Suy niệm CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Ed 2, 2-5; 2Cr 12, 7-10; Mc 6, 1-6
MỤC LỤC
1. Không làm được phép lạ 4
2. Đừng để lỡ cơ hội 7
3. Đừng thèm khát 10
4. Ngoại trừ quê quán mình 12
5. Đức Kitô bị chối từ 17
6. Chúa Nhật 14 Thường Niên 19
7. Tiên tri ở quê hương mình 24
8. Thân phận người sứ giả 26
9. Khai tử niềm vui 28
10. Quê nhà bạc bẽo 30
11. Thiên Chúa luôn làm việc 33
12. Phong cách thản nhiên 37
13. Chuyện đời thường 42
14. Bụt nhà không thiêng 47
15. Đừng xem thường nhau 50
16. Có tin mới thấy 52
17. Xóa bỏ định kiến 54
18. Những con mắt thịt 58
19. Cao ngạo là đánh mất tất cả 64
20. Họ vấp ngã vì Người 68
21. Thất bại trong sứ mạng 72
22. Ơn gọi làm ngôn sứ 74
23. Chúa Nhật 14 Thường Niên 78
24. Sứ mạng làm ngôn sứ 81
25. Thèm khát 95
26. Những điều nghịch lý 97
27. Những mạc khải phi thường 100
28. Chúa Nhật 14 Thường Niên 105
29. Chúa Nhật 14 Thường Niên 108
30. Sự cứng lòng tin 111
31. Đức Giêsu Kitô, Người là ai? 117
32. Người con của Đức Maria 123
33. Chúa Nhật 14 Thường Niên 125
34. Đánh giá theo lý lịch 128
35. Chúa Nhật 14 Thường Niên 132
36. Chúa Nhật 14 Thường Niên 134
37. Chúa Nhật 14 Thường Niên 136
38. Chúa Nhật 14 Thường Niên 139
39. Chúa Giêsu bị khước từ 142
40. Họ khước từ Ngài 146
41. ”Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” 148
42. Thành kiến 150
43. Chúa Nhật 14 Thường Niên 153
44. Chúa Nhật 14 Thường Niên 156
45. Lắng nghe Lời Chúa 159
46. Thành kiến 161
47. Lòng tin 164
48. Ngạc nhiên 166
49. Chúa Nhật 14 Thường Niên 170
50. Chúa Nhật 14 Thường Niên 174
51. Bụt nhà vẫn thiêng 178
52. Thiên kiến 181
53. Bụt nhà không thiêng 184
54. Bụt nhà không thiêng 188
55. Bản hương khinh bỉ 190
56. Đức tin 194
57. Thì ra Chúa vẫn có ở đây 197
58. Chúa Giêsu trở về quê nhà 202
59. Thành kiến 205
60. Chúa Nhật 14 Thường Niên 208
61. Sống không thành kiến 212
62. Chối bỏ 217
63. Cái dằm 220
64. Chối bỏ 222
65. Phép lạ 224
66. Thành kiến 228
67. Thành kiến 233
68. Đừng để lỡ cơ hội gặp Chúa 239
69. Chúa Nhật 14 Thường Niên 244
70. Sức mạnh của lời từ chối 254
71. Chúa Nhật 14 Thường Niên 257
72. Sức mạnh trong yếu đuối 260
73. Chúa Nhật 14 Thường Niên 263
74. Chúa Nhật 14 Thường Niên 266
75. Sứ mạng của tiên tri 270
76. Chúa Nhật 14 Thường Niên 282
77. Người đã không thể 285
78. Chúa Giêsu bị khước từ 288
79. Chúa Nhật 14 Thường Niên 294
80. Đức Giêsu về thăm Nadarét 298
81. Chúa Nhật 14 Thường Niên 304
82. Chú giải của Noel Quesson 307
83. Chúa Nhật 14 Thường Niên 313
84. Chú giải của Fiches Dominicales 315
85. Chú giải của William Barclay 322
86. Suy niệm các ngày trong tuần 14 TN 326
87. Đừng thành kiến 335
88. Dán nhãn 340
89. Suy niệm các ngày trong tuần 14 TN 345
1. Không làm được phép lạ
Suy Niệm
Đức Giêsu giảng dạy ở hội đường tại quê nhà. Phản ứng của dân làng là hết sức ngạc nhiên trước sự khôn ngoan trong lời Ngài giảng.
Nếu họ chân thành tìm kiếm họ có thể nhận ra khuôn mặt thật của người họ quá quen.
Tiếc thay người làng Nagiaréth đã không đủ vô tư. Họ bị ám ảnh bởi quá khứ của Ngài, và họ không sao ra khỏi những định kiến sẵn có.
“Ông ta không phải là bác thợ sao?”
Một bác thợ sống bằng đôi tay như bao người. Một bác thợ trong làng, âm thầm và khiêm tốn, sống bao năm ở đây không một chút hào quang.
Họ cũng bị ám ảnh bởi cái hiện tại trước mắt: Bà Maria và các anh em, chị em của ông, tất cả vẫn đang sống rất đỗi bình thường, như những người láng giềng gần gũi.
Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm.
Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Không chắc chúng ta đã khá hơn người làng Nagiaréth.
Hôm nay chúng ta vẫn có thể bị đóng khung trong một cái nhìn nào đó về Đức Kitô, khiến chúng ta chỉ thấy một phần khuôn mặt của Ngài.
Có những người chúng ta rất quen, sống sát bên ta, nhưng chúng ta chẳng hiểu mấy về họ.
Những gì tôi biết về họ là đúng, nhưng không đủ.
Mỗi người là một mầu nhiệm cần khám phá suốt đời.
Cần phải ra khỏi mình, ra khỏi cái nhìn khô cứng để gặp được mầu nhiệm tha nhân, để thấy người khác bằng cái nhìn luôn luôn mới.
Chúng ta thường nói đến một Thiên Chúa toàn năng, nghĩa là Đấng làm được mọi sự. Nhưng Đức Giêsu tại Nagiaréth lại cho ta thấy hình ảnh một Thiên Chúa yếu đuối và bất lực.
Ngài bó tay trước sự cứng lòng của con người.
Đức Giêsu đã không thể làm được phép lạ nào ở đó.
Thế mới hay con người có khả năng cản trở Thiên Chúa, có thể dùng chính tự do Ngài ban để khước từ Ngài.
Phép lạ là quà tặng cần được đón nhận với lòng tin.
Phép lạ không phải là phù phép áp đặt trên người nhận.
Có bao điều lạ lùng Thiên Chúa định làm cho đời ta, mà Ngài không làm được, vì không được làm.
Nên thánh là để cho Ngài yêu thương ta, để cho Ngài tự do hoạt động trong đời ta. Lúc đó đời ta sẽ trở nên một kỳ công của Thiên Chúa, và nhờ Ngài, ta có thể làm được những kỳ công.
Gợi Ý Chia Sẻ
Quá khứ của một người có thể làm chúng ta không thấy sự thật về người đó. Bạn có khi nào giống như người Nagiaréth không?
Có khi nào bạn thấy Thiên Chúa bị bó tay, chỉ vì bạn khăng khăng từ khước không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Dân làng Nagiaréth đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu đuối trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
2. Đừng để lỡ cơ hội
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Truyện cổ tích Trung Quốc kể về sự tích “Con Thỏ Ngọc” trên mặt trăng như sau: Thuở ấy, Ngọc Hoàng Thượng Đế, muốn biết dân cư dưới trần gian sinh sống ra sao, sai một ông tiên xuống để quan sát. Ông tiên giả dạng làm một người ăn mày già yếu, ăn mặc rách rưới, đi lang thang vào một buổi chiều mùa đông mưa lạnh. Ông lão đi ăn xin và xin chỗ trọ. Nhà đầu tiên mà ông gõ cửa là nhà con chó sói. Hé cửa nhìn ra, thấy ông lão già nua rách rưới, chó sói nhe nanh đe dọa để xua đuổi. Ông lão sợ hãi vội chạy đi. Nhà thứ hai mà ông gõ cửa là nhà con cáo. Con cáo chửi mắng ông thậm tệ nhưng chẳng cho gì. Buồn tủi, ông lại tiếp tục đi dưới trời mưa lạnh. Sau cùng ông gõ cửa một căn nhà bé nhỏ. Đó là nhà con thỏ trắng. Thấy ông lão run rẩy dưới trời mưa, Thỏ trắng vội vàng mở cửa mời ông vào. Thỏ đưa ông đến ngồi gần bên đống lửa, đem quần áo ướt hong bên đống lửa cho khô. Ông lão rên rỉ: “Cậu thỏ ơi, tôi đói quá, cậu có gì cho tôi ăn không? Nếu không tôi chết mất”. Thỏ vội vàng thưa: “Thưa ông, mùa đông năm nay kéo dài quá, nên rau cỏ dự trữ cháu đã ăn hết cả rồi. Nhưng cụ yên trí, thế nào cháu cũng tìm được thức ăn đãi cụ”. Thỏ chất thêm củi cho lửa cháy to hơn. Giữa lúc ông lão còn ngạc nhiên chưa biết thỏ định làm gì thì thỏ đã nhảy vào giữa đống lửa ngùn ngụt cháy. Chẳng mấy chốc, một mùi thơm tỏa lan cả căn nhà bé nhỏ. Thì ra thỏ đã tự nguyện hy sinh thân mình, làm một món ăn cho ông lão ăn mày. Ông lão về trời tường trình mọi sự với Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngọc Hoàng Thượng Đế liền cho triệu sói, cáo và thỏ tới. Sói và cáo bị trừng phạt nặng nề. Còn thỏ thì được khen thưởng cho ở trên Cung Trăng như một vị thần. Nên người Trung Quốc cũng gọi mặt trăng là Ngọc Thố.
Đây chỉ là một câu chuyện cổ tích, không có thực. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện đáng cho ta suy nghĩ. Sói và cáo rất ân hận vì đã bỏ lỡ cơ hội. Phải chi chúng biết đó là ông tiên thì chúng đã tiếp đãi ân cần rồi. Nhưng bây giờ thì đã muộn. Chúng chẳng hy vọng gì chuộc lại được lỗi lầm để trở thành thần tiên. Cơ hội chẳng bao giờ trở lại nữa.
Tương tự như thế, những người ở làng quê Nagiarét hôm nay cũng đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa giả dạng làm một người thường đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Người rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Người. Họ không tin Người. Họ hất hủi Người. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Người bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Người sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta.
Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.
Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.
Lạy Chúa, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có khi nào bạn đã để lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?
2) Bạn đánh giá một người theo giá trị thực sự của họ hay theo cảm nghĩ của bạn dựa trên những hiểu biết về gia cảnh, về lý lịch của họ?
3) Bạn cần chuẩn bị những gì để khỏi lỡ cơ hội đón tiếp Chúa?
3. Đừng thèm khát
(Suy niệm của ĐGM. Arthur Tone)
Những người cổ Hy lạp thích thể thao, nhất là những cuộc thi chạy lẹ, thi sức mạnh và dai sức. Những cuộc tranh tài Olypic ngày nay phát sinh từ những ngày đó. Trong một cuộc tranh tài cổ xưa, một lực sĩ đoạt chức vô địch. Các bạn hâm mộ ông đã dựng một tượng đài để tỏ lòng khâm phục. Điều đó làm cho một lực sĩ bạn thèm khát. Anh này, ban đêm trong bóng tối, gắng sức phá đổ tượng đài ấy. Anh tìm cách xô đẩy bức tượng được vài phân, bức tượng lắc lư vài cái trên đế, rồi đổ nhào trên đầu và đè chết anh lực sĩ.
Đó là câu chuyện thèm khát. Tính xấu này đã xâm nhập tâm hồn nhiều người. Chúng ta thấy tính xấu này trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhiều người trong làng xóm, nơi Đức Giêsu sinh trưởng, đã buồn bực vì Người được tôn kính và ca tụng. Do lời nói và việc làm lạ lùng của Người. Họ từ chối nghe lời người, từ chối tin vào Người, từ chối theo Người, kết quả là Đức Giêsu, không thể làm phép lạ ở đó.
Thèm khát và ghen tỵ gần gũi nhau. Thèm khát liên hệ tới cái người khác có. Ghen tỵ liên hệ tới sự chú ý và cảm tình người khác được. Phải chăng tôi buồn vì người khác đẹp hơn tôi, nổi tiếng hơn tôi, giàu hơn tôi, có xe láng hơn tôi, có nhà đủ tiện nghi hơn tôi? Phải chăng tôi buồn vì một ai đó được để ý và kính nể. Chỉ mơ ước có một cái gì mà người khác đã có, không phải là thèm khát. Nó chỉ trở thành thèm khát khi thiếu những cái đó làm bạn buồn, bất mãn và khốn khổ.
Chúa cho chúng ta 2 giới răn đối lập lòng thèm khát. Giới răn thứ 9: “Ngươi chớ ham muốn vợ người khác”. Và giới răn thứ 10: “Ngươi đừng ham muốn của cải người khác”.
Thèm khát là ý muốn trái phép: ham muốn một người không phải là vợ (chồng) của bạn một cách trái phép là nguyên cớ của hàng triệu vụ ly dị trên đất Mỹ năm 1997. Tính thèm khát gây nên bao đau thương, bao đổ vỡ.
Hầu hết tội ác đều do sự ham muốn tài sản của người khác cách trái phép gây nên.
Sự ghen tỵ xấu xa lớn nhất đã đem đến cái chết cho Đấng đáng yêu mến của thời đại. Chúa chúng ta, Đấng cứu chuộc chúng ta, Đức Giêsu Kitô. Tin Mừng hôm nay kể lại lòng ghen tỵ đã làm mù quáng những kẻ có thể tin theo Đức Kitô.
Chúng ta có thái độ gì đối với lòng ghen tỵ? Khi một người thành công, phát đạt, được kính nể? Chúng ta hãy cảm tạ Chúa cho họ. Nếu bạn bị người ta ghen tỵ. Bạn hãy xin Chúa giúp cho họ chế ngự được lỗi lầm của họ. Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho kẻ chống đối Người. Đức Kitô sẵn sàng giúp đỡ vì Người đã từng chịu những kẻ ghen ghét hành hạ. Xin Người giúp bạn vượt thắng tính xấu này nơi bạn và nơi người khác.
Xin Chúa chúc lành bạn.
4. Ngoại trừ quê quán mình
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Chúa Giêsu rảo khắp nơi để rao giảng Tin Mừng. Và khi có dịp, Ngài ghé lại Nadaret, quê hương của Ngài để rao giảng cho đồng hương của Ngài.
Đến ngày sabat, Ngài vào Hội đường và giảng dạy. Theo tục lệ Do Thái, người ta thường mời những người có uy tín hay giỏi về Kinh Thánh giảng dạy. Nhiều người nghe đều thán phục và ngạc nhiên vì lời giảng của Ngài, vì “Ngài giảng như Đấng có uy quyền”. Họ ngạc nhiên vì chưa từng có ai giảng súc tích và lưu loát như thế. Nhưng sau đó họ lại đặt vấn đề: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta khôn ngoan như thế nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta là ai? Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria và anh em của ông là các ông Giacôbê…, và thánh Maccô kết luận:“họ vấp ngã vì Ngài”
Các thánh sử khác không đề cập đến bà Maria, nhưng thánh Maccô lại nhấn mạnh đến điều này, ngụ ý cho thấy dân Nadaret muốn khinh dễ và nhục mạ Ngài khi nói rằng Ngài là con bà Maria. Họ bươi móc nguồn gốc của Ngài. Nếu chúng ta không hiểu tập tục Do Thái, chúng ta không thể hiểu tại sao họ không nói là con ông Giuse mà lại nói là con bà Maria.
Theo tục lệ Do Thái, khi hai người đã được đính hôn với nhau hợp pháp thì có quyền thân mật với nhau như vợ chồng, nếu có con trước thì đến ngày cưới người ta vẫn tổ chức đám cưới rình rang như mọi người. Nhưng điều này rất khó được chấp nhận. Những gia đình đạo đức không ai cho phép như thế.
Maria, khi về với Giuse đã mang thai hơn ba tháng. Họ nhắc đến con bà Maria là để nói rằng Ngài không danh giá gì.
Tại sao từ thán phục họ biến sang khinh miệt?
Điều này dễ hiểu thôi. Trong xã hội nào cũng có những hạng người ganh ghét, không chấp nhận người ta hơn mình. Bệnh ganh ghét này là một bệnh khó chữa. Trong cộng đoàn giáo xứ hay dòng tu, ngay cả trong một gia đình cũng thường xảy ra những trường hợp ganh tị như thế.
Cơn bệnh này không bao giờ lành khi người bị ganh tị không bị hạ bệ. Cơn bệnh này có thể kéo dài hàng chục năm…
Nguồn gốc là kiêu căng. Và người ganh tị lại là những người kém tài mà lại muốn vượt trội và muốn được ngợi khen ca tụng.
Chúa Giêsu là nạn nhân của căn bênh trầm kha này và hiệu quả là Ngài bị như tê liệt, không thể làm phép lạ tại quê hương mình, trừ một vài người được chữa lành. Thượng Tế và kinh sư Do Thái đã mang căn bệnh này và họ đã giết Ngài.
Ngài đòi điều kiện tiên quyết để làm phép lạ, cứu giúp những người đang gặp cảnh khốn cùng là lòng tin. Nhiều lần, các thánh sử đã ghi lại câu nói: “Lòng tin của con đã cứu lấy con”. “Con tin thế nào thì được thế ấy”.
Vì kiêu căng và tự ái, không dám nhìn sự thật của chính mình, dân làng Nadaret đã đánh mất cơ hội hưởng nhờ những hồng ân Chúa ban. Thái độ từ chối này làm cho Chúa Giêsu đau lòng: Ngài ngạc nhiên vì họ không tin.
Đứng trước Lời Chúa, dù dưới hình thức nào, dù qua một người nào, Chúa đòi hỏi chúng ta một thái độ chấp nhận thành tâm. Nếu Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta hôm nay như giữa dân Nadaret, chắc Ngài cũng phải ngạc nhiên vì thái độ của nhiều người trong chúng ta, vì tuy không hẳn là từ chối, chúng ta cũng nghe lơ là, cho xong việc. Ra khỏi nhà thờ là quên hết những gì đã nghe. Vì thế mà Lời Chúa không đâm rễ sâu vào tâm trí chúng ta.
Chúng ta thích nghe những gì khác hơn là Lời Chúa. Cũng nên nhớ rằng, Lời Chúa là chính Chúa được trao ban cho chúng ta qua Giáo Hội. Chúng ta không đón nhận, chúng ta sẽ không bao giờ tìm được bình an, vì chỉ có Chúa mới là sự bình an cho chúng ta.
Thế giới hôm nay đã từ chối Chúa, xem Ngài như không cần thiết. Hậu quả là chiến tranh, tội ác, khủng bố, bạo lực bao trùm cuộc sống con người hôm nay. Nền văn minh sự chết tràn ngập thế giới, và nhiều người đang oi ngợp không lối thoát.
Nhiều tâm hồn thiện chí đã kêu gào: “hãy chữa lành thế giới”. Nhưng phương thuốc nào sẽ hữu hiệu? Chỉ có một danh duy nhất dưới gầm trời này có thể cứu vớt được thế giới: Giêsu Nadaret. Chỉ có Ngài mà thôi! Tất cả những nỗ lực của con người chỉ là bọt bèo, mong manh.
Chúng ta vững tin vào Ngài. Dù không cứu được thế giới, chúng ta cũng có thể đem lại bình an cho những người quanh ta đang tìm ánh sáng. Tin Chúa, chúng ta không tin vào một lý thuyết mà tin vào một con người, một Thiên Chúa làm người. Ngài là Thiên Chúa mặc lấy xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Dân Nadaret đã chối từ vì họ mù quáng, còn chúng ta? Chúng ta có sáng suốt hơn họ không?
Đức tin là một hồng ân, chúng ta có quyền lãnh nhận nhưng cũng có quyền từ chối. Thiên Chúa không áp đặt chúng ta, Ngài tôn trọng tự do của chúng ta. Chúng ta có quyền chọn Ngài hay từ chối Ngài.
Hãy mở cửa cho Chúa. Ngài luôn mời gọi. Ngài mong ước chúng ta nghe tiếng Ngài để được sống. Abraham đã nghe tiếng Chúa gọi ông ra đi. Ông không biết ra đi sẽ đem lại cho ông điều gì, nhưng ông tin rằng Đấng kêu gọi ông vẫn lớn hơn ông. Ông vững tin và ra đi, ra đi trong vô định của Thiên Chúa. Ông trao trọn cuộc sống của ông cho Đấng đã gọi ông. Tin là như thế, là nghe theo tiếng gọi của Đấng mà chúng ta nhìn nhận là Đấng nắm quyền sinh tử trên chúng ta, trao trọn cuộc sống chúng ta trong tay Ngài. Dân Nadaret đã biết Abraham là tổ phụ của họ, và đã biết rõ cuộc sống của ông như thế nào, nhưng họ không có can đảm để chấp nhận tiếng gọi của Thiên Chúa qua con người của Giêsu Nadaret.
Tin cũng là tìm Chúa không thôi cho đến khi tìm được, và xác tín rằng chúng ta sẽ tìm được. Chúng ta không nắm Chúa trong bàn tay. Ngài luôn vượt xa, thật xa, những gì chúng ta biết hay hiểu về Ngài. Chúa vẫn vượt xa tầm nhìn của chúng ta. Hãy tìm thì sẽ gặp.
Tin cũng là trở nên như trẻ nhỏ, nhìn mọi sự với cặp mắt ngây thơ như trẻ nhỏ, hoàn toàn tín thác. Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta tin như thế, tức là vô điều kiện, vì Ngài vẫn ở trên chúng ta, và nhờ Ngài mà chúng ta được sống.
Tin là xác tín rằng Chúa vẫn ở với tôi trong mọi nơi, mọi lúc, trong mọi tình huống của cuộc sống.
Dân Nadaret không thể nghĩ rằng Thiên Chúa có thể sử dụng một con người như ông Giêsu, một anh thợ mộc nghèo, để mang đến cho họ những hồng ân cao quí. Họ tưởng rằng Thiên Chúa quá cao cả không thể chú ý đến một con người có lý lịch không mấy tốt đẹp như ông Giêsu, con bà Maria. Họ quên rằng, trong lịch sử của họ, những người Chúa chọn để làm những công việc lớn lao chỉ là những người vô danh, rất đơn thường như Đavít, một tên chăn chiên, tiên tri Amốt là một người tỉa cây vả…
Họ mù quáng vì ganh tị. Họ đã đánh mất cơ hội đón nhận nhiều hồng ân. Họ không thể ngờ rằng, ông Giêsu đó chính là hồng ân tuyệt hảo Chúa dành cho họ. Thay vì hãnh diện vì người đồng hương của mình, họ lại từ chối Ngài.
Chúng ta có nghĩ rằng, mỗi người chúng ta có thể được sử dụng để đem niềm vui và ơn cứu độ cho người khác không? Hãy để cho Chúa có quyền trên chúng ta. Hãy khiêm tốn lãnh nhận những gì Chúa trao ban qua những người hay hình thức Chúa muốn, đừng đòi buộc Thiên Chúa theo ý chúng ta.
Nơi bàn thờ này, chúng ta sẽ gặp Chúa Giêsu Nadaret, cũng là Chúa Giêsu mà ngày xưa dân Nadaret đã từ chối không đón nhận. Chúng ta hãy nhìn Ngài với tất cả niềm tin và lòng biết ơn vì Ngài đã thân hành đến với chúng ta và tự ban mình cho chúng ta. Còn gì êm đềm hơn là thấy Thiên Chúa của chúng ta trở thành bánh nuôi sống chúng ta? Ngài chính là kho tàng tình yêu từ trời ban xuống cho chúng ta. Mặc cho ai từ chối, chúng ta vẫn tin.
5. Đức Kitô bị chối từ
Đoạn Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Kitô bị những người đồng hương từ chối.
Sự từ chối này có những lý do riêng của nó. Đó là họ chỉ nhận thấy Đức Kitô là con bác thợ mộc Giuse, bà con lối xóm với họ. Hoặc có thể họ không muốn nhìn nhận Ngài như một tiên tri, luôn đòi hỏi mọi người phải sám hối theo ý Thiên Chúa.
Hẳn rằng ngày hôm nay những người tín hữu chúng ta không còn bị nhầm lẫn về Đức Kitô một Thiên Chúa làm người. Nhưng chúng ta vẫn có thể dửng dưng và từ chối sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống hôm nay.
Nếu những thân nhân của Đức Kitô ngày xưa đã vấp phải những yếu tố nhân loại của Ngài, để không nhận ra Ngài, thì đó cũng là những chướng ngại làm chúng ta không nhận ra Ngài ngày hôm nay, một Đức Kitô trong tha nhân.
Không ít người trong chúng ta đã từ chối những giá trị, những việc làm của anh em đồng loại, bởi vì họ là những con người không cùng một niềm tin, hoặc họ bị coi chỉ là những con người tầm thường, có chút lầm lỗi trong dĩ vãng.
Cách nhìn và đánh giá như thế sẽ là một cách sống xa lạ với Tin Mừng, sẽ là một cách sống xa lạ với với điều chính Đức Kitô đã rao giảng vì Ngài đã chỉ đám đông và trả lời: Những ai thi hành ý muốn Thiên Chúa, thì họ chính là anh em, chị em và là mẹ tôi vậy. Những người dám hy sinh cho đồng loại, những người dám sống vì kẻ nghèo, đang là hình ảnh của Thiên Chúa mà mỗi người chúng ta không thể không nhìn nhận.
Cũng có thể ngày hôm nay, mỗi người trong chúng ta đang từ chối Đức Kitô khi xa lánh những đòi hỏi của Tin Mừng, được coi là những phiền nhiễu của Thiên Chúa. Một Tin Mừng kêu gọi phải yêu thương đồng loại như chính mình, phải hy sinh mạng sống cho người mình yêu. Một Tin Mừng kêu gọi phải bán hết của cải, làm phúc bố thí rồi mới bước theo Ngài. Tóm lại, Đó là một Tin Mừng kêu gọi sống trong một con người mới.
Từ chối những đòi hỏi cốt yếu của Tin Mừng chỉ để sống với những hình thức những nghi lễ bên ngoài, chắc hẳn là sẽ êm ái hơn. Nhưng đó chỉ là sự êm ái của những kẻ không muốn bị liên luỵ bởi Tin Mừng, của những kẻ không nhìn nhận Đức Kitô. Ai trong chúng ta khẳng định được rằng là mình đã không từ chối Đức Kitô.
Câu hỏi ngày hôm nay đó là chúng ta hãy tra vấn lương tâm, hãy tìm hiểu cách sống của bàn thân, để xem chúng ta đã thực sự đón nhận hay là đã từ chối Đức Kitô.
6. Chúa Nhật 14 Thường Niên
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.)
THÓI KIÊU NGẠO VÀ ĐỊNH KIẾN ĐÃ CẢN TRỞ ƠN CỨU ĐỘ
Tin mừng Mc 6: 1-6: Nhưng cũng như Chúa Giêsu, dù có bị thua thiệt hay đau đớn đến mức nào, ta vẫn một lòng trung kiên bền chí trong đức tin, trong lý tưởng tôn giáo mà mình đã chọn lựa…
Khi Đức Giêsu đến trần gian, Ngài đã tuyệt đối trung thành với sứ vụ Thiên Sai của mình, vì thế, khi tiếp xúc với dân chúng, Đức Giêsu đã can đảm, trung thành với sứ vụ. Luôn tỏ ra là một Vị Thiên Chúa sẵn sàng khích lệ, đồng hành, cảm thông và xót thương con người. Dạy dỗ và làm nhiều phép lạ nhằm loan báo Mầu Nhiệm Cứu Chuộc cho dân để họ sám hối, tin theo và được cứu chuộc.
Tuy nhiên, khi thi hành sứ vụ, Đức Giêsu đã gặp phải rất nhiều thử thách đầy cam go do chính những người đồng hương với Ngài gây nên. Những thử thách đó khởi đi từ sự kiêu ngạo, tự phụ và thành kiến của người đồng hương.
Tuy nhiên, khi đối diện với những vấn đề như vậy, Đức Giêsu đã không chùn bước, nhưng Ngài vẫn luôn trung thành cách trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa Cha đã trao gửi cho Ngài trong sự khiêm tốn và can đảm.
1. Nguyên nhân dẫn đến việc cản trở Đức Giêsu khi Ngài trở về quê hương
Hôm nay, thánh sử Máccô thuật lại việc Đức Giêsu trở về quê hương của Ngài. Trong chuyến thăm quê lần này, cũng giống như những lần khác, Ngài vẫn vào hội đường và cầu nguyện cũng như thi hành sứ vụ Thiên Sai của mình.
Tuy nhiên, Dân Do thái vốn dĩ là một dân cứng đầu, dễ nổi loạn chống đối lại Thiên Chúa. Họ luôn thách thức Thiên Chúa khi Người không đáp ứng nhu cầu của họ. Hơn thế nữa, họ rất coi trọng nguồn gốc sáng giá của một con người.
Bởi thế, thán phục các phép lạ, nhưng lại coi thường Đức Giêsu vì Ngài xuất thân trong một gia đình không mấy nổi nang! Điều này chính những người Do thái đã thắc mắc: cha ông không phải là Giuse, mẹ ông chẳng phải là bà Maria sao? vì thế, họ không tôn trọng Ngài.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên không là gì khác, đó chính là sự kiêu ngạo của những người đồng hương.
Tại sao vậy? Thưa, sự kiêu ngạo đã là đó ngáng chỗ và lòng kiêu căng đã chiếm mất chỗ của Chúa trong cuộc đời của họ.
Trước thái độ trên, Đức Giêsu đã tuyên bố một câu mà muôn đời vẫn giữ nguyên giá trị: đó là: “Tiên tri không bao giờ được tôn trọng trên chính quê hương mình”.
Qủa đúng như vậy, vì, xét theo lẽ tự nhiên, một con người dù tài giỏi đến đâu, làm việc hiệu quả thế nào, và thành đạt trên nhiều lãnh vực hay nhiều nơi đi nữa, thì khi trở về gia đình, quê hương, họ luôn bị chính những người thân cận, làng xóm coi ở mức độ “thường thường bậc chung” vì lối suy nghĩ thiển cận, nên: “Gần chùa gọi bụt bằng anh”.
Điều này Đức Giêsu đã trải qua khi Ngài trở về quê hương của mình!
Nhưng sự coi thường đáng tiếc này đã khiến cho ơn cứu độ của Thiên Chúa vuột mất khỏi họ, và suốt bao thế kỷ, họ vẫn đang chờ đợi một Đấng Kitô khác chứ không phải Đức Giêsu, Đấng đã hiện diện giữa họ cách đây hơn 2.000 năm.
2. Thực trạng kiêu ngạo của con người hôm nay
Thực trạng ấy nơi những người đồng hương với Đức Giêsu khi xưa, hôm nay vẫn còn đây đó nơi chúng ta, vì: thói ích kỷ, kỳ thị, chấp nhất, định kiến, ác cảm, nên ta hay giam người anh chị em mình trong quá khứ hay “tạc tượng” họ trong một lối nhìn tiêu cực và không bao giờ cho họ cơ hội để mở ra một tương lai tốt đẹp hơn….
Lý do họ không nhìn anh chị em mình dưới lăng kính màu hồng, mà toàn màu đen, bởi mắt họ đang đeo cặp kính râm của sự kiêu ngạo! Vì thế, lối suy nghĩ nông cạn, vu vơ và trống rỗng đã dẫn đến việc đánh giá, đối xử lệch lạc và thiếu công bằng cũng như bất nhân. Quả đúng là: “Yêu ai thì nói quá ưa – Ghét ai nói thiếu nói thừa như không”; hay ”Yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng”.
Những người nông nổi như vậy, họ đâu có hiểu được rằng: “Sông có khúc, người có lúc”.
Thật vậy, có người bị coi là không tốt, đồ bỏ, vứt đi ở chỗ này, nhưng họ lại được nhiều người coi trọng và kính nể ở một nơi khác…. Còn có nhiều người được xem là nhẹ nhàng, tao nhã, lịch thiệp chốn quan trường, ngoài xã hội, nhưng khi về đến gia đình, họ lại là kẻ bất nhân, vô liêm sỉ với người thân. Mở miệng ra là quát tháo, chửi bới nên “thượng thẳng tay, hạ thẳng chân” với anh chị em họ. Những người này thuộc hạng “khôn nhà dại chợ”; “làm phúc nơi nao để cầu ao rách nát”;… hay có những người ăn nói ngọt như đường mía lau, nhưng thực ra họ thuộc dạng: “Đội trên, đạp dưới” nên tâm địa bỉ ổi, xấu xa chẳng khác gì kẻ: “Miệng thì thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”. Hay như Mc Kenzie nói:”Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tị thì nhìn bằng kính hiển vi”.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay vừa nhắc nhở, vừa mời gọi chúng ta ý thức sứ mạng ngôn sứ cũng như lối sống và cách thức loan báo Tin Mừng!
Trước tiên, sứ mạng ngôn sứ được trao ban cho chúng ta ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Sứ mạng ấy càng thôi thúc mãnh liệt khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức.
Vì thế, mỗi người phải có trách nhiệm loan báo Lời Chúa, thi hành sứ mạng ở mọi nơi, mọi lúc, dù: “Thuận tiện hay không thuận tiện”; được ủng hộ hay chống đối, được đón nhận hay bị khước từ, được tôn vinh hay giết chết…. Mặt khác, khi thi hành sứ vụ, chúng ta không thể chọn lựa theo ý mình, mà phải nói và làm điều Thiên Chúa muốn một cách trung thành (x. 1Cr 9,15-16); không được giả hình và bóp méo Lời Chúa (x. 2Cr 11,10; 13,8).
Thứ đến, khi thi hành sứ vụ, cần nhớ nằm lòng câu nói của Đức Giêsu: “Không ngôn sứ nào được kính trọng nơi quê hương mình”.
Cần nhớ rõ một điều, chúng ta đi đến đâu, làm bất cứ điều gì, sẽ có 30% người ủng hộ. 30% người chống đối, loại trừg, số còn lại dửng dưng. Đây cũng chính là số phận và cái giá phải trả của Đức Giêsu khi thi hành sứ vụ.
Bởi vì làm ngôn sứ không phải là chuyện đơn giản, mà là: “Vô cùng phong nhiêu”, phúc tạp! Vì Lời Chúa một đàng là lời tình yêu, nhưng một đàng là lời cật vấn lương tâm, vạch trần tội ác, bất công, gian dối, hình thức…, nên: “Nếu thế gian ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Thầy trước …. Đầy tớ không lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con” (Ga 15,18-20).
Thật vậy, sứ mạng ngôn sứ đòi chúng ta chấp nhận lội ngược dòng, không thể sống theo phong trào hay “hiệu ứng đám đông”. Đôi khi chấp nhận điên vì sứ vụ, khùng Tin Mừng, khi dám nói lên tiếng nói công lý, công bằng ngay tại những nơi nguy hiểm như: sòng bài, quán rượu, quán karaokê…, nơi những con người đang “quậy” tứ tung hay “điên cuồng” trong những cuộc chơi bất chính….
Khi lựa chọn như thế, sự lẻ loi, cô lập và chống đối hay phải thí mạng là lẽ đương nhiên!
Mong sao, sứ mạng và số phận ngôn sứ của Đức Giêsu trong thời của Ngài, cũng là của chúng ta trong thời đại hôm nay.
Ước gì vì: “Nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” là lựa chọn của mỗi người Kitô hữu, vì: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng ta” nên chúng ta “được Chúa kêu gọi để tỏa sáng như các vì sao giữa lòng thế giới tối tăm này” (Pl 2,15).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con sự khiêm nhường và tình yêu của Chúa, để chúng con yêu cả những người thù ghét mình. Xin ban sức mạnh của Chúa, để chúng con can đảm, vững bước trên con đường thi hành sứ vụ.
Xin cho chúng con mặc lấy lòng bao dung, nhân hậu của Chúa, để chúng con đón nhận anh chị em chúng con trong tình Chúa và tình người. Amen.
7. Tiên tri ở quê hương mình
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu không phải chỉ là một tiên tri như những tiên tri khác, mà Ngài chính là Con Thiên Chúa. Thế nhưng Ngài đã phải đụng đầu với sự cứng lòng tin của chính những kẻ đồng hương với Ngài. Theo tập tục thì mọi người Do Thái ở tuổi trưởng thành đều có thể lên tiếng khi tham gia phụng vụ tại hội đường. Chúa Giêsu đã sử dụng quyền này của Ngài và lên tiếng rao giảng Phúc Âm. Nội dung rao giảng hẳn phải có một cái gì khác lạ với những điều từng được rao giảng tại đây. Khác đến độ mọi người đều có thể nhận ra và sửng sốt trước sự khôn ngoan của Ngài. Thực tế trước mắt đã khởi sự lay động họ, kéo họ ra khỏi giấc ngủ yên tĩnh giữa những cái biết rồi, đẩy họ vào con đường của những khám phá mới. Thế nhưng những câu hỏi chỉ loé lên trong thoáng chốc không đủ để chiếu sang cho họ tới được với Đấng đã đến giải phóng họ. Họ đã bỏ thực tế để trở về với lối lý luận thông thường của họ. Họ tưởng rằng họ đã biết quá rõ về Ngài khi nói ra được Ngài là con ai, đã làm gì và ai là những người thân thích với Ngài. Họ đã trở về với những cái họ đã nắm được để rồi quay lưng trước lời kêu gọi của thực tế trước mắt. Điều họ mắt thấy tai nghe đã đánh động để họ phải đặt lại vấn đề, thế nhưng họ đã đóng chặt cửa lòng trước những cái mới mẻ đã từng làm cho họ sửng sốt và ngạc nhiên. Họ tự tách mình ra khỏi Nước Trời đang đến với họ. Phúc Âm còn ghi lại: thấy họ cứng lòng tin, Chúa Giêsu đã không làm một phép lạ nào, nghĩa là Ngài đã không tỏ quyền năng của Nước Trời cho họ và Ngài đi rao giảng ở những làng xung quanh.
Thái độ của dân làng Nadarét cũng có thể là cơn cám dỗ của người Kitô hữu hôm nay. Chúng ta có thể tự hào và tự mãn với những bài giáo lý, những hiểu biết về đạo, để rồi quay lung trước lời mời gọi của Chúa trong những sự kiện, những biến cố đang xảy ra chung quanh chúng ta. Nói cách khác, việc sống đạo của chúng ta hôm nay không thể đóng khung trong một số kiến thức có sẵn về Thiên Chúa, về ơn cứu độ, cũng như trong một số nghi lễ đã được quy định sẵn, trái lại phải được thể hiện qua việc lắng nghe, tìm kiếm ý định của Chúa trong lịch sử, trong chính lòng cuộc đời cá nhân và trong sinh hoạt của cộng đồng xã hội. Vấn đề là chúng ta có thực sự thoát ra được những thành kiến, những quan niệm, những lối nhìn sẵn có để thực sự lắng nghe tiêng nói mới mẻ của Chúa qua các biến cố, qua các sự kiện của thực tế hôm nay.
8. Thân phận người sứ giả
Sứ giả là người được chọn lựa và được sai đi để loan truyền Tin Mừng cho muôn dân, là người nói nhân danh Thiên Chúa.
Đức Kitô là vị Thiên Sai đến mạc khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa và những ý định của Ngài, nhờ đó chúng ta được cứu độ. Trong đời sống công khai, Ngài đã bị chống đối và khinh miệt, như lời thánh Gioan đã viết: Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng gia nhân đã không tiếp nhận Ngài.
Phải chăng đó cũng chính là sái số phận của người sứ giả, của người tông đồ, vì Chúa Giêsu cũng đã bảo: Môn đệ không trọng hơn Thầy, người ta đã bắt bớ Thầy thì người ta cũng sẽ bắt bớ các con. Thực vậy, ngày hôm nay, Chúa Giêsu trở về Nadarét để rao giảng Tin Mừng, nhưng Ngài đã bị chính những người đồng hương chống đối, rồi trên khắp nẻo đường xứ Palestina, Ngài đã loan truyền Phúc Âm, đã chữa lành những tật bệnh đem lại mọi lợi ích cho con người, thế nhưng họ đã dám cho Ngài lấy quyền phép ma quỷ mà làm những việc đó. Ngài mạc khải Thiên Chúa là Cha và mình là Con, thì họ cho Ngài là kẻ phạm thượng, bị quỷ ám và điên khùng. Ngài đến đem bình an, chân lý và thiết lập nước Thiên Chúa thì bị mang tiếng là xách động là phản loạn. Họ bắt bớ và kết án Ngài tử hình trên thập giá. Sau cùng Ngài đã bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp.
Thân phận của người sứ giả là như thế và Chúa Giêsu cũng đã xác định cho các tông đồ: Các con sẽ phải đau khổ, khóc lóc, sẽ bị bắt bớ và điệu ra toà. Và như chúng ta thấy: Cuộc đời người sứ giả của Thiên Chúa phải gắn liền với thập giá và khổ đau, vì nơi thập giá, ơn cứu độ được biểu hiện qua sự chết và phục sinh của Đức Kitô. Bởi vì đau khổ là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá tới phục sinh và là điểm tựa cho người sứ giả để can đảm loan truyền lời Chúa.
Họ không sợ hãi vì có sức mạnh thần linh yểm trợ. Nơi thập giá, sức mạnh của Thiên Chúa thể hiện và sự yếu đuối của con người gặp được sự khôn ngoan tuyệt vời của Thiên Chúa. Thập giá giải hoà con người với Thiên Chúa và đem lại ơn cứu độ. Số phận của người môn đệ phải đồng hoá với số phận của Thầy chí thánh, bởi vì chính Chúa cũng đã ra điều kiện: Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Người môn đệ không phải chỉ chết cho mình mà còn chết cho người khác. Đúng thế, thập giá họ vác chính là dấu chỉ họ chết cho thế gian. Họ sung sướng và hãnh diện vì được chịu khổ đau như thánh Phaolô đã viết: Phần tôi chẳng bao giờ tôi dám vênh vang, ngại trừ nơi thập giá Đức Kitô, Đấng đã đóng đinh thế gian cho tôi và tôi cho thế gian. Trong những giờ phút đen tối, họ nhìn vào thập giá Đức Kitô và tìm thấy ở đó một lý tưởng, một sức mạnh, một kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình.
Trước những hy sinh gian khổ chúng ta đã có thái độ nào: sẵn sàng chấp nhận chịu đóng đinh với Đức Kitô nghĩa là dám hy sinh, từ bỏ ý riêng để phục vụ ý Chúa hay không? Đức Kitô có phải là nguyên lý cứu độ hay đã trở nên cớ cho chúng ta vấp phạm.
9. Khai tử niềm vui
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Đây chính là thái độ dân chúng nơi làng mạc Đức Kitô đối xử với Ngài. Thực tế cuộc sống là giết chết niềm vui, sẽ tức khắc sanh cái buồn, cái khổ não ào vào chiếm chỗ. Cái buồn mang thai từ lúc nào không ai biết nhưng nó sẵn sàng sanh con bất cứ khi nào có cơ hội. Đức Kitô và các môn đệ trong tâm tình vui mừng trở về quê. Ngài cũng như chúng ta, trong tâm trí cũng rạo rực, vui mừng, mong mỏi, hình dung ra trong đầu khung cảnh làng mạc, cây cổ thụ này, con suối nọ và đồi ôliu cành trĩu trái xanh dương. Trong lòng Ngài cũng mong chờ ngày mẹ con gặp lại nhau, mở rộng vòng tay ôm chằm thân nhân và bàn tay xiết chặt tình thân hữu khi gặp nhau. Tay bắt, mặt mừng vui vầy xum họp gia đình, rồi tiệc tùng chén đũa, tiếng cụng li vang tiếng thuỷ tinh. Ngày cuối tuần Ngài và các môn đệ vào Đền Thờ giảng dậy. Dân chúng rất đỗi ngạc nhiên về giáo huấn của Ngài. Họ ngạc nhiên về sự khôn ngoan, thông thái và phép lạ Ngài thực hiện. Vì điểm này mà họ giết chết niềm vui trong Ngài. Đám đông bắt đầu bàn tán với nhau và họ tự hỏi bởi đâu Ngài được thông thái, khôn ngoan như thế? Kinh thánh ghi lại ‘họ vấp ngã vì Người’ Mc 6,3. Vấp ngã như thế nào? Họ chối bỏ Đức Kitô về phương diện thể lí và quan trọng hơn là về phương diện tâm linh.
Về thể lí – Xã hội thời đó nặng về giai cấp. Sanh ra trong giai cấp nào thì sau này sẽ sống trong giai cấp đó. Đức Kitô là con bác thợ mộc nên dù thông thái đến đâu cũng là con thợ mộc, không thoát khỏi gốc rễ, nghề thợ mộc. Điểm thứ hai đám đông nhắc đến ‘ông ta là bác thợ, con bà Maria’ c.3. Điều này tái xác nhận Đức Kitô gốc thợ mộc và là con bà Maria. Việc không nhắc đến tên cha có thể hiểu theo hai cách. Cách tốt hiểu theo nghĩa ông Giuse đã qua đời và bà Maria là mẹ goá, con côi. Hiểu theo nghĩa nói xéo, móc méo câu trên ngụ í nói ông ta là đứa con hoang, không cha vì thế họ cố í nhắc tên mẹ mà lờ tên cha.
Về tâm linh – Đám đông nhận biết sự khôn ngoan, thông thái và phép lạ Đức Kitô thực hiện nhưng thắc mắc bởi đâu mà ra? Từ ma quỷ hay từ quyền năng Thiên Chúa. Chúng ta nhớ lại trước đó nhóm Kinh sư từng nói ‘Đức Kitô dựa thế quỷ mà trừ quỷ’ Mc. 3,22. Thứ hai, đám đông không nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa đang sống giữa họ. Thứ ba đám đông không có đức tin nơi Đức Kitô. Thứ tư đặt nghi vấn về quyền năng của Đức Kitô chính là nghi ngờ về quyền năng Thiên Chúa nơi Đức Kitô. Điểm thất bại khác, Đức Kitô không đạt được mục đích của chuyến đi. Ngài về thăm xóm làng nhưng quan trọng hơn chính là ban Tin Vui cho dân làng nhưng dân làng từ chối đón nhận Tin Vui. Đức Kitô buồn ít khi người ta nói về thời thơ ấu của Ngài nhưng buồn da diết khi người ta từ chối đón nhận Tin Mừng ơn cứu độ Ngài ban. Kết luận, người ta từ chối Ngài và từ chối cả Tin Mừng Ngài ban.
Thiên Chúa có khả năng biến nỗi buồn thành niềm vui, bi quan thành lạc quan. Đức Kitô dùng kinh nghiệm bị dân làng chê bai hướng dẫn các môn đệ bởi trong tương lai các ông sẽ được sai đi rao giảng và chắc chắn sẽ có kẻ đón, người xua. Khi bị xua đuổi khỏi làng các ông biết cách cư xử. Không cần phải nổi nóng, không cần trả đũa, cản trở công việc đang làm nhưng lặng lẽ, âm thầm, nhẹ nhàng bước khỏi làng đó để sang làng khác, tiếp tục công việc rao giảng bởi việc rao giảng là chính, là quan trọng mọi vấn đề khác là thứ yếu.
10. Quê nhà bạc bẽo
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – ViKiNi)
Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabbat, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc sách thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa. Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Người khác thường. Gương mặt Người luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của Người càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Người trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa, của lòng nhân ái Chúa Cha trên trời, của tình yêu. Ngài đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”.
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu? Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông nói năng, làm được gì hay lạ đâu? Ông bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi chóng thế!
Ở Việt Nam, hồi năm 1945-1950, cũng có những ông canh điền, đầy tớ, mõ làng đi vắng hai ba tuần, trở về diễn thuyết rất hùng hồn. Bởi đâu các ông đã ăn nói thao thao bất tuyệt như vậy? Sau này, người ta mới biết các ông được đi huấn luyện học thuộc lòng mấy bài để về ra mắt dân làng, hô hào đấu tranh chống thực dân Pháp, chống bù nhìn Bảo Đại trói gà không nổi.
Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế? Thân nhân bảo Ngài mất trí, kinh sư chụp mũ Ngài nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ. Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh. Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngửa mặt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên.
Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là con một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa, vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.
Còn Ngài, Ngài âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình” vì “Gần chùa gọi bụt bằng anh”.
Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.
Chính những điều xâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất mầu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt. Lòng nghĩ “cái nết đánh chết cái đẹp”, mắt vẫn liếc lia lịa người đẹp hơn chiêm ngắm tượng Chúa trên thập giá.
Khi Đức Hồng Y Roncalli (Rông ca li) được bầu làm Giáo hoàng Gioan 23, một Giám mục khóc cho Giáo hội sắp đến ngày tàn. Giáo Hội không còn ai lên lãnh đạo, phải bầu một ông già 77 tuổi về hưu lên đỡ vậy. Nhưng chỉ vài ngày sau, báo chí đã đưa những tin giật gân về ông già hồn nhiên, vui vẻ, đang lo canh tân ngôi giáo triều cổ kính, bệ vệ và chẳng bao lâu Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho Ngài tuyên bố họp Công Đồng Vatican 2, thực hiện cuộc canh tân vĩ đại cho Giáo Hội và cả thế giới.
Lạy Chúa Giêsu, xin mở con mắt đức tin cho mọi người được thấy những sự khôn ngoan, quyền phép lạ lùng của Thiên Chúa đang âm thầm hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới và cả trong vũ trụ, mà con mắt phàm trần không thể thấy được, để họ biết ca ngợi Chúa muôn đời.
11. Thiên Chúa luôn làm việc
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
“Cha Ta hằng làm việc, thì Ta cũng làm việc” (Ga.5, 17). Đó là câu Đức Giêsu nói với người Do Thái khi họ tra vấn tại sao Ngài chữa bệnh vào ngày sabát, tức ngày nghỉ theo luật của người Do Thái. Thiên Chúa luôn làm việc: Ngài lôi kéo con người đến với Ngài. Ngài có thể dùng biến cố này biến cố kia, hoặc người này người kia, hoặc ngay cả những giới hạn của mỗi người để giúp con người đến gần Thiên Chúa.
I. Vẫn có một tiên tri ở giữa họ
Tiên tri thường được nhiều người hiểu như người biết trước biến cố sẽ xảy ra. Một người như vậy, cho thấy người đó có quyền năng của Thiên Chúa. Thế nhưng theo đúng nghĩa, tiên tri là ngôn sứ, người đại diện Thiên Chúa nói với dân chúng, người nói với dân chúng theo lệnh của Thiên Chúa. Tiên tri, là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa hiện diện và quan tâm đến dân Ngài.
Trong lịch sử Do Thái, Thiên Chúa luôn yêu thương và săn sóc dân. Người Do Thái đã nhận ra các thẩm phán, các vua, là những người được Thiên Chúa xức dầu, là những người thay Thiên Chúa dẫn dắt và chăn dắt dân. Môsê là người được Thiên Chúa chọn để dẫn dân ra khỏi Aicập (Xh.3, 9-10), Samson là thẩm phán được Thiên Chúa dùng để giải phóng dân khỏi cảnh đàn áp của người Philitinh (Tp.13-16), Samuel là thẩm phán được sai tới để chăn dắt dân.
Tiên tri là người biết nhìn lịch sử, nhận ra sự can thiệp của Thiên Chúa trong cuộc sống mà nhiều người khác không nhận ra. Cũng có tiên tri không muốn thi hành chức năng “nói nhân danh Thiên Chúa cho dân” vì vị tiên tri biết rằng, mình có loan báo, thì dân chúng và những người lãnh đạo dân cũng chẳng nghe; như vậy, rao giảng chẳng có ích lợi gì mà chỉ chuốc lấy sự thù ghét và tai họa. Về điều này, tiên tri Yêrêmia là một điển hình. Lời Chúa trong sách tiên tri Êdêkiel hôm nay cho thấy, cho dù dân chúng có không nghe lời cảnh báo của Thiên Chúa qua tiên tri, thì ít nhất khi một tiên tri thi hành chức năng ngôn sứ của mình, cũng làm cho con người thời đại đó biết rằng, có một tiên tri đang hiện diện giữa họ: Thiên Chúa vẫn đang quan tâm và săn sóc lo lắng cho họ, cho dù họ có vâng nghe Thiên Chúa hay không.
II. Dầu vậy Đức Giêsu cũng chữa một vài bệnh nhân
Đức Giêsu được dân chúng cho là một tiên tri, và là một tiên tri lớn (Mt.16, 14). Với người Do Thái, Môsê là một tiên tri lớn. Người Do Thái vẫn mong ước vị tiên tri lớn cỡ tầm mức Môsê xuất hiện; vì như xưa Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu qua Môsê, thì khi vị tiên tri lớn tầm cỡ của Môsê xuất hiện, Thiên Chúa cũng sẽ làm những điều trọng đại cho dân tộc Do Thái như ngày xưa Ngài đã làm.
Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ, đã chữa lành nhiều bệnh nhân, đã phục sinh người chết, đã cho kể điếc được nghe người câm nói được kể què được đi. Ngài là một tiên tri, và là một tiên tri lớn. Chính Gioan tẩy giả cũng nghĩ rằng Đức Giêsu là vị tiên tri phải đến, vị tiên tri mà dân Do Thái hằng mong ước. Có thể đó là lý do tại sao Gioan lại sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến không?” Đã có lúc dân Do Thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, vì họ nghĩ rằng Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân khỏi ách thống trị của người Roma (Ga. 6, 15).
Không có tiên tri nào được đón nhận nơi quê hương mình. Người ta quá thành kiến về quá khứ hoặc thành phần giai cấp xã hội của vị ngôn sứ, nên không nhận ra sứ điệp hoặc sự can thiệp của Thiên Chúa qua họ. Khi Đức Giêsu trở về làng Nadarét, dân chúng đã không tiếp đón Ngài như một tiên tri, cho dù làng Nadarét là một làng nhỏ, và dân chúng nơi đó cũng không thông thái gì hơn những người ở thành thị khác ở đất nước Do Thái. Vì họ thiếu niềm tin, nên Đức Giêsu không thể làm những dấu lạ cả thể, Ngài phải ra đi. Tuy vây, “Ngài cũng đã làm một vài dấu lạ bằng cách đặt tay chữa lành một số người ốm đau bệnh tật”. Thiên Chúa vẫn luôn chứng tỏ sự hiện diện và quan tâm của Ngài đối với con người, cho dù con người có cố tình từ chối. Đức Giêsu là sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa cho con người, không chỉ đối với những người làng Nadarét, nhưng còn cả đối với tất cả người Do Thái thời đó, và còn cho tất cả con người của mọi thời đại sau nữa. Đức Giêsu là dấu chỉ và biểu tượng Thiên Chúa đang ở với con người.
III. Ơn Ta đủ cho con
Trước biến cố ngã ngựa trên đường đi Đamát, Phaolô là nỗi kinh hoàng đối với Kitô hữu. Tuy nhiên một khi được ơn trở lại, Phaolô lại là dấu chỉ của Thiên Chúa quyền năng, Đấng luôn hoạt động và làm con người trở lại với Ngài. Cả cuộc đời còn lại, Phaolô hăng say loan báo Tin Mừng Phục Sinh: Thiên Chúa đã làm những điều cả thể cho con người nơi Đức Giêsu Kitô. “Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi cả, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi”. Với những người biết Phaolô, Phaolô là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa luôn hoạt động nơi con người.
Với cá nhân Phaolô, “cái dằm” đâm vào xác thịt của Phaolô lại là điều Thiên Chúa dùng để làm Phaolô ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa và làm Phaolô gần gũi với Thiên Chúa. “Đã ba lần tôi xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt tôi, nhưng Ngài nói: ơn Ta đủ cho con”. Thiên Chúa không cất “cái dằm” khỏi Phaolô, nhưng Thiên Chúa hứa ban ơn để Phaolô vượt lên được: “Ơn Ta đủ cho con”.
Nhiều người cũng có cái dằm nơi xác thịt mình. Có lẽ những người này cũng có kinh nghiệm xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt mình. Nhiều người trong họ có kinh nghiệm “cái dằm” đó vẫn tồn tại cho dù họ đã thành khẩn kêu xin Chúa nhiều lần. Tuy nhiên, không biết những người này có ý thức được rằng: câu Thiên Chúa nói với Phaolô cũng là câu Thiên Chúa muốn nói với mỗi người không? “Ơn Ta đủ cho con”. Hãy tin tưởng nơi Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã khởi đầu những điều kỳ diệu nơi mỗi người, thì cũng chính Thiên Chúa là Đấng sẽ hoàn thành những gì Ngài đã khởi đầu. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài vẫn đang hoạt động nơi mỗi người qua Thánh Thần của Ngài. Chỉ cần mỗi người tin tưởng và đặt tất cả hy vọng nơi Ngài mà thôi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Xin bạn kể một kinh nghiệm Thiên Chúa đã hoặc đang tác động trên bạn, nếu được.
2. Với kinh nghiệm của bạn, Thiên Chúa là ai?
12. Phong cách thản nhiên
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Động thái thản nhiên là một phong cách sống độc đáo – dễ mà khó. Người thản nhiên là người bình tĩnh, điềm đạm, điềm nhiên, có thể làm chủ mọi tình huống và chính mình. Họ là người “tự động” và “chủ động”, chứ không “bị động” hoặc “thụ động”. Phong cách “cứ là chính mình” không phải ai cũng làm được – tức là không xu nịnh, không tâng bốc bất cứ ai, nhưng không đè bẹp ai. Phong cách đó được người xưa gọi là “cái dũng của thánh nhân”.
Người có phong cách thản nhiên không vui quá, cũng không buồn quá. Tuy nhiên, họ thường “bị kết án oan sai” vì người ta không đủ hiểu họ nên cho rằng họ “lạnh như tiền”, khinh người, tự kiêu,…
Cuộc sống luôn mang tính thực tế, thế nhưng lại có những dạng “thực tế buồn”. Một người bình thường, không thấy có gì nổi trội, nhất là khi người đó xuất thân từ một gia đình không uy tín, không danh giá, cha mẹ nghèo, ít học,… thế mà bỗng nhiên làm được điều “khác người”. Tuy nhiên, dù họ có làm được việc gì “hơn người” thì cũng chẳng ai tin. Xã hội là thế. Xưa nay vẫn thế. Đó là một dạng “hàm oan”, một trong các dạng thực-tế-buồn thường thấy nhất. Nhưng kinh nghiệm cho thấy một triết-lý-sống thú vị: Chỉ có người giỏi mới nhìn thấy cái giỏi của người khác, và công nhận cái giỏi của họ. Người giỏi luôn thản nhiên.
Chính Chúa Giêsu muốn làm tốt mà vẫn bị người ta ghen ghét, Ngài cũng đành “bó tay” khi về quê hương, và Ngài đã phải lắc đầu mà thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6:4; Mt 13:57; Lc 4:24). Con người là thế, họ muốn thách thức với ngụ ý như câu tục ngữ: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình!” (Lc 4:23). Con gà tức nhau tiếng gáy. Những người ghét mình, chẳng ai đâu xa lạ, họ chính là những người thân quen nhất. Một sự thật quá phũ phàng và đáng buồn biết bao!
Đời là thế! Chúa Giêsu còn phải “lắc đầu” thì phàm nhân chẳng còn cách nào khác. Đúng là “miệng nam-mô, bụng một bồ dao găm”, chẳng sai chút nào. Mà kể cũng lạ, không làm được thì thôi, người khác làm được thì họ lại ghét, họ kèn cựa đủ cách, gièm pha đủ điều, trù dập tới cùng. Nhóm Pha-ri-sêu, nhóm Sa-đốc, các kinh sư, các nhà thông luật, các tư tế,… là loại “siêu nhân” như vậy, và đã bị Chúa Giêsu nhiều lần thẳng thắn nguyền rủa là “đồ khốn”, vì loại người “mỏ nhọn” (nhỏ mọn) như vậy là hèn hạ!
Thấy mình bị đối xử như vậy, những người “yếu bóng vía” sẽ sợ, có thể “vào hùa” với họ để được “bình an”. Muốn duy trì phong cách thản nhiên cần có sự can đảm, vì có can đảm mới khả dĩ hành động. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en bộc bạch: “Một thần khí đã nhập vào tôi đúng như lời Người phán với tôi và làm cho chân tôi đứng. Người phán với tôi: Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay” (Ed 2:2-3). Đến ăn nói với dân ngang ngược như vậy, chắc chắn ngôn sứ Ê-dê-ki-en phải can đảm lắm. Lòng can đảm đó chính là ơn Chúa.
Họ là “dân anh chị”, là “đại ca” thứ thiệt chứ không phải là dân vừa: “Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: ‘Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này’. Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng” (Ed 2:4-5). Thiên Chúa có phong cách độc đáo là “tùy hỷ”, nghe hay không nghe là tùy ý, không ép.
Những người sống thẳng thắn thì thường thua thiệt, bị ghen ghét. Là con người, họ cũng buồn lắm, nhưng họ không thể “gió chiều nào ngả theo chiều nấy”. Và họ chỉ còn biết tâm sự nỗi lòng với Đấng mà họ luôn tôn thờ và tín thác: “Con ngước mắt hướng nhìn lên Chúa, Đấng đang ngự trên trời. Quả thực như mắt của gia nhân hướng nhìn tay ông chủ, như mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ, mắt con cũng hướng nhìn lên Chúa là Thiên Chúa của con, tới khi Người xót thương chút phận” (Tv 123:1-2).
Cầu đêm, nguyện ngày, miệt mài kết hiệp với Thiên Chúa ở mọi nơi, mọi lúc, dù họ làm bất cứ việc gì. Nỗi buồn trĩu nặng tâm can, nhưng lời cầu xin của họ như không được đáp lại. Chắc chắn không phải Thiên Chúa lãng tai hoặc làm ngơ, mà Ngài muốn chính họ xác nhận niềm tin tuyệt đối vào Ngài. Dù nhiều khi thất vọng nhưng họ không tuyệt vọng, họ vẫn một lòng tín nguyện: “Dủ lòng thương, lạy Chúa, xin dủ lòng thương, bởi con bị khinh miệt ê chề; hồn thật quá ê chề vì hứng chịu lời nhạo báng của phường tự mãn, giọng khinh người của bọn kiêu căng” (Tv 123:3-4). Tất nhiên Thiên Chúa sẽ “ra tay” đúng thời, đúng lúc, không sớm mà cũng chẳng muộn. Ngài không thể lặng nhìn tôi tớ ngài sa cơ thất thế, gặp nguy hiểm, phải chịu oan uổng quá sức: “Ngài có đó khi ta tưởng cô đơn, Ngài nghe ta khi chẳng ai đáp lại, Ngài thương ta khi tất cả hững hờ” (Thánh Augustinô).
Hiểu biết nhiều giúp tăng thêm tự tin. Tự tin là đức tính cần thiết để sống thản nhiên, nhưng tự tin thái quá có thể dẫn tới kiêu ngạo. Rất lô-gích! Thánh Phaolô tâm sự: “Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại” (2 Cr 12:7-8a). Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này” (2 Cr 12:7-8). Ai cũng sợ đau khổ, cả thể lý lẫn tinh thần. Thánh Phaolô cũng “nổi da gà” khi đối mặt với đau khổ, ông năn nỉ Chúa cứu thoát, thế nhưng Chúa vẫn tỏ ra như “vô tâm”, và rồi Ngài quả quyết: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cr 12:7-8b). Nhiệm mầu quá, lạy Chúa tôi!
Được lời như cởi tấm lòng. Thế thì chẳng còn gì phải lo nữa. Thánh Phaolô phấn khởi chia sẻ: “Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12:9-10). Thế cờ hoàn toàn đảo ngược. Nhược điểm (điểm yếu) trở thành yếu điểm (điểm mạnh), sở đoản trở nên sở trường. Kỳ diệu vô cùng, phàm nhân không thể tưởng tượng nổi!
Thiên Chúa luôn như vậy. Ngài chịu đau khổ để chúng ta được hạnh phúc, Ngài chịu nghèo khó để chúng ta được giàu có, Ngài chịu nhục nhã để chúng ta được rạng rỡ, Ngài chịu yếu đuối để chúng ta được mạnh mẽ, Ngài chịu chê bai để chúng ta được khen ngợi, Ngài chịu bị loại bỏ để chúng ta được đón nhận,… và cuối cùng, Ngài chịu chết một lần để chúng ta được sống mãi.
Cái gì đến sẽ đến. Đời là thế! Một lần nọ, Chúa Giêsu trở về thăm cha mẹ và xóm làng, cũng có các môn đệ đi theo. Đến ngày sa-bát, Ngài bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ bàn tán với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 6:2).Lý do rất đơn giả và hiển nhiên: Đức Giêsu làm nghề mộc, là con của bác thợ mộc Giuse, con của Cô Maria, anh em họ với Giacôbê, Giôết, Giuđa và Simôn, chị em của Ngài là bà con lối xóm với họ (Mc 6:3). Hoàn toàn bình thường, chẳng có gì nổi trội. Họ đã vấp ngã vì Ngài với lý do quá đỗi bình thường. Có lẽ người ta không đủ hiểu để phân biệt sự khác nhau giữa điều bình thường và điều tầm thường. Điều bình thường nhưng chưa chắc là điều tầm thường, thậm chí có khi lại là điều phi thường.
Đời là thế! Và Đức Giêsu đưa ra một kết luận tất yếu: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6:4). Đáng sợ thật, nhưng một khi xác nhận và biết rõ như vậy rồi thì lại không đáng sợ nữa!
Thánh sử Mác-cô cho biết rằng, hôm đó Chúa Giêsu đã không thể làm được phép lạ nào tại đó, mà chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ (Mc 6:5), thậm chí chính Ngài cũng lấy làm lạ vì họ không tin (Mc 6:6). Lạ thật!
Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn thản nhiên, không xốn xang, không nao núng. Khi người ta không thích mình thì “tránh voi chẳng xấu mặt nào”, cứ thản nhiên và im lặng. Ai muốn nói gì thì nói, mình cứ là chính mình!
Lạy Chúa, xin trao ban cho con tặng phẩm là ơn khôn ngoan và hiểu biết, con không dám xin gì khác, nhờ đó con có thể hiểu biết thông thạo những gì cần thiết với một trái tim đầy ắp tình yêu thương và lòng thương xót như Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ con. Amen.
13. Chuyện đời thường
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Chúng ta vẫn thường nói: “Giòi từ trong xương giòi ra”. Nghĩa là người ngoài có biết “chuyện kín” của gia đình thì cũng do chính các thành viên trong gia đình đó “xì” ra. Chứ đèn trong nhà chưa tỏ làm sao ngoài ngõ đã hay?
Chuyện đời thường có những chuyện rất bình thường nhưng cũng lại… rất khác thường!
Một thần khí đã nhập vào Tiên tri Êdêkien đúng như lời Chúa phán với ông và làm cho chân ông đứng vững, vì trước đó Thiên Chúa đã báo: “Hỡi con người, hãy đứng cho vững, Ta sắp nói với ngươi đây” (Ed 2:1). Ngài gọi ông là “con người”. Và Ngài chỉ nói thôi mà con người phải chuẩn bị tinh thần trước kẻo run sợ. Thiên Chúa phán với ông: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay” (Ed 2:3). “Dân phản nghịch” đó cũng là chính chúng ta. Thiên Chúa gọi chúng ta là “những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá”, và chính Thiên Chúa sai Tiên tri Êdêkien đến thông báo cho dân chúng biết những lời “Đức Chúa là Chúa Thượng phán dạy”. Thiên Chúa nói: “Chúng vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng” (Ed 2:5). Ngài hoàn toàn cho chúng ta tự do, nghe hay là tùy ý, nhưng vẫn phải nhận biết những “dấu chỉ” mà Ngài cho phép xuất hiện, đôi khi các “dấu chỉ” đó rất bình thường nên chúng ta dễ coi thường và bỏ qua.
Chúng ta chỉ là những phàm phu tục tử, đôi khi có mắt mà như không tròng, mặc dù hằng ngày chúng ta vẫn “ngước mắt hướng nhìn lên Chúa, Đấng đang ngự trên trời” (Tv 123:1), và “như mắt của gia nhân hướng nhìn tay ông chủ, như mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ, mắt chúng ta cũng hướng nhìn lên Chúa là Thiên Chúa chúng ta, tới khi Ngài xót thương chút phận” (Tv 123:2). Rất tha thiết khi cầu xin cho chính mình. Có khi chúng ta ích kỷ ngay trong lúc cầu nguyện!
Quả thật, không có Chúa thì chúng ta chẳng làm được trò trống gì (x. Ga 15:5). Mà ai trong chúng ta có làm được gì “khác” hoặc (có vẻ) “hơn” người một chút thì cũng chẳng được người khác công nhận, thậm chí còn bị ghen ghét và bị miệt thị. Tệ hại thay là người đó bị chính thân nhân và bạn bè xa lánh. Cuộc sống đời thường cho chúng ta thấy có những người khi “ra ngoài” thì được nhiều người khâm phục và ca tụng, nhưng khi về quê nhà thì bị dân làng và người thân nhìn bằng nửa con mắt. Thế cũng may lắm rồi, chứ người đó còn bị chê trách và xa lánh! Là con người, tất nhiên họ cũng không thoát khỏi những lúc cô đơn và buồn não lòng, thậm chí họ không dám làm gì thêm. Thế nên họ đêm ngày than thở với Chúa: “Dủ lòng thương, lạy Chúa, xin dủ lòng thương, bởi chúng con bị khinh miệt ê chề; hồn thật quá ê chề vì hứng chịu lời nhạo báng của phường tự mãn, giọng khinh người của bọn kiêu căng” (Tv 123:3-4).
Tuy nhiên, con người cũng rất dễ kiêu căng và tự mãn, vì kiêu ngạo là “mối tội” hàng đầu trong bảy mối tội. Người ta dễ ảo tưởng và kiêu ngạo hơn nếu có được chút tài năng bẩm sinh (thiên phú) nào đó, đặc biệt là được ơn Chúa, vì họ cứ tưởng mình hơn người, là “cái rốn” của vũ trụ, là niềm mơ ước của người khác. Vì thế, rất cần liệu pháp để chữa kiêu ngạo là khiêm nhường: “Khiêm nhường chớ kiêu ngạo” (Kinh “Cải Tội Bảy Mối”).
Thánh Phaolô tâm sự: “Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại” (2 Cr 12:7). Chính thánh nhân tự thú: “Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này” (2 Cr 12:8). Nhưng Chúa vẫn “làm ngơ”, và còn quả quyết với thánh nhân: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cr 12:9a). Mạnh mà yếu; yếu mà mạnh. Thiên Chúa luôn có những kiểu “ngược đời” kỳ lạ. Cảm nhận được điều đó, Thánh Phaolô nói: “Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi” (2 Cr 12:9b). Thánh nhân hãnh diện nói thêm: “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12:7-10).
Một lần nọ, Đức Giêsu về quê quán của Ngài, có các môn đệ đi theo. Đến ngày sa-bát, Ngài bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên về những lời nói khôn ngoan của Ngài, cho nên họ bàn tán: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 6:2). Họ hỏi nhau vậy vì họ không muốn tin vào những gì họ chứng kiến tỏ tường, vả lại họ biết tỏng Chàng Giêsu kia là ai. Còn ai trồng khoai đất này! Đúng vậy, Chàng Giêsu chỉ là con trai Bác thợ mộc Giuse và Cô Maria, gia đình nghèo rớt mồng tơi ai mà không biết, còn là anh em họ của mấy anh chàng Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn, và là anh chị em với bà con lối xóm chứ ai xa lạ.
Làm sao mà tin được, làm sao mà coi trọng được, làm sao mà tâm phục khẩu phục khi Chàng Giêsu đã từng sống ở cái làng Nadarét nhỏ bé, từng làm mộc với Bác Giuse, từng chơi đùa với họ chứ? Vì thế, họ dè bỉu Ngài, khinh miệt Ngài, và cuối cùng, “họ vấp ngã vì Ngài” (Mc 6:3).
Đức Giêsu biết họ nghĩ gì nên nói với họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6:4). Ngài nói nhẹ nhàng mà thâm thúy quá, xoáy vào tận đáy lòng người. Chuyện đời thường như thế vẫn hằng ngày xảy ra khắp nơi, từ thôn quê tới thành thị, từ người nhỏ tới người lớn, từ thường nhân tới người có chức tước, từ người học ít tới người học nhiều, từ người đời tới người có niềm tin tôn giáo,… Chúng ta vẫn nhìn nhau bằng những “ánh mắt mang hình viên đạn”, dành cho nhau những lời nói “sắc như dao cau”, với những động thái “giết người không cần dao”,… Một phần cũng vì “con gà tức nhau tiếng gáy”.
Thánh Mác-cô kể: “Ngài đã không thể làm được phép lạ nào tại đó, chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ” (Mc 6:5). Chúa Giêsu còn “bó tay” trước động thái của những người đồng hương huống chi chúng ta, những người không đáng xách dép cho Ngài!
Từ cổ chí kim, thời nào cũng vậy, nhưng có lẽ ngày nay người ta coi trọng bề ngoài và “nặng” về vật chất hơn. Người nghèo nói chẳng ai nghe, có nói đúng cũng hóa sai; người giàu nói gì cũng được lắng nghe, có nói sai cũng hóa đúng. Tục ngữ Việt Nam nói: “Cả vú lấp miệng em”. Người giàu có thể biến đen thành trắng, có tội thành vô tội, thậm chí biến dạng cả công lý! Có thể nghèo không là tội nhưng là “vạ”. Tục ngữ Việt Nam so sánh: “Văn hay chữ tốt không bằng ngu dốt lắm tiền”. Một sự thật quá phũ phàng!
Chúa Giêsu nói đúng và làm hay, nhưng chỉ vì “tội nghèo” nên không ai thèm nghe, thậm chí còn bị người ta lấy đá ném, bị kết án tử và chết nhục nhã trên thập giá. Chính Ngài cũng lấy làm lạ khi thấy “họ không tin” (Mc 6:6). Chúng ta là môn sinh, là tôi tớ, là bụi tro, tất nhiên cũng không thoát khỏi sự khinh ghét của người khác!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết chân nhận tài năng và công sức của người khác, đừng bao giờ ghen tỵ với người khác. Xin Chúa giúp chúng con luôn biết sống khiêm nhường và yêu thương, tất cả để tôn vinh Ngài mà thôi, đồng thời giúp chúng con đừng bao giờ tỏ ra chút gì kiêu căng tự mãn, dù chỉ là động thái nhỏ nhất. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
14. Bụt nhà không thiêng
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong truyện cổ Trung hoa có kể rằng: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo, nhưng hết sức cấy cầy để phụng dưỡng cha mẹ. Một hôm ông nghe bên đất Thục có ông Võ Tề đại sư rất nổi tiếng, ông liền xin song thân đến tầm sư học đạo. Đi được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng bảo ông rằng:
– Được gặp Võ Tề đại sư, chẳng bằng gặp Phật.
Dương phủ hỏi: Phật ở đâu?
Lão tăng bảo rằng: ngươi cứ quay trở về, gặp người nào quấn vải trên người, đi dép ngược, là chính Đức Phật đó.
Dương phủ nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai cả. Về tới nhà, đêm khuya, trời tối, ông gọi cửa. Mẹ ông nghe tiếng con mừng quá, chạy vội ra, quấn vội chiếc mền vào người, đi đôi dép ngược ra mở cửa cho ông. Bấy giờ ông nhìn kỹ, giống như hình dáng Đức Phật mà lão tăng đã mô tả.
Từ đó, ông mới hiểu ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa, mà là chính cha mẹ ở trong nhà. Đúng như cha ông ta vẫn nói:
“Tu đâu cho bằng tu nhà –
Thờ cha kính mẹ mới là đạo con”.
Thế nhưng, thói đời thì vẫn thường: “Bụt nhà không thiêng” hay “Gần Chùa, gọi Bụt bằng anh”.
Người ta xem thường những con người đang chung sống với mình. Ít ai nhận ra điều hay, cái đẹp mà những người thân nhất đang cống hiến cho chúng ta. Có khi còn dửng dưng, xem thường và cư xử thiếu kính trọng với những con người đang sống vì chúng ta.
Có nhiều người ở ngoài đời thì nhẹ nhàng, tao nhã, lịch sự, về nhà lại gắt gỏng, chửi chồng đánh con hay đánh vợ chửi con. Có nhiều người thì dễ dàng mở miệng khen ngợi hàng xóm láng giếng, kể cả người dưng nước lã, thế mà, người trong gia đình, lại suốt ngày cau có, phàn nàn. Có nhiều người luôn nghĩ cách làm vui lòng hàng xóm nhưng lại tàn bạo thô thiển với gia đình dòng tộc. Có nhiều người luôn tỏ ra đáng yêu trước người dưng nước lã, nhưng lại đáng ghét với người thân họ hàng.Họ chính là những người dại khờ mà cha ông ta bảo rằng: “khôn nhà dại chợ”, hay “làm phúc nơi nao để cầu cao rách nát”.
Đó cũng là thái độ của những người đồng hương với Chúa Giêsu. Họ đã vấp phạm với Chúa. Vì họ quá biết về gốc gác, gia cảnh của Chúa. Con bác thợ mộc và bà Maria đang chung sống giữa họ. Đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Chúa Giêsu. Dù rằng họ thán phục về tài ăn nói lưu loát của Chúa. Dù rằng họ thán phục vì sự hiểu biết Kinh Thánh của Chúa. Dù rằng họ đã chứng kiến biết bao phép lạ mà Chúa đã làm để cứu chữa các bệnh nhân khỏi đau khổ bệnh tật và khỏi cái chết đã định. Nhưng vì sự kiêu ngạo, cố chấp, dân Do Thái đã không chấp nhận một vì Thiên Chúa quá giản dị như Giêsu con của bác thợ mộc thành Nagiarét. Đối với một dân tộc đã từng tự hào có Thiên Chúa ở cùng. Có cánh tay quyền năng của Chúa đã giúp họ đánh bại quân thù. Tâm trí họ chỉ trông đợi một Đấng Messia oai hùng, Đấng sẽ đến trị vì muôn nước và sẽ giúp họ làm bá chủ hoàn cầu. Chính vì lẽ đó, người đồng hương đã không nhận ra Chúa là Đấng Messia và còn có những lời nói, cử chỉ bất kính. Với thái độ cực đoan đó, Chúa Giêsu đã vạch trần tâm ý của họ với một lời thật xót xa “Không một tiên tri nào được kính trọng tại quê hương mình”.
Đó là cách cư xử bất công của con người ngày hôm qua cũng như hôm nay. Họ đánh giá nhau theo định kiến có sẵn trong đầu. Đôi khi còn bị ác cảm, yên trí về địa vị, gia tộc và quá khứ của một người, khiến chúng ta đánh giá sai lệch và nông cạn về nhau. Thực tế là vậy, khi chúng ta đã không có cái nhìn khách quan sẽ dẫn đến những nhận định bất công và thiếu trung thực. Vì “Yêu ai thì nói quá ưa – Ghét ai nói thiếu nói thừa như không”. Người tốt hay xấu tùy thuộc vào cái nhìn của chúng ta. Có người ở đây được coi là xấu, ở nơi khác lại được đánh giá là tốt. Có người ở nhà được coi là vô tích sự nhưng ở ngoài lại hoạt bát nhanh nhẹn. Có người ở đây được tán thưởng, ngợi khen, về nhà bị khinh bỉ, xem thường.
Phải chăng Lời Chúa hôm nay là lời nhắc nhở về thái độ vô ơn và bất cập của chúng ta? Tại sao chúng ta không khuyến khích nhau vươn lên thay vì kèn cựa và nói hành nói xấu lẫn nhau? Tại sao chúng ta không có cái nhìn tốt về nhau để sống vui tươi lạc quan, thay cho cái nhìn thiển cận và thiếu yêu thương chỉ dẫn đến làm đau lòng nhau? Xin Chúa giúp chúng ta đủ khôn ngoan nhận ra giá trị lớn lao của nhau, để có thái độ tôn trọng và tri ân. Xin Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn rộng mở và giầu lòng quảng đại để chúng ta đón nhận nhau trong yêu thương, và nhất là biết đối xử tốt với nhau khi còn đang sống bên nhau, đừng để thời gian trôi qua trong sự tiếc nuối xót xa…, vì mình đã không một lần đối xử tốt với những người thân yêu mà nay đã không còn. Amen.
15. Đừng xem thường nhau
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Con người sống bên nhau thường hay bị “quen quá hóa nhàm” hay còn gọi là “gần Chùa gọi Bụt bằng anh”. Xem thường người bên cạnh và ca tụng người xa lạ. Chê sản phẩm của đồng hương lại đề cao sản phẩm nước ngoài. Đôi khi sự chênh lệch chẳng là bao. Có khi ngược lại hàng Việt Nam lại chất lượng cao hơn hàng ngoại. Người Việt Nam hơn hẳn người nước ngoài.
Có một lần tôi qua Mỹ và vào một siêu thị mua sắm, sau khi tìm kiếm mãi tôi cũng chọn cho mình một cái áo thun phù hợp giữa hàng trăm ngàn cái áo. Người bạn đi cùng bảo tôi: coi chừng lại là Made in Việt Nam! Và quả thật khi nhìn kỹ đúng là hàng Việt Nam xuất khẩu qua Mỹ.
Đúng là “Bụt nhà không thiêng” hay nói như lời Chúa Giê-su: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.”
Thực vậy, Chúa Giê-su trong thân phận con người cũng chịu sự đời nghiệt ngã ấy. Người ta đánh giá nhau không phải do tài năng mà do thành kiến có sẵn để rồi dè bỉu chê bai. Và người ta cũng đánh giá Chúa với cái nhìn định kiến có sẵn về gia thế của Người. Mặc dù danh tiếng Chúa Giê-su đã vang dội nhiều nơi nhờ những lời rao giảng khôn ngoan, nhờ việc chữa lành nhiều bệnh nhân, thế nhưng khi trở về quê quán, những người đồng hương chỉ nhìn vào gia thế thanh bần của Chúa Giê-su, chỉ nhìn đến anh chị em họ hàng của Người thuộc hàng dân dã, và ngay cả bản thân Người trước đây cũng chỉ là một anh thợ mộc bình dị trong làng, nên họ đã không nhận ra thiên tính nơi Người mà chỉ xì xào bàn tán với nhau: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? Và họ vấp ngã vì Người” (Mc 6,3)
Tiếc thay, việc đánh giá Chúa Giê-su dựa vào gia thế, nghề nghiệp mà không dựa vào phẩm chất của Người nên dân làng Na-da-rét đã đánh mất dịp may đón nhận những hồng phúc mà Chúa Giê-su ưu ái dành cho họ.
Và hôm nay chúng ta cũng đánh mất nhiều sự trợ giúp từ những người thân cận chỉ vì chúng ta đã quá xem thường nhau.
Có một lần tôi gặp một bạn trẻ cùng quê với tôi ở Gia Kiệm, anh là một người rất thành đạt. Tôi hỏi: sao không về quê mở mang cho xứ quê nhà? Anh bạn trẻ ấy nói: có ai tin mình đâu mà có thể làm được gì cho xứ nhà!
Một lần tôi đến thăm và ăn cơm với một gia đình người quen. Cơm nấu rất ngon nên tôi khen thế nhưng cô vợ bảo: thế mà chồng con ngày nào cũng chê ăn chẳng ra gì!
Và còn đó những bạn trẻ tài năng vẫn bị cha mẹ xem thường, và vẫn còn đó những người đồng hương bị anh em tẩy chay xem thường, và vẫn còn đó những cặp vợ chồng luôn xem thường nhau bằng những lời khinh khi xúc phạm đến nhau…
Cuộc đòi sẽ đẹp biết bao nếu mỗi người biết nhìn nhận giá trị của nhau, biết nhận ra cái tốt của nhau để khích lệ thay vì chỉ tìm cái xấu để bôi nhọ xem thường. Xin Chúa giúp chúng ta đủ khôn ngoan nhận ra giá trị lớn lao của nhau, để có thái độ tôn trọng và tri ân. Xin Chúa giúp sức để chúng ta đừng bao giờ thất vọng về bản thân mà biết nhận giá ưu điểm của mình để cống hiến cho tha nhân trong khả năng của mình.
16. Có tin mới thấy
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ của Thiên Phúc)
Tại một vùng của nước Pháp, dân chúng có tập tục rất lạ. Đó là vào sáng sớm Chúa Nhật Phục sinh khi hồi chuông đầu tiên của nhà thờ vang lên, tất cả mọi người đều trổi dậy chạy ra giếng làng để rửa mắt với giòng nước mát lạnh.
Nhiều bạn trẻ không hiểu vì sao lại chạy ra giếng rửa mắt, trong khi ngày nay gia đình nào cũng có các vòi nước trong nhà.
Lúc ấy các vị bô lão mới giải thích: Đó là hình thức cầu nguyện bằng hành động, qua đó dân làng cầu xin Thiên Chúa ban cho họ đôi mắt đức tin mới, để họ thấy Đức Giêsu Phục sinh đang hiện diện sống động giữa họ.
***
Với con mắt định kiến, thiển cận và hẹp hòi, những người đồng hương với Đức Giêsu đã không nhận ra khuôn mặt thật của Người. Họ không tin Người là một tiên tri, lại càng không thể tin Người là Đấng Cứu Thế, và chắc chắn họ chẳng ngờ mình là người đồng hương với Con Thiên Chúa.
Chính lòng ghen tỵ là một trong những nguyên nhân khiến “các tiên tri không được kính trọng ở quê hương mình” (Lc.4,24). Mc. Kenzie nói: “Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tỵ nhìn bằng kính hiển vi”.
– Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy quá khứ rất đỗi bình thường của Người.
– Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy hiện tại của Người không một chút hào quang.
– Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy nơi Người một bác thợ mộc rất mực âm thầm, khiêm tốn.
Chính vì không tin nên họ đã không thấy. Thấy đây là thấy toàn vẹn khuôn mặt của Thiên Chúa. Thấy đây là thấy Người bằng cái nhìn luôn đổi mới. Thấy đây là thấy với con mắt đức tin. Tác giả thư Do thái viết: “Đức tin là bảo đảm cho những gì ta hy vọng, là bằng chứng cho những gì ta không thấy” (Dt.11,1). James Woodbridge viết: “Đức tin là con mắt để nhìn thấy Chúa, là bàn tay để nắm lấy Người, là sức mạnh giúp ta tự hiến cho Người”.
Cho dù Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Người có thể làm được mọi sự. Nhưng Người phải bó tay trước sự cứng lòng của con người. Người đã trở nên bất lực trước những kẻ thiếu niềm tin. Và quả thật, “Người đã không thể làm được phép lạ nào” tại quê hương mình. Thế mới biết con người có khả năng cản trở Thiên Chúa, con người có toàn quyền từ chối quà tặng của Người.
Nếu Phép lạ là quà tặng của Thiên Chúa, cần được đón nhận với Niềm tin; thì chính Niềm tin là ân huệ của Thiên Chúa chỉ có thể nhận được với lời cầu nguyện. Cần phải cầu nguyện để có Niềm tin. Nhà bác học kiêm triết gia Pascal đã nói: “Để có niềm tin con người phải quì gối cầu xin”.
***
Lạy Chúa, còn bao nhiêu việc lạ lùng Chúa muốn làm cho đời chúng con, xin Chúa ban thêm Niềm tin cho chúng con, để nhờ đó Chúa được tự do thực hiện những kỳ công của Người. Xin giúp chúng con cũng biết gieo rắc Niềm tin Chúa trong lòng mọi người. Amen.
17. Xóa bỏ định kiến
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Truyện cổ Trung hoa có kể rằng: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo nên ra lao động để phụng dưỡng cha mẹ. Một hôm ông nghe bên đất Thục có ông Võ Tề đại sư rất nổi tiếng, ông xin song thân đến tầm sư học đạo. Đi được nửa đường, ông gặp một lão tăng bảo ông rằng: – Được gặp Võ Tề đại sư chẳng bằng gặp Phật. Dương phủ hỏi: Phật ở đâu? Lão tăng nói: ngươi cứ quay trở về, gặp người nào quấn vải trên người, đi dép ngược là chính Đức Phật đó. Dương phủ nghe lời quay về, chẳng gặp ai cả. Về tới nhà, ông gọi cửa. Mẹ ông chạy vội ra, quấn vội chiếc mền vào người, đi đôi dép ngược ra mở cửa. Ông nhìn kỹ, giống như hình dáng Đức Phật mà lão tăng đã mô tả. Từ đó, ông mới hiểu ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa mà là chính cha mẹ ở trong nhà. Đúng như cha ông ta vẫn nói: “Tu đâu cho bằng tu nhà – Thờ cha kính mẹ mới là đạo con”. Thế nhưng, thói đời thường cho rằng “Bụt nhà không thiêng”. Có nghĩa là người ta xem thường những con người đang chung sống với mình và ít ai nhận ra rằng điều hay, cái đẹp mà những người thân cận đang cống hiến cho mình. Có khi còn dửng dưng, xem thường những tài năng của họ và cư xử thiếu kính trọng với họ.
Quen quá hóa nhàm đó là thái độ thường thấy nơi con người. Nói đâu xa, trong bài đọc 1 Ngôn sứ Ê-dê-ki-en kể rằng Ngài được Thiên Chúa sai đến nói cho dân Ít-ra-en biết họ đã phạm tội phản nghịch và không nghe Lời Chúa, hãy sám hối và quay về với Chúa nhưng vì định kiến quen quá hóa thường này mà dân Ít-ra-en không nghe lời Ngôn sứ. Rồi đến bài Tin Mừng, vì định kiến quen quá đã làm ngăn cản người trong làng Na-da-rét nhận ra căn tính đích thực của Chúa Giêsu. Rõ ràng, Tin Mừng mô tả Chúa Giêsu vào hội đường vào ngày sabát để giảng dạy. Phản ứng của dân làng hết sức ngạc nhiên và thán phục trước lời lẽ khôn ngoan của Ngài. Lẽ ra thái độ ngạc nhiên, thán phục đó đưa dẫn họ đến đức tin, thì ngược lại, họ trở nên thù nghịch với Người. Óc định kiến của họ đã đóng khung một Giêsu Na-da-rét theo nhãn giới của họ. Trong đầu óc của họ luôn ám ảnh bởi lí lịch của Người: Con một bác thợ âm thầm, khiêm tốn, sống 30 năm ở làng Na-da-rét không một chút hào quang. Rồi con bà Maria và các anh em, chị em của ông, tất cả vẫn đang sống rất đổi bình thường, như bao người láng giềng khác. Vì vậy, họ cho rằng gia thế của Chúa Giêsu không sáng giá gì chỉ là một con người bình thường. Cho nên, Chúa Giêsu làm sao có thể làm phép lạ, làm sao có thể giảng dạy khôn ngoan và uy quyền được? Chính định kiến đưa họ đến thái độ không tin, không thấy Ngài là một Ngôn Sứ, là Đấng Mêsia, là Ngôi Hai, Con Thiên Chúa.
Chúng ta không trách dân Ít-re-en và dân làng Na-da-rét, bởi không chắc chúng ta có thái độ khá hơn họ. Vì chưng, chúng ta vẫn còn đóng khung Đức Giêsu, Lời của Ngài nên coi thường quyền năng của Lời Chúa. Cho nên, chẳng lạ gì khi chúng ta nghe Lời Chúa nhiều, kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể hoài mà chẳng có cải thiện đời sống tí nào vì “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Chúa” (Mc 7,6). Thái độ định kiến đóng khung này, Chúa Giêsu đã lên án, bởi nó gây ra bao tai hại trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Định kiến bóp ngặt con tim đón nhận Thiên Chúa và hướng tới tha nhân qua việc thi hành Lời Chúa. Cho nên, Chúa Giêsu khẳng định: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa, Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
Vậy, chỉ khi nào xóa bỏ được định kiến quen quá hóa nhàm này, thì chúng ta mới khám phá ra sự hiệu nghiệm của Lời Chúa và sự quý giá của những người thân cận chúng ta. Nhưng để xóa được thành kiến là điều không dễ. Nói như nhà vật lý học Albert Einstein: “Đập vỡ một thành kiến còn khó hơn đập vỡ một hạt nhân nguyên tử”. Nhưng Lời Chúa trong bài đọc 2 khẳng định rằng: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối của con”.
Vì vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy xóa bỏ óc định kiến của ta, nhất là thái độ vô ơn và bất cập của chúng ta đối với Chúa và người thân cận. Chúng ta hãy khuyến khích nhau vươn lên thay vì kèn cựa và nói hành nói xấu lẫn nhau. Hãy có cái nhìn tốt về nhau để sống vui tươi lạc quan, thay cho cái nhìn thiển cận và thiếu yêu thương chỉ dẫn đến đau buồn và thất vọng?
Xin Chúa giúp chúng con đủ khôn ngoan nhận ra giá trị lớn lao của nhau để tôn trọng và tri ân nhau. Xin Chúa ban cho chúng con có một tâm hồn rộng mở và giầu lòng quảng đại để chúng con đón nhận nhau trong yêu thương, và nhất là biết đối xử tốt với nhau trong đời thường. Lạy Chúa Giêsu, xưa kia chính định kiến mà dân làng Na-da-rét không nhận ra Chúa, ngày nay cũng vì định kiến mà chúng con thường không thấy được Chúa tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống, xin cho chúng con xóa bỏ mọi định kiến quen quá hóa nhàm nơi Chúa Giêsu Thánh Thể và quyền năng của Lời Chúa, để nhờ đó chúng con mỗi ngày nên hoàn thiện như Chúa qua việc sống triệt để Lời Ngài trong cuộc sống đồng thời siêng năng tham dự Thánh lễ và rước Mình Thánh Ngài nhờ đó chúng con giống Chúa trong cách đối nhân xử thế với mọi người trong Giáo xứ chúng con. Amen.
18. Những con mắt thịt
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Cuốn sách của Thiên Chúa đang mở ra. Cuốn sách ghi Lời Chân Lý. Cuốn sách mà Tiên tri Ezêkiel đã thị kiến với Lời rằng: “Chính ta đã sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân đang phản nghịch chống lại Ta, chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày, mặt dạn, lòng chai dạ đá, chính ta sai ngươi đến với chúng” (Ed 2,3-4).
Cuốn sách ấy tiên báo về chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, và trang Tin Mừng hôm nay, qua tường thuật của Thánh Marcô, quả thực đã ứng nghiệm, không sai. Con người đồng thời, đồng hương của Chúa Giêsu không thể nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa, và tỏ ra “mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá” trước những lời rao giảng của Ngài. Họ không biết được, và cũng không chịu mở lòng ra để biết được Ngài là Đấng Thiên sai. Họ chỉ muốn nhìn thấy cái trước mắt là thân thế sự nghiệp quá sơ sài của Ngài để rồi trách cứ một cách ngạo mạn: “Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria và là anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm của chúng ta sao?” (Mc 6,3).
Những con mắt thịt hai ngàn năm trước
Thì ra, từ ngàn năm trước, người ta đã có thói quen thẩm định tư cách một con người bằng cách nhìn vào thế, thân, ngân, lý! “Nhất thế, nhì thân, tam ngân, tứ lý”. Họ chỉ nhìn con người bằng con mắt con người, và con người ấy chỉ được trọng vọng khi đáp ứng được cái yêu cầu rất con người vật chất hữu hạn của họ.
Chúa Giêsu đã về thăm quê hương và giảng trong hội đường. Theo cách trình bày của Thánh Marco, thì không phải những người quê hương của Chúa không nhận thấy sự khôn ngoan nổi trội của một con người mang tên Giêsu! “Ông ta được khôn ngoan như thế nghĩa là làm sao?” (Mc 6,2). Họ có thấy, và thấy quá rõ ràng đấy chứ, nhưng họ không muốn chấp nhận nghe và tin vào lời giảng của Ngài, một là vì lòng ganh tỵ và hai là vì chẳng mang lại lợi lộc gì trước mắt có thể nhai nuốt được.
Vì ganh tỵ, lời giảng dạy của một con bác thợ mộc, hay chính người cũng là thợ mộc với nghề cha truyền con nối suốt ba mươi năm trời kia, thì có gì phải đáng nể phục. Con thợ mộc lại giảng trong hội đường lại là chuyện dở hơi hơn nữa!
Vì lợi lộc trần gian, cho nên, dẫu cho ông Giêsu nghèo khó kia có nói lời vàng lời ngọc thì giá trị cũng không bằng lời của người có vàng có ngọc khoe trước mắt họ, ban tặng cho họ.
Thánh Kinh gọi họ là “mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá” quả là chính xác, vì họ đã không mở lòng ra để thay đổi một não trạng xưa cũ của con người: Não trạng duy vật, lấy vật chất làm cái gốc con người, dựa vào vật chất mà thẩm định giá trị con người. Cùng một xuất xứ địa lý, cùng một cảnh ngộ cơ cực, không thể có ai xuất chúng hơn mình! Và nếu có, cũng không cần phải công nhận làm gì cho mệt xác nếu không có lợi lộc gì cho mình.
Họ không muốn mở con mắt linh hồn ra mà nhìn thấy cái “thế” của Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, chính là Con của Thiên Chúa và cái “thân” của Ngài là “chính Ngài là Thiên Chúa”. Họ càng không thể thấy cái “ngân” của Ngài là kho tàng sự sống vĩnh cửu không mối mọt, không nhàu nát, không hoen gỉ, và đời đời không hề mất nhưng luôn tồn tại. Họ không muốn nghe cái “lý” của Ngài là chân lý thường hằng bất biến đem lại sự sống và hạnh phúc đời đời! Họ “mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá” vì họ muốn nhìn thấy tận mắt cái hạnh phúc duy vật chất có thể ăn tươi nuốt sống được. Họ đang “đốt căn nhà muôn năm để luộc cho mình một quả trứng ăn liền”. Lòng họ không mở ra. Lòng họ đầy ích kỷ! Đúng như lời Thánh Nicôlas nhận định “Người ích kỷ có thể đốt nhà bạn để luộc cho mình một quả trứng”.
Những con mắt thịt hai ngàn năm sau
Đã hơn hai ngàn năm Thiên Chúa Giáng Sinh làm người, con người vẫn luôn tự hào vì những thành quả văn minh tiến bộ tột bực, nhưng vẫn còn một điều chưa hề tiến bộ, chưa hề thay đổi: lòng ích kỷ vẫn còn tồn tại nơi một số con người, nếu không dám nói là toàn thể.
Lòng ích kỷ phát sinh từ lòng kiêu ngạo! Kiêu ngạo và ích kỷ đẻ ra trăm ngàn thứ tệ hại khác: ganh tị, đàn áp, chà đạp, bất chấp luân thường đạo lý, tẩy chay lẽ phải, thanh trừng chân lý… tất cả để phục vụ cho cái lợi lộc riêng mình, cho cái “trứng luộc ăn liền” của mình.
Có muôn vàn thành tựu lớn lao của khoa học, chính trị, xã hội, nhưng để phục vụ cho một cõi lòng hẹp hòi nhỏ bé tí teo thế sao! Có những văn minh rất đáng phục, nhưng lại là văn minh đưa dẫn con người vào chỗ tự hủy diệt thế sao? Số phận của Tin Mừng, qua các thời đại luôn phải đối mặt với sự tẩy chay của lòng người ích kỷ. Số phận của các ngôn sứ vẫn luôn bị sự thanh trừng tàn sát vì lòng người không muốn ai can thiệp vào cái hủ riêng mình! Cái hủ “trứng luộc ăn liền” chứa đầy những thèm khát hưởng thụ và tìm mọi phương thế để hưởng thụ!
Nghịch lý trầm kha này đã cho thấy rõ chân tướng âm mưu của Satan quỉ dữ, luôn đối lập với Thiên Chúa, đối lập với Tin Mừng. Do đó, hai ngàn năm sau ngày Tin Mừng Giáng Thế, những con mắt thịt trần gian vẫn luôn trong tư thế tẩy chay Tin Mừng chỉ vì một lẽ: Tin Mừng đòi đổi mới. Mà đổi mới là bất lợi. Đổi mới là phải đổi lòng ích kỷ thành quảng đại, đổi lòng chai dạ đá hóa ra mềm mại, đổi mặt dày mặt dạn của satan nên khuôn mặt đầy yêu thương của Thiên Chúa… Đổi mới là phải kiến tạo một thế giới của Thiên Chúa, kiến tạo một cộng đồng nhân loại theo tinh thần Tin Mừng, phải tái lập quan hệ với sự sống vĩnh cửu thay cho sự sống tạm bợ ở đời nầy… Không chấp nhận đổi mới, đồng nghĩa với việc giữ nguyên “mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá”, mà “đốt sự sống đời đời để luộc cho mình một quả trứng ăn liền, khoái khẩu”
Những con mắt thịt ở trong nhà mình
Về với thực tế quanh ta, với hơn 80 triệu con người thân thương gần gũi nhất, cùng dòng máu, cùng màu da, cùng trải qua bao cuộc thăng trầm để bảo tồn nòi giống Tiên Rồng hùng anh Dũng Lạc, để nhìn lại hành trình của Tin Mừng Chúa Giêsu Cứu Thế. Số phận của Tin Mừng, của các Ngôn Sứ cũng không khác gì số phận Đức Giêsu ngày ấy. Nhưng niềm tự hào chân chính vẫn trào dâng trong chúng ta vì máu Các Thánh Tử đạo đã trổ sinh muôn ngàn hạt giống Đức Tin trên mảnh đất nầy.
Tuy nhiên, nếu Tin Mừng ở đâu cũng phải chung số phận chịu tẩy chay, chịu thanh trừng, thì ở nhà mình, ở đất nước mình chắc hẳn càng không tránh khỏi. “Thế, thân, ngân, lý” của Tin Mừng và các ngôn sứ Việt Nam chẳng khác gì “thế, thân, ngân, lý” của Chúa Giêsu Kitô ngày ấy- cũng đã bị lòng ích kỷ, tính kiêu ngạo, “mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá” tẩy chay tới mức triệt để. Một phần mười dân số chấp nhận Tin Mừng và chấp nhận đổi mới chưa đủ làm chứng rằng Chúa Giêsu không bị thanh trừng! Lòng con người đang đóng kín, không muốn cho ánh sáng chân lý lọt vào, sợ đổi mới, vì họ đang có một hạnh phúc ảo. Hơn nữa, họ vẫn đang tìm mọi cách để kéo dài hạnh phúc ảo ấy đến muôn năm! Cái hạnh phúc tức thời của lòng ích kỷ. Là Cha là Mẹ, có lẽ không ai dám “khôn ba năm dại một giờ” mà “đốt nhà mình để luộc quả trứng ăn liền cho tương lai cháu con lâm cảnh màn trời chiếu đất”. Cũng vậy, càng không thể liều lĩnh “đốt sự sống đời đời để luộc cho mình một quả trứng ăn liền, khoái khẩu” ở đời nầy vậy!
Để Tin Mừng được đón nhận trên quê hương, có người nghĩ rằng: chứng nhân tại một đất nước thắm máu các thánh tử đạo mà không chấp nhận tử vì đạo thì quả thật là vô lý! Nhưng cách tử-vì-đạo-cách-có-lợi cho mình và cho Giáo Hội nhất, chắc chắn phải nhờ ơn Chúa Thánh Thần, phải theo sự hướng dẫn của Giáo Hội, để sống tốt cuộc sống Tin Mừng. Trong đó, có cả việc cần thiết phải nói cho những kẻ đốt nhà mình hoặc nhà người khác rằng: quê hương vĩnh cửu của chúng ta không phải ở mảnh đất nầy, ở trần gian nầy, nhưng là ở một Thiên Quốc vĩnh cửu. Anh có thể ăn một quá trứng luộc chính bằng cả giang san nầy đi nữa, thì anh có sống đời đời chăng? Có hạnh phúc đời đời chăng? Đừng cứng lòng, nhưng hãy tin! “Hãy sám hối và tin và Tin Mừng”
Nguyện xin hướng dẫn của Thánh Phaolô “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”giúp chúng con kiên trì, kiên vững theo bước chân khiêm tốn nghèo hèn của Chúa Giêsu – nhưng rất mạnh mẽ, để đem hạnh phúc thật cho nhân loại.. Và cùng xác tín với Thánh Phaolô rằng: “Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,9-10)
19. Cao ngạo là đánh mất tất cả
(Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)
Cao ngạo khiến con người đánh mất Thiên Chúa, đánh mất đồng loại và đánh mất chính mình.
Sự cao ngạo không bao giờ có lối dẫn người ta đến gặp Thiên Chúa. Đó là một nguyên tắc đã trở thành kinh nghiệm ngàn đời, không phải của riêng ai, nhưng là của cả nhân loại.
Cao ngạo làm người ta xa Chúa đã vậy, nó còn có thể giết chết sự sống con người. Tất nhiên không phải sự sống thể lý, nhưng là những giá trị thánh thiêng, những giá trị làm nên sự quý báu, làm nên ý nghĩa của cuộc đời, của mỗi người nói riêng và cả nhân loại nói chung. Chẳng hạn:
* Niềm tin (chưa phải là đức tin của người Kitô giáo). Đó có thể là lòng tin tưởng giữa người với người bị đánh mất. Đó cũng có thể là lòng tin giữa con người với đấng thượng đế nào đó mà con người đặt niềm tin vào, nay bị đánh mất bởi cao ngạo.
* Hay như đức tin của những anh chị em Kitô giáo. Đó là lòng tín thác tuyệt đối mà họ đặt nơi Thiên Chúa vô biên, Đấng luôn yêu thương và quang phòng săn sóc mọi loài, mọi người. Đức tin làm nên giá trị vĩnh cửu của đời người. Nhưng vì cao ngạo, con người có thể hoàn toàn đánh mất đức tin.
* Hay chí ít là những giá trị thường hằng của đời sống như: tình yêu, lòng khoan dung, sự tha thứ, thái độ siêu thoát đối với của cải, lòng tự chủ đối với bản năng quyền lực… cũng bị đánh mất do cao ngạo.
Đó là những giá trị làm nên những mối tương quan tương quan sâu đậm trong mỗi tâm hồn con người. Để gìn giữ những giá trị vô cùng ấy, ta cần loại trừ mọi thứ cao ngạo trong đời mình. Bởi mối nguy hiểm do cao ngạo là mối nguy hiểm lớn. Nó làm ta đánh mất Thiên Chúa, đánh mất cả đồng loại quanh ta.
Sự mất mát do cao ngạo, dù đã quá lớn, nó vẫn chưa dừng. Nó biến ta thành kẻ trơ trụi. Trơ trụi đến mức trần trụi: ta chỉ quay quắt với chính mình, cố thủ trong pháo đài của riêng mình. Những danh từ như lòng tin tưởng, bạn bè, người thân… chỉ còn là những khái niệm mơ hồ, xa xăm. Con người có bao giờ thành người trọn vẹn khi tự mình che chắn, bao bọc lấy mình. Vì không là người trọn vẹn, do đó, cao ngạo xô ta đánh mất chính mình.
Từ thuở tạo thiên lập địa, Kinh Thánh đã chứng minh nỗi đau, sự nghiệt ngã do lòng người cao ngạo gây ra: Tổ tông loài người đã cao ngạo đến mức không thể hiểu nổi. Được làm người hạnh phúc, tự do, và thấm đẫm tình yêu Thiên Chúa đã là một ân phúc tuyệt vời, vậy mà tổ tông đã không coi đó làm đủ, lại dám nuôi một giấc mộng tầm cỡ thiên đàng: đòi bằng Thiên Chúa, Đấng mà mình phải phát xuất từ đó. Tổ tông không ngờ giấc mộng của mình lại chính là ảo vọng và tội lỗi.
Bởi cao ngạo quá đỗi, tổ tông đã kéo theo những mất mát cũng lớn không kém: mất Thiên Chúa. Bằng chứng là tổ tông đã tìm cách trốn Thiên Chúa. Mất cả tương quan với đồng loại. Mới ngày nào Ađam còn reo to vui mừng khi được Eva làm bạn: “Đây xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Nhưng sau khi phạm tội, tình nghĩa thắm thiết đã không còn. Nguyên tổ bắt đầu đổ lỗi cho nhau: “Người đàn bà Chúa ban cho con đã hại con”. Và trong tội, nguyên tổ đã đánh mất chính mình, trở thành những kẻ vong thân, sống trong lầm lũi, sợ hãi và tủi nhục.
Và hôm nay, một lần nữa, bài Tin Mừng lại cho thấy người đương thời của Chúa Giêsu, cụ thể là chính đồng hương của Chúa đã sai lầm vì cao ngạo. Chính cái lý lịch xem ra rất tầm thường của Chúa mà họ đã xúc phạm nặng nề với Chúa: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?”. Cũng chính cái lý lịch ấy, làm cho họ, thay vì được nhiều ơn lành từ Chúa Giêsu, thì ngược lại, họ đánh mất tất cả. “Người đã không làm phép lạ nào được”. Có Thiên Chúa ở với mình, nhưng không biết đón nhận, vì thế, họ đã đánh mất cả Thiên Chúa: Không những không thể làm phép lạ, Chúa Giêsu còn bỏ ra đi. Người “qua các làng chung quanh mà giảng dạy”. Khi cố tình đẩy Chúa Giêsu ra khỏi cuộc đời mình, những người đồng hương của Chúa đã làm tổn thương mối liên hệ với Chúa Giêsu xét như một con người: tổn thương mối tương quan giữa người với người.
Mãi đến tận bây giờ, vì không nhìn nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa, sự cao ngạo quá mức ấy, đã làm cho người Dothái, là những đồng hương của Chúa Giêsu, đã qua hai mươi thế kỷ, vẫn cứ vuột mất ơn cứu độ, vẫn là những người mỏi mòn trông chờ Đấng Cứu Thế của lời hứa. Ngày xưa, vì cao ngạo, tổ tông đã thất bại thảm hại. Bây giờ, cũng vì cao ngạo, quê hương của người Dothái, cũng chính là quê hương của Chúa Giêsu, đã tự mình tách khỏi ơn cứu độ. Đó quả là một thất bại thảm hại còn lớn gấp ngàn lần thất bại của tổ tông.
Dấu vết thất bại ấy, đã để lại một tấm gương ngàn đời cho muôn thế hệ. Vậy mà bài học trong tội tổ tông và bài học từ những trang Tin Mừng, lắm khi cả tôi và bạn vẫn chưa thuộc. Sự cao ngạo của ta đã nhiều lần làm gãy đổ tương quan giữa ta với Thiên Chúa, giữa ta với nhau, và với chính ta. Có một cách để chữa trị lòng cao ngạo đó chính là tình thương. Sự cao ngạo của những người đồng hương của Chúa Giêsu, trước hết là một lối mòn của những kẻ không biết yêu thương. Chúng ta hãy dành tặng nhau lòng yêu thương. Có yêu, ta sẽ không còn đố kỵ, không còn kỳ thị, không còn chấp nhất, không còn định kiến, không thiển cận và cũng hết hẹp hòi. Tất cả những điều đó (đố kỵ, kỳ thị, chấp nhất, định kiến, thiển cận, hẹp hòi…) là con đẻ của cao ngạo. Bởi đó, tình thương sẽ giúp ta dẹp bỏ thói cao ngạo. Mọi người hãy yêu thương. Chỉ có tình yêu thương mới là giải pháp trọng vẹn hòng chữa trị cao ngạo.
20. Họ vấp ngã vì Người
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mc 6: 1-6: Ngay khi Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy trong hội đường quê nhà, nhiều người đã có ấn tượng về Người. Tuy nhiên thay vì vui mừng về điều đó họ lại hỏi: “Bởi đâu ông ta được như thế?”…Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Gioxêt, Giuđa và Simon sao?…
Ngay khi Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy trong hội đường quê nhà, nhiều người đã có ấn tượng về Người. Tuy nhiên thay vì vui mừng về điều đó họ lại hỏi: “Bởi đâu ông ta được như thế?”…Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Gioxêt, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Và họ đã vấp ngã vì người.(Mc 6,3-4).
Thế đấy. Chính vì họ chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu như một con người bình thường, một con người cụ thể bằng xương bằng thịt, đã từng chung sống với họ; công việc cũng hết sức tầm thường, quanh năm suốt tháng lam lũ với nghề thợ mộc. Thế mà giờ đây, sau một thời gian rời xa quê làng, cái ông thợ mộc này lại làm được những điều “lạ lùng”, thật chẳng thể nào tin được!
Từ cách nhìn và đánh giá thiển cận ấy, dân làng Nazarét đã vấp ngã vì Người.
Họ vấp ngã vì trước mắt họ, Chúa Giêsu chỉ là một người phàm như bao người khác;
Họ vấp ngã vì thân thế của Chúa Giêsu không có gì là nổi nang trong xã hội;
Họ vấp ngã vì họ biết được tất cả gốc gác của Người.…Và vì thế họ đã khinh thường Người.
Tagore (1861-1941) là một đại thi hào của Ấn Độ, đoạt giải Nobel văn chương năm 1913, có tài làm thơ ngay khi còn nhỏ tuổi.
Lúc còn niên thiếu, thỉnh thoảng Tagore làm một vài bài thơ gửi đăng trên tờ báo do thân phụ của mình đảm trách phần biên tập. Khi thấy những bài thơ gửi đến ký tên con mình, người cha chẳng thèm đọc thơ mà quẳng ngay vào sọt rác vì cho rằng con mình còn nhỏ dại thì biết gì thi ca.
Khi hiểu rõ sự tình, Tagore chép lại những bài thơ mà cậu đã gửi đăng báo, không ký tên thật của mình nữa mà lấy một bút hiệu khác rồi gửi lại cho toà báo.
Lần nầy, thân phụ của Tagore nhận thấy đây là những bài thơ có giá trị và cho đăng ngay lên báo mà không hề hay biết đó chính là những bài thơ của con trai mình, những bài thơ mà trước đây ông đã quẳng vào sọt rác.
Đúng là: “Bụt nhà không thiêng”. Chính Chúa Giêsu cũng phải chịu cùng một số phận như thế.
Con người dễ có định kiến về người khác.
Khi một vĩ nhân trở về quê hương, dân làng thường tìm đến vì tò mò hơn là kính nể. Nếu ai không có những suy nghĩ sâu xa thì sẽ không xem trọng vĩ nhân đó bao nhiêu, nhất là khi người đó xuất thân từ một gia đình nghèo nàn, không có địa vị gì ở quê hương. Chúa Giêsu trở về quê nhà cũng bị dân làng nhìn theo lối đó: Giêsu, con bác thợ mộc Giuse chứ có gì lạ lùng đâu.
Chúa Giêsu biết rõ tâm ý của họ, nên đã nói: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận ở quê hương mình” (Lc 4,24). Chúa Giêsu đã về quê nhà với tư cách là Đấng Messia, loan báo Tin Mừng cho dân làng, nhưng chắng ai thấy được điều đó. Họ đã tự nhốt mình trong định kiến của họ. Họ chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu như một người đồng hương nghèo khó, xuất thân từ làng quê. Tuy họ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, nhưng những thành kiến đã chôn chặt họ không cho họ đi xa hơn. Họ chỉ thắc mắc cách mơ hồ: bởi đâu ông ta được như thế! Họ đến gặp Người với ý định chối từ hơn là tin nhận!
Xét người xưa lại nghĩ đến mình hôm nay. Rất nhiều khi ta phán đoán giá trị của một người dựa trên bằng cấp, địa vị và sự giầu có. Hễ ai có chức có quyền mà nói thì ta cho ngay rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, ít học mà nói thì ta cho ngay rằng lời nói của họ chẳng có giá trị gì. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra là người có quyền thế, trí thức hay giầu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra là một em bé, một người tầm thường thì điều đó cũng vẫn là một chân lý. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì trình độ học vấn của người nói ra điều đó.
Điểm cuối cùng trong bài Tin Mừng hôm nay chắc phải làm chúng ta suy nghĩ: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó” vì họ không tin. Đức Giêsu có thực hiện được phép lạ hay không, điều đó không tùy thuộc vào quyền năng của Người, nhưng còn tùy thuộc vào lòng tin của chúng ta. Đức Giêsu rất muốn ưu tiên rao giảng và làm phép lạ ở chính quê hương của người, vì thông thường ai cũng yêu mến nơi sinh trưởng của mình, nhưng vì những người đồng hương không tin, nên Người không thực hiện được điều ấy.
Cũng vậy, Thiên Chúa muốn cứu rỗi ta, thánh hóa ta, muốn ta nên thánh, muốn ta được hạnh phúc, và Người sẵn sàng làm tất cả để thực hiện điều đó. Nhưng Người có thực hiện được điều đó hay không còn tùy thuộc vào bản thân chúng ta, như thánh Augustinô nói: “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu không có sự cộng tác của ta”. Amen.
21. Thất bại trong sứ mạng
Ca dao tục ngữ Việt nam có câu:
“Gần chùa gọi Bụt bằng anh
Thấy Bụt hiền lành bế Bụt đi chơi”
Đây là cái nhìn của nhiều người không biết trân trọng, không biết tin tưởng vào Đấng thiêng liêng đang ở kế bên mình. Những người đồng hương với Chúa Giêsu ngày xưa cũng có cái nhìn như thế đối với Người. Những lời giảng dạy và những phép lạ của Chúa Giêsu chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa. Người đến trần gian này để thi hành sứ mạng Chúa Cha trao phó sứ mạng của một Đức Kitô tôi tớ.
Đáng lẽ những người đồng hương với Chúa Giêsu là những trước tiên đón nhận và tin tưởng vào Người. Thế nhưng họ là những người này chính là những người đầu tiên làm cho sứ mạng của Chúa Giêsu bị thất bại.
“Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin ” (Mc 6, 5 – 6). Có thể Chúa Giêsu muốn ưu tiên đem Tin mừng cứu độ đến cho những người này. Dầu vậy những người này đã bị che phủ bởi quan niệm riêng tư của mình. Họ trông mong một Đấng Cứu Thế theo ý của họ. Do đó, một lần kia Chúa Giêsu đã nói: “Tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống nh ư lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác,và nói: Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không đấm ngực khóc than.
Thật vậy, ông Gio-an đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: Ông ta bị quỷ ám. Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi. (Mt 11, 16 – 19)
Ngày hôm nay sống giữa thế giới tiến bộ của khoa học kỉ thuật nhiều khi chúng ta còn nghi ngờ vào Chúa. Chúng ta chưa thật sự tích cực đón nhận Chúa qua những lời dạy của Chúa cũng như những chỉ dẫn của Giáo hội. Chúng ta muốn thờ một Thiên Chúa theo ý mình. Quả thật đó là một sai lầm hết sức to lớn.
Một trong 3 sứ mạng chúng ta lãnh nhận trong Bí tích Rửa tội là sứ mạng tiên tri. Do vậy, có lắm lúc sống theo lời dạy của Chúa và của Giáo hội chúng ta bị người khác coi thường. Nhưng chúng ta hãy kiên nhẫn đừng nản lòng. Chính Chúa Giêsu cũng bị người ta từ chối mà Người vẫn kiên trì. Nhờ đó ơn cứu độ mới được tồn tại và phát triển mãi mãi.
22. Ơn gọi làm ngôn sứ
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
“Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương mình” (Mc 6,4).
Theo Điển Ngữ Đức Tin của Linh mục Hồng Phúc, danh từ tiên tri hay ngôn sứ có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp là chữ prophẻte, có nghĩa là nói nhân danh người khác. Tiên tri là người được Thiên Chúa soi sáng và sai đến nói cho người ta nhân danh Thiên Chúa, để truyền đạt các mệnh lệnh của Ngài. Họ chuyển đến cho dân những đòi hỏi có trong sách luật, lời cảnh cáo hay lời hứa cho dân.
Không ít lần Thánh Kinh đã nhắc đến cảnh dân Do thái bị lưu đày, sầu khổ, hoạn nạn, truân chuyên, và các ngôn sứ được phái tới để loan báo cho dân một niềm hy vọng hay niềm vui của sự cứu thoát. Tiên tri Êgiêkien, Isaiah, Giêrêmia đã loan báo về lòng thương xót cảm thông của Giavê đối với nỗi khổ của dân, và Ngài sẽ ra tay cứu thoát họ.
Thế nhưng không ít lần các tiên tri cũng vạch cho dân biết các nỗi thống khổ là do họ đã bỏ Thiên Chúa. Các ngài can đảm lên tiếng phê phán, cảnh cáo lối sống sai lạc, và báo trước một hình phạt sẽ sảy đến hoặc sẽ kéo dài nếu người ta không đổi mới cuộc đời.
Kết quả của lời cảnh báo thường sẽ là: “hoặc họ nghe, hoặc họ không nghe” (Ez 2:5). Thậm chí, lắm khi mạng sống của vị ngôn sứ còn bị đe doạ, nhất là khi phải nói lời Chúa cho những vị có quyền lực trong dân.
Ai lại không biết trong một quốc gia phong kiến, vua là trên hết. Mọi uy quyền sức mạnh đều nằm trong tay vua. Đụng đến vua thì chẳng khác chi tự đưa mình vào hang cọp. Thế mà để chu toàn sứ mạng, các tiên tri đã không quản liều mình.
Thánh Kinh có ghi lại hình ảnh của một tiên tri Nathan đầy khôn ngoan, dám tố cáo tội ngoại tình, giết người, cướp vợ của vua Đavít; hay hình ảnh can đảm của tiên tri Elia, dám nói thẳng với hai vợ chồng vua Akhab việc họ đã giết Nabot và chiếm đoạt tài sản của ông cách bất công, nên Thiên Chúa sẽ giáng phạt tội ác của họ; hoặc dưới triều vua Yosya, tiên tri Sophonia đã trách cứ các tư tế và chỉ trích thói tục ngoại lai khi tôn sùng các thần giả.
Trước lời loan báo, cảnh tỉnh của tiên tri, “hoặc là họ nghe, hoặc là họ không nghe”- một là người ta sẽ lùi bước trước điều gian ác để sám hối canh tân hoặc chính các tiên tri sẽ phải chuốc hoạ khổ đau, như trường hợp của ngôn sứ Gioan Tiền hô khi dám lên tiếng phản đối hành động loạn luân của Hêrôđê.
Các tiên tri của Chúa không những dám đánh mất sự sống thân xác khi đụng đến những kẻ có thế lực và quyền hành trong dân, các ngài còn dám hy sinh cả an toàn tình cảm khi lên tiếng cảnh cáo răn đe dân chúng. Như tiên tri Giêrêmia, Amos, Giôna, Nahum, Mica, những vị dám lên án dân Do thái, dám thoá mạ bọn nhà giàu cướp bóc người nghèo, những kẻ cho vay vô lương tâm, những con buôn gian lận, những gia đình chia rẻ, các tư tế tham lam, hay các quan án hối lộ.
Giữa một xã hội vô luân, giữa một dân tộc bị tục hoá, giữa những con người đang chạy theo những điều vô đạo, vô phép, mà một mình dám đứng lên để mở ra một hướng đi mới, dạy dỗ một giáo lý mới nhân danh Chúa, tất khó tránh khỏi cảnh kẻ chê người ghét, kẻ phản đối người hận thù.
Đức Giêsu, vị tiên tri tối cao, cũng không được miễn trừ. Phúc âm nói rõ: khi trở về quê nhà Nazaret, Ngài vào hội đường để giảng dạy. Ngài rao truyền một giáo lý yêu thương “họ không nghe.” Hơn nữa họ còn “vấp phạm vì Người” (Mc 6:3b).
Tất nhiên sự vấp phạm này không chỉ là thái độ thiếu kính trọng đối với “anh thợ mộc con bà Maria” của những người hàng xóm, nhưng còn cả hành vi phủ nhận không tin của bà con thân cận (Ga 7:5). Chính Chúa Giêsu đã phải thốt lên: “Không tiên tri nào mà không bị khinh bỉ nơi quê quán, bà con, họ hàng nhà mình” (Mc 6:4).
Thế nhưng, dù bị ngược đãi khinh khi, dù phải đối diện với lòng chai dạ đá, Đức Giêsu vẫn không ngã lòng từ bỏ sứ vụ. Thánh kinh ghi nhận: lúc đám đông không tin phục thì Ngài đi đến với “một vài bệnh nhân;” khi thành này từ khước Tin Mừng thì Chúa Giêsu lại đi rao giảng cho “các làng chung quanh.” Đây phải là thái độ không thể thiếu được nơi các ngôn sứ, những người được mời gọi rao truyền Lời Chúa cho muôn dân.
Nói đến ngôn sứ xin đừng chỉ liên tưởng đến các vị tiên tri trong Cựu ước hay những đấng “bạo mồm bạo miệng” dám lên tiếng hăm doạ, kết án những kẻ sống đời nghịch luân, nghịch thường. Song, ngôn sứ chính là “tất cả những người Kitô hữu, nhờ phép rửa tội, được hiệp thân với Đức Kitô, kết thành dân của Chúa và do đó, họ tham dự theo cách thế riêng vào chức vụ tư tế, sứ ngôn, và vương giả của Đức Kitô. Theo điều kiện của mỗi người, họ được kêu gọi thực hành sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó cho Giáo hội chu toàn trong thế giới” (Giáo Luật số 204).
Như thế, ẩn sâu trong bản chất Kitô hữu của tôi là cả một chức năng ngôn sứ. Với chức năng đó, đời sống tôi phải đi đôi với việc loan báo chân lý, bảo vệ luân lý, bênh vực nhân lý nhân danh Thiên Chúa Hằng sống.
Nhưng thử hỏi mấy ai sẽ nghe lời tôi khi đời tôi là một phản chứng. Làm sao người ta nhận ra chân lý khi mà tôi cứ mãi sống trong gian dối, lọc lừa, tham lam. Ai có thể nghe tôi dạy dỗ về luân lý khi mà đời tôi đầy dẫy những thứ vô luân, rối vợ rối chồng, nghiện ngập đam mê. Và ai có thể đồng tình với tôi để bênh vực nhân phẩm đang khi tôi xúc phạm nhân phẩm, huỷ diệt thai nhi, cắt đứt tình người.
Như vậy, để đóng trọn vai trò ngôn sứ, đời tôi phải là một nỗ lực chứng tá liên lỉ. Nhưng tôi tự hỏi: ngay như cuộc đời toàn hảo của Chúa Cứu Thế cũng không được mọi người chấp nhận và bước theo, huống hồ là cuộc đời chứng tá của mình?
Nhưng tính chất cần có của đời ngôn sứ vẫn là không ngã lòng bỏ cuộc. Dù với khó khăn trắc trở của môi trường hay của lòng người, tôi vẫn cứ tiến tới. Trong niềm tin như Thánh Phaolô, tôi dám nói: “Ơn Chúa luôn đủ cho tôi. Vì chính trong sự yếu hèn của tôi mà quyền năng Thiên Chúa được tỏ bày” (2 Cr 12,9).
23. Chúa Nhật 14 Thường Niên
QUÊ HƯƠNG TRÁI NGỌT HAY TRÁI ĐẮNG
“Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”. Nghĩ về quê hương ai cũng dành cho quê hương mình những tình cảm thân thương gắn bó. Xa quê hương ai cũng mong ngày nào đó được quay trở về. Người ta có nhiều lý do để nghĩ về quê hương của mình. Nhớ quê hương vì nơi đó có nhiều kỷ niệm êm đềm của những ngày thơ ấu. Nhớ quê hương vì nơi đó có người yêu thương đang đợi chờ trông ngóng. Nhớ quê hương vì đó cũng là nơi an nghỉ của những người thân yêu nhất trong đời.
Nỗi nhớ nhung đã trở thành lý do mạnh mẽ để thúc giục con người dù đi xa đến đâu cũng mong quay về nhà. Với cuộc sống vội vã bon chen như ngày nay, dường như người ta không cố tìm chi kỷ niệm xưa cho mất thời giờ. Nhưng ít ra quê hương sẽ là nơi con người tìm được sự thanh thảng sau những ngày vất vả bôn ba. Nơi quê hương tạ tìm ra sự thông cảm chân thành trong cuộc sống. Ta tìm thấy sự thư thái an nhàn nơi những khuôn mặt thân quen. Đó là những khuôn mặt đã từng ủng hộ ta khi ta chưa là gì cả.
Dù quê hương có ở nơi sâu xa hay nghèo nàn thì trong ngăn kéo trí nhớ người ta không bao giờ quên. Quê hương đúng là “chùm khế ngọt” của mỗi con người. Nhìn về quê hương Nazaret của Chúa Giêsu thì hoàn toàn khác. Ngài trở về không được người thân ủng hộ, trái lại họ đã khinh bỉ Ngài và xúc phạm đến Ngài. Nazaret trong lòng Chúa Giêsu dù có đẹp đến đâu thì đó chỉ là tưởng tượng chứ không có trong thực tế. Do đâu quê hương vốn thân thương giờ trở nên chán ngán như vậy?
Lòng người còn ngăn cách
Người sống gần nhau nhưng lòng thì xa cách. Chắc chắn người làng Nazaret đã nghe biết nhiều những việc làm của Chúa Giêsu nhưng họ không chút tự hào. Họ không tự hào trái lại còn tỏ ra xem thường do cái nhìn thiên kiến của họ. Người thiên kiến luôn tìm cách dán nhãn hiệu cho người khác theo cách nghĩ của mình mà không dựa trên sự thật khách quan. Cái nhìn thiên kiến thường do thiếu hiểu biết nên phán đoán không chính xác; do thiếu khiêm tốn nên hay huênh hoang tự đắc tự cho mình là chân lý; do tầm nhìn hạn hẹp kiểu ếch ngồi đáy giếng nên coi trời bằng vung. Đây là lý do dễ làm người ta không thể đến với nhau. Sống chung quê hương là lý do không đủ mạnh để nối kết những người có khoảng cách quá xa về hiểu biết.
Sự đời còn phân tranh
Trong Tin Mừng không thấy có sự cạnh tranh nào giữa Chúa Giêsu và những kẻ đồng hương. Thế nhưng ta có thể đọc được những tranh chấp ngấm ngầm nơi họ. Một tác giả đã viết lý do duy nhất khiến người nào đó ghét bạn là vì họ muốn giống bạn thôi. Những người đồng hương như ngầm muốn mình cũng làm được như Chúa đã làm. Ông Giêsu nghèo nàn như thế mà làm được chuyện lạ, sao mình lại không? Ông Giêsu có xa lạ gì đâu giờ lại đứng ra giảng dạy, mình không làm hơn ông ấy sao? Ông Giêsu có là gì đâu sao lại được nhiều người tiếp rước? Quả thật, có quá nhiều sự cạnh tranh về khả năng, uy tín và tình cảm. Khi cạnh tranh mỗi người đều đeo mắt kín hận thù thì làm sao nhận ra người đối diện là bạn, là anh chi em hay là người đồng hương được. Đáng lẽ quê hương là điểm hẹn tình thương giờ đây đã trở thành bãi chiến trường của sự tranh chấp.
Cơ may bị bỏ lỡ
Bị người đồng hương chối từ nên không phép lạ cả thể nào xảy ra. Chúa Giêsu đã bỏ Nazaret đến các làng khác không hẹn ngày về. Một cơ hội lớn đã bỏ lỡ. Chúa đến luôn là ân ban cho mọi người. Ai chối từ đồng nghĩa với việc khước từ ân ban. Ta bỏ lỡ cơ hội khi không nghe tiếng than van của người bên cạnh; khi ta làm ngơ trước cảnh ngộ nghiệt ngã của một người. Ta bỏ lỡ khi không nghe tiếng Chúa cảnh báo để sám hối quay về qua nhắc nhở của bạn bè, qua khuyên bảo của bề trên, qua các tai nạn hay qua những lời phê phán của kẻ thù ghét ta. Hãy xem tất cả như là cơ may mà Chúa gửi đến từng ngày. Quê hương sẽ nên giàu đẹp khi con người biết tích góp nhiều điều tốt đẹp.
Quê hương Chúa Giêsu không là trái ngọt nhưng là trái đắng: trái đắng của khinh bỉ, trái đắng của chối từ, trái đắng của ganh ghét. Dẫu vậy Ngài không than van, giận dữ hay oán trách quê mình. Ngài vẫn hiện diện trong hiền lành và khiêm hạ để đón nhận thực tế. Chính thái độ đó sẽ làm bớt đi trái đắng mà góp thêm trái ngọt cho quê hương mình.
24. Sứ mạng làm ngôn sứ
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Có lẽ anh chị em ít khi ý thức rằng qua bí tích rửa tội và thêm sức, chúng ta được chia xẻ với Đức Giêsu sứ mạng làm ngôn sứ.
Hôm nay chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa để hiểu sứ mạng ấy là thế nào, và hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta chu toàn sứ mạng ấy.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta chỉ lo sống đạo cho mình mà không ý thức sứ mạng ngôn sứ của chúng ta.
Chúng ta không dám nói về Chúa cho người khác.
Chúng ta không can đảm bênh vực sự thật và công bình.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Êd 2,2-5)
Ngôn sứ Êdêkien kể về ơn gọi của mình:
– Ông đã được chính Thiên Chúa kêu gọi
– Khi gọi ông làm ngôn sứ, Thiên Chúa ban “thần linh” cho ông.
– Sứ mạng của ông là chuyển sứ điệp của Chúa đến với con cái Israel.
– Nhưng đó là một sứ mạng khó khăn, bởi vì họ là một dân cứng lòng.
2. Đáp ca (Tv 122)
Có thể coi Tv 122 này là những tâm tình của một người lãnh sứ mạng ngôn sứ:
– Ngôn sứ luôn nhìn lên Chúa là Đấng đã kêu gọi mình
– Trong những lúc khó khăn, ngôn sứ cảm thấy ê chề chán nản
– Nhưng ngôn sứ luôn trông cậy vào Chúa, xin Ngài cứu giúp.
3. Tin Mừng (Mc 6,1-6)
Đức Giêsu trở về quê hương mình là Nadarét. Đến ngày Sabát, Ngài vào hội đường và giảng Thánh Kinh.
Ban đầu những người đồng hương rất ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan của Ngài và vì những phép lạ Ngài làm ở những nơi khác.
Nhưng khi nhớ đến nguồn gốc tầm thường của Ngài (chỉ là một người thợ mộc, bà con với những dân làng bình thường), họ không tin Ngài nữa.
Chính vì thái độ không tin ấy, nên ở Nadarét Đức Giêsu không làm nhiều phép lạ.
4. Bài đọc II (2 Cr 12,7-10)
Thánh Phaolô chân thành chia xẻ tâm sự của mình:
Bản thân ông rất yếu đuối. Ông cảm thấy như có một cái dằm luôn đâm vào da thịt mình. Các chuyên viên Thánh Kinh đang tìm hiểu “cái dằm” này là gì. Dù chúng ta chưa xác định cụ thể, nhưng có thể hiểu đó là ám chỉ đến những sự yếu đuối của Phaolô.
Chính vì ý thức yếu đuối như thế nên nhiều lần ông ngã lòng, xin Chúa cất khỏi cái dằm ấy.
Nhưng Chúa đã khích lệ ông: “Ơn Ta đủ cho con”
Cuối cùng ông tin tưởng và tiếp tục sứ mạng, “vì khi tôi yếu đuối chính là lúc tôi mạnh mẽ”.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Tiếng nói của những ngôn sứ
Tiếng nói của những ngôn sứ rất lạ thường, vì ngôn sứ không nói tiếng nói của loài người mà là tiếng nói của Thiên Chúa. Loài người thường “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, còn Thiên Chúa thì nói thẳng sự thật để dạy dỗ hoặc sửa lỗi. Mà “sự thật mất lòng” cho nên tiếng nói của Thiên Chúa nhiều khi chói tai.
Ngôn sứ nói tiếng nói của Thiên Chúa, nên nhiều khi chẳng những không được người ta nghe mà còn bị người ta ghét. Ngôn sứ Êdêkien thay mặt Chúa kêu gọi dân Do Thái hãy sám hối tội lỗi chứ đừng ỷ lại vào sự kiện họ có Đền thờ tại Giêrusalem và cũng đừng nương dựa vào thế lực ngoại bang. Những lời nói này đã khiến dân Do Thái kết ông tội phạm thánh và phản quốc. Và họ đã nhiều lần bách hại ông, ông chỉ thoát chết trong đường tơ kẻ tóc. Gioan Tẩy giả thị bị Hêrôđê chém đầu vì đã dám lên tiếng vạch tội loạn luân của vua. Rất nhiều ngôn sứ khác cũng không thoát khỏi lao đao lận đận do đã thay mặt Chúa nói lên những “sự thật mất lòng”.
Ngày nay có biết bao sự thật ê chề trong xã hội cũng như trong Giáo Hội. Thiên Chúa cần những ngôn sứ can đảm nói lên những điều đó. Nhưng buồn thay, đa số kitô hữu, thậm chí những cán bộ Tin Mừng và những tu sĩ, giáo sĩ đã chọn thái độ giả điếc làm ngơ và ngậm miệng. Chỉ vì muốn được yên thân. Như thế là không thi hành chức năng ngôn sứ của mình.
Ta có thể nói thẳng bằng những lời bộc trực, hoặc khéo léo hơn bằng lời lẽ từ tốn tế nhị, nhưng không bao giờ nên ngậm miệng không nói.
2. Tiêu chuẩn Chúa chọn người
Khi chọn ai, Chúa theo những tiêu chuẩn rất lạ: không cần học thức cao, không cần tài ba lỗi lạc, không cần khả năng khéo làm việc… Thánh Phaolô đã liệt kê 5 tiêu chuẩn Chúa theo:
– những cái yếu đuối,
– những cái ngu dại,
– những cái hèn mọn,
– những cái bị khinh thường
– và những cái hư không. (Sunday School Times).
3. “Ơn Ta đủ cho con” (2Cr 12,9)
Thiên Chúa luôn ban cho ta đầy đủ ơn Ngài:
– Khi gánh đời ta nặng hơn, Ngài ban thêm ơn
– Khi công việc ta cực nhọc hơn, Ngài ban thêm sức
– Khi Ngài gởi khổ sầu, Ngài cũng gia tăng lòng thương xót
– Khi Ngài gởi đến thử thách, Ngài cũng gởi đến bình an
– Lúc ta cảm thấy sức mình hầu như cạn kiệt thì đấy là lúc ơn Chúa thực sự tràn đầy. (Góp nhặt).
4. Phép lạ
Bài Tin Mừng hôm nay đề cập về Phép lạ: Ở quê hương Nadarét, Đức Giêsu chỉ làm được một ít phép lạ bởi vì dân Nadarét không tin. Nhân dịp này, chúng ta hãy tìm hiểu xem: phép lạ là gì? và ngày nay phép lạ còn xảy ra nữa không?
Điều chúng ta cần lưu ý trước tiên là người ta dùng chữ phép lạ theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa rộng, phép lạ là một điều gì có vẻ khác thường, xảy ra lạ hơn bình thường và không giống như người ta dự kiến. Thí dụ như người Do thái ngày nay đã vận dụng nhiều cố gắng lao động, kết hợp với khoa học kỹ thuật mà trồng được những vườn cam ngon ngọt trên miền đất trước đây là sa mạc. Người ta đã coi đó là một phép lạ (theo nghĩa rộng). Còn theo nghĩa hẹp, nghĩa chính xác, phép lạ là điều không những kỳ diệu khác thường, mà còn xảy ra ngoài những quy luật tự nhiên nữa. Thí dụ: trong khoa vật lý học, chúng ta biết có quy luật là một vật có trọng lượng thì bị rơi xuống do sức hút của trái đất. Nhưng nếu có một người nào đó té từ một nhà lầu cao nhưng không rơi xuống đất mà cứ lơ lửng giữa chừng, thì khi đó sự kiện không xảy ra theo quy luật tự nhiên nữa, nên được coi là phép lạ.
Sau khi đã hiểu phép lạ là gì theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bây giờ chúng ta tìm hiểu xem có thể xảy ra phép lạ hay không. Phép lạ hiểu theo nghĩa rộng thì ai cũng nhìn nhận rằng có, kể cả những người không có đạo, kể cả những kẻ vô thần. Người ta nói nhiều đến phép lạ cải tạo ruộng đất, làm theo nghĩa hẹp thì những người vô tín ngưỡng lại không nhìn nhận. Bởi vì muốn có phép lạ theo nghĩa hẹp này thì cần có sự can thiệp của quyền năng thần thánh. Kẻ vô tín ngưỡng không công nhận thần thánh nên cũng không công nhận phép lạ.
Còn đối với chúng ta, những người Công giáo thì sao? Dĩ nhiên vì tin vào quyền năng Thiên Chúa nên chúng ta nhìn nhận có phép lạ. Tuy nhiên cũng cần lưu ý thêm điều này là: Thiên Chúa không làm phép lạ một cách bừa bãi đâu. Vì như đã nói trên: phép lạ (theo nghĩa hẹp) là điều xảy ra ngoài quy luật tự nhiên. Quy luật tự nhiên ấy ai đã thiết lập ra? Thưa là chính Thiên Chúa. Vậy nếu Thiên Chúa đã thiết lập những quy luật tự nhiên thì đương nhiên Thiên Chúa cũng muốn cho vạn vật vận hành theo đúng quy luật tự nhiên mà Ngài đã thiết lập. Chỉ thỉnh thoảng khi nào có một lý do thật quan trọng thì Chúa mới cho một sự kiện xảy ra ngoài những quy luật tự nhiên đó (và khi đó là phép lạ).
Vậy lý do quan trọng khiến Chúa làm phép lạ là gì? Thường là Đức Tin. Phép lạ xảy ra để đáp ứng một lòng tin mạnh mẻ vững vàng – hoặc để mời gọi những người chứng kiến càng tin mạnh mẻ vững vàng hơn.
Trong các sách Tin Mừng chúng ta đã đọc thấy nhiều lần trước khi làm phép lạ chẳng hạn trước khi chữa cho một người mà từ thuở mới sinh Đức Giêsu hỏi “Con có tin không?” Người đó tuyên xưng đức tin thì Chúa mới làm phép lạ. Ngược lại, đối với vua Hêrôđê không tin mà chỉ muốn có phép lạ để xem cho thoả thích hiếu kỳ thì Đức Giêsu không làm một phép lạ nào hết. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng thế: những người đồng hương với Đức Giêsu ở Nagiarét một mặt khinh thường Đức Giêsu chỉ là con của một bác thợ một nghèo nàn tầm thường, nhưng mặt khác khi nghe biết Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ ở những nơi khác thì cũng muốn Đức Giêsu làm phép lạ ở quê hương Nagiarét cho họ hưởng nhờ thì Đức Giêsu cũng không chịu làm phép lạ chỉ để thoả mãn tính vụ lợi của họ.
Có những người rất nhẹ dạ dễ tin: chuyện gì hơi lạ một chút cũng coi là phép lạ.
Có những người rất hay cầu xin phép lạ: phép lạ được trúng số, phép lạ được khỏi bệnh.
Không phải chúng ta không nên tin cũng như không nên cầu xin nữa. Nhưng sau những phân tích nãy giờ, chúng ta hãy lưu ý: điều quan trọng nhất trong các phép lạ không phải là khía cạnh lạ thường, khía cạnh lợi lộc của chúng, mà chính là Đức Tin: phép lạ xảy ra là vì Đức Tin: hoặc để đáp ứng đức tin mạnh mẻ của con người, hoặc để mời gọi con người qua đó mà càng tin vững hơn vào Thiên Chúa.
– Ở Lộ Đức, ở Fatima, ở La Salette v.v…. khi mà những biến cố lạ thường xảy ra làm nhiều người xôn xao thì Giáo Hội vẫn im lặng. Chỉ sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng một thời gian dài rồi thì Giáo Hội mới tuyên bố đấy là phép lạ. Giáo Hội cẩn thận như vậy là để khỏi rơi vào mê tín dị đoan. Thiết tưởng mỗi người chúng ta cũng phải cẩn thận như thế trước những điều xảy ra có vẻ khác thường, bởi vì Đức Tin của chúng ta không phải là nhẹ dạ, mê tín, mà là một đức tin có nền tảng vững chắc, trong sáng.
– Rồi trong cuộc sống đạo của chúng ta, điều quan trọng mà chúng ta phải chú ý hơn hết là cố gắng rèn luyện cho đức tin của mình càng ngày càng vững mạnh trong sáng hơn. Nói cụ thể:: tôi giữ đạo, tôi làm theo những điều Chúa dạy là vì tôi thực sự tin vào Chúa… chứ không phải vì tôi mong Chúa sẽ làm phép lạ cho tôi giàu có, cho tôi trúng số, cho tôi khỏi bệnh một cách lạ lùng… Những điều đó nếu thấy cần thì chúng ta cứ cầu xin, và Chúa nếu thấy rằng tốt thì sẽ ban cho chúng ta. Nhưng chúng ta không nên chỉ giữ đạo vì những điều đó. Chúng ta giữ đạo vì chúng ta tin vào Chúa. Tin vào Chúa chẳng những khi cuộc sống thoải mái dễ chịu, nhưng dù cuộc đời có gặp lúc gian nan, túng thiếu., bệnh tật, buồn khổ… chúng ta vẫn một niềm tin son sắt vào Chúa. Đó mới là một đức tin vững mạnh.
5. Có tin mới thấy
Tại một vùng của nước Pháp, dân chúng có tập tục rất lạ. Đó là vào sáng sớm Chúa Nhật Phục sinh khi hồi chuông đầu tiên của nhà thờ vang lên, tất cả mọi người đều trổi dậy chạy ra giếng làng để rửa mắt với giòng nước mát lạnh.
Nhiều bạn trẻ không hiểu vì sao lại chạy ra giếng rửa mắt, trong khi ngày nay gia đình nào cũng có các vòi nước trong nhà.
Lúc ấy các vị bô lão mới giải thích: Đó là hình thức cầu nguyện bằng hành động, qua đó dân làng cầu xin Thiên Chúa ban cho họ đôi mắt đức tin mới, để họ thấy Đức Giêsu Phục sinh đang hiện diện sống động giữa họ.
*
Với con mắt định kiến, thiển cận và hẹp hòi, những người đồng hương với Đức Giêsu đã không nhận ra khuôn mặt thật của Người. Họ không tin Người là một tiên tri, lại càng không thể tin Người là Đấng Cứu Thế, và chắc chắn họ chẳng ngờ mình là người đồng hương với Con Thiên Chúa.
Chính lòng ghen tỵ là một trong những nguyên nhân khiến “các tiên tri không được kính trọng ở quê hương mình” (Lc.4,24). Mc. Kenzie nói: “Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tỵ nhìn bằng kính hiển vi”.
Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy quá khứ rất đỗi bình thường của Người.
Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy hiện tại của Người không một chút hào quang.
Họ không tin vì họ chỉ nhìn thấy nơi Người một bác thợ mộc rất mực âm thầm, khiêm tốn.
Chính vì không tin nên họ đã không thấy. Thấy đây là thấy toàn vẹn khuôn mặt của Thiên Chúa. Thấy đây là thấy Người bằng cái nhìn luôn đổi mới. Thấy đây là thấy với con mắt đức tin. Tác giả thư Do thái viết: “Đức tin là bảo đảm cho những gì ta hy vọng, là bằng chứng cho những gì ta không thấy” (Dt.11,1). James Woodbridge viết: “Đức tin là con mắt để nhìn thấy Chúa, là bàn tay để nắm lấy Người, là sức mạnh giúp ta tự hiến cho Người”.
Cho dù Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Người có thể làm được mọi sự. Nhưng Người phải bó tay trước sự cứng lòng của con người. Người đã trở nên bất lực trước những kẻ thiếu niềm tin. Và quả thật, “Người đã không thể làm được phép lạ nào” tại quê hương mình. Thế mới biết con người có khả năng cản trở Thiên Chúa, con người có toàn quyền từ chối quà tặng của Người.
Nếu Phép lạ là quà tặng của Thiên Chúa, cần được đón nhận với Niềm tin; thì chính Niềm tin là ân huệ của Thiên Chúa chỉ có thể nhận được với lời cầu nguyện. Cần phải cầu nguyện để có Niềm tin. Nhà bác học kiêm triết gia Pascal đã nói: “Để có niềm tin con người phải quì gối cầu xin”.
***
Lạy Chúa, còn bao nhiêu việc lạ lùng Chúa muốn làm cho đời chúng con, xin Chúa ban thêm Niềm tin cho chúng con, để nhờ đó Chúa được tự do thực hiện những kỳ công của Người. Xin giúp chúng con cũng biết gieo rắc Niềm tin Chúa trong lòng mọi người. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
6. Mạnh và yếu
Câu chuyện sau đây có thể giúp chúng ta hiểu được lời của Thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10)
Hai người nghèo đi từ thành phố này đến thành phố khác để xin ăn. Một người rất vạm vỡ khoẻ mạnh và không bao giờ đau yếu, còn người kia thì ốm tong teo và hầu như lúc nào cũng bị bệnh. Anh chàng khoẻ mạnh thường cười chê anh chàng ốm yếu khiến chàng này rất buồn, anh cầu xin Chúa trừng phạt anh kia.
Khi hai người đến thủ đô thì vừa gặp lúc trong triều đình có chuyện buồn, là hai vị quan thân cận nhất của nhà vua vừa mới chết. Một người là cận vệ của nhà vua, người khoẻ mạnh nhất nước; người kia là thái ý của nhà vua, người chữa bệnh giỏi nhất nước. Nhà vua sai người đi khắp nước để tìm hai người thay thế, và cuối cùng người ta cũng tìm được.
Nhưng trước khi bổ nhiệm hai người ấy vào chức vụ, nhà vua bảo họ hãy đưa ra bằng chứng về tài năng của mình. Người ứng cử vào chức cận vệ thưa: “Muôn tâu thánh thượng, hãy mang đến cho hạ thần người nào khoẻ mạnh và to lớn nhất. Thần sẽ giết chết hắn ngay lập tức chỉ bằng một cú đấm”. Người ứng cử vào chức thái y thưa: “Xin hãy mang đến cho hạ thần người nào ốm yếu bệnh tật nhất. Thần sẽ chữa người đó hết mọi thứ bệnh chỉ trong vòng một tuần lễ.”
Người ta lại đi tìm đối tượng cho hai ứng cử viên ấy thi thố tài năng. Và thật là bất ngờ, chính hai người ăn mày trên được chọn. Chỉ bằng một cú đấm, người ứng cử vào chức cận vệ đã giết chết người ăn mày to khoẻ. Và chỉ trong một tuần lễ, người ứng cử vào chức thái y đã chữa người ăn mày ốm yếu hết mọi thứ bệnh. Thế là sức mạnh của người ăn mày to khoẻ lại khiến anh phải chết, còn sự ốm yếu của người ăn mày bệnh tật lại giúp anh khoẻ mạnh!
Thánh Phaolô đã nói rất đúng: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”. Người ta thường không té ngã vì yếu, nhưng vì tưởng mình mạnh. Thánh Phaolô biết mình yếu, nhưng đồng thời Ngài cũng biết bù đắp sự yếu đuối của mình bằng sức mạnh vô địch của Chúa, “vì sức mạnh của Chúa được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối (của con người)”. (Viết theo Flor McCarthy)
7. Dụ ngôn sống động về chung hiệp đại kết
Năm 1940 một thanh niên Tin Lành người Thụy Sĩ dừng xe đạp trước một ngôi làng hẻo lánh trong cảnh hoang tàn. Một bà cụ khẩn khoản nói với người thanh niên ấy: “Xin ở lại đây với chúng tôi vì anh thấy rõ chúng tôi sống trong cảnh cô lập.” Người thanh niên ấy nay được cả thế giới biết đến với danh xưng thân thương là Thầy Roger. Đối với thầy Roger, lời mời của bà cụ nói lên ý Chúa dành cho thầy. Khi ấy nước Pháp đang trong tình trạng chiến tranh, đất nước bị chia đôi, ranh giới giữa khu chiếm đóng và khu tự do xuyên qua làng Taizé. Thầy Roger đã kiếm cho mình một nơi ở và bắt đầu một đời sống cầu nguyện và suy niệm. Nhưng hoàn cảnh đặt thầy trước những con người cụ thể bị Đức Quốc Xã truy lùng để tiêu diệt. Thầy đã đón tiếp và che giấu những người Do Thái đáng thương ấy. Một mình thầy đứng ra săn sóc an ủi những người nam và nữ chạy trốn quân đội Hít-le. Nhưng vì quân Đức Quốc Xã truy lùng đối tượng gắt gao nên thầy buộc phải trở về quê hương Thụy Sĩ. Năm 1944, thầy Roger trở lại Taizé, lần nầy với 3 đồng chí quyết tâm gầy dựng nên cộng đoàn tu sĩ đại kết rộng mở. Mục tiêu mà cộng đoàn này nhắm thể hiện là trở nên như “bài dụ ngôn sống động về một đời sống chung hiệp”. Cộng đoàn chủ tâm dâng lời cầu nguyện để góp phần làm cho các Giáo Hội Kitô được hòa giải. Hai chủ đích ở tâm điểm của sứ mạng theo thầy Roger là: Phải dám liều thân dấn mình vào việc giúp đỡ những người nghèo nhất và hoà giải với đức tin công giáo. Ngay từ ban đầu thầy Roger đã nối kết với Roma bằng những mối dây của niềm tin tưởng. Thầy đã kết thân với 3 vị Giáo Hoàng là Đức Gioan XXIII, Đức Phaolô VI và Đức Gioan Phaolô II. Thầy nói: “Đức Gioan XXIII đã là cha linh hướng đích thực cho chúng tôi. Chính ngài đã ủng hộ để cộng đoàn Taizé mà ngài gọi là mùa xuân, được chào đời.”
Ngày nay cộng đoàn Taizé có cả trăm thành viên Công Giáo cũng như Tin Lành thuộc nhiều truyền thống khác nhau, đến từ hơn 25 quốc gia trên thế giới. Họ không nhận quà tặng nhưng tự mình lao động để góp phần nuôi sống cộng đoàn và chia sẻ với người khác. Họ cũng không nhận cho mình tài sản kế thừa nhưng chỉ nhận làm quà tặng cho người nghèo mà thôi. Kể từ những năm 50, cộng đoàn Taizé đã phái thành viên của mình đến sống nơi những môi trường nghèo trên thế giới. Riêng về nữ tu, có hội dòng thánh Anrê từng được thiết lập trong Giáo Hội Công Giáo đã 7 thế kỷ nay. Kể từ 1966, hội dòng này đã phái người đến ở một làng kế cận Taizé để tham gia việc đón tiếp khách từ thập phương.
Ảnh hưởng của Taizé về đại kết nhất là với người trẻ ở Âu Châu, thật là rõ nét. Để nâng đỡ người trẻ, cộng đoàn này đã khơi động một cuộc hành trình về tin tưởng lẫn nhau trên toàn cầu. Taizé không tổ chức người trẻ thành phong trào qui về Taizé, nhưng khuyến khích họ mang lại bình an, hoà giải, niềm tin tưởng lẫn nhau ngay nơi những thành phố, những đại học, những sở làm việc, những giáo xứ. Và như vậy, người trẻ được khuyến khích sống chung hiệp với mọi thế hệ. Về cuối mỗi năm dương lịch, Taizé có tổ chức một cuộc tập họp người trẻ tương đối lớn trong 5 ngày. Cuộc họp giới trẻ đại kết vào cuối năm 1994, thu hút hơn một trăm ngàn người trẻ từ nhiều nước tới họp tại Paris của nước Pháp.
Mỗi dịp tập họp như vậy, thầy Roger gửi đến tay người trẻ một bức thư được dịch ra trên 50 thứ tiếng. Nội dung thư đó bao gồm Lời Chúa như chất liệu để suy niệm suốt năm cho tới cuộc họp cuối năm tới. Thư đó vị sáng lập cộng đoàn Taizé thường viết từ một nơi nổi tiếng về mức sống nghèo của người dân như Calcutta, Chili, Haiti, Êtiôpi, Phi Luật Tân, Phi Châu….
Bởi đâu thầy Roger thực hiện được những việc có ý nghĩa thiêng liêng như vậy? Có lần thầy cắt nghĩa cho thấy thầy đã nhận sứ mạng góp phần hoà giải giữa các Kitô hữu từ nơi bà ngoại thầy. Ngoại của thầy đã từng trải qua hai cuộc chiến (1870 và 1914-1918) và đã từng dặn dò cháu Roger Schultz khi còn tấm bé rằng: “Cháu đừng trải qua những điều bà đã phải trải qua! Đừng chấp nhận nhìn cách bàng quan những điều bà đã mắt thấy tai nghe! Hãy góp phần chuẩn bị để Âu Châu được bình an nhờ biết sống hoà giải giữa các Kitô hữu.” Tuy là tín hữu Tin Lành, ngoại đã chọn đến nhà thờ Công Giáo để kín múc lấy sức mạnh hoà giải từ bí tích Thánh Thể. Thực ra ngoại không chỉ nói cũng không chỉ cầu nguyện, nhưng đã nêu gương sống động nhờ biết dấn thân tiếp đón những người già, phụ nữ và trẻ em, phải chạy giặc dưới làn bom đạn. Ngoại đã kiên trì làm việc thương người đó hầu như tới phút cuối cùng của đời ngoại.
Biến cố quyết định cho việc thầy Roger hiến dâng đời mình cho công cuộc hoà giải xảy ra khi thầy lên 17. Khi ấy thầy mắc bệnh lao phổi và nghiệm thấy cái chết không xa. Thầy đối diện với ý nghĩa cuộc đời và tự hỏi do đâu xảy ra đau khổ, hằn thù khiến các dân tộc sát hại nhau. Hỏi rằng có con đường nào giúp người này hiểu người kia để cùng nhau xây dựng hoà bình chăng? Điều trở nên minh nhiên nơi nội tâm thầy Roger là cần phải chữa trị trái tim con người. Thầy nghe tiếng nói thúc giục thầy rằng: “Nếu quả thật có con đường hoà giải đó thì tôi hãy bắt đầu dấn thân bước theo con đường đó đi.” Kể từ ngày thầy Roger nghe thấy lời thúc giục đó, thầy quyết tâm tận hiến cả cuộc đời để đạt cho được mục đích lý tưởng nầy để có được sự hoà giải và đại kết trong cộng đồng nhân loại. Nay thầy đã 84 tuổi và quyết định ấy càng thêm khởi sắc. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã về thăm quê hương, nhưng những người đồng hương ở Nazaret đã không tin Người mà còn muốn hại Người. Chúng ta là Kitô hữu mang tên của Chúa, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
1. Xin cho mọi người Kitô hữu trong Hội thánh còn yếu đức tin hoặc còn cứng lòng tin / được soi sáng và thông hiểu / để lớn lên trong đức tin và có thể truyền giáo cho mọi người.
2. Xin cho mọi người trên thế giới còn đang chống đối hoặc dửng dưng với Thiên Chúa / đừng bắt buộc hoặc lôi kéo những người khác phải theo họ / nhưng biết tôn trọng tự do tín ngưỡng của mọi người.
3. Xin cho những người đang có những thành kiến hoặc thất vọng về Thiên Chúa / được gặp nhiều chứng nhân về sự thật và về tình yêu Thiên Chúa / để họ tìm ra ánh sáng và hy vọng.
4. Xin cho các Kitô hữu trong họ đạo chúng ta đừng tự hào mình đã biết tất cả về Chúa / không muốn tìm hiểu học hỏi gì thêm / để chỉ khư khư giữ lấy những thành kiến sai lầm về Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa Kitô, chúng con là Kitô hữu mang tên của Chúa, xin cho chúng con càng ngày càng hiểu biết Chúa đầy đủ hơn, để chúng con có thể giới thiệu Chúa cho mọi người thân cận, Chúa là Đấng hằng sống hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu Con Thiên Chúa đã chia xẻ cho chúng ta sứ mạng ngôn sứ của Ngài, một sứ mạng vừa cao cả vừa khó khăn. Chúng ta hãy hợp ý với Ngài dâng lên Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu và cũng là Cha chúng ta lời Kinh Lạy Cha, xin Cha giúp chúng ta can đảm thi hành sứ mạng của mình.
Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con can đảm đấu tranh chống lại sự dữ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”
VII. Giải tán
Thánh lễ đã xong, anh chị em hãy ra về thi hành chức năng ngôn sứ của mình. Chúc anh em được bình an.
25. Thèm khát
Có một lực sĩ, trong cuộc tranh tài quốc tế đã đoạt chức vô địch với tấm huy chương vàng. Các bạn bè hâm mộ anh, đã dựng một tượng đài để tỏ lòng khâm phục anh. Điều đó đã làm cho một lực sĩ khác tỏ ra thèm khát. Anh này, ban đêm đã hì hục trong bóng tối để đào bới với hy vọng phá đổ tượng đài ấy. Trong lúc anh này đang cố gắng xô đẩy bức tượng, người ta nhận thấy bức tượng lắc lư trên chiếc đế, rồi bỗng dưng đổ nhào xuống trên đầu và đè chết anh lực sĩ thèm khát này.
Đó là một câu chuyện tiêu biểu cho tính thèm khát, một tính xấu đã từng thâm nhập vào tâm hồn nhiều người. Tính xấu này cũng đã có mặt qua đoạn Tin mừng hôm nay. Nhiều người bà con lối xóm tại Nagiarét, nơi Đức Kitô sinh trưởng đã tỏ ra bực bội tức tối vì Ngài được tôn kính và ca tụng do những lời Ngài nói và những việc lạ lùng Ngài làm. Họ từ chối không muốn nghe lời Ngài, không muốn tin vào Ngài, không muốn bước theo Ngài. Kết quả là Chúa Giêsu đã không làm được phép lạ nào ở chính quê hương bản quán của Ngài, chỉ vì họ cứng lòng tin.
Thèm khát và ghen tị thì rất gần gũi nhau… Thèm khát thì liên hệ tới cái người khác có. Còn ghen tị thì liên hệ tới sự chú ý và tình cảm người khác được. Phải chăng tôi buồn vì người khác đẹp hơn tôi, nổi tiếng hơn tôi, giàu sang hơn tôi, có nhà cao cửa rộng hơn tôi. Phải chăng tôi buồn vì một ai đó được tôn trọng và được kính nể hơn tôi. Chúng ta cần phải lưu ý: nếu chỉ mơ ước có được một cái gì đó mà người khác đã có thì chưa phải là thèm khát. Mơ ước đó chỉ trở thành thèm khát khi thiếu những cái đó, sẽ làm cho chúng ta buồn phiền, bất mãn và khốn khổ.
Chúa đã qui định hai giới răn để kìm hãm lòng thèm khát của chúng ta. Điều răn thứ chín quy định: chớ muốn vợ chồng người và điều răn thứ mười: chớ tham của người. Và như thế, thèm khát là ham muốn một cách trái phép. Hầu hết các tội lỗi đều do sự ham muốn này gây nên, chẳng hạn: vì ham muốn tài sản của người khác mà mới nảy sinh những tội như ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp, ăn gian.
Sự ghen tị cũng vậy, vì nó mà nảy sinh ra nói hành nói xấu, bỏ vạ cáo gian và những hành động mờ ám khác nữa. Sự ghen tị xấu xa nhất đã đem cái chết cho Đức Kitô Đấng cứu độ chúng ta.
Bài Tin mừng hôm nay còn cho chúng ta thấy lòng ghen tị đã làm mù quáng những kẻ mà đáng lẽ có thể tin theo Ngài. Vậy chúng ta có thái độ nào đối với lòng ghen tị. Khi người khác được thành công, được may mắn, được kính nể, chúng ta có biết cảm tạ Chúa cho họ hay không? Còn nếu như chúng ta bị người khác ghen tị, chúng ta có biết xin Chúa giúp họ chế ngự và sửa đổi lầm lỗi ấy hay không? Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ chống đối Ngài, thì giờ đây chúng ta hãy xin Ngài giúp đỡ chúng ta biết vượt thắng sự thèm khát và lòng ghen tị nơi bản thân chúng ta, cũng như nơi những người chung quanh chúng ta.
26. Những điều nghịch lý
(Suy niệm của Jean Yves Garneau)
Những điều nghịch lý: đó là những ý kiến hoặc thực tại ngược với những gì vẫn được người ta chấp nhận hoặc ngược với những gì phải có theo lẽ bình thường.
Trong những đoạn Kinh Thánh của Chúa nhật hôm nay ta có thể rút ra hai điều nghịch lý: Điều thứ nhất trích từ Tin Mừng; điều thứ hai từ thư thánh Phaolô gởi giáo đoàn Corintô. Chúng ta hãy bắt đầu với điều nghịch lý của Tin Mừng.
Bị người nhà của Ngài chối bỏ.
Sau một chuyến đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu trở về quên hương. Người ta chỉ nghe toàn tiếng vang thuận lợi về Ngài.
Ngài rao giảng như không bao giờ đã có ai rao giảng. Ngài làm phép lạ, Ngài chữa lành bệnh nhân. Vậy nên, nơi hội đường trong ngày Ngài trở về cứ tưởng người ta sẽ đón rước Ngài một cách long trọng. Thế mà không. Con cái của quê hương không được đón tiếp niềm nở. Người ta khó lòng tưởng tượng tượng đứa con trai bác thợ mộc và của bà Maria lại có thể là người đã được ca tụng như thế, liệu ông ta có làm được những gì mà người ta nói rằng ông ta đã làm ở nơi khác chăng? Thánh Marcô viết: “Và họ lấy làm chướng tai gai mắt về Ngài”.
Khi đọc bản văn Tin Mừng hôm nay liền nghĩ đến điều này, là rất thường người ta phải khó nhọc lắm mới có thể bắt chúng ta nhìn nhận tài năng –không phải của con cái hoặc những thành viên trong gia đình chúng ta- nhưng là của những người lối xóm, những người đồng hương với chúng ta. Sự nhỏ nhen này không phải là không có hậu quả tiêu cực, bởi vì chúng làm tổn thương người khác và ngăn cản những dự định tốt.
Khi đọc bài Tin Mừng này tôi cũng nghĩ đến cách mà chúng ta đón nhận (hoặc không đón nhận) và lắng nghe (hoặc không lắng nghe) những kẻ rất gần chúng ta, là chứng nhân của Thiên Chúa: Đứa bé này đặt câu hỏi cho chúng ta do bởi sự sốt sắng của nó; Người hàng xóm này nói về tôn giáo cho chúng ta, người thiếu niên này chống lại cái mà nó gọi là những giá trị giả tạo của chúng ta. Vị linh mục này, nhân danh Chúa Kitô, đặt lại vấn đề về những lối hành động và suy tư của chúng ta. Bởi vì chúng ta quen biết tất cả những người này (có lẽ quá!) bởi vì chúng ta biết những tật xấu và những yếu điểm của họ, nên chúng ta có khuynh hướng hạ giá chứng tá của họ.
“Một ngôn sứ chỉ bị chối bỏ nơi quê hương, bởi bà con và gia đình mình mà thôi”. Đó là điều khiến Chúa Giêsu đã nhận xét. Điều mà chúng ta thường thấy xẩy ra! Nếu chúng ta thuộc về số những kẻ không có quyền lên tiếng với bà con của mình, và không được đón tiếp ân cần trong chính nhà của mình, nơi giáo xứ, môi trường của mình… ta hãy cứ tỏ ra bình thản. Ta hãy tự nhủ rằng Chúa Giêsu đã bị đối xử như thế và môn đệ không thể hơn Thầy được.
Sức mạnh trong nỗi yếu đuối.
Nghịch lý thứ hai chính thánh Phaolô trình bày cho chúng ta khi người đặt trong miệng Thiên Chúa Lời này: “Quyền uy của Ta tỏ hiện tột mức trong sự yếu hèn”. Con người càng mạnh, càng tự hào và tự tin, càng cậy dựa vào những khả năng của mình thì quyền uy của Thiên Chúa càng ít được thể hiện nơi họ. Trái lại họ càng khiêm tốn, bé nhỏ, ý thức giới hạn của mình và hoàn toàn tin tưởng nơi Thiên Chúa, lúc đó quyền năng của Thiên Chúa càng có thể được tỏ hiện nơi họ.
Nghịch lý thực sự, ngược với những gì chúng ta nghe nói mỗi ngày và những gì nhiều lần chính chúng ta tưởng nữa. Phải thông thái, giàu có, thống trị kẻ khác… mới thành công được ở đời. Đó là triết lý thông thường! Ngược hẳn với những gì Thiên Chúa nghĩ. Thiên Chúa ưa thích làm những điều lớn lao qua những kẻ bé mọn, nghèo nàn, yếu đuối, khiêm tốn, những kẻ không tôn mình lên, những kẻ xác tín rằng nếu mình có làm được điều gì lớn lao, thì đó không phải là nhờ sự cao cả của mình nhưng nhờ sự cao cả của Thiên Chúa được mặc khải nơi mình.
Đức Maria, một phụ nữ mà người ta không để ý đến. Nhưng có biết bao nhiêu điều tuyệt diệu Thiên Chúa đã làm nơi người và nhờ người! Thánh Phaolô, một con người kiêu hãnh và tự mãn đã bị thử thách và tổn thương nhiều nơi thân xác và đã trở thành một người khiêm tốn. Cũng nơi người và nhờ người nữa, Thiên Chúa đã làm những điều cao cả.
Bao giờ cũng thế. Những kẻ ốm đau, Thiên Chúa ưa thích làm việc qua họ. Những kẻ coi như không ra gì, lại chính là những kẻ Ngài rất thường chọn để thực hiện những dự tính đẹp đẽ nhất của Ngài.
Ta hãy kết thúc những suy tư này bằng một cái nhìn về bản thân chúng ta. Nếu chúng ta có khổ vì những yếu đuối, nhựng rụt rè, những nỗi lo sợ, những nỗi bất lực của chúng ta, chúng ta cũng đừng ngã lòng. Trái lại chúng ta hãy phục vụ Chúa hết mình và xin Ngài thực hiện cho chúng ta những gì mà biết bao lần Ngài đã thực hiện cho những người khác. Xin Ngài biểu lộ quyền năng của Ngài nơi nỗi yếu hèn của chúng ta.
27. Những mạc khải phi thường
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Chủ đề của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh là Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh. Như tuần trước đã chia sẻ, Chúa Kitô đã tái sinh con người bằng việc tỏ mình ra của Người, trước hết bằng “nước” qua các sinh động của nhân tính Người, rồi sau đó bằng “Thần Linh” khi Người từ trong kẻ chết sống lại. Việc Người tái sinh con người bằng “nước”, qua lời Người nói và việc Người làm, là để con người tin vào Người, là để con người được “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô” (Jn 17:3). Thế nhưng, vấn đề là ở chỗ con người có biết đáp lại Mạc Khải Thần Linh hay chăng, tức có biết chấp nhận những lời Người nói và việc Người làm hay chăng, đúng hơn có biết chấp nhận chính bản thân Người “là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16) hay chăng? Đó là vấn đề của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIV Thường Niên Năm B, vấn đề liên quan đến thái độ đáp ứng của dân Do Thái, một thái độ cứng lòng tin của dân này, một dân đã được Thiên Chúa tuyển chọn và được Ngài tỏ mình ra cho suốt giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ, một mạc khải đã lên đến tuyệt đỉnh nơi Lời Nhập Thể là Con Người Giêsu Nazaret, Vị Thiên Sai của Ngài.
Thật vậy, việc dân Do Thái đáp ứng Mạc Khải Thần Linh, (một Mạc Khải được thể hiện qua Giao Ước và Lề Luật của họ do Chúa đã tự ký kết với họ và ban bố cho họ), bằng thái độ cứng lòng của dân Do Thái đã được chính Thiên Chúa minh định qua miệng tiên tri Êzêkiên trong bài đọc một như sau: “Hỡi con người, Ta sai ngươi đến cùng những người Do Thái, đến cùng những kẻ phản loạn chống lại Ta; họ và cha ông họ đã phản chống Ta cho tới ngày hôm nay. Ta sai ngươi đến với họ là những kẻ dầy mặt và cứng lòng”. Thái độ thiếu đáp ứng đến cứng lòng này của thành phần dân tuyển chọn này được bộc lộ rất rõ ràng nơi thánh phần dân Do Thái ở quê quán của Vị Thiên Chúa Làm Người. Ở chỗ, trước Mạc Khải Thần Linh là Chúa Giêsu Kitô, họ đã đặt vấn đề: “Làm sao hắn lại có được tất cả những điều này nhỉ? … Khôn ngoan…? …. Các việc lạ lùng….? Hắn chẳng phải là một tay thợ mộc, đứa con trai của bà Maria, anh em của James, Joses, Judas và Simon hay sao? Và chị em của hắn không phải là dân làng của chúng ta hay sao?” Thánh Ký Marcô tóm lược nội dung thắc mắc của họ như sau: “Họ thấy Người quá sức đối với họ”. Đến nỗi, vị tác giả Phúc Âm này kết luận: “Người không làm một phép lạ nào ở đó, ngoại trừ chữa một ít người bị bệnh bằng cách đặt tay lên họ”. Chưa hết, “Người cảm thấy hết sức buồn phiền trước việc thiếu niềm tin của họ”.
Qua những câu Phúc Âm vừa trích dẫn trên đây, chúng ta thấy, trước hết, muốn thấy phép lạ hay muốn được hưởng phép lạ cần phải có đức tin. Việc Chúa Kitô thực sự có làm một vài phép lạ ở quê quán của Người bấy giờ chứng tỏ không phải tất cả mọi người không tin vào Người. Song kẻ tin vào người thường là thành phần xấu số bất hạnh, như thành phần khốn khổ, thành phần mong được Đấng Quyền Năng giải cứu cho khỏi cảnh khốn khổ của mình, thành phần Đấng Toàn Năng thực sự cũng muốn sử dụng hay lợi dụng để tỏ vinh hiển của Người ra, như trường hợp thiếu rượu ở tiệc cưới Cana (x Jn 2:11), hay trường hợp người mù từ lúc mới sinh (x Jn 9:3), nhất là trường hợp Lazarô ở Bêthania (x Jn 11:4). Tuy nhiên, khi tỏ mình ra cho một cá nhân nào hay nơi một cá nhân nào, Thiên Chúa cũng muốn qua cá nhân ấy tỏ mình ra cho những người khác nữa. Ba trường hợp vừa được viện dẫn trên đây đã cho thấy rõ ý định này của Chúa Giêsu. Thậm chí chính việc Người tỏ mình ra cho riêng chị phụ nữ Samaritanô bên bờ giếng Giacóp cũng đã trở thành động lực thúc đẩy chị làm cho dân làng chị tiếp đón Người để rồi đi đến chỗ tự động nhận biết Người (x Jn 4:39-42).
Nếu mục đích của Lời Nhập Thể là để “tỏ Cha ra” (Jn 1:18), và Người đã làm hết mình để cho con người nhận biết Cha qua Người, thì quả thực Người chỉ khao khát được mọi người nhận biết và yêu mến, đúng như Người đã có lần bày tỏ nỗi niềm thao thức của mình: “Thày đến để thắp sáng trên thế gian. Thày muốn cho nó bừng lên biết bao!” (Lk 12:49). Bởi thế, một khi không được mãn nguyện, về bản tính loài người, Người làm sao không thật sự cảm thấy buồn phiền, một nỗi buồn phiền sâu xa day dứt, đúng như Thánh Ký Marcô đã nhận định về Người ở gần cuối bài Phúc Âm “Người cảm thấy hết sức buồn phiền trước việc thiếu niềm tin của họ”. Thế nhưng, Người vẫn không nản. Chính vì thế mà Người càng phải nỗ lực tỏ mình ra hơn nữa cho con người, không ở nơi này thì ở nơi khác, không vào lúc này thì ở lúc kia, nhất là cho thành phần chiên lạc của Người, thành phần nghe thấy tiếng của Người và cũng là thành phần Người đến tìm kiếm cho bằng được, cho đến khi họ đi theo Người (x Jn 10:27,26). Đó là lý do, bài Phúc Âm đã kết luận bằng câu: “Thế nhưng, (tức là cho dù có cảm thấy hết sức buồn phiền về tình trạng thiếu lòng tin nơi quê quán của mình), Người đã rảo khắp các làng mạc lân cận để giảng dạy”.
Nếu Chúa Kitô đã khẳng định với người Do Thái: “Chiên Tôi thì nghe tiếng của Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Jn 10:27), và Người cũng đã khẳng định với tổng trấn Philatô: “Ai tìm kiếm chân lý thì nghe thấy tiếng của Tôi” (Jn 18:37), thì quả thực ai được nghe Lời Chúa đã là một đặc ân và ai nghe được Lời Chúa là càng là một ơn phúc chứ không phải chuyện thường. Tức là muốn nghe được Lời Chúa vô cùng sâu nhiệm như chính Thượng Trí của Người thì con người trần gian cần phải được Người ban cho chính Thần Linh của Người là Thần Chân Lý nữa, một Thần Linh Người quả thực đã thông ban cho Giáo Hội qua các vị tông đồ vào ngày thứ nhất trong tuần sau khi Người từ trong kẻ chết sống lại (x Jn 20:22), họ mới có thể phần nào thấu triệt “tất cả sự thật” (Jn 16:13), thấu triệt “những mạc khải phi thường” mà đạt đến Thực Tại Thần Linh.
Ở bài đọc thứ hai, qua bức thư thứ hai gửi cho giáo đoàn Côrintô, Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã cho thấy hậu quả và thái độ của chính bản thân mình, một con người đã nhận được “những mạc khải phi thường”, những mạc khải được thánh nhân cho biết là “nghe thấy những lời khôn tả không ai có thể nói” trên tầng trời thứ ba (x 2Cor 12:4). Hậu quả mà con người nhận được “những mạc khải phi thường” này phải chịu đó là, như đương sự thành thật chia sẻ trong bài đọc thứ hai: “một cái gia đâm vào xác thịt, một thần của Satan làm tôi bầm dập để giữ cho tôi khỏi kiêu hãnh”. Và thái độ của con người nhận được “những mạc khải phi thường” này cần phải tỏ ra là “bằng lòng với nỗi yếu hèn, với bạc đãi, với buồn đau, với bách hại và các thứ khốn khó vì Chúa Kitô. Vì khi tôi bất lực là lúc tôi mạnh mẽ”. Thái độ của vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, một con người không hề ở với Chúa Kitô ngay từ đầu đến cuối như Mathias, vị tông đồ được chọn thay cho Giuđa (x Acts 1:21-22), nhưng vẫn được gọi là Tông Đồ, tức thuộc về thành phần chứng nhân tiên khởi, thành phần phải hội đủ điều kiện được Chúa Kitô đích thân tỏ mình ra cho và trực tiếp sai đi, vì con người này cũng được chính Chúa Kitô tỏ mình và sai đi (x Gal 1:12, 16; Acts 9:3-6, 13:2-3), thực sự là tinh thần của một người môn đệ đích thực của Chúa Kitô, một người môn đệ sau khi nhận được những mạc khải phi thường thì vì Chúa mang đi chia sẻ, bất chấp mọi khó khăn thử thách.
Ở đầu bài Phúc Âm Chúa Nhật XIV năm B cũng nhắc đến sự kiện các môn đệ theo Chúa Giêsu về quê quán của Người, thành phần đi theo Người ấy không thể nào không chứng kiến thấy nỗi khổ tâm buồn phiền của Thày mình trước tình trạng cứng lòng tin nơi dân làng của Thày, hay nói cách khác, tình trạng có vẻ thất bại của Thày, nhưng đồng thời các vị cũng chứng kiến thấy thái độ hăng say không nản chí của Thày, như cuối bài Phúc Âm nói tới, trong việc hoàn thành sứ vụ chứng nhân của Người về chính bản thân Người và về Cha của Người. Các môn đệ được Chúa Kitô tuyển chọn để sống sát bên Người không phải chỉ để nghe lời Người nói và thấy việc Người làm, mà còn để thấy được tinh thần sống của Người nữa hầu bắt chước mà làm theo, như Người khẳng định với các vị sau khi làm gương phục vụ qua việc rửa chân cho các vị trước Bữa Tiệc Ly (x Jn 13:15).
Tóm lại, tất cả những gì phát xuất từ Chúa Kitô là Lời Nhập Thể đều là “những mạc khải phi thường”, những mạc khải trước hết được tỏ ra cho thành phần môn đệ của Người (x Mt 13:16-17), để họ có thể trở thành những chứng nhân của Thày (x Lk 24:48), thành phần sẽ được Người sai đi rao giảng ngay khi Người còn sống, như bài Phúc Âm tuần tới nói đến…
28. Chúa Nhật 14 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Phanxicô M. Hưng Long, CRM)
ĐÓN TIẾP CHÚA TRONG SỰ TẦM THƯỜNG
Hôm nay, thánh sử Marcô thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu trở về quê quán của Ngài là làng Nazareth nhưng lại bị dân làng từ chối đón tiếp. Lý do của họ rất đơn giản. Chỉ vì họ quá quen Ngài.
Có lẽ nhiều người trong họ đã cùng lớn lên với Ngài, cùng chung tuổi trẻ với Ngài, và làm việc thờ phượng chung với Ngài nơi hội đường. Họ quen biết từ lời Ngài nói, việc Ngài làm, và tất cả hoàn cảnh gia đình của Ngài. Họ biết Ngài như một người thường, là con của Ông Giuse và Bà Maria cũng là những người thường.
Hôm nay bỗng dưng Chúa trở về quê, giảng dạy và làm những phép lạ mà từ xưa tới nay chưa có ai làm được. Họ sửng sốt và kinh ngạc về những lời nói việc làm của Chúa, nhưng vì quá quen hoàn cảnh gia đình của Chúa, vì nghĩ Chúa là người cùng làng, chẳng có gì hay, chẳng có gì khác hơn họ, nên họ đã không nhận ra được bàn tay Thiên Chúa ở giữa họ, không chấp nhận được Thiên Chúa ở trong Ngài, và không tin Ngài có thể đem Tin Mừng nước Chúa đến cho họ. Đã không thể nhận ra Ngài là Thiên Chúa, họ còn coi thường và khinh thị Ngài nữa.
Thái độ của dân làng Nagiarét đôi khi cũng là thái độ của mỗi người chúng ta. Nhiều khi quen việc gì hay người nào lâu, chúng ta dễ nhàm chán coi thường. Lẽ ra càng ở gần người nào lâu, chúng ta càng thêm lòng quí mến, kính trọng, mới đúng, nhưng oái ăm thay chúng ta lại dễ coi thường.
Cái nhược điểm lớn của chúng ta là vì quá quen thuộc nên nhiều khi chúng ta chỉ nhìn thấy khuyết điểm của nhau, những lỗi của nhau, thay vì nhìn thấy những sự tốt lành, những ơn cao cả mà mỗi người chúng ta có. “Gần chùa gọi bụt bằng anh” là vậy.
Tệ hơn nữa là nếu chúng ta lại có óc thành kiến. Sự thành kiến làm cho con người ra mù tối không nhận ra sự thật. Khi chúng ta đã yên trí người này người kia là thế này thế nọ rồi, chúng ta khó thoát khỏi sự coi thường hay khinh thị họ. Chúng ta đánh giá con người của họ thấp tháp và tầm thường. Cho dù họ làm gì, nói gì, chúng ta cũng không muốn nghe, không muốn chấp nhận. Dù họ có những ý kiến hay, việc làm tốt, chúng ta cũng có thể gạt qua và cắt nghĩa xấu cho họ.
Chuyện kể rằng, có một anh chàng bị mất búa, anh hồ nghi là anh hàng xóm lấy mất. Vì hồ nghi và yên trí nên từ đó anh nhìn tất cả những ngôn ngữ hành động của người hàng xóm là những ngôn ngữ hành động của kẻ trộm. Cũng may là anh tìm lại được búa sớm, nên người hàng xóm mới thoát khỏi tiếng mang tội ăn trộm. Quả thật, câu nói đeo kính đen thì nhìn cái gì cũng đen thật là như thế.
Sự thành kiến làm cho chúng ta mù, chỉ nhìn những gì chúng ta muốn nhìn, do đó khó nhận ra sự thật. Người thành kiến kéo mành cửa sổ tâm trí xuống không cho ánh sáng chân lý chiếu vào. Vì thế, họ không thể lớn lên trong trí thức cũng như tinh thần.
Thành kiến làm hại chúng ta, làm cho tâm hồn và tâm trí chúng ta ra nhỏ mọn, vậy chúng ta hãy cố gắng đừng để nó len lỏi vào tâm trí chúng ta, hãy tống nó ra khỏi đời sống chúng ta kẻo nó ngăn cản chúng ta lớn lên trong sự liên đới với Chúa và với anh chị em chúng ta.
Nếu tiêu diệt được óc thành kiến chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra sự hiện của Chúa trong cuộc đời, trong những biến cố nhỏ mọn quen thuộc của cuộc sống. Thật sự chúng ta không phải tìm Chúa ở đâu xa. Ngài hiện diện trong mọi người, mọi nơi, và mọi biến cố xảy đến với chúng ta. Ngài hiện diện qua sự tốt lành của những người thân, những người hàng xóm, những người chúng ta tiếp xúc hằng ngày.
Vậy, Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta đừng coi thường, đừng từ chối sự hiện diện của Chúa được bày tỏ qua sự tốt lành của gia đình, hay bạn bè thân thuộc của chúng ta. Chúng ta hãy cố gắng biết ơn và khen ngợi sự tốt lành chúng ta đang được hưởng. Thí dụ hãy cho người bạn đời của chúng ta một cử chỉ quí mến, những người đã nấu ăn cho chúng ta một lời khen tặng, những người hàng xóm đã thăm hỏi nói chuyện với chúng ta, hoặc những bạn bè thân thiết đã quan tâm, nâng đỡ, và dành cho chúng ta thời giờ quí báu một lời cám ơn chân thành.
Nếu chúng ta thực hiện những điều vừa nói trên là chúng ta đón tiếp Chúa Giêsu, đón tiếp sự hiện diện của Ngài trong những người quen, trong những biến cố rất quen thuộc của cuộc đời, để nhờ đó Ngài có thể thực hiện những sự lạ lùng nơi tâm hồn chúng ta.
29. Chúa Nhật 14 Thường Niên
(Suy niệm của Charles E. Miller – Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng”)
CÓ PHẢI CHÚA GIÊSU TRONG GIÁO HỘI
THÌ QUÁ NHIỀU CHO CHÚNG TA KHÔNG?
Hầu hết dân chúng hay hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình nhất là những người trẻ, chúng rất ngưỡng mộ những ngôi sao thể thao, những tài tử hoặc những chính trị gia. Chúng rất kiêu hãnh khi từ nơi chúng đã sản xuất ra những nhân vật quan trọng như thế. Vì sao dân chúng của chính thành phố nơi sinh trưởng của Chúa Giêsu lại từ bỏ Người? Phúc Âm nói rằng họ thấy Người có quá nhiều tài năng đối với họ. Quá nhiều đó là gì? Điều đó có ý nghĩa là Ngài làm quá nhiều theo ý kiến của họ, theo cái nhìn của họ, Ngài là một người bình thường, một người thợ mộc, là con của bà Maria. Ai đã làm cho Người trở nên một tiên tri?
Rao giảng như một tiên tri đã làm phát sinh ra sự thù nghịch nơi dân thành phố quê hương của Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu là một nhân vật thể thao, một tài tử, một chính trị gia, có lẽ Ngài không bị đe doạ bởi dân chúng. Họ đã kiêu hãnh về Người. Nhưng còn một tiên tri thì sao? Một tiên tri thì có thể sẽ bị mọi người từ bỏ. Tiên tri có thể giới thiệu thách đố hoặc là lời khiển trách. Tiên tri thì tuyên bố chân lý. Những láng giềng của Chúa Giêsu thì sợ Ngài. Từ sự sợ hãi dẫn đến sự từ bỏ. Dân chúng ở Nazareth trở nên giống như tổ tiên của họ, khi Thiên Chúa đã gởi tiên tri Ezekien đến. Họ đã cau mặt và có trái tim chai đá. Điều đó thật xấu hổ biết bao. Khi mà Chúa Giêsu thật sự còn hơn là một tiên tri nữa, chính Con Thiên Chúa đang ở giữa họ. Chúng ta cũng sẽ quay trở lại chống Chúa Giêsu không?
Chân lý này là Chúa Giêsu vẫn ở lại giữa chúng ta. Ngài nói với chúng ta khi Thánh Kinh được đọc lên trong nghi thức phụng vụ và Ngài đã dạy dỗ chúng ta qua những giáo huấn của Giáo Hội. Những lúc đó chúng ta có sợ lắng nghe không? Chúng ta có sợ phải thay đổi cách sống, cách suy nghĩ và hành động của chúng ta không? Chúng ta có khuynh hướng tự phơi bày chính mình qua những điểm giáo huấn khó khăn bởi vì chúng ta chứng minh vật chất thì có thể gây ra tranh luận và quá phức tạp? Chúng ta có tìm thấy rằng chúng ta có cái nhìn thiển cận đối với giáo huấn của Giáo Hoàng, các Giám mục không?
Công đồng Vatican II cảnh cáo về sự phá thai là một tội không lời nào tả được, mà nhiều xứ sở trong chúng ta lại nói rằng quyền chọn lựa thì quan trọng hơn quyền được sống. Đức Giáo Hoàng đã cảnh cáo chúng ta chống lại văn hoá sự chết, bằng cách làm rõ ràng trong việc trợ giúp tự tử và làm cho chết êm dịu. Cùng với các Giám mục, Đức Thánh Cha đã nài xin hình phạt tử hình chỉ sử dụng trong những trường hợp bất đắc dĩ, khi xã hội không thể ngăn ngừa được phạm nhân có thể phạm tội trở lại, và một số những chính trị gia đã bỏ phiếu ủng hộ việc lên án tử hình. Nhiều người trong số những chính trị gia này thì muốn đổ lỗi cho những dân nhập cư, có tài liệu chứng minh hoặc không có giấy tờ, hoặc đổ lỗi cho kinh tế toàn cầu của chúng ta, nhưng quan điểm của người Công Giáo là tất cả mọi người đều phải được kính trọng như con cái Thiên Chúa, và tất cả những người thuộc về xứ sở này đều đang trên con đường hành hương về nhà Cha.
Một số người tự cho mình là đúng khi họ tỏ ý coi thường bất cứ ai nhận trợ cấp của xã hội, họ khinh bỉ những ai lây nhiễm bịnh HIV, họ kết án những người mắc vào bệnh say sưa chè chén, họ nhìn cách khinh bỉ những người dân tộc thiểu số, những người mà chỉ là một nhóm nhỏ trên đất nước của họ. Ngay cả một số những người Công Giáo cũng đã minh chứng rằng Giáo Hội không được dính líu đến chính trị và chỉ lưu tâm đến những công việc cứu rỗi các linh hồn. Họ đã có một suy nghĩ sai lầm, bởi suy nghĩ chúng ta đang sống trong hai thế giới, một thế giới tôn giáo và thế giới thế tục. Họ kết luận rằng tôn giáo thì không được xâm chiếm vào thế tục. Sự thật là chúng ta chỉ sống trong một thế giới, thế giới của Thiên Chúa. Có phải Giáo Hội thì quá lớn đối với chúng ta không? Điều đó không phải như thế nếu chúng ta nhớ rằng Chúa Giêsu thì không chết. Người vẫn đang sống, Người vẫn tiếp tục nói với chúng ta qua những lời Thánh Kinh, qua những giáo huấn khác của Giáo Hội.
30. Sự cứng lòng tin
(Suy niệm của Anmai, CSsR)
Nhìn lại lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn ở bên con người và Thiên Chúa dùng đủ mọi cách để tiếp cận với con người. Khi thì nói gián tiếp, khi thì nói trực tiếp, khi thì dùng người này, khi thì dùng người kia. Những người nói Lời Thiên Chúa cho dân là các ngôn sứ của Chúa. Các ngôn sứ chuyển tải thông điệp của Thiên Chúa cho dân.
Vì lẽ con người thường đi ngược với Thiên Chúa, con người không muốn sống trong vòng tay che chở của Thiên Chúa nên đã đi nghịch lại với thánh ý của Thiên Chúa và con đường mà Thiên Chúa vạch ra nên biết bao nhiêu lần tương quan giữa con người và Thiên Chúa đổ vỡ. Thiên Chúa là đấng chậm bất bình và giàu lòng thương xót đã không nỡ bỏ con người, Thiên Chúa dùng các ngôn sứ để tiếp tục răn đe có, an ủi có, khích lệ có. Đáng tiếc thay bản tính con người ngỗ nghịch nên những lời mà các ngôn sứ nói ra thì có người được đón nhận, có người bị khước từ và thậm chí có người còn bị giết.
Một trong những ngôn sứ thời Cựu Ước đã nói Lời Thiên Chúa đó là ngôn sứ Êdêkien, Êdêkien ý thức rõ rệt mình đã được sai đến trong một thời khủng hoảng: lúc mà Israel phải suy nghĩ lại về số mạng mình. Israel đang bị xâu xé phân chia theo nhiều hướng: hãnh diện trong hiện tại, tủi hổ nghĩ đến thời xưa, tin cậy, và ngã lòng hối hận; hèn nhát mà cũng gan dạ, Êdêkien cũng như các ngôn sứ trong thời lưu đày đã đặt nền móng cho một nền tảng mới đó là lòng tin vào Thiên Chúa.
Đoạn sách mà chúng ta vừa nghe cho chúng ta biết sứ mạng mà Thiên Chúa gửi Ngài đến với dân: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại với Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: ‘Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này’. Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng”. (Ed 2, 2-5). Rõ ràng chúng ta thấy sứ mạng của Êdêkien. Không chỉ mình Êdêkien nhưng nhiều và ngôn sứ cùng chung chịu số phận như Êdêkien.
Trang tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Máccô thuật lại không còn là xa lạ với chúng ta. Trang Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta về hình ảnh Con Một Thiên Chúa. Các ngôn sứ nói, con người không chịu nghe, Thiên Chúa đã sai chính Con Một của Ngài xuống để nói cho dân nhưng hình như dân cũng đâu có nghe. Hôm nay, Chúa Giêsu trở về quê hương, mang theo sứ điệp cứu độ nhưng đáng tiếc thay Ngài đã đụng đầu với sự cứng lòng tin của những người đồng hương quen thân.
Trình thuật này có thể qui chiếu tới bối cảnh nơi Mc 3, 20-35 ở đó Chúa Giêsu bị hiểu lầm và nghi ngờ, song cũng ở đó sứ điệp thần học về Đấng Thiên sai cứu độ được phác họa một cách hùng hồn. Cũng thế, thảm trạng cứng tin của dân làng Nadaret là một thứ mặt phản tương của mầu nhiệm đức tin.
Để thấy rõ hơn ý nhắm thần học của Máccô, chúng ta thử lưu ý đến lược đồ câu chuyện của thánh ký:
+ Trước hết đó là thái độ kinh ngạc thán phục của những kẻ nghe lời giảng dạy và nghe biết các phép lạ (c. 2)
+ Vấn nạn về lý lịch của Chúa Giêsu (c. 3a)
+ Phản ứng cứng tin (c. 3b)
Đó là một thứ lược đồ về mầu nhiệm cứng tin, mặt phản tương của mầu nhiệm đức tin (x. Lc 4,16-30; Ga 7,14-29). Nếu so sánh với bản văn Gioan chẳng hạn, chúng ta sẽ thấy ý nghĩa:
Mc 6,1-6a và Gioan 7,14t
Câu 2: Người lên tiếng giảng dạy trong Hội đường. Nhiều người ngạc nhiên mà rằng: BỞi đâu ông ấy được như thế? Và là gì vậy sự khôn ngoan ban xuống cho ông?
Câu 14: Chúa Giêsu lên đền thờ và giảng dạy. Người Do Thái bỡ ngỡ mà rằng: làm sao ông ấy đã chẳng theo học mà lại thông hay chữ nghĩa
Câu 3a: Ông ấy không phải là bác thợ mộc, con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giosê, Giuđa, Simon đó sao? Các chị em của ông không ở giữa chúng ta sao?
Câu 27: Nhưng ông ấy, chúng ta đã biết tự đâu ra, còn Đức Kitô khi Người đến, thì nào ai biết được do lai của Người?
Câu 3b: Và họ vấp phạm vì Người
Câu 28: Chúa Giêsu hô lên: phải các ngươi biết Ta và rõ Ta từ đâu ra. Thế mà nào có phải tự Ta, Ta đã đến đâu. Nhưng Đấng đã sai Ta là Đấng chân thật, các ngươi lại không biết Ngài.
Như vậy, nghe lời giảng dạy, chứng kiến các phép lạ các kỳ công của Chúa Giêsu… điều đó chưa đủ. Người ta cần phải đạt đến một tầm mức cao hơn: tầm mức của đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng Thiên sai cứu độ.
So sánh với bản văn Luca 4,16-21, cách miêu tả của Máccô rất ngắn gọn. Chủ ý của thánh ký chỉ nhằm nêu lên sự kiện cứng tin của người dân quê nhà. Họ ngạc nhiên về những lời giảng giải kinh thánh đầy sự khôn ngoan của Người; họ nhắc đến quyền năng làm các phép lạ của Người (c. 2). Song, họ không tin Người.
Ông ấy chẳng phải là bác thợ mộc, con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giôse, Giuđa, Simon đó ư?Và các chị em của ông lại không ở giữa chúng ta đây sao? Và họ vấp phạm vì Người (c. 3)
Người quê nhà của Chúa Giêsu quả thực biết rõ lý lịch của Người. Họ quen biết anh em và chị em của Người. Những chàng dân quê như Giacôbê, Giôsê, Giuđa hay Simon, đâu có xa lạ gì với họ. Như vậy, ông Giêsu này không thể là một nhân vật khác thường. Và cũng chính vì thế mà Người trở thành một thứ viên đá vấp phạm cho họ: họ đã vấp phạm vì Người.
Thành ngữ eskandalizonto en autô được Giáo hội sơ khai sử dụng như thứ ngữ vựng chuyên môn ám chỉ tới sự sa bẫy của đức tin (x. Mc 4,17). Sự kiện này trở nên một lời cảnh giác cho Cộng đoàn tin Chúa: những ai nghĩ rằng họ biết Chúa Giêsu, họ phải coi chừng và duyệt xét lại đức tin của họ: có nhiều trở ngại và nguy cơ trong lãnh vực đức tin.
Chúa Giêsu đã vay mượn một châm ngôn quen thuộc để đáp lời lại các người đồng hương cứng tin “Ngôn sứ mà bị khinh thì chỉ có nơi quê quán”.
Trước hết câu châm ngôn này có thể gợi nhắc đến một thứ tâm lý xã hội: không ai nói tiên tri được trong quê nhà mình cũng như không có lương y nào chữa trị được những kẻ quen biết mình. Lời châm ngôn nói lên một kinh nghiệm sống khá chua chát. Các ngôn sứ của Thiên Chúa đã từng gặp phải sự phản kháng bi đát nhất nơi quê hương họ: “Ấy anh em ngươi và gia đình cha ngươi, ngay chúng nó cũng đã phản ngươi… Đừng tin chúng khi chúng nói ngon ngọt với người. Phần tôi như con chiên dễ bảo ngưòi ta dẫn tới lò sát sinh, tôi vần không biết rằng chúng âm mưu hãm hại tôi”. (Gr 11,18t).
Chúa Giêsu, vị ngôn sứ sau cùng của Thiên Chúa cũng không thoát khỏi số phận đó. Và đây cũng là ý nhắm thần học của Máccô. Thái độ cứng tin của người dân làng Nadarét trở thành lời loan báo mầu nhiệm khổ nạn của Chúa Giêsu. Nó sẽ là cớ vấp phạm cho những kẻ không tin song là dấu chỉ cứu độ cho kẻ tin theo.
Từ đó số phận ngôn sứ của Chúa Giêsu cũng vén mở cho chúng ta ơn gọi của người môn đệ Chúa. Chúa Giêsu đã thành lập một cộng đoàn mới, một gia đình mới (x. Mc 3,35) vượt lên trên tầm vóc “quê quán, bà con, gia đình” (c. 4b). Bởi vậy, kẻ tin theo Chúa sẽ không để cho những liên hệ hoặc những thảm trạng ở tầm vóc tự nhiên tạo nguy cơ cho đức tin của mình.
Do sự cứng tin, Chúa Giêsu không thể làm các phép lạ… Nhưng tại sao Người không thể tỏ bày quyền lực trước một thái độ cứng tin? Thực ra sự không thể liên kết với sự kiện thiếu đức tin: Người ngạc nhiên thấy họ cứng tin (c. 6a). Vì chưng, thánh ký Máccô không hề muốn miêu tả một mối tương quan tâm lý, như thể sự tin tưởng của bệnh nhân là điều kiện của sự chữa trị thành công. Nhãn quan thần học của Máccô nhằm đến chủ đề đức tin.
Nếu thiếu vắng đức tin, một phép lạ của Đấng Thiên sai cứu độ sẽ mất hết ý nghĩa cứu độ. Nó có nguy cơ dẫn tới quan niệm lệch lạc về quyền lực của Chúa Giêsu.
Ngược lại, chỉ có đức tin mới mở mắt cho người ta nhìn thấy quyền năng cứu độ của Người ngang qua các lời nói hay việc làm của Người.
Nguyện xin Chúa Giêsu ban thêm lòng tin cho con người mỏng dòn yếu đuối của chúng ta để chúng ta nhận ra quyền năng, tình thương của Chúa ngày mỗi ngày trong cuộc đời chúng ta. Và cũng xin Chúa mở lòng chúng ta để chúng ta cao rao lòng tin, cao rao quyền năng Chúa cho mọi người mà chúng ta chung sống, chúng ta gặp gỡ.
31. Đức Giêsu Kitô, Người là ai?
(Suy niệm của Anmai, CSsR)
Từ thuở tạo thành, Thiên Chúa yêu con người và đã cho con người thay Ngài để cai quản vũ trụ tốt đẹp do chính tay Ngài tạo dựng. Ngài cho con người hưởng tất cả hạnh phúc của Ngài chỉ trừ một điều duy nhất là đừng sờ vào, đừng đụng vào cái cây ở giữa vườn mà Thánh Kinh ghi lại là “cây biết lành biết dữ”. Cái cây ấy là dấu chỉ, là lời mà Ngài đã dặn đi dặn lại cho con người nhưng rồi con người đã vi phạm, đã giơ tay ra hái nó. Và từ đó, con người đã đánh mất đi mối tình đẹp giữa Thiên Chúa và con người. Tưởng chừng với biết bao nhiêu kinh nghiệm của cuộc đời, của con người, con người sẽ trở về với Thiên Chúa nhưng không. Con người vẫn mãi mê với cái thế sự thăng trầm này để rồi không còn nhận ra Thiên Chúa nữa, hay có nhận ra thì cũng nhận ra với một hình ảnh dị dạng, hình ảnh bóp méo hay hình ảnh một Thiên Chúa do chính người đó tạo dựng chứ không còn là một Thiên Chúa tuyệt vời, một người Cha nhân hậu nữa.
Cứ đọc lại những trang Thánh Kinh, chúng ta sẽ thấy được một Thiên Chúa tuyệt vời như thế nào. Dẫu cho rằng con người trắc trở, con người quay lưng với Thiên Chúa đi chăng nữa nhưng Thiên Chúa chẳng bỏ rơi bao giờ. Bằng cách này hay cách khác, Thiên Chúa vẫn tiếp cận với con người qua những trung gian của Ngài như các ngôn sứ.
Thiên Chúa luôn hiện diện, luôn đồng hành với con người trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời nhưng liệu rằng con người có nhận ra sự hiện diện, sự đồng hành đó hay không? Đặc biệt, trong những biến cố đau thương bi đát của cuộc đời.
Hôm nay, chúng ta nghe tâm sự của Isaia:
Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.
Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.
Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,
vì thế, tôi đã không hổ thẹn,
vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.
Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên.
Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà!
Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!
Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,
ai còn dám kết tội? (Is 50, 5-9a)
Trong cái cảnh bi đát của cuộc đời, Isaia vẫn tin vào Chúa và bám chặt cuộc đời của mình vào Chúa. Hình ảnh người tôi tớ trong Isaia đó chính là hình ảnh Chúa Giêsu – Con Một Thiên Chúa đã xuống thế làm người, chịu khổ hình, chịu chết… Dù rơi vào cái cảnh khốn cùng nhất của con người, nhục nhã, đau đớn bi đát nhất của con người nhưng Giêsu vẫn tin vào Thiên Chúa Cha, tin vào sự quan phòng của cha mình.
Thiên Chúa mãi mãi vẫn là thách thức của lòng tin của con người.
“Con ơi Thiên Chúa tốt lành,
Đất trời có Chúa định thành mới nên.
Trên trời mọi sự do Thiên,
Bên nhân bên quả gắn liền với nhau”.
Cụ Kh. đã nhìn Thiên Chúa từ câu hỏi về nguồn gốc vạn vật.
Hỡi im lặng thiêng liêng, ngập tràn, ứa vựa,
Ta lia gươm rạch ứa máu ngàn không,
Để muôn đời không có nữa, Mênh Mông
Vẫn ngăn cách Hồn Yêu cùng Đạo lý.
Nhưng đau đớn! Ta vấp mồ thế kỷ
Chết nơi đây vì xét nghĩa Không Cùng
Đem trí người suy đoán nỗi Mông Lung
Của Thiên Chúa vẫn muôn đời bí mật.
Đó là một đoạn trong bài “Thể Chất” của Hồ Dzếnh, gia nhập Kitô giáo khoảng năm 1940. Nhà thơ này đã cúi đầu trước sự huyền nhiệm của Thiên Chúa.
Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của con người, Thiên Chúa vẫn chờ đợi sự đáp trả của con người về Ngài. Chúa Giêsu Kitô con Thiên Chúa làm người cũng chất vấn mỗi người chúng ta về lòng tin vào Thiên Chúa, về lòng tin vào Ngài.
Hôm nay, Chúa Giêsu thấy chất vấn các môn đệ cũng là chất vấn mỗi người chúng ta. Với mỗi người chúng ta, khi Chúa Giêsu hỏi chúng ta thì liệu rằng chúng ta có can đảm, có tin nhận và trả lời như Phêrô hay không hay là chúng ta cũng nói rằng Chúa Giêsu cũng chỉ là một ngôn sứ như Êlia, như Gioan Tẩy Giả…
Nhiều lần nhiều lúc trong đầu kitô hữu thì Giêsu Kitô như là Êlia hay Môsê thôi chứ chẳng hơn. Bi đát nhất của cuộc đời đó là người ta tự hoạ cho mình một Thiên Chúa, một Giêsu Kitô theo nét vẽ riêng của họ.
Trong tuần thường huấn nọ ở một nhà dòng kia. Vị thuyết giảng chia sẻ về hình ảnh của một Giêsu chịu đóng đinh, chịu đau khổ như Chúa Giêsu đã nói với Phêrô cũng như các môn đệ trong Tin mừng mà chúng ta vừa nghe. Vị thuyết giảng trình bày về một Giêsu theo mô tả của Thánh Kinh và một Giêsu lịch sử.
Sau khi trình bày thì nhiều người cứ chất vấn đi chất vấn lại về Giêsu! Chất vấn đó là quyền tự do của con người nhưng khi đã là tu sĩ, linh mục thì không dừng ở chuyện chất vấn nữa mà là tin và hiểu thêm về diện mạo Chúa Giêsu. Chất vấn là vấn đề, là chuyện dành cho những người chưa tin. Tu sĩ, linh mục mà lại chất vấn đi chất vấn lại Giêsu thì nó làm sao ấy. Nếu như vậy thì niềm tin tu sĩ, linh mục ấy tuyên xưng nó làm sao ấy.
Mỗi người bắt gặp câu hỏi về Thiên Chúa một cách khác nhau. Câu hỏi có khi gay gắt, dồn dập, có khi dịu dàng êm nhẹ, có khi như ray rứt, có khi như ủi an. Có khi, thật lạ lùng, người ta đang đối đầu với câu hỏi về Thiên Chúa bằng cách chối phắt Ngài đi. Nhưng dù dưới hình thức này hay hình thức khác thì mỗi người đều bắt gặp câu hỏi ấy; vào một lúc nào đó trong đời, người ta như chợt thấy. Ai sẵn sàng đón nhận và ra công tìm kiếm thì thế nào cũng gặp được Thiên Chúa. Thiên Chúa không tiếc với ai cả, nhưng phải sẵn sàng đón nhận thì mới gặp được Ngài, còn nếu đã phủ nhận ngay từ đầu thì còn gặp thế nào được. Mở mắt ra và sẽ thấy. Mỗi người gặp được Ngài trong một cảnh ngộ khác nhau, vì mỗi người đã lên đường từ những khởi điểm khác nhau.
Đã hơn một lần, có người hỏi tôi rằng Chúa Giêsu là người da đen, da nâu hay da vàng? Chúa Giêsu sinh ra chính xác là ngày nào? Năm nào?
Tôi trả lời ngay là không cần biết là Giêsu có da đen, da nâu, da vàng hay da đỏ miễn làm sao khi mở quyển Almanack thì bạn sẽ thấy rõ ràng rằng có một Giêsu sinh làm người tại hang đá Belem và sống cái làng Nagiaret nhỏ bé. Chúa Giêsu đã hiện diện rồi trong lịch sử nhưng ai tin vào đó là Đấng nhân danh Chúa mà đến, là Ngôi Hai con Thiên Chúa làm người?
Về diện mạo, về hình ảnh của một Giêsu lịch sử hay một Giêsu ký ức cũng cần tìm hiểu, cần đào sâu để mở rộng kiến thức để trình bày lại cho những người chưa hiểu hay những người chưa tin. Vấn đề cần ở đây là làm sao ta cũng phải tuyên xưng lòng tin vào Giêsu Kitô như Phêrô giữa nhiều và nhiều người không tin ở thời Chúa Giêsu. Vấn đề đã rõ, giữa biết bao nhiêu người không tin, giữa nhiều sự chất vất nhưng Phêrô đã vượt qua chuyện không tin và Phêrô đã tuyên xưng lòng tin của mình.
Thật sự ra mà nói không đơn giản để mà tuyên xưng được như Phêrô đâu. Có những lúc ta cũng mạnh mẽ tuyên xưng như Phêrô ấy nhưng có những lúc ta chối Chúa bây bẩy thôi.
Nếu chúng ta can đảm tuyên xưng một Giêsu là Đấng Kitô của đời mình như Phêrô thì chúng ta phải sống, phải thể hiện lòng tin ấy như Phêrô cách triệt để chứ không phải là nói suông. Lối sống của người có đức tin chúng ta vừa nghe Thánh Giacôbê mời gọi: Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: “Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin (Gc 2, 14-19)
Nguyện xin Chúa Giêsu Kitô, đấng đang hiện diện trong cuộc đời ta, đang có đứng trước mặt ta ban thêm lòng tin cho chúng ta để ta cũng mạnh dạn tuyên xưng lòng tin ấy vào Giêsu Kitô như Phêrô tông đồ hôm nay vậy. Và cũng xin Chúa ban thêm cho ta lòng mến để chúng ta diễn tả, chúng ta sống lòng tin ấy bằng đời sống thường nhật của chúng ta.
32. Người con của Đức Maria
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Hội đường là nơi hội họp của cộng đoàn Do thái. Đó không phải là Đền thờ với hàng tư tế chính thức thi hành một thừa tác vụ hy tế. Cộng đoàn tụ họp lại để cầu nguyện và nghe đọc sách thánh. Bất cứ người nam trưởng thành nào cũng có quyền phát biểu trước cộng đoàn. Vì thế, Đức Giêsu lên tiếng giữa hội đường Nazarét, không phải vì một đặc ân thánh nào cả, nhưng chỉ là 1 thành viên trong cộng đoàn. Rất nhanh các thính viên thoáng thấy rằng người nói với họ không phải là một người như những người khác. Mặc dầu họ đã biết Ngài, thấy Ngài sống nhiều năm tháng giữa họ và không có dấu hiệu gì bên ngoài cho thấy Ngài chuẩn bị ăn nói và hành động. Họ linh cảm một cái gì lạ thường.
Ở đây, chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng tâm lý thông thường. Khi người ta có một hình ảnh nào về ai, họ không chấp nhận cho người ấy tỏ ra có những nét không phù hợp với hình ảnh này. Người ta tưởng biết một người nào đó, nhưng sự thật là họ xếp loại người ấy, họ dán cho người ấy một nhãn hiệu và đương nhiên người ta trở nên mù quáng đối với những gì không phù hợp với nhãn hiệu. Và họ vấp phạm vì Người. Dân chúng Do thái vấp phạm vì không nhận ra Đức Giêsu mà họ đã biết. Cho nên thay vì đón nhận các phần mầu nhiệm thoáng hiện ra, họ loại bỏ nó. Sự chối từ tiếp nhận làm tê liệt sự quảng đại của Đức Kitô. Ngài không thực thi quyền năng làm phép lạ được tại Nagiarét, ngoại trừ một vài việc lành cho một hai người bệnh.
1) ‘Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria sao?
‘Con bà Maria’ có nghĩa là lúc bấy giờ thánh Giuse đã chết. Và Đức Giêsu được nói đến như là người con độc nhất của bà góa Maria. Và người ta cũng biết danh xưng ‘anh em’ áp dụng cho: Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon, ám chỉ một sự liên hệ bà con gần xa nào đó mà thôi. Người ta đã đưa ra giả thuyết ‘người con của bà Maria’ để nói rằng Đức Maria – có thai trước lúc thành hôn với Giuse. Trong ngôn ngữ cảu thánh Marcô, điều này có thể là một xác quyết gián tiếp về việc sinh nở mầu nhiệm của Đức Giêsu, con của bà Maria theo xác thịt, chứ không phải của thánh Giuse.
Có cái gì ẩn núp sau câu hỏi của người Do thái? Đó là một sự khó khăn sẽ luôn luôn làm cản trở niềm tin cho đến tận thế: chính là mầu nhiệm TC tự mặc khải qua con người. Đây là điều làm khó chịu, bức rứt, gây giận dữ cho những đầu óc bướng bỉnh. Thái độ của dân làng Nagiarét từ chối chấp nhận Đấng họ nhận ra là sứ giả TC, loan báo sự khó khăn sẽ đến cho nhiều người là nhận ra trong con người của Đức Kitô, TC thật và đồng thời cũng là người thật.
2) Chúng ta hãy dừng lại ở từ ngữ: Con bà Maria.
Để một bên, ý nghĩa xác thực trong thánh Marcô, từ ngữ này gợi cho ta một thực tại sâu xa có tầm mức quan trọng về phương diện thần học và phong phú về phương diện tu đức. Những ai chọn con đường thẳng để đi đến gặp gỡ Đức Kitô: những người ấy phải nài xin Đức Trinh nữ Maria mặc khải Con Ngài cho họ. Nhận biết Đức Giêsu như là con của Đức Maria, tức là đón nhận Ngài, không như một niềm tin trừu tượng, nhưng như một ngôi vị nhân loại rất thực, kề cận và sát với chúng ta (nhất là nếu chúng ta tự trở nên bé mọn), một ngôi vị thần linh và thần linh hóa trong một bản tính nhân loại chung cho Ngài và cho chúng ta. Những người bạn thân thiết nhất của Đức Kitô biết rõ điều họ phải tùy thuộc vào sự trợ giúp của Đức Maria.
33. Chúa Nhật 14 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Anfonso)
Người ta bảo rằng 1 người Việt làm việc hiệu quả bằng 3 người Nhật, nhưng 2 người Việt làm việc chỉ bằng một người Nhật, và 3 người Việt làm việc hiệu quả sẽ thua 1 người Nhật. Vì sao vậy? Thưa đó là vì tinh thần cộng tác làm việc chung của người Việt mình chưa cao. Mình lại có thói quen không tốt đó là hay chê bai người khác. Chê cho ê mặt, chê cho bõ ghét, chê để dìm hàng, chê cho đã miệng, chê vì thích chê. Đơn giản, vì không muốn ai hơn mình.
Trong khi có những người đón nhận và đi theo Chúa vì họ được thu hút bởi lời giảng dạy của Chúa thật khôn ngoan và thâm thúy, bởi việc Chúa trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, thì cùng lúc ấy cũng có những người từ khước, chế nhạo Người bởi hàng loạt câu hỏi: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôseph, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Khi không bắt bẻ được Người trong lời giảng dạy, họ bàn tán chê bai về thân thế của Chúa Giêsu nhằm giảm uy thế của Người.
Dân làng nơi quê hương Nazareth đã đánh giá Chúa Giêsu theo cái nhìn bề ngoài rằng Người chỉ là con bác thợ mộc và bà Maria, vì thế mà từ chối tin vào Chúa. Quả đúng như câu chân lý bất hủ mà ông bà chúng ta bảo rằng “Bụt nhà không thiêng” là vậy. Điều này làm Chúa Giêsu cảm thấy đắng lòng: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” Tuy nhiên, dẫu cho những lời ong tiếng ve do sự ghen tỵ và thành kiến, thậm chí cả những khổ hình mà người ta dành cho, Chúa Giêsu không trả đũa nhưng vẫn tiếp tục yêu thương và thứ tha, Người âm thầm đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ rồi tiếp tục sang các làng bên giảng dạy.
Vâng, để có thể có được những ơn lành của Chúa, điều kiện là phải có đức tin. Chỉ có đức tin mới có thể nhận ra Chúa vẫn tiếp tục thực hiện phép lạ hằng ngày trong cuộc sống chúng ta. Và phép lạ trên hết của những phép lạ đó là đó là mọi thứ trong vũ trụ vẫn diễn ra hằng ngày một cách trật tự. Song, chúng ta lại bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Chúng ta bỏ lỡ tiếng Chúa kêu gọi chúng ta nhận ra ăn năn sám hối. Thậm chí, chúng ta cũng bỏ lỡ việc nhận ra Chúa, gặp gỡ Chúa nơi anh chị em xung quanh, nào là trước những người đang gánh chịu thiên tai, hỏa họan, đói kém, trước cảnh ngộ cùng khốn hay những đớn đau đầy nước mắt.
Khi chịu phép Rửa Tội, chúng ta trở nên Kitô hữu, trở thành người nhà, người họ hàng, đồng hương với Chúa. Vậy chúng ta có đón nhận Chúa một cách thành tâm và sẵn lòng qua Lời Chúa, qua việc cử hành các Bí tích, qua Giáo lý Giáo hội giảng dạy, qua việc suy gẫm cầu nguyện riêng với Chúa. Đừng để việc gặp gỡ Chúa trở nên “quen quá hóa nhàm”. Đức tin đòi hỏi chúng ta vượt lên trên những dáng vẻ bề ngoài để nhận ra Chúa. Người hiện diện cách đơn sơ nơi tấm bánh bé nhỏ trên bàn thờ, Người gặp gỡ chúng ta khi ta lặng thinh ngắm nhìn thánh giá Chúa, Người đến với chúng ta qua những người cần đến sự trợ giúp của chúng ta. Và Người cũng mời gọi chúng ta hãy trở nên chứng nhân cho Chúa để giới thiệu Chúa cho anh chị em mình.
Lạy Chúa, không ai được phép viện cớ mình kém cỏi để từ chối nhiệm vụ trở nên môn đệ Chúa, loan báo Tin Mừng nước Chúa cho anh chị em. Vâng, một cử chỉ dù rất đơn sơ nhưng được thực hiện với lòng yêu mến, chúng trở nên những món quà ý nghĩa như lời của thánh Têrêsa thành Calcutta nói: “Điều quan trọng không phải là số công tác đã thực hiện, nhưng là mức độ tình yêu đã đặt vào mỗi công việc ấy”. Xin cho con tập biết sống đức tin được thể hiện bằng đức ái với một nụ cười thân thiện, một lời nói động viên, một cử chỉ sẵn lòng giúp đỡ anh chị em. Amen.
34. Đánh giá theo lý lịch
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Năm 1958, sau khi Đức Giáo Hoàng Piô XII qua đời, các báo chí mô tả ngài như một ngôi sao sáng chói đã lịm tắt, vì ngài xuất thân từ một gia đình quý tộc, hấp thụ một nền văn học uyên thâm và đã để lại bao nhiêu công trình lớn lao cho hậu thế, cho Giáo Hội.
Cơ Mật Viện đã bầu Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lên kế vị. Giáo Hoàng này xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, với hình dáng mập mạp, quê mùa, chất phát. Người ta bảo, đây chỉ là vị Giáo Hoàng chuyển tiếp cho một vị Giáo Hoàng khác có tầm cỡ như vị tiền nhiệm của ngài. Nhưng có ngờ đâu con người khiêm tốn, bình dân, giản dị và vui tươi ấy đã thu hút mọi người. Và nhất là với Cộng đồng Vatican II mà ngài đã triệu tập, Giáo Hoàng Gioan XXII đã trở thành một “siêu sao”của thời đại, trổi vượt hơn các vị tiền nhiệm của mình.
Đừng đánh giá con người theo lý lịch, tương tự như dân làng Nagiraret đã đánh giá Đức Giêsu Nagiarét: “Nagiarét mà có cái chi hay!”. Thế mà con người làng Nagiarét ấy là Đấng Cứu Thế môn dân trông đợi. Tin Mừng hôm nay kể lại: Chúa Giêsu trở về Nagiarét, quê hương của Ngài, trong tư thế một vị Ngôn Sứ, một bậc thầy, có các môn đệ tháp tùng. Ngày Sabbat, Ngài vào Hội đường đọc Sách Thánh và công bố giáo lý của Ngài. Dân làng Nagiarét lấy làm ngạc nhiên sững sốt. Họ hỏi nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vây nghĩa là làm sao? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”. “Ông ta là ai?”. “Ông ta không phải là chú thợ mộc trong làng, con của bà Maria, không phải là anh em họ hàng với các ông Giacôbê, Giôxê, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?”. Họ biết quá rõ lý lịch của Ngài, biết rõ họ hàng nhà Ngài, nên họ không thể nào để cho khôn ngoan và quyền năng của Ngài lay chuyển họ. Họ chẳng nhìn nhận Ngài là ai khác hơn là “chú thợ mộc trong làng”.
Đấng Thiên Sai Cứu Thế thì phải xuất thân từ dòng dõi “trâm anh thế phiệt”, phải là một “trang anh hùng xuất chúng” đầy uy thế và quyền lực chứ! Còn ông Giêsu này thì quá nghèo nàn, tầm thường. từ xuất xứ, lý lịch gia đình đến nghề nghiệp và địa vị xã hội. Tất cả đều trở thành “chướng ngại cho họ tin vào Ngài”. Nói cách khác đi, chưỡng ngại làm cho những người đồng hương vấp ngã chính là dáng vẻ đối nghịch giữa con người bên ngoài của Đức Giêsu và sứ mạng thần linh bên trong của Chúa. Vì thế, họ quay lưng lại với Ngài, với cả Thiên Chúa, Đấng đã sai Ngài, Cái tội lớn nhất của con người không phải là ngu dốt, không biết, nhưng thái độ kiêu ngạo, phản loạn, chống đối Thiên Chúa. Cuộc chống đối này lên đến tột độ khi con người đóng đinh Con Thiên Chúa trên thập giá dựng trên Núi Sọ. Ở đây, Thánh Marcô cho thấy thái độ của dân làng Nagiarét đối với Chúa Giêsu như thái độ chung của loài người. Ngài là nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. “Không tiên tri nào không bị khinh chê nơi quê hương mình, giữa họ hàng và trong nhà mình”. “Không Ngôn Sứ nào được quí trọng tại địa phương mình”. Biến cố này nói lên cái bi đát trong đời Chúa Giêsu: “Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận Ngài” (Ga 1,11). Những người ruột thịt, đồng hương, không muốn trở thành bà con họ hàng thật của Chúa Giêsu nhờ lòng tin, không muốn nhìn nhận Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến. Câu chuyện này còn tiếp nối trong lịch sử Giáo Hội: dân ngoại đón nhận Tin Mừng, còn những con cái trong nhà thì lại không chịu tin vào Ngài. Đó là một kinh nghiệm sống động của Giáo Hội sơ khai và làm cho mọi người ngạc nhiên như chính Chúa Giêsu đã phải ngạc nhiên.
Người đồng hương Nagiarét của Chúa Giêsu hôm nay là ai? Chính chúng ta là những người đồng hương mới của Chúa Giêsu. Chúng ta đã trở thành anh em của Chúa Giêsu nhờ Thánh Thần Ngài ban cho chúng ta. Nhưng hình như chúng ta lại biết Ngài quá rõ đến độ chẳng thấy ở nơi Ngài cái gì khác hơn là một Chúa Giêsu quen thuộc của các lời kinh, các bải giảng. Người ta nói: “quen quá hoá nhàm”. Chúng ta chẳng còn nhận ra sự khôn ngoan của Chúa trong Tin Mừng, quyền năng cứu độ của Chúa trong Giáo Hội. Chúng ta đi tìm sự khôn ngoan, tìm ơn cứu độ ở những người khác, ở những nơi khác. Chúng ta làm như thế Chúa Giêsu cũng chỉ là “một chú thợ mộc làng Nagiarét”, một người Do Thái của thế kỷ thứ nhất, không hơn không kém, chẳng có gì để đem lại cho chúng ta. Đọc Tin Mừng của Ngài có khi chúng ta cũng thấy hay, lý thú… nhưng chẳng thấy gì hơn. “Bụt nhà không thiêng” vẫn là số phận của Chúa Giêsu phải chịu hôm nay nơi các Kitô hữu.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải xác định lập trường, thái độ của mình đối với Đức Kitô. Chúng ta muốn đứng về phía dân làng Nagiarét hay muốn đứng về phía Chúa Giêsu? Đừng đánh giá con người theo lý lịch, theo thành kiến. Thiên Chúa đã đến chia sẻ thân phận nghèo hèn của con người nơi Đức Giêsu Kitô, người Nagiarét. Thiên Chúa đã mạc khải tình thương của Ngài không ở tiền tài và giàu sang hay chức quyền mà ở trong con người nghèo hèn. Điều này đã nên cớ vấp phạm cho người Do Thái, cho người đồng hương với Chúa Giêsu, nhưng lại mời gọi lòng tin của chúng ta có dám tin như thế không.
Ở đây, niềm tin mời gọi người phải vượt qua dáng vẻ tầm thường bên ngoài để đạt tới mầu nhiệm thâm sâu bên trong của Chúa Giêsu. Ngài là Ngôn Sứ tuyệt vời, là Lời Vĩnh cửu của Thiên Chúa. Ngài đã nói thay Thiên Chúa để đem đến cho nhân loại Tin Mừng cứu độ. Với cuộc tử nạn và phục sinh, Chúa Giêsu đã nói lên tiếng nói cuối cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người phản bội, chống đối Thiên Chúa. Cái chết thập giá của Con Thiên Chúa không phải là một thất bại, nhưng là một chiến thắng của tình yêu, là quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện trong sự yếu hèn của con người.
Cảm tạ Chúa đã cho chúng ta được biết Tin Mừng cứu độ qua Ngôn Sứ, qua chính Con Một Thiên Chúa, qua các Tông Đồ, qua Giáo Hội. Nhờ Tin Mừng này chúng ta được đến với Chúa, sống với Chúa và hoạt động cho Chúa.
35. Chúa Nhật 14 Thường Niên
Ngay khi Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường quê nhà, lúc đầu họ có ấn tượng thậm chí họ ngạc nhiên. Tuy nhiên thay vì vui mừng về điều đó và cởi mở với những điều Người làm cho họ, họ lại hỏi: “Bởi đâu ông ta được như thế?”. Ở đây chúng ta gặp một mầu nhiệm về sự phát triển của con người. Chúng ta là ai mà đặt giới hạn và biên giới cho khả năng của người khác?
Người dân Nagiarét nhớ lại nguồn gốc của Đức Giêsu. Người là con một bác thợ tầm thường, họ biết rõ gia đình của Người. Thật vậy, họ nói: “Ông ấy nghĩ mình là ai?” Họ cảm thấy mình đã nắm rõ về Người. Họ đặt ra giới hạn cho Người. Một thái độ như thế không cho phép sự trưởng thành và phát triển.
Họ từ chối tin Người. Họ từ chối nhìn Người một cách nghiêm túc. Bởi thái độ của họ, họ làm cho Người không thể làm gì cho họ, và như thế họ không hưởng được ơn ích từ cuộc viếng thăm của Người.
Đây là một sự thật quen thuộc nhưng đáng buồn – Ngôn sứ không được quê hương mình tôn trọng. Thường chúng ta không tôn trọng tài năng của những người gần gũi với chúng ta, trong nhà chúng ta hoặc khu xóm chúng ta. Chúng ta không đánh giá đúng hoặc chấp nhận họ và do đó giới hạn khả năng của họ. Chúng ta không cho họ một cơ hội. Tệ hơn, chúng ta hạ thấp họ. Chúng ta có thái độ bất công rất lớn với họ. Và rồi chúng ta cũng chịu thiệt thòi bởi chúng ta không được hưởng lợi từ lòng tốt của họ.
Bị chối bỏ là một điều thương tổn. Nhưng đặc biệt thương tổn khi bị những người thân chối bỏ. Đức Giêsu ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Người rất muốn giúp đỡ họ nhưng chính Người bó tay!. Đức Giêsu buồn rầu vì sự việc đó nhưng Người không tức giận. Sự chối bỏ thường dễ dàng làm cho người ta tức giận.
Chúng ta đều có chút ít kinh nghiệm về điều đó. Chúng ta muốn giúp đỡ một người nào đó nhưng người ấy khước từ sự giúp đỡ của chúng ta. Chúng ta cảm thấy bực bội và vô dụng. Khi gặp phải sự chối bỏ, chúng ta có thể bị cám dỗ nói rằng: “Vậy thì đừng hòng tôi giúp cho”. Chúng ta quyết định không giúp đỡ một ai nữa. Điều này làm người ta đau khổ.
Đức Giêsu đã không phản ứng như thế. Người không trở nên cay cú. Người đã làm điều nhỏ bé còn có thể làm được ở Nagiarét. Người chữa lành một vài bệnh nhân – Rồi người quyết định đem ánh sáng và món quà của Người đi nơi khác.
Lạy Chúa, xin cho chúng con có tấm lòng của Chúa khi đối xử với người khác dù họ làm cho chúng con không hài lòng.
36. Chúa Nhật 14 Thường Niên
(Suy niệm của Noel Quesson)
CHÚA NGẠC NHIÊN VÌ HỌ THIẾU LÒNG TIN
Thánh Antôn, người khởi xướng cuộc sống ẩn tu trong Giáo Hội, một hôm sau khi giảng về Bài Giảng Trên Núi, có một số giáo dân tới hỏi:
– Thưa cha, chúng con phải làm gì để nên trọn lành?
Thánh nhân trả lời:
– Tin Mừng đã dạy: “Ai tát vào má phải ngươi, hãy giơ má trái cho nó.”
Họ thưa:
– Chuyện này khó quá, chắc làm không nổi.
Thánh Antôn nói:
– Nếu không, ít ra cũng không được báo thù. Phải tha thứ cho những người xúc phạm đến mình.
Nhóm giáo dân thưa:
– Việc này vẫn quá khó, không thể để yên những người xúc phạm đến mình được.
Thánh Antôn nghe xong, quay bảo người môn đệ:
– Con hãy đi nấu cháo cho những người này ăn, vì họ quá yếu đuối, ta hãy cầu nguyện cho họ.
Là nhà giảng thuyết, là nhà truyền giáo, thế nào cũng có lần gặp thất bại trong việc rao giảng Tin Mừng. Ngay Chúa Giêsu, nhà giảng thuyết đại tài mà cũng đã từng thất bại trước nhóm bà con xóm làng quen thuộc.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết từ Capharnaum Chúa trở về thăm quê nhà, giảng trong hội đường. Tại Capharnaum, Chúa đã làm nhiều phép lạ. Có nhiều phép lạ nghĩa là có nhiều người tin Chúa, người ta lũ lượt theo Chúa đến quên ăn quên ngủ. Việc này gây xôn xao khắp miền Galilê, và chắc chắn những người đồng hương của Chúa cũng đã nghe biết. Bây giờ Chúa trở về quê nhà với nhóm môn đệ, có lẽ ai cũng tưởng người anh em đồng hương hân hoan đón nhận. Nhưng tình hình biến chuyển khác hẳn. Khi nghe Chúa đọc và giải nghĩa Thánh kinh ở Hội đường, họ cũng nhận là có những điều hay, nhưng nghĩ tới gốc gác tầm thường của Chúa, họ cho Ngài là một người không đáng tin. Bởi không tin nên họ cũng không nhận được phép lạ nào.
Có thể nói Chúa thất bại nơi quê hương. Cũng vậy, Giáo Hội nhiều lúc đã thất bại. Có người nói: “Tôi tin Đức Kitô, nhưng không tin Giáo Hội”. Thực ra Giáo Hội lại chính là khía cạnh nhân tính của Đức Kitô. Giáo Hội gồm những con người: các giám mục, linh mục, giáo dân. Những con người đó chẳng những quá quen thuộc mà có khi còn bất toàn nữa. Nhiều người thời nay đã vấp ngã vì Giáo Hội, cũng như những người đồng hương của Chúa Giêsu đã từ chối, không tin nhận Ngài. Đoạn Tin Mừng kết thúc bằng những lời than phiền: “Chúa Giêsu ngạc nhiên vì họ thiếu lòng tin”. Thực ra, Chúa đâu có ngạc nhiên vì Chúa đã dựng nên con người có tự do. Chúa quá rõ tâm địa những con người đó, có ngày họ sẽ nổi lên chống lại Chúa, sẽ làm theo ý họ chứ không theo ý Chúa. Nhưng một khi đã cho con người tự do thì Chúa không rút lại, Chúa tôn trọng tự do của con người dù chúng làm cho Chúa buồn lòng. Chính vì vậy, chúng ta thấy ân huệ đức tin thật là cao quí.
Lạy Chúa, chúng con tin Chúa đã nhập thể làm người để cứu chuộc chúng con. Xin ban ơn đức tin cho những người đã được nghe biết Tin Mừng để họ đón nhận Chúa và được Ngài cứu độ. Chúng con xin tạ ơn Chúa.
37. Chúa Nhật 14 Thường Niên
CHÚA HIỆN DIỆN TRONG CUỘC SỐNG
Con người dễ có định kiến về tha nhân. Khi một vĩ nhân về quê hương, thông thường dân làng tìm đến vì tò mò hơn là vì kính nể. Nếu ai không có những suy nghĩ sâu xa thì sẽ không xem trọng vĩ nhân đó bao nhiêu, nhất là khi người đó xuất thân từ gia đình nghèo, không có địa vị gì ở quê hương. Chúa Giêsu trở về quê nhà cũng bị dân làng nhìn theo kiểu đó: Giêsu, con của ông thợ mộc Giuse chứ có gì hay đâu và họ không muốn thay đổi quan niệm về Người. Chúa Giêsu biết rõ tâm lý của họ, nên đã nói: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình (Lc 4,24). Tuy Chúa Giêsu về với tư cách là Messia loan báo Tin mừng cho dân làng mình nhưng chẳng mấy ai để ý đến tư cách đó, họ không muốn tìm hiểu thêm về vai trò và con người thật của Người và tự nhốt mình trong những định kiến. Họ chỉ nhìn thấy Ngài với những nét dạng của người đồng hương nghèo khó, học từ làng quê. Tuy họ sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài, nhưng những thành kiến đã chôn chặt họ không cho họ nghĩ xa hơn. Họ chỉ thắc mắc cách hời hợt: bởi đâu ông ta được như vậy như thể Chúa Giêsu ngẫu nhiên uyên bác mà thôi. Họ tò mò tìm đến với ý phủ nhận hơn là tin nhận!
Chúa Giêsu nhận thấy rõ thái độ của họ và người đã không làm phép lạ vì họ không có lòng tin, không có lòng thành tìm hiểu về sứ mạng của ngài. Ngày hôm nay, kitô hữu chúng ta biết về Chúa nhiều hơn, biết rõ hơn người Do thái xưa kia về lời giảng và thân phận của người. Tuy nhiên, chính chúng ta nhiều khi cũng chưa tỏ niềm tin của mình trước mặt mọi người. Nhiều lúc tôi cũng tự hỏi mình: có khi nào tôi có thái độ giống như người Do thái xưa đối với Chúa giêsu không. Cuộc sống tôn giáo với những nghi lễ thiêng liêng thánh thiện nhưng tôi không ý thức là mình đang được tiếp xúc với Chúa. Có lẽ vì lòng tin yếu kém hay lo lắng chuyện đời mà không nhận ra Chúa đang hiện diện với mình. Nếu tôi có lòng tin, tôi sẽ rất nghiêm trang, cung kính hết lòng khi khi tham dự thánh lễ, đặc biệt là khi rước Chúa và cầu nguyện vì biết Chúa hiện diện trong lời Kinh thánh và Bí tích Thánh thể, tôi sẽ nhận ra Chúa trong trong lương tâm của mình và trong những biến cố cuộc sống.
Xét lại chính mình, tôi biết Chúa đến cứu chuộc thế giới trong đó có tôi và bổn phận của tôi là nói về Chúa và làm chứng cho Chúa bằng cuộc sống của mình nhưng tôi đã thực hiện bổn phận này như thế nào. Cuộc sống đạo chúng ta nhiều lúc còn bị động, không thua gì những người làng Nazaret bao nhiêu: cho là mình quen biết nên không nhận ra Chúa hiện diện với mình mà chỉ coi ngài như phàm nhân, chỉ hơn mình một chút mà thôi, không hăng hái thêm được bao nhiêu, không biến đổi nên tốt hơn, không vui mừng về tình thương của Chúa đối với mình.
Điều đáng lo ngại nhất cho loài người chúng ta hôm nay là đi tìm những cái trước mắt, không để thời giờ đến với Chúa và tìm hiểu thực hư, hàng quãng cáo nào gây ấn tượng thì mua. Các nhà sản xuất thi nhau kích thích nhu cầu của chúng ta để tăng thu nhập và chúng ta cũng bị ảnh hưởng ít nhiều bởi xã hội hưởng thụ dễ dãi này. Dường như chúng ta không giờ thinh lặng để nghe tiếng Chúa thì thầm và suy nghĩ về chuyện đạo đức bao nhiêu, nhất là thế hệ trẻ dễ bị những phim ảnh hấp dẫn, chat, games cám dỗ nhiều: sau giờ học thì nhiều học sinh “nhào vô” những thứ vui chơi giải trí tiện lợi này, không dành thời gian cho việc thờ phượng Chúa như trước nữa!
Để thắng vượt chính mình và nhận ra Chúa hiện diện trong cuộc sống, mỗi người chúng ta hãy năng đến với Chúa, xin Chúa mở lòng trí, mở đôi mắt đức tin để chúng ta sống đạo cho nên, và nhận biết trong những sự kiện lớn nhỏ đều có sự can thiệp của Chúa. Từ đó, chúng ta có đức tin ngày càng vững mạnh, vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống và giúp cho mọi người xung quanh cảm thấy hạnh phúc vì biết rằng Chúa yêu thương đang mời gọi con người cộng tác vào chương trình của Chúa và mai sau ban thưởng trên nước Ngài hiển trị.
38. Chúa Nhật 14 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. GB. Phạm Hồng Thái)
Các tân linh mục năm nay vì lí do dịch bệnh nên sau khi được thụ phong, về lại giáo xứ hay làng quê của mình trong âm thầm không có tổ chức lễ tạ ơn trọng thể, không đón rước linh đình và tiệc tùng như trước đây, điều này chắc chắc làm cho gia đình cũng như bản thân tân linh mục rất buồn, nhưng vì dịch bệnh nên phải hi sinh chấp nhận thôi!
Chúa Giêsu ra rao giảng Tin mừng. Chúa chọn thành Capharnaum làm nơi đầu tiên để hoạt động. Không bao lâu nhiều người biết tới danh Chúa vì lời rao giảng và những phép lạ Chúa làm. Nhưng Chúa Giêsu không quên quê hương của Ngài là thành Nazareth nơi mà Chúa đã sống tới 30 năm với biết bao nhiêu là kỉ niệm vui buồn. Nên lần này Chúa trở về quê hương. Ngày Sa-bat Chúa cũng vào hội đường tham gia cầu nguyện cùng với bà con. Do thái giáo có đền thờ ở Giêrusalem nơi người Do thái tới để dự những cuộc lễ lớn và để dâng của lễ chiên bò lên Thiên Chúa, còn các hội đường ở tại địa phương, họ tới để cầu nguyện, nghe lời Chúa trong kinh thánh, hát thánh vịnh…
Trong mỗi buổi cầu nguyện như vậy, thường vị trưởng hội đường mời một người lên đọc sách thánh và diễn giảng Lời Chúa. Chúa Giêsu được mời lên đọc sách thánh và diễn giảng. Theo Tin Mừng Luca, người ta trao cho Chúa cuốn sách ngôn sứ Isaia, Chúa mở ra và gặp đoạn chép rằng: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức và công bố năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 17-19)
Khi diễn giải, Chúa Giêsu cho biết lời sách tiên tri Isaia quí vị vừa nghe giờ đây được ứng nghiện nơi chính Chúa. Dân thành Nazareth đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Họ không dè ông Giêsu, người đồng hương với mình giờ đây lại giỏi giang và giảng hay đến thế! Nhưng họ lại tự hào là biết rõ nguồn gốc của Chúa, nên họ nói: “Ông này chẳng phải là bác thợ mộc con bà Maria, anh em ông và chị em ông lại không ở với chúng ta đây sao?” Thánh Marcô nói họ vấp phạm vì Người. Họ nhận thấy Chúa Giêsu giảng lời Thiên Chúa rất đặc biệt và họ cũng nghe biết Chúa thực hiện nhiều phép lạ ở Capharnaum không có xa đây nhưng họ vẫn vấp phạm vì Chúa vì họ không thể mở lòng đón nhận Chúa Giêsu là Vị Ngôn sứ chứ chưa nói là Đấng Thiên sai Cứu thế. Nếu nhận Chúa Giêsu là vị Ngôn sứ nói lời Thiên Chúa cho họ thì họ phải có lòng tin mà Chúa Giêsu lại phải ngạc nhiên và buồn vì thấy họ cứng lòng tin. Vì thế dù Chúa muốn làm phép lạ ở Nazaret để giúp ích cho bà con quê hương cũng không được vì phép lạ Chúa chỉ thực hiện được khi người ta có lòng tin, đúng như lời Tin Mừng Gioan đã nói ngay từ chương đầu khi suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể: “Người đã đến nhà mình nhưng người nhà lại chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).
Chúng ta có thể bào chữa cho người Nazaret vì tâm lí như người Việt nam thường nói “Gần chùa gọi Bụt bằng anh” và “quen quá hóa nhàm” nhưng dầu sao đó chính là mấu chốt và là tượng trưng cho tình trạng chung dân Do thái khước từ Chúa Giêsu để sau này trong cuộc Philatô xử án Chúa, họ còn kêu lên: “Đóng đinh nó vào Thập giá!”(Mt 27, 22) Chính thánh Phaolô khi đi truyền giáo cũng rất bức súc và Ngài nói với đồng bào của mình như sau: “Anh em là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa nhưng vì anh em khước từ Lời ấy và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại” (Tđcv 13,46)
Chúng ta thấy người Nazaret nói Chúa Giêsu là con Bà Maria, qua lời này có người kết luận: Ông Giuse đã từ trần trước khi CG ra rao giảng Tin Mừng nhưng thiết tưởng chỉ với chi tiết này thì chưa đủ để nói như vậy vì cho dù thánh Giuse có qua đời thì theo thói quen thời đó, người ta vẫn gọi một người là con cha chứ không gọi là con bà mẹ. Vậy gọi Chúa Giêsu là con bà góa Maria có lẽ họ ngầm ý khinh bỉ Chúa đồng thời dù sao cũng là phản ảnh niềm tin của kitô hữu ngay từ ban đầu: Chúa Giêsu là con Đức Mẹ Maria đồng trinh, còn những anh em và chị em họ nói đó là anh em con chú bác, con cô cậu trong đó có Giacôbê sau này là giám mục tiên khởi giáo đoàn Giêrusalem và Gioxép là con bà Maria, vợ ông Cleopas, bà cùng đứng dưới chân Thánh giá Chúa Giêsu với Đức Mẹ Maria
Câu chuyện: Dương Phủ từ nhỏ nhà nghèo, phải cầy cấy để phụng dưỡng cha mẹ. Ngày kia anh nghe nói ở đất Thục có ông Võ Tề là đại sư, nên xin phép cha mẹ cho qua học. Đi nửa đường thì Dương Phủ gặp vị lão tăng nói: Gặp Võ Tề không bằng gặp Phật. Anh hỏi lại: Phật ở đâu? Lão tăng đáp: Ngươi hãy trở về và gặp người nào quấn vải trên mình và đi dép ngược đó là Phật. Dương Phủ trở về tới nhà lúc đêm tối gọi cửa, mẹ chàng vội chạy ra và quấn mền lên người, xỏ dép ngược mở cửa cho chàng. Anh nhìn mẹ đúng như Đức Phật mà vị lão tăng mô tả. Từ đó Dương Phủ nghiệm ra rằng: “Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là chân tu”
Chúng ta xưng ra lòng tin Chúa Giêsu là tiên tri, là vị ngôn sứ của Thiên Chúa xuống thế để giảng dạy lời Chúa và nói chân lý cho chúng ta, dẫn đường cho chúng ta về Nước Trời để được sự sống đời đời. Amen.
39. Chúa Giêsu bị khước từ
Trước đây, trên một trang báo Tuổi Trẻ, người ta có đăng hình hai người nhạc sĩ già, hai cây cổ thụ của âm nhạc Việt Nam, đó là nhạc sĩ Phạm Duy và nhạc sĩ Trần Văn Khê. Nội dung bài báo nói lên ước mơ của nhạc sĩ Phạm Duy là được trở về lại quê hương Việt Nam, định cư trên mảnh đất thân yêu này và góp phần làm một điều gì đó cho quê hương đất nước, rồi bài báo ấy kết luận: ai đi xa xứ mà không ao ước được trở lại quê hương của mình. Nếu tâm tình của nhạc sĩ Phạm Duy là như vậy thì chẳng có gì là ngạc nhiên cả, bởi nó rất là con người, rất là nhân bản. Con người có nguồn cội, có quê hương, dù thế nào đi nữa thì con người cũng không thể quên được quê hương của mình.
Quê hương, hai tiếng thân thương và ngọt ngào, thế nhưng quê hương đôi khi cũng làm cho con tim của con người rỉ máu. Chúa Giêsu đã nhiều lần về quê, nhưng lần nào quê hương cũng để lại nơi Ngài một nỗi niềm chua xót, đến nổi Ngài phải đau đớn mà thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. Họ khước từ Chúa Giêsu, có lẽ một phần bởi Chúa Giêsu không cùng quan điểm với họ, nhưng phần khác, vì họ không thể chấp nhận “con một ông thợ mộc lại có thể làm lớn”, vì họ nghĩ rằng “con vua thì lại làm vua, con sãi ở Chùa thì quét lá đa”. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã bị những người đồng hương của Ngài khước từ, chống đối mãnh liệt.
Từ kinh nghiệm của Chúa Giêsu khi trở về quê hương phải chăng cũng là kinh nghiệm của chúng ta khi sống trong một cộng đoàn họ đạo. Một cộng đoàn hiệp thông, một cộng đoàn yêu thương, những từ ngữ rất hay, rất đẹp và rất tình người. Thế nhưng, chẳng phải chúng ta cũng đã từng cảm nghiệm được rằng: Nơi cộng đoàn họ đạo, chúng ta tìm được sự cảm thông, tìm được sự lắng nghe, chia sẻ. Cộng đoàn họ đạo có thể là nơi người anh chị em của mình được chữa lành, nhưng cộng đoàn họ đạo cũng có thể làm cho vết thương của người anh chị em mình mãi rỉ máu.
Trong cuộc sống đời thường, có lẽ chúng ta cũng hiểu được những cái mất đáng thương hơn là đáng trách, có những lầm lỡ đáng tiếc hơn là đáng tội. Với những người lầm lỡ, cuộc đời đã lưu lại nơi tâm hồn họ quá nhiều những vết thương rồi, chúng ta đâu cần phải góp phần làm cho những vết thương trong họ thêm nhức nhối! Chỉ sự cứu vớt mới có khả năng chữa lành, chỉ sự đón nhận quảng đại mới mở ra cho người ta một con đường sống, một chân trời hy vọng. Cho nên, cộng đoàn họ đạo có thể vực dậy một người anh chị em của mình sa ngã, nhưng cộng đoàn họ đạo cũng có thể đẩy người anh chị em đang chao đảo xuống tận đáy vực sâu.
Và đồng thời, chuyện của những người đồng hương của Chúa Giêsu đã khước từ Ngài cũng là chuyện của cái nhìn. Sở dĩ, họ không công nhận Chúa Giêsu là ngôn sứ, là Đấng Cứu Thế, bởi họ đã có cái nhìn khép kín Chúa Giêsu trong những quan niệm của họ, họ không vượt qua được cái nhìn về quá khứ của Chúa Giêsu, về mối dây hàng xóm láng giềng. Và chính từ cái nhìn khép kín về Chúa Giêsu như vậy, cho dù Chúa Giêsu có đến với họ, họ cũng chẳng nhận được ơn nào của Ngài.
Cũng từ kinh nghiệm về cái nhìn khép kín của những người đồng hương với Chúa Giêsu, chẳng phải cũng là kinh nghiệm của chúng ta về cái nhìn khép kín của mình đối với người khác hay sao?
Trong thực tế của cuộc đời, khi nhìn về tha nhân, xem ra chúng ta vẫn hay khép kín người anh chị em của mình trong quá khứ hơn là mở ra với tương lai. Có phải biết bao nhiêu lần trong đời, chúng ta đã từng khóa chặt người anh chị em của mình trong cái quá khứ lỗi lầm, nhiều khi chỉ là một lỗi lầm nhỏ trong đời. Vậy mà chúng ta lấy lỗi lầm ấy bọc kín quá khứ của người anh chị em lại và cứ nhìn họ là nhìn vào lỗi lầm ấy mà phủ nhận, phán đoán và đánh giá chính con người của họ. Chúng ta cũng thường nghe nói: “Mỗi thánh nhân đều có một quá khứ, mỗi tội nhân đều có một tương lai”. Thế mà dường như chúng ta dễ dàng chấp nhận cái quá khứ không đẹp của một thánh nhân hơn là tin vào cái tương lai tươi sáng của một người tội nhân. Như vậy chẳng bất công lắm sao?
Chính từ những kinh nghiệm đó mà Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần phải có một cái nhìn lạc quan hơn để dám tin vào những giá trị tốt đẹp nơi cuộc đời, nơi con người. Cũng như câu ngạn ngữ: “Chẳng có hồng nào mà không có gai, nhưng trong bụi gai ấy lại có đóa hồng”. Giữa những lầm lỗi thiếu xót của con người thì vẫn luôn có những giá trị tốt đẹp nơi cuộc sống. Thực ra, làm người ai cũng được ban cho nhiều nét đẹp riêng. Có những nét đẹp bị bao bọc bởi cái vỏ bề ngoài sần sùi xấu xí. Để có thể nhìn ra giá trị thực ẩn đằng sau cái lớp vỏ ấy, chúng ta cần phải có một cặp mắt tinh tường và một con tim yêu chuộng cái đẹp. Thật vậy, công trình của người thợ mộc bao giờ cũng bắt đầu với những khúc gỗ sần sùi xấu xí. Nhìn bề ngoài, người ta dễ tưởng rằng chúng vô dụng, chỉ có vứt đi. Phải có cặp mắt tinh tường của người thợ, người ta mới nhận ra được giá trị thực của khúc gỗ. Cũng vậy, để có thể nhìn ra giá trị tốt của một con người đã có những sai lầm lỗi phạm. Chúng ta cần phải có cái nhìn của một con tim bao dung và tha thứ.
Qua Lời Chúa hôm nay, từ những kinh nghiệm của Chúa Giêsu bị khước từ khi trở về quê hương, tôi xin gợi lên một vài kinh nghiệm về đời sống cộng đoàn họ đạo, về cái nhìn của chúng ta đối với người khác, để mỗi người chúng ta sống lại, ý thức lại đời sống của mình, để có thể xây dựng đời sống cộng đoàn họ đạo của chúng ta ngày càng thật sự trở thành một cộng đoàn hiệp thông, một cộng đoàn yêu thương trong tình yêu của Chúa Giêsu. Amen.
40. Họ khước từ Ngài
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Tạ Chúc)
Nhìn nhận một Đức Giêsu của lịch sử, người ta dễ dàng chấp nhận. Thế nhưng khi đối diện với một Giêsu của niềm tin, con người như rơi vào hòan cảnh lúng túng. Liệu Đức Giêsu thành Nazareth có phải là Đấng Messia không? Não trạng của dân Do Thái ngày xưa cũng chẳng khác gì con người trong thời đại ngày hôm nay. Mãi mãi Ngài vẫn là một ẩn số trong một phương trình hoặc có một nghiệm, nhiều nghiệm hay vô nghiệm. Con người không thể tự sức mình mà khám phá hết về Chúa Giêsu, chỉ khi nào họ biết khiêm nhường và biết nhìn vào cuộc đời của Chúa Giêsu với tâm tình tin tưởng và lắng nghe, lúc đó họ mới có thể biết về Ngài.
Tiên tri Êdêkien sống vào khỏang năm 593-571 trước công nguyên, ông có kinh nghiệm về một dân tộc bội ước quên thề, trong thời lưu đày Babylon, Thiên Chúa sai ông đến với nhà Itrael, đến với một dân tộc ương nghạnh:”Người phán với tôi:”Con người hỡi, Ta sai ngươi đến với nhà It-ra-el, đến với những dân phiến lọan, đã từng dấy lọan chống lại Ta, chúng và cha ông chúng đã từng làm nghịch với Ta, cho đến mãi ngày hôm nay”(Ed 2, 3). Quả là bi đát cho số phận của các Tiên tri, họ luôn phải sống với những con người lọan tặc, và tâm trạng của các Tiên tri là khiếp sợ, vì bị chống đối, bị ruồng bỏ. Chúa Giêsu số phận của Ngài cũng chẳng khác gì với những Tiên tri trong thời cựu ước. Ngài trở về quê hương Nazareth, nơi sinh trưởng của mình. Nhưng lạ lùng thay, dân ở đây không tin vào Ngài. Một cuộc tranh luận xảy ra, Đức Giêsu thành Nazareth là ai? Do đâu mà Ngài có quyền năng trên bệnh tật, thiên nhiên và con người. Các phép lạ xảy ra một cách nhãn tiền. Lý luận mãi cũng không xong, sau cùng người ta quy về thân thế của Ngài:” Ông ta không phải bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giuse, Giuda và Simon sao?”( Mc 6,3). Như thế một cách có chủ ý, người ta phủ nhận một Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, điều này được chứng tỏ khi họ không đón nhận và tin vào Ngài. Chi tiết mà thánh Marcô ghi nhận là Ngài bị xem thường ở chính tại quê hương mình. Dân Do thái ngạc nhiên về những việc làm của Chúa Giêsu, nhưng tiếc thay họ vẫn cứng lòng. Chúa Giêsu cũng biết được điều này khi Ngài thốt lên:”Tiên tri có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính tại quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”(Mc 6, 4).Thiên Chúa đến với con người, nhưng con người vẫn không đón nhận và tin vào Ngài. Trái đất này là quê hương của Chúa, nhưng khi Chúa đến con người vẫn chối từ Ngài. Ngài là Con Thiên Chúa, nhưng người ta vẫn khăng khăng khẳng định Ngài chỉ là con ông thợ mộc Giuse và Mẹ Maria là Mẹ Ngài.
Thế giới ngày nay cũng có vô số những con người không nhìn nhận Thiên Chúa có chủ quyền trên cuộc đời mình. Từ chỗ khước từ Thiên Chúa, họ cũng phủ nhận anh em mình. Vì không có niềm tin, con người sẵn sàng hành động theo bản năng của mình. Một khi sống và làm việc theo bản năng hạ đẳng con người không còn biết tôn trọng phẩm giá của mình và anh chị em xung quanh. Chúa Giêsu đến để kêu mời nhân lọai cộng tác với Ngài xây dựng một cuộc sống chan hòa tình yêu thương.
41. ”Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”
(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Ở đời trong mọi lãnh vực đâu có ai thích cùng mong muốn mình yếu đâu. Nhưng Thánh Phaolo lại có suy nghĩ khác: Khi tôi yếu là lúc tôi mạnh! ( 2Cr. 12, 10 ).
Vậy đâu là ý nghĩa cùng xác tín của Thánh Phaolô qua câu nói này?
Ai cũng muốn tỏ ra mình mạnh khoẻ thể xác, cũng như tinh thần. Ai cũng muốn tỏ cho người khác thấy mình thắng thế hơn trội, thế nào là sức mạnh thế nào là yếu thế.
Trong đời sống ta thấy mạnh đâu phải là bị khuất phục bị làm nhục, nhưng mạnh là người yếu bị bắt tù tội như một Tổng Thống Mandela bên Nam Phi Châu. Mạnh đâu phải là những đạo quân đi xâm chiếm thuộc địa như người Anh, nhưng mạnh là người dân yếu thế như một Mahatma Gandhi bên Ấn Độ.
Mạnh đâu phải là những người kỳ thị người khác với sức mạnh lấn lướt, nhưng mạnh là người yếu như Mục sư Martin Luther King. Mạnh đâu phải là những vua chúa thống trị với nhiều quyền hành, nhưng mạnh là những vĩ nhân yếu mềm như Thánh Phanxico Assisi, Mẹ Á Thánh Têrêxa.
Mạnh không phải là tảng khối đá cứng, nhưng mạnh là dòng nước yếu mềm. Mạnh không phải là lưỡi gươm thanh kiếm, nhưng là cây thập gía.
Mạnh không là những lời to tiếng đanh thép, nhưng là những lời nhỏ nhẹ từ tốn không làm người khác bị mất thể diện. Mạnh không phải là sự hận thù, nhưng là tình yêu. Mạnh cũng không là sự chết, nhưng là sự sống.
Thánh Phaolô do lòng xác tín đã đặt lại thang gía trị dựa trên thành tích, trên và dưới, mạnh và yếu, vốn gây ra lẫn lộn hoang mang không rõ ràng và cũng tương đối thôi. Người mạnh sức, mạnh miệng lấn át, người giầu có, nghĩ tưởng đó là thước đo gía trị đời sống con người.
Rất nhiều trường hợp trong đời sống, ai đó vượt qua mặt được người khác, cho rằng mình đã thắng, mình là người mạnh, đang khi người khác yếu thế sống âm thầm yên lặng. Nhưng cái gì cũng có diễn biến trong thời gian lịch sử của nó. Một thời gian sau, người nghĩ rằng mình mạnh đã chiến thắng lại trở thành người yếu thua thiệt về danh dự. Trong khi đó, người sống yếu thế yên lặng lại trở thành người mạnh được kính phục, vì sống cư xử là người có tư cách lễ phép tình người.
Chúa Giêsu người đã trở nên yếu thế trước tòa án xét xử bị kết án ở dinh quan tổng trấn Philato. Nhưng Người đã trở thành sức mạnh đức tin tinh thần ngay nơi chính gia đình quan Philato cùng cho muôn người qua sự chết trên thậy gía.
Thánh Phaolo trong cơn cùng quẫn cảm thấy yếu đuối khi phải chịu đựng đau khổ, đã than thở xin Chúa cho thoát khỏi cảnh này, và Chúa đã nói với Thánh nhân: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi” (2Cr. 12,9).
Trong cuộc sống làm người ở đời, ta không chỉ cần cơm ăn áo mặc, kiến thức học hành làm việc tốt thành công để trở thành người mạnh khoẻ. Nhưng còn cần đến ơn Chúa trợ giúp nhiều hơn nữa để có sức mạnh vượt qua những khó khăn thử thách, nhất là trong đời sống tinh thần, đời sống đức tin hôm nay và ngày mai.
42. Thành kiến
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)
Ông là ai vậy? Bởi đâu ông ta đã làm được những chuyện lạ lùng như thế? Ông ta không phải là con ông Giuse và bà Maria sao? Họ hàng anh chị em của ông ta không phải là những người láng giềng của chúng ta sao? Ông ta không phải là người đã sinh sống và làm nghề thợ mộc ở đây với chúng ta sao?
Phải, đúng lắm. Đó chính là Chúa Giêsu, con của ông Giuse và bà Maria, đã sinh sống và làm nghề thợ mộc ở Na-da-rét 30 năm rồi. Nhưng tại sao những người đồng hương lại ngạc nhiên và thắc mắc về Chúa như vậy? Bởi vì ít lâu nay họ đã nghe dư luận đồn thổi về những lời giảng dạy mới lạ, đầy uy quyền của Chúa, cũng như đã nghe dân chúng bàn tán xôn xao về những phép lạ Chúa đã làm ở nơi này nơi kia…Đó là những công việc, những phép lạ Chúa Giêsu đã làm trước khi Ngài về Na-da-rét, quê hương của Ngài. Nhưng những người đồng hương của Ngài không tin và không thể tin. Tin làm sao được ông Giêsu đang đứng trước mặt họ đây có thể làm được những điều lạ lùng như thế, nhất là tin làm sao được ông Giêsu đây là Thiên Sai, Đấng Cứu Tinh, là Đấng mà dân tộc họ đang trông đợi cả ngàn năm?
Dân làng Na-da-rét không thể nào chấp nhận một người mà họ đã quá biết: thân thế tầm thường, gia đình nghèo nàn. Biết cả họ hàng chẳng danh giá gì. Biết rõ quá như thế thì làm sao người đó có thể là vị cứu tinh, là Đấng Cứu Thế, là Đấng giải thoát cho dân tộc họ được? Quả thực, họ đã bị thành kiến về giàu nghèo, về giai cấp trong xã hội làm mù quáng, không thể nhận ra bản tính Thiên Chúa, nhận ra sứ mạng cứu chuộc nơi con người Chúa Giêsu. Từ thành kiến sai lầm đó họ đâm ra hoài nghi và yêu cầu Chúa làm phép lạ như đã làm ở những nơi khác. Trước thái độ ít cởi mở và hoài nghi của họ, vì họ không tin, nên Chúa không làm phép lạ được. Không phải vì Ngài không thể làm, bằng chứng là Ngài cũng có đặt tay chữa cho mấy người bệnh, nhưng chính vì họ không tin.
Dân làng Na-da-rét không tin Chúa Giêsu. Không tin là vì bụt nhà không thiêng, như có lần Chúa đã nói: “Chẳng ngôn sứ nào được danh tiếng nơi quê hương mình “; hoặc tệ hơn, như Chúa nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. Tại sao dân làng Na-da-rét không tin? Họ không tin vì thành kiến. Họ đã đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những định kiến hẹp hòi, có sẵn của họ. Vì thế, họ không thể thấy được những chân trời rộng lớn và mới mẻ mà Chúa mở ra cho họ. Họ cũng không thể chấp nhận Chúa Giêsu là hiện thân của nước trời và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Có ai ngờ Đấng Cứu Thế lại là người đơn sơ, khiêm hạ như thế. Đối với người Do thái đương thời, Chúa Giêsu đến quá ư bất ngờ và quá khác xa với quan niệm họ sẵn có về Đấng Cứu Thế. Họ không biết rằng đường lối của Thiên Chúa có thể khác xa với sự toan tính của loài người.
Qua đó chúng ta rút ra được một bài học thực tế: Thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự in trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả không hay, sai lầm hoặc nguy hại. Thật vậy, ai đeo kính đen thì nhìn cái gì cũng tối hết; lưỡi đắng thì ăn gì cũng đắng; lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Yêu nên tốt, ghét nên xấu: “Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng”. Lòng chúng ta có khuynh hướng mạnh về điều gì, thì mắt chúng ta hay tìm, trí chúng ta hay tưởng và rồi chúng ta phán đoán người khác cũng giống như chúng ta và hơi chút là chúng ta đoán về đàng đó liền.
Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài người, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hay căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Đánh giá một người theo bên ngoài có thể đúng nhưng cũng có thể sai lầm. Câu nói: “Trông mặt mà bắt hình dong”. Khổng Tử cũng xác nhận: “Người tôi yêu chưa chắc đã tốt; người tôi ghét chưa chắc đã xấu”. Phong dao cũng có câu: “Người xấu duyên lặn vào trong. Bao nhiêu người đẹp duyên rong ra ngoài”. Lặn vào thì còn lại, bong ra thì mất đi rồi. Và hẳn chúng ta cũng không quên câu nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, “Xanh vỏ mà đỏ lòng”. Cho nên, đánh giá một người mà chỉ căn cứ vào bề ngoài có thể là nông nổi, thiển cận và nguy hiểm.
Tóm lại, thành kiến đã làm cho dân làng Na-da-rét phán đoán sai về Chúa Giêsu. Họ đã không nhận ra Ngài là Đấng Cứu Tinh. Đối với chúng ta cũng vậy, thành kiến có thể làm chúng ta mù quáng, không nhận định và phê phán một cách khách quan đúng đắn được. Thành kiến làm chúng ta không thể đối thoại, cởi mở với người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những gì là thành kiến về bản thân để khỏi tự ti mặc cảm; cũng như thành kiến về những người chung quanh, để có được một cái nhìn đúng đắn hơn, một nhận xét chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn,và một đời sống yêu thương cởi mở hơn.
43. Chúa Nhật 14 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
TRÂN TRỌNG CON NGƯỜI VÌ PHẨM CHẤT CỦA HỌ
Tagore (1861-1941) là một đại thi hào của Ấn Độ, đoạt giải Nobel về văn chương năm 1913, có tài làm thơ ngay khi còn nhỏ tuổi.
Lúc còn niên thiếu, thỉnh thoảng Tagore làm một vài bài thơ gửi đăng trên tờ báo do thân phụ của mình đảm trách phần biên tập. Khi thấy những bài thơ gửi đến ký tên con mình, người cha chẳng thèm đọc thơ mà quẳng ngay vào sọt rác vì cho rằng con mình còn nhỏ dại thì biết gì thi ca.
Khi hiểu rõ sự tình, Tagore chép lại những bài thơ mà cậu đã gửi đăng báo, không ký tên thật của mình nữa mà lấy một bút hiệu khác rồi gửi lại cho toà báo.
Lần nầy, thân phụ của Tagore nhận thấy đây là những bài thơ có giá trị và cho đăng ngay lên báo mà không hề hay biết đó là những bài thơ của con trai mình, những bài thơ mà trước đây ông đã quẳng vào sọt rác.
Đúng là: “Bụt nhà không thiêng”, hay nói như Chúa Giêsu: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6, 4).
Ngay cả Chúa Giêsu cũng phải chịu cùng một số phận đó.
Mặc dù danh tiếng Chúa Giêsu đã vang dội nhiều nơi nhờ những lời rao giảng khôn ngoan, nhờ việc chữa lành nhiều người bệnh tật và nhờ những phép lạ Người làm, thế nhưng khi trở về quê quán, những người đồng hương nhìn vào gia thế thanh bần của Chúa Giêsu, nhìn đến anh chị em họ hàng của Người thuộc hàng dân dã, và ngay cả bản thân Người trước đây cũng chỉ là một anh thợ mộc bình dị trong làng, nên họ không còn quý trọng và đặt niềm tin vào Người nữa.
Họ xì xào bàn tán với nhau: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? Và họ vấp ngã vì Người” (Mc 6,3).
Bấy giờ Chúa Giêsu nêu lên một nhận định có phần chua xót: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.”
Thế là Chúa Giêsu chẳng làm được phép lạ nào tại Na-da-rét (Mc 6, 5) cho người đồng hương. Người rời bỏ quê nhà đi rao giảng nơi khác.
Tiếc thay, vì đánh giá Chúa Giêsu theo lớp vỏ bên ngoài, dân làng Na-da-rét đánh mất dịp may đón nhận những hồng phúc mà Chúa Giêsu ưu ái dành cho họ.
Việc đánh giá Chúa Giêsu dựa vào gia thế, nghề nghiệp mà không dựa vào phẩm chất của Người đã chứng tỏ cho thấy dân thành Na-da-rét đề cao giá trị vật chất mà xem nhẹ giá trị tinh thần.
Có giai thoại kể rằng một người thù ghét chủ tiệm buôn lớn, đã lợi dụng sơ hở của chủ nhân nên lẻn vào cửa tiệm giữa đêm khuya. Y tháo gỡ miếng giấy ghi giá bán của những mặt hàng có giá trị cao, đem dán vào những mặt hàng rẻ mạt, rồi gỡ miếng giấy ghi giá bán những mặt hàng rẻ mạt gắn vào những món hàng quý báu. Thế là các món hàng quý báu bị mất giá nghiêm trọng còn những món hàng rẻ mạt thì được nâng cao giá trị gấp trăm lần. Hành động quái ác nầy khiến khách hàng không thể nhận ra đâu là giá trị đích thực của các món hàng nên đã mua lầm một cách tai hại (ý tưởng của Frère Phong trong cuốn “mắm muối cho bữa ăn hằng ngày”)
Ngày nay, các giá trị của đời sống con người cũng đang bị đảo lộn y hệt như thế, khiến nhiều người đua đòi chạy theo những điều phù phiếm mà rời xa những giá trị tinh thần và văn hoá cao đẹp.
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên giới trẻ ngày nay đua đòi ăn mặc hợp thời trang, dù phải mặc những loại y phục thiếu nết na và kỳ quái, và cho rằng có như thế mới khẳng định được giá trị của mình!
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên nhiều người sẵn sàng hiến thân làm nô lệ cho tiền bạc, cố tìm cách trở nên giàu sang bằng mọi giá, cho dù phải bán rẻ lương tâm, danh dự và ngay cả thân xác mình!
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên người ta đánh giá con người dựa theo số lượng của cải mà người đó sở hữu chứ không dựa vào phẩm chất cao đẹp bên trong.
Trước thực trạng đó, Công Đồng Vaticano II nhắc nhở mọi người: “Giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu nhưng tuỳ thuộc phẩm chất của mỗi người”
Nguyện xin Chúa Giêsu giúp chúng ta đừng theo vết dân thành Na-da-rét ngày xưa, đánh giá con người theo hình tướng bên ngoài, nhưng biết tôn trọng con người vì phẩm chất cao quý của họ và vì họ là chi thể của Chúa Giêsu và là hiện thân của Thiên Chúa.
Và xin cho nhân loại hôm nay biết nhận ra đâu là giá trị tinh thần cao quý đáng theo đuổi suốt đời và đâu là điều xa hoa phù phiếm không nên quyến luyến ham mê.
44. Chúa Nhật 14 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
CẦN XÁC ĐỊNH LẠI BẬC THANG GIÁ TRỊ
Một người thù ghét chủ tiệm buôn lớn, đã lợi dụng sơ hở của chủ nhân nên lẻn vào cửa tiệm giữa đêm khuya để tìm cách phá hoại.
Thấy trong cửa hàng có một bàn thờ bằng gỗ quý, chạm khắc rất mỹ thuật ghi giá bán 30 triệu đồng và một cái thùng rác ghi giá bán 10.000 đồng, người đột nhập gỡ miếng giấy ghi giá 30 triệu ở bàn thờ gắn vào thùng rác và gỡ miếng giấy ghi giá 10.000 đồng ở thùng rác dán vào bàn thờ. Thế là bàn thờ gỗ quý chạm khắc công phu chỉ có giá 10.000 đồng trong khi thùng rác hèn hạ được nâng giá trị lên đến 30 triệu đồng và y tiếp tục thực hiện như thế với những món hàng khác.
Thế là các món hàng quý báu bị mất giá nghiêm trọng còn những món hàng rẻ mạt thì được nâng cao giá trị gấp trăm lần.
Hành động quái ác nầy khiến khách hàng không thể nhận ra đâu là giá trị đích thực của các món hàng nên đã mua lầm một cách tai hại. (Dựa theo ý tưởng của Frère Phong trong cuốn “Mắm muối cho bữa cơm hằng ngày”)
Các giá trị của đời sống con người hôm nay cũng đang bị đảo lộn y hệt như thế, khiến rất nhiều người tôn vinh tiền tài của cải mà xem thường luân thường đạo lý, đánh giá cao những gì phù phiếm bên ngoài mà coi rẻ phẩm chất cao đẹp của con người. Thế là những điều phù phiếm được lên ngôi trong khi những phẩm chất cao đẹp của con người bị đẩy xuống hạng thấp kém.
Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô cho thấy người dân thành Na-da-rét cũng đánh giá Chúa Giêsu theo nhãn quan đó.
Mặc dù danh tiếng Chúa Giêsu đã vang dội nhiều nơi nhờ những lời rao giảng khôn ngoan, nhờ việc chữa lành nhiều bệnh nhân và nhờ những phép lạ Người làm, thế nhưng khi trở về quê quán, những người đồng hương nhìn vào gia thế thanh bần của Chúa Giêsu, nhìn đến anh chị em họ hàng của Người thuộc hàng dân dã, và ngay cả bản thân Người trước đây cũng chỉ là một anh thợ mộc bình dị trong làng, nên họ không còn quý trọng và đặt niềm tin vào Người nữa.
Họ xì xào bàn tán với nhau: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? Và họ vấp ngã vì Người” (Mc 6,3)
Bấy giờ Chúa Giêsu nêu lên một nhận định có phần chua xót: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.”
Thế là Chúa Giêsu chẳng làm được phép lạ nào tại Na-da-rét (Mc 6, 5) cho người đồng hương. Người rời bỏ quê nhà đi rao giảng nơi khác.
Tiếc thay, vì đánh giá Chúa Giêsu theo lớp vỏ bên ngoài, dựa vào gia thế, nghề nghiệp… mà không dựa vào phẩm chất của Người nên dân làng Na-da-rét đánh mất dịp may đón nhận những hồng phúc mà Chúa Giêsu ưu ái dành cho họ. Cách đánh giá như thế khá phổ biến trong xã hội hôm nay.
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên giới trẻ ngày nay đua đòi ăn mặc hợp thời trang, dù phải mặc những loại y phục thiếu nết na và kỳ quái, và cho rằng có như thế mới khẳng định được giá trị của mình!
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên nhiều người sẵn sàng hiến thân làm nô lệ cho tiền bạc, cố tìm cách trở nên giàu sang bằng mọi giá, cho dù phải bán rẻ lương tâm, danh dự và ngay cả thân xác mình!
Vì đề cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên người ta đánh giá con người dựa theo số lượng của cải mà người đó sở hữu chứ không dựa vào phẩm chất cao đẹp bên trong.
Trước thực trạng đó, Công Đồng Vaticano II nhắc nhở mọi người: “Giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu nhưng tuỳ thuộc phẩm chất của mỗi người”
Nguyện xin Chúa Giêsu giúp chúng ta “gắn lại bảng giá cho đúng với giá trị thật của mỗi món hàng”, nghĩa là đặt lại bậc thang giá trị của con người sao cho thỏa đáng. Và xin cho nhân loại hôm nay biết nhận ra đâu là giá trị tinh thần cao quý đáng theo đuổi suốt đời và đâu là điều xa hoa phù phiếm không nên quyến luyến ham mê.
45. Lắng nghe Lời Chúa
Trước thái độ cứng lòng của dân làng Nagiarét, chúng ta cùng tìm hiểu và chia sẻ về việc lắng nghe lời Chúa.
Giữa giòng đời huyên náo và quay cuồng, đôi lúc chúng ta cảm thấy vọng lên từ thẳm sâu cõi lòng lời thì thầm sau đây:
– Hãy dừng lại. Đừng chạy nữa và đừng nói nữa. Hãy để ngoài tai những âm thanh ồn ào. Vì lòng yêu mến Chúa, hãy dành lấy một khoảnh khắc thinh lặng. Hãy lắng nghe tiếng nói từ trời cao, vang lên trong tâm hồn mỗi người chúng ta.
Thực vậy, hãy để ngoài tai những âm thanh ồn ào của thế gian, vì chúng chỉ nói với chúng ta những điều điên cuồng và dối trá, để rồi sẽ dẫn chúng ta tới chỗ diệt vong.
Thật là dại dột, nếu để cho cuộc đời vùi dập chúng ta như cánh hoa bị giòng nước cuốn trôi, vì nguy hiểm đang chờ sẵn. Hãy đề cao cảnh giác và hãy nhớ rằng tất cả những gì tốt đẹp đều xuất phát từ trời cao, đều do Chúa Cha, cội nguồn mọi ánh sáng, đổ xuống.
Chính Ngài đã ban cho chúng ta đời sống ơn sủng là như tấm áo cưới để được đón nhận vào quê hương nước trời. Chỉ mình Ngài mới có thể trao ban cho chúng ta một cuộc sống không bao giờ tàn úa.
Trong khi con người thì thay đổi và chóng qua như một làn khói tỏa, như một áng mây bay, thì chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng trung thành, trước sau như một. Trời và đất sẽ qua đi nhưng lời Chúa sẽ chẳng bao giờ qua đi. Ngài không bao giờ quên mất niềm hạnh phúc vĩnh cửu, như là phần thưởng Ngài hứa ban cho những kẻ yêu mến và phụng thờ Ngài.
Ngay từ thuở đời đời, Ngài đã tạo dựng chúng ta, chọn lựa chúng ta và yêu thương chúng ta, mặc dù chúng ta chẳng có công trạng gì. Bởi đó hãy cảm tạ Ngài không ngớt.
Lời ban sự sống, đó là Tin Mừng, mà chúng ta được nghe ít nữa là trong ngày Chúa nhật. Vậy thì chúng ta đã đón nhận lời Chúa như thế nào? Chăm chú lắng nghe? Hay qua lần chiếu lượt, như một bổn phận phải làm cho xong.
Lời đem chân lý đó là Kinh Thánh. Có bao giờ chúng ta mở ra để đọc và suy nghĩ, hay là chúng ta sẽ thầm bảo rằng: làm gì có thời giờ cho những công việc phù phiếm ấy.
Mỗi ngày chúng ta có biết bao nhiêu thời giờ để làm lụng, để ăn uống, để ngủ nghỉ, để giải trí, để cắm đầu vào những cuốn chuyện nhảm nhí như thuốc độc giết hại tâm hồn. Nhưng lại không có lấy một chút hứng thú cho những việc đạo đức, cho những sự thiêng liêng.
Hãy cầu xin với Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong tâm hồn mỗi người, cho chúng ta biết yêu thích lắng nghe lời Chúa, để rồi sẽ ghi nhớ trong cõi lòng của mình, như lời thánh Phaolô khuyên nhủ:
– Hãy mau nghe nhưng chậm nói.
Đúng thế, hãy yêu thích lắng nghe lời Chúa, và lời Chúa sẽ dần dần uốn nắn sửa đổi chúng ta. Lời Chúa là ánh sáng đánh tan sương mù vây bủa cuộc đời. Lời Chúa là tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động. Lời Chúa sẽ đánh động tâm can và là một thứ khí giới bảo đảm cho chúng ta trước mọi cơn cám dỗ của thù địch.
Hãy mau nghe nhưng chậm nói, vì nói nhiều thì thường là nói bậy. Ai kiểm soát được lời nói của mình thì đã xóa bỏ được rất nhiều tội lỗi và sai phạm.
Ước chi lời Chúa được lắng nghe, sẽ đọng lại nơi tâm hồn và trở nên khuôn mẫu cho đời sống người Kitô hữu chúng ta.
46. Thành kiến
Sau một thời gian lấy nhau, vợ Mozart ham muốn những thứ khác trên đời, ân hận về sự chọn lựa của mình, nên quyết định li dị với ông. Khi ông nổi tiếng khắp thế giới, bà nói: “Lúc trước tôi chẳng thấy ông ta có gì nổi bật. Tôi chỉ thấy đó là một người nhỏ con.”
Với Chúa Giêsu cũng vậy. Nhiều người chẳng thấy nơi Ngài có gì là xinh đẹp, đáng mến, nên họ thất vọng và loại trừ Ngài. Điều đau lòng là chính những người thân, những người hàng xóm loại trừ Ngài. Bài Tin Mừng hôm nay giống như lời tiên tri báo trước về số phận những người đi rao giảng phúc âm “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. Như bà vợ Mozart không thấy được những điều tốt đẹp nơi chồng mình vì bà ta chỉ nhìn thấy được vẻ bên ngoài mà thôi. Còn những người từ chối không tiếp đón Đức Giêsu vì họ bị những thành kiến che phủ.
Thành kiến thường được phát xuất từ lòng ganh tị, ghen ghét. Chính lòng ghen tỵ là một trong những nguyên nhân khiến “các tiên tri không được kính trọng ở quê hương mình” (Lc.4,24). Mc. Kenzie nói: “Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tỵ nhìn bằng kính hiển vi”. Chứ khi người ta thương nhau thì con mắt của họ không có chữ thành kiến đò. Ban đầu, Khi mới trở về quê hương người ta rất ấn tượng về Ngài, thậm chí ” Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên”. Phải chi họ cứ sống trong niềm cảm phục vui mừng về điều đó và cởi mở với những điều Người đã ban tặng họ thì tốt biết mấy. Ngược lại, họ để thái độ của mình đi lệch hướng. Từ cảm phục thông thường người ta đi đến yêu thương, còn họ từ cảm phục lại đi đến thái độ ganh tị. Họ hỏi: “Bởi đâu ông ta được như thế?”. câu hỏi này không phải là câu hỏi của sự thắc mắc, hiếu kỳ, mà là câu hỏi tràn đầy múi vị thành kiến nhằm hạ bệ người khác. Bản thân ta có là chi mà dám đặt giới hạn cho người khác Người dân làng Nagiarét mang nặng thành kiến về Đức Giêsu. Dưới mắt họ, Người chỉ là một anh thợ mộc tầm thường, nghèo nàn và chẳng có gì đặc biệt. Người xuất thân trong một gia đình nghèo hèn, không danh giá. Họ biết rõ cha mẹ, họ hàng của Người. Thấy Người làm được những việc kỳ lạ. Nghe miệng Người giảng những điều khôn ngoan. Họ ngạc nhiên, nhưng không tin. Đối với họ, Đấng Cứu Thế phải là một Đấng phi thường, không ai biết rõ nguồn gốc. Hơn nữa, Đấng Cứu Thế phải oai phong lẫm liệt, đánh đông dẹp bắc rồi lên ngôi vua trị vì thiên hạ. Đàng này, Đức Giêsu thì họ biết rõ nguồn gốc. Tướng mạo không giống như hình ảnh Đấng Cứu Thế mà họ nuôi trong đầu óc. Làm họ không tin nên Đức Giêsu cũng không thể làm phép lạ nào ở đó. Thường chúng ta không chịu thừa nhận quà tặng và tài năng của những người gần gũi với chúng ta, trong nhà chúng ta hoặc khu xóm chúng ta. Chúng ta không đánh giá đúng hoặc chấp nhận họ và do đó giới hạn khả năng của họ. Chúng ta không cho họ một cơ hội. Tệ hơn, chúng ta hạ thấp họ. Chúng ta có thái độ bất công rất lớn với họ. Và chúng ta cũng chịu thiệt hại bởi vì chúng ta không được hưởng lợi từ lòng tốt và quà tặng của họ. Chắc chắn Đức Giêsu rất thương mến những người thân thuộc, những người hàng xóm mình, Người rất muốn giúp đỡ họ nhưng chính Người cũng chịu “bó tay”. Như thánh Augustinô đã từng nói “Khi Chúa dựng nên con Chúa không hỏi con, nhưng khi Ngài cứu chuộc con ngài cần sự đồng ý của con”. Nghĩa là khi cứu mình thì điều kiện đầu tiên Thiên Chúa cần chính là sự đồng ý của mình. Do đó, Thiên Chúa cũng không làm được việc gì cho chúng ta khi mà chúng ta không chịu tiếp nhận Ngài.
Lạy Chúa, Chỉ có yêu thương mới xoá bỏ được hận thù, xoá bỏ được thành kiến, xin cho chúng con biết nhìn anh em bằng cặp mắt tôn trọng, chấp nhận khác biệt nơi họ, xoá tan những thành kiến để ngày chúng con càng gần nhau và gần Chúa hơn. Amen.
47. Lòng tin
Trong Kinh Thánh, có hai chữ “lòng thành tín” và “lòng thương xót” thường đi đôi với nhau để diễn tả sự trung tín của Thiên Chúa Giavê đối với lời hứa và giao ước của Người.
Khi tôi tin vào lời của Thiên Chúa, là tôi đón nhận Lời với sự tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa của Người, bởi vì Người có quyền năng và muốn thực hiện lời đã hứa. Thiên Chúa là Đấng chân thật và đáng tin cậy. Nhờ đức tin, tôi phó thác bản thân cho Thiên Chúa là Đấng chân thật và đáng tin cậy. Đức tin là một cam kết dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, chỉ tìm kiếm sự an toàn bảo đảm trong ý muốn cứu độ của Thiên Chúa mà thôi.
Với quan niệm của Kinh Thánh về đức tin như vậy, chúng ta thấy dân làng Nagiarét không thể đặt niềm tin vào Đức Giêsu được, bởi vì họ thấy Chúa chỉ là một con người bình thường. Đức Giêsu chỉ là một người thợ mộc, con trai của bà Maria. Và họ tự hỏi: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan như vậy?” Dân chúng chỉ thấy được vẻ bề ngoài. Họ không có đức tin, là thứ bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Họ đã đặt Thiên Chúa vào một khuôn khổ theo quan niệm riêng của họ. Chúa Giêsu không sống, không hành động đúng với khuôn khổ đó, vì thế họ không nhìn thấy Thiên Chúa trong Đức Giêsu.
Ngày nay, có nhiều người đặt niềm tin của họ vào các thụ tạo hơn là đặt niềm tin của họ vào Thiên Chúa. Một số người đặt sự an toàn của mình vào các chất gây nghiện, vào rượu mạnh. Một số khác lại đặt sự an ninh của mình vào súng đạn, vào các loại vũ khí. Một số khác dựa vào những thủ đoạn, vào tiền bạc và quyền lực. Giới thanh niên ngày nay sẵn sàng tiếp nhận các mốt thời trang và những xu hướng hiện đại mà không phân biệt những gì là phi nhân bản, và ngay cả những điều ma quái quỷ quyệt ẩn nấp trong đó. Trong khi đó, Thiên Chúa bị người ta đẩy ra khỏi nhiều khía cạnh trong đời sống. Như thế, liệu chúng ta có khác gì dân thành Nagiarét ngày xưa không? Trong lời truyền tin, sứ thần Gabriel đã gọi người con của Đức Maria là “Con của Đấng Tối Cao” và Con Thiên Chúa”. Ma quỷ cũng gọi Chúa Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Ở dưới chân thập giá, viên đại đội trưởng cũng tuyên xưng Chúa Giêsu: “Đích thật người này là Con Thiên Chúa”. Thánh Thôma cũng gọi Chúa Giêsu là: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”. Chính Chúa Cha cũng nói về Chúa Giêsu vào ngày Chúa chịu phép rửa tại sông Giocđan: “Đây là Con yêu quý của Ta”. Như thế, tôi còn có thể nghi ngờ như dân thành Nagiarét nữa chăng? Tôi vẫn còn do dự chưa dám đặt trọn vẹn niềm tin của tôi vào Chúa Giêsu hay sao?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thiên Chúa của con. Con tín thác vào Chúa. Xin Chúa giúp con càng ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, nhất là cho con được dấn thân phụng sự Chúa trong suốt cả cuộc đời con.
48. Ngạc nhiên
Người ta thường nói “không nơi đâu đẹp bằng quê hương”, “ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Khi nói những điều đó là người ta muốn minh chứng rằng: bất cứ ai cũng yêu mến quê hương, yêu mến nơi sinh trưởng, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Đây là xét về tình cảm cá nhân mỗi người dành cho quê hương, còn về chính quê hương, đối lại với cá nhân, tức là tình cảm của những người đồng hương dành cho cá nhân, thì phải chấp nhận chân lý bất hủ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay là “không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Đây cũng là một quan niệm cố hữu bình dân: “Bụt nhà không thiêng”. Chúa Giêsu đã tuyên bố chân lý bất hủ này về chính bản thân Ngài tại quê hương Nagiarét của Ngài.
Ngài trở về quê hương Nagiarét sau hơn một năm đi giảng dạy khắp nơi. Hôm ấy đúng vào ngày Sabat, mọi người đến hội đường để nghe đọc Kinh Thánh và nghe diễn giảng. Chúa Giêsu cũng vào đây để dự phụng vụ lời Chúa. Hôm nay, sau bài đọc, như luật cho phép, Ngài diễn giảng lời Chúa. Kết quả: dân chúng không nhận ra Ngài là ai và họ khinh khi Ngài, họ có thái độ hiểu lầm Ngài, hiểu lệch lạc về con người của Ngài. Bởi vì Ngài nói như một người có uy quyền, như bậc thầy nói với học trò, như một người muốn gây dựng cho mọi người lòng tín nhiệm nhau để tiến tới tin nhau. Điều Ngài dạy vượt mọi khuôn phép cổ truyền đến nỗi mọi người phải thắc mắc.
Nghĩa là trước những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, dân làng Nagiarét ngạc nhiên, vì họ thấy Ngài không đi học ở trường lớp nào mà sao lại có những lời lẽ khôn ngoan, cao siêu, mới lạ. Mặt khác, họ thấy Ngài chỉ là con bà Maria và bác Giuse thợ mộc, bản thân Ngài cũng chỉ là một anh phó mộc, mà sao có thể đảm nhận chương trình đại sự của Thiên Chúa được? Họ không thể ngờ được giữa bụi đất lại có kim cương, họ không thể hiểu được nơi Chúa có hai bản tính, họ không thể nhận ra yếu tố Thiên Chúa và con người, hữu hạn và vĩnh cửu, trời và đất, hạnh phúc và đau khổ giao hòa lại trong một thực tại duy nhất, là nơi con người Chúa Giêsu. Đó là điều làm cho họ vấp phạm, họ khinh thường Chúa và không thiết nghe lời chân lý của Ngài.
Nói rõ hơn, dân làng Nagiarét đã ngạc nhiên về Chúa Giêsu khi thấy Ngài giảng dạy một cách khôn ngoan, thông thái và có thẩm quyền, nghĩa là họ vừa thán phục vừa kinh ngạc. Nhưng vì biết quá rõ về Chúa: thợ mộc, con thợ mộc, từ thán phục kinh ngạc họ chuyển sang thái độ bỡ ngỡ, nghĩa là kinh ngạc nhưng nghi ngờ. Càng nghĩ đến thân thế, nguồn gốc, địa vị xã hội và họ hàng Ngài, họ càng thấy khó chịu, nên họ có vẻ châm biếm khi gọi Ngài là thợ mộc. Một người như vậy mà có thể là ngôn sứ, là Đấng Mêsia ư? Trăm lần không, ngàn lần không, và họ đã bị vấp phạm, có nghĩa là bị xúc động mạnh vì bị chạm tự ái. Họ không thể công nhận một người như thế làm ngôn sứ, làm Đấng Mêsia của họ, cho dù Ngài ăn nói giỏi hay làm được phép lạ cũng thế. Từ đó, sự hiện diện của Ngài khiến họ không thể chịu nổi.
Dân làng Nagiarét ngạc nhiên về Chúa, và Chúa cũng ngạc nhiên về họ, Ngài ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin, kiêu căng và cố chấp. Chính thái độ kiêu căng, cứng lòng đó đã làm tê liệt năng lực làm phép lạ của Chúa như Tin Mừng đã quả quyết: “Ngài không thể làm được phép lạ nào tại đó vì họ cứng lòng tin”.
Chúa Giêsu ngạc nhiên vì dân làng Nagiarét cứng lòng tin, ngày nay chắc Ngài vẫn còn phải ngạc nhiên hơn nữa vì sự cứng lòng tin của nhiều người Công giáo, vì dù sao người Công giáo cũng phải biết Chúa rõ hơn dân làng Nagiarét. Dân làng Nagiarét tưởng rằng họ biết rõ Chúa, nhưng kỳ thực họ biết rất hời hợt, thiển cận, chẳng hạn: ngay nơi sinh của Chúa họ cũng không biết, họ cứ tưởng Ngài sinh ra và lớn lên ở chính Nagiarét, một làng nhỏ bé, nghèo nàn. Nhiều người Công giáo cũng thế, đi đạo vì truyền thống gia đình, vì sinh ra trong gia đình Công giáo, giữ đạo vì thói quen, cho nên tưởng rằng biết Chúa, biết đạo lý, nhưng kỳ thực không biết gì hay biết không được bao nhiêu. Thế nên, mỗi người cần suy nghĩ: Chúa có ngạc nhiên về đức tin non yếu của chúng ta, về sự hiểu biết Chúa quá ít, hiểu biết về Kinh Thánh, giáo lý quá ít, và nhất là có phải Chúa rất ngạc nhiên về cách sống của chúng ta không?
Đàng khác, bài Tin Mừng hôm nay còn đặt ra cho chúng ta một điều nữa cần suy nghĩ, đó là từ chối hay đón nhận Chúa là thái độ hoàn toàn tự do của con người. Người ta có quyền chối bỏ cũng như có quyền chấp nhận. Thiên Chúa không áp đặt ai hay cố tình đưa ai vào một thế triệt buộc nào đó. Nhưng thời nào cái quyền tự do kia cũng là con dao hai lưỡi khiến phải đề phòng, người khôn ngoan bao giờ cũng dè dặt.
Giả như chúng ta thử đặt mình vào số những người có mặt trong hội đường Nagiarét hôm ấy để nghe Chúa, chúng ta sẽ phản ứng thế nào? Chúng ta có quyền trách dân làng Nagiarét quá vội vàng hoặc tiếc thay cho họ vì họ đã bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ, chúng ta sẽ tự trách mình, và còn tiếc nuối biết bao cơ may trong đời chúng ta đã đánh mất vì quan niệm hay cái nhìn hẹp hòi của chúng ta.
Nói rõ hơn, thái độ từ khước Chúa Giêsu một cách hấp tấp, hồ đồ, chỉ vì thành kiến của dân làng nagiarét. Thái độ đó nhắc nhở chúng ta kiểm điểm về cách chúng ta phán đoán và đánh giá trị người khác, chúng ta cũng đã nhiều lần phán đoán hay đánh giá người khác hoặc vội vàng, hấp tấp, hồ đồ, hoặc không trung thực vì thành kiến, vì tự ái, vì ganh tị, đôi khi còn bài bác, dèm pha nữa. Chúng ta hãy kiểm điểm và sửa chữa lại tật xấu này để mối tương giao của chúng ta với mọi người được tốt đẹp hơn. Chúng ta hãy nhớ: người hay phán đoán, nhất là phán đoán hồ đồ, không sống được với ai, không chơi được với ai, và cũng không ai dám chơi với họ, họ bị mất niềm tin nơi mọi người.
49. Chúa Nhật 14 Thường Niên
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
THÀNH KIẾN LÀM CẢN TRỞ ĐỨC TIN
Trong thời Cựu ước, Thiên Chúa phán với loài người qua các ngôn sứ và các tổ phụ. Các ngôn sứ được Chúa sai đến thường bị bạc đãi và tẩy chay như ngôn sứ Êdêkien được: Sai đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại (Ed 2:3) Thiên Chúa. Cuối cùng Thiên Chúa sai chính Con Một Người đến mạc khải trực tiếp cho nhân loại về tình yêu và đường lối của Người
Thánh Phaolô cũng chịu chung một số phận như các ngôn sứ: Bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô (2Cr 12:10). Khi Đức Giêsu về thăm quê nhà như Phúc âm hôm nay thuật lại, Người gặp thái độ nghi ngờ và tẩy chay của người đồng hương. Dân chúng không phàn nàn vì lời Người giảng dạy có tính cách nông cạn. Trái lại họ phải sửng sốt về những lời giảng dạy sâu sắc của Người. Dân chúng cho rằng họ biết tất cả về gia cảnh, thân thế và sự nghiệp của Người. Họ biết Người là con bà Maria nội trợ, con nuôi ông thợ mộc Giuse, không được đi học trường đạo tạo giáo sĩ hay kinh sư. Thế thì tại sao Người lại có thể biết nhiều về Kinh thánh như vậy? Vì thế họ không chấp nhận Người.
Những thành kiến của họ có tính cách cố định. Thành kiến đã làm trở ngại cho những cuộc tiếp xúc giữa Đức Giêsu và người đồng hương. Chính những thành kiến đó làm cản trở ơn thánh đến với họ. Họ nuôi quan niệm sai lầm về Đấng Cứu thế. Theo họ thì vị thiên sai phải là một nhà lãnh đạo chính trị lỗi lạc, một nhà cải cách xã hội tài ba, một vị tướng lãnh tài giỏi, bách chiến bách thắng, có thể đưa dân tộc họ lên hàng bá chủ hoàn cầu. Khi họ nhận ra Đức Giêsu không thích hợp với với quan niệm họ sẵn có về Đấng cứu thế, thì họ từ khước Người. Vì thế đối với họ, Đức Giêsu không thể là Đấng cứu thế. Thành kiến của họ đã làm cản trở cho đức tin vào Chúa, vào lời Chúa và quyền năng của Chúa như Chúa muốn họ tin tuởng. Do đó Đức Giêsu nói với họ: Ngôn sứ có bị coi rẻ thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình (Mc 6:4). Phúc âm hôm nay ghi lại: Người đã không thể làm phép lạ nào tại đó, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân (Mc 6:5). Sở dĩ Đức Giêsu không làm phép lạ nào được vì như lời Phúc âm ghi lại họ cứng lòng tin (Mc 6:6).
Ta có thể thầm trách đám đông trong Phúc âm hôm nay đã tẩy chay Chúa. Tuy nhiên ta có thể mang tội giống như người trong Phúc âm hôm nay. Nếu ta chỉ đi tìm Chúa nơi những người quyền cao chức trọng, hay ở những nơi huy nga tráng lệ mà thôi, ta sẽ khó tìm thấy Chúa. Thiên Chúa còn hiện diện nơi những người bình thường mà ta thường gặp, cũng như những sự việc xẩy ra thường ngày. Ta khó nhận ra những dấu vết của Chúa nơi người khác cũng như sự việc ta gặp hằng ngày nếu ta để cho thái độ quen quá hoá nhàm xâm chiếm đời sống tư tưởng của ta.
Thiên Chúa không những hiện diện ở những nơi tầm thường như phố nhỏ Nadarét, mà còn ở nơi dơ bẩn, hôi hám như trong máng cỏ Bêlem. Ta có thể tìm thấy Chúa nơi người đau yếu, bệnh tật, nghèo khổ và tù đầy. Đó là điều Chúa nói trong Phúc âm thánh Mát-thêu: Khi Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn (Mt 25:35). Để có thể tin, người ta phải giữ tâm hồn rộng mở. Nếu ta để cho thành kiến về đạo giáo làm mù quáng, thì những thành kiến có thể làm cản lối Chúa vào nhà tâm hồn. Nếu ta vịn cớ nọ cớ kia để đóng cửa nhà tâm hồn, thì Chúa cũng chịu, không vào được, vì Chúa đã ban cho loài người được tự do và Chúa tôn trọng tự do của loài người. Ân huệ và quyền năng của Chúa tuỳ thuộc vào việc mở rộng tâm hồn của mỗi người. Chúa không ép buộc ai theo Chúa và sống theo đường lối đức tin. Chúa chỉ mời gọi. Việc chấp nhận hay không là tuỳ thuộc vào mỗi người.
Nếu ta để cho thành kiến và tính ganh tị lấn át, ta sẽ không nhìn thấy những ưu điểm và khả thể nơi tha nhân. Nếu ta phán đoán lời nói hay việc làm của người khác chỉ dựa trên bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền và gia cảnh của họ là ta để cho thành kiến len lỏi vào óc phán đoán của ta. Lời nói hay việc làm có giá trị thường mang tính chất khách quan chứ không tuỳ thuộc vào bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền hay gia cảnh của người nói hay làm. Nghe những lời nói hay việc làm mang khuyết điểm của người khác mà đóng cửa lòng lại, không tìm đến với họ, không cho họ cơ hội để bầy tỏ lí do, thì có phải là quan niệm hẹp hòi chăng? Gặp người khác lướt qua một vài lần, nói mấy lời xã giao mà đã kết luận người đó tốt xấu, thì không phải là nhận xét nông cạn sao? Bỏ việc thờ phượng hay nghe lời giảng dậy ngày Chúa nhật chỉ vì thắc mắc về khả năng hoạt bát và trình độ học vấn của linh mục cử hành thánh lễ và rao giảng thì có phải là một quyết định không dựa trên đức tin chăng? Buồn giận một linh mục nào đó mà không tìm đến thờ phượng ở bất cứ nhà thờ công giáo nào khác thuận lợi, thì có phải là hành động giận cá băm thớt không?
Hôm nay mỗi người cần cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho ta được ơn nhận lãnh đức tin. Ta cần cảm tạ Chúa cho cha mẹ và người đỡ đầu, đã gieo vãi hạt giống đức tin vào tâm hồn ta khi đưa ta đến giếng nước rửa tội. Ta cần cảm tạ Chúa cho những người đã nuôi dưỡng và nâng đỡ đời sống đức tin của ta để hôm nay ta có thể bầy tỏ đức tin vào Chúa, vào lời Chúa và quyền năng Chúa. Ta cũng xin Chúa ban cho mình biết mở rộng trí óc và tâm hồn đón nhận lời Chúa.
Lời cầu nguyện xin cho được mở rộng tâm hồn: Lậy Đức Giêsu, con xin tạ ơn Chúa đã ban cho con được ơn nhận lãnh đức tin qua bí tích Rửa tội. Xin tha thứ những lần con để cho thành kiến vể đạo và người giảng đạo, làm cản trở đức tin vào Chúa. Xin cho con biết loại bỏ thành kiến sai lầm và ban cho con một tâm hồn rộng mở để con biết nhìn người và sự vật trong nét trung thực, dưới ánh sáng chân lí soi dẫn. Amen.
50. Chúa Nhật 14 Thường Niên
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
ĐỨC GIÊSU KHÔNG THỂ LÀM PHÉP LẠ
Nước Ethiopia Kitô giáo đã bị cắt đứt liên lạc với Kitô giáo Châu Âu do sa mạc, vị trí xa xôi và Hồi giáo. Chỉ tới giữa thế kỷ 15, Châu Âu mới biết được thật sự về nước này. Năm 1441, do kết quả đàm phán của Giáo Hoàng với Thượng phụ Copte ở Alexandria và cộng đồng người Ethiopia ở Giêrusalem, mà một phái đoàn Ethiopia được gửi đi tham dự công đồng Florence. Đầu thế kỷ 16, một nhóm thừa sai dòng Phan sinh được gởi từ Giêrusalem đi Ethiopia nhưng không thành công được bao nhiêu, khi mà Châu Âu đang trong thời kỳ Cải Cách đau đớn.
Đến thập niên đầu tiên của thế kỷ tiếp theo, mới có một tu sỹ Dòng Tên được gửi đến Ethiopia trong một phái đoàn, và đó là Pedro Paez. Ông đến vào năm 1607. Nhà thừa sai Tây ban nha này hết sức khoan dung đối với văn hóa Kitô giáo Ethiopia. Ông chấp nhận phụng vụ Ethiopia và đã thuyết phục thành công người Negus tuyên xưng hai bản tính của Đức Kitô, đồng thời hợp thức hóa sự hiệp nhất Giáo hội Ethiopia với Rôma. Ngày Sabát của người Dothái cũng bị bãi bỏ và hàng ngàn người Ethiopia chịu phép rửa, xưng tội và rước lễ từ tay các thừa sai.
Tất cả những thành tựu của Paez đã bị thiêu rụi bởi người kế nhiệm ông, thượng phụ Dòng Tên Bồ đào nha tên là Mendez. Ông này đến đây năm 1625 với tám thừa sai khác. Mendez là một người chủ trương Latinh-hóa không khoan nhượng. Ông không chỉ nhấn mạnh đến tiếng Latinh, mà cả lịch La-mã và chủ trương chỉ một lối hiệp thông Kytô hữu thôi. Thêm vào đó, ông còn ra lệnh rửa tội lại tất cả các tín hữu Ethiôpia, phong chức lại cho các linh mục, rửa lại các bàn thờ và đưa ra khỏi các nhà thờ thánh tích của các thánh Ethiôpia.
Kết quả của sự xúc phạm không thể tin được đối với văn hóa cổ xưa và nghi lễ của Giáo hội Ethiopia này, là họ lập tức quay lại với ly giáo và khôi phục lòng thù ghét cực độ đối với Rôma và tất cả những gì mà Rôma bảo vệ. Tiếp đó, các thừa sai Latinh bị thảm sát, và chỉ đến thế kỷ 19 các nhà thừa sai Công giáo mới nhận lại nghi tiết Ethiôpia và sau đó tiến hành truyền chức linh mục và giám mục. (Hoành Sơn, QM và DS, Ayward Shorter, Ba cuộc Hội Nhập Văn Hóa thất bại trong lịch sử)
Sự hẹp hòi, thiển cận, bất bao dung đã làm Đạo Công Giáo ở Ethiopia bị khủng hoảng hơn hai thế kỷ, chỉ vì thất bại hội nhập văn hóa. Trong Tin Mừng Chúa Nhật 14 thường niên hôm nay, thánh sử Máccô thuật lại thất bại của Đức Giêsu, khi trở về quê hương Nazareth. Người đành chịu thúc thủ, không thể làm được phép lạ trước thái độ hẹp hòi, kiêu ngạo và đố kỵ của người đồng hương.
Thiếu niềm Tin
Dù biết rằng, Đức Giêsu đã rao giảng và làm phép lạ nhiều nơi, nhưng người đồng hương Nazareth vẫn thiếu niềm tin vào Người. Vẫn cố chấp, thành kiến, nông cạn, chỉ vì “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria và là anh em của các ông Gia cô bê, Giôxét, Giuđa và Simon sao?”chỉ vì thân thế quá đỗi tầm thường, xuất thân từ gia đình lao động nghèo khó, chẳng có vai vế, đẳng cấp nào trong xã hội.
Thành kiến đóng khuôn người khác vào trong chuẩn mực thô thiển, bất di bất dịch, vào trong thân phận nhất định, bất biến và hạn hẹp. Trong khi bất cứ ai cũng đều dễ thay đổi, từ hình hài thân xác đến tâm hồn, từ trẻ dại đến trưởng thành và già đi, từ tâm hồn ngây thơ, biết suy nghĩ, chín chắn tốt lành, hay suy đồi, gian ác, biến đổi tốt xấu tùy môi trường, tùy nhận thức, tùy bản lĩnh và tùy theo xu hướng thế gian. Người thành kiến thì luôn cố chấp, luôn phủ nhận khía cạnh tích cực, phát triển hay tiến bộ của ai đó, chính vì thiếu niềm tin vào người đó.
Người đồng hương Nazareth không thể nhận ra Đức Giêsu là Đấng Messia, Đấng Thiên Chúa – Ở – Cùng, chỉ vì không tin Người, dù đã nghe vang dội danh tiếng rao giảng và làm phép lạ. Vì trở về quê hương, Người vẫn tiếp tục ẩn mình dưới thân phận bình dân, hem hễ, lam lũ và tầm thường vốn như trước đây, không hề ầm ĩ vinh quy kèn trống, chẳng quyền cao, chức trọng.
Thiếu lòng Cậy
Không chỉ thiếu niềm tin, họ còn thiếu cả lòng trông cậy vào Đức Giêsu, dù biết Người đã nổi danh như cồn khắp nơi. Khi chê bôi, dè bỉu, dèm pha, khinh miệt, rẻ rúng Đức Giêsu, họ vô tình phô ra tính kiêu ngạo, lòng tự cao tự đại. “Chị em của ông không phải là lối xóm với chúng ta sao?” Chỉ vì thói kiêu ngạo, họ trâng tráo thốt lên những lời bất nhã, khiến họ trở nên mù lòa, không thế nhận ra vị Ngôn Sứ vĩ đại, Đấng Cứu Chuộc duy nhất đến thế gian.
Thiếu lửa mến
Thay vì vui mừng nghênh tiếp, trọng thể đón rước Đức Giêsu về lại quê nhà, thì người đồng hương lại tỏ ra đố kỵ, ganh ghét, tỵ hiềm Người.“Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” Những thắc mắc, những nghi vấn đó hoàn toàn hợp lý, nhưng không phản ảnh lòng ái mộ, khâm phục, mà chỉ phản ảnh sự ghen tương, nghi kỵ, khi thấy Người tài năng hơn họ. Chỉ vì thiếu hẳn lửa mến, họ chẳng chút gì mến yêu, phục tùng, thiện cảm với Đấng Ban Lời Hằng Sống.
“Yêu nhau trái ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng vuông.“ Con tim, tình cảm luôn gây ảnh hưởng lý trí, ứng xử, xã giao. Ganh ghét ai, thì làm sao nhận ra cái hay, cái tốt của người ấy, nếu có cũng bị xuyên tạc, đổi trắng ra đen. Người đồng hương Nazareth như thế hoàn toàn đố kỵ với Người, chẳng mến, chẳng cậy, cũng chẳng tin, khiến “Người đã không thể làm được phép lạ nào ở đó.”
“Mỗi ngày con phải bớt tự ái, mà thêm bác ái. Mỗi ngày con bớt tự tin, mà tin thêm Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 56)
Lạy Chúa Giêsu, chúng con thiếu đức tin để nhìn thấy Chúa ở trong anh em, thiếu đức cậy để phó thác vào Chúa, thiếu đức mến để yêu Chúa thương người. Xin Chúa ban đổ tràn đầy ơn Tin Cậy Mến cho chúng con, để Chúa có thể làm phép lạ nơi chúng con, cảm hóa chúng con thay đổi nếp sống cũ, tái sinh trong ơn Cứu Độ của Chúa luôn.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu chúng con sống khiêm nhường, nhân ái, bao dung, để tìm thấy Chúa đang ẩn náu nơi tha nhân, mà yêu thương, bác ái và phục vụ mọi người. Amen.
51. Bụt nhà vẫn thiêng
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Claude Monet là học sĩ bậc thầy, cha đẻ của trường phái Ấn tượng, hiện vẫn là họa sĩ Pháp được thế giới biết đến nhiều nhất. Cảnh trí thiên nhiên trong các bức tranh của ông có sức ám ảnh, mê hoặc lạ. Nó được thể hiện, phản chiếu bởi một thứ màu sắc, ánh sáng đặc biệt bắt mắt. Danh họa Paul Cézanne không hề quá lời khi nhận xét: “Người ta không thể chỉ xem tranh của Monet bằng hai mắt vì Monet còn nhìn đời bằng một con mắt khác”.
Tuy nhiên, trong khi vị thế của tranh Monet trên thị trường tranh quốc tế ngày một lên cao, thì tại chính quê hương ông, giới nghiên cứu mỹ thuật lại không mấy “mặn mà” với tác phẩm của Monet. Có lẽ, đó chính là lý do để Giám đốc Bảo tàng d’Orsay, ông Guy Cogeval, đứng ra tổ chức tại Paris một cuộc triển lãm lớn về Monet (bắt đầu từ ngày 22/9/2010 tới ngày 24/1/2011) nhằm góp phần điều chỉnh thái độ “bụt chùa nhà không thiêng” của những người yêu nghệ thuật ở “kinh đô ánh sáng.”
Điều này chẳng có gì đáng lạ, vì ngay từ 21 thế kỷ trước, Chúa Giêsu đã phán: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi!” (Mc 6, 4)
1- Rẻ rúng vì quen thuộc
Mặc dù Chúa Giêsu đã đi rao giảng, làm phép lạ cứu chữa bao người, danh tiếng nổi như cồn, nhưng khi về quê nhà Nazareth, thì bị người đồng hương khinh thường, như tâm lý dân gian muôn kiếp, bụt nhà không thiêng. Họ không chấp nhận, vì biết quá rõ lai lịch, gốc gác, nghề nghiệp, địa vị xã hội của gia đình ông thợ mộc Giuse quá bình dị, tầm thường và nghèo nàn. “Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải bà Maria; an hem của ông không phải là các ông Gia cô bê, Giô xếp, Simon và Giu đa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao?” (Mt 13, 55-56).
2- Rẻ rúng vì đố kỵ
Họ ganh tỵ vì thấy Người tài giỏi, danh tiếng qua việc giảng dạy và làm nhiều phép lạ. “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 5, 2) Cái tâm lý con gà ganh nhau tiếng gáy được dịp phát triển vô tội vạ. Cái tâm lý đố kỵ với người có tài hơn mình, bởi tánh kiêu ngạo, bởi mặc cảm thua kém, bởi lòng bất khoan dung, bởi thiếu trưởng thành trong nhân cách và tâm tư, bởi thói hùa theo bầy đàn.
3- Rẻ rúng vì cố chấp, hẹp hòi
Dù “mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người, “(Lc 4, 22), nhưng những người đồng hương Nazareth vẫn cố chấp, hẹp hòi, thành kiến và tỏ ra khinh thường, không chấp nhận Người. Giá như Người sênh sang áo gấm, vinh quy về làng, thì còn cơ may được chào đón. Đàng này, Người chẳng có đến cái gối, chẳng có nhà cửa, dinh thự, chẳng xe xua lụa là, tiền hô hậu ủng, chỉ có mấy môn đệ tầm thường tháp tùng, xuất thân thuyền chài khó nghèo. “Hẳn các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào? ( Lc, 4, 23)
Ngay như sau này, thánh nữ Tiến sĩ Têrêsa Hài Đồng Giêsu thật thánh thiện đến thế, mả các nữ tu sống đồng thời, cùng dòng, cùng tu viện, cũng còn chẳng biết nói gì về ngài, vì chẳng thấy chi khác thường nơi ngài, khi được người ta phỏng vấn, tìm hiểu về sinh thời của thánh nữ.
Lạy Chúa Giêsu, con cũng đang bưng tai, nhắm mắt, không hề nhận ra Chúa hiện diện chung quanh, từ tha nhân, từ các Bí Tích, Thánh Thể và Lời Chúa. Xin Chúa thương tình luôn mở lòng trí con, để nhận biết và nghe theo tiếng Chúa mọi nơi, mọi lúc.
Lạy Mẹ Maria, xin mở lòng dạ con, để luôn cảm nhận có Chúa hiện diện trong từng giây phút đời sống con, để con có thể thánh hóa mọi sự, mọi biến cố trong đời theo Thánh ý Chúa. Amen.
52. Thiên kiến
Cổ học tinh hoa có thuật chuyện “Mất búa”, đại khái như sau: Một người thợ mộc làm việc trong vườn. Thằng bé con nhà hàng xóm sang ngồi xem. Mải làm, lúc cần đến búa, ông tìm mãi không thấy. Ông nghi thằng bé đã ăn cắp búa. Nhìn mặt nó đúng là mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói đúng là giọng điệu của thằng ăn cắp búa. Hỏi thì nó chối đúng là tâm địa gian manh. Được một lúc, ông lại thấy cái búa nằm khuất đâu đó. Nhìn lại mặt thằng bé thì thấy mặt mũi nó hiền lành dễ thương, khác với mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói, đúng là con nhà gia giáo, khác với lời ăn tiếng nói của thằng ăn cắp búa. Hỏi nó thì nó thưa, đúng là con nhà lương thiện, khác hẳn với thằng ăn cắp búa.
Câu chuyện trên nói lên thiên kiến của con người. Thiên kiến là ý kiến mình có sẵn về một người hay một vấn đề. Người có thiên kiến xét người và vật theo suy nghĩ riêng chứ không dựa trên cơ sở khách quan trung thực. Thiên kiến là mắt kính mầu. Vì đeo kính mầu nên ta thấy mọi vật đều nhuộm mầu của kính. Đeo kính mầu xanh, ta thấy mọi vật đều xanh. Đeo kính mầu hồng ta thấy mọi vật đều hồng. Hồng, xanh là ở mắt kính chứ không ở sự vật. Vì thế phán đoán của người có thiên kiến thường không chính xác.
Thiên kiến có nguồn gốc ở sự thiếu học hỏi. Vì không được học nên hiểu biết giới hạn. Thiếu hiểu biết nên phán đoán thiếu chính xác.
Thiên kiến cũng do đầu óc thiển cận, hẹp hòi. Tục ngữ có câu: “Ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung”. Con ếch ngồi dưới đáy giếng chỉ nhìn thấy một mảnh trời vừa bằng miệng giếng, cho rằng trời chỉ có thế. Người có đầu óc thiển cận hẹp hòi cũng tưởng mọi chân lý đều chứa trong đầu óc của mình cả.
Thiên kiến thường do sự thiếu khiêm tốn. Sự thật mênh mông. Chẳng ai dám tự hào mình biết tất cả sự thật. Người khiêm tốn là người thấy rõ giới hạn của mình, nên cố gắng đi tìm sự thật. Chỉ những người thiếu khiêm tốn mới hay huênh hoang tự đắc và chủ quan.
Thiên kiến thường dẫn đến những hậu quả tai hại. Vì thiên kiến, vua quan triều Nguyễn đã không chấp thuận những kiến nghị đổi mới của Nguyễn Trường Tộ. Nên đã để đất nước chìm trong lạc hậu. Nếu nghe theo chương trình đổi mới, có lẽ đất nước ta đã tiến nhanh hơn Nhật Bản. Vì Nguyễn Trường Tộ đã nhìn thấy vấn đề và đề nghị từ cuối thế kỷ 19, trong khi Nhật mới chỉ canh tân từ đầu thế kỷ 20.
Nếu trong đời sống xã hội thiên kiến đã đưa đến những hậu quả tai hại, thì trong đời sống thiêng liêng, thiên kiến cũng gây ra những thiệt hại không kém.
Người dân làng Nagiarét mang nặng thiên kiến về Đức Giêsu. Dưới mắt họ, Người chỉ là một anh thợ mộc tầm thường, nghèo nàn và chẳng có gì đặc biệt. Người xuất thân trong một gia đình nghèo hèn, không danh giá. Họ biết rõ cha mẹ, họ hàng của Người. Thấy Người làm được những việc kỳ lạ. Nghe miệng Người giảng những điều khôn ngoan. Họ ngạc nhiên, nhưng không tin. Đối với họ, Đấng Cứu Thế phải là một Đấng phi thường, không ai biết rõ nguồn gốc. Hơn nữa, Đấng Cứu Thế phải oai phong lẫm liệt, đánh đông dẹp bắc rồi lên ngôi vua trị vì thiên hạ. Đàng này, Đức Giêsu thì họ biết rõ nguồn gốc. Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Tướng mạo không giống như hình ảnh Đấng Cứu Thế mà họ nuôi trong đầu óc. Vì thế, họ không tin. Vì họ không tin, nên Đức Giêsu không thể làm phép lạ nào ở đó. Người bỏ họ mà đi. Không bao giờ Người trở lại Nagiarét nữa. Thật là thiệt hại cho làng quê Nagiarét. Họ đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Họ đã để lỡ cơ hội đón nhận ơn cứu chuộc. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở. Chỉ đến một lần trong đời. Rồi thôi. Ai để lỡ sẽ không bao giờ có cơ hội chuộc lại. Thiên kiến đã làm hại họ.
Rất nhiều khi ta cũng mang nặng thiên kiến. Thiên kiến đối với anh em. Thiên kiến đối với Chúa. Hôm nay, rút kinh nghiệm của những người dân làng Nagiarét, ta hãy tránh thiên kiến bằng cách tìm học hỏi để biết Chúa, biết giáo lý của Chúa hơn. Nhất là có tâm hồn mở rộng và khiêm nhường để biết đón nhận Chúa, đón nhận thánh ý Chúa. Nếu ta khiêm tốn đón nhận, Chúa sẽ dạy dỗ ta những chân lý nước trời đem lại hạnh phúc cho ta.
53. Bụt nhà không thiêng
(Suy niệm của Br. B.M.Thiện Mỹ CRM)
LỜI CHÚA:
Bài đọc1: Ez.2,2-5: Đây là nhà phản loạn, và họ sẽ biết rằng giữa họ vẫn có một tiên tri.
Bài đọc 2: 2Cr.12,7-10: Tôi rất vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ngự trong tôi.
Phúc âm: Mc.6,1-6: Không tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương.
SUY NIỆM:
Một trong những lãnh tụ quan trọng của phong trào công nhân nước Anh là Will Crooks. Ông ta được sinh ra trong một gia đình rất nghèo. Ký ức đầu tiên của ông ghi nhận là hình ảnh mẹ ông đang khóc vì không biết lấy gì để ăn trong bữa sau. Ông bắt đầu làm việc trong một lò rèn, lương hàng tuần là 5 hào. Ông trở thành một tay thợ giỏi, dũng cảm và ngay thẳng nhất thời bấy giờ. Ông tham gia việc chính trị ở ngay thị xã Luân đôn. Nhiều người rất bất mãn khi Will Crooks thành chủ tịch Polar. Ngày nọ, trong đám đông, một mệnh phụ dè bỉu ông: “Người ta bầu Crooks làm chủ tịch à, anh ta chỉ là dân thợ tầm thường mà thôi”. Một người trong đám đông, chính là Crooks, đã quay lại bỏ nón ra và nói: “Hoàn toàn đúng, thưa bà, tôi chỉ là một dân lao động”.
Dân chúng ở Nazaret khinh dể Chúa Giêsu chỉ vì Ngài là một thợ mộc. Vì khi Chúa xuống thế gian, Ngài không hề đòi hỏi sự miễn trừ nào. Ngài bằng lòng nhận lấy cuộc đời với tất cả những công việc tầm thường nhất. Những may rủi về gia thế, giầu nghèo và phổ hệ chẳng có gì quan trọng với nhân cách cả. Chúng ta cần cảnh giác đối với sự đánh giá một người căn cứ vào bề ngoài, vào những cái tạm thời nay còn mai mất, chứ không căn cứ vào giá trị nội tại nơi chính người ấy.
Sự kiện Chúa Giêsu là con trai bà Maria, con bác thợ mộc Giuse, làm cho mọi người không mấy chú ý đến…. Chúa chết chỉ lúc được 33 tuổi, nhưng Ngài đã không lìa bỏ Nazaret trước năm 30 tuổi (Lc. 3,23). Trong suốt thời gian còn ở gia đình, Chúa Giêsu tận tuỵ với công việc, ngay cả trong những việc nhỏ nhặt. Là con bác thợ mộc, Chúa Giêsu bị người ta xem thường. Từ ngữ bác thợ mộc là tekton. Tekton là thợ làm đồ gỗ, nó còn có nghĩa là người làm nghề làm thủ công. Đời xưa và cả ngày nay thợ mộc có thể làm cho bạn bất cứ việc gì, từ việc xây cất nhà, đóng khung cửa, làm tủ, giường, bàn ghế, cho đến cả việc đóng chuồng gà, chuồng bò v.v. Thế nên người làng Nazaret khinh dể Chúa Giêsu vì Ngài là một công nhân, một thường dân.
Hôm nay Chúa Giêsu trở về quê hương xứ sở không phải vì lý do riêng tư là thăm lại ngôi nhà và những người thân thuộc ngày trước. Ngài trở về cùng với các môn đệ của mình với tư cách là một Rabi. Chúa Giêsu là Thầy dậy dỗ đến nỗi các Rabi Do Thái phải rất kinh ngạc. Chúa đã làm các phép lạ: Dẹp yên bão tố, chữa lành bệnh nhân, cả những chứng bệnh bất trị; xua đuổi quỉ ám v.v. Những phép lạ này làm sửng sốt mọi người và danh tiếng Ngài đồn ra khắp mọi nơi …. Thế mà Chúa Giêsu lại bị xem thường tại quê nhà chỉ vì “bụt nhà không thiêng”, đến nỗi Chúa không làm phép là nào tại đó và chỉ chữa lành một vài bệnh nhân mà thôi.
Chúa Giêsu bị đồng hương coi rẻ vì những hình thức bên ngoài có vẻ tầm thường, bởi lòng người “quen quá hoá nhàm” hay “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Hơn nữa nhiều người Do Thái thời đó còn quan niệm Đấng Cứu Thế giáng trần với xa mã lộng lẫy, đánh đông dẹp bắc, thống trị địa cầu bằng sức mạnh quân sự và quyền lực của đế quốc, và cho đến nay nhiều người Do Thái vẫn còn đang chờ đợi Đấng Cứu Thế theo quan niệm của họ!
Ngày nay Chúa Giêsu đã về trời nhưng Ngài còn hiện diện khắp nơi trên thế gian. Ngài ngự trị trong bí tích Thánh Thể, nhưng dưới hình thức bánh miến và rượu nho, chúng ta có dễ nhận ra dung nhan khả ái của Ngài không? Các vị đại diện Chúa mà ta vẫn gọi là Chúa Kitô thứ II, danh xưng đó có phù hợp với niềm tin nơi tâm hồn của mình không? Nhất là những vị đại diện Chúa lại là bà con, họ hàng, bạn hữu, đồng hương của chính chúng ta… Chúa Giêsu còn ẩn mình trong mọi tầng lớp giai cấp trong xã hội mà không phân biệt chủng tộc, mầu da, giầu nghèo, học thức v.v. Chúng ta có nhận ra Chúa nơi tâm hồn tha nhân không? Hay chỉ thấy bằng con mắt giác cảm: nhìn nhận qua dáng vẻ béo mập, gầy còm, cao thấp, trắng đen, đẹp xấu v.v. Ước gì chúng ta có đôi mắt tinh ròng sáng suốt nhận ra chân lý, vẻ đẹp tinh thần giữa muôn hình thức của nếp sống trần gian.
Đối với bản thân, chúng ta cũng phải biết nhận ra Đức Kitô trong tâm hồn mình, nhất là khi hiệp lễ, đừng có mặc cảm vì sự tầm thường bên ngoài mà không nhận ra những ơn thánh Chúa luôn ban xuống cho ta. Những dáng vẻ hay tài năng bên ngoài sẽ qua đi hết, cuộc sống quan trọng ở chỗ là làm sao chiếm hữu được nước Thiên Đàng mà mọi người đều có khả năng lãnh nhận. Công việc hằng ngày chỉ là tạm bợ, hành trình nội tâm tiến về quê trời mới có giá trị lâu dài vĩnh cửu.
Sau hết chúng ta xin Chúa cho mình được Đức Tin mạnh mẽ để tuyên xưng danh Chúa như thánh Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt. 16,16). Bây giờ chúng ta không được sống gần bên Chúa như các tông đồ xưa kia, mà chỉ ngắm nhìn Ngài dưới hình bánh hình rượu. Nhưng điều đó đâu có hề gì, vì như thánh Tôma đã nói: “giác quan không giúp được gì cả, và thị giác, xúc giác, vị giác cũng lầm”. Chỉ có đức tin mới làm cho ta nhận biết Thiên Chúa và tin vào lời Đức Kitô tuyên bố: “Đây là mình Ta…. Đây là máu Ta….” Không những thế ước gì Đức tin của ta còn phải đi đến chỗ thực hành cao hơn như các thánh tông đồ đã bỏ cha mẹ, vợ con và mọi sự ở đời này để nối gót sự nghiệp cứu độ của Đức Kitô.
Lạy Chúa xin cho chúng con luôn thấy được giá trị và uy quyền của Chúa Giêsu và tin vào Giáo Hội là duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Mặc dù thấy Giáo Hội ở trong hoàn cảnh nào đi nữa, mặc dù thấy hiện thân của Chúa trên trần gian là các vị linh mục có xuất thân từ đâu, thân thế và sự nghiệp ra sao, đời sống của các vị có thế nào đi nữa, chúng con vẫn một lòng tin yêu và sống trọn tình đạo nghĩa của người Kitô hữu.
54. Bụt nhà không thiêng
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
Một nhận xét thực tế giữa xã hội mà ta thường nói: “Bụt nhà không thiêng” chứ không mấy ai nghĩ “Vách đất có chạch vàng”. Tâm trạng thời chúng ta cũng không khác thời Chúa Giêsu, khiến Ngài phải thốt lên: “Chẳng có ai được vinh danh nơi quê hương mình”.
Người đồng hương với Chúa đã nhìn qua nhiều khía cạnh: thán phục – chần chờ xem xét – chê bai ngoài hành động – tìm cách hại Ngài.
Với người chân thành và tin tưởng vào Ngài thì nhận: Ngài là Đấng có quyền có phép – Ngài đã làm phép chữa họ khỏi – Họ được ơn nhận ra lời chân lý Ngài giảng là thật.
Với giới có quyền chức, có địa vị trong dân thì dèm chê vì Ngài vượt quyền họ – Có khả năng hơn họ – có tài đức hơn họ. Nói rõ ra: Họ sợ mất miếng, mắt phần, mất thế giá, mất danh vọng. Do đó họ nhìn nhận theo chiều đi xuống: “Ông ta là con bác thợ mộc và bà Maria, có ai mà chẳng hay biết thân thế và sự nghiệp của gia đình này nữa. Ngay đến anh em họ hàng như Jacobe, Juda, Simon… có tài trí gì đâu, toàn là người sinh trưởng trong làng, ai mà không lạ”.
Nhưng họ không hiểu được rằng: Trong con người nghèo khó kia lại là Đấng mà nhiều người vấp phạm (Simeon), là Thiên Chúa nhập thể.
Trong chuyện “The Crossed Sword’s – So kiếm” của một văn hào người Anh kể lại: Có một chàng trai nghèo nàn, chất phác được hoàng tử Wales (Hoan Lộ) hoán đổi cho vào cung, còn hoàng tử thì giả dạng du hành nhân gian, mục đích là để tìm hiểu và thông cảm với đời sống của người dân. Đến nơi nào hoàng tử cũng nói cho mọi người biết mình là con vua xứ Hoan Lộ và ngài cũng ra sức thi ân, giúp đỡ mọi người. Có nhiều người mến phục đúc tính từ tâm nhân hậu của Hoàng tử, nhưng cũng không thiếu những kẻ không tin là hoàng tử. Càng xưng mình ra họ càng hoài nghi hơn. Có nhiều lần họ đã bắt bỏ tù, đánh đập. Có lần bị đưa vào sào huyệt sống với những kẻ trộm cướp….Nhưng dù bị cách nào chàng cũng cứ xưng mình là con vua, mặc dù chẳng ai tin.
Hoàng tử Giêsu cũng sống trong hoàn cảnh tương tự: Con Thiên Chúa ẩn mình trong gia đình đạm bạc, cha mẹ là người chân thành chất phác. Thử hỏi có Thiên Chúa nào lại làm quen với nhát búa, lằn cưa. Bởi đó sinh ra chuyện “Gần chùa gọi Phật bằng anh”. Đi xa hơn nữa “Bụt nhà không thiêng”. Họ lại còn lấy “phép vua thua lệ làng đề mà quyết đoán nữa.”
Chúng ta nhiều lúc tin Chúa là Thiên Chúa quyền phép, nhưng đôi khi cũng cho rằng Chúa không thực tế, vì xin mà không cho như mình muốn. Cầu mãi mà cũng chẳng thấy động. Nhất là khi gặp khổ đau, hất hủi, buồn lòng….
Hãy bắt chước ông Job: Tạ ơn Chúa cả khi con đàn cháu đông, cả khi bị tịch thu hết mọi sự và ngay chính mình bị lở loét đến ngồi trên tro cho bớt ghê hồn. Ông vẫn vui và bình an nói lên được rằng: “Chúa cho Chúa cất là quyền của Ngài”. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho được bình tĩnh nhận định và sẵn sàng vâng phục ý Chúa cho xảy đến trong đời.
55. Bản hương khinh bỉ
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Ngày kia, có một anh chàng tên là Dương Bố, lúc ra khỏi nhà để đi thăm bạn bè, thì mặc bộ đồ trắng, nhưng dọc đường, chẳng may gặp cơn mưa to, áo quần bị ướt đẫm, anh ta phải ghé vào nhà người quen, mượn tạm được một bộ đồ đen mặc đỡ. Khi trời hết mưa, anh ta trở về nhà, thì bị con chó bông nhà anh ta, xổ ra sủa ầm ĩ, xông tới muốn đớp anh ta, vì coi anh ta như một người xa lạ, khiến anh ta nổi xung đùng đùng, bèn vớ lấy cây gậy toan đập chết con chó một trận nên thân. May nhờ người anh ruột từ trong nhà bất ngờ bước ra, biết được sự thể công việc, nên khuyên can, Dương Bố mới dừng tay không rượt theo để đập chết con chó nữa.
Dương Bố nổi giận với con chó, đó là một điều nông nổi chẳng nên làm, vì nó là loài vật đâu có trí khôn, làm sao nó biết phân biệt người nhà với khách lạ, khi anh ta đang mặc bộ đồ mầu trắng lại đổi ra mầu đen. Nó là con vật, chỉ có thể phân biệt được người này với kẻ kia, qua cách phục sức của họ bên ngoài: Người ra đi, mặc bộ đồ trắng là người quen, còn người trở về đổi bộ đồ đen chắc là người lạ, có thế thôi.
Còn loài người chúng ta mới đáng kết tội; bởi lẽ, chúng ta là loài có trí khôn, biết suy nghĩ, phân biệt phải trái, điều lành điều dữ, điều thiện điều ác, điều chính điều tà… Thế nhưng, thường thường người ta cũng chỉ biết đánh giá trị kẻ khác, theo dáng vẻ bên ngoài của họ, y như con chó không nhìn nhận ra chủ nó, khi ông thay bộ đồ trắng ra bộ đồ đen. Đó mới chính là điều đáng trách khiến chúng ta phải suy nghĩ.
I. Nhãn quan hẹp hòi kiêu căng
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, những người đồng hương với Chúa, mặc dầu rất sửng sốt khi nghe Chúa giảng dạy những lời khôn ngoan, chứng kiến biết bao việc lạ lùng Chúa đã thực hiện; nhưng với tâm trí kiêu căng tự phụ, thấy ai hơn mình thì ghen tương. Đúng như người ta nói: “Trâu cọc ghét trâu ăn”. Lại thêm cái óc yên trí: “Bụt nhà không thiêng”. Nên họ đã dám mỉa mai phạm thượng tới Chúa khi nói: “Ông này chẳng phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao?” Khi tường thuật lại sự kiện này, Thánh Sử Marcô đã phải kết luận rằng: “Họ đã vấp phạm vì Người”, để nói lên cái thực trạng cố chấp của họ.
Chúa Kitô đã thấu tỏ tâm tư của họ, nên Ngài đã công khai vạch trần cái tâm trạng chai đá cứng lòng tin của họ, bằng lời quả quyết: “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình, họ hàng mình”.
II. Sự thật của xã hội hôm nay
Thông thường trong đời sống hằng ngày của con người thời nay, cũng như người Do Thái thời Chúa Kitô, người ta thường mắc phải cái tật xấu này là hay xét đoán tha nhân theo trí óc hẹp hòi nông cạn của mình như lời Chúa đã nói: “Người ta chỉ xét đoán theo diện mạo bên ngoài, còn Thiên Chúa thì thấu suốt tận tâm can con người”. Hơn nữa, người ta lại còn bị cái ác cảm, yên trí về địa vị, dòng tộc, gia cảnh của người khác, để coi thường, để dèm pha, để hạ giá và coi khinh tha nhân. Mặc dầu đôi khi, không thể phủ nhận được những điều hay, điều tốt nơi những việc làm của tha nhân, thì họ lại tìm cách cắt nghĩa khác theo ý nghĩ vạy vò của họ, để mặc cho những việc làm của tha nhân một hình thức không mấy tốt đẹp. Chẳng hạn, khi thấy người này làm việc thiện giúp đỡ những người nghèo túng, thiếu thốn thì lại mỉa mai cho họ là người khoe khoang. Khi thấy kẻ khác được thành công, được may mắn thì lại chụp mũ cho là do mánh khóe mưu mô mà được như thế… Những trường hợp tương tự như vậy, chúng ta thường thấy nơi xã hội loài người chúng ta ngày nay. Thật là bất công, khi thấy kẻ khác hơn mình, được danh giá địa vị hơn mình, được thành công may mắn hơn mình, đã không chung vui chia sẻ chúc mừng, lại còn ghen tương, dèm pha, hạ giá, mỉa mai, bêu xấu và mặc cho họ một chủ ý bất lương.
III. Thái độ của con cái Chúa
Dân Do Thái đã từng được nghe những lời giáo huấn khôn ngoan, những giáo lý cao siêu phát ra từ môi miệng Chúa Kitô, giúp con người đạt được hạnh phúc, làm cho xã hội được lành mạnh, khiến người ta biết sống tương thân tương ái hòa thuận thương yêu nhau, đến làm cho họ phải sửng sốt bỡ ngỡ. Thế rồi, họ còn được chứng kiến bao nhiêu phép lạ Chúa làm để tỏ lòng thương yêu họ, làm cho bánh hóa nhiều nuôi sống họ lúc bị đói lả; chữa lành bao nhiêu người ốm đau bệnh tật, phục sinh kẻ đã chết, khu trừ ma quỉ… Biết bao nhiêu phép lạ Chúa đã thực hiện tỏ lòng yêu thương dân tộc, tỏ quyền năng cao cả của một Thiên Chúa, để cứu dân tộc Ngài tuyển chọn khỏi ách nô lệ Ai Cập… Nhưng họ vốn cứng lòng tin, vốn ương nghạnh chống đối không tin nhận Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai nhân loại đợi trông. Chính vì lòng kiêu căng cố chấp mà họ đã không nhận ra Chúa Cứu Thế, bởi cuộc sống khiêm nhu, tầm thường, nghèo nàn của Chúa đã không hợp với nhãn quan lầm lạc của họ. Vì theo quan niệm tự mãn, tự cao, tự đại, vinh sang oai hùng của dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn, cần phải có một Chúa Cứu Thế uy hùng quyền năng cao cả, đến thống trị, trên Ngai Hoàng Đế Israel, bá chủ Thế giới.
Chính vì cái nhãn quan hẹp hòi nông cạn và quan niệm kiêu căng đó, mà họ đã chẳng khác gì như “Con chó” không nhận ra chủ, không nhận ra Chúa và bao nhiêu ơn phúc Chúa dành cho họ, là dân Ngài đã tuyển chọn.
Kết Luận
Chúng ta là con cái Chúa, đã được Chúa yêu thương tuyển chọn làm con, xin Chúa ban cho chúng ta được những ơn cần thiết sau đây:
1. Biết nhận ra Chúa để tôn thờ Ngài xứng đáng, biết nhận ra các ơn Chúa ban để cảm tạ Ngài, hầu sống xứng đáng hơn địa vị làm con cái Thiên Chúa với biết bao ơn phúc Ngài ban.
2. Học nơi Chúa bài học nhân từ, biết phán đoán cách khách quan và ngay lành cho tha nhân, nhìn nhận điều hay điều tốt của người khác, không chủ quan nông cạn, hẹp hòi xét đoán kết tội tha nhân theo nhãn quan bên ngoài và quan niệm vạy vò, ghen tương, độc đoán, kiêu căng của mình.
56. Đức tin
Nghe Chúa Giêsu giảng dạy, dân làng Nagiarét đã bỡ ngỡ về giáo lý của Ngài. Hơn nữa, họ còn ngạc nhiên về những phép lạ Ngài làm để rồi đưa ra câu hỏi:
– Bởi đâu Ngài được như thế?
Dầu vậy họ vẫn không tin và Phúc âm còn ghi lại: Họ đã vấp phạm đến Ngài. Sự kiện cứng lòng này đã khiến cho Chúa Giêsu phải sửng sốt. Vậy đâu là lý do tạo nên tình trạng đáng buồn ấy? Để trả lời cho câu hỏi trên, trước hết chúng ta phải xác định xem trong thực tế, chúng ta được đức tin như thế nào?
Phần đông các tôn giáo đều tin vào một Đấng tối cao và quan niệm đạo là một sự cố gắng của con người, để tìm tòi và vươn lên tới thế giới thiêng liêng.
Sở dĩ như vậy là vì sống trong một thế giới hữu hạn và đầy khuyết điểm, tự nhiên con người mong ước một thế giới vô biên và hoàn hảo.
Cảm thấy mình yếu đuối và tội lỗi, con người cố tìm một lối thoát, bằng cách tin vào một Đấng linh thiêng có thể cứu mình thoát khỏi vòng tội lỗi và đưa tới quê hương hạnh phúc.
Như thế là con người đã cậy dựa vào sức riêng của mình mình để tìm kiếm một Đấng siêu việt và một thế giới hạnh phúc.
Trong khi đó, quan điểm của Kitô giáo thì trái ngược hẳn.
Thực vậy, trong mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người, sự bắt đầu không phải là từ phía con người, nhưng là từ phía Thiên Chúa. Con người không thể tự mình vươn tới Thiên Chúa, nhưng chính là Thiên Chúa đã cúi xuông đến tận con người.
Kitô giáo không từ dưới mà đi lên, như các tôn giáo khác, nhưng đã từ trên đi xuống… Chính Thiên Chúa đã can thiệp vào đời sống con người, tỏ lộ cho con người biết ý định và chương trình cứu độ của Ngài. Nếu con người có thể đáp lại và tìm đến với Thiên Chúa, là vì chính Thiên Chúa đã tự ý lên tiếng kêu gọi và tìm đến với họ trước.
Do đó, muốn tìm thấy Thiên Chúa, con người không được dựa vào sức riêng của mình, nhưng phải dựa vào Chúa.
Như vậy đức tin là một ơn Chúa ban, vì đức tin trước khi là sự chấp nhận của con người thì đã là một lời kêu mời của Thiên Chúa. Nếu Ngài không kêu mời, con người chẳng biết gì như lời Đức Kitô đã nói:
– Không ai đến được với Ta mà không được Chúa Cha lôi kéo và không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Ta.
Như thế, đức tin là việc Chúa kêu gọi trước và con người đáp trả lại sau.
Vậy tại sao những người Nagiarét nghe Chúa giảng và nhìn Chúa làm phép lạ mà vẫn không tin?
Như trên chúng ta đã nói:
– Đức tin là một ơn Chúa ban.
Dầu vậy cũng đừng vội kết luận:
– Người không tin là vì không được Chúa ban.
Sở dĩ như thế vì đức tin còn là một sự cộng tác của chúng ta vào ơn Chúa, còn là sự chấp nhận và đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa. Như vậy phải kết luận rằng:
– Những kẻ nghe lời Chúa giảng và chứng kiến những phép lạ Chúa làm mà không tin, vì họ không chấp nhận. Sở dĩ họ không chấp nhận vì họ đã đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những thành kiến hẹp hòi của họ.
Chẳng hạn vì tinh thần tôn giáo từ ngàn xưa, họ không thế nào chấp nhận Đức Kitô là hiện thân của nước trời, là phản ảnh của sự khôn ngoan Thiên Chúa.
Chẳng hạn vì thành kiến về Thiên Chúa và đường lối của Ngài, họ không thể chấp nhận sự hiện diện của Thiên Chúa nơi một con người đơn giản, khiêm tốn và nghèo khó, là Đức Kitô.
Họ mang sẵn trong đầu óc những ý nghĩ về Thiên Chúa, cho nên thay vì đón nhận sự tỏ lộ, sự mạc khải của Ngài, thì họ lại bắt Ngài phải trở nên giống những điều họ mường tượng.
Chính vì thế khi hình ảnh hoàn toàn của Chúa Cha là Đức Kitô ở trước mặt, họ đã không thể nhận ra.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta thường mang nhiều thành kiến về những phương tiện chúng ta tưởng rằng Chúa dùng để đến với chúng ta và đưa chúng ta về với Ngài.
Do đó, biết bao nhiêu ơn sủng đã bị đóng lại, biết bao nhiêu ân huệ đã trở thành vô ích chỉ vì chúng ta thiếu sẵn sàng đón nhận cái bất ngờ của Thiên Chúa.
Đường lối của Thiên Chúa thì khác với đường lối của chúng ta. Thế nhưng, đường lối ấy sẽ kéo chúng ta tới nguồn ơn cứu độ và tới hạnh phúc vĩnh cửu.
57. Thì ra Chúa vẫn có ở đây
(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
Sứ điệp phụng vụ hôm nay muốn nhấn mạnh với cộng đoàn chúng ta ý nghĩa nầy: nhịp sống cơ bản của cộng đoàn Giáo hội, của đời sống đích thực là kitô hữu đó chính là qui tụ nhau lại chung quanh Đức Kitô để lắng nghe Lời Ngài, để tái diễn Hiến Tế của Ngài, để gặp gỡ và chia sẻ chính Thân Mình Ngài. Chính vì thế, Lời Chúa hôm nay sẽ giúp chúng ta tự vấn thường xuyên về thái độ nghiêm túc hay không của chính mình khi đứng trước Lời Chúa và sự hiện diện của chính Chúa.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta…..
Giảng Lời Chúa:
1. Sự kiện thường tình nhân loại: Chuộng cái lạ, thích cái mới…
Tâm lý của con người thường giống nhau điểm nầy; thích cái gì mới lạ, chuộng cái gì ở xa, quí cái gì ít gặp, ít thấy; và dĩ nhiên, hay có thái độ ngược lại; coi thường cái ở gần, coi rẽ cái thường gặp, thường thấy, thường đụng chạm trong cuộc sống.
Trong đời sống đức tin cũng không thoát khỏi cái lề thói không hay nầy. Thật vậy, người tín hữu thường hay chuộng hay kiếm tìm những hiện tượng lạ lùng, những biến cố mầu nhiệm hãn hữu, những phép lạ động trời…mà thường lãng quên, lãnh đạm đối với các mầu nhiệm trọng đại đang hiện diện nơi đây, lúc nầy.
Bằng chứng là năm vừa rồi, chỉ với vài vết nhăn trên bức tượng đá cẩm thạch Nữ Vương Hòa Bình trước Nhà Thờ Đức Bà Sài đã lôi kéo hàng vạn con người đổ về để chiêm ngưỡng, cầu nguyện, tôn kính…Trong khi đó, ở phía sau lưng tượng đá Đức Mẹ đó, có Nhà Tạm với Thánh Thể Chúa Kitô hiện diện từng ngày, từng giờ thì vẫn cứ leo lét chiếc đèn chầu với một ít ông già bà già lặng lẽ cầu nguyện…
Vì thế chúng ta cũng chẳng lấy làm lạ khi tại những nơi vào những ngày đại hội giới trẻ quốc tế, khi ĐGH hiện diện thì có hàng triệu người nô nức đón chào, tập họp để sau đó, cũng tại nơi nầy, có biết bao ngôi thánh đường trống không, hoang vắng, dầu cho nơi những thánh đường nầy có chính Đức Kitô đang hiện diện đầy ắp quyền năng và thân thương, Người mà vị giáo hoàng kia, cho dù thánh đến đâu, thông minh đến mấy, tài giõi dường nào, cũng chỉ là kẻ đại diện thấp hèn, bất xứng.
Tôi có thể đánh cá với anh chị em rằng: mai mốt, hay một ngày nào đó, có Đức Giáo Hoàng ở Rôma hay một Đức Hồng Y của Giáo triều sang thăm chính thức Việt nam tại Tuy Hòa nầy, thì chắc chắn có rất nhiều người bỏ công ăn việc làm, hy sinh mọi thứ để đi đón rước “Đấng Nhân Danh Chúa mà đến”…Nhưng ở đây, trong nhà thờ nầy, nơi Nhà tạm nầy, chính Con Thiên Chúa đang hiện diện trọn vẹn, đầy ắp…thì hỏi thử có được bao nhiêu người đến tôn thờ, cung chiêm bái kính?
2. Sự kiện trong lịch sử cứu rỗi:
Thái độ xem ra đáng trách nầy Không chỉ có trong Giáo hội hôm nay, mà tận xa xăm vào thời sứ ngôn Ê-dê-ki-en, Dân ưu tuyển của Chúa, Ít-ra-en, cũng đã từng trãi nghiệm một thái độ đức tin thiếu nền tảng và thiếu trưởng thành, như chúng ta vừa nghe công bố qua một trích đoạn sách sứ ngôn Ê-dê-ki-en trong BĐ 1: “Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá…chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng”.
Nhưng cụ thể nhất là câu chuyện về cuộc “hồi hương về làng” của chính Chúa Giêsu do Mác-cô kể lại: Khi nghe Chúa giảng dạy trong hội đường quê hương vào ngày sabat, dân Na-da-rét đã “khinh mạng dể duôi: “Ông Ta không phải là bác thợ, con bà Maria và là anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xết, Giu-đa và Si-mon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” và họ vấp ngã vì Người. Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở quê hương mình, hay giữa đám thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”…
3. Những bài học cho đời sống đức tin hôm nay:
– Hãy trở nên nghèo, khiêm hạ để đón nhận Lời và sự hiện của Đức Kitô:
Như vậy, không thể gặp được một Đức Kitô, không thể tin được một Thiên Chúa khi con người mang theo trên mình cả “bộ giáp sắt” kiêu căng hợm hĩnh của mình. Hêrôđê, Philatô, các tư tế Do Thái, những đại gia tiền của, thế lực kếch xù…những hạng người đó không có trong hàng ngũ nhưng kẻ tin vào Đức Kitô Đấng Cứu Thế. Quan hệ với Ngài nếu có chỉ là để theo dõi, rình chờ cơ hội hãm hại, bắt bẻ trong lời nói việc làm, phê bình chỉ trích thái độ hành động và ứng xử…và nhất là để kết án, loại trừ.
Muốn đến với Thiên Chúa, muốn gặp gỡ Đức Kitô để nhận được hồng ân, để “ăn mày phép lạ”, thì phải bước theo lộ trình của Tin Mừng. Đó chính là những con đường mà Đức Kitô đã vạch lối chỉ đường:
– Hãy trở nên như một em bé: “Nếu không trở nên như em sẽ không được vào nước trời”.
– Hãy khiêm hạ như mẹ Maria: “Nầy tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”
– Hãy trung thành gắn bó như Phêrô và các tông đồ: “Bỏ Thầy con biết đến cùng ai. Thầy có những lời ban sự sống đời đời”.
– Hãy phó thác và để Lời dẫn đưa cho dù đói khát nơi hoang mạc như đám dân nghèo khố rách áo ôm nơi hoang mạc: “Ta thương đám dân nầy, vì họ bơ vơ tất tưởi như chiên không kẻ chăn”.
– Hãy quỳ xuống với những giọt nước mắt sám hối như những người tội lối hối cải; Người thu thuế, M.Mađalêna, Giakê, tên trộm…”Lạy Chúa xin thương xót con vì con là người tội lỗi”.
– Hãy tin tưởng phó thác đầy lòng trông cậy vững vàng như những người xấu số bạc mệnh: mù què đuôi điếc, bệnh hoạn tật nguyền…”Tôi chỉ đụng vào gấu áo của Người thôi”
Và hãy như Thánh Phaolô trong bài đọc 2 hôm nay ý thức thân phận hèn yếu của chính mình:
“Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sĩ nhục hoạn nạn, bắt bớ ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”
Đón nhận Lời và sự hiện của Đức Kitô ở đâu:
– Không phải chỉ ở những đại lễ long trọng với âm thanh to, ánh sáng rạng rỡ, trang trí hoành tráng…mà trong mọi thánh lễ hàng ngày, nơi tòa giải tội giản đơn, nơi các buổi sáng âm thầm rửa tội cho các trẻ em và những buổi hoàng hôn cử hành bí tích xức dầu bệnh nhân cho những ông bà già yếu liệt…
– Không phải chỉ ở nơi những thánh điện, thánh đường nguy nga to lớn đồ sộ với các cuộc lễ đại trào với các chức sắc cao cấp của Giáo hội, nhưng cũng còn ở những mái tranh lá ọp ẹp của buôn làng dân tộc, những ngôi nhà nguyện xa xôi hẻo lánh của những thôn làng nghèo khổ của những anh chị em nông dân tay lấm chân bùn…
– Đó chính là sự hiện diện êm đềm, bình dị như đứa bé oa oa trong máng cỏ hang lừa thuở nào ở Bê Lem, như chàng thợ mộc ở mái tranh nghèo của Giuse và Maria thành Na-da-rét, của vị Thầy mệt mõi ngủ gà ngủ gậc trên chiếc thuyền tròng trành biển động của Phêrô, như người khách lạ trên đường Emmau sẵn sàng chén tạc chén thù với các môn sinh bên quán nhậu bên đường, hay như một tên tội đồ trần trường bị đóng đinh giữa hai người trộm cướp…
– Và sự hiện diện của Lời Chúa và của chính Chúa vẫn đang hiện diện nơi đây, trong Nhà Thờ nầy, trong nhà tạm nầy, trong những con người linh mục mõng dòn yếu đuối nầy, trong cộng đoàn còn mang bao dấu vết của bất toàn, khiếm khuyết nầy…
– Chính vì thế, điều quan trọng không phải cứ mãi miết đi tìm một hình tượng Giêsu vinh thắng khải hoàn uy nghi trên mây trời hay trong vương quyền chính trị hùng oai…mà hãy đến cúi đầu thờ lạy Chúa Giêsu ở đây trong hình bánh và hình rượu sắp sửa biến thành mình và máu để nuôi dưỡng và ở lại với chúng ta.
Tóm lại, nếu phép lạ đã không xảy ra nơi quê hương Na-da-rét vì nơi đó dân không đón nhận Lời và sự hiện diện của Đức Kitô với niềm tin khiêm hạ, thì ước gì hôm nay, sự kiện nầy sẽ không tái diễn ở đây, nơi quê hương Tuy Hòa nầy, với chúng ta khi chính nơi đây, giờ phút nầy, cũng chính Đức Kitô đó, cũng chính Thầy Giêsu Na-da-rét đó lại một lần nữa đang trở về công bố Lời Chúa cho ta và tái diễn hy tế cứu độ để đem ta vào hạnh phúc vĩnh cửu.
Chúng ta phải reo lên: “Thì ra Chúa vẫn có ở đây. Ôi! Chúng con thật có phúc vì đã tin”.
58. Chúa Giêsu trở về quê nhà
(Suy niệm của Lm Raniero Cantalamessa OFM – Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách)
Khi ấy Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Đến ngày Sabbát, người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự la thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacobê, Giuse, Giuda và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” Và họ vấp phạm vì Người. Chúa Giêsu liền bảo họ: “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình”. Ở đó, Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chũa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.
Chúa Giêsu trở về quê nhà
Từ rày đã trở nên bình dân và nổi tiếng vì những phép lạ và lời giảng dạy của Người, Chúa Giêsu một ngày kia trở về làng quê, Nadareth, và, như Người có thói quen làm, Người vào giảng trong hội đường. Nhưng lần này, không thấy có sự bày tỏ nhiệt tình nào, không có tiếng “hosanna!” nào. Thay vì nghe điều Người nói và phán đoán Người theo những lời nói của Người, dân chúng lại đưa ra những lời chỉ trích kỳ dị. Sao ông được khôn ngoan như vậy? Ông không học hành gì, chúng tôi biết rõ điều này; đó là bác thợ mộc, con bà Marie! “Và họ bị chướng tai gai mắt sâu sắc vì Người”, nghĩa là sự kiện biết rõ về Người lại là một ngăn trở để tin Người.
Chúa Giêsu bình luận cách chua cay: “Một tiên tri chỉ bị khinh bỉ ở quê hương mình, gia đình họ hàng mình”. Câu nói đó trở thành một câu ngạn ngữ dưới hình thức rút gọn: “Không ai làm tiên tri nơi quê mình”. Đoạn Tin Mừng này cũng đưa đến chúng ta một sự cảnh cáo mặc nhiên mà chúng ta có thể tóm tắt như vầy: ý tứ đừng phạm cũng một sự lầm lẫn như những người Nadareth! Chúa Giêsu trở về cách nào đó tại quê hương Người, mỗi khi Tin Mừng của Người đã được rao giảng tại những xứ, trong một thơi kỳ, nên cái nôi Kitô giáo.
Nước Italie, và phương Tây nói chung, đối với kitô giáo, là điều Nadareth đối với Chúa Giêsu: nơi Người đã được nuôi dưỡng. (kitô giáo sinh ra tại phương Đông nhưng đã lớn lên tại phương Tây, cũng như Chúa Giêsu sinh ra tại Belem nhưng được nuôi dưỡng tại Nadareth!) Những xứ đó ngày nay mắc phải cũng một nguy cơ như người dân Nadareth: không công nhận Chúa Giêsu. Bản hiến pháp tân châu Au hiệp nhất không phải là nơi duy nhất mà ngày nay Kitô giáo bị “xô đuổi” khỏi.
Đoạn Tin Mừng này dạy chúng ta một điều quan trọng. Chúa Giêsu để chúng ta tự do; người đề nghị, người không áp đặt những ân huệ của Người. Ngày đó, đối mặt với những kẻ đồng hương, Chúa Giêsu không đưa ra những ngăm đe hay những lời mắng nhiếc. Người đã không nói, bằng một bộ điệu khinh bỉ, điều mà người ta nói ông Scipion l’ Africain công bố khi bỏ thành Rome: “Hỡi quê hương bạc đãi, người sẽ không có bộ xương của tôi!” Chúa Giêsu chỉ ra đi âm thầm. Một ngày kia, người bị hất hủi trong một làng, các môn đệ đề nghị Người cho lửa từ trời xuống đốt làng đó, nhưng Chúa Giêsu quay đi và quở trách các ông (x. Lc 9, 54)
Ngày nay Người cũng làm như vậy. “Thiên Chúa nhút nhát “. Người tôn trọng sự tự do chúng ta nhiều hơn chúng ta tôn trọng sự tự do của nhau. Điều này tạo nên một trách nhiệm lớn. Thánh Augustin nói: “Tôi sợ Chúa Giêsu đi ngang qua” (Timeo Jesum Transeuntem) Trên thực tế Người có thể đi ngang qua mà tôi không biết, đi ngang qua khi tôi không sẵn sàng đón triếp Người.
Sự đi ngang qua của Người luôn là một sự đi ngang qua ban ân sủng. Marco nói, cách tổng hợp rằng một ngày sabbat, đến làng Nadareth, Chúa Giêsu “vào dạy trong hội đường” Nhưng Tin Mừng Luca cũng nói rõ điều Người dạy và điều người công bố, trong ngày sabbat này. Người đã công bố đến ” loan báoTin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” ( Lc 4, 18-19).
Điều Chúa Giêsu đã rao giảng trong hội đường Nadareth như vậy là năm ân xá kitô hữu đầu tiên trong lịch sử, “năm hồng ân” đầu tiên, mà tất cả những năm ân xá và những “năm thánh” chỉ là một sự ghi nhớ.
59. Thành kiến
Ông ta là ai vậy? Bởi đâu ông ta đã làm được những chuyện lạ lùng như thế? Ông ta không phải là con ông Giuse và bà Maria sao? Họ hàng anh chị em của ông ta không phải là những người láng giềng của chúng ta sao? Ông ta không phải là người đã sinh sống và làm nghề thợ mộc ở đây với chúng ta sao?
Phải, đúng lắm. Đó chính là Chúa Giêsu, con của ông Giuse và bà Maria, đã sinh sống và làm nghề thợ mộc ở Nagiarét 30 năm trời.Nhưng tại sao những người đồng hương lại ngạc nhiên và thắc mắc về Chúa như vậy? Bởi vì ít lâu nay họ đã nghe dư luận đồn thổi về những lời giảng dạy mới lạ, đầy uy quyền của Chúa, cũng như đã nghe dân chúng bàn tán xôn xao về những phép lạ Chúa đã làm ở nơi này nơi kia… Đó là những công việc, những phép lạ Chúa Giêsu đã làm trước khi Ngài về Nagiarét, quê hương của Ngài. Nhưng những người đồng hương của Ngài không tin và không thể tin. Tin làm sao được ông Giêsu đang đứng trước mặt họ đây có thể làm được những điều lạ lùng như thế, nhất là tin làm sao được ông Giêsu đây là Thiên sai, Đấng cứu tinh, là Đấng mà dân tộc họ đang trông đợi cả ngàn năm?
Dân làng Nagiarét không thể nào chấp nhận một người mà họ đã quá biết: thân thế tầm thường, gia đình nghèo nàn. Biết cả họ hàng chẳng danh giá gì. Biết rõ quá như thế thì làm sao người đó có thể là vị cứu tinh, là Đấng cứu thế, là Đấng giải thoát cho dân tộc họ được? Quả thực, họ đã bị thành kiến về giàu nghèo, về giai cấp trong xã hội làm mù quáng, không thể nhận ra bản tính Thiên Chúa, nhận ra sứ mạng cứu chuộc nơi con người Chúa Giêsu. Từ thành kiến sai lầm đó họ đâm ra hoài nghi và yêu cầu Chúa làm phép lạ như đã làm ở những nơi khác. Trước thái độ ít cởi mở và hoài nghi của họ, vì họ không tin, nên Chúa không làm phép lạ được. Không phải vì Ngài không thể làm, bằng chứng là Ngài cũng có đặt tay chữa cho mấy người bệnh, nhưng chính vì họ không tin.
Dân làng Nagiarét không tin Chúa Giêsu. Không tin là vì bụt nhà không thiêng, như có lần Chúa đã nói: “Chẳng ngôn sứ nào được danh tiếng nơi quê hương mình”, hoặc tệ hơn, như Chúa nói trong bài Tin mừng hôm nay: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. Tại sao dân làng Nagiarét không tin? Họ không tin vì thành kiến. Họ đã đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những định kiến hẹp hòi, có sẵn của họ. Vì thế, họ không thể thấy được những chân trời rộng lớn và mới mẻ mà Chúa mở ra cho họ. Họ cũng không thể chấp nhận Chúa Giêsu là hiện thân của nước trời và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Có ai ngờ Đấng cứu thế lại là một người đơn sơ, khiêm hạ như thế. Đối với người Do thái đương thời, Chúa Giêsu đến quá ư bất ngờ và quá khác xa với quan niệm họ sẵn có về Đấng cứu thế. Họ không biết rằng đường lối của Thiên Chúa có thể khác xa với sự toan tính của loài người.
Qua đó chúng ta rút ra được một bài học thực tế: Thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả không hay, sai lầm hoặc nguy hại. Thật vậy, ai đeo kính đen thì nhìn cái gì cũng tối hết; lưỡi đắng thì ăn gì cũng đắng; lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Yêu nên tốt, ghét nên xấu: “Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng”. Lòng chúng ta có khuynh hướng mạnh về điều gì, thì mắt chúng ta hay tìm, trí chúng ta hay tưởng và rồi chúng ta phán đoán người khác cũng giống như chúng ta và hơi chút là chúng ta đoán về đàng đó liền.
Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài người, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hay căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Đánh giá một người theo bên ngoài có thể đúng nhưng cũng có thể sai lầm. Câu nói: “Trông mặt mà bắt hình dong” không phải là nguyên tắc chính xác, nên chính Chúa Giêsu có lần khuyên chúng ta: “Đừng có xem mặt mà bắt hình dong”. Khổng Tử cũng xác nhận: “Người tôi yêu chưa chắc đã tốt; người tôi ghét chưa chắc đã xấu”. Phong dao cũng có câu: “Người xấu duyên lặn vào trong. Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài”. Lặn vào thì còn lại, bong ra thì mất đi rồi. Và hẳn chúng ta cũng không quên câu nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”,”Xanh vỏ mà đỏ lòng”. Cho nên, đánh giá một người mà chỉ căn cứ vào bề ngoài có thể là nông nổi, thiển cận và nguy hiểm.
Tóm lại, thành kiến đã làm cho dân làng Nagiarét phán đoán sai về Chúa Giêsu. Họ đã không nhận ra Ngài là Đấng cứu tinh. Đối với chúng ta cũng vậy, thành kiến có thể làm chúng ta mù quáng, không nhận định và phê phán một cách khách quan đúng đắn được. Thành kiến làm chúng ta không thể đối thoại, cởi mở với người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những gì là thành kiến về bản thân để khỏi tự ti mặc cảm; cũng như thành kiến về những người chung quanh, để có được một cái nhìn đúng đắn hơn, một nhận xét chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn, và một đời sống yêu thương cởi mở hơn.
60. Chúa Nhật 14 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
Thiên Chúa qua mỗi thời mỗi buổi, qua nhiều cách thế diễn tả khác nhau, vẫn luôn tạo mọi cơ hội tốt để ban ơn, soi sáng, hướng dẫn và thánh hóa con người, hầu giúp con người nhận ra những dấu chỉ sự hiện diện và tình thương của Thiên Chúa trong mỗi thời đại. Một trong muôn vàn cách thế đó chính là Chúa đã tuyển chọn, thánh hóa và sai các Ngôn sứ đến với dân của Ngài. Vậy thì, Ngôn sứ là ai? Thưa: họ là những con người như tất cả chúng ta, nhưng họ được tuyển chọn để làm sứ giả, Chúa đã sai họ đi, gởi họ đến để thay mặt Chúa, để nói lời của Chúa, để giúp chuyển tải sứ điệp, ơn thánh Chúa cho tha nhân. Ngôn sứ đích thực, mặc dầu vẫn dùng ngôn ngữ của con người, nhưng là người nói Lời của Thiên Chúa, chứ không phải nói bằng lời của chính mình. Ngôn sứ lắng nghe, tiếp nhận thánh ý Chúa và rao truyền những gì mà Chúa đã ủy thác cho.
Trong bài đọc một, hơn bất cứ ai khác, Ngôn sứ Êzêkiel là người được tuyển chọn, người đã được Chúa đặt Lời của Chúa vào trong miệng lưỡi của ông. Đặc biệt hơn, Chúa còn thánh hóa Êzêkiel được bằng lửa và thần khí, để sai ông ra đi, thay mặt Chúa mà nói cho dân biết thánh ý và kế hoạch yêu thương của Ngài. Câu hỏi là: Tại sao Chúa không trực tiếp nói mà lại nói qua Ngôn sứ, vị sứ giả của Ngài? Chúng ta biết, theo Kinh Thánh, trong Cựu ước, không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa và lại càng không thể đối diện trực tiếp với Thiên Chúa mà có thể tồn tại, vì dung nhan, sức mạnh và uy quyền của Thiên Chúa, ngay cả như Môsê cũng chỉ được nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa từ phía sau lưng mà thôi. Tuy nhiên, với lòng khoan dung nhân hậu và rất mực công minh, Thiên Chúa qua trung gian của Ngài là những Ngôn sứ, để Chúa vẫn luôn nói với con người chúng ta, luôn đồng hành-hướng dẫn, minh chứng, trao ban và ký kết với chúng ta giao ước tình yêu của Ngài. Qua sứ vụ của Ngôn sứ Êzêkiel, cũng cho chúng ta ý thức hơn về con người thật và sứ vụ đặc biệt của Ngôn sứ, mặc dầu được tuyển chọn, được thánh hóa, được thay mặt Chúa nói và rao giảng ý Chúa cho dân, nhưng đồng thời, những Ngôn sứ đó cũng mang thân phận của con người với những giới hạn, yếu đuối và bất toàn.
Thế nên, Thánh Phaolô trong bài đọc hai, với chính những kinh nghiệm của bản thân, hơn bất cứ ai khác, từ con người yếu đuối, tội lỗi, kém tin nhưng khi đã được Chúa yêu thương tuyển chọn và sai đi làm Tông đồ và Ngôn sứ, Chúa đã dùng con người này để tôn vinh danh Chúa, đem ơn ích cho mọi dân mọi nước. Chính vì lẽ đó mà Phaolô đã nói: “Vậy tôi rất vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức Kitô ngự trong tôi”. Điều gì mà Phaolô có được chính là do ơn Chúa ban cho, từ việc được sai đi rao giảng, hay bất cứ sứ vụ gì mà Ngài lãnh nhận, tất cả là do sức mạnh và ân sủng của Thiên Chúa, chứ không do công trạng, tài năng hay sức lực của con người. Qua kinh nghiệm quý báu này của Phaolô, khi Ngài chia sẻ về ơn thánh Chúa trên sự yếu đuối của con người, thật đã ứng nghiệm điều Chúa phán với Phaolô: “Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối”.
Được tuyển chọn, được sai đi và dùng ngay cả những yếu đuối của con người cho thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện. Thật vậy, Chúa có những cách thế rất tuyệt diệu, điều mà bài Tin mừng theo Thánh Marcô hôm nay đã minh chứng cho chúng ta. Thiên Chúa trong thời sau hết, đã dùng chính Người Con Một Yêu Dấu của Ngài mà nói với chúng ta. Ngài vừa chính là Thiên Chúa, là Lời Hằng Sống, giờ đây là Đấng nói trực tiếp với chúng ta về Thiên Chúa và chương trình, kế hoạch yêu thương của Ngài. Thế nhưng, Con Thiên Chúa, Đấng Thánh của Thiên Chúa lại nói với con người trong một cung cách rất khiêm tốn, đơn sơ: “Con của ông Giuse, bác thợ mộc”. Thật không ai có thể hiểu được thánh ý này của Thiên Chúa, tại sao Chúa lại rao giảng và nói trực tiếp với chúng ta qua cách thế này. “Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?”
Nơi con người thật và sứ vụ của Chúa Giêsu, giờ đây Thiên Chúa đang biểu lộ, đối diện trực tiếp với con người, Ngài nói và minh chứng cho chúng ta qua những cách thức rất khiêm tốn và những yếu đuối của con người. Ngài đã sinh ra trong thân phận khó nghèo, lớn lên-sinh trưởng trong địa vị là con của ông thợ mộc nơi làng quê Nazareth…thế nhưng, từ những điều khiêm tốn đơn sơ như vậy, Thiên Chúa đang muốn hiện diện, gần gũi cách hữu hình, để ban ơn thánh hóa cho chúng ta. Đồng thời, Ngài cũng đang nói trực tiếp với chúng ta qua những cách thức, công việc và ngôn ngữ rất bình dị của con người. Chỉ những ai tin và có lòng khiêm tốn, mới có thể nhận ra thánh ý nhiệm mầu và tốt lành mà Chúa dành cho mình. Với những ai chưa biết khiêm tốn, mở lòng và tín thác, thì cho dù họ có nghe Lời Chúa nói, có trầm trồ, khen ngợi, thán phục…thì vẫn không thể chấp nhận và họ sẽ khước từ những cách thế mà Chúa đã dùng để nói và trao ban ơn thánh cho con người.
Hôm qua, hôm nay và mãi về sau, Chúa vẫn còn đang nói với chúng ta qua những cách thế và dấu chỉ khác nhau; vì tình thương, Chúa luôn gởi đến cho chúng ta những vị ngôn sứ thừa tác để rao giảng và nói Lời Chúa cho chúng ta. Đồng thời, trong chức vụ ngôn sứ cộng đồng, một khi đã lãnh nhận bí tích thánh tẩy, Chúa đã chọn, trao ban và sai tất cả chúng ta ra đi, để mỗi người trong phận vụ riêng của mình, nhất là các bậc cha mẹ, thầy cô giáo và những người hữu trách luôn biết nói và chuyển trao thánh ý tốt lành của Chúa cho người khác.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết khiêm tốn, tin tưởng, cậy trông vào ơn Chúa để luôn nhận ra thánh ý Chúa, hầu cố gắng thực thi, sống tốt, sống chu toàn bổn phận Chúa trao. Nhờ đó, mà qua lời nói và hành động của chúng con, luôn làm đẹp lòng Chúa, tôn vinh danh Chúa và đem lại ơn ích cho tha nhân. Amen.
61. Sống không thành kiến
Người ta, ai cũng yêu mến quê hương, yêu mến nơi sinh trưởng, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Nhưng tình cảm người đồng hương dành cho mình thì khác, đôi khi phải chấp nhận chân lý bất hủ của Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay là “không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Đây cũng là một quan niệm cố hữu bình dân: “Bụt nhà không thiêng”. Chúa Giêsu đã tuyên bố chân lý bất hủ này về chính bản thân Ngài tại quê hương Nagiareth của Ngài. Chúng ta hãy xem xét và sửa đổi quan niệm sai lệch để vui lòng tiến bước trong đường lối và ân sủng của Thiên Chúa.
Người ta thường dễ mắc phải sai lầm do thành kiến, do cái nhìn bề ngoài của mình nên dễ rơi vào lối suy nghĩ coi thường người khác “Bụt nhà không thiêng”. Điều này dẫn đến những lời nói, thái độ và hành động lệch lạc gây ảnh hưởng không tốt cho cuộc sống. Thật thế, Phúc âm hôm nay kể lại, Chúa Giêsu trở về quê hương Nagiareth của mình, trong tư cách là một ngôn sứ, là một bậc thầy. Ngài trở về lần này có các môn đệ tháp tùng. Vào ngày Sabat, Ngài vào hội đường đọc sách Thánh và công bố giáo lý của mình. Dân làng ngạc nhiên. Họ bảo nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Và họ vấp ngã vì Người. (Mc 6, 2-3). Người dân làng Nagiareth ngạc nhiên, vì họ thấy Ngài không đi học ở trường lớp nào mà sao lại có những lời lẽ khôn ngoan, cao siêu, mới lạ. Mặt khác, biết quá rõ về thân thế và lý lịch của Đức Giêsu, biết quá rõ họ hàng của Ngài nên họ không thể nào để cho khôn ngoan và quyền năng của Ngài lay chuyển họ. Họ thấy Ngài chỉ là con bà Maria và ông Giuse thợ mộc, bản thân Ngài cũng chỉ là một anh “thợ mộc con”, mà sao có thể giỏi như thế? một người bình thường nếu không muốn nói là dân quê, dốt nát, nghèo hèn,…Càng nghĩ đến thân thế, nguồn gốc, địa vị xã hội và họ hàng Ngài, họ càng thấy khó chịu, nên họ có vẻ châm biếm khi gọi Ngài là thợ mộc. Một người như vậy mà có thể là ngôn sứ, là Đấng Mêsia ư? Trăm lần không, ngàn lần không và họ đã bị vấp phạm, bị chạm tự ái. Họ không thể công nhận một người như thế làm ngôn sứ, làm Đấng Mêsia của họ, cho dù Ngài ăn nói giỏi hay làm được phép lạ cũng thế. Từ đó, sự hiện diện của Ngài khiến họ không thể chịu nổi. Họ không thể ngờ được giữa bụi đất lại có kim cương, họ không thể hiểu được nơi Chúa có hai bản tính, họ không thể nhận ra yếu tố Thiên Chúa và con người, hữu hạn và vĩnh cửu, trời và đất, hạnh phúc và đau khổ giao hòa lại trong một thực tại duy nhất, là nơi con người Chúa Giêsu. Đó là điều làm cho họ vấp phạm, họ khinh thường Chúa và không thiết nghe lời chân lý của Ngài.
Cái nhìn thiên kiến làm cho họ lệch lạc. Theo họ, Đấng Thiên Sai, phải xuất thân từ dòng dõi Vua Chúa chẳng hạn như Vua Đavit, sống trong cung điện hay trong hàng tư tế chính hiệu hay phải là thuộc người có đầy quyền uy thế lực nổi tiếng. Thế nhưng rõ ràng trước mắt họ đây là một tên thợ mộc Giêsu “không có gì hay” chỉ là người thuộc giới nghèo hèn, không có lấy một tiếng tăm, không có địa vị gì trong xã hội cả, một người quá tầm thường! Như thế, từ lý lịch gia đình đến nghề nghiệp và địa vị xã hội, tất cả rõ ràng như ban ngày. Họ quá biết về Ngài. Điều này đã trở thành chướng ngại cho họ tin Ngài là Đấng Thiên Sai. Vì thế, họ nhạo cười Ngài, không đón nhận Ngài, quay lưng lại với cả Thiên Chúa, Đấng sai Ngài đến, quay lưng lại với sứ mạng Cứu Thế mà Thiên Chúa uỷ thác. Do đó, một lần nữa người đồng hương đã chứng tỏ thái độ kiêu ngạo, phản loạn chống lại Thiên Chúa. Đầy cũng là hình ảnh biểu trưng cho con người thời đại.
Ở đây Thánh Marco cho thấy thái độ của dân làng Nagiareth đối với Chúa Giêsu như thái độ chung của loài người. Ngài là nạn nhân của chủ nghĩa lý lịch như Ngài đã tuyên bố sau thái độ này: ” Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6, 4). Những người đồng hương, bà con của Ngài đã không muốn trở thành bà con đích thật của Ngài nhờ lòng tin, không muốn nhìn nhận Ngài là Đấng Thiên Sai, là Vị Cứu Tinh.
Người Công Giáo nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta là những người đồng hương mới của Chúa Giêsu. Chúng ta trở thành anh em của Chúa Giêsu trong quyền năng Chúa Thánh Thần. Có thể, chúng ta chẳng còn nhận ra sự khôn ngoan của Chúa trong Phúc âm, trong Lời Ngài, trong quyền năng cứu độ của Chúa trong Giáo Hội và các Bí tích. Rất có thể, chúng ta đã và đang đi tìm sự khôn ngoan, tìm ơn cứu độ ở những người khác, nơi khác. Khi đó, chúng ta làm như thể Chúa Giêsu cũng chỉ là bác thợ mộc làng Nagiareth không hơn không kém, một người Do Thái của thế kỷ thứ nhất. Phúc âm hôm nay một lần nữa mời gọi chúng ta xác định lập trường, thái độ của mình đối với Đức Giêsu Kitô. Đừng đánh giá người ta theo cái nhìn định kiến, theo cái nhìn lý lịch, càng không thể nhìn Đức Giêsu bằng con mắt giống như người Do Thái năm xưa. Thiên Chúa đến chia sẻ thân phận nghèo hèn của con người nơi Đức Giêsu Nagiareth. Thiên Chúa đã mạc khải tình thương và ơn cứu độ của ngài không phải ở bề ngoài, không ở giàu sang danh vọng, càng không giống theo kiểu lý lịch của con người nhưng ở trong người nghèo khổ, trong người bị bỏ rơi…
Ở đây niềm tin mời gọi chúng ta phải vượt qua dáng vẻ bề ngoài để đạt tới mầu nhiệm thâm sâu bên trong của Chúa Giêsu. Ngài là Đấng Thiên Sai, là Vị Cứu Tinh, là Đấng cứu chuộc nhân loại có một không hai trong thế giới. Với cuộc khổ nạn và phục sinh của mình, Chúa Giêsu Kitô đã nói lên tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa tình yêu đối với nhân loại, đối với mọi người, kể cả những kẻ chống đối, kẻ phản bội tình yêu Ngài. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá không phải là một thất bại nhưng là một chiến thắng, chiến thắng của tình yêu, là quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện trong sự hèn yếu của con người
Chúng ta có quyền trách dân làng Nagiareth quá vội vàng hoặc tiếc thay cho họ vì họ đã bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ, chúng ta sẽ tự trách mình, và còn tiếc nuối biết bao cơ may trong đời chúng ta đã đánh mất vì quan niệm hay cái nhìn hẹp hòi của chúng ta. Chúng ta kiểm điểm về cách chúng ta phán đoán và đánh giá trị người khác, chúng ta cũng đã nhiều lần phán đoán hay đánh giá người khác hoặc vội vàng, hấp tấp, hồ đồ, hoặc không trung thực vì thành kiến, vì tự ái, vì ganh tị, đôi khi còn bài bác, dèm pha nữa. Chúng ta hãy kiểm điểm và sửa chữa lại tật xấu này để mối tương giao của chúng ta với mọi người được tốt đẹp hơn. Hơn nữa, thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả không hay, sai lầm hoặc nguy hại. Chẳng hạn, yêu nên tốt, ghét nên xấu: “Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng”. Lòng chúng ta có khuynh hướng mạnh về điều gì, thì mắt chúng ta hay tìm, trí chúng ta hay tưởng và rồi chúng ta phán đoán người khác cũng giống như chúng ta và hơi chút là chúng ta đoán về đàng đó liền. Chúng ta thường to tiếng lên án lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hay căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Đánh giá một người theo bên ngoài có thể đúng nhưng cũng có thể sai lầm. Hẳn chúng ta cũng không quên câu nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, “Xanh vỏ mà đỏ lòng”. Cho nên, đánh giá một người mà chỉ căn cứ vào bề ngoài có thể là nông nổi, thiển cận và nguy hiểm.
Tóm lại, dân làng Nagiareth đã không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng cứu tinh. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những gì là thành kiến về tha nhân, để có được một cái nhìn đúng đắn hơn, một nhận xét chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn, và một đời sống yêu thương cởi mở hơn.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thiên Chúa của chúng con. Chúng con tin mạnh mẽ và hoàn toàn tín thác vào Chúa. Xin Chúa giúp chúng con can đảm loại bỏ thành kiến, loại bỏ quan niệm đánh giá và hành động theo cái nhìn bề ngoài để chúng con luôn nhìn nhận giá trị đúng mức những gì Chúa thương dành cho chúng con và để chúng con nhìn thấy những giá trị cao quý nơi tha nhân. Amen.
62. Chối bỏ
Đức Giêsu trở về quê hương, với những người dân mà Người đã lớn lên ở giữa họ. Bỗng chốc, họ thấy rõ ràng Người đã thay đổi. Khi rời bỏ Nagiarét, Người đã tìm thấy ơn gọi thật của Người (việc Người làm), và tặng vật của Người (sự giáo huấn và chữa lành bệnh) đã nở rộ. Giờ đây Người nổi tiếng là một thầy dạy và một người hay làm phép lạ.
Thông thường, người ta phải đi xa nhà và xa quê hương mình để được triển nở. Ở nhà người ta cảm thấy gò bó, vướng víu vì thiếu cơ hội, sự thách đố và thừa nhận.
Khi trở lại quê nhà, những người ở quê nhà không sẵn sàng chấp nhận điều đó. Họ muốn nhìn một người đi xa trở về như kẻ đã bỏ họ; họ cảm thấy yên tâm và chấp nhận người ấy. Người ấy không còn là một thách thức đối với họ.
Nếu người đi xa trở về ở tình trạng sa sút càng tốt. Thế là họ cảm thấy xót xa cho người ấy. Nhưng nếu người ấy trở về và trở thành một con người đã thay đổi, có lẽ họ cảm thấy bực bội và chối bỏ người ấy. Chính họ bị kẹt cứng trong những lề thói xưa cũ. Vì thế họ cảm thấy bực bội với một người trở về mà bản thân đã làm được một điều gì. Họ cố gắng cắt gọt người ấy theo kích thước riêng của họ.
Dẫu sao, Đức Giêsu đã trở về, và một cách thân tình muốn chia sẻ quà tặng của Người cho những người dân ở quê nhà. Nhưng thay vì Người được đón tiếp nồng hậu. Người thấy dân giám sát, dò xét và theo dõi Người.
Ngay khi Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường họ có thể thấy Người có một món quà đặc biệt – món quà của sự khôn ngoan. Lúc đầu họ có ấn tượng thậm chí họ rất đỗi ngạc nhiên. Tuy nhiên thay vì vui mừng về điều đó và cởi mở với những điều Người đã ban tặng họ, họ lại hỏi: “Bởi đâu ông ta được như thế?” Đó cũng là câu hỏi mà nhiều cha mẹ hỏi khi nghe con mình biểu lộ một điều làm họ ngạc nhiên. Ở đây chúng ta gặp một mầu nhiệm về sự phát triển của con người. Chúng ta là ai mà đặt giới hạn và biên giới cho khả năng của người khác?
Người dân Nagiarét nhớ lại nguồn gốc khiêm hạ của Đức Giêsu. Vậy thì, Người là ai ngoài một bác thợ tầm thường, họ biết rõ gia đình của Người. Thật vậy, họ đã nói: “Ông ấy nghĩ mình là ai?” Họ cảm thấy họ đã nắm rõ về Người. Họ đã đặt ra những giới hạn cho Người. Một thái độ như thế không cho phép sự trưởng thành và phát triển.
Họ đã từ chối tin Người. Họ đã từ chối nhìn Người một cách nghiêm túc. Bởi thái độ của họ, họ làm cho Người không thể làm gì cho họ, và như thế họ không hưởng được ơn ích từ cuộc viếng thăm của Người.
Đây là một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn – Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận. Thường chúng ta không chịu thừa nhận quà tặng và tài năng của những người gần gũi với chúng ta, trong nhà chúng ta hoặc khu xóm chúng ta. Chúng ta không đánh giá đúng hoặc chấp nhận họ và do đó giới hạn khả năng của họ. Chúng ta không cho họ một cơ hội. Tệ hơn, chúng ta hạ thấp họ. Chúng ta có thái độ bất công rất lớn với họ. Và chúng ta cũng chịu thiệt hại bởi vì chúng ta không được hưởng lợi từ lòng tốt và quà tặng của họ.
Bị chối bỏ là một điều thương tổn. Nhưng đặc biệt thương tổn khi bị những người thân chối bỏ. Đức Giêsu đã ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Người rất muốn giúp đỡ họ nhưng chính Người cũng chịu bó tay. Bạn không thể giúp đỡ những người làm ngược lại ý nuốn của họ. Đức Giêsu buồn rầu vì sự việc đó nhưng Người không tức giận. Sự chối bỏ thường dễ dàng làm cho người ta tức giận.
Chúng ta đều có chút ít kinh nghiệm về điều đó. Chúng ta đã muốn giúp đỡ một người nào đó nhưng người ấy khước từ sự giúp đỡ của chúng ta. Chúng ta cảm thấy bực bội và vô dụng. Khi gặp phải sự chối bỏ, chúng ta có thể bị cám dỗ nói rằng: “Thế đấy! Đừng hòng tôi giúp cho”. Chúng ta quyết định không giúp đỡ một ai nữa. Điều này làm người ta đau khổ.
Đức Giêsu đã không phản ứng như thế. Người không trở nên cay cú. Người đã làm điều nhỏ bé còn có thể làm được ở Nagiarét. Người đã chữa lành một vài bệnh nhân – Rồi người quyết định đem ánh sáng và món quà của Người đi nơi khác.
63. Cái dằm
Trong một giờ phút rất chân thành, thánh Phaolô nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã ban cho ngài mọi thứ thị kiến và cho ngài cảm nhận rằng ngài đã đặt một chân vào thiên đàng. Nhưng ngài cũng nói rằng: “Một cái dằm đã đâm vào da thịt tôi” để nhắc ngài nhớ đến sự yếu đuối của mình và để gìn giữ ngài trong sự khiêm nhường.
Một cái dằm trong da thịt – đó là một hình ảnh sống sượng và mạnh mẽ. Chúng ta đều có kinh nghiệm bị dằm đâm vào bàn chân hoặc vào ngón tay. Và chúng ta đã quen thuộc với thành ngữ “Cái gai trước mắt”.
Hình ảnh gợi ra một điều sống sượng và đau đớn – nó liên tục quấy rầy làm người ta không quên được. Nó là một vật ở không đúng chỗ. Nó hết sức phiền hà và làm chúng ta tức giận. Nó có thể là vật rất nhỏ. Tuy nhỏ nhưng lại rất đau.
“Dằm” là hình ảnh của một vấn đề và có thể có nhiều hình thức: một bệnh tật, một điều hối tiếc, một gánh nặng, một nỗi đam mê, một sự cưỡng bách… Nó có thể là những người khó khăn mà chúng ta phải sống với họ. Thánh Phaolô không nói cái dằm của ông là gì. Có lẽ đó là một căn bệnh thể chất tái phát theo định kỳ.
Nhưng ông không nói ông tha thiết muốn thoát khỏi căn bệnh ấy. Nhiều lần ông cầu xin Thiên Chúa lay động cái dằm ấy. Nhưng Thiên Chúa đã không làm. Điều này chứng tỏ rằng chúng ta không được chấp nhận cái dằm mà còn phải tìm cách thoát khỏi nó.
Tình cờ, Phaolô phải chấp nhận sự kiện cái dằm đã có ở đó. Nhưng Thiên Chúa bảo đảm với ông Người sẽ ban cho ông sức mạnh để đối phó với nó: “Ơn của Thầy đã đủ cho con”. Chúng ta cũng phải chấp nhận nếu cái dằm của chúng ta vẫn ở đó. Và những lời “Ơn của Thầy đã đủ cho con” cũng được nói với chúng ta, và cũng là một an ủi to lớn cho chúng ta Thiên Chúa hoạt động vì sự yếu đuối của con người và qua sự yếu đuối ấy.
Cuối cùng, Phaolô phải thừa nhận giá trị và thậm chí khoe mình về cái dằm ấy. Nó giữ ngài khiêm nhường. Nó cho ngài một kinh nghiệm yếu đuối và bất lực. Có nó ngài mới cảm nghiệm quyền năng của ân sủng Thiên Chúa. Chính khi trời êm, con thuyền của mình không đi đâu cả, người thủy thủ mới đánh giá đúng sức mạnh của gió.
Điều như thế cũng xảy đến với chúng ta. Chính trong sự yếu đuối của mình chúng ta mới cảm nghiệm quyền năng của Thiên Chúa. Trong bóng tối của chúng ta, chúng ta mới cảm nghiệm ánh sáng của Người. Trong tội lỗi của chúng ta, chúng ta mới cảm nghiệm lòng thương xót của Người. Nếu “cái dằm” làm chúng ta biết trông cậy nhiều hơn vào quyền năng của Thiên Chúa và gia tăng sự phó thác nơi Người, vậy nó trở nên một suối nguồn của sự trưởng thành và ân sủng cho chúng ta.
64. Chối bỏ
Một gánh xiếc đi lưu diễn đóng trại bên ngoài một ngôi làng. Một buổi tối nọ, không lâu trước giờ trình diễn, ngọn lửa bùng lên trong một chiếc lều. Ông giám đốc gánh xiếc sai một anh hề, lúc đó đã mặc trang phục cho buổi diễn đi vào làng kế cận để xin được giúp đỡ. Nếu ngọn lửa lan tràn qua cánh đồng chỉ còn những gốc rạ khô thì ngôi làng có nguy cơ bị hỏa hoạn.
Anh hề vội vã chạy vào làng. Anh xin người ta ra ngoài làng càng nhanh càng tốt để giúp đỡ dập tắt đám cháy. Nhưng không ai cho rằng anh nói nghiêm túc. Người ta nghĩ đó là một màn quảng cáo khéo léo của giám đốc gánh xiếc. Anh càng cố làm cho họ biết rằng thật sự có hỏa hoạn, thì họ càng cười anh. Sau cùng lửa đã lan đến ngôi làng và thiêu rụi.
Lý do chính mà dân làng không nghe lời cảnh báo là vì họ nhìn người đưa tin chỉ như một anh hề. Điều này làm cho họ hầu như không thể xem xét sự thật trong lời nói anh ta nói với họ.
Có một điều tương tự đã xảy ra với Đức Giêsu khi Người trở về quê hương Nagiarét. Người ta từ chối nghe lời Người. Họ biết rất nhiều về Người. Sứ điệp không gặp may vì người ta đã chối bỏ sứ giả. Thật vậy, họ cố gạt bỏ Người.
Người đã nói sự thật nào cho những người đồng hương để họ thấy đó như một lời đe dọa đến nỗi họ muốn giết chết Người? Người cho họ biết họ là dân được Thiên Chúa chọn. Thế nên người ta phải thấy họ có ít đức tin. Tuy nhiên Người nói với họ Người thấy dân ngoại còn có nhiều đức tin hơn họ. Người tiếp tục gợi ý dân ngoại sẽ chiếm chỗ của họ trong Nước Trời. Vì thế, họ muốn giết Người.
Một trong những dấu chỉ Thiên Chúa chăm sóc dân Người là Người hứa gởi đến cho họ những ngôn sứ để kêu gọi họ trở về với chính họ. Cho dù lời của các ngôn sứ thường là lời phê phán, lời ấy là lời biểu lộ tình yêu.
Thiên Chúa cũng làm thế đối với chúng ta. Người không bỏ mặc chúng ta trong bóng tối sai lầm hoặc làm điều sai trái. Người gởi các ngôn sứ đến với chúng ta, phần lớn ở gần chúng ta. Có thể là ai khác? Nhưng chúng ta cũng có thể chối bỏ các ngôn sứ, đặc biệt khi ngôn sứ mang đến một sứ điệp mà chúng ta không thích nghe. Sự thật mất lòng.
“Bạn làm việc quá vất vả. Bạn bỏ bê gia đình quá nhiều. Bạn không quan tâm đến đời sống trong gia đình và con cái bạn… Bạn làm hư hỏng con cái bạn… Bạn quá chú trọng về vật chất… Bạn uống rượu nhiều quá… Bạn có quá nhiều thành kiến… Bạn luôn đề cao bạn nhất… Bạn thờ phượng Thiên Chúa chỉ bằng môi miệng…”
Nếu có ai nói với chúng ta một hoặc nhiều sự việc ấy, chúng ta sẽ phản ứng thế nào? Chúng ta không tấn công ông hay bà ngôn sứ đó hay sao? Sự thật là ít ai trong chúng ta ham thích sự thật. Chúng ta phải cầu nguyện để có can đảm lắng nghe sự thật cho dù có thể đau đớn và đến như cơn gió làm tan đi lòng kiêu ngạo của chúng ta. Sự thật như lời Đức Giêsu nói sẽ giải phóng chúng ta.
Người nào vì yêu thương chúng ta nói với chúng ta sự thật, biết rằng nói ra sẽ làm chúng ta mất lòng và đánh mất tình bạn, người ấy là một người bạn chân thành.
Chúng ta cũng phải cầu nguyện để có can đảm nói ra sự thật với người khác. Kéo một người về với chính lộ là một việc cao cả. Nhưng có một cách để làm việc đó. Đó là làm với tình yêu thương và sự quan tâm. Bí quyết là đồng thời phải có lòng trung thực và nhân hậu.
65. Phép lạ
Bài Tin mừng hôm nay đề cập về phép lạ: Ở quê hương Nagiarét, Đức Giêsu chỉ làm được một ít phép lạ bởi vì dân Nagiarét không tin. Nhân dịp này, chúng ta hãy tìm hiểu xem: phép lạ là gì? Và ngày nay phép lạ còn xảy ra nữa không?
Điều chúng ta cần lưu ý trước tiên là người ta dùng chữ phép lạ theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa rộng, phép lạ là một điều gì có vẻ khác thường, xảy ra lạ hơn bình thường và không giống như người ta dự kiến. Thí dụ như người Do thái ngày nay đã vận dụng nhiều cố gắng lao động, kết hợp với khoa học kỹ thuật mà trồng được những vườn cam ngon ngọt trên miền đất trước đây là sa mạc. Người ta đã coi đó là một phép lạ (theo nghĩa rộng). Còn theo nghĩa hẹp, nghĩa chính xác, phép lạ là điều không những kỳ diệu khác thường, mà còn xảy ra ngoài những qui luật tự nhiên nữa. Thí dụ: trong khoa vật lý học, chúng ta biết có qui luật là một vật có trọng lượng thì bị rơi xuống do sức hút của trái đất. Nhưng nếu có một người nào đó té từ một nhà lầu cao nhưng không rơi xuống đất mà cứ lơ lửng giữa chừng, thì khi đó sự kiện không xảy ra theo qui luật tự nhiên nữa, nên được coi là phép lạ.
Sau khi đã hiểu phép lạ là gì theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bây giờ chúng ta tìm hiểu xem có thể xảy ra phép lạ hay không. Phép lạ hiểu theo nghĩa rộng thì ai cũng nhìn nhận rằng có, kể cả những người không có đạo, kể cả những kẻ vô thần. Người ta nói nhiều đến phép lạ cải tạo ruộng đất, làm theo nghĩa hẹp thì những người vô tín ngưỡng lại không nhìn nhận. Bởi vì muốn có phép lạ theo nghĩa hẹp này thì cần có sự can thiệp của quyền năng thần thánh. Kẻ vô tín ngưỡng không công nhận thần thánh nên cũng không công nhận phép lạ.
Còn đối với chúng ta, những người Công giáo thì sao? Dĩ nhiên vì tin vào quyền năng Thiên Chúa nên chúng ta nhìn nhận có phép lạ. Tuy nhiên cũng cần lưu ý thêm điều này là: Thiên Chúa không làm phép lạ một cách bừa bãi đâu. Vì như đã nói trên: phép lạ (theo nghĩa hẹp) là điều xảy ra ngoài qui luật tự nhiên. Qui luật tự nhiên ấy ai đã thiết lập ra? Thưa là chính Thiên Chúa. Vậy nếu Thiên Chúa đã thiết lập những qui luật tự nhiên thì đương nhiên Thiên Chúa cũng muốn cho vạn vật vận hành theo đúng qui luật tự nhiên mà Người đã thiết lập. Chỉ thỉnh thoảng khi nào có một lý do thật quan trọng thì Chúa mới cho một sự kiện xảy ra ngoài những qui luật tự nhiên đó (và khi đó là phép lạ).
Vậy lý do quan trọng khiến Chúa làm phép lạ là gì? Thường là đức tin. Phép lạ xảy ra để đáp ứng một lòng tin mạnh mẽ vững vàng – hoặc để mời gọi những người chứng kiến càng tin mạnh mẽ vững vàng hơn.
Trong các sách Tin mừng chúng ta đã đọc thấy nhiều lần trước khi làm phép lạ chẳng hạn trước khi chữa cho một người mà từ thuở mới sinh Đức Giêsu hỏi “Con có tin không?” Người đó tuyên xưng đức tin thì Chúa mới làm phép lạ. Ngược lại, đối với vua Hêrôđê không tin mà chỉ muốn có phép lạ để xem cho thỏa thích hiếu kỳ thì Đức Giêsu không làm một phép lạ nào hết. Trong đoạn Tin mừng hôm nay cũng thế: những người đồng hương với Đức Giêsu ở Nagiarét một mặt khinh thường Đức Giêsu chỉ là con của một bác thợ mộc nghèo nàn, tầm thường, nhưng mặt khác khi nghe biết Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ ở những nơi khác thì cũng muốn Đức Giêsu làm phép lạ ở quê hương Nagiarét cho họ hưởng nhờ thì Đức Giêsu cũng không chịu làm phép lạ chỉ để thỏa mãn tính vụ lợi của họ.
Có những người rất nhẹ dạ dễ tin: chuyện gì hơi lạ một chút cũng coi là phép lạ.
Có những người rất hay cầu xin phép lạ: phép lạ được trúng số, phép lạ được khỏi bệnh.
Không phải chúng ta không nên tin cũng như không nên cầu xin nữa. Nhưng sau những phân tích nãy giờ, chúng ta hãy lưu ý: điều quan trọng nhất trong các phép lạ không phải là khía cạnh lạ thường, khía cạnh lợi lộc của chúng, mà chính là đức tin: phép lạ xảy ra là vì đức tin: hoặc để đáp ứng đức tin mạnh mẽ của con người, hoặc để mời gọi con người qua đó mà càng tin vững hơn vào Thiên Chúa.
– Ở Lộ Đức, ở Fatima, ở La Salette v.v… khi mà những biến cố lạ thường xảy ra làm nhiều người xôn xao thì Giáo hội vẫn im lặng. Chỉ sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng một thời gian dài rồi thì Giáo hội mới tuyên bố đấy là phép lạ. Giáo hội cẩn thận như vậy là để khỏi rơi vào mê tín dị đoan. Thiết tưởng mỗi người chúng ta cũng phải cẩn thận như thế trước những điều xảy ra có vẻ khác thường, bởi vì đức tin của chúng ta không phải là nhẹ dạ, mê tín, mà là một đức tin có nền tảng vững chắc, trong sáng.
– Rồi trong cuộc sống đạo của chúng ta, điều quan trọng mà chúng ta phải chú ý hơn hết là cố gắng rèn luyện cho đức tin của mình càng ngày càng vững mạnh trong sáng hơn. Nói cụ thể: tôi giữ đạo, tôi làm theo những điều Chúa dạy là vì tôi thực sự tin vào Chúa… chứ không phải vì tôi mong Chúa sẽ làm phép lạ cho tôi giàu có, cho tôi trúng số, cho tôi khỏi bệnh một cách lạ lùng… Những điều đó nếu thấy cần thì chúng ta cứ cầu xin, và Chúa nếu thấy rằng tốt thì sẽ ban cho chúng ta. Nhưng chúng ta không nên chỉ giữ đạo vì những điều đó. Chúng ta giữ đạo vì chúng ta tin vào Chúa. Tin vào Chúa chẳng những khi cuộc sống thoải mái dễ chịu, nhưng dù cuộc đời có gặp lúc gian nan, túng thiếu, bệnh tật, buồn khổ… chúng ta vẫn một niềm tin son sắt vào Chúa. Đó mới là một đức tin vững mạnh.
66. Thành kiến
(Suy niệm của Lm Mark Link, SJ.)
Bs. Charles Drew là anh cả trong năm người. Ông tốt nghiệp từ McGill ở Gia Nã Đại với bằng Bác Sĩ Y Khoa và Tiến Sĩ Phẫu Thuật.
Tại Đại Học Columbia ở Nữu Ước, ông tìm ra một phương cách để gìn giữ máu trong một thời gian dài, sử dụng trong việc tiếp máu.
Trong Thế Chiến II, ông là giám đốc của ngân hàng máu quốc gia, cung cấp máu cho các quân nhân.
Trong khả năng của mình, ông đã đặt nền tảng cho thủ tục lấy máu và dự trữ máu của Hồng Thập Tự. Thật cay đắng, ông là người da đen và vì thế ông không được phép hiến máu cho Ngân Hàng Máu Hồng Thập Tự.
Vào năm 1944, ông trở thành trưởng phòng nhân viên và giám đốc y tế tại bệnh viện Freedman tại Hoa Thịnh Đốn. Ông được rất nhiều giải thưởng và được nhiều người trong ngành y khoa nhìn nhận ông là một trong những y sĩ hàng đầu thế giới.
Vào năm 1950, ông bị tai nạn xe hơi trầm trọng và mất rất nhiều máu. Một bệnh viện kỳ thị chủng tộc ở Burlington, North Carolina, đã từ chối không tiếp máu cho ông. Ông từ trần trên quãng đường dài để đến một bệnh viện khác mà họ chấp nhận người da đen.
Và vì vậy điều xảy ra là vị bác sĩ trẻ tuổi, thông minh đã từ trần khi mới 45 tuổi – ở đỉnh cao sự nghiệp – chỉ vì một bệnh viện kỳ thị chủng tộc đã từ chối không cho ông được hưởng kết quả của chính sự khám phá của ông.
Câu chuyện thương tâm này đưa chúng ta về với bài Phúc Âm hôm nay.
Ở đây chúng ta thấy người dân không thể hiểu được Đức Giêsu, con của một bác thợ mộc, lại có được kiến thức và quyền năng lạ lùng như vậy.
Do đó, cũng vậy, người ta không hiểu được ở đâu Bs. Drew, con của người da đen, lại có được kiến thức và khả năng tài giỏi như vậy.
Đức Giêsu bị tẩy chay bởi chính người dân mà Người quý mến bất kể những việc lạ lùng mà Người đã thi hành.
Tương tự, Bs. Drew bị từ chối quyết liệt bất kể những thành quả đáng kể của ông.
Sau cùng, Đức Giêsu, là người chữa lành và cứu được nhiều người, lại bị mất mạng bởi chính những người mà Đức Giêsu đã chữa lành và cứu vớt.
Tương tự, Bs. Drew, người đã chữa trị và cứu được rất nhiều người, lại bị mất mạng vì những người mà ông đã chữa trị và cứu giúp.
Điều Thiên Chúa nói với ngôn sứ Ê-giê-kien trong bài đọc một hôm nay có thể là câu nói với Đức Giêsu và cả Bs. Drew:
Ta sai con đến với một dân mà nó từng phản nghịch Ta. Dù chúng có nghe con hay không, chúng sẽ biết là ở giữa họ có một ngôn sứ. Ez 2:3-5
Làm thế nào những câu chuyện của Đức Giêsu trong Phúc Âm hôm nay và của Bs. Drew có thể áp dụng vào đời sống chúng ta?
Đức Giêsu đã trả lời câu hỏi này khi Người cảnh cáo các môn đệ về những bách hại sắp đến mà nhiều môn đệ sẽ phải chịu. Người nói:
“Hãy nghe đây! Thầy sai anh em đi giống như chiên vào đám sói… [Nhiều người] sẽ ghét anh em bởi vì Thầy. Nhưng ai trung thành đến cùng sẽ được cứu…
“Học trò thì không trọng hơn thầy; nô lệ thì không cao hơn ông chủ. Vì vậy một học trò phải bị hy sinh để trở nên giống thầy của nó, và một nô lệ giống ông chủ của nó” Mt 10:16, 22, 24
Nói cách khác, Đức Giêsu nói rằng nếu người ta tẩy chay Người khi còn sống, chúng ta cũng sẽ đừng ngạc nhiên nếu người ta cũng từ khước chúng ta, môn đệ của Chúa, trong thời gian chúng ta sống.
Thí dụ, chúng ta đừng ngạc nhiên nếu người ta tẩy chay chúng ta vì chống đối việc giết hại mạng sống vô tội qua sự phá thai. Chúng ta đừng ngạc nhiêu nếu người ta tẩy chay chúng ta vì lên tiếng bảo vệ việc khai thác các trẻ vị thành niên.
Chúng ta đừng ngạc nhiên khi người ta tẩy chay chúng ta vì đứng lên bảo vệ những gì chúng ta tin là quyền lợi.
Chúng ta đừng ngạc nhiên ngay cả khi các Kitô Hữu khác từ khước chúng ta vì quốc tịch hay tình trạng kinh tế, xã hội của chúng ta.
Chúng ta cũng đừng ngạc nhiên khi chính gia đình tẩy chay chúng ta. Đức Giêsu nói điều này sẽ xảy ra:
“Người ta sẽ nộp chính anh em mình để bị tử hình, và các người cha sẽ thi hành như vậy với con cái; ngược lại, con cái sẽ chống đối với cha mẹ.” Mt 10:21
Thí dụ, một cha mẹ có thể không muốn thật lòng tha thứ cho đứa con. Hoặc một đứa trẻ có thể từ chối không thật lòng tha thứ cho cha hay mẹ.
Khi sự khước từ này xảy ra, chúng ta bị cám dỗ bỏ cuộc. Chúng ta bị cám dỗ ngừng yêu thương. Chúng ta bị cám dỗ trở nên hận thù và hằn học.
Nếu điều này xảy ra, chúng ta không được khoán trắng cho cảm tưởng. Thay vào đó, chúng ta phải bắt chước Đức Giêsu, Người nói chúng ta phải tha thứ cho kẻ thù và “cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em.” Luke 6:28
Hãy nghĩ đến một thí dụ cụ thể. Vào năm 1861, Jefferson Davis, tổng thống của Liên Bang Hoa Kỳ, đang tìm kiếm ai đó để giữ chức vụ then chốt trong nội các. Do đó ông hỏi Tướng Robert E. Lee về một người nào đó tên là Whiting. Tướng Lee rất khen ngợi người này.
Một trong những sĩ quan của Tướng Lee mời ông ra ngoài và hỏi ông có biết về những nhận xét mà Whiting đã xúc phạm đến ông không. Tướng Lee trả lời, “Tôi hiểu rằng Tổng Thống muốn biết ý kiến của tôi về Whiting, chứ không phải ý kiến của Whiting về tôi.”
Tướng Lee đã không để sự cám dỗ làm chủ ông vì những tổn thương, thay vào đó ông đã nhìn đến sự thật và tình thương.
Nói tóm, các bài đọc hôm nay dậy chúng ta hai điều.
Thứ nhất, có khi người ta sẽ tẩy chay chúng ta, cũng như họ đã tẩy chay Đức Giêsu. Thứ hai, chúng ta không thể để sự tẩy chay này khiến chúng ta thù hận, cũng như Đức Giêsu không để sự khước từ khiến Người không còn yêu mến họ nữa.
Chúng ta hãy kết thúc bằng cách lắng nghe những lời của Đức Giêsu nói trong Bài Giảng Trên Núi:
“Phúc cho anh em khi bị người đời ghét bỏ, tẩy chay, sỉ nhục anh em, và nói đủ điều xấu xa cho anh em, tất cả chỉ vì Con Người! Hãy vui lên khi những điều đó xảy ra và hãy nhảy múa mừng rỡ, bởi vì phần thưởng lớn lao được dành cho anh em ở trên trời.” (Lc 6:22-23)
67. Thành kiến
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin mừng Mc 6: 1-6: Mỗi Tin Mừng thuật lại câu chuyện với các chi tiết khác nhau và đặt trong những bối cảnh văn chương khác nhau. Tin Mừng Máccô đặt trình thuật “Đức Giêsu bị rẻ rúng tại quê hương mình” (Mc 6,1-6) sau trình thuật “Đức Giêsu chữa lành người đàn bà bị băng huyết và cho con gái ông Giaia sống lại”…
Cả ba sách Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 13,53-58; Mc 6,1-6; Lc 4,14-39) đều thuật lại câu chuyện Đức Giêsu không được tiếp đón tại quê nhà và Ngài đều nói đến ý tưởng: “Ngôn sứ không có thế giá tại quê hương mình” (Ga 4,44). Nhưng mỗi Tin Mừng thuật lại câu chuyện với các chi tiết khác nhau và đặt trong những bối cảnh văn chương khác nhau. Tin Mừng Máccô đặt trình thuật “Đức Giêsu bị rẻ rúng tại quê hương mình” (Mc 6,1-6) sau trình thuật “Đức Giêsu chữa lành người đàn bà bị băng huyết và cho con gái ông Giaia sống lại” (Mc 5,21-43).
Đức Giêsu trở về quê hương Nagiaret. Ngài vào hội đường ngày sabat và đứng lên đọc rồi cắt nghĩa Sách Thánh cách rành mạch làm cho mọi người thán phục. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”. Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu. Họ tìm về nguồn gốc thì chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu? Ông ấy bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Dân làng Nagiarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài, họ lấy chủ nghĩa lý lịch để thẩm định về Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Chính Nathanael cũng còn mang nặng quan niệm thành kiến đó: “Nagiarét có cái gì tốt đâu?” (Ga 1,46). Những người Do thái cố chấp nhìn Đức Giêsu bằng lăng kính của thành kiến quê hương và họ đã đưa Ngài lên ngọn đồi và định xô xuống vực.
Đức Giêsu nói với những kẻ đặt câu hỏi về sự khôn ngoan và gốc tích của Ngài bằng câu: “Ngôn sứ không bị rẻ rúng ngoại trừ nơi quê hương mình, nơi những người thân thuộc và trong gia đình mình” (Mc 6,4). Đức Giêsu giải thích về việc những người ở quê nhà không tin và không đón nhận giáo huấn của Ngài đến nỗi “Người ngạc nhiên vì sự không tin của họ” (Mc 6,6a).
Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa màu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
Dân làng Nagiarét “vấp ngã vì Người”, họ không chấp nhận, họ không thể tin vào Đức Giêsu. Ngài mạc khải cho họ về nguồn gốc thiên sai của mình qua những lời giảng dạy khôn ngoan và các phép lạ, nhưng họ lại chỉ bám lấy thành kiến cố hữu. Chính thái độ bám ghì lấy, không dám buông bỏ những hiểu biết giới hạn nên họ không thể nhận biết Đấng Thiên Sai đang ở giữa họ. Đức Giêsu không thể làm được phép lạ nào tại đó vì họ không tin.
Dân làng Nagiarét không tin vì thành kiến. Họ đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong những định kiến hẹp hòi. Vì thế, họ không thể thấy được những chân trời rộng lớn và mới mẻ mà Đức Giêsu mở ra cho họ. Có ai ngờ Đấng Cứu Thế lại là người đơn sơ, khiêm hạ như thế. Đức Giêsu không sống như một siêu nhân, Ngài sống bình dị như mọi người trong mọi thực tại hằng ngày của cuộc sống gia đình.
Những người đồng hương của Đức Giêsu thật “dại”, thay vì “một người làm quan cả họ được nhờ” nhưng họ lại đánh mất cơ hội khi quan niệm “bụt nhà không thiêng”. Thành kiến kiểu “nhìn mặt là biết số nhà” khiến người ta không ít lần rơi vào sai lầm khi nhìn đến tha nhân.
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi người ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì người ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì người ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
Thành kiến là ý kiến có sẵn từ lâu trong đầu óc, không thay đổi được.Thành kiến có thể là của cá nhân hay của tập thể. Nếu là của tập thể thì nó tích tụ từ lâu đời qua nhiều thế hệ và hầu như không thể thay đổi được. Thành kiến là những nếp suy nghĩ, quan điểm, niềm tin chủ quan sẵn có, thường là tiêu cực đối với một người, một nhóm người dựa trên lối sống, nghề nghiệp, quan điểm chính trị, màu da, sắc tộc, quốc tịch, tôn giáo, giới tính…Thành kiến thường được định hình trong con người theo thời gian, từ trải nghiệm của bản thân, do được tuyên truyền, do thế hệ trước truyền lại, do môi trường sống.Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người, không ai thoát khỏi.
Thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả sai lầm hoặc nguy hại. Ai đeo kính đen nhìn cái gì cũng tối tăm; lưỡi đắng ăn gì cũng đắng; lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Yêu nên tốt, ghét nên xấu. Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng. Thật dễ để nhận ra hay để nói về sai lầm của người khác.
Thành kiến làm cho người ta mù quáng, không nhận định khách quan nên khó có thể đối thoại, cởi mở với người khác, không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi tha nhân.
Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng sự kiện dân làng Nagiarét ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu rao giảng trong hội đường, và kết thúc bằng sự ngạc nhiên của Chúa khi Ngài thấy họ không tin. Làm sao họ không ngạc nhiên được khi lời rao giảng và những dấu lạ Ngài làm tỏ rõ Ngài là Đấng đầy quyền năng và khôn ngoan? Thế nhưng, sự ngạc nhiên ấy không đủ để thay đổi thành kiến của họ về Ngài. Họ không thể chấp nhận một bác thợ bình thường, là người đồng hương họ quen biết, lại là vị ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến. Và càng không thể chấp nhận được một con người như Ngài lại cả dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa, là Đấng Kitô. Hạnh phúc được tin vào Đức Kitô, đáng lẽ họ nhận được lại bị mất vì một thành kiến.
ĐTC Phanxicô kêu gọi mọi thành phần trong Hội Thánh “không bao giờ đóng kín nơi chính mình, không bao giờ lui về nơi an toàn của mình, không bao giờ chọn thái độ cố chấp hay tự vệ. Nó hiểu rằng nó phải gia tăng sự hiểu biết Tin Mừng và nhận ra các đường lối của Thần Khí, vì vậy nó luôn luôn làm bất cứ điều tốt lành nào có thể, dù trên đường đi, chân nó có thể bị lấm bùn” (Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, số 45).
Đức Maria được ca tụng là có phúc vì đã tin (Lc 1,45). Chúng ta cũng thật có phúc vì đã tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người và là Đấng Cứu Thế của nhân loại. Đức tin là ân huệ quý giá nhất trong cuộc đời, nhờ đó, mọi việc, dù nhỏ bé, âm thầm đến đâu, vẫn có ý nghĩa và có thể đem lại niềm vui, bình an cho cuộc đời.
Mỗi ngày sống, chúng ta hãy bày tỏ lòng tri ân Chúa ban cho mình ơn đức tin qua việc chuyên cần cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, cũng như tham dự Thánh Lễ.
Lạy Chúa Giêsu, con cảm thấy hạnh phúc khi đi theo Chúa, khi làm môn đệ Ngài. Xin Chúa giúp con sống tốt tư thế môn đệ ấy. Amen.
68. Đừng để lỡ cơ hội gặp Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabat, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc sách thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.
Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”.
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu? Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông nói năng, làm được gì hay lạ đâu? Ông bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế? Thân nhân bảo Ngài “mất trí”. Kinh sư chụp mũ Ngài “nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ”. Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: “Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh”. Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên…
Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là Con Một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.
Dân làng Nazarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói: Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi”.
Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.
Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì chúng ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
Đức Giêsu buồn nhưng không cay cú, không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Đó là cơ hội cuối cùng cho họ.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta. Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến.
Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con.
Lạy Chúa Giêsu, xin mở con mắt đức tin cho mọi người được thấy những sự khôn ngoan, quyền phép lạ lùng của Thiên Chúa đang âm thầm hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới và cả trong vũ trụ, mà con mắt phàm trần không thể thấy được, để họ biết ca ngợi Chúa muôn đời. Amen.
69. Chúa Nhật 14 Thường Niên
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIV Thường Niên năm B nêu lên những khó khăn mà tất cả các ngôn sứ hay các nhà truyền giáo gặp phải, đặc biệt khi loan báo sứ điệp của Thiên Chúa cho những người đồng hương của mình.
Ed 2: 2-5
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nhận được sứ điệp phải loan báo cho những người đồng hương của ông một sứ điệp cứng rắn: “Một dân phản loạn… một bọn người mặt dày mày dạn và lòng chai dạ đá”. Vì thế, ông gặp biết bao khốn khổ trước những đồng hương lòng chai dạ đá nầy.
2Cr 12: 7-10
Thánh Phao-lô hãnh diện về những đặc sủng mà mình đã lãnh nhận, nhưng thánh nhân cũng đã gặp phải không biết bao nhiêu khó khăn trong suốt sứ vụ truyền giáo của mình: thử thách cá nhân (“như một cái dầm đâm vào thân xác”) và những bách hại, chống đối, nhục mạ, vân vân.
Mc 6: 1-6
Trở về Na-da-rét, Đức Giê-su rao giảng cho những người đồng hương của Ngài, nhưng gặp phải thái độ vô tín và ngờ vực của họ.
BÀI ĐỌC I (Ed 2: 2-5)
Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã là tư tế Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, trước khi được Thiên Chúa kêu gọi làm ngôn sứ của Ngài. Đây là trường hợp đặc biệt.
Ê-dê-ki-en đã sống trong một thời đại bi thảm: đế quốc Ba-by-lon đã xâm chiếm vương quốc Giu-đa, triệt hạ thành đô Giê-ru-sa-lem, phá hủy Đền Thờ. Dân chúng bị đưa đi lưu đày và sống ở đất khách quê người trong cảnh nghèo khổ. Họ đã trải qua từ những nghi lễ huy hoàng ở Đền Thờ đến một tôn giáo trơ trụi, nội tâm. Sứ mạng chính yếu của ngôn sứ Ê-dê-ki-en là làm cho những kẻ lưu đày hiểu ý nghĩa của cơn thử thách mà họ đang phải chịu ngõ hầu họ có thể thay đổi “trái tim bằng đá thành trái tim bằng thịt”.
Đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay là bài trình thuật về ơn gọi ngôn sứ của tư tế Ê-dê-ki-en. Bài trình thuật nầy nêu bật tiếng gọi bất khả kháng của Thiên Chúa và sự cảm nhận của con người về sự nhỏ bé của mình trước sự siêu việt của Thiên Chúa. Tuy nhiên, bài trình thuật nầy cũng làm cho hiểu rằng dù chỉ là một phàm nhân nhưng ngôn sứ trở nên vĩ đại biết bao dưới tác động của Thiên Chúa.
1. Thần Khí nhập vào tôi:
Theo quan niệm độc thần giáo tuyệt đối của Cựu Ước, thần khí ở đây chưa là một ngôi vị phân biệt với Thiên Chúa, nhưng là một sự thôi thúc đến từ Thiên Chúa, “hơi thở của Ngài”.
Thần khí đã nhập vào “làm cho chân tôi đứng vững” (2: 2), nghĩa là, nếu chỉ cậy dựa vào sức riêng của mình, Ê-dê-ki-en chỉ là một thụ tạo yếu đuối nghiêng ngữa; nhưng khi được thần khí của Thiên Chúa tác động, ông là một con người kiên cường trong sứ mạng của mình.
2. “Hỡi con người”:
Diễn ngữ: “con người”, đơn giản hóa cụm từ: “con cái loài người”. Đây là một đặc ngữ Do thái, có nghĩa “một phàm nhân” (x. Tv 80: 17; Gr 50: 40; 51: 43). Nhưng trong sách Ê-dê-ki-en, đặc ngữ này xuất hiện nhiều lần và có nhiều sắc thái ngữ nghĩa.
Ở đây, qua danh xưng: “con người”, ngôn sứ xem mình như một một con người bình thường như bao nhiêu người khác, không có bất kỳ đặc quyền nào, thậm chí cho dù ông là ngôn sứ, tức là một phát ngôn nhân của Thiên Chúa với dân của Ngài đi nữa. Đặc ngữ này bày tỏ mối liên hệ của vị ngôn sứ với đồng bào của ông, ông không khác với họ về mọi phương diện, ngay cả ông đã được Thiên Chúa ủy thác sứ điệp của Ngài đi nữa. Đúng hơn ông thấy mình đơn thuần như một thành viên của cộng đồng Ít-ra-en mà qua ông Thiên Chúa đang ngỏ lời với họ.
Ở nơi khác, đặc ngữ này chỉ ra rằng khi sánh ví với Đức Chúa, Thiên Chúa toàn năng, Đấng cho ông thoáng thấy vinh quang của Ngài, ông chỉ là một thụ tạo yếu đuối thấp hèn: sứ điệp mà ông có sứ mạng thông truyền thì cao vời khôn ví so với thân phận phàm nhân mõng dòn yếu đuối của ông.
Chính luôn luôn dưới danh xưng “con người” nầy mà vị ngôn sứ được Thiên Chúa chỉ định là người truyền đạt sứ điệp cao vời của Ngài: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en…” (2: 3). Một cách nào đó, Thiên Chúa đòi hỏi nơi vị ngôn sứ đức tính khiêm hạ của một kẻ vô danh, như thử sứ điệp của Thiên Chúa càng cao trọng bao nhiêu thì thừa tác vụ của người ấy càng phải khiêm hạ bấy nhiêu.
Đặc ngữ nầy sẽ mặc lấy một ý nghĩa mới trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: “Có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến” (Đn 7: 13), ở đó “Con Người” viết hoa là một con người có nguồn gốc thần linh. Trong các sách Tin Mừng, Chúa Giê-su áp dụng cho mình đặc ngữ này cả theo truyền thống Ê-dê-ki-en để nhấn mạnh “nhân tính tròn đầy” của Ngài như khi Ngài tiên báo cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài lần thứ ba: “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Ngài và sẽ nộp Ngài cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Ngài, khạc nhổ vào Ngài, họ sẽ đánh đòn Ngài và giết chết Ngài” (Mc 10: 33-34), lẫn theo truyền thống Đa-ni-en để nhấn mạnh “nguồn gốc thần linh” của Ngài, như khi Ngài công bố trước phiên tòa của Thượng Hội Đồng Do thái: “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng toàn năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mc 14: 62).
3. Một dân phản loạn:
Lời của Đức Chúa thật là cứng rắn: “Một dân phản loạn… những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá”. Đây sẽ là ngôn từ của Ê-dê-ki-en, một trong những ngôn từ nghiêm khắc nhất chưa bao giờ được viết ra để kết án tội lỗi của dân Ít-ra-en. Vị ngôn sứ không khoan nhượng một chút nào. Theo ông, dân Ít-ra-en đã chẳng bao giờ thật sự trung thành với Thiên Chúa của mình. Vị ngôn sứ lên án tội lỗi của vua chúa, quần thần, tư tế và toàn dân. Ông loan báo cơn giận khủng khiếp của Thiên Chúa bằng những ngôn từ rắn rõi. Trong cảnh lưu đày của mình, ông thấy thành thánh Giê-ru-sa-lem hoang tàn đổ nát: “Hỡi con người, ngươi hãy nói với con cái dân ngươi; ngươi hãy bảo: Khi Ta cho gươm đến trừng phạt xứ nào, thì dân xứ ấy sẽ chọn một người trong số họ và đặt làm kẻ canh gác cho mình” (33: 2). “Kẻ canh gác” là một trong những hình dung từ chỉ ngôn sứ.
Những biến cố của 587 trước Công Nguyên sẽ sớm chứng tỏ cho dân phản loạn nầy biết rằng “có một ngôn sứ đang ở giữa họ” (2: 5). Tinh thần của Ê-dê-ki-en ảnh hưởng rất sâu xa sau cái chết bất ngờ của ông ở giữa cảnh lưu đày vào năm 571 trước Công Nguyên.
BÀI ĐỌC II (2Cr 12: 7-10)
Trong vô vàn những khó khăn nảy sinh giữa vị tông đồ và các tín hữu Cô-rin-tô, đáng kể là những lời chỉ trích phê bình về sứ vụ tông đồ của thánh nhân đến từ “các Tông Đồ siêu đằng” (11: 5), “những kẻ đội lốt tông đồ của Đức Ki-tô” (11: 13), những kẻ sửa sai giáo huấn của thánh nhân và vu khống hoạt động của thánh nhân là “sống theo tính xác thịt” (10: 2).
Để lấy lại niềm tin tưởng của các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô buộc phải tự biện hộ cho chính mình. Thánh nhân trình bày những đau khổ mà mình phải chịu và những đặc sủng mà mình đã đón nhận (thị kiến, xuất thần, “được nghe những lời khôn tả mà không được phép nói lại”: 12: 4).
1. “Cái dằm đâm vào thân xác”:
Thánh nhân không muốn để cho mình bị mắc vào thói tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường đã nhận được nầy, vì thế, “thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào” (12: 7).
Các nhà chú giải luôn luôn tự hỏi qua lời nầy thánh nhân muốn nói điều gì. Họ đã so sánh bản văn nầy với một đoạn thư gởi tín hữu Ga-lát: “Anh em biết: nhân khi thân xác tôi đau ốm, tôi đã loan báo Tin Mừng cho anh em lần đầu tiên. Mặc dầu thân xác tôi là một dịp thử thách cho anh em, anh em đã không khinh, không tởm; trái lại anh em đã tiếp đón tôi như một sứ giả của Thiên Chúa, như Đức Giê-su Ki-tô” (Gl 4: 13-14). Phải chăng thánh Phao-lô muốn nói đến một cơn bệnh hoạn nào đó mà thánh nhân gặp trong cuộc hành trình truyền giáo đầy gian khổ? Đúng hơn thánh nhân muốn nói đến nỗi buồn phiền day dứt của ngài vì đã không hoán cải được những người đồng hương của thánh nhân, “anh em trong xác thịt của ngài”.
2. “Đã ba lần, tôi xin Chúa…”:
Con số “ba” xem ra không là số đếm chính xác, nhưng nói lên mức độ cầu nguyện thường hằng của thánh Phao-lô; như Đức Giê-su ở trong vườn Ô-liu đã cầu nguyện ba lần. Thông thường thánh Phao-lô cầu nguyện với Chúa Cha (“Theos”), nhưng ở đây thánh nhân cầu nguyện với Đức Ki-tô mà ngài gọi là “Chúa” (“Kurios”). Đây là danh hiệu mà thánh nhân ưa thích: “Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”.
3. “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”:
Chúng ta dễ dàng nhận ra văn phong của thánh Phao-lô ở nơi biện chứng: “mạnh mẽ-yếu đuối” này. Người nào làm việc cho Thiên Chúa càng xóa nhòa công sức của mình bao nhiêu, thì người ấy càng bày tỏ quyền năng Thần Khí ở nơi mình bấy nhiêu. Hễ có dịp là thánh Phao-lô lập lại tư tưởng nầy.
Lời kết của thánh nhân ám chỉ đến những xúc phạm và những xao xuyến mà các tín hữu Cô-rin-tô đã bắt ngài phải chịu: “Vì vậy, tôi cảm thấy sung sướng, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (12: 10). Thánh Phao-lô cho họ hiểu rằng cách hành xử của họ sẽ không làm thay đổi thái độ của ngài là luôn luôn cậy dựa vào quyền năng của Thiên Chúa.
Ở Chương 12 nầy, chúng ta chỉ đọc một đoạn trích, nhưng đây là một chứng liệu duy nhất giúp chúng ta hiểu thánh Phao-lô. Nếu như không có những lời tự thú nồng nàn nầy, chúng ta chỉ có một cái nhìn phiếm diện về những thử thách mà thánh nhân đã kinh qua và những kinh nghiệm thần bí mà thánh nhân đã trải nghiệm. Tính khí bốc lửa của thánh nhân được bày tỏ ở đây rõ hơn nơi nào khác: một sự hòa hợp đáng ngạc nhiên ở nơi con người của thánh nhân giữa tính tự phụ, đức khiêm hạ và niềm tin kiên vững vào Đức Ki tô.
TIN MỪNG (Mc 6: 1-6)
Theo Tin Mừng Mác-cô, đây là lần đầu tiên Đức Giê-su có dịp trở lại nơi sinh trưởng của Ngài kể từ khi Ngài thi hành sứ mạng công khai của mình. Làm thế nào Ngài có thể bỏ quên những đồng hương Na-da-rét mà Ngài đã chia sẻ cuộc sống gần ba mươi năm mà không mang Tin Mừng đến cho họ được chứ?
Chắc chắn khi viếng thăm họ, Ngài không mong chờ họ sẽ hồ hỡi đón tiếp Ngài. Mới đây thân nhân của Ngài từ làng Na-da-rét đến thành Ca-phác-na-um toan tính bắt Ngài về, vì cho rằng Ngài mất trí (3: 21). Vào lúc đó, Đức Giê-su đã không quan tâm đến cách hành xử của họ; Ngài cũng đã ám chỉ một sự đoạn tuyệt: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (3: 35).
Quả thật, chuyến viếng thăm Na-da-rét của Ngài kết cục với một sự thất bại. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều trình thuật biến cố nầy, bài tường thuật của Lu-ca cung cấp nhiều tình tiết nhất (Lc 4: 16-30).
1. Gia thế và nghề nghiệp:
Tin Mừng hôm nay bắt đầu với câu chuyển tiếp nối kết câu chuyện trước đó với câu chuyện theo sau: “Đức Giê-su ra khỏi đó và đến nơi quê quán của mình” (6: 1); tiếp đó, giới thiệu bối cảnh của câu chuyện: “Đến ngày sa-bát, Đức Giê-su bắt đầu giảng dạy trong hội đường” (6: 2a). Đây là phương thức rao giảng của Đức Giê-su. Ngài đã làm như vậy ngay từ đầu sứ vụ công khai của Ngài trong hội đường Ca-phác-na-um (1: 21). Đây cũng là phương thức mà sau nầy thánh Phao-lô chọn trong các cuộc hành trình truyền giáo của thánh nhân. Phương thức nầy thành công đến mức các văn sĩ Do thái ghi nhận rằng nếu như không có các hội đường Do thái, thì Ki-tô giáo sẽ không lan tràn ra khắp nơi.
Chúng ta biết rằng hội đường là nơi tụ họp chứ không tế tự, bởi vì những hy lễ chỉ được tiến dâng ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Các tín đồ tụ họp ở đây để cầu nguyện, cử hành phụng vụ Lời Chúa, hát những bài Thánh Vịnh, đặc biệt vào ngày sa-bát. Trong hội đường, vào ngày sa-bát người ta sẽ mời một người trong số những người tham dự công bố và giải thích Lời Chúa. Vào ngày sa-bát nầy, trong hội đường Na-da-rét nơi Đức Giê-su đã thường năng lui tới trước đây khi sống ở giữa họ, Ngài là người được mời để công bố và giải thích Lời Chúa. Thánh Lu-ca xác định bản văn mà Ngài công bố và giải thích là bản văn I-sai-a (Lc 4: 17-19).
Giáo huấn của Ngài làm cho mọi người thán phục: “Ông ta được khôn ngoan như thế, nghĩa là làm sao?”, và những phép lạ mà họ đã nghe nói khiến họ ngưỡng mộ: “Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (6: 2b). Nhưng rồi từ thái độ thiện cảm lại biến thành ác cảm khi họ nghĩ đến gia thế và nghề nghiệp trước đây của Ngài. Mọi người trong làng nầy ai mà không biết Ngài: cha mẹ của Ngài, họ hàng bà con thân thích của Ngài sinh sống ở giữa họ. Đức Giê-su đã là một con trẻ lớn lên trong làng nầy, mẹ Ngài là bà Ma-ri-a đang sống giữa họ. Khi xét đến gia thế của Ngài, họ nghi ngờ về sự khôn ngoan của Ngài: làm thế nào một người xuất thân từ một gia thế tầm thường ở giữa họ lại có những lời lẽ khôn ngoan được chứ? Cũng như khi xét đến nghề nghiệp của Ngài, họ không thể nào tin rằng những phép lạ của Ngài: làm thế nào đôi tay mà họ đã từng thấy Ngài cưa, bào, đục, đẻo vân vân, lại có thể làm những phép lạ được chứ? Vì thế, từ ngạc nhiên đến thán phục, nay họ bày tỏ thái độ thù địch công khai với Ngài.
2. Con bà Ma-ri-a:
Thánh Mác-cô không nhắc đến cha của Ngài, thánh Giu-se. Phải chăng từ đó suy ra rằng thánh Giu-se đã qua đời? Lý do nầy chưa đủ, vì để xác minh căn tính của một người, người Do thái có thói quen trích dẫn tên người cha, thậm chí cho dù người cha đã qua đời đi nữa. Có lẽ đúng hơn, khi thánh Mác-cô biên soạn sách Tin Mừng của mình, thì Giáo Hội tiên khởi đã tin rằng Đức Giê-su được thụ thai bởi người mẹ đồng trinh rồi (x. Mt 1: 18-20; Lc 1: 30-35). Vì thế, khi tránh nêu tên cha Ngài, thánh ký muốn nhấn mạnh một cách kín đáo đức đồng trinh của Đức Ma-ri-a.
3. Anh em của Ngài:
Những “anh em” nầy là những anh em họ của Đức Giê-su. Từ “anh em” theo ngôn ngữ Hy bá có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng (trong ngôn ngữ Hy bá không có các từ riêng biệt để chỉ anh em họ). Trong Kinh Thánh, từ “anh em” được dùng để chỉ mối quan hệ họ hàng thân thích gần xa giữa chú bác và cháu (x. St 13: 8), hoặc anh em chú bác, cô cậu, hay con dì (x. Lv 10: 4; 1Sb 23: 21).
Chúng ta biết hai trong số “anh em” của Đức Giê-su: ông Gia-cô-bê, người sau nầy lãnh tụ Hội Thánh Giê-ru-sa-lem, và ông Giô-xết mà mẹ của họ là bà Ma-ri-a, vợ ông Cơ-lô-pát đứng dưới chân thập giá (Mc 15: 40-41; Mt 27: 56; Ga 19: 25).
4. Giá trị lịch sử của câu chuyện:
Gia thế và nghề nghiệp của Ngài trở nên chướng ngại khiến “họ vấp ngã vì Người” (6: 3). Phản ứng của những người đồng hương cung cấp cho chúng ta một lợi ích lớn lao. Phản ứng của dân làng Na-da-rét nầy là sự kiện duy nhất soi sáng cho chúng ta cuộc đời ẩn dật của Đức Giê-su trong suốt ba mươi năm: một cuộc đời bình lặng không có gì trổi vượt như bao nhiêu người đồng hương Na-da-rét khác. Không ai có thể nghi ngờ nhân tính của Ngài khi đang sống ở giữa họ: với đôi tay thợ mộc và sức lao động của mình, Ngài đã nuôi sống bản thân và gia đình của mình; không có bất kỳ hành động phi thường nào. Phản ứng của những người đồng hương của Ngài là một bằng chứng có giá trị.
5. Câu trả lời của Chúa Giê-su:
Trước thái độ cứng lòng tin của những người đồng hương, Đức Giê-su trả lời bằng cách trích dẫn câu thành ngữ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình” (6: 4). Câu thành ngữ nầy đã thường được kiểm chứng trong lịch sử Ít-ra-en. Bài Đọc I đã cung cấp cho chúng ta một ví dụ về ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Nhưng còn nhiều ngôn sứ khác có thể được nhắc đến. Ngôn sứ Ê-li-a bị hoàng hậu I-de-ven truy bắt phải trốn chạy; ngôn sứ I-sai-a, vì thất vọng trước sự cứng tin của dân Ít-ra-en, cuối cùng dành sứ điệp chỉ trong vòng các môn đệ thân tính của mình; ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị những người đương thời nhục mạ, làm khổ cách này hay cách khác.
Đức Giê-su không thể làm bất kỳ phép lạ nào tại đó, vì Ngài không gặp thấy niềm tin ở nơi họ. Chỉ vài bệnh nhân hưởng được lòng thương xót của Đức Giê-su. Trong Tin Mừng Mác-cô, không nơi nào nêu rõ mối liên hệ hỗ tương giữa đức tin và phép lạ cho bằng bài trình thuật nầy. Câu chuyện Chúa Giê-su về thăm Na-da-rét kết thúc với lời nhận định thật buồn của Đức Giê-su: “Người lấy làm lạ vì họ không tin” (6: 6).
Với bài trình thuật nầy, thánh Mác-cô hoàn tất Phần thứ hai sách Tin Mừng của mình: “Đức Giê-su và thân nhân” (3: 7-6: 6). Phần thứ hai nầy nêu bật nền tảng của Tin Mừng. Chúng ta đã gặp thấy nhiều thái độ khác nhau của những người đến gặp gỡ Ngài, dù dân chúng, môn đệ hay bà con họ hàng của Ngài, đều tự đặt ra cho mình “câu hỏi gai góc nhưng then chốt về thân thế sâu xa của Ngài”
70. Sức mạnh của lời từ chối
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV. Sao Biển)
Sự khước từ là một thực tế của cuộc sống. Đến một lúc nào đó, mọi người đều sẽ trải nghiệm về tiếng “không” ở công sở, nơi gia đình hay ngoài xã hội. Bài đọc Chúa nhật hôm nay đưa ra những thí dụ trong Kinh thánh về việc đoán trước và chấp nhận sự khước từ cũng như sự kiên trì bất chấp những trở ngại.
Êdêkien, Phaolô và Đức Giêsu đều cảm nghiệm thái độ thù nghịch, nhất là khi đưa ra những sứ điệp phê phán và khó chấp nhận đối với dân chúng. Trong bài đọc một, Thiên Chúa đã gọi tiên tri Êdêkien trong thời kỳ lưu đày ở Babylon. Ngài bảo ông hãy sẵn sàng mang sứ điệp đến với dân đã nổi loạn, và cảnh bảo với ông rằng dân chúng sẽ “mặt dày và cứng lòng.” Dù có thể bị khước từ, Êdêkien vẫn được kêu gọi để rao giảng và dạy dỗ.
Thiên Chúa đã sai Êdêkien dẫu biết rằng ông sẽ phải đối mặt với sự khước từ, và Êdêkien cũng biết con đường gian nan phía trước khi ông nói tiên tri. Trong bài đọc hai trích thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô, Phaolô cũng nói về những thử thách mà ngài đã gặp phải, nhắc đến “một cái dằm đâm vào thịt… một thủ hạ của Satan.” Gian khổ này có thể ám chỉ đến những đối thủ hay những kẻ thù khác nhau mà Phaolô đã gặp hoặc có thể là những thử thách về thể lý hay tinh thần. Phaolô coi những gian khổ này là đáng phải chịu trong sứ vụ vì Đức Kitô. Giống như Êdêkien, Phaolô chấp nhận và nhìn nhận công việc đầy thử thách nhưng quan trọng mà ngài được kêu gọi để thực hiện. Ngày nay, khi nhiều người phải vật lộn với những gánh nặng và rào cản khác nhau, chúng ta có thể gặp thấy những mẫu gương về sự kiên trì trong các bài đọc hôm nay.
Tương tự, bài Tin mừng theo thánh Máccô thuật lại việc Đức Giêsu bị khước từ ở Nadarét. Khi Đức Giêsu giảng dạy trong hội đường, dân chúng lớn tiếng thắc mắc về năng lực và thẩm quyền của Ngài. Họ biết gia cảnh, và một số người chất vấn về sứ vụ của Ngài, cho rằng những việc Ngài làm trái ngược với việc giáo dục và bà con dòng họ của gia đình Ngài. Đáp lại những người phản đối này, Đức Giêsu đưa ra câu phương ngôn khôn ngoan là các tiên tri không được chấp nhận tại quê hương mình. Đây không phải là lần đầu tiên Đức Giêsu đối mặt với sự soi mói và chống đối khi ở quê nhà. Trước đó, trong Tin mừng, người ta nghĩ rằng Ngài mất trí (Mc 3,21). Trong bài đọc hôm nay, Đức Giêsu tỏ ra bình an khi những lời giảng dạy của mình có thể bị khước từ nhưng Ngài vẫn ngạc nhiên trước sự cứng tin của cộng đoàn.
Bài Tin mừng có một chi tiết đáng chú ý về ý nghĩa của sự cứng lòng tin của dân chúng đối với cuộc sống – họ đã không đón nhận được nhiều lợi ích như các cộng đoàn khác. Khi ở Nadarét, Đức Giêsu chỉ chữa lành cho một vài bệnh nhân. Tin mừng Mátthêu nói rõ hơn lý do của sự việc này: “Ngài không làm được nhiều phép lạ tại đó vì họ không tin” (Mt 13,58). Cả hai thánh sử đều nhấn mạnh rằng cần phải có đức tin để đón nhận ơn lành. Khẳng định này dựa trên các bài Tin mừng mà chúng ta đã nghe trong vài tuần vừa qua, trong đó nêu bật đức tin được kết nối với những phép lạ của Đức Giêsu.
Vì chắc chắn phải đối mặt với sự khước từ, hôm nay chúng ta được nhắc nhở hãy duy trì sự bền bỉ và kiên trì. Các bài đọc kêu gọi chúng ta suy xét và tập trung vào những vấn đề mà chúng ta có thể kiểm soát.
Hơn nữa, các bài đọc hôm nay có thể thôi thúc chúng ta để ý đến lời nói của người khác, ngay cả khi chúng thách thức hiện trạng cuộc sống chúng ta.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2021/06/17/word-lectionary-scripture-prayer-240829
71. Chúa Nhật 14 Thường Niên
KHÔNG CÓ NGÔN SỨ NÀO ĐƯỢC TÔN VINH NƠI QUÊ HƯƠNG
Suy Niệm
Bản văn Tin Mừng hôm nay tường thuật về việc Đức Giêsu bị những người ở quê hương mình khinh thường, và Người không thể thi ân giáng phúc cho họ.
Sau khi chữa lành cho người phụ nữ bị bệnh băng huyết và cứu sống con gái của một ông trưởng hội đường Do thái ở Ca-pha-na-um, Đức Giêsu rời khỏi nơi đó để về quê hương của Người là Na-da-rét.
Đến ngày sa-bát Người vào hội đường để giảng dạy. Những người họ hàng thân thuộc, bạn bè và hàng xóm rất ngạc nhiên về những lời lẽ khôn ngoan và đầy thuyết phục của Đức Giêsu; họ cũng đã nghe truyền tụng về những phép lạ Người làm ở nơi khác, nhưng họ không tin Người là Ngôn sứ của Thiên Chúa, vì họ biết rõ thân thế của Người. Những người này nói với nhau: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xê, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?”
Đức Giêsu trở về Na-da-rét, Người muốn loan báo cho những người thân yêu của mình về ơn Cứu độ của Thiên Chúa đã được thực hiện, nhưng Người thất vọng vì sự cứng lòng và thói tật xấu xa của họ, họ đánh giá người khác theo cảm tính và dáng vẻ bề ngoài. Do đó, họ đã tỏ thái độ lạnh nhạt, khinh thường và không tiếp đón Người.
Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” Thực thi sứ vụ yêu thương, Đức Giêsu giảng dạy chân lý cứu độ và Người muốn thi ân giáng phúc cho mọi người nhất là những người đồng hương thân yêu và bằng hữu; nhưng Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó.
Phép lạ gắn liền với lòng tin, Đức Giêsu có làm phép lạ cũng là vì thương yêu và để củng cố đức tin cho người có bệnh tật cũng như cho những người chứng kiến dấu lạ, nhưng ở quê hương của Người, Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Sự cứng lòng và thái độ khinh thường của người Na-da-rét làm cho Đức Giêsu phải ngỡ ngàng.
Qua trình thuật Tin Mừng hôm nay Lời Chúa muốn nói với tôi: Thái độ của người Na-da-rét ngày xưa, hôm nay vẫn còn đang tái diễn khi con người lãnh đạm trước ơn soi sáng thúc dục sống công chính và yêu thương của Chúa Thánh Thần trong lương tâm, cũng như trước lời mời gọi hiệp nhất của Giáo hội. Bởi xu hướng hưởng thụ và quan niệm thực dụng người ta không còn chú ý đến tiếng lương tâm và xem thường những thực tại thiêng liêng, khước từ ân sủng Thiên Chúa ban cho qua Phụng vụ và các Bí tích, nhất là bí tích Hòa giải và bí tích Thánh thể. Chính sự vô cảm về đàng thiêng liêng đã ngăn cản bàn tay yêu thương của Thiên Chúa khi Ngài thi ân giáng phúc. Nhiều người trong chúng ta có lẽ đã trách cứ những người đồng hương của Đức Giêsu về thái độ bất kính đối với Người; nhưng đặt mình trong bối cảnh lúc bấy giờ, thái độ của chúng ta sẽ như thế nào? Năm 2010, Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô 16 ban hành Tông huấn Lời Chúa, ngài nhắc nhở mời gọi người tín hữu hãy yêu mến Kinh Thánh, siêng năng đọc và suy niệm theo phương pháp truyền thống của Hội Thánh là Lectio Divina để kín múc sự sống vĩnh cửu nơi Lời của Đức Giêsu. Thực tế, lời giáo huấn của Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô 16 đã được chúng ta đón nhận như thế nào? Mau mắn và kiên trì thực thi việc đọc KinhThánh vì đó là phương tiện gặp gỡ chính Người; hay quan niệm đây chỉ là quyển sách đạo đức hoặc phương pháp Lectio Divina có vẻ xa rời thực tế, vì thế lãnh đạm hoặc xem thường mà chẳng quan tâm đón nhận?. Đấy là câu trả lời về thái độ của con người chúng ta hôm nay đối với Đức Giêsu và lời rao giảng của Người.
Sứ điệp Tin Mừng hôm nay nhắc nhở tôi:
– Hãy quan tâm và tìm kiếm ân sủng của Thiên Chúa thông ban cho qua các phương tiện như Kinh Thánh, Phụng vụ, các bí tích và những việc đạo đức bình dân khác với lòng yêu mến chân thành.
– Hãy có một tấm lòng quảng đại, thân thiện để sẵn sàng đón tiếp sứ giả của Thiên Chúa; đó có thể là những người anh em nghèo túng, khốn cùng; có thể là những người có trách nhiệm hướng dẫn tôi; có thể là những người đang nhắc nhở tôi điều tốt lành – dù họ là ai, họ như thế nào.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, xin cho con biết khiêm tốn để nhận ra Chúa trong cuộc đời và chân thành đón tiếp Người cũng như yêu mến thực thi các huấn lệnh, để nhờ đó con có được diễm phúc sống thân tình với Người và hưởng nếm hạnh phúc Người hứa ban.
72. Sức mạnh trong yếu đuối
Trong cuốn sách tựa đề The Inner Game of Tennis (Cuộc Chiến Bên Trong Của Môn Tennis) Timothy Gallwey đã tả lại cái cảnh vào một đêm tối mùa đông khi ông đang lái xe trên con đường vắng lặng từ tiểu bang Maine đến tiểu bang New Hampshire
Bất chợt, chiếc xe Volkswagen ông đang lái gặp phải chỗ đường đóng đá nên đã trượt đi đâm vào đống tuyết ở bên lề đường. Cùng một lúc thì chiếc xe cũng bị chết máy. Gallwey đã cố gắng tìm đủ mọi cách để nổ máy xe lại nhưng không có kết quả gì.
Lúc đó, khí trời lạnh buốt tới âm 20 độ và ông chỉ có một chiếc áo lạnh thể thao đang mặc trên mình.
Gallwey mới chỉ có ra khỏi một thành phố độ khoảng chừng 20 phút. Trong 20 phút qua, ông không nhớ là đã nhìn thấy một chiếc xe nào cả. Ông cố gắng tìm xem có nhà nào ở ngoài đồng vắng hay có cột điện thoại nào không, nhưng ông không nhìn thấy một cái gì hết. Ông cũng không biết ông còn cách xa thành phố kế tiếp bao xa.
Gallwey liền xuống xe và chạy đi tìm người giúp. Khí lạnh đã xâm nhập vào cả người ông và dần dần ông cảm thấy đuối sức và ông không còn có thể nào chạy được nữa nhưng phải bước đi.
Sau khi đi bộ được hai phút thì hai cái tai lạnh ngắt và ông tưởng rằng chúng sẽ rơi xuống bất cứ lúc nào. Lại một lần nữa, ông lại bắt đầu chạy, nhưng khí lạnh lại làm cho ông kiệt sức và ông lại phải bước bộ.
Bất chợt, trong tâm trí ông, ông tưởng tượng ra thân xác của ông sẽ nằm trên con đường này và nó bị đóng đá và bị tuyết bao phủ. Nghĩ đến đây, ông rùng mình lo sợ.
Sau đó một vài phút, Gallwey la lớn lên: “OK, nếu sự việc đã định, thì tôi xin sẵn sàng.” Sau đó, Gallwey không còn lo ngại gì đến số mạng của ông nữa, và ông lại bắt đầu chạy tiếp.
Sau một vài phút chạy bộ, nhìn lên bầu trời, Gallwey cảm thấy ngạc nhiên về vẻ đẹp của những ngôi sao lấp lánh và những cánh đồng xung quanh ông đều bao phủ tuyết trắng.
Ngoài sức tưởng tượng của ông, Gallwey đã chạy được 40 phút mà không cần nghỉ ngơi. Bất chợt, ông dừng lại bởi vì đằng xa xa, ông nhận ra một ánh đèn phát ra từ một nhà nông trại. Diệu kỳ thay, ông đã qua khỏi cơn thử thách đầy gian nguy này.
Sau cái kinh nghiệm khủng khiếp đó, Gallwey đã tự hỏi mình rằng đâu là nguồn gốc của sức mạnh đã giúp ông để có thể chạy được một quãng đường dài như thế. Rồi, ông nhớ lại rằng chính ông đã biết tự phó mặc đời mình theo thiên mệnh và qua đó, ông đã lãnh nhận được một sức mạnh giúp ông chạy một lèo 40 phút như thế.
Khi biết phó mặc sự sống của mình, Gallwey đã để cho một sự sống thần linh chiếm đoạt con người của ông. Phó mình trong tay Chúa định đoạt về mình, ông mở ra một lối cho một sức mạnh thần linh mà ông không bao giờ hay biết.
Kinh nghiệm của Gallwey giúp chúng ta hiểu được những điều bí nhiệm của Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay.
Thiên Chúa nói với Phaolô, “Sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối.” Và Thánh nhân đã chân nhận, “Vì thế, tôi vui thỏa trong sự yếu hèn của tôi… khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ.” Nhưng, Thánh Phaolô muốn nói gì, “khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ”?
Ngài có ý muốn nói rằng khi ngài nhận ra sự yếu đuối của mình, ngài biết cậy trông vào Chúa để xin trợ giúp. Khi nhận ra con người yếu đuối của mình, ngài biết mở mình ra và để cho ơn Chúa xuống và tăng sức cho ngài.
Nói một cách khác là nếu Thánh Phaolô đã không bao giờ cảm nghiệm được con người yếu đuối của mình thì ngài sẽ không bao giờ biết giơ tay ra để xin cứu giúp. Và ngài sẽ không bao giờ khám phá ra được sức mạnh tuyệt vời mà con người có thể khám phá: đó là Thiên Chúa.
Chỉ có những lúc như thế, con người mới nhận ra lý do tại sao Ngôi Hai lại xuống thế làm người. Ngài đến bởi vì Ngài biết rằng con người chúng ta bất toàn và cần sự trợ giúp của Ngài.
Vì thế, khi những gian nan thử thách đến trong cuộc sống, và chắc chắn chúng sẽ đến, chúng ta hãy vững tin và đừng thất vọng. Bởi vì chính những lúc đó, chúng ta sẽ khám phá ra được sự cần thiết của Chúa. Chúng ta sẽ biết mở lòng ra, việc mà chúng ta không bao giờ làm từ trước đến nay. Có như vậy, Thiên Chúa mới ngự vào tâm hồn chúng ta, và chúng ta sẽ cảm nghiệm được sứ mạnh của Ngài.
Đó chính là ý nghĩa sâu xa của lời Thánh Phaolô. Đó là Tin Mừng qua bài đọc hôm nay. Đó là mầu nhiệm mà chúng ta đang cùng nhau cử hành nơi đây.
73. Chúa Nhật 14 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
HÃY RAO GIẢNG TIN MỪNG, DÙ GẶP ĐIỀU BẤT LỢI
Phụng vụ lời Chúa hôm nay giúp chúng ta khám phá những cảm xúc từ Trái Tim Chúa Giêsu đối với những người đồng hương khi vào hội đường rao giảng. Thánh sử Marcô viết rằng, Chúa Giêsu “ngỡ ngàng về sự cứng lòng tin của họ” (Mc 6,6). Đây là một bất lợi cho chính Chúa Giêsu, một đàng có các môn đệ theo cùng về quê, đàng khác ngay tại quê hương, Thầy mình cũng không được đón nhận, vậy tương lai công việc của họ theo Thầy sẽ ra sao? Hẳn các môn đệ Chúa cũng sửng sốt về sự thiếu lòng tin của những người đồng hương với Thầy Giêsu và phản ứng của Thầy sau này nữa. Sự ngạc nhiên của Chúa Giêsu tương ứng với sự sửng sốt của những người đồng hương, theo một nghĩa nào đó cũng lấy làm đau buồn! Mặc dù Chúa biết không tiên tri nào được đón nhận nơi quê hương, nên Người đã thốt lên câu nói để đời “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình”, nghĩa là không có tiên tri nào được đón nhận nơi những người đã nhìn thấy tiên tri ấy sinh ra và lớn lên (x. Mc 6,4).
Cứ sự thường, khi người ta đã nghe biết những việc Chúa Giêsu làm, lẽ ra họ phải chào đón Người bằng tình yêu và lòng mến, hay hơn thế là hồ hởi lắng nghe lời Chúa Giêsu giảng dạy với lòng thán phục. Điều ngược lại là sự thật: “Họ sửng sốt về giáo lý của Người” (Mc 6,3). Những người đồng hương của Chúa “sửng sốt” vì sự khôn ngoan của Chúa, một loạt câu hỏi được đặt ra: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” Sự gần gũi, thân thiện gia đình, tình làng nghĩa xóm ấy làm cho họ ngạc nhiên. Từ ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan và lời nói thốt ra từ miệng Người, cũng như các phép lạ Người làm tại Galilê sang từ chối, khiến họ không nhận ra Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người ở giữa làng họ và họ “vấp phạm vì Người” (Mc 6, 3).
Thiên Chúa muốn làm người để cảm thông, thân thiện, chia sẻ thân phận hèn mọn của con người. Nhưng xót xa thay! Chính điều Thiên Chúa muốn gần con người lại là điều làm con người vấp phạm.
Thánh Bernard nói rất hay khi viết: “Con Thiên Chúa đã đến và làm những điều kỳ diệu trong thế giới này, Người xé nát tâm trí chúng ta từ tất cả những điều trên thế gian, để chúng ta suy niệm và không bao giờ ngừng ca tụng những kỳ quan của Chúa. Người mỡ cho chúng ta những chân trời vô tận và dòng sông ý tưởng tuyệt vời, dồi dào đến mức không bao giờ vơi cạn. Có ai hiểu lý do tại sao Đấng uy nghi tối thượng muốn chết để ban cho chúng ta sự sống, để phục vụ cho chúng ta, Người đã sống lưu vong để mang chúng ta trở về quê trời, Người đã hạ thấp bản thân mình, nhận lấy những điều hèn hạ và bình thường nhất để nâng con người chúng ta lên? “
Thời nào cũng thế, thế gian không ưa các tiên tri. Trong Cựu Ước, nhiều vị đã phải chết vì sứ vụ của mình. Như Giêrêmia, Dacaria và nhiều vị khác. Còn tiên tri Êlia chỉ nhờ chạy trốn mới có thể thoát chết. Chúa Giêsu cũng không đi ngoài qui luật ấy. Tuy nhiên, dù bị đe dọa, Chúa Giêsu không nao núng. Dù bị một số người khước từ, Lời của Chúa vẫn được loan truyền đi khắp nơi và không gì có thể ngăn cản Người được.
Chúng ta sống trong một thế giới bất tín và dửng dưng. Nhưng chính trong môi trường khước từ siêu nhiên như thế mà chúng ta được sai đến như các tiên tri của Chúa. Tiên tri là phát ngôn nhân, là người nói thay cho Thiên Chúa. Sứ vụ của tiên tri là loan báo Tin mừng và chứng nhân mang đến niềm hy vọng và các giá trị kitô giáo cho những nơi vắng bóng và thù địch với niềm tin kitô.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu dấn thân vào sứ vụ loan báo Tin mừng cho người nghèo khó mà Thiên Chúa Cha đã giao phó. Người đã đi vào một môi trường hòan toàn bất lợi và xung khắc với Người, nhưng Người đã không lùi bước, trái lại, Người đã trung thành cho đến giây phút cuối cùng. Còn chúng ta, vì đã được rửa tội và thêm sức, tất cả chúng ta được liên kết vào trong sứ vụ ấy. Và cũng như Người, có thể chúng ta sẽ gặp chống đối. Mang trong mình chứng từ của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, ngày nay, người kitô hữu dễ bị phê phán và bị chế nhạo, và phải đi ngược dòng với tâm tưởng của thế gian. Nhưng nếu chúng ta trung thành với Đức Kitô, thì không gì có thể tách rời chúng ta khỏi tình yêu của Người. Lời Người là lời mang lại sự Sống đời đời. Khi tiếp nhận Lời, chúng ta có thể giữ được niềm hy vọng trong ta.
Lạy Chúa, xin ban ơn can đảm cho chúng con, đễ dầu gặp khó khăn thử thách, chúng con vẫn nhất quyết đem Tin Mừng của Chúa đến với anh chị em chúng con. Amen.
74. Chúa Nhật 14 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
HỌ CỨNG LÒNG KHIẾN CHÚA NGẠC NHIÊN
Bị hiểu lầm hay bị từ chối là những điều khiến người ta phiền lòng. Êdêkien, ngay cả Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người cũng không đứng ngoài qui luật thường tình ấy. Là ngôn sứ thì dù ở hội đường, hay trong gia đình, cũng sẽ gặp khó khăn và có thể bị ruồng bỏ là kinh nghiệm của Chúa Giêsu và Êdêkien. Êdêkien được Chúa chọn, gọi làm ngôn sứ cho dân đi lưu đầy cùng với ông: “Ta sai ngươi đến để nói với những con cái dầy mặt cứng lòng… Hoặc chúng nghe, hoặc chúng không nghe, vì đây là bọn phản loạn” (Ed 2, 4-5). Chúa Giêsu về hội đường giảng dạy cho người đông hương cũng phát buồn và thốt lên câu nói để đời: “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình” (Mc 6, 4). Tại sao vậy?
Biết rõ
Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại sự lúng túng của dân thành Nagiarét trước Chúa Giêsu người đồng hương của họ đi xa trở về nơi hội đường. Vì họ đã quá biết gia thế của Chúa Giêsu, biết rõ nên họ không đánh giá đúng về Người.
Có lẽ đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu trở về Nagiarét, sau khi đi thi hành sứ mạng công khai. Nagiarét là cái nôi của thời thơ ấu, thời niên thiếu của Chúa Giêsu. Nơi ấy có gia đình, bà con, thân bằng quyến thuộc, bạn bè, quê hương, bản quán, nên khi Chúa Giêsu trở về nhà họ biết ngay. Trong số họ có người đã từng thấy Chúa Giêsu được mẹ ẵm bế, như bao nhiêu trẻ em khác. Con cái họ và Chúa Giêsu đều học chung một lớp, cùng chơi và cười đùa với nhau. Cùng thảo luận những bài học về cái cửa, cái xà. Chúa Giêsu đã từng cầm cưa, bào, đục, và nhất là nói giọng nói miền quê Nagiarét trong suốt 20 năm trời.
Lần trở về này nhằm ngày Sabát, Chúa vào hội đường, dân làng đón tiếp Chúa rất vui vẻ. Tại đây, Chúa bắt đầu giảng dạy: “Nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy?” (Mc 6, 2). Nói xong bỗng nhiên thái độ của họ đổi hẳn vì những cái đã biết về Người. Sự gần gũi, thân thiện gia đình, tình làng nghĩa xóm ấy làm cho họ ngạc nhiên. Từ ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan và lời nói thốt ra từ miệng Người, cũng như các phép lạ Người làm tại Galilê sang từ chối, khiến họ không nhận ra Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người ở giữa làng họ và họ “vấp phạm vì Người” (Mc 6, 3).
Đã nhiều năm qua, gia đình Chúa Giêsu đã để lại những ấn tượng tốt về Người. Trước sự ngạc nhiên và từ chối của dân thánh Nagiarét, cũng như sự thiếu lòng tin của họ, Chúa Giêsu đã buông lời thở dài: “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình!” (Mc 6, 4). Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha Đấng tạo dựng thế gian nhưng thế gian đã không tiếp nhận Người.
Không được đánh giá đúng
Chúa Giêsu buồn vì thành kiến của đông hương về lý lịch của Chúa: cha mẹ, gia đình và nghề nghiệp: “Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” (Mc 6, 3). Họ không thể đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa làm người.
Ông là ai? Là câu hỏi được đặt ra trong toàn bộ Tin Mừng Marcô. (1, 24 và 25 – 1, 27 – 1, 34 – 4, 41 – 6, 14 và 15). Căn tính bí ẩn này là gì? Trên đường hành trình với các môn đệ từ Xêsarê đến Philiphê Chúa hỏi các ông “Phần anh em, anh em bảo Thầy là ai? “
Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật
Ngày hôm nay, Thiên Chúa cần có câu trả lời từ phía con người đang tìm kiếm ý nghĩa của Lời Chúa và bước vào cuộc đối thoại với Chúa. Người thợ mộc thành Gagiarét là Thiên Chúa thật và là Người thật, Người là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta, là Lời Chân lý dẫn đến Sự Sống đời đời. Hãy biết nhận ra Chúa, đừng để Chúa đi qua. Mẹ Maria hòa mình vào đám đông để chiếm ngắm và lắng nghe người ta nói về con Mẹ: “Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria!” (Mc 6, 3) Con bà Maria và là Con Thiên Chúa, đó Bí Mật Tình Yêu của Thiên Chúa, Người bước vào đời sống công khai bằng con đường khiêm tốn và nghèo khó. Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin, và buồn vì họ không chấp nhận bất cứ sự gì đến từ Người. Nghĩa xác thực được thánh Marcô sử dụng ở đây theo tiếng Hy lạp, không phải Chúa Giêsu mong đợi người đồng hương tin vào Thiên Chúa, nhưng là mong đợi phần lớn những người Nagiarét: tin vào Người.
Tin Đức Giêsu là Thiên Chúa
Ngày hôm nay có người nói rằng: Nếu chúng ta sống vào thời các tông đồ, và chứng kiến Chúa Giêsu như họ, chắc chúng ta cũng giống họ”. Họ biết quê hương mình có người tên là Giêsu nhưng không biết người đang nói với họ là Chúa Giêsu, Chúa Cả trời đất…… Thực tế ngày hôm nay khác với ngày xa xưa ấy, vì nhiều người hạnh phúc hơn, tin tưởng vào những điều đã đã nghe và đã thấy.
Vì, quả thật, ở giữa những người ẫu trĩ có một người khiêm nhường; là Thiên Chúa thật đến dạy dỗ chúng dân. Người đến với những thu thuế và tội lỗi, đồng bàn ăn uống với họ (Mt 9,11); Vì thế, có người miệt thị nói rằng: “Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?” (Mc 6,3; Ga 6,42) Nhưng Chúa Giêsu vần là Thiên Chúa thật và là người thật, các vua chúa trần gian phải phụng thời Người… Người hoàn toàn là con người như chúng ta: ăn, uống, ngủ, nghỉ, đổ mồ hôi và mệt mỏi như chúng ta, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Người được gìn giữ khỏi hư nát và khỏi chết giữa muôn người. Giờ đây Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha (Mc 16,19), không gì có thể tách Người với Chúa Cha…
Thật là kỳ diệu, để có thể nhận biết và tin rằng một người thế là Thiên Chúa, Đấng tạo thành trời đất và mọi sự trên trời dưới đất… Vì thế, hàng ngày chúng ta nghe Chúa Giêsu thông truyền thánh ý Chúa Cha qua các tác giả Tin Mừng, chúng ta phải vâng nghe, tuân giữ các giới răn của Người và tin vào Người.
Lạy Chúa Giêsu, con tin Chúa là Thiên Chúa thật và là người thật, là Đấng cứu độ chúng con. Amen.
75. Sứ mạng của tiên tri
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Đức Giêsu Kitô là sứ giả của Chúa Cha, Ngài đến đem Tin mừng và ơn cứu độ cho nhân loại. Sứ mạng đó không được kết thúc ở nơi Ngài mà còn tiếp tục mãi trong trần gian. Vào buổi sáng Thăng Thiên, qua con người của các Tông đồ, Đức Giêsu đã trao phó cho Hội thánh tiếp tục sứ mạng của Ngài cho đến tận thế.
Thi hành sứ mạng rao giảng Tin mừng không phải là chuyện dễ. Chính Đức Giêsu đã tiết lộ cho chúng ta những khó khăn sẽ gặp phải trên bước đường truyền giáo: Ngài đã bị người đồng hương chối bỏ, không chấp nhận sứ mạng Cứu thế của Ngài và còn ghen tị định tâm giết Ngài nữa (x. Lc 48,28-30). Chính vì thế, Ngài kết luận:”Không một tiên tri nào mà không bị khinh dể ở quê hương, gia đình họ hàng mình”(Mc 6,4).
Sở dĩ người đồng hương không chấp nhận Đức Giêsu vì họ có thành kiến nặng nề về con người và gia cảnh của Ngài, đúng là “Bụt nhà không thiêng”. Ngày nay, những người thi hành sứ mạng tiên tri không thể thoát khỏi cái công lệ đó. Họ phải theo gương tiên tri Ezéchiel (bài đọc 1) mà thi hành sứ mạng của mình trong kiên nhẫn, chịu đựng và tin tưởng.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Ed 2, 2-5.
Ezéchiel nói về sứ mạng tiên tri của mình. Ông chỉ là một con người như tất cả mọi người, một con người đơn giản, nhưng được gọi để tuyên sấm lời Chúa cho dân của Ngài, một dân tộc bất tuân đã chống lại Chúa. Đã nhiều lần, Chúa báo cho dân Israel biết rằng: nếu họ cứ cố chấp trong sự bất tuân, họ sẽ bị phạt. Lời răn đe đó đã bị bỏ ngoài tai, chứng nào tật ấy, nên họ đã bị lưu đầy ở Babylon. Ezéchiel cũng đồng chịu số phận của những kẻ lưu đầy.
Trong hoàn cảnh bi đát đó, Thiên Chúa đã trao cho Ezéchiel nhiệm vụ cảnh tỉnh dân chúng, làm cho họ nhận biết tội lỗi và sám hối. Ông phải đương đầu với một dân tộc phản loạn từ nhiều thế kỷ. Đối thủ của ông thì hùng mạnh trong khi đó ông biết thân phận hèn yếu của mình, phương tiện rất nghèo nàn ; tuy thế, ông không do dự nhận lấy trách nhiệm nặng nề ấy.
+ Bài đọc 2: 2Cr 12,7-10.
Thánh Phaolô thành thực chia sẻ tâm tình với chúng ta: Ngài là một Tông đồ sinh sau đẻ muộn, từ một người bách hại đạo Chúa, lại trở nên một Tông đồ nhiệt thành rao giảng đạo ấy. Mặc dầu Ngài đã được Chúa ban cho những ơn mạc khải phi thường như con người đã lên tới tầng trời thứ ba, nhưng Ngài không dám tự cao tự đại về hồng ân ấy.
Để hạ mình trước sự yếu đuối của ông, Chúa để cho cái “dằm” đâm vào thân xác ông (2Cr 12,7). Các chuyên viên Thánh Kinh đang tìm hiểu cái “dằm” này là gì? Dù chúng ta chưa xác định được cụ thể, nhưng có thể hiểu đó là những sự yếu đuối của Phaolô, hay mối thù địch của những anh em giả mạo. Cũng có thể hiểu được đây là một căn bệnh đang hoành hành thân xác Ngài.
Chính vì ý thức được sự yếu đuối của mình, nhiều lần Ngài đã muốn nản lòng, xin Chúa cất cái dằm ấy đi, nhưng Chúa yên ủi và bảo đảm cho Ngài:”Ơn Ta đã đủ cho con”. Do đó, Ngài lấy lại được sức mạnh và hăng say rao giảng Tin mừng với ý thức rằng “Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh mẽ”.
+ Bài Tin mừng: Mc 6,1-6.
Từ Naazareth đi rao giảng Tin mừng ở nơi xa, thỉnh thoảng Đức Giêsu trở về thăm quê hương, và ngày Sabbat Ngài cũng vào cầu nguyện tại hội đường. Đọc Lời Chúa như mọi người, nhưng qua bài Thánh Kinh, Ngài cũng được mời cắt nghĩa bài đọc đó và giải thích rằng:”Ngài chính là Đấng Messia mà toàn dân đang mong đợi”.
Ban đầu, người dân làng Nazareth thán phục về những phép lạ Ngài đã làm khắp nơi và những lời giảng dạy rất khôn ngoan và đầy thế giá của Ngài, nhưng khi nhớ đến nguồn gốc tầm thường của Ngài, họ thắc mắc và không tin Ngài nữa. Tại sao? Ngài chỉ là một người thợ mộc tầm thường, cha mẹ và anh em Ngài là những người hàng xóm quen thuộc đang ở với họ. Ông Giêsu trước đây cũng chỉ là một người tầm thường có gì đặc biệt đâu, sao bây giờ lại được khôn ngoan như vậy? Tuy thế, theo như tục ngữ đã nói “Bụt nhà không thiêng” nên họ không tin nhận Ngài nữa.
Vì vậy, Đức Giêsu kết luận:”Tiên tri có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mà thôi”(Mc 6,5). Chính vì thái độ cứng lòng ấy, nên ở Nazareth, Đức Giêsu không làm nhiều phép lạ.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Bụt nhà không thiêng.
I. ĐỨC GIÊSU TRỞ VỀ NAZARETH.
1. Cuộc viếng thăm mục vụ.
Đức Giêsu rời bỏ quê hương Nazareth đi rao giảng Tin mừng và chọn Capharnaum làm trung tâm truyền giáo. Tại nơi đây và nhiều nơi khác, Đức Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ như dẹp yên bão tố, chữa người bị qủi ám, chữa lành các chứng bệnh nan y, làm cho kẻ chết sống lại… Danh tiếng Ngài đã vang dội khắp nơi. Nhưng Ngài cũng không quên xứ sở của mình, Ngài cũng trở về thăm quê hương Nazareth. Đây là lần thứ hai Ngài trở về Nazareth (Lần thứ nhất: Lc 4,16-30).
Ngài không có ý trở về quê quán với tính cách riêng tư cốt chỉ thăm lại ngôi nhà và những người thân cũ. Ngài trở về với các môn đệ của mình, nghĩa là Ngài về quê với tư cách một rabbi. Các rabbi vẫn đi đây đó trong xứ với nhóm môn đệ nhỏ của mình. Với tư cách giảng sư, Đức Giêsu đã trở về Nazareth với các môn đệ.
2. Tại hội đường Nazareth.
Theo thông lệ, ngày sabbat dân làng đến hội đường nghe đọc Sách Thánh và hát Thánh vịnh từ 9 đến 12 giờ trưa. Đức Giêsu và các môn đệ cũng đến hội đường cầu nguyện với dân làng. Đọc Sách Luật và Thánh vịnh xong, ông trưởng hội đường mời một vị có thế giá và hiểu biết về Thánh Kinh lên giải nghĩa bài đọc.
Đức Giêsu cũng được mời lên đăng đàn. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt của Ngài luôn tỏ ra nét dịu hiền mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng điệu tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn, ý tứ Ngài trình bầy đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Ngài trình bầy một cách khôn ngoan và giọng nói như của Đấng có uy quyền, làm cho họ ngạc nhiên, thì thầm với nhau:”Bởi đâu ông ta được như thế? Sao ông ta khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế, nghĩa là gì”(Mc 6,2). Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu ở đâu? Họ muốn tìm về nguồn gốc của Ngài.
3. Phản ứng của dân làng Nazareth.
Trước những lời giảng dạy khôn ngoan và hấp dẫn, cùng với những phép lạ đã làm, Đức Giêsu đã làm cho dân làng Nazareth có nhiều phản ứng khác nhau, và chúng ta có thể gồm tóm những phản ứng ấy trong ba chữ:
a) Tín nhiệm.
Từ Nazareth người ta đã nghe đồn thổi về Ngài rất nhiều, nghe đồn về những phép lạ Ngài đã làm khắp đó đây. Hôm nay, tại hội đường, họ đã trực tiếp được nghe Ngài giảng. Trước đây nghe lời đồn thổi họ đã ngạc nhiên, bây giờ họ càng ngạc nhiên hơn:”Mọi người làm chứng cho Ngài và họ thán phục về ân sủng xuất bởi miệng Ngài”(Lc 4,22).
Những điều trên đây cho ta thấy khi Đức Giêsu trở lại Nazareth, những cảm nghĩ của họ hầu hết là tín nhiệm Ngài.
b) Hoài nghi.
Họ muốn tìm về nguồn gốc của Ngài. Mọi người đều biết mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giôsê, Giuđa và Simon. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nazareth này, một thôn ấp nhỏ bé có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông lại là anh thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, đóng bàn sửa ghế, đóng giường tủ, đục đẽo cầy bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ ông ấy nói năng, làm được việc gì lạ đâu? Ông bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi chóng thế?
c) Thất bại.
Đáng lẽ những phép lạ Đức Giêsu đã làm ở những nơi khác cộng với sự rao giảng đầy thuyết phục của Ngài khiến cho dân làng Nazareth phải tin nhận Ngài, nhưng đàng này họ chỉ dựa vào nguồn gốc của Ngài, một nguồn gốc có vẻ tầm thường như họ thấy, nên họ nhìn sai lệch về con người của Ngài. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo cái dáng vẻ bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Vì thế,”họ bị vấp phạm vì Ngài”(Mc 6,3). Còn Ngài, Ngài âm thầm kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ:”Không ai là tiên tri cho xứ sở mình” vì người ta thường nói:”Gần chùa gọi bụt bằng anh”.
Trước sự cứng lòng tin kèm theo sự ghen tương với thành kiến cố hữu của họ, Đức Giêsu không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa lành vài bệnh nhân. Phép lạ đòi hỏi phải có lòng tin, mà phép lạ chỉ là phần thưởng cho lòng tin ấy. Sự cứng lòng của con người như thánh Matthêu nói rõ (Mt 13,58) làm tê liệt phần nào quyền làm phép lạ của Ngài.
II. CĂN BỆNH THÀNH KIẾN.
Theo ông Đào duy Anh, Thành kiến là ý kiến cố chấp không thể lay động được. Khi đã có ý kiến tốt hay xấu về một người hay một vật gì thì khó lòng có thể thay đổi được. Thành kiến thay đổi sự thật của sự vật, không còn như nó có. Thành kiến đã bóp méo sự thật , giống như người đeo kính xanh thì vật gì cũng xanh, đeo kính đỏ thì vật gì cũng đỏ.
Người ta có thể nhìn sự vật với ba thái độ, đó là yêu, ghét hay dửng dưng. Nhưng thường thì chúng ta ít khi có thái độ dửng dưng, trung lập, mà thường là nghiêng về một phía yêu hay ghét. Chính thái độ yêu hay ghét này làm cho ta nhìn sự vật khác nhau:”Yêu nên tốt, ghét nên xấu” (tục ngữ). Khi yêu thì thì coi mọi cái đều đẹp đều tốt, khi ghét thì thấy mọi cái là xấu:”Yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng”.
Truyện: Thi sĩ R. Tagore.
R.Tagore là một thi sĩ nổi tiếng của Ấn độ và cả Đông phương nữa. Ông có khiếu làm thơ ngay lúc còn thơ ấu.
Một hôm, cậu bé Tagore làm một bài thơ và đưa lên cho cha xem. Ông thân sinh lắc đầu chê:
– Thơ mày là thơ thẩn!
Tagore mới nghĩ ra một mưu: cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và chua xuất xứ là trích sao trong một cuốn thơ cổ. Cậu ta lại không quên đề tên cuốn thơ cổ ấy cẩn thận.
Lần này, ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen:”Tuyệt, tuyệt”. Rồi đem khoe tíu tít với đứa con trai lớn của ông, hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Ông nói:
– Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này.
Ông con trai chủ nhiệm đọc xong cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen là hay đáo để, và muốn trích đăng lên mặt tờ báo văn học của ông.
Bấy giờ ông anh cũng như ông thân sinh đòi Tagore phải đưa cuốn thơ cổ kia ra đối chiếu chứng minh và cũng để dễ bề chua xuất xứ trong khi đăng.
Đến đây câu truyện mới vỡ lở ra. Có ai ngờ trên đây là một cuộc dàn cảnh bịa đặt của thằng bé Tagore! Ông thân sinh giận sôi máu lên, nhưng rồi cũng phải nhìn con với cặp mắt thán phục và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình xưa nay.
(Vũ minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 333-335)
Qua kinh nghiệm hằng ngày, chúng ta phải công nhận rằng Thành kiến là một căn bệnh phổ quát chung cho mọi người. Thành kiến là chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài nguời, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bề ngoài mà đánh giá thiên hạ.
Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm, mà do người này thì có giá trị, do người kia thì vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở ẹc ra. Người có danh tiếng thì lời nói việc làm nào cũng được coi như vàng ngọc. Người vô danh tiểu tốt thì lời có đẹp như trăng sao, việc có hay như thần thánh, cũng bị thành kiến dìm xuống đến tận bùn đen. Vì thế, Đức Giêsu đã nói:”Không tiên tri nào lại được trọng đãi nơi quê hương mình (Ga 4,44).
Thành kiến làm cho bụt nhà không thiêng, thích những cái lạ; thích gì thì phóng đại tô mầu, ghét thì cũng thế. Nhiều khi lý luận một chiều sai lệch, cái vô lý ngớ ngẩn cũng cho là hay là đẹp, hoặc không hiểu gì cũng cho là hay. Sống hoàn toàn theo dư luận, theo cách của người đời, không dám vượt trên dư luận sai lạc, vượt trên những phán đoán thiên lệch. Ví dụ các bà , các cô tin theo thầy bói thì cái gì thầy nói ra cũng đúng, cũng hay, coi như lời sấm, như thánh phán. Ví dụ:
Số cô không giầu thì nghèo,
Ba mươi Tết có thịt heo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha,
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.
Các bà các cô sẽ phải kính cẩn thốt lên:”Thánh phán. Tuyệt! Tuyệt”!
III. BỤT NHÀ KHÔNG THIÊNG.
1. Đức Giêsu bị rẻ rúng nơi quê hương.
Dân làng Nazareth không thể chấp nhận một người mà họ đã quen biết: thân thế tầm thường, gia đình nghèo nàn, họ hàng chẳng có danh giá gì. Biết rõ như thế thì làm sao người đó có thể là vị Cứu tinh, là Đấng Cứu thế, là Đấng giải thoát cho dân tộc mình được? Quả thực, họ đã bị thành kiến về giầu nghèo, về giai cấp trong xã hội làm mù quáng, không thể nhận ra bản tính Thiên Chúa, nhận ra sứ mạng cứu chuộc nơi con người Đức Giêsu. Từ thành kiến sai lầm đó họ đâm ra hoài nghi và yêu cầu Ngài làm phép lạ như đã làm những nơi khác.
Trước sự cứng lòng và khinh thường của dân Nazareth, Đức Giêsu chẳng biết làm gì hơn ngoài việc đưa ra nhận xét chua cay:”Tiên tri có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4). Dân làng Nazareth không tin Chúa thì cũng vì họ đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo vào trong những định kiến hẹp hòi có sẵn của họ. Đấng Cứu thế phải hiện nguyên hình như định kiến của họ, nghĩa là Đấng Cứu thế phải có đầy quyền lực theo nghĩa thế gian, họ không thể tin nhận được một Đấng Cứu thế như một con người đơn sơ khiêm hạ như họ thấy được.
2. Các tiên tri cũng bị khinh dể.
Trong Tin mừng thánh Luca, Đức Giêsu nhắc đến hai vị tiên tri đã không làm phép lạ ở quê nhà được mà lại làm phép lạ ở dân ngoại:”Và Ta bảo thật các ngươi: có nhiều bà goá tại Israel thời tiên tri Êlia, khi trời khoá lại ba năm sáu tháng, và xẩy ra nạn đói lớn trong toàn xứ, song Êlia không được sai đến với một bà nào trong họ, mà lại đến với bà góa tại Sarepta thuộc hạt Sidon. Cũng có nhiều người phong hủi đời tiên tri Êlisê, song không người nào trong họ được lành sạch cả, trừ phi là Naaman người Syria”(Lc 4, 26-27). Tiên tri Êlisê đã làm nhiều sự lạ ở Guilgal mà không làm được ở quê nhà (2V 4,1-29t). Sự thật và thường tình, tiên tri không được tôn trọng nơi quê nhà.
3. Những tài năng bị coi thường.
Nhiều người có tài năng cao vời bị coi thường trước khi được chấp nhận. Chúng ta có thể đưa ra mấy trường hợp để làm chứng:
– Hồng y Fulton Sheen, một nhà thuyết giáo vĩ đại, đã từng bị giáo sư môn biện luận trường đại học chê:”Anh đúng là diễn giả tồi nhất mà tôi từng gặp”.
– Ernest Hamingway, một tiểu thuyết gia cự phách, đã từng bị các thầy giáo chê:”Hãy quên việc viết lách đi! Anh không đủ tài để làm việc đó đâu”.
– Richard Hooker, tác giả quyển sách nhan đề “Mash”, đã từng thấy quyển sách của ông bị đến 6 nhà xuất bản từ chối in để rồi cuối cùng quyển ấy đã trở thành một trong những quyển sách bán chạy nhất.
Thành kiến đã làm cho dân làng Nazareth phán đoán sai về Đức Giêsu. Họ đã không nhận ra Ngài là Đấng Cứu thế. Đối với chúng ta cũng vậy, thành kiến có thể làm cho chúng ta mù quáng, không nhận định và phê phán một cách khách quan đúng đắn được. Thành kiến làm cho chúng ta không thể đối thoại , cởi mở với người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người khác.
Mc Kenzie nói:”Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người ghen tị thì nhìn bằng kính hiển vi”.
4. Số phận người rao giảng Tin mừng.
Cho dù Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Ngài có thể làm được mọi sự, nhưng Ngài phải bó tay trước sự cứng lòng của con người. Ngài đã trở nên bất lực trước những kẻ thiếu niềm tin. Và quả thật, “Ngài đã không làm được phép lạ nào” tại quê hương mình. Thế mới biết con người có khả năng ngăn cản Thiên Chúa, con người có toàn quyền từ chối quà tặng của Thiên Chúa.
Trên con đường truyền giáo, Đức Giêsu vẫn đem các môn đệ đi theo để huấn luyện các ông. Trong việc huấn luyện cũng cần thấy sự thất bại, chứ không phải chỉ nhìn thấy thành công. Sau này trên đường truyền giáo, sự thất bại không làm cho các ông nản lòng.
Các người rao giảng Tin mừng hãy bắt chước Đức Giêsu mà đón nhận thái độ “Bụt nhà không thiêng” của những người được rao giảng. Họ có thể nghi kỵ, không ưa, hoặc chống đối chúng ta đi nữa, thì hãy vững tâm vì “chân lý sẽ thắng”. Ban đầu có thể gặp thất bại nhưng với thời gian người ta sẽ nhìn ra chân lý. Đức Giêsu đã thất bại khi còn sống nhưng đã thành công vẻ vang sau khi sống lại. Người Tông đồ cũng phải đi theo con đường ấy: phải kiên nhẫn chịu đựng, nhưng phải chịu đựng trong vui tươi với tình thương mến.
Truyện: Chú chồn Pepe LePew.
Cách đây nhiều năm, các rạp chiếu bóng thường chiếu phim hoạt hoạ. Có một bộ phim được nhiều người ưa thích tên là Looney Tunes. Một vai được nhiều người hâm mộ trong phim là chú chồn lãng mạn tên là Pepe LePew. Pepe luôn luôn yêu mến mọi người nhưng vì chú có mùi hôi, nên mọi người đều từ chối tình thương của chú. Nhưng Pepe không nản lòng. Chú vẫn tiếp tục yêu thương dù có bị từ chối nhiều lần. Pepe không bao giờ từ chối yêu thương bất cứ một ai. Đó chính là lý do tại sao rất nhiều người coi phim này càng quí mến Pepe (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật năm B, tr 264).
Chúng ta thấy Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta về tình yêu thương. Ngài không khước từ ai bao giờ. Ngài vẫn tiếp tục yêu thương dù biết bao lần Ngài đã bị từ chối. Chú chồn Pepe trong phim quả rất giống Chúa Giêsu. Đây là bài học cho chúng ta rút ra được từ các bài đọc hôm nay. Chúng ta phải bắt chước cách xử sự của Đức Giêsu, chúng ta có thể bắt chước chú chồn Pepe mà yêu thương mọi người dù có bị chối từ bao nhiêu lần đi nữa.
Tóm lại, các bài đọc hôm nay dạy chúng ta hai điều: Trước hết, chúng có thể tin chắc rằng chúng ta sẽ nhiều lần bị người khác khước từ phản đối giống như Đức Giêsu đã từng bị trong đời Ngài. Tuy nhiên, chúng ta cứ tiếp tục yêu thương giống như Đức Giêsu. Dù bị khước từ Ngài vẫn không ngừng ban phát tình yêu của Ngài cho nhân loại.
76. Chúa Nhật 14 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Chris Collins, SJ. – Chuyển ngữ: JB. Đào Ngọc Điệp)
ĐƯỢC MỞ RA ĐỂ ĐÓN NHẬN NGÔI LỜI ĐƯỢC HÓA THÀNH XÁC PHÀM TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Trong truyền thống Do Thái và Kytô giáo, một trong những hình ảnh mạnh mẽ nhất được sử dụng giúp chúng ta hiểu được mối quan hệ giữa Thiên Chúa với dân Người là Thiên Chúa ban Lời Người cho chúng ta theo cách gây hiệu quả có hệ thống. Lời Chúa thường được ví như hạt giống gieo vào đất. Dĩ nhiên chính Chúa Giê-su đã sử dụng “Dụ ngôn về người gieo giống”. Người gieo giống hăng say gieo hạt. Người ấy không dè sẻn hạt giống vì nguồn cung cấp vô hạn. Nhưng việc gieo giống phụ thuộc rất nhiều vào phẩm chất của đất, liệu hạt giống đó có thể bén rễ xuống đất được không. Trên thực tế, sự thiếu khả năng tiếp nhận lắng nghe Lời Chúa của Dân Chúa là một nét đặc trưng trong phần lớn lịch sử ơn cứu độ. Con người thiếu khả năng tiếp nhận, trái tim chai đá. Đất mà hạt giống Lời Chúa được gieo xuống thường quá khô cằn và nhiều sỏi đá, nên không gì có thể mọc lên được. Khi Thiên Chúa sai các ngôn sứ ra đi, họ nhận ra ngay những gì họ phải đương đầu. Trường hợp Ê-dê-ki-en, trong bài đọc 1 phụng vụ hôm nay, Chúa cảnh cáo kẻ Người ra lệnh hãy công bố Lời Người. “Những đứa con mặt dầy mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai người đến với chúng… Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này’. Hoặc chúng nghe, hoặc chúng không nghe, vì đây là bọn phản loạn, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng “. Ngay cả khi đất có nhiều sỏi đá, và dường như không thể tiếp nhận hạt giống Lời Chúa, thì người gieo vẫn tiếp tục gieo hạt.
Bằng cách này hay cách khác, ý của Chúa là Lời Người phải được lắng nghe, hạt giống Lời Chúa phải đâm rễ để sinh hoa kết trái. Nhưng cách duy nhất để điều này có thể xảy ra, là nếu đất được mở ra, có một vết nứt trên bề mặt chai đá của trái tim con người, để hạt giống có thể lọt vào, được bao phủ và bắt đầu mọc lên. Thánh Phao-lô nói về thực tại này bằng ngôn từ trực tiếp hơn trong các bài đọc hôm nay. Ngài lưu ý, ” sức mạnh được tỏ bày trong sự yếu đuối.” Theo cái nhìn của Đức Kytô, Thiên Chúa rất khác biệt, và sự hoàn hảo của con người cũng vậy. Quyền lực và sự thành công không phải do những gì chúng ta nghĩ là sức mạnh, những gì được coi là khả năng cá nhân để tự mình đảm đương mọi việc. Khi chúng ta nhìn vào con người Chúa Giê-su, điều tưởng chừng như yếu đuối lại trở thành sức mạnh. Điều tưởng như thất bại trên thập giá lại là chiến thắng. Đó chính là sự thể hiện đầy đủ quyền năng của Thiên Chúa. Bởi vì cội nguồn sức mạnh của Thiên Chúa là tình yêu và chỉ có thế.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy có sự lẫn lộn. Trong lúc dân chúng lắng nghe Chúa Giê-su đang rao giảng với uy quyền, thì người ta đặt một câu hỏi: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria…” Nhưng ngược lại, người rao giảng không gây được ấn tượng lại đang nói những lời đầy uy quyền cao cả và sức mạnh lớn lao. Chính vì dáng vẻ bề ngoài thiếu đạo mạo của người nói, nên nhiều kẻ đã “vấp phạm vì Người.” Đồng thời, đám đông dân chúng vừa tẩy chay Chúa Giêsu lại vừa bị Người đe dọa.
Do dân chúng bối rối và lừng khừng không muốn đón nhận lời của Chúa Giê-su, nên “ Ở đó Người không làm phép lạ nào được,…” Chỉ những người thiếu thốn mới nhận được những gì Người đã ban phát. Còn những kẻ cố chấp sẽ không nhận được gì cả. Dường như đây là cốt lõi của lời mời gọi chúng ta trong phụng vụ hôm nay, đặc biệt lúc này khi chúng ta đến để lắng nghe Lời Chúa. Nếu chúng ta lắng nghe bằng đôi tai tâm hồn rộng mở, thì tâm hồn chúng ta được chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận trọn vẹn Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm trong Bí tích Thánh Thể. Lời hy vọng của Thiên Chúa trở thành hành động yêu thương của Thiên Chúa. Chúng ta chỉ cần nhận biết niềm hy vọng của chúng ta và tình yêu chỉ có Chúa mới có thể ban cho, tiến đến với đôi tay và trái tim rộng mở để nói với Chúa trong tâm tình biết ơn sâu xa. “A-men”.
Nguồn: The Homiletic & Pastoral Review – (hprweb.com)
77. Người đã không thể
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Mc 6:1-6: 1Đức Giêsu ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. 2Đến ngày sabbát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? 3 Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Và họ vấp ngã vì Người. 4 Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” 5 Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. 6 Người lấy làm lạ vì họ không tin.
Câu chuyện xảy ra ở nguyên quán của Chúa Giêsu (6:1-6a) kết thúc đoạn khá dài nói về những việc quyền năng Người đã làm ở Galilêa (3:7-6:6a). Ở nguyên quán dân chúng đã khước từ Người, nên Người đã không làm phép lạ tại đó. Cấu trúc của đoạn: 1- Chúa Giêsu về quê quán với các môn đệ (6:1-2a); 2- Phản ứng của dân chúng tại đó (6:2b-3); 3- Thái độ của Người trước phản ứng của dân chúng (6:4-6a).
Về lại nguyên quán Nazaréth là sáng kiến riêng tư của Chúa Giêsu. Người “ra khỏi đó”, nghĩa là tách mình khỏi những hoạt động trước đó (4:1-5:43), và tìm đến những người bà con thân thuộc trước đây đã đến tìm Người, và Người đã để họ đứng bên ngoài (3:21.31-35). Như các lần trước, các môn đệ luôn đi với Người để chứng kiến và học hỏi những điều sẽ xảy ra (c. 1). Như lúc khởi đầu, Người vào hội đường ngày sabbát để giảng dạy (cc. 2; 1:21-22.27b; 11:18). Phản ứng đầu tiên của dân chúng trong cả hai trình thuật là họ đầy kinh ngạc bởi giáo huấn của Người. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa chúng là trong khi dân chúng ở buổi khởi đầu nhận ra quyền năng của Người trổi vượt mà họ không tìm thấy nơi các biệt phái, dân chúng ở nguyên quán của Người lại đặt vấn đề về bản chất và nguồn gốc của giáo huấn và những việc quyền năng của Người, dựa trên quan hệ dòng tộc trần thế của Người. Họ chỉ biết “Người nầy” là con của bà Maria, anh em của Giacôbê,…. Chừng ấy thôi và không biết gì hơn (cc. 2b-3). Chính sự giới hạn trong nhận thức về Người bằng đức tin đã đóng lòng họ lại trước con người và sứ mạng của Người (x. 7:15). Cũng với một thái độ ấy các thành phần trong hội đồng do thái đã hỏi Chúa Giêsu sau nầy: “Ông lấy quyền nào mà làm việc đó? hay ai đã ban cho ông quyền để làm việc đó?” (11:28; 3:22-23). Như thế, “họ vấp ngã về Người” nghĩa là họ không nhận ra quyền năng Thiên Chúa nơi giáo huấn và công việc Người; nên họ cũng không tin Người là Đấng được Thiên Chúa gởi đến.
Trước phản ứng thiếu lòng tin của dân chúng ở quê quán Người, Marcô ghi nhận là Chúa Giêsu không thể làm phép lạ nào cả (c. 5). Điều nầy xem ra trái nghịch với những điều quyền năng của Người vừa được tường thuật trong đoạn trước (4:1-5:43). Người có thể làm được tất cả nếu Người muốn (x. 1:40; 8:4; 9:22; 15:31). Tuy nhiên, có một điều Người không thể làm là áp đặt lòng tin của những người không muốn tin vào Người. Phép lạ chỉ được thực hiện để dẫn đến lòng tin; nên nếu không có đức tin, Người không thể làm phép lạ (x. 4:40; 5:34; 5:36). Thái độ của dân chúng ở nguyên quán của Chúa Giêsu tương tự thái độ của những người ở vùng Gêrasa (5:17).
Sau một loạt tường thuật những giáo huấn và những việc quyền năng Chúa Giêsu đã làm, sự không thành công ngay tại quê quán tạo nên một tương phản và gây ấn tượng mạnh, ngay cả cho Người, là rất khó chinh phục con người cho Thiên Chúa.
78. Chúa Giêsu bị khước từ
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Ngôn sứ bị rẻ rúng
Chúa GIêsu nói: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc trong gia đình mình mà thôi” (Mc.6,4).
Thế vận hội phát xuất từ những môn chơi của Hy lạp diễn ra trên vùng thảo nguyên Olympia vào năm 716 trước công nguyên. Những thị trấn cổ thường tỏ lòng kính trọng những người chiến thắng bằng việc dựng lên những tượng đài danh dự. Có câu chuyện Hy lạp kể về một thị trấn có truyền thống kính trọng vị anh hùng ở địa phương mình. Đối thủ của vị anh hùng ganh tỵ đến nỗi một đêm đập phá và xô đổ bức tượng. Bức tượng đổ xuống và đè anh ta chết.
Câu chuyện nói lên thảm kịch của lòng ghen tỵ dẫn đến “gậy ông đập lưng ông”. Sự lây nhiễm của ghen tỵ là một trong những nguyên nhân khiến các tiên tri thường không được kính trọng ở quê hương mình.
Ghen tỵ là nhân tố đã ảnh hưởng thế nào đến cuộc sống và công việc của tôi? Tôi có thể làm gì giảm đi ảnh hưởng của nó?
“Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính. Còn người ganh tỵ nhìn bằng kính hiển vi” (E.C.Mckenzie) (Trích “Viễn tượng 2000”).
2. Có tin mới thấy
Tại một vùng ở Pháp, dân chúng có tập tục rất lạ. Mỗi sáng sớm Chúa nhật Phục sinh hằng năm, họ thức dậy chạy ra giếng nước, rửa mặt bằng nước lạnh.
Nhiều người trẻ không biết tại sao phải rửa mặt ngoài giếng, vì nhà nào cũng có vòi nước. Các bô lão giải thích:
– Đó là cách cầu nguyện bằng hành động, xin Chúa ban cho đôi mắt đức tin mới, để được thấy Chúa Giêsu Phục sinh hiện diện giữa họ.
***
Với con mắt thành kiến, hẹp hỏi thiển cận, những kẻ đồng hương với Chúa Giêsu không nhận ra Người là ngôn sứ, là Đấng Cứu Thế.
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ: Chính thành kiến và lòng ganh tỵ là nguyên nhân khiến “các ngôn sứ bị rẻ rúng” E.C. Mc Kenzie có nói: “Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính. Còn kẻ ganh tỵ nhìn bằng kính hiển vi”.
Người đồng hương của Chúa Giêsu không tin Người vì họ chỉ nhìn quá khứ của Người là một thợ mộc nghèo nàn. Vì không tin nên họ không thấy, không nhận ra Người là Đấng Cứu Chuộc họ. Do đó Người không thực hiện được phép lạ nào giúp họ. Họ đã bỏ mất một cơ hội ngàn vàng.
Thiên Chúa là Đấng toàn năng. Người làm được mọi sự. Nhưng Người phải bó tay trước sự cứng lòng của con người. Người trở nên bất lực trước những kẻ thiếu lòng tin, vì “đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám” (Dt.11,1-2) và James Woodbridge viết: “Đức tin là con mắt để nhìn thấy Chúa, là bàn tay để nắm lấy Ngài, là sức mạnh giúp ta tận hiến cho Ngài”.
“Nếu phép lạ là quà tặng của Thiên Chúa, cần được đón nhận với niềm tin, thì chính niềm tin là ân huệ của Ngài chỉ có thể nhận được với lời cầu nguyện. Cần cầu nguyện để có niềm tin. Nhà bác học kiêm triết gia Pascal đã nói: “Để có lòng tin, con người phải quỳ gối cầu xin” (Theo “Như Thầy đã yêu”).
3. Những kẻ bị khước từ
Một cuộc bách hại tôn giáo xảy ra tại Sudan thuộc Châu Phi năm 1960. Một sinh viên Công giáo da đen tên là Paride Taban lánh nạn sang Uranda. Trong thời gian ở đây, anh tu học làm Linh mục. Sau khi được thụ phong Linh mục Taban trở lại quê nhà, vì tình hình bắt đạo đã lắng dịu. Ngài được bề trên giao coi giáo xứ Palotaka, nhưng giáo dân không tin ngài thực sự là Linh mục. Vì từ trước đến nay chưa có Linh mục người da đen. Hơn nữa vì Linh mục Taban thuộc bộ lạc Madi cũng nghèo khổ như họ. Nhất là từ khi ngài giới thiệu cho họ những đổi thay của Công đông Vatican II, khiến họ càng nghi ngờ ngài là Linh mục giả. Nhưng ngài vẫn không buồn cũng chẳng nản. Ngài vẫn kiên nhẫn phục vụ họ, giúp đỡ họ. lo lắng cho họ. Sau cùng. Giáo dân cả xứ đạo Palotaka chẳng những tin tưởng chấp nhận mà còn hết lòng quý mến Ngài.
***
Câu chuyện Linh mục Taban là một minh họa thật rõ cho việc Chúa Giêsu bị người đồng hương khinh thường trong Tin mừng hôm nay. Họ kháo láo với nhau: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria… chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Nói thế cũng có nghĩa là ông ta nghèo nàm dốt nát, không thể chấp nhận là ngôn sứ của Thiên Chúa.
Chính vì thế mà họ từ khước Người, không tin Người là Đấng Thiên Chúa sai đến cứu giúp họ. Bởi thế, Chúa Giêsu không làm được phép lạ nào cho họ.
Nhưng rồi Chúa Giêsu có bỏ họ không? Không. Người vẫn thương họ. Dù bị khước từ, Người không ngừng ban phát tình yêu của Người cho họ. Chẳng những cho họ mà thôi, mà cho toàn thể nhân loại. Và kết quả là ngày nay đã có nhiều người tin nhận Người là Đấng Cứu Thế của họ.
Phải chăng đó là bài học Chúa Giêsu muốn gởi cho những kẻ đang làm môn đệ của Người?… (Theo “Sunday Homilies”).
4. Người thân từ khước
Đệ nhị thế chiến chấm dứt, một người lính trẻ biên thư về cho cha mẹ, báo tin ngày anh trở về.
– Thưa cha mẹ, con có người bạn đồng hành bị tàn phế. Chiến tranh đã cướp mất của anh một chân.
Người cha hồi âm:
– Con cứ mời bạn con về ở với chúng ta, vì xưởng của cha cũng sử dụng được người còn đủ hai tay.
Nhận được thư, anh lính trẻ biên thư cho cha cậu biết thêm:
– Thưa cha, anh bạn con chẳng những mất một chân mà cả hai tay nữa.
Người cha trả lời:
– Con ơi! Cha không thể nhận một người như thế.
Thế là người lính trẻ đó không trở về với cha mẹ được, vì chính anh là người tàn phế đó!…
***
“Chúa Giêsu đã đến nhà Người, nhưng người trong nhà không tiếp đón Người”.
Không phải người dưng kẻ lạ từ chối, nhưng chính là Người đồng hương đã khước từ Chúa Giêsu và cả chúng ta là con cái Người, môn đệ Người. Không còn đau xót nào bằng!…
Người lính trẻ trong câu chuyện trên nói lên nỗi đau xót đó của Đức Giêsu. Tin mừng hôm nay thuật lại Người về Nadarét quê hương của Người. Người giảng dạy họ, đem Tin mừng cứu rỗi cho họ, định làm nhiều phép lạ giúp họ, nhưng họ không chấp nhận Người, khước từ Người, không nghe Lời Người.
Từ hơn 2000 năm qua, Chúa Giêsu còn tiếp tục bị khước từ, qua các sứ giả của Người, qua những con người nghèo khổ bệnh tật.
Chúng ta có khước từ Người không? Có lần nào chúng ta xua đuổi Người không?… (Theo “Tất cả là hồng ân”).
5. Sẵn sàng tiếp nhận
Cậu David bỏ nhà đi bụi đời. Thời gian sau, cậu thấy khổ quá, nên viết thư về cha mẹ, xin tha cho cậu trở về:
– Thưa cha mẹ, vài ngày nữa con có dịp đi ngang nhà cha mẹ. Nếu cha mẹ bằng lòng nhận con trở lại, xin cha mẹ cột miếng vải trắng lên cây nhãn trước sân nhà.
Đúng như lời đã hẹn, hai ngày sau cậu lên xe trở về. Ngồi trên xe, đầu óc cậu cứ băn khoăn lo lắng, không biết cha mẹ cậu có cho trở về không? Cha mẹ có cột miếng cải trắng lên cây nhãn trước nhà chưa?… Càng gần đến nhà, trái tim cậu càng đập mạnh hồi hộp.
Lúc gần đến nhà, cậu không dám nhìn tới trước mặt, vì sợ không thấy miếng vải trắng cột trên cây nhãn thì khổ thân. Cậu nhờ người ngồi bên cạnh:
– Thưa ông, xin thương giúp cháu một việc: khi đến khúc quẹo trước đây, ông làm ơn nhìn phái tay phải, xem có miếng vải trắng nào cột trên cây nhãn không?
Lúc xe vừa quẹo, cậu liền hỏi:
– Thưa ông, ông có thấy miếng vải trắng nào không?
– Cậu ơi! Cành nhãn nào cũng có miếng vải trắng cả.
***
Tin mừng hôm nay thuật lại Chúa Giêsu về quê quán của Người, nhưng không được người đồng hương tin nhận, mà còn khinh chê từ khước. Ngược lại câu chuyện trên đây nói đến lòng Chúa đối với con người. Con người từ bỏ chối từ Chúa. Chúa vẫn thương họ, sẵn sàng tiếp nhận họ.
Dụ ngôn người cha nhân hậu với đứa con hoang đàng cũng như dụ ngôn đồng bạc bị mất và con chiên lạc là những dụ ngôn tuyệt hảo về lòng quảng đại nhân từ của Thiên Chúa.
“Thiên Chúa thương yêu chúng ta bằng một tình Cha vô cùng rộng lớn sâu đậm. Tình yêu ấy được thể hiện bằng muôn vàn cách thế khác nhau. Đặc biệt nhất là bằng sự tha thứ, tha thứ không điều kiện, tha thứ luôn mãi. Dù tội lỗi chúng ta có nặng nề đến đâu, nhiều đến bao nhiêu, Người cũng sẵn sàng tha thứ, miễn là chúng ta thành tâm sám hối, quay trở về với Người”
(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).
79. Chúa Nhật 14 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
NGÀI KHÔNG LÀM PHÉP LẠ NƠI QUÊ HƯƠNG!
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ! Hầu hết chúng ta đọc biết nhiều trình thuật kể lại việc Chúa Giê-su làm vô số phép lạ, nào là: cho kẻ chết sống lại, chữa lành bệnh phong hủi và các bệnh nhân, trừ quỷ, đồng thời dạy dân chúng biết bao điều về Thiên Chúa Cha, về Nước Trời, v.v…Tuy nhiên, Tin Mừng hôm nay cho thấy: khi Ngài trở về làng Na-da-rét, gặp gỡ đồng hương, họ hàng, làng xóm thân thuộc, Ngài không làm phép lạ nào cả! Thông thường, lúc ‘vinh quy bái tổ’ hay dịp trở về quê hương, ai mà chẳng muốn làm những điều tốt đẹp, tuyệt vời cho gia đình, họ hàng, làng xóm cơ chứ! Nhưng vì sao Đức Giê-su lại không làm dấu lạ nơi quê hương Ngài, chúng ta cùng nhau tìm hiểu qua một số gợi ý suy niệm sau.
Trước hết, chúng ta có thể khẳng định rằng: Chẳng phải Đức Giê-su không muốn hoặc không thể làm phép lạ chữa lành, giải thoát bà con đồng hương của mình khỏi đau khổ bệnh tật, như Ngài đã từng thực hiện những dấu lạ phi thường cho dân chúng ngoài làng mạc quê hương của Ngài. Hơn nữa, dân làng Na-da-rét có thể cũng đã được nghe đến tiếng tăm của Đức Giê-su; nhưng thật lạ lùng, họ chỉ ngạc nhiên sửng sốt về lời giảng huấn của Ngài, và chỉ dừng lại ở đấy “… nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Ngài, nên nói rằng: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Ngài làm được những sự lạ thể ấy?…” (x. Mc 6, 2), đến nỗi “…họ vấp phạm vì Ngài” (x. Mc 6, 3). Thế lí do gì mà Đức Giê-su không thực hiện những sự thể phi thường nơi quê hương mình?
Đọc thật kỹ đoạn Tin Mừng theo Thánh Mác-cô hôm nay, chúng ta sẽ thấy ngay sự cứng lòng tin của người làng Na-da-rét, “Ngài ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin” (Mc 6, 6). Họ không tín thác vào quyền năng của Đức Giê-su, mà có lẽ họ đã từng được chứng kiến đâu đó những việc phi thường và lời giảng dạy khôn ngoan của Ngài, hoặc cũng nghe về tiếng tăm của Ngài như một vị tiên tri, hay Đấng Cứu Độ rồi. Tuy nhiên, vì tâm hồn họ khép kín, chỉ dừng lại ở điểm ngạc nhiên, mà chưa vươn lên tìm hiểu, ra khỏi bản năng thành kiến trong cách nghĩ suy, trong tư tưởng của bản thân, nên họ chỉ thấy con người Giê-su ‘bình dân học vụ’ như bao nhiêu người đồng trang lứa thời đó mà thôi. Soi rọi vào đời sống đạo của mỗi người chúng ta, phần lớn tương tự như thế. Chúng ta khen tặng những lời giảng hay, sửng sốt, ngạc nhiên, tán thưởng câu chuyện biến đổi cuộc sống, các ơn lành lớn lao mà Chúa ban tặng cho chúng ta qua Giáo Hội, qua cộng đoàn, v.v…, nhưng nếu chỉ dừng lại ở điểm này, thì chúng ta cũng chẳng khác gì những người dân làng Na-da-rét. Hơn nữa, nghe giảng hay, chẳng ngần ngại chúc tụng, trầm trồ khen ngợi, nhưng tiếc thay chúng ta không sống, không chịu đào sâu Lời Chúa, vốn được thông truyền qua Giáo Hội, qua Thừa tác viên có chức Thánh. Thật sự tự hào là Ki-tô hữu, là người được trao ban đức tin, nhưng nếu đức tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất nhựa sống chờ ngày gãy đổ, thì chẳng khác gì thứ niềm tin mà cố Đức Hồng Y Phan-xi-cô, tác giả cuốn sách “Đường Hy Vọng” đã nhắc nhở: “Nhiều người nói tôi có đức tin, tôi còn đức tin, có lẽ đức tin của giấy khai sinh, không phải đức tin của đời sống. Ít người sống theo đức tin. Đừng bao giờ mãn nguyện với một đức tin lý thuyết, hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thực, thiết ái, và trung thành”.
Bởi lẽ ‘họ cứng lòng tin’, nên chắc hẳn họ không thể nào vượt ra khỏi lối suy nghĩ, cách nhận định mang tính định kiến như họ tự hỏi: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Ngài làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Ma-ri-a, anh em với Gia-cô-bê, Giu-se, Giu-đa và Si-mon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” (Mc 6, 2-3). Nói cách khác, họ cho rằng họ biết rõ thân thế, gia đình và họ hàng của Đức Giê-su, vốn chỉ là những người tầm thường, bình dị gần gũi với họ như tình làng nghĩa xóm, chứ đâu có gì nổi bật hay nổi trội chi đâu. Chính lối suy nghĩ đậm đặc định kiến thế này mà khiến đôi mắt thân xác cũng như tâm hồn họ bị đóng kín, khép chặt, khiến họ không thể nhận ra những gì người khác cảm nhận và được lãnh nhận vô vàn ơn lành cao siêu từ Đức Giê-su. Với cách nhìn nhận và tiếp cận thế này của người dân làng Na-da-rét vô hình chung “đóng khung” Đức Giê-su, đồng thời tự nhốt họ trong định kiến hẹp hòi, ẩm thấp và ngột ngạt, còn đâu khoảng trống cho mình và cho người khác, còn đâu không khí thoáng mát để cảm nhận, để hít lấy hơi thở thánh ân qua con người Giê-su Ki-tô! Trong cuộc sống thực tế, chúng ta cảm nhận điều này rõ ràng hơn ai hết: định kiến giam hãm chúng ta mở lòng, đón nhận, chấp nhận người khác, và đồng thời cấm cửa tha nhân đi vào thế giới của bản thân ta. Hơn thế, trong đời sống đạo, lối suy nghĩ đậm đặc định kiến ấy sẽ khiến cõi lòng chúng ta rỉ sét, vì cánh cửa tâm hồn bị đóng chặt then cài lâu ngày rồi. Bản thân vừa không muốn bước ra khỏi đó, và tệ hơn Thiên Chúa, anh chị em chúng ta chẳng thể nào tiến vào được!!!
Tâm hồn khép kín, tư tưởng đầy ‘bùn lầy’ định kiến, quá tự tin vào những gì mình biết, dẫn tới tính tự mãn. Từ đó sinh ra thái độ xem thường “người của Thiên Chúa” (ngôn sứ) như lời bất hủ của Đức Giê-su: “không một tiên tri nào được chấp nhận nơi quê hương mình” (Lc 4, 24), và thảm hại hơn, thái độ không tôn kính “Con Thiên Chúa mặc lấy xác phàm”. Ngôn sứ là người được Thiên Chúa sai đến loan truyền cho dân sứ điệp, chương trình, ý định của Ngài, chứ không phải thực hiện nghị trình riêng của mình; thế nhưng, thân phận “người của Thiên Chúa” thật hẩm hiu như các câu chuyện của tiên tri Ê-li-ah, Ê-li-sa và các ngôn sứ khác vào thời Cựu Ước. Chúng ta nên tránh rơi vào lối mòn “gần chùa gọi Bụt bằng anh” hoặc “bụt nhà không thiêng”. Đành rành sự gần gũi xoá đi ngăn cách, khoảng cách, xua tan hàng rào vô hình, hầu trở nên thân tình, trở thành người hiểu chuyện và nên người bạn thân đúng nghĩa; chứ không dẫn tới thái độ đánh đồng, tệ hơn xem thường, không có thái độ đúng đắn với “người của Chúa”. Như thế, thái độ này có thể dẫn tới thói cao ngạo, ta đây, đặt mình trên người khác, ấy là chúng ta đang đi vào vết xe đổ của những người đồng hương Na-da-rét. Thái độ này trái ngược hẳn với cảm nghiệm nơi Thánh Phao-lô “…sức mạnh của Chúa tỏ bày trong sự yếu đuối…, vì khi tôi yếu đuối chính là lúc tôi mạnh mẽ” (2Cr 12, 9-10). Chẳng phải mạnh mẽ nhờ sự yếu đuối, yếu hèn, hay tính ương ngạnh của bản thân, mà chính là nhờ thái độ biết nhận mình yếu đuối, cần được đỡ nâng, đồng thời tin tưởng vào Chúa, Đấng thực hiện những sự phi thường trong điều tầm thường, Đấng làm nên việc vĩ đại trong những thứ vụn vặt, Đấng biến sự yếu hèn nơi con người thành sức mạnh trong Ngài.
Tóm lại, xuyên suốt câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta thấy, người Do Thái “thích sự thật khi sự thật tán tụng họ, nhưng họ căm ghét sự thật khi sự thật lên án họ” (theo Thánh Âu-gus-ti-nô). Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta ‘đừng đi vào lối mòn’ ấy, trên hết luôn biết mở lòng, tín thác, loại bỏ mọi thành kiến hoặc định kiến, và hết tình cảm kích điều thiện lành nơi tha nhân, chứ không xem thường. Amen!
80. Đức Giêsu về thăm Nadarét
(Giải thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
Con người hôm nay, những người Nadarét mới, vẫn đang thấy Đức Giêsu là một cớ gây ngạc nhiên và vấp ngã.
1.- Ngữ cảnh
Ngay từ đầu Tin Mừng, tác giả Máccô cho thấy Đức Giêsu hành động với uy quyền trước toàn dân (1,16–3,12). Nhưng sau đó, những trở ngại đã xuất hiện: thân nhân Người đi bắt Người về, vì cho rằng Người đã mất trí (3,21); các kinh sư thì nói rằng Người bị quỷ vương Bêendêbun ám và dùng quyền của nó mà trừ quỷ (3,22); bằng kiểu diễn tả bóng bảy, Người đã nói đến sự cứng lòng của dân Israel (4,11-12); trận bão trên biển không nhận chìm được con thuyền của Người, là một hình ảnh cho hiểu là sứ vụ của Người sẽ gặp nhiều khó khăn (4,35t), nhưng vẫn đứng vững; yêu cầu của dân Ghêrasa cũng ở trong chiều hướng ấy (5,17). Bài tường thuật chuyến về thăm Nadarét cũng nói đến thái độ không tin của người dân Nadarét, khiến họ không chấp nhận Đức Giêsu (6,1-6). Như thế, truyện này tóm tắt một vài đề tài đã được triển khai trong các phân đoạn trước: tư cách môn đệ và lòng tin, Đức Giêsu là thầy và là vị làm phép lạ, sự hiểu lầm và sự loại trừ Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành bốn phần:
1) Đức Giêsu về quê và giảng dạy ngày sa-bát (cc.1-2a);
2) Các thính giả vấp phạm về Người (cc. 2b-3);
3) Sự cứng lòng tin: đánh giá và kết quả (cc. 4-6a);
4) Đức Giêsu tiếp tục ra đi (c. 6b).
3.- Vài điểm chú giải
– quê quán của Người (1): Đây là Nadarét thuộc miền Galilê (1,9), cách hồ Ghênêsarét khoảng 30 cs về phía tây. Vào thời đó, Nadarét chỉ là một làng nhỏ, không quan trọng gì (x. Ga 1,46). Trong Cựu Ước, làng này không bao giờ được nói đến. Vì làng ở độ cao 300-400m trên mặt biển, người ta có thể nhận ra làng từ xa.
– có các môn đệ đi theo (1): Khi nói đến các môn đệ, tác giả Máccô luôn luôn đưa vào đề tài “đi theo” (sequela) (x. 2,15; 10,32; 15,41).
– bắt đầu giảng dạy (2): Ta nhớ lại đoạn 1,21-28 giới thiệu Đức Giêsu là thầy và là người chữa bệnh. Phản ứng đầu tiên trước sự khôn ngoan và những việc lẫy lừng của Người là sự ngạc nhiên. Từ đó, câu hỏi đặt ra “Bởi đâu ông ta được như thế?” mang tính mỉa mai: trong khi những người đồng hương gắng tìm cho ra danh tánh của con người Giêsu, thì quyền lực của Người lại bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa.
– nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên (2): Phản ứng này thường xảy ra trước lời giảng dạy (1,22; 11,18), một phép lạ (7,37) hoặc một câu nói lạ lùng của Đức Giêsu (10,26). Tác giả nhắc đến phản ứng này với nhận định về sự khôn ngoan của Đức Giêsu để cho thấy Người vừa ban một mạc khải, nhưng dân chúng không tin.
– bác thợ (3): Từ Hy Lạp tektôn (La-tinh faber) có lẽ phản ánh từ A-ram naggârâ có thể là một người thợ đóng đồ mộc hoặc là một người thợ xây dựng. Những người thợ ấy thường đi đây đó. Phải chăng Đức Giêsu cũng đã đi đây đó, ít sống tại Nadarét? Bản văn dùng mạo tự xác định ho cho hiểu rằng dân Nadarét đã quen gọi Đức Giêsu như thế.
– con bà Maria (3): Phải chăng câu này cho phép giả thiết là Giuse đã qua đời? Trong ngữ cảnh ở đây, không có gì bảo đảm là kiểu gọi này có ý nói là Giuse đã chết cả. Chúng ta ghi nhận là trong TM Máccô, Giuse không bao giờ được nêu tên. Dù sao, “con bà Maria” đã trở thành tên gọi của Đức Giêsu. Hoặc tên này được dùng để sỉ nhục, bởi vì người Do Thái được gọi bằng tên của người cha, hoặc để mỉa mai vì muốn ám chỉ đến một cuộc chào đời bất hợp pháp (con hoang). Nếu trường hợp sau là đúng, thì lời sỉ nhục này lại là một khẳng định về cuộc sinh hạ trinh khiết. Để ủng hộ cho cách giải thích này, người ta nêu ra câu hỏi của dân Nadarét về nguồn gốc của Đức Giêsu và sự kiện Mc tránh nhắc đến người cha.
– ngôn sứ có bị rẻ rúng (4): Có lẽ đây là một câu tục ngữ phát xuất từ Do Thái giáo nhằm diễn tả kinh nghiệm của các nhà du thuyết Do Thái. Ta có những câu Hy Lạp tương tự: “Các triết gia khó sống tại quê hương” (Điônê Crisostômô; x. Epittêtô…). Nhưng ở đây Mc mở rộng câu ngạn ngữ mà áp dụng cho cả gia đình dòng họ; như thế là nối dài chiều hướng của sự cố được kể ở 3,20t.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu về quê và giảng dạy ngày sa-bát (1-2a)
Đức Giêsu đã rời nhà và vùng ông Gia-ia ở để về quê, tức là Nadarét. Nhân dịp cử hành phụng tự tại hội đường vào ngày sa-bát, Người đã giảng một bài. Đó là việc Người vẫn thường làm (x. 1,21.39).
* Các thính giả vấp phạm về Người (2b-3)
Phản ứng của các thính giả chứng tỏ Đức Giêsu vừa ban một mạc khải. Họ đã nêu ra năm câu hỏi: ba câu liên hệ đến hoạt động của Đức Giêsu (bản thân; giáo lý; các phép lạ) và hai câu liên hệ đến gia đình dòng họ của Người. Chỉ đức tin mới nhận biết nguồn gốc đích thực của Đức Giêsu. Người là Con Thiên Chúa. Đối với những người đồng hương, sự hiểu biết về môi trường sinh sống của Đức Giêsu là biến thành một trở ngại không thể vượt qua. Họ từ khước Đức Giêsu và không chấp nhận giáo huấn của Người. Sự vấp phạm đó chính là sự cứng lòng tin của họ.
* Sự cứng lòng tin: đánh giá và kết quả (4-6a)
Đức Giêsu xác định lập trường bằng một câu ngạn ngữ. Câu này vừa giúp Người biện minh cho mình vừa giảm nhẹ tầm mức của các sự kiện. Các môn đệ (theo Mc, các ông lúc nào cũng đi theo Người) phải học lấy bài học kinh nghiệm này: không bao giờ được để cho nỗi thất vọng vì bị từ khước đánh ngã mình. Con Thiên Chúa bị mọi người kể cả gia đình, hiểu lầm, và bị bỏ cô đơn trong thế gian này. Sự kiện Người không thể làm được phép lạ nào ở quê hương cho thấy tương quan giữa phép lạ và đức tin. Điều này không có nghĩa là quyền lực của Đức Giêsu bị hạn chế nhưng có nghĩa là khi ơn cứu độ được ban tặng trong phép lạ bị từ chối, thì không thể xảy ra phép lạ được. Nếu Đức Giêsu làm khác là Người không trung thành với sứ mạng của Người. Lời ghi thêm “Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ” nhằm làm giảm nhẹ nét tiêu cực nơi những gì được nói trước. Nhưng c. 6a kết luận vẫn ghi nhận sự cứng lòng tin và sự ngạc nhiên của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu tiếp tục ra đi (6b)
Tuy nhiên, thất bại này vẫn không làm Đức Giêsu chán nản chùn bước. Người tiếp tục ra đi như Người đã nói với các môn đệ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (1,38).
+ Kết luận
Đức Giêsu trở lại quê hương Nadarét. Người vào hội đường để giảng dạy, tức là thi hành sứ mạng ngôn sứ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, dù đã biết các phép lạ Đức Giêsu làm và nay vừa nghe Người giảng, dân làng Nadarét lại chỉ coi Người như là “bác thợ, con bà Maria, anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn” (c. 3a) mà thôi. TM Mc cho thấy liên hệ huyết thống cũng như tình đồng hương không giúp người ta nhận biết Đức Giêsu trong chân tính của Người. Muốn khám phá ra mầu nhiệm Đức Giêsu, người ta phải để cho chính Người dẫn dắt và giáo huấn ngày qua ngày.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Vấn đề trọng tâm của bản văn là đức tin. Đức tin giúp con người có sự khiêm tốn và sẵn sàng lắng nghe giáo huấn của Thiên Chúa và của các vị sứ giả của Người. Cũng chính đức tin giúp người ta nhận biết các việc kỳ diệu Thiên Chúa đã và vẫn đang làm trong thế giới, để ban ơn cứu độ cho mọi người. Tại nơi nào con người khép kín lại với Thiên Chúa, khi Người đang ngỏ với họ trong phép lạ, thì phép lạ trở thành chuyện phi lý. Cũng như quyền lực của Người là ơn cứu độ cho chúng ta, thì sự cứng lòng tin của chúng ta là sự bất lực của Người. Điều đó đã được chứng thực tại cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với dân làng Nadarét: họ đã ngạc nhiên về những gì Đức Giêsu nói, và thế là để vuột mất ý nghĩa của các lời Người loan báo.
2. Sự từ khước ở Nadarét vẫn tồn tại. Con người hôm nay, những người Nadarét mới, vẫn đang thấy Đức Giêsu là một cớ gây ngạc nhiên và vấp ngã. Do sự từ khước của con người hôm nay, hoạt động cứu thế của Thiên Chúa như bị tắc nghẽn. Bị giam hãm trong các định kiến, họ không hiểu được cốt lõi tinh túy của sứ điệp, cũng không tạo cơ hội cho các việc kỳ diệu có thể xảy ra hay cho ơn Chúa có thể đến được với chính họ và người khác. Từ đây, chúng ta có thể đi đến một nhận định: cộng đoàn Kitô hữu có hai trách nhiệm, bởi vì phải vừa biết nhận ra các ngôn sứ được Thiên Chúa cho xuất hiện giữa các thành viên của mình, vừa phải hỗ và làm gia tăng ơn Chúa mà sự hiện diện của họ mang lại. Ý thức này đòi hỏi cộng đoàn phải trở thành một tập thể sẵn sàng, trong tư thế cầu nguyện, có cái nhìn khôn ngoan, để nhận ra các dấu chỉ của Thiên Chúa. Tất cả các điều này không đơn giản: trong đời sống mỗi ngày, chúng ta ghi nhận rằng cộng đoàn chúng ta đang bước đi giữa hai đe dọa: một bên, cộng đoàn có thể rơi vào một thứ hứng khởi dễ dãi mà chạy theo bất cứ một chủ trương đổi mới nào, để rồi cuối cùng bị lạc hướng và bị phân tán; một bên, cộng đoàn dễ bị thu hút bởi xu hướng bất động và sự cứng ngắc do bám vào một vài điều xác tín nào đó.
3. Người môn đệ của Đức Giêsu không được nản chí khi gặp thất bại hay chống đối. Nhiệm vụ của họ là cứ ra đi để rao giảng Lời Chúa, để làm chứng, không nên bận tâm (và nặng lòng) với kết quả. Họ cần phải nhìn vào Thầy Giêsu mà dấn thân. Như Đức Giêsu, họ cứ quảng đại làm việc, “lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tm 4,2). Niềm vui họ sẽ nhận được khơng phải do kết quả kiểm chứng được, nhưng là do biết rằng họ đã kiên trì thực hiện những điều Thiên Chúa muốn.
4. Thành kiến là một tật xấu nằm sâu trong tâm khảm con người. Chính tật xấu này làm cho khả năng đón nhận và loan truyền Lời Chúa bị giới hạn lại. Các Kitô hữu cần học lấy bài học của thánh Phaolô: “vui khi thấy điều chân thật” (1 Cr 13,6). Đấy là khả năng nhận ra sự thiện hảo tại bất cứ nơi nào nó xuất hiện, và sẵn sàng nêu lên.
81. Chúa Nhật 14 Thường Niên
(Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux)
CHÚA GIÊSU Ở NAGIARÉT (6,1-6).
Chúa Giêsu trở lại làng xưa (c.1). Hình như kể từ khi bắt đầu sứ mệnh công khai, tức là sau khi được Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho (1,9), Ngài chưa trở về nơi này. Caphanaum trở nên điểm Ngài lui tới thường xuyên trong khi Ngài đi giảng đạo đó đây (2,1). Tuy nhiên Nagiarét nơi Ngài đang trở về, lại là mảnh đất Ngài đã trải qua tuổi thơ ấu và thời thanh xuân. Gia đình và bạn bè thân cận của Ngài hiện đang sinh sống nơi đó. Các sự cố xảy ra trước đây đã tạo nên giữa Ngài và họ một sự xa cách nào đó. Và điều gì lại sắp xảy ra ở đây? Chúa Giêsu vẫn không thay đổi gì về những thói quen của Ngài (c.2a). Ngày Sabbat, Ngài vẫn đến hội đường rao giảng. Đám người đồng hương hồ hởi tiếp đón Ngài. Tuy nhiên họ lại thắc mắc về đứa con đồng hương của mình: Do đâu mà anh chàng này giảng dạy khôn khéo, và làm được nhiều phép lạ như vậy? (c.2b). Lẽ ra họ phải khởi sự tin vào Ngài, thì từ ngạc nhiên thán phục họ lại bỗng trở nên thù nghịch công khai với Ngài (c.3). Vị tiên tri ngày hôm nay đã trở thành vấn đề đối với họ!
Quá khứ và nguồn gốc của Ngài vẫn còn nằm rõ trong ký ức họ. Họ biết Ngài quá rõ đến nỗi không thể nào quên được hình ảnh quen thuộc họ đã có về Ngài. Ở đây Maccô rất thích thú khi cung cấp cho độc giả một nét tướng mạo của Chúa Giêsu theo lối nhìn của thân nhân Ngài. Ngài chỉ là một anh thợ mộc trong làng. Sẵn đây chúng ta cần ghi nhận vào thời Chúa Giêsu, nghề mộc không chỉ liên quan đến vật liệu bằng gỗ, mà chỉ chung mọi thứ vật liệu, và thợ mộc cũng có thể xây nhà được. Ngoài nghề nghiệp xưa kia của Ngài, người ta còn biết rõ cả thân quyến Ngài. Ngài là “con trai bà Maria”. Đây là nơi duy nhất trong Tin Mừng này Mẹ Chúa Giêsu được gọi bằng tên Maria. Tên cha của Chúa Giêsu không thấy nhắc đến. Có thể cắt nghĩa sự yên lặng này là khi Maccô soạn cuốn Tin Mừng, Giáo Hội sơ khai đã tin vào việc Chúa Giêsu được thụ thai bởi người mẹ đồng trinh (Mt 1,18-20 và Lc 1,30-35). Còn về anh chị em họ, kể cả họ hàng xa nữa (x. 3,32). Thực sự Giacôbê và Giuse là con của một bà Maria khác chứ không phải Maria Mẹ Chúa Giêsu (15,40).
Dưới mắt dân làng Nagiarét, danh tiếng người đồng hương của họ không dựa trên nền tảng vững chắc “gia phong gia thế” đã khiến cho họ cảm thấy khó chịu (c.4), chướng tai gai mắt. Maccô nêu rõ sự thù nghịch bất ngờ của đám thân nhân Chúa Giêsu đối với Ngài. Trước đây Maccô cũng đã từng nêu ra phản ứng khó chịu của thân quyến Chúa Giêsu (3,20-21). Đây hẳn là vấn đề chủ chốt phủ lên toàn thể cuốn Tin Mừng: Vậy Ông Giêsu Nagiarét này là ai? Và ở đây người ta thấy rõ những đồng hương của Chúa Giêsu đã muốn giản lược chân dung Ngài vào vị trí một người dân làng cũ của họ như trước khi Ngài ra đi thi hành sứ vụ.
Trước sự va chạm này, Chúa Giêsu đã phản ứng lại. Ngài trưng dẫn một câu phương ngôn (c.4). Câu cách ngôn phổ biến hiện nay bắt nguồn từ phương ngôn ấy. “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình”. Đây là một chân lý trường cửu: Hễ ai tiến bộ trước thời đại, trước lân bang mình thì sẽ bị khinh miệt. Và sự tiếp đón tẻ lạnh của dân làng đối với Chúa Giêsu đã gây ra một hậu quả thoạt nhìn ai cũng sẽ ngạc nhiên, là Chúa Giêsu không thể thi thố quyền phép trị bệnh của Ngài ở ngay làng cũ của mình (c.5a). Phải chăng quyền năng Ngài tùy thuộc vào thái độ của loài người? Dầu sao chính Maccô đã cố gắng dung hòa sự tùy thuộc này. Ông ghi nhận Chúa Giêsu cũng có chữa lành vài bệnh nhân ở Nagiarét (c.5b). Tuy nhiên ông nêu rõ cảm nghĩ của Chúa Giêsu trước sự cứng lòng của đám người đồng hương: “Người lấy làm lạ vì họ không chịu tin” (c.6a).
Trong Tin Mừng Maccô, không còn chỗ nào nêu rõ mối tương giao Chúa Giêsu đặt ra giữa đức tin và các phép lạ Chúa làm cho bằng trình thuật này. Người ta bỗng nhớ lại những lời Chúa Giêsu quở trách các môn đệ thiếu đức tin trong trình thuật truyền cho bão tố yên lặng (4,40). Chính vì đám dân ngoại ở Giêrasa không tin nên Đấng Cứu Thế cũng chẳng lưu lại với họ được lâu (5,17). Chính sự hồ nghi của đám người đang than khóc ở nhà ông Giairô đã khiến Chúa Giêsu đuổi họ ra ngoài (5,39-40).
Mặc cho sự cố xảy ra ở Nagiarét, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục sứ mệnh của Ngài ở các làng lân cận (c.6b), Giai đoạn thứ hai của Tin Mừng đã hoàn tất (3,7-6,6). Giai đoạn này đã nêu bật chủ đề nền tảng của Tin Mừng: Dù là nam nữ, quần chúng, môn đệ hay bà con Chúa Giêsu, mọi người đều tự đặt cho mình câu hỏi “gai góc” về thân thế sâu xa của Ngài. Ta đã gặp thấy nhiều thái độ khác nhau của tất cả mọi kẻ Chúa Giêsu gặp gỡ, đối với câu hỏi then chốt nêu trên. Cuối cùng thì khi nào và do ai Chúa Giêsu sẽ được nhìn nhận một cách đích thực? Chúng ta cần phải tiếp tục theo dõi bản văn…
82. Chú giải của Noel Quesson
Đức Giêsu ra khỏi đó và trở về quê nhà, có các môn đệ đi theo. Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Nagiarét, làng quê, xứ sở của Người.
Sinh tại Bêlem, vì một cuộc kiểm tra dân số Chúa Giêsu đã trải qua thời thơ ấu và niên thiếu tại Nagiarét, nơi xa xôi cách trở giao thông. Ở đó có lẽ chỉ có khoảng 150 gia đình. Người ta sống rất đơn giản, trồng ô liu và nho, cùng với một ít lúa đại mạch và lúa mì. Mỗi gia đình có một vài con dê. Hằng ngày, mỗi người tự làm bánh mì cho mình tại nhà. Ngày thứ bảy, tất cả đều đến hội đường để cầu nguyện. Nơi Đức Giêsu, tất cả đều phản ảnh gốc gác của Người, là một nông dân, một người sống bằng đất đai một người “của quê hương”.
Tin Mừng hoàn toàn mô tả cuộc sống đồng quê, một tường thuật do những người “nông dân” ghi lại, nói về một “nông dân” sống gia những người “nông dân” và đã diễn tả ý nghĩ của mình bằng nhượng ẩn dụ của “nông dân”. Như vậy đâu là đặc tính của một người thợ mộc trong kiểu sống này? Làm bàn ghế, giường, cửa? Tại sao vậy? Mỗi người tự làm những thứ ấy. Người ta ngồi ăn dưới đất, ngủ trên chiếu trải dưới đất. Anh thợ mộc Giêsu, một nông dân trong số những nông dân khác; có thể có một vài sự khéo léo đặc biệt học nơi ông Giuse, một người “sửa chữa” tầm thường, có thể làm hay chữa những cái ách hay những chiếc cày bằng gỗ. Giêsu, một con người không có gì khác biệt với người khác. Tôi hãy suy niệm về điều này.
Đến ngày Sabát, Người vào giảng dạy trong hội trường.
Về điểm này cũng thế, Đức Giêsu cũng như mọi người. Chúng ta đừng lầm lẫn. Đức Giêsu không phải là người cử hành nghi lễ. Người không đóng vai trò tư tế. Người chỉ là một trong những tín hữu đi dự lễ. Trong dân Israel bất cứ một người nam trưởng thành nào, kể từ tuổi thành nhân (12 tuổi) đã là “tư tế”, thuộc về “dòng giống tư tế”, đều có quyền đọc Thánh Kinh và chú giải Thánh Kinh. Đấy là việc Đức Giêsu đã làm ngày hôm đó, khi Người rời chỗ ngồi để lên “đọc” và “diễn giảng”. Thánh Maccô không cho chúng ta biết đề tài của bài giảng hôm đó là đề tài nào.
Đa số thính giả rất ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?”
Danh tiếng của Đức Giêsu đã về đến làng của Người. Nhưng thay vì hãnh diện, những người đồng hương của Người lại bất bình. Tất cả những điều đó không phù hợp với những gì họ biết về Người. Họ biết rõ Người hơn ai hết. Họ đã thấy Người lớn lên, họ đã cùng đi đến trường học với Người. Người không có quyền trở thành “một người khác” hơn là những gì họ biết về Người.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng tự giới hạn mình trong một hiểu biết nào đó, từ chối tiến xa hơn, không chịu khám phá những điều mới mẻ. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi sự bảo thủ, khỏi những tư tướng cũ mòn, khỏi sự đóng khung về trí tuệ và tâm linh. Xin đẩy chúng con ra khỏi những tập quán thích tiện nghi, khỏi thế giới quá bình lặng của chúng con.
Ông ta không phải là bác thợ con bà Maria, và anh em họ hàng với các ông Giacôbê, Gioan, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?
Tin Mừng của Thánh Maccô rất cụ thể, đến nỗi chúng ta cảm thấy rất gần với Đức Giêsu trong đời thường. Chúng ta hiểu rất rõ những suy nghĩ tầm thường của những nông dân trong một xóm nhỏ hẻo lánh miền quê. Đó là cuộc sống thôn dã: Chân trời dường như dừng lại ở những cánh đồi vây quanh làng. Và người ta kể ra nhiều tên, một danh sách anh chị em bà con. Theo cách thức của phương Đông, người ta gọi họ là “anh em”, không kể họ bên ngoại, vì truyền thống không dành chỗ đứng cho người phụ nữ. Người này là ai mà dám phá đổ những tục lệ của chúng ta, hủy bỏ tổ chức của thế giới nhỏ bé này, nơi đó người ta xác định con người theo một hộ tịch cứng nhắc, những tương quan xã hội được ấn định một lần thay cho tất cả. Cuối cùng, mỗi người phải ở tại vị trí của mình, đóng trong vai trò của mình, không được thay đổi đột ngột.
Và đó là chướng ngại làm cho họ không tin vào Người.
Ba Tin Mừng nhất lãm Matthêu, Luca và Maccô đã kể lại cho chúng ta “sự thất bại” của Đức Giêsu. Người đã sống những biến cố đau thương. Đức Giêsu bị chối từ. Ngày nay, nhiều người vẫn có cùng một thái độ như người dân Nagiarét lúc bấy giờ. Nhiều người nói “Tin Chúa”, đồng ý; Nhưng tin Giáo Hội, thì không. Vâng, Giáo Hội, cũng như Chúa, có một khía cạnh con người, rất nhân bản. Các giám mục, linh mục, Kitô hữu, là những người mà người ta biết quá! Ngày nay cũng như ngày xưa, nhiều người “bất bình” với Giáo Hội, cũng như người ta đã bất bình với Đức Giêsu. (Đó là đúng nghĩa chữ Hy Lạp ‘éscandali Zonto’). Giáo Hội gây bất bình! Tin Mừng ghi lại, Đức Giêsu cũng đã gây bất bình sâu xa.
Trang Tin Mừng này là một thử thách nghiêm trọng đối với lý tưởng của chúng ta. Chúng ta phải chấp nhận sự không hoàn hảo của Giáo Hội. Đó là thực tế của việc nhập thể: Thiên Chúa ở trong làng, Thiên Chúa ở góc đường, Thiên Chúa tập đọc ở nhà trường, Thiên Chúa là anh em của một người nào đó.
Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”.
Đức Giêsu bị “khinh miệt” nhất trong nhóm thân nhân của Người. Người ta đã hiểu lầm về Người. Thái độ quá thân quen có thể che khuất đi tính chất thâm sâu của những liên hệ. Giản lược Đức Giêsu trong nhiều kích nhân loại đó là khinh miệt Người. Sự gần gũi đích thực với Đức Giêsu không phải là một sự gần gũi thể lý, vật chất. Và chúng ta cũng có thể quan niệm sai lầm về ‘dấu chỉ’ như khi nghĩ rằng: chỉ cần làm những cử chỉ bên ngoài là đương nhiên thuộc về “gia đình” của Đức Giêsu. Tuy nhiên chúng ta vẫn biết, điều làm nên “gia đình” thực sự của Người, không phải là những liên hệ huyết thống, mà chính là đức tin – “Kẻ nào làm theo ý Thiên Chúa, đó là anh em Thầy, chị em Thầy và là Mẹ Thầy” (Mc 3,35). Đức Giêsu đã tự tạo cho mình một gia đình mới: Đó là những người nghe Chúa và đem ra thực hành.
Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ.
Đây là một sự mạc khải lạ kỳ, làm đảo lộn những khuôn khổ sẵn có của chúng ta. Một sự chữa lành, dù là bằng cách đặt tay, không thể là một phép lạ được. Đức Giêsu đã chữa lành nhiều bệnh, nhưng đó không thuộc loại những phép lạ. Như thế, muốn nói lên điều gì? Phải có đức tin mới có phép lạ thực sự. Một sự chữa lành không đưa đến việc đón nhận Đức Giêsu trong đức tin, không phải là một phép lạ thật, vì thiếu ý nghĩa cốt yếu của nó.
Điều này có thể chứng minh cho chúng ta rằng: Phép lạ không đủ để ban đức tin. Những người ở Nagiarét nói: Bởi đâu tay ông làm được những phép lạ phi thường trong những làng lân cận?” – Hoạt động của Đức Giêsu không rõ ràng, cả những phép lạ vĩ đại nhất cũng không đủ để làm cho chúng ta hiểu mầu nhiệm của bản thân Người. Và chúng ta tiếp tục xin Chúa can thiệp để chứng minh “Người là ai”. Tuy nhiên, chúng ta đã được khuyến cáo: “Người ta có thể nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu” (Mc 4,12) và “mặc dù Đức Giêsu đã làm những dấu lạ rất lớn trước mắt họ, họ đã không tin Người” (Ga 12,37) Điều đó cho chúng ta hiểu, tại sao một số Kitô hữu nghi ngờ những phép lạ, và Giáo Hội phải thận trọng thế nào, khác với những hạng người “buôn thần b án thánh”.
Người lấy làm lạ vì họ không chịu tin.
Sự khước từ đức tin dường như là một đặc điểm trong suốt giai đoạn hai của tác vụ Đức Giêsu. Giờ đây Đức Giêsu đối diện với hiện tượng không tin. Đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng rằng đó là một hiện tượng tiêu biểu của thế giới ngày nay, như thể chỉ có những thời đại trước mới là thời đại của đức tin. Vẫn thường xảy ra là người ta lên án Giáo Hội: “Người ta không còn dạy tôn giáo nữa, người ta không dạy giáo lý nữa”. Vì thế khi Đức Giêsu đích thân giảng dạy trong làng của Người, là nơi thanh sạch và dành riêng cho Người cư ngụ, thế mà Người cũng không khơi dậy được đức tin. Ngày nay, biết bao bậc cha mẹ đứng trước một hiện tướng như thế, trước con cái của họ. Chính Đức Giêsu, dù là Đấng chí thánh cũng đã gặp những người không tin trong thân nhân của Người. Sự bất lực của Đức Giêsu trước thái độ không tin của những người đồng hương, biểu lộ sự hoàn toàn tôn trọng tự do của con người: Đây là hình ảnh biểu lộ thái độ tôn trọng của Thiên Chúa đối với tự do mà Người đã tạo ra. Sự bất lực bí nhiệm “thần thiêng” này, phải làm chúng ta suy nghĩ sâu xa: Đức tin của chúng ta có thể không vững phắc như chúng ta tưởng, Đức tin là một thực tại mỏng giòn và thường bị đe dọa.
Rồi Đức Giêsu đi khắp các làng mà giảng dạy.
Ở đây tôi nhận được bài học quý giá cho những thất bại của tôi. Đứng trước thất bại chua cay mà Đức Giêsu đã gặp tại Nagiarét, thay vì chịu thua, Người lại lên đường tiếp tục. Người lấy làm ngạc nhiên vì sự cứng lòng của họ. Thánh Maccô ghi lại vắn tắt như thế? Thật khó mà đón nhận thất bại, và chân thành rút ra từ đó những hệ quả tích cực, nếu không chịu ngã thua.
Ba bài đọc Chúa nhật hôm nay đến với chúng ta về một thứ “linh đạo của thất bại” Chúa ra lệnh cho ngôn sứ Êgiêkiel (2,15) phải đứng vững đương đầu với một dân tộc đang khước từ sứ điệp của Người. Còn Thánh Phaolô (2Cr 22,7-10) ngài thú nhận đã bị một “mũi dằm đâm vào thịt”, một thất bại mà Ngài đã không chiến thắng được. Trước một nỗ lực hoán cải mà không tiến bộ, hay trước một tình huống đau thương nào đó chúng ta có vượt thắng được sự chán nản không?
83. Chúa Nhật 14 Thường Niên
(Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
ĐỨC GIÊSU TẠI NAGIARÉT
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Phẩm chức thiên sai của Chúa Giêsu không phải là điều dễ chấp nhận đối với những ai đã biết thời thơ ấu của Người, và nhất là đã cùng chia sẻ niềm tin Do thái về nguồn gốc bí ẩn của Đấng thiên sai: “Chẳng ai biết Người ở đâu mà đến” (x. Ga 7,27). Các kẻ đồng hương với Chúa Giêsu đã có thái độ khinh miệt Người. Những gì thiên hạ nói về Người và những gì họ chứng kiến chẳng có giá trị gì đối với họ cả: họ biết cha mẹ Người mà, tầm thường lắm. Họ từ chối không tin Người. Thái độ của họ cũng là thái độ của chúng ta, của bao nhiêu người chỉ phớt qua Tin mừng mà không suy gẫm và đem ra thực hiện, chỉ tìm hiểu Tin mừng với bao định kiến, bao ý đồ tối đen, bao đam mê bất chính.
2) Những người Nagiarét đã đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo trong các thành kiến hẹp hòi, vụ lợi và trần tục của họ, vì thế họ không thể thấy được những chân trời rộng lớn và mới mẻ của Ngài. Thí dụ nhân danh tinh thần tôn giáo sẵn có, họ không thể nào chấp nhận Chúa Giêsu là hiện thân Nước Trời và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì thành kiến về Thiên Chúa và đường lối Ngài, họ không thể chấp nhận rằng Thiên Chúa có thể hiện thân nơi con người đơn giản, khiêm tốn là Giêsu. Thiên Chúa bất ngờ và không thể ngờ của tổ tiên họ, Thiên Chúa của những hành tinh dài đằng đẵng và tôi luyện trong đêm tối cùng thử thách, Thiên Chúa mà càng biết Ngài thì càng phải đi tìm Ngài và không bao giờ nắm được Ngài, họ đã thay thế bằng một hình ảnh khác. Nên đến khi hình ảnh hoàn toàn của Chúa Cha ở trước mắt họ, thì họ không thể nhận ra. Ta cũng vậy. Ta thường có nhiều thành kiến tiên thiên về những đường lối mà ta tưởng Thiên Chúa phải dùng để đến với ta và đưa ta đến với Ngài. Chúng ta quên rằng đường lối của Thiên Chúa khác với đường lối của ta và tư tưởng của ta khác tư tưởng của Ngài. Bao nhiêu con đường ân sủng đã đóng lại, bao nhiêu ân huệ đã phải vô ích, chỉ vì ta không cởi mở đón nhận cái bất ngờ của Thiên Chúa.
3) Tính cách khiêm tốn, kỳ lạ, bất ngờ của các phương thế Thiên Chúa sử dụng là: Giáo Hội thánh thiện mà lại có những tội nhân, Giáo Hội siêu việt mà lại được quản lý bởi các thừa tác viên yếu đuối, thực tại ân sủng cao quý mà lại tiềm ẩn trong các dấu chỉ đơn sơ, hữu hình, chân lý sự sống, chân lý ngàn đời mà lại tỏ hiện trong các điều xem ra khó chấp nhận. Vượt qua được những thử thách đức tin đó, ta mới khám phá ra con người đích thực của Giêsu Nagiarét và của Giáo Hội Người.
4) Chúa Giêsu đã không thể làm phép lạ vì người Nagiarét thiếu niềm tin. Thiên Chúa không ép buộc ai phải nhận lấy ân huệ của Ngài, chẳng cưỡng bức con người phải để Ngài cứu rỗi hay ân thưởng Thiên đàng cho kẻ không muốn. Vì yêu thương và tôn trọng, Ngài để con người tự do chọn lấy Ngài, chọn thiên đàng, chọn hạnh phúc. Và cuộc sống hôm nay của ta không gì khác hơn là một cuộc tập chọn lựa Thiên Chúa.
84. Chú giải của Fiches Dominicales
“BỤT NHÀ KHÔNG THIÊNG”
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Dân làng Nagiarét ngạc nhiên mà không tin
Trong thời gian rao giảng Tin Mừng ở Galilê, Đức Giêsu hẳn đã có nhiều dịp trở về Nagiarét. Thế nhưng Tin Mừng nhất lãm (Mt 13,54-58; Lc 4,16tt; Mc 6,1-6) đã chỉ ghi lại có một lần viếng thăm này mà thôi, bởi lẽ đối với các ngài, thái độ rẻ rúng của dân làng Nagiarét đối với Đức Giêsu trong lần viếng thăm ấy, đã mang ý nghĩa tiêu biểu cho thái độ chối từ của dân Do Thái mà Người đã phải hứng chịu.
Phần đầu của buổi viếng thăm này rất giống với những gì Maccô kể ra ở 1,21: thiên hạ đều sửng sốt về lời giảng dạy của Đức Giêsu. Nhưng phần kết thúc của hai bài tường thuật lại khác nhau hoàn toàn. Ở đây, nơi quê quán của Người, những người nghe cảm phục, rồi lại mau chóng thay lòng đổi dạ, không tin Chúa, tiên vàn họ đều là những người cùng làng xóm với Người. M.E. Boismard tự hỏi: Làm sao giải thích sự thay đổi tình hình như vậy? Ông gợi ý: “Có thể là vì thời Đức Giêsu, người Do Thái vốn có một niềm tin khá phổ biến như sau: Đấng Kitô phải có một nguồn gốc siêu phàm huyền nhiệm. Sau này trong buổi đối thoại với một người Do Thái là Tryphon, thánh Giúttinô (khoảng năm 150) sẽ làm vang vọng lại nếm tin này khi kể lại ý kiện sau đây của những học giả Do Thái: “Nếu có người nói rằng Đấng Mêsia đã đến rồi, người ta đâu biết ai. Chỉ khi Ngài tỏ mình ra trong vinh quang, là người ta sẽ nhận ra ngay ngài là Đấng Mêsia” (Dial. 110,1).
Đó đúng là luận điệu của những người làng Nagiarét; mà cũng là luận điệu của cư dân Giêrusalem được Tin Mừng Gioan tường thuật: “Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi, còn Đấng Kitô khi Người đến, thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả”, nghĩa là không ai biết rõ nguồn gốc của Người (Ga 7,27). Đối với những dân làng Nagiarét cũng vậy, Đức Giêsu không thể là Đấng Mêsia được, vì người ta biết rõ Người, biết cả tông chi họ hàng của Người nữa” (Jésus, un homme de Nagiareth, Cerf, 1996, trang 84).
– Cụ thể là họ biết rõ nghề nghiệp của Người: “Ông ta không phải là bác thợ mộc sao?” (thời ấy nghề thợ mộc không chỉ chuyên lo về mộc, mà cũng còn lo cả việc xây cất nhà cửa nữa).
– Họ biết rõ bà thân mẫu của Người: “Ông ta không phải là con bà Maria sao?”
– Họ biết bà con họ hàng của Người: “Ông ta không phải là anh em của các ông Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con cùng xóm với chúng ta sao?”.
Thế nên, làm sao mà họ nhận biết được Người là vị ngôn sứ, Đấng được Thiên Chúa sai đến để nói nhân danh Chúa? Họ ‘hoàn toàn vấp ngã’ (sát nghĩa là bị xì-căng-đan) vì Người”. Đức Giêsu người đồng hương của họ, mà trước đây họ lấy làm vui sướng đón tiếp, thì giờ đây lại trở nên một chướng ngại vật khiến họ vấp ngã.
2. Đức Giêsu “ngạc nhiên” vì họ cứng lòng tin và đành bó tay.
– Con người mà, các môn đệ đã từng thấy truyền lệnh cho sóng yên bể lặng (Tin Mừng Chúa Nhật 12), xua đuổi quỷ dữ (phép lạ chữa người bị quỷ ám ở Ghêrasa 5,1-20), cho người đàn bà mang bệnh bất trị được khỏi và đem cô gái con ông Giairô ra khỏi giấc ngủ ngàn thu, thì nay bỗng trở thành kẻ bất lực, vô phương, ‘ngạc nhiên’ vì những người đồng hương của mình cứng lòng tin. Maccô chẳng e ngại khi phải viết lời này: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó? Không phải là vấn đề thiếu yếu tố tâm lý cần thiết cho sự lành bệnh, mà chính là tại thiếu lòng tin, vì có tin thì “phép lạ” mới có được ý nghĩa đích thực. Nên Đức Giêsu đành phải mượn ý câu ngạn ngữ “Bụt nhà không thiêng” mà kết luận rằng: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”.
– Nhưng không gì có thể ngăn chặn được tính năng động của Lời. Thái độ chối từ của người làng Nagiarét, cũng như sự ngạc nhiên thúc thủ của Đức Giêsu, đều đã loan báo tấn bi kịch về cuộc khổ nạn và sự thất bại tỏ tường của Thập giá; mà còn mở ra việc Đức Giêsu khai trương đi rao giảng cho ‘các làng chung quanh’ loan báo trước chiến thắng phục sinh và công việc truyền giáo cho các dân ngoại.
– Đây là đoạn bản lề phân chia Tin Mừng Maccô thành hai phần rõ rệt.
+ Một giai đoạn đang hoàn thành. Trong suốt giai đoạn này vấn đề nhân tính của Đức Giêsu không ngừng được vang lên như một điệp khúc: “Vậy người này là ai?”.
– Về phía các môn đệ, vấn đề luôn mở ra: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Các môn đệ đã khởi sự đi vào gia đình đích thực của Đức Giêsu, gia đình của những người thực hành ý muốn của Thiên Chúa (3,31-35). Rồi đây sau cơn hốt hoảng của Ngày Thứ Sáu Thánh, các ông sẽ có thể tuyên xưng Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh, chết, sống lại là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng Rôma nơi Maccô 1 5,39).
Về phía dân làng Nagiarét, vấn đề được khép lại: “ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao? Câu hỏi đó đã là điềm báo trước con đường bi thảm của hiện tượng này: thái độ chối từ Chúa.
+ Một giai đoạn mới đang mở ra. Giai đoạn đó sẽ đưa ta đi từ việc tham gia công việc truyền giáo của Nhóm Mười Hai (Tin Mừng Chúa nhật tới) để rồi cùng tuyên xưng lòng tin với Phêrô (8,26).
BÀI ĐỌC THÊM.
1) “Đức Giêsu đối mặt với thái độ không tin”
(Cahiers-Evangile, số 1/2 trang 53).
Câu chuyện Đức Giêsu đến Nagiarét (6,1-6) xoay quanh vấn đề không tin và tạo nên bức tranh tương phản với chuyện xảy ra trước đây.
“Đức Giêsu lấy làm lạ vì họ không tin” (6,6). Một sự kiện thật là tương phản với loạt phép lạ xảy ra trước đây, và chứng tỏ rằng để nhận ra được Đức Giêsu có quyền làm cho kẻ chết sống lại, người ta phải có một lòng tin đến thế nào.
Tới Nagiarét, nơi quê quán của Người lúc này Đức Giêsu phải đối mặt với thái độ không tin của con người. “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó, ngoại trừ đặt tay trên vài bệnh nhân và chữa lành họ”. Việc Người không thể làm được phép lạ ở đây có liên quan tới thái độ không tin của những người trong cuộc chứ không phải do yếu tố tâm lý nơi người bệnh vốn cũng là điều kiện cho người ấy được khỏi. Không có bối cảnh của lòng tin, phép lạ chẳng còn ý nghĩa gì, và sẽ không thể nói đến phép lạ.
Đức Giêsu đã phải sửng sốt vì thái độ không tin này. Ta hãy xem Người đã tỏ thái độ thế nào với các môn đệ khi gặp bão táp: “Sao nhát thế”. Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” (4,40). Người ta không có lòng tin là điều Chúa không hiểu nổi, thì ngược lại, khi thấy một lòng tin mạnh như thế, ngoài Israel, Người tỏ ra rất ngạc nhiên như Matthêu và Luca ghi nhận (Mt 8,10, Lc 7,9) Còn trong trường hợp này, Đức Giêsu đang ở quê nhà, giữa đám bà con họ hàng. Người đã nói với họ rằng: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình hay giữa đám bà con thân thuộc và trong gia đình mình mà thôi” (6,4). Chỉ có mình Máccô, nhấn mạnh và xác định rõ là “giữa đám bà con thân thuộc”. Tại Nagiarét, người ta lại thấy có sự phân biệt trong liên hệ “ai là mẹ tôi” đã diễn tả trước đây (3,20-35). Ở đây sự thu hẹp (về liên hệ) còn rõ nét hơn. Bởi lẽ có lần Chúa đã xác định gia đình mới của Người là những ai nghe Lời Chúa, những kẻ mà trong một buổi gặp gỡ trước đây được mô tả là ngồi chung quanh Chúa. Lúc này Đức Giêsu và các môn đệ Người lại giữ khoảng cách với những người đứng ở ngoài, những người không thuận với Người.
Trước đây có lời chép rằng: “Ai nghe Lời Chúa, người ấy là bà con thân thuộc với Tôi” (3,35). Còn ở đây, Người muốn tỏ cho thấy rằng ai tin, người ấy là bà con thân thuộc của Người. Nghe lời Chúa và tin vào Người là hai mặt luôn kết hợp hài hòa và bổ túc lẫn nhau.
2) “Ta biết người ấy quá mà”
(Đức Cha L.Daloz trong “Qui don est-it?”, Desclée de Brouwer, trang 37-38).
“Nếu lòng tin tạo khả năng đón nhận ơn cứu độ Chúa mang đến, thì sự thiếu lòng tin dựng lên hàng rào ngăn cản. Ở Nagiarét, Đức Giêsu không thể làm được một phép lạ nào, dù là đang ở tại quê nhà, giữa đám bà con thân thuộc của mình. Ở giữa đám bà con, mà Người phải “lấy làm lạ vì họ không tin”. Đức Giêsu lấy làm lạ. Còn họ khi được nghe lời Người giảng dạy ở hội đường thì “rất đỗi ngạc nhiên”. Đôi bên ngạc nhiên nhau, một thứ không hiểu nhau. Ở đây sự gần gũi với Đức Giêsu lại nên như bức màn che giấu mầu nhiệm về bản thân Người. Người đang có mặt ở đây, rõ ràng là người đồng hương của ta. Người ta biết Người rành rọt: biết nghề nghiệp của Người, biết bà mẹ và các anh chị em của Người. Họ biết tất cả, mà cái cốt yếu thì lại không biết. Bác thợ mộc Giêsu, người Nagiarét đã phải kín đáo lắm, bình dị lắm, phải y hệt như mọi người, “chẳng có dấu hiệu gì đặc biệt. Bởi đâu ông ta được như thế”. Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao?”. Như vậy, Đức Giêsu đã tỏ ra hoàn toàn là người, hoàn toàn là một người Nagiarét, nên ở quê hương mình, người ta không thể công nhận được rằng ngoài những điều mà tới nay ai nấy vốn đã có thể biết, Người còn có gì hơn nữa. Từ bé đến nay, việc ta quen lui tới với Chúa, với nhiều cách thế để được nghe nói về Người phải chăng đôi khi cũng là bức màn che giấu đi cái cốt yếu? Người môn đệ đích thực của Chúa lúc nào cũng phải mới để có khả năng đón nhận. Người ấy biết rằng Đức Giêsu không chỉ như mình hiểu biết. Người ta không thể đóng khung hạn định được Người. Người luôn vượt khỏi tầm tay của ta và vượt xa điều ta hiểu biết về Người. Ta có hiểu biết Người ở đời này, thì cũng như biết qua tấm gương mù mờ thôi. Khi nói về Đức Giêsu, phải chăng ta hay đưa ra những thông tin về Người, những thông tin có thể tạo ảo tưởng là ta biết đủ rồi mà không mời gọi ta tiến thêm lên, hay là ta cố gắng đi sâu vào sự gặp gỡ với chính bản thân và huyền nhiệm của Người?”
3) “Chỉ có tin với tin”
(G.Bessière, trong “Dieu si proche. Năm B”, DDB, trang 120-121).
Thật cũng lạ: Đức Giêsu lấy làm lạ vì những đồng hương của Người lại thiếu lòng tin. Vậy mà những người đồng hương của Người thảy đều là kẻ tin Thiên Chúa, một Thiên Chúa cứng rắn, thảy đều đã từng hội họp với nhau ở hội đường. Họ đều là những kẻ có lòng tin từ đầu đến chân, như tục ngữ nói. Lòng trí họ không một dấu vết do dự hay ngờ vực nào. Họ tôn thờ Chúa là Đấng tạo dựng vạn vật và điều khiển dòng lịch sử. Thời đó, đâu đã có những người vô thần hay những kẻ không tin như ngày nay!.
Họ có lòng tin không? Tất nhiên có. Nhưng lòng tin Đức Giêsu đòi hỏi người ta ở đây, không phải chỉ là lòng tin vào Thiên Chúa, theo kiểu cha truyền con nối, mà chính là tin vào Người bác thợ mộc của làng. Liệu một bác thợ mộc mà người ta biết rõ cha mẹ và tất cả bà con của ông, lại có thể đòi hỏi người ta phải tin vào mình như tin vào Thiên Chúa chăng? Nè, còn hơn thế nữa kìa, lòng tin mà con người ấy muốn, không phải là một mớ những điều phải tin, nhưng là sự đảo lộn cuộc sống: “Ai liều mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Người còn nói: phải đi theo Người, phải cho đi và hiến thân, phải yêu mến cả kẻ thù, phải vác thập giá mình… Nào, chúng ta hãy lật ngửa các con bài (quyết định). Chúng ta đây là những kẻ tin; chúng ta đây “có” (than ôi!) lòng tin, mà có thật là ta đang vạch đường đời ta đi trong niềm tin như Đức Giêsu đã đề ra không? Xin đừng trả lời quá gấp”.
85. Chú giải của William Barclay
KHÔNG ĐƯỢC TÔN TRỌNG NƠI QUÊ HƯƠNG
Khi trở về Nagiarét Chúa Giêsu đã tự đặt mình vào một trường hợp chịu thử thách nghiêm trọng. Ngài đang trở về thành phố quê hương, chưa có ai chỉ trích Ngài nghiêm khắc cho bằng những người từng quen biết Ngài từ thời thơ ấu. Ngài không hề có ý trở về quê quán cách riêng tư, chỉ thăm lại ngôi nhà và những người thân thuộc cũ. Ngài trở về với các môn đệ của mình, nghĩa là Ngài về quê với tư cách một Rabbi. Các Rabbi vẫn đi đây đi đó trong xứ với nhóm môn đệ của họ. Với tư cách Rabbi, Ngài đã trở về cùng với các môn đệ.
Ngài vào hội đường và dạy dỗ. Người ta không hào hứng tiếp nhận lời giáo huấn của Ngài, trái lại còn tỏ vẻ thù địch. “Họ vấp ngã vì Người”. Họ tức giận vì một người xuất thân từ một bối cảnh xã hội như Chúa Giêsu, lại nói năng và hành động như vậy. Sự quá quen thân thường làm phát sinh thù ghét sai lầm. Họ không chịu nghe những gì Ngài nói, vì hai lý do:
1/ Họ bảo nhau “Ông này không phải bác thợ sao?”.
Từ dùng chỉ thợ mộc là tekton. Tekton có nghĩa là một thợ làm đồ gỗ, nhưng không chỉ đơn giản là một thợ làm đồ gỗ mà thôi, nó còn có nghĩa là một nghệ nhân, một người làm nghề thủ công tinh xảo. Homer đề cập đến tekton như người đóng tàu, cất nhà, xây đền đài. Đời xưa và cả ngày nay nữa, tại nhiều nơi, trong một thị trấn nhỏ hay làng mạc, người ta có thể tìm ra một người thợ thủ công có thể làm bất cứ việc gì, từ việc đóng chuồng gà đến việc cất nhà, người ấy có thể xây tường dặm vá mái nhà, sửa khung cửa. Đó là thợ thủ công với ít dụng cụ hoặc chỉ tay không, với một số tối thiểu công cụ thô sơ nhất, có thể làm được bất cứ việc gì. Chúa Giêsu là người như thế, sở dĩ người làng Nagiarét khinh dể Chúa Giêsu vì Ngài là một công nhân, một người thợ. Ngài là một người bình thường, một thường dân, một con người chất phác.
Một trong những lãnh tụ quan trọng của phong trào công nhân là Will Crooks. Ông sinh ra trong một gia đình rất nghèo, ký ức đầu tiên ông ghi nhận là hình ảnh mẹ ông đang khóc vì không biết lấy gì để ăn trong bữa ăn sau. Ông bắt đầu làm việc trong một lò rèn, lương hàng tuần là năm hào. Ông trở thành một tay thợ giỏi, dũng cảm và ngay thẳng nhất thời bấy giờ. Ông tham gia việc chính trị ở ngay thị xã và trở thành chủ tịch đầu tiên của phong trào Lao động thị xã Luân Đôn. Nhiều người rất bất mãn khi Will Crooks thành chủ tịch tại Poplar. Ngày nọ, trong đám đông, một mệnh phụ dè bỉu ông “Người ta bầu Will Crooks làm chủ tịch á, anh ta chỉ là dân thợ tầm thường mà thôi”. Một người trong đám đông, chính là Will Crooks, đã quay lại bỏ nón ra và nói: “Hoàn toàn đúng, thưa bà, tôi chỉ là một dân lao động”.
Dân chúng ở Nagiarét khinh dể Chúa Giêsu chỉ vì Ngài là một công nhân tầm thường, với chúng ta thì đó là vinh quang của Ngài, vì nó có nghĩa khi Con Thiên Chúa xuống thế gian, Ngài không hề đòi hỏi một miễn trừ nào. Ngài bằng lòng nhận lấy cuộc đời tầm thường với tất cả những công việc tầm thường. Những may rủi về gia thế, giàu nghèo và phổ hệ chẳng có gì quan trọng đối với nhan cách cả. Chúng ta cần cảnh giác đối với sự cám dỗ đánh gía một người căn cứ vào bề ngoài, vào những cái tạm thời nay còn mai mất, chứ không căn cứ vào giá trị nội tại nơi chính người ấy.
2/ Họ nói “Không phải đây là con bà Maria hay sao?
Không phải chúng ta đều biết rõ anh em ông ta sao?” Sự kiện họ gọi Chúa Giêsu là con bà Maria cho chúng ta biết có lẽ Giuse đã qua đời. Từ đó, chúng ta hiểu được một trong nhiều điều bí ẩn của đời sống Chúa Giêsu. Ngài chết lúc chỉ được ba mươi ba tuổi, nhưng Ngài không lìa bỏ Nagiarét trước năm ba mươi tuổi (Lc 3,23). Tại sao Ngài lại trì hoãn lâu đến thế? Tại sao Ngài vẫn nán lại Nagiarét trong khi cả thế gian đang chờ đợi cứu rỗi? Có phải vì Giuse đã chết sớm và Chúa Giêsu phải đảm nhiệm việc nuôi dưỡng mẹ? Ngài vốn trung tín ngay trong những việc nhỏ nhặt, cho nên cuối cùng Thiên Chúa giao cho Ngài làm rất nhiều việc.
Nhưng dân chúng Nagiarét lại khinh dể Ngài vì họ biết rõ gia đình Ngài. Thomas Campell là một nhà thơ lớn. Cha ông lại chẳng biết gì về thi ca. Khi Thomas xuất bản tập thơ đầu tay, với tên tác giả là Thomas, ông gửi một tập tặng cha mình. Ông cụ cầm tập thơ lên xem. Thật ra ông chỉ nhìn vào bìa sách chứ chẳng đọc gì trong nội dung. Ông cụ kinh ngạc tự nhủ “có ai nghĩ được nó có thể làm một cuốn sách như vậy nhỉ”. Nhiều khi sự thân thuộc đáng lẽ phải tạo ra một sự tôn trọng mỗi ngày càng gia tăng, nó lại tạo ra sự coi thường, xem nhẹ hơn. Lắm khi chỉ vì chúng ta sống quá gần gũi với một người nào đó nên không thấy được chỗ cao thượng, vì đại của người ấy.
Kết quả của mọi việc vừa kể là Chúa Giêsu không thể làm nhiều phép lạ tại Nagiarét. Môi trường không thích hợp, có nhiều điều chỉ thực hiện được trong hoàn cảnh thích hợp.
1/ Ngày nay vẫn thế, nếu một người không chịu để chữa bệnh thì không thể lành bệnh được.
Margot Asquith kể lại cái chết của Neville Chamberlain. Mọi người đều biết chính sách của Neville đã khiến ông ta rất đau lòng. Margot đến gặp và nói với bác sĩ của ông ta là Lord Horder “Ông chẳng có khả năng của một bác sĩ, Chamberlain chỉ lớn hơn Churchill vài tuổi và phải nói là ông ta khỏe mạnh lắm, ông có quý mến ông ấy không?”. Lord Horder đáp “Tôi rất quý mến ông ta, tôi thích tất cả những con người khó thương ấy, tôi đã gặp nhiều người như thế rồi. Ông ta bị chứng rụt rè. Ông ta không muốn sống, khi một người nào đã nói thế, chẳng có bác sĩ nào có thể cứu nổi người ấy”. Chúng ta có thể gọi đó là đức tin, là ý chí muốn tồn tại, nhưng nếu không có nó chẳng một ai có thể sống được.
2/ Trong một bầu không khí không thuận lợi, không còn có thể giảng dạy gì được, các nhà thờ của chúng ta khác hẳn nếu tín hữu nhớ rằng chính họ phải giảng hơn phân nửa bài giảng.
Trong một bầu không khí chờ đợi, khao khát thì chỉ cần một ít cố gắng, ngọn lửa cũng có thể cháy bùng lên. Nhưng trong bầu không khí lạnh lùng chỉ để chê bai, chỉ trích hoặc với thái độ hờ hững, dửng dưng, thì những lời nói dù được đầy tràn Thánh Thần, vẫn cứ từ trời rơi xuống đất và bị chết cứng.
3/ Trong một bầu không khí không thuận lợi, thì không thể có sự hòa giải.
Nếu người ta chỉ họp lại để từ chối thù ghét nhau, thì họ vẫn cứ thù ghét nhau. Nếu người ta chỉ họp nhau lại để cảm thông nhau thì họ vẫn hiểu lầm nhau. Nếu người ta chỉ họp nhau lại để không thấy gì khác hơn là quan điểm riêng của chính mình, họ sẽ chẳng còn thấy ai khác nữa. Nhưng nếu mọi người đến với nhau bằng tình yêu của Chúa Giêsu để tìm cách thương yêu nhau, thì dù những kẻ vốn cách xa nhau hơn hết, vẫn có thể hiệp nhất trong Chúa.
Chúng ta vốn được giao phó trọng trách, hoặc tiếp tay, hoặc ngăn trở công việc của Chúa. Chúng ta có thể mở rộng cửa cho Ngài, hoặc đóng nó lại truớc mặt Ngài.
86. Suy niệm các ngày trong tuần 14 TN
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.)
THỨ HAI – Mt 9, 18-26
Bàn tay của niềm tin và quyền năng
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, thánh Mátthêu đã rất tinh tế khi tập trung đến hành động của bàn tay:
Trước tiên là lời van xin của vị kỳ mục: “Xin Ngài đến đặt tay trên nó, thì nó sẽ sống lại”;
Tiếp theo là hành động tin tưởng của người phụ nữ bị bệnh, bà tìm mọi cách để chạm tay vào gấu áo của Đức Giêsu để mong được khỏi bệnh;
Cuối cùng là hành động nhân ái của chính Đức Giêsu khi Ngài “… vào cầm tay đứa bé và nó liền chỗi dậy”.
Với ba hình ảnh khác nhau về cử chỉ bàn tay, thánh sử Mátthêu đã dệt nên một bức tranh diễn tả niềm tin của vị kỳ mục và người phụ nữ bị bệnh, đồng thời cũng làm toát lên quyền năng và ân sủng của Thiên Chúa qua bàn tay của Đức Giêsu.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có một niềm tin mãnh liệt như vị kỳ mục và người đàn bà. Không được buông trôi, thất vọng khi những khó khăn, bệnh tật xảy đến trong đời. Những lúc như thế, hãy vững tin tuyệt đối vào Chúa. Mặt khác, noi gương Đức Gêsu, luôn dùng bàn tay của mình để hành động vì đức ái, luôn giúp đỡ và làm ơn cho tha nhân, nhất là những anh chị em kém may mắn hơn chúng ta.
Mong thay, Lời Chúa mà chúng ta vẫn lắng nghe hằng ngày sẽ được hiện tại hóa cách sống động nơi đời sống đức tin của chúng ta, để “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày hôm nay cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của người môn đệ Đức Kitô”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin giúp chúng con biết sống liên đới và yêu thương mọi người như Chúa. Amen.
*******
THỨ BA – Mt 9, 32-38
Xin mở miệng con
Hôm nay, Đức Giêsu đã chữa lành một người bị quỷ câm ám. Khi đã được thoát khỏi quỷ câm, người đó liền nói được.
Sau đó, Đức Giêsu còn đi khắp các làng mạc giảng dạy, chữa lành các bệnh tật.
Tiếp theo, Ngài đã mời gọi các môn đệ hãy đi để loan báo về tình thương của Thiên Chúa cho mọi người.
Khi nói đến câm, chúng ta thấy có hai dạng: một là câm ngoài ý muốn, tức là câm từ lúc mới sinh, hay bị một sự cố nào đó mà ảnh hưởng đến thanh quản, khiến bệnh nhân không nói được; hai là câm tự ý muốn, tức là đương sự không muốn nói.
Giữa hai dạng, câm ngoài ý muốn, tự bản chất, không ảnh hưởng đến ơn cứu độ. Tuy nhiên, dạng thứ hai, tức là câm tự ý muốn thì nguy hiểm, và có thể mất ơn cứu độ nếu lựa chọn câm vì không dám lên tiếng bênh vực sự thật, công lý và công bằng khi mình có thể thi hành được mà không làm. Câm vì không dám bênh vực sự thật, không dám loan báo Lời Chúa. Câm vì đồng lõa với những trò bẩn thỉu và tội ác chống lại con người!
Nguyên nhân bị câm tự ý muốn có thể vì lý do ham tiền, hám lợi, mua quyền, bán chức, thượng tôn tình dục ….
Thật vậy, nói về sự thanh thoát làm sao được khi chính mình ham tiền, hám bạc! Nói về sự từ bỏ sao được khi chính mình ham quyền, cố vị! Nói về khiết tịnh sao được khi chính mình khoái danh, sắc, dục…! Và, nói về đạo đức, bác ái, dấn thân, phục vụ làm sao khi chính tôi còn đang tham sân si! Hay không thể nói về tha thứ được, vì tôi còn đang nuôi hận thù! Và nói về sự thật làm sao khi chính tôi là người gian dối chuyên nghiệp!
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy nên ngôn sứ của Đức Giêsu và thuộc về Ngài để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, chứ không chỉ như cái xác vô hồn hay chiếc bóng trong cuộc sống, để rồi sống buông tha, suy đồi và không dám làm chứng cho Tin Mừng. Bên cạnh đó, sứ điệp Lời Chúa cũng nhắc cho mỗi người chúng ta cần loại bỏ những hệ quả của ma quỷ như: độc địa, ích kỷ, gian tham, hận thù, rượu chè, cờ bạc… và không được đứng về phía sự ác để thành kiến, ghen tương, đố kỵ mà chà đạp người anh chị em chúng ta để đưa mình lên như những người Pharisiêu khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp sức cho chúng con, để chúng con không bị câm về phần hồn. Xin cho chúng con can đảm nói và làm chứng về Chúa cho anh chị em. Và, xin cho chúng con đừng vì miếng cơm manh áo mà chà đạp anh chị em mình xuống để vươn lên trong sự bất chính. Amen.
*******
THỨ TƯ – Mt 10, 1-7
“Phải truyền giáo”
Truyền Giáo là bản chất của Giáo Hội. Nếu không truyền giáo, chúng ta đánh mất bản chất của mình. Vì thế, Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II khẳng định “Giáo Hội vẫn sẽ tiếp tục là một Giáo Hội truyền giáo trong tương lai, bởi vì đặc tính truyền giáo thuộc về bản chất của Giáo Hội” (Thông điệp Tertio Millennio Adveniente, số 57). Bởi vì Giáo Hội coi: “Truyền giáo là một ân sủng, ơn gọi xứng hợp, và là căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội” (Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, số 14).
Hôm nay, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ chia sẻ sứ mạng mà Ngài đã lãnh nhận từ Chúa Cha. Sứ mạng ấy là: hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi người, mọi nơi hầu cho “muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19).
Cùng một sứ mạng, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta, những Kitô hữu, mỗi người một cách, hãy loan báo Tin Mừng cho mọi người, mọi nơi băng nhiều cách thế khác nhau để cho muôn dân được nhận biết Đức Giêsu và ơn cứu độ của Ngài mang lại.
Mong sao, lệnh truyền của Đức Giêsu “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15), và thái độ, ý thức về truyền giáo của thánh Phaolô cũng là của chính chúng ta: “Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1Cr 9, 16).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn trợ lực cho các nhà thừa sai trên cánh đồng truyền giáo của
Giáo Hội, để các ngài chu toàn bổn phận đã được trao phó, đồng thời, xin cho chúng con được trở nên môn đệ và được tiếp bước với Chúa trên cánh đồng mênh mông bao la hiện nay. Amen.
*******
THỨ NĂM – Mt 10, 7-15
Căn tính của người môn đệ
Đức Giêsu đã trao truyền cho các môn đệ sứ mạng và sự nghiệp của chính Ngài.
Thật vậy, hôm nay, như một người thầy nhắn nhủ các môn sinh của mình trước lúc lên đường, Đức Giêsu trao cho các ông quyền trên mọi thần ô uế, để các ông chữa lành, và củng cố lời giảng của mình, hầu cho lời giảng có giá trị và thuyết phục, đồng thời để lời nói và hành động không bị mâu thuẫn.
Từ bài Tin Mừng, chúng ta có thể hiểu về lời căn dặn của Đức Giêsu trước khi sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng như sau:
Trước tiên là nhiệm vụ của người ra đi: người được sai đi là để loan báo Tin Mừng chứ không phải là loan báo tin buồn, đồng thời sai đi để chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền chứ không phải gieo rắc đau thương.
Thứ hai là tinh thần của người ra đi: người được sai đi sẽ gặp không ít khó khăn, nên cần phải tin tưởng, trao phó mọi sự nơi Chúa. Ra đi trong tinh thần thanh thoát, không cần phải cồng kềnh và quá lo lắng cho ngày mai. Hãy là người tôi tớ phục vụ, bởi vì: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”.
Thứ ba là thái độ của người ra đi: người môn đệ muốn được thành công thì phải mặc lấy thái độ của hạt lúa, tức là tự hủy ra không, phải nhân từ để “ngửi thấy mùi chiên” và “mang mùi chiên nơi mình”. Không ngại khổ, ngại khó và cần phải hy sinh. Luôn quan tâm đến người khác hơn là nghĩ về mình.
Thứ tư là lập trường của người ra đi: sống trong một xã hội chủ chương vô thần, muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi tư tưởng, nhận thức của con người. Lập trường của họ là không có Thiên Chúa, cũng chẳng có niềm tin…. Vì thế, họ không ngần ngại uốn nắn và tìm đủ mọi cách dưới nhiều hình thức tinh vi để gây nên những hoang mang, thất vọng. Bên cạnh đó là những trào lưu tục hóa, những văn hóa phẩm đồi trụy… nhằm gieo rắc những chân lý nửa vời và làm cho con người lấn sâu trong tội mà không biết! Và cũng những con người đó, họ muốn loại bỏ người môn đệ của Chúa, vì thế, cái chết là kết cục cuối cùng của người môn đệ. Số phận của người môn đệ là: như chiên đi vào giữa bầy sói.
Tuy nhiên, lập trường của người môn đệ, trong mọi hoàn cảnh, không bao giờ và không có cách nào được phép đồng lõa, thỏa hiệp để chỉ vì mục đích “rẻ tiền” nhằm được yên thân. Lập trường của người môn đệ còn là hiện diện và sống những giá trị Tin Mừng cách thực tế chứ không chỉ lo cái gọi là bề ngoài cho thật “hoành tráng” theo thói đời, nhưng bên trong thì rỗng tuếch.
Thứ năm là chiến lược của người môn đệ: được mời gọi hiện hữu giữa thế gian nhưng không bị thế gian điều khiển và đẩy đưa để dẫn đến cái gọi là: dùng phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt. Phải khôn như rắn để xây dựng, bảo vệ sự hiệp nhất của Giáo Hội, và phải hiền lành, đơn sơ như chim bồ cầu trong tinh thần huynh đệ.
Cuối cùng, lời chào của người ra đi là lời chúc bình an của Chúa chứ không phải là những gợi ý, mong muốn để được nâng đỡ cách này hay cách khác mang tính phàm tục.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được trở nên môn đệ đích thực của Chúa như lòng Chúa mong ước. Amen.
*******
THỨ SÁU – Mt 10, 16-23
Số phận người môn đệ
Từ vài năm qua, phong trào bách hại các tín hữu Kitô ngày càng gia tăng tại nhiều nơi trên thế giới, trong đó có các nước như Iraq, Ấn Độ, Pakistan, Indonesia, Nigeria…
Thoạt nghe, chúng ta có thể thấy rất thương tâm và xót xa cho số phận của các Kitô hữu bị cách hại tại những nơi này!
Tuy nhiên, nếu quy chiếu cuộc đời người môn đệ với Đức Giêsu thì không có gì là lạ cả, bởi lẽ người môn đệ là người bước theo Đức Giêsu trên chính con đường mà Ngài đã đi. Bước theo Thầy thì Thầy đi đâu, trò đi đấy; Thầy sống sao, trò sống vậy; và số phận của Thầy cũng là số phận của trò.
Tư tưởng này đã được Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc đến ngày 05-05-2013, ngài nói: “Có quá nhiều những cộng đoàn Kitô hữu trong thế giới này đang bị bách hại. Con đường của các tín hữu Kitô là con đường của Đức Giêsu. Nếu muốn là các môn đệ của Ngài, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường Ngài đã chỉ ra với những hệ lụy là bị thế gian căm ghét”.
Chân lý đó được bắt nguồn từ những lời tiên báo của Đức Giêsu cho các môn đệ hôm nay. Ngài muốn báo trước cho các ông, để những sự việc đó đến, các ông can đảm và vững bước thi hành sứ vụ, dầu có phải chết.
Thật vậy, nếu Thầy Chí Thánh đã chấp nhận cái chết để làm chứng cho sự thật, cho tình yêu, thì đến lượt các môn đệ và mỗi chúng ta, chắc chắn không có con đường nào sáng giá hơn là con đường đón nhận hy sinh, đau khổ và ngay cả cái chết để làm chứng cho Chúa và Tin Mừng của Ngài.
Ngày nay, tại đất nước của chúng ta, xét về câu chữ, không còn thấy trong những văn bản nói về việc cấm cản việc loan báo Tin Mừng. Tuy nhiên, tại nhiều nơi, nhất là những vùng sâu vùng xa, do những con người thiếu hiểu biết hay ác ý gây nên những khó khăn, cản trở việc thực hành đạo của giáo dân, khiến người dân không thể giữ đạo cách công khai.… Đây có thể hiểu là một trong những hình thức ngăn cản đạo giáo của chúng ta!
Tuy nhiên, nếu nhìn rộng ra và suy tư một chút, hẳn chúng ta thấy hơn bao giờ hết, ngày nay, con người lại đang bị bách hại khủng khiếp nhất. Cuộc bách hại trên diện rộng và sâu xa, nó có sức tàn phá mãnh liệt hơn cả thương tích, chết chóc về mặt thể lý. Cơn cám dỗ đó đến từ những trào lưu tục hóa, những phim ảnh, sách báo đồi trụy, những chủ thuyết triết học hiện sinh muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của con người và xã hội, để thay vào đó là những quan niệm “tự nhiên có”; hay “có là do tôi làm ra”.
Dần dà, nó làm cho con người có những lựa chọn sai lạc vì những “chân lý nửa vời” chỉ đạo.
Thiết nghĩ, những cơn cám dỗ đó đến với người môn đệ, đòi hỏi chúng ta phải có một chọn lựa. Tiếp tục theo Chúa hay buông xuôi. Nếu theo Chúa thì phải cẩn trọng và cương quyết từ bỏ những quyến luyến, cám dỗ của bản năng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết can đảm, trung thành theo Chúa đến cùng. Xin cho chúng con biết khước từ những điều bất chính để được thuộc trọn về Chúa. Amen.
*******
THỨ BẢY – Mt 10, 24-33
“Đừng sợ”
Khi khởi đầu sứ vụ Phêrô, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Đừng sợ! Hãy mở rộng cánh cửa đón nhận Đức Kitô”. Tại sao Đức Giáo Hoàng lại nói như thế? Phải chăng ngài nhận ra một thế giới đang xa dần Thiên Chúa, hay lòng người đã buông xuôi và không chấp nhận hoặc không dám đứng về phía sự thiện?
Thật vậy, ngày nay, khi con người được Thiên Chúa quan phòng cho có khả năng để phát minh ra nhiều điều mới lạ, hữu ích để phục vụ nhân loại cho tốt hơn, thì cũng là lúc con người muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của họ. Bởi vì họ sợ Chúa và những giá trị Tin Mừng của Ngài làm cho họ phải thay đổi một nếp sống mà họ đang theo, nếp sống đó là sự bất chính, trái với Tin Mừng của Chúa dạy.
Như vậy, dù trong mọi hoàn cảnh, mọi thời… người môn đệ Chúa Kitô vẫn được sai đến với những nơi đang xa dần Thiên Chúa như thế. Dẫu biết rằng đây là điều khó, đôi khi phải chết vì sứ vụ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đừng sợ cái giá phải trả cho việc làm chứng về Đức Giêsu. Hãy can trường tín thác nơi Chúa. Hãy tin tưởng vào Đức Giêsu vì Ngài đã thắng thế gian.
Mong sao trong mọi hoàn cảnh, chúng ta đều xác tín rằng: sự thật sẽ giải thoát chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn tỏa sáng niềm vui Tin Mừng trong cuộc sống. Xin cho chúng con luôn được ơn can đảm để dấn thân vào mọi môi trường, hầu loan báo về Chúa cho muôn dân. Amen.
87. Đừng thành kiến
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Mc 6: 1-6: Từ thuở tạo thành, Kinh Thánh đã chứng minh nỗi đau, sự nghiệt ngã do lòng người cao ngạo gây ra: Tổ tông loài người đã cao ngạo đến mức không thể hiểu nổi….
Từ thuở tạo thành, Kinh Thánh đã chứng minh nỗi đau, sự nghiệt ngã do lòng người cao ngạo gây ra: Tổ tông loài người đã cao ngạo đến mức không thể hiểu nổi.
Đang được làm người hạnh phúc, tự do, và thấm đẫm tình yêu Thiên Chúa đã là một ân phúc tuyệt vời, vậy mà tổ tông đã không coi đó làm đủ, lại dám nuôi một giấc mộng tầm cỡ thiên đàng: đòi bằng Thiên Chúa, Đấng mà mình phải phát xuất từ đó. Tổ tông không ngờ giấc mộng của mình lại chính là ảo vọng và tội lỗi.
Bởi cao ngạo quá đỗi, tổ tông đã kéo theo những mất mát cũng lớn không kém: mất Thiên Chúa. Bằng chứng là tổ tông đã tìm cách trốn Thiên Chúa. Mất cả tương quan với đồng loại. Mới ngày nào Ađam còn reo to vui mừng khi được Eva làm bạn: “Đây xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Nhưng sau khi phạm tội, tình nghĩa thắm thiết đã không còn. Nguyên tổ bắt đầu đổ lỗi cho nhau: “Người đàn bà Chúa ban cho con đã hại con”. Và trong tội, nguyên tổ đã đánh mất chính mình, trở thành những kẻ vong thân, sống trong lầm lũi, sợ hãi và tủi nhục.
Vì yêu thương con người, Thiên Chúa đã chọn và gọi những sứ giả để nói với con người về tình thương mà Thiên Chúa dành cho con người. Sứ giả là người được chọn lựa và được sai đi để loan truyền Tin Mừng cho muôn dân, là người nói nhân danh Thiên Chúa.
Đức Kitô là vị Thiên Sai đến mạc khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa và những ý định của Ngài, nhờ đó chúng ta được cứu độ. Trong đời sống công khai, Ngài đã bị chống đối và khinh miệt, như lời thánh Gioan đã viết: Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng gia nhân đã không tiếp nhận Ngài.
Qua trang tin mừng này, ta thấy lòng ghen tị đã làm mù quáng những kẻ mà đáng lẽ có thể tin theo Ngài. Vậy chúng ta có thái độ nào đối với lòng ghen tị. Khi người khác được thành công, được may mắn, được kính nể, chúng ta có biết cảm tạ Chúa cho họ hay không? Còn nếu như chúng ta bị người khác ghen tị, chúng ta có biết xin Chúa giúp họ chế ngự và sửa đổi lầm lỗi ấy hay không? Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ chống đối Ngài, thì giờ đây chúng ta hãy xin Ngài giúp đỡ chúng ta biết vượt thắng sự thèm khát và lòng ghen tị nơi bản thân chúng ta, cũng như nơi những người chung quanh chúng ta.
Đồng hương của Chúa đã sai lầm vì cao ngạo. Chính cái lý lịch xem ra rất tầm thường của Chúa mà họ đã xúc phạm nặng nề với Chúa: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?”. Cũng chính cái lý lịch ấy, làm cho họ, thay vì được nhiều ơn lành từ Chúa Giêsu, thì ngược lại, họ đánh mất tất cả.
Dân làng Nagiarét mang nặng thành kiến về Đức Giêsu. Dưới mắt họ, Người chỉ là một anh thợ mộc tầm thường, nghèo nàn và chẳng có gì đặc biệt. Người xuất thân trong một gia đình nghèo hèn, không danh giá. Họ biết rõ cha mẹ, họ hàng của Người. Thấy Người làm được những việc kỳ lạ. Nghe miệng Người giảng những điều khôn ngoan. Họ ngạc nhiên, nhưng không tin. Đối với họ, Đấng Cứu Thế phải là một Đấng phi thường, không ai biết rõ nguồn gốc. Hơn nữa, Đấng Cứu Thế phải oai phong lẫm liệt, đánh đông dẹp bắc rồi lên ngôi vua trị vì thiên hạ. Đàng này, Đức Giêsu thì họ biết rõ nguồn gốc. Người lại quá hiền lành khiêm nhường.
Tướng mạo không giống như hình ảnh Đấng Cứu Thế mà họ nuôi trong đầu óc. Vì thế, họ không tin. Vì họ không tin, nên Đức Giêsu không thể làm phép lạ nào ở đó. Người bỏ họ mà đi. Không bao giờ Người trở lại Nagiarét nữa. Thật là thiệt hại cho làng quê Nagiarét. Họ đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Họ đã để lỡ cơ hội đón nhận ơn cứu chuộc. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở. Chỉ đến một lần trong đời. Rồi thôi. Ai để lỡ sẽ không bao giờ có cơ hội chuộc lại. Thiên kiến đã làm hại họ.
“Người đã không làm phép lạ nào được”. Có Thiên Chúa ở với mình, nhưng không biết đón nhận, vì thế, họ đã đánh mất cả Thiên Chúa: Không những không thể làm phép lạ, Chúa Giêsu còn bỏ ra đi. Người “qua các làng chung quanh mà giảng dạy”. Khi cố tình đẩy Chúa Giêsu ra khỏi cuộc đời mình, những người đồng hương của Chúa đã làm tổn thương mối liên hệ với Chúa Giêsu xét như một con người: tổn thương mối tương quan giữa người với người.
Mãi đến tận bây giờ, vì không nhìn nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa, sự cao ngạo quá mức ấy, đã làm cho người Dothái, là những đồng hương của Chúa Giêsu, đã qua hai mươi thế kỷ, vẫn cứ vuột mất ơn cứu độ, vẫn là những người mỏi mòn trông chờ Đấng Cứu Thế của lời hứa. Ngày xưa, vì cao ngạo, tổ tông đã thất bại thảm hại. Bây giờ, cũng vì cao ngạo, quê hương của người Dothái, cũng chính là quê hương của Chúa Giêsu, đã tự mình tách khỏi ơn cứu độ. Đó quả là một thất bại thảm hại còn lớn gấp ngàn lần thất bại của tổ tông.
Dù bị ngược đãi khinh khi, dù phải đối diện với lòng chai dạ đá, Đức Giêsu vẫn không ngã lòng từ bỏ sứ vụ. Thánh kinh ghi nhận: lúc đám đông không tin phục thì Ngài đi đến với “một vài bệnh nhân;” khi thành này từ khước Tin Mừng thì Chúa Giêsu lại đi rao giảng cho “các làng chung quanh.” Đây phải là thái độ không thể thiếu được nơi các ngôn sứ, những người được mời gọi rao truyền Lời Chúa cho muôn dân.
Có nhiều người ở ngoài đời thì nhẹ nhàng, tao nhã, lịch sự, về nhà lại gắt gỏng, chửi chồng đánh con hay đánh vợ chửi con. Có nhiều người thì dễ dàng mở miệng khen ngợi hàng xóm láng giếng, kể cả người dưng nước lã, thế mà, người trong gia đình, lại suốt ngày cau có, phàn nàn. Có nhiều người luôn nghĩ cách làm vui lòng hàng xóm nhưng lại tàn bạo thô thiển với gia đình dòng tộc. Có nhiều người luôn tỏ ra đáng yêu trước người dưng nước lã, nhưng lại đáng ghét với người thân họ hàng.Họ chính là những người dại khờ mà cha ông ta bảo rằng: “khôn nhà dại chợ”, hay “làm phúc nơi nao để cầu cao rách nát”.
Đó cũng là thái độ của những người đồng hương với Chúa Giêsu. Họ đã vấp phạm với Chúa. Vì họ quá biết về gốc gác, gia cảnh của Chúa. Con bác thợ mộc và bà Maria đang chung sống giữa họ. Đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Chúa Giêsu. Dù rằng họ thán phục về tài ăn nói lưu loát của Chúa. Dù rằng họ thán phục vì sự hiểu biết Kinh Thánh của Chúa. Dù rằng họ đã chứng kiến biết bao phép lạ mà Chúa đã làm để cứu chữa các bệnh nhân khỏi đau khổ bệnh tật và khỏi cái chết đã định. Nhưng vì sự kiêu ngạo, cố chấp, dân Do Thái đã không chấp nhận một vì Thiên Chúa quá giản dị như Giêsu con của bác thợ mộc thành Nagiarét.
Đối với một dân tộc đã từng tự hào có Thiên Chúa ở cùng. Có cánh tay quyền năng của Chúa đã giúp họ đánh bại quân thù. Tâm trí họ chỉ trông đợi một Đấng Messia oai hùng, Đấng sẽ đến trị vì muôn nước và sẽ giúp họ làm bá chủ hoàn cầu. Chính vì lẽ đó, người đồng hương đã không nhận ra Chúa là Đấng Messia và còn có những lời nói, cử chỉ bất kính. Với thái độ cực đoan đó, Chúa Giêsu đã vạch trần tâm ý của họ với một lời thật xót xa “Không một tiên tri nào được kính trọng tại quê hương mình”.
Rất nhiều khi ta cũng mang nặng thành kiến. Thành kiến đối với anh em. Thành kiến đối với Chúa. Hôm nay, rút kinh nghiệm của những người dân làng Nagiarét, ta hãy tránh thành kiến bằng cách tìm học hỏi để biết Chúa, biết giáo lý của Chúa hơn. Nhất là có tâm hồn mở rộng và khiêm nhường để biết đón nhận Chúa, đón nhận thánh ý Chúa. Nếu ta khiêm tốn đón nhận, Chúa sẽ dạy dỗ ta những chân lý nước trời đem lại hạnh phúc cho ta.
Thành kiến làm chúng ta không thể đối thoại, cởi mở với người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những gì là thành kiến về bản thân để khỏi tự ti mặc cảm; cũng như thành kiến về những người chung quanh, để có được một cái nhìn đúng đắn hơn, một nhận xét chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn, và một đời sống yêu thương cởi mở hơn.
88. Dán nhãn
(Suy niệm của Huệ Minh)
Ta bắt gặp thời niên thiếu của chủ hãng Microsoft. Bill Gates chẳng biết học hành sao đó nhưng bị rớt vài môn còn các bạn thì đậu hết. Hẳn nhiên, các bạn của Bill rất coi thường vì học lực của Bill kém đến như thế.
Chắc có lẽ những người bạn học cùng thời với Bill vui vẻ dèm pha và chỉ trích cũng như trêu chọc với cái thành tích đó. Bill Gates bộc bạch: “Tôi rớt một vài môn cuối kì còn bạn tôi đậu hết. Hiện tại anh ấy là một kĩ sư của Microsoft còn tôi là chủ của Microsoft.”
Còn với cựu tổng thống Mỹ George W.Bush chưa bao giờ được đánh giá cao ở khả năng diễn đạt trước đám đông, nhưng ông cũng kịp thời ghi dấu ấn cho bản thân khi có một bài phát biểu khá sâu sắc và ý nghĩa lúc có mặt trong ngày lễ tốt nghiệp của các sinh viên trường đại học Southern Methodist.
Ông nói: “Đối với các bạn trẻ đã tốt nghiệp trong buổi lễ chiều nay với điểm số cao cùng học lực khá giỏi, tôi có lời khen, ‘Làm tốt lắm.’
Và tôi cũng dành lời khen này cho các bạn học sinh trung bình: Các bạn nữa, cũng đều có thể trở thành tổng thống.”
Với câu nói trên, cựu tổng thống Bush đang tự châm biếm bản thân khi chính ông cũng đã từng đạt được các điểm số rất lẹt đẹt khi còn học cao đẳng. Tuy vậy, cho đến ngày hôm nay – cựu tổng thống Hoa Kỳ lại là một trong những ví dụ kinh điển nhất về việc điểm số thời đi học sẽ không quyết định tương lai sau này của bạn, cũng như là minh chứng cho một cuộc sống luôn đầy ắp những khả năng vô hạn.
Và dù có thích Bush hay không, thì bạn vẫn không thể chối cãi rằng, những gì ông nói trong bài phát biểu trên đây là hoàn toàn chính xác. Trên thực tế, còn nhiều cái tên khác trong lịch sử các tổng thống Mỹ cũng đã từng học rất tệ như John F. Kennedy, Lyndon B. Johnson và cha của Bush – cựu tổng thống George H.W Bush. Bên cạnh danh sách các nhà lãnh đạo “học dở” của cường quốc số một thế giới này, chúng ta còn có thể kể đến những doanh nhân thành công; những con người đã không để dư âm trường học ngăn cản công cuộc chinh phục đỉnh cao vinh quang của mình.
Những cái tên nổi bật nhất đầu tiên có thể kể đến là Steve Jobs khi ông chưa bao giờ học xong đại học – cũng giống như Bill Gates và Mark Zuckerberg. Các trường hợp tương tự như nữ tỉ phú trẻ tuổi nhất thế giới, Elizabeth Holmes, người vẫn đang là niềm cảm hứng cho cuộc cách mạng y học, cũng bỏ ngang đại học Stanford để theo đuổi ước mơ của mình. Theo sau có thể kể đến tỉ phú Richard Branson – người bị chứng khó đọc và đã bỏ học từ năm 15.
Ở đời, người ta vẫn thường hay dán nhãn cho nhau, nhìn nhau bằng ánh mắt khinh khi khi người khác thua kém mình, người khác không bằng mình.
Nảy giờ ta nghĩ chuyện ngoài đời, ta nói chuyện ngoài đời.
Ngay trong Giáo Hội cũng thế! Ngay thời Chúa Giêsu, người ta vẫn thường có thói quen dán nhãn cho một người nào đó mà như Chúa Giêsu lại chính là nạn nhân.
Hôm nay, trong trang Tin Mừng rất ngắn của Thánh Maccô ta bắt gặp: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” (Mc 6, 2-4)
Nhận định của dân hoàn toàn đúng chứ không sai! Thế nhưng, Thiên Chúa thường vẫn làm những chuyện mà con người xem ra là bất thường. Người ta đã dán cho Chúa Giêsu một cái nhãn bình thường và họ nhìn Ngài trong cái nhãn giới tầm thường của họ.
Những kiểu dán nhãn của họ có tính cách cố định. Dán nhãn đã làm trở ngại cho những cuộc tiếp xúc giữa Chúa Giêsu và người đồng hương. Chính những dán nhãn đó làm cản trở ơn thánh đến với họ. Họ nuôi quan niệm sai lầm về Đấng Cứu thế. Theo họ thì vị thiên sai phải là một nhà lãnh đạo chính trị lỗi lạc, một nhà cải cách xã hội tài ba, một vị tướng lãnh tài giỏi, bách chiến bách thắng, có thể đưa dân tộc họ lên hàng bá chủ hoàn cầu. Khi họ nhận ra Chúa Giêsu không thích hợp với với quan niệm họ sẵn có về Đấng cứu thế, thì họ từ khước Người. Vì thế đối với họ, Chúa Giêsu không thể là Đấng cứu thế. Với sự dán nhãn, họ đã làm cản trở cho đức tin vào Chúa, vào lời Chúa và quyền năng của Chúa như Chúa muốn họ tin tuởng. Do đó Chúa Giêsu nói với họ: Ngôn sứ có bị coi rẻ thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình (Mc 6, 4).
Trang Tin Mừng hôm nay ghi lại: Người đã không thể làm phép lạ nào tại đó, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân (Mc 6, 5). Sở dĩ Chúa Giêsu không làm phép lạ nào được vì như lời Phúc âm ghi lại họ cứng lòng tin (Mc 6, 6).
Ta có thể thầm trách đám đông trong Tin Mừng hôm nay vì họ đã khước từ Chúa, họ đã tẩy chay Chúa.
Tuy nhiên, trong cõi lặng của cuộc đời, ta có thể nhìn ra ta cũng giống như những người trong Tin Mừng hôm nay.
Nếu ta chỉ đi tìm Chúa nơi những người quyền cao chức trọng, hay ở những nơi nguy nga tráng lệ mà thôi, ta sẽ khó tìm thấy Chúa. Thiên Chúa còn hiện diện nơi những người bình thường mà ta thường gặp, cũng như những sự việc xẩy ra thường ngày. Ta khó nhận ra những dấu vết của Chúa nơi người khác cũng như sự việc ta gặp hằng ngày nếu ta để cho thái độ quen quá hoá nhàm xâm chiếm đời sống tư tưởng của ta.
Thiên Chúa không những hiện diện ở những nơi tầm thường như phố nhỏ Nadarét, mà còn ở nơi dơ bẩn, hôi hám như trong máng cỏ Bêlem. Ta có thể tìm thấy Chúa nơi người đau yếu, bệnh tật, nghèo khổ và tù đầy. Đó là điều Chúa nói trong Tin Mừng theo thánh Mátthêu: Khi Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn (Mt 25, 35).
Để có thể tin, người ta phải giữ tâm hồn rộng mở. Nếu ta để cho thành kiến về đạo giáo làm mù quáng, thì những thành kiến có thể làm cản lối Chúa vào nhà tâm hồn. Nếu ta vịn cớ nọ cớ kia để đóng cửa nhà tâm hồn, thì Chúa cũng chịu, không vào được, vì Chúa đã ban cho loài người được tự do và Chúa tôn trọng tự do của loài người. Ân huệ và quyền năng của Chúa tuỳ thuộc vào việc mở rộng tâm hồn của mỗi người. Chúa không ép buộc ai theo Chúa và sống theo đường lối đức tin. Chúa chỉ mời gọi. Việc chấp nhận hay không là tuỳ thuộc vào mỗi người.
Nếu ta để cho việc dán nhãn và tính ganh tị lấn át, ta sẽ không nhìn thấy những ưu điểm và khả thể nơi tha nhân. Nếu ta phán đoán lời nói hay việc làm của người khác chỉ dựa trên bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền và gia cảnh của họ là ta để cho việc dán nhãn len lỏi vào óc phán đoán của ta.
Lời nói hay việc làm có giá trị thường mang tính chất khách quan chứ không tuỳ thuộc vào bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền hay gia cảnh của người nói hay làm. Nghe những lời nói hay việc làm mang khuyết điểm của người khác mà đóng cửa lòng lại, không tìm đến với họ, không cho họ cơ hội để bầy tỏ lí do, thì có phải là quan niệm hẹp hòi chăng? Gặp người khác lướt qua một vài lần, nói mấy lời xã giao mà đã kết luận người đó tốt xấu, thì không phải là nhận xét nông cạn sao? Bỏ việc thờ phượng hay nghe lời giảng dậy ngày Chúa nhật chỉ vì thắc mắc về khả năng hoạt bát và trình độ học vấn của linh mục cử hành thánh lễ và rao giảng thì có phải là một quyết định không dựa trên đức tin chăng? Buồn giận một linh mục nào đó mà không tìm đến thờ phượng ở bất cứ nhà thờ công giáo nào khác thuận lợi, thì có phải là hành động giận cá băm thớt không?
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta bớt đi chuyện dán nhãn cho người khác nhưng hãy nhìn họ như họ là sự hiện diện của Chúa trong đời ta thật. Có như thế, ta mới vững vàng bước đi trong niềm tin là Chúa luôn luôn ở với ta trong mọi nẻo đường đời.
89. Suy niệm các ngày trong tuần 14 TN
(Suy niệm của Huệ Minh)
THỨ HAI – Mt 9, 18-26
Niềm tin đào luyện
Đức Giêsu được sai đến trần gian, Ngài thực hiện chương trình của Thiên Chúa là ban sự sống, là cứu chữa và tìm đến với người bất hạnh đang cần sự an ủi, nâng đỡ. Ngài luôn quan tâm đến hoàn cảnh của con người: cụ thể là người phụ nữ bị bệnh băng huyết, và con gái vị kỳ mục. Tất cả những khổ đau của con người đều có âm hưởng mạnh mẽ trong tâm hồn Chúa Giêsu. Ngài cứu chữa người này, bình phục người kia, hồi sinh người khác, đem lại phẩm giá và sự tôn trọng cho những ai đang bị loại trừ, bị coi khinh. Điều duy nhất Ngài đòi hỏi là lòng tin và sự khiêm tốn của chúng ta nơi quyền năng và lòng thương xót của Ngài.
Trang Tin Mừng hôm nay nằm trong một loạt hành động của Chúa Giêsu về việc loan báo Nước Trời. Ngài chữa lành các loại bệnh hoạn tật nguyền cho người cùng khổ, nghèo hèn. Hôm nay, Ngài đến với 2 giai cấp trong xã hội, tuy họ khác nhau về đẳng cấp chức vị: một người đàn bà bệnh tật và một cô gái nhỏ, con của vị thủ lãnh trong xã hội. Nhưng cả hai đều chung một thái độ. Đó là niềm tin vào quyền năng và tình thương của Đức Giêsu sẽ cứu chữa họ. Nhờ thế, mà họ được chữa lành.
Mở đầu Tin Mừng, Thánh sử giới thiệu con người đến van xin Chúa cứu chữa con gái của ông. Đó là vị thủ lãnh. Chúng ta chú ý đến thái độ của ông ta “bái lạy” và thưa: “Con gái tôi vừa mới chết. Nhưng , xin Ngài đến đặt tay lên cháu là nó sẽ sống”. Ông khẳng định mạnh mẽ: Nó chết rồi, nhưng Ngài đặt tay, nó sẽ sống. Cùng với hành vi bái lạy và lời xác tín của ông cho chúng ta thấy đức tin của ông mạnh mẽ dường nào. Trước thái độ nài xin của ông, Chúa Giêsu không đòi hỏi niềm tin nào hơn nữa, thánh sử viết: Ngài đứng dậy đi theo ông.
Trên đường đến nhà ông, có một người đàn bà bị bệnh băng huyết. Nghĩa là máu trong người bà đã bị mất rất nhiều sau 12 năm bệnh hoạn. Chắc hẳn nhìn vào con người gầy còm, xanh xao ấy mọi người đều biết bà bị mắc bệnh và bệnh này người Do thái coi là ô uế, đối với người nào vô tình chạm vào bà hoặc bà đã đụng đến họ.
Nhưng bất chấp mọi lời đàm tiếu, những cử chỉ khinh chê của người khác, bà đã tiến đến và chạm vào áo Chúa Giêsu, và bà nghĩ: “chỉ cần sờ vào tua áo Chúa, là được cứu” (c. 21). Niềm tin mạnh mẽ của bà này còn vượt lên niềm tin của vị thủ lãnh kia. Vì ông ta còn yêu cầu Chúa Giêsu đến dặt tay lên con ông, còn bà này, bà chỉ cần sờ đến tua áo Chúa. Bà tin, quyền năng và tình thương Chúa không chỉ trong con người Chúa Giêsu mà còn trong cả những vật mà Giêsu chạm tới. Một hành vi đơn giản, một suy luận đơn sơ nhưng mang đậm triết lý thần học: Đấng Thánh sẽ thánh hóa mọi vật mà Ngài chạm đến. Một đức tin đơn sơ của bà đã được Chúa Giêsu chính thức khen thưởng: “Này con cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con” (c.22).
Hành vi “sờ tua áo” lén lút của bà được Chúa tuyên dương công khai trước mặt mọi người. Ngài nhấn mạnh: lòng tin của con. Như thế chính nhờ lòng tin của bà mà bà được khỏi bệnh. Máu là biểu tượng của sự sống. Sự sống đang lần lượt ra đi khỏi con người bà, nay dừng lại. Sự sống đã trở lại và sẽ hồi sinh trong bà chỉ vì một hành vi đức tin đơn sơ của bà. Thánh sử nói tiếp: Ngay giờ ấy, bà được cứu chữa. Đức tin của bà dẫn đến hành động của Chúa Giêsu ngay tức khắc. Ngay khi bà tuyên xưng niềm tin thì ơn cứu độ đã đến với bà. Bà được cứu cả thể xác lẫn tâm hồn.
Chúa Giêsu đến nhà viên thủ lãnh thấy quang cảnh nhà ông đã bao phủ màu tang chế. Kèn trống đang thổi inh ỏi… nhưng Ngài vẫn nói: “ Con bé không chết, nó ngủ thôi!”. Mọi người chế nhạo Chúa Giêsu. Vì cho là Người ngớ ngẩn: Đứa bé đã chết và gia đình em đã chuẩn bị cho cuộc tang lễ, bộ đầu óc ông để ở đâu mà lại phát ngôn một câu nghe không có tỉnh táo.
Họ chế nhạo vì sao Chúa quá khờ dại, không nhận ra những dấu hiệu tang tóc, đau thương. Nhưng Chúa không muốn họ ở lại đó, Ngài ra lệnh họ lui ra ngoài và Chúa tiến vào: “cầm lấy tay em bé, nó liền chỗi dậy”. Câu trả lời của Chúa đối với đám đông là ở đây, là thái độ “ cầm tay em bé”. Một cử chỉ thông truyền sự sống. Và đúng thật Đấng ban sự sống đã đến cầm tay và ban truyền sự sống cho em. Đây là đỉnh cao của sứ vụ Đấng Mêsia- Đấng có quyền trên sự chết và sự sống của con người. Đấng ban sự sống cho con người cũng là Đấng sẽ chỗi dậy sau cái chết, để mọi người cũng được sống lại như Ngài.
Chỉ với 7 câu, Thánh sử Matthêu đã nêu bật sứ vụ của Đấng Mêsia. Đây là cuộc chữa lành không chỉ là bệnh tật mà còn là mạng sống của con người. Chúa Giêsu đã đến để kéo sự sống ra khỏi tay ác thần. Ngài ngăn chặn những tội ác xấu xa của ma quỷ đang thống trị trên thế giới, trong con người. Ngài tỏ lộ uy quyền của Đấng Mêsia- Đấng cứu độ đến từ quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Ngài sẽ cứu những ai đặt tin tưởng nơi Ngài, những ai dám giao phó mạng sống họ trong tay Ngài như bà bị loạn huyết và ông thủ lãnh này.
Thế giới ngày nay đang bị ác thần thống trị khắp nơi, nhưng con người không nhận ra hoặc thậm chí không cần nhận ra điều đó. Họ sẵn sằng làm nô lệ cho đồng tiền, danh dự, vinh quang, phú quý vinh hoa giả tạo. Lương tâm của họ bị che khuất. Cảm thức về tội lỗi bị chai lỳ, không còn sức hút nhạy cảm.
Đón nhận sự sống và ơn lành, phục hồi của Chúa, chúng ta có bổn phận tôn trọng sự sống, bảo vệ và phát triển sự sống. Không phải chỉ sự sống thể xác mà cả sự sống tinh thần và sự sống tâm linh nữa. Không chỉ sự sống nơi mình, mà còn sự sống nơi người khác nữa. Chung quanh chúng ta có biết bao con người đang bị xâm phạm, chà đạp, cách này hay cách khác, bao nhiêu trẻ em không được quyền sinh ra hay không có được những điều kiện thiết yếu nhất để sống. Chúa Giêsu đã sinh ra làm người là để cho con người được sống và sống một cách dồi dào. Chúng ta sẽ không sống trọn vẹn ơn gọi Kitô hữu nếu không biết chia sẻ sự sống nhận lãnh từ Chúa cho anh chị em mình.
Niềm tin của chúng ta cần được rèn luyện, để sau những thử thách đau thương, đức tin chúng ta được vững mạnh hơn. Không nhất thiết là được ơn, được phép lạ như người cha hay như người đàn bà bị bệnh băng huyết trong bài tin mừng hôm nay, điều quan trọng là trong mọi biến cố, chúng ta cần nhìn về phía bên kia điều Chúa muốn, để vững tin vào Chúa. Nhờ thế mà chính ta và những người chung quanh ta có thêm lòng tin cũng như gia tăng lòng cậy trông nơi Chúa.
Ngày hôm nay, hơn bao giờ hết chúng ta bị ma quỷ thống trị mà chúng ta không biết mà còn cho đó là những vị thần cứu tinh của đời mình. Xin Chúa thức tỉnh lương tâm chúng ta. Xin khơi dậy trong tâm hồn chúng ta cái bản chất con người nguyên tuyền ban đầu mà Chúa đã dựng nên. Xin cho chúng ta dám trao cho Chúa cuộc đời của chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta có niềm tin “đơn sơ” của người đàn bà băng huyết hay của ông thủ lãnh… để Chúa cứu chúng ta.
THỨ BA – Mt 9, 32-38
Lời mời gọi truyền giáo
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su mời gọi mỗi Ki-tô hữu trở nên những thợ gặt để đi gặt lúa về. Sau khi trừ quỷ cho người câm, Chúa Giê-su đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Người thấy đám đông vất vưởng, lầm than, như bầy chiên không người chăn dắt thì chạnh lòng thương và Người nói với các môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”.
Không quản khó nhọc, vất vả ngược xuôi trên những chặng đường dài khắp xứ Palestina, Chúa Giêsu “rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 9, 35). Làm biết bao việc tốt lành như thế, nhưng dường như Chúa Giêsu cảm thấy mình vẫn chưa đáp ứng hết mọi nhu cầu của con người. Chúa Giêsu “động lòng thương xót” đoàn lũ dân chúng đông đảo, vì Người thấy họ “tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn” (Mt 9,36). Tất cả thể hiện tấm lòng của Vị Mục Tử Nhân Lành Giêsu (x. Ga 10,1-30), tấm lòng thương xót của một Vì Thiên Chúa.
Hình ảnh về mùa gặt hái đã được các Tiên tri dùng để chỉ Nước Chúa Cứu thế sau này. Thời kỳ sau cùng là thời kỳ gặt hái thu lượm, nghĩa là lúc Thiên Chúa đến phán xét trong ngày tận thế. Chính Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh này trong dụ ngôn cỏ lùng và lúa. Giai đoạn sau cùng của lịch sử đã bắt đầu với việc Nước Thiên Chúa đến; tất cả đều sẵn sàng, nhưng thiếu thợ gặt. Thế giới ngày nay như một cánh đồng mênh mang, nơi có tất rất nhiều linh hồn sẵn sàng đón nhận Nước Trời nhưng phải có người chỉ đường cho họ. Chúa muốn cứu thế gian và Ngài kêu gọi sự cộng tác của con người. Lời kêu gọi của Ngài vẫn có giá trị và khẩn cấp trong mọi thời đại.
Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, mục đích của Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời xuống thế làm người là để cứu chuộc toàn thể nhân loại. Vì thế, trước khi về trời, Chúa Giê-su đã truyền lệnh cho các tông đồ tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Người. Sứ vụ này được tiếp nối nhờ các giám mục là những người kế nhiệm các tông đồ, và qua các ngài cho mọi thế hệ đến tận thế.
Khi được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, Ki-tô hữu trở nên thành phần của dân Thiên Chúa, được tham gia vào chức vụ tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Ki-tô. Vì thế, họ có bồn phận đem Tin Mừng đến cho mọi người. Năm xưa, để cứu chuộc nhân loại, Chúa Giê-su đã chịu khổ nạn, chịu chết trên cây thập giá và sống lại từ cõi chết. Ngày nay, giáo dân loan báo Tin Mừng cho thế giới bằng chính từ đời sống của họ, cũng như qua lời nói và việc làm.
Theo thống kê của Tòa Thánh Vatican mới đây, người Kitô giáo trên toàn thế giới khoảng hơn 2 tỉ người, trong đó người Công giáo có khoảng 1 tỉ 253 triệu người. Trong khi, tổng dân số thế giới ước tính là 7 tỉ 137 người. Như vậy, chiếu theo thống kê trên, vẫn còn tới hơn 2 phần 3 dân số thế giới chưa nhận biết Tin Mừng của Đức Kitô.
Chúng ta phải truyền giáo vì Thiên Chúa muốn mọi người được hưởng ơn cứu độ. Và như vậy, mọi người đều có quyền được nghe loan báo Tin mừng cứu độ. Chúng ta phải truyền giáo còn vì ơn cứu độ mà chúng ta đã đón nhận là quà tặng nhưng không của Thiên Chúa, tức là quà tặng không do công phúc của chúng ta nhưng do lòng yêu thương của Thiên Chúa, và đã là quà tặng nhưng không của Thiên Chúa, thì chúng ta không được giữ lại cho riêng mình nhưng phải được trao ban cho người khác. Và cuối cùng, chúng ta phải truyền giáo vì đó là lệnh truyền giáo của Đức Giêsu, cứu Chúa của chúng ta.
Nhìn vào Giáo hội Á châu, chúng ta sẽ cảm thấy cánh đồng truyền giáo quá mênh mông. Cụ thể là Giáo hội Việt Nam vốn được xếp hàng II sau Giáo hội Philippin. Thế nhưng, trong số gần 80 triệu dân vẫn còn hơn 70 triệu người Việt Nam chưa được nghe loan báo Tin mừng, chưa được nghe biết Chúa Kitô, cứu Chúa của họ. Trách nhiệm đó thuộc về chúng ta vì đó tính khẩn cấp.
Tại Hàn Quốc, số người theo Chúa ngày càng tăng. Có được sự phát triển mạnh mẽ như thế, người giáo dân cũng đóng góp phần không nhỏ. Trở thành Ki-tô hữu cũng có nghĩa là gia nhập một hiệp hội hay phong trào và dấn thân sống đức tin Ki-tô giáo hết mình, theo các điều lệ xác định cung cách sống, đóng góp niên liễm tham dự hằng năm, và hàng ngày phải đọc một số kinh nguyện nào đó. Khi gia nhập Giáo Hội, thì tín hữu chấp nhận tất cả. Và đó là tinh thần sống đạo của người Đại Hàn: hoặc là chấp nhận và dấn thân, hay là không chấp nhận và bỏ đạo.
Là môn đệ của Chúa Kitô, chúng ta hãy trở nên dấu chứng tình yêu của Thiên Chúa cho con người hôm nay. Tình thương của Thiên Chúa phá vỡ thái độ khép kín chết chóc là sự dửng dưng, tình thương ấy được Giáo Hội trao tặng cho chúng ta qua giáo huấn, và nhất là qua chứng tá của Giáo Hội. Nhưng chúng ta chỉ có thể làm chứng về điều mà trước đó chúng ta cảm nghiệm. Kitô hữu là người để Thiên Chúa mặc cho chiếc áo lòng từ nhân và thương xót của Ngài, mặc lấy Chúa Kitô, để trở nên giống Chúa, là Tôi Tớ của Thiên Chúa và loài người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta suy nghĩ về bổn phận truyền giáo của chúng ta. Nếu như mọi lời nói, hành động của chúng ta đều có ảnh hưởng đến người khác, thì mỗi người hãy tự hỏi lòng mình, qua những gì chúng ta nói, những gì chúng ta làm và nhất là qua đời sống cụ thể của chúng ta, chúng ta có đưa người khác đến với Chúa Kitô hay chúng ta làm cho người ta xa Chúa.
*******
THỨ TƯ – Mt 10, 1-7
Chọn lựa của Chúa
Thánh Bênêđictô sinh tại Norcia năm 480 trong một gia đình giàu sang quý tộc.
Khi nhỏ, cha mẹ cho ngài được ăn học ở địa phương, để gần gũi với gia đình, dễ bề đào tạo tính tình đức hạnh.
Năm 14 tuổi, thánh nhân được gởi đến học ở Rôma. Học ở Rôma được một thời gian, ngài thấy Rôma không phù hợp với mình vì cuộc sống ở Rôma lúc đó rất suy đồi trụy lạc. Để giữ gìn linh hồn mình được luôn trong sạch. Ngài đã trốn khỏi kinh thành, muốn tìm đến một nơi thanh vắng, sống đời ẩn tu tịch mạc. Ý muốn của Ngài đã được Chúa ưng thuận. Miền hoang địa cách Rôma 40 dặm là nơi Ngài đã dừng chân để được sống cuộc đời tịch liêu thân mật với Chúa.
Trong khi còn đi lang thang tìm một hang trú ẩn, Bênêđictô gặp được thầy Rômanô, một tu sĩ cùng chí hướng với mình. Tình yêu và lý tưởng đã kết hợp hai người thành đôi bạn chí thiết. Rômanô chỉ cho Bênêđictô một hang rất kín chưa hề có một vết chân người lui tới. Bênêđictô sống ở đó ba năm. Hằng ngày thầy Rômanô mang bánh cho Ngài. Sau thời gian vắn vỏi sống đời ẩn dật hoàn toàn, Chúa muốn đặt ngọn đèn thánh thiện của Bênêđictô lên nơi cao để soi dẫn cho nhiều người.
Ma quỷ thấy nhân đức của ngài thì luôn tìm đủ cách quấy phá. Đứng trước những cám dỗ của ma quỷ, Ngài luôn làm dấu Thánh giá xua đuổi chúng. Còn những người muốn sống đời nhân đức trọn lành tìm đến, thì Ngài luôn sẵn sàng hướng dẫn giúp đỡ, dạy bảo. Nhờ đó mà danh thơm thánh thiện của ngài lan rộng khắp nơi. Cả những người quý phái ở Rôma cũng đến xin làm môn đệ ngài. Ngài thành lập 12 tu viện nhỏ, để tiếp nhận họ và giúp họ tập rèn nhân đức.
Số người muốn tu luyện theo đường lối thánh nhân mỗi ngày một đông, nên năm 520, ngài phải dời về Montô Cátsinô, thành lập tu viện. Đây là tu viện đầu tiên của thánh Bênêđictô. Chính Ngài soạn tu luật cho tu viện. Sau này tu luật mang tên người được phổ biến khắp châu Âu, nên người được mệnh danh là “Tổ phụ của nếp sống đan tu ở phương Tây”.
Ngày nay hầu như tất cả các nước trên thế giới đã có sự hiện diện của các đan viện sống theo lý tưởng của Ngài. Các tu sĩ của Ngài đã hết lòng yêu mến và tuân giữ ba đặc điểm như ba cột trụ chi phối và nâng đỡ đời sống của mình. Ba cột trụ đó là cầu nguyện, học hành và lao động. Người tu sĩ hằng ngày chuyên cần cầu nguyện, siêng năng học hỏi Lời Chúa và làm việc chân tay để tự nuôi sống.
Bênêdictô qua đời ngày 21 tháng 3 năm 547. Từ cuối thế kỷ VIII, Ngài đã được kính nhớ vào ngày 11 tháng 7. Ngày 24 tháng 10 năm 1964, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ra tông thư “Sứ giả hoà bình” (Pacis nuntius), đặt người làm bổn mạng toàn châu Âu.
Thánh Bênêđictô nhắc nhớ chúng ta rằng có một nhu cầu sâu xa nhất của con người là trải nghiệm những giờ cầu nguyện bên Thiên Chúa. Nhưng chúng ta không phải đi vào một hang động, mà có thể lưu lại ngay bên nhà thờ và viếng Chúa Giêsu Thánh Thể. Chúng ta cũng có thể tạo một góc cầu nguyện trong căn phòng của chúng ta. Chúng ta sẽ sống mật thiết hơn với Thiên Chúa nhờ những lời cầu nguyện hàng ngày với Chúa Giêsu.
Và rồi hôm nay Tin mừng kể về việc Chúa Giêsu gọi các môn đệ.
Chúa Giêsu chọn Nhóm 12 tông đồ. Đây là một biến cố rất quan trọng trong lịch sử cứu độ và trong việc thành lập Dân Thiên Chúa của Giao ước mới. Nhóm Mười hai là đại diện của Dân Israel mới. Mỗi vị được chọn bằng tên gọi riêng để làm thành một cộng đoàn các tông đồ gọi là Nhóm Mười hai trong Tân ước.
Họ không có của cải, không có học thức cao, không có địa vị trong xã hội. Họ được chọn từ trong dân gian, những người chỉ làm việc thường, không được giáo dục đặc biệt, không có lợi thế xã hội. Người ta nói Chúa Giêsu không tìm kiếm những người phi thường, Ngài tìm những người tầm thường để làm việc một cách rất phi thường.
Chúa Giêsu không chọn những người tài cao và học rộng, giàu sang và quí phái, chức vụ và uy quyền trong xã hội, nhưng Ngài đã chọn người có tấm lòng và thiện chí. Chỉ cần hai điều này thôi, còn mọi điều khác Chúa sẽ lo liệu.
Có một tác giả đã tưởng tượng ra việc Chúa chọn các tông đồ như sau: sau những đêm dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào, Ngài đành quăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện Ngài không chọn được một ai.
Các tông đồ được chọn không phải vì các ngài có tấm lòng và thiện chí như tiêu chuẩn của Chúa, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương họ trước cả khi họ biết Chúa. Các tông đồ được Chúa chọn cũng không phải vì các ông có quả tim tinh tuyền như Chúa đòi hỏi, nhưng vì lòng nhân từ của Ngài mà Ngài hy vọng sẽ hướng dẫn, dạy dỗ họ, để họ đổi mới mà thành những chứng nhân tông đồ cho muôn dân.
Sứ điệp của việc chọn gọi ở chỗ Chúa Giêsu nhìn mỗi người, không phải chỉ để thấy họ thế nào, nhưng để thấy Ngài có thể khiến họ trở nên như thế nào. Không ai nên nghĩ rằng mình không có gì để dâng cho Chúa. Chúa Giêsu có thể lấy điều một con người tầm thường hơn hết dâng lên để sử dụng trong việc trọng đại.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta trở về cội nguồn của Giáo Hội. Giáo Hội là Thân Thể của Chúa Kitô, Giáo Hội tiếp tục sứ mệnh cứu rỗi của Chúa Kitô. Ðể thực hiện chương trình cứu rỗi, Chúa Giêsu đã kêu gọi một số môn đệ đi theo Ngài để rao giảng Tin Mừng. Trong số các môn đệ ấy, Ngài đã chọn mười hai người làm Tông Ðồ và trở thành cột trụ của Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập. Nếu Giáo Hội tiếp tục sứ mệnh của Chúa Kitô, thì Giám mục đoàn mà đứng đầu là Ðấng kế vị thánh Phêrô cũng chính là những người tiếp tục làm cột trụ của Giáo Hội.
Mười hai tông đồ là mười hai công việc khác nhau, theo những khả năng được phú bẩm cho các ông, nhưng lại cùng chung một sứ vụ là thăng tiến niềm tin, hướng đến việc hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, quy tụ muôn người về một mối. Các ông mang trong mình lời dặn dò và hình ảnh chân thực của Thầy mình hơn nữa, các ông được mời gọi loan truyền tình thương và lòng thương xót cho thế giới. Chữa lành thể lý để đưa người ta đến sự thật niềm tin vào Thiên Chúa. Làm sao điều cốt yếu được thực hiện và thấm nhuần cách chính xác: “Nước Trời đã gần đến”. Nước Trời ở đây được hiện thực hoá nơi chính việc các ông làm cho người khác có khả năng đón nhận niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất.
Chúa biết mỗi người chúng ta là những phận hèn sức yếu. Vì thế, Chúa không đòi hỏi chúng ta phải ra đi loan báo tin mừng ở những nơi xa xôi. Nhưng Chúa muốn chúng con biết tích cực gieo vãi yêu thương và bình an cho những người gần gũi chúng ta. Xin cho chúng con ý thức và tích cực thực thi lời Chúa dạy.
*******
THỨ NĂM Mt 10, 7-15
Nước Trời đã đến gần
“Nước Trời đã đến gần” (c. 7) là sứ điệp quan trọng Đức Giêsu mang đến cho nhân loại. Nước Trời còn được biểu hiện nơi chính con người Đức Giêsu, vì Ngài là hiện thân của Chúa Cha, đến trần gian để minh chứng tình yêu Cha dành cho nhân loại. Vâng, sứ điệp ấy đã được Đức Giêsu thông truyền lại cho các môn đệ, để các ngài tiếp nối công trình cứu độ của Ngài nơi trần gian qua Giáo hội.
Khi được chuyển trao sứ điệp quan trọng này, các môn đệ cũng được Đức Giêsu ban cho những năng quyền để khắc phục sự dữ (c.8), đồng thời Ngài cũng đòi hỏi người môn đệ phải thật nghèo khó, thanh thoát (c. 9-11), để hết mình phục vụ Nước Trời (c.12-13). “Nước Trời đã đến gần” còn là sứ điệp quan trọng cho con người thời đại hôm nay không?
Chúa Giêsu đã căn dặn các ông về căn tính của người môn đệ:
Trước hết là nhiệm vụ của người ra đi: người được sai đi là để loan báo Tin Mừng chứ không phải là loan báo tin buồn, đồng thời sai đi để chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền chứ không phải gieo rắc đau thương.
Kế đến là tinh thần của người ra đi: người được sai đi sẽ gặp không ít khó khăn, nên cần phải tin tưởng, trao phó mọi sự nơi Chúa. Ra đi trong tinh thần thanh thoát, không cần phải cồng kềnh và quá lo lắng cho ngày mai. Hãy là người tôi tớ phục vụ, bởi vì: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”.
Thứ ba là thái độ của người ra đi: người môn đệ muốn được thành công thì phải mặc lấy thái độ của hạt lúa, tức là tự hủy ra không, phải nhân từ để “ngửi thấy mùi chiên” và “mang mùi chiên nơi mình”. Không ngại khổ, ngại khó và cần phải hy sinh. Luôn quan tâm đến người khác hơn là nghĩ về mình.
Thứ tư là lập trường của người ra đi: sống trong một xã hội chủ chương vô thần, muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi tư tưởng, nhận thức của con người. Lập trường của họ là không có Thiên Chúa, cũng chẳng có niềm tin… Vì thế, họ không ngần ngại uốn nắn và tìm đủ mọi cách dưới nhiều hình thức tinh vi để gây nên những hoang mang, thất vọng.
Bên cạnh đó là những trào lưu tục hóa, những văn hóa phẩm đồi trụy… nhằm gieo rắc những chân lý nửa vời và làm cho con người lấn sâu trong tội mà không biết! Và cũng những con người đó, họ muốn loại bỏ người môn đệ của Chúa, vì thế, cái chết là kết cục cuối cùng của người môn đệ. Số phận của người môn đệ là: như chiên đi vào giữa bầy sói.
Thứ năm là chiến lược của người môn đệ: được mời gọi hiện hữu giữa thế gian nhưng không bị thế gian điều khiển và đẩy đưa để dẫn đến cái gọi là: dùng phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt. Phải khôn như rắn để xây dựng, bảo vệ sự hiệp nhất của Giáo Hội, và phải hiền lành, đơn sơ như chim bồ cầu trong tinh thần huynh đệ.
Thật thế, lập trường của người môn đệ, trong mọi hoàn cảnh, không bao giờ và không có cách nào được phép đồng lõa, thỏa hiệp để chỉ vì mục đích “rẻ tiền” nhằm được yên thân. Lập trường của người môn đệ còn là hiện diện và sống những giá trị Tin Mừng cách thực tế chứ không chỉ lo cái gọi là bề ngoài cho thật “hoành tráng” theo thói đời, nhưng bên trong thì rỗng tuếch.
Trong thực tế, nhiều người như cảm thấy Thiên Chúa rất xa lạ, mơ hồ đối với họ, vì những cảm thức duy thực dụng đã lún sâu trong tâm khảm của họ. Đứng trước thảm trạng đau buồn ấy, người môn đệ Đức Giêsu phải làm gì để “Nước Trời” thực sự được hiện diện giữa trần gian hôm nay! Phải chăng đây là sứ mệnh quan trọng và cấp bách, đang hối thúc mỗi chúng ta hãy can đảm mạnh dạn lên đường, để tung gieo Tin Mừng Nước Trời cho mọi người.
Dẫu có những khó khăn và thử thách đang chờ đón phía trước, nhưng chúng ta hãy vững tin vào quyền năng Đức Giêsu, Ngài luôn đồng hành bên chúng ta để thi thố những việc kỳ diệu cho vinh danh Ngài. Điều quan trọng là mỗi chúng ta hãy ý thức “chúng ta đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (c. 8b). Con người hôm nay đang dần giàu lên về nhiều mặt: vật chất, sự hiểu biết, sự hưởng thụ, danh vọng… nhưng lại vô cùng nghèo về tình yêu, sự thật và công lý.
Thế nên, từ sâu thẳm nội tâm, con người vẫn thật sự khao khát một chiều kích tâm linh đích thực, có thể lấp đầy sự trống vắng của cõi lòng họ. Thế nhưng, người môn đệ Đức Kitô không chỉ giới thiệu về Nước Trời bằng những chân lý mặc khải, nhưng chính một nếp sống đơn sơ, nghèo khó, thanh thoát của người môn đệ sẽ có sức thuyết phục rất mạnh mẽ, vì con người hôm nay “cần chứng nhân hơn thầy dạy”.
Lời rao giảng “Nước Trời đã đến gần » đi đôi với một dấu chỉ, đó là dấu chỉ “nhưng không”: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”. Có thể nói, nếu chúng ta không kinh nghiệm sự nhưng không, không thực hành sự nhưng không, không xây dựng sự nhưng không, thì Nước Trời sẽ không hiện diện ở giữa chúng ta. Bởi vì Nước Trời là Nước của Thiên Chúa, và Thiên Chúa là nhưng không.
Chúa Giêsu không những ủy thác việc rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ, Ngài còn muốn đời sống các ông phù hợp với lời giảng dạy. Nội dung cốt yếu của sứ điệp không do quyết định tự do hoặc sáng kiến của người rao giảng, mà là do chính Chúa Giêsu ấn định, đó là Nước Trời. Người được sai đi với tư cách là thừa tác viên phải thi hành đúng như Chúa đã truyền. Ngài mời gọi họ dấn thân sống đầy đủ mỗi ngày lý tưởng truyền giáo và lý tưởng của người môn đệ.
Ðiều quan trọng phải nhớ là hành trang của nhà truyền giáo khi theo Chúa Giêsu là lời của Ngài và đời sống nghèo khó của Ngài. Tất cả những sự khác phải được coi là dư thừa, nhiều khi còn là ngăn trở cho việc truyền giáo. Kinh nghiệm cho thấy rằng những ai dấn thân sống nghèo khó và hy sinh cho người khác, sẽ được Chúa cho lại gấp trăm.
*******
THỨ SÁU – Mt 10, 16-23
Khôn như rắn – Đơn sơ như bồ câu
Các tông đồ đã được loan báo cho biết trước để cảnh giác: họ sẽ như chiên hiền lành bị trao nộp vào vòng tay hung tợn của địch thù, chẳng khác chi bầy sói dữ. Nước Thiên Chúa được tỏ hiện trong sự hèn yếu của các sứ giả của Đức Giêsu.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu biết trước trong khi thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng, các Tông đồ sẽ gặp bách hại, thất bại, ghen ghét và chống đối. Sự chống đối này còn xảy ra ngay trong gia đình nơi thân thương gần gũi với mình. Nên Ngài không những trấn an các ông đừng lo sợ vì có Thiên Chúa ở cùng nâng đỡ mà còn dạy các ông cần phải biết Khôn ngoan như rắn và đơn sơ như Chim câu. Điều này đòi hỏi người môn đẽ phải luon có đời sống cầu nguyện và tín thác vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng biết, rắn là loài vật luồn lách rất giỏi, tinh ranh và khôn ngoan, quỷ quyệt (x St 3). Nó có thể cắn chết người (rắn lửa trong sa mac) và cứu người(con rắn đồng của Môi sê).
Xưa cũng như nay, người ta còn dùng rắn để chữa nhiều bệnh. Chúa Giê su mượn hình ảnh con rắn để dạy các môn đệ cũng như những ai muốn làm môn đệ Ngài khi thi hành sứ vụ phải biết khôn ngoan cẩn trọng nhưng không quỷ quyệt, luồn lách, thâm độc, Sự khôn ngoan này phải xuất phát từ tấm lòng từ bi chân thành, ngay thẳng, đơn sơ như chim bồ câu.
Con rắn rất nhiều ở Palestin. Hình như con rắn nào càng độc thì càng tinh khôn. Chúng thường đi ăn và săn mồi ban đêm, chúng trườn mình rất nghề, chúng đi lại êm đềm như gió, chúng biết cách ẩn nấp trong bóng đêm để rình mồi. Chúng biết cách sợ sệt và trốn lủi tài tình. Chúng leo cây, chui luồn dưới nước đều được hết. Con rắn hay bắt sâu bọ, chuột, ếch nhái là những đồ ăn loại mát tạng. Rắn rất thích nghe nhạc nhất là tiếng đàn violon, sáo, (biết nghe nhạc là một dấu khôn ngoan).
Chúa Giêsu muốn dùng hình ảnh con rắn để dạy các môn đệ bài học của sự khôn ngoan cẩn trọng trong đời tông đồ. Một sự khôn ngoan không lèo lái thâm độc. Nhưng là sự khôn ngoan đi đôi với lòng chân thành đơn sơ trong trắng như chim bồ câu.
Chim bồ câu ai cũng quen thuộc. Con chim nào cũng dễ thương. Từ bộ lông trắng mượt pha xám, đến đôi mắt ngây thơ, dáng điệu đi lại gật gù, điệu bay là là nhẹ nhàng thật dễ thương. Nói đến bồ câu, làm chúng ta liên tưởng tới ngày tạo dựng vũ trụ, có Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn là là trên nước (St 1,2) hay con chim câu đã bay về tàu Noe, sau lụt hồng thủy. Cũng nhắc tới Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu xuống trên đầu Chúa Giêsu ở bờ sông Giodan (Mt 3, 16). Tiên tri Isaia đã ví lời cầu nguyện van xin của dân Israel như tiếng rì rầm của chim câu (Is 59, 11). Sách Diễm tình ca diễn tả chim câu là biểu tượng của tình yêu (2,14).
Nói chung, con chim câu là biểu tượng của bình an, trong trắng, đơn sơ. Chúng không biết làm tổ để ở. Chúng sống nương tựa vào người ta. Chúng có một trí nhớ đặc biệt đến nỗi người xưa đã dùng nó để đưa thư cả hàng chục cây số mà chúng vẫn trung thành hoàn tất sứ mệnh, Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh chim câu để cầu chúc các tông đồ sống thành thật trung tín và hữu ích.
Nói đến chim câu là nói đến sự trung thành (St 8, 8-12), hiền lành, trong trắng, đơn sơ là biểu tượng của Chúa Thánh Thần, của hòa bình, an lành. Chúa Giê su dùng hình ảnh này không những để khuyến khích các tông đồ mà cả chúng ta nữa, những người muốn theo Chúa, làm môn đệ Chúa phải luôn thành thưc, tín trung và phó thác vào tình yêu Chúa trong bất kỳ mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Với sự khôn ngoan cẩn trọng của con rắn, cùng với tấm lòng ngay thẳng của chim bồ câu…Chúa sai các môn đệ ra đi truyền giáo như con thuyền tròng trành giữa biển khơi, như rơi vào vùng đất lạ, như con chiên lầm lũi ngơ ngác giữa rừng hoang.
Và rồi tất cả những gì Chúa Giêsu phải chịu thì các môn đệ cũng sẽ phải chịu, vì tôi tớ không hơn chủ, môn đệ không hơn thầy. Hãy để ý đến những động từ nói lên nỗi thống khổ của các Kitô hữu: bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra nơi hội đường và trước mặt vua quan, bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết, có khi bởi người nhà (c. 21).
Những điều này Đức Giêsu đều đã trải qua. Mọi sự họ chịu đều “vì Đức Giêsu”, “vì Danh Đức Giêsu” (cc. 18. 22). Nơi tòa án, có sự hiện diện gần gũi của Thiên Chúa Ba Ngôi.“ Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ nói trong anh em” (c. 20), để giúp anh em can đảm tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Con Cha. Bởi đó người Kitô hữu ra tòa mà lòng rất bình an, chẳng lo gì (c. 19). Họ được Thiên Chúa dạy điều phải nói và Thần Khí nói qua miệng họ. Với sự nâng đỡ đặc biệt ấy, họ có thể bền chí đến cùng và sẽ được cứu độ.
Các Kitô hữu sẽ còn bị bách hại đến tận thế. Họ không phải là những người thích tỏ ra mình anh hùng, đòi tử đạo. Nhưng họ là những người khiêm tốn, khôn ngoan, biết trốn đi thành khác khi bị bắt bớ ở thành này (c. 23). Chịu bách hại là điều nằm trong ơn gọi của người Kitô hữu, là cái giá phải trả để sống mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Ngay cả ở những quốc gia tây phương tự hào là có tự do tôn giáo, vẫn có những kiểu bách hại ngấm ngầm và tinh vi, khác với kiểu đòi bước qua thánh giá thời vua Minh Mạng, Tự Đức.
Thật vậy, thời nào cũng có những cuộc bách hại gây khó khăn cho người môn đệ. Nhất là trong thời đại ngày nay, thời đại đầy dẫy những bất công, con người chỉ muốn sống tự do, hưởng thụ an nhàn tự tại cho riêng mình.
Thời đại mà người công chính, lương thiện, người bênh vực chân lý thì mất dần tiếng nói trong xã hội, trong các công sở. Nếu không khôn ngoan như con rắn để phân định sự kiện. Nếu không đơn sơ như chim câu mở rộng tâm hồn đón nhận sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và trung thành, tín thác vào tình yêu của Chúa. Người môn đệ dễ bị chán nản thất vọng trước nhựng thất bại, chống đối ghét ghen, phản bội, kết án của xã hôi, bạn bè và ngay cả chính những người thân trong gia đình.