Trong Sổ Tử của thành phố Paris – thủ đô nước Pháp, người ta đọc thấy: Ông Gustave Busset, qua đời ngày 18 tháng 4 năm 1834. Người quá cố không có con cái nhưng để lại một số gia sản đáng giá. Đám tang ông, chỉ có vài bà con xa đến tham dự. Ngay tại nghĩa trang, họ bắt đầu tranh dành gia tài. Sau cùng, họ quyết định đem bán đấu giá tất cả đồ đạc, lấy tiền chia đều nhau. Ngày bán đấu giá, nhiều người cùng khu phố với ông Gustave Busset kéo nhau đến mua đồ, trong đó có chàng họa sĩ trẻ tên Pierre Piront. Anh rất nghèo, chỉ có tấm nệm rơm để ngủ. Từ lâu anh mơ ước chiếc giường êm nên để dành được 100 quan. Hôm nay dịp may đến. Anh mua cái giường của ông Gustave với giá 75 quan. Anh vẫn còn 25 quan. Khi anh lên nhận chiếc giường thì cùng lúc ấy, ủy viên bán đấu giá cúi xuống đất, nhặt lên Cây Thánh Giá nặng, bám đầy bùn đất dơ bẩn. Với giọng khàn khàn ông cất tiếng la to: “Ai trả bao nhiêu để mua vật này?”
Trong phòng im lặng như tờ. Bỗng vang lên tiếng nói chế nhạo: “Không trả xu nào hết!”. Mọi người cười rộ, như ngầm đồng ý. Chàng họa sĩ trẻ cảm thấy kinh ngạc trước thái độ vô thần hỗn xược của người đồng hương. Bằng một giọng run run vì cảm động, anh nói: Tôi xin trả 25 quan. Rất tiếc tôi chỉ có thế. Nếu có nhiều tiền, hẳn tôi sẽ trả với giá cao hơn!”… Đám đông lại ào ào chế nhạo. Một người đàn bà cao tuổi, chỉ ngón tay vào anh Pierre và nói: “Nó là tên ngu đần nhất trong tất cả các tên ngu đần!”.Tức khắc, mọi người trong phòng cùng nói lớn: Hoan hô bà già nói đúng!
Cuối cùng, cây Thánh Giá thuộc về anh Pierre Piront với giá 25 quan. Anh cảm động tiến lên nhận Cây Thánh Giá với trọn lòng kính cẩn yêu mến. Xong, anh ôm Thánh Giá rời phòng, trước các cặp mắt và lời nói chế diễu của mọi người hiện diện.
Về đến nhà, việc làm đầu tiên là vội vàng chùi rửa Cây Thánh Giá. Vừa lau, anh vừa âu yếm nói chuyện với Đức Chúa Giêsu Kitô – Đấng bị xúc phạm. Nhưng anh Pierre ngạc nhiên biết bao, khi vừa lau chùi xong, anh khám phá tên khắc bên dưới chân Thánh Giá. Với kính lúp, anh đọc: Benvenuto Cellini. Đây là tên của một thợ kim hoàn nổi tiếng người Ý. Lòng tràn đầy niềm vui, anh tiếp tục lau chùi thật kỹ lưỡng. Càng lau, càng chùi, anh càng khám phá ra Cây Thánh Giá và tượng Đức Chúa Giêsu Kitô bằng vàng ròng.
Anh Pierre Piront không còn bình tĩnh nữa. Anh lấy khăn bọc kỹ Cây Thánh Giá rồi chạy như bay tới tiệm kim hoàn gần đó. Anh nhờ chủ tiệm đánh giá cho phẩm vật của anh. Sau khi xem xét cẩn thận, chủ tiệm đánh giá toàn Cây Thánh Giá là 60.000 đồng vàng…
Câu chuyện đến tai vua Louis-Philippe I (1830-1848). Nhà vua cho gọi anh Pierre Piront đến và ca ngợi lòng dũng cảm, dám tuyên xưng Đức Tin Công Giáo của anh. Nhà vua cũng cho mở cuộc điều tra, để biết tại sao Cây Thánh Giá quý báu lại lọt vào tay cụ già Gustave Busset. Qua cuộc điều tra, người ta biết: “Vào năm 1531, vua Francois I nhờ nhà kim hoàn Benvenuto Cellini làm Cây Thánh Giá bằng vàng ròng. Sau đó, tác phẩm nghệ thuật tôn giáo được trưng bày tại điện Versailles. Khi cuộc cách mạng Pháp 1789 xảy ra, dân chúng tràn vào đập phá và ăn cắp của cải vật dụng trong điện Versailles. Có lẽ Cây Thánh Giá bị ăn cắp và bị bán đi với giá thật rẻ…” Vua Louis-Philippe I đã mua lại Cây Thánh Giá với giá 60.000 đồng vàng và truyền gọi anh Pierre Piront vào làm việc trong hoàng cung. Nhờ cơ may, anh trau dồi, phát triển và tận dụng khả năng nghệ thuật của mình.
Để ghi nhớ biến cố ấy, anh Pierre Piront vẽ bức họa “Cây Thánh Giá bán đấu giá”. Bức họa trở nên một tuyệt tác, tháp tùng anh suốt cuộc đời và an ủi anh ở giây phút cuối đời.
Chọn lựa Thập giá, Chúa Giêsu đi vào cuộc khổ nạn, Ngài tiên báo về sự đau khổ mà Ngài phải đi, Ngài mời gọi các môn đệ của Ngài cùng đối diện với khổ đau qua lời mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy”.
Đức Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn và lời mời gọi vác thập giá, trong bối cảnh: Ngài và các môn đệ cùng dân Do Thái tiến về Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Lên Giêrusalem là lên Đền thánh Thiên Chúa, luôn mang trong lòng sự hớn hở vui tươi được biểu lộ bằng những Ca khúc Lên đền gồm 15 Thánh vịnh ngắn từ 120 đến 134 (nhưng có lẽ Tv 132 không thuộc nhóm này), mang tâm tình tươi vui, được hát khi người Do Thái tiến lên đền thờ Giêrusalem vào 3 dịp lễ hành hương: Lễ Vượt Qua (Lễ bánh không men nhắc lại biến cố Xuất hành), Lễ Ngũ tuần (Lễ Mùa gặt để dâng của đầu mùa cho Giavê) và Lễ Lều (Lễ Thu hoạch cuối năm để tạ ơn Giavê) (x. Xh 23,14-17; 34,22-23; Dnl 16,16)
“Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi:
“Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa!” (Tv 121,1)
Tân ước kể lại cuộc hành hương hàng năm của Ðức Maria, thánh Giuse và trẻ Giêsu lên Giêrusalem (Lc 2,41). Tân ước cũng cho thấy Giêrusalem đã thu hút khách hành hương vào các dịp đại lễ (x. Lc 2,41-45; Ga 12,20; Cv 2,1-10). Các Tin Mừng đều tường thuật những lần hành hương của Ðức Giêsu lên Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua (x. Ga 2,13), lễ Ngũ tuần (Ga 5,1), lễ Lều (Ga 7,2-10). Tuy nhiên Phúc âm Nhất lãm tường thuật chuyến hành hương duy nhất của Ðức Giêsu lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt qua và trong dịp này, Ngài đã bị kết án vác và chết trên thập giá. Chuẩn bị bước hành trình về thành Thánh theo thánh ý của Chúa Cha, Đức Giêsu loan báo ba lần cuộc khổ nạn của Người (x. Mt 16,21; 17,22-23; 20,18-19). Hình ảnh đó đã được nói tiên tri trước bằng hình ảnh Người Tôi Tớ đau khổ mà Ngôn sứ Isaia đã phác họa: “Đức Chúa đã muốn Người phải bị nghiền nát vì đau khổ …. Nhờ nỗi thống khổ của mình, Người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện” (Is 53,10-11). Chúa Giêsu cho các môn đệ biết về bước đường đau khổ này qua cuộc tử nạn, Ngài nói về đường thập giá và mời gọi các môn đệ tiến bước theo.
Đứng trước lời tuyên báo về cuộc tử nạn, thái độ Phêrô: liền kéo riêng… bắt đầu trách … (Mt 16,22): Phản ứng của Phêrô là phản ứng khôn ngoan của con người khi đối diện đau khổ, đứng trước thập giá: sự lẩn tránh. Phêrô muốn thoả hiệp, thích nghi, chấp nhận buông xuôi theo những áp lực của sợ hãi, hoặc khuất phục trước quyền lực. Mới đây ông là gương mẫu của người tin (x. Mt 16,17), nay ông thành người tiếp tay cho Satan, bởi vì ông đã đề nghị cho Đức Giêsu một con đường như tên Cám Dỗ đã đề nghị thỏa hiệp khi Chúa bị cám dỗ ở trong hoang địa (x. Mt 4,1-11).
Chúa Giêsu trả lời Phêrô: Anh cản lối Thầy (Mt 16,23), nếu dịch sát nghĩa: “Anh đang trở thành tảng đá làm cho Thầy vấp”. Mới vừa tuyên xưng đức tin, Phêrô trở nên “tảng đá trên đó Thầy sẽ xây Hội Thánh”, bây giờ Phêrô, mang ý nghĩ suy luận của con người nên thành tảng đá “cản lối
Thầy [làm cho Thầy vấp]”. Tảng đá xây Hội Thánh là niềm tin của Phêrô đặt nơi Đức Giêsu. Thiếu niềm tin, tảng đá này trở nên cản trở công trình của Thiên Chúa.
Kinh nghiệm của Phêrô mang hình ảnh thân phận con người của chúng ta. Thật thế, chúng ta rất mong manh, dễ thay đổi, dễ chủ quan ảo tưởng là mình “trước sau như một”. Cho nên, chủ quan trong một tư tưởng thánh thiện có trước, phù hợp với tư tưởng của Thiên Chúa. Điều đó không bảo đảm là tư tưởng tiếp theo cũng thánh thiện, nếu chúng ta không quan tâm tìm biết ý muốn của Thiên Chúa.
Đức Giêsu quả quyết rằng đối với môn đệ của Ngài không có con đường nào khác con đường thập giá: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình”. “Từ bỏ chính mình (Mt 16,24), nghĩa là bỏ cả khát vọng, những đòi hỏi chính đáng của mình mà nhận lấy khát vọng và đòi hỏi của người khác, ở đây chính là đòi hỏi của Thiên Chúa. Cho nên, không chỉ chiến thắng trên cám dỗ, mà còn bỏ ra sau những quyền lợi chính đáng của riêng mình. Để “đi (bước) theo” Đức Kitô (Mt 16,24): đồng nghĩa với “học với; làm môn đệ” (x. Mt 11,29), là bắt chước các phong thái của thầy, lặp lại những chọn lựa của thầy, tức là nối tiếp công trình mà thầy đã bắt đầu với biết bao hy sinh đau khổ…
Khi nghiền ngẫm lời tiên báo đau khổ, tử nạn và lời mời gọi vác thập giá vượt qua đau khổ và sự chết, chúng ta cảm thấy được an ủi và thêm sức mạnh giữa những lúc đương đầu với thử thách, gian nan, khủng hoảng và đau khổ. Vì vậy, chúng ta vẫn tiến bước trong cuộc sống và đối diện với đau thương mà mỗi người chúng ta luôn đối diện trong những nỗi đau của thể xác, hay nỗi đau về tâm hồn, có khi cả hai nỗi đau về thể xác và tâm hồn…
Chúa Giêsu không chỉ loan báo cuộc khổ nạn mà còn loan báo cuộc phục sinh: “Ngày thứ ba sẽ sống lại”. Thật thế, Đức Giêsu đến Giêrusalem chịu nhiều đau khổ và bị giết chết, nhưng Ngài sống lại ngày thứ ba như lời tiên báo, Ngài đã vượt qua bằng chiến thắng ở cuối con đường đau khổ. Khi chúng ta vác thánh giá theo Đức Giêsu, sự chiến thắng huy hoàng cũng dành cho người môn đệ trung kiên vác thập giá Chúa, Thánh Phaolô khẳng định: Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người (Rm 6,8). Đức Kitô đã chiến thắng sự dữ, chiến thắng đau khổ, chiến thắng sự chết và cho phép chúng ta cùng Ngài vượt qua đau khổ, vượt qua sự chết như Ngài: “Ngày thứ ba Người sẽ sống lại”.
Cho nên, chúng ta vác thập giá theo Chúa Kitô, không phải giữ mãi đau khổ, đi vào con đường chết, nhưng với Ngài xuyên qua đau khổ, vượt qua sự chết mà đến vinh quang, vì thế thánh Phaolô xác tín: “Vinh dự của tôi là thập giá Chúa Kitô” (Gl 6,14).
Lm. Vinh Sơn, Sài Gòn.