Ngài đi đâu dân chúng cũng đông đảo ùa theo đến đó, thậm chí họ còn muốn tôn Ngài lên làm vua khiến Ngài phải trốn đi. Nhưng họ cũng vẫn tìm ra được chỗ Ngài và sáng hôm sau lại ùa tới vây quanh Ngài.
Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao quần chúng ùa theo Ngài như thế?
Thưa vì lợi lộc vật chất: Chúa đã chữa nhiều bệnh tật: mù, què, câm, điếc, cả kẻ chết Ngài cũng làm cho sống lại. Hơn nữa, Ngài lại vừa mới làm một phép lạ bánh hóa nhiều. Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá Chúa đã làm cho năm ngàn người ăn no. Chắc là họ nhủ thầm: giá mà có ông này bên cạnh ta mãi thì ta chẳng bao giờ sợ đói khát, cũng chẳng cần phải làm lụng cực nhọc mà vẫn luôn no đủ. Nhưng sáng hôm sau gặp lại họ, Ðức Giêsu nói thẳng với họ: “các ngươi tìm ta là vì đã được ăn no”. Rồi Ðức Giêsu muốn đưa họ lên cao hơn, Ngài nói “các ngươi hãy tìm của ăn không hư nát”.
Có câu chuyện kể rằng: Năm 1885 Vincent van Gogh đến viện bảo tàng Amsterdam để được ngắm một họa phẩm nổi tiếng của họa sĩ Rembrandt, bức “Cô Dâu Do Thái”.
Sau khi ngắm xong, Van Gogh thố lộ: “Tôi thà giảm thọ mười năm để được ngồi hai tuần trước bức danh họa này, chỉ cần ăn bánh mì khô thôi cũng được. Thực ra, thứ mà tôi đói nhất không phải là thức ăn mà là hội họa. Mỗi khi tôi có tiền tôi liền đi săn tìm các mẫu vẽ cho tới khi nhẵn túi”.
Không phải chỉ cơ thể mới biết đói, mà con tim và tinh thần cũng biết đói. Cơm bánh không thể nào thỏa mãn cơn đói của con tim và tinh thần. Nuôi sống một người không giống như nuôi một con vật, chỉ cần cho nó ăn no. Chúng ta là con người, chúng ta không chỉ có một thứ đói mà có hàng trăm thứ đói. Ngoài cơm bánh ra chúng ta còn rất nhiều thứ đói như Flor McCarthy đã kể ra như sau:
– Đói được người ta tôn trọng: không ai muốn bị coi là đồ bỏ, ai cũng muốn có người khác trọng.
– Đói được người ta chấp nhận: nếu không ai chấp nhận chúng ta thì chúng ta không sao thể hiện chính mình được.
– Đói những tương giao: không được tương giao với người khác thì chúng ta sẽ trở nên cô độc buồn sầu.
– Đói nguồn động viên: không có gì động viên chúng ta thì chúng ta giống như những cánh buồm không gió.
– Đói niềm tin: ai cũng cần đức tin hay ít ra là một số điều mình tin tưởng, nếu không thì dòng đời chúng ta bị trôi dạt như những con thuyền không định hướng.
– Đói hy vọng: bao lâu con người còn hy vọng thì còn có thể làm được nhiều việc và một khi đã mất hy vọng thì mất tất cả.
– Đói tình yêu: nếu cơn đói này được thỏa mãn thì hầu hết những cơn đói khác sẽ biến mất.
Và còn một thứ đói nữa, sâu xa nhất, hàm chứa trong mọi cơn đói khác, kể cả đói tình yêu, đó là đói sự sống đời đời. Và cơn đói này chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn chúng ta như Người đã nói: “Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian”. Đức Giêsu khẳng định mình là bánh từ trời xuống để ban sự sống cho thế gian: “Ta là bánh hằng sống”.
Bánh manna trong sa mạc hay bánh trong phép lạ bánh hóa nhiều, chỉ có thể nuôi sống phần xác. Những thứ bánh này ăn rồi lại đói, đói lại cần phải ăn. Nhưng con người chúng ta không chỉ có thân xác mà còn có linh hồn. Thân xác có của ăn của thân xác, linh hồn có của ăn của linh hồn. Của ăn của linh hồn chính là Bánh Hằng Sống, Bánh chính Chúa Giêsu ban tặng, Thứ Bánh chúng ta ăn vào sẽ không còn đói nữa như Chúa Giêsu đã nói: “Chính Ta là bánh ban sự sống, ai đến với Ta sẽ không hề đói. Ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”.
Chúng ta đã được tạo dựng cho Thiên Chúa. Dù muốn dù không, cơn đói của chúng ta chính là đói Thiên Chúa như thánh Augustinô đã thú nhận rằng: “Lạy Chúa, tâm hồn con được dựng nên cho Chúa, và tâm hồn con cứ lo âu khắc khoải mãi cho đến khi được nghỉ an trong Chúa”. Vâng, Không gì có thể lấp đầy tâm hồn chúng ta ngoại trừ Thiên Chúa.
Vậy sứ điệp trong các bài Tin Mừng hôm nay gửi đến chúng ta: tận thâm tâm mỗi người chúng ta đều ẩn chứa một cơn đói khát sâu xa mà chỉ một mình Đức Giêsu mới có thể làm thoả mãn khi Người nói: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói. Ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ” (Ga 6,35).
Đó chính là bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta hôm nay. Amen.

9. Của ăn thiêng liêng
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, chúng ta thấy Chúa Giêsu có một đường lối huấn luyện rất đặc biệt. Đường lối ấy, nói theo ngôn ngữ hiện nay, là rất sư phạm. Ngài đi từ các việc cụ thể, từ cái mắt thấy tai nghe, từ cái mà người ta cảm nghiệm được để nói về những thực tại siêu nhiên.
Thực vậy, để nói cho ông Nicôđêmô hiểu về sự cần thiết phải được tái sinh để được vào Nước Trời, Ngài bắt đầu nói về nước và Thần khí. Ai sinh ra cũng từ trong một bọc nước và phải thở. Kẻ tái sinh bởi ơn trên cũng phải sinh ra từ nước và thần khí. Đó là nước từ cạnh sườn Ngài chảy ra khi Ngài đã trao thần khí.
Để làm cho người ta hiểu Ngài là ánh sáng thế gian, Ngài đã mở mắt cho một người mù từ khi mới sinh. Và Hôm nay để mạc khải cho chúng ta biết Ngài chính là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian, Ngài đã làm phép lạ bánh hoá nhiều, cho năm ngàn người được no nê.
Con người sinh ra cần phải có ánh sáng, không khí, nước và bánh. Kẻ được tái sinh làm con Thiên Chúa, cũng cần đến Đức Kitô, là ánh sáng, là Thần khí, là nước hằng sống và là bánh bởi trời. Ánh sáng ấy bùng lên trên thập giá. Thần khí ấy là hơi thở của Đức Kitô được trao ban khi Ngài tắt hơi thở. Nước hằng sống là nước từ cạnh sườn Ngài chảy ra và bánh bởi trời chính là thịt của Ngài. Khi chúng ta ăn cái gì thì cái đó trở nên thịt máu của chúng ta. Khi chúng ta ăn thịt của Đức Kitô, tấm bánh được bẻ ra, thì Ngài sẽ trở thành thịt máu chúng ta. Và bằng cách đó, Ngài thực sự ở trong chúng ta. Ngài và chúng ta chỉ còn là một, để rồi chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Vì chính Đức Kitô sống trong chúng ta, nên chúng ta mới có thể gọi Thiên Chúa là Cha. Mầu nhiệm thật cao siêu, nhưng ngôn ngữ và cách diễn tả của Chúa thật cụ thể và đơn sơ đến sống sượng, bởi vì Ngài không ngại nói đến việc phải ăn thịt và uống máu Ngài, khiến cho nhiều người lấy làm chướng tai, không thể chấp nhận được, nên đã bỏ đi, không còn tin theo Ngài nữa.
Đó chính là lý do Chúa đòi hỏi niềm tin. Chỉ có đức tin mới giúp chúng ta nhận ra Ngài là Đấng từ nơi Chúa Cha mà đến. Và cái chết của Ngài mới có thể giải thoát chúng ta khỏi sự chết đời đời và đem lại cho chúng ta hạnh phúc trường sinh. Người Kitô hữu chúng ta hôm nay có thể ăn thịt và uống máu Chúa hằng ngày, nhưng mấy ai thực sự ý thức rằng mình đang sống bởi chính thịt máu của Ngài? Đây không chỉ là chuyện thần học hay huyền bí, mà là chuyện thực tế, chuyện cũng thật như khi chúng ta ăn cơm, ăn bánh vì chúng ta không chịu lễ thiêng liêng, mà thực sự ăn bánh đã trở nên Mình Thánh Chúa Giêsu. Thật đúng là mầu nhiệm đức tin.
Nhưng ý thức được như thế mà thôi chưa đủ, chuyện quan trọng đó là làm thế nào để chúng ta sống xứng đáng với Đấng đã thực sự trở nên thịt máu, tức là sự sống của chúng ta. Thực vậy, nếu chúng ta tin rằng: Thịt máu của chúng ta là chính thịt máu Đức Kitô, sự sống của chúng ta chính là sự sống Ngài tạo ra, thì chúng ta không còn được sống theo tính tự nhiên của mình, sống cho mình, mà trái lại, phải sống như Ngài đã sống. Và sống cho anh em mình, như Ngài đang sống cho chúng ta.

10. Đời còn thiếu
Con người chúng ta gồm có hồn và xác. Thân xác của chúng ta đôi khi lâm vào tình trạng đói khát. Linh hồn chúng ta cũng vậy. Nhu cầu mà linh hồn đói khát không gì khác hơn là chính Thiên Chúa, như lời thánh Augustinô đã viết: Linh hồn tôi sẽ mãi mãi khắc khoải tìm kiếm cho đến khi được nghỉ yên trong bàn tay của Chúa.
Tom Phillips là một thanh niên thành đạt. Năm 40 tuổi, anh đã làm tới chức giám đốc một công ty lớn. Nhà có, xe có, và gia đình ấm cúng. Thế nhưng anh vẫn cảm thấy không được hạnh phúc, vì còn thiếu sót một điều gì đó. Và rồi một đêm nọ, trên chuyến tàu đi Nữu Ước, anh đã khám phá ra điều mình còn thiếu sót, đó chính là Đức Kitô. Và từ đêm định mệnh ấy, cuộc đời anh đã đổi thay và anh mới cảm nhận được niềm hạnh phúc đích thực.
Charles Colson cũng vậy. Ông là một người thành đạt. Có một văn phòng rêng cạnh toà Bạch Ốc. Tuy nhiên, ông luôn cảm thấy một hố thẳm trong tâm hồn, và dường như còn thiếu một điều gì đó trong cuộc đời. Qua cuộc gặp gỡ với một người bạn thân. Nghe người bạn này kể lại sự trở về của mình. Ông đã khám phá điều mình còn thiếu. Và thế là lần đầu tiên trong đời, ông đã cầu nguyện với Chúa: Lạy Chúa, con không biết làm cách nào để tìm kiếm Chúa, nhưng con sẽ cố gắng. Hiện giờ con là kẻ không mấy tốt lành, nhưng con vẫn muốn tự hiến cho Ngài. Xin hãy nhận ấy con. Và từ đó cho đến ngày hôm nay, ông đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng, nhất là trong các trại giam và các trường đại học.
Từ hai câu chuyện trên, chúng ta hãy tự hỏi: Có bao giờ tâm hồn chúng ta cảm thấy đói khát hay không. Có bao giờ bản thân chúng ta khắc khoải tìm kiếm Chúa hay không? Có bao giờ con người chúng ta mong muốn được gắn bó với Chúa hay không? Nếu chúng ta trả lời có, thì lời Chúa hôm nay đã đem lại cho chúng ta đáp số để giải quyết: Ta là bánh Hằng Sống. Ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói. Ai tin vào Ta sẽ chẳng bị khát bao giờ. Nơi khác Ngài cũng xác quyết: Hỡi những ai lao nhọc và gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi.
Tóm lại, sứ điệp Chúa muốn gởi đến với mỗi người chúng ta hôm nay thật đơn giản. Sứ điệp ấy như thế này: Tận thẳm sâu cõi lòng, ai trong chúng ta cũng đều chất chứa một cơn đói khát sâu xa mà chỉ mình Chúa mới có thể thoả mãn. Chính sứ điệp này đã đem lại cho con người và cuộc đời chúng ta một ý nghĩa mới, miễn là chúng ta biết chấp nhận nó. Và để kết luận chúng ta hãy dâng lên Chúa lời cầu nguyện của Charles Colson: Lạy Chúa, con chẳng biết phải tìm kiếm Chúa thế nào, nhưng con luôn cố gắng. Hiện giờ con là kẻ không mấy tốt lành, nhưng con vẫn muốn hiến dâng cho Chúa. Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy con. Xin hãy nhận lấy con luôn mãi.

11. Sẽ không bao giờ đói khát
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Sau khi dân chúng được ăn no, họ hào hứng muốn tôn Ngài làm vua, Chúa Giêsu lánh mặt, sang bờ bên kia biển hồ. Dân chúng lại đi tìm Ngài. Cuộc tìm kiếm này không ngoài lý do họ được ăn no mà không tốn kém. Chúa Giêsu nói cho họ biết như thế: “Các ông tìm tôi, không phải đã thấy dấu lạ, nhưng chỉ vì được ăn no”. Dấu lạ họ đã thấy rồi, nhưng họ không nhận ra. Dấu lạ chính là một bằng chứng của một cái gì vượt xa miếng bánh vật chất. Nhưng giờ đây họ vẫn chưa hiểu. Họ muốn tôn Ngài lên làm vua vì họ nghĩ rằng nếu Ngài là vua, Ngài có thể bảo đảm cho họ một cuộc sống ấm no, không còn phải chật vật đói khổ. Chúa Giêsu kiên nhẫn dẫn họ đi từng bước đến thực tại thiêng liêng. Ngài hướng họ đến từ miếng bánh no lòng đến một thứ “lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”.
Ai cũng như ai. Chúng ta cũng nghĩ đến cơm áo trước mọi vấn đề khác. Chân trời chúng ta nhỏ hẹp. Chúng ta không khác dân Do Thái lúc bấy giờ bao nhiêu.
Cơm ăn áo mặc là điều cần thiết, nhưng không chỉ có bao nhiêu đó: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh” mà thôi. Con người vẫn khát vọng một cái gì cao cả hơn: khát vọng được hạnh phúc, khát vọng công bằng, yêu thương, được nhìn nhận…Hơn thế nữa, con người cần vĩnh cửu. Những gì tạm bợ không làm họ thỏa mãn. Chúng ta được tạo nên cho tuyệt đối. Công Đồng Vatican II, trong Hiến Chế Niềm vui và Hy Vọng đã nói rất rõ về điều này.
Những người sống nếp sống duy vật, dù họ giàu sang đến cỡ nào, dù họ cười nói hả hê, dù họ hưởng thụ tất cả những gì thế giới vật chất có thể mang cho họ, nhưng tâm hồn họ vẫn trống rỗng. Cuộc sống, một ngày nào đó sẽ cho họ thấy rằng họ vẫn khát khao một sự sung mãn lâu bền mà họ có thể tự tạo ra được. Càng hưởng thụ nhiều, con người càng khao khát nhiều.
Chúa Giêsu hướng đám dân về một thứ lương thực khác, không bằng lòng với thứ lương thực vật chất. Ngài đánh tan mơ mộng của họ là muốn ăn no mà không phải cực nhọc. Ngài cho họ thấy rằng no bụng hôm nay chưa đủ, vì ngày mai cũng sẽ đói. Cuộc đời này, nếu chỉ ăn rồi nghỉ ngơi rong chơi vui đùa thì đó chỉ là một giấc mơ mà thôi. Chúa bảo họ: “Hãy ra công làm việc” mới có được lương thực thường tồn… Và Ngài nhấn mạnh: thứ lương thực đó, duy có Con Người mới có thể ban, Con Người chính là “Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu và xác nhận”.
Đối với đám dân này, những lời khẳng định như thế không thể gây một sự chú ý nào. Con Người là ai?
Chúa Giêsu mở cho họ con đường vào tương lai, mời gọi họ đi xa hơn, không dừng lại nơi của ăn vật chất. Những lời Ngài nói gây thắc mắc và họ đã chất vấn Ngài: “Chúng tôi phải làm gì?”
Họ đã bắt đầu nhận định ra một cái gì mà họ chỉ mập mờ nghĩ đến. Chúa Giêsu hình như đang chờ đợi họ ở ngã ba đường. Ngài nói rõ hơn, từng bước mở mắt họ ra để nhìn vào một chân trời mới: “Hãy tin vào Đấng Chúa Cha sai đến”.
Có lẽ họ đã bắt đầu hiểu Ngài muốn ám chỉ Ngài là Đấng Chúa Cha sai đến. Cuộc đối thoại càng ngày càng gay gắt hơn. Đám đông càng ngày càng thắc mắc hơn: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông?”
Không còn úp mở gì nữa, họ đang đi vào một cuộc khám phá mới. Họ đòi bằng chứng để tin. Họ đòi dấu lạ. Việc hóa bánh ra nhiều để nuôi họ vẫn chưa làm cho họ thỏa mãn. Họ nhắc đến ông Môsê, thần tượng của họ. Môsê đã làm những việc cả thể, còn ông? Ông làm được gì nào? Họ nhắc đến manna mà tổ tiên họ được ăn trong sa mạc. Họ cho đó là bánh bởi trời, do ông Môsê ban cho.
Đây là dịp tốt để họ thấy bánh bởi trời đích thực là gì và ai là Đấng ban cho họ bánh đó. Chúa Giêsu chờ đợi giây phút này.
Ngài nói: “Chính Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời…” chứ không phải Môsê. Ngài khẳng định Ngài là Con Thiên Chúa. Nhưng họ có hiểu không? Họ chỉ nghĩ đến bánh họ thường dùng: “Xin cho chúng tôi thứ bánh đó”.
Chúng ta nhớ đến câu chuyện bên bờ giếng Giacob, người phụ nữ Samaria cũng thế: “Xin Ngài cho tôi thứ nước Hằng sống ấy để tôi hết khát và khỏi đến đây lấy nước”.
Chúa Giêsu dùng một thực tại vật chất để dẫn đưa đến một thực tại thiêng liêng. Ở đây, Ngài dùng một tấm bánh vật chất để giúp đám dân tìm một thứ bánh trường sinh, và bánh đó chính là Ngài: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi sẽ không hề phải đói. Ai tin vào tôi sẽ chẳng khát bao giờ”.
Chúa Giêsu nói đến Bánh trường sinh, Bánh ban sự sống. Những thính giả của Ngài có lẽ không thể hiểu, nhưng đây chỉ là một gợi ý, một dọn đường để dẫn con người đi xa hơn, sâu hơn vào một thực tại thần linh đang có mặt tại trần gian. Đó là thực tại Bánh Ban Sự Sống, là Ngài.
Thánh Gioan luôn nói đến sự sống: Bánh sự sống, Ánh Sáng ban sự sống, Lời Hằng Sống, Đấng ban sự sống, Nước hằng sống,…
Đây chính là điều mà con người mọi thời luôn khao khát.
Con người vẫn đang đói, đang khát. Ngài đã mở cho họ lối vào sự sống sung mãn, không còn đói khát gì nữa.
Hôm nay, con người vẫn đói khát mặc dù họ đầy đủ mọi sự để hưởng thụ. Những khám phá khoa học đem lại cho con người nhiều tiện nghi, nhưng cuộc sống con người hôm nay càng bi đát hơn. Chân trời của họ là sợ hãi và chết chóc. Họ không thể tìm ra lối thoát.
Chỉ có Ngài thôi. Ngài là Mục Tử nhân lành. Đàn chiên chỉ có thể sống yên hàn và hạnh phúc, không còn đói khát sợ sệt khi tìm thấy được Vị Mục Tử của mình. Ngài là đường, sự thật và là sự sống. Ngài là Ánh Sáng đang chiếu soi trong tăm tối của trần gian, của tâm hồn chúng ta, chúng ta có nhận thấy không?
Chúng ta tưởng đã biết Ngài, nhưng thực sự chúng ta đã biết Ngài chưa? Chúng ta đã thực sự tin Ngài không? Hay tin vào cái gì khác?
Chúng ta cần đặt lại câu hỏi: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?”
Chúng ta cần nghe lời tiên tri Isaia: “Hãy tìm Chúa khi còn tìm được”.
Hãy tìm Chúa không thôi, vì Ngài luôn ở phía trước. Ngài vẫn có mặt nhưng chúng ta vẫn phải tìm Ngài luôn, vì chúng ta không nắm bắt Ngài trong tay. Ngài vẫn là chân trời đang rộng mở trước mắt chúng ta, mời gọi chúng ta lần theo ánh sáng của Ngài. Bên kia những thực tại trần gian, Ngài vẫn dọn sẵn cho chúng ta bàn tiệc của Ngài, niềm vui của Ngài vẫn trào tràn cho tất cả những ai dám đi tìm Ngài. Ngài mới là Bánh bởi trời mang lại cho chúng ta sự sống mà cái chết không ngăn chặn được.
Bánh Trường Sinh này không phải là của Ngài mà là của Cha trên trời. Ngài mạc khải cho chúng ta biết Chúa Cha, Đấng ban cho chúng ta mọi ơn lành: “Chính Cha Tôi cho các ông ăn bánh bởi trời.
Đây là một mạc khải quan trọng. Chúa Cha ban cho chúng ta mọi ơn lành, nhưng ân huệ lớn lao nhất chính là Người Con Một, “Đấng Ngài đã xác nhận và sai đến”, và Chúa Giêsu chính là Bánh đích thực.
Ngài đòi hỏi chúng ta đến với Ngài, tin vào Ngài, chúng ta mới không còn đói khát. Chính Ngài mới thỏa mãn cơn đói của chúng ta. Chúng ta tìm đâu ra hạnh phúc? Manna trần thế có thể thỏa mãn chúng ta trong khoảnh khắc, nhưng không thể đem lại một hạnh phúc lâu bền. Mọi sự đều qua đi, chỉ có Chúa mới tồn tại; vì Chúa là Tình Yêu.
Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta vào bàn tiệc yêu thương của Ngài. Hãy đến với Ngài với lòng cảm tạ tri ân, nhận lãnh hồng ân trên hết mọi hồng ân là chính Thịt Máu Ngài, thiên tính của Ngài…
Chúng ta không thấy hạnh phúc sao?

12. Sẽ không bao giờ đói khát
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Con người là một hữu thể luôn đói khát. Thánh Âutinh nói: “Lạy Chúa, Chúa đã tạo nên chúng con cho Chúa, vì thế tâm hồn chúng con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Đói cơm bánh và đói hạnh phúc và đói cả tình yêu.
Cơn đói vật chất vẫn là nỗi khốn cùng của nhiều người hiện nay trên thế giới. Nhưng cơn đói hạnh phúc là nỗi khổ của mọi người không trừ ai. Cơn đói hạnh phúc cồn cào đến nỗi con người hôm nay dùng hết mọi khả năng và phương tiện để thỏa mãn. Người ta tạo ra đủ mọi thứ trò giải trí tiêu khiển, đủ mọi cách để hưởng thụ, mong rằng sẽ được thỏa mãn, nhưng hình như càng tìm kiếm càng thất vọng. Một tác giả nào đó đã nói: “Con người luôn thất vọng”. Mọi cố gắng để tìm hạnh phúc đều thất bại. Những trò chơi, những thú tiêu khiển chỉ làm họ khao khát hơn vì không có gì có thể thỏa mãn con người.
Chúa Giêsu, hơn ai hết đã biết rõ cơn đói của con người. Ngài đến trong trần gian là để mang lại cho con người điều mà họ không thể tìm được. Chỉ có Ngài mới làm no thỏa con người.
Ngài cho năm ngàn người ăn no trong sa mạc. Dân chúng chạy tìm Ngài. Lúc nầy Chúa mới cho họ thấy rằng, dù ăn no họ vẫn còn đói. Bánh vật chất chỉ thỏa mãn một lúc nào, vẫn không là chính yếu vì “con người không chỉ sống bằng cơm bánh”. Cần tìm một thứ bánh không hư nát mà có thể mang lại sự sống trường sinh.
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với dân chúng cho chúng ta thấy Chúa đưa tầm nhìn của dân chúng, từ những thực tại vật chất đến những thực tại siêu nhiên. Đó là phương pháp Chúa dùng để giúp con người thấy được điều mà con mắt trần tục không thể thấy. Vì con người luôn xem vật chất là chính yếu và không thấy được những nhu cầu tâm linh.
Với người phụ nữ Samari, Chúa đã dùng hình ảnh của dòng nước vật chất để dần dần hướng dẫn chị đến thứ nước Trường Sinh. Ở đây cũng thế, Chúa dùng những tấm bánh vật chất để giúp họ khám phá ra một thứ bánh mang lại sự sống thường tồn.
Dân chúng nghe nói đến bánh thường tồn mang lại sự sống. Họ bắt đầu hiểu nhưng chưa rõ. Họ thắc mắc: “Phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?”
Chúa đang chờ đợi câu hỏi nầy. Họ bắt đầu hiểu được cái gì còn bí ẩn chưa rõ rệt. Nhưng họ cũng còn nghi vấn có nên tin ông nầy không? Họ so sánh Chúa với ông Môsê: “Vậy ông làm gì hơn ông Môsê đã cho tổ tiên ăn bánh bởi trời”. Đây chính là lúc Chúa cho họ thấy rằng “Cha tôi là Đấng đã cho tổ tiên ăn Manna chứ không phải ông Môsê”. Đây chính là dịp để Chúa mạc khải cho họ biết khuôn mặt thật của Ngài. Nhưng vì quá chú trọng đến bánh, họ nghe mà không hiểu. Không ai dám nói câu nói động trời như thế. Sau nầy, trong một cuộc tranh luận, người Do thái đã lấy đá định ném Ngài vì họ nói Ngài phạm thượng khi gọi Thiên Chúa là Cha của mình.
Mạc khải thứ hai cũng quan trọng khi Ngài nói rõ: “Chính tôi là Bánh Trường sinh, Bánh đem lại sự sống cho thế gian”. Làm sao dân chúng có thể hiểu được những lời tuyên bố lạ lùng như thế ? Vì thế họ nói: “Xin cho chúng tôi ăn mãi thứ bánh đó”.
Con người vật chất là như thế. Họ chỉ mong no bụng, chỉ trông chờ vào may mắn. Ngài biết rõ những gì trong con người, những nhu cầu, những tham lam của họ. Ngài nhẫn nại tôn trọng sức nặng của vật chất đang đè nặng trên họ. Ngài cho họ ăn no trước khi hướng họ về thứ bánh trường sinh mà Ngài sẽ ban cho toàn thể nhân loại cho đến tận thế. Ngài không đốt giai đoạn. Ngài giúp họ từng bước vươn lên đến đỉnh cao Ngài muốn.
Cuối cùng Ngài tuyên bố một cách rõ ràng: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói. Ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ”.
Không có gì rõ rệt hơn. Ngài tỏ bày cho họ thấy khuôn mặt thật của Ngài là Con của Cha trên trời và là Bánh trường sinh. Ngài cũng nhắc lại chữ tin. Ở trên, Ngài bảo họ phải tin vào Đấng Chúa Cha sai đến, ở đây Ngài nói rõ không úp mở: “Ai tin vào tôi”.
Chỉ có Ngài thôi.Phải tin vào Ngài. Nhưng tin là gì? Ngài xem đó là một công việc: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến”. Tin là một công việc quan trọng hơn mọi công việc khác.
Tin là một công việc và là một công việc quan trọng. Tin vào một người khác, vào Đấng Chúa Cha sai đến, tức là chuyển hướng tư tưởng và hành động chúng ta theo một chiều hướng khác, theo chiều hướng của Thiên Chúa. Tin chính là nhường chỗ cho Đấng Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.
Chúng ta hãy xem lại niềm tin của chúng ta. Chúng ta nói tin, nhưng có đúng như thế không? Chúng ta có cảm thấy rằng tôi không còn là trung tâm của mọi sự nữa mà chính Chúa Kitô mới là trung tâm của mọi hoạt động của chúng ta không ? Thánh Phaolô đã kinh nghiệm điều đó. Ngài cảm thấy Chúa Kitô chính là nội dung của cuộc sống : “Tôi sống, nhưng không phải là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi”. Chúng ta tưởng rằng đó là một lý tưởng xa vời chỉ có các đấng thánh mới có thể có những kinh nghiệm như thế. Không, đó là thực tại tự nhiên của kitô hữu. Mỗi kitô hữu phải sống làm một với Chúa như thế. “Sống đối với tôi là Chúa Giêsu Kitô”. Tin là mất hút trong Chúa, là chìm sâu trong Chúa. Nhưng chúng ta sẽ được bù lại bằng một hồng ân cao quí hơn, đó là Chúa Kitô sẽ sống trong ta vì Ngài muốn trở thành bánh cho chúng ta ăn: “Chính tôi là bánh trường sinh”. Và như thế, đức tin sẽ trở thành tình yêu. Yêu nhau là sống cho nhau, là nên một với nhau. Có cách nào nên một tuyệt diệu hơn khi Chúa cho chúng ta ăn lấy Chúa? Đây chính là khuôn mặt đáng yêu của Chúa chúng ta. Ngài chính là Tình Yêu. Tất cả đều nằm trong mấy từ đó.
Vì thế, giữ đạo không là một gánh nặng buồn chán mà là hạnh phúc triền miên. Đó là hạnh phúc của những kẻ tin. Các thánh đã tin, vì thế xuyên qua mọi đau khổ thử thách, các ngài vẫn thanh thản yên vui, vì các ngài biết đã tin vào ai. Tại sao chúng ta không cảm thấy hạnh phúc vì đã tin vào Chúa ? Chỉ vì chúng ta chỉ tin hời hợt.
Tôn thờ là một hôn ước. Trong Kinh Thánh, Chúa đã dùng hình ảnh của tình yêu để diễn tả mối liên hệ giữa Chúa và dân Chúa. Nơi các tiên tri chúng ta đọc thấy những lời hẹn ước đầy yêu thương của Chúa: “Từ muôn thuở Ta đã thương ngươi, “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta đã dành cho ngươi lòng xót thương”, “Vì mỗi lần nhắc tới nó, Ta lại thấy nhớ thương nên lòng Ta bồi hồi thổn thức. Ta thương nó, thương nó thật nhiều”.
Tình yêu Chúa đối với chúng ta được thể hiện qua một tấm bánh từ trời ban xuống là chính Ngài: “Chính tôi là bánh trường sinh”. Chúng ta có tin như thế không? “Ai đến với tôi không hề phải đói. Ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ”. Ngài là tất cả, vì Ngài là Con Thiên Chúa đến để ban cho chúng ta của ăn trường sinh. Đến với Ngài, tin vào Ngài, ăn lấy Ngài, chúng ta mới no đầy. Chúng ta vẫn thường ăn lấy Ngài, nhưng sao chúng ta vẫn chưa no đầy? Phải chăng vì chúng ta chỉ ăn mà không sống với Ngài? Phải chăng chúng ta chỉ biết làm theo một thủ tục? Những lần chúng ta ăn lấy Chúa, chúng ta có cảm thấy tình thương của Ngài tràn ngập chúng ta không? Và chúng ta có sống thực sự với Ngài không? Chúng ta có thực sự yêu Ngài như Ngài đã yêu chúng ta không? Bằng chứng của tình yêu chúng ta là gì? Là cho đi không tính toán? Là phục vụ khiêm tốn hằng ngày cho mọi người quanh ta? Ngài trở thành bánh cho chúng ta, chúng ta có thành bánh cho mọi người anh em không? Chúng ta chỉ yêu Ngài khi chúng ta dám sống yêu thương thực sự vì mãi mãi Chúa là Yêu Thương.

13. Bánh từ nhà đem đến.
Trong cuộc giao tranh, có một người lính bị thương nặng và được đưa vào bệnh viện dã chiến. Chàng có hy vọng bình phục, thế nhưng chàng lại không chịu ăn. Các y tá và nữ tu đã tìm mọi cách thuyết phục, nhưng chàng đều từ chối mọi thức ăn đem tới. Một người bạn thân biết chàng nhớ nhà nên anh đã tình nguyện đi tìm nhà của người bị thương để mời cha chàng tới. Đến nhà của người bạn, anh kể rõ hoàn cảnh. Người cha chuẩn bị lên đường thì mẹ chàng gói cho con bà một nắm cơm.
Nạn nhân vui mừng khi thấy cha mình. Nhưng chàng vẫn chưa chịu ăn, đến khi cha chàng nói: Này con, đây là nắm cơm mẹ con đã thổi. Nghe thế chàng bèn tươi ngay nét mặt và nói: Vâng, cơm mẹ con đã thổi xin cho con một miếng. Từ đó chàng bắt đầu bình phục.
Phải chăng đó cũng là hình ảnh của mỗi người chúng ta. Thực vậy, chúng ta bị thương trong trận chiến cuộc đời bởi tội, bởi quên Chúa, bởi những phiền muộn, những gian nan và khổ đau hằng ngày. Chúng ta hết muốn ăn những món ăn làm cho linh hồn chúng ta thêm mạnh mẽ. Chúng ta hãy nghe Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: Cha Ta cho các ngươi bánh bởi trời đích thật. Bánh của Thiên Chúa từ trới đến và ban sự sống cho thế gian. Cũng giống như người cha trong câu chuyện đã nói với con mình: đây là cơm mẹ con đã thổi.
Vì thế, vị linh mục nhân danh Đức Kitô cũng nói với chúng ta: Đây là bánh Cha chúng ta ở trên trời đã làm. Thánh Thể là bánh từ trời, bánh ban sự sống, bánh chữa lành thiêng liêng, cũng như trao ban sức mạnh cho tâm hồn. Không có phù phép gì trong nắm cơm của người mẹ. Nhưng có tình yêu là như một phép mầu. Bởi kinh nghiệm, người lính bị thương biết rằng nắm cơm người mẹ đã thổi gói ghém biết bao nhiêu tình thương.
Cũng thế, là những kẻ theo Đức Kitô, chúng ta biết rằng: Tình yêu được ban tặng trong Thánh Thể, trong việc đem bánh bởi trời đến ngay nơi đây và ngay lúc này. Thánh vịnh đã ca ngợi Chúa vì Ngài đã ban manna, một thứ của ăn lạ lùng của Chúa trong cuộc hành trình trở về đất hứa. Manna là hình ảnh của bánh Thánh Thể.
Chúng ta cũng dùng chính những lời người Do Thái đã dùng khi cảm tạ và ca tụng Chúa, vì bánh Thánh Thể Chúa ban như là manna cho tâm hồn chúng ta được sống trong cuộc lữ thứ trần gian này: Chúa đã ban cho họ bánh bởi trời, Ngài làm mưa manna trên họ để trở nên của ăn và Ngài cho họ bánh bởi trời.
Loài người được ăn bánh của Đấng toàn năng. Thánh Thể bao gồm tất cả. Và hôm nay, chúng ta nên nhớ rằng: Bánh bởi trời là liều thuốc cho linh hồn đau yếu, là sự bổ dưỡng cho những tâm hồn mang thương tích, là ánh sáng và sức mạnh cho những kẻ yếu đuối. Tất cả chúng ta sẽ thấy được điều người lính bị thương trong câu chuyện đã kinh nghiệm. Nếu chúng ta nhớ rằng: Thánh Thể là bánh được đem đến từ nhà của chúng ta ở trên trời.

14. Đằng sau vật chất hữu hình
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Qua những biểu tượng hay dấu chỉ hữu hình, con người có thể nhận ra Thực Tại Siêu Vượt. Qua tấm bánh, con người có thể nhận ra Thiên Chúa luôn yêu thương, săn sóc và dưỡng dục mỗi người và mọi dân tộc.
I. Cơ cấu vật chất- tinh thần
Con người có thân xác, nên phải ăn phải mặc; nhu cầu vật chất là điều chính đáng và cần được thỏa mãn. Tuy nhiên, con người khác con vật, con người không chỉ có nhu cầu vật chất: ăn ngon ngủ kỹ chưa đủ làm con người hạnh phúc. Con người còn có nhu cầu tinh thần. Con người cần được chấp nhận, cần được yêu được thương, cần được phát triển tài năng của mỗi người đến mức độ tuyệt hảo.
Vật chất- tinh thần là cơ cấu của con người. Qua những gì hữu hình vật chất, con người nhận ra tinh thần hiện diện. Con người là tinh thần qua thân xác, thân xác là biểu tượng của con người xét như hữu thể vật chất- tinh thần. Thế nên, kính trọng con người đòi phải kính trọng thân xác con người. Tình yêu đối với con người cũng được diễn tả một cách cụ thể qua thân xác và những gì cụ thể hữu hình. Tình yêu của cha mẹ đối với con cái được diễn tả qua sự hy sinh, vất vả làm việc để nuôi con, kiên nhẫn giáo dục con cái, mong con mình thành người trưởng thành và hạnh phúc.
Bài đọc sách Xuất Hành cho thấy dân Do Thái đói khát trong hoang địa nên đã kêu trách Môsê và Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban Manna nuôi sống họ. Họ đòi thịt, Thiên Chúa đã ban chim cút cho họ ăn. Tình yêu Thiên Chúa đối với dân Do Thái được diễn tả qua việc đưa họ ra khỏi Ai cập, qua việc che nắng và soi sáng họ bằng cột mây cột lửa, qua việc cho họ ăn uống. Thiên Chúa diễn tả tình yêu cho con người qua những gì cụ thể hữu hình, và Thiên Chúa cũng mong ước con người nhận ra tình yêu của Ngài, để con người có thể sống tín thác, an bình và hạnh phúc.
II. Siêu vượt- vượt lên những gì vật chất hữu hình
Dân Do Thái trong hoang địa càm ràm Thiên Chúa và Môsê: “Tại sao chúng tôi đã không chết trong tay Đức Chúa tại Aicập khi được ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thỏa lòng”. Dân Do Thái đã dừng lại nơi những gì là miếng ăn vật chất, nên đã không nhận ra tình yêu của Thiên Chúa qua việc Ngài can thiệp giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ bên Aicập. Thiên Chúa đã ban bánh cho dân, vì cơm bánh là nhu cầu chính đáng của con người; nhưng qua đó Thiên Chúa cũng mời gọi dân Do Thái nhận ra Thiên Chúa luôn quan tâm săn sóc họ, can thiệp, nuôi dưỡng và dạy dỗ họ ngang qua mọi biến cố.
Không phải chỉ dân Do Thái ngày xưa như vậy, ngày nay nhiều người cũng chỉ dừng lại những gì vật chất, họ đi tìm thỏa mãn hoan lạc nơi miếng ăn và xác thịt, họ chưa nhận ra được giá trị thực của đời người, chưa nhận ra được niềm vui sâu xa trong việc phục vụ và giúp đỡ tha nhân. Đức Giêsu nói với những người đi tìm Ngài chỉ vì bánh ăn: “các ngươi tìm Ta không vì đã thấy dấu lạ nhưng vì các ngươi có bánh ăn. Đừng lao công chỉ để có lương thực chóng qua, nhưng vì lương thực cho cuộc sống vĩnh cửu”. Thiên Chúa mời gọi mỗi người hãy giúp nhau nhận ra giá trị đích thực, làm sao để con người có thể sống hạnh phúc ngay trong hoàn cảnh hiện tại.
Con người được mời gọi vượt trên gặp gỡ Thiên Chúa qua những trung gian vật chất. Qua lương thực hằng ngày con người cũng có thể nhận ra tình yêu và sự quan tâm săn sóc của Thiên Chúa đối với mỗi người. Qua tình yêu của người con đối với cha mẹ, hoặc của cha mẹ đối với con cái, mỗi người có thể nhận ra tình yêu của Thiên Chúa cho mình. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, vì con người được tạo dựng giống Thiên Chúa. Cái nhìn siêu vượt, là cái nhìn giúp con người nhận ra Đấng Tuyệt Đối và có tương quan thân thiết với Ngài.
III. Thiên Chúa là Cha của tất cả
Khi một người được sinh ra, người đó là con của người cha người mẹ sinh ra mình. Mỗi người không tình cờ mà hiện hữu trên đời, chính Thiên Chúa đã yêu thương và sinh ra người đó qua cha mẹ của mình. Mỗi người đều có Thiên Chúa là cha là mẹ mình. Mỗi người làm cha làm mẹ đều cố gắng thương yêu tất cả những con mình sinh ra; cũng tương tự như vậy, mỗi người đều được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt.
Lịch sử dân tộc Do Thái là một mẫu cho tất cả các dân tộc trên hoàn vũ nhận ra rằng, Thiên Chúa yêu thương dân tộc mình như Ngài đã yêu thương dân tộc Do Thái. Cho tới ngày nay, cho dù dân tộc Do Thái có bị phân tán trên khắp thế giới, cho dù đất nước Do Thái có nhỏ bé và luôn sống trong chiến tranh, thì người ta vẫn tin rằng Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương dân tộc Do Thái, một dân được tuyển chọn làm dân tư tế, dân trung gian để nói về Thiên Chúa cho mọi người và mọi dân tộc khác.
Do Thái giáo là tôn giáo đặc biệt, vì Thiên Chúa mặc khải qua lịch sử dân tộc Do Thái, và lịch sử dân tộc Do Thái là lịch sử thánh. Kitô giáo là một tôn giáo đặc biệt vì đã được Đức Giêsu Kitô sáng lập, vì đã nhận ra Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Qua Đức Giêsu Kitô, Kitô hữu nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Thiên Chúa yêu thương mỗi người như yêu thương Đức Giêsu (Ga.17, 23; 15, 8-9). Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Tất cả các tôn giáo có thể là phương tiện Thiên Chúa dùng để giúp con người sống trong tôn giáo đó gặp gỡ Thiên Chúa theo cách thế riêng của họ; tuy nhiên Kitô giáo là một hồng ân rất đặc biệt cho Kitô hữu và cho tất cả mọi người, ngay cả cho những người sống trong các tôn giáo khác.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Đâu là dấu chỉ hay biểu tượng mà qua đó bạn dễ nhận ra Thiên Chúa hiện diện và yêu thương bạn nhất? Nếu có, xin bạn chia sẻ.
2. Theo bạn, đâu là dấu chỉ hay biểu tượng đặc biệt có ý nghĩa đối với con người ngày nay, giúp con người vươn lên gặp gỡ Thiên Chúa?

Hãy tìm lương thực trường sinh
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – ViKiNi)
Người ta thường hoan hô lãnh tụ muôn năm, tổng thống muôn năm, chủ tịch muôn năm … Nhưng họ chẳng sống được muôn năm, mà nấm mồ chôn vùi họ thối nát dưới lòng đất. Lãnh tụ nổi tiếng nhất trong loài người muốn sống muôn năm và lo tìm thuốc trường sinh bất tử, có lẽ là Tần thủy Hoàng của nước Tầu, đã sống trước Chúa Giáng sinh hơn 200 năm. Ông tự phong là Nhất Thế, nghĩa là vô địch nhất thế gian này về đức độ hơn cả Tam Hoàng, có công hơn cả Ngũ Đế là những vị vua có công lập quốc, kiến quốc nhất của Trung Hoa. Thủy Hoàng còn muốn được trường sinh trẻ mãi, nên tìm đủ mọi danh y, pháp thuật, bói toán, chỉ dẫn cho uống thuốc, tập luyện và sai phái quần thần đi khắp mọi nơi tìm thuốc trường sinh, với bất cứ giá nào, dù phải vượt biển Đông hão huyền cũng phải đi tìm, dù phải khổ luyện đến chết, vẫn nhắm mắt làm theo. Đồng thời, ông lại lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga, rộng lớn chín dặm vuông vức, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân hà, lấy vàng bạc xây tường và chôn sống hàng trăm cung nữ vây quanh nhà mồ của ông để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta như bảo ông phú hộ rằng: “Đồ ngốc! nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc. 12, 20). Quả thực, Thủy Hoàng chỉ làm vua hơn chục năm và sống hơn năm mươi tuổi. Khi chết, thây ma của ông thối tha ghê tởm đến nỗi phải gánh cá thối đi trước kẻo dân chúng nguyền rủa: “Ác giả ác báo”.
Tin mừng hôm nay cũng cho thấy dân chúng đi tìm Chúa Giêsu để được bánh ăn như hôm qua họ mới được ăn bánh hóa nhiều. Nhưng Chúa đã nhắc nhở họ: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông”. Họ tưởng Người sẽ ban cho họ thứ bánh như Môisen đã cho tổ tiên họ ăn man na trong sa mạc suốt thời gian bốn mươi năm về đất hứa. Họ vội vàng xin: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh đó”. Họ sẽ sống sung sướng biết bao, không phải làm ăn cực khổ.
Trước đó mấy ngày, người phụ nữ Samaria đến giếng Giacóp lấy nước. Chị được gặp Chúa Giêsu. Người cũng nói với chị: “Ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước Tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa, và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”. Chị đã mau lẹ xin: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (Ga. 4, 13-15).
Thời nào con người cũng chỉ biết tham muốn đòi hỏi những của ăn vật chất hay hư nát như vậy. Tần thủy Hoàng, dân Do thái, dân Samari và cả chúng ta nữa: “được voi đòi tiên”, không bao giờ được thỏa mãn. Lòng tham con người không đáy. Ở nước nghèo đòi ăn no mặc ấm, có nhà ở. Ở nước giàu ăn dư thừa lại luôn xuống đường đình công, biểu tình đòi tăng lương, đòi bớt ngày làm việc, từ bảy ngày xuống năm ngày, từ 48 giờ xuống 40 giờ, 30 giờ, còn để giờ đi xả hơi, đi chơi, coi phim, du lịch đua xe, đấu bóng, đấu võ, tới chỗ đánh nhau, chửi nhau, gây rối, rượu chè, cờ bạc, nghiện ma túy, phá hoại, chiến tranh, chém giết lẫn nhau. Nhàn cư vi bất thiện. Không ở đâu trên thế gian làm cho người ta được bằng lòng! Ở Việt Nam đòi sang Mỹ, ở Mỹ lại đòi về! Càng giàu càng lắm nhu cầu. Càng nhiều nhu cầu càng khổ vì chẳng bao giờ được thỏa mãn.
Người ta chỉ biết tìm những của hư nát và chết theo của hư nát đó thôi.
Chúa Giêsu thấy con người sống trong cảnh hư nát bi đát tội nghiệp đó, đã kêu gọi ta: “Hãy ra công làm việc của Thiên Chúa, để có lương thực không hư nát. Việc của Thiên Chúa là tin vào Đấng Ngài đã sai đến”. Chúa Giêsu đã nói rõ: “Đấng ấy chính là Tôi”, “Chính Tôi là bánh trường sinh, ai đến với Tôi, không hề đói, ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ nữa”. “Đến với Tôi, tin vào Tôi” là sống như chính Chúa Giêsu sống, sống với tâm tình và hành động như Người. Sống bằng sức sống của Người đã sống và đã chết để hy sinh lấy thịt máu mình cho con người được sống và được sống dồi dào. Sống như thế sẽ không còn đói, hy sinh như thế sẽ không còn khát, không còn lòng tham không đáy nữa, không còn đau khổ, nhưng được sống trường sinh hạnh phúc muôn đời
Thánh Ignatiô, Đấng sáng lập Dòng Tên, một dòng trí thức nhất của Hội thánh, Ignatiô lúc còn là đại úy, là quan, là hiệp sĩ anh dũng đầy những tham vọng, đòi giàu sang, khát danh tiếng, mê lạc thú, khát khao đủ mọi của hư nát thế gian. Chẳng may, Ignatiô bị thương nặng, què cẳng, phải nằm nhà thương lâu dài. Ông có dịp đọc sách “Gương Chúa Giêsu”, ông cảm thấy tâm hồn thanh thoát, phấn khởi chan chứa niềm vui. Ông thấy niềm vui thánh thiện này khác hẳn với thú vui dục vọng, danh vọng, giàu sang. Niềm vui thế tục như của ăn hư nát, vui chút là hết, lại sinh ra buồn chán, khổ sở, cắn rứt bất mãn như kẻ say rượu, mê cờ bạc, nghiện ngập. Niềm vui nhân đức, thánh thiện, việc lành, tồn tại mãi, an tâm, phấn khởi, thanh thoát, giống như niềm vui của tuần tĩnh tâm, của mùa thương khó, của lễ Phục sinh và Giáng sinh.
Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh Ignatiô tìm được lương thực trường sinh vinh phúc, xin cho chúng con luôn luôn làm việc của Thiên Chúa là tin mến vàsống theo Đức Giêsu để được Thịt và Máu Thánh Người bổ dưỡng chúng con bây giờ và cho đến muôn đời.

15. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin mừng Ga 6: 24-35: Bánh manna trong sa mạc hay bánh trong phép lạ bánh hóa nhiều, chỉ có thể nuôi sống phần xác. Những thứ bánh này ăn rồi lại đói, đói lại cần phải ăn. Nhưng con người chúng ta không chỉ có thân xác mà còn có linh hồn.
Suy niệm:
Từ ngàn xưa, Thiên Chúa là Đấng luôn dưỡng nuôi, chu cấp cho con người. Vì thế mà ông bà ta thường ví von “Trời sinh voi sinh cỏ” là vậy. Ngài luôn quan tâm, chăm sóc và dạy bảo con người trên mỗi bước đường cuộc sống.
Bài đọc I trích sách Xuất Hành cho thấy dân Do Thái được Thiên Chúa yêu thương đưa ra khỏi sự nô lệ Ai Cập. Trong hành trình tự do ấy, gặp cảnh đói khát, họ quay lại trách móc Thiên Chúa và Môisen rằng không chịu để họ nô lệ còn đỡ hơn phải chịu vất vả nơi hoang địa như thế. Nhưng tình yêu Thiên Chúa vẫn tiếp tục bao phủ trên dân dẫu lúc họ ngỗ nghịch như thế. Ngài đã ban Manna cùng chim cút cho họ ăn thỏa lòng.
Trong Tân ước, Thiên Chúa tiếp tục nuôi sống dân qua chính Con Một của Ngài. Chúa Giêsu đã hóa bánh nuôi sống năm ngàn người trong sa mạc. Và dân chúng muốn tôn Người làm vua để họ khỏi đói, khỏi phải vất vả làm lụng. Thế nhưng Chúa Giêsu, hơn ai hết đã biết rõ cơn đói khát của con người. Thật vậy, cơn đói vật chất vẫn là nỗi khốn cùng của nhiều người trên thế giới, nhưng cơn đói hạnh phúc mới là nỗi khổ không loại trừ ai. Bởi vậy mới có bộ phim Mêhicô vào những năm 90 với tựa đề “Nước mắt người giàu”. Chính Người khi chịu treo trên thánh giá đã cảm nghiệm được điều ấy. Vì con người không chỉ sống bằng cơm bánh vật chất, nên rất cần một thứ “lương thực” không hư nát để có thể mang lại sự sống trường sinh. Nguồn lương thực được Người mạc khải rằng “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói. Ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ”.
Chúa Giêsu là lương thực mà Cha trên trời ban cho nhân loại, mà bất cứ ai tin và chạy đến với Người thì không còn phải lo lắng nữa. Vâng, mỗi lần chúng ta tham dự Thánh lễ là chúng ta được tham dự vào bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Bàn tiệc Lời Chúa để khơi lòng mở trí, giúp nâng tâm hồn con người lên để có thể tin nhận và rước lấy chính Mình Máu Thánh Chúa nơi bàn tiệc Thánh Thể. Nơi Bí tích Thánh Thể, con người được lắng lòng lại bên Chúa, được vén mở cho biết tình yêu và sự quan tâm săn sóc của Thiên Chúa dành cho mình, nhờ đó con người luôn được bình an trong tâm hồn dẫu cho cuộc sống bôn ba đầy bộn bề.
Khổ nỗi, con người chúng ta thường dừng lại nơi miếng ăn vật chất hơn là nhận ra tình yêu của Thiên Chúa thương ban lương thực Trường Sinh. Vì chỉ dừng lại ở những nhu cầu vật chất, con người ta bê trễ trong việc chạy đến với Chúa, ngại ngùng ngồi lại bên Chúa, sẵn sàng đánh đổi với những việc mình lại cho là quan trọng và ưu tiên hơn, trong khi xem giây phút Thánh lễ đem lại phần rỗi đời đời trở nên thứ phụ, không khi này thì khi khác, lúc nào rãnh rổi hẵn hay. Lại nữa, con người chúng ta lại mất nhiều giờ tìm đến những trò giải trí tiêu khiển. Lành thì chọn những hàng quán, dạo phố, hát với nhau, những buổi cinê, ngồi lướt web hàng giờ hay trở nên những game thủ. Một số khác sống bất chấp ngày mai, lại chọn thỏa mãn bằng những cuộc đua yên hùng xa lộ, sử dụng các loại chất kích thích, rơi vào nghiện ngập, tìm đến những nơi hoạt động trá hình, hay thỏa mãn với những thú vui thác loạn… Thế nhưng, sau mỗi lần tìm kiếm để khỏa lấp, con người càng cảm thấy thiếu thốn, trống vắng và thất vọng.
Vâng, do bởi con người được Thiên Chúa tạo dựng vì tình yêu thương và cho sự sống vĩnh cửu, nên con người có sứ mạng tìm kiếm lương thực nuôi sống muôn đời và cho tình yêu bất diệt. Như thánh Augustinô đã tự nhận trong cuốn Tự Thuật: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa” (Tự thuật I,1,1). Chỉ có Chúa mới làm cho con người được no thỏa, chỉ có Đấng dựng nên linh hồn con người mới làm nó thỏa mãn mà thôi. Vì vậy, trong cuộc sống, chúng ta hãy cố gắng vươn lên, thể hiện mình là người có đức tin, một đức tin chọn Chúa làm nguồn ưu tiên cho cuộc sống của mình. Khi chúng ta biết chạy đến với Chúa, kín múc nguồn lương thực thần linh, thì chính Chúa sẽ đong đầy cho những khát vọng của chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho đừng để bất kỳ một lý do nào làm trở ngại cho việc con được chạy đến với Chúa. Xin Chúa thêm sức cho con can đảm chọn Chúa làm ưu tiên trong mọi lựa chọn của chúng con, vì chỉ có Chúa mới là tất cả cho những khao khát và niềm thao thức của con. Amen.

16. “Lương Thực Vĩnh Cửu”
(Suy niệm của Lm. Louis Phạm Hữu Độ, CRM)
Đức Tổng GM Fulton Sheen là một nhà giảng thuyết lừng danh của Nước Mỹ từ năm 1950 tới năm 1979. Ít ngày trước khi qua đời trong năm 1979, một nhà báo hỏi ngài “Thưa Đức Cha, ai đã tạo động lực cho Đức Cha về việc chầu Thánh Thể mỗi ngày, có phải vị thánh nào hay Đức Giáo Hoàng nào chăng?” Ngài trả lời: “Không phải từ vị thánh hay Giáo Hoàng nào cả nhưng là từ một cô bé người Tàu 11 tuổi” Ngài kể: Khi Trung cộng xâm chiếm Trung Hoa, lính Trung cộng đã đến 1 giáo xứ kia bắt giam Linh mục xứ trong nhà xứ, kế bên nhà thờ, rồi họ hung hăng tiến vào Thánh Đường phá vỡ Bàn Thờ và Nhà Tạm, đổ tung Mình Thánh ra. Qua khung kiếng cửa sổ vị Linh mục này nhìn thấy tất cả, và ngài còn nhớ rõ là trong Nhà Tạm bấy giờ có 32 Mình Thánh. Rồi lính Trung Cộng bỏ đi để lại 1 lính gác nhà thờ và 1 lính gác nhà xứ. Họ không ngờ bấy giờ có 1 cô bé đang cầu nguyện trong góc tối của nhà thờ. Cô nhìn thấy mọi sự. Đêm hôm ấy cô lẻn vào Nhà Thờ bằng cánh cửa riêng. Cô qùi chầu Chúa 1 giờ đền bù lại hành vi xúc phạm đó, rồi cô cúi xuống dùng lưỡi chịu lấy Mình Thánh Chúa vương vãi trên nền nhà thờ. Và cứ thế mỗi đêm cô đều tới chầu Chúa và chịu Lễ như vậy. Đến ngày thứ 32 sau khi chịu xong Mình Thánh cuối cùng cô lẻn ra, không may gây tiếng động khiến tên lính nghe được, đuổi theo và dùng báng súng đập chết cô. Cha xứ kể lại câu chuyện cảm động trên, Đức Tổng GM Fulton Sheen biết được và từ đó Ngài hứa với Chúa, bắt chước gương can đảm của cô bé và dù bận rộn đến đâu đi nữa Ngài vẫn giữ thói quen cầu nguyện trước Thánh Thể 1 giờ đồng hồ mỗi ngày.
Ăn là một nhu cầu và là một tác động rất quen thuộc với con người. Có ai sống mà không ăn. Chúa Giêsu không ngoại lệ. Phúc Âm nhiều lần kể Chúa Giêsu được mời tới nhà người ta ăn. Vì ăn là một sinh hoạt quen thuộc và quan trọng như vậy nên từ đó Chúa Giêsu muốn giới thiệu cho nhân loại một Của Ăn thiêng liêng là Thịt Máu Ngài. Đoạn Phúc Âm hôm nay kể lại chính Chúa tuyên bố, Thịt và Máu Chúa là Của Ăn cho nhân lọai. Đây không phải là câu nói chơi vì nó liên quan đến hạnh phúc đời đời của biết bao nhiêu người nên không nói chơi được. Đây cũng không phải là câu nói do cảm hứng hay tình cờ. Thiên Chúa không làm việc theo cảm hứng hay tình cờ nhưng có chương trình rỏ ràng, vả lại Chúa lập đi lập lại nhiều lần và cho dù nhiều người chống đối hay có nhiều môn đệ bỏ đi, Ngài vẫn cứ giữ nguyên câu nói đó.
Sau khi Chúa Giêsu tuyên bố Bánh Thiên Chúa ban là bánh bởi trời xuống và đem sự sống cho thế gian thì người Do Thái xin Chúa cho ăn mãi thứ Bánh đó. Chúa mới hướng họ về chính Chúa: Ta là Bánh trường sinh. Bánh thỏa mãn cơn đói và cơn khát của con ngưòi.
Ước mong hạnh phúc đời đời đó là niềm khát vọng sâu xa nhất của con người vì chúng ta được dựng nên có hạn nhưng lại khao khát sự vô hạn, chúng ta được dựng nên trong thời gian nhưng lại khao khát sự vĩnh cữu, chúng ta được dựng nên tại trái đất này nhưng chẳng có thứ gì ở trái đất này làm mình thõa mãn. Bởi vì linh hồn con người rất cao qúi nên chỉ có Đấng dựng nên nó mới làm nó thõa mãn mà thôi. Thịt Máu của Đấng vĩnh cữu sẽ ban cho con người sự sống vĩnh cữu, vì có được cái gì thì mới có thể ban ra cái đó, người ta không thể cho cái mà mình không có. Khi xưa Nã phá Luân, Hoàng đế nước Pháp, vinh quang tỏa sáng, danh tiếng khắp nơi. Một hôm có người đánh bạo hỏi vua “Thưa đức vua, đối với Ngài thì đâu là ngày đẹp nhất và qúi báu nhất trong đời Ngài?” Vua suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Ngày đẹp nhất và qúi trọng nhất trong đời Ta đó là ngày Ta được Rước Lễ Lần Đầu.”
Cơm bánh nuôi dưỡng thân xác chúng ta điều đó cần thiết nhưng chưa đủ vì chúng ta chỉ sống một thời gian nào đó trên trần gian này. Điều quan trọng là chúng ta không nhắm tới cái tạm thời mà trông vào cái vĩnh cữu. Chúng ta không muốn mình sống có 100 năm mà sống đời đời. Hãy rước Chúa vào lòng. Đó là sự nuôi dưỡng cao cả nhất và bền vững nhất vì được chính Chúa thì được hơn mọi thứ trong trần gian này. Đừng coi việc Rước Lễ là một sự thông thường, cũng đừng làm như một hành vi máy móc, vì thông thường sẽ dẫn tới coi thường, và máy móc thì không có mến yêu.
Xin Mẹ Maria, là Đấng ban Thịt Máu cho Chúa Giêsu, giúp chúng ta yêu mến Thánh Thể và dọn linh hồn đón nhận Lương Thực Vĩnh cửu này.

17. Bánh Ban Sự Sống
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Ngày 20 tháng 10 năm 1995, hơn 200 triệu người trên 100 quốc gia đã theo dõi cuộc phỏng vấn đặc biệt công nương Diana – vợ hoàng tử Charles Anh quốc do hãng thông tấn BBC thực hiện.
Diana nhìn nhận đã ngoại tình với sĩ quan kỵ binh James Hewitt. Lý do dẫn đến việc bất trung ấy là vì hoàng tử Charles đã dan díu với nàng Camilla Packer Bowles. Diana nói: “Tôi biết điều đó nhưng không làm gì được. Có tới ba người trong hôn nhân của chúng tôi. Và điều đó khiến nó trở nên chật chội”.
***
Hôm nay dân chúng lên thuyền nỗ lực tìm kiếm Đức Giêsu, chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Miếng ăn là nỗi ưu tư của những người nghèo, nên Đức Giêsu không trách cứ họ. Người chỉ hướng dẫn họ đến với Bánh Trường Sinh: nuôi dưỡng tâm hồn, và đem lại sự sống đời đời.
Con người thời nay không khác gì dân chúng ngày xưa. Người nghèo thì bị cuốn hút vào cơm áo gạo tiền, để thỏa mãn nhu cầu cấp bách của thể xác. Người giàu lại chạy theo xa hoa vật chất, để hưởng thụ nhu cầu cao cấp của con người. Để rồi kẻ giàu người nghèo đều có chung một nguy cơ: là quên đi cái đói khát tâm linh.
Thật ra, càng hưởng thụ con người càng khao khát hơn, thỏa mãn đấy rồi lại khao khát. Mọi thứ của cải trần gian, con người không cho làm đủ. Dù có tiền bạc, thế lực, chức quyền và danh vọng nhưng hoàng tử Charles và công nương Diana vẫn là những con người bất hạnh. Họ vẫn còn đói khát một của ăn tâm hồn. Tiên tri Amos đã nói về niềm khao khát ấy như sau: “Có lúc cả xứ bị đói, không phải đói cơm bánh, không phải là khát nước uống là mà đói khát Lời Chúa” (Am.8,11).
Thấu hiểu cơn đói khát ấy, Đức Giêsu đã không cho Manna từ trời rơi xuống, để mỗi ngày người ta phải lượm mà ăn. Nhưng Người đã cho họ Bánh Ban Sự Sống, để những ai ăn Bánh thì được sống đời đời: “Chính Ta là Bánh ban Sự Sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ” (Ga.6,35).
Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Phụng vụ Thánh, số 47 có viết: “Khi lãnh nhận Đức Kitô, tâm hồn được tràn đầy ân sủng, đồng thời cũng được bảo đảm cho vinh quang đời đời”.
Quả thật, nếu người thứ ba trong cuộc hôn nhân của Diana và Charles không phải là Camilla mà chính là Đức Kitô, thì gia đình ấy sẽ no thỏa hạnh phúc biết bao. Cha Mark Link viết: “Trái tim chúng ta có một khoảng trống mà chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy”.
Đức Giêsu chính là Tấm Bánh cho tâm hồn đói nghèo, là cánh tay cho người yếu đuối, là bạn đồng hành cho kẻ cô đơn, là ánh lửa hy vọng cho tất cả mọi người.
***
Lạy Chúa, chỉ một mình Chúa mới đem lại cho chúng con sự no thỏa tâm hồn và niềm vui đích thực.
Xin cho chúng con luôn biết khao khát Chúa là Bánh ban Sự Sống, là nguồn hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen.

18. Tấm bánh được bẻ ra
(Suy niệm của Văn Hào)
Chúa Nhật tuần trước, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Đức Giêsu, vị mục tử nhân lành giàu lòng yêu thương con người đã nhân bánh và cá lên gấp ngàn lần để cho 5000 người ăn no nê. Phép lạ đã xảy ra. Nhưng chắc chắn Đức Giêsu không phải là một kinh tế gia, cũng không phải là một chuyên viên đi làm công tác từ thiện xã hội, hoặc xóa đói giảm nghèo. Phép lạ Đức Giêsu thực hiện là một dấu chỉ khải thị một chân lý sâu xa hơn. Ngài chính là tấm bánh được bẻ ra để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Đức Giêsu không đóng vai một nhà từ thiện giầu hảo tâm, giúp con người vượt qua cái đói vật chất. Ngài chính là Đấng Cứu Độ, là Bánh Trường Sinh, Đấng đến trần gian để cho chúng ta được sống. Đó chính là nội dung bài diễn từ về bánh mà Thánh Gioan trình bày cho chúng ta trong chương 6, bắt đầu từ Chúa Nhật hôm nay.
1. Tấm bánh thần thiêng
Năm 1868, một cô gái người Bỉ yếu ớt được in năm dấu thánh. Cô ta tên là Louis Lateau. Từ đó trở đi, cô không còn có thể ăn uống được nữa. Trong bảy năm trời, cô ta sống nhờ lương thực duy nhất là rước Mình Thánh Chúa mỗi ngày. Trường hợp tương tự cũng xảy ra với chị Têrêsa Newman và cô Matta Robin, người Sáng lập Tu hội Bác Ái. Những điều kỳ diệu đó phần nào chứng minh cho lời Chúa nói hôm nay: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh. Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn mau hư nát nhưng để có lương thực mang lại sự sống trường sinh, là lương thực mà Con Người sẽ ban cho các ngươi.” (Ga 6, 27). Thế, lương thực Chúa nói đây là lương thực gì?
Chúa Giêsu đã công bố: “Tôi là Bánh Trường Sinh”. Để có tấm bánh, dù là bánh bột mì hay bột gạo, trước hết phải có hạt. Hạt được gieo trồng trong ruộng, rồi phải có người tưới nước, làm cỏ, bón phân. Hạt lúa cần ánh nắng để được chín vàng. Kế đến phải có người gặt, đem về xay thành bột. Bột được nhào, nặn thành bánh và bánh phải được nung chín trong lò. Đức Giêsu, tấm bánh được Thiên Chúa ban tặng, cũng trải qua những công đoạn tương tự như thế. Ngài đã được cấy vào mảnh ruộng trần gian, nơi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Ngài cũng đã được lớn lên trong ánh nắng mặt trời vùng quê Nazareth, đã vươn lên giữa đám cỏ lùng trong thửa ruộng dương gian. Ngài đã trưởng thành, đã chín vàng dưới ánh nắng kỳ diệu của Thần Khí. Sau cùng, Ngài đã được gặt hái, bị nghiền nát phơi thây trên Thập Giá, và được nung chín trong cuộc khổ nạn. Ngài đã trở nên một Tấm Bánh, được bẻ ra và hiến trao cho nhân loại. Tấm bánh Giêsu được hiến tặng cho ta chính là tấm bánh được nướng chín trong mầu nhiệm Thập Giá, nơi kết tụ đỉnh cao của Tình yêu mà Thiên Chúa đã tỏ bày.
Văn hào Fortry đã viết: “Dầu bầu trời có tối đen đến mấy đi nữa, thì Thánh Giá vẫn là dấu hiệu cao cả nhất và tuyệt vời nhất của tình yêu”. Cha Thánh Gioan Maria Vianney cũng diễn tả một xác tín tương tự: “Chúng ta phải đeo bám vào Thập Giá Chúa như một kẻ hà tiện bám víu vào tiền bạc, vì Thánh Giá là chóp đỉnh của tình yêu, là lương thực trường sinh, là nguồn mạch cứu độ”.
Chúa Giêsu đã nói: “Ai tin vào tôi sẽ được sống đời đời”. Tin vào Đức Giêsu, Đấng bị phân thây trên Thập Giá, chính là tiếp nhận Ngài, mở lòng ra để “ăn” Ngài, vì Ngài chính là tấm bánh cứu độ được bẻ ra và được phân phát nhưng không cho tất cả mọi người.
Muốn trở nên lương thực nuôi sống con người, tấm bánh phải được nghiền nát và bị phân hủy để đi vào thịt máu, đem lại cho chúng ta sự sống. Đây là định luật về Bánh, đã được chính Đức Giêsu biểu tỏ qua cái chết của Ngài trên Thập Giá. Định luật đó cũng được Chúa Giêsu chuyển giao để chúng ta sống và thực hành: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày theo tôi”.
2. Sống định luật về bánh.
Văn hào Leon Tolstoi viết một tiểu thuyết ngắn với tựa đề: “Con người chúng ra sống bằng gì?” Tác giả nêu ra câu hỏi và trả lời ngay sau đó “Con người chúng ta sống bằng tình yêu”. Tần Thủy Hoàng ngày xưa đã cho nhiều người tài giỏi đi khắp nơi lùng sục những thang thuốc quý, hay những lương thực cao lương mỹ vị để được sống mãi. Nhưng ông ta đã chết, cũng như tất cả mọi người khác. Dùng đồ ăn thức uống hằng ngày cũng chỉ có thể vỗ béo và tẩm bổ thân xác hầu kéo dài thêm thời gian sống, nhưng cuối cùng ai ai cũng phải chết. Trái lại, sống bằng tình yêu, con người sẽ không bao giờ chết. Thánh Gioan trong thơ thứ nhất, đã định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, nên những ai đi vào quỹ đạo tình yêu với Thiên Chúa và sống sung mãn huyền nhiệm yêu thương, người đó không bao giờ chết. Điều đó, chính Đức Giêsu đã khẳng định trong bài Tin Mừng hôm nay: “Tôi là bánh đem lại sự sống cho trần gian (Ga 6, 33-35). Ai ăn bánh này sẽ không còn đói.. Ai tin tôi sẽ được sống đời đời”. Định luật về bánh phản chiếu qua mầu nhiệm Thập Giá luôn hàm ngậm một nghịch lý. Hạt lúa được gieo vào lòng đất phải thối đi mới có thể nảy mầm và đơm bông kết trái. Tấm bánh phải được nhai nát, được tiêu hủy trong dạ dày mới có thể chuyển hóa thành máu và thịt. Cũng vậy, chúng ta phải đi qua cái chết mới đến được sự sống, phải đi qua Thập Giá mới có thể đón nhận vinh quang. Per Crucem ad Lucem. Per angusta ad augusta.
Con đường theo Đức Kitô, tấm bánh được bẻ ra, không phải là con đường thẳng tắp và phẳng lặng. Lối bước Thập Giá không phải là nẻo đường được đan kết bằng những bông hoa và nụ cười. Đó chính là con đường gập ghềnh đầy sỏi đá gai chông, là con đường đưa dẫn đến núi sọ và huyệt đá, hàm ngậm mầu nhiệm tự hủy để cùng chịu đóng đanh và cùng chết với Chúa Giêsu. (Mt 16, 24-25). Muốn trở thành môn đệ Ngài, chúng ta cũng phải trở nên tấm bánh được nghiền nát, được bẻ ra để phân chia cho mọi người.
3. Ví dụ cụ thể.
Một ngày cuối năm 1965, trên một chuyến bay từ Rôma đến Mỹ mang theo một số Giám Mục tham dự công đồng Vaticanô II trở về, có một tiếp viên hàng không khá xinh đẹp. Cô ta ân cần phục vụ hành khách, nhưng hôm đó cô tỏ vẻ hơi khó chịu vì có một cặp mắt cứ nhìn cô đăm đăm mỗi khi cô xuất hiện. Cô khá bực mình và cũng hơi bối rối, vì đó lại là cặp mắt của một vị Giám Mục đáng kính và khá nổi tiếng lúc bấy giờ: Đức Cha Fulton Sheen. Khi phi cơ đáp xuống, Đức Cha là người sau cùng rời máy bay. Ngài tiến lại gần cô tiếp viên và nói: “Thưa cô, cô rất xinh đẹp. Cô hãy cám ơn Chúa vì đã ban cho cô sắc đẹp tuyệt vời như thế”. Vị Giám Mục nói rất đứng đắn và trang nhã, nhưng cũng đầy trìu mến. Chỉ vài ngày sau, có tiếng gõ cửa tại văn phòng của Đức Cha ở New York. Người đến gặp Đức Cha không ai khác, mà chính là cô tiếp viên hôm nọ. Cô vào đề ngay: “Thưa Cha, con phải làm gì để cám ơn Chúa đã ban tặng cho con sắc đẹp?” Thay vì trả lời, Đức Cha hỏi lại cô: “Cô có bao giờ nghe nói về trại phong Di Linh ở Việt Nam chưa?” Cô trả lời rằng cô có biết qua báo chí. Đức Cha nói tiếp “Những người cùi ở đó cũng xinh đẹp lắm. Chúa Giêsu đang hiện thân nơi họ. Nếu cô muốn cám ơn Chúa, cô hãy sang Việt Nam và phục vụ họ như Chúa Giêsu đã yêu thương và phục vụ chúng ta”.
Cô tiếp viên xinh đẹp đó đã bay sang Việt Nam và sau đó trở thành nữ tu. Châm ngôn sống của cô là “Tôi cũng phải trở nên như một tấm bánh được bẻ ra để trao ban tình thương của Chúa Giêsu cho những người cùng khổ.”
Kết luận: Xin được tóm kết với bài thơ ngắn của thi sĩ Thagor: “Tôi đã nài xin Chúa cất khỏi tôi sự kiêu hãnh. Chúa trả lời rằng không. Chính tôi là người phải phấn đấu để vượt thắng. Tôi đã nài xin Chúa cho đứa con tật nguyền của tôi được lành lặn. Chúa nói không. Tinh thần mới cần lành lặn, còn thể xác chỉ là tạm bợ. Tôi đã nài xin Chúa cho tôi được hạnh phúc. Ngài cũng nói không. Ơn Ta thì luôn đủ cho con, hạnh phúc con phải tìm lấy. Và cuối cùng tôi xin Chúa ban cho tôi một quả tim để biết yêu thương. Chúa nói rằng đây là lời cầu nguyện Ta vẫn hằng mong chờ. Ta sẽ ban cho con một trái tim biết rung lên những nhịp đập yêu thương để con trở nên như một tấm bánh được bẻ ra, được nhai nát và góp phần đem lại sự sống cho mọi người”.

19. Bánh Hằng Sống
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Trong bài Tin Mừng của ngày Chúa Nhật vừa qua chúng ta đã nghe tường thuật lại việc Đức Giêsu khi thấy dân chúng lũ lượt tuôn đến với Người và Người đã động lòng thương họ. Người đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi họ. Vì thế dân chúng đã đi tìm Người để theo Người, như thánh sử Gioan đã tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay.
Thật vậy, con người dù sống trong thời đại nào đi nữa cũng đều là con người và đều giống nhau: Là luôn tìm mọi cách để được no đủ và để thỏa mãn được những nhu cầu thể xác của mình. Trong cuộc sống hằng ngày của một gia đình hay của một quốc gia vấn đề kinh tế và tài chính luôn luôn đóng một vai trò rất quan trọng có tính cách quyết định. Bởi vậy, tất cả mọi vấn đề, mọi kế hoạch hay mọi lo toan tính toán của một gia đình hay của một quốc gia đều tùy thuộc vào tình trạng kinh tế hay tình trạng ngân sách của gia đình cũng như của quốc gia đó. Các vấn đề có được giải quyết hay không, phần lớn đều lệ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế của đương sự.
Cả trong tôn giáo tình trạng kinh tế cũng có một ảnh huởng rất to lớn. Mọi hoạt động và mọi phương tiện thực hành đạo và sống đạo đều cần đến tài chính. Không có tiền bạc, mọi chuyện sẽ dậm chân tại chỗ hay ít ra sẽ bị giới hạn rất nhiều. Cũng như ngày xưa, động lực đã thúc đẩy người ta đến cùng Đức Giêsu và tuôn đi tìm kiếm Người là vì Người đã cho họ ăn no nê. Đúng là “miếng trầu là đầu chuyện” hay “Có thực mới vực được đạo”!
Nói một cách thành thật, tâm trạng đó vẫn không thay đổi cả trong thời đại của chúng ta ngày nay. Vâng, nếu người ta nghèo hay gặp phải cơn túng quẫn, người ta sẽ sống đạo sốt sắng hơn, sẽ chăm chỉ kinh nguyện hơn, sẽ siêng năng đi nhà thờ xem lễ đọc kinh hơn! Trái lại khi sống trong giàu sang phồn thịnh, người ta sẽ dễ lơ là với vấn đề tôn giáo, sẽ coi đời sống tôn giáo là việc thứ yếu hay chỉ là việc làm trong khi rảnh rỗi. Vì theo tâm lý của những người giàu có là họ cảm thấy cuộc sống của mình đầy đủ rồi, mọi sự đã được đảm bảo rồi, nên không cần phải nhờ cậy ai nữa, không cần phải nhờ cậy đến Thiên Chúa nữa, không cần phải cầu nguyện nữa.
Nhưng đó là cả một sự lầm lẫn nguy hiểm! Bởi vậy, Đức Giêsu đã quá thất vọng nói với các thính giả của Người: “Các ngươi tìm Ta vì các ngươi đã được ăn bánh no nê”. Tiếp đến, Người còn thêm: “Các ngươi hãy ra công tìm kiếm không phải vì thứ lương thực mau hư nát, nhưng là thứ lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ngươi”. Và thứ lương thực trường tồn và có thể đưa lại hạnh phúc vĩnh cửu cho con người, chính là Người: “Ta là bánh hằng sống!”
Đúng vậy, tôn giáo không phải là một loại ý thức hệ thuộc lãnh vực thứ yếu hay chỉ là một chuyện làm trong khi nhàn rỗi mà thôi. Tôn giáo cũng không phải là “thuốc phiện mê dân”, chỉ có giá trị qua thời, cốt giúp cho con người tạm quên đi những đau khổ hiện tại, hay chỉ dùng để an ủi vuốt ve con người đang trong cơn túng quẫn, nghèo khổ.
Không, đức Giêsu đã nói: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Ai theo Ta sẽ không phải chết, và ai tin Ta thì dầu có chết cũng sẽ được sống lại”. Thiên Chúa Giáo không phải là một thứ phương tiện để tạm an ủi và thoa dịu nổi khổ đời này, nhưng là chân lý dẫn đưa con người tới sự cứu rỗi đời đời.
Tuy nhiên, một điều chắc chắn là con người vẫn hoàn toàn được tự do để đến cùng Thiên Chúa, nguồn cứu rỗi vĩnh cửu, hay không! Thiên Chúa không bao giờ bó buộc ai cả. Nhưng một điều khác cũng rất chắc chắn là qua phương tiện kinh tế và tiền bạc vật chất mà thôi, con người sẽ không thể tìm được lối thoát sau cùng cho những vấn đề nan giải của cuộc sống, và, cũng không thể làm thỏa mãn hoàn toàn được những băn khoăn khắc khoải của mình bằng “cơm bánh” mà thôi. Bởi vì người Đức cũng đã có câu châm ngôn rất sâu sắc và rất thực tế: “Viel Geld heisst nich viel Gluck: Nhiều tiền không có nghĩa là nhiều hạnh phúc”.
Như vậy, chúng ta đã thấy rằng con đường duy nhất dẫn chúng ta tới hạnh phúc chân thật chính là lối đi đưa chúng ta về với Thiên Chúa, vì người chính là “Bánh hằng sống”. Dĩ nhiên, lối đi đó cũng đòi nơi chúng ta sự sẵn sàng nội tâm tự nguyện, sự đổi mới và cải thiện đời sống nội tâm. Chúng ta hãy cố gắng bước đi trên con đường đó, hãy cố gắng mỗi ngày bước đi trên con đường đó, vì nó là con đường cứu rỗi!

20. Bánh hằng sống
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Lịch sử ơn cứu độ là một tiến trình dài cả mấy ngàn năm liên quan đến một dân tộc đã được chọn lựa. Dân tộc này được Thiên Chúa yêu thương và hướng dẫn cách đặc biệt. Thiên Chúa chọn các tổ phụ là Abraham, Isaac và Giacob để rồi sinh xôi ra một dân tộc đông đúc, gọi là dân Do-thái. Lịch sử của dân tộc này cũng là lịch sử của ơn cứu độ. Diễn tiến cuộc sống thăng trầm của dân riêng là một qúa trình thanh luyện, thử thách và tôi luyện ròng rã để đón nhận Đấng Cứu Thế. Tuy được Thiên Chúa chở che và bảo vệ, dân chúng thường lại muốn vượt rào và chạy theo cách sống của ngoại lai. Thiên Chúa đã nhiều lần thiết lập giao ước với dân để giữ mối giao hảo thủy chung. Thực tế, dân chúng lại cứ chứng nào tật đó và ngựa theo đường cũ từ bỏ đường lối Chúa chạy theo thói đời.
Gặp nạn đói kém, các con cháu của Giacob di dân đến đất Ai-cập. Dân Do-thái sinh sống tại đất nước này khoảng 430 năm, 12 người con của ông Jacob trở thành các ông tổ của mười hai chi tộc dân Israel. Con cái cháu chắt nhiều đời đã sinh xôi nẩy nở trở thành một dân lớn mạnh. Khi Môisen dẫn dân ra khỏi Ai-cập: Con cái Israel nhổ trại rời Ram-xết đi Xúc-cốt, có khoảng sáu trăm ngàn bộ hành, chỉ kể đàn ông không kể trẻ con. Cả một đám đông hỗn tạp cùng lên với họ, mang theo chiên cừu, bò dê, họp thành một đàn súc vật đông đảo (Xh 12, 37-38). Qua câu truyện Xuất Hành của người Do-thái, chúng ta không thể hiểu và tưởng tượng được việc Chúa đã làm cho dân riêng. Lữ hành trong sa mạc, cả triệu người này lấy gì mà ăn uống, lấy gì mà mặc và rồi các sinh hoạt cá nhân, gia đình và cộng đồng… Họ trở thành dân du mục sống 40 năm tạm cư tại nhiều nơi trước khi vào miền Đất Hứa.
Sách Dân Số ghi nhận số người của từng chi tộc khi ra khỏi đất Ai-cập. Tại sa mạc Sinai, theo lệnh truyền của Thiên Chúa,ông Môisen kiểm tra dân số:Tất cả con cái Israel đã được kiểm tra theo gia tộc của họ, từ hai mươi tuổi trở lên, tất cả các chiến binh trong dân Israel,tổng số người được kiểm tra, là 603.550 (Ds 1, 45-46). Chúng ta thử tínhtrên 600 ngàn chiến binh cộng thêm các phụ nữ và con trẻ nữa, phải có trên một triệu người vượt Ai-cập. Cuộc sống văn minh tiến bộ với nhiều phương tiện như hiện nay, con số trên một triệu người di dân qủa là một vấn đề lớn. Biết bao nhiêu các nhu cầu cuộc sống cần phải đáp ứng. Dân Do-thái đã trải qua những thách đố tôi luyện rất căng thẳng. Tuy nhiên, cho dù đối diện với muôn ngàn khó khăn, sau cùng, họ cũng đã tiến vào miền đất hứa chảy sữa và mật.
Sách Xuất Hành ghi lại cuộc sống nay đây mai đó, dân chúng cảm thấy thiếu thốn mọi bề, nên than khóc. Nhớ về qúa khứ ở Ai-cập ngồi bên nồi thịt và ăn no nê, dân chúng đã bắt đầu thấy chán nản và kêu trách Môisen và Aaron về lương thực hằng ngày. Thiên Chúa phán: “Ta đã nghe tiếng con cái Israel kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Chúa, Thiên Chúa của các ngươi”.(Xh 16, 12). Qua những thăng trầm cuộc sống, Thiên Chúa từ từ mạc khải những mầu nhiệm Nước Trời. Qua bánh Manna nuôi sống thân xác, Chúa dẫn đến của ăn nuôi dưỡng phần hồn. Tất cả những sự cố xảy ra trong cuộc lữ hành của dân Do-thái đều mang một ý nghĩa nhiệm mầu trong chương trình cứu độ. Từ những sự kiện Môisen lãnh nhận Thập Giới, việc ông Môisen đập gậy vào tảng đá để nước chảy ra và việc Môisen treo con rắn đồng lên làm dấu trong hoang địa, để ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, sẽ được cứu. Thiên Chúa vừa thanh luyện tâm hồn vừa mạc khải những ý nhiệm sâu xa về Thiên Chúa độc nhất và chương trình cứu độ.
Lịch sử cứu độ được lồng vào lịch sử của dân tộc Do-thái, dân Chúa chọn. Dân Do-thái đã cưu mang chương trình cứu chuộc trong suốt hành trình lưu lạc trần thế. Thiên Chúa luôn yêu thương và giữ lời giao ước với đoàn dân. Dân chúng cũng đã vui hưởng những năm tháng an bình thịnh trị. Nhưng họ cũng không tránh khỏi những thăng trầm, gian nan, thách đố của cuộc sống. Trải qua lịch sử, cho dù nhiều lần dân chúng bỏ Chúa chạy theo bụt thần, Chúa vẫn luôn chờ đợi ngày họ quay trở về. Thiên Chúa quan tâm sai các tiên tri như là những sứ giả mở đường khai thông và bắc những nhịp cầu kết nối để giúp họ quay đầu sám hối.
Lời mời gọi sám hối là bước đầu đi vào cuộc sống an lạc và bình an. Chúa Giêsu khi ra rao giảng, Ngài cũng kêu gọi sám hối vì Nước Trời đã gần. Thánh Phaolô tông đồ cũng không ngừng nhắc nhở: Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em (Eph 4, 22-23). Lời mời gọi sám hối không phải chỉ để nghe nhưng là thực hành. Chúng ta không phải chờ tới ngày mai hay có cơ hội thuận tiện mới sám hối quay về. Lời của Chúa có sức mạnh tác động ngay trong hiện tại nếu chúng ta biết mở lòng đón nhận và quyết tâm sửa đổi cách sống.
Trong bài phúc âm hôm nay, từ những của ăn phần xác hay hư nát, Chúa Giêsu đã giới thiệu một loại bánh trường sinh. Bánh ban sự sống, đó là chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã dậy: Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận (Ga 6, 27). Chúa Giêsu là bánh từ trời xuống ban sự sống cho thế gian. Đây là một ý tưởng ngoại thường, dân chúng không dễ dàng chấp nhận. Sau khi nghe Chúa nói về bánh hằng sống chính là thịt và máu của Chúa, các môn đệ cũng xì xầm nhỏ to và có nhiều môn đệ rút lui, không đi theo Thầy nữa.
Lời của Chúa Giêsu phán hai ngàn năm trước, hôm nay vẫn mang tròn đầy ý nghĩa. Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể, Chúa dùng bánh và rượu là của nuôi thân xác biến đổi thành Thịt và Máu Thánh Chúa để nuôi linh hồn. Đây chính là mầu nhiệm đức tin. Chúa phán:Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống (Ga 6, 51). Lời truyền của Chúa Giêsu không thay đổi vì là lời hằng sống. Giáo Hội tin và tôn thờ Chúa Giêsu hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể. Thánh Thể trở nên trung tâm điểm trong đời sống của các Kitô hữu. Đến với Thánh Thể là đến với chính Chúa Giêsu. Thực tế niềm tin cuộc sống, nhiều người không còn tin thật Chúa Giêsu hiện diện dưới hình bánh hình rượu trong Bí tích Thánh Thể. Cả chúng ta, các Kitô hữu nhiều khi cũng lơ là và không tôn kính đủ khi đến với Thánh Thể nơi Nhạ Tạm.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin để chúng con nhận diện ra Chúa đang ngự giữa chúng con trong Bí Tích Thánh Thể. Đã nhiều lần chúng con đi qua Nhà Tạm Thánh Thể, Chúa hiện diện đó nhưng chúng con vô tình ngoảnh mặt làm ngơ. Chúa đã dùng Bí Tích Thánh Thể để hiện diện và trở nên thần lương nuôi dưỡng chúng con. Xin cho chúng con biết kết hợp mật thiết với Chúa trong mọi nơi và mọi lúc. Amen.

21. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
ĐỐI XỬ CÔNG BẰNG VỚI LINH HỒN TA
Sau khi được Chúa Giêsu ban cho một bữa ăn no nê thỏa thích qua phép lạ hóa bánh ra nhiều, đám đông người Do-thái đổ xô tìm đến với Chúa mong được Người cho ăn tiếp. Chúa Giêsu không bằng lòng với toan tính đó nên Người nói thẳng với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.”
Biết rõ bận tâm của đám đông là chỉ lo cho có lương thực nuôi xác, còn lương thực nuôi dưỡng tâm hồn và đời sống thiêng liêng thì chẳng màng tới, Chúa Giêsu răn bảo họ: “hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh.” (Ga 6, 27).
Khi nói như thế, Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người hãy cố công chăm lo cho linh hồn mình được phúc đời đời chứ đừng chỉ dồn tất cả công sức chăm lo cho thân xác mau hư nát nầy.
* * *
Một nhà kia có hai người con. Người con út được cha mẹ đem hết lòng yêu thương chăm sóc: cho ăn, cho mặc, cho học hành, cho thuốc men, cho tiêu xài thoải mái, cho tất cả những gì nó muốn và không từ chối nó bất cứ điều gì.
Trong khi đó, đứa con cả không được cha mẹ đoái hoài: không được nuôi ăn, chẳng được cấp dưỡng chút gì, bị cha mẹ bỏ mặc như thể nó không hề có mặt trên đời, mặc dù nó không làm điều gì sai trái.
Cha mẹ phân biệt đối xử như thế là quá bất công, đáng bị lên án. Nếu chúng ta ở vào địa vị người cha người mẹ trên đây, chắc chắn không bao giờ chúng ta đối xử bất công như thế.
Thế nhưng, bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có “hai người con” trong đời mình, đó là linh hồn và thân xác. Thân xác nầy nay còn mai mất thì được nhiều người chăm sóc chiều chuộng tối đa, còn linh hồn trường sinh bất tử thì chẳng được đoái hoài.
Châm ngôn của một số đông là: Tất cả dành cho thân xác, tất cả cho cuộc sống đời nầy. Người ta không từ chối thân xác bất cứ điều gì. Dù thân xác có đòi hỏi những điều hèn hạ, vô luân, người ta cũng chiều theo nó.
24 giờ của mỗi ngày đều dành trọn cho thân xác. 168 giờ của mỗi tuần, 720 giờ của một tháng đều dành trọn để lo cho thân xác và cứ như thế hết tháng nầy qua tháng khác, hết năm nầy qua năm kia.
Trong khi linh hồn thì bị bỏ rơi, không được đoái hoài!
Đó là một bất công không thể chấp nhận được và mang lại hậu quả đau thương cho cuộc sống mai sau, vì không sớm thì muộn, cái chết cũng sẽ đến để cướp hết những gì người ta đang có và hủy hoại thân xác ra không. Cuối cùng thân xác con người chỉ là một nhúm bụi đất còn linh hồn thì phải trầm luân muôn đời muôn kiếp.
Thật là điên rồ khi người ta dành hết tất cả thời gian, công sức, trí tuệ, tài năng, nghị lực của mình cho thân xác để rốt cuộc nó chỉ còn là bụi đất!
Qua sứ điệp Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người hãy đối xử công bằng với linh hồn mình.
Thân xác nầy nay còn mai mất thì chỉ cần chăm lo vừa đủ, còn linh hồn sống đời đời vĩnh cửu thì phải được chăm lo nhiều lần hơn.
Khi nuôi xác bằng cơm bánh được thu hoạch từ lòng đất thì cũng phải nuôi hồn bằng “Bánh từ trời xuống.”
Chính Chúa Giêsu là Bánh bởi trời được Chúa Cha ban cho nhân loại để mang lại sự sống cho thế gian. (Ga 6, 32-35)
“Ăn” Chúa Giêsu (theo nội dung đoạn Tin Mừng hôm nay, Gioan 6, 24-35) không có nghĩa là nhai, là nuốt Chúa Giêsu nhưng là đến với Chúa Giêsu và tin vào Người: “Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”
Nói khác đi, “ăn” Chúa Giêsu là đến với Chúa Giêsu, học với Chúa Giêsu, sống như Chúa Giêsu để đào tạo mình nên người có phẩm chất cao đẹp như Chúa, để rồi mỗi người chúng ta trở nên hình ảnh sống động của Chúa Giêsu và được chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Người.

22. Bánh bởi trời
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tôi đã đọc đâu đó câu này: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái”.
Tại sao phải mất 40 năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái? Bài đọc 1 hôm nay nêu lý do. Dân Do thái than vãn với Môsê: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Aicập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,3).
Dân Do Thái đã buông ra những lời trách móc nặng nề ông Môsê và ông Aharon. Nhiều lần dân Ítraen đã trách móc, xỉa xói và tỏ thái độ vô ơn bạc nghĩa đối với ông Môsê, vị đại ân nhân của họ: “Bên Aicập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? … Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Aicập! Thà làm nô lệ Aicập còn hơn chết trong sa mạc!” (Xh 14,11-12);“(Thà) chúng tôi chết … trên đất Aicập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê … (còn hơn là) vào sa mạc này, để … phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,2-3);“Ông đưa chúng tôi ra khỏi Aicập để làm gì? Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17,3); “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Aicập … Chúng tôi đã chán ngấy (manna) thứ đồ ăn vô vị này (rồi)” (Ds 21,5); “Phải chi chúng tôi chết ở bên đất Aicập, hoặc phải chi chúng tôi chết trong sa mạc này cho xong! Sao Đức Chúa lại đem chúng tôi vào đất này để chúng tôi ngã gục dưới lưỡi gươm, để vợ con chúng tôi bị giặc bắt? Chúng tôi trở về Aicập có tốt hơn không?” (Ds 14,2-4).
Hành trình sa mạc với nhiều thử thách là dịp thanh luyện dân tuyển chọn khỏi nổi nhớ “thịt béo, củ hành củ tỏi Ai cập”. Môsê vị lãnh đạo là khuôn mặt nổi bật nhất suốt chặng đường gian truân này.
1. Môsê, người của Thiên Chúa luôn sống liên đới với dân.
Môsê nhà lãnh đạo đã dành cả đời lo cho dân. Ông đã trải qua biết bao đau khổ, sợ hãi và lo lắng để chăm sóc cho dân. Nhưng dân lại trách móc, than phiền và mắng nhiếc ông. Dân đối xử tệ bạc với Môsê. Họ xem ông như chính là thủ phạm gây ra những đau khổ và bất hạnh cho họ và gia đình họ vậy. Thật bất công!
Vậy mà cả đời Môsê vẫn một mực yêu thương liên đới với dân, sống chết với dân trong lời táo bạo với Chúa mà thấm đượm lòng thương dân:“Tôi không muốn một mình sống hạnh phúc bên cạnh Chúa, nếu ở đó tôi không có Dân của tôi!”.
Từ ngày được Thiên Chúa gọi để lãnh đạo Dân Chúa (Xh 3,10), Môsê dần dần thấu hiểu và thâm tín rằng: vị tư tế ở giữa dân Chúa không những phải sống hoàn toàn liên đới với Thiên Chúa, mà còn phải hoàn toàn liên đới với dân Chúa.
Môsê luôn là người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa và là vị lãnh đạo quãng đại, đầy lòng xót thương, liên đới với dân cho dù dân ‘cứng cổ’, tội lỗi, bất trung.
a. Môsê, người của Thiên Chúa
Là tư tế, Môsê tường trình mọi việc của dân chúng ‘lên Thiên Chúa’ (Xh 18,19). Ông đàm đạo và nhận chỉ thị của Thiên Chúa trong Trướng tao phùng (Xh 33,9); ông thể hiện vai trò trung gian của vị tư tế, môi giới giữa Thiên Chúa và dân, nối kết hai bên bằng máu giao ước (Xh 24,6-8); ông còn chọn Aharôn và con cái Aharôn để sung vào chức tư tế (Xh 28,1), cũng như thay mặt Thiên Chúa để tác thánh họ (Xh 29,1-46). Chính việc tiếp xúc thường xuyên với ‘lãnh vực thánh’ đã dần dần khiến ông đi sâu về phía Thiên Chúa, đến độ Kinh Thánh đã không ngần ngại gọi ông là ‘người của Thiên Chúa’ (Tl 33,1; Yôs 14,6).
Môsê có những lúc tiếp xúc tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, được chan hoà sự hiện diện của Người, mặt ông đã rạng sáng lên, dọi chiếu lại vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang mà không một người phàm nào có thể nhìn thẳng được: “Aharon và toàn thể con cái Israel trông thấy Môsê và này da mặt ông chói lọi và họ sợ không dám tiến lại với ông” (Xh 34,30). Khi ông vào Trướng tao phùng đàm đạo với Thiên Chúa, toàn dân phủ phục (Xh 33,7-11). Ở đó, Thiên Chúa nói chuyện với ông như nói chuyện với một người bạn thân ‘diện đối diện’ (Xh 33,11). Ông thật sự trở nên con người mà Thiên Chúa ‘biết’ đích danh và không ngần ngại đồng hành với ông (Xh 33,12-17). Môsê táo bạo thỉnh cầu được nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa (Xh 33,18-23).Thiên Chúa đã nhượng bộ cho ông nhìn thấy Người… Nhưng từ phía sau lưng: “… Ta sẽ cất bàn tay Ta đi và Ngươi sẽ nhìn thấy phía sau Ta, nhưng Nhan Ta, người ta sẽ không nhìn thấy được” (Xh 33,23).
b. Môsê, người liên đới với dân Chúa
Môsê được sống bên cạnh, thân mật với Thiên Chúa, và tâm trí ông luôn hướng về dân Chúa: “Nếu quả tôi được nghĩa với Người, xin Chúa tôi khấng đi làm một với chúng tôi, vì đó là một dân cứng cổ và Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng tôi và cho chúng tôi làm cơ nghiệp của Người” (Xh 34,9).Từ ngữ ‘chúng tôi’ ở đây thật cảm động! Môsê đã không đặt mình trên dân, cũng không ở ngoài dân; nhưng hoàn toàn liên đới đến đồng hoá với dân, ngay cả nhận lãnh trách nhiệm về tội lỗi của dân.
Môsê bị phạt vì chính tội của dân, vì ông muốn liên đới với tội của dân: “Giavê đã phẫn nộ với cả ta nữa vì cớ các ngươi, mà rằng: cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ không vào!” (Tl 1,37). Hình phạt này đối với Môsê thật nặng nề và đau khổ. Môsê đã phải nằm xuống trên núi Nêbô, tại vùng đất Môab. Môsê chia sẻ hoàn toàn số phận của dân và dường như ông còn muốn ôm vào lòng cả thế hệ xuất Ai cập, thế hệ mà ông đã lãnh đạo, đã cầm tay đưa đến gặp gỡ Thiên Chúa tại Sinai, đã yêu thương cũng như đã chịu đựng… Thế hệ đó đã nằm xuống trong sa mạc. Môsê vì thế cũng ‘không muốn’ vào Hứa Địa một mình khi vắng bóng dân!
Môsê đã đau khổ cùng dân và cho dân! Môsê đã chết với dân và cho dân! Khuôn mặt và đời sống của Môsê đã in đậm nét trong lịch sử dân Chúa.
Môsê luôn luôn bênh đỡ, cầu bầu cho dân trước mặt Thiên Chúa: “Phải! Dân này đã phạm một tội rất lớn… Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng; bằng không, xin Người hãy xoá tôi đi khỏi sách Người đã viết…” (Xh 32,30-32).
Lòng yêu thương, tình liên đới, thái độ bầu chữa, bênh vực dân của Môsê xuyên suốt trong quá trình ông lãnh đạo dân. Môsê gắn bó cả cuộc đời và mạng sống mình với dân tộc Israel.
2. Môsê là hình bóng của Đức Giêsu Kitô.
Môsê là vị cứu tinh, là vị trung gian giữa Thiên Chúa và dân. Môsê là ngôn sứ nói với dân về Đấng Cứu Độ một lời danh tiếng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đó là: Đức Chúa sẽ cho xuất hiện “một ngôn sứ như tôi, anh em hãy nghe lời vị ấy” (Tl 18,15). Sau này, Têphanô vị tử đạo đầu tiên đã nhắc lại lời tiên tri đó (Cv 7,37); thánh Phêrô đã thấy thực hiện nơi Đức Kitô (Cv 3,22). Chính Môsê đã làm chứng về “Vị Tiên Tri” đó (Lc 24,27; Ga 5,46).
Là trung gian làm nhịp cầu giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel, Môsê tiên báo Đức Kitô, Đấng trung gian cho một Giao Ước mới hoàn hảo hơn. Dọc dài lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã thiết lập hai giao ước chính thức. Giao ước thứ nhất với Môsê trên núi Sinai. Giao ước thứ hai với Đức Kitô trên núi bát phúc và được bảo chứng trên Núi Sọ. Đây là Giao Ước Mới và là Giao Ước Vĩnh Cửu.
Đức Kitô, là Môsê mới đã hoàn thành tất cả những điều đã được ghi chép trong Lề Luật: “Những lời này, Ta đã nói cùng các ngươi, khi Ta còn ở với các ngươi, là phải nên trọn mọi điều đã viết về Ta trong luật của Môsê và các tiên tri cùng Thánh Vịnh” (Lc 24,44).
Môsê đã đưa dân Israel nô lệ ở Ai cập, xuyên qua sa mạc về Đất Hứa. Đó là hình bóng và là tiên báo Chúa Cứu Thế, Đấng là Đường, là Ánh Sáng đưa Israel mới đi qua cuộc đời trần thế mà tiến về Đất Hứa, là thành Giêrusalem trên trời.
Đức Kitô là Môsê mới của Dân Chúa. Tác giả thư Do thái quả quyết: “Trong mọi sự, Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương, vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,17). Chính Người đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên Vị Thượng Tế tuyệt đối trung tín với Thiên Chúa, đứng về phía Thiên Chúa (Dt 5,5-6), đồng thời Người cũng đã thể hiện một cách trọn vẹn sự liên đới với mọi người, đầy lòng xót thương đối với mọi người (Dt 5,9) qua hành động tự nguyện dâng hiến con người của mình làm lễ tế để kéo tình thương tha thứ của Thiên Chúa cho dân Chúa (Dt 5,8). Để đền tội cho dân và đem ơn cứu độ đến cho mọi người, Đức Giêsu Nazaret đã dùng chính máu mình để thiết lập Giao Ước Mới, một lần nữa nối kết Thiên Chúa với con người (Mc 14,24; Mt 26,28; Lc 22,20; 1C 11,25; cf Xh 24,8) và dùng cái chết tự nguyện đau thương trên thập giá, bị liệt vào hàng tội nhân (Mc 15,22-37; Mt 27,39-50; Lc 23,33-46; Yn 19,17-30; Rm 8,3; cf Tl 34,5-6) để đáp lại lời thách đố của Môsê? Từ đó, qua Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, chắc hẳn Môsê sẽ được chứng kiến và nghe lại lời này: “Tôi muốn sống hạnh phúc bên cạnh Đức Chúa, và ở đó có cả dân của tôi nữa!” (x.Môsê, vị lãnh đạo của Dân Chúa: trung tín và liên đới, ĐGM Giuse Võ Đức Minh, WHĐ).
3. Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống đem lại sự sống đời đời.
Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Chúa Giêsu “đã lánh mặt đi lên núi một mình”. “Chiều đến”, các môn đệ xuống thuyền đi sang “bên kia Biển hồ”; còn Chúa Giêsu lát sau đó “đi trên mặt biển” mà đến với các ông. Hôm sau, đám đông cũng xuống thuyền vượt qua Biển hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người. Dân chúng sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc “vượt qua” khác, sâu xa hơn nhiều. Đó là cuộc vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là Bánh Trường Sinh.
Chúa Giêsu biết dân chúng đi tìm mình chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự. Chúa Giêsu muốn họ tìm đến lương thực thường tồn: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”. Chúa Giêsu nhắc cho họ, không phải Môsê đã cho họ manna, mà là Thiên Chúa. Người bảo họ manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, manna chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa chính là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người, không chỉ sự no đủ về phương diện thể lý mà còn là sự sống đời đời: “Chính tôi là Bánh Hằng Sống. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.
“Chính Tôi là Bánh Hằng Sống”. Khẳng định long trọng của Chúa Giêsu không một chút mông lung, mơ hồ. Một ý tưởng, một lý tưởng hay một lý thuyết thì có thể mơ hồ, nhưng một con người có danh xưng cụ thể thì không. Bánh sự sống, lương thực đem lại sự sống và là sự sống vĩnh cửu, bất hoại, chính là bản thân Chúa Giêsu. Và để đón lấy một con người, một Đấng làm sự sống và lẽ sống cho mình, thì “công việc” phải làm là “đến với” và “tin vào” Người.
Liên tiếp trong 4 tuần lễ kể từ Chúa nhật hôm nay, phụng vụ Lời Chúa đọc lại gần như toàn bộ chương 6 Phúc âm Thánh Gioan về Bánh Hằng Sống. Đây là cơ hội để khám phá ý nghĩa của Mầu Nhiệm Thánh Thể. Mỗi Chúa Nhật một khía cạnh khác nhau. Tuần 1: Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời; Tuần 2: Bánh Ban Sự Sống; Tuần 3: Tấm Bánh Thánh Thể và Tuần 4: Tấm Bánh Lời Chúa.
Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời, không phải là đã “rớt xuống ” như mana trong sa mạc. Người là lương thực chân thật cho những kẻ đói khát. Lời của Chúa Giêsu, sứ vụ của Chúa Giêsu, cuộc sống của Chúa Giêsu đều là bánh nuôi dưỡng linh hồn nhân loại đang đói khát thiêng liêng. Chúa Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là Bánh Hằng Sống. Chúa Giêsu chính là Môsê mới cung cấp bánh ăn và giáo huấn khôn ngoan cho nhân loại. Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời. Người được Thiên Chúa đóng ấn, là chân lý của Thiên Chúa nhập thể.
Để được sống trường sinh, Thánh Phaolô khuyên tín hữu Êphêsô: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện”. (Bài đọc 2).
Sự công chính và thánh thiện chủ yếu là chết đi con người cũ để sống yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương. Không ai có thể đến với Thiên Chúa Hằng Sống để được sống trường sinh mà không qua Con Đường Giêsu, vì đây là Con Đường Thật, Con Đường dẫn đến Sự Sống.
“Đến với” và “tin vào”, khao khát và no thoả. Đó là hành trình của tình yêu, một hành trình vô giới hạn, không cùng, là sự cất cánh của tình yêu càng lên cao, càng lên cao mãi trong huyền nhiệm Thiên Chúa.
Mỗi lần rước lấy Thánh Thể,Tấm Bánh Bởi Trời, chúng ta phải cảm nghiệm được Chúa Giêsu như tâm điểm luôn thu hút chúng ta đến với Người và đến với nhau, làm cho tất cả nên một, một tấm bánh duy nhất: Bánh của tình thương.

23. Chúa Giêsu là bánh bởi trời
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tôi có dịp hành hương sang Aicập, đi qua sa mạc mênh mông, lên đỉnh núi Sinai cao vời vợi và đã đọc đâu đó câu này: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái”.
Tại sao phải mất 40 năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái? Bài đọc 1 hôm nay nêu lý do. Dân Do thái than vãn với Môsê: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Aicập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,3).
Dân Do Thái đã buông ra những lời trách móc nặng nề ông Môsê và ông Aharon. Nhiều lần dân Ítraen đã trách móc, xỉa xói và tỏ thái độ vô ơn bạc nghĩa đối với ông Môsê, vị đại ân nhân của họ: “Bên Aicập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? … Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Aicập! Thà làm nô lệ Aicập còn hơn chết trong sa mạc!” (Xh 14,11-12);“(Thà) chúng tôi chết … trên đất Aicập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê … (còn hơn là) vào sa mạc này, để … phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,2-3);“Ông đưa chúng tôi ra khỏi Aicập để làm gì? Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17,3); “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Aicập … Chúng tôi đã chán ngấy (manna) thứ đồ ăn vô vị này (rồi)” (Ds 21,5); “Phải chi chúng tôi chết ở bên đất Aicập, hoặc phải chi chúng tôi chết trong sa mạc này cho xong! Sao Đức Chúa lại đem chúng tôi vào đất này để chúng tôi ngã gục dưới lưỡi gươm, để vợ con chúng tôi bị giặc bắt? Chúng tôi trở về Aicập có tốt hơn không?” (Ds 14,2-4).
Hành trình sa mạc với nhiều thử thách là dịp thanh luyện dân tuyển chọn khỏi nổi nhớ “thịt béo, củ hành củ tỏi Ai cập”. Môsê vị lãnh đạo là khuôn mặt nổi bật nhất suốt chặng đường gian truân này.
Môsê, người của Thiên Chúa luôn sống liên đới với dân.
Môsê nhà lãnh đạo đã dành cả đời lo cho dân. Ông đã trải qua biết bao đau khổ, sợ hãi và lo lắng để chăm sóc cho dân. Nhưng dân lại trách móc, than phiền và mắng nhiếc ông. Dân đối xử tệ bạc với Môsê. Họ xem ông như chính là thủ phạm gây ra những đau khổ và bất hạnh cho họ và gia đình họ vậy. Thật bất công!
Vậy mà cả đời Môsê vẫn một mực yêu thương liên đới với dân, sống chết với dân trong lời táo bạo với Chúa mà thấm đượm lòng thương dân:“Tôi không muốn một mình sống hạnh phúc bên cạnh Chúa, nếu ở đó tôi không có Dân của tôi!”.
Từ ngày được Thiên Chúa gọi để lãnh đạo Dân Chúa (Xh 3,10), Môsê dần dần thấu hiểu và thâm tín rằng: vị tư tế ở giữa dân Chúa không những phải sống hoàn toàn liên đới với Thiên Chúa, mà còn phải hoàn toàn liên đới với dân Chúa.
Môsê luôn là người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa và là vị lãnh đạo quãng đại, đầy lòng xót thương, liên đới với dân cho dù dân ‘cứng cổ’, tội lỗi, bất trung.
1. Môsê, người của Thiên Chúa
Là tư tế, Môsê tường trình mọi việc của dân chúng ‘lên Thiên Chúa’ (Xh 18,19). Ông đàm đạo và nhận chỉ thị của Thiên Chúa trong Trướng tao phùng (Xh 33,9); ông thể hiện vai trò trung gian của vị tư tế, môi giới giữa Thiên Chúa và dân, nối kết hai bên bằng máu giao ước (Xh 24,6-8); ông còn chọn Aharôn và con cái Aharôn để sung vào chức tư tế (Xh 28,1), cũng như thay mặt Thiên Chúa để tác thánh họ (Xh 29,1-46). Chính việc tiếp xúc thường xuyên với ‘lãnh vực thánh’ đã dần dần khiến ông đi sâu về phía Thiên Chúa, đến độ Kinh Thánh đã không ngần ngại gọi ông là ‘người của Thiên Chúa’ (Tl 33,1; Yôs 14,6).
Môsê có những lúc tiếp xúc tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, được chan hoà sự hiện diện của Người, mặt ông đã rạng sáng lên, dọi chiếu lại vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang mà không một người phàm nào có thể nhìn thẳng được: “Aharon và toàn thể con cái Israel trông thấy Môsê và này da mặt ông chói lọi và họ sợ không dám tiến lại với ông” (Xh 34,30). Khi ông vào Trướng tao phùng đàm đạo với Thiên Chúa, toàn dân phủ phục (Xh 33,7-11). Ở đó, Thiên Chúa nói chuyện với ông như nói chuyện với một người bạn thân ‘diện đối diện’ (Xh 33,11). Ông thật sự trở nên con người mà Thiên Chúa ‘biết’ đích danh và không ngần ngại đồng hành với ông (Xh 33,12-17). Môsê táo bạo thỉnh cầu được nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa (Xh 33,18-23).Thiên Chúa đã nhượng bộ cho ông nhìn thấy Người… Nhưng từ phía sau lưng: “… Ta sẽ cất bàn tay Ta đi và Ngươi sẽ nhìn thấy phía sau Ta, nhưng Nhan Ta, người ta sẽ không nhìn thấy được” (Xh 33,23).
2. Môsê, người liên đới với dân Chúa
Môsê được sống bên cạnh, thân mật với Thiên Chúa, và tâm trí ông luôn hướng về dân Chúa: “Nếu quả tôi được nghĩa với Người, xin Chúa tôi khấng đi làm một với chúng tôi, vì đó là một dân cứng cổ và Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng tôi và cho chúng tôi làm cơ nghiệp của Người” (Xh 34,9). Từ ngữ ‘chúng tôi’ ở đây thật cảm động! Môsê đã không đặt mình trên dân, cũng không ở ngoài dân; nhưng hoàn toàn liên đới đến đồng hoá với dân, ngay cả nhận lãnh trách nhiệm về tội lỗi của dân.
Môsê bị phạt vì chính tội của dân, vì ông muốn liên đới với tội của dân: “Giavê đã phẫn nộ với cả ta nữa vì cớ các ngươi, mà rằng: cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ không vào!” (Tl 1,37). Hình phạt này đối với Môsê thật nặng nề và đau khổ. Môsê đã phải nằm xuống trên núi Nêbô, tại vùng đất Môab. Môsê chia sẻ hoàn toàn số phận của dân và dường như ông còn muốn ôm vào lòng cả thế hệ xuất Ai cập, thế hệ mà ông đã lãnh đạo, đã cầm tay đưa đến gặp gỡ Thiên Chúa tại Sinai, đã yêu thương cũng như đã chịu đựng… Thế hệ đó đã nằm xuống trong sa mạc. Môsê vì thế cũng ‘không muốn’ vào Hứa Địa một mình khi vắng bóng dân!
Môsê đã đau khổ cùng dân và cho dân! Môsê đã chết với dân và cho dân! Khuôn mặt và đời sống của Môsê đã in đậm nét trong lịch sử dân Chúa.
Môsê luôn luôn bênh đỡ, cầu bầu cho dân trước mặt Thiên Chúa: “Phải! Dân này đã phạm một tội rất lớn… Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng; bằng không, xin Người hãy xoá tôi đi khỏi sách Người đã viết…” (Xh 32,30-32).
Lòng yêu thương, tình liên đới, thái độ bầu chữa, bênh vực dân của Môsê xuyên suốt trong quá trình ông lãnh đạo dân. Môsê gắn bó cả cuộc đời và mạng sống mình với dân tộc Israel.
3. Môsê là hình bóng của Đức Giêsu Kitô.
Môsê là vị cứu tinh, là vị trung gian giữa Thiên Chúa và dân. Môsê là ngôn sứ nói với dân về Đấng Cứu Độ một lời danh tiếng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đó là: Đức Chúa sẽ cho xuất hiện “một ngôn sứ như tôi, anh em hãy nghe lời vị ấy” (Tl 18,15). Sau này, Têphanô vị tử đạo đầu tiên đã nhắc lại lời tiên tri đó (Cv 7,37); thánh Phêrô đã thấy thực hiện nơi Đức Kitô (Cv 3,22). Chính Môsê đã làm chứng về “Vị Tiên Tri” đó (Lc 24,27; Ga 5,46).
Là trung gian làm nhịp cầu giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel, Môsê tiên báo Đức Kitô, Đấng trung gian cho một Giao Ước mới hoàn hảo hơn. Dọc dài lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã thiết lập hai giao ước chính thức. Giao ước thứ nhất với Môsê trên núi Sinai. Giao ước thứ hai với Đức Kitô trên núi bát phúc và được bảo chứng trên Núi Sọ. Đây là Giao Ước Mới và là Giao Ước Vĩnh Cửu.
Đức Kitô, là Môsê mới đã hoàn thành tất cả những điều đã được ghi chép trong Lề Luật: “Những lời này, Ta đã nói cùng các ngươi, khi Ta còn ở với các ngươi, là phải nên trọn mọi điều đã viết về Ta trong luật của Môsê và các tiên tri cùng Thánh Vịnh” (Lc 24,44).
Môsê đã đưa dân Israel nô lệ ở Ai cập, xuyên qua sa mạc về Đất Hứa. Đó là hình bóng và là tiên báo Chúa Cứu Thế, Đấng là Đường, là Ánh Sáng đưa Israel mới đi qua cuộc đời trần thế mà tiến về Đất Hứa, là thành Giêrusalem trên trời.
Đức Kitô là Môsê mới của Dân Chúa. Tác giả thư Do thái quả quyết: “Trong mọi sự, Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương, vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,17). Chính Người đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên Vị Thượng Tế tuyệt đối trung tín với Thiên Chúa, đứng về phía Thiên Chúa (Dt 5,5-6), đồng thời Người cũng đã thể hiện một cách trọn vẹn sự liên đới với mọi người, đầy lòng xót thương đối với mọi người (Dt 5,9) qua hành động tự nguyện dâng hiến con người của mình làm lễ tế để kéo tình thương tha thứ của Thiên Chúa cho dân Chúa (Dt 5,8). Để đền tội cho dân và đem ơn cứu độ đến cho mọi người, Đức Giêsu Nazaret đã dùng chính máu mình để thiết lập Giao Ước Mới, một lần nữa nối kết Thiên Chúa với con người (Mc 14,24; Mt 26,28; Lc 22,20; 1C 11,25; cf Xh 24,8) và dùng cái chết tự nguyện đau thương trên thập giá, bị liệt vào hàng tội nhân (Mc 15,22-37; Mt 27,39-50; Lc 23,33-46; Yn 19,17-30; Rm 8,3; cf Tl 34,5-6) để đáp lại lời thách đố của Môsê? Từ đó, qua Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, chắc hẳn Môsê sẽ được chứng kiến và nghe lại lời này: “Tôi muốn sống hạnh phúc bên cạnh Đức Chúa, và ở đó có cả dân của tôi nữa!” (x. Môsê, vị lãnh đạo của Dân Chúa: trung tín và liên đới, ĐGM Giuse Võ Đức Minh, WHĐ).
4. Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống đem lại sự sống đời đời.
Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Chúa Giêsu “đã lánh mặt đi lên núi một mình”. “Chiều đến”, các môn đệ xuống thuyền đi sang “bên kia Biển hồ”; còn Chúa Giêsu lát sau đó “đi trên mặt biển” mà đến với các ông. Hôm sau, đám đông cũng xuống thuyền vượt qua Biển hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người. Dân chúng sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc “vượt qua” khác, sâu xa hơn nhiều. Đó là cuộc vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là Bánh Trường Sinh.
Chúa Giêsu biết dân chúng đi tìm mình chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự. Chúa Giêsu muốn họ tìm đến lương thực thường tồn: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”. Chúa Giêsu nhắc cho họ, không phải Môsê đã cho họ manna, mà là Thiên Chúa. Người bảo họ manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, manna chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa chính là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người, không chỉ sự no đủ về phương diện thể lý mà còn là sự sống đời đời: “Chính tôi là Bánh Hằng Sống. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.
“Chính Tôi là Bánh Hằng Sống”. Khẳng định long trọng của Chúa Giêsu không một chút mông lung, mơ hồ. Một ý tưởng, một lý tưởng hay một lý thuyết thì có thể mơ hồ, nhưng một con người có danh xưng cụ thể thì không. Bánh sự sống, lương thực đem lại sự sống và là sự sống vĩnh cửu, bất hoại, chính là bản thân Chúa Giêsu. Và để đón lấy một con người, một Đấng làm sự sống và lẽ sống cho mình, thì “công việc” phải làm là “đến với” và “tin vào” Người.
Liên tiếp trong 4 tuần lễ kể từ Chúa nhật hôm nay, phụng vụ Lời Chúa đọc lại gần như toàn bộ chương 6 Phúc âm Thánh Gioan về Bánh Hằng Sống. Đây là cơ hội để khám phá ý nghĩa của Mầu Nhiệm Thánh Thể. Mỗi Chúa Nhật một khía cạnh khác nhau. Tuần 1: Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời; Tuần 2: Bánh Ban Sự Sống; Tuần 3: Tấm Bánh Thánh Thể và Tuần 4: Tấm Bánh Lời Chúa.
Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời, không phải là đã “rớt xuống” như mana trong sa mạc. Người là lương thực chân thật cho những kẻ đói khát. Lời của Chúa Giêsu, sứ vụ của Chúa Giêsu, cuộc sống của Chúa Giêsu đều là bánh nuôi dưỡng linh hồn nhân loại đang đói khát thiêng liêng. Chúa Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là Bánh Hằng Sống. Chúa Giêsu chính là Môsê mới cung cấp bánh ăn và giáo huấn khôn ngoan cho nhân loại. Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời. Người được Thiên Chúa đóng ấn, là chân lý của Thiên Chúa nhập thể.
Để được sống trường sinh, Thánh Phaolô khuyên tín hữu Êphêsô: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện”. (Bài đọc 2).
Sự công chính và thánh thiện chủ yếu là chết đi con người cũ để sống yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương. Không ai có thể đến với Thiên Chúa Hằng Sống để được sống trường sinh mà không qua Con Đường Giêsu, vì đây là Con Đường Thật, Con Đường dẫn đến Sự Sống.
“Đến với” và “tin vào”, khao khát và no thoả. Đó là hành trình của tình yêu, một hành trình vô giới hạn, không cùng, là sự cất cánh của tình yêu càng lên cao, càng lên cao mãi trong huyền nhiệm Thiên Chúa.
Mỗi lần rước lấy Thánh Thể,Tấm Bánh Bởi Trời, chúng ta phải cảm nghiệm được Chúa Giêsu như tâm điểm luôn thu hút chúng ta đến với Người và đến với nhau, làm cho tất cả nên một, một tấm bánh duy nhất: Bánh của tình thương.

24. Chết trong danh dự
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người xưa vẫn thường nói: “trông vậy mà không phải vậy”. Một lời nói đơn sơ nhưng đầy triết lý cuộc sống. Có những người “đẹp người nhưng xấu nết”. Có những người bên ngoài nhỏ nhẹ, lịch sự nhưng lòng đầy gian tham xảo quyệt. Có những người miệng nói “nam mô nhưng lại một bồ dao găm”. Có biết bao điều diễn ra trước mắt nhưng thực hư lại càng khó phân biệt đúng sai. Cuộc sống thực dụng đã làm cho nhiều người biến chất trở thành kẻ lưu manh, lừa gạt hại người, hại đời. Cuộc sống đề cao vật chất đã khiến nhiều người đang tâm sống bất trung bất hiếu giữa với gia đình, với cha mẹ, với vợ, với chồng, với con. Dầu vậy, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những tấm lòng cao thượng, những trái tim trong trắng, những tâm hồn không để những tham sân si dòng đời làm băng hoại, hoen ố. Họ luôn sống cao đẹp. Họ luôn bảo vệ giá trị của tình người. Họ không bán rẻ phẩm giá vì một chút của cải mau qua. Họ đã sống đề cao giá trị vĩnh cửu hơn là những giá trị vật chất mau qua, tầm thường.
Nhà văn Pháp Pécaut đã kể một câu chuyện thật cảm động mà chính ông vẫn ân hận mỗi khi nhớ lại chuyện xưa. Ông kể rằng:
Một hôm tôi vừa ra khỏi nhà thì một em bé trai 12 tuổi chạy đến van nài tôi mua giúp em một hộp diêm quẹt. Động lòng thương tôi rút ví ra định mua, nhưng tôi lại chỉ có toàn tiền chẵn. Tôi đang ngần ngại thì thằng bé nói ngay: “Không sao ông ạ, xin ông cứ vui lòng đưa tiền cho cháu, cháu sẽ chạy đi tìm chỗ đổi tiền rồi trả lại cho ông ngay”.
Tôi nhìn thằng bé gương mặt xanh xao của nó có vẻ thành thật đến mức tự hào. Tôi liền trao cho nó một đồng tiền vàng và nó chạy biến ngay về hướng cuối phố. 5 phút trôi qua, rồi 10 phút, tôi bắt đầu hồ nghi về sự ngay thẳng của thằng bé. Và nửa giờ sau thì tôi hết kiên nhẫn, bỏ đi tiếp tục cuộc dạo phố, lòng thầm nhủ sẽ chẳng bao giờ còn tin vào những bọn lêu lổng đầu đường xó chợ như thế nữa.
Buổi trưa, khi về tới nhà, đúng chỗ ban sáng thì tôi lại thấy một đứa bé hơn nữa, chỉ độ 8, 9 tuổi, khuôn mặt giống thằng ăn cắp như tạc. Nét mặt nó bộc lộ sự lo âu tuyệt vọng. Nó thổn thức nói với tôi: “Thưa ông, có phải ông đã đưa cho anh cháu một đồng tiền vàng không ạ? Đây là chỗ tiền lẻ. Chính anh cháu nhờ gửi lại cho ông. Chúng cháu đều là trẻ mồ côi nhưng không phải là bọn ăn cắp. Anh cháu không thể trao tận tay ông ngay lúc sáng là vì anh cháu đã bị xe đụng khi vội chạy đi tìm chỗ đổi tiền. Cháu… cháu sợ rằng anh cháu chết mất thôi…”. Tôi bàng hoàng vội hỏi thằng bé trong tiếng nghẹn ngào: “Thế bây giờ anh cháu nằm ở đâu? Dắt bác đến gặp anh cháu ngay đi”.
Tôi rảo bước gần như chạy sau em bé. Chúng tôi rời khỏi những khu phố giầu sang để lách vào những con hẻm lầy lội của một khu lao động nghèo khổ. Em bé dừng lại một căn lều xiêu vẹo. Trong một xó tối, tôi nhận ra thằng bé bán diêm quẹt ban sáng. Nó nằm dài bất động trên một đống áo quần cũ rách, mặt trắng bệch vì mất khá nhiều máu.
Tôi lặng lẽ cúi xuống hôn lên vầng trán bị giập nát vì vết thương của em. Tôi ân hận vì cái nhìn thiển cận của tôi. Tôi nuối tiếc vì sự đánh giá thiếu cân nhắc của mình. Nhưng tôi lại thầm cám ơn đời đã cho tôi gặp được một tâm hồn trẻ thơ vô cùng trong trắng ngay giữa cảnh đời nghèo khó và đau khổ đến cùng cực…
Vâng, giữa cuộc đời mà người ta đang đua nhau tranh giành miếng cơm manh áo đến nỗi coi nhẹ nhân phẩm, nhân vị thì vẫn còn đó những con người biết sống nghèo khó mà lòng thanh sạch. Giữa cuộc đời mà người ta đang loại trừ và hãm hại lẫn nhau chỉ vì một chút địa vị, bổng lộc thì vẫn còn đó những con người tìm niềm vui trong đời sống yêu thương, phục vụ một cách quảng đại và vô vị lời.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm giá trị Nước Trời hơn là những của ăn mau hư nát. Thắng bé trong câu chuyện đã sống cao thượng, nó không vì tiền mà đánh mất danh dự. Nó thà chết chứ không để lòng tốt bị đánh cắp trong xã hội hôm nay. Nếu xã hội mà mỗi người đều biết trọng danh dự, trọng lẽ phải thì cuộc đời đâu còn nước mắt, trần gian đâu còn đọa đầy mà là thiên đàng tại thế. Nếu cuộc đời ai cũng biết trần gian là tạm bợ, thiên đàng mới là vĩnh cửu, có lẽ họ sẽ sống cao thượng, sống thanh sạch, sống công bình bác ái hơn là gian dối, tham lam tầm thường.
Nguyện xin Chúa là Đường là sự thật và là sự sống giúp chúng ta biết đi theo đường lối vẹn tuyền, biết tìm kiếm của ăn không bao giờ hư nát, biết chọn Chúa là phần gia nghiệp đời đời. Amen.

25. Con người tìm Chúa vì điều gì?
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Nhiều người lầm tưởng rằng khi thế giới văn minh thì tôn giáo sẽ không còn. Và khi con người đầy đủ vật chất thì nhu cầu tâm linh sẽ hết. Nhưng xem ra những gì đang diễn ra trong cuộc sống lại ngược lại. Nhu cầu tâm linh nhiều hơn. Người ta tìm đến với tôn giáo nhiều hơn. Các lễ hội biểu lộ niềm tin cũng phong phú hơn…
Thực ra, con người và tôn giáo luôn là một. Đã có con người là có tôn giáo. Niềm tin đi chung với sự phát triển của xã hội con người. Con người không thể phủ nhận niềm tin trong sâu thẳm tâm hồn mình. Dù một thời gian dài người ta rao truyền một chủ thuyết vô thần nhưng cho tới nay những người gọi là vô thần ta vẫn thấy họ biểu lộ niềm tin của mình qua đi lễ, đi Chùa hay làm việc công đức…
Điều đáng nói là họ tìm về thần linh chỉ để cầu lợi cho bản thân. Họ mong thần linh phù hộ cho công thành danh toại, và đáp ứng mọi nhu cầu của họ. Họ tìm đến thần linh như một mối lợi cho công danh sự nghiệp, cho tương lai của họ. Họ tìm đến thần linh để tìm đến nhu cầu trước mắt là cái ăn, cái mặc, là của ăn mau hư nát mà thôi.
Năm xưa, khi những người Do Thái đi tìm Chúa về lý do trần thế, Chúa Giê-su đã mời gọi họ “hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh”. Và muốn có lương thực ấy hãy tin vào Thiên Chúa, một vì Thiên Chúa đang ở giữa dân Người. Đúng vậy, chính Chúa Giê-su đã xác quyết: “Chính Tôi là bánh trường sinh. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ!”.
Nhưng đáng tiếc, với óc thành kiến dân Do Thái đã không tin nhận nơi Ngài. Họ vẫn loay hoay đi tìm một Đấng Messia theo ý họ, một Đấng có thể chiều lòng họ. Điều ấy đã không bao giờ xảy ra. Vì con người là thụ tạo cần phải vâng phục lời Thiên Chúa và để Ngài dẫn dắt cuộc đời con người.
Nhân loại ngày nay cũng đang loay hoay đi tìm Đấng Tạo Hóa, nhưng họ vẫn đi tìm một thần linh theo ý họ. Một thần linh mà có thể “hô mưa hóan gió” theo ý của con người, nên họ thất vọng, đánh mất niềm tin…
Xem ra con người ngày nay cũng chẳng khá hơn người xưa là mấy! Những người xưa đi theo Chúa năm xưa là những người “xôi thịt », chỉ mong thấy dấu lạ, được ăn no nê nhưng ít ra họ còn lui tới để nghe Chúa giảng, Chúa nói về Nước Trời.
Ngày nay, người đến nhà thờ vẫn còn đông nhưng người thực sự muốn nghe lời Chúa dạy thì rất ít. Nhất là người thường xuyên rước lễ cũng thưa dần.
Ngày nay, người ta cổ vũ đời sống thực dụng nghĩa là đắm đuối trong chuyện kiếm tiền. Vì như người ta nói “có thực mới vực được đạo!”. Nhưng đó chỉ là ngụy biện, thử hỏi ngày hôm nay có ai chết vì đói hay là chết vì no? Chỉ thấy chết vì no mà thôi, bởi lẽ người ta ăn nhiều quá, sinh bệnh mà chết, thế nhưng họ vẫn ưu tiên cho việc tìm kiếm của ăn đời này hơn là của ăn không hư nát đời sau.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho mỗi người chúng ta rằng chính Ngài là Bánh Trường Sinh có thể làm no thỏa lòng khát khao được sống đời đời. Thế nên, hãy tìm kiếm của ăn không hư nát là chính Chúa và hãy sống theo tinh thần của phúc âm, nhờ đó mà ta có được sự sống đời đời. Xin cho chúng ta đừng tìm Chúa vì nhu cầu vật chất mà hãy tìm Chúa để Ngài ban cho chúng ta thứ lương thực trường sinh. Xin Chúa thêm ơn để ta nhận ra chỉ có Chúa mới là lương thực trường tồn, là Bánh Trường Sinh. Amen.
26. Hãy tìm kiếm Nước Trời
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Một gia đình đang lái xe trên đường thì con cóc nhảy ngang qua. Ông chồng thắng xe kip thời, bước xuống, mang con cóc đặt qua vệ đường.
Con cóc bỗng nói:
– Cám ơn ông đã cứu mạng. Tôi sẽ cho gia đình ông một điều ước!
Người đàn ông nói:
– Vậy hãy làm cho con chó của tôi thắng cuộc đua hôm nay?
Ông ta gọi con chó ra, và khi thấy nó chỉ có ba chân, con cóc nói:
– Khó quá… Hay ông xin điều khác đi!
Lúc đó bà vợ trong xe bước ra và nói:
– Vậy hãy làm cho tôi thắng cuộc thi hoa hậu năm nay được không?
Cóc nhìn bà vợ rồi quay lại nói với ông chồng:
– Ông… cho tôi xem lại con chó. Xem ra con chó thắng dễ hơn là bà nhà thắng cuộc thi hoa hậu!
Xem ra cuộc đời là một cuộc đua. Đua tìm danh vọng. Đua tìm tiền tài. Đua tìm lạc thú. Con người ra công tìm kiếm thường là danh lợi thú trần gian. Nhu cầu của con người cần có là vật chất, là tiền tài. Họ mải mê tìm kiếm và tôn thờ của cải. Họ hy sinh mạng sống để được nó. Ngay cả khi đến với Chúa, con người xem ra cũng chỉ cầu xin cho có tiền, có địa vị… Xem ra chẳng mấy ai thấy được nhu cầu thiết yếu đời người là tìm kiếm của ăn không hư nát là đời sau.
Thực vậy, nhu cầu của con người ngày nay không phải là tâm linh mà là vật chất. Con ngươi gắn bó với thực tại trần gian này hơn là thực tại Nước Trời mai sau. Nhưng đáng tiếc, nhu cầu vật chất chẳng bao giờ cho đủ. Lòng tham của con người chẳng khi nào dừng. Con người không bao giờ cảm thấy mình đủ với của cải vật chất. Lòng tham khiến con người cứ như con kiến miệt mài tích lũy mà chẳng cần biết có cần dùng tới hay không?
Thật phí phạm nếu chỉ tích lũy mà chẳng có nhu cầu sử dụng! Thật dại dột khi tích lũy một cái mà chẳng có giá trị bền vững! Thật là “dã tràng xe cát biển Đông” nếu tích lũy của phù dù mong manh chóng tàn!
Là người Ky-tô hữu Chúa mời gọi chúng ta hãy gia công tìm kiếm của ăn không hư nát. Đừng uổng phí thời gian tích lũy của phù vân. Hãy sống cho giá trí Tin Mừng. Hãy tìm kiếm giá trị vĩnh cửu. Đó là sứ điệp mà Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta.
Có lẽ nhiều người sẽ bảo không tích lũy của cải trần gian lấy gì mà sống? Điều Chúa muốn nói không phải là đừng làm giầu của cải vật chất mà là dù mình làm bất cứ việc gì hãy đặt giá trị Tin Mừng lên trên. Người giầu vẫn vào Nước Trời khi họ làm giầu theo ánh sáng Tin mừng. Người giầu đôi khi còn dễ vào Nước Trời khi họ biết sử dụng của cải trần gian để xây dựng ngôi nhà Nước trời bằng việc lành phúc đức cho những anh em nghèo khó. Đây cũng là cách chúng ta tích lũy kho tàng trên trời. Đây chính là phương thế chúng ta đang sống gia công làm việc để có lương thực không hư nát.
Quả thực, tiền bạc sẽ qua đi, nhưng công đức của chúng ta sẽ theo ta vào đời sau. Của cải này sẽ trả lại cho thế gian nhưng việc lành phúc đức của chúng ta sẽ giúp chúng ta có sự sống trường sinh.
Xin Chúa giúp chúng ta biết sống quảng đại và hiến thân hầu xây dựng cho mình một ngôi nhà thiên quốc. Xin Chúa giúp chúng ta đừng quá đặt nặng vật chất mà cản lối tiến chúng ta về quê trời. Amen.

27. Vòng xoáy cuộc đời
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống con người là một cuộc chạy đua. Con người bước vào trần thế như lao đầu vào cuộc đua danh vọng, tiền tài. Sức mạnh của đồng tiền. Sụ cuốn hút của danh vọng khiến con người như bước vào vòng xoáy đầy khắc nghiệt của dòng đời. Vòng xoay của đam mê khiến con người cảm thấy mệt mỏi vì không bao giờ thỏa mãn những vinh hoa phú quý trần gian. Đôi khi dừng lại chúng ta thây cuộc đời thật vô vị, vì chẳng mấy khi tìm được những giây phút bình yên, hạnh phúc nhưng đã tiêu phí thời giờ cho bon chen và vật lộn long đong.
Người ta nói rằng: “Nhà đấu quyền anh J. Demsey chỉ có thể thiếp ngủ được vào lúc 2 giờ sáng sau khi đoạt giải vô địch chiều trước đó. Nhưng ngủ được một tiếng đồng hồ, anh bỗng giật mình thức giấc vì nằm mơ thấy mình mất chức vô địch. Rồi vì không ngủ được, anh đi ra phố mua tờ báo vừa mới xuất bản để đọc lại những lời tường thuật trận đấu, hầu trấn an là mình còn giữ chức vô địch. Demsey ghi lại cảm tưởng của mình thế này: “Sau khi đọc bài báo, tôi hiểu rằng sự thành công không có mùi vị thơm ngon như tôi hằng mơ tưởng trước đó. Sau biến cố, tôi vẫn còn cảm thấy trống rỗng”!
Dòng đời luôn xô đẩy chúng ta tìm kiếm danh lợi thú trần gian. Chúng ta mệt mỏi vì kiếm tiền, vì chạy theo danh vọng. Thế nhưng, tiền tài, danh vọng chỉ là phù hoa. Đồng tiền thường bạc bẽo. Danh vọng là của đồng lần. Đôi khi chúng ta cũng giống như Demsey cảm thấy vô vị và trống rỗng… Chúng ta đã dồn tất cả tài năng, sức lực cho một danh vọng, một địa vị nào đó. Nhưng cuối cùng chỉ thấy trống rỗng, vô nghĩa, bởi vì nó không giúp chúng ta đat tới hạnh phúc đích thực.
Lời Chuá hôm nay nhắc nhở chúng ta đừng mải mê chạy theo những điều không mang lại cho chúng ta hạnh phúc đời đời. Đừng phí thời giờ bởi tỉm kiếm của ăn mau hư nát. Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Hãy tích trữ kho tàng Nước Trời là việc lành phúc đức, là sự hoàn thiện mình khỏi những thói hư tật xấu, những bon chen vật chất tầm thường. Vì được lời lãi cả thế gian chết mất linh hồn nào ích gì?
Là người ky-tô hữu Chúa còn nhắc nhở chúng ta đừng đến với Chúa vì cầu danh lợi. Đừng đòi Chúa phải làm phép lạ theo ý mình, hay để thỏa mãn khát vọng của mình. Thiên Chúa không làm phép lạ để thoả mãn tính hiếu kỳ của con người. Phép lạ dẫn chúng ta tới niềm tin vào Thiên Chúa. Tin vào sự sống siêu nhiên. Phép lạ giúp chúng ta biết tìm đến Thiên Chúa, tìm dến những gỉ cao siêu hơn là những vật chất tầm thường. Dân Do Thái năm xưa đã được ăn Manna, là thứ bánh bởi trời, nhưng họ không thoát khỏi cái nhìn vật chất. Manna không hướng họ về trời cao, bởi lòng họ còn bận rộn với của cải vật chất tầm thường.
Ngày nay Chúa cũng ban cho chúng ta bánh bởi trời là Thánh Thể Chúa. Chúa nhắc nhở chúng ta ngoài đời sống thể xác còn có đời sống linh hồn. Sự sống thể xác thì giơí hạn. Sự sống linh hồn mới bất tử. Hãy siêng năng đón rước Chúa Giê-su Thánh Thể là của ăn nuôi dưỡng linh hồn. Hãy rước Chúa phục sinh để sự phục sinh cua Chúa lưu chảy trong cuộc đời chúng ta, ngõ hầu mai sau chúng ta cùng được phục sinh với Chúa.
Xin cho cuộc đời chúng ta đừng quá bận tâm đến của cải trần gian. Xin đừng để tâm hồn chúng ta quá mải mê tìm kiến của ăn mau hư nát mà quên hướng lòng về quê trời. Xin cho chúng ta luôn là những trinh nữ khôn ngoan để tỉnh thức trước bao cám dỗ mời mọc và không bao giờ ngủ quên trong thói đời trụy lạc, thói đam mê vật chất tầm thường. Amen.

28. Thánh Thể – Nguồn mạch tình yêu
(Suy niệm của Matthêu Vũ Văn Lượng, OP)
Kính thưa cộng đoàn,
Cuộc gặp gỡ nào bao giờ cũng in đậm những kỷ niệm. Có cuộc gặp gỡ mang lại nụ cười thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại nước mắt; có cuộc gặp gỡ mang lại hạnh phúc thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại khổ đau; có cuộc gặp gỡ mang lại hiệp nhất thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại ly tan; có cuộc gặp gỡ mang lại ngọt bùi thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại cay đắng; v.v….
Thưa quý ông bà anh chị em, đó là cuộc gặp gỡ trong thân phận con người chúng ta. Từ những cuộc gặp gỡ đó, chúng ta hướng đến một cuộc gặp gỡ cao trọng nhất, thân thương nhất. Đó là cuộc gặp gỡ mang tính thần-nhân, cuộc gặp gỡ giữa mỗi chúng ta và Đức Giêsu. Thiên Chúa là tình yêu và Ngài không nói với chúng ta bằng ngôn ngữ nào khác hơn là thể hiện tình yêu qua cái chết của con Ngài. Tình yêu này được cụ thể hoá nơi phép Thánh Thể là chính thân mình Đức Kitô Giêsu.
Một trong những cuốn phim hay nhất của Chalot và có lẽ cũng là một trong những cuốn phim hay nhất của ngành điện ảnh, đó là cuốn phim có tựa đề: “Ánh sáng đô thị”. Cuốn phim kể về câu chuyện tình của gã lang thang và cô gái bán hàng hoa.
Nàng là cô gái mù bán hàng hoa bên vệ đường. Ngày nào cũng có một nhà tỉ phú dừng lại mua hoa của nàng. Thế rồi, một ngày kia cũng có một gã lang thang tên là Chalot cũng dừng lại mua hoa của nàng. Tưởng là người tỉ phú, nàng đem lòng yêu mến và giấc mộng đã từ đây chớm nở nối kết hai tâm hồn. Phần nàng, nàng tưởng rằng mình gặp được người mình mơ mộng bấy lâu nay. Còn chàng Chalot thì hy vọng sẽ kiếm được tiền để chữa lành tật mù loà cho nàng.
Chẳng may, vì một sự ngộ nhận, chàng bị cảnh sát giam giữ. Sau thời gian cầm tù, chàng được trả tự do. Rồi chàng trở lại chỗ cũ để tìm lại người con gái mù loà bán hoa, nhưng nàng đã ra đi. Nhờ tiền bạc trước đây chàng gởi cho, người con gái nay đã thấy được và đang đứng bán một cửa hàng hoa rộng lớn hơn. Chàng qua lại nhiều lần nhưng không thể nhận ra nàng.
Tình cờ một cánh hồng rơi xuống đất, chàng vội cúi nhặt lấy. Nhưng người con gái cười như khinh bỉ chàng. Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận ra tiếng cười, chàng vội quay lại và khẽ hỏi: “Cô thấy được rồi sao?” Người con gái nhận ra tiếng nói quen thuộc của chàng… Nàng từ từ nhặt cánh hoa lên, gắn lên áo chàng và nghẹn ngào thốt lên: “Anh đấy sao?” Cả hai người nhận ra nhau và không bao giờ xa nhau nữa.
Kính thưa cộng đoàn, đó cũng là cuộc gặp gỡ trong tình yêu. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đi vào cuộc gặp gỡ cao trọng hơn đó là phép Thánh Thể. Lời mời gọi nối kết con người và Đức Giêsu Kitô làm một:
Chính tôi là bánh trường sinh.
Ai đến với tôi, không hề phải đói;
ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ! (Ga 6, 35)
Đức Kitô nối kết tình yêu của mình với nhân loại bằng chính sự hiến thân cứu chuộc. Ngài trút bỏ mọi vinh hoa phú qúy, để sống kiếp phàm trần, để có dịp gặp gỡ và buồn vui với con người. Thánh Phaolô đã miêu tả: Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như Đức Kitô Giêsu. Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. … (Pl 2, 5-7).
Kính thưa cộng đoàn,
Đức Giêsu Kitô đã phục sinh và Ngài đã về với Thiên Chúa Cha, thế nhưng, một cách âm thầm, Ngài vẫn ở lại trong bí tích Thánh Thể là trung tâm điểm để mời gọi mọi người hãy đến cùng ăn một bánh và cùng uống một chén. Một khi đã cùng ăn, cùng uống Mình và Máu Đức Kitô, chúng ta lại được cùng nhau hòa quyện trong tình yêu của Ngài. Tình yêu nối kết mỗi người lại với nhau, như Đức Kitô đã được sống trong tình yêu của Chúa Cha. Thánh thể là việc tự hiến mình trong đức ái của Chúa Giêsu cho Chúa Cha và cho mọi người chúng ta. Do đó, chúng ta cũng học theo gương Ngài mà trao cho nhau những hành động và cử chỉ yêu thương, điều này đòi hỏi một đức ái vững bền. Anh chị em có thể làm phúc, giúp đỡ người nghèo khó, người cô thế cô thân… với một tinh thần yêu thương, chắc hẳn anh chị em sẽ gặp được chính Đức Kitô nơi họ. Hình ảnh Đức Kitô nơi anh chị em đồng loại cũng chính là Đức Kitô trong Thánh thể, mà anh chị em rước lấy mỗi ngày – ai làm cho một trong những người bé nhỏ nhất của Ta đây, là anh em đã làm cho chính Ta vậy. Đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa Trời. Vì thế, Đức Kitô luôn đồng hành và dẫn dắt mỗi người chúng ta đến, để chúng ta cùng gặp gỡ nhau trong cùng một thế giới đầy yêu thương. Đó là nước trời mà Thiên Chúa Cha dành sẵn và đang chờ đón chúng ta.
Anh chị em có thể là một người nghèo vật chất, nhưng xin anh chị em đừng nghèo về tinh thần, nghèo tình cảm, nghèo lòng nhân đạo, nhất là nghèo tình yêu. Mọi điều Đức Kitô Giêsu ban tặng cho chúng ta được gói trọn trong hai chữ tình yêu: Này là mình Thầy hiến tế vì anh em. Tình yêu Đức Kitô làm cho chúng ta nên một, tràn ngập niềm vui và hy vọng.
Kính thưa cộng đoàn,
Thánh Gioan cho chúng ta thấy việc mặc khải Đức Giêsu là Bánh Hằng Sống, cũng chính là mặc khải của hành trình nối kết giữa Chúa Cha và Chúa Con, giữa con người với Thiên Chúa, giữa niềm vui và ơn cứu độ. Đó cũng là cuộc gặp gỡ giữa Chúa Cha và con người trong Đức Kitô. Bánh Hằng Sống diễn tả nét đặc trưng con người Đức Giêsu: Ngài là quà tặng của Thiên Chúa Cha cho chúng ta, và sự hiên diện của Ngài giữa chúng ta đã đem lại một luồng sinh khí mới và nối kết mọi người trong mối giây hiệp thông.
Chúa Giêsu chính là Bánh mà Chúa Cha đã gởi đến cho chúng ta và Ngài là hồng ân được tặng ban qua quyền năng và ân sủng của Chúa Thánh Thần. Ngài dùng bí tích Thánh Thể để công bố tình yêu của Chúa Cha và tuôn đổ Thần Khí của Ngài. Như vậy, sự hiệp thông của Ngài cũng chính là sự hiệp thông với Chúa Thánh Thần.
Bí tích Thánh Thể chính là suối nguồn tình yêu, bởi vì Đức Giêsu được dâng hiến như của lễ đẹp lòng Thiên Chúa Cha, để cứu rỗi nhân loại và canh tân mọi tạo vật. Do đó, khi cử hành bí tích Thánh Thể, chúng ta được mời gọi để gặp gỡ Đức Kitô, nguồn mạch sự sống và tình yêu, và làm cho cuộc sống của mỗi người chúng ta được biến đổi thành một hồng ân.
Cũng như cánh hồng là sợi chỉ hồng đan kết Chalot và nàng bán hàng hoa lại với nhau, thì cũng vậy, Thánh Thể là nguồn mạch Tình Yêu cũng nối kết chúng ta làm một với Đức Giêsu, tan biến chúng ta trong biển cả Tình Yêu của Ngài, và sau cùng dẫn dắt chúng ta đến hưởng nếm hạnh phúc đích thực là chính Ngài trên Thiên quốc.
Nguyện xin Đức Kitô là suối nguồn tình thương, nối kết mọi tâm hồn chúng con lại với nhau, như cành nho được nối kết cùng thân nho, để ngày càng phát triển và sinh nhiều hoa thơm trái tốt. Amen.

29. Của ăn cho cuộc sống muôn đời
(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)
Sách Xuất hành là sự tích của dân tộc Chúa được cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai cập và lưu hành trong 40 năm qua sa mạc để về đất Chúa hứa. Trong cuộc hành trình lâu dài ấy, vấn đề ẩm thực là mối lo hằng ngày. Nhưng Thiên Chúa là tình thương hằng lo lắng cho dân Người. Đành rằng suốt cuộc hành trình, không phải họ chỉ ăn chim cút và manna, mà còn nhiều thứ khác nữa như súc vật họ chăn nuôi và hoa quả cây rừng. Nhưng chim cút và manna là hai thực vật làm cho họ ngỡ ngàng và ghi nhớ hơn cả và họ coi đó là ơn Trời, là dấu chỉ hồng ân của Chúa.
Trong khi họ kêu rên, nhớ lại những “nồi thịt ở Ai cập” thì chiều hôm ấy có bầy chim cút bay tới rợp trời và sáng hôm sau, xung quanh trại, có những vật gì nhỏ nhỏ tròn tròn như bột sương đông đặc. Dân thấy vậy hỏi nhau: “man-hu” (cái gì vậy?) và Môsê nói: “Đó là bánh Chúa ban cho anh em ăn”. Từ đó, dân chúng gọi bánh ấy là manna, “bánh bởi trời”, bánh đó còn được lưu giữ trong hòm bia Nhà Tạm, như một tang chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Người. Bánh đó còn được gọi là “bánh ban sức mạnh”, “bánh các Thiên Thần”, hình ảnh mà Phaolô sẽ gọi là “của ăn thiêng liêng” ám chỉ phép Thánh Thể (Icor. 10,3).
Phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều xảy ra trên cánh đồng “đầy cỏ xanh” phía đông bắc biển hồ. Sáng hôm sau, dân chúng đi tìm Chúa, nhưng không gặp, họ liền xuống thuyền trở về Caphanaum và gặp Ngài ở đó.
Họ đi tìm, nhưng người ta đi tìm gì? Người ta hay đi tìm những thứ thỏa mãn nhu cầu vật chất như cơm ăn, áo mặc, nước uống, sức khỏe và đặt tất cả thời giờ vào việc ấy. Họ không đi tìm “điều cần thiết độc nhất” là Thiên Chúa, và Chúa Giêsu đến để làm cho họ hiểu điều đó. Họ lầm tưởng rằng Chúa đang còn ở bờ hồ bên này, nơi họ vừa được ăn no nê. Nhưng Chúa đã qua bờ bên kia rồi, nơi Chúa sẽ nuôi họ bằng của ăn thiêng liêng. Đành rằng Chúa không quên đời sống vật chất, cũng cần thiết, nên Chúa dạy phải xin của ăn lương thực hằng ngày. Nhưng Chúa đã qua bờ bên kia để dạy cho họ biết tìm kiếm một của ăn cần thiết hơn.
Vì thế, khi gặp lại họ, Gioan thuật lại bài giảng của Chúa về Bánh hằng sống: “Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng là vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng là vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa đã ghi dấu”.
Của ăn cuộc sống muôn đời mà Chúa muốn nói là của ăn gì? Hẳn là Gioan đã suy nghĩ và ghi sâu vào tâm khảm ý nghĩa đích thực Chúa muốn nói. Mấy lúc này, Chúa đã chuẩn bị tâm hồn các Môn đệ để họ chấp nhận cái chết của Ngài sắp xảy ra, để làm giá cứu chuộc nhân loại, như một của lễ hy sinh. Để cụ thể hóa việc sắp xảy ra, Ngài sẽ lập nên phép Thánh Thể trước mặt các ông. Thánh Thể và Thánh Giá gắn liền với nhau như hình với bóng không tách rời được. Vì thế, hôm nay Chúa nói rõ: “Ta bảo thật các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống Máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”. Chúa khêu gợi sự tò mò và chú ý của dân chúng để họ nghĩ đến một của ăn bí nhiệm mà Con Người sẽ ban cho họ…, một thứ manna đích thực “từ trời xuống và ban cho thế gian”. Nhưng họ không hiểu hay không muốn hiểu. Chúa kết kuận: “Chính Ta là bánh ban sự sống, ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ ”. Chúa đến để nuôi sống linh hồn chúng ta.
Trong trại cải tạo Cách mạng văn hóa của Mao Trạch Đông, có một ông già trạc 40 tuổi tên là Shah. Mọi người biết ông là một linh mục dòng Kitô. Ông rất có lòng bác ái thương người, giúp đỡ các bạn tù, trong số có một người ký giả Anh, Công giáo nhưng không giữ đạo. Một hôm giữa trời đông rét. Ông Shah kéo người bạn tóc vàng ra một nơi và hỏi:
– Anh là người Công giáo phải không?
– Phải
– Hôm nay là lễ Giáng Sinh, anh quên rồi! Thôi đi theo tôi, xuống hố đất đàng kia, tôi sẽ cùng anh dâng Thánh lễ.
Cả hai xuống một hố sâu có bờ đắp cao. Ông Shah giấu ở đó một mẩu bánh mì và một cái tô nhỏ có ít rượu nho. Giữa cảnh hoang lạnh, vị linh mục làm lễ… Người bạn tù cảm động, tự nhiên khịu xuống, ăn năn sám hối và được chịu lễ. Cả hai vội vàng bước lên khỏi hố. Một tên lính hỏi cha Shah:
– Mày đi đâu đàng kia?
– Hôm nay, lễ Giáng Sinh, giờ giải lao, tôi đi cầu nguyện!
Người lính dẫn ông đi và từ đó, người ta không còn gặp lại ông nữa! Người bạn tóc vàng sau đó được trả tự do và đã thuật lại thánh lễ Giáng Sinh của vị linh mục tên Shah, đã đưa ông trở lại với Chúa.
“Con người được ăn bánh của những vị hùng anh.
Người ban cho họ được bánh bởi trời”. (Tv. 77 – Đáp ca)

30. Vì của ăn tồn tại đến muôn đời
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Theo từng góc nhìn và theo từng đặc điểm muốn nhấn mạnh, các triết gia xưa nay đã từng cho chúng ta các khái niệm về con người để phân biệt với các loài vật. Con người là hữu thể biết suy tư, phản tỉnh, con người là con vật biết lao động, con người là sinh vật có lý trí, ý chí tự do, con người là sinh vật có tính xã hội, con người là sinh vật có tôn giáo…Xin được góp thêm một cái nhìn nhỏ nhân các bài đọc của Chúa Nhật XVIII TN B: con người là hữu thể của muôn đời.
Cũng như các loài có sự sống, loài người không thể thoát được một nhu cầu căn bản là sinh tồn. Để phục vụ nhu cầu này, tự bên trong các loài có sự sống sẵn có một năng lực mạnh mẽ được gọi là bản năng sinh tồn. Nhu cầu ăn uống là một biểu lộ của bản năng này. “Khi đói thì đầu gối cũng phải bò”. “Có thực mới vực được đạo…”. Để làm bất cứ việc gì thì tiên vàn người ta phải sống. Nhu cầu ăn uống vì thế trở thành một nhu cầu chính đáng và cấp thiết. Người Việt Nam dùng hạn từ ăn ở đầu các từ ghép để mô tả nhiều động thái rất khác nhau như ăn bớt, ăn bám, ăn chận, ăn cắp, ăn mặc, ăn ở, ăn hại, ăn học, ăn hiếp, ăn chận, ăn vạ…nếu đếm thì không dưới trăm từ… Cần thú nhận rằng hình như “cái ăn” nó liên hệ đến mọi lãnh vực của kiếp người. Con người dù là hữu thể này nọ nhưng vẫn là một sinh vật, nghĩa là luôn cần cái để sống.
Không hiểu sao mà hơn hai phần ba những từ ghép bắt đầu bằng từ ăn thì thường mang ý nghĩa tiêu cực. Không nguyên chỉ vì ‘miếng ăn là miếng tồi tàn”, nhưng ngay trong lòng con người vẫn bàng bạc nhận thức rằng dù cho nhu cầu ăn uống thật là chính đáng nhưng đã là người thì phải vượt lên trên nhu cầu tồn sinh của loài vật. Trong khi các loài động vật thường thỏa mãn mỗi khi nhu cầu ăn uống được đủ đầy, thì trái lại, dù cho đã đầy đủ lương thực ăn uống, con người vẫn khao khát một sự sống cao hơn mà chúng ta gọi là sự sống bất diệt hay sự sống trường sinh. Tuy nhiên cái sự sống trường sinh mà con người khao khát ở đây, thường chỉ là sự kéo dài của sự sống đời này.
Cựu ước đã hé mở cho thấy con đường để được sống đời đời đó là tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa. Khi thử thách dân phải lâm cơn đói khát trong sa mạc, và rồi ban Manna từ trời, Thiên Chúa muốn dân xác tín rằng “người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời Người phán ra”. Sau khi thi thố quyền năng cho năm ngàn người đàn ông chưa kể đàn bà và con trẻ no nê bánh cá, Chúa Giêsu đã mời gọi họ “hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6,27). Để có được lương thực này Chúa Giêsu đã minh nhiên tự khẳng định: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6,35).
Chúa Kitô là Bánh trường sinh. Kitô hữu chúng ta thảy đều khẳng định chân lý này. Thế nhưng để cho lời khẳng định này đi vào cuộc sống thì khoảng cách không dễ vượt qua. Đến với Chúa Kitô vì “cái bụng” của mình như người Do Thái xưa vốn là điều dễ thấy đó đây. Qua thông tin đại chúng thì sau sự cố tòa tháp đôi ở New York thì dân chúng nước Mỷ xem ra đạo đức hẳn lên, đến với Chúa rất nhiều. Tại quê nhà Việt Nam, đã một thời, sau khi các Ngân hàng thắt chặt tín dụng, nhiều đại gia xính vính, vỡ nợ, phá sản, thì hình như có nhiều khuôn mặt lạ chuyên chăm xuất hiện tại nhà thờ hay ở các đền đài. Chẹt chân thì há miệng. Hữu sự thì vái tứ phương. Gặp cơn quẩn bách thì chạy đến cầu Chúa giúp, nhưng tựu trung đều chỉ là những sự thuộc đời này. Xùm xụp khấn vái thần thánh trên trời, và rồi khi đã được ngân hàng cho vay tiền thì con đây lại thôi nhà thờ! Phải chăng chỉ những khi cầu nguyện cho các linh hồn thì mới là lo cho chuyện đời đời? Chắc hẳn không phải thế. Làm thế nào để giúp ta vượt qua được những sự hữu hình đời này khi chúng ta vẫn còn ở trong thế gian? (x.Ga 17,11). Chúng ta có được câu trả lời từ miệng Chúa Giêsu, khi người Do Thái hỏi Ngài là làm thế nào để được gọi là làm công việc của Thiên Chúa, tức là tìm kiếm lương thực đem lại sự sống đời đời, đó là “Hãy tin vào Đấng mà Thiên Chúa sai đến” (Ga 6,29).
Tin vào Chúa Giêsu là một tiến trình đón nhận và dấn thân theo Người, sống lời Người chỉ dạy. Cũng vẫn tìm kiếm những chuyện ở đời này nhưng chúng ta sẽ làm cho chúng thành vĩnh cửu khi chúng ta tìm kiếm chúng theo ý và cách thức Chúa hướng dẫn. Lời Chúa trong Thánh Kinh, đặc biệt trong bốn Tin mừng vẻ nên cho chúng ta cách thế tuyệt vời đó là hãy tìm kiếm những thiện hảo đời này trong sự công bình, trong tình liên đới và chí cống hiến.
Một học sinh, sinh viên ra công học hành để tích lũy kiến thức, công nghệ, tài năng…nhưng trong sự công bình, nghĩa là trong sự trung thực, hợp pháp, không quanh co, dối trá, lọc lừa… thì bạn ấy đang làm việc vì lương thực đời đời. Cũng là học hành để thăng tiến bản thân nhưng luôn sẵn sàng giúp đỡ các bạn học khác theo khả năng và hoàn cảnh của mình, nghĩa là biết sống tình liên đới thì ta đang làm việc cho sự sống đời đời. Chọn một ngành nghề để vừa thăng tiến danh vị, vừa bảo đảm nhu cầu cá nhân lẫn gia đình, lại vừa có điều kiện để phục vụ đồng loại, để phát triển xã hội, giáo hội thì đích thực ta đang ra công làm việc vì của ăn cho sự sống đời đời.
“Hùm chết để da, người ta chết để tiếng”. Câu ngạn ngữ dân gian thầm khẳng định rằng cuộc đời con người con người không chấm dứt với cái chết thể lý. Kitô hữu chúng ta thì minh nhiên tuyên xưng có sự sống đời đời. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, thì sự sống đời đời của chúng ta lại bắt nguồn từ những thực tại đời này, những thực tại mà Ngôi Lời đã tự nguyện nhận lấy vào Ngôi vị của Người khi vào đời. Khi chúng ta nỗ lực tìm kiếm những chuyện đời này trong công bình, trong tình liên đới và chí cống hiến là chúng ta đã làm cho những sự đời này đi vào vĩnh cửu cùng với Chúa Kitô, trong Chúa Kitô và nhờ Chúa Kitô.

31. Lời ban sự sống.
Ngày xưa, có một người cha muốn chia gia tài cho các con. Ông vốn là một người nghèo, nhưng nhờ chuyên cần làm việc nên đã trở nên giàu có. Vì vậy, khi nằm trên giường bệnh, ông muốn trao phó cơ nghiệp cho người con nào thông minh nhất. Thế là ông cho gọi ba người con đến, trao cho mỗi người hai ngàn đồng bạc và bảo họ phải đi mua cái gì có thể lấp đầy căn phòng của ông.
Người anh cả nghĩ rằng đấy chỉ là một công việc dễ dàng, nên anh đã ra chợ và mua về một bó rơm rất lớn. Người con thứ suy nghĩ kỹ hơn một tí, nên đã mua về một bao lông vịt. Còn người con thứ ba, nghĩ mãi nghĩ hoài mà vẫn chưa biết phải làm gì với hai ngàn đồng bạc cầm trong tay. Bỗng một ý nghĩ vụt sáng trong đầu óc thế là anh vội chạy ra tiệm tạp hóa, mua một cây nến và một hộp quẹt.
Ngày hôm sau, cả ba anh đem đến trước giường bệnh của người cha. Anh con cả hì hục vác vào một bó rơm, nhưng rơm không đủ phủ kín một góc nhà. Anh con thứ khoan khoái xách giỏ lông vịt, nhưng lông vịt cũng chỉ phủ được phần nào của căn phòng mà thôi. Giữa lúc người cha đang thất vọng thì anh con út bước vào. Trong chớp nhoáng, anh đánh diêm, thắp nến và căn phòng phủ đầy ánh sáng. Người cha mỉm cười, đắc ý về sự thông minh của anh con út và ông đã trao cho anh ta phần lớn gia tài của mình.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay và chúng ta thấy: Chúa Giêsu cũng muốn trao phó sự nghiệp của mình cho các môn đệ và Ngài không muốn nó bị tiêu tan. Trọn sự nghiệp ấy phải được lãnh hội, phải được đón nhận và phải được khai thác đúng mức.
Thực vậy, sau khi làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi dưỡng dân chúng trong hoang địa. Lợi dụng vào đó, Ngài đã giới thiệu với họ một thứ của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn, đó là mình máu Thánh Ngài, như lời Ngài xác quyết: Thịt Ta là thật của ăn, máu Ta là thật của uống… Thế nhưng dân chúng và cả các môn đệ lại cho là chướng tai gai mắt, không thể nào chấp nhận được, cho nên họ đã rời bỏ Chúa. Trước tình cảnh ấy, Chúa Giêsu đã quay lại và hỏi các tông đồ: Còn các con, các con có muốn bỏ Ta mà đi hay không? Phêrô thay mặt cho nhóm mười hai đã tuyên xứng: Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống.
Lời tuyên xưng của Phêrô đã giúp chúng ta vượt lên trên những vấn đề thường ngày như cơm bánh, như sinh kế, như công việc làm ăn, đồng thời đưa chúng ta lên cao để nhìn rõ bản thân, mọi người và mọi sự theo quan điểm của Chúa, hầu thấy được rằng vạn vật tất cả đều do bởi Chúa.
Trong câu chuyện vừa nghe, chúng ta thấy: rơm và lông vịt không thể lấp đầy căn phòng, nhưng ánh sáng của cây nến do người con út thắp lên đã chiếm lĩnh toàn bộ căn phòng. Cũng vậy, với tấm bánh từ trời xuống là chính thịt máu Chúa, tự hiến cho loài người, thì cả nhân loại được tràn ngập tình yêu mến và lòng xót thương của Chúa. Bởi vì, chỉ nhờ ánh sáng đó mà con người mới thực sự được hạnh phúc.

32. Ý Thiên Chúa – Ý con người
(Suy niệm của Anmai, CSsR)
Ý muốn của một người nào đó rất quan trọng trong cuộc đời nói chung và của con người đó nói riêng. Tuỳ hoàn cảnh, tuỳ chức vụ, ý muốn ấy sẽ chi phối theo hoàn cảnh và chức vụ ấy. Một người làm lớn mà quyết định chuyện gì thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ còn một người nhỏ dù có quyết định to thế nào đi chăng nữa thì cũng chẳng ảnh hưởng là bao. Cái nghịch lý trong cuộc đời này vẫn thường xảy ra và xảy ra “như cơm bữa” đó là con người vẫn thường lấy ý của mình và áp đặt cho đó là ý của Thiên Chúa.
Các bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay xoay quanh về ý của Thiên Chúa và ý của con người.
Trang sách Xuất hành đã kể lại việc cộng đồng con cái Israel nhớ “củ hành, củ tỏi” ở quê hương để rồi ai oán với cả ân nhân của mình. Thiên Chúa đã quá yêu con người để rồi bằng mọi cách và bằng mọi giá Thiên Chúa muốn cứu nhưng con người thì ngược lại. Nghĩ đi nghĩ lại Thiên Chúa hiền từ và dễ thương thật chứ không phải ở lời của Người nói. Dân chúng Israel kêu ca than thân trách phận và rồi Thiên Chúa đã ban bánh từ trời xuống để nuôi dân. Ý của con người là cứ ở lại với quê cha đất tổ còn ý của Thiên Chúa thì Thiên Chúa muốn cứu con người còn con người thì cứ lầm lũi với những cái lợi trước mắt, với cái gì là sung sướng cho bản thân.
Đó là những gì sách Xuất Hành thuật lại, rồi kế đến là tâm tình của Thánh Phaolô tông đồ gửi giáo đoàn Êphêsô. Không chỉ nói suông mà hôm nay lại còn “có Chúa chứng giám”. Khi Ngài nói “có Chúa chứng giám” thì Ngài có ý muốn nhấn mạnh tâm tình của mình và khẳng định tâm tình ấy. Phải nói là nó rất quan trọng và ý nghĩa với cộng đoàn Êphêsô nên Ngài mới nói như vậy. Ngài nói là anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ. Còn anh em, anh em đã chẳng học biết về Đức Kitô như vậy đâu; ấy là nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giêsu và được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giêsu. Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện. (Ep 4,20-24).
Hoá ra là Ngài biết dân ngoại từ xưa đã sống theo những tư tưởng phù phiếm, họ nhìn về Thiên Chúa, họ nhìn Chúa Giêsu dưới một lăng kính khác, dưới một chiều kích khác. Nơi Thánh Phaolô, Ngài có kinh nghiệm rõ nét về chuyện này. Ngày xưa, Ngài cũng lần bước trong con người cũ của Ngài là đi tìm vinh danh cho mình và đi bắt bới những người theo Chúa, những ai mang danh là Kitô hữu. Sau một chặng đường dài sống với con người cũ, sống với ý riêng của mình, Thánh Phaolô đã nhận ra rằng Thánh ý Thiên Chúa mới là quan trọng, sống với con người mới theo sự hướng dẫn của Thần Khí mới là điều đáng quan tâm. Ngài khuyên cộng đoàn Êphêsô đừng sống theo cái nhìn như vậy, theo quan niệm như vậy về Thiên Chúa. Quan niệm về Thiên Chúa của con người mới khác con người cũ. Không chỉ thế, Ngài còn nhấn mạnh rằng hãy cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới.
Ý tưởng trang Tin mừng hôm nay đã đẩy chuyện ý Thiên Chúa và ý con người lên một mức cao hơn. Chúa Giêsu đã không ngần ngại nói thẳng với những người đang có mặt ở đó với Chúa: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.” (Ga 6, 29).
Vấn đề là ở chỗ đó, là ở chỗ việc Thiên Chúa muốn cho các ông chứ không phải là chuyện các ông muốn. Thường, tâm trạng của con người thì những gì mang lợi lộc, mang sự dễ dãi đến cho mình thì con người đều quy về ý của Chúa, mỗi lúc cuộc đời gặp đau khổ, khó khăn thì sẵn sàng oán trách Chúa không thương tiếc. Nếu Chúa ban cho cuộc sống đầy đủ thì không ngớt lời tôn dương và chúc tụng nhưng khi cuộc đời gặp một chút gì đó thì bỏ Chúa và không tin Chúa nữa. Điều mà Thiên Chúa muốn quá rõ: đó là tin thật vào Ngài chứ không chỉ tin bằng môi bằng miệng. Chúa Giêsu, vì biết rõ lòng dạ của những người có mặt với Chúa ngày hôm đó nên Ngài đã không ngần ngại cảnh tỉnh họ về ý của Thiên Chúa.
Trở lại với trang Tin mừng tuần trước, dân chúng sau khi được ăn bánh no nê đã tìm cách tôn vinh Chúa Giêsu làm vua. Thế nhưng, Chúa Giêsu biết tỏng tòng tong lòng dạ của họ nên Ngài lánh đi một nơi. Vì những người có mặt ngày hôm ấy cũng như nhiều người khác vẫn sống theo cái ham muốn thể xác của mình là no cơm ấm áo nên tôn vinh Chúa làm vua chứ thật sự lòng của họ không phải như vậy. Thế đấy, ý Thiên Chúa hoàn toàn khác hẳn ý của con người.
Nhắc đến ý Thiên Chúa và ý con người, ta sẽ không khỏi nhịn cười được vì trong chính đời thường của mỗi người chúng ta. Nếu ý nào đó hợp lòng ta, mang lại cho ta thì ta bảo: “ý Chúa” còn nếu ý nào phật lòng ta thì ta lồng lộn lên và thậm chí còn oán trách và bỏ rơi Chúa.
Đôi lúc ngẫm nghĩ thấy thương Chúa thật. Chúa quả là quá hiền từ và dễ thương. Dễ thương đến độ con người dù ca khen, dù oán hờn chửi bới và vu oan cho Chúa thế nào Chúa vẫn lặng lẽ và lặng lẽ. Bi đát nhất đó là những người có chức có quyền và cầm quyền trên người khác. Nhiều và nhiều quyết định mang cảm tính hết sức con người nhưng lại bảo đó là ý Chúa mới chết người.
Một cái ví dụ hết sức nhỏ nhoi và đơn giản. Dưới con mắt của các đấng bậc có trách nhiệm đào tạo và con mắt bình thường của người đời thì những ai ngoan ngoãn, dạ bảo dạ, vâng bảo vâng thì các vị cũng như mọi người đánh giá hết sức là cao về những con người ngoan ngoãn vâng dạ ấy. Mỗi khi nhận xét hay quyết định gì thì không hế ngần ngại “châu phê” là người ấy tốt và người ấy có ơn gọi. Ý Chúa là gười đó có ơn gọi, còn ngược lại, những người không biết “bẩm – dạ” thì cũng sẽ bảo rằng cũng đó là ý Chúa cho kẻ không biết “đi bằng đầu gối” là không có ơn gọi.
Thật ra, chuyện này hết sức tế nhị nhưng phải trả lẽ trước mặt Chúa về những cảm tính hết sức cá nhân mà lại gán cho là “ý Chúa”! Chúa quá hiền đến độ người ta muốn nói gì thì nói. Người ta nói xuôi Chúa cũng chẳng nói gì và người ta nói ngược ta cũng thấy Chúa chẳng chịu nói gì.
Qua các bài đọc, đặc biệt là Tin mừng hôm nay, chúng ta có dịp dừng chân nhìn lại từng biến cố trong cuộc đời của ta, từng quyết định của ta. Những biến cố xảy đến và những quyết định của ta như thế nào? Có phải là của Chúa thật sự hay là của ta rồi ta gán cho Chúa.
Hơn một lần Chúa Giêsu đã nói: Lương thực của ta là thi hành ý muốn của Cha ta.
Quả thế, lương thực thật sự, lương thực trường tồn của Chúa chính là ở chỗ thi hành ý của Cha chứ không phải là theo ý của ta.
Một lần nọ, vào bệnh viện thăm người quen, có một người kia không ngần ngại tâm sự rằng chị ta đã bỏ Chúa 10 năm rồi. Hỏi lý do sao bỏ Chúa thì chị nói là vì mãi mê lo làm ăn kiếm tiền. Tôi bèn hỏi chị là dư được bao nhiêu tiền gửi trong ngân hàng và chị nói là không có đồng nào mà hiện nay nằm bệnh viện còn phải đi vay mượn!?
Thì ra là 10 năm bỏ Chúa để loay hoay với đồng tiền nhưng cuối cùng không có dư đồng nào mà thậm chí còn mang nợ!
Hai vợ chồng kia cũng thật thà tự thú là bỏ Chúa 4 mùa Phục Sinh. 4 mùa Phục Sinh qua đi mà gia đình cứ mãi sống trong vất vả và nay người vợ còn mang trong mình tật bệnh nữa!
Thế đấy! Người ta đã tước đoạt thánh ý của Chúa trên cuộc đời của người ta, người ta đã đẩy Chúa ra khỏi cuộc đời người ta để người ta làm theo ý của mình. Thế nhưng, thử hỏi trong những năm tháng dài đẩy thánh ý của Chúa ra khỏi đời mình để mình thực thi ý mình thì mình được gì?
Quá nhiều lần và phải nói là quá nhiều lần trong cuộc đời, con người đã bỏ ý Thiên Chúa ra khỏi đời mình để thực thi ý mình. Rốt cuộc như thế nào thì con người đã rõ.
Hôm nay, một lần nữa, đứng trước lời cảnh tỉnh của Chúa với đám đông dân chúng về ý của Thiên Chúa muốn, chúng ta làm gì, chúng ta sẽ trả lời với Chúa như thế nào? Chúng ta làm gì, trả lời với Chúa như thế nào đó chính là tuỳ thuộc tự do của mỗi người chúng ta.

33. Lương thực các Thiên Thần
(Suy niệm của An Phong, OP)
Tin mừng hôm nay là một phần trong diễn từ Bánh Sự Sống. Từ nhu cầu bánh ăn hàng ngày, Đức Giêsu kêu gọi người ta nhân ra nhu cầu “Bánh Sự Sống” và Người khẳng định mình chính là Sự Sống đích thực.
Những người tuôn đến với Đức Giêsu chắc chắn vẫn còn nhớ đến bữa ăn no nê do phép lạ Đức Giêsu đã làm từ năm chiếc bánh và hai con cá. Phép lạ đó làm cho người ta yên chí rằng Người sẽ còn mang lại cho họ những điều may mắn, sung sướng hay lợi lộc nào khác.
Những người Galilê đã chứng kiến phép lạ này, thay vì nhận ra đó là dấu chỉ hướng dẫn mình đi xa hơn, thì lại chỉ nghĩ đến những lợi lộc trước mắt; họ mới chỉ “tin” vào Đức Giêsu như người bảo vệ những quyền lợi riêng tư, như người phục vụ cho đời sống trần gian của họ.
Đức Giêsu hiểu rõ tâm hồn con người hơn bất cứ ai khác. Người biết họ tìm đến với Người vì điều gì. “Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”.
Đức Giêsu nhấn mạnh đến từ “dấu lạ” để kêu gọi người ta biết nhìn xa hơn, tin vào Chúa trọn vẹn hơn.
Chẳng những Người lưu ý đến những nhu cầu ăn uống, nhu cầu vật chất của con người, nhưng Người còn là Đấng Cứu độ trọn vẹn thân phận làm người nữa.
Phải chăng nhiều người chúng ta vẫn “đi đạo” như thể “đi chợ”; chúng ta muốn Thiên Chúa cung cấp cho chúng ta những “hành, tỏi, tiêu, ớt” như một thứ gia vị cho cuộc sống mà thôi. Chúng ta chưa nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài nuôi cuộc sống nhân loại bằng chính tình yêu thương lớn lao để chúng ta được đầy sức mạnh trên bước đường đời: Ngài nói với ta lời chân lý có sức giải thoát mọi lầm lạc: Ngài cứu độ nhân loại bằng chính sự sống thần linh để chúng ta được sống cùng với Người và sống trong Người. Như thế, một đức Tin thực sự phải có thể nói lên rằng: Đức Giêsu là tất cả đối với tôi. Tôi sẽ khám phá Người chính là “Bánh Hằng Sống. Ai đến với Tôi không hề phải đói; ai tin vào Tôi không khát bao giờ”.
Nhưng dẫu sao, Đức Giêsu vẫn thuơng con người. Người nhắc nhủ những lời ngọt ngào thân ái: “Hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn, đem lại phúc trường sinh”. Người kêu gọi” “Hãy tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến”; và hãy yêu mến Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” (Mc 12,30).
Lạy Chúa,
Xin cho những hạt giống đức tin mọc lên trên thửa đất tốt của cầu nguyện, trở thành những cây cao chất chứa ánh sáng, mọc trên các nẻo đường của Nước Trời.
Vì Nước Trời giống như một hạt cải li ti, mong manh được gieo trong lòng chúng con, một hạt cải chỉ chờ ngày nảy mầm để trỗ sinh hoa trái nếu chúng con biết vun trồng.

34. Chính là Cha tôi cho các ông ăn
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Ty)
Sau phép lạ Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều, dân chúng bủa đi kiếm tìm Người; họ thật khẩn khoản, “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” Tuy nhiên điều này không làm cho Người hài lòng, vì Người biết quá rõ, họ kiếm tìm Người chỉ để được ăn bánh; “Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng… vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Sau phép lạ, Đức Giêsu đã phải ‘lánh mặt, đi lên núi một mình’ vì biết rằng: cho dầu họ có muốn tôn Người lên làm vua đi nữa, thì chẳng qua cũng chỉ vì muốn được tiếp tục ăn bánh, chứ chẳng phải vì muốn chấp nhận Người, lắng nghe lời Người, và còn xa lạ hơn nữa, nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ.
“Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc như có lời chép: người đã cho họ ăn bánh bởi trời… ” còn ông “ông sẽ làm gì đây?” Vấn đề được người Do Thái đặt ra đã rõ: ông cho chúng tôi ăn thứ bánh gì? Đúng là phần lớn diễn từ sau đó (đúng hơn, một cuộc tranh luận) sẽ xoay quanh vấn đề thứ bánh gì, thứ ‘bánh hay hư nát’ hay ‘bánh trường sinh’ đơn giản là vì, đó là mối quan tâm – thắc mắc hàng đầu họ đặt ra cho Người. Tuy nhiên hầu như ngay lập tức và xuyên suốt trong cuộc trao đổi tiếp theo, Đức Giêsu luôn gợi cho họ nhớ về ‘người ban bánh và kẻ cho họ ăn’; “Không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời”. Ngay cả sau đó, khi tự giới thiệu mình là ‘bánh trường sinh’, thì Người cũng không quên nhắc nhở rằng, Người đồng thời cũng là đấng ban tặng, vì được Chúa Cha sai đến.
Nếu chỉ nhìn vào bánh như một thứ thức ăn, người ta sẽ dễ dàng có những đánh giá khác nhau. Man-na không được sách Xuất Hành (chương 16) xác định rõ là thức ăn gì (nếu có chút đề cập thì cũng rất chung chung (xem Xh 16:31)). Sách chỉ nhấn mạnh trên sự kiện, nó được Gia-vê ban cho dân làm của ăn hàng ngày suốt hành trình gian khổ trong sa mạc. Man-na trước hết là dấu chỉ Gia-vê ân cần chăm sóc dân riêng trong thời gian xuất hành giải thoát; “Vào buổi chiều các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng các ngươi sẽ được ăn bánh thỏa thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi’ (câu 12). Ngược lại, trong sách Dân Số (chương 11), khi dân ta lên tiếng ta thán Mô-sê, thì Man-na bị chê là không ra gì hết, ‘… bây giờ chỉ thấy toàn Man-na thôi… nó như hạt ngô, trông như nhựa hương… xay ra nấu bánh thì mùi vị nó chẳng khác gì mùi vị bánh chiên dầu…’ (câu 7 và 8). Thế đấy, người Do Thái thời Đức Giêsu chưa tới nỗi chê bánh và cá mà Người đã hóa ra nhiều cho họ được ăn no nê, dầu có thể thức ăn bình dân đó chẳng ngon lành gì cho lắm (nếu là ngày nay, nhất là trong một xã hội sung túc hưởng thụ, có lẽ chúng ta sẽ lên tiếng ta thán vì bánh đó nhàm chán nhạt nhẽo quá chăng). Tuy nhiên phát biểu của họ cho thấy, họ đã hoàn toàn quên mất việc nhận biết ai đã cho họ ăn, và tại sao lại cho. Họ lầm tưởng vào thời cha ông họ, Mô-sê đã cho Man-na là để… tiếp tục lãnh đạo dân, thì nay ông Giêsu cũng làm vì một lý do tương tự; ‘Ai sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây?’ (Ds 11:4) Đức Giêsu đã muốn gợi cho họ nhớ lại mục tiêu chính mà sách Xuất Hành nhắm tới khi tường thuật về Man-na: ‘chính Cha tôi đã cho…’ Tiếp theo đó, khi khảng định chính mình là bánh bởi trời, bánh trường sinh, thì đồng thời Đức Giêsu cũng xác định luôn, Người cũng chính là Đấng ban bánh cho họ, “bánh tôi sẽ ban tặng…” (câu 51), và Người kêu gọi họ không những chỉ đón nhận bánh, mà còn hãy đến với ‘người cho’, đồng thời với Đấng đàng sau ‘người cho’ đó nữa; “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và sẽ không bị loại ra ngoài… Ý của Cha là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời…” (câu 37 và 40). Mục đích tối hậu của việc ăn bánh trường sinh chính là: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.”
Ăn bánh trường sinh là tin và tiếp nhận trọn vẹn Thiên Chúa tình yêu trao hiến mình cho con người; là hành vi chạm sâu sát nhất tới sự chăm sóc tuyệt diệu của Thiên Chúa đối với con người yếu hèn tội lỗi. Tương tự như khi xưa, dân Do Thái thu gom Man-na để “biết rằng Ta là Đức Chúa”, thì nay Kit-tô hữu rước Mình Máu Thánh Chúa để tuyên xưng: Thiên Chúa là tình yêu tuyệt hảo, là tình yêu nhân từ và thương xót, là tình yêu cứu chuộc và trao ban. Mô-sê đã lưu trữ một đấu Man-na trong bình và đặt nó trong cung thánh ‘để giữ lại cho con cháu anh em…’ (Xh 16:53). Cũng thế nếu Bánh Thánh ngày nay có được giữ lại trong nhà tạm, mục đích chính cũng là để gợi nhớ về tình yêu nhân ái này, hơn là chỉ để được thờ lạy kính tôn.
Lạy Bánh Trường Sinh nhiệm mầu, xin cho con hiểu: nếu bánh và người cho bánh chỉ là một, thế có nghĩa là người đó đã trao ban hết, trao ban trọn vẹn chính mình. Bây giờ thì con đã rõ hơn: Thánh Thể và Thập Giá chỉ là một, vì đều là tình yêu tự trao ban đến cạn kiệt. Xin cho con rước lễ sốt sáng như con đường độc đạo đưa con vào chính tình yêu trao ban đó, để rước lễ trở nên cho con nguồn dâng hiến và phục vụ, trọn vẹn và mãi mãi. Amen.

35. Tìm kiếm Chúa Giêsu
(Suy niệm của Guy Morin)
Chúa Giêsu vừa mới nuôi năm ngàn người với năm chiếc bánh và hai con cá. Lạ lùng thật. Từ thời Môsê tới lúc đó người ta chưa hề thấy một điều lạ nào như vậy. Thế là đám đông coi Ngài như vị giải phóng mà Thiên Chúa đã hứa và họ chuẩn bị tôn vinh Ngài làm vua. Nhưng vô ích thôi, Ngài đã dự đoán trước chuyện này và Ngài rút lui lên núi một mình trong lúc các môn đệ chèo thuyền sang bờ bên kia. Và giữa đêm khuya Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến gặp các ông.
Ngày hôm sau, dân chúng nhận thấy rằng vị vua của họ đã thoát khỏi tay họ. Ngài đã đặt một cái hố ngăn cách giữa họ và Ngài. Nhưng họ không chịu thua. Họ tức tốc lên thuyền và qua bờ bên kia để “tìm kiếm Chúa Giêsu”.
Thật cảm động khi thấy đám đông này theo đuổi Chúa Giêsu. Họ nhìn nhận Ngài là một Đấng cao cả. Họ cảm thấy Thiên Chúa hiện diện nơi Ngài và thấy Ngài có quyền uy làm cho họ được no nê, thỏa mãn mọi nhu cầu của họ. Một cuộc tìm kiếm thật xúc động và bi đát, vì những người này tỏ ra không thể gặp Ngài đúng nơi Ngài muốn được gặp. Với tất cả tài khéo léo và nỗ lực họ chèo hết tốc độ hướng về Chúa Giêsu, tuy nhiên về mặt thiêng liêng họ vẫn xa cách Ngài. Họ tìm kiếm Ngài và đã gặp được Ngài, nhưng chỉ gặp Ngài ở một bình diện chẳng mang đến một lợi ích nào, và việc khám phá của họ cũng chỉ là uổng công. Họ đứng trước mặt Chúa Giêsu, nhưng không tiếp xúc được với Ngài.
Chúng ta có khác họ lắm không? Đôi khi chúng ta cũng tìm kiếm Chúa Giêsu ở nơi không có Ngài và gặp được Ngài nơi Ngài không hiện diện. Thường thường ta chờ đợi nơi Ngài những điều khác hẳn với những gì Ngài muốn ban cho ta và những điều ấy đã đánh lạc hướng tìm kiếm của chúng ta.
Tìm kiếm từ phép lạ.
Chúa Giêsu nói với người Do Thái: “Anh em tìm kiếm tôi không phải vì anh em đã nhìn thấy những dấu lạ, nhưng bởi vì anh em đã được ăn no”. Những người Do Thái nhìn Chúa Giêsu như một người cung cấp lương thực. Họ nhìn đúng. Nhưng Ngài trách họ đã không nhận ra ý nghĩa của biến cố này. Họ lợi dụng nó, mà không suy nghĩ gì hơn nữa. Họ dừng lại ở mức độ một việc cứu đói và làm cho dấu chỉ mà Thiên Chúa ban cho họ trở nên vô ích.
Xa hơn nữa, khi Chúa Giêsu tuyên bố rằng Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến, người Do Thái lại đòi Ngài làm một dấu lạ để họ tin vào Ngài, họ đòi hỏi những bằng chứng: “Ông làm được dấu lạ nào, để khi nhìn thấy, chúng tôi có thể tin?”. Đi xa hơn nữa họ muốn Ngài tái diễn phép lạ manna trong sa mạc, thứ bánh từ trời mà đến.
Trong Thánh Kinh, Thiên Chúa liên lỉ ban cho loài người những dấu lạ để khơi dậy niềm tin của họ. Chính Ngài đưa ra sáng kiến và chọn những dấu chỉ của Ngài. Ngài từ chối không chịu để cho con người áp đặt những dấu chỉ mà họ muốn Ngài phải làm, vì có những dấu chỉ không phục vụ cho đức tin. Vậy nên Chúa Giêsu luôn luôn từ chối những cử chỉ biểu lộ quyền năng. Những phép lạ của Ngài không hề muốn cưỡng ép đức tin của ai cả, nhưng khiến họ tự hỏi về Ngài. Ngài không làm dấu lạ theo đơn đặt hàng. Ngài ban cho dấu lạ của Giona nhưng không phải dấu lạ về con cá voi, nhưng là dấu lạ về việc rao giảng của ông. Dân thành Ninivê không đòi ông Giona phải làm một dấu lạ lẫy lừng: Chỉ nguyên lời rao giảng của ông đã hoán cải họ. Lời của ông đã có được hiệu năng nơi chính nó.
Cũng vậy, người Do Thái phải nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến, bởi uy tín của Lời Ngài. Ngài từ chối thực hiện một dấu lạ từ trời để làm cho họ tin. Chính nơi nội tâm con người mà Lời Chúa phải phát sinh hiệu quả chứ không phải nhờ một dấu lạ làm quáng mắt họ. Tìm kiếm Thiên Chúa qua những dấu lạ lẫy lừng, sẽ không gặp được Ngài. Vì nơi Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã không muốn tỏ ra mình là Đấng quyền năng và thi thố quyền năng bằng những việc lạ lùng, nhưng chỉ là Đấng Cứu Độ con người mà thôi.
Tìm kiếm, tức là tin.
Bị thách thức bởi sự tiếp đón khá lạnh nhạt của Chúa Giêsu, những người Do Thái kia mới hỏi: “Chúng tôi phải làm gì, để gọi là làm công việc của Thiên Chúa?” Chúa Giêsu trả lời: “Công việc của Thiên Chúa, là anh em tin vào Đấng Ngài đã sai đến”.
Câu hỏi ở số nhiều. Người Do Thái muốn biết Thiên Chúa chờ đợi nơi họ những công việc nào: Những kinh nguyện nào, những việc bố thí nào, những việc dâng cúng nào, v.v… Họ muốn những chỉ thị cụ thể và chính xác. Chúa Giêsu trả lời họ ở số ít. Thiên Chúa chỉ đòi hỏi nơi họ một việc thôi, đó là tin vào Đấng Ngài đã sai đến. Thậm chí không phải là một việc làm nữa, nhưng là tin. Và đó là việc của Thiên Chúa hơn là của con người. Đó thực sự là việc của Thiên Chúa, việc phát xuất từ Ngài. Phần của con người là đón nhận hồng ân Thiên Chúa, ban nơi Chúa Giêsu Kitô.
Dĩ nhiên các việc lành không phải là không đáng kể, thậm chí còn cần thiết nữa. Nhưng sự sống đời đời trước hết là tin theo Chúa Giêsu. Sau đó phục vụ Thiên Chúa và đồng loại.
Ở đây Chúa Giêsu khẳng định vị trí ưu tiên tuyệt đối của đức tin. Tìm kiếm Thiên Chúa, tức là thiết lập với Ngài một mối tương quan sâu xa, tức là cởi mở đối với lời mời gọi mà Ngài gửi đến chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô, điều mà thánh Phaolô gọi là sự vâng phục của đức tin. Hôm nay chúng ta đừng khép kín lòng mình lại, và hãy dành chỗ cho Lời Chúa trong đời sống chúng ta.

36. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Giuse Đỗ Văn Phi, OP)
TA LÀ BÁNH TRƯỜNG SINH
AI ĐẾN CÙNG TA, KHÔNG HỀ PHẢI ĐÓI
LỜI DẪN:
Kính thưa cộng đoàn,
Cơm ăn, áo mặc, nước uống, thuốc men, nhà cửa, xe cộ, tiền tài, danh vọng… có thể giúp cho con người kéo dài sự sống, được khoẻ mạnh, được sung túc… Thế nhưng, những thứ đó lại không thể đảm bảo cho con người thoát khỏi cái chết cho dẫu người ta có sở hữu nhiều của cải vật chất đến đâu đi chăng nữa. Vậy mà, biết bao người vẫn mải mê đi tìm thứ lương thực mau qua chóng mất ấy, khiến Đức Giêsu phải nhắc nhở: “Anh em hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”.
Lương thực đem lại phúc trường sinh ấy chính là con người của Đức Giêsu như Ngài đã khẳng định: “Chính Ngài là bánh trường sinh”.
Trong những giây phút ngắn ngủi được ở bên Chúa hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta được luôn ghi nhớ lời dạy của Chúa và ra công làm việc hơn nữa, để có thể gặt hái được thứ lương thực Ngài đã hứa.
SUY NIỆM:
Trong các chiến dịch tranh cử, các ứng viên thường đưa ra nhiều lời hứa, nhiều chương trình cải cách, nhiều viễn tượng tốt đẹp… cho một tương lai sáng lạn hơn để thuyết phục mọi người dồn phiếu cho mình. Tuy nhiên, biết bao nhiêu lần trong lịch sử, lời hứa đó chỉ là lời hứa suông, viễn cảnh tốt đẹp kia chỉ là “bánh vẽ”; hết nhiệm kỳ, đôi khi tình trạng lại còn tồi tệ hơn trước.
Còn trong đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu khẳng định Ngài chính là “Bánh Trường Sinh” và Ngài hứa rằng: “Ai đến với Ngài, không hề phải đói; ai tin vào Ngài, chẳng khát bao giờ!”. Đức Giêsu đã không hứa suông; Ngài đã hứa điều đó sau phép lạ hoá bánh ra nhiều như một minh hoạ cho lời hứa. Lời hứa ấy được ký kết bằng bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc ly, được hoàn tất bằng chính cái chết và sự phục sinh của Ngài. Một lời hứa ngàn vàng không đổi được vì được bảo chứng bằng chính mạng sống của Con Thiên Chúa.
Chúng ta biết rằng: Chúng ta được tạo thành nhờ Thiên Chúa và cho Thiên Chúa, dù chúng ta có muốn hay không. Cơn đói khát thực sự của chúng ta là đói khát Thiên Chúa. Vì thế, mọi lương thực trần gian mau hư nát chỉ làm cho con người thèm khát thêm mà thôi. Lương thực đích thực và duy nhất của chúng ta là lương thực phát xuất từ Thiên Chúa. Ngoài Thiên Chúa, không có gì có thể làm thoả mãn con người hoàn toàn được.
Vì vậy, Chúa Giêsu đã và đang mời gọi chúng ta hãy đến với Ngài để cho chúng ta được no thoả, vì Ngài là “Bánh trường sinh”, là “Nước hằng sống”. Người không lừa dối chúng ta đâu, chỉ có chúng ta có chịu tin vào Ngài hay không mà thôi.
Vì đã hứa nên Chúa Giêsu đã chấp nhận cái chết để cho chúng ta được sống. Còn chúng ta đã hứa gì với Ngài? Và chúng ta đã thực hiện lời hứa ấy ra sao?
Chúng ta hãy năng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để tâm sự, để chia sẻ với Chúa những vui-buồn, sướng-khổ, những thành công và những thất bại chúng ta gặp trong cuộc sống để được Ngài nâng đỡ, ủi an và bổ sức cho.
Mỗi khi có thể, chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn mình cho xứng hợp để rước lấy Mình và Máu Thánh Chúa, để linh hồn chúng ta không còn phải đói, phải khát nữa.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, đức tin chúng con còn yếu đuối, xin củng cố và nâng đỡ để chúng con luôn có Ngài trong cuộc sống, để cho lời hứa của Ngài thành sự trên chúng con và giúp chúng con biết loan truyền Lời Ngài bằng chính niềm tin và cuộc sống của chúng con. Amen.

37. Làm hay là?
(Suy niệm của Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Lời tuyên bố gây sững sờ
Đoạn văn hôm nay mở đầu cho cuộc đối thoại dài giữa Đức Giêsu với đám đông dân chúng muốn tôn Người làm vua, sau khi họ được chứng kiến phép lạ hoá bánh ra nhiều. Cuộc đối thoại này được gọi là diễn từ về bánh trường sinh, trong đó Đức Giêsu đáp lại việc tìm kiếm của đám đông dân chúng qua những tuyên bố quan trọng, nhưng họ không hiểu nỗi. Đức Giêsu cố gắng giải thích cho họ hiểu tầm mức sâu xa của những điều mới xảy ra. Bánh Người vừa ban cho đám đông mới chỉ là một dấu chỉ, qua đó Người loan báo một thực tại còn sâu sắc hơn nhiều. Thực tại ấy là nguồn mạch đích thực của sự sống, bởi vì nó không chỉ diễn tả tình yêu, nhưng chính là tình yêu.
. “Tôi là bánh trường sinh”
Một tuyên bố đầy mâu thuẫn và có tính khiêu khích. Lời tuyên bố này buộc các thính giả phải đặt mình vào một tầm mức hoàn toàn khác hẳn với cuộc sống thể chất. Họ phải tự đặt câu hỏi cho chính mình: Đâu là khát vọng cơ bản đang thúc đẩy họ? Phải chăng họ là những người đang ở trong tình trạng no nê, thoả mãn vì đã được ăn và bây giờ không còn đói? Họ có cảm thấy khao khát một chuyện gì khác không, và chuyện đó là gì?
Lời tuyên bố của Đức Giêsu không có ý nói bánh ăn của con người không làm cho họ cảm thấy ngon miệng. Người cũng không nói với họ là nhu cầu ăn uống không cần thiết nữa và phải loại bỏ. Người có ý buộc họ phải đào sâu khát vọng của mình: họ có mong muốn được sống vĩnh cửu hay chỉ sống đời này? Người cho họ hiểu rằng con người không thể sống được nếu không có mối liên hệ với thế giới đang nuôi dưỡng mình. Con người không thể sống được nếu không có mối liên hệ với người khác cũng như với chính mình.
Đó là điều Đức Giêsu muốn đề nghị qua lời tuyên bố “Tôi là bánh trường sinh.”
. “Việc Thiên Chúa muốn là các ông tin…”
Khi đám đông đến gặp Đức Giêsu, Người đã nói với họ: “Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Đức Giêsu biết dân chúng đi tìm Người không phải vì đã hiểu được dấu lạ hoá bánh ra nhiều, nhưng vì những mục đích phàm trần. Trong thâm sâu, có lẽ Đức Giêsu muốn nói với họ rằng: “Việc các ông phải làm là đừng tìm kiếm thứ của ăn hư nát, nhưng là nhận ra trong dấu lạ tôi vừa thực hiện là hành động của Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã trao cho tôi làm thay và tôi là người do Chúa Cha sai đến. Hãy tin vào tôi, đó là việc các ông phải làm”.
Lời tuyên bố làm đám đông ngạc nhiên, chưng hửng.
Tin vào tôi tức là vào Đức Giêsu, người đang nói chuyện với đám đông. Đây không phải là tin cách mù quáng nhưng là đi vào trong nhãn quan mới của người đang nói chuyện. Tin Đức Giêsu là Đấng được Chúa Cha sai đến có nghĩa là khám phá nơi chính bản thân mình ý nghĩa về cuộc sống của mình, về khát vọng cũng như lời mời gọi của mình.
Lời đề nghị của Đức Giêsu không bảo người ta phải rút lui, nhưng thúc đẩy họ đạt đến chân lý sâu xa đang ẩn giấu nơi tâm hồn con người, vì con người che giấu chân lý.
Về phần mình, qua hành động, qua cuộc sống và cái chết, Đức Giêsu buộc mỗi người phải đối diện với thực tại ấy. Ai chấp nhận mở ra, người ấy vượt lên trên những biểu hiện bên ngoài, hiểu được nền tảng của thực tại và họ sống.
Cuộc đối thoại quyết liệt
Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và đám đông quả là một thứ bi kịch. Đức Giêsu muốn bày tỏ những điều bí nhiệm, còn dân chúng lại cứ muốn hiểu theo nghĩa vật chất. Các cử chỉ và lời lẽ của Đức Giêsu do thánh Gio-an thuật lại ghi nhận rằng mối căng thẳng từ bên trong mỗi lúc một tăng thêm. Người ta phải đau đớn mà nhìn nhận rằng, giữa hai bên, không hề có sự thông cảm, khoan nhượng. Một cuộc đối thoại quyết liệt.
Khởi đầu, đám đông đi tìm Đức Giêsu. Sau khi được Người cho ăn bánh no nê, họ đã lạc mất Người, và họ đi tìm.
Nhưng họ đi tìm ai? Có phải là tìm người vừa cho họ ăn bánh, hay là người sẽ giải quyết những vấn đề cụ thể của họ? Sau khi được Đức Giêsu nuôi ăn, họ nghĩ rằng mình có quyền chiếm đoạt Người. Gặp Đức Giêsu, họ đưa ra một loạt câu hỏi: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” – “Ông sẽ làm gì đây?” – “Ông làm được dấu lạ nào?” Và cuối cùng, như một lệnh truyền: “Xin ban cho chúng tôi…”
Làm, đó là từ ngữ chính của đám đông. Họ muốn Đức Giêsu phải luôn làm một điều gì đó, một điều gì mới với tư cách là một nhà ảo thuật đầy khéo léo. Và họ sẽ đưa ra nhận xét về Đức Giêsu theo những việc Người làm.
Để đáp lại từ làm của đám đông, Đức Giêsu nói: “Tôi là”.
Họ hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?”
Đức Giêsu đáp: “Việc Thiên Chúa muốn các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến.”
– Xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.
– Chính tôi là bánh trường sinh. Hãy đến và hãy tin.
Đây chính là trọng tâm của bi kịch; không có ánh sáng Thần Khí, không thể nào vượt qua được. Không có thái độ sẵn sàng, làm sao có thể hiểu được là là quan trọng nhất, và “tôi làm” chỉ là một hình thức của “tôi là”?
Quả thật, người ta không thể nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa mà trong thực tế lại ghét anh em mình. Nhưng người ta càng không thể coi điều này hơn điều kia để rổi không sống chính sự sống của Đức Kitô, không sống tình yêu Người trao tặng qua cuộc sống của Người.
Trong thực tế, người ta thường bỏ qua khó khăn này. Người ta dễ dàng quả quyết Đức Giêsu là bánh trường sinh, nhưng lại không nhìn nhận đó là lương thực của mình. Người ta rất ao ước đón nhận Bánh trường sinh, nhưng lại không muốn tiến đến với Đức Kitô, không muốn nhận lấy thập giá và bước đi theo Người.
Cuối cùng, người Do-thái chẳng hiểu được Đức Giêsu muốn nói với họ. Họ chỉ mong muốn Đức Giêsu làm cho họ có bánh ăn, chứ không muốn Đức Giêsu là bánh cho họ.
Bánh là chính Thiên Chúa
“Tôi là bánh trường sinh.”
Đây là một khẳng định quan trọng Đức Giêsu gửi đến mỗi chúng ta. Qua câu nói này, Đức Giêsu muốn nói với chúng ta: “Hãy đến với tôi, anh em sẽ không còn đói; hãy tin vào tôi và anh em sẽ không còn khát.”
Thật thế, chúng ta đói, chúng ta thiếu, không phải chỉ bánh ăn; chúng ta khát không phải chỉ nước uống. Chúng ta còn đói, còn khát tình bạn. Chúng ta cần gặp được một cái nhìn, cần được nâng đỡ cách thân tình qua sự trợ giúp đầy tình huynh đệ. Chúng ta cần biết, cần thấy rằng chúng ta được người khác hiểu biết, thông cảm, và nhất là được người khác yêu mến.
Sau nữa, chúng ta còn đói khát điều căn bản hơn là chính Thiên Chúa. Cơn đói khát này, chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể làm thoả mãn. Vì thế, Thiên Chúa đã đến với chúng ta, không chỉ như một sự kiện, nhưng nơi một con người là Đức Giêsu Kitô.
Chìa khoá mở ra tương lai của chúng ta chính là Đức Kitô, và chỉ một mình Người.
Chúng ta phải tiến đến với Đức Kitô, chứ không phải là đi tìm bánh.
Chúng ta phải đáp lại sự hiện diện của Đức Kitô không chỉ bằng từ ngữ, nhưng bằng thái độ sẵn sàng do Thần Khí thúc đẩy, Người sẽ giúp chúng ta nói lên:
“Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin hãy đến.
Chúa thực là bánh trường sinh,
là bánh từ trời xuống.”
* * *
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con,
xin ban cho chúng con Người Con của Chúa.
Xin cho chúng con được ăn
thịt và máu Người.
Xin cho chúng con được hưởng
tất cả những gì Người đã nói và đã làm giữa chúng con.
Người thường hay nói lương thực của Người là thi hành ý Chúa.
Xin dạy chúng con
đừng chỉ tìm sống cho riêng mình
để biết mến yêu người khác,
và như vậy,
được bước từ cõi chết sang cõi sống. (theo F. Cromphout)

38. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Charles E. Miller)
TIN VÀO ĐỨC KITÔ VÀ
NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỨC TIN NƠI THÁNH THỂ
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng”)
Vào Chúa Nhật trước chúng ta đã bắt đầu đọc chương 6 của Phúc Âm theo thánh Gioan. Một chương gồm có bẩy mươi mốt câu, là chương dài thứ hai trong Tân Ước sau chương thứ nhất của thánh Luca gồm có tám mươi câu.
Chương đầu tiên của thánh Luca nói về những biến cố dẫn đến việc Chúa Giêsu được sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Chương thứ sáu của Thánh Gioan hé mở giáo huấn của Chúa Giêsu tuyên xưng mục đích Ngài đến và tỏ hiện những đặc ân của Ngài qua bí tích Thánh Thể.
Chương này của thánh Gioan là chương dài trong phụng vụ, đã được chia làm năm phần qua năm Chúa Nhật. Để thấu hiểu ý nghĩa tuyệt vời của bức ranh mà thánh Gioan đã minh hoạ, thật cần thiết chúng ta phải trở lại nhìn chương này như một tổng thể.
Câu chuyện bắt đầu bằng Chúa Nhật trước với phép lạ hoá bánh ra nhiều. Chúa Giêsu đã nuôi năm ngàn người với năm chiếc bánh và 2 con cá, điều quan trọng của biến cố này được nhìn nơi sự kiện, đây không phải là phép lạ duy nhất của Chúa Giêsu đã được kể lại trong bốn Phúc Âm. Cung cách đã được tường thuật bởi mỗi soạn giả Phúc Âm làm cho người ta tin và nghĩ về Thánh Thể. Thí dụ thánh Gioan trong câu nói rằng, Chúa Giêsu đã dâng lời tạ ơn trước khi Ngài bẻ bánh. Lời nguyện gốc tiếng Hy lạp là: “Dâng lời tạ ơn, là Thánh Thể, là hy tế tạ ơn”. Điểm chính yếu của câu chuyện là Chúa Giêsu đã để tâm đến một điều gì đó hơn là chuyện thực phẩm bình thường.
Chúa Nhật này là một khung cảnh đã xảy ra trên bờ biển Galilê, nơi mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ tại hội đường Caphanaum, giảng một bài giảng về hy tế Thánh Thể. Chúa đã bắt đầu bài giảng lời kêu gọi tin vào chính Người, vào Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến trong trần gian. Đức tin này thật cần thiết để chấp nhận hy tế Thánh Thể tuỳ thuộc hoàn toàn vào lời của Chúa Giêsu.
Vào Chúa Nhật thứ ba bài giảng được tiếp tục, trong phần này, Chúa Giêsu đã làm một cuộc chuyển đổi từ đức tin vào Người đến đức tin là đặc ân của Người là hy tế tạ ơn. Một đức tin phải dẫn tới một điều khác.
Vào Chúa Nhật thứ bốn Chúa Giêsu đã tuyên bố một cách công khai và rõ ràng giáo lý của Người, Ngài tuyên bố với lời lẽ xác quyết: “Bánh mà Ta sẽ ban là thịt Ta cho thế gian được sống”, sau những phản ứng tiêu cực của đám đông Ngài đã nói một cách mạnh mẽ hơn nữa: “Thịt của Ta thật là thức ăn và Máu Ta thật là của uống”.
Chúa Nhật cuối cùng đã giới thiệu một thách đố. Mọi người có thể không nhiệt tình với lời hứa, với Chúa Giêsu. Một ngày kia họ đã nghe lời giáo huấn của Người, họ phải chấp nhận nó hoặc từ bỏ nó. Thánh Gioan nói với chúng ta rằng: “Nhiều môn đệ đã lấy làm chướng tai và không còn đi theo Ngài nữa” Ngay cả các môn đệ cũng đã có những phân vân giao động trong tâm trí. Chúa Giêsu đã hỏi họ: “Các con có muốn ra đi không? Có muốn bỏ Thầy không?” Phêrô trả lời: “Lạy Thầy bỏ Ngài chúng con biết đi theo ai, chính Ngài mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Cố gắng đọc toàn thể chương sáu trong từ thế ngồi. Điều đó sẽ giúp cho các bạn thấu triệt được hy tế Thánh Thể mà phục vụ đã hé mở cho chúng ta qua ba Chúa Nhật kế tiếp.

39. Lương thực Chúa ban
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúa nhật vừa qua chúng ta đã thấy Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê. Nhưng hôm sau họ lại tìm đến Ngài, mong được ăn bánh nữa, thì Ngài nói với họ về một thứ bánh khác: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh”.
Chúng ta đến đây vì chúng ta biết rằng chúng ta cần một thứ lương thực khác, thứ lương thực mà chỉ có Chúa mới ban cho chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
Chúng con quá lo tìm lương thực vật chất, đến nỗi sao lãng lương thực thần linh.
Ngay cả khi chúng con dự Thánh Lễ, chúng con cũng chỉ xin Chúa ban lương thực vật chất cho chúng con.
Chúng con chưa đủ lòng phó thác để tin rằng Chúa sẽ lo cho chúng con lương thực hằng ngày.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Xh 16,2-4.12-15)
Phép lạ manna xảy ra trong sa mạc. Sa mạc là nơi trơ trụi, thiếu thốn mọi thứ, cho nên sa mạc cũng là nơi thử thách. Mà một trong những thử thách lớn nhất đối với con người là đói, không có thức ăn. Bởi vậy, Chúa đã nói với Môsê: “Ta muốn thử lòng chúng”
Tuy nhiên, thử thách này cũng có cái lợi là nhắc con người nhớ rằng lương thực họ ăn hằng ngày là do Chúa ban. Chính vì thế, Thiên Chúa bảo dân Do Thái chỉ được lượm một phần bánh đủ ăn trong ngày.
2. Đáp ca (Tv 77)
Phép lạ manna vẫn được các thế hệ về sau nhắc tới như là một trong những công cuộc lẫy lừng của Thiên Chúa, cho người ta thấy quyền phép và tình thương to lớn Chúa dành cho dân Ngài.
3. Tin Mừng (Ga 6,24-35)
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, hôm sau người Do Thái lại tìm đến với Đức Giêsu mong được ăn bánh nữa. Đức Giêsu hướng họ lên cao hơn một bước: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh”. Họ tưởng đó là manna ngày xưa trong sa mạc. Đức Giêsu nói rõ: “Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta không hề phải đói. Ai tin vào Ta chẳng khát bao giờ”.
4. Bài đọc II (Êp 4,17-20.24) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô khuyên tín hữu một khi đã theo Đức Kitô thì phải từ bỏ nếp sống cũ, tư tưởng cũ và tinh thần cũ như hồi còn là dân ngoại. Thay vào đó, hãy mặc lấy con người mới, tinh thần mới và cách sống mới như Đức Kitô.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Nhiều thứ đói
Năm 1885 Vincent van Gogh đến viện bảo tàng Amsterdam để được ngắm một họa phẩm nổi tiếng của họa sĩ Rembrandt, bức “Cô Dâu Do Thái”. Sau khi ngắm xong, Van Gogh thố lộ: “Tôi thà giảm thọ 10 năm để được ngồi 2 tuần trước bức danh họa này, chỉ cần ăn bánh mì khô thôi cũng được. Thực ra, thứ mà tôi đói nhất không phải là thức ăn mà là hội họa. Mỗi khi tôi có tiền tôi liền đi săn tìm các mẫu vẽ cho tới khi nhẵn túi”.
Không phải chỉ cơ thể mới biết đói, mà con tim và tinh thần cũng biết. Cơm bánh không thể nào thỏa mãn cơn đói của con tim và tinh thần. Nuôi sống một người không giống như nuôi một con vật, chỉ cần cho nó ăn no. Chúng ta là người, chúng ta không chỉ có một thứ đói mà có hàng trăm thứ đói. Ngoài cơm bánh ra chúng ta còn đói rất nhiều thứ:
– đói được người ta tôn trọng: không ai muốn bị coi là đồ bỏ; ai cũng muốn có người khác trọng mình, ít ra là một người.
– đói được người ta chấp nhận: nếu không ai chấp nhận chúng ta thì chúng ta không sao thể hiện chính mình được.
– đói những tương giao: không được tương giao với người khác thì chúng ta sẽ trở nên cô độc buồn sầu.
– đói nguồn động viên: không có gì động viên chúng ta thì chúng ta giống như những cánh buồm không gió.
– đói niềm tin: ai cũng cần đức tin hay ít ra là một số điều mình tin tưởng. Nếu không thì dòng đời chúng ta bị trôi dạt như những con thuyền không định hướng.
– đói hy vọng: bao lâu con người còn hy vọng thì còn có thể làm được nhiều việc; một khi đã mất hy vọng thì mất tất cả.
– đói tình yêu: nếu cơn đói này được thỏa mãn thì hầu hết những cơn đói khác sẽ biến mất.
– Và còn một thứ đói nữa, sâu xa nhất, hàm chứa trong mọi cơn đói khác, kể cả đói tình yêu. Đó là đói sự sống đời đời, hay nói cách khác, đói Thiên Chúa. Cảm nghiệm đói Thiên Chúa không phải là một bất hạnh nhưng là một phúc lành, vì nó giúp cho đời ta khỏi bị tù hãm trì trệ, nhưng đưa thuyền đời chúng ta hướng tới đại dương mênh mông. (Viết theo Flor McCarthy)
* 2. Cậy trông nơi Chúa
Khi ban Manna cho dân Do Thái, Thiên Chúa nói với Môsê rằng: “Ta sẽ cho lương thực từ trời rơi xuống cho các ngươi. Mỗi ngày, dân hãy ra khỏi trại để nhặt lấy phần lương thực cho ngày đó. Băng cách này, Ta muốn thử xem họ có tuân theo lề luật của Ta hay không”. Những lời này của Thiên Chúa có nghĩa gì?
Nếu bạn hỏi một tín hữu là có tin rằng Thiên Chúa là Chúa duy nhất của vũ trụ không, thì người đó sẽ trả lời ngay không chút ngần ngại: “Dĩ nhiên là tôi tin thế”. Nhưng nếu bạn lại hỏi người đó có tin rằng Thiên Chúa ấy thấy mọi nhu cầu đời sống của họ và sẽ lo cho họ có mọi thứ họ cần không, thì họ sẽ chần chừ không dám trả lời xác quyết.
Đức tin và đức Cậy liên hệ chặt chẽ với nhau. Người nào tin vững vàng thì cũng trông cậy hoàn toàn. Còn ai không trông cậy trọn vẹn vào Chúa thì đức tin của họ cũng bị lung lay.
Kinh nghiệm trong sa mạc là cơ hội giúp dân Do Thái trông cậy vào Chúa. Bởi thế Chúa bảo họ chỉ lượm manna cho đủ ăn một ngày thôi, ngày mai để Thiên Chúa lo. Đức Giêsu cũng dạy như thế: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Ngày nay, những lời dạy như thế xem ra xa lạ và thậm chí điên khùng nữa, bởi vì nhiều người rất phòng xa bằng cách để dành tiền, gửi tiết kiệm, mua bảo hiểm v.v. Họ trông cậy vào những thứ đó hơn là vào Chúa.
Xét cho cùng thì cái nâng đỡ dân Do Thái trong sa mạc không phải là manna mà là đức tin và đức cậy. Đối với chúng ta cũng thế, lương thực nuôi chúng ta chính là đức tin và đức cậy. Nhất là khi chúng ta gặp khó khăn thử thách, khi đó không phải chúng ta giữ đức tin và đức cậy, mà ngược lại hai nhân đức ấy gìn giữ chúng ta.
Dù cho cuộc sống có khó khăn thế nào đi nữa thì đối với người trông cậy vào Chúa và biết sống từng ngày từng giờ trong niềm trông cậy ấy, manna vẫn rơi xuống mỗi ngày. (Viết theo Flor McCarthy)
3. Cái giá của tự do
Hình như có một quy luật của cuộc sống là trong lúc khó khăn thì nghị lực của con người lên tới đỉnh cao nhất, nhưng khi khó khăn qua rồi thì nghị lực lại tuột xuống mức thấp nhất. Primo Levi, một người sống sót sau nhiều năm ở trong trại giam Auschwitz của Đức quốc Xã, đã viết: “Trong đa số trường hợp, giờ được giải phóng chẳng vui mà cũng chẳng mừng gì cả. Nhiều vụ tự tử đã xảy ra ngay sau ngày giải phóng. Ngược lại, những cuộc tự tử rất hiếm trong thời gian bị giam cầm”. Elie Wiesel, một cựu từ nhân Auschwitz khác cũng nói: “Trong cơn thử thách, tôi sống trong sự mong chờ, mong chờ một phép lạ hoặc mong chờ cái chết. Nhưng khi cơn ác mộng đã qua thì tôi bị rơi vào cơn khủng hoảng rất đau đớn và dằn vật, tôi đặt lại vấn đề về tất cả những niềm tin của tôi”. Còn Oscar Wilde thì viết: “Sự tàn bạo của ngục tù chỉ bắt đầu khi bạn ra khỏi đó”.
Tại sao vậy? Vì trong lúc khó khăn, ước mơ được giải thoát đã giúp cho người ta có nghị lực để sống. Nhưng khi được tự do rồi, thực tế không phải luôn luôn đúng như họ đã ước mơ.
Dân Do Thái cũng trải qua kinh nghiệm ấy. Ngày họ được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập, họ đã vui mừng ra đi và tràn đầy hy vọng một tương lai tươi sáng. Thế nhưng chẳng bao lâu sau, họ lại đòi trở lại Ai cập, họ muốn làm nô lệ nữa. Lý do là những khó khăn họ gặp phải trong cuộc xuất hành. Sự tự do đã không biến hết những ước mơ của họ thành sự thật. Có lẽ họ chưa được chuẩn bị sẵn sàng để sống cái ơn ban tự do ấy. Phải chờ thế hệ sau mới sẵn sàng qua sông Giođan và vào Đất hứa. Bởi vậy có người đã nói: “Dân Do Thái chỉ cần một ngày để ra khỏi Ai cập, nhưng phải cần đến 40 năm để hình ảnh Ai cập thoát khỏi đầu óc của họ”.
Tự do có những thách thức của nó. Tự do nghĩa là phải tự gánh lấy trách nhiệm của đời mình. Điều này thật không dễ đối với những ai đã quen để cho người khác quyết định thay mình, còn mình chỉ biết vâng lời thôi. Tự do còn đòi phải có kỷ luật bản thân. Tuân theo kỹ luật do người khác đặt ra cho mình thì dễ hơn là làm theo kỹ luật do chính mình tự đặt ra. Biến một người tự do thành người nô lệ thì dễ hơn giúp một người nô lệ thành người tự do.
Dân Do Thái nhìn lại quá khứ và nghĩ: “Sống ở Ai cập còn tốt hơn, vì ít ra mình cũng có đủ ăn”. Thế là họ cằn nhằn với Môsê. Lẽ ra, họ phải mang theo họ những đức tính đã từng giúp họ chịu đựng những khó khăn thời làm nô lệ. Nhưng lúc được tư do họ đã không xử dụng nghị lực như khi còn làm nô lệ. May thay Thiên Chúa đã ban manna cho dân Do Thái để nâng đỡ cuộc sống của họ trong cuộc hành trình về Đất Hứa.
Qua Bí Tích Rửa tội, chúng ta cũng được giải phóng: giải phóng khỏi ách nô lệ của tội lỗi và giải phóng khỏi sự lệ thuộc vào những bảo đảm vật chất (xem bài đọc II). Tuy nhiên cuộc hành trình của chúng ta cũng rất gian truân. Nhiều khi chúng ta muốn trở lại kiếp sống nô lệ. Chúng ta thà làm nô lệ cho thế gian và tội lỗi hơn là làm những người con tự do của Thiên Chúa. May thay Đức Giêsu đã nâng đỡ cuộc hành trình của chúng ta. Đặc biệt Ngài đã ban manna mới cho chúng ta là bí tích Thánh Thể. Không phải chúng ta gìn giữ đức tin, mà chính đức tin gìn giữ chúng ta.
Dù cho cuộc sống có khó khăn thế nào đi nữa thì đối với người trông cậy vào Chúa và biết sống từng ngày từng giờ trong niềm trông cậy ấy, manna vẫn rơi xuống mỗi ngày. (Viết theo Flor McCarthy)
4. Theo Chúa, nhưng vì động lực nào?
Chúng ta nên đặt đoạn Tin Mừng này trong bối cảnh của nó. Đó là thời kỳ Đức Giêsu đang được quần chúng ngưỡng mộ nhất: Ngài đi đâu dân chúng cũng đông đảo ùa theo đến đó, thậm chí họ còn muốn tôn Ngài lên làm vua khiến Ngài phải trốn đi. Nhưng dù Ngài trốn đi họ cũng vẫn tìm ra được chỗ Ngài và sáng hôm sau lại ùa tới vây quanh Ngài.
Nhưng tại sao quần chúng ùa theo Ngài như thế? Thưa vì lợi lộc vật chất:
Chúa đã chữa nhiều bệnh tật: mù, què, câm, điếc, cả kẻ chết Ngài cũng làm cho sống lại được. Thậm chí có những người chỉ cần chạm tới gấu áo của Ngài hay chỉ cần chờ Ngài đi qua cho cái bóng của Ngài cho phủ lên họ thì cũng được khỏi bệnh.
Ngài lại vừa mới làm cho họ có bánh ăn: hàng mấy ngàn người đi theo Ngài, Ngài chỉ dùng có 5 chiếc bánh và 2 con cá mà biến ra cho đủ lương thực cho họ ăn no nê thừa thải. Chắc là họ nhủ thầm: Giá mà có ông này bên cạnh ta mãi thì ta chẳng bao giờ sợ đói khát, cũng chẳng cần phải làm lụng cực nhọc mà vẫn luôn no đủ. Chính vì có ý nghĩ như thế, cho nên họ mới định tôn Ngài lên làm vua. Đức Giêsu biết ý họ nên trốn đi. Nhưng sáng hôm sau họ cũng tìm được chỗ và lại đến vây quanh Ngài.
Khi đó Đức Giêsu nói thẳng: “Các ngươi tìm ta là vì đã được ăn no”. Rồi Đức Giêsu muốn đưa họ lên cao hơn, Ngài nói “Các người đừng theo Ta vì của ăn vật chất, nhưng hãy tìm của ăn tinh thần không hư nát”.
Nghe lời đó, dân chúng chán nản, bỏ Ngài mà đi gần hết. Chỉ còn lại 12 tông đồ. Đức Giêsu hỏi các tông đồ “Chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi nữa không?” Phêrô lên tiếng đáp thay anh em “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có Lời ban sự sống đời đời”.
Con người ta là thế đấy: Hễ thấy có lợi lộc vật chất thì chạy theo, khi không có lợi thì bỏ đi. Ngay trong việc theo đạo cũng vậy. Trong một quyển truyện mang tựa đề “Chìa khóa Nước Trời”, nhà văn A.J.Cronin kể lại có một linh mục kia đi truyền giáo tại một vùng quê nước Trung Hoa, ông truyền giáo bằng cách phân phát đồ viện trợ nào tiền nào gạo nào thuốc men, những người giúp việc tông đồ cũng được trả lương tháng rộng rãi. Kết quả là chỉ trong vòng có một năm đã có tới 5000 người theo đạo. Nhưng sau khi ông về hưu thì hầu như tất cả đều bỏ đạo, thậm chí Nhà thờ cũng bị những giáo dân bỏ đạo ấy tháo gở đập phá về sửa nhà riêng. Vị linh mục thứ hai được gởi đến, tưởng mình sẽ gặp được một họ đạo đông đúc và sốt sắng theo như bản báo cáo, nhưng đến nơi ông thấy chẳng có gì cả: Không một giáo dân, không còn nhà thờ. Cuối cùng có hai người đến tự xưng là các giảng viên giáo lý của linh mục trước, họ đòi lương 15.000 đồng một tháng. linh mục mới này quá nghèo không có tiền trả nên cả hai giáo dân đó cũng bỏ đi hết. Cha ấy phải khởi sự tất cả lại từ con số không.
Truyền đạo bằng mồi vật chất là xây nhà trên cát – Theo đạo chỉ vì lợi lộc vật chất cũng là xây nhà trên cát!
Suy lại phần mình, chúng ta cũng theo đạo, nhưng thử hỏi vì động lực nào? Chắc hẳn không ai trong chúng ta quá tệ theo đạo chỉ vì những lợi lộc vật chất đâu. Tuy nhiên trong cuộc đời sống đạo của chúng ta, có lẽ nhiều lần chúng ta bị yếu tố vật chất tác động mạnh mẻ: nghĩa là khi sung túc thì sốt sắng, còn khi túng thiếu thì nguội lạnh. Biết bao lần khi lâm cảnh túng thiếu, chúng ta không muốn dự lễ, không muốn cần nguyện nữa, và thậm chí không muốn tin có Chúa nữa.
Đó là một thứ cám dỗ, nói mạnh hơn, đó là một mưu mô thâm độc của ma quỷ: Ma quỷ luôn muốn làm hại ta. Khi chúng ta túng thiếu, kể như chúng ta không còn một chỗ dựa nào hết, chỉ còn mỗi một nơi nương tựa là Thiên Chúa. Ma quỷ cám dỗ ta bỏ Chúa luôn để ta hoàn toàn không còn một chỗ dựa nào hết. Nghèo nàn hoàn toàn: Nghèo cả vật chất và nghèo cả tinh thần. Đó thật là một mưu mô thâm độc, những ai xưa nay chỉ theo đạo vì lợi lộc vật chất chắc chắn sẽ mắc bẫy của nó.
Chính vì thế, Đức Giêsu khuyến cáo chúng ta “Các ngươi đừng chỉ tìm những của ăn hay hư nát, nhưng hãy tìm những của ăn tinh thần không bao giờ hư nát”.
Những của ăn tinh thần ấy là gì?
Là một cuộc sống lương thiện: Người ta thì bần cùng sinh đạo tặc, nhưng kẻ theo Chúa thật thì dù nghèo cũng vẫn thanh cao, công bình.
Là một cuộc sống bác ái: Người ta thì có phú quý mới sinh lễ nghĩa, còn nghèo túng thì lục đục với nhau: Nhưng kẻ theo Chúa thật dù nghèo túng cũng biết thương yêu chia sớt cho nhau.
Là một quan niệm sống đầy đủ: không chỉ lo cho thân xác mà còn lo cho phần hồn nữa.
Trở lại với câu chuyện truyền giáo của linh mục kia. Vì cha nghèo, không có tiền nhiều để làm mồi câu những người tòng giáo – mà dù có cha cũng không muốn truyền giáo theo kiểu đó – cha chỉ đem tinh thần bác ái của Tin Mừng ra để sống với người khác: Cha thăm viếng những người bệnh, cha cư xử với những người khác tín ngưỡng như những người bạn, cha nuôi những đứa trẻ bị cha mẹ bỏ rơi. Một hôm đứa con trai duy nhất của một ông điền chủ bị bệnh nặng. Nhờ có hiểu biết chút ít về Tây Y, cha đã cứu cho nó sống. Ông điền chủ chiều hôm ấy tìm đem cha về xin theo đạo. Nhưng cha thẳng thắn từ chối vì thừa hiểu rằng ông ta chưa có niềm tin. Cha chỉ giữ liên hệ láng giềng tốt với ông ta thôi. Phần ông ta càng ngày càng có cảm tình với cha. Sau 30 năm truyền giáo như thế, vị linh mục nghèo tiền nhưng giàu lòng bác ái ấy đã có được số giáo dân khoảng 500 người, nhưng đều là những giáo dân có niềm tin vững chắc. Một ngày trước khi cha giả từ họ đạo để về hưu, cha nhận được một niềm vui to lớn: ông nhà giàu kia lại xin theo đạo, và lần này vì một lý do rất vững chắc, ông nói: Thưa cha, cách đây 30 năm tôi xin theo đạo để trả ơn cha đã cứu sống con trai tôi, khi đó cha không nhận vì thấy tôi chưa có niềm tin. Hôm nay, 30 năm sau tôi lại xin theo đạo, lần này không phải để trả ơn cha, mà vì tôi thấy tôi cần có đạo. Cuộc sống của cha trong 30 năm đã giúp tôi thấy đạo rất là đẹp, rất là tốt và rất là cần cho con người. Vậy lần này tôi mong cha đừng từ chối nữa. Dĩ nhiên là vị linh mục già ấy nhận lời. Buổi lễ tiễn biệt được trở thành lễ Rửa tội thật là cảm động.
Xin Chúa giúp chúng ta theo đạo vì lý do vững chắc như ông ấy, và biết sống đạo như vị linh mục ấy. Chúng ta hãy ghi nhớ Lời Chúa “Các người đừng chỉ tìm của ăn vật chất hay hư nát, nhưng hãy tìm của ăn tinh thần không hư nát bao giờ”; cũng đừng bao giờ vì khó khăn vật chất mà bỏ Chúa: “Bỏ Ngài con biết theo ai vì Ngài có Lời ban sự sống”.
* 5. Bánh Ban Sự Sống
Ngày 20 tháng 10 năm 1995, hơn 200 triệu người trên 100 quốc gia đã theo dõi cuộc phỏng vấn đặc biệt công nương Diana – vợ hoàng tử Charles Anh quốc do hãng thông tấn BBC thực hiện.
Diana nhìn nhận đã ngoại tình với sĩ quan kỵ binh James Hewitt. Lý do dẫn đến việc bất trung ấy là vì hoàng tử Charles đã dan díu với nàng Camilla Packer Bowles. Diana nói: “Tôi biết điều đó nhưng không làm gì được. Có tới ba người trong hôn nhân của chúng tôi. Và điều đó khiến nó trở nên chật chội”.
***
Hôm nay dân chúng lên thuyền nỗ lực tìm kiếm Đức Giêsu, chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Miếng ăn là nỗi ưu tư của những người nghèo, nên Đức Giêsu không trách cứ họ. Người chỉ hướng dẫn họ đến với Bánh Trường Sinh: nuôi dưỡng tâm hồn, và đem lại sự sống đời đời.
Con người thời nay không khác gì dân chúng ngày xưa. Người nghèo thì bị cuốn hút vào cơm áo gạo tiền, để thỏa mãn nhu cầu cấp bách của thể xác. Người giàu lại chạy theo xa hoa vật chất, để hưởng thụ nhu cầu cao cấp của con người. Để rồi kẻ giàu người nghèo đều có chung một nguy cơ: là quên đi cái đói khát tâm linh.
Thật ra, càng hưởng thụ con người càng khao khát hơn, thỏa mãn đấy rồi lại khao khát. Mọi thứ của cải trần gian, con người không cho làm đủ. Dù có tiền bạc, thế lực, chức quyền và danh vọng nhưng hoàng tử Charles và công nương Diana vẫn là những con người bất hạnh. Họ vẫn còn đói khát một của ăn tâm hồn. Tiên tri Amos đã nói về niềm khao khát ấy như sau: “Có lúc cả xứ bị đói, không phải đói cơm bánh, không phải là khát nước uống là mà đói khát Lời Chúa” (Am.8,11).
Thấu hiểu cơn đói khát ấy, Đức Giêsu đã không cho Manna từ trời rơi xuống, để mỗi ngày người ta phải lượm mà ăn. Nhưng Người đã cho họ Bánh Ban Sự Sống, để những ai ăn Bánh thì được sống đời đời: “Chính Ta là Bánh ban Sự Sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ” (Ga.6,35).
Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Phụng vụ Thánh, số 47 có viết: “Khi lãnh nhận Đức Kitô, tâm hồn được tràn đầy ân sủng, đồng thời cũng được bảo đảm cho vinh quang đời đời”.
Quả thật, nếu người thứ ba trong cuộc hôn nhân của Diana và Charles không phải là Camilla mà chính là Đức Kitô, thì gia đình ấy sẽ no thỏa hạnh phúc biết bao. Cha Mark Link viết: “Trái tim chúng ta có một khoảng trống mà chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy”.
Đức Giêsu chính là Tấm Bánh cho tâm hồn đói nghèo, là cánh tay cho người yếu đuối, là bạn đồng hành cho kẻ cô đơn, là ánh lửa hy vọng cho tất cả mọi người.
***
Lạy Chúa, chỉ một mình Chúa mới đem lại cho chúng con sự no thỏa tâm hồn và niềm vui đích thực.
Xin cho chúng con luôn biết khao khát Chúa là Bánh ban Sự Sống, là nguồn hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, dân Do thái xưa đã tìm đến Đức Giêsu vì được ăn no. Đức Giêsu bảo họ: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh”. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây:
1. Chúng ta cầu nguyện cho Hội thánh đang chăm sóc những người nghèo khổ, bệnh tật và chậm tiến / cùng giúp cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là nguồn gốc gây ra mọi đau khổ.
2. Chúng ta cầu nguyện cho các nhà cầm quyền đừng chỉ chuyên tâm đến vấn đề vật chất và kinh tế / mà bỏ quên vấn đề nhân phẩm, giáo dục, và tự do của mỗi người.
3. Chúng ta cầu nguyện cho những người đang chạy theo tiền bạc và ham mê hưởng thụ vật chất / biết nhận ra rằng con người còn có tâm hồn và tình yêu / để hướng tới những gì là cao thượng và linh thiêng hơn.
4. Chúng ta cầu nguyện cho anh chị em trong họ đạo chúng ta / đừng vì âu lo sinh sống vật chất mà bỏ quên bổn phận là con của Chúa, và là anh em của mọi người.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa hằng thương lo cho mọi người chúng con cả hồn xác, xin cho chúng con biết nghe lời Chúa, để ra công làm việc không phải vì lương thực hay hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh. Chúa là đấng hằng sống hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Khi chúng ta cầu xin cho có “lương thực hằng ngày”, một mặt chúng ta xin Chúa quan tâm đến những nhu cầu đời sống chúng ta, nhưng mặt khác chúng ta cũng hãy xin cho mình biết phó thác cuộc sống trong tay Chúa quan phòng.
– Trước Rước lễ: Mình Thánh Chúa mà chúng ta sắp rước còn quý giá gấp bội so với những chiếc bánh và những con cá mà dân Do Thái ngày xưa được ăn. Chúng ta hãy rước lễ trong tâm tình yêu mến và tạ ơn sốt sắng.
VII. Giải tán
Chúa đã nuôi dưỡng chúng ta trong Thánh lễ này và hằng nuôi dưỡng chúng ta mãi mãi. Chúng ta cũng hãy rộng rãi chia xẻ với anh chị em chúng ta.

40. Chúa Nhật 18 Thường Niên
CHẠY ĐẾN CHÚA GIÊSU LÀ SUỐI NGUỒN YÊU THƯƠNG
Lương thực là nhu cầu thiết yếu của con người. Có nhiều thứ lương thực, có thứ lương thực nuôi dưỡng thể xác, có thứ lương thực nuôi dưỡng tinh thần và có thứ lương thực nuôi dưỡng đời sống tâm linh, phần rỗi con người. Ngày nay, có thể người ta không thiếu lương thực nuôi dưỡng thể xác, có thiếu là do người ta chưa biết san sẻ cho nhau. Tuy nhiên một điều chắc chắc là người ta thiếu tình thương, vì thiếu tình thương nên thể hiện quá nhiều thứ tiêu cực, thể hiện quá nhiều bạo lực trong thế giới, trong xã hội và ngay trong gia đình, thậm chí trong chính bản thân con người.
Chúa Giêsu là Đấng đã trao ban tình thương, bình an và gieo niềm hy vọng. Ngài đã trao ban những điều mà nhân loại đang thiếu thốn. Đó là tình thương vì chỉ có tình thương này mới có thể lấp đầy những thiếu thốn kia. Thật thế, phép lạ hoá bánh ra nhiều thể hiện tình thương của Chúa cho nhân loại, Chúa cho no nê về thể xác mà người ta thấy được rõ ràng, Chúa còn cho người ta tình thương, Chúa cho người ta sự liên đới, sự cộng tác với Chúa, sự quảng đại san sẻ của cải, san sẻ tình người,… điều đó người ta có thể cảm nhận và học hỏi được. Do đó, khi lòng người cảm nhận được Chúa yêu thương, quan tâm chăm sóc thì đó chính là lúc tâm hồn mình được bình an không còn xáo trộn nữa mà được thúc bách thể hiện tình thương của Chúa cho nhân loại, thể hiện tình người cho nhân thế và thể hiện được nền văn minh sự sống. Được như thế thì bản thân, gia đình và đến cả xã hội, thế giới sẽ không còn thiếu thốn nữa mà là đầy đủ thậm chí là dư tràn, dư tràn tình thương của Chúa, dư tràn lòng mến thương nhau. Đó chẳng phải là điều Chúa Giêsu khát mong, điều mà tình thương của Ngài thật sự hữu hiệu.
Trên bình diện nhân linh, con người luôn luôn cần và rất cần thậm chí có thể nói, con người đói khát chân lý và các thực tại siêu nhiên, nếu hiểu đói khát là khả năng khai mở, tiếp nhận thì không có điều gì có thể lấp đầy nỗi khát khao vô hạn của con người. Vì con người tự thân là một “khao khát vô biên, khao khát tuyệt đối” và duy chỉ con người mới có khả năng đó. Chính thánh Augustino đã nói lên điều này: “Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con khao khát mãi cho đến khi được nghỉ ngơi trong Chúa”. Chúa Giêsu hẳn đã biết được tâm trạng này nên Ngài đã kêu mời: “hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 28, 28 – 30). Vả lại, Chúa Giêsu còn muốn chúng ta hãy lo cho phần rỗi của mình, lo cho sự sống đời đời: “hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho anh em” (Ga 6, 27)
Chính Ta là bánh Hằng Sống, đây là một chân lý quan trọng, là một khẳng định dứt khoát cho con người. Chỉ khi con người tin nhận, đến với và đón lấy thì con người sẽ nhận được sự sống đời đời, sự bình an và niềm hoan lạc đích thực. Đó hẳn thật là một hành trình, hành trình của tình yêu, tình yêu càng lên cao mãi, tình yêu này làm cho con người no thoả, không còn phải đói khát, tình yêu này làm cho con người biết liên đới với tha nhân, chung sống và chung xây hoà bình và lợi ích của nhau. Và thật sự chính Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể chính là mối giây liên kết mọi người cùng tồn tại trong đức ái, thể hiện tình mến thương chân thành và luôn đi trong lòng mến. Thánh lễ là nơi chúng ta tham dự vào bàn tiệc Mình Máu Thánh Đức Kitô, là nơi lặp lại hy tế Núi Sọ. Nơi đó chúng ta được gặp gỡ với Thiên Chúa và hiệp thông với anh em nữa. Nên Thánh Lễ là Bí tích của sự hiệp thông. Hơn nữa, Thánh lễ còn là nơi thể hiện sự hiệp thông. Khi đi tham dự thánh lễ, chúng ta được trực tiếp gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu, luôn yêu thương chúng ta. Nơi Ngài ta đặt trọn vẹn tâm tư tình cảm của mình vào Ngài. Chúng ta mang theo thế giới mình đang sống như một hành trang, như một lễ vật dâng tiến Ngài. Rồi từ thánh lễ bước vào lại thế giới, để biến thế giới, biến cuộc đời thành một thánh lễ nối dài. Bên cạnh đó, Thánh lễ còn dạy chúng ta biết bẻ bánh cho nhau, có nghĩa là biết yêu thương nhau trong đời thường, chia sẻ tình thương mà mình nhận được từ Thiên Chúa qua Thánh lễ. Bởi vì tất cả chúng ta cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Khi chúng ta cảm nhận được Thiên Chúa yêu ta thì lòng ta sẽ được Thánh Thần thúc giục để biết đem tình thương đó chia sẻ cho người khác nữa. Sống tinh thần hiệp thông và chia sẻ với người khác, chính là dấu chỉ cho thấy chúng ta đã thực sự tham dự Thánh lễ và đã biến cuộc sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khao khát và siêng năng chay đến với bí tích Thánh Thể, để chúng con đón lấy suối nguồn yêu thương của Chúa và chúng con sẵn sàng trao ban tình thương Chúa cho mọi người. Amen.

41. Chúa Nhật 18 Thường Niên
Thánh lễ là nơi chúng ta tham dự vào bàn tiệc Mình Máu Thánh Đức Kitô, là nơi lặp lại hy tế Núi Sọ. Nơi đó chúng ta được gặp gỡ với Thiên Chúa và hiệp thông với anh em nữa. Nên Thánh Lễ là Bí tích của sự hiệp thông
Thánh lễ còn là nơi thể hiện sự hiệp thông. Khi đi tham dự thánh lễ, chúng ta được trực tiếp găp gỡ Thiên Chúa – chính Đấng là Tình Yêu, luôn yêu thương chúng ta. Nơi Ngài ta đặt trọn vẹn tâm tư tình cảm của mình vào Ngài. Chúng ta mang theo thế giới mình đang sống như một hành trang, như một lễ vật dâng tiến Ngài. Rồi từ thánh lễ bước vào lại thế giới, để biến thế giới, biến cuộc đời thành một thánh lễ nối dài.
Khi dâng Thánh lễ, chúng ta mang nhiều tâm tư, tình cảm vào trong đó. Thánh lễ giúp chúng ta đón nhận thập giá đời thường. Bởi vì tất cả những khổ đau và bất hạnh, những thành công thất bại, những vất vả trong cuộc sống được chúng ta góp lại, trở thành lễ vật của chúng ta, kết hiệp với lễ vật của Đức Kitô mà linh mục dâng lên Thiên Chúa. Khi đã dâng cho Ngài chúng ta đón nhận được sự bình an, thư thái. Chúng ta cảm nếm hạnh phúc ngọt ngào tâm tình của người con luôn vâng theo thánh ý Cha. Chúa chính là sự bình an sẽ bồi đắp lòng ta đầy tình thương của Ngài để ta được hoan hỉ trong sự bình an ấy.
Thánh lễ còn dạy chúng ta biết bẻ bánh cho nhau, có nghĩa là biết yêu thương nhau trong đời thường, chia sẻ tình thương mà mình nhận được từ Thiên Chúa qua Thánh lễ. Bởi vì tất cả chúng ta cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Khi chúng ta cảm nhận được Thiên Chúa yêu ta thì lòng ta sẽ được Thánh Thần thúc giục để biết đem tình thương đó chia sẻ cho người khác nữa. Theo Luca (Lc 1, 20 – 44) cho ta thấy: Có Chúa trong lòng rồi thì Mẹ Maria liền hối hả đem Chúa cho Bà Ysave, mang niềm vui ơn cứu độ cho bà chị họ.
Ngược lại, một số tín hữu ở Corintô (1Cr11, 17 – 22), khi tham dự nghi thức bẻ bánh, chỉ biết lo cho bữa ăn riêng của mình trước, và như thế, kẻ thì đói khát, người thì lại no say. Thái độ ích kỷ này hoàn toàn trái ngược với tinh thần hiệp thông và chia sẻ của thánh lễ.
Sống tinh thần hiệp thông và chia sẻ với người khác, chính là dấu chỉ cho thấy chúng ta đã thực sự tham dự thánh lễ và đã biến cuộc sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài.
Xin Chúa cho chúng ta siêng năng tham dự Thánh Lễ và biết làm cho đời ta là Thánh Lễ nối dài, hữu ích cho tha nhân.

42. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Để sửa soạn cho một dân tộc làm dân riêng, Thiên Chúa đã dẫn đưa dân Do thái thoát khỏi ách nô lệ bên Ai cập, vượt qua Biển đỏ ráo chân, đi vào sa mạc chịu cảnh thiếu thốn cực khổ về vật chất để thanh tẩy và luyện lọc họ. Bài trích sách Xuất hành hôm nay cho thấy dân chúng trách móc Mô-sê và A-ha-ron vì đã đưa họ vào sa mạc thanh vắng, thiếu đồ ăn thức uống, để bắt họ phải chết đói. Sở dĩ có sự phàn nàn là vì họ đã quên mất tình yêu và đường lối quan phòng của Chúa. Tình yêu và quyền năng Chúa đã giải thoát họ khỏi ách thống trị của người Ai cập. Dầu sao đi nữa, khi nghe tiếng kêu trách của dân chúng, Chúa liền phán bảo Mô-sê: Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các người ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó. Ta muốn thử lòng chúng như vậy, xem chúng có tuân theo Luật của ta hay không (Xh 16:4). Tuy nhiên khi Chúa cho ma-na rơi xuống mỗi ngày, dân chúng lại phàn nàn vì họ phải đi lượm lấy mà ăn, và vì ngày nào cũng phải ăn cùng thứ bánh, và bánh lại không có mùi vị. Phải chăng họ được voi đòi tiên?
Phúc âm hôm nay cũng ghi lại việc dân chúng đi tìm Chúa, để hi vọng được ăn bánh no nê, vì ngày hôm trước họ đã được Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi dưỡng họ. Nhân cơ hội này, Chúa dạy họ một bài học: Các ngươi đi tìm ta, không phải vì các ngươi đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no thoả. Các ngươi hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn, đem lại phúc trường sinh (Ga 6:26-27). Khi Chúa Giêsu bảo họ việc Thiên Chúa Cha muốn là tin vào Đấng mà Người đã sai đến. Đám đông liền xin Người một dấu lạ để tin vào Người. Họ tìm Chúa để được ăn bánh nuôi thân xác nên họ không nhận ra Chúa là Đấng có quyền năng làm phép lạ.
Qua bí tích Rửa tội, ta được gia nhập đại gia đình của Chúa là Giáo hội. Tuy nhiên không phải vì thế mà ta dừng chân lại, không cần đi tìm Chúa nữa. Ta vẫn phải tiếp tục đi tìm Chúa, tìm những gì thuộc về nước Chúa, tìm sự công chính của nước Chúa, tìm cái chân thiện mỹ trong tư tưởng, lời nói và hành động, tìm những gì thuộc lãnh vực thiêng liêng và siêu nhiên. Ta cần tìm ra những dấu vết của sự hiện diện của Chúa trong vũ trụ, nơi những kỳ công của Đấng tạo dựng. Ta cần tìm lắng nghe tiếng Chúa qua liếng lương tâm ngay thẳng. Ta cần tìm ra những gì đem lại hạnh phúc toàn diện về thể xác, tinh thần và thiêng liêng, cũng như hạnh phúc lâu dài ở đời này và đời sau cho cuộc sống.
Tìm Chúa là một tiến trình kéo dài suốt cả cuộc sống. Mỗi ngày ta phải đi tìm Chúa với hi vọng được biết Chúa nhiều hơn. Mỗi ngày ta phải khám phá ra sự hiện diện của Chúa để được sống gần gũi thân mật với Chúa. Để có thể đi tìm Chúa, ta phải cảm thấy đói khát về đời sống thiêng liêng. Để có thể cảm thấy đói khát, người ta phải loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn là tội lỗi và các thứ tinh mê nết xấu thì tâm hồn mới có chỗ trống mà cảm thấy đói được. Nếu tâm hồn chứa đầy những chướng ngại vật: những tư tưởng ám muội, những hận thù ghen ghét, tham lam, những ước nuốn ngang trái, những việc làm tội lỗi thì tâm hồn bị ứ đọng, không thể cảm thấy đói khát về đời sống thiêng liêng được. Để có thể cảm thấy đói khát thiêng liêng, ta phải từ bỏ con người cũ, nếp sống tội lỗi cũ để mặc lấy con người mới cùng với nếp sống mới trong ơn nghĩa với Chúa.
Hôm nay mỗi người cần tự xét xem mình đang đói khát những gì? Có phải ta đang đói khát tiền tài, danh vọng, thú vui…. hay đói khát Chúa và những sự công chính và bình an của nước Chúa?

43. Sống tạm và Sống mãi
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Các tù nhân Brazil giờ đây đã có cách hợp pháp để rút ngắn thời hạn giam giữ: đọc sách. Theo thông báo của Diario comercio industria & servicios trên tờ báo Brazil[i] Diario Oficial da Uniao,[/i] chương trình có tên gọi “Sám hối qua đọc sách” sẽ được thực hiện ở bốn nhà tù liên bang Brazil.
Cứ mỗi quyển sách đọc, mỗi tù nhân sẽ được giảm bốn ngày tù giam. Mỗi năm họ được đọc 12 quyển sách, như vậy một tù nhân có thể giảm được 48 ngày tù mỗi năm.
Danh mục sách rất đa dạng: tù nhân có thể chọn từ tủ sách văn học nghệ thuật tới sách triết hay khoa học mà thư viện nhà tù có sẵn. Mỗi quyển sách họ được cho từ 21-30 ngày đọc. Sau đó mỗi tù nhân phải viết một tiểu luận để các chuyên gia đánh giá. Nếu bị phát hiện đạo văn hoặc copy, họ sẽ mất quyền tạm gọi là “đổi tù lấy sách” này. Thỉnh thoảng, nhà tù có thể tổ chức hội thảo để các tù nhân trao đổi với nhau về những quyển sách đã đọc…
Hiện có tổng cộng 513.000 người đang ngồi tù ở Brazil. Trong số này, căn cứ một thống kê năm 2005 thì tới 70% chưa học xong trung học.(*)
Như thế Brazil đã sử dụng nhu cầu trí thức để cải hóa, hướng thiện tù nhân, giúp họ thoát khỏi sự u mê tăm tối, nơi quyền lực sự dữ tha hồ thao túng.
Có lẽ họ bắt chước Chúa Giêsu ngày xưa, đã dùng nhu cầu lương thực để hướng dân chúng lên nhu cầu tâm linh.
Sống Tạm
Sau khi được ăn bánh và cá no nê thừa mứa, dân chúng hoan hỷ đồng lòng tôn Chúa Giêsu lên làm vua, khiến Người phải tránh mặt. Nhưng họ đâu đã chịu bỏ cuộc, tiếp tục tìm kiếm Người.Cương trực và nhanh nhạy, Chúa Giêsu không ngại lật tẩy:”Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. (Ga 6, 26)
Những tù nhân ở Brasil nói trên đã chấp nhận đổi tri thức lấy tự do. Tuy cũng chỉ sống trong cõi tạm, họ cũng phải quyết tâm trau dồi trí dục, để được sống xứng đáng nhân phẩm. Điều đó có thể giúp cho tín hữu thấu hiểu, cũng phải trả giá thế nào để được sống mãi, phải cố gắng thế nào để đạt được nguyện ước này.
Sống Mãi
Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến ý nghĩa của dấu lạ qua việc hóa bánh ra nhiều, mà dân chúng không chịu nhận ra. Người chính là tấm bánh không hư nát, là lương thực cho cuộc sông đời đời. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Ðấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu”.( Ga 6, 27)
Người ân cần chỉ dạy cho dân chúng biết tìm đâu để được sống mãi:”Thật, Ta bảo thật các ngươi, không phải Môsê đã ban cho các ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì bánh của Thiên Chúa phải là vật tự trời xuống, và ban sự sống cho thế gian”.(Ga 6, 32)
Mặc dù mẩu đối thoại giữa Chúa Giêsu và dân chúng không được tương đắc, nhưng lại phản ảnh hai quan điểm hoàn toàn mâu thuẫn. Dân chúng thì cứ muốn tìm của ăn hư nát cho cuộc sống tạm, trong khi Chúa cố gắng kêu gọi người ta lo tìm kiếm bánh bởi trời đích thực để sống mãi.
Lạy Chúa Giê su, xin cho con luôn quan tâm nuôi dưỡng linh hồn hằng ngày bằng Bánh Bởi Trời, bằng chính Thánh Thể qua thánh lễ, để được sống mãi.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con gắn bó mật thiết với Chúa luôn, dù gặp trở ngại, gian khó, vẫn mãi trung thành với Đấng Cứu Độ, để hưởng phúc muôn đời cùng Mẹ. Amen.
(*) MINH THƯ, Brazil: “Đổi tù lấy sách” (Theo Reuters) TTCT08/07/2012,

44. Chuyện hai bên bờ biển hồ
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Cửa hàng thức ăn nhanh McDonalds ở quận 1, Sàigòn tổ chức chương trình phát những phần ăn nhanh miễn phí, diễn ra từ 20 giờ tối 23-3-2015 đến 20 giờ tối 24-3. Quà tặng bao gồm một phần bánh burger, khoai tây, nước ngọt và áo thun. Người tham gia nhận quà phải đi xe máy hoặc xe đạp, xếp hàng để đến quầy bán thức ăn của cửa hàng.
Nằm trong chuỗi sự kiện này, trưa nay, 24-3, cửa hàng tiếp tục phát những phần ăn miễn phí cho khách hàng, kèm theo đó là chương trình cơn mưa đồ chơi gồm huy hiệu, râu giả, mắt kính… được ban tổ chức ném từ sân thượng cửa hàng cho người chơi nhặt lấy. Rất nhiều người không ngại trưa nắng đã đứng chờ hàng giờ trước cửa hàng để được nhận quà miễn phí, nhưng rất lâu vẫn chưa đến lượt. Thỉnh thoảng trong đám đông xuất hiện nhiều đợt cãi vã chen lấn, khiến lực lượng bảo vệ phải đến can thiệp. Nhiều người mặt đỏ gay, mệt mỏi khi đứng đợi chờ trong khói xe, nắng nóng. Đoạn đường bên ngoài cũng xảy ra tình trạng ùn tắc vì số người chờ đợi tràn ra cả ngoài.
Khoảng 11 giờ 30, trong lúc dòng người đang xếp hàng, những món đồ chơi từ trên cao ồ ạt rơi xuống. Cảnh hỗn loạn diễn ra, nhiều người vứt xe máy, xe đạp ùa vào tranh nhau lấy quà. Anh Trần Hữu, ngụ quận Bình Thạnh, nói: “Tôi không đồng tình cách làm của cửa hàng khi ném đồ chơi xuống để mọi người giành, giẫm nhau để nhận quà. Sao không tặng kèm trong gói thức ăn?” Đại diện cửa hàng trên cho biết đây là hoạt động mang tên “I’m lovin’ it” nhằm kết nối 24 thành phố trên khắp thế giới có cửa hàng McDonalds. Đã có trên 16.000 phần thức ăn được phát ra. (Lê Phong, NLĐ, Hàng ngàn người đội nắng nhận thức ăn nhanh, giành giật đồ chơi)
Hình ảnh cả ngàn người rồng rắn, hem hễ dưới trời nắng gắt, chờ được McDonalds phát chẩn, có lẽ phản ảnh được phần nào chuyện ngày xưa dân chúng Do Thái lũ lượt kéo nhau đi tìm Đức Giêsu để được no thỏa.
Nhân chuyện này, ở trong hội đường Capharnaum, Đức Giêsu giảng dạy cho dân chúng về hai thứ lương thực hư nát và trường sinh. Tuy nhiên, phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi ăn cả vạn người vẫn còn quá ấn tượng đối với dân chúng, khiến họ không thể nào suy nghĩ xa hơn, hay cao hơn chiếc bánh lúa mạch và cá muối đậm đà.
Bờ bên này: Lương thực hư nát
Vào thuở lữ hành trong sa mạc, dân Do Thái tuy thoát khỏi ách cai trị hà khắc của Ai Cập, nhưng vẫn còn bị ám ảnh kiếp đọa đầy nô lệ, vong thân, trong suốt cuộc hành trình ròng rã 40 năm. Qua lời khẩn cầu của ngôn sứ Môsê, Thiên Chúa đã ban manna để nuôi sống họ. Hôm qua, dân chúng lại được ăn no, nên hôm nay càng thêm đông người tìm đến với Đức Giêsu. Tuy họ đã cố gắng theo Đức Giêsu, đi sang bờ bên kia Biển Hồ, nhưng tâm hồn vẫn còn nặng lòng với những gì xảy ra ở bờ bên này.
Ở bờ bên này, họ đã được Đức Giêsu đáp ứng nhu cầu thể xác, đã no thỏa, dư đầy bánh và cá. Cho nên, họ tiếp tục tìm kiếm Chúa, đi theo Chúa với nguyện vọng, khát khao, mong đợi có thể hưởng phúc hơn thế nữa. Nhân dịp này, Đức Giêsu đã mượn việc hóa bánh ra nhiều để kín đáo hướng họ lên tầm cao mới, không phải Người chỉ đáp ứng nhu cầu căn bản thể lý, bản năng, mà còn phục vụ nhu cầu tâm linh. Nỗi khao khát muôn thuở của tạo vật muốn tìm về cội nguồn, Đấng Tạo Hóa. Người muốn tâm hồn họ mở rộng, hướng thượng, tân trang, biến đổi, theo bước chân họ khi sang bờ bên kia. Thế nhưng, Người đành phải bất bình thốt lên: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.”
Rồi Đức Giêsu khuyên nhủ họ đừng chỉ làm vì lương thực mau hư nát, mà vì lương thực thường tồn, trường sinh, do chính Người ban tặng. Dân chúng thì vô tình, chỉ đơn sơ hiểu chữ “làm” theo nghĩa đen, nên hỏi lại: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Họ nghĩ Đức Giêsu sẽ kể ra một loạt các việc làm cụ thể, như các thầy luật sĩ, tư tế vẫn thường dạy bảo. Đức Giêsu vẫn nhẫn nại, vắt tắt, ôn tồn trả lời, đó là tin vào Đấng Người đã sai đến. Nhưng với não trạng thực dụng, tham lam, lợi dụng, hưởng thụ, chai lỳ, họ ra điều kiện, thách đố, mới chịu tin Người, yêu cầu Người tiếp tục làm phép lạ, cũng gợi ý Người hãy tiếp tục chiêu đãi họ ăn no nê, như xưa cha ông họ được ăn manna phủ phê.“Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời.”
Quanh đi quẩn lại, dân chúng vẫn lấy cái bụng làm trọng tâm câu chuyện. Họ vẫn chưa thoát ra khỏi bờ bên này dư đầy bánh và cá. Dẫu thế, Đức Giêsu vẫn tiếp tục đào sâu ý nghĩa quan trọng của bánh bởi trời. Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian. Họ liền hớn hở, mừng rỡ cầu xin ngay: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy!”
Bờ bên kia: Lương thực trường sinh
Tuy đang ở cùng không gian là hội đường Capharnaum, nhưng giữa Đức Giêsu và dân chúng vẫn xa cách nhau vời vợi. Đức Giêsu đã sang bờ bên kia, trong khi tâm hồn dân chúng vẫn cố chấp, bảo thủ, đóng đô ở bờ bên này. Cuộc đối thoại cuối cùng bế tắc, vì mâu thuẫn ý tưởng dị biệt hai bên bờ, mặc dù nghe rất xuôi tai, thuận chiều.
Trình thuật Tin Mừng Thánh sử Gioan hôm nay nhắc đến một cơ hội thích hợp cho Đức Giêsu giảng dạy về bánh hằng sống, khi dân chúng vừa chứng kiến phép lạ hóa bánh, đã được ăn no thỏa thuê, bèn kéo nhau tìm đến Người.
“Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn, đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.” Từ chuyện lao động, làm việc mưu sinh, Đức Giêsu nhẹ nhàng chuyển qua thái độ, lẽ sống, ứng xử, tâm hồn, phải linh hoạt làm sao thủ đắc được lương thực thường tồn. Mà lương thực đó do chính Người trao ban. Hơn nữa Người lại được chính Thiên Chúa Cha đóng dấu xác nhận. Với người Do Thái xưa, con dấu, con triện luôn luôn có giá trị cao nhất trong mọi giao dịch trong xã hội.
Để nhận được lương thực thường tồn đó chỉ có cách duy nhất là tin vào Đức Giêsu, nghe theo, tuân giữ và sống Lời Người. Bởi chưng chính Người là Bánh Đem Lại Sự Sống: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”
“Mặt trời sáng và tung tỏa ánh sáng. Thánh Thể là sự sống và nguồn phát xuất sự sống Thần Linh cho nhân loại, sự hòa hợp cho các dân tộc: “Bánh Ta sẽ ban ấy là thịt mình Ta vì sự sống thế gian” (Ga 6, 51) (Đường Hy Vọng, số 361)
Lạy Chúa Giêsu, xưa dân Do Thái được Chúa nuôi bằng manna, nay chúng con vô cùng vinh dự được Chúa nuôi bằng Thánh Thể, bằng chính Máu Thịt Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết ăn năn, sám hối, canh tân hàng ngày, cũng như khao khát, dọn mình xứng đáng để đón rước Chúa ngự vào lòng.
Lạy Mẹ Maria, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã suy tôn Mẹ một danh hiệu mới, là Người Nữ Thánh Thể. Qua lời “Xin Vâng,” Mẹ đã cưu mang và dưỡng nuôi Đức Giêsu trong cung lòng. Mẹ chuyển thông cho Đức Giêsu chính thịt máu Mẹ, cũng là Mình Máu Thánh Chúa. Kính xin Mẹ cầu bầu, cảm hóa và thánh hóa chúng con, để chúng con luôn khát khao tìm đến, tin cậy và đón rước Thánh Thể, hầu được sống viên mãn. Amen.

45. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
CHÚNG TA SỐNG NHỜ SỰ VẬT HAY NHỜ MỘT AI?
Bài giảng về bánh sự sống cho ta thấy một cách đặc biệt sống động một đặc điểm của phúc âm thứ tư. Thánh Gioan đã chuyển những gì Đức Giêsu đã nói trước các thính giả kém cỏi hơn thành những dòng chữ cho thích hợp với các độc giả cuối thế kỷ I. thực tế, những gì Thánh Gioan kể lại, là do Đức Giêsu đã nói thật sự, nhưng với từ ngữ, những công thức, những ráp nối được Thánh Gioan viết lại. Thánh Gioan đã trung thành chuyển đạt lời rao giảng của Đức Giêsu, vì ngài đã viết dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, nhưng chuyển đạt không phải bằng cách thức thâu phát băng nhựa. Với tư cách là một môn đệ trung thành đã suy nghĩ nhiều, ngài đã tiêu hóa lời giảng dạy của Thầy, rồi ngài truyền đạt lại lời giảng dạy này xuyên qua những từ ngữ của riêng ngài, cách thức ngài diễn tả, lề-lối ngài suy tư. Tóm lại ngài vừa là chứng nhân, vừa là người được linh ứng.
Bài giảng về bánh sự sống trình bày ý nghĩa tiềm ẩn trong phép lạ bánh hoá nhiều Đức Giêsu đã muốn cho một dấu hiệu. Ngài đã quyết định làm một công việc với ý muốn chứng minh rằng chính Chúa Cha đã làm công việc này xuyên qua Ngài. Như thế Ngài muốn cho thấy chính Ngài là Đấng đem lại sự sống vĩnh cửu cũng như của ăn cần thiết cho đời sống ấy. Sau Phục Sinh, các Kitô hữu sẽ hiểu rằng của ăn này, bánh sự sống này là Thánh Thể.
Không nhấn mạnh đến lối giải thích Thánh Thể về đoạn văn này, chúng ta hãy xem điều được trình bày như là 1 lời mời gọi chúng ta tin.
1) ‘Chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực’.
Người Do thái vừa mới nhắc đến bánh man-na từ trời xuống. Đức Giêsu lợi dụng cơ hội để cho thấy việc ban bánh man-na kia nay đã bị vượt qua bằng một ơn huệ cao cả hơn vô cùng. Từ một của ăn thuần tuý thể xác, nay người ta đến một của ăn thiêng liêng, của ăn đem lại sự sống đời đời. Bánh từ trời xuống, không phải chỉ là cái gì vật chất. Bánh này là Đấng Chúa Cha ban cho nhân loại, chính là Đức Giêsu Ngài không đến qua trung gian Môsê, Ngài trực tiếp là hồng ân của Thiên Chúa. Ngài đến để ban sự sống cho thế gian và Ngài thật sự là của ăn cho đời sống ấy.
Đời sống thâm sâu của ta làm bằng gì? Của ăn của nó là gì? Chúng ta sống nhờ các sự vật hay nhờ một Con Người? Chân lý của chúng ta là một tổng hợp các ý tưởng hay là một sự dẫn thân cho Đức Giêsu Kitô?
2) ‘Chính Ta là bánh sự sống’.
Trong phúc âm Thánh Gioan, Đức Giêsu đã nhiều lần nói ‘Ta là’. Ngài nói: ‘Ta là ánh sáng, là kẻ chăn chiên nhân lành, là cửa chuồng chiên, là sự sống lại và là sự sống, là cây nho đích thật’. Tất cả những chỉ dẫn trên dưới con mắt của người Do thái đều có giá trị ơn sủng của Thiên Chúa. Đức Giêsu quả quyết rằng chính Ngài, hôm nay là ơn huệ đích thật và vĩnh viễn của TC.
Khi nói: ‘Ta là bánh sự sống, chỉ một mình Ta là bánh sự sống’. Đức Giêsu biết Ngài sẽ gây ra việc hiểu lầm, cứng lòng tin và ngay cả sự vấp phạm. Thật vậy, cách nói ‘Ta là’ khi nói đến bánh sự sống, ánh sáng… gợi lên trong não trạng các thính giả Do thái một ý tưởng tuyệt đối. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể nói ‘Ta là’. Con người chỉ có thể nói: tôi là người này, người nọ, nhưng không ai có thể nói: Ta là bánh, là ánh sáng, là sự thật, là sự sống. Nhưng đó lại là điều Đức Giêsu làm. Một quả quyết như thế gây ra vấp phạm hoặc niềm tin. Chúng ta được may mắn thuộc thành phần những kẻ đáp lại bằng niềm tin.

46. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
LƯƠNG THỰC CHÚA BAN CHO CON NGƯỜI
A. DẪN NHẬP
Thiên Chúa hằng quan tâm săn sóc con người. Phép lạ hoá bánh ra nhiều của tuần trước đã chứng minh điều đó. Còn hơn thế nữa, trong bài 1 hôm nay, sách Xuất hành còn nhắc lại việc Thiên Chúa ban manna từ trời rơi xuống nuôi dân Do thái suốt quãng đường đi về Đất hứa. Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu cho dân Do thái biết manna mà Thiên Chúa ban cho cha ông họ trong sa mạc chưa phải là bánh thật mà chỉ là biểu tượng cho thứ bánh mà Thiên Chúa sẽ ban cho loài người. Bánh thật ấy là bánh hằng sống. Đức Giêsu đã khẳng định rằng bánh ấy chính là Ngài, khi Ngài nói với họ: ”Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói. Ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”(Ga 6,35).
Con người có nhiều khát vọng cần được thỏa mãn, mà khát vọng đầu tiên là thỏa mãn cơn đói khát của thể xác. Ngoài ra, còn những khát vọng khác của tinh thần như nhu cầu được hiểu biết, được bảo vệ, được quan tâm, được thông cảm… Nhưng nhu cầu căn bản và sâu xa nhất là tình yêu. Thánh Gioan nói: ”Thiên Chúa là Tình yêu”(1Ga 4,16). Thiên Chúa là nguồn tình yêu, mọi tình yêu phải phát xuất từ Ngài, chỉ có Ngài mới thỏa mãn được nhu cầu ấy. Ai được yêu là được sống trong hạnh phúc, mà hạnh phúc thật và trường cửu chỉ có ở trong Thiên Chúa.
Ai muốn được trường sinh và hưởng hạnh phúc thật thì phải dùng lương thực trường sinh, mà lương thực trường sinh chính là Đức Giêsu như Ngài nói: ”Ta là bánh ban sự sống”(Ga 6,35). Ta hãy tìm lương thực trương sinh ấy trong Lời Chúa và Thánh Thể. Đấy là lương thực thần linh nuôi sống con người trong cuộc hành trình đi về quê trời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
Bài đọc 1: Xh 16,2-4.12-15: Đây là trình thuật được viết sau cuộc lưu đầy nói lên những thử thách mà dân Chúa phải chịu đựng trong sa mạc. Dưới sự hướng dẫn của Maisen và Aaron, dân Do thái đã từ giã Ai cập về Đất hứa. Họ phải vượt qua sa mạc khô cằn của núi Sinai. Sa mạc cũng là nơi thử thách, mà một trong những thử thách lớn nhất đối với họ là đói, không có thức ăn.
Họ đã kêu trách ông Maisen vì đã đem họ vào sa mạc này để bị chết đói. Họ muốn trở lại Ai cập. Nhưng Thiên Chúa đã can thiệp, Ngài cho manna từ trời rơi xuống để làm bánh và cho chim cút sà xuống để làm thức ăn trong suốt 40 năm trời trong sa mạc. Khi dân được hưởng hoa mầu nơi Đất hứa thì manna chấm dứt.
Qua phép lạ manna này, người Do thái đã biết nhìn nhận trong những hiện tượng tự nhiên sự biểu lộ lòng ân cần săn sóc của Thiên Chúa đối với họ và lương thực họ dùng hằng ngày là do Chúa ban.
Bài đọc 2: Ep 4,17-24: Thánh Phaolô khuyên nhủ các tín hữu Êphêsô hãy từ bỏ “con người cũ” mà mặc lấy “con người mới”. Giáo huấn của Ngài dựa trên phép Thánh Tẩy, vì khi chịu phép rửa tội là chúng ta đã chết cho tội lỗi, giết bỏ con người cũ mà mặc lấy con người mới theo tinh thần Đức Kitô.
Ngài khuyên các tín hữu một khi đã theo Đức Kitô thì phải từ bỏ nếp sống cũ và tinh thần cũ như hồi còn là dân ngoại. Thay vào đó, hãy mặc lấy con người mới theo tinh thần mới và cách sống như Đức Kitô: ”Anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, để thực sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,24).
Bài Tin mừng: Ga 6,24-33: Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng rất hồ hởi và hy vọng. Hôm sau, họ đến với Đức Giêsu rất đông, hy vọng kiếm được của ăn ít ra cũng dồi dào như manna, xưa đã nuôi sống cha ông họ trong sa mạc suốt thời gian đi về Đất hứa.
Nhưng Đức Giêsu muốn hướng họ lên cao hơn một bước, Ngài mời họ trước hết hãy tìm kiếm lương thực không hư nát, là thứ tồn tại cho đến cuộc sống vĩnh hằng: ”Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh”(Ga 6,26)
Họ tưởng lương thực mà Đức Giêsu nói đây là manna ngày xưa cha ông họ đã ăn trong sa mạc. Nhưng Đức Giêsu bác bỏ quan niệm của họ và nói rõ ràng hơn: ”Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta không hề phải đói. Ai tin vào Ta chẳng khát bao giờ”(Ga 6,35).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Hãy tìm lương thực trường sinh
I. ĐI TÌM LƯƠNG THỰC CHO CUỘC SỐNG.
1. Điều Đức Giêsu muốn dạy ta.
Sau phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giêsu và các Tông đồ bỏ đảo Zénézareth trở về Capharnaum, nhưng Đức Giêsu không đi cùng thuyền với các Tông đồ vì Ngài còn lên núi cầu nguyện một mình (Ga 6,15). Dân chúng thấy rõ Đức Giêsu không đi trên thuyền đó, nên họ đổ xô đi tìm Ngài. Khi về tới Capharnaum gặp Chúa, họ hết sức ngạc nhiên vì gặp Ngài ở đó rồi: ”Lạy Thầy, Thầy đến đây bao giờ” ? Một câu hỏi đơn sơ, tỏ lòng tha thiết với Chúa và muốn biết Ngài đến đây bằng cách nào.
Đức Giêsu không trả lời câu hỏi ấy, mà nhân cơ hội này Ngài giảng cho họ một bài về Bánh hằng sống. Bài này cốt nâng cao tư tưởng thính giả lên bên trên những lo lắng vật chất. Đức Giêsu biết rõ, dân chúng chỉ đến với Ngài sau khi được ăn bánh no nê. Và phép lạ làm cho bánh hoá nhiều làm cho người ta nghĩ rằng: đã đến thời lập lại nước Israel, đời sống sẽ phú túc. Bài này có ý cải chính ý tưởng đó.
Điều Đức Giêsu muốn là đưa họ đi xa, đưa họ lên cao hơn những điều họ thấy trước mắt: Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Ngài sai đến, tức tin vào Ngài là Đấng vừa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn. Nhưng như thế vẫn chưa hết, vì Đức Giêsu còn muốn làm cho người Do thái nhận ra rằng Ngài không chỉ có thể làm cho bánh hoá nhiều để duy trì sự sống vật chất của con người, mà Ngài còn có thể ban chính sự sống cho con người, không chỉ là sự sống thể xác mà cơm bánh lương thực tạo nên, mà còn sự sống thần linh, sự sống vĩnh cửu mà chỉ một mình Thiên Chúa mới ban được cho con người: ”Chính Ta là Bánh trường sinh, ai đến với Ta, không hề phải đói. Ai tin vào Ta, chẳng hề khát bao giờ”(Ga 6,35).
Đức Giêsu là bánh trường sinh. Bánh trường sinh ban sự sống trường sinh. Những ai ăn bánh trường sinh thì không còn phải đói khát bao giờ nữa vì được no thỏa tâm hồn. Nhưng sự sống trường sinh là gỉ ? – Sự sống trường sinh là nhận biết Đức Giêsu là Đấng đến từ Thiên Chúa, là sự sống của Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống của Thiên Chúa cho những ai muốn đón nhận. Sự sống trường sinh là sự sống của ”con người mới” tức con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, được dạy dỗ theo tinh thần của Đức Kitô. Cụ thể đó là con người thực sự sống công chính và thánh thiện (bài đọc 2).
2. Sự đói khát triền miên của con người.
Đức Giêsu nói với họ: ”Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”(Ga 6,26). Đức Giêsu nói chuyện với những người nông dân vùng Galilê đang vất vả để kiếm sống. Họ biết đói khổ là thế nào khi họ miệt mài làm việc để mùa thu hoạch có kết quả tốt. Đức Giêsu dựa vào một nhu cầu vật chất của thính giả làm khởi điểm, đó là những biểu tượng thông thường: đói, khát, bánh, nước…
Chúng ta có thể đặt ra câu hỏi: nếu một người giầu có đầy đủ: gia đình, nghề nghiệp, lợi tức, chức quyền, danh vọng… nhưng họ vẫn thấy còn thiếu cái gì nữa chăng ? Nếu chúng ta trả lời rằng “CÓ” thì các bài đọc Kinh thánh hôm nay là một sứ điệp quan trọng cho chúng ta. Chúng nhắc cho chúng ta một điều chúng ta thường hay bỏ quên, đó là: Trên thế giới này có hai loại đói: trước hết là đói khát thể lý mà chỉ đồ ăn thức uống mới có thể thỏa mãn được. Thứ đến là đói khát thiêng liêng mà không thực phẩm nào trên trần gian này có thể thỏa mãn được.Nói cách khác, dầu chúng ta có giầu có hoặc thành công đến đâu đi nữa, chúng ta vẫn cảm thấy nơi thâm sâu lòng mình một cơn đói khát khó có thể bầy tỏ được.
Đối với con người nếu chỉ nhằm thoả mãn những nhu cầu về thể xác thì càng cảm thấy thiều thốn vì nhu cầu đẻ ra nhu cầu, nhu cầu này nối tiếp nhu cầu kia làm cho người ta luôn tìm kiếm mà không bao giờ được thỏa mãn.
Truyện: Hoàng đế Tần thủy Hoàng.
Tần thủy Hoàng của nước Tầu đã sống trước Chúa Giáng sinh 200 năm. Ông tự phong là “Nhất Thế”, nghĩa là vô địch nhất thế gian này, về đức độ hơn cả Tam Hoàng, có công hơn cả Ngũ Đế là những vị vua có công lập quốc, kiến quốc nhất của Trung hoa. Tần thủy Hoàng còn muốn trường sinh trẻ mãi, nên đi tìm đủ mọi danh y, pháp thuật, bói toán, chỉ dẫn cho uống thuốc, tập luyện và sai quần thần đi khắp nơi tìm thuốc trường sinh, với bất cứ giá nào, dù phải vượt biển Đông hão huyền cũng phải đi tìm, dù phải khổ luyện đến chết, vẫn nhắm mắt theo. Đồng thời, ông lại lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga, rộng lớn chín dặm vuông vức, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân hà, lấy vàng bạc xây tường và chôn sống hàng trăm cung nữ vây quanh nhà mồ của ông… Quả thực, Thủy Hoàng chỉ làm vua hơn chục năm và sống hơn năm mươi tuổi (Vũ Khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, nămB, tr 155).
3. Thỏa mãn sự đói khát của con người.
Dân chúng hỏi Đức Giêsu rằng: ”Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa”. Đức Giêsu đáp lại: ”Đây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Người sai đến” Ở đây bắt đầu một mặc khải lạ lùng. Lương thực cốt yếu mà con người đói khát, đó chính là Đức Giêsu! Một quyết đáp có vẻ táo bạo và điên rồ, nhưng đã được kiểm chứng hàng triệu lần từ 2000 năm qua. “Anh em hãy tin”. Đó là công trình của Thiên Chúa nơi chúng ta. Tin, có đức tin, đó là làm việc với Thiên Chúa, là cộng tác với Thiên Chúa Đấng muốn ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu của Ngài.
Đức Giêsu vừa đưa ra một tuyên bố quan trọng. Ngài bảo rằng công việc đích thực của Thiên Chúa là tin Ngài. Người Do thái nói: Hay lắm, quả thật đây là lời tuyên xưng mình là Đấng Messia, vậy ông hãy chứng minh đi…
Bấy giờ họ vẫn còn nghĩ đến việc Chúa hóa bánh cho đám đông ăn, nên điều không tránh được là họ liên tưởng ngay đến manna trong sa mạc. Họ kết hợp hai việc đó thật dễ dàng. Manna vẫn được xem như bánh của Thiên Chúa (Tv 77,24; Xh 16,15). Trong Do thái giáo, có một niềm tin mạnh mẽ rằng: khi Đấng Messia đến, Ngài sẽ lại ban manna. Việc ban manna được cho là việc tối quan trọng trong cuộc sống của Maisen, mà Đấng Messia thì còn phải hơn thế nữa. Vị cứu tinh đầu tiên thế nào thì vị cuối cùng cũng phải như thế. Vị cứu tinh đầu tiên đã khiến manna từ trời rơi xuống thế nào, thì vị cứu tinh thứ hai cũng phải khiến được manna từ trời rơi xuống thể ấy.
Như vậy, dân Do thái đang thách thức Đức Giêsu hãy khiến bánh từ trời xuống để hậu thuẫn cho lời tuyên bố của Ngài. Họ không chịu xem số bánh cho 5000 người vừa được ăn là bánh từ Thiên Chúa đến. Ban đầu nó vốn là bánh của trần gian. Theo họ, manna phải khác hẳn, và đó là trắc nghiệm cho Đức Giêsu.
Câu trả lời của Đức Giêsu gồm hai phương diện. Trước hết, Ngài nhắc họ rằng, không phải Maisen đã cho họ ăn manna, mà là Thiên Chúa. Thứ hai, Ngài bảo họ: manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, mà chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người không chỉ sự no đủ về phương diện thể xác nhưng là sự sống. Đức Giêsu tuyên bố rằng sự thỏa mãn duy nhất là ở trong Ngài.
II. ĐI TÌM LƯƠNG THỰC TRƯỜNG SINH.
1. Phải hướng tâm hồn lên.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng đưa ra một lời chê bai những người tìm đến với Ngài khi Ngài nói:”Các ông tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Đức Gêsu biết rõ tâm tư của họ, họ đến với Ngài chỉ vì muốn được ăn bánh no nê như đã được ăn hôm trước. Dĩ nhiên, việc ăn uống nuôi thể xác là một điều cần thiết, ai lại không phải ăn ? Nhưng Đức Giêsu muốn nói với họ là ngoài sự đói khát vật chất và thể lý còn có sự đói khát thuộc tinh thần và tâm linh nữa. Và Chúa đã đưa ra cho họ một lời khuyên:”Các ông hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”.
Truyện: Napolén có đôi mắt sáng.
Một hôm, Napoléon, vị hoàng đế có một đôi mắt rất sáng, nói chuyện với một người bạn của ông, người này thì lại có một đôi mắt rất kém. Hai người nói chuyện với nhau về sự đời, bên cạnh một cửa sổ. Bất chợt, Napoléon chỉ tay lên trời, một bầu trời đầy sao, đang phát ra những ánh sáng lập lòe, và hỏi người bạn:
– Anh có thấy những ngôi sao ở trên trời kia không ?
Người bạn trả lời:
– Không, mắt tôi kém lắm rồi, tôi không thấy gì cả.
Napoléon nói:
– Đó là sự khác biệt giữa anh và tôi.
Rồi Napoléon nói tiếp:
– Những người nhìn mầu trời đen mà không thấy gì thì mới sống được nửa cuộc đời mà thôi. Muốn sống trọn cả cuộc đời, thì phải thấy được những ngôi sao giữa bầu trời đen.
Lời nhận xét trên đây của Napoléon là một lời gián tiếp chê bai người bạn của ông có đôi mắt kém (Phạm Văn Phượng).
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng gián tiếp chê bai những người đến với Ngài không phải vì đã chứng kiến các dấu lạ mà chỉ muốn được ăn no nê. Họ chỉ biết thỏa mãn những gì thuộc thể xác, còn những gì cao hơn họ không để ý tới. Như vậy, theo như Napoléon, họ mới sống được nửa cuộc đời mà thôi.
2. Những khát vọng của con người.
Con người sống trên trần gian này có rất nhiều khát vọng cần được thỏa mãn. Khát vọng đầu tiên là được thoả mãn cơn đói khát thể xác. Cái ăn cái uống là những nhu cầu vật chất khẩn thiết làm cho thể xác được bảo toàn và tăng trưởng. Người Tây phương có một câu ngạn ngữ nói về nhu cầu đó: ”Manducare priusquam philosophare”: ăn đã rồi muốn nói gì thì nói. Người Việt nam chúng ta cũng có tư tưởng ấy được gói ghém trong câu tục ngữ: ”Dĩ thực vi tiên”: cái ăn phải đứng đầu.
Ngoài những nhu cầu vật chất, người ta còn có những khát vọng tinh thần cần được thỏa mãn: nhu cầu hiểu biết, cần được tôn trọng, cần được quan tâm, cần được thông cảm…. Tuy nhiên, con người còn có một khát vọng căn bản và sâu xa nhất, đó là khát vọng tình yêu. Đó là khát vọng sống đời đời. Nói cách khác, đó là khát khao Thiên Chúa. Cảm nghiệm được khát khao này không phải là một bất hạnh mà là sự chúc lành. Thánh Gioan nói:”Thiên Chúa là tình yêu”. Chính Chúa là hạnh phúc, ai được yêu mến là sống trong hạnh phúc. Nhiều người muốn được hạnh phúc mà không biết cách tìm, họ tìm hạnh phúc ơ nơi tạo vật mà bỏ quên Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc, cho nên họ đã thất bại. Thay vì tiến tới hạnh phúc, họ chỉ đạt tới những bất hạnh vì họ đã đi trệch đường.
Truyện: Kinh nghiệm của một người.
Tại Pháp, có một thương gia rất giầu, phương châm sống của đời ông là làm tiền, ăn nhậu và chơi bời. Nhưng chẳng bao lâu ông bị bệnh trầm trọng: thần kinh chỉ huy thanh quản bị tê liệt, làm ông bị câm. Trên giường bệnh, ông luôn thở dài chán nản. Cuối cùng, trước khi chết, ông ghi một hàng chữ và truyền khắc nó trên bia mộ của ông:”Đây là người dại dột, đã sống mà không biết sống. Hỡi những người đang sống, chớ gì sự vô phúc của kẻ khác mở mắt các ông”.
3. Khát vọng được lấp đầy.
Đức Giêsu nói: ”Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian”. Đức Giêsu khẳng định mình là bánh từ trời xuống để ban sự sống cho thế gian: ”Ta là bánh hằng sống”. Linh hồn chúng ta phải có của ăn mới sống được, mà của ăn ấy chính là Đức Kitô: ” Chính Ta là bánh ban sự sống ai đến với Ta sẽ không hề đói. Ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”.
Chúng ta đã được tạo dựng cho Thiên Chúa. Dù muốn dù không, cơn đói của chúng ta chính là đói Thiên Chúa. Tiên tri Isaia đã nói: ”Tại sao phí tiền vào những của không làm no bụng”. Thánh Augustinô đã thú nhận rằng: ”Lạy Chúa, tâm hồn con không nghỉ yên khi nó chưa được an nghỉ trong Chúa”. Vâng, tâm hồn chúng ta rất rộng lớn đến nỗi không gì có thể lấp đầy được, ngoài một mình Thiên Chúa mà chúng ta được dựng nên vì Ngài.
Vậy sứ điệp trong các bài Kinh thánh hôm nay gửi đến cho chúng ta như sau: Tận thâm tâm mỗi người chúng ta đều ẩn chứa một cơn đói khát sâu xa mà chỉ một mình Đức Giêsu mới có thể thoả mãn. Sứ điệp này đã mang lại ý nghĩa mới cho hàng triệu người và nó cũng mang lại cho cuộc sống chúng ta một ý nghĩa mới miễn là chúng ta chấp nhận nó.
4. Hãy sống bằng bánh trường sinh.
Khi người Do thái nói với Chúa: ”Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy”. Đức Giêsu bảo họ: ”Chính Ta là Bánh trường sinh” Bánh trường sinh mà Đức Giêsu ban cho chúng ta, chính là Lời Chúa và Thánh Thể.
* Lời Chúa: Chúng ta thấy quan niệm cho rằng Lời Chúa, giới răn Chúa là thức ăn thiêng liêng bồi dưỡng cho con người, cao qúi hơn thức ăn thông thường đã có trong Cựu ước. Ví dụ tiên tri Amos đã nói: ”Sắp tới những ngày, Ta sẽ cho nạn đói đến trong xứ, không phải đói bánh, không phải khát nước, mà là đói khát nghe Lời Chúa”(Am 8,11).
Tiên tri Giêrêmia cũng khát Lời Chúa: ”Khi nghe Lời của Ngài, tôi đã ăn ngấu nghiến. Lời Chúa là sự vui sướng hạnh phúc cho lòng tôi”(Gr 15,16).
* Thánh Thể: Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói rõ: ”Ta bảo thật các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”. Chúa khêu gợi sự tò mò và chú ý của dân chúng để họ nghĩ đến một của ăn bí nhiệm mà Con Người sẽ ban cho họ… một thứ manna đích thực “từ trời xuống và ban sự sống cho thế gian”. Nhưng họ không hiểu hay không muốn hiểu. Ngài kết luận: ”Chính ta là bánh ban sự sống, ai đến với Ta sẽ không hề đói. ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”. Chúa đến để nuôi sống linh hồn chúng ta.

47. Dấu chỉ tình thương
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong trận nội chiến ở Tây Ban Nha, một anh lính bị thương nặng được đưa về bệnh viện dã chiến. Anh có hy vọng sẽ được bình phục. Nhưng anh nhất định không chịu ăn uống gì cả. Các y tá đã tìm mọi cách thuyết phục nhưng anh vẫn từ chối mọi thức ăn đem tới. Một người bạn thân biết được ý anh muốn được gặp mặt cha mẹ, nên tình nguyện đi tìm nhà của anh bạn thương binh để báo tin cho cha mẹ anh đến thăm. Khi người cha chuẩn bị lên đường thì mẹ anh gói cho con bà một ổ bánh. Anh thương binh vui mừng vì được gặp mặt cha mình, nhưng anh vẫn chưa chịu ăn. Khi cha lấy từ trong túi xách gói bánh và nói: “Này con, đây là ổ bánh mẹ con đã làm”. Anh thương binh liền bật dậy tươi nét mặt thốt lên: “A! bánh mẹ con làm, cho con ăn một miếng đi!” Từ đó anh mới chịu ăn lại và cũng bắt đầu bình phục.
Thưa anh chị em,
Không có phù phép nào trong tấm bánh của người mẹ. Nhưng có tình yêu là phép mầu. Bởi kinh nghiệm, anh biết rằng tấm bánh mẹ anh làm gói ghém bao tình yêu thương mà mẹ dành cho anh. Cũng thế, tấm bánh Chúa Giêsu phân phát cho đám đông dân chúng ăn no nê là dấu chỉ lòng thương yêu của Thiên Chúa đối với dân chúng đang đói. Đáng lý ra họ phải nhận ra Thiên Chúa, nhận ra tình thương của Ngài qua tấm bánh mà họ nhận được, chứ không đòi hỏi cái gì khác nữa. Nhưng đàng này, sự cứng lòng và đam mê vật chất đã khiến họ không thể nhận ra mối tương quan giữa tấm bánh và con người làm ra bánh hay nhân ra bánh nhiều, cũng chẳng nhận ra ý nghĩa của việc Chúa bẻ bánh và chia sẻ cho họ ăn no: Ngài đã chia sẻ tấm bánh đó như là biểu tượng của chính Thân Thể Ngài sẽ bị bẻ ra, tan nát, bầm dập trong cuộc khổ nạn và phục sinh. Vì thế, Chúa Giêsu phải nói thẳng với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Thì ra, họ chạy theo Chúa Giêsu chỉ vì cơm bánh chứ không phải vì tin Chúa Giêsu là Bánh đích thực ban sự sống đời đời. Dấu lạ bánh mời gọi niềm tin, chứ không phải để tin thì cần phải có dấu lạ. Chẳng hạn, những người con biết nhận ra mồ hôi nước mắt, công lao của cha mẹ trong miếng cơm mình ăn, sẽ chẳng bao giờ đòi hỏi những món ăn đặc sản, ngon miệng, đắt tiền, mới tin vào tình thương của cha mẹ. Bởi vì họ đã tin vào tình thương của cha mẹ rồi, và chính nhờ niềm tin đó mà họ đón nhận chén cơm thanh đạm với tất cả niềm tri ân. Trái lại, những người con suốt đời chỉ biết đòi hỏi hết ăn ngon đến mặc đẹp, thì chẳng bao giờ thấy được tình thương của cha mẹ, cho dù cha mẹ có đáp ứng những đòi hỏi của họ tới mức nào đi nữa. Bởi vì cái họ yêu, các họ tìm, không phải là cha mẹ, nhưng là cơm áo và của cải vật chất.
Không phải tấm bánh làm ra tình thương, mà chính tình thương làm ra tấm bánh. Thế giới chúng ta ngày ngay thực ra đã không thiếu và không bao giờ thiếu cơm bánh, nhưng thiếu tình thương, nên bánh đã không được bẻ ra cho hết mọi người hay nói đúng ra, người ta chỉ bẻ ra cho những người sẵn sàng làm nô lệ cho họ: bánh cho người nô lệ thì có, nhưng bánh của tình thương dành cho những con người tự do thì không. Chúa Giêsu đã cho chúng ta thứ bánh của tình thương. Thứ bánh của tự do, khi Ngài bẻ bánh phân phát cho người ta và dặn dò: “Anh em phải ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”. Người Do Thái sẵn sàng làm nô lệ, miễn sao bụng được ăn no, nhưng Chúa Giêsu thì lại muốn cho con người được tự do, nên Ngài đã từ chối không làm phép lạ cho bánh từ trời rơi xuống, mà chỉ cho nhân loại thứ bánh của niềm tin, đó chính là bản thân Ngài: “Chính Tôi là Bánh Trường Sinh, ai đến với Tôi, không hề phải đói, ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.
Anh chị em thân mến,
Đói khát, đó là thảm trạng và là nỗi ám ảnh thường xuyên nhất của nhân loại cho đến hôm nay. “No, đủ” vẫn là giấc mơ của hàng trăm triệu con người… Trước khi nói đến Bánh Hằng Sống, Chúa Giêsu đã chạnh thương đám dân nghèo khổ đi theo Ngài, họ đói, họ không có bánh ăn: “Anh em hay cho họ ăn đi” (Mc 6,37). Lời này mời gọi chính chúng ta hãy cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống. Và khi đã khởi sự cảm thông, chia sẻ cơm bánh với họ. Ngài đã cảm thông và chia sẻ, nhưng không chỉ dừng lại ở đó. Ngài đã mạc khải cho họ chân lý về Bánh Hằng Sống, nhưng không hề lãng quên, hay nhắm mắt trước cơn đói đang dày vò họ. Đó là hai khía cạnh gắn liền với nhau không thể tách rời hoặc thiếu một trong hai trong đời sống đạo của chúng ta.
Trên một bình diện khác, bình diện nhân linh, đói khát quả thực là một đặc tính riêng biệt của con người, nếu hiểu đói khát là khả năng khai mở, tiếp nhận, khát vọng, thì thực sự không có điều gì có thể lấp đầy nỗi khao khát vô hạn của con người. Vì tự thân con người đã làm một “khao khát vô biên”, “khao khát tuyệt đối”, và chỉ con người mới có khả năng đó. Thánh Augustinô đã nói lên điều này một cách thấm thía từ kinh nghiệm sống của Ngài: “Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và tâm hồn con còn thao thức mãi cho tới khi được an nghỉ trong Chúa” (Tự thuật). Chúa Giêsu hẳn muốn khơi dậy nơi chúng ta niềm khao khát này khi Ngài nói: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho anh em” (Ga 6,27).
Anh chị em thân mến,
Nếu sự đói khát là một mối phúc trong tám mối phúc thật: “Phúc cho người đói khát sự công chính”(Mt 5,6) thì phải chăng, “không biết đói khát”, tự mãn với chính mình, không còn muốn nâng cao khát vọng của mình, là một “mối hoạ” không những cho bản thân mà còn cho gia đình và cho cộng đồng nhân loại.
“Chính Tôi là Bánh Hằng Sống”: Khẳng định long trọng của Chúa Giêsu không một chút mông lung, mơ hồ. Một ý tưởng, một lý tưởng hay lý thuyết thì có thể mơ hồ, nhưng một con người có danh xưng cụ thể thì không. Bánh sự sống, lương thực đem lại sự sống và là sự sống vĩnh cửu, bất hoại, chính là bản thân Chúa Giêsu. Và để đón lấy một con người, một Đấng làm sự sống và lẽ sống cho mình, thì “công việc” phải làm là “đến với” và “tin vào” Ngài. Vì thế kẻ đến nhận lãnh “Lời Hằng Sống” và “Bánh Sự Sống” khác nào người được đưa vào “kho tuý luý yêu thương”- như kiểu nói của Thánh Basiliô- “Lạy Chúa là thức ăn, thức uống của con. Càng ăn, con càng đói; càng uống, con càng khát; càng sở hữu, con lại càng ước ao”.
“Đến với” và “tin vào”, khao khát và no thoả. Đó là hành trình của tình yêu, một hành trình vô giới hạn, không cùng, là sự cất cánh của tình yêu càng lên cao, càng lên cao mãi không thôi… Mỗi lần rước lấy Tấm Bánh Hằng Sống chúng ta phải cảm nghiệm được Chúa Giêsu như tâm điểm luôn thu hút chúng ta đến với Ngài và đến với nhau, làm cho tất cả nên một, một tấm bánh duy nhất: Bánh của tình thương.

48. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
BÁNH SỰ SỐNG PHẢI CHĂNG LÀ LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY?
Như bài chia sẻ tuần trước đã nhận định, chu kỳ Phụng Vụ Năm B theo Phúc Âm Thánh Marcô, sẽ được chuyển sang Thánh Gioan 5 tuần liền, kể từ tuần vừa rồi. Và trong bài Phúc Âm tuần trước, Thánh Ký Gioan cho chúng ta thấy Chúa Giêsu chẳng những lo phần hồn cho con người mà cả phần xác của họ nữa, bằng cách hóa nhiều 5 ổ bánh lúa mạch và 2 con cá khô. Tuần này, cũng qua Thánh Ký Gioan, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho chúng ta biết ý nghĩa siêu nhiên thực sự của bánh ăn cũng như của việc ăn bánh. Theo ý của Chúa Giêsu thì bánh ăn đây là gì và việc ăn bánh là chi? Nếu Bánh hằng sống đây là chính bản thân Chúa Kitô thì việc ăn bánh đây còn gì khác ngoài việc tin vào Người, và Thiên Chúa ban Bánh bởi trời là Chúa Kitô cho con người còn muốn gì hơn là muốn cho con người tin vào Con của Ngài mà được sự sống. Câu cuối cùng của bài Phúc Âm hôm nay đã chứng thực nhận định trên đây: “Chính Tôi là Bánh Sự Sống. Không ai đến cùng Tôi lại bị đói, không ai tin vào Tôi lại phải khát”. Bởi thế, trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu chẳng những tỏ mình ra là Bánh Sự Sống được Thiên Chúa ban cho thế gian, mà còn kêu gọi con người hãy ăn Người, tức hãy tin nhận Người.
Thật vậy, tất cả mọi sự “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) làm trên thế gian này, bắt đầu là việc tạo dựng trời đất muôn vật, hay trong lịch sử loài người, điển hình nhất là lịch sử Do Thái thời Cựu Ước cũng được gọi là lịch sử cứu độ, đều có một mục đích duy nhất, đó là làm cho con người tạo vật nhận biết Ngài. Vẫn biết, theo chương trình tạo dựng thì Thiên Chúa nghỉ ngơi trong ngày Thứ Bảy (x Gen 2:2). Thế nhưng, theo Mạc Khải được Sách Khởi Nguyên ghi nhận, thì Thiên Chúa Hóa Công chỉ “nghỉ ngơi không làm tất cả những gì Ngài đã làm vào ngày thứ bảy” (ibid) mà thôi, nghĩa là Ngài không tạo dựng nên thêm một sự gì nữa, việc tạo dựng của Ngài kể như đã hoàn toàn kết thúc sau thời gian sáu ngày, nhưng Ngài vẫn tiếp tục thực hiện việc bảo tồn chúng, nhất là việc thánh hoá con người, bằng không, công cuộc tạo dựng của Ngài không trọn, hay nói cách khác, bằng không, việc tạo dựng của Ngài chỉ là việc để Ngài tỏ quyền toàn năng của Ngài ra thôi, chứ không phải là việc tỏ chính bản thân là tình yêu của Ngài ra. Đó là lý do, ngay sau câu Thánh Kinh trên, Sách Khởi Nguyên viết tiếp: “Vậy Thiên Chúa chúc lành cho ngày thứ bảy và làm cho ngày này là một ngày thánh, vì Ngài nghỉ ngơi sau khi hoàn tất hết mọi việc tạo dựng Ngài làm” (Gen 2:3). Đó cũng là lý do Chúa Giêsu đã khẳng định về Cha của Người cũng như về chính Người với thành phần Do Thái bách hại Người về việc Người chữa lành trong ngày thứ bảy rằng: “Cha Tôi hằng làm việc cho tới nay, Tôi cũng đang làm việc như vậy nữa” (Jn 5:17).
Tóm lại, Thiên Chúa đã giành ra sáu ngày để tạo dựng nên trời đất, nên tất cả mọi sự hữu hình và vô hình, nhưng Ngài dùng một ngày thứ bảy duy nhất để thánh hóa con người nói riêng và tạo vật của Ngài nói chung (x Rm 8:21). Vậy Thiên Chúa làm việc trong ngày thứ bảy là ngày thánh của Ngài như thế nào, nếu không phải là Ngài tỏ chính bản thân của Ngài ra cho con người, một Mạc Khải Thần Linh được nên trọn và lên đến tuyệt đỉnh khi Ngài tỏ mình ra nơi chính “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14), để làm cho con người tin vào Ngài khi họ chấp nhận Con Ngài, “hiện thân đích thực bản thể Cha” (Heb 1:3). Đó là lý do Chúa Giêsu đã tỏ ý định sâu xa về các hoạt động thánh hóa của Cha Người làm từ sau khi hoàn tất công cuộc tạo dựng cho đám dân Do Thái theo đuổi Người, đám dân được Người làm phép lạ cho ăn bánh no nê, cũng là đám dân đã hỏi Người “chúng tôi phải làm những gì để thực hiện những việc của Thiên Chúa”, rằng: “Đây là công việc của Thiên Chúa, đó là hãy tin vào Đấng Ngài đã sai”.
Đúng thế, vì con người là loài hữu hình và hữu hạn, không thể tự mình biết được Đấng Hóa Công của mình thực sự là Đấng nào, nếu không được chính Ngài tỏ mình ra cho, bằng không, con người chỉ tôn thờ ngẫu tượng theo ý nghĩ của mình mà thôi. Hiện tượng đa thần ngày xưa của con người không thể nào không có tín ngưỡng, của loài tâm linh hữu thần, không chứng thực sự thật hiển nhiên này hay sao? Điển hình nhất là trường hợp Dân Do Thái trong sa mạc, dù đã được chứng kiến tận mắt quyền năng vô cùng của Thiên Chúa giải thoát họ khỏi Ai Cập, họ vẫn đúc bò bằng vàng để tôn thờ như đấng cứu tinh của họ (x Ex 32:1,4). Tuy nhiên, qua các cuộc thần hiển (theophany) trong Cựu Ước, dù có tỏ mình ra thế nào đi nữa, tất cả những dấu chỉ điềm lạ và nhân vật sống động (x Heb 1:2) đều không phải là chính bản thân Ngài, không thể nào diễn tả được thực sự Ngài là Đấng nào, bản tính của Ngài ra sao, cho đến khi Con Ngài xuất hiện, một Ngôi Vị duy nhất có hai bản tính, là Con Người thật sự đồng thời cũng chính là Thiên Chúa thật sự, đến nỗi, “ai thấy Thày là thấy Cha” (Jn 14:9).
Khi tỏ mình ra cho loài người qua Người Con là Lời của mình như thế, chẳng khác gì Thiên Chúa ban cho con người trần gian một thứ bánh bởi trời, như Chúa Giêsu đã cho những người xin xem dấu lạ của Người để có thể tin vào Người, như cha ông tổ phụ của họ đã được thấy dấu lạ manna trong sa mạc xưa do Moisen làm, biết trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này rằng: “Tôi nói thật cho quí vị biết, không phải là Moisen đã ban cho quí vị bánh bởi trời; chính Cha của Tôi đã ban cho quí vị bánh bởi trời thực sự. Bánh của Thiên Chúa từ trời xuống ban sự sống cho thế gian”. Ở đây, Chúa Giêsu chẳng những đính chính quan niệm lầm lẫn của người Do Thái về nguồn gốc của manna, một nguồn gốc thần linh chứ không phải nhân loại, mà còn xác định ý nghĩa đích thực của “bánh bởi trời thực sự”, một thứ bánh được tiên báo qua hình ảnh manna, một thứ bánh “ban sự sống cho thế gian”, một sự sống đời đời chỉ tìm thấy duy nơi bánh bởi trời duy nhất này thôi, một thứ lương thực không hư hoại song tồn tại cho sự sống trường sinh, như Chúa Giêsu đã khuyên người Do Thái trong bài Phúc Âm Chúa Nhật này cần phải tìm kiếm. Thứ bánh bởi trời ban sự sống cho thế gian này là gì, một thứ bánh sau khi nghe Chúa Giêsu nói thế những người Do Thái bấy giờ liền lên tiếng “Thưa Ngài, xin ban cho chúng tôi thứ bánh này luôn mãi”, đã được Người khẳng định ở câu kết bài Phúc Âm: “Chính Tôi là Bánh Sự Sống. Không ai đến cùng Tôi lại bị đói, không ai tin vào Tôi lại phải khát”. Nghĩa là Chúa Giêsu đã kêu gọi dân Do Thái hãy tin vào Người, Đấng Cha sai, vì tin vào Ngài là tin vào Thiên Chúa, là gặp được Thiên Chúa, là không còn khắc khoải không biết Thiên Chúa là ai và ra sao nữa, không còn đói khát thần linh nữa.
Nếu Chúa Giêsu Kitô, Lời Nhập Thể là Bánh Sự Sống, là lương thực tồn tại cho sự sống đời đời thì điều Người dạy trong Kinh Lạy Cha: “xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”, trước hết và trên hết, là xin ban cho chúng con Lời Nhập Thể, mà Lời Nhập Thể đã thực sự ban cho con người rồi, nên lời cầu này còn được hiểu là xin Cha hãy tiếp tục tỏ chính bản thân của Cha là Chúa Kitô ra cho chúng con, tức làm cho chúng con có thể “nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Chúa Giêsu Kitô” (Jn 17:3), tóm lại, xin Cha ban cho chúng con được sự sống đời đời là nhận biết Cha và Đấng Cha sai, một sự sống đời đời được thể hiện nơi “lương thực hằng ngày”.
Nếu “lương thực hằng ngày” đây là việc Thiên Chúa luôn tỏ mình ra cho con người, chẳng khác gì như manna hằng ngày nuôi dân Do Thái xưa trong cuộc hành trình sa mạc của họ tiến về Đất Hứa, một ân huệ Thiên Chúa ban cho thành phần tuyển chọn, ban cho con cái của Ngài, thì việc tỏ ra nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Chúa Giêsu Kitô, chính là thái độ đáp ứng của con người trước Mạc Khải Thần Linh, là hành vi đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. Thế nhưng, làm sao con người nhiễm mắc nguyên tội đầy yếu hèn và mù tối có thể hoàn toàn và tuyệt đối đáp ứng Mạc Khải Thần Linh, có thể như Mẹ Maria đầy ơn phúc không hề làm mất đi một mảy may nào ân sủng Chúa ban.
Bởi thế, lời cầu tiếp theo là “xin Cha tha nợ chúng con”, tức tha cho chúng con những lần không đáp ứng tác động thần linh. Đó là lý do ngay sau khi “xin Cha thợ nợ chúng con”, Kitô hữu liền “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, nghĩa là xin chớ để chúng con theo khuynh hướng tự nhiên chỉ muốn làm theo ý nghĩ vị kỷ và ý muốn tự do của mình, dù phản lại với ý Chúa. Việc coi trọng ý nghĩ và ý muốn của mình hơn ý muốn vô cùng khôn ngoan và toàn năng của Thiên Chúa đã là một hành động lộng ngôn phạm thượng, như hai nguyên tổ đã làm trong vườn địa đường thuở sơ khai, là một sự dữ kinh hoàng rùng rợn mà Chúa Kitô dạy con người khi kết thúc Kinh Lạy Cha phải “xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ”. Vấn đề then chốt ở đây là, một khi linh hồn biết khao khát “lương thực hằng ngày” là Mạc Khải Thần Linh, bằng việc Đáp Ứng Đức Tin, thì họ sẽ được “sự sống và là một sự sống viên trọn”, đủ (nếu không muốn nói là dư) sinh lực thần linh để chẳng những chế ngự những “chước cám dỗ” mà còn tiêu diệt cả “sự dữ” là tội lỗi và sự chết nữa.

49. Bánh Ban Sự Sống
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Thiên Chúa đã dựng nên con người “Giống Hình Ảnh Chúa.” (Khởi Nguyên 1: 27). Vì thế, con người trổi vượt hơn mọi loài thọ tạo khác vì vừa có thể xác, vừa có Linh Hồn, và biết suy tư, lý luận, lại có tự do đích thực để trách nhiệm và quyết định cuộc sống của mình.
Thân xác cần ‘của ăn’ để sống và tăng triển; đó là đời sống thể xác, đời sống vật chất. Linh hồn cũng cần ‘của ăn’ để sống và phát triển, đó là đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng.
Xưa kia, khi dân Do Thái đã được Thiên Chúa giúp thoát khỏi ách nô lệ người Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ để tiến về Đất Hứa, họ đã phải đi qua sa mạc Sainai khô cằn trong 40 năm. Thời gian ở trong sa mạc dân chúng thiếu của ăn, thì Thiên Chúa đã cho chim cút bay đến và mưa Manna để họ có của ăn. “Manna” nguyên ngữ của người Do Thái thời đó là “Man-hu” có nghĩa là “cái gì vậy?”. Vì khi nhìn thấy Manna rơi xuống, người Do Thái thường hỏi nhau “cái gì vậy?” và Ông Môsê đã trả lời họ: “Đó là bánh Thiên Chúa ban cho anh em (Bài Đọc I: Sách Xuất Hành 16: 2-4, 12-15). Người Do Thái đã sống nhờ Manna này trong suốt cuộc hành trình 40 năm để có thể vượt qua sa mạc, và về tới phần đất Chúa đã hứa ban cho cha ông của họ là vùng đất Palestina, nơi người Do Thái đã thành lập nước Israel bây giờ.
Trong Chúa Nhật trước, chúng ta đã nghe Bài Phúc Âm (Ga 6, 1-15) nói về việc Chúa Giêsu làm phép lạ “Năm chiếc bánh và hai con cá” để nuôi đám đông dân chúng sau một ngày dài đến nghe Chúa giảng dạy trong nơi thanh vắng mà không có gì ăn. Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay (Ga 6, 24-35), khi dân chúng lại kéo đến nghe Chúa giảng dạy, Ngài đã hướng tâm trí họ từ “của ăn hay hư nát” đến “của ăn được tồn tại đến muôn đời”. Chúa Giêsu muốn nói đến của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn trong cuộc hành trình vượt qua sa mạc đời sống trần gian để tiến về cuộc sống vĩnh cửu trên trời; vì “con người không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng những lời do miệng Thiên Chúa giảng dạy!” Chúa Giêsu cũng cho biết là Manna không phải do ông Moisê ban, nhưng là “Cha Ta đã ban!” Từ đó, Chúa Giêsu hướng tâm hồn các Môn đệ về Bí Tích Thánh Thể là của nuôi linh hồn cùng với Lời Chúa: “Chính Ta là Bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin Ta sẽ không hề khát bao giờ!” Nhưng để hiểu được Lời Chúa, chúng ta cần có Đức Tin: “Tin Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến” để cứu chuộc chúng ta, để ban chính Mình và Máu Thánh Ngài làm của ăn thiêng liêng cho linh hồn chúng ta.
Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay là phần mở đầu của Bài Giảng của Chúa Giêsu về “Bánh Hằng Sống”. Nhưng Chúa Nhật XIX, XX và XXI (Năm B) tiếp theo, chúng ta sẽ được nghe những Lời Chúa nhấn mạnh hơn để hướng tâm trí chúng ta về sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Hình Bánh và Hình Rượu trong Bí Tích Mình và Máu Thánh Chúa mà Chúa Giêsu đã thiết lập trong Bữa Tiệc Ly, Bữa Ăn Tình Thương cùng với Bí Tích Truyền chức Thánh để ban Chức Linh Mục với quyền tế lễ cho các Tông đồ và những người Chúa chọn qua các thế hệ tiếp theo.
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy hiệp lời cầu nguyện cho mỗi người chúng ta được luôn giữ vững niềm tin nơi Lời Chúa đã giảng dạy về Bí Tích Thánh Thể, về sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Hình Bánh và Hình Rượu để luôn ở giữa chúng ta và nuôi sống đời sống thiêng liêng của chúng ta.
Qua Phép Rửa Tội, chúng ta đã được thoát ách nô lệ của tội lỗi, chúng ta cũng hãy hiệp lời cầu nguyện cho chúng ta luôn biết thắng vượt những đam mê tội lỗi theo tính xác thịt để “mặc lấy con người đã được tác thành theo Thánh Ý Chúa” như lời khuyên nhủ của Thánh Phaolô trong Bài Đọc II hôm nay (Ephêsô 4: 17, 20-24), và để chúng ta có thể xứng đáng cùng dâng Thánh Lễ thờ phượng Chúa, và hiệp thông trong việc rước Mình và Máu Thánh Chúa ngự thật rong Bí Tích Thánh Thể. Cũng xin tiếp tục cầu nguyện xin ơn thánh hóa cho các Linh Mục trong “Năm Linh Mục” này để các Linh Mục được ơn Chúa sống xứng đáng ơn gọi cao qúy Chúa đã thương ban và hàng ngày xứng đáng dâng Thánh Lễ thờ phượng Chúa và ban phát của ăn thiêng liêng cho dân Chúa.

50. Thánh Thể, Bí Tích Tình Yêu
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Bài trích sách Xuất Hành hôm nay thuật lại việc con cái Israel kêu trách tổ phụ Maisen và tư tế Aaron: “Tại sao các ông dẫn chúng tôi lên sa mạc này, để cả lũ phải chết đói như thế này? Thà chúng tôi chết trong đất Ai Cập trong tay Chúa, khi chúng tôi còn ngồi kề bên nồi thịt và ăn bánh no nê”.
Như chúng ta biết, Chúa đã thương yêu Israel, Dân Riêng của Chúa, Người đã dùng cánh tay uy quyền của Người, thực hiện những phép lạ phi thường để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của vua Pharaon bên Ai Cập, dùng các tôi tớ trung thành của Người là Maisen và Aaron dẫn đưa họ về Đất Hứa. Vì những gian khổ trên đường tiến tới Đất Hứa, đã làm cho con cái Isarel quên bẵng những ơn lành Chúa đã ban; họ đã dám vô ơn bội nghĩa, buông ra những lời phàn nàn kêu trách các thủ lãnh của họ và hơn nữa, họ còn dám phạm thượng kêu trách cả Thiên Chúa nữa.
I. PHÉP LẠ MANNA VÀ CHIM CÚT
Thấu tỏ lòng dân vô ơn bội bạc. Lời họ kêu trách đã vọng tới tai Chúa, nhưng Chúa vốn nhân từ thương xót họ, ban Manna từ trời rơi xuống để nuôi sống họ; đồng thời, Người cũng cho chim cút bay tới rợp cả khu trại, để họ bắt giết thịt làm của ăn.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại: Sau khi Chúa làm phép lạ bánh và cá hóa nhiều để nuôi đám đông dân chúng đi theo nghe Chúa giảng. Khi gặp lại Chúa, họ thưa với Người: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?” Chúa thừa biết tâm tư của họ, nên Người đã nói thật với họ: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã được thấy các phép lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê”. Chúa thấy họ chỉ nghĩ đến những sự tầm thường, những của ăn hay hư nát, những sự dưới đất này, nên Người muốn nâng tâm hồn họ lên cao hơn nữa, khi phán với họ lời này: “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho cuộc sống muôn đời, là của ăn mà Con Người sẽ ban cho các ngươi”.
II. TIN KÍNH CHÚA LÀ LẼ SỐNG HỒN TA
Họ thưa với Chúa: “Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?” Chúa đã quả quyết với họ: “Đây là công việc của Thiên Chúa, là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến”. Dầu Chúa đã nói thẳng với họ là phải tin vào Ngài, là chính Đấng mà Chúa Cha đã sai đến, thế mà họ vốn còn cứ bám víu lấy “Của ăn phàm trần”, đầu óc họ cứ vốn còn lẩn quẩn đến những nhu cầu vật chất tầm thường, nên họ đã thưa với Chúa: “Xin Ngài làm dấu lạ nào để chúng tôi thấy mà tin vào Ngài, Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã cho chúng tôi ăn bánh bởi trời”. Chúa đáp: “Không phải Maisen đã cho các ngươi ăn bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì Bánh của Thiên Chúa phải là vật từ trời xuống, và ban sự sống cho trần gian”. Họ liền thưa với Ngài: “Thưa Ngài, xin ban bánh ấy cho chúng tôi luôn mãi”. Nhờ cơ hội đó, Chúa Kitô đã tỏ cho họ biết chính Ngài là Bánh Thiên Chúa ban cho họ, khi Ngài trịnh trọng tuyên bố: “Chính Ta là Bánh ban Sự Sống, ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”.
Nơi khác trong Tin Mừng, Chúa cũng đã quả quyết: “Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn sống bằng mọi lời do miệng Chúa phán ra”. Thực vậy, lương thực nuôi cho người ta được sống; nhưng cũng một sự thực trăm phần trăm là biết bao người có đầy tràn lương thực cũng vốn phải chết, chứ đâu có lương thực đầy đủ mà sống mãi được đâu. Vả nữa, lương thực chỉ là của ăn Chúa ban để nuôi chúng ta phần xác, bao lâu chúng ta còn sống trên trần gian này; nhưng lương thực vật chất đó không thể nuôi chúng ta trong cuộc sống vĩnh cửu, cuộc sống mãi mãi vĩnh tồn trong hạnh phúc bất diệt, mà Thiên Chúa ban cho những ai tin kính yêu mến Người.
Chính nhờ niềm tin kính vào Chúa, mới là lẽ sống nuôi dưỡng linh hồn chúng ta trong cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu.
III. THÁNH THỂ, NHIỆM TÍCH TÌNH YÊU
Manna là thứ bánh Chúa làm phép lạ để nuôi Dân Riêng trên đường tiến về Đất Hứa, cũng như phép lạ Chúa làm bánh hóa nhiều để nuôi dân chúng trong lúc họ đi theo nghe Chúa giảng. Đó là một hình bóng, một biểu tượng Chúa dùng, để dọn lòng chúng ta hiểu được mầu nhiệm Thánh Thể, một Nhiệm Tích Tình Yêu Chúa đã lập để bày tỏ lòng nhân từ Chúa yêu thương chúng ta. Nhiệm Tích Thánh Thể là một phép lạ gồm tóm mọi phép lạ, là trung tâm mọi việc tôn thờ dâng lên Thiên Chúa của Giáo Hội Công Giáo. Là một Nhiệm Tích cần thiết để được Ơn Cứu Độ. Người ta không có lương thực nuôi thân, người ta sẽ phải chết; cũng thế, nếu chúng ta không có lương thực thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta, linh hồn chúng ta cũng sẽ phải chết… Xin Chúa cho chúng ta hiểu biết giá trị đích thực và sự cần thiết phải được dưỡng nuôi bằng Bánh Thánh Thể Chúa. Phải hết lòng phụng sự tôn thờ yêu mến mầu nhiệm Chúa ngự thật trong Bí Tích Thánh Thể và siêng năng sốt sắng lãnh nhận Chúa Giêsu Thánh Thể cách xứng đáng, để chúng ta được hưởng ơn ích do Bí Tích Thánh Thể mang lại cho chúng ta, nhờ lòng nhân từ yêu thương của Chúa.
Biết bao nhiêu phép lạ Chúa đã làm để chứng minh sự hiện diện thực sự của Chúa nơi Thánh Thể. Nhiều vị Thánh và những tâm hồn thánh thiện, không những Bánh Thánh Thể đã nuôi sống linh hồn các ngài, mà còn dưỡng nuôi cả thân xác các ngài nữa, đến nỗi có nhiều vị đã sống nhờ duy một chút Bánh Thánh Thể trong nhiều năm.
Thánh Anton Padua rất khao khát được dự lễ và rước Chúa Giêsu Thánh Thể, nhưng vì ngài phải nằm liệt tại phòng bệnh, không thể tới dự lễ và rước Chúa được. Khi ngài nghe thấy tiếng chuông rung trong lúc Linh Mục chủ tế dâng Mình Thánh Chúa lên, bỗng ngài nhảy chồm xuống khỏi giường, cúi mình thờ lạy Chúa, đột nhiên bức tường phòng bệnh rẽ ra, để ngài đủ thấy rõ Linh Mục dâng Thánh Lễ. Chúa đã làm phép lạ này để thưởng lòng khát mong của Thánh Nhân… Các vị sau đây mỗi ngày chỉ chịu một tấm Bánh Thánh Thể nhỏ bé mà vẫn sống trong nhiều năm. Chân Phước Angela Foligno 12 năm, Thánh Nữ Catharina 8 năm, Chân Phước Elizabeth Reute 15 năm, Thánh Nữ Ledwina 28 năm, Chân Phước Catharina Reconnigi 10 năm, Rosa Andriani 28 năm, Louise Leteau 14 năm.
Là con cái Chúa, với tâm tình như các Thánh, chúng ta tin thật Chúa hiện diện thực tại nơi Nhiệm Tích Thánh Thể. Chúa ngự nơi đây vì yêu thương chúng ta, để nên nguồn an ủi, nên hạnh phúc, nên gia nghiệp đời đời, nên Thiên Đàng cho chúng ta trên dương thế này. Chúa khát mong được ngự vào linh hồn chúng ta để thánh hóa và biến đổi chúng ta nên giống Chúa như Chúa đã truyền dạy: “Các con hãy nên Thánh vì Ta là Thánh” (Lv 11:45). Và: “Các con hãy nên Thánh như Cha các con trên trời là Đấng Thánh” (Mt 5:48).
Kết Luận
Chúng ta hãy đáp lại lòng Chúa yêu thương bằng cách năng đến viếng thăm Chúa, đền tạ an ủi Chúa vì những tội lỗi loài người hằng xúc phạm đến Nhiệm Tích Tình Yêu Cực Thánh này, bằng những tội phạm thánh, đón rước Chúa cách bất xứng, hoặc thờ ơ nguội lạnh bất kính, hoặc chối từ không tin nhận Chúa đang ngự thật nơi đây.
Xin Chúa ban cho chúng ta Đức Tin vững mạnh và sống động mỗi khi chúng ta đến viếng thăm, tôn thờ Chúa Giêsu Thánh Thể, hoặc khi tham dự Thánh Lễ, nhất là khi chúng ta đón rước Thánh Thể Chúa ngự vào linh hồn chúng ta. Xin cho chúng ta hằng cháy lửa kính mến Chúa, cố gắng biến đổi cuộc sống chúng ta nên một Hy Lễ với Chúa, để làm vui lòng Cha Trên Trời, thánh hóa bản thân và cứu độ tha nhân.

51. Của không hư nát
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Một hôm, Na-pô-lê-ông, vị hoàng đế có đôi mắt rất sáng, nói chuyện với một người bạn của ông, người này thì lại có đôi mắt rất kém. Hai người nói chuyện với nhau về sự đời, bên cạnh một của sổ. Bất chợt, Na-pô-lê-ông chỉ tay lên trời, một bầu trời đầy sao, đang phát ra những ánh sáng lập lòe, và hỏi người bạn: “Anh có thấy những ngôi sao ở trên trời kia không?”. Người bạn trả lời: “Không, mắt tôi kém lắm rồi, tôi không thấy gì cả”. Na-pô-lê-ông nói: “Đó là sự khác biệt giữa anh và tôi”. Rồi Na-pô-lê-ông nói tiếp: “Những người nhìn bầu trời đen mà không thấy gì thì mới sống được nửa cuộc đời mà thôi. Muốn sống trọn cả cuộc đời, thì phải thấy được những ngôi sao giữa bầu trời đen”. Lời nhận xét trên đây của Na-pô-lê-ông là một lời gián tiếp chê bai người bạn của ông có đôi mắt kém.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đưa ra một lời chê bai những người đã tìm đến Ngài. Ngài nói: “Các ông tìm tôi không phải vì các ông đã tìm thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Khi quả quyết điều trên đây, Chúa Giêsu phân biệt hai lý do khiến người ta tìm đến với Ngài, đó là để thấy dấu lạ và được ăn bánh nó nê. Bình thường chúng ta hiểu hai lý do đó là một, bởi vì làm sao có đủ bánh để cho hàng ngàn người ăn ở nơi vắng vẻ nếu không là một phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên Ngài thấy rõ tâm tư của những người tìm đến với Ngài ở đây chỉ là vì muốn được ăn bánh no nê như đã được ăn hôm trước.
Chắc có người khi đọc đoạn Tin Mừng này sẽ cho rằng: Những người tìm đến với Chúa để được ăn bánh nữa là những người thực tế. Điều đó đúng, vấn đề cơm ăn áo mặc, vấn đề nhà ở để che nắng che mưa, đó là những vấn đề ưu tiên của con người, những vấn đề thiết thân cho cuộc sống, ở đời này ai mà không quan tâm đến những vấn đề ấy. Nhưng ở đây, khi chê bai những người tìm đến với Ngài, Chúa Giêsu muốn nói với họ rằng: ngoài sự đói khát vật chất và thể lý còn có sự đói khát thuộc tinh thần và tâm linh nữa. Vấn đề này cũng cần phải được giải quyết. Và Chúa đã đưa ra cho họ một lời khuyên: “Các ông hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”.
Vì thế, nếu về phương diện vật chất và thể lý, để thỏa mãn những nhu cầu, cần phải làm việc vất vả, thì về phương diện tinh thần và tâm linh, con người cũng phải ra công làm việc. Đúng thế, sống ở đời, chúng ta phải làm việc, và làm việc với lý do gì hay vì lý do gì chăng nữa, thì trên hết vẫn phải là lý do vì lương thực không hư nát, vì chỉ có lương thực ấy mới còn lại trong cõi vĩnh hằng, cõi hằng sống. Đó là những việc lành, việc tốt, việc bác ái yêu thương, việc thông cảm tha thứ…Chỉ có những việc ấy mới theo chúng ta về thế giới bên kia mà thôi.
Như vậy, công việc làm ăn không phải là không quan trọng. Nhưng nếu ai chỉ miệt mài làm việc mà bỏ quên nước trời, quên hạnh phúc đích thực đời sau của mình, thì Chúa bảo: họ sẽ mất tất cả. Tại Pháp, có một thương gia rất giàu, phương châm của đời ông là làm tiền, ăn nhậu và chơi bời. Nhưng chẳng bao lâu ông bị bệnh trầm trọng: thần kinh chỉ huy thanh quản bị tê liệt, làm ông bị câm. Trên giường bệnh, ông luôn thở dài chán nản. Cuối cùng, trước khi chết, ông bảo gia nhân đem bút giấy cho ông. Cầm bút, ông ghi một hàng chữ và truyền khắc nó trên bia mộ của ông: “Đây là người dại dột, đã sống mà không biết sống. Hỡi những người đang sống, chớ gì sự vô phúc của kẻ khác mở mắt các ông”.
“Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng. Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì”. Thánh Gióp nói: “Từ lòng mẹ tôi sinh ra trần truồng và lại trần truồng để trở về đấy”. Thánh Phaolô cũng nói: “Vào thế gian ta chẳng mang gì, thì cũng không thể mang gì khi phải ra đi”. Và lời Chúa Giêsu: “Tất cả mọi sự sẽ qua đi, chỉ có việc lành mới tồn tại”.
Chúng ta đang sống, chúng ta đừng quên mối tương quan giữa cuộc sống đời này và cuộc sống đời sau. Hơn ai hết, người Kitô hữu phải luôn nhớ mối tương quan ấy. Chúng ta cần lợi dụng từng giây phút, cần hoàn tất từng công việc, dù nhỏ mọn hay to lớn, để làm giàu cho cuộc sống, để làm cho đời mình có giá trị vĩnh cữu. Chỉ sống như thế chúng ta mới có thể đón nhận được lời diễm phúc này: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào chung hưởng niềm hoan lạc với chủ ngươi”.

52. Man-na – Thánh Thể
(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ cho năm chiếc bánh và hai con cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no, dân chúng phấn khởi quá muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài không đồng tình với quan niệm vật chất, trần tục của họ, nên Ngài bảo các môn đệ xuống thuyền đi trước sang bờ bên kia Biển Hồ, còn một mình Ngài lên núi cầu nguyện. Nửa đêm, bão tố nổi lên, con thuyền các môn đệ bị đe dọa, Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ, Ngài truyền cho bão tố yên lặng và con thuyền cập bến bình an. Còn dân chúng không thấy Chúa đâu, họ háo hức đi tìm, số người rất đông, gồm những người mới tới cũng như những người đã được ăn bánh hóa nhiều hôm trước. Họ đã gặp Chúa và các môn đệ ở Ca-phác-na-um. Nhân dịp này, Chúa đã giảng dạy cho họ một bài khá dài về bánh hằng sống, và qua đó Chúa mạc khải về Bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ lập sau này.
Bài Tin Mừng hôm nay là phần mở đầu của bài giảng ấy, vừa móc nối với những gì đã xảy ra trước đó vừa đặt “dàn bài” cho bài giảng theo sau. Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giêsu đòi hỏi dân chúng phải tin vào Ngài: “Các người hãy tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến”. Nghe Chúa nói như vậy, họ hiểu ngay Chúa muốn nói phải tin vào Ngài, nên họ liền đặt câu hỏi với Chúa: “Ông làm được dấu lạ nào để chúng tôi tin ông? Ông làm được việc gì?”, nghĩa là họ đòi Chúa phải làm một việc gì phi thường để chứng tỏ Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến, rồi chính họ lại đưa “đề tài” để Chúa biểu diễn quyền năng, họ nói: “Tổ tiên chúng tôi hồi ở trong sa mạc đã được ăn man-na, như có lời chép: “Người đã cho họ ăn bánh bởi trời”.
Chúng ta biết: man-na là một loại bánh Thiên Chúa đã ban từ trời xuống làm lương thực cho dân Do Thái trong 40 năm hành trình đi về Đất Hứa. Đây là một biến cố vĩ đại không người Do Thái nào không biết, vì thế, suốt chiều dài lịch sử, dân Do Thái luôn luôn ghi nhớ và ca tụng ân huệ man-na, họ gọi đó là ‘bánh bởi trời”,”bánh của các thiên thần”, và trong truyền thống Do Thái, man-na vẫn được coi là dấu lạ vĩ đại nhất, man-na cũng là bằng chứng cho dân Do Thái tin vào ông Mô-sê. Bây giờ Chúa Giêsu đòi họ tin vào Ngài, nên họ đem chuyện man-na ra làm đề tài để đối chiếu Chúa với ông Mô-sê, và yêu cầu Chúa làm một dấu lạ gì tương tự như thế hay hơn thế thì họ sẽ tin Ngài.
Chúa Giêsu đã dùng đề tài họ nêu ra để dạy cho họ và mọi thời đại biết: không phải ông Mô-sê đã ban man-na, ông chỉ là dụng cụ của Thiên Chúa, chính Thiên Chúa mới ban ma-na. Đàng khác, man-na chưa phải là bánh thật từ trời xuống, có chăng chỉ là hình bóng, là cái bóng mờ của một thứ bánh thật mà Ngài sẽ ban sau này. Một điều khác biệt quan trọng nữa là man-na chỉ có trong một thời gian ở sa mạc và bao nhiêu người được ăn man-na rồi cũng chết, trái lại, bánh Ngài sẽ ban mới là bánh từ trời đích thực, có những đặc tính: tăng sức mạnh cho thời gian lữ thứ, và cuối cùng ban sự sống đời đời. Đó là ý nghĩa của man-na cũ và Chúa Giêsu đã áp dụng vào man-na mới là bánh hằng sống và ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời, đó là bánh Thánh Thể.
Là con cái Chúa ở thế kỷ XXI này, chúng ta không còn có lý do gì để nói rằng chúng ta không biết, không hiểu về thứ bánh mà Chúa Giêsu đã mặc khải cách đây hai ngàn năm nữa. Ngài nói: “Chính tôi là bánh ban sự sống”. Nhưng thứ bánh mà Chúa nói đến ở đây không phải là thứ bánh mà người Do Thái thời xưa đã hiểu và đã xin Chúa, mà bánh đó là bánh Giêsu, bánh có tên là Giêsu, bánh đó là bánh từ trời xuống, Ngài đã từ trời xuống, bánh đó mới có khả năng đem lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Thế nhưng thái độ của chúng ta đối với thứ bánh đó như thế nào? Có phải là thái độ của người Do Thái thời Chúa Giêsu khi được nghe nói về thứ bánh từ trời xuống, thứ bánh ban sự sống đời đời hay là thái độ thờ ơ lãnh đạm đối với thứ bánh vô cùng quý giá đó? Và nếu trong những lời cầu xin của chúng ta, nhất là trong những lời cầu xin sau những lần ăn bánh Giêsu, chúng ta chỉ cầu xin cơm bánh vật chất, cầu xin tiền bạc, cầu xin sức khỏe, cầu xin thành công, cầu xin địa vị danh giá mà không cầu xin sự sống đời đời mà bánh Giêsu mang lại thì chúng ta cũng chẳng hơn gì những người Do Thái thời Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy nhớ: ông Mô-sê và dân Do Thái đã được ăn man-na trong thời gian vượt qua sa mạc. Cuộc đời con người chúng ta hôm nay, sống trong khoảng không gian, thời gian ở trần thế, được coi là một cuộc vượt qua sa mạc, chúng ta cần có lương thực, đó là bánh Thánh Thể. Bánh này không phải như man-na dân Do Thái đã ăn và cũng đã chết, cũng không phải là thứ bánh hóa nhiều trong hoang địa cũng đã hết. Nhưng bánh của Chúa là bánh ban sự sống và bảo đảm được sự sống đời đời với Chúa. Xin Chúa cho chúng ta biết quý trọng phép Thánh Thể và siêng năng rước lễ để Mình Thánh Chúa trợ giúp chúng ta sống lành, sống tốt ở đời này và bảo đảm cho cuộc sống vĩnh cửu hạnh phúc ở đời sau.

53. Thần lương
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Điều không thể chối cãi là con người cần ăn uống để sống và thực phẩm để nuôi thân chính do bàn tay sinh hoạt, cộng với khối óc, nhào lặn đất cát làm ra thực phẩm nuôi thân. Ngoài việc nuôi dưỡng bảo vệ phần xác, còn một phần nữa rất quan trọng cũng cần phải nuôi dưỡng, chăm sóc bảo vệ. Tuỳ vào niềm tin cuộc sống đời sau của mỗi người mà họ đặt tên gọi cho phần quan trọng này. Kitô hữu gọi đó là linh hồn, thuộc phần tâm linh.
Thần lương là lương thực đặc biệt dùng để nuôi sống linh hồn hoặc tâm linh trong ta. Điều này rất quan trọng bởi nếu ta chăm sóc chu đáo cho phần xác và lơ là phần tâm linh ta sẽ cảm thấy cuộc đời là gánh nặng, vất vả. Kể cả trường hợp đánh mất mục đích cuộc sống trần gian. Không biết sống để làm gì, với mục đích gì. Những cảm xúc đó xuất hiện trong cuộc sống là dấu chỉ cho biết đời sống tâm linh bị lơ là, quên lãng từ đó đánh mất í nghĩa cuộc đời. Đời sống tâm linh lơ là, đời mất vui, ngày đêm luôn lo lắng. Thành công vui chốc lát; thất bại thảm sầu khôn nguôi. Giầu sang sống sợ sệt; nghèo hèn lo ngày đêm. Con người không thể sống thiếu niềm vui nên người ta thay vì củng cố đời sống tâm linh cho vững chắc để hưởng hạnh phúc, bình an thực, lại đi tìm bình an giả tạo trong các cuộc chơi. Một thời gian sau trở thành nghiện ngập. Cuối cùng bị xã hội tẩy chay, trở thành cặn bã xã hội.
Khám phá y khoa và chuyên gia ẩm thực đồng loạt lên tiếng cảnh cáo cho biết người dùng thực phẩm tốt sẽ có một cơ thể tốt, khoẻ mạnh; người dùng thực phẩm xấu hậu quả thật buồn thảm bởi sau một thời gian thực phẩm xấu tàn phá cơ thể đến độ không thể chữa trị được dẫn đến tử vong. Cảnh cáo này đúng cho cuộc sống tâm linh. Thực phẩm nuôi dưỡng tâm linh tốt sẽ tạo cho cuộc sống dù nghèo, dù vất vả nhưng vẫn cảm thấy an vui, yên tâm sống hạnh phúc. Thực phẩm nuôi dưỡng tâm linh xấu dù giầu sang, dù nổi tiếng, dù tài cao, dù chức trọng vẫn luôn thấy bất an, sống trong lo lắng, sợ sệt. Để lấp vào lỗ hổng lo lắng, mất an người ta tìm mọi cách mang lại bình an tạm, như thuê người bảo vệ, xây hàng rào cao, cần khoá vững chắc và ngay cả không loại bỏ giải pháp nếu phải tiêu diệt kẻ mình nghi đang cạnh tranh, giành giật điều đang có họ cũng không từ nan.
Thực phẩm tìm kiếm trong đất đai phù hợp cho cơ thể con người nhưng trở thành vô dụng không sinh ích gì cho tâm linh. Kitô hữu may mắn có thần lương do Đức Kitô ban. Ngài biết rõ tâm linh cần gì nên Ngài biến thực phẩm bình thường thành lương thực trường sinh. Không phải do đất đai; cũng không phải do con người mà chính là Đức Kitô, Đấng biến thực phẩm hay hư nát thành thần lương trường sinh cho tâm hồn. Bí Tích Thánh Thể và Lời Chúa làm công việc thánh hoá đó. Trong lời nguyện khi dâng lễ vật chúng ta nghe linh mục cầu xin
Chúc tụng Chúa là Chúa Tể càn khôn vì Chúa đã dựng nên bánh/rượu này là hoa mầu của trái đất và lao công của con người. Chúng con dâng lên Chúa để trở nên của ăn/uống trường sinh cho chúng con. (Sách lễ Roma)
Lời nguyện trên cho thấy bánh rượu thường chúng ta dâng tiến, Thiên Chúa biến chúng thành thần lương nuôi dưỡng tâm linh con người. Qua việc thánh hiến và lời nguyện bánh rượu thường trở thành Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Ngoài Thiên Chúa ra không một ai có thể làm được điều đó. Ngoài thần lương này ra không thực phẩm nào trên thế gian mang lại bình an thực sự cho tâm hồn. Đời sống tâm linh không lệ thuộc vào luật thiên nhiên nên thực phẩm trong thiên nhiên không thể nuôi sống tâm linh mà phải cần đến thần lương Chúa ban.
Lời nguyện trên cũng cho biết Thiên Chúa hằng sống, luôn đồng hành với dân Chúa và tiếp tục, không ngừng sáng tạo. Qua lời cầu của linh mục, đại diện cộng đoàn, dâng lời nguyện và tiến dâng lễ vật, Thiên Chúa sáng tạo, biến đổi bánh thường thành thần lương.
Ngoài Chúa ra không người nào có khả năng làm điều kì diệu trên. Con người chỉ biết dâng lời cảm tạ, chân thành tôn kính Chúa và khiêm nhường đón nhận thần lương với tâm tình mến yêu với niềm tin sắt son vào Lời Đức Kitô truyền dậy
Người ta không chỉ sống bởi cơm bánh mà còn sống bằng Lời tử miệng Thiên Chúa phán ra – (TĐCV 17,28).

54. Bánh bởi trời
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Chúa dùng manna nuôi dân trong sa mạc khô cằn biểu lộ lòng Chúa xót thương ngay cả khi con người phản bội, bất trung.
Thực thể diệu kì
Thực thể diệu kì, nơi đâu có Chúa ngự trị, nơi đó có sự sống và sống dồi dào. Sa mạc khô cằn, sỏi nhiều hơn đá. Đá nhiều hơn đất. Đất xấu nhiều hơn đất tốt. Đã ít đất còn khô cằn. Loại cây nào cũng chết yểu. Cỏ dại nào cũng bơ phờ. Lưa thưa vài đám xương rồng, lá thu nhỏ thành gai.
Sa mạc
Sa mạc hình bóng chết chóc rõ nét hơn sự sống. Chết vì nắng khô, chết vì bò cạp, rắn độc. Thần chết rình rập cả ngày lẫn đêm. Chết vì thiếu nước. Chết vì ngày nóng khiến cát chuyển mình. Triệu hạt cát cùng chuyển biến thành bão cát. Sa mạc đêm lạnh se lòng đá, khiến đá rung động, rên siết, vụn tan thành cát.
Thiếu đất và nước sự sống cằn cỗi, èo ọt. Sức người có hạn, sớm muộn gì cũng thành tro bụi. Con người bất lực. Tuy nhiên, với Chúa không có chi khó, chỉ cần có đức tin. Các tông đồ có lần kinh ngạc thốt lên:
‘Người này là ai mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh. Mc. 4,41
Với Chúa mọi sự đều có thể. Các tổ phụ năm xưa có lẽ kinh ngạc hỏi nhau: ông này là ai mà sai khiến được cả sương khuya, gió sớm. Một lời Ngài phán ra sương mai vâng lời chở manna nuôi dân. Một lệnh truyền ban, gió vâng lệnh. Chim cút trên ngàn tự hiến thân cho bữa cơm gia đình. Đời sống sa mạc trở nên phong phú, sung túc. Thiên nhiên vâng lệnh Ngài. Chỉ có con người, lợi dụng tình Chúa yêu thương, cãi lại Đấng từ bi, nhân hậu, chậm bất bình, giầu thứ tha.
Ngày lễ nghỉ
Điểm thứ hai, kiêng việc xác ngày Chúa Nhật là kiện toàn lề luật. Sách Xuất Hành ghi nhận. Chúa ban manna cho dân chúng từ Thứ Hai đến Thứ Sáu. Mọi người lớn nhỏ, tự do gom góp đủ của ăn nguyên ngày. Kẻ tham lam lấy nhiều hơn đã không được hưởng còn đắc tội. Manna vụng trộm, cất dấu ngay chiều tối hôm đó nảy sinh giòi bọ, hôi thối. Của để dành trở thành của nợ. Chúa làm chủ manna, ban cho nó sự tươi mát, tinh khiết, dài ngắn tuỳ ý Chúa. Một mình Chúa định đoạt tuổi thọ của con người, chim trời, cá biển, bông cỏ đồng nội và ngay cả cỏ dại trên ngàn. Tất cả đều vâng phục ý Chúa, ngoại trừ con người.
Ngày Thứ Bảy mọi người được phép giữ đủ manna ăn cho hai ngày Thứ Bảy và Chúa Nhật. Ngoài ý Chúa nhiệm mầu ai giải thích nổi điều kì lạ. Cùng loại manna từ trời do sương mai chuyển đến nhưng từ thứ Hai đến Thứ Sáu không để dành được. Trái lại manna thu lượm ngày Thứ Bảy lại để dành cho đến hết ngày Chúa Nhật vẫn tươi mát, thơm ngon. Lí do ngày Chúa Nhật là ngày dành riêng ca tụng thờ phượng Chúa. Truyền thống tốt đẹp, cao quí lâu đời này bị kẻ coi thường luân thường, đạo lí thay đổi.
Ngày lễ nghỉ theo tập tục, truyền thống ngàn xưa dành riêng để tôn vinh Thiên Chúa bị các ‘nhân danh’ lạm dụng, ngầm mưu hại.
– Nhân danh cách mạng kĩ nghệ, công nhân làm bảy ngày trong tuần.
– Nhân danh thể dục, thể thao tổ chức trận đấu vào Chúa Nhật.
– Nhân danh giáo dục thi cử vào Chúa Nhật, đại lễ Giáng Sinh.
– Nhân danh kỉ niệm một biến cố xã hội, ngăn cản giáo dân kiện toàn lề luật nghỉ ngày hưu lễ.
Tất cả các nhân danh này nọ, ít người đủ can đảm, bạo miệng nói thẳng ra, nhưng tự thâm tâm có mục đích bài bác ngày lễ nghỉ, chủ trương phá hoại ngày dành riêng tôn thờ Thiên Chúa. Một hình thức chống phá đạo trá hình. Tất cả các nhân danh của xã hội đều chối bỏ một thực thể hiện hữu: Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống.
Bánh trường sinh
Có xã hội nào ra công, bỏ sức đi tìm thực phẩm mau hư nát mà dân chúng thực sự an cư, lạc nghiệp. Càng cố gắng đi tìm quyền cao, chức trọng. Càng ra sức tranh giành cho mình nhiều của hơn người. Xã hội càng lắm tệ đoan. Tránh khỏi cám dỗ này lại sa vào cạm bẫy khác. Vất vả tìm kiến, mệt mỏi tranh giành bệnh thời đại phát sinh. Điên loạn, trầm cảm gia tăng. Trẻ khủng hoảng cuộc đời; già bị bỏ rơi. Nghèo ham có tiền; giầu thấy tiền vô nghĩa. Sống vô vị, thiếu giá trị, mất tương lai nên số người tự huỷ ngày một nhiều. Hậu quả của
‘Chối bỏ lương thực đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho’ c.27.
Chối Chúa là bước trên con đường một chiều dẫn đến diệt vong. Chê bánh trường sinh sẽ mất sự sống trường sinh. Chê bánh ban sự sống sẽ mất sự sống. Kiêu ngạo, chối bỏ Chúa, tự nhận mình làm chủ sự sống. Bài học tổ phụ Adam – Eva học xưa nay con cháu cho vào dĩ vãng. Chúa là Đấng duy nhất làm chủ sự sống.
Chối cuộc sống đời sau nên tranh sống đời này. Tranh sống nên đè đầu cỡi cổ nhau. Bất công ra đời, công kích, phản đối, gầm gừ cấu xé nhau. Một mình làm không được thì kéo bè, chia phái. Luật tranh sống ra đời bắt đa số phục vụ thiểu số lãnh đạo. Mầm mống tự huỷ nảy sinh. Chối Chúa là đi trên con đường tự hủy. Bỏ Chúa là bỏ sự sống trường sinh. Chỉ có một điều cần để được sống an vui, trường cửu.
Tin vào Đấng Chúa Cha sai đến, là Đức Kitô. c.29
Để sống đời đời hãy đón nhận Bánh Trường Sinh với lòng cảm mến.

55. Đói khát
(Suy niệm của Như Hạ, OP)
Không bao giờ nhân loại hết đói khổ. Chính dân Chúa đã trải qua kinh nghiệm đau thương đó trong sa mạc. Nhưng cũng chính trong cơn đói khát đó, họ mới chứng kiến sự thật về quyền năng Thiên Chúa.
BÁNH ĐÍCH THỰC
Tại sao con người phải lao nhọc mới có miếng ăn? Miếng ăn có phải là lý do sau cùng lý giải hoàn toàn mọi sinh hoạt của nhân loại không? Con người thường thiếu tầm nhìn xa để thấy được tất cả ý nghĩa và nguyên nhân sự sống. Ngay cả trong hàng ngũ những người theo Chúa, cũng có những người chỉ biết cắm mắt vào những những thực tại tầm thường và theo đuổi những mục tiêu quá vị kỷ. Chính vì thế, Đức Giêsu mới nói: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.” (Ga 6:26)
Làm sao có thể nhìn thấy thực chất cuộc sống, nếu không hiểu được ý định của Tạo Hóa? Thực vậy, Thiên Chúa muốn chúng ta “tin vào Đấng Người đã sai đến.” (Ga 6:29) Không tin không thể thấy những “dấu lạ” tràn ngập trong cuộc sống. Dấu lạ đó là những dấu chỉ về tình yêu Thiên Chúa. Dấu lạ lớn nhất là chính Đức Giêsu Kitô “đem lại sự sống cho thế gian,” vì Người là “bánh Thiên Chúa.” (Ga 6: 33) Chỉ có con mắt đức tin mới khám phá được tất cả những “dấu lạ” trong “bánh trường sinh” (Ga 6:35). Bánh trường sinh đó là “lời mạc khải của Đức Giêsu.” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:961)
Khác hẳn với bánh trần gian, “bánh trường sinh” sẽ cung cấp cho con người sự sống bất tận. Thực vậy, Đức Giêsu mạnh dạn mạc khải: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ.” (Ga 6:35) Tin vào Đức Giêsu, phải dấn thân và hành động. Tin là phục vụ vô điều kiện. Không có sự phân cách giữa đức tin và việc làm, vì tất cả đều do ân sủng! Hơn nữa, chính Đức giêsu cũng nhấn mạnh: ” Chỉ có một ‘việc’phải làm, đó là tin vào Đấng Thiên Chúa đã sai đến.” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:961)
Nguồn ân sủng phát xuất từ Thánh linh. Bởi đấy, muốn tin vào Đức Giêsu, “anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em.” (Ep 4:23-24) Không đổi mới không thể thấy “dấu lạ”. Chỉ Thần Khí mới có thể dẫn con người ra khỏi đường mòn và ngõ cụt cuộc đời. Thiếu Thần Khí, con người cứ quanh quẩn với những nhu cầu tầm thường và chết ngộp dưới sức nặng vật chất. Cuộc đời trở thành đấu trường đầy dẫy bất công và vô đạo. Muốn được giải thoát, chúng ta “phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 4:24) Con người ấy sẽ sống nhờ “bánh bởi trời, bánh đích thực” (Ga 6:32) là Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, họ sống trong hòa bình và hạnh phúc. Thật vậy, chỉ khi nào trở về con người đích thực, họ mới nhận ra Đức Chúa là Thiên chúa (x. Xh 16:12) và “Đấng Người đã sai đến” (Ga 6:29) giải thoát nhân loại khỏi cơn đói khát triền miên.
CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?
Ngày nay, cơn đói khát cả tinh thần lẫn vất chất lan rộng khắp thế giới. Phải có một cuộc “liên đới toàn cầu” mới tạo nổi sức mạnh giải quyết vấn đề quá sức lớn lao đó. Đây là quan tâm chính và cũng là phương châm của 450 đại biểu thuộc hơn 150 tổ chức Caritas quốc gia họp tại Roma từ ngày 7 đến 12 tháng 7 năm 2003.
Trong lá thư viết cho ĐGM Youhanna Fouad El-Hage, chủ tịch Caritas Quốc tế và là TGM tại Lebanon, ĐGH Gioan Phaolô II viết: “việc toàn cầu hóa phải được mọi giai tầng chính trị nhận thức. Muốn cho sự liên đới mang chiều kích toàn cầu, phải thực sự quan tâm tới mọi dân tộc khắp nơi trên thế giới. Trước hết, phải có những nỗ lực quốc tế lớn lao bảo đảm vững chắc cho những tổ chức nhân đạo. Những tổ chức này thường bị gạt qua một bên mỗi khi có tranh chấp, vì họ không được bảo đảm an ninh cũng như quyền giúp đỡ con người” (Zenit 7/7/03) sống và phát triển. Tìm đâu ra hứng khởi và sức mạnh hỗ trợ cho những nỗ lực như thế? Chỉ Lời Chúa mới có thể đem “thần khí và sự sống” cho toàn thể vũ trụ. Lời Chúa mới có thể hiệp nhất nhân loại trong nỗ lực chống nghèo đói trên thế giới. Chính vì thế, việc toàn cầu hóa tình liên đới trên hết là một lời đáp lại tiếng Đức Giêsu mời gọi khẩn thiết trong Tin mừng. Đối với các Kitô hữu, lời mơi gọi này đòi chúng ta phải đi theo một con đường thiêng liêng đích thực, cải hóa tâm hồn và con người.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 7/7/03)
Theo tinh thần đó, “viện trợ không chỉ là việc bố thí cho người nghèo, khiến người cho tự hào và người nhận tủi hổ.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 7/7/03) Để tránh tình trạng đó, “việc toàn cầu hóa tình liên đới đòi chúng ta phải sát cánh làm việc và thường xuyên liên đới với những tổ chức quốc tế. Chính những tổ chức này làm cho các mối tương quan giữa các quốc gia giàu nghèo được luật pháp bảo đảm, cân bằng các mối tương quan đó theo chiều hướng mới, để chấm dứt các các tương quan viện trợ một chiều, thường góp phần làm chênh lệch cán cân giữa các quốc gia qua những món nợ chồng chất từ năm này qua năm khác.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 7/7/03)
Của cải đã trở thành phương tiện thống trị. Mối quan tâm hàng đầu của con người thời nay là làm sao “được ăn bánh no nê” hằng ngày, bất kể người anh em đồng loại đang chết đói bên cạnh. Những hạng phú hộ đó nhan nhản khắp nơi. Theo gót Đức Giêsu Kitô, người tín hữu không thể sống buông thả như thế. Trái lại, vì “được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giêsu,” (Ep 4:21) họ có khả năng đọc những “dấu lạ”. Nhờ đó, họ phấn khởi hướng dẫn mọi ngươi từ “lương thực mau hư nát” tới “lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6:28) nơi “Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (Ga 6:27) là Đấng Cứu độ duy nhất cho toàn thể nhân loại.

56. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Trong bốn Chúa Nhật liên tiếp, từ Chúa Nhật XVIII đến Chúa Nhật XXI, Phụng Vụ Lời Chúa đề nghị cho chúng ta một trong những bản văn chính yếu của Tin Mừng Gioan: bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống”.
Xh 16: 2-4, 12-15
Tất cả các Bài Đọc I của bốn Chúa Nhật liên tiếp đều được chọn theo cùng một viễn cảnh nầy. Vì thế, vào Chúa Nhật XVIII nầy, chúng ta đọc đoạn trích sách Xuất Hành tường thuật bánh man-na, “bánh bởi trời” nầy nuôi dưỡng dân Do thái trong hoang địa.
Ep 4: 17, 20-24
Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô mời gọi người Ki-tô hữu thay đổi đời sống tận căn để trở nên một con người mới, được tái tạo theo hình ảnh Thiên Chúa.
Ga 6: 24-35
Tin Mừng dâng hiến cho chúng ta phần đầu của bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống”, sau dấu lạ hóa bánh ra nhiều. Trong phần đầu này, bánh Hằng Sống mà Đức Giê-su ban cho thế gian để có sự sống đời đời là Lời của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Xh 16: 2-4, 12-15)
Sách Xuất Hành không chỉ là chuyện tích về cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập và cuộc hành trình trong hoang địa, nhưng còn là bản phác thảo lộ trình tâm linh. Chính hoang địa đã là nơi ưu tiên Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân, nhưng cũng còn là nơi Thiên Chúa thử thách dân Ngài.
1. Nơi thử thách:
Để đến được Đất Hứa, ông Mô-sê đã có thể dẫn dân Do thái đi theo một lộ trình ngắn nhất, tức là con đường chạy dọc theo Địa Trung Hải (thật ra con đường nầy đã được quân đội Ai-cập xây dựng những đồn lủy để ngăn chận mọi cuộc xâm nhập của ngoại bang), ấy vậy, ông đã chọn con đường băng qua hoang địa đầy gian khổ và khó khăn.
Một tháng đã trôi qua kể từ lúc ra khỏi đất Ai-cập, dân Do thái vừa mới đóng trại trong ốc đảo trù phú mà sách Dân Số nói có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là (Ds 33: 9); giờ đây họ đi sâu vào trong sa mạc Xin, ở đây họ lâm vào cảnh thiếu lương thực. Đây là lần đầu tiên, nhưng không là lần cuối cùng trong suốt cuộc hành trình dài lâu nầy, toàn thể “cộng đồng” con cái Ít-ra-en kêu trách: khi còn ở Ai-cập, chúng tôi đâu có thiếu thịt và bánh.
Dù dân kêu ca trách cứ, Thiên Chúa đáp trả bằng tấm lòng nhân hậu của Ngài; tuy nhiên, Ngài đòi hỏi họ phải tin tưởng vào Ngài: “Các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Chúa các ngươi” (Xh 16: 12).
2. Chim cút và bánh man-na.
Đoạn trích sách Xuất Hành cho thấy Thiên Chúa ân cần chăm sóc dân Ngài như thế nào: chim cút bay đến rợp cả trại và bánh man-na rơi xuống đầy trên mặt đất. Hiện tượng chim cút bay đến rợp cả trại xem ra là cuộc thiên di của đàn chim, chúng bay từ lục địa Phi-Châu vượt qua Địa trung Hải, và khi đến hoang địa thì kiệt sức sà cánh xuống mặt đất, nên rất dễ bị tóm bắt. Man-na có thể do từ nhựa cây liễu bách tiết ra khi bị những côn trùng châm vào; khi đêm xuống khí trời lạnh, nhựa đông cứng lại và rơi trên mặt đất trông như những hạt nho nhỏ mịn màng có vị mật ngọt. Theo sách Dân Số, “man-na như hạt ngò và trông nó như nhựa hương. Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh, và mùi vị của nó như mùi vị bánh chiên dầu. Đêm về sương rơi trên doanh trại, thì manna cũng rơi xuống” (Ds 11: 7-9).
Bánh man-na là bánh Thiên Chúa ban, nhưng cũng là dịp thử thách: “Ta muốn thử thách chúng xem chúng có tuân theo luật pháp của Ta hay không” (Xh 16: 4). Đức Chúa phối hợp thiên ân với sự thử thách qua lời căn dặn rõ ràng: “Dân sẽ ra mà lượm lấy khẩu phần cho mình từng ngày một” (Xh 16: 16), mỗi người tùy theo nhu cầu của mình. Không được tích trữ. Không được bận lòng đến ngày mai, nghĩa là hoàn toàn tin tưởng vào Lời Chúa. Từ đó, có một mối giây liên kết chặc chẽ hầu như cho đến mức đồng hóa giữa bánh man-na và Lời Chúa. Đó cũng là bài học Đức Giê-su ban cho các môn đệ Người khi dạy họ kinh Lạy Cha: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” (Mt 6: 11).
3. Bánh bởi trời.
Cho đến lúc đó, đối với dân Do thái, đây là lương thực bất ngờ và lạ thường xảy đến đúng vào thời điểm khó khăn. Vì thế, truyền thống đã thần thánh hóa bánh man-na được xem như “bánh bởi trời”. Sách Xuất Hành nói rồi: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn” (Xh 16: 15). Theo sách Đệ Nhị Luật, Đức Chúa “đã cho anh em ăn man-na là của ăn anh em chưa từng biết và cha ông của anh em đã chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người ta sống không phải chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời Đức Chúa phán ra” (Đnl 8: 3). Thánh Vịnh 78: 25 gợi lên bánh man-na là “bánh của những kẻ mạnh” mà bản Bảy Mươi đã chuyển dịch thành “bánh thiên thần”. Sách Khôn Ngoan ca ngợi bánh man-na là lương thực bởi trời, “bánh có muôn hương vị, thỏa mãn mọi sở thích” (16: 20-29). Văn chương kinh sư loan báo rằng bánh man-na sẽ là lương thực của thời thiên sai, khúc dạo đầu cho bàn tiệc cánh chung. Theo cùng cách thức giải thích của truyền thống Cựu Ước, thánh Phao-lô xem bánh man-na là “thức ăn thần thiêng” (1Cr 10: 3).
Chính ở nơi truyền thống Cựu Ước nầy mà Đức Giê-su quy chiếu, dù minh nhiên hay mặc nhiên, trong bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống” của Người.
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 17, 20-24)
Sau phần đạo lý (ch. 1-3), thánh Phao-lô đưa ra những lời khuyên luân lý: trước hết thánh nhân kêu gọi mọi người Ki-tô hữu hãy hiệp nhất với nhau (chủ đề của đoạn trích thư Chúa Nhật vừa qua) và sống một cuộc sống mới trong Đức Ki-tô, đó là chủ đề của đoạn trích thư Chúa Nhật hôm nay.
Để là một người Ki-tô hữu đích thật, thánh Phao-lô đưa ra ba chỉ dẫn tổng quát: trước hết đừng ăn ở như dân ngoại, tiếp đó học biết Đức Giê-su để mà sống như Ngài đã sống và sau cùng thay đổi đời sống tận căn, mặc lấy con người mới.
1. Đừng ăn ở như dân ngoại (4: 17):
Thánh Phao-lô ngỏ lời với các Ki-tô hữu thuộc các cộng đoàn Tiểu Á, đa số họ xuất thân từ lương dân; nhưng lời khuyên bảo của thánh nhân cũng có giá trị đối với những Ki-tô hữu gốc Do thái. Cả thư gởi tín hữu Rô-ma lẫn thư gởi tín hữu Cô-lô-xê cũng đều chứa đựng những lời cảnh giác tương tự. Trước khi tiếp tục đề cập đến những lời cảnh giác, thánh nhân nêu lên phẩm chất của người Ki-tô hữu, chính phẩm chất này đòi buộc phải thay đổi đời sống.
2. Học biết Đức Giê-su để mà sống như Người (4: 20-21)
Thánh nhân nhắc nhở giáo huấn mà họ đã lãnh nhận khi họ “học biết Đức Giê-su” (4: 20). Người Ki-tô hữu không gắn bó với bất kỳ thứ đạo lý trừu tượng nào, nhưng với một con người, con người ấy chính là Đức Ki-tô, “đúng như sự thật ở nơi Đức Giê-su” (4: 21)
3. Mặc lấy con người mới (4: 22-24):
Thánh Phao-lô khai triển tư tưởng của mình với mệnh lệnh: trước tiên, phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa; tiếp đó, phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em; và sau cùng, phải mặc lấy con người mới.
Đây là chương trình giáo lý về phép Rửa. Ý tưởng chủ đạo là đổi mới triệt để đời sống Ki-tô hữu. Trước tiên, phải cởi bỏ con người cũ, con người trước đây phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối. Tiếp đó, chính nhờ Chúa Thánh Thần khai lòng mở trí mà người Ki-tô hữu đổi mới cuộc đời mình, chủ đề mà thánh Phao-lô chủ ý lấy lại để minh chứng rằng Ki-tô giáo mở ra hướng đến sự khôn ngoan cao vời. Và cuối cùng, người Ki tô hữu là một con người mới, mà phép Rửa đã tái sinh, đã tái tạo, đã phục hồi trong tình trạng ban đầu “theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống theo sự công chính và thánh thiện” (4: 24).
TIN MỪNG (Ga 6: 24-35)
Với đoạn trích Tin Mừng nầy, chúng ta bắt đầu bài diễn từ về Bánh Hằng Sống của Đức Giê-su mà thánh Gioan định vị vào ngày hôm sau dấu lạ hóa bánh ra nhiều.
Việc định vị bài diễn từ về Bánh Hằng Sống vào biến cố này thật là quan trọng: dấu lạ hóa bánh ra nhiều đánh dấu đỉnh cao sứ vụ của Chúa Giê-su ở Ga-li-lê. Khởi đi từ đó, Đức Giê-su đòi hỏi phải chọn lựa càng lúc càng quyết liệt hơn: tin vào Đức Giê-su hay từ chối Người. Diễn từ về Bánh Hằng Sống là một trắc nghiệm có tính quyết định, nó mở ra một giai đoạn: hoặc từ chối tin vào Người mà ra đi hay khẳng định niềm tin vào Người. Vì thế, Đức Giê-su sắp nhấn mạnh tiên vàn phải “tin” vào Người.
Bài diễn từ về Bánh Hằng Sống bắt đầu ở “bên kia Biển Hồ” (6: 25) và chấm dứt ở “trong hội đường Ca-phác-na-um” (6: 59).
1. Bối cảnh.
Vào buổi chiều dấu lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giê-su đã buộc các môn đệ lên thuyền trở lại thành Ca-phác-na-um. Còn Người thì lánh mặt đám đông cuồng nhiệt nầy mà đi lên núi cầu nguyện một mình, đoạn, giữa đêm Người đã đi trên Biển Hồ sóng to gió lớn mà đến với các ông. Đám đông đã thấy các môn đệ ra khơi một mình trong khi Đức Giê-su không xuống thuyền cùng với các ông (thánh Gioan xác định ở đó chỉ có một con thuyền: 6: 22). Sáng hôm sau, mọi người nhận thấy rằng Đức Giê-su không còn ở trên bờ Biển Hồ nữa; họ quyết định quá giang những thuyền đến từ Ti-bê-ri-a mà trở về Ca-phác-na-um để tìm Người (6: 23). Khi đến thành Ca-phác-nu-um, họ gặp thấy Đức Giê-su ở đây: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” (6: 25). Câu hỏi của họ mặc lấy một lời chứng gián tiếp về việc Đức Giê-su đi trên mặt biển.
Đức Giê-su không trả lời câu hỏi này, Người nói thẳng ra ý định nào thôi thúc đám đông mong ước được gặp lại Người: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (6: 26). Trong Tin Mừng Gioan, lời khẳng định đặc trưng: “Thật, tôi bảo thật”, đem lại một cung giọng trang trọng cho những lời nói theo sau: Đức Giê-su quở trách tâm trí của những người Ga-li-lê nầy quá trần tục: họ chỉ thấy Người là một người phép thuật thần thông đã cho họ ăn no nê. Điều Ngài mong chờ ở nơi họ là khám phá ra ý nghĩa của thực tại mà dấu lạ hóa bánh ra nhiều nhắm đến. Lúc đó, cuộc đối thoại sắp được thiết lập mà tuyến phát triển của câu chuyện rõ ràng cùng một tuyến phát triển như cuộc đối thoại của Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri.
2. Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với đám đông dân chúng.
Trước tiên, Chúa Giê-su muốn họ biết rằng Người là một con người mầu nhiệm, Ngài có khả năng ban cho nhân loại những thiện hảo còn hơn cả bánh vật chất nữa.
Với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri, Đức Giê-su đã nói: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã hẳn ban cho chị nước hằng sống” (4: 10).
Với những người Ga-li-lê, Đức Giê-su nói: “Các ông hãy ra công làm việc không phải lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (6: 27). Ở nơi câu trả lời của mình, Đức Giê-su quy chiếu về mình tước hiệu “Con Người” được lấy từ thị kiến ban đêm của Đn 7: 13, để mặc khải cho họ biết Ngài không đơn thuần là một phàm nhân, nhưng còn là một nhân vật huyền nhiệm được Chúa Cha ghi dấu xác nhận.
Những lời nầy gây ấn tượng mạnh trên họ, vì thế vài người đặt ra cho Đức Giê-su một câu hỏi, có thể với ý định ngay thẳng, nhưng cũng có thể với mục đích làm cho Người lúng túng: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (6: 28). Chúa Giê-su trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến” (6: 29). Đức Giê-su không muốn giản lược việc Thiên Chúa muốn họ làm vào một việc duy nhất là “tin vào Người”, nhưng những lời mà Ngài sắp công bố quá mạnh mẽ đến mức khó mà hiểu được, nếu trước hết những người đối thoại với Ngài không có niềm tin tưởng tuyệt đối vào Ngài. Đức tin phải là thái độ tiên quyết mà Đức Giê-su đòi hỏi ở nơi họ.
3. Phải mở tâm trí ra trước mầu nhiệm:
Nhưng ngay lập tức dân chúng tỏ thái độ nghi ngờ và bắt bẻ Ngài: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: ‘Ngài đã cho họ ăn bánh bởi trời” (6: 30-31). Ở nơi lời bắt bẻ nầy, chúng ta gặp lại cũng một lời bắt bẻ của người phụ nữ Sa-ma-ri trong cuộc đối thoại với Ngài bên bờ giếng Gia-cóp: “Thưa ông, ông không có gàu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lại lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng nước nầy? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy” (4: 11).
Đức Giê-su trả lời: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thật, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (6: 32-33). Ở nơi câu trả lời của Đức Giê-su, chúng ta lưu ý: với cụm từ “tổ tiên chúng tôi” trong lời bắt bẻ của những người Ga-li-lê nầy, Đức Giê-su đáp lại với từ “Cha tôi”, bằng cách đồng hóa “Cha tôi” với “Cha trên trời”, Đấng đã cho họ bánh bởi trời đích thật, đồng thời cũng đồng hóa bản thân Ngài với Bánh Hằng Sống. Ngoài ra, điểm nhấn được đặt ở nơi việc Đức Giê-su so sánh “bánh bởi trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian”, với bánh man-na trong sa mạc “nuôi sống chỉ một mình dân Ít-ra-en”. Nói cách khác, Đức Giê-su là Mô-sê mới, nhưng cao vời khôn ví trên ông Mô-sê. Lúc đó, những người Ga-li-lê thốt lên: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh nầy” (6: 34), cũng như người phụ nữ xứ Sa-ma-ri đã thưa: “Thưa ông, xin cho tôi thứ nước ấy , để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (4: 15).
4- Bánh Hằng Sống mà Đức Giê-su ban chính là Lời của Ngài:
Lúc đó, Đức Giê-su vén mở thêm nữa bức màn mầu nhiệm của Người: “Chính tôi là bánh ban sự sống” (6: 35a). Trong Tin Mừng Gioan đây là lần thứ ba xuất hiện biểu thức: “Chính tôi là” (Ego eimi). Lần thứ nhất, Đức Giê-su tỏ mình ra với người phụ nữ Sa-ma-ri khi chị gợi lên việc Đấng Mê-si-a đến: “Đấng ấy chính là tôi” (theo sát từ: “Ego eimi”: 4: 26) và lần thứ hai Đức Giê-su tỏ mình ra với các môn đệ Người, họ kinh hoàng khi thấy một người đi trên mặt nước: “Thầy đây mà, đừng sợ” (theo nghĩa văn tự: “Ego eimi”: 6: 20). Biểu thức: “Chính tôi là bánh ban sự sống” nầy khai mạc một loạt “tôi là” đi theo với thuộc từ: “tôi là đường, là sự thật và là sự sống”, “tôi là mục tử nhân lành”, vân vân (những lời khẳng định luôn luôn được liên kết với viễn cảnh của ơn cứu độ).
“Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (6: 35b). Ở đây cốt là cái đói và cái khát thần thiêng. Cách nói nầy quy chiếu đến Kinh Thánh, chính xác là đến bản văn của sách Huấn Ca. Tuy nhiên có một sự khác biệt giữa lời của sách Huấn Ca và lời của Chúa Giê-su. Lời mà sách Huấn ca áp dụng cho Đức Khôn Ngoan theo hình thức khẳng định: “Hỡi những ai khao khát Ta, nào hãy đến… Ai ăn Ta sẽ còn đói, ai uống Ta sẽ còn khát” (Hc 24: 19-21).
Qua hình thức khẳng định này, sách Khôn Ngoan muốn nói rằng ai đã nếm lương thực mà Đức Khôn Ngoan ban thì người ấy ước muốn được nếm mãi không thôi. Trái lại, Đức Giê-su lập lại lời của sách Khôn Ngoan và áp dụng vào chính mình theo hình thức phủ định, nghĩa là, những thiện hảo siêu nhiên mà Ngài hứa ban làm no thỏa hết mọi nhu cầu của cái đói và cái khát thần thiêng, nghĩa là những ai đã nếm lương thực mà Ngài ban sẽ chẳng còn đói và khát Thiên Chúa bao giờ. Đúng là lời mặc khải của Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri khi Ngài chỉ nước của giếng Gia-cóp mà nói: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”(4: 13-14).

57. Làm việc để tìm kiếm Nước Trời
“Có làm thì mới có ăn
Không dưng ai dễ đem phần đến cho”
Đúng vậy, ai ai trong chúng ta cũng công nhận rằng sống thì phải làm việc, làm việc không ngừng. Điều đáng nói là chúng ta phải làm những việc nào và làm với động cơ nào?
Chúa nhật tuần trước, cùng với Giáo hội chúng ta đã suy niệm đoạn Tin mừng của Thánh Gioan. Đoạn Tin mừng này nói về phép lạ hóa bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh và hai con cá nuôi hơn năm ngàn người ăn no nê. Kể từ phép lạ ấy dân chúng theo Chúa Giêsu ngày càng đông hơn. Thấy họ theo mình đông đảo như thế, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở họ về động cơ đi theo Người: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6, 26). Người nói tiếp: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông” (Ga 6, 27)
Có lẽ, Chúa Giêsu sợ rằng họ nghĩ là theo Người thì khỏi phải làm gì mà vẫn được no nê. Bởi lẽ, nhàn cư vi bất thiện. Do đó, Chúa Giêsu muốn họ có cái nhìn đúng đắn khi đi theo Người. Cái nhìn ấy phát xuất từ lòng tin tưởng vào Chúa. Tin tưởng vào Chúa để lo ưu tiên tìm kiếm Nước Trời là trên hết.
Có lần Chúa Giêsu đã nói: “…Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” (Mt 6, 31 – 33)
Hằng ngày cực khổ làm việc vất vả nhưng có khi nào chúng ta tự hỏi tôi làm với động cơ gì chăng. Và rồi tôi đã làm việc như thế nào.
Có người làm việc với động cơ hại người.
Có người làm việc với động cơ hơn thua nhau
Để rồi họ bất chấp mọi thủ đoạn, bất chấp luân thường đạo lý miễn sao là đạt được mục tiêu đen tối của mình. Thật là nguy hiểm cho những người làm việc như thế. Hãy xin Chúa Giêsu cho chúng ta biết làm việc với động cơ thật tốt. Động cơ tốt là để tìm kiếm Nước trời.

58. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
HƠN CẢ MAN-NA
Ở bên Nhật, mục vụ di dân hiện đang rất cấp thiết. Mỗi Thánh lễ tiếng Việt cho cộng đoàn Việt Nam thường đầy ắp. Không chỉ người Công Giáo, mà còn đông đảo các bạn không Công Giáo cũng đến tham dự. Mỗi khi thấy bạn bè Công Giáo lên rước lễ, họ hiếu kỳ và thường hỏi: ủa bạn vừa nhận cái gì mà cho vào miệng vậy? Một số lại cứ tưởng nhận được kẹo ngọt hay bánh men để ăn!
Tuy nhiên, là người Công Giáo, được học giáo lý từ nhỏ, được xưng tội rước lễ lần đầu, chúng ta biết và hết lòng cung kính khi lãnh nhận Bánh Thánh. Nhưng đôi lúc, chúng ta phải tự hỏi bản thân: tôi mang lấy tâm tình nào mỗi khi tham dự Thánh lễ, mỗi lần lãnh nhận Bí tích Thánh Thể? Và tôi sống ra sao với ân huệ được rước chính Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô?
Như xưa dân Is-ra-el được ăn man-na no nê thế nào, giờ đây qua mỗi Thánh Lễ, chúng ta được lãnh lấy Bánh từ trời xuống, Bánh ban sự sống, và Bánh Thánh nuôi hồn vậy.
Bánh từ trời xuống
Sách Xuất Hành thuật lại: con cái Is-ra-el kêu trách Mô-sê và A-a-ron, và Thiên Chúa đã nghe tiếng họ kêu than, bèn phán cùng với Mô-sê: “Đây Ta sẽ cho bánh từ trời rơi xuống như mưa…” (x. Xh 16, 4). Thiên Chúa đã tuôn đổ man-na từ trời xuống nuôi dưỡng dân chúng. Ngày nay, chúng ta được Chúa mến chuộng, chăm sóc còn hơn bánh man-na. Ngài ban chính Con Một cho chúng ta; và Đức Giê-su Ki-tô chẳng phải từ trời cao, nhập thế, cùng nhập thể, mặc lấy xác phàm để cứu độ chúng ta, và trở nên Bánh hằng sống, dưỡng nuôi chúng ta hằng ngày hay sao? Chính Đức Giê-su xác quyết: “Ta bảo thật các ngươi, không phải Mô-sê đã ban cho các ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì bánh của Thiên Chúa phải tự trời xuống…” (x. Ga 6, 32-33). Vậy, chúng ta phải hết lòng cung kính, năng dọn lòng rước lấy Bánh này. Siêng năng chạy đến kín múc thánh ân và ơn chữa lành hồn xác mỗi khi đến với Bí tích Thánh Thể.
Bánh ban sự sống
Đức Giê-su không chỉ là Bánh từ trời xuống, mà còn là Bánh ban sự sống như ngài khẳng định: “Vì bánh của Thiên Chúa…ban sự sống cho thế gian”, và “chính Ta là bánh ban sự sống” (x. Ga 6, 33. 35). Không đơn thuần ban sự sống thể lý cho dân Is-ra-el như man-na ngày xưa, mà Đức Giê-su tận hiến chính sự sống Ngài cho chúng ta nữa. Hơn thế, Ngài ban sự sống đời đời cho chúng ta, “ai đến với Ta, không hề phải đói; ai tin vào Ta, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6, 35). Dù hiện diện một cách đơn sơ, tầm thường nơi hình bánh và rượu, nhưng Đức Giê-su thâm nhập, thẩm thấu và thánh hoá chúng ta mỗi lần được rước Ngài vào lòng. Ngoài ra, Ngài trở nên một với ta, và kết hợp trọn vẹn với ta trên suốt cuộc hành trình trần thế này. Vì thế, chúng ta “…hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời…” (x. Ga 6, 27). Thời đại ngày nay, chúng ta thường làm ngược lại điều này; thay vì nỗ lực sống đạo, thực thi giới răn yêu thương, thì chúng ta lại lao vào thú vui trần thế, tham vọng trần tục, bám víu vào những gì tạm thời chóng qua như tiền-tài-danh vọng. Dường như chúng ta luyến lưu và kết chặt với sự sống sẽ hư mất này, hơn là sự sống đời đời! Thánh Phao-lô đã khuyên nhủ giáo đoàn Ê-phê-sô: “…anh (chị) em chớ ăn ở như dân ngoại…hãy khử trừ lối sống xưa kia, hãy lột bỏ con người cũ, đã bị hư theo những đam mê lầm lạc” (x. Ep 4, 17. 22). Khi được rước Bánh Hằng Sống, chúng ta phải để Đức Giê-su Ki-tô điều phối, hướng dẫn, biến đổi chúng ta trên mọi phương diện. Chỉ như vậy, chúng ta mới có thể “mặc lấy con người mới đã được tác thành theo thánh ý Chúa trong sự công chính và thánh thiện xứng với sự thật” mà thôi (x. Ep 4, 24).
Bánh Thánh nuôi hồn
Trong mọi nơi, mọi lúc, mọi trạng huống, mọi hoàn cảnh, mọi bậc sống, mọi vai trò trách nhiệm, mọi công việc, v.v…chúng ta được mời gọi trở nên giống Chúa, Đấng ban chính mình cho chúng ta. Dĩ nhiên, Ngài không chỉ nuôi hồn chúng ta, mà còn nâng đỡ, chữa lành thân xác chúng ta nữa; để rồi thân xác chúng ta luôn biết làm theo linh hồn, thần trí, vốn thực hiện những gì Chúa dạy và mong muốn. Một khi lãnh nhận Bánh Thánh nuôi hồn – chính Đức Ki-tô – chúng ta “phải để Thần Khí đổi mới tâm trí” (x. Ep 4, 23), vì chưng linh hồn chúng ta luôn vâng phục và thi hành mọi việc mà Thần Khí linh hứng. Có lẽ, chúng ta thiếu thốn về lương thực cho thân xác, nhưng linh hồn được Bánh Thánh nuôi dưỡng, sẽ giúp chúng ta vượt thắng mọi giới hạn thể lý, cũng như nâng đỡ và chữa lành toàn thể con người chúng ta. Nhờ vậy, hơn cả man-na xưa kia, Bánh Thánh nuôi hồn sẽ dìu dắt, đồng hành và gìn giữ chúng ta luôn sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa và với tha nhân.
Giờ đây, chúng ta cùng nhau thầm thỉ cầu nguyện với Chúa Giê-su Thánh Thể đang cư ngụ nơi cõi lòng chúng ta:
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô
Đơn sơ, âm thầm tỏ lộ yêu thương
Trong bánh-rượu hằng náu nương
Chính thật Bánh Thánh phi thường dường bao!
Bánh nuôi hồn tự trời cao
Trở nên tôi tớ, ai nào thấu chăng?
Xin cho con biết siêng năng
Mỗi lần rước Chúa, ân cần trao ban
Được Chúa biến đổi, bình an
Ra đi làm chứng muôn vàn hồng ân. Amen!

59. Ăn để sống… đời đời
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Người không tin vào quyền năng Thiên Chúa, không hiểu biết về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa vẫn thường nhìn người theo đạo Công Giáo với cái nhìn rất con người: theo đạo gạo, theo đạo vợ, theo đạo thời cơ, theo đạo trợ cấp, thậm chí theo đạo để được chôn cất đàng hoàng.
Họ không hiểu rằng Đức Tin vào Thiên Chúa là một ơn huệ nhưng không, và tuyệt đối, Đức Tin càng không phải là sáng kiến, hay thành quả của lý trí, của trình độ, của trí thức, của học vị. Họ đang “suy bụng ta ra bụng người” chăng? Vì giả sử theo đạo mà được Chúa ban cho quyền bính, cho chức vụ, cho lương bỗng, cho gạo cho tiền, thì hết thảy họ cũng đã bỏ mọi thứ mà theo Đạo của Chúa cả rồi. Họ lầm tưởng người công giáo cũng giống như họ là bảo vệ, tôn vinh, sùng kính một đảng phái, một chế độ, một lãnh tụ thế gian vì sợ mất chén cơm, một chỗ đứng, một chỗ ở, một bống lộc để sinh tồn sao?
Hai ngàn năm sau Thiên Chúa Giáng Sinh rồi, mà con người ta vẫn còn chưa nhận ra chân giá trị vĩnh cửu của Con Thiên Chúa làm người. Và cũng chưa nhận ra giá trị tạm thời của của cải vật chất chóng vánh. Họ nghĩ mình chỉ có một sự sống và một lần sống là sự sống ở đời này mà thôi và không thể chấp nhận có một sự sống đời sau trong Thiên Chúa. Bởi thế, ai cũng quá chú trọng đến cái ăn phần xác, tranh thủ hưởng thụ ở đời này, tranh thủ quyền lợi thế gian, và nhất là sống cho thỏa mãn cái phần xác kẻo chết đi mà tiếc nuối.
Cụ thể nhất là trường phái Lôkayata, trường phái triết học duy vật và vô thần triệt để nhất ở Ấn Độ cổ phủ nhận kiếp trước, kiếp sau và đề cao cuộc sống con người nơi trần thế. Họ tuyên bố: “Hãy để cho những kẻ ngu ngốc ngồi nhấm nháp hương vị của kiếp trước, kiếp sau, của thiên đường, địa ngục…còn chúng ta những người duy vật thì chỉ có một cuộc đời thực trên trần thế này, đời người chỉ sống có một lần, nên con người cần phải tận hưởng cuộc sống nơi trần thế, không có gì phải kiêng cữ, kẻo mai sau chết đi lại luyến tiếc không được tận hưởng hương vị cuộc đời”. (theo TS.Trần Hồng Lưu).
Chuyện ngày xưa là như vậy. Ấn Độ thưở xưa là như vậy. Thế mà ngày nay ở Việt Nam cũng như vậy. Ngày xưa “ăn no mặc ấm”, ngày nay “ăn ngon mặc đẹp”. Và hơn thế nữa, chăm sóc sức khỏe thể lý cho mình đang trở nên cao trào khi điều kiện kinh tế vật chất có phần nào khấm khá hơn trước. Bởi vậy mới có đủ loại quảng cáo rằng: “Cần ăn gì để sống khỏe?” “Cần ăn gì trong khi mang thai?” “Cần ăn gì để trường thọ?” Thậm chí còn có cả cao trào không chỉ sống khỏe mà còn phải đẹp đẽ, sung mãn, cường tráng, nên lại có các loại tiếp thị không cần trơn mắt cũng thấy: “Ăn gì đẹp da?”? “Cần ăn gì để có sức yêu”…. “Ăn gì sung độ, cường tráng, dẻo dai”.
Có cả trăm ngàn loại thuốc thực phẩm chức năng giúp con người ta hôm nay phòng chống chữa bệnh và kiện toàn sinh lực. Cùng với trăm ngàn loại thuốc, trăm ngàn cách thẩm mỹ khác làm cho con người ta đẹp ra, trẻ ra, sống lâu, trường thọ. Hẳn là, thỉnh thoảng lại thấy trong hộp mail của bạn, của tôi bản tin rằng người Trung Quốc ăn cả thai nhi con người, mà người ta gọi là “hàng nàm cao cấp”, để không chỉ khỏe mà còn cường tráng lâu bền trong các sinh hoạt tình dục.
Quả thật, cái ăn nó quan trọng dường nào cho sự sinh tồn của mỗi con người trên trần gian.
“Sống không để ăn, nhưng ăn để sống”. Con người đang khai thác triệt để ý nghĩa này cho cuộc sinh tồn của chính mình. Và cuối cùng là không phải “ăn để mà sống” nhưng là “Ăn, kẻo chết không ăn được”.
Tôi chợt nhớ câu chuyện: “Có một quán phở kia mới khai trương. Dưới bảng hiệu, có kèm theo câu quảng cáo ý nghĩa: “Nếu bạn không sống để ăn, thì hãy ăn cho tôi và người khác được sống”.
Chưa nói đến cái ăn của Kitô Hữu Công Giáo, thì cái “Ăn cho người khác sống”, thiêt tưởng cũng đã vượt lên cái bình thường và mang một ý nghĩa đẹp.
Cha mẹ phải cố gắng ăn và khỏe để lo cho con cái. Con cái phải cố gắng ăn để khỏe vì khỏe là niềm vui của cha mẹ, là đỡ cho cha mẹ một nỗi lo. Con cái phải giữ gìn sức khỏe, phải biết bảo trọng, để cha mẹ được yên lòng. Người bạn đời phải cố gắng tối đa để khỏe, thêm niềm vui, thêm hạnh phúc cho gia đình, bớt nỗi sầu bệnh hoạn, bớt tốn kém tiền bạc, bớt mất ngủ hầu quạt hầu ru.
Cách “ăn để người khác sống” – sống ở đời này, cũng là một nét văn hóa đẹp, mang đậm nét văn hóa Kitô Giáo: Ăn vì lòng Bác Ái.
Nhưng điều thiết yếu hơn cả vẫn là sứ điệp Tin Mừng hôm nay “hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu”
“Của ăn tồn tại muôn đời” là chính Thịt Máu Chúa Giêsu ban cho những kẻ TIN. TIN là công việc tiên khởi và quyết định cho việc ăn chính Thịt Máu Chúa Giêsu để có sự sống đời đời.
Trong khi thiên hạ tìm kiếm cái ăn hay hư nát cho thỏa mãn cuộc sống hay hư nát ở phàm trần, thì người Công Giáo lại đi tìm cái ăn cho được sự sống đời đời. Tưởng như là dở hơi hay ngu ngốc, nhưng thật ra, các Kitô Hữu Công Giáo đang tìm cho mình một cuộc sống chắc chắn nhất, lâu bền mất, mà chỉ có Đức Tin Công Giáo mới có thể thấu hiểu.
Mỗi người chúng ta nhìn lại, ngày ấy, trong Bí Tích Rửa tội mà chúng ta đã lãnh nhận, và cũng như mới đây, những Tạ Phong Tần, Mary Huỳnh Thục Vy, Maria Nguyễn Hoàng Vi và Mônica Trịnh Kim Tiến lãnh nhận, người được rửa tội được hỏi: “Con đến xin gì cùng Hội Thánh”. Người lãnh nhận Bí Tích Rửa tội thưa: “Thưa con xin Đức Tin”. “Đức tin mang lại điều gì cho con?” “Thưa Đức Tin mang lại cho con sự sống đời đời”.
Chính vì “Sự Sống Đời Đời”, mà người ta theo Đạo Chúa. Nghĩa là, người ta TIN Chúa có thể ban cho họ sự sống đời đời sau sự sống này.
Đức tin ấy được củng cố kiên cố nhờ yêu mến và ước ao rước lấy Mình Máu Chúa Giêsu, mà chính Ngài xác nhận: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”.
Đức tin ấy trở thành “sự sống đời đời” cho mỗi tín hữu, khi xác tín rằng trong con người hay hư nát, có con người không hề hư nát, có cuộc sống phục sinh.
Và nhờ Đức Tin ấy, các Kitô Hữu Công Giáo sẽ không ngại hy sinh gian khó, không ngại áp bức hay tù đày, không ngại cùm gông hay xiềng xích để làm chứng cho thiên hạ rằng: Có Một Cuộc Sống Đời Sau, và muốn chiếm hữu cuộc sống ấy thì hãy sám hối ngay, hãy cải tà qui chánh, hãy tôn trọng sự sống con người, hãy sống theo sự thật, công lý, nhân ái, bình an….
Họ đã và đang sống nhờ sức sống của Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô. Họ sống sự sống đời đời trong thân xác hay hư nát.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con yêu mến Thánh Thể Chúa hơn muôn ngàn thực tại trần gian. Và nhờ Thánh Thể Chúa, xin cho chúng con đủ sức chiến đấu cho cuộc chiến chính nghĩa của Thiên Chúa trên trái đất nầy, nơi quê hương trần gian này. Amen.

60. Ta là Bánh Hằng Sống
(Suy niệm của Noel Quesson)
Luy Latô (Louis Lateau), một người Bỉ được in năm dấu vào năm 1868. Từ nhỏ, cô đã bị đau yếu, ít ăn uống, nhất là sau khi được in năm dấu thánh, cô chỉ còn ăn chút ít, mỗi ngày một mẩu bánh nhỏ. Và kể từ 1871 trở đi, suốt bảy năm, cô không ăn uống gì nữa, chỉ còn rước lễ hàng ngày.
Thời gian gần đây, có những người được ơn lạ. Trong số những người đó, có Têrêxa Niu-man và Matta Robin đã không ăn uống trong nhiều chục năm. Có lẽ Chúa Giêsu muốn chúng ta nhớ điều này: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh…”. Dĩ nhiên hai cuộc sống nói ở đây là khác biệt, nhưng đều quan trọng cho một đời người.
Trong sinh hoạt trần thế của con người, có lẽ những bận tâm, những nỗ lực tìm kiếm của nuôi thân đã mất nhiều công sức và thời giờ hơn cả. Chúa nhìn ra tâm trạng đó ngay trong đám dân đi theo Người: “Các ngươi tìm Ta không phải vì xem thấy dấu lạ nhưng vì đã được ăn bánh no nê”. Và có những người khi nghe Chúa nói tới bánh là họ hiểu ngay theo nghĩa đen. Cũng như người phụ nữ bên bờ giếng Gia-cóp, nghe Chúa nói về nước, bà xin ngay: “Xin cho tôi nước đó để tôi khỏi phải đi múc nước ở đây”.
Tâm tình này là đúng. Nhưng ngoài nhu cầu thân xác, còn có nhu cầu tâm linh nữa. Nhu cầu tâm linh hay lương thực nuôi hồn là gì? Lương thực nuôi hồn là lời Chúa, là chính Chúa. Chỉ khi nào con người tìm về với Chúa, mới được no thỏa, dù có ý thức điều đó hay không. Ngôn sứ Amos đã nói về niềm khát khao Chúa như một cơn đói trầm trọng: “Sẽ có lúc cả xứ bị đói, không phải là đói cơm bánh, không phải là khát nước, mà là đói khát lời Chúa” (Am 8,11). Ngôn sứ Giêrêmia cũng cảm nghiệm điều đó: “Gặp được lời Chúa, tôi đã nhai đã nuốt vào. Lời Chúa làm no thỏa hồn tôi và làm tôi hân hoan” (Gr 15,16). Và chính Chúa cũng đã nói với các môn đệ: “Thầy có một thứ lương thực mà anh em không biết, đó là làm theo ý Đấng đã sai Thầy và chu toàn công việc của người” (Ga 4,32-34), Bởi thế, Chúa nói: “Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta, sẽ không phải đói. Ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”.
Lạy Chúa, chúng con kiếm tìm Chúa như tìm kiếm của ăn đích thực cho tâm hồn. Chỉ một mình Chúa, mới đem lại cho chúng con sự sống và niềm vui thực.

61. Một trái tim đói khát
Vai chính trong cuốn phim về một nhóm ca sĩ “Damn Yankees” là một người đứng tuổi, tên là Joe Boyd. Từ khi còn bé, Joe đã ước mơ một ngày nào đó, anh sẽ trở thành một cầu thủ nổi tiếng chơi banh baseball. Bây giờ Joe đã lớn tuổi, giấc mơ không thể thực hiện được nữa, nhưng chàng vẫn tiếp tục mơ ước.
Rồi vào một buổi tối nọ, một điều kỳ lạ đã xảy ra. Một người đàn ông tên Applegate đã đi vào cuộc sống của Joe. Applegate đã nói với Joe rằng ông có thể giúp Joe thực hiện giấc mơ của mình.
Ông có thể làm cho Joe, từ một người đàn ông đứng tuổi, trở thành một cầu thủ 22 tuổi chơi cho đội banh Washington Senators. Vào thời đó, đội Washington là một đội trong liên hội Hoa Kỳ (American League). Tuyệt vời hơn nữa là Joe không những sẽ trở thành cầu thủ nổi tiếng, mà còn giựt được cờ vô địch New York Yankees.
Applegate là ai vậy? Có lẽ chúng ta có thể đoán ra được câu trả lời rồi, đó là thằng quỉ đội lớp người.
Sau khi nói sơ qua những gì Joe sẽ được, thì Applegate ra một điều kiện là anh phải bán linh hồn mình cho nó để đổi lấy danh tiếng.
Joe đã không nghĩ ra được một lý do gì mà không đồng ý với thằng quỉ Applegate để thực hiện giấc mơ của mình. Sau cùng, Joe đã đồng ý với thằng quỉ nhưng với một điều kiện là nếu bất thình lình trước khi giựt được cờ vô địch thì hợp đồng vẫn có thể bị hủy bỏ. Applegate nghĩ rằng một khi Joe đã được nổi tiếng rồi thì chắc chắn anh sẽ bị danh tiếng làm cho ngu muội và sẽ không bao giờ hủy bỏ hợp đồng, và nó đã đồng ý.
Sau khi mọi sự đã được thỏa thuận, Joe đã hôn lên má người vợ đang ngủ của mình và để lại một tấm giấy với những lời tạm biệt. Joe bắt đầu một cuộc sống khác.
Joe đã gia nhập vào đội banh Senators như là một lính mới và dần dần anh đã được nổi tiếng trong nhóm. Joe đã được nhiều người thích baseball mộ mến, và nhiều người trẻ đã coi Joe là một thần tượng. Nhiều người già còn mơ ước rằng Joe là một trong những người con của họ.
Đó là những giây phút thật hào hứng. Anh không bao giờ dám nghĩ rằng cuộc sống của anh tràn đầy sự ngọt ngào như thế. Anh không bao giờ dám mơ rằng thế giới tuyệt vời đến thế.
Tiếp tục cuốn phim, một điều không ngờ đã xảy ra cho Joe. Mặc dù có danh tiếng và vận may Joe vẫn thấy chán nản. Một buổi tối nọ, Joe đã ngồi và nhìn vào một bức tường, và trong thâm tâm của anh, anh đang nhìn thấy một sự trống rỗng. Danh tiếng và vận may không có thể nào làm cho tâm hồn no thỏa được. Và Joe vẫn không hiểu tại sao.
Rốt cuộc, ngày hạn đã sắp đến để giao linh hồn mình cho quỉ. Còn danh tiếng, cờ hiệu, trong tâm trí của Joe chỉ là con số không. Sau cùng, Joe đã quyết định một việc mà anh không bao giờ nghĩ đến đó là trước khi giựt được giải cờ hiệu, anh sẽ hủy bỏ hợp đồng với Applegate.
Có lẽ rằng lý do mà Joe hủy bỏ hợp đồng là bởi vì trong tâm trí của Joe, anh đã nghe được tiếng nói của Chúa Giêsu: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn mình thì được ích gì?” (Lc 9:25).
Cho dù là lý do nào đi nữa thì Joe đã biến khỏi thế giới của môn thể thao baseball một cách huyền bí giống như lúc anh bước vào.
Một vài ngày sau, Joe đã trở về căn nhà của mình. Anh hôn vợ của mình và anh đã trở lại một người đàn ông đứng tuổi hồi trước, Joe Boyd, một người đã từng mơ ước để trở thành một cầu thủ baseball nổi tiếng.
Câu truyện của Joe Boyd nói lên một tư tưởng mà chúng ta gặp thấy trong bài Phúc Âm hôm nay: “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời… Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ.”
Điều mà Chúa Giêsu phán có thể được tóm gọn trong một câu: Không vật gì ở thế gian này có thể thỏa mãn được trái tim đói khát của con người.
Đó là bài học mà chúng ta cần phải biết nếu chúng ta muốn đi tìm sự hạnh phúc thật. Danh tiếng và của cải sẽ hứa cho chúng ta được no thỏa về phần xác, nhưng đến cuối cùng nó chỉ làm cho chúng ta càng thêm đói khát.
Trong một vài phút nữa đây, chúng ta sẽ chia sẻ với nhau tấm bánh hằng sống. Chúng ta cùng nhau xin Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ quên đi một chân lý cao cả mà Chúa Giêsu đã dạy trong bài Phúc Âm: của ăn uống của thế giới vật chất này không bao giờ no thỏa trái tim đói khát của chúng ta và trái tim chúng ta được dựng nên cho Chúa và sẽ chỉ được yên nghỉ trong Chúa mà thôi.

62. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. GB Phạm Hồng Thái)
Trong kinh Tiền tụng bao giờ cũng có lời Chủ tế kêu gọi: “Hãy nâng tâm hồn lên!” Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Chúa luôn luôn muốn mọi người phải nâng tâm hồn lên. Chúa mới làm phép lạ Hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng ăn no nê. Họ phấn khởi tới mức muốn tôn Chúa làm vua nên Chúa phải trốn lên núi một mình, rồi họ tiếp tục tìm tới Chúa ở Capharnaum, Chúa không muốn họ chỉ tìm Chúa vì bánh ăn vật chất, nên Chúa nhắc nhở họ như sau: “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”. Trong khi dân tìm kiếm bánh vật chất, thì Chúa Giêsu giới thiệu cho họ Bánh Hằng sống cũng như người phụ nữ Samari chỉ lo múc nước từ giếng Giacop, thì Chúa Giêsu giới thiệu cho chị Nguồn Nước có mạch vọt tới sự sống đời đời
Khi dân chỉ biết có Manna mà tổ tiên họ được Chúa ban cho ăn trong sa mạc, thì Chúa Giêsu hướng họ tới Manna nhiệm mầu là chính Chúa Giêsu trở nên bánh hằng sống đem lại sự sống đời đời cho thế gian. Manna chỉ cứu đói cho dân Do thái nơi hoang địa, còn Chúa Giêsu là Bánh nên lương thực thiêng liêng không phải chỉ cho người Do thái mà cho cả thế gian, điều này cho thấy Chúa Giêsu là Mosê mới vượt hơn Mosê xưa bội phần vì Chúa Giêsu là Bánh bởi trời ban sự sống cho thế gian trong khi Manna qua Mosê chỉ nuôi dân Do thái trong sa mạc
Về chuyện lương thực người ta thường nói: khi đói thì mong được ăn no, khi đã được ăn no thì muốn được ăn ngon, và khi được ăn ngon thì chỉ muốn ăn những gì có lợi cho sức khỏe, nhưng của ăn vật chất không làm thỏa mãn được chúng ta như lời Chúa nói: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”(Mt 4, 4)
Ông Gióp nói: “Thân trần truồng sinh ra từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng (G 6, 20)”. Thánh Phaolô cũng nhắc chúng ta chân lí như vậy: “Bởi vì chúng ta không mang gì vào trần gian này, thì cũng chẳng mang gì ra được (1Tm 6, 7)”. Việt Nam chúng ta có câu ca dao: “Vua Ngô ba mươi chín tấn vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì”
Câu chuyện: Tại Nước Pháp có một thương gia giỏi, buôn bán rất thành công. Ông đặt ra phương châm là: làm việc, ăn nhậu và chơi bời. Sau ông bị bệnh thần kinh thanh quản khiến ông bị câm và nhất là phải nằm liệt. Trên giường bệnh ông cảm thấy rất thất vọng và chán nản. Trước khi chết, ông bảo đem cho ông bút giấy và ông yêu cầu khắc dòng chữ sau đây trên bia mộ của ông : “Đây là người dại dột: đã sống mà không biết sống. Hỡi những người đang sống: chớ gì sự vô phúc của kẻ chết mở mắt các ngươi”. Ông thương gia này lúc gần chết mới nhận ra sự dại dột trong đời sống của mình, không biết ông có kịp ăn năn hoán cải không?
Vì thế chúng ta cần tìm kiếm những gì cao siêu hơn vật chất như lời Chúa Giêsu dạy “hãy ra công làm việc…” Để có của ăn vật chất đương nhiên con người phải ra công làm việc nhưng để có của ăn thiêng liêng con người cũng phải ra công làm việc và ra công làm việc đây được Chúa Giêsu cho biết là: tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến và ở cuối đoạn Tin Mừng này Chúa Giêsu nói: “Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào ta sẽ không hề khát bao giờ”. Như vậy sứ điệp Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay là phải đến với Chúa và Tin vào Chúa. Đến với Chúa không phải chỉ trông đợi ở Chúa bánh ăn vật chất mà chính là để có được Bánh Hằng sống là Lời Chúa và Mình Máu thánh Chúa. Còn lòng tin Chúa sẽ giúp chúng ta được ơn cứu độ như lời Chúa : “Ai tin thì và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ, còn ai không tin thì sẽ bị kết án (Mc 16,12). Lòng tin Chúa thể hiện qua những việc làm Bác ái, thông cảm và tha thứ cho nhau tức là thực thi lòng Mến Chúa Yêu Người… vì đức tin không có việc làm là đức tin chết (Gc 2,17)
Ngày nay chúng ta đến với Chúa qua đức tin và đời sống cầu nguyện. Trong thời kỳ cách ly do dịch bệnh Covid này, chúng ta phải ở nhà, hạn chế tối đa việc đi ra ngoài. Vậy để duy trì và gia tăng đức tin thì hơn lúc nào hết chúng ta hãy thực hiện lời Chúa Giêsu: “Còn con khi cầu nguyện thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn và Cha con Đấng thấu suốt mọi bí ẩn sẽ trả công cho con” (Mt 6,6).
Như người Do thái đã xin Chúa Giêsu cho họ ăn Bánh ban sự sống luôn mãi, và như phụ nữ Samari xin Chúa cho uống Nước Hằng sống, chúng ta đến với Chúa, xin Chúa ban Bánh và Nước Hằng sống cho chúng ta để chúng ta được no thỏa như lời Chúa : “Ai đến với Ta sẽ không hề đói và ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”. Amen.

63. Thánh lễ
Thánh lễ là nơi chúng ta tham dự vào bàn tiệc Mình Máu Thánh Đức Kitô, là nơi lặp lại hy tế Núi Sọ.
Theo Công đồng Vatican II, hy tế này là cội nguồn và chóp đỉnh của toàn bộ đời sống Kitô hữu. Là cội nguồn vì tất cả đời sống Kitô hữu đều phát sinh từ đó. Là chóp đỉnh vì tất cả đời sống Kitô hữu đều phải qui về đó.
Thế nhưng, một số người đã coi việc tham dự thánh lễ như chuyện miễn cưỡng phải tuân giữ. Họ cảm thấy thánh lễ không liên quan gì đến cuộc sống của họ. Rốt cuộc thánh lễ bị bỏ rơi. Nhà thờ ngày Chúa nhật cũng vắng bóng người. Đó là điều đã và đang xảy ra tại các nước Phương Tây, nhưng rồi cũng sẽ là điều xảy ra cho chúng ta.
Khi đi tham dự thánh lễ, chúng ta mang theo thế giới mình đang sống như một hành trang, như một lễ vật. Rồi từ thánh lễ bước vào lại thế giới, để biến thế giới, biến cuộc đời thành một thánh lễ nối dài.
Nhiều khi vì nghĩ rằng cử hành thánh lễ là chuyện của linh mục, còn lễ vật dâng lên là hy tế của Đức Kitô, nên nhiều người đã đi tham dự lễ với hai bàn tay trắng.
Thực ra, thánh lễ đòi hỏi con người nhiều nỗ lực cả trước lẫn sau thánh lễ. Những nỗ lực đụng chạm đến cuộc sống thâm sâu của con người. Tham dự thánh lễ một cách nghiêm chỉnh, không dễ như chúng ta lầm tưởng. Càng được chuẩn bị kỹ lưỡng, thánh lễ càng sinh nhiều hiệu quả.
Cha Teilhard de Chardin đã dùng lễ vật của trái đất để dâng lễ khi viết:
“Tôi là linh mục của Ngài, trên bàn thờ là toàn thể trái đất, tôi sẽ dâng lên Ngài những lao công vất vả cùng với nỗi đau thương của thế giới. Tôi sẽ đặt trên đĩa thánh mùa gặt được đợi chờ từ những cố gắng mới. Tôi sẽ rót vào chén thánh nước cốt của tất cả những hoa trái sẽ được nghiền nát trong ngày hôm nay. Chén thánh và đĩa thánh của tôi là những phần thâm sâu nhất của một tâm hồn được mở rộng để đón nhận tất cả mọi năng lực, trong chốc lát, sẽ dâng lên từ muôn phương của địa cầu và sẽ qui tụ về thần linh”.
Việc dâng lễ sẽ trở nên xa lạ nếu thực sự bánh và rượu không tượng trưng cho chút đóng góp của người đến tham dự.
Công đồng Vatican II cũng đã nói nhiều đến việc dâng lễ. Lễ vật là bản thân tôi, là cuộc đời tôi, là mọi hoạt động của tôi. Như thế, việc dâng hy tế của Đức Kitô không loại bỏ việc chúng ta dâng hy tế đời mình lên cho Thiên Chúa.
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta đi tới hai kết luận.
Kết luận thứ nhất, đó là thánh lễ giúp chúng ta đón nhận thập giá đời thường. Bởi vì tất cả những khổ đau và bất hạnh, những đắng cay và buồn phiền sẽ được chúng ta góp lại, trở thành lễ vật của chúng ta, kết hiệp với lễ vật của Đức Kitô mà dâng lên Thiên Chúa.
Kết luận thứ hai, đó là thánh lễ dạy chúng ta biết bẻ bánh cho nhau, có nghĩa là biết yêu thương nhau trong đời thường. Bởi vì tất cả chúng ta cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Một số tín hữu ở Corinthô, khi tham dự nghi thức bẻ bánh, chỉ biết lo cho bữa ăn riêng của mình trước, và như thế, kẻ thì đói khát, người thì lại no say. Thái độ ích kỷ này hoàn toàn trái ngược với tinh thần hiệp thông và chia sẻ của thánh lễ.
Sống tinh thần hiệp thông và chia sẻ với người khác, chính là dấu chỉ cho thấy chúng ta đã thực sự tham dự thánh lễ và đã biến cuộc sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài.

64. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
Anh Chị Em rất thân mến, trong những ngày tháng qua khi mà mọi người đang phải chịu cách ly, phong tỏa để đề phòng và ngăn ngừa dịch bệnh, trong lúc này, điều gì, việc gì đã và đang luôn xâm chiếm tư tuởng cũng như lòng trí nhiều người trong chúng ta? Điều gì làm cho chúng ta lo lắng, băn khoan hay trăn trở nhất? Thực ra, chưa có cuộc nghiên cứu hay điều tra để biết cho chính xác, nhưng qua tin tức và tình hình chung, tôi thiết nghĩ rằng: vấn đề mà làm cho nhiều người lo sợ nhất đó chính là: sợ đói, sợ không có gì để ăn. Nếu hỏi rằng: sợ bị lây nhiễm covid hơn hay là sợ đói hơn thì chúng ta trả lời như thế nào? Ai cũng biết sự lây lan rất nguy hiểm và rất nhanh của covid nơi đông người, thế nhưng, nếu không bị cấm đi ra ngoài và cấm tập trung đông người, thì chắc nhiều người vẫn cứ đi ra ngoài và tụ tập. Một điều khác, nói lên tâm trạng sợ hãi này nơi tâm lý của nhiều người là: một ngày trước khi biết phải bị cách ly, bị phong tỏa, hay bị đóng chợ…rất nhiều người đã tranh thủ, đổ xô đi ra chợ và siêu thị để mua đồ, bất chấp đây nơi đông người, là nơi mà mình sẽ có nguy cơ bị lây nhiễm virut cao…điều này chẳng mấy ai còn quan tâm, họ chỉ còn biết rằng, phải chen nhau để làm sao để có thể mua cho được nhiều đồ ăn, chứ không thì lấy gì mà ăn; quá nhiều người đã tranh nhau để đi mua đồ ăn, họ đi mua nhiều đến nỗi có người còn cho rằng đây là “ngày 30 của Tết-Covid”.
Thưa ACE, sợ đói, sợ không có gì để ăn là bản năng sinh tồn của con người, đây không phải là điều mới mẻ. Nếu chúng ta đọc trong bài đọc một từ sách Xuất hành, năm xưa dân Israel trong sa mạc đã kêu trách Chúa và Môisê: “Thà chúng tôi chết trong đất Ai Cập do tay Chúa, khi chúng tôi ngồi kề bên nồi thịt và ăn no nê. Tại sao các ông dẫn chúng tôi lên sa mạc này, để cả lũ phải chết đói như vầy?” Đúng vậy, họ kêu trách vì có lý do, vì trong sa mạc, thì lấy cái gì để mà ăn, những đồ ăn mà họ đem theo khi ra khỏi Ai Cập, nay đã không còn, họ thấy tương lai của họ quá mù mịt và nguy hiểm đến tính mạng trong nơi hoang vắng này. Nhưng đúng ra, dân chúng đã không còn tin vào Chúa qua sự dẫn dắt, lãnh đạo của Môisê. Thiên Chúa là Đấng đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ của vua Pharaon tại Ai Cập, họ đâu có thấy, họ đã quên mất, Đấng đã làm cho nước rẻ ra hai bên để họ có thể đi vào trong lòng biển khô cạn, cứu thoát họ khỏi sự đuổi bắt và giết chết của những chiến sa và kỵ binh của Pharaon, họ đã không còn nhớ gì. Giờ đây, họ chỉ biết cái bụng đang cồn cào vì đói, với bản năng sinh tồn, họ sợ mình sẽ bị chết vì đói. Họ đã mất hết lòng tin vào Thiên Chúa. Dẫu rằng dân đã kêu ca, phàn nàn, than trách Chúa, họ đã không còn tin vào sự quan phòng và ơn cứu sống của Chúa nữa; Chúa đã biết rõ lòng dạ của con người, nhưng vì là Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương, Ngài đã ban cho họ có Manna và chim cút để ăn, không phải chỉ một hai ngày mà trong suốt gần 40 năm dài trong sa mạc.
Thật vậy, Thiên Chúa biết rất rõ bản năng sinh tồn của con người chúng ta là: luôn cần phải có thức ăn. Trong bài Tin mừng theo Thánh Gioan, sau khi dân chúng đã được Chúa nuôi dưỡng, cho họ ăn no nê, chỉ từ 5 chiếc bánh và 2 con cá. Dân chúng, bắt đầu kéo nhau đi tìm Chúa Giêsu. Họ đi tìm Chúa để làm gì? Chúa Giê su khi thấy dân chúng Ngài đã nói: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê.” Thực tế trong cuộc sống của con người chúng ta là vậy. Tin vào Chúa, mà cái bụng đang đói, tin vào Chúa mà không thấy có cái gì để ăn, tin vào Chúa mà thấy cái chết sắp cần kề…liệu rằng có mấy ai còn muốn tin vào một Thiên Chúa đầy tình yêu thương, quan phòng chở che hay không? Họ phải tự tìm cách cho mình.
Chúa Giêsu biết rất rõ những nhu cầu thiết yếu của dân chúng, Ngài đã chạnh lòng thương mà giảng dạy, nuôi dưỡng và cứu sống họ. Nhưng điều quan trọng mà Chúa muốn mời gọi đó là: Hãy tin vào Ngài, Ngài thực là con Thiên Chúa, Ngài là dấu chỉ tình yêu thương đích thực, là của ăn thần lương mà Thiên Chúa dành cách đặc biệt để ban cho con người chúng ta. “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Ðấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu”.
Kính thưa ACE, giờ đây, chắc rằng không ai trong chúng ta mà không khỏi băn khoan, thao thức, không phải chỉ lo cho bản thân mình lấy gì mà ăn, nhưng chúng ta còn lo lắng, thương cảm cho những ACE mình đang ở vùng tâm dịch, họ thực sự giờ đây đang phải rất vất vả để có chút gì mà ăn, đặc biệt những người nghèo, những người đang gặp đau khổ vì dịch bệnh…nhưng liệu rằng chúng ta có còn tin vào chính lời nói của Chúa Giêsu hay không? “Chúa Giêsu nói: Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”. Thực ra, tin vào Chúa như lời Chúa Giêsu dạy không phải là một lòng tin thụ động, lòng tin mù quáng hay tin mà thiếu khôn ngoan-suy luận; tin vào Chúa không phải cứ ngồi một chỗ mà không làm gì, rồi chờ Chúa nuôi sống và cho ăn.
Như vậy thưa ACE, đến với Chúa, tin vào Chúa, để được Chúa nuôi sống, không phải lo đói và khát bao giờ có nghĩa là gì? Chúa ban cho mỗi người chúng ta có sự khôn ngoan biết biện phân, biết lựa chọn. Do đó, trong mọi sự, trước hết chúng ta hãy chọn Chúa, chọn làm theo thánh ý Chúa, chọn điều thiện, chọn tình yêu thương và điều tốt, chọn lựa này không phải chỉ cho lợi ích của bản thân mình mà thôi, nhưng cho thiện ích của ACE. Đây chính là lời khuyên mà Thánh Phaolo trong thư thứ hai gởi tín hữu Êphêsô khi Ngài nói: “Anh em hãy trở nên mới trong lòng trí anh em, hãy mặc lấy người mới đã được tác thành theo thánh ý Chúa trong sự công chính và thánh thiện xứng với sự thật.” Thật vậy, là người tin vào Chúa, là con cái Chúa, là môn đệ của Chúa Giêsu, mong ước rằng trong mọi suy nghĩ, cách cư xử, lời nói cũng như hành động của mỗi người trong chúng ta luôn được ánh sáng của Lời Chúa và Thánh thần soi dẫn, hầu trong mọi sự chúng ta luôn tìm kiếm và làm theo những gì là thánh thiện, tốt lành, điều đem lại ơn ích cho tha nhân.
Vững tin vào tình thương của Chúa, cho dù trong mọi nghịch cảnh, Thi.ên Chúa vẫn đang ban ơn nuôi dưỡng và cứu sống chúng ta theo cách của Ngài. Chúng ta hãy khiêm tốn, quảng đại mở rộng tâm hồn, mở rộng lòng trí để cho cách thế và ơn thánh của Chúa được thực hiện. Mong ước rằng, nhờ đời sống cầu nguyện, gắn bó mật hiết với Chúa trong tin yêu, chúng ta biết khôn ngoan tìm kiếm, lựa chọn và làm theo những gì Chúa soi sáng và chỉ dạy.
Lạy Chúa, dẫu rằng chúng con phải mang thân phận yếu đuối với bản năng của con người là luôn tìm kiếm những của ăn cho đời sống thể xác, xin Chúa hãy ban ơn giúp sức, để chúng con, với tước hiệu và bản năng là con cái Chúa, luôn biết tìm kiếm thánh ý Chúa, luôn làm vinh danh Chúa và đem lại lợi ích thiện hảo cho tha nhân. Amen.

65. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
GIÊSU: BÁNH BAN SỰ SỐNG THẬT!
Kính thưa quý anh chị em,
Cha Antonio de Mello kể câu truyện ngụ ngôn: Sau khi tạo dựng thế gian và mọi loài trong đó, Chúa trao phó cho con người quản trị, canh tác, tạo cơm bánh để sống. Bẵng đi một thời gian lâu dài, Ngài muốn xuống thị sát thế gian, để biết con người làm lụng, ăn uống, sinh hoạt thế nào!
Trước khi giáng trần, Chúa sai các thiên thần đi tiền trạm. Họ rảo khắp hang cùng ngõ hẻm, mọi nơi, thị sát, ghi chép, thống kê…
Bản tường trình được được gởi về “trời” nêu rõ hai vấn đề nhức nhối: nạn thất nghiệp tràn lan và rất nhiều người đói khát. Sau một thoáng thinh lặng, Chúa phán: “Phen này xuống trần, Ta sẽ là “bánh” cho người đói khát và là “công việc” của kẻ thất nghiệp”.
Vui mừng và hạnh phúc biết bao “Tin Mừng” đã đến thế gian! Thế nhưng cũng phải tự hỏi xem “phen này là lúc nào”.
Không còn phải đắn đo gì nữa mạc khải xác định “phen này” chính là thời sau hết đây, Thiên Chúa sai “Con Một” giáng trần, sinh làm con một người phụ nữ, sống dưới chế độ lề luật, để giải phóng những kẻ ở trong lề luật. Đức Giê-su Kitô, Chúa chúng ta, là “Bánh” bởi trời đích thực, được ban tặng để thế gian được sống và sống dồi dào.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay phác họa dung mạo Giê-su, Bánh thật bởi trời và Người mời gọi con người tin vào Thiên Chúa. Khi tin và sống giáo huấn của Người, chúng ta đang làm công việc của chính Thiên Chúa, đáng được ban tặng sự sống đời đời.
Bài đọc I, trích sách Xuất Hành, tường trình việc Chúa nuôi dân trong sa mạc bằng Man-na từ trời rơi xuống đầy dẫy quanh trại của dân.
Công việc của họ là thu gom ai muốn bao nhiêu tùy thích, rồi chế biến làm thức ăn. Thoạt nhìn thấy, họ không biết là thứ gì. Mô-sê phải giải thích: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn” (Xh 16, 15b).
Thật vậy, khi thu lượm “Man-na” dân được ngụp lặn trong lòng thương xót, vì man-na chính là tặng phẩm từ trời, và khi ăn thứ bánh này, họ được bổ dưỡng bởi chính Chúa, vì Ngài là bánh của dân.
Bài sách thánh vừa tuyên đọc là hình ảnh tiền trưng chuẩn bị cho thực tại phải đến khi thời gian tới hồi viên mãn: Đức Giê-su Kitô, Bánh đích thực từ trời phải đến, để thế gian được sống và sống dồi dào.
Bài Tin Mừng vừa tuyên đọc là câu trả lời cho phán quyết chung cục của Thiên Chúa “phen này xuống trần gian, Ta sẽ là bánh cho kẻ đói khát và là công việc cho người thất nghiệp”.
Nếu xưa kia, dân Chúa tìm kiếm “man-na” để duy trì sự sống, hôm nay, dân chúng theo Chúa Giê-su để có bánh ăn no nê.
Hai sự tìm kiếm cùng chung một mục đích là để được “sống và sống dồi dào”, nhưng kết quả ban tặng lại quá chênh lệch: kẻ thu lượm man-na dừng lại nơi sự sống tự nhiên, sau đó phải chết ; còn người đón nhận Giê-su, bánh bởi trời đích thực sẽ vượt qua sự chết mà vào sự sống, vì Giê-su là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời.
Vì lẽ đó, dân chúng tìm kiếm và muốn giữ Giê-su ở lại, để hằng ngày họ được có bánh ăn!
Suy nghĩ của dân chúng thời Chúa Giê-su, cũng là suy nghĩ của một số người thời đại hôm nay: luôn ao ước Chúa làm phép lạ đáp ứng các nhu cầu cá nhân. Họ cũng không ngại ngùng đi tìm và luôn nghĩ rằng đến với người này hay địa điểm kia thì sẽ có “phép lạ”. Suy nghĩ kiểu này, phản ảnh nơi họ một thứ tôn giáo vụ lợi, tạo môi trường thuận lợi cho “mê tín, dị đoan” nảy sinh ngay trong việc thực thi lòng đạo.
Dân chúng hôm nay hồ hởi tìm kiếm Chúa không phải vì lòng tin chân thành mạnh mẽ, nhưng vì hiếu kỳ, vì thấy rằng Giê-su có thể đáp ứng tức thời những nhu cầu trước mắt: có bánh ăn, mà không phải vất vả làm lụng. Các ngươi tìm ta không phải vì tin vào Thiên Chúa, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê.
Đối với Chúa Giê-su, bánh sự sống chỉ có thể được trao ban khi họ biết dốc lòng làm công việc của Thiên Chúa: tin vào Đấng Cha sai đến.
Vâng, chỉ có đức tin mạnh mới nhận ra Giê-su bởi trời mà đến, chỉ có đức tin mạnh mới có thể tuyên xưng Giê-su là Thiên Chúa thật và là người thật. Và cũng chỉ khi có đức tin mạnh mới có thể đón nhận mầu nhiệm tử nạn và phục sinh, vốn là nguồn gốc của bánh bởi trời được ban tặng vì sự sống trần gian.
Một khi sống niềm tin vững mạnh như thế, tất yếu sẽ được Giê-su ban tặng hồng ân sự sống cách vô lường: “Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta không hề phải đói ; ai tin vào Ta, chẳng khát bao giờ” (Jn 6, 34).
Đến với Giê-su, xin Ngài ban cho chúng ta bánh đó luôn mãi!
Trở lại với lời khuyên của thánh Phao-lô, trong bài đọc II, sống đạo theo Tin Mừng của Chúa Giê-su, không bị chảo đảo, đung đưa theo tinh thần thế tục, nghĩa là: lối sống đạo vụ lợi, nhuốm màu mê tín dị đoan, kỳ quái, như những người chưa có đức tin. “Anh em hãy cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa kia… Hãy để Thần Khí biến đổi tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, để thực sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4, 22 – 24).
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay lưu ý chúng ta mấy điểm thực hành cụ thể:
* Một là: Duyệt xét lại cách sống đạo, cách ăn nết ở, cung cách hành xử của chúng ta, theo Tin Mừng của Chúa hay theo thói đời. Theo tinh thần Tin Mừng là hoán cải, đổi mới, luôn kiếm tìm sự hiệp thông, yêu thương không giả dối, biết chia vui cùng lòng chân thật. Thánh Phao-lô khuyên đừng học đòi theo thói thế gian, vì nó đặt tiêu chí trên danh, lợi, thú, ích kỷ. Những thứ đó vốn chống lại Tin Mừng và không có phần trong Nước Thiên Chúa.
* Hai Là: Chuyên chăm cầu nguyện, gẫm suy và thực hành Lời Chúa dạy, giúp người môn đệ trở nên dịu dàng, hiền lành, khiêm tốn, ngoan ngoãn suy phục thánh ý Chúa. Đức tin, cậy, mến, cũng nhờ đó được thêm vững mạnh, có khả năng đảm nhận và chu toàn tốt bổn phận kitô hữu, xứng đáng lãnh nhận bánh ban sự sống, để được sống muôn đời.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật hôm nay. Amen!

66. Không hư nát
Một hôm, Napoleon, vị hoàng đế có đôi mắt rất sáng, nói chuyện với một người bạn của ông, người này thì lại có đôi mắt rất kém. Hai người nói chuyện với nhau về sự đời, bên cạnh một cửa sổ. Bất chợt, Napoleon chỉ tay lên trời, một bầu trời đầy sao, đang phát ra những ánh sáng lập lòe, và hỏi người bạn: “Anh có thấy những ngôi sao ở trên trời kia không?”. Người bạn trả lời: “Không, mắt tôi kém lắm rồi, tôi không thấy gì cả”. Napoleon nói: “Đó là sự khác biệt giữa anh và tôi”. Rồi Napoleon nói tiếp: “Những người nhìn bầu trời đen mà không thấy gì thì mới chỉ sống được nửa cuộc đời mà thôi. Muốn sống trọn cả cuộc đời, thì phải thấy được những ngôi sao giữa bầu trời đen”. Lời nhận xét trên đây của Napoleon là một lời gián tiếp chê bai người bạn của ông có đôi mắt kém.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đưa ra một lời chê bai những người đã tìm đến với Ngài. Ngài nói: “Các ông tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Khi quả quyết điều trên đây, Chúa Giêsu phân biệt hai lý do khiến người ta tìm đến với Ngài, đó là để thấy dấu lạ và được ăn bánh no nê. Bình thường chúng ta hiểu hai lý do đó là một, bởi vì làm sao có đủ bánh để cho hàng ngàn người ăn ở nơi vắng vẻ nếu không phải là một phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên Ngài thấy rõ tâm tư của những người tìm đến với Ngài, ở đây chỉ là vì muốn được ăn bánh no nê như đã được ăn hôm trước.
Chắc có người khi đọc đoạn Tin Mừng này sẽ cho rằng: những người tìm đến với Chúa để được ăn bánh nữa là những người thực tế. Điều đó đúng, vấn đề cơm ăn áo mặc, vấn đề nhà ở để che nắng che mưa, đó là những vấn đề ưu tiên của con người, những vấn đề thiết thân cho cuộc sống, ở đời này ai mà không quan tâm đến những vấn đề ấy. Nhưng ở đây, khi chê bai những người tìm đến với Ngài, Chúa Giêsu muốn nói với họ rằng: ngoài sự đói khát vật chất và thể lý còn có sự đói khát thuộc tinh thần và tâm linh nữa. Vấn đề này cũng cần phải được giải quyết. Và Chúa đã đưa ra cho họ một lời khuyên: “Các ông hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh”.
Vì thế, nếu về phương diện vật chất và thể lý, để thỏa mãn những nhu cầu, cần phải làm việc vất vả, thì về phương diện tinh thần và tâm linh, con người cũng phải ra công làm việc. Đúng thế, sống ở đời, chúng ta phải làm việc, và làm việc với lý do gì hay vì lý do gì chăng nữa, thì trên hết vẫn phải là lý do vì lương thực không hư nát, vì chỉ có lương thực ấy mới còn lại trong cõi vĩnh hằng, cõi hằng sống. Đó là những việc lành, việc tốt, việc bác ái yêu thương, việc thông cảm tha thứ… Chỉ có những việc ấy mới theo chúng ta về thế giới bên kia mà thôi.
Như vậy, công việc làm ăn không phải là không quan trọng. Nhưng nếu ai chỉ miệt mài làm việc mà bỏ quên Nước Trời, quên hạnh phúc đích thực đời sau của mình, thì Chúa bảo: họ sẽ mất tất cả. Tại Pháp, có một thương gia rất giàu, phương châm của đời ông là làm tiền, ăn nhậu và chơi bời. Nhưng chẳng bao lâu ông bị bệnh trầm trọng: thần kinh chỉ huy thanh quản bị tê liệt, làm ông bị câm. Trên giường bệnh, ông luôn thở dài chán nản. Cuối cùng, trước khi chết, ông bảo gia nhân đem bút giấy cho ông. Cầm bút, ông ghi một hàng chữ và truyền khắc nó trên bia mộ của ông: “Đây là người dại dột, đã sống mà không biết sống. Hỡi những người đang sống, chớ gì sự vô phúc của kẻ khác mở mắt các ông”.”
Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng. Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì”. Thánh Gióp nói: “Từ lòng mẹ tôi sinh ra trần truồng và lại trần truồng để trở về đấy”. Thánh Phaolô cũng nói: “Vào thế gian ta chẳng mang gì, thì cũng không thể mang gì khi phải ra đi”. Và lời Chúa Giêsu: “Tất cả mọi sự sẽ qua đi, chỉ có việc lành mới tồn tại”.
Chúng ta đang sống, chúng ta đừng quên mối tương quan giữa cuộc sống đời này và cuộc sống đời sau. Hơn ai hết, người Kitô hữu phải luôn nhớ mối tương quan ấy. Chúng ta cần lợi dụng từng giây phút, cần hoàn tất từng công việc, dù nhỏ mọn hay to lớn, để làm giàu cho cuộc sống, để làm cho đời mình có được giá trị vĩnh cửu. Chỉ sống như thế chúng ta mới có thể đón nhận được lời diễm phúc này: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào chung hưởng niềm hoan lạc với chủ ngươi”.

67. Nhiều cơn đói
Năm 1885, Vincent Van Gogh đã đến thăm một viện bảo tàng ở Amsterdam để xem một bức tranh nổi tiếng của Rembrandt, bức “Cô dâu người Do thái”. Sau khi nhìn ngắm bức tranh ông nói “Tôi sẵn sàng đổi mười năm của đời mình để được ngồi trước bức tranh này trong hai tuần, với lương thực là vụn bánh mì khô. Cơn đói đầu tiên của tôi không phải là đói thức ăn, dù tôi thường nhịn đói nhiều ngày. Lòng khao khát hội họa của tôi còn mạnh hơn nhiều, đến nỗi khi tôi có được ít tiền, tôi lập tức đi săn lùng những mẫu tranh cho đến khi tiền hết sạch”.
Không chỉ có thể xác làm người ta đói, tâm hồn và tinh thần cũng làm người ta đói. Bánh làm bằng vật chất không bao giờ có thể thỏa mãn tâm hồn con người. Nuôi dưỡng một con người không giống như việc vỗ béo gia súc. Chúng ta là những thụ tạo không chỉ có một cơn đói nhưng có hàng trăm cơn đói. Ngoài cơm bánh, chúng ta còn đói nhiều thứ.
Không phải mọi khao khát của chúng ta cần được thỏa mãn. Một số là dục vọng nếu được thỏa mãn, cơn đói và sự đòi hỏi càng lớn hơn. Chúng ta phải nhận thấy rằng những dục vọng ấy tồn tại trong chúng ta. Nhưng chúng ta hãy giữ lại những khao khát cần được thỏa mãn nếu chúng ta muốn nuôi dưỡng xứng đáng như những con người và như những con cái của Thiên Chúa.
Chúng ta khao khát được cảm thấy mình quan trọng. Không ai muốn mình chẳng là gì cả. Chúng ta đều muốn mình trở nên quan trọng, dù chỉ quan trọng đối với một người.
Chúng ta khao khát được chấp nhận. Nếu chúng ta không được chấp nhận, chúng ta hầu như mất khả năng nhận thức chính mình.
Chúng ta khao khát những mối quan hệ. Không có các mối quan hệ, chúng ta tha hồ bị những cơn gió rét của đau khổ và cô đơn rung chuyển. Chúng ta giống như một cây trơ trọi trên đỉnh đồi.
Chúng ta khao khát đức tin – vì chấp nhận những niềm tin tích cực hướng dẫn chúng ta. Nếu không thì chúng ta giống như chiếc tàu không có hải đồ và hải bàn.
Chúng ta khao khát niềm hy vọng. Gạt bỏ niềm hy vọng là tiếp tục đình chỉ sự khao khát tinh thần.
Chúng ta khao khát tình yêu. Nếu niềm khao khát này được no thỏa thì hầu hết mọi khao khát khác của chúng ta sẽ biến mất.
Tuy nhiên, có thêm một cơn đói nữa, một khao khát sâu xa hơn và là nền tảng cho mọi khát vọng khác của chúng ta, bao gồm khát vọng tình yêu. Đó là khát vọng sự sống đời đời. Nói cách khác, đó là khao khát Thiên Chúa. Cảm nghiệm được khao khát này không phải là một bất hạnh mà là sự chúc lành. Nó cứu chúng ta khỏi sự trì trệ và giữ cho dòng sông chảy ra biển cả.
Hàng ngày chúng ta thấy người ta xuất hiện trong các siêu thị với những xe đẩy hàng đầy thức ăn và đồ uống. Nhưng chúng ta không tìm thấy thứ lương thực khác đó trong các siêu thị. Nếu có thể, chúng ta sẽ được nuôi dưỡng tốt. Chỉ Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta lương thực ấy. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thỏa mãn những khao khát sâu xa nhất của chúng ta.
Bánh Manna đã nâng đỡ đời sống trần gian. Lương thực của Đức Giêsu nâng đỡ đời sống trường tồn. Đối với chúng ta – những người du hành trên con đường thời gian – đều được một khát vọng không thể cưỡng lại được hướng dẫn đến trường sinh. Đức Giêsu đến với một lời hứa: “Ai ăn bánh mà tôi ban cho sẽ được sống muôn đời”. Ai lại không muốn ăn bánh ấy?

68. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
BẠN CẢM THẤY TRỐNG VẮNG? CÓ LẼ ĐỨC GIÊSU ĐANG GỌI BẠN
Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố: “Ta là bánh ban sự sống.” Ngài thường dùng lối nói mang tính biểu tượng, nhất là nơi Tin mừng Gioan. Biểu tượng bánh ban sự sống, bánh từ trời, sẽ dễ tạo sự đồng cảm với thính giả của Gioan, những người đã quen thuộc với truyền thống Xuất hành và manna trong sa mạc. Cách diễn tả này cũng cho chúng ta nhiều chất liệu để suy tư.
Chúa nhật tuần trước, chúng ta nghe câu chuyện Đức Giêsu cho hàng ngàn người ăn no với năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá. Đức Giêsu thể hiện sự quan tâm và chăm sóc nhu cầu thể chất của cộng đoàn, cũng như không để cho những khó khăn hoặc hạn chế cản trở Ngài giúp đỡ người khác. Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu quan tâm đến nhu cầu thiêng liêng của cộng đoàn khi Ngài ban chính mình làm của ăn thiêng liêng. Đức Giêsu khẳng định rằng niềm tin vào Ngài sẽ chữa lành cơn đói khát thiêng liêng, đồng thời Ngài cũng rõ ràng nhắc đến câu chuyện manna được ban từ trời mà chúng ta nghe trong Bài đọc một.
Bài đọc một được đặt liền ngay sau cuộc Xuất hành khi Thiên Chúa biểu lộ quyền năng cứu độ và giải thoát. Mặc dù được cứu thoát, dân Israel vẫn kêu trách Môsê, than van về hành trình qua sa mạc và thậm chí mong muốn trở lại Ai Cập. Thiên Chúa nghe thấy sự thất vọng của dân, Ngài ban chim cút và bánh từ trời để nuôi dưỡng, hướng dẫn cách thức họ nên thu lượm, quản lý và phân phát lương thực. Tương tự như câu chuyện Đức Giêsu phân phát bánh và cá, manna từ trời cũng dồi dào để phục vụ nhu cầu của dân. Truyền thống cho rằng dân Israel đã ăn manna từ trời trong 40 năm khi đi qua hoang địa đến đất hứa (Xh 16,35).
Đức Giêsu tự ví Ngài với manna từ trời khi tự xưng là bánh từ trời mà Chúa Cha ban để cứu sống và nuôi dưỡng: “Vì bánh của Thiên Chúa phải là vật tự trời xuống, và ban sự sống cho thế gian.” Niềm tin vào Đức Giêsu mang lại sự sung mãn thiêng liêng. Những giáo huấn mang tính biểu tượng như thế xuất hiện xuyên suốt Tin mừng Gioan. Hai chương trước đó, Đức Giêsu đã gặp người phụ nữ Samaria bên bờ giếng và tự xưng là “nước hằng sống,” làm thỏa mãn cơn khát và đưa tới sự sống đời đời (Ga 3,13–14). Là bánh hằng sống, Đức Giêsu tuyên bố Ngài sẽ làm no thỏa những nhu cầu thiêng liêng của mọi người. Khi Đức Giêsu ban phát bánh và cá cho nhiều người, Ngài đã nêu gương và mời gọi chúng ta quan tâm đến nhu cầu thể chất của người khác. Khi khẳng định đức tin vào Đức Giêsu làm no thỏa cơn đói thiêng liêng, bài Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta nghĩ đến những cách thức có thể chăm lo những nhu cầu thiêng liêng của bản thân và người khác. Được nuôi dưỡng bằng đức tin vào Đức Kitô, chúng ta được mời gọi trở nên giống Ngài.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2021/07/15/word-lectionary-scripture-241041

69. Trông cậy
Việc Thiên Chúa nuôi dân trong sa mạc bằng Manna được xem như ví dụ cổ điển về sự chăm sóc của Thiên Chúa đối với dân Người. Cho dù manna là một hiện tượng tự nhiên thì sự xuất hiện của manna vẫn là một quà tặng mà Thiên Chúa ban cho dân. Có thể có một thứ lương thực ngọt và dẻo như nhựa do một loại cây nào đó trong sa mạc tiết ra ban đêm và đông lại khi gặp cái lạnh. Người ta phải nhặt chúng vào sáng sớm trước khi nó tan chảy trong sức nóng ban ngày. Chim cút cũng thế: chúng di cư từ Bắc Au đến Châu Phi, và bắt buộc phải đáp xuống nghỉ đêm trong sa mạc, ở đó chúng dễ dàng bị bắt. Thiên Chúa nói với Môsê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời như mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày ấy; Ta muốn thử lòng chúng như vậy, xem chúng có tuân theo luật của Ta hay không”. Chúng ta phải giải thích những lời ấy như thế nào?
Nếu chúng ta hỏi một tín hữu bình thường xem người ấy có tin Chúa là Thiên Chúa duy nhất của thế gian không, người ấy sẽ không ngần ngại trả lời: “Dĩ nhiên rồi”. Nhưng nếu bạn hỏi người ấy có phải Thiên Chúa sẽ thấy hết mọi nhu cầu của người ấy để người ấy phó thác mọi sự cho Người thì người ấy sẽ lùi lại như muốn nói: “Vâng tôi chưa đạt đến trình độ đó”.
Chúng ta phải phân biệt giữa đức tin và phó thác hay tín thác. Dù chúng liên kết nhau chặt chẽ nhưng chúng không đồng nghĩa. Người nào tin tưởng vững vàng thì phó thác trọn vẹn. Nhưng nếu một người nào đó không phó thác trọn vẹn vào Thiên Chúa, thì niềm tin của họ rất yếu. Kinh nghiệm sa mạc là một cơ hội cho dân Do thái gần gũi với Thiên Chúa. Kinh nghiệm ấy dạy họ trông cậy vào Thiên Chúa, tín thác vào Đấng Quan Phòng mỗi ngày. Vì thế, Thiên Chúa bảo họ không được tích trữ bánh manna và bảo đảm họ sẽ có phần của ngày mai. Họ chỉ được lượm đủ nhu cầu của ngày hôm nay. Ngày mai, Thiên Chúa sẽ lại cung cấp cho họ.
Đức Giêsu cũng giảng dạy cùng một chân lý. Người nói chúng ta phải cầu nguyện “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Giáo huấn này nghe có vẻ lạ lùng, nếu không nói là điên rồ đối với những người hoàn toàn tín nhiệm vào các tài khoản tiết kiệm, các chính sách bảo hiểm. Chúng ta không dành đủ chỗ cho Thiên Chúa. Đó là đi ngược lại với cách sống đức tin.
Qua mọi lời nói và hành động, không phải bánh manna đã nâng đỡ dân Do thái trong suốt thời gian ở sa mạc. Chính đức tin và sự tín thác vào Thiên Chúa đã nâng đỡ họ. Đây là lương thực có giá trị với chúng ta – Đức tin và sự tín thác vào Thiên Chúa sẽ nuôi dưỡng chúng ta trong mọi lúc nhưng đặc biệt trong những khi bị thử thách. Không phải chính chúng ta gìn giữ đức tin mà chính đức tin gìn giữ chúng ta. Dù đời sống có khó khăn như thế nào đối với những người tín thác vào Thiên Chúa và sống mỗi ngày, mỗi lúc thì việc bánh manna rơi xuống mỗi ngày không có gì là ghê gớm lắm.

70. Tự do
Sau mỗi lúc cao cả lại đến một lúc phản ứng lại và chính trong sự phản ứng lại này, nguy hiểm đang nằm chờ sẵn. Dường như có một qui luật của đời sống là ngay sau khi sức mạnh đề kháng lên điểm cao nhất, thì nó chúi xuống điểm thấp nhất.
Viết về kinh nghiệm Auschwitz, nhà văn Ý, Primo Levi nói: “Trong đa số các trường hợp, giờ giải phóng không phải là lúc vui tươi, phấn khởi. Nhiều vụ tự tử đã xảy ra ngay sau lúc giải phóng. Trái lại, các vụ tự tử hiếm khi xảy ra trong suốt thời kỳ bị giam cầm. Trong trường hợp của riêng tôi, được thả ra là một giây phút nguy kịch, nó trùng khớp với một cơn lũ của việc suy nghĩ lại và chán nản”.
Và Elie Wiesel, một người sống sót từ Auschwitz trở về nói: “Trong suốt thời kỳ thử thách, tôi đã sống trong sự chờ đợi… một phép lạ, hoặc cái chết. Chỉ sau này, sau khi cơn ác mộng đi qua tôi mới bị một cơn khủng hoảng đau đớn và thống khổ, tra hỏi mọi niềm tin của tôi”.
Về lý thuyết, khi họ đã được thả ra thì sau đó họ phải sống một cách hạnh phúc. Tuy nhiên, thường xảy ra việc những người trở về hầu như đã chết ngay sau khi họ “trở lại sự sống”. Người ta giải thích điều đó như thế nào? Trong lúc họ còn ở trong địa ngục thì giấc mơ được giải thoát đã cho họ sức mạnh để sống còn. Nhưng tự do không luôn luôn thực hiện những mong đợi của họ. Nhiều người trong số họ không có chỗ để về. Sự tàn bạo của nhà tù bắt đầu khi bạn ra khỏi nơi đó. (Oscar Wilde).
Dân Do thái đã có một kinh nghiệm tương tự. Họ rời bỏ ách nô lệ ở Ai cập trong niềm vui, và bắt đầu lên đường đi vào một tương lai mà họ tin là tươi sáng. Thế là một thời gian ngắn sau đó họ muốn trở về Ai cập. Họ muốn trở lại thân phận nô lệ. Điều này đã xảy ra?
Trong một ý nghĩa, những bối rối thật sự của họ đã bắt đầu sau khi được ra đi. Tự do không làm cho có điều họ nghĩ phải có. Họ thấy mình ở trong sa mạc và thiếu lương thực. Họ đã khám phá rằng tự do bao gồm một cuộc hành trình đến miền đất hứa xa xăm và mơ hồ. Còn lúc này họ phải đương đầu với khó khăn, thử thách và nguy hiểm.
Thật ra, dân Do thái thời Mosê không sẵn sàng đón nhận tự do, và Kinh Thánh đã trung thành thuật lại những cãi cọ và bối rối của họ. Cần có một thế hệ mới để sẵn sàng vượt qua sông Giocđan và vào miền đất hứa. Cho nên có câu nói: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái”.
Tự do đưa ra những thách đố của nó. Nó có nghĩa là nhận trách nhiệm về cuộc đời mình. Nó không là việc dễ dàng đặc biệt đối với những người quen để cho người khác quyết định mọi việc cho mình. Tự do đòi hỏi một kỷ luật cho bản thân. Để cho người khác đưa ra kỷ luật cho mình thì dễ dàng hơn mình đặt kỷ luật cho chính mình. Biến đổi một con người thành nô lệ dễ hơn một nô lệ trở thành con người.
Dân Do thái đã nhìn lại đàng sau và nghĩ: “Có lẽ chúng ta đã tốt hơn khi ở lại Ai cập; ít nhất ở đó chúng ta có đủ ăn?”. Và thế là họ bắt đầu càu nhàu Môsê. Giá mà họ đã đem theo những phẩm chất làm họ có thể chịu đựng cảnh nô lệ. Nhưng họ không dùng những phẩm chất ấy để sống tự do như khi họ sống trong cảnh nô lệ.
Chúng ta cảm thấy có thiện cảm với họ. Họ không thể tiên đoán rằng giấc mơ tự do của họ, một khi đã được thực hiện đưa đến những thách đố mới và những nguy cơ mới. Thái độ ù lỳ của họ thật đáng buồn khi nghĩ đến việc họ sẵn sàng từ bỏ tự do để được nhét vào bụng những món ăn ngày trước họ đã ăn ở Ai cập. Tuy nhiên, Thiên Chúa động lòng thương họ và đã cho họ bánh manna để nâng đỡ họ trong cuộc lữ hành băng qua sa mạc.
Điều này có quan hệ rất lớn đối với chúng ta. Là dân mới của Thiên Chúa, chúng ta hành trình trong đức tin hướng về miền đất hứa của sự sống đời đời. Bởi phép Rửa tội, chúng ta được mời gọi ra khỏi sự nô lệ – nô lệ cho tội, nô lệ cho tiện nghi và an toàn v.v… (Xem bài đọc 2). Chúng ta được hướng dẫn không phải bởi Môsê nhưng bởi Đức Giêsu. Chúng ta phải sống bởi đức tin chứ không phải bởi thị kiến.
Và chúng ta gắn bó với kinh nghiệm sa mạc của thử thách và khó khăn. Có lúc, chúng ta có thể cảm thấy Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Và vì thế, chúng ta khao khát sự xa hoa của thế gian này. Chúng ta bị cám dỗ rơi trở lại tình trạng nô lệ của tội lỗi hơn là sống trong tự do của con cái Thiên Chúa.
Nhưng vì Thiên Chúa đã nâng đỡ dân Do thái nên Người đã nâng đỡ chúng ta qua đức tin vào Đức Giêsu và Bánh là chính Người ban cho chúng ta trong Thánh Thể. Không phải chúng ta gìn giữ đức tin, mà là đức tin gìn giữ chúng ta. Dù cuộc đời có khó khăn đến mấy, đối với những người tín thác vào Thiên Chúa, và sống mỗi ngày trong mỗi lúc, bánh manna vẫn rơi xuống mỗi ngày.

71. Tôi là Bánh Ban Sự Sống
(Chú giải và Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Xem tại phần trình bày Ga 6,1-15.
Bài Diễn từ về Bánh trường sinh là phân đoạn 6,22-59, có cấu trúc như sau, gồm sáu cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu và những người đối thoại:
a- cc. 22-27: Dẫn nhập: Caphácnaum, các yếu tố Thánh Thể
b- cc. 28-29: Cần có đức tin (như là “công việc” của con người và Thiên Chúa)
c- cc. 30-33: Bánh bởi trời
c’- cc. 34-40: Bánh bởi trời
b’- cc. 41-51: Cần có đức tin (như là “công việc” của con người và Thiên Chúa)
a’- cc. 52-59: Kết luận: Caphácnaum, các yếu tố Thánh Thể
Như thế, c. 35, “Tôi là bánh trường sinh” nằm tại trung tâm của bài diễn từ và của chương, tại đầu vấn nạn hoặc lời trao đổi thứ tư giữa Đức Giêsu và các thính giả.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Vấn nạn thứ nhất: đi tìm bánh (6,24-27);
2) Vấn nạn thứ hai: làm việc Thiên Chúa muốn (6,28-29);
3) Vấn nạn thứ ba: hỏi về dấu lạ Đức Giêsu làm (6,30-33);
4) Vấn nạn thứ tư: xin bánh ban sự sống (6,34-35).
3.- Vài điểm chú giải
– Thật, tôi bảo thật các ông (26): Kiểu nói này, với từ amên lặp lại 2 lần (amên amên legô hymin) là đặc điểm riêng của TM IV (25 lần. Xem chẳng hạn 1,51; 5,19.24.25; 6,26.32.47.53…). Amên do từ Hípri ’âmên có nghĩa là “vững vàng, chắc chắn”. Kinh nguyện Kitô giáo dùng công thức amên này để kết lời cầu, với ước mong là các lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Các kinh sư Do Thái dùng từ amên để diễn tả một lời tuyên thệ, sự đồng ý hay xác nhận, nhưng không bao giờ liên kết amên với “tôi bảo các ông”. Trong các TMNL, Đức Giêsu nói: “Amen, tôi bảo các ông” (dùng 1 lần “amen”). Kiểu nói đặc biệt của Đức Giêsu (amen amen…) có thể bao hàm ba khía cạnh: (1) Đức Giêsu bảo đảm tính xác thực của những lời Người nói (x. Ga 8,24); (2) Đức Giêsu muốn đồng hóa mình với “Amen”, nghĩa là với “sự thật”, với “chân lý” (x. Ga 14,6; Kh 3,14) (3) Đức Giêsu nhấn mạnh đến những gì đã nói hay những gì sẽ nói để người nghe chú ý; như thế amên mở đầu cho những mạc khải quan trọng[1].
– Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận (27): Có những nhà chú giải nghĩ rằng câu này nhắc đến phép rửa của Đức Giêsu. Nhưng có lẽ nghĩa đơn giản và rõ ràng hơn là: Con Người từ trời đến và các dấu lạ Người làm là những hành vi qua đó Thiên Chúa đảm bảo cho tính xác thực của sứ mạng của Người (3,33) cũng như đảm bảo rằng loài người có thể nhờ Người mà đạt được sự sống đời đời.
– chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn (28): Người Do Thái nghĩ là họ có thể tự mình đạt được sự sống đời đời, với điều kiện là hoàn tất một số việc buộc. Số phức “những việc Thiên Chúa muốn” có ý nhắm đến các điều khoản bó buộc trong nền luân lý của họ (Mt 19,16; 22,34-40).
– việc Thiên Chúa muốn … là tin vào Đấng Người đã sai đến (29): Đây là đòi hỏi đơn giản nhất nhưng cũng căn bản nhất gồm tóm mọi quy định của Lề Luật: tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến; trong các hành vi Đức Giêsu làm, phải nhìn thấy các công việc của Thiên Chúa thời cánh chung. Tác giả Ga đã sửa lại một chút một công thức của Phaolô (Rm 3,28) và tập trung tất cả lối sống Kitô hữu vào việc tin vào Đấng Thiên Chúa sai phái.
– tin (29.30): Các TMNL và các Thư Phaolô thường dùng danh từ “đức tin (pistis)”, TM Ga lại thường xuyên dùng động từ “[hành vi] tin” (pisteuô): công thức “tin vào” (pisteuô eis) được dùng 36 lần trong TM IV (kể chung pisteuô là 98 lần), 3 lần trong các Thư Gioan, và chỉ 8 lần trong phần còn lại của Tân Ước.
– Người đã cho họ ăn bánh bởi trời (31): Man-na được ban hằng ngày trong sa mạc được nhiều kinh sư coi như là việc diệu kỳ lớn lao nhất của thời Xuất Hành. Có bốn bản văn Cựu Ước có thể là nền tảng cho Ga 6,31: Xh 16,4; Xh 16,15; Nkm 9,15 và Tv 78 (77),24.
(a) Trong Xh 16,4, không có động từ “ban/cho” và chủ thể đang nói là Thiên Chúa. Đối tượng ở số phức. Không chắc bản văn này đã ảnh hưởng lên Ga 6,31.
(b) Xh 16,15 cũng vậy: dạng ngữ pháp là dạng của các lời Môsê ngỏ với con cái Israel. Ở đầu, ta gặp đại từ chỉ định houtos ho artos (bánh ấy). Tất cả những điểm này không có ở Ga 6,31.
(c) Nkm 9,15 có dạng một lời ngỏ: con cái Israel đang quay về cầu nguyện với Thiên Chúa.
(d) Bản văn gần nhất với Ga 6,31 là Tv 78 (77),24.
– bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống (33): Trong hy-ngữ, “bánh” (artos) ở nam tính, nên có thể dịch câu này hai cách: “bánh Thiên Chúa ban là sự gì (cái gì) từ trời xuống” (xem NTT); “bánh Thiên Chúa ban là Đấng từ trời xuống”. Cách dịch thứ nhất thì xuôi tai hơn, nhưng cách dịch thứ hai thì tốt hơn, bởi vì Đức Giêsu đang muốn đưa người ta chuyển đi từ man-na và bánh sang bản thân Người.
– Tôi là (egô eimi, 35): TM IV nói đến công thức này nhiều lần. Trong tình trạng tuyệt đối, các công thức “Tôi là” (Ga 8,24.28.58; 13,19) được trực tiếp cảm hứng từ các công thức mà Thiên Chúa của Cựu Ước đã dùng để giúp người ta biết Người (Xh 3,14; Hs 1,9; …). Khi nói “Tôi là”, Đức Giêsu khẳng định Người là nội dung mà chính Thiên Chúa đã mạc khải ra về chính Ngài cho dân Do Thái. Các khẳng định “Tôi là” giới thiệu Đức Giêsu như là giá trị sống vĩnh viễn. Ở đây, Người muốn nói rằng Người là thứ bánh vĩnh viễn, bánh cánh chung, bánh duy nhất quan trọng. Người chính là bánh đích thật ban sự sống viên mãn.
Trong diễn từ về Bánh ban sự sống ở Ga 6, có ba công thức “Tôi là” (cc. 35.48-50.51). Cả ba câu đều có kèm theo một lời mời tin vào Đức Giêsu, mời đến với Người hoặc đến ăn thứ bánh thiên giới này là chính bản thân Người. Những câu này giống với các phần triển khai của sách Châm ngôn ch. 8–9 và sách Huấn ca ch. 24, trong đó sự Khôn Ngoan thần linh tự giới thiệu mình và mời người ta lắng nghe mình, đến với mình, ăn mình (x. Cn 8,32; Hc 24,18). Trong Ga 6, động từ “đến với” được nhắc lại nhiều lần: cc. 35.37.44.65; x. cả c. 67.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Khi thấy Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều, đám đông cho rằng Người “là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian” (c. 14; x. Đnl 18,15; Ga 1,21). Họ muốn “tôn Người làm vua”, nhưng Đức Giêsu “lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (c. 15).
Hôm sau, họ lại đi tìm Người. Và xảy ra một cuộc đối thoại.
* Vấn nạn thứ nhất: đi tìm bánh (24-27)
Dường như Đức Giêsu không trả lời đúng câu hỏi của người Do Thái. Trong thực tế, câu trả lời của Người nhắm đến thái độ mà câu hỏi của họ đã tố giác. Họ đã thấy dấu lạ nhiều lần (6,2; x. 2,23-25), nhưng họ đã không quan tâm và đã không hiểu các dấu lạ ấy. Họ chỉ hoàn toàn quan tâm đến bánh, đến việc ăn no về vật chất thôi (c. 12). Phép lạ đã không cung cấp cho họ ánh sáng về bản thân Đức Giêsu (12,9). Bởi vì bánh (cũng như rượu ở Cana và nước trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Samari) tự nó không có giá trị; nó chỉ là một phương tiện để vén mở cho thấy mầu nhiệm bản thân Người.
* Vấn nạn thứ hai: làm việc Thiên Chúa muốn (28-29)
Người Do Thái hiểu sai ý nghĩa của động từ “làm việc”. Họ lẫn lộn giữa các công việc của Thiên Chúa với các công việc họ làm nhằm tôn vinh Thiên Chúa. Câu hỏi này cho thấy họ không hiểu gì cả. Họ nghĩ rằng họ có thể đạt được sự sống đời đời bằng sức lực riêng, miễn là họ chu toàn một số điều khoản Luật buộc. Tức khắc Đức Giêsu đưa các điều khoản ấy ra, đây là đòi hỏi đơn giản nhất nhưng cũng triệt để nhất: tin vào Đấng Thiên Chúa sai phái và nhìn thấy các hành vi Đức Giêsu làm là những công trình Thiên Chúa thực hiện vào thời cánh chung. Công việc duy nhất họ phải làm cũng là công việc duy nhất Đức Giêsu vẫn làm: chu toàn công việc của Chúa Cha.
Bằng cách dùng thường xuyên động từ “[hành vi] tin” thay vì danh từ “đức tin” (trừu tượng), tác giả Ga cho thấy rằng, thay vì đề cập đến đức tin trừu tượng, ngài nghĩ đến việc dấn thân người Kitô hữu phải thực hiện để trở thành môn đệ Đức Giêsu. Đây là một quyết định mang tất cả niềm tin tưởng đăt nơi Đức Giêsu.
* Vấn nạn thứ ba: hỏi về dấu lạ Đức Giêsu làm (30-33)
Người Do Thái hiểu là Đức Giêsu đang tự đặt mình trước mặt họ như là vị Sứ giả của Thiên Chúa. Nhưng vì cứ ham các bằng cớ nắm bắt được, họ hỏi tiếp: “Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông?” (c. 30). Ở đây, thay vì nói đến hành tin tưởng bắt họ dấn thân trọn vẹn (pisteuô eis), họ lại đặt vấn đề về uy tín của Đức Giêsu (pisteuô + tặng cách). Ít ra Người phải cho thấy Người ngang bằng Môsê là người đã nuôi dưỡng dân Do Thái suốt 40 năm (Xh 16,35).
Yêu cầu này không có câu trả lời, vì không thể có câu trả lời nào cả cho thứ yêu cầu như thế. Không có một dấu lạ nào có thể chứng minh rằng Đức Giêsu là Sứ giả của Thiên Chúa. Các dấu lạ bên ngoài có thể dẫn đưa người ta đến tận ngưỡng cửa đức tin (Ga 15,24; x. 10,25; 12,37t), nhưng tự chúng không đủ. Trước tiên, bởi vì nếu bị liên kết với các lý do duy lý, đức tin sẽ không đi xa hơn lý trí; kế đó, bởi vì đức tin sẽ chịu ảnh hưởng các ấn tượng (x. 4,48). TM IV, với truyện Tôma ở ch. 20, sẽ cho thấy rằng những dấu chỉ ấy không cần thiết cho hành vi tin (20,29).
Câu “Không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu” (c. 32) có thể là một phủ nhận về Môsê (không phải là Môsê, mà là Thiên Chúa) hoặc về bánh bởi trời (thứ bánh bởi trời ấy không phải là man-na). Trong thực tế, câu này là một phủ nhận về bánh: những gì Môsê đã ban cho tổ tiên các ông thì đúng là từ trời rơi xuống, nhưng không phải là bánh đích thực bởi trời. Bánh đích thực, bánh hoàn hảo, bây giờ Chúa Cha đang ban tặng, còn man-na chỉ là một tiền vị của thứ bánh ấy thôi.
Đức Giêsu là bánh của Thiên Chúa, bởi vì Người không đến từ một trung gian nhân loại, nhưng đến trực tiếp từ Thiên Chúa. Hình ảnh bị đẩy ra sau, nay tác giả nhấn mạnh trên các phẩm chất của bánh này của Thiên Chúa: từ trời xuống, ban sự sống vĩnh cửu.
* Vấn nạn thứ tư: xin bánh ban sự sống (34-35)
Giữa vấn nạn thứ ba (cc. 30-33) và vấn nạn thứ tư (cc. 34-40), có một sự tiến triển. Các câu đầu nói đến bánh bởi trời do Thiên Chúa hoặc Môsê ban cho. Người Do Thái liền xin Đức Giêsu một dấu lạ như dấu lạ ông Môsê đã thực hiện trong sa mạc khi ban cho họ bánh bởi trời (có lẽ quy chiếu về Tv 78,24). Nhưng Đức Giêsu lại loan báo một thứ bánh từ trời xuống, là “bánh đích thực”, bây giờ được Chúa Cha ban. Sang cc. 34-40, bản chất của bánh ấy được làm sáng tỏ.
Như chúng ta vẫn thấy, người Do Thái lại hiểu lầm về ý nghĩa của những lời nói ấy của Đức Giêsu. Họ chẳng quan tâm gì đến bản thân Con Người. Họ cứ tiếp tục mơ một thứ bánh vật chất từ trời rơi xuống cho họ. Như bà Samari (4,15) và như họ đã làm trong những hoàn cảnh tương tự, họ xin Đức Giêsu cứ ban cho họ đều đặn và liên tục, thứ bánh không tốn tiền ấy. Phần Đức Giêsu, Người lại công bố rằng chính Người mới là “bánh trường sinh”. Điều mà Người ban, thì ban một lần cho mãi mãi. Người không ban một điều gì khác, mà là ban tặng chính mình. Người là thứ bánh vĩnh viễn, bánh cánh chung, bánh duy nhất quan trọng. Người chính là bánh đích thực ban sự sống viên mãn, trong khi man-na không giải thoát người ta khỏi sự chết (6,49). Mọi người được mời gọi đến với Người, vì giống như Đức Khôn Ngoan trong sách Cn và Hc, Người có thể thỏa mãn mọi khát vọng tôn giáo của họ.
+ Kết luận
Bữa ăn lạ lùng sẽ phải được giải thích như là một dấu chỉ. Đấy là một sự kiện thực hữu, Đức Giêsu đã thực sự cho một đám đông ăn no; nhưng biến cố này tự nó không có ý nghĩa. Đức Giêsu không muốn chứng minh rằng người ta có thể nhận được bánh từ nơi Người mà không cần phải mệt nhọc và được nhận ê hề; Người không muốn thay thế các ông thợ làm bánh mì để rồi các ông này phải thất nghiệp mà bị đói. Bữa ăn lạ lùng nhắm đến một thực tại khác. Sự kiện Đức Giêsu có thể ban bánh và cho ăn no nê theo nghĩa trần thế phải cho thấy rằng bản thân Người chính là bánh ban sự sống và có thể ban sự sống vĩnh cửu, không bao giờ tàn lụi. Ở bên Người, chúng ta không được tìm kiếm bánh trần thế; trái lại, chúng ta phải nhìn nhận rằng Người có thể và muốn ban cho chúng ta một thứ vô cùng lớn lao hơn. Chúng ta cần phải để ý đến điều này và đón nhận quà tặng của Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nếu không có bánh, chúng ta sẽ chết. Cơm bánh có khả năng duy trì sự sống cho chúng ta nhưng đó là một khả năng giới hạn. Khi nói “Tôi là bánh ban sự sống”, Đức Giêsu cho hiểu là tương quan giữa bản thân Người với loài người cùng một kiểu như tương quan giữa cơm bánh và chúng ta, nhưng sự sống Người ban là sự sống vĩnh cửu, chứ không chỉ là sự sống trần gian giới hạn. Người mạnh hơn cái chết, Người muốn đưa chúng ta đi sang bên kia cái chết. Nhưng chúng ta phải chạy đến với Người, phải tin vào Người.
2. Tôi tin vào Đức Giêsu khi tôi tự liên kết hoàn toàn với Người và để cho Người hoàn toàn quy định đời sống tôi. Đức tin có thể là như một dây liên kết mong manh và yếu kém; còn nếu một dây liên kết quan trọng, vững chắc và thiết yếu đối với cuộc sống, thì nó được diễn tả ra bằng một tình bạn chân thật hoặc một cuộc hôn nhân đích thực. Khi tin vào Đức Giêsu, dây liên kết ta có với Người sẽ có sức mạnh và có khả năng ban sự sống tối đa.
3. Chúng ta ngại để cho Thiên Chúa đi vào trong cuộc sống chúng ta và làm việc ở đó. Để biện minh cho việc chúng ta lùi lại trước đòi hỏi của Người, chúng ta vận dụng một chiến thuật khác để “câu giờ”, chúng ta đặt ra một điều kiện: “Ông đã làm dấu lạ nào…? Ông đã làm gì?” (c. 30). Chúng ta đã thấy hoạt động của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta, nhưng chúng ta vẫn tìm cách từ chối tin vào Người. Thiên Chúa lại chỉ thích nói với con tim chúng ta bằng những dấu chỉ kín đáo hầu chúng ta vẫn còn tự do mà từ khước tiếng gọi của Người. Thiên Chúa muốn được yêu mến bởi những người con tự do, chứ không phải được tôn thờ bởi những tên nô lệ khiếp nhược.
4. Đức Giêsu, Đấng Phục Sinh, đang nuôi dưỡng chúng ta bằng Lời và Bí tích trong các cuộc cử hành phụng vụ. Chúng ta có biết chính Người là Đấng chúng ta đang tìm kiếm và không phải là dấu chỉ của sự thỏa mãn vật chất nào khác? Cơn đói mãnh liệt nhất của chúng ta là sự mật thiết với Thiên Chúa, là sự sống của Thiên Chúa bên trong chúng ta, thứ mà Đức Giêsu hôm nay gọi là “sự sống đời đời”. Đức Giêsu mời gọi chúng ta tin tưởng nơi Người với tất cả con người, tâm hồn và thân xác của ta.

72. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Chú giải mục vụ của Alain Marchabour)
CHÚA GIÊSU – BÁNH TRƯỜNG SINH (cc. 22-59)
Giữa diễn từ mặc khải và trần thuật về phép lạ, rõ ràng có những khác biệt về lời văn và nội dung, và vài học giả muốn truy tìm nguốn gốc của bài diễn từ mặc khải trong số các bài giảng huấn Kitô giáo được thực hiện theo kiểu bài giảng huấn Do Thái. Có thể là như thế: thế nhưng sự duy nhất của toàn bài trần thuật cần phải được lưu ý. Từ đầu đến cuối Chúa Giêsu chỉ đeo đuổi một mục tiêu: làm cho dân chúng nhận biết Người; chính bởi vì Người không làm được điều này bằng phép lạ, nên sau đó Người thử thực hiện ý định bằng diễn từ: diễn từ và trần thuật đều dự vào cùng một chiến thuật.
Ghi chú về bản văn: Sự hợp lý liên kết chương này không rõ ràng. Điều đó hệ tại ở tầm vóc đồ sộ của bản văn, ở sự hợp lý đặc biệt của ngôn ngữ Sêmit và chắc chắn ở tận gốc cơ cấu của bản văn (có thể là một bài giảng huấn). Để cho bài đọc được dễ dàng, tôi đã ghi nhận điểm chuẩn của bản văn mà dựa theo đó độc giả sẽ có được nhiều lợi ích.
CHUYỂN TIẾP (cc. 22-25)
Giữa ngọn núi nơi mà việc mặc khải bằng dấu lạ của Chúa Giêsu đã thất bại và hội đường nơi mà việc mặc khải này đạt đến đích điểm, thì việc vượt qua Biển Hồ trở thành phần chuyển tiếp cũng như việc dân chúng tiếp tục công cuộc tìm kiếm Chúa Giêsu. Từ khi dấu lạ xảy ra, một ngày đã trôi qua, và dân chúng, cũng như các môn đệ, gặp lại Chúa Giêsu để nghe bài diễn từ trong hội đường ở Caphanaum. Người kể chuyện không xác định làm thế nào để năm ngàn người đã có thể vượt qua Biển Hồ: lại chi tiết “có vẻ thật” này không làm ông quan tâm. Còn sự quy chiếu vào việc “Chúa Giêsu dâng lời tạ ơn” (c. 23) củng cố cách hiểu về Thánh Thể của đoạn này. Đối với dân chúng, Chúa Giêsu là “Rabbi”, điều này hình như là đạo lý Do Thái, giống như đạo lý đã dẫn dắt ông Nicôđêmô, kẻ gọi Chúa Giêsu là “Rabbi”, Người đã thực hiện các dấu lạ (3,2).
1. Thật, Tôi bảo thật các ông (cc. 26-31).
Mặc khải: thấy các dấu lạ (c. 26)
Lương thực trường tồn (c. 27)
Được Con Người ban cho (c. 27)
Thiên Chúa đã ghi dấu xác nhận (c. 27)
Sự cứng lòng không chịu tin:
Ăn bánh no nê
Lương thực mau hư nát
Công việc nào?
Tổ tiên chúng tôi
Lời quở trách ở câu 26 (“không phải vì các dấu lạ”) xem ra trái nghịch với câu 2 (bởi họ đã từng chứng kiến những dấu lạ). Ta có thể hòa hợp cả hai nhận định trên bằng cách đối chiếu việc tìm kiếm điều kỳ lạ (những dấu lạ ở câu 2) với ý nghĩa sâu xa của dấu lạ về mầu nhiệm của Chúa Giêsu mà dân chúng không nhận ra. Trong phần này, Chúa Giêsu chỉ tỏ mình ra một cách gián tiếp, qua việc đề cập đến dung mạo Con Người vào thời cuối cùng. Đức tin hay việc làm? Ở đây Chúa Giêsu trả lời: không thể có đức tin mà không có việc làm, bởi vì đức tin là một việc quan trọng nhất trong các công việc Thiên Chúa muốn.
Chúa Giêsu và những người Do Thái cùng chia sẻ một dòng lịch sử chung: “Tổ tiên chúng tôi”, người Do Thái nói với Chúa Giêsu như thế. Tuy nhiên giữa bánh manna và bánh đích thực bởi trời, sự đối nghịch đã có sẵn rồi.
2. Thật, Tôi bảo thật các ông (cc. 32-46)
Mặc khải: Không phải ông Môsê, mà chính Cha tôi (c. 32)
Bánh đích thực bởi trời
Bánh Thiên Chúa ban là Bánh từ trời xuống (c. 33)
Bánh đem lại sự sống cho thế gian.
Hiểu lầm: xin cho chúng tôi mãi mãi (c. 34)
Mặc khải: Chính TÔI LÀ bánh trường sinh (c. 35)
Ai đến với Tôi không hề phải đói
Ai tin vào Tôi chẳng khát bao giờ
Tất cả những người Chúa Cha ban cho Tôi (c. 37)
Ý của Cha Tôi: Tôi sẽ cho họ sống lại (c.39)
Sự cứng lòng không chịu tin:
Thấy mà không tin (c. 36)
Xầm xì (c. 41)
Chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? (c. 42)
Làm sao ông ta có thể nói?
Mặc khải:
Chẳng ai đến với Tôi được nếu Chúa Cha không lôi kéo người ấy (c. 44).
Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết
Không ai thấy Chúa Cha. Chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha (c.46).
Được dẫn nhập cách trịnh trọng một lần nữa bằng “Thật, Tôi bảo thật các ông”, sự mặc khải được nhấn mạnh hơn, bằng cách tập trung vào Chúa Giêsu. Việc người Do Thái soi chiếu với bánh manna dẫn đưa bài diễn từ của Chúa Giêsu đến “Bánh bởi trời”. Cũng như người Do Thái đã lãnh nhận bánh manna làm dấu chỉ của Lời và của sự mặc khải, thì Chúa Giêsu, bánh từ trời xuống, tỏ mình như sự mặc khải chung cuộc cho loài người. Có nhiều từ được lặp lại trong phần thứ ba (cc. 47-52). Như được chứng tỏ khi đem so sánh các câu 33 và 51-52:
Bánh Thiên Chúa ban (c. 33) đó là:
Đấng từ trời xuống và đem lại sự sống cho thế gian.
Tôi là (c. 51)
Bánh từ trời xuống
Bánh Tôi sẽ ban tặng…
Là để cho thế gian được sống
Trong bối cảnh lịch sử của Chúa Giêsu thì rõ ràng diễn từ về bánh trường sinh này không thể trực tiếp chỉ Thánh Thể, không thể nào hiểu được trước khi có bữa ăn sau cùng, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Như vậy đúng là sự mặc khải, tiêu biểu bằng con người Chúa Giêsu. Tuy nhiên được viết sau Phục Sinh, với những lời lẽ ghi lại cụ thể từ việc cử hành Thánh Thể, thì rõ ràng toàn bộ chương 6 là một diễn từ gợi lên cùng một lúc Đức tin và Thánh Thể trở nên nổi bật, trong khi chính đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng mạc khải, chiếm ưu thế cho đến bấy giờ. Cựu ước sẵn sàng soi sáng lời với lương thực: Như Amôt: “Đây Thiên Chúa phán: Kìa, thời kỳ ấy là khi ta khiến lãnh thổ đói kém, không vì đói khát nước, nhưng bởi đói nghe lời Thiên Chúa” (Am 8,11). Cách nói về lương thực cũng gợi nhớ đến sự khôn ngoan trong Cựu ước: “Ai ăn vào càng đói, uống càng khát”, sự Khôn ngoan tự tán dương (Kn 24,21). Có thể xem thêm Cn 9,5.
Sự sống mà Chúa Giêsu cho là ân ban ngay lập tức và là lời hứa được sống lại trong ngày sau hết. Sự cánh chung ngay lập tức và bảo chứng sự sống đời đời được trao ban nhờ đức tin vào Chúa Giêsu.
Ẩn ý của biến cố Xuất hành biến hóa trong các từ được dùng để diễn tả sự đối nghịch của người Do Thái: “họ xầm xì” (ở đây nên dịch là “càu nhàu” c.41) như tổ tiên họ đã làm trong sa mạc (Xh 16,2.7; 17,3). Họ phản ứng “theo xác thịt”: làm sao “con ông Giuse” (c.42). Con Người bằng thịt bằng máu, có thể nhận mình là Con của Chúa Cha?

73. Chú giải của Noel Quesson
BÁNH HẰNG SỐNG
Đức Giêsu đã không nhận vinh quang chính trị Người ta gán cho, sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều.
Vậy khi dân chúng thấy Đức Giêsu cũng như các môn đệ đều không có mặt ở bờ Biển Hồ Galilê thì họ lên chuyến đi Ca-phác-na-um tìm Người. Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ.
Vinh quang chính trị, lương thực trần thế thuộc bến bờ khác, thuộc lãnh vực nhân loại. Muốn gặp được Chúa thực sự, phải tìm Chúa “trên bờ bên kia”. Do đó một diễn từ dài về “Bánh hằng sống” sẽ bắt đầu và là nội dung của chương 6 Tin Mừng theo Thánh Gioan. Chúng ta sẽ đọc trong 4 Chúa nhật kế tiếp.
Diễn từ này rất khác với những gì ta thường nghe Chúa nói trong 3 Tin Mừng nhất lãm, như vậy thực sự là của Chúa hay của Gioan? Câu hỏi này đã được đặt ra từ thời các Giáo phụ tiên khởi trong Giáo Hội. Những nhà chú giải chân chính nhất ngày nay vẫn tôn trọng truyền thống và tóm lại trong câu trả lời như sau: “Chúng tôi luôn nghĩ rằng, bản chất của diễn từ nói về Bánh hằng sống chắc chắn là của Chúa, nhưng tư tưởng của Thầy được truyền lại cho chúng ta qua sự giải thích của Thánh Sử: Chính Thánh Gioan đã cho rằng phải thêm những điều đó vào. Đó cũng là điều Giáo Hội thường làm (A. Feuíllet).
Những gì Đức Giêsu thực sự đã nói, được thuật lại cho chúng ta bằng những ngôn từ, những kiểm nói soạn lại của Thánh sử. Được Chúa Thánh Thần linh hứng để viết Tin Mừng, Thánh Gioan chuyển tải cách trung thực những giáo huấn của Chúa Giêsu, nhưng không theo cách thuỷ như băng ghi âm. Nhờ suy ngẫm lâu dài người môn đệ trung thành, đã thấm nhuần giáo huấn của Thầy và chuyển đạt lại bằng những ngôn từ của chính mình. Ông vừa là chứng nhân, ta là người được linh hứng.
Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng các ông đã được ăn bánh no nê”.
Đức Giêsu nói chuyện với những nông dân miền Galilê đang vất vả để kiếm sống. Họ biết đói khổ và no đủ là thế nào, khi họ miệt mài làm việc để thùa thu hoạch có kết quả tốt. Cũng như với người đàn bà xứ Samaria bên bờ giếng, Đức Giêsu dựa vào một nhu cầu vật chất của thính giả làm khởi điểm, đó là những biểu tượng thông thường: đói khát bánh nước… Sự chẩn đoán của Đức Giêsu đối với những người nông dân này vừa đúng lại vừa khắt khe: Những gì họ mong đợi không phải là những “dấu chỉ của nước trời” mà là những “lợi lộc vật chất” họ có thể thu nhận được. Sự chẩn đoán này vẫn luôn mang tính thời sự nóng bỏng. Những nông dân này có lẽ ít “duy vật” hơn chúng ta ngày nay. Nếu chúng ta đón nhận sự chẩn đoán này của Đức Giêsu để duyệt xét lại chính mình chúng ta sẽ khám phá ra rằng, phải chăng chúng ta cũng đói tiền bạc, đói quyền lực, sự kính trọng, an toàn, tiện nghi, và tiêu khiển? Khi Đức Giêsu “giải gỡ” những vấn đề cho chúng ta, chúng ta sẵn sàng bước theo Người. Nhưng nếu Người thực hiện những “dấu chỉ gây rtgỡ ngàng” của nước Thiên Chúa không phù hợp với chúng ta, thì chắc chắn chúng ta cũng dễ dàng bỏ Người?
Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”.
Chúa Giêsu dùng lương thực để so sánh, giúp chúng ta hiểu những gì Người mang đến cho nhân loại. Có hai thứ sự sống và hai loại của ăn: của ăn thân xác, cho ta sự sống dễ ‘hư nát’ và của ăn từ trời, cho ta ‘sự sống đời đời’. Được Thiên Chúa tạo dựng và được dựng cho Thiên Chúa, nên con người đói khát Thiên Chúa. Ngoài Thiên Chúa, không gì có thể làm con người hoàn toàn thỏa mãn. Tất cả những lương thực trần gian không làm con người no thỏa. Đức Giêsu không dạy chúng ta khinh thường “lương thực hằng ngày” nhưng hãy ao ước “Bánh ban sự sống vĩnh cửu”. Đức Giêsu không xúi chúng ta biếng nhác trong công việc cần thiết cho sự sống nhân thế, nhưng Người muốn chúng ta “làm việc” cùng với sự nhiệt tình như thể để tìm kiếm sự sống không thể hư mất được. Khác với Bouddha, Đức Giêsu không bảo chúng ta phải diệt dục, nhưng ngược lại phải thăng hoa nó: Anh em chớ hài lòng với cuộc sống chẳng qua của anh em… Anh em hãy ước muốn sự sống đời đời. Hãy làm những gì cần thiết để chiếm được sự sống đó, và hãy sống sự sống vĩnh hằng ngay từ bây giờ.
Họ liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những điều Thiên Chúa muốn?” Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến”.
Ở đây bắt đầu một mạc khải lạ lùng. Lương thực cốt yếu mà con người đói khát, đó chính là Đức Giêsu. Một quyết đáp có vẻ táo bạo và điên rồ, nhưng đã được kiểm chúng hằng triệu lần từ 2.000 năm qua. “Anh em hãy tin”. Đó là công trình của Thiên Chúa nơi chúng ta. Tin, có đức tin đó là làm việc với Thiên Chúa, là cộng tác với Thiên Chúa Đấng muốn ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu của Người.
Họ lại hỏi: “Vậy chính ông, Ông đã làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? ông sẽ làm chi đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời”. Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực”.
Họ vẫn còn dừng lại tại chân trời quen thuộc của họ, họ vẫn luôn ở bờ bên này, Đức Giêsu tìm cách gợi lên trong họ những khát vọng cao siêu, khởi đi từ những nhu cầu vật chất. Nhưng ngày nay, chúng ta đang đói cái gì? Mỗi ngày người ta nói với chúng ta rằng, con người sẽ có hạnh phúc khi mua một cái máy nào đó để làm việc nội trợ, ngậm một viên kẹo, dùng một thuốc khử mùi hay dầu gội dầu nào đó… Còn Đức Giêsu lại nói với chúng ta, những thứ “man-na” đó chỉ là một thứ thức ăn vật chất rất thô thiển, có thể nói là dành cho loài vật, nếu so với hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho ta. Các bạn có để ý đến một hiện tượng trong xã hội Tây phương mà chúng ta có thể gọi là hiện tượng “bú mút”: Suốt ngày, trên các đường phố, chúng ta thấy người ta ăn, nhai, ngậm, nuốt kẹo, đặc biệt là mọc lên rất nhiều hiệu bánh kẹo đủ loại. Những nhà phân tâm học nhận thấy trong hiện tượng này một sự thoái hóa, trở về tình trạng trẻ nít: Đứa bé thường tự giải buồn bằng cách mút ngón tay cái của nó. Nhưng đó không phải là dấu hiệu biểu lộ con người chỉ thích thỏa mãn với những lạc thú phiếm diện, hời hợt sao?
Dĩ nhiên, Đức Giêsu đang đứng ở mức lãnh vực khác hẳn.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đói khát lương thực cốt yếu.
Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.
Chúng ta nên suy gẫm về sự lạ lùng mà những chữ này gợi ra cho ta không? Chúng ta đã được tạo dựng cho Thiên Chúa. Dù muốn, dù không, cơn đói của chúng ta, chính là đói Thiên Chúa. Tiên tri Isaia đã nói “Tại sao phí tiền vào những của không làm no bụng”. Sau khi đã đi tìm tất cả mọi lạc thú trần gian, Thánh Angustinô đã thú nhận rằng: “Lạy Chúa, tâm hồn con không nghỉ yên khi nó chưa được an nghỉ trong Chúa”. Vâng, tâm hồn chúng ta rất rộng lớn, đến nỗi không gì có thể lấp đầy được ngoài một mình Thiên Chúa mà chúng ta được dựng nên vì Người. Sau mỗi lạc thú dục vọng lại sinh ra dục vọng, đó là dấu hiệu của sự đòi hỏi vô biên này.
“Bánh từ trời xuống” đó là man-na lương thực huyền siêu như bài đọc một Chúa nhật này đã nhắc cho chúng ta: Cái gì đây? Man-na? Người ta chờ đợi sự tái xuất hiện lương thực lạ lùng làm no thỏa, vào thời Đấng Mêsia. Nhưng khi lặp lại cách diễn tả truyền thống xa xưa, Đức Giêsu đã coi Man-na của thời Môisen chỉ là biểu tượng của “quà tặng từ trên cao”, “lương thực bởi trời”. Lời của Thiên Chúa. Theo sách Đệ nhi luật, mục đích sâu xa của phép lạ thời xuất hành không phải là để nuôi những người Do Thái về mặt vật chất trong sa mạc, nhưng nhằm giúp họ quen “tin tưởng” vào Chúa: “Con người không chỉ sống nhờ bánh mà còn nhờ những gì từ miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8,2-3) Đức Giêsu đã mượn câu này của sách Đệ nhị luật để nói với Satan: “Bánh vật chất” không đủ. Sự liên hệ này cho thấy, “Đấng Kitô” của Tin Mừng thứ 4 theo Thánh Gioan không khác với Đức Giêsu lịch sử đã được mô tả trong 3 Tin Mừng kia (Mt 4,4; Lc 4,4). Đức Giêsu cũng tuyên bố giáo thuyết của Người, hay hơn nữa, chính bản thân Người là lương thực: Con người không chỉ sống bằng bánh mà còn bằng lời Chúa.
Họ liền nói: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy”. Đức Giêsu bảo họ: “Chính tôi là bánh trường sinh”.
Quan niệm cho rằng lời Chúa, giới răn của Chúa là thức ăn thiêng liêng bổ dưỡng cho con người, cao quý hơn thức ăn thông thường đã có trong suốt Cựu Ước.
– A-mốt 8,11: “Sắp tới những ngày, Ta sẽ cho nạn đói đến trong xứ, không phải đói bánh, không phải khát nước, mà là đói khát nghe Lò Thiên Chúa”.
– Giêrêmia 15,16: “Khi nghe lời của Người, tôi đã ăn ngấu nghiến. Lời Chúa là sự vui sướng hạnh phúc cho lòng tôi”.
– Đức Giêsu theo Thánh Gioan (4,32-34).
Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết, đó là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy.
Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ.
Trong bài Thánh thư Chúa nhật hôm nay, Thánh Phaolô nói với chúng ta về những người dân ngoại đã để cho sự hư vô dẫn đắt họ (Ep 4,17-24). Nếu những hiệu bánh ngọt cũng đủ làm thỏa mãn chúng ta, thì thật là đáng tiếc! Lạy Chúa, xin ban cho chúng con thứ bánh của Chúa, Này đây, tay con đang giơ lên cao…

74. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU, BÁNH TRƯỜNG SINH
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1) Từ lương thực ‘mau hư nát’ đến lương thực ‘trường tồn’
Sau phép lạ hóa bánh, Đức Giêsu “đã lánh mặt đi lên núi một mình”. “Chiều đến”, các môn đệ Người xuống thuyền đi sang “bên kia Biển Hồ”; còn Đức Giêsu lát sau đó “đi trên mặt biển” mà đến với các ông. Hôm sau đám đông cũng xuống thuyền vượt qua: Biển Hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người. Mọi người sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc “vượt qua” khác, sâu xa hơn nhiều: vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là bánh trường sinh.
Trước tiên Chúa cảnh giác đám thính giả của Người về mong muốn lệch lạc của họ. Họ có sự hiểu lầm về lương thực (xem sự hiểu lầm của phụ nữ Samari về nước uống): “Các ông đi tìm tôi, Chúa nói với họ, không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. X. Léon Dufour nhận xét: Động cơ thúc đẩy họ vẫn là mùi vi của bánh trần gian: họ đã không nhìn thấy trong ân huệ bánh dư thừa, dấu chỉ của một lương thực khác phải tìm kiếm, thứ lương thực trường tồn ban phúc trường sinh mà Con người sẽ ban cho” (“Lecture de l’evangile de Jean”, cuốn 11, Seuil, trang 132). Chính thứ lương thực này mà con người phải khao khát được ăn; chính vì lương thực ấy mà con người phải “làm việc” để kiếm tìm.
Ngộ nhận mới do những từ ngữ “làm”, “những việc” gợi lên. Dân chúng hỏi: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Theo họ nghĩ, đó là những việc bên ngoài mà Chúa đòi hỏi nơi những kẻ thờ phượng Người, như những nghi lễ và một số những việc khác.
Lập tức Đức Giêsu bắt họ bỏ qua “những việc” (số nhiều) để nghĩ đến “Việc Thiên Chúa” (số ít): bởi lẽ “việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Ngài đã sai đến”.
2. Từ “bánh bởi trời” đến chính Đấng là “bánh trường sinh”.
Những người đàm đạo với Chúa xem ra sẵn lòng tin nhận Người là Đấng Thiên Chúa sai đến, nhưng dẫu sao cũng có điều kiện: “Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông”. Dân chúng vừa mới được thấy dấu lạ là bánh hóa nhiều, thế mà họ còn đòi xem một dấu lạ khác, thì kể cũng là lạ thường. Nhưng ta đừng quên câu chuyện mới xảy ra gần đây, khi những người miền Galilê này đã coi Đức Giêsu như Vị Ngôn sứ, đó là: theo truyền thống tiên tri, một dấu lạ được chứng thực là đúng thì phải được Người thực hiện nó loan báo trước. X. Léon Dufour còn nhấn mạnh: “Thực ra người ta không đòi hỏi Chúa thực hiện ngay dấu lạ, mà chỉ cần nói cho biết Người sẽ làm dấu lạ nào” (OC. trang 134).
Giống như phụ nữ Samari nại đến tổ phụ Giacóp (4,12), những người Do Thái nại đến tổ phụ Apraham, thì đám đông người miền Galilê nại đến Môsê, người đã bầu cử với Chúa ban cho có manna: “Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc”.
Đức Giêsu đã bài bác lối giải thích của họ, dựa vào lời họ trưng dẫn trong sách Xuất Hành mà làm bằng cứ:
+ Người ban manna, “bánh bởi trời” không phải là Môsê, như ý họ muốn nói, nhưng là Đấng mà Người gọi là “Cha” của Người.
+ Điều cải chính trên về ai là kẻ ban phát manna không chỉ nói về thời dĩ vãng xa xưa của cha ông họ khi Xuất Hành, mà còn liên quan tới thời buổi này đối với những kẻ đang nghe Chúa nói. An huệ manna đó được ban cho chính họ ngay lúc này, ơn huệ đó là đích thực. Lương thực Chúa Cha ban cho hôm nay làm cho hình ảnh manna tiên báo và những lời hứa của Luật được ứng nghiệm. X. Leon Dufour viết tiếp: “Giữa quá khứ và tương lai thì đây là ‘hiện tại của Thiên Chúa’. Từ việc nhớ lại manna trong sa mạc” (hồi ức) và khao khát “được ăn mãi thứ bánh ấy” (trông mong) người ta đạt tới thực tại mang tính bản thể” (OC. trang 137).
+ Sau cùng “Bánh Thiên Chúa ban, bánh từ trời xuống” không chỉ dành riêng cho một mình dân Israel thôi. Bánh đem lại sự sống cho thế gian ấy, hết mọi dân tộc trên trái đất đều có quyền được hưởng.
-“Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy”, dân chúng liền nói, giống như phụ nữ Samari đã nói với Đức Giêsu bên bờ giếng Giacóp: “Thưa Ngài, xin Ngài cho tôi thứ nước ấy (4, 15).
– Với lời lẽ trang trọng Chúa nói với họ “chính tôi đây là bánh trường sinh”, bánh các ông ao ước ăn đó, là chính tôi đây. “Đức Giêsu làm ứng nghiệm nơi Người hình ảnh manna mang tính cánh chung vậy” (X.Léon-dufour, Sđd, trang 136).
Bởi vậy, điều kiện duy nhất để được ăn bánh đó là “đến” với Người và “tin” vào Người. Vì tự coi mình là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa (Kn 9,1: bài đọc 1 Chúa nhật 20), là Nguồn sống đáp ứng được sự đói, khát của con người, Đức Giêsu trân trọng mời gọi anh em Người tới dùng bữa: “Ai đến với Tôi, không hề phải đói, ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.
BÀI ĐỌC THÊM
1) “Từ bánh được ban tới Người ban bánh, từ dấu lạ tới Đấng mà dấu lạ biểu thị”
(R. Josse trong “Célébrer” tạp chí của CNPL, số 240, trang 41).
Câu hỏi tỏ vẻ quan tâm ghi ở đầu trình thuật này: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy”, cho thấy đám đông có phần nào bị lạc hướng. Họ đã tìm kiếm Đức Giêsu, nhưng không phải để hiểu biết Người: dấu lạ đã chỉ khơi dậy nơi lòng họ ước muốn có bánh ăn, chứ không phải niềm khao khát được ánh sáng soi rọi giúp hiểu biết về con người Đức Giêsu. Họ chẳng hiểu được ám chỉ về quyền năng của Con Người. Theo kiều đối thoại, Tin Mừng Gioan lần lượt trình bày cho biết sự ngộ nhận do họ không hiểu biết.
Họ ỷ mình đã từng được biết câu chuyện manna ghi trong sách thánh. Đức Giêsu vịn vào lý lẽ của họ và hướng người nghe chú tâm đến Thiên Chúa: Môsê xưa đã cho các ngươi ăn bánh bởi trời, nhưng không phải là bánh bởi trời đích thực, mà chỉ là bánh nếm thôi. Trong Xuất Hành, manna nói lên ân huệ cụ thể thật cần thiết, là lương thực được cung cấp sáng chiều: người ta hầu như nghĩ tưởng đến trình thuật về sáng tạo, lực sáng tạo của Chúa hoạt động một cách vô cùng rộng rãi. Nhưng ân huệ ấy vì là dấu chỉ thôi thúc lòng tin, nên phải nhắc nhở (con người thụ hưởng) nhở đến Đấng ban phát ơn tuy mắt không thấy, nhưng Ngài vẫn hiện diện và hoạt động, vẫn lèo lái con đường giải thoát. Bánh Chúa ban, lúc này đây, là chính Đấng từ trời xuống, Đấng đem lại sự sống cho thế gian.
Cuộc đối thoại sẽ còn dẫn đến một ngộ nhận mới cũng giống như ngộ nhận của phụ nữ Samari nơi Ga 4,15: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh đó!”. Nay Chúa không lấy một cái gì đó mà cho người ta, Chúa cho chính mình Người. Từ quan tâm đến việc Chúa làm, người ta chuyển quan tâm đến Người là ai, nghĩa là phải từ bánh được ban tới Người ban bánh, từ dấu lạ tới Đấng mà dấu lạ ấy biểu thị. Lòng tin vào Đức Kitô đòi phải có một chuyển biến sâu xa tự thâm căn con người vậy.
2) “Lương thực đích thực”
(Đức Cha L. Daloz, trong “Nous avons vu sa gloire”, Desclée de Brouwer, trang 81-82).
“Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến”. Lời khẳng định mạnh mẽ này phơi bày điều thầm kín từ đáy lòng họ. Họ đã biết đôi chút về Đức Giêsu. Họ đã muốn tôn Người làm vua, sau khi được thấy dấu lạ hóa bánh. Điều Chúa yêu cầu họ lúc này có tính cách bó buộc. Họ phải tin vào Người, phải từ bỏ những tính toán riêng tư để đem lòng tin cậy Người. Đó cũng chính là vấn đề quyết liệt được đặt ra cho tất cả những ai gặp gõ Đức Giêsu, cho cả chính chúng ta nữa. Ta có nhận là không nhờ Người để rà xem những ý tưởng riêng tư của ta đúng hay sai, để thực hiện những chương trình của ta, mà trái lại ta biết nhờ Người giúp đi vào chương trình Người hoạch định, đi theo Người đến nơi Người muốn đưa ta đến? Những người đàm đạo với Chúa khi ấy lẫn tránh không muốn sự lựa chọn quyết liệt này. Họ muốn được kiểm chứng, họ cần phải có được một cuộc “giám định lại”, một dấu lạ khác… Họ không muốn dấn thân: “Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tuy họ đã được thấy dấu lạ về bánh, nhưng họ chưa lấy làm đủ. Nhân danh Sách Thánh họ từ khước Người: tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc. Cần phải có cái gì hơn thế mới có thể lay chuyển được họ, những con người được liệt vào bậc thầy về Kinh Thánh. Đối với người không tin Đức Giêsu, luôn luôn có cách tìm thoái thác. Thế nhưng Đức Giêsu vẫn tiếp tục cuộc đối thoại. Người đi cho tới cùng mặc khải Người đã bắt đầu. Người biện bác khởi đi từ chính vấn để họ đặt ra: “Thật, tôi bảo thật các ông không phải ông mô sê đã cho các ông ăn bánh bởi trỏi đâu. Ơn manna khi ấy chỉ là một ân huệ tạm thời, chỉ là một loan báo mà giờ đây mới có ý nghĩa đích thực. Chính việc hóa bánh ra nhiều cũng chỉ là một dấu chỉ. Chính Đức Giêsu mới là bánh đích thực, từ trời xuống để cho thế gian được sống: Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian”.

75. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Thiên Chúa đã niêm ấn”: Con Người đến từ trời và các dấu chỉ Người hoàn tất là những hành vi qua đó Thiên Chúa bảo đảm rằng sứ mệnh Người là đích thực (3,33) và nhân loại có thể nhờ Người mà chiếm được sự sống vĩnh cửu. Một vài nhà chú giải coi công thức “niêm ấn” là một ám chỉ đến phép rửa của Chúa Giêsu, vì họ thấy cùng từ ngữ đó được dùng trong thần học phép Rửa tội (x. Ep 1, 13; 4,30; Kh 7,3-4).
“Công việc của Thiên Chúa… là các người tin vào Đấng Ngài đã sai đến”: Gioan sử dụng, bằng cách nhuận sắc lại một thành ngữ của Phaolô (Rm 3,18) và duy nhất hóa tất cả thái độ của Kitô hữu thành đức tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến.
“Vậy thì ông làm dấu chỉ gì để chúng tôi thấy mà tin ông”: Lời yêu cầu này không có đáp trả, bởi vì không thể đáp trả Chẳng một dấu chỉ nào có thể minh chứng (mặc dầu nhiều dấu chỉ gợi lên cho thấy) Chúa Giêsu là sứ giả Thiên Chúa sai. Một bằng chứng có tính cách ép buộc bất thành hóa công việc của Thiên Chúa là tin vào Chúa Giêsu. Ở đây những người đối thoại với Chúa Giêsu bắt đức tin lệ thuộc việc chứng kiến những điềm lạ vĩ đại; theo họ, Đấng Thiên sai phải hoàn tất được nhiều phép lạ trổi vượt các phép lạ mà Israel xưa từng mục kích (x. Mc 8,11; Mt 16,1; 12,38), đặc biệt những phép lạ thời Xuất hành. “Ngài đã cho họ ăn bánh bởi trời xuống”: Việc ban manna hằng ngày trong sa mạc đã được nhiều tiến sĩ luật xem như là dấu lạ lớn nhất của thời Xuất Hành (Xh 16, 15; Ds 11,7; 21,5; Đn 8,3; Kn 16,20; ở đây, Gioan trích dẫn Tv 78,24.
KẾT LUẬN
Một lần nữa, Chúa Giêsu đưa thính giả của Người trở lại mầu nhiệm Con Người (c.27), nghĩa là nghĩ đến nhân vật thần thiêng mà Đanien đã thấy bên cạnh Thiên Chúa (Đn 7,13-14), nhân vật của tương lai thiên sai. Đến từ trời, Con Người, tức Chúa Giêsu, sẽ là sứ giả đích thực của Cha, được thánh hiến để thi hành sứ mệnh và được xác nhận qua các phép lạ của Người. Hơn hẳn Môisen trong các dấu lạ cũng như trong chính bản thân (c.32), Người sẽ phát ban một thứ lương thực siêu nhiên cho những kẻ theo Người.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) “Hãy lao công đừng vì lương thực hư nát, nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời (c.27). Y như nước luôn múc từ giếng không làm giảm cơn khát của người đàn bà xứ Samaria (4,13), thì “lương thực hay hư nát” cũng chẳng có sức làm chúng ta no thỏa, bảo đảm cho chúng ta một cuộc sống lâu dài và đích thực; vì một khi ăn vào, nó liền bị tiêu hóa và cuối cùng duy trì tính háu ăn của ta, nhận chìm chúng ta vào sự lệ thuộc bắt buộc, bất lực, tha hóa của khát vọng không bao giờ nguôi, của lòng ao ước đưa tới thất vọng vì sự chết. Của ăn trần thế, cho dù thú vị nhất thời đến đâu vẫn không thể làm no thỏa tâm hồn của con người. Thay vì cố gắng đổ đầy túi thèm khát vô đáy của xác thịt, chúng ta phải “ra công làm việc vì thức ăn lưu lại mãi đến sự sống vĩnh cửu, nghĩa là thức ăn biến đổi chúng ta nên những con người sống chính cuộc sống của Thiên Chúa và hiệp thông vào nguồn phát sinh không bao giờ cạn của Người. Lúc đó niềm ao ước và cơn đói khát của chúng ta sẽ không còn ám ảnh chúng ta nữa; và thay vì lo lắng thái quá cho việc sinh nhai (x. Mt 6,25tt), chúng ta sẽ “đói khát sự công chính” (Mt 5,6), sẽ tìm được của ăn là làm theo ý Thiên Chúa chúng ta (Ga 4,34).
2) “Chúng tôi phải lao công vào việc nào của Thiên Chúa” (câu 28). Câu hỏi xem ra nói lên thiện chí của những người đối thoại với Chúa Giêsu. Nhưng theo văn mạch, nó thật là hàm hồ để được “ăn no nê” (c.26), người ta tỏ ra sẵn sàng đặt một giá nào đó; những công việc tốt họ sẽ thực thi làm cho họ xứng đáng ăn bánh bởi trời, họ tưởng như vậy. Đó là phản ứng thuần bản năng của tôn giáo loài người trong việc “bán buôn” với Thiên Chúa. Chúng ta chấp nhận làm tròn mọi điều kiện Ngài đặt ra, miễn là về phía Ngài, Ngài bảo đảm lợi ích cho chúng ta.
3) Nhưng Chúa Giêsu không quan tâm đến lối tiểu xảo đó “Công việc của Thiên Chúa, tức là các ngươi tin vào Đấng Ngài đã sai” (câu 29). Người đảo ngược viễn tượng: không còn vấn đề các công việc của chúng ta, việc mặc cả thô bỉ của chúng ta với Thiên Chúa nữa, nhưng là công việc mà Thiên Chúa hoàn thành trong chúng ta: đức tin vào Đấng Ngài sai đến. Điều này đòi hỏi ở chúng ta một cái gì khác hơn điều chúng ta đã dự liệu: không còn là một cái tối thiểu khiến chúng ta nên sòng phẳng một cách rẻ tiền, cũng chẳng là những dấu lạ nhân đức làm cho Thiên Chúa trở thành người mắc nợ chúng ta, song là việc cởi mở đón nhận hoạt động của Ngài, hoạt động biến đổi chúng ta tự căn để, làm ta trở về với Chúa Giêsu và đem chúng ta vào trường học của Người. Để Thiên Chúa xâm nhập như thế vào đời sống chúng ta và ra công làm việc, điều đó làm chúng ta sợ hãi, Để biện minh cho sự thối lui trước đòi hỏi này, chúng ta dùng một chiến thuật để câu giờ và đặt một điều kiện mới: “Vậy thì Ngài làm dấu gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm việc chi?” (x. c.30). Trong lúc Chúa Giêsu vừa hoàn thành một dấu chỉ, thì chúng ta muốn ép Người làm nhiều phép lạ càng lúc càng kỳ diệu hơn để chúng ta trơ trẽn lợi dụng. Thật ra, chúng ta đã thấy hoạt động của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta, nhưng chúng ta luôn bị cám dỗ từ chối tin vào Ngài. Chúng ta luôn đòi hỏi những bằng cớ chứng minh sự hiện hữu và hoạt dộng của Ngài trong thế gian, những bằng cớ buộc chúng ta tin từ bên ngoài, trong lúc Thiên Chúa lại ưa nói cùng chúng ta từ bên trong bằng những dấu chỉ kín đáo vốn để chúng ta được tự do từ chối lời mời gọi của Ngài. Thiên Chúa muốn được những người con tự do mến yêu, chứ không muốn những tên nô lệ sợ hãi thờ kính.
4. “Ai đến với Ta…” (c.35). Đức tin bao hàm một bước tự ý, một sự dấn thân. Người ta không thể chỉ ngồi nhìn như khán giả say sưa hay phê bình những gì Chúa Giêsu làm và nói để rồi tùy cơ lợi dụng. Chúa Giêsu chỉ cho no thỏa hoàn toàn và dứt khoát những ai dám bước cái bước quyết định của đức tin. Kẻ tài tử thích nhìn người từ xa thôi sẽ luôn đói. Những ai “đến cùng Chúa Giêsu” sẽ được tràn đầy hoan lạc và an bình. Kẻ ấy sẽ khám phá hương vị đích thực của cuộc sống, là sống bình dị như con cái Thiên Chúa giữa đại gia đình nhân loại được tụ tập quanh Cha.

76. Chú giải của William Barclay
CUỘC SĂN TÌM SAI LẦM (Ga 6,22-27)
Đám đông dân chúng vẫn nán lại bên kia bờ hồ. Vào thời Chúa Giêsu, người ta không cần mở cửa văn phòng theo một giờ nhất định. Họ có thì giờ chờ Chúa Giêsu trở lại với họ, họ chờ vì họ thấy chiếc thuyền các môn đệ chèo đi không có Chúa trong đó nên họ kết luận rằng Chúa Giêsu phải ở gần đây thôi. Chờ đợi một lúc, họ mới biết Chúa không trở lại. Trong vịnh gần đó, có mấy chiếc thuyền nhỏ từ Tibêria đến đậu lại, chắc là tìm chỗ ẩn nấp cơn giông qua đêm. Thế là dân chúng lên các thuyền ấy, vượt biển hồ để trở qua Caphacnaum.
Đến nơi, họ vô cùng ngạc nhiên vì thấy Chúa ở đó rồi. Họ hỏi Ngài đến đó bao giờ. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi ấy. Đây không phải là lúc để trò chuyện về những việc như vậy. Đời sống thật ngắn ngủi, không có thì giờ để tán gẫu về những chuyến đi. Ngài đi thẳng vào trọng tâm vấn đề. Ngài phán “Các ngươi đã chứng kiến những việc lạ lùng, các ngươi đã thấy ân sủng của Thiên Chúa có thể làm cho cả một đoàn dân đông đảo được ăn no, đáng lẽ tâm trí các ngươi phải suy nghĩ về Thiên Chúa là Đấng đã làm những việc ấy, nhưng thay vào đó, các ngươi lại chỉ nghĩ đến bánh. Dường như Chúa Giêsu có ý nói “Các ngươi chỉ biết đến cái bụng nên không thể nghĩ đến linh hồn mình”.
Chrysostom đã nói: “Loài người vốn bị đóng đinh vào những việc thuộc về đời sống”. Đây là những người chẳng bao giờ ngước cao hơn bức tường thành của thế gian, chẳng biết phóng tầm mắt đến chân trời của cõi đời đời. Một đêm nọ, Nã Phá Luân nói chuyện với một người quen, bấy giờ đã khuya lắm, ngoài trời tối đen, hai người đến gần khung cửa, trên trời có những ngôi sao thật xa, trông nhỏ bằng đầu kim, nhấp nháy sáng. Mắt của Nã Phá Luân thì tinh, còn mặt bạn ông đã mờ. Nã Phá Luân chỉ lên trời hỏi: “Anh có thấy các ngôi sao ấy không?”. Người bạn đáp: “Tôi không thấy”, Nã Phá Luân nói: “Tôi thì thấy, đó là chỗ khác nhau giữa tôi với anh”. Người bị buộc chặt vào thế gian chỉ sống được phân nửa đời sống. Chỉ những ai có tầm mắt nhìn xa thấy rộng, nhìn ra các vùng trời xa xăm và thấy được các vì sao mới là người thật sự sống.
Chúa Giêsu dạy bằng một câu nói ngắn gọn: “Hãy làm việc không phải vì của ăn hư nát, nhưng vì của ăn còn lại đến sự sống đời đời”. Từ ngàn xưa, ngôn sứ Isaia đã nêu cùng một câu hỏi như vậy: “Sao các ngươi trả tiền để mua đồ không phải là bánh? Sao các ngươi đem công lao mình đổi lấy vật chẳng làm cho no?” (Is 55,2). Có hai thứ đói, đói thể xác mà thực phẩm vật chất có thể thỏa mãn được. Một người có thể giàu như Croesus mà vẫn thấy thiếu một cái gì trong đời.
Sau năm 60 SC, xã hội Roma sống trong xa hoa chưa từng thấy. Bấy giờ, người Roma đãi tiệc bằng óc chim công và lưỡi họa mi, người ta ăn uống cho nôn mửa giữa hai bàn ăn, để lần sau thấy ngon miệng hơn. Những bữa ăn đáng giá hàng ngàn Anh kim là chuyện thông thường. Pliny kể lại, thời ấy một mệnh phụ may một chiếc áo cưới dát vàng và dính nhiều châu ngọc trị giá tương đuơng 432.000 Anh kim. Nguyên do của những phung phí đó là sự bất mãn sâu xa, sự đói khát không gì thỏa mãn được. Họ tìm đến bất cứ điều gì khiến cuộc đời có được một rung động mới, hương vị mới, vì họ vừa giàu có nhưng lại vừa đói khát vô cùng.
Chúa Giêsu thấy quần chúng Do Thái chỉ chú ý đến thỏa mãn thể xác. Họ đã được đãi ăn một bữa dư dật, và họ muốn được ăn nữa. Nhưng có nhiều thứ đói mà chỉ một mình Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn được. Đó là đói chân lý, chỉ có Ngài mới ban chân lý cho loài người. Đó là đói tình yêu, chỉ có Ngài mới ban cho họ tình yêu vượt trên tội lỗi và sự chết. Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn sự đói khát không xoa dịu được của tâm linh con người.
Tại sao Ngài làm được điều đó? Có rất nhiều ý nghĩa qua câu “Bởi vì Thiên Chúa Cha đã đóng dấu trên Ngài”. Trong quyển Phong Tục Phương Đông Tại Xứ Thánh, H. B. Tristam cho biết vài điều thú vị về chiếc ấn trong thế giới cổ. Bên Phương Đông không phải là chữ ký mà là dấu ấn mới có giá trị. Các tài liệu chính trị và thương mại có giá trị khi được in bằng dấu trên mặt nhẫn. Dấu ấn chứng thực cho một bản di chúc, dấu ấn trên miệng bao hay thùng bảo đảm cho vật đựng bên trong. Tristam kể rằng đến người nghèo nhất cũng sử dụng chiếc ấn để chứng thực. Trong những chuyến du hành của ông, khi ký hợp đồng với những người cho thuê lừa, ngựa hoặc khuân vác, họ cũng đóng dấu của họ vào đó để xác nhận rằng họ bắt buộc phải tôn trọng và đồng ý như vậy. Ấn được làm bằng đất nung, kim khí hay kim cương. Trong bảo tàng viện Anh quốc, hầu như có đủ các chiến ấn của của vua Assyri. Dấu ấn được in lên đất sét và miếng đất được gắn vào tài liệu. Nhiều khi tài liệu đã mục nát từ lâu nhưng dấu ấn vẫn còn đó, nếu không có nó thì tài liệu vô giá trị.
Người Pharisêu có câu tục ngữ “Dấu ấn của Thiên Chúa là chân lý”. Kinh Talmud chép “Ngày nọ một đại hội các chuyên gia về luật Do Thái đang hội họp đông đảo, họ cùng nhau khóc lóc cầu nguyện, kiêng ăn, bỗng một cuốn sách nhỏ từ trên trời rơi xuống giữa họ. Họ mở cuốn sách ra, trong đó chỉ có một chữ Ameth, nghĩa là chân lý, cho nên các Pharisêu nói “đó là dấu ấn của Chúa”. Ameth do ba mẫu tự Hy Lạp chép lại: aleph là chữ đầu trong mẫu tự, min là chữ chính giữa, tau là chữ cuối cùng. Chân lý của Thiên Chúa là bắt đầu, chính giữa và kết thúc của đời sống.
Chính vì thế mà chỉ Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời. Ngài được Thiên Chúa đóng ấn, là chân lý của Thiên Chúa nhập thể, chỉ có một mình Thiên Chúa mới làm thỏa mãn cơn đói của tâm linh do chính Ngài tạo nên.
VIỆC LÀM DUY NHẤT (Ga 6, 28-29)
Khi Chúa Giêsu nói đến công việc của Thiên Chúa, người Do Thái nghĩ ngay đến việc lành, làm phước. Người Do Thái tin một người sống tốt lành thì được thưởng ân huệ của Thiên Chúa. Họ chủ trương loài người được chia thành ba hạng: người ngay lành, người xấu xa và người ở giữa hai hạng người đó. Nếu người hạng ba biết làm thêm chỉ một việc lành nữa, thì có thể được chuyển sang hạng người ngay lành. Nên khi hỏi Chúa Giêsu công việc của Thiên Chúa là gì, họ mong Ngài đưa ra các bản liệt kê những gì họ phải làm, nhưng Chúa Giêsu hoàn toàn không nói đến điều đó.
Chúa trả lời rất cô đọng, nên chúng ta cần phải khai triển và tìm xem những nghĩa nào trong đó. Chúa Giêsu dạy công việc của Thiên Chúa muốn loài người làm là tin Đấng đã được Ngài sai đến. Phaolô cũng đưa chúng ta vào thời điểm đó: Công việc duy nhất mà Thiên Chúa muốn loài người làm là đức tin. Đức tin là gì? Đức tin chính là “mối liên hệ với Thiên Chúa”, đến độ chúng ta trở thành bạn thân của Ngài, không còn sợ hãi Ngài nữa, nhưng xem Ngài là Cha và là bạn thân thiết, đến nỗi chúng ta tin cậy, vâng lời, phục tùng Ngài cách tự nhiên do mối liên hệ mới mẻ đó. Vậy, tin Chúa Giêsu có liên hệ với việc đó như thế nào? Chúng ta chẳng bao giờ biết được Thiên Chúa nếu Chúa Giêsu không đến, sống và chịu chết để dạy mỗi người chúng ta biết điều đó. Chính nhờ Chúa Giêsu đã đến, qua Ngài chúng ta biết Thiên Chúa là Cha chúng ta, yêu thương chăm sóc chúng ta, chẳng muốn gì khác hơn là tha thứ cho chúng ta, để sự xa lạ, khoảng cách thù nghịch và nghi ngờ Thiên Chúa không còn nữa, và chúng ta có được mối liên hệ với Ngài.
Một lối sống xuất phát từ mối liên hệ mới đó. Khi đã biết Thiên Chúa thế nào, thì đời sống chúng ta phải phù hợp với những gì mình biết về Ngài. Chúng ta phải đáp ứng theo ba hướng, mỗi hướng đều phù hợp với những gì Chúa Giêsu đã dạy về Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa là tình yêu. Vì thế đời sống chúng ta phải biết thương yêu và phục vụ tha nhân, phù hợp với tình yêu và sự phục vụ của Thiên Chúa, tha thứ cho người khác, phù hợp với sự tha thứ của Thiên Chúa.
2. Thiên Chúa là thánh thiện. Do đó, đời sống chúng ta phải thánh thiện, phù hợp với sự thánh thiện của Thiên Chúa.
3. Thiên Chúa là khôn ngoan. Do đó đời sống chúng ta phải kính phục và tin cậy hoàn toàn, phù hợp với sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu dạy tất cả căn bản của đời sống Kitô hữu ở trong mối liên hệ mới mẻ với Thiên Chúa, do Thiên Chúa khởi xướng, một liên hệ chỉ thực hiện được nhờ mặc khải về Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta, mối liên hệ xuất phát từ phục vụ, lòng thanh sạch và tin cậy, vốn là tấm gương phản chiếu hình ảnh của Thiên Chúa. Đây là công việc Thiên Chúa muốn chúng ta làm và giúp chúng ta đủ khả năng để thực hiện.
ĐÒI HỎI MỘT DẤU LẠ (Ga 6, 30-34)
Đến đây, phần lý luận trở thành đặc biệt có tính cách Do Thái trong ngôn ngữ, cách giả dụ và nói bóng. Chúa Giêsu vừa đưa ra một lời tuyên xưng quan trọng, Ngài bảo rằng công việc đích thực Thiên Chúa muốn họ làm là tin Ngài. Người Do Thái nói: “Hay lắm, quả thật đây là lời tự xưng mình là Đấng Mêsia, vậy ông hãy chứng minh đi”.
Bấy giờ họ vẫn còn nghĩ đến việc Chúa hóa bánh cho đám đông ăn, nên điều không tránh được là họ liên tưởng đến manna trong sa mạc. Họ kết hợp hai việc đó thật dễ dàng. Manna vẫn được xem là bánh của Thiên Chúa (Tv 78,24; Xh 16,15). Trong Do Thái giáo, có một niềm tin mạnh mẽ khi Đấng Mêsia đến, Ngài sẽ lại ban manna. Việc ban manna được coi là công việc tối quan trọng trong cuộc sống của Môsê, mà Đấng Mêsia thì phải làm hơn thế nữa. “Vị cứu tinh đầu tiên thế nào, thì vị cuối cùng cũng phải như thế: vị cứu tinh đầu tiên đã khiến manna từ trời xuống thế nào, thì vị sau cùng phải khiến được manna từ trời xuống như vậy”. “Các người không thể tìm manna trong đời này, nhưng sẽ tìm thấy manna trong thời sắp tới”. “Manna đã được chuẩn bị cho ai? Cho người công chính của thời sắp tới, mỗi người đều tin, đều xứng đáng được ăn bánh ấy”. Người ta tin có một bình manna được giấu kín trong hòm Giao Ước đặt trong ngôi Đền Thờ đầu tiên. Khi Đền Thờ bị phá hủy, Giêrêmia đã đem giấu đi. Khi Đấng Mêsia đến, dân chúng sẽ được thấy lại manna. Nói cách khác, dân Do Thái đang thách thức Chúa Giêsu hãy khiến bánh từ Thiên Chúa xuống để hậu thuẫn cho những lời tự xưng của Ngài. Họ không chịu xem số bánh năm ngàn người vừa ăn là bánh từ Thiên Chúa đến. Theo họ, manna phải khác hẳn và đó là trắc nghiệm cho Chúa Giêsu Kitô.
Câu trả lời của Chúa Giêsu gồm hai phương diện. Trước hết, Ngài nhắc họ không phải Môsê đã cho họ manna, mà là Thiên Chúa. Thứ hai, Ngài bảo họ manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, mà chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa chính là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người không chỉ sự no đủ về phương diện thể lý nhưng là sự sống. Chúa Giêsu tuyên bố sự thỏa mãn duy nhất là ở trong Ngài.

77. Lương thực đời đời
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Lương thực là sản phẩm được thu hoạch từ các loại cây chủ yếu dùng làm thực phẩm. Do đó, thực phẩm là tất cả những thứ con người (hoặc động vật) có thể ăn hoặc uống để hấp thụ dinh dưỡng – gọi chung là ẩm thực. Bốn loại cây lương thực chính của Việt Nam – đất nước nông nghiệp – là lúa, bắp, sắn, và khoai lang. Bánh mì không là thực phẩm chính của dân Việt nhưng là thực phẩm chính của người Tây phương, vả lại nó được làm từ lúa mì, lúa mạch, lúa miến,…
Nhưng trớ trêu thay, có quan chức ở Việt Nam lại cho rằng bánh mì và bắp không phải là lương thực hay thực phẩm. Ai cũng biết chữ “thực” nghĩa là ăn, lương thực và thực phẩm là những thứ ăn được, có thể nuôi sống con người, nhất là trong lúc dịch bệnh thế này. Nếu đồ ăn đó không là lương thực hay thực phẩm thì là cái gì?
Ngày xưa có “đặc sản” Manna hoặc Mana, nhìn trắng như sương muối, rơi xuống từ trời vào ban đêm, trong như pha lê hoặc giọt sương. Nhưng nó sẽ cứng dần và dính, biến thành màu trắng, vàng, hoặc hơi nâu, giàu chất carbohydrates (chất cần thiết để cơ thể hoạt động), và sẽ tan biến khi nắng lên.
Từ ngữ manna được sách Xuất Hành đề cập 5 lần, (Xh 16:26-35) và được Kinh Koran đề cập 3 lần. Một số học giả cho rằng manna do tiếng Ai Cập là mennu, nghĩa là “đồ ăn.” Theo Kinh Thánh, manna là “man hu,” nghĩa là “cái gì đây?” – tương tự Anh ngữ là “what is it?” hoặc Pháp ngữ là “qu’est-ce que c’est?” Nhưng cũng có người cho rằng chữ “man hu” có thể có từ nguyên là tiếng Aram chứ không phải là tiếng Do Thái. Đó là chuyên môn, chúng ta chỉ cần hiểu manna là đặc sản duy nhất Chúa cho dân ăn suốt 40 năm khi tiến về Đất Hứa. Thế thôi!
Chúng ta được biết qua trình thuật Xh 16:2-4, 12-15 thế này: Trong sa mạc, toàn thể cộng đồng con cái Israel kêu trách ông Môsê và ông Aharon: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai Cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây.” Khổ gì thì khổ, chứ khổ vì đói khát thì khổ lắm. Với bản năng sinh tồn, người ta có thể dám làm bất cứ điều gì, thậm chí còn liều bán rẻ danh dự hoặc lương tâm. Bất chấp! Vì miếng ăn mà xảy ra tranh chấp, chiến tranh, ngay cả tình thân cũng có thể cắt đứt. Có miếng ăn vinh, có miếng ăn nhục!
Thi sĩ ngụ ngôn La Fontain (1621-1695, Pháp) thẳng thắn: “Cái bụng đói không thể lắng nghe.” Khi bụng đói cồn cào, thằng Bờm không cần thứ gì quý giá mà không thể ăn ngay, chỉ cần nắm xôi ăn ngay được. Thực tế vậy thôi! Danh y Anthony xác định: “Thực phẩm là cội rễ của vạn vật. Chính thực phẩm và chỉ có thực phẩm mới là thuốc chữa bách bệnh.” Ăn không chỉ để no bụng mà còn để duy trì sức khỏe. Chế độ ăn uống tốt khả dĩ ngăn ngừa bệnh tật. Sức khỏe tinh thần cũng ảnh hưởng lẫn nhau – hồn an, xác mạnh.
Thực sự Thiên Chúa thực tế hơn người ta tưởng. Ngài thấu hiểu nỗi khổ của dân nên phán với ông Môsê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không.” Ngài cũng cho biết: “Ta đã nghe tiếng con cái Israel kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.” Ngài trừng trị nhưng Ngài “xót xa” lắm. Chúng ta có thể cảm nhận qua tình cha mẹ đối với con cái: Con đau một, cha mẹ xót mười.
Thiên Chúa hứa gì thì làm ngay. Chiều hôm đó, chim cút bay đến rợp cả trại. Buổi sáng có lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan đi, trên mặt hoang địa có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Khi con cái Israel thấy thế, họ liền hỏi nhau: “Man hu? – Cái gì đây.” Ông Môsê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn.” Sự thật chứ không là chiêm bao. Đỡ khổ, khỏi lo đói khát nữa, vì đã có thịt chim cút và bánh hiên thần để no thỏa. Thật tuyệt vời!
Không phải là Thiên Chúa không biết nên mới “dò sóng” và thử thách chúng ta. Ngài thấu suốt mọi sự, biết trước cả những gì chúng ta chưa nghĩ tới. Ngài muốn dùng sự thử thách để tôi luyện chúng ta. Đại dịch cúm Tàu đang hoành hành, nhưng nó giúp chúng ta nhận biết Thiên Chúa và thân phận mỏng manh của chúng ta. Khi nhận ra phép lạ của Thiên Chúa thì người ta không thể lặng im: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết do cha ông kể lại cho mình, chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kỳ công Chúa đã làm.” (Tv 78:3-4)
Tất cả chỉ là “chuyện nhỏ” đối với Thiên Chúa. Ngài tuyên phán một lời thì liền có cả trời đất và muôn loài trong đó, nói chi chuyện rẽ nước cho dân Israel băng qua và vùi lấp quân Ai Cập trong biển nước. (Xh 14:15-31) Manna và chim cút cũng chỉ là “hạt bụi trong hạt cát” mà thôi: “Chúa hạ lệnh cho mây tầng cao thẳm, lại truyền mở rộng cánh thiên môn; Người khiến manna tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ. Kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần, Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực.” (Tv 78:23-25) Manna được gọi là “bánh thiên thần,” nhắc chúng ta nhớ tới Thánh Thể – bánh thiên thần đặc biệt mà chúng ta được tận hưởng mà dân xưa không được biết đến. Chúng ta hạnh phúc hơn họ mà lại không biết tạ ơn Thiên Chúa sao?
Lời khuyên Thánh Phaolô dành cho dân Êphêsô ngày xưa nhưng vẫn đầy tính thời sự đối với chúng ta ngày nay: “Đây là điều tôi nói với anh em, và có Chúa chứng giám, tôi khuyên anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ.” (Ep 4:17) Quả thật, chúng ta vẫn chưa bỏ được thói ảo tưởng trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống – cả đời và đạo: Nói hay, muốn nhiều, mà làm chẳng bao nhiêu. Đòi lấy, chứ không muốn cho.
Sự thật thì hay mất lòng và thường phũ phàng lắm. Thánh Phaolô cảnh báo: “Còn anh em đã chẳng học biết về Đức Kitô như vậy đâu; ấy là nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giêsu và được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giêsu. Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 4:20-24) Con người chúng ta mê muội, ù lì, viện nhiều cớ nên vẫn giậm chân tại chỗ – đôi khi còn thụt lùi mới đáng sợ.
Thật vậy, đã bao Mùa Vọng, Mùa Chay, tĩnh tâm, xưng tội, quyết tâm,… cứ theo nhau qua đi, con người cũ vẫn chẳng đổi mới được bao nhiêu. Rất chí lý với cách ví von của tiền nhân: “Chó đen giữ mực. Cốt khỉ hoàn cốt khỉ.” Chắc hẳn đã nhiều lần chúng ta tự nhủ: “Tại sao vậy?” Lý do thực tế và đơn giản lắm, bởi vì “chiến thắng một đạo quân còn dễ hơn chiến thắng chính mình.” (Đại đế Napoléon) Đặc biệt là đối lập: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm.” (Rm 7:19) Thật khốn nạn cho chính tôi!
Dân Israel rất ngạc nhiên khi thấy manna. Chưa hề thấy bao giờ. Và họ hỏi nhau: “Cái gì vậy?” Tương tự, khi thấy người lạ, người ta thường hỏi: “Ai đây?” Còn nhiều câu hỏi tương tự như vậy trong cuộc sống đời thường. Thắc mắc không chỉ vì tò mò mà để tìm hiểu. Thắc mắc đúng đắn sẽ dẫn tới sự khôn ngoan. Thắc mắc vì ham lạ sẽ bất lợi, thậm chí là tác hại.
Ngày xưa, dân chúng không thấy Chúa Giêsu và các môn đệ, họ đi tìm Ngài. Khi thấy Ngài ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” (Ga 6:25) Ngài trả lời nhưng có ý trách họ: “Tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.” (Ga 6:26) Rất “sốc” nhưng không oan chút nào. Và Ngài khuyên: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.” (Ga 6:27)
Ngày nay, chúng ta cũng chẳng khác. Những lúc cầu nguyện, chúng ta thường chỉ muốn XIN là chính, nhất là muốn “xin như ý mình,” muốn XIN thì phải ĐƯỢC, gọi là xin-cho, nhưng khi được rồi lại quên tạ ơn Ngài. Rất phũ phàng!
Sau khi dân chúng nghe Chúa Giêsu nói vậy thì hỏi ngay: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (Ga 6:28) Thật lòng mà hỏi như vậy thì tốt, vì muốn vâng ý Chúa chứ không theo ý mình. Chúa Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến.” (Ga 6:29) Thế nhưng họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời.” (Ga 6:30-31) Thì ra họ không thành tâm, chỉ muốn “bắt bẻ” Chúa Giêsu mà thôi. Dốt mà chảnh, ngu mà kiêu. Chúng ta cũng vậy thôi.
Nhưng Chúa Giêsu vẫn thản nhiên và thẳng thắn: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.” (Ga 6:32-33) Có lẽ lúc này họ mới “sáng mắt” nên vội xin Ngài cho họ được ăn mãi thứ bánh ấy. Biết xin như vậy là tốt, biết phục thiện. Chúa Giêsu nói: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6:35) Nghe vậy thì họ lại xì xầm với nhau, cho rằng Chúa Giêsu nói những lời “khó lọt lỗ tai.” Bướng bỉnh tột đỉnh!
Sự thật đích thực thì mãi mãi là sự thật, trường tồn và bất biến. Chúng ta may mắn hơn dân xưa vì được thừa hưởng di sản vô giá: Đức tin Công giáo, đức tin tông truyền, đức tin duy nhất, đặc biệt nhất là Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô.
Thánh Thomas More (luật sư, triết gia, chính khách, 1478-1535, Anh quốc) chia sẻ: “Nếu tôi xao lãng, việc hiệp lễ sẽ giúp tôi tịnh tâm trở lại. Nếu hằng ngày có những dịp xảy đến xúi giục tôi xúc phạm đến Thiên Chúa, tôi sẽ tự trang bị cho cuộc chiến mỗi ngày bằng việc lãnh nhận Thánh Thể. Nếu tôi đặc biệt cần đến ánh sáng và sự khôn ngoan để thực thi các phận sự nặng nề của tôi, tôi sẽ đến bên Đấng Cứu Độ, mong tìm được lời khuyên và ánh sáng của Người.”
Lạy Thiên Chúa hằng hữu, xin ban những ơn cần thiết để chúng con đủ sức biến đổi theo ý Ngài, cụ thể là trải nghiệm hoàn cảnh khó khăn vì đại dịch thế này. Xin cho chúng con được no thỏa Thánh Ân và Thánh Thể, và cho chúng con được hưởng sự sống đời đời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

78. Ẩm thực
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Ẩm thực là ăn uống (ẩm: uống, thực: ăn). Ăn uống cũng có “đạo lý ăn uống”, ăn uống còn là một nét văn hóa – gọi là văn hóa ẩm thực, và có cả một triết lý trong văn hóa ẩm thực. Ăn uống không chỉ là đưa thức ăn và thức uống vào miệng, là việc cần thiết để duy trì sự sống, mà còn thể hiện tính cách một con người. Tiền nhân dạy: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Xem ra việc “ăn uống” quá đơn giản nhưng cũng phức tạp, vì phức tạp nên mới phải học.
Có thể nhờ ăn uống mà người ta thêm hiểu nhau, nhưng cũng có thể do ăn uống mà sinh hiềm khích nhau. Vì sự sinh tồn, nghĩa là vì miếng cơm và manh áo, người ta có thể chém giết lẫn nhau. Chung quy thì chiến tranh xảy ra cũng chỉ vì tranh giành quyền lợi, tranh giành sự sống lẫn nhau.
Kinh thánh nói về việc ăn uống: “Khi con ngồi ăn với kẻ có chức quyền, hãy để ý kỹ người đối diện. Nếu con vốn tham ăn, hãy đặt dao kề cổ. Đừng thèm thuồng cao lương mỹ vị của hắn, vì đó là thứ đồ ăn phỉnh gạt” (Cn 23:2-3). Còn ca dao Việt Nam cảnh báo:
Miếng ăn là miếng tồi tàn
Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu
TỪ BÁNH VẬT CHẤT…
Trong sa mạc, trên hành trình về Đất Hứa, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron. Họ vất vả khổ sở nên trách móc các ông: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16:3). Họ trách móc người khác và than thân trách phận vì thiếu thực phẩm, họ không thỏa mãn cái miệng. Chúa biết lắm, thế nên Ngài nói với ông Môsê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không” (Xh 16:4).
Rồi Ngài nói thêm với ông: “Ta đã nghe tiếng con cái Ít-ra-en kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi” (Xh 16:12). Thật vậy, cứ chiều đến, chim cút bay đến rợp cả trại. Buổi sáng thì có lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan thì trên mặt hoang địa có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Khi dân Ít-ra-en thấy thế, họ liền hỏi nhau: “Man hu?”, nghĩa là: “Cái gì đây?” (Xh 16:15a). Ông Môsê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh chị em làm của ăn!” (Xh 16:15b). [Xin “mở ngoặc”: Loại bánh-từ-trời đó là Manna, còn được viết là Mana, hoặc al-Mann wa al-Salwa, tiếng Hy-lạp và Latin là Man hoặc Manna].
Đó là điều lạ lùng Chúa làm để thỏa mãn lòng dân, và còn biết bao điều kỳ diệu khác mà hằng ngày Ngài vẫn làm vì chúng ta. Vì thế, chúng ta phải tự hứa: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết do cha ông kể lại cho mình, chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: Sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kỳ công Chúa đã làm” (Tv 78:3-4). Tác giả Thánh vịnh nhắc lại: “Chúa hạ lệnh cho mây tầng cao thẳm, lại truyền mở rộng cánh thiên môn; Người khiến man-na tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ. Kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần, Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực” (Tv 78:23-25). Thiên Chúa luôn chiều lòng chúng ta, dù đôi khi chúng ta rất ngỗ nghịch, cao ngạo hoặc phản bội Ngài, nhưng Ngài vẫn im lặng và kiên trì chờ mong chúng ta “giác ngộ” mà nhận biết Ngài là Đức Chúa duy nhất.
Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ” (Ep 4:17). Khi đã thay đổi lối sống, chúng ta “phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, phải để Thần Khí đổi mới tâm trí, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4:22-24). Nhưng không thể “giả vờ” hoặc “ra vẻ” mà phải thay đổi từ đáy lòng, phải thay đổi theo ý Đức Kitô, phải “chết” cho con người cũ và “chết” cho tội lỗi. Tức là phải chịu đau đớn vì tự “banh da, xẻ thịt” của mình vì lý tưởng Kitô. Khó lắm, đâu phải chuyện đùa!
…TỚI BÁNH TRƯỜNG SINH
Khi dân chúng thấy Đức Giêsu và các môn đệ đều không có ở đó, họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm Ngài. Khi thấy Ngài ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” (Ga 6:25). Ngài nói toạc móng heo: “Thật, Tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm Tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6:26). Nghe rất “sốc”, rất đau, vì họ bị “chạm” vào chính “ý đồ” của họ.
Có lẽ chúng ta cũng chẳng hơn gì dân Ít-ra-en xưa. Liệu chúng ta đi hành hương có thực sự vì yêu mến Chúa, vì sùng kính Đức Mẹ hoặc các thánh? Chúng ta thường “rỉ tai” nhau: “Chỗ đó thiêng lắm, người ta xin được nhiều ơn lắm”. Và chúng ta cũng cố gắng đến để “được ơn” là chính. Nếu không được ơn thì sao? Chúng ta còn giữ vững đức tin? Những người có “của ăn, của để” mới đủ “khả năng” đi hành hương các Thánh địa hoặc Linh địa, còn những người nghèo thì sao? Vậy người nghèo thiệt thòi quá! Có đoàn hành hương về Thánh địa Giêrusalem với chi phí tới 9 tỷ VNĐ, còn đến các linh địa trong nước cũng tốn bạc triệu. Người nghèo có mơ cũng không thấy, vì họ lo kế sinh nhai hằng ngày còn “sất bất sang bang” thì làm sao có tiền đi hành hương để “xin ơn”? Nếu chỉ những ai đi hành hương mới được ơn thì Chúa bất công!
Liệu chúng ta đi làm việc thiện có vì yêu mến Chúa qua những anh chị em kém may mắn hơn mình? Liệu chúng ta hoạt động tông đồ, tham gia các hội đoàn hoặc các nhóm đạo đức có thực sự hy sinh và chỉ vì muốn vinh danh Chúa?
Chắc chắn những câu hỏi đó “khó” trả lời lắm, và có lẽ chúng ta cũng đang có những tư tưởng phù phiếm! Và chắc chắn Chúa không câu nệ hình thức như chúng ta tưởng hoặc “suy bụng ta ra bụng… Chúa”.
Chúa Giêsu nói: “Quý vị hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (Ga 6:27). Có lẽ họ không hiểu nên liền hỏi: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (Ga 6:28). Ngài trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6:29). Không biết vì không hiểu hay cố ý không chịu hiểu mà họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời” (Ga 6:30-31). Đức Giêsu đáp: “Thật, Tôi bảo thật quý vị, không phải ông Môsê đã cho quý vị ăn bánh bởi trời đâu, màchính là Cha Tôi cho quý vị ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6:32-33).
Ý Ngài hoàn toàn khác, thảo nào…! Nếu chúng ta được trực tiếp đối thoại với Ngài lúc đó thì chắc chắn chúng ta cũng chỉ “như vịt nghe sấm” chứ hiểu gì nổi.
Nhưng với dân Ít-ra-en lại khác, sau khi nghe Ngài nói đến “bánh đem lại sự sống” thì họ nói ngay: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy” (Ga 6:34). Đức Giêsu bảo họ: “Chính Tôi là bánh trường sinh. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6:35). Lại nghe quá “sốc”! Bánh gì kỳ lạ vậy chứ? Thế nên chúng ta đừng vội chê trách “người xưa”. Quả thật, nếu là chúng ta thì có lẽ Chúa Giêsu “không có đường về”. Cũng may là chúng ta “sinh sau, đẻ muộn”, được học hỏi và được lãnh nhận đức tin vào Chúa Giêsu từ ngàn xưa truyền lại. Thực sự chúng ta rất may mắn!
Thậm chí chúng ta còn may mắn hơn dân Ít-ra-en, vì họ chỉ được ăn bánh-từ-trời là man-na, còn chúng ta cũng được ăn bánh-từ-trời, nhưng đó là Bánh Trường Sinh, là chính Mình và Máu Đức Giêsu Kitô.
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con, xin giúp chúng con xứng đáng lãnh nhận Bánh Trường Sinh là Thánh Thể Đức Giêsu Kitô, để được sống đời đời chứ không bị án phạt mãi mãi. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
SỐNG (CN XVIII TN, năm B – Ga 6:24-35)
Loanh quanh cơm, áo, gạo, tiền
Ngược xuôi ngày tháng, muốn điên cái đầu
Bon chen từ sáng tới chiều
Tóc xanh rũ xuống phai màu thời gian
Có lần Chúa nhắc nhở rằng:
“Sống không chỉ bởi của ăn đời này
Nhưng còn sống bởi lời Ngài
Chính Thiên Chúa phán hằng ngày, người ơi! (*)
Cơm giữa đời, bánh bởi trời
Ngài luôn phân phối, mọi người đủ no
Chuyện sinh nhai lắm nhiêu khê
Nhưng con tin Chúa liệu lo đúng thời
Giọt buồn chợt hóa tiếng cười
Cho con biết phải dâng lời tạ ơn
Man-na, lương thực luôn cần
Bánh Trường Sinh vẫn cần hơn rất nhiều
Diệu kỳ Thánh Thể tình yêu
Hằng ngày con được Ngài trao trọn tình
TRẦM THIÊN THU
(*) Đnl 8:3; Mt 4:4; Lc 4:4

79. Cái gì đây?
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Khi chưa biết về vật gì, người ta sẽ thắc mắc: “Cái gì đây?”. Rồi tìm hiểu, nghiên cứu, nhờ đó mà có thể biết đó là cái gì và để làm gì. Khi dân Ít-ra-en đi qua sa mạc để đến Đất Hứa, người ta cũng đã từng thắc mắc khi thấy “vật lạ” từ trời rơi xuống như mưa: “Cái gì đây?”.
Manna hoặc Mana là loại thực phẩm đặc biệt, ăn được, nhìn trắng như sương muối, rơi xuống từ trời vào ban đêm, trong như pha lê hoặc giọt sương, rồi cứng dần và dính, biến thành màu trắng, vàng, hoặc hơi nâu, giàu chất carbohydrates (chất cần thiết để cơ thể hoạt động), nhưng manna sẽ tan biến khi nắng lên. Từ ngữ manna được đề cập 5 lần trong sách Xuất Hành (Xh 16:26-35), được đề cập 3 lần trong Kinh Koran.
Một số học giả cho rằng manna do tiếng Ai Cập là mennu, nghĩa là “đồ ăn”. Theo Kinh Thánh, manna là “man hu”, có nghĩa là “cái gì đây?” – tương tự Anh ngữ là “what is it?”, hoặc Pháp ngữ là “qu’est-ce que c’est?”. Nhưng người ta cho rằng từ “man hu” có thể có từ nguyên là tiếng A-ram chứ không phải là tiếng Do Thái.
Trình thuật Xh 16:2-4. 12-15 cho biết: Trong sa mạc, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron. Họ nói: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!”. Khổ gì thì khổ, chứ khổ vì đói khát thì khổ lắm. Vì miếng ăn người ta có thể dám làm bất cứ điều gì, thậm chí không ngần ngại bán rẻ danh dự hoặc lương tâm. Bất chấp hết! Vì miếng ăn mà xảy ra tranh chấp, chiến tranh, ngay cả tình thân cũng có thể mất chỉ vì miếng ăn. Khốn nạn thật!
Nhà ngụ ngôn La Fontain (1621-1695, Pháp) nói: “Cái bụng đói không thể lắng nghe”. Và rồi, cũng chỉ vì cái bụng đói cồn cào, thằng Bờm chứ không cần thứ gì quý giá mà không thể ăn ngay, chỉ cần nắm xôi ăn ngay, thực tế là thế đó! Danh y Anthony: “Thực phẩm là cội rễ của vạn vật. Chính thực phẩm và chỉ có thực phẩm mới là thuốc chữa bách bệnh”. Ăn không chỉ để no bụng mà còn để duy trì sức khỏe. Chế độ ăn uống tốt khả dĩ ngăn ngừa bệnh tật.
Thiên Chúa cũng rất thực tế, Ngài thấu hiểu nỗi khổ của dân nên Ngài phán với ông Mô-sê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không”. Và Ngài cho ông Mô-sê biết: “Ta đã nghe tiếng con cái Ít-ra-en kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi”.
Thật vậy, vào buổi chiều, chim cút bay đến rợp cả trại. Buổi sáng có lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan đi, trên mặt hoang địa có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Khi con cái Ít-ra-en thấy thế, họ liền hỏi nhau: “Man hu? – Cái gì đây?”. Ông Mô-sê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn!”. Thật hay mơ? Nếu thật như thế thì đỡ khổ, khỏi lo đói khát nữa, vì đã có thịt chim cút và bánh để ăn. OK lắm!
Thiên Chúa thử thách chúng ta không phải vì Ngài không biết nên phải “dò sóng”, mà Ngài biết trước cả những gì chúng ta chưa nghĩ tới. Ngài thử thách để tôi luyện niềm Tin Cậy Mến của chúng ta mà thôi. Một khi nhận ra phép lạ của Thiên Chúa thì người ta không thể lặng im: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết do cha ông kể lại cho mình, chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kỳ công Chúa đã làm” (Tv 78:3-4).
Với Thiên Chúa, tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”, một lời tuyên phán là có cả trời đất và muôn loài trong đó, nói chi chuyện rẽ nước cho dân Ít-ra-en băng qua và vùi lấp quân Ai Cập trong biển nước (Xh 14:15-31). Manna và chim cút chỉ là “chuyện nhỏ của chuyện nhỏ” mà thôi: “Chúa hạ lệnh cho mây tầng cao thẳm, lại truyền mở rộng cánh thiên môn; Người khiến man-na tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ. Kẻ phàm nhân được ăn bánh thiên thần, Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương thực” (Tv 78:23-25). Manna được gọi là “bánh thiên thần”, nhắc chúng ta nhớ tới Bí tích Thánh Thể – bánh thiên thần đặc biệt mà chúng ta được tận hưởng, còn dân Ít-ra-en xưa không hề biết đến. Chúng ta hạnh phúc hơn họ mà không biết tạ ơn Chúa đấy!
Thánh Phaolô nói: “Đây là điều tôi nói với anh em, và có Chúa chứng giám, tôi khuyên anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ” (Ep 4:17). Lời khuyên dành cho dân Êphêsô ngày xưa nhưng vẫn “nóng hổi” với chúng ta ngày nay, vì chúng ta vẫn chưa loại bỏ được sự ảo tưởng trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống – cả đời và đạo. Nói hay, muốn nhiều, làm chẳng bao nhiêu!
Chẳng oan ức gì đâu, như Thánh Phaolô đã cảnh báo: “Còn anh em đã chẳng học biết về Đức Kitô như vậy đâu; ấy là nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giêsu và được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giêsu. Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4:20-24). Quả thật, phàm nhân chúng ta vẫn mê muội, ù lì, viện nhiều cớ nên vẫn giậm chân tại chỗ – đôi khi còn thụt lùi mới đáng sợ. Bao Mùa Vọng, bao Mùa Chay, bao kỳ tĩnh tâm, bao lần xưng tội, bao lần quyết tâm,… Tất cả cứ theo nhau qua đi, con người cũ vẫn chẳng đổi mới được bao nhiêu! Đúng như tiền nhân ví von: “Chó đen giữ mực. Cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ”. Chắc hẳn đã nhiều lần chúng ta tự nhủ: “Tại sao vậy?”. Lý do thực tế và đơn giản lắm, vì “chiến thắng một đạo quân còn dễ hơn chiến thắng chính mình” (Đại đế Napoléon), và “sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7:19). Khốn nạn thân tôi!
Thấy manna, dân Ít-ra-en lấy làm lạ, vì chưa hề thấy bao giờ, thế nên họ hỏi nhau: “Cái gì thế nhỉ?”. Tương tự, khi thấy người lạ, chúng ta thường hỏi: “Ai đây?”. Và còn nhiều câu hỏi tương tự như vậy trong cuộc sống đời thường này. Thắc mắc không chỉ vì tò mò mà để tìm hiểu. Biết thắc mắc đúng sẽ dẫn tới sự khôn ngoan.
Một hôm, khi dân chúng thấy Đức Giêsu và các môn đệ cũng không có ở đó, thế là họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm Ngài. Khi gặp thấy Ngài ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” (Ga 6:25). Ngài trả lời nhưng có ý trách họ: “Tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (Ga 6:26-27). Khi cầu nguyện, chúng ta cũng thường chỉ muốn xin là chính, nhất là muốn “xin như ý mình”, mà lại quên chúc tụng và tạ ơn! Chúng ta có đáng trách không nhỉ? Chắc chắn ngại trả lời ghê đi!
Nghe Chúa Giêsu nói vậy, họ liền hỏi Ngài: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (Ga 6:28). Thật lòng mà hỏi như vậy thì tốt lành biết bao, vì muốn vâng ý Chúa chứ không theo ý mình. Và Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6:29). Thế nhưng họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời” (Ga 6:30-31). Thì ra họ chẳng thành tâm chi cả, mà họ chỉ muốn “bắt bẻ” Chúa Giêsu mà thôi. Đúng là họ dốt mà chảnh. Và chúng ta cũng thế!
Đức Giêsu vẫn thản nhiên và nói thẳng: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6:32-33). Có lẽ lúc này họ đã “sáng mắt” nên họ liền xin Ngài cho họ được ăn mãi thứ bánh ấy. Biết xin như vậy là tốt. Và Chúa Giêsu xác định: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6:35). Và họ lại xì xầm với nhau, cho rằng Chúa Giêsu nói những lời “khó lọt lỗ tai”.
Tuy nhiên, đó là sự thật, thật hơn cả sự thật. Ngày nay, chúng ta may mắn hơn họ vì đã được hưởng di sản quý báu vô cùng: Đức tin Công giáo, đức tin tông truyền. Và chúng ta không phải thắc mắc như dân Ít-ra-en xưa: “Cái gì thế nhỉ?”. Vâng, chúng ta thực sự vô cùng may mắn!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết thắc mắc đúng và tìm hiểu cho thấu đáo, nhờ đó mà có thể duy trì ba nhân đức đối thần trong mọi hoàn cảnh. Vâng, lạy Thiên Chúa, xin thêm đức tin cho con, để nhờ vững tin mà con có thể trông cậy nơi Ngài, và yêu mến Ngài qua tha nhân. Xin cho con được no thỏa ân tình Thiên Chúa và Thánh Thể Đức Giêsu Kitô. Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Thiên Chúa Thánh Linh, đến muôn đời. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Để Trở Nên Kitô Hữu Tốt
Không ai dám nói rằng làm Kitô hữu quá dễ, chẳng có gì khó. Thiên Chúa trao ban cho chúng ta mọi thứ và cũng đòi chúng ta đáp trả mọi thứ – thời gian, tài năng, chính mình. Chúng ta được kêu gọi trở nên sứ giả của Đức Kitô, và phản ánh Thiên Chúa trong mọi động thái của chúng ta.
Nhưng trong cuộc sống thường nhật, chúng ta có đầy những trách nhiệm, bổn phận và những viẹc phải làm, chúng ta thường “mất dấu” tiếng gọi cao cả nhất.
Dưới đây là một số đề nghị về cách đến gần Thiên Chúa và sống yêu thương tha nhân. Một số điều dễ thực hiện, nhưng một số điều cần nỗ lực hơn. Nhưng tất cả đều có thể giúp bạn theo chân lý: Sống đời Kitô hữu, đó là cuộc sống của bạn – nhưng không là của riêng bạn.
1. Hãy sáng tác, nghiên cứu, vẽ, viết, hát,… và sáng tạo. Cứ thử nghiệm với sự sáng tạo ngay cả lúc bạn cảm thấy “trống rỗng”, và hãy làm nhân Danh Thiên Chúa. Tại sao? Vì bất cứ điều gì cũng được làm để dâng kính Thiên Chúa qua sự sáng tạo vô biên của Ngài. Một lý do khác là bạn có thể thấy rằng Thiên Chúa đã trao ban cho bạn những tặng phẩm mà chính bạn cũng không hề biết mình đang có.
2. Rất nhiều Kitô hữu coi nhà thờ như “điểm hẹn” hằng tuần: Cứ vào rồi ra và về nhà – đôi khi than vãn rằng nhà thờ là nơi không sống động. Nhưng các nhà thờ cũng sôi nổi như lời chúc mừng. Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng chúng ta là “chi thể của Nhiệm Thể Đức Kitô”, như vậy tất cả chúng ta đều được yêu cầu thi hành nhiệm vụ đặc biệt. Hãy tìm ra “cái tài riêng” của mình để có thể phục vụ Giáo hội địa phương tốt hơn.
3. Nghiền ngẫm Lời Chúa có thể là lĩnh vực quan trọng nhất trong việc trở thành một Kitô hữu trưởng thành. Mỗi ngày hãy dành một khoảng thời gian nhỏ để đọc Kinh thánh để có thể gợi hứng và hướng dẫn người khác, chính điều đó cũng giúp bạn tập trung vào những gì quan trọng nhất.
4. Điều này không có nghĩa là bạn phải làm việc gì to tát. Chỉ cần biết các Kitô hữu tôn kính Thiên Chúa thế nào. Nhiều tôn giáo thuộc Kitô giáo có sức thu hút khá mạnh, hãy tìm hiểu cách thờ phượng của họ để có thể hiểu thêm về các Kitô hữu, nhờ đó mà bạn đánh giá đúng về họ và chính mình.
5. Không gì tốt hơn là tự nhắc mình nhớ tới các tặng phẩm của Thiên Chúa hơn là lưu ý sự ngoạn mục và hùng vĩ của các tặng phẩm đó. Hãy ra bờ biển, lên núi, vào rừng, hoặc chỉ cần vào công viên, và dành thời gian chiêm ngắm những kỳ công của Thiên Chúa, cả điều to và nhỏ. Bạn sẽ nhận thấy Thiên Chúa quá đỗi kỳ diệu!
6. Hãy phục vụ nhau. Hãy dạy chữ cho các trẻ em chịu thiệt thòi và bất hạnh. Hãy trao tặng cho người khác tặng phẩm quý nhất: Thời giờ của bạn. Nhờ phục vụ người khác, bạn có thể noi gương cách phục vụ của Chúa Giêsu và chuyển tải tình yêu của Ngài, chỉ cần tập sống tình nguyện phục vụ.
7. Hơn 2.000 năm qua, một số người trí thức đã xử lý các nghịch lý “gai góc” của đức tin Kitô giáo. Qua những lời của Thánh Augustinô và Thánh Thomas Aquinas, hoặc của C. S. Lewis và nhiều người khác, đều có những cách giáo dục, sự thú vị, và sự kỳ lạ.
8. Thiên Chúa không bao giờ muốn chúng ta sống quá thoải mái và ung dung hưởng thụ. Để trở thành người như Thiên Chúa muốn, chúng ta phải luôn tìm kiếm sự thách thức mới – những dịp học hỏi đó là những bài học quan trọng mà chúng ta có thể thực hành vào lúc nào đó. Điều này không dễ, nhưng không gì hơn như vậy!
9. Một số ý tưởng, cảm xúc và hành động có thể trở nên sự hướng dẫn quan trọng trong “bước tâm linh” của bạn. Nếu nhìn lại quá khứ, bạn có thể ngạc nhiên vì chính bạn đã trưởng thành tâm linh hơn nhiều.
10. Hơn 2.000 năm rồi, Giáo hội Công giáo đã giúp một số Kitô hữu trở thành những tấm gương sáng sống động cho chúng ta. Nhiều vị đã được tôn phong hiển thánh, chân phước (á thánh), bậc đáng kính, tôi tớ Chúa. Một số các vị này, dù chính thức hay không, đều được tuyển chọn vì có đời sống anh dũng, dám quên mình hoặc xả thân vì công ích. Cuộc sống của họ có sức động viên chúng ta đấu tranh vì Chúa nhiều hơn.
11. Thánh Phaolô nói rằng “thân xác là đền thờ” – thân xác cần tập luyện để duy trì sức khỏe, linh hồn cũng vậy. Tập luyện thân xác (yoga, thiền, thể dục,…) giúp thăng tiến tinh thần, hãy tập trung vào những điều thuộc lĩnh vực tâm linh.
12. Bắt đầu với Chúa Giêsu và các Tông đồ, Kitô giáo luôn có đức tin chung, nghĩa là chúng ta cùng nhau tìm kiếm Thiên Chúa. Bằng cách chia sẻ sự hiểu biết, chúng ta xây dựng trên kiến thức của người khác – và có thể giúp đỡ nhau qua những mảng kiến thức riêng.
13. Kitô giáo mang tính cộng đoàn. Tân ước cho biết rằng các Kitô hữu đầu tiên quan ngại về bệnh tật, sự nghèo nàn và các vấn nạn của thời đó. Như vậy, chúng ta được kêu gọi quan tâm thế giới xung quanh, và nền dân chủ có nghĩa là bầu cử – bất kể nguồn gốc chính trị nào. Đó không chỉ là nhiệm vụ dân sự, mà còn là bổn phận Kitô hữu. Thiên Chúa kêu gọi chúng ta trở nên chân và tay của Ngài để chúng ta có thể làm cho tình yêu Thiên Chúa được cảm nhận ở khắp mọi nơi.
14. Mỗi ngày, hãy đến với Thánh Thể, dành thời gian để tìm hiểu Lời Chúa và cầu nguyện liên lỉ. Điều này giúp chúng ta biến đổi dần dần.
15. Thiên Chúa vui thích khi chúng ta tận hưởng những tặng phẩm của Ngài. Không tặng phẩm nào quý giá bằng chính gia đình của mình. Hãy cùng nhau đồng bàn mỗi bữa ăn, không chỉ chia sẻ lương thực phần xác mà còn chia sẻ cả những món ăn tinh thần. Khi chúng ta làm cho người thân hạnh phúc, chúng ta cho họ thấy diện mạo yêu thương của Thiên Chúa, điều này thực sự quan trọng.
16. Bạn không cần phải tới Giêrusalem hoặc đi đâu xa mới có thể đánh giá đúng về Thiên Chúa. Ngài hiện diện ở bất cứ nơi nào chúng ta tới: Chúng ta thấy sức mạnh của Ngài trong biển cả, sự uy nghi của Ngài nơi núi rừng, tài nghệ của Ngài nơi nương đồng,… Thiên nhiên luôn mang dấu ấn của Ngài. Hãy cao rao lòng thương xót vô biên của Ngài.
17. Có thể một trong những điều khó nhất là làm Kitô hữu. Khi chúng ta bị tổn thương, điều cuối cùng chúng ta muốn là thoát khỏi đau khổ đó: Chúng ta muốn trừng phạt người đã làm chúng ta tổn thương. Nhưng khi làm vậy, chúng ta lại tự trừng phạt chính mình. Đức Kitô kêu gọi chúng ta nới lỏng nắm tay và tha thứ cho những người làm hại chúng ta. Nếu làm vậy, chúng ta không chỉ tha thứ người khác mà còn tha thứ chính mình.
18. Thiên Chúa có thể nói trong cơn động đất và bão tố, nhưng Ngài thường nói bằng tiếng nói nhỏ nhẹ. Hằng ngày hãy dành thời gian để giữ im lặng và lắng nghe Tiếng Chúa. Bạn sẽ ngạc nhiên về những gì bạn nghe được.
PAUL ASAY
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)
*****
Sự Thật về Tình Yêu Thương
Một vị giảng phòng cho ĐGH Biển Đức XVI đã nói: “Tình yêu con người và tình yêu Thiên Chúa luôn song hành, và phân tách hai tình yêu ấy dẫn đến những vấn đề tạo ra sự xa cách cả bên trong và bên ngoài giáo hội”.
Lm Raniero Cantalamessa, dòng Phanxicô (Capuchin), nói rằng người ta tin sai lầm đến nỗi mà tình yêu người ta dành cho nhau và dành cho Thiên Chúa không tương xứng với tình yêu vô điều kiện Thiên Chúa trao ban cho con người như thế đã góp phần tục hóa Tây phương và cả sự lệch lạc trong những người được thánh hiến.
Hai cách diễn tả tình yêu có thể được hòa giải bằng cách đặt tình yêu của Chúa Giêsu Kitô trước mọi thứ, Lm Cantalamessa nói trong lần suy niệm đầu tiên trong mùa Chay 2011 đã bày tỏ với ĐGH và các viên chức Tòa thánh.
Lm Cantalamessa, người giảng phòng cho ĐGH, đã được mời giảng và suy niệm trong những dịp đặc biệt – kể cả mùa Chay. ĐGH Biển Đức XVI đã cùng với một số tiến sĩ quan trọng của giáo hội giải thích tính đồng nhất của “hai gương mặt tình yêu: eros và agape”. Lm Cantalamessa đã nói về thông điệp “Deus Caritas Est” (Thiên Chúa là Tình yêu) năm 2006 của ĐGH Biển Đức XVI để giải thích tầm quan trọng của việc kết hợp các khái niệm được tiếng Hy Lạp xác định là eros, tình yêu giữa người nam và người nữ có thể nâng cao tình yêu lên Thiên Chúa, và từ agape, tình yêu quên mình được diễn tả rõ ràng nhất bằng sự hạ mình xuống làm người nơi Đức Kitô.
Lm Cantalamessa nói: “Sự tục hóa và nhần mạnh vào eros đã tách tình yêu nhân loại ra khỏi tình yêu Thiên Chúa trong mọi hình dạng, làm giảm tình yêu đó thành hoàn toàn ‘trần tục’, mà Thiên Chúa lại ‘yêu quá nhiều’ và thậm chí phiền toái”. Mặt khác, Tình yêu Thiên Chúa được phân biệt bởi “agape mà không eros” là phổ biến đối với một số người sống đời thánh hiến chỉ là “tình yêu lạnh nhạt”.
Lm Cantalamessa nói thêm: “Nếu tình yêu nhân loại dẫn đến các mối quan hệ và tình yêu xúc cảm đối với Thiên Chúa bị từ chối hoặc bị ngăn chặn thì hệ quả chỉ là để con người thực hiện với sự mệt mỏi vì trách nhiệm, hoặc để tìm kiếm sự đền bù có thể không phù hợp, kể cả những giai đoạn đau khổ nhất mà chúng ta đã thấy, một sự ám chỉ việc lạm dụng tình dục trẻ em của các người trong Giáo hội”.
Nguồn gốc của các động thái “lệch lạc luân lý” của một số người được thánh hiến là “khái niệm méo mó về tình yêu” (distorted and contorted concept of love). Lm Cantalamessa nói: “Nếu tình yêu trần tục giống như cơ thể không có linh hồn, kiểu sống tu này như linh hồn không có cơ thể”.
Ngài chỉ ra rằng, trong thông tri của ĐGH Biển Đức XVI đã nói: “Eros và agape là tình yêu hướng thượng và khiêm hạ có thể hoàn toàn không bao giờ tách rời nhau và chúng được kết hợp bằng nguồn tình yêu là Thiên Chúa”.
Việc chấp nhận tình yêu nhân loại và luyến ái được ĐGH giải thích có lợi cho những người đang yêu, kể cả các Kitô hữu trẻ đã kết hôn, bằng cách “cho thấy vẻ đẹp và sự xứng đáng của tình yêu kết hiệp”. Sứ điệp của ĐGH Biển Đức XVI là “niềm hy vọng cho thế giới”.
Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ từ National Catholic Register)

80. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
LÃNH NHẬN VÀ CHIA SẺ TẤM BÁNH TÌNH NGƯỜI
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Đức Giêsu cảnh báo việc dân chúng đi tìm Người chỉ vì muốn được ăn thứ bánh vật chất mau hư nát. Ngay cả man-na thời kỳ xuất Hành cũng không phải là bánh bởi trời thực sự và không cứu được người ta khỏi chết. Họ cần phải tìm kiếm thứ Bánh bởi trời đích thực là Con Người là Đấng từ trời mà đến và ban sự sống cho trần gian. Bánh Hằng Sống đó chính là Mình Máu Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể mà Người sẽ thiết lập.
CHÚ THÍCH:
– C 24-25: + Ca-phác-na-um: Là một thành phố thuộc xứ Ga-li-lê, nằm gần biển hồ Ti-bê-ri-a. Đức Giêsu chọn Ca-phác-na-um làm trung tâm hoạt động trong thời gian giảng đạo công khai. Tại đây, Người đã nhiều lần rao giảng trong các hội đường (x. Mc 1,21), làm nhiều phép lạ như: Xua trừ ma quỷ (x. Mc 1,23-28), chữa bệnh cảm sốt cho nhạc mẫu ông Phê-rô và chữa lành nhiều bệnh nhân khác (x. Mc 1,29-31.32-34), chữa lành một phụ nữ bệnh 12 năm và làm cho con gái ông Gia-ia mới chết sống lại (x. Mc 5,21-43), giảng về Bánh Hằng Sống (x. Ga 6,24-66)… Thành này là một trong các thành Do Thái bị Đức Giêsu quở trách, vì đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà vẫn cứng lòng không tin vào Người (x. Mt 11,23-24). + Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ: Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều trong hoang địa, vì biết dân chúng muốn tôn mình làm vua, nên Đức Giêsu đã lánh lên núi một mình (x. Ga 6,15).
– C 26-27: + Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê: Đức Giêsu cảnh báo dân chúng đi tìm Người do động lực vụ lợi: Để được có cơm bánh mà không phải lao công làm việc. + Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh: Đức Giêsu không phủ nhận nhu cầu bánh ăn vật chất, nên Người đã làm phép lạ cho dân chúng ăn no. Nhưng Người còn muốn dạy rằng: Trên cuộc sống thể xác là cuộc sống tinh thần sẽ tồn tại mãi mãi. Chính Người sẽ ban cho họ thứ lương thực đem lại sự sống đời đời là bí tích Thánh Thể mà Ngừơi sắp thiết lập. + Con Người: Là một nhân vật thần thiêng mà ngôn sứ Đa-ni-en trong một thị kiến đã xem thấy đứng bên Thiên Chúa (x. Đn 7,13-14). Khi tự xưng là Con Người từ trời mà đến, Đức Giêsu khẳng định Người mới là sứ giả đích thực của Chúa Cha, được Thánh Thần thánh hiến trở thành Đấng Thiên Sai và giúp chu tòan sứ mệnh ấy (x. Lc 4,18; Is 61,1-2). + Là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận: Con dấu ấn là một vật dùng để xác định nguồn gốc thay cho chữ ký. Ngoài việc in trên giấy tờ, bao bì hay các vật khác để làm bằng chứng bảo đảm sự chân thực, người ta còn dùng dấu ấn để niêm phong mồ mả (x. Mt 27,66). Ngoài ra, dấu ấn hay ấn tín cũng được dùng theo nghĩa bóng như lời Thánh Phaolô: “Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” (2 Cr 1,22). Câu này cho thấy Chúa Cha đã đóng dấu ấn trên Đức Giêsu làm bảo chứng xác nhận Người thực là Đấng Thiên Sai.
– C 28-29: + Chúng tôi phải làm gì?: Đây là câu hỏi của dân chúng bày tỏ thiện chí muốn đáp ứng đòi hỏi của Thiên Chúa, sau khi họ nghe rao giảng Tin Mừng, như đám đông đã hỏi ông Gio-an Tẩy Giả tại sống Gio-đan (x. Lc 3,10.12.14), hay dân chúng hỏi Phê-rô vào lễ Ngũ Tuần tại Giê-ru-sa-lem (x.Cv 2,37). + Tin vào Đấng Người đã sai đến: Đấng Thiên Chúa sai đến nói đây chính là Đức Giêsu.
– C 30-31: + Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông?: Dù mới chứng kiến phép lạ nhân bánh ra nhiều vào chiều hôm trước, nhưng dân chúng vẫn chưa thỏa mãn. Họ đòi Đức Giêsu làm một phép lạ đặc biệt phát xuất từ trời để minh chứng sứ mệnh Thiên Sai của Người, giống như Mô-sê đã làm phép cho man-na từ trời mưa xuống để nuôi dân Ít-ra-en suốt 40 năm trong sa mạc, nên man-na được gọi là bánh bởi trời. + Man-na: Phát xuất do từ “Man-nu?”, nghĩa là “Cái gì vậy?”, vì dân Ít-ra-en không biết đó là cái gì (x. Xh 16,15). Mô-sê bảo dân rằng: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn!”. Như vậy, Man-na chính là lương thực đi đường mà Đức Chúa đã ban cho dân Ít-ra-en một cách lạ lùng, trong thời gian họ đi băng qua sa mạc về Miền Đất Hứa (x. Xh 16,11-18). Man-na có hình dạng giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong (x. Xh 16,31). Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh (x. Ds 11,7-8). Man-na là hình bóng của Lời Chúa, là của ăn được Đức Chúa ban, và dân Ít-ra-en phải ý thức tầm quan trọng của Lời Chúa: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, mà còn sống nhờ mọi Lời do miệng Đức Chúa phán ra” (x. Đnl 8,3; Mt 4,4). Khi dân Ít-ra-en vào tới Đất hứa Ca-na-an và bắt đầu được ăn các loại thổ sản tại đó thì Man-na không còn rơi xuống nữa (x. Gs 5,12). Cũng vậy, trong thời gian lưu lạc trên trần gian, các tín hữu cũng được ăn lương thực thiêng liêng là Mình Thánh Chúa để họ đủ sức tiến về Đất Hứa Thiên Đàng, tham dự Bữa Tiệc Cánh Chung trong Nước Trời với Đức Giêsu (x. Lc 22,30), và ngồi đồng bàn với các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp (x. Mt 8,11).
– C 32-33: + Không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi: Đức Giêsu đã giúp dân chúng hiểu rõ: Man-na được ban trong thời kỳ Xuất Hành không phải do Mô-sê ban, nhưng là do chính Đức Chúa đã ban cho dân. Ngoài ra man-na cũng không thực sự là Bánh của Thiên Chúa, mà chỉ là luơng thực vật chất mau hư nát và chỉ nuôi sống thể xác mà thôi (x. Xh 16,19-21), nên dù có ăn man-na, người ta cũng vẫn phải chết (x. Xh 32,33-35). + Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian: Để được gọi là Bánh của Thiên Chúa thì cần phải có hai đặc tính là xuất phát từ trời, và ban sự sống đời đời. Bánh ấy chính là Đức Giêsu. Người vừa là Ngôi Lời vốn ở trên trời, nay được Chúa Cha sai xuống làm Đấng Thiên Sai (x. Ga 1,14), và Người sắp ban Mình Máu Người làm lương thực đem lại sự sống muôn đời cho ai lãnh nhận (x. Ga 6,51).
– C 34-35: + Chính tôi là Bánh Trường Sinh: Kiểu nói “Tôi là” thường được Đức Giêsu dùng và Gio-an đã ghi lại một số câu như: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh” (Ga 6,34); Tôi là Ánh Sáng thế gian (x. Ga 8,12; 9,5); Tôi là Cửa cho chiên ra vào (x. Ga 10,7); Tôi là Mục Tử nhân lành (x. Ga 10,11); Tôi là Sự Sống Lại và là Sự Sống (x. Ga 11,25); Tôi là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (x. Ga 14,6); Tôi là Cây Nho thật (x. Ga 15,1)… Ở đây, khi khẳng định: “Chính Tôi là Bánh Trường Sinh”, Đức Giêsu muớn nói về bí tích Thánh Thể mà Người sắp lập. Qua đó Người sẽ nên bánh thiêng nuôi người dương thế và đem lại cho họ hạnh phúc muôn đời. + Ai đến với tôi, không hề phải đói; Ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ: Người hứa sẽ ban cho những ai lãnh nhận bí tích Thánh Thể được no thỏa. Người cho những ai đặt trọn niềm tin vào Người thỏa mãn khát vọng sống vĩnh hằng.
CÂU HỎI:
1) Bạn biết gì về thành Ca-phác-na-um?
2) Khi nói lên động cơ đi tìm Chúa của dân chúng là tìm bánh ăn vật chất, Đức Giêsu muốn họ phải tìm kiếm điều gì khi đến với Người?
3) Tại sao Đức Giêsu tự xưng mình là Con Người?
4) Dức Giêsu trả lời cho dân chúng biết họ cần làm gì sau khi nghe giảng Tin Mừng?
5) Dân Do Thái muốn Đức Giêsu làm gỉ để chứng minh sứ mệnh Thiên Sai của Người?
6) Thời Môsê danh từ Manna ám chỉ điều gì, được ban cho ai và nhằm mục đích gì? Trong Tân Ước Manna ám chỉ điều gì?
7) Bánh bởi Trời thực sự phải có những đặc tính nào?
8) Khi tự xưng “Tôi Là Bánh Trường Sinh”, Đức Giêsu muốn nói về điều gì?
9) Người hứa ban cho những ai chịu phép Thánh Thể được những ơn gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Chính Tôi là Bánh Trường Sinh. ai đến với Tôi, không hề phải đói. ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ!”
2. CÂU CHUYỆN: Chia sẻ tấm bánh tình người
Một hôm có một lão hành khất gặp Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta trên đường phố và chìa tay ra xin bà bố thí. Bà lục lọi hết các túi áo mà không tìm ra một đồng tiền nào, bà đánh vỗ vai ông lão, vừa tươi cười vừa nói lời xin lỗi vì không có gì để chia sẻ cho ông. Bấy giờ lão hành khất nói: “Hôm nay bà đã cho tôi một món quà quí giá nhất mà từ trước đến nay tôi chưa bao giờ nhận được. Món quà đó là nụ cười cảm thông và lời an ủi đầy tình người của bà. Tôi cảm thấy vui mừng và hạnh phúc, vì tôi đã được bà tôn trọng và được đối xử bình đẳng!”.
3. SUY NIỆM:
1) Cơm bánh vật chất là nhu cầu cần phải được thỏa mãn:
Ngày nay một phần ba nhân lọai đang lâm cảnh đói nghèo có nhu cầu cần được mọi người trong đó có các tín hữu chúng ta tận tình đáp ứng để vượt qua hòan cảnh khó khăn. Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu đã chạnh lòng thương khi thấy dân chúng theo Người bị đói. Và Người đã đáp ứng nhu cầu của họ bằng việc nhân bánh ra nhiều cho họ được ăn no.
2) Con người còn có những nhu cầu tinh thần cần được đáp ứng:
Tin Mừng hôm nay ghi lại việc đám đông dân chúng háo hức đi tìm Đức Giêsu để được ăn bánh mà không vất vả lao động, giống như Mô-sê xưa đã xin Đức Chúa ban bánh bởi trời là man-na cho dân Do thái thời kỳ xúât hành. Họ đã bị Đức Giêsu cảnh báo “Đừng lo tìm những thứ của ăn hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người biết rõ tâm lý con người luôn khát vọng các giá trị tinh thần. Đức Giêsu đã giới thiệu về Bánh Hằng Sống, là bánh từ trời mà đến và ban sự sống đời đời cho trần gian. Banh ấy là chính Đức Giêsu.
3) Lời Chúa và bí tích Thánh Thể là Bánh Hằng Sống ban ơn cứu độ:
Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu hứa ban Bánh Hằng Sống là Lời Người dạy và là bí tích Thánh Thể do Người sắp thiết lập để ban ơn cứu độ cho người đón nhận.
4) Làm gì để chia sẻ Bánh tình thương cho tha nhân?
Các tín hữu chúng ta ngòai việc phải lao động làm ra của cải vật chất để nuôi sống bản thân và chia sẻ cho những kẻ nghèo đói, chúng ta còn có bổn phận năng đi dự thánh lễ để đón nhận Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể, và sẵn sàng chia sẻ Chúa là “Con Đường” duy nhất dẫn đưa ta lên trời, là “Sự Thật” được Chúa Cha mặc khải để lòai ngừơi nhận ra tình yêu cứu độ của Chúa, và là “Sự Sống” đem lại sự sống đời đời cho những ai đón nhận.
4. THẢO LUẬN:
1. Bạn cần làm gì để có được hai thứ Bánh Hằng Sống là Lời Chúa và Thánh Thể Chúa?
2. Bạn sẽ làm gì để giúp những người đói nghèo bệnh tật hay đang đi tìm Chúa nhận được niểm vui ơn cứu độ của Chúa?
5. NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Giêsu!
Những lúc con được no đủ, xin hãy gửi đến cho con một người nghèo đói cần được chia sẻ cơm ăn áo mặc.
Khi con đang vùi mình trong chăn ấm nệm êm, xin hãy gửi đến cho con một ngừơi cóng lạnh giữa giá rét đang cần được sưởi ấm.
Khi con sống trong an bình, xin hãy dạy con ý thức rằng còn nhiều người đang cần sự trợ giúp quảng đại của con.
Khi thập giá đời con giảm nhẹ bớt, xin hãy giúp con sẵn lòng ghé vai vác đỡ gánh nặng cho người anh em.
Khi con làm ăn thất bại, xin giúp con khôn ngoan vượt qua để cảm thông với những người đồng cảnh ngộ.
Khi con có nhiều thời giờ nhàn rỗi, xin hãy gửi đến cho con một ngừơi khuyết tật để con ân cần phục vụ.
Khi con được may mắn thành công, xin hãy gởi đến cho con một người bị thất bại để con động viên khích lệ.
Khi con ích kỷ chỉ biết nghĩ đến bản thân, xin dạy con quên mình nghĩ đến tha nhân và khiêm nhường phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Amen.

81. Đón nhận lương thực thần linh
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Ga 6: 24-35: Trên hành trình tiến về quê thật là Nước Trời, chúng ta được Chúa Giêsu nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Người, chúng ta được Người hướng dẫn bằng Lời Người.
Nhìn vào thực tế của cuộc đời: Nếu không có bánh, chúng ta sẽ chết. Cơm bánh có khả năng duy trì sự sống cho chúng ta nhưng đó là một khả năng giới hạn. Khi nói “Tôi là bánh ban sự sống”, Chúa Giêsu cho hiểu là tương quan giữa bản thân Người với loài người cùng một kiểu như tương quan giữa cơm bánh và chúng ta, nhưng sự sống Người ban là sự sống vĩnh cửu, chứ không chỉ là sự sống trần gian giới hạn. Người mạnh hơn cái chết, Người muốn đưa chúng ta đi sang bên kia cái chết. Nhưng chúng ta phải chạy đến với Người, phải tin vào Người.
Nhìn vào dòng chảy lịch sử cứu độ, ta thấy Thiên Chúa đã thực hiện lời Ngài hứa, Ngài cho dân Israel vào Đất Hứa, nhưng họ chưa tin thật vào Ngài. Chúa Giêsu đến, tiếp tục dạy dỗ họ, đào tạo họ thành những con người tin vào Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã cho dân chúng ăn no nê từ năm chiếc bánh và hai con cá. Chúa Giêsu tỏ quyền năng để họ tin vào Người, tin vào Thiên Chúa.
Thế nhưng rồi ngay sau đó, họ đi tìm kiếm Người để không phải làm mà vẫn có ăn. Họ tìm Chúa Giêsu không vì tin, mà vì lười biếng; họ không nhận ra Tình yêu thương mà Thiên Chúa luôn dành cho họ, để họ tin và đi theo Ngài tiến về Nước Trời. Chúa Giêsu nhắc họ phải ra công làm việc, để có của ăn không chỉ khi còn ở trần gian này, nhưng còn phải ra sức tìm kiếm của ăn không hư nát, đem lại sự sống trường tồn là bánh trường sinh. Người còn chỉ cho họ phương cách để có bánh trường sinh, đó là tin vào Đấng mà Thiên Chúa sai đến, tức là tin vào Người. Vì chính Chúa Giêsu là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! Chúa Giêsu không chỉ dạy cho dân Do Thái khi xưa mà còn dạy cho chúng ta ngày nay.
Quả thật, chúng ta luôn khao khát có hạnh phúc, bình an; chúng ta ra sức tìm kiếm điều đó nhưng không gặp, không có được hạnh phúc đích thật, chỉ vì chúng ta không nhận biết Người là bánh trường sinh, là con đường dẫn đưa chúng ta đến sự sống vĩnh cửu. Vì chúng ta chưa tin thật vào Chúa Giêsu, chưa trở thành con người tin vào Thiên Chúa. Hay nói cách khác, chúng ta chưa trở thành con người yêu thương, vì chưa nhận ra Tình Thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Hạnh phúc mà Chúa Giêsu đem lại cho chúng ta, là chúng ta không tìm kiếm hạnh phúc cho bản thân mình, nhưng phải tạo hạnh phúc cho người khác.
Chỉ khi chúng ta đem lại cho người khác sự bình an, hạnh phúc, chính khi đó, chúng ta lại có được an bình, hạnh phúc. Muốn được như thế, chúng ta phải dẹp bỏ con người ích kỷ của mình. Chúng ta phải giúp nhau sống trong sự yêu thương. Để từ đó, chúng ta giúp nhau nhận biết: Thiên Chúa là Tình Yêu, chính Ngài là hạnh phúc, là bình an thật. Chúng ta sẽ được hưởng niềm vui và bình an khi chúng ta được ở với Ngài trên Nước Trời.
Nhìn lại lịch sử năm xưa, dân Israel được ăn manna và thịt chim cút trong hoang địa, vì họ chưa tin thật vào Đức Chúa, vì họ than trách Ngài. Thiên Chúa ban cho họ của ăn, để nuôi dưỡng họ trong hành trình tiến về Đất Hứa. Thiên Chúa làm như vậy để họ chỉ tôn thờ, chỉ tin vào một mình Ngài mà thôi. Họ cần phải nhận biết: chỉ có Một Thiên Chúa duy nhất, không có thần nào khác. Thiên Chúa dạy dỗ họ để họ trở thành một con người tin vào Đức Chúa. Đó là điều cần thiết nhất giúp họ vào Đất Hứa.
Và rồi ta thấy rằng khi ta tin vào Chúa Giêsu khi ta tự liên kết hoàn toàn với Người và để cho Người hoàn toàn quy định đời sống tôi. Đức tin có thể là như một dây liên kết mong manh và yếu kém; còn nếu một dây liên kết quan trọng, vững chắc và thiết yếu đối với cuộc sống, thì nó được diễn tả ra bằng một tình bạn chân thật hoặc một cuộc hôn nhân đích thực. Khi tin vào Chúa Giêsu, dây liên kết ta có với Người sẽ có sức mạnh và có khả năng ban sự sống tối đa.
Trên hành trình tiến về quê thật là Nước Trời, chúng ta được Chúa Giêsu nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Người, chúng ta được Người hướng dẫn bằng Lời Người. Mình và Máu Chúa chính là của ăn của uống không bao giờ hết, không hề hư nát; đó là lương thực đem lại sự sống vĩnh cửu, nếu chúng ta tin thật vào Chúa Giêsu. Đức Tin của chúng ta được củng cố nhờ Lời dạy của Chúa Giêsu. Lời Chúa nuôi dưỡng niềm tin, giúp ta lớn lên trong Tình Yêu của Ngài, hướng dẫn ta để ta trở nên con người tin vào Thiên Chúa, ngõ hầu được chung hưởng niềm vui vĩnh cửu trên Quê Trời.
Thánh Phaolô nhắc cho chúng ta phải học biết về Đức Kitô để củng cố Đức Tin của mình. Một khi đã tin vào Chúa Giêsu, chúng ta phải biến đổi cuộc đời mình: cởi bỏ con người cũ và phải mặc lấy con người mới. Tức là một người biết làm theo Lời Chúa Giêsu dạy, để trở nên công chính, thánh thiện; hay nói theo Chúa Giêsu đã dạy: Nên Hoàn thiện như Cha của chúng ta là Đấng Hoàn thiện. Điều này đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực, phải ra công tìm kiếm và phải cố gắng mỗi ngày. Mỗi người phải dứt khoát từ bỏ con người tội lỗi, con người ham muốn trần gian, để trở thành con người tin thật vào Thiên Chúa.
Nhìn lại cuộc đời, ta thấy xấu hổ vi a ngại để cho Thiên Chúa đi vào trong cuộc sống chúng ta và làm việc ở đó. Để biện minh cho việc chúng ta lùi lại trước đòi hỏi của Người, ta thường vận dụng một chiến thuật khác để “câu giờ”, chúng ta đặt ra một điều kiện: “Ông đã làm dấu lạ nào…? Ông đã làm gì?” (c. 30).
Quả thế, ta đã thấy hoạt động của Thiên Chúa trong đời sống ta, nhưng ta vẫn tìm cách từ chối tin vào Người. Thiên Chúa lại chỉ thích nói với con tim ta bằng những dấu chỉ kín đáo hầu ta vẫn còn tự do mà từ khước tiếng gọi của Người. Thiên Chúa muốn được yêu mến bởi những người con tự do, chứ không phải được tôn thờ bởi những tên nô lệ khiếp nhược.
Bữa ăn lạ lùng sẽ phải được giải thích như là một dấu chỉ. Đấy là một sự kiện thực hữu, Đức Giêsu đã thực sự cho một đám đông ăn no; nhưng biến cố này tự nó không có ý nghĩa. Đức Giêsu không muốn chứng minh rằng người ta có thể nhận được bánh từ nơi Người mà không cần phải mệt nhọc và được nhận ê hề; Người không muốn thay thế các ông thợ làm bánh mì để rồi các ông này phải thất nghiệp mà bị đói. Bữa ăn lạ lùng nhắm đến một thực tại khác.
Sự kiện Chúa Giêsu có thể ban bánh và cho ăn no nê theo nghĩa trần thế phải cho thấy rằng bản thân Người chính là bánh ban sự sống và có thể ban sự sống vĩnh cửu, không bao giờ tàn lụi. Ở bên Người, chúng ta không được tìm kiếm bánh trần thế; trái lại, chúng ta phải nhìn nhận rằng Người có thể và muốn ban cho chúng ta một thứ vô cùng lớn lao hơn. Chúng ta cần phải để ý đến điều này và đón nhận quà tặng của Người.
Từ manna trong thời Cựu Ước, tiến đến Bánh trường sinh trong thời Tân Ước, cũng chỉ nhằm bày tỏ một vấn đề, đó là Bánh ban sự sống, và đã được Chúa Giêsu trình bày cho dân một cách nhẹ nhàng, và hợp lý hợp tình. Nên chi, cuối cùng thì dân chúng đã hiểu vấn đề, và họ liền thưa Người rằng: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi”. Đúng là không còn dịp nào tốt hơn, Chúa Giêsu liền nói với dân chúng: “Chính Ta là Bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”.
Chúa Giêsu hướng cho dân chúng biết chuyện Bánh ban sự sống; từ việc ra công tìm bánh nuôi sống, Chúa Giêsu hướng dẫn dân biết ra công làm việc của Thiên Chúa là “tin vào Ðấng Ngài sai đến”; và từ thái độ lên giọng đối chất về dấu lạ manna của dân, Chúa Giêsu đã giải thích cho họ: “ không phải Môsê đã ban cho các ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực”, đám đông dân chúng liền hạ giọng xin cho được ăn Bánh ban sự sống. Với diễn biến nội tâm của đám đông dân chúng tốt đẹp như thế, Chúa Giêsu đã không ngần ngại trao ban: chính Mình Ngài.
Đức Giêsu, Đấng Phục Sinh, đang nuôi dưỡng chúng ta bằng Lời và Bí tích trong các cuộc cử hành phụng vụ. Chúng ta có biết chính Người là Đấng chúng ta đang tìm kiếm và không phải là dấu chỉ của sự thỏa mãn vật chất nào khác? Cơn đói mãnh liệt nhất của chúng ta là sự mật thiết với Thiên Chúa, là sự sống của Thiên Chúa bên trong chúng ta, thứ mà Đức Giêsu hôm nay gọi là “sự sống đời đời”. Đức Giêsu mời gọi chúng ta tin tưởng nơi Người với tất cả con người, tâm hồn và thân xác của ta. Chuyện quan trọng là ở ta, ta có đến và lãnh nhận lương thực thần linh hay không mà thôi.

82. Suy niệm các ngày trong tuần 18 TN
(Suy niệm của Huệ Minh)
LỄ CHÚA GIÊSU HIỂN DUNG – Mt 14:13-21
Lên núi với Chúa
Lễ Chúa Giêsu Hiển Dung, hay gọi là Lễ Chúa Giêsu Biến Hình trên Núi Tabor.
Người ta không thể leo nhanh lên ngọn núi Tabor được, và chính Tabor cũng chỉ là một điểm dừng ngắn ngủi trên chặng đường đến với Thiên Chúa. Mỗi một ngày sống là một chặng đường mà chúng ta cần phải vượt qua. Nhờ vào những gì mà các tông đồ đã sống, chúng ta có thể hiểu rõ hơn chặng đường mà chúng ta cần vượt qua để đến gần với cõi vĩnh hằng hơn.
Và hôm nay trên núi Tabor chúng ta chứng kiến cuộc biến hình của Chúa Giêsu.
Và ta thấy Hiển Dung một mầu nhiệm trong chuỗi các mầu nhiệm nổi bật về cuộc đời Nhập Thể và Nhập Thế của Con Thiên Chúa. Bởi vì, cho đến hôm nay, số người trên thế giới tin vào Thiên Chúa thì nhiều, nhưng số người đặt trọn niềm tin vào Chúa Giêsu chưa thỏa lòng mong ước, còn khiêm tốn ở con số. Tại sao vậy? Thưa , bởi vì họ chưa đón nhận Lời giới thiệu của Thiên Chúa về Chúa Giêsu: “Đây là Con Ta, Người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe Lời Người!”(Lc 9, 35).
Và ta còn nhớ lại lời giới thiệu trên giống như ngày Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Gio-đanh (Lc 3, 21-22), (Mc 9,7b), (Mt 17, 5). Điều này nói lên sự xác nhận, sự tấn phong, sự xức dầu, có nghĩa là chính Người là Đức Kitô, Đấng được gọi là Đấng Cứu Chuộc, Đấng Messia. Là Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn giữa nhân loại theo mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Hia Thiên Chúa. Theo đó, (Lc 9,35) cũng là một sự hé mở cho nhân loại biết rằng: “Chính Chúa Giêsu là Thiên Chúa”, điều này không phải dễ đối với những ai chưa được mặc khải, vì sự mặc khải cho biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc chỉ tỏ ra cho vài người, cụ thể là ba tông đồ mà Chúa Giêsu đã tuyển chọn, đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan.
Thoạt tiên ta thấy đoạn Tin Mừng này có vẻ như đơn giản, nhưng mang ý nghĩa rất thực tế cho đến ngày cuối cùng. Bởi vì không phải tất cả mọi người có đạo đều hiểu ra mầu nhiệm của Thiên Chúa, mà Người chỉ cho một số ít hiểu mà thôi, điều nầy không phải là Thiên Chúa ích kỷ, nhưng là sự đón nhận nơi con người nhân thế. Chúng ta thấy, những sự kiện xảy ra nơi Chúa Giêsu như Chúa chịu phép Rửa tại sông Giođan, hay Chúa Biến Hình trên núi Tabor cho thấy không bởi sự can thiệp của trần gian được.
Nhân thế, dù đã được Chúa Giêsu tuyển chọn và dẫn theo, nhưng khi mầu nhiệm xảy ra, thì con người phàm trần cũng phải ngất đi, chẳng biết gì cả, chẳng hiểu gì cả, vì không thể tiếp xúc với sự siêu việt của siêu nhiên là mầu nhiệm từ trời cao, các tông đồ đều lăn nhào ra ngủ, như một giấc mơ, như người nói nhảm, sua đó mới hoàn hồn.
Như vậy, mầu nhiệm Chúa Giêsu biến hình là một biến đổi, hay trở về với Thiên tính của Chúa Giêsu trước khi hoàn toàn tự nguyện bước vào chấp nhận mầu nhiệm tử nạn, để cho nhân loại biết Chúa Giêsu phát xuất từ đâu và sẽ trở về nơi phát xuất, đó là Phần Thiên Tính của Người.
Dung Mạo của Người trở nên chói lòa, qua đó y phục của Người cũng trở nên biến đổi, y phục của Người là một chất liệu tự nhiên, nhưng cũng được thông phần vào sự siêu nhiên tuyệt đối nơi Thiên Chúa, bỗng chói lòa. Theo đó, sự kiện Biến Hình của Chúa Giêsu, xét về địa lý nơi chốn, thì đây là nơi giao hòa giữa Thiên và Địa, giữa Trời và Đất, giữa Thiên Chúa và con người. Xét về mầu nhiệm cứu độ, thì đây là lúc khởi điểm để đi vào con đường thiên định nhưng hoàn toàn tự nguyện hiến dâng của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể cho nhân loại và vì nhân loại.
Ta thấy có những giây phút quí báu nhất của cuộc đời 3 môn đệ theo chân Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cùng với ba môn đệ và Người hiển dung trước mặt các ông. Trong khoảnh khắc các ông có thể cảm nhận sâu xa Đấng Cứu Thế là ai và dung nhan của Đấng Phục sinh như thế nào. Dĩ nhiên, chẳng ai muốn bỗng chốc buột khỏi tầm tay tất cả. Tất cả đều muốn nắm giữ lấy, muốn xây dựng ở đó ba lều.
Giây phút thần tiên thường hiếm có và ngắn ngủi! Thoáng qua, Phêrô phải từ chín tầng mây trở về với cuộc sống muôn ngàn sóng gió. Ông phải học để biết rằng: những giây phút này là quà tặng của Thiên Chúa, không ai có thể giữ lấy bo bo cho mình. Ông phải từ trên núi trở về với cuộc sống thường nhật, trở về với con người và những khó khăn phải đương đầu!
Quả thật, cuộc sống con người đầy thăng trầm, và dường như chìm dần trong thung lũng tối. Ngày qua ngày, sương mù dày đặc! Chuỗi ngày kéo dài lê thê ảm đạm! Tất cả dường như vô nghĩa và tẻ nhạt!…Cũng có những giây phút con người không được yên thân, cuộc sống chao đảo, đầu tắt mặt tối với công việc. Việc này chưa xong, thì việc khác đã đứng chực ngoài cửa.
Và rồi đời sống đạo và đời sống nội tâm chúng ta từng có những kinh nghiệm như thế. Cũng chính vì vậy mà người ta thất vọng, xao nhãng công việc của cộng đoàn, bỏ luôn cả kinh hạt lễ lạy. Họ nghĩ rằng lễ lạy và kinh hạt cũng thế thôi. Làm ban hành giáo có được gì đâu, mà chỉ thấy kinh tế gia đình mình càng sa sút.
Điều quan trọng chính là kinh nghiệm trong cuộc sống thường nhật: tìm cho chính mình một mảnh thiên đàng tại thế. Tabor trước tiên không phải là một nơi chốn, nhưng là sự kiện có thể xẩy ra bất cứ ở đâu trong hoàn cảnh nào. Chúng ta chỉ có thể khám phá ra khi chúng ta sẵn sàng cởi mở tấm lòng tiếp nhận: một cuộc gặp gỡ vô tình, một vẻ đẹp của thiên nhiên, một khoảnh khắc yên tĩnh, một lời khen tặng, một thành công nhỏ, một sự dấn thân cho họ đạo, một kinh nghiệm trong đời sống cầu nguyện. Những lúc chúng ta cảm thấy cuộc đời này còn có nhiều thứ quí báu hơn, chúng ta phải ra sức bảo vệ, duy trì như những kho tàng vô giá trong ký ức. Những kinh nghiệm đó giúp chúng ta thêm can đảm và hăng hái dù phải gặp hoạn nạn éo le. Nhờ đó chúng ta tin rằng Thiên Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta tới đích điểm tốt đẹp, là Thiên Đàng, là Tabor Vĩnh Cửu!
Ta được gợi bài học cho ta là nếu được kết hiệp với Thiên Chúa, nhân thế không còn sợ hãi, dù là phải đi con đường cam go. Vì Thiên Chúa là ánh sáng siêu việt sẽ sáng chói như mặt trời, và ai tin vào Thiên Chúa thì dù khổ đau hay tử nạn thì cũng sẽ được phục sinh vinh quang.
***
THỨ BA – Mt 14:22-36
Thầy đây đừng sợ!
Nhiều lần lần nhiều lúc ta thấy Tin Mừng nói đến sự nhút nhát lo sợ của các môn đệ của Chúa Giêsu: sợ không có đủ bánh ăn, sợ người Do Thái…
Với Tin Mừng hôm nay, ta thấy Thánh Matthêu thuật lại rằng: “Sau khi dân chúng được ăn no nê, Chúa Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núiriêng một mình mà cầu nguyện. Và trời đã tối nhưng ta thấy Người vẫn ở đó một mình. Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả cây số, bị sóng đánh vì ngược gió”.
Và ta thấy Chúa hiện đến trấn an các ông: “Chính Thầy đây đừng sợ” Phêrô vẫn chưa thực sự vững tin: khi đi trên mặt nước đến với Chúa, vừa gặp cơn gió thổi ông đã đâm ra hốt hoảng và kêu cứu. Chúa lại nắm lấy tay ông và trách ông kém lòng tin. Chúa đã cho các ông thấy rõ quyền năng của Chúa để củng cố đức tin nơi các ông để rồi sau này chính các ông sẽ mạnh dạn làm chứng đức tin cho mọi người.
Đang đi giữa biển thì cuồng phong nổi lên như muốn nhận chìm con thuyền nhỏ khiến các môn đệ vô cùng hoảng sợ, trong khi đó Chúa Giêsu vẫn bình tĩnh cầu nguyện như không có chuyện gì xảy ra. Vốn là những ngư dân đầy kinh nghiệm trên Biển Hồ,các môn đệ thuộc từng con sóng,biết được chỗ nào nước sâu có nhiều cá. Vì thế dù có ra giữa biển, các ông vẫn tự tin lướt sóng.
Thế nhưng khi phải đối diện với cơn sóng gió ập đến bất ngờ, các ông không có cách chi chèo chống và hoảng sợ la lên.Chúa Giêsu đã để sóng gió nổi lên như muốn thử thách đức tin yếu kém của các ông. Thái độ hoài nghi đã làm con mắt các môn đệ trở nên mờ tối khiến các ông không còn nhận ra sự hiện diện của Chúa. Các ông chỉ còn nhìn thấy bóng ma của sự tối tăm và chết chóc.
Khi nghe các môn đệ cầu cứu, Chúa Giêsu đã đi trên mặt biển đến trấn an các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” Sau đó Chúa Giêsu truyền cho ông Phêrô đi trên mặt nước mà đến với Người. Mặc dù vậy, ông Phêrô vẫn hoảng sợ kêu cứu đến nỗi Chúa Giêsu phải đưa tay ra nắm lấy ông.Qua biến cố này, Chúa Giêsu biểu lộ cho các môn đệ thấy quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa khiến mọi thế lực trần gian phải khuất phục, đồng thời Người cũng cho các ông biết sự yếu đuối của loài người.
Sau khi sóng yên biển lặng, mọi người trong thuyền đều phải bái phục Chúa Giêsu và tuyên xưng: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” Với tư cách là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu có sứ mạng quan trọng là đến trần gian để cứu chuộc nhân loại. Vì thế khi Chúa Giêsu vừa vào tới đất liền, dân chúng tuôn đến đem theo tất cả những người đau ốm đểđược chữa lành.
Đứng trước cơn sóng biển bất ngờ, Phêrô tỏ ra hoảng sợ nhưng ông đã có được một kinh nghiệm quý báu, đó là nhận biết mình yếu đuối và tin tưởng vào sự trợ giúp của Thiên Chúa. Khi mặc lấy thân phận con người, Chúa Giêsu thấu hiểu những yếu đuối của loài người, trong đó có Phêrô. Người không bỏ rơi Phêrô nhưng muốn ông thức tỉnh để ông đừng cậy dựa vào sức mình, đừng hoảng sợ mà đánh mất niềm tin. Chúa Giêsu luôn xuất hiện và cứu Phêrô vào những phút cuối cùng nguy hiểm nhất.
Kinh nghiệm của Phêrô cũng là kinh nghiệm cho mỗi người chúng ta. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi các môn đệ, Người vẫn hiện diện bên cạnh để giáo huấn và nâng đỡ đức tin cho các ông. Chúa Giêsu đã đưa tay ra nắm lấy tay Phêrô như người cha luôn nắm chặt bàn tay của đứa con nhỏ.Thiên Chúa không chơi trò cút bắt, đôi lúc Người để cho chúng ta mất tất cả không còn chỗ nào bám víu, lúc đó chúng ta mới biết cậy dựa vào Thiên Chúa.
Thiên Chúa không bao giờ từ chối lời cầu xin của chúng ta bởi chúng ta là đối tượng được Người yêu thương và cứu chuộc. Tình yêu Thiên Chúa có sức mạnh kỳ diệu, mạnh hơn sự chết, cao hơn những suy tưởng và sâu hơn những yếu đuối của loài người. Nói như thánh Gioan tông đồ “Tình yêu không biết đến sợ hãi, trái lại một tình yêu hoàn hảo loại trừ mọi sợ hãi” (1 Ga 4, 18). Chúa Giêsu đã yêu chúng ta bằng một tình yêu nhưng không, Ngài gánh lấy mọi tội lỗi và chịu chết để đem ơn cứu độ cho chúng ta. Nếu thực sự yêu mến và tin tưởng Thiên Chúa,cho dù hoàn cảnh nào chúng ta không bao giờ sợ hãi thất vọng.
Đã bao lần trong đời sống chúng ta từ chối tình yêu Thiên Chúa, đó là lúc chúng ta từ chối cái “nắm tay” của Người. Chúng ta tự mãn nghĩ mình có đủ tài năng chèo chống con thuyền của cuộc đời mình bằng tiền bạc vật chất, bằng sức mạnh của thế gian để rồi bị trượt ngã thảm thương. Chúng ta tự quyết định con đường tương lai và vận mệnh đời mình mà không cần đến sự trợ giúp của Chúa. Chúng ta không phải là thiên thần để bước đi theo Chúa một cách thanh thoát. Chúng ta bước đi bằng đôi chân nặng nề của đam mê tội lỗi khiến đôi chân ấy cứ lún sâu xuống và muốn ngã quỵ. Chúng ta không dám tin tưởng để cho Chúa dẫn dắt mà chỉ lo bám vào thế lực của con người, ngó ngác trông đợi mong tìm vào một nhánh cây khô mục ruỗng. Chúng ta không nhìn lên phía trước để tiến bước mà cứ nhìn xuống vực sâu, nhìn vào dòng nước cuồn cuộn để rồi sợ hãi khốn khổ.
Tội lỗi, yếu đuối vốn là bản tính của loài người. Vì thế Thiên Chúa hằng trợ giúp chúng ta bằng những lời giáo huấn, bằng ân sủng thiêng liêng qua các bí tích. Điều quan trọng là chúng ta phải khiêm tốn nhìn nhận mình yếu đuối và luôn cần đến lòng thương xót của Chúa. Nói như thánh Phaolô tông đồ, chỉ khi nhận biết mình yếu đuối, chúng ta mới chấp nhận để cho quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa hoạt động. Thiên Chúa luôn ban ơn cần thiết và vừa đủ để chúng ta thắng vượt mọi sự yếu đuối “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cr 12, 9).
Nhân loại và Giáo Hội hôm nay cũng đang đối mặt với nhiều sóng gió của thế lực trần gian, nhiều tư tưởng sai lạc khiến niềm tin chao đảo. Người tín hữu đang phải gánh chịu những bất công xã hội,sự hận thù chia rẽ, luân lý đạo đức xuống dốc.
Thực tiễn, ta thấy đời sống các gia đình đang gặp nhiều khủng hoảng khiến hạnh phúc gia đình rạn nứt. Chúng ta đang phải đối diện với nhiều nỗi sợ hãi: sợ thiếu ăn thiếu mặc, sợ già, sợ cô đơn, sợ bị bỏ rơi…và trên hết mọi nỗi sợ đó là sợ chết. Ước gì ta biết đặt trọn niềm tin cậy nơi Thiên Chúa để được giải thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi. Ước gì chúng ta trung thành sống theo những giá trị của Tin Mừng để tìm thấy nguồn sự sống và hạnh phúc đích thực.
Và rồi ta thưa với Chúa rằng đường đời của ta không phải lúc nào cũng bằng phẳng, chiếc thuyền đời con không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, xin Chúa cho ta biết tin tưởng Chúa luôn hiện diện và đồng hành để ta an tâm tiến bước.
Quả thế, có nhiều lúc ta cũng chao đảo bởi những khó khăn thử thách, và ta xin Chúa hãy giang rộng cánh tay của Chúa để ta nắm giữ. Xin Chúa hãy nắm lấy tay của ta, tay ta trong tay Chúa dù biển đời có sóng gió thì thuyền đời ta vẫn về tới bến bờ bình an.
***
THỨ TƯ – Lễ Thánh ĐAMINH – Mt 15:21-28
Loan báo Tin Mừng như Thánh Đa Minh
Dominique de Guzman sinh tại Caleruega gần Burgos, Tây Ban Nha, vào khoảng năm 1170. Mẹ Người là chân phước Jeanne d’Aza. Sau khi học xong trường kinh sĩ ở Palencia, Dominique nhận chức thành viên kinh sĩ hội ở Osma. Năm hai mươi bốn tuổi, Dominique theo Đức giám mục Diego de Azevedo sang Rôma, nhưng Đức giáo hoàng Innocent III sai người sang miền Nam nước Pháp lúc đó đang bị các lạc giáo Albigeoir và Cathare gây rối.
Tại đây Ngài tổ chức một đoàn truyền giáo, và trong nơi trú ngụ của mình tại Prouille, gần Toulouse, Ngài thành lập một tu viện nữ theo luật dòng thánh Augustin để các chị trợ giúp công việc truyền giáo. Cũng tại đây, năm 1215, gần nhà thờ Saint-Romain ở Toulouse, đã xuất hiện hạt nhân đầu tiên của cộng đoàn tu sĩ thuyết giáo, theo luật dòng thánh Augustin. Các tu sỹ đặc biệt chú trọng lời khấn khó nghèo và việc giảng thuyết, sau một thời gian chuẩn bị nghiêm túc về mặt trí thức. Đức Giáo Hoàng Honorius III chấp thuận dòng mới năm 1216.
Ngay từ lúc còn nhỏ, thánh nhân đã mến mộ sự học hành, cầu nguyện, hãm mình, sống khắc khổ và yêu thương người nghèo. Mỗi ngày đều có giờ nhất định để cầu nguyện và ngài ăn chay hãm mình luôn. Ngày kia có người đến xin Ngài giúp đỡ để chuộc lại đứa em bị bắt, ngài không còn tiền cho người ấy, vì đã bố thí hết, nên nói: Tôi không còn tiền, nhưng này chị hãy dẫn tôi nộp cho người ta, để chuộc em chị về.
Suốt sáu năm trời, thánh nhân dâng lời cầu nguyện, sự hy sinh kèm theo lời rao giảng kêu gọi moị người trở về với đức tin chân chính, nhưng kết quả không được bao nhiêu. Ngài buồn sầu than thở với Mẹ Maria và được Mẹ dạy bảo hãy rao giảng và cổ động mọi người lần chuỗi Môi Côi, để nhờ đó Mẹ cầu cùng Chúa cho những người lầm lạc trở về với Hội Thánh. Vâng lời Đức Mẹ, ngài đem hết khả năng truyền bá chuỗi Môi Côi, giải thích các mầu nhiệm thánh, kêu gọi mọi người thực hành việc đạo đức này. Kết quả thật là lùng! Không bao lâu, những người tội lỗi và kẻ lầm lạc ăn năn trở về với Chúa. Thánh nhân hết sức vui mừng, tạ ơn Chúa và tri ân Đức Mẹ.
Thánh Đa Minh đã yêu mến Đức Mẹ, Ngài cảm nghiệm sâu sắc Mẹ luôn có Chúa ở bên. Yêu mến Đức Mẹ cùng đồng nghĩa với việc yêu mến Chúa Giêsu. Ngài không giữ Mẹ cho riêng mình, nhưng Ngài và các sĩ tử Dòng tu nam nữ của Ngài đã luôn rao truyền lòng sùng kính Đức Mẹ và truyền bá Kinh Mân Côi. Ngày nay trên khắp thế giới và đặc biệt trên quê hương Việt Nam, Dòng Đa Minh đã góp công rất nhiều cho Giáo Hội Việt Nam được triển nở phong phú và các linh mục, các tu sĩ nam nữ Đa Minh đã góp công trong việc đào tạo giáo dục thanh thiếu niên trong các học đường.
Với bao công lao, thánh nhân đã góp công sức biết bao nhiêu cho sự hiệp nhất Giáo Hội và đưa được biết bao nhiêu người trở về với Hội Thánh, với ThiênChúa Ngài đã truyền bá lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria và loan truyền lòng yêu mến kinh Mân Côi. Thánh nhân đã lập ra một Dòng nữ chuyên môn sống tinh thần của thánh Đa Minh. Thánh nhân cũng lập một Dòng gồm các linh mục chuyên đi giảng thuyết khắp nơi với tinh thần loan báo Tin Mừng và truyền bá kinh Mân côi. Các tu sĩ của thánh Đa Minh cũng góp công rất nhiều vào việc giáo dục thanh thiếu niên trong các học đường. Cuộc sống của thánh Đa Minh quả thực sáng ngời các nhân đức. Ngài được Chúa chúc lành: cuộc đời của Ngài đẹp, nổi bật với các nhân đức siêu vời của Ngài và tâm hồn của Ngài chói ngời bác ái vì Ngài họa lại hình ảnh của Chúa Giêsu. Thánh nhân qua đời tại Bologne nước Ý ngày 6 tháng 8 năm 1221. Năm 1234, Đức Thánh Cha Grêgoriô IX đã tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh.
Tường thuật phúc âm trong ngày lễ kính Cha Thánh hôm nay, gồm tóm tất cả những điều nhắn nhủ của Chúa Giêsu dành cho những ai muốn làm môn đệ của Ngài, muốn bước đi theo Ngài trên con đường rao truyền Tin Mừng cứu độ đặc biệt bằng linh đạo Đa Minh.
Trước những đòi hỏi của Chúa Giêsu về người môn đệ, chúng ta như thấy mình được nhắc nhở rằng: Đôi khi chúng ta muốn làm môn đệ cho Chúa, nhưng chúng ta lại quên đi mình đang thuộc về Chúa, được Chúa hướng dẫn ; đôi khi chúng ta lại quên rằng mình cần phải hiệp thông trong Hội Thánh, chúng ta mải mê nhiệt tình đi con đường của riêng chúng ta, mà rời xa dần Hội Thánh cũng như rời xa dần thầy Giêsu. Đôi khi làm môn đệ cho Chúa, nhưng chúng ta lại ưa thích ngồi những chỗ an toàn, chọn những tiện nghi dễ chịu, níu kéo và bám víu vào những tình cảm chóng qua… Tất cả những thứ ấy đã làm bước chân sứ vụ của chúng ta như chậm lại, những thứ ấy đã làm cho nhiệt tâm tông đồ của chúng ta như cạn kiệt, những thứ ấy làm cho chúng ta bị chi phối vỡ vụn, phân mảnh.
Người môn đệ cũng ý thức về lời mời gọi đi đến mọi nơi, đến “tất cả các thành”, loan truyền Tin Mừng cho mọi người. Người môn đệ cũng được nhắc nhở ý thức rằng: loan Tin Mừng là sứ vụ cần thiết như “lúa chín đầy đồng” không thể bỏ bê, cũng không thể chậm trễ. Tuy nhiên, người môn đệ cũng được khuyến cáo lưu tâm về những hiểm nguy và khó khăn mà mình sẽ gặp phải “như chiên con đi vào giữa bầy sói”.
Sau khi Chúa Giêsu nhắc nhở về toàn bộ những điều mà người môn đệ phải ý thức khi thực thi sứ vụ. Chúa Giêsu tiếp tục nhắn nhủ người môn đệ về hành trang mà họ cần phải mang theo. Hành trang ấy phải gọn nhẹ, chỉ để phục vụ sứ mạng, không cồng kềnh để rồi bị chi phối làm chậm hoặc làm chùn bước chân sứ vụ. Người môn đệ cũng không bận tâm về nơi ăn chốn ở, về những phương tiện vật chất cá nhân, những nhu cầu phục vụ đời sống thường ngày.
Ước chi khi nghe Lời Chúa hôm nay, mỗi người trong chúng ta cũng hãy mau mắn lên đường vì “lúa đã chín đầy đồng”, ước gì mỗi chúng ta cũng thực thi được những đòi hỏi mà Chúa muốn khi làm tông đồ cho Ngài. Điều này lại càng được thôi thúc hơn, bởi chúng ta là con cái của Cha Thánh Đa Minh, người Cha hết lòng cho sứ vụ Loan Báo Tin Mừng. Chúng ta hãnh diện về điều đó. Chúng ta hăng say lên đường với niềm tin tưởng cùng đi với Cha Đa Minh.