SUY NIỆM CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Is. 55, 1-3; Rm. 8, 35.37-39; Mt. 14, 13-21
MỤC LỤC
1. Anh em hãy cho họ ăn 4
2. Chúa Nhật 18 Thường Niên 7
3. No nê dư thừa 10
4. Chúa nhật 18 Thường niên 15
5. “Họ không cần phải đi đâu cả” 20
6. Thiên Chúa nuôi con người – ViKiNi 27
7. Một tình yêu có thể sờ chạm đến được 30
8. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành 34
9. Quan tâm tới cái đói 38
10. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 40
11. Năm chiếc bánh và hai con cá 47
12. Tình liên đới đồng loại 51
13. Ai nấy đều được ăn no nê 55
14. Cộng tác với Chúa 59
15. Khi con tim bồi hồi yêu thương 61
16. Ai nấy đều ăn và được no nê 66
17. Chúa Nhật 18 Thường Niên 71
18. “Chính anh em hãy cho họ ăn” 75
19. Năm chiếc bánh và hai con cá 78
20. Các con hãy cho họ ăn 83
21. Chia sẻ cho người nghèo đói 88
22. Anh em hãy cho họ ăn – Jos. Hồng Ân 92
23. Thu lại những mảnh vụn 96
24. Bài học tiết kiệm 103
25. Lương thực sống 112
26. Năm chiếc bánh và hai con cá 116
27. Lương thực – Lm. Giuse Trần Việt Hùng 122
28. Đói khát tâm linh… SOS!! – Lm Anmai 127
29. Chúa Nhật 18 Thường Niên 132
30. Cơm bánh tình thương 144
31. Cộng tác với Chúa 147
32. Tấm bánh liên đới – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 150
33. Bánh Thiên Chúa ban tặng 153
34. Các con hãy cho họ ăn 160
35. Yêu được cụ thể hóa 163
36. Chúa ban lương thực cho loài người 167
37. Vai trò của Giáo Hội 178
38. Suy niệm của Charles E. Miller. 180
39. Chia sẻ cho người nghèo đói 183
40. Chúng ta có đói không? 187
41. Chia sẻ cơm áo – R. Veritas 189
42. Cộng tác 192
43. Chúa Nhật 18 Thường Niên 196
44. Người bình thường làm nên phép lạ 199
45. Chia bánh cho nhau 204
46. Suy niệm của Lm Trần Ngà 207
47. Bánh hoá nhiều 210
48. Bánh hóa nhiều 213
49. Chúa Nhật 18 Thường Niên 216
50. Suy niệm của JKN 219
51. Cộng tác 225
52. Các con hãy cho họ ăn – Lm. Minh Vận, CRM 229
53. Hãy cho 234
54. Chúa Giêsu lo liệu cho kẻ theo Ngài 238
55. Suy niệm của Lm. Jos. Nguyễn Thái 241
56. Trời sinh voi, Trời sinh cỏ 246
57. Lương thực trần gian hay Lương thực Thần Linh 249
58. Xác tín của Thánh Phaolô 252
59. Phép lạ bánh và cá 255
60. Năm chiếc bánh và hai con cá 257
61. Hãy cho 260
62. Hãy có lòng thương xót – Jos. Vinc. Ngọc Biển 262
63. Đừng cắt nó mỏng quá 267
64. Theo Chúa 270
65. Người chạnh lòng thương – Thiên Phúc 272
66. Lòng quảng đại 275
67. Phép lạ do tình thương – PM. Cao Huy Hoàng 278
68. Quảng đại 283
69. Bánh hoá nhiều 285
70. Thu lại những mảnh bánh vụn 287
71. Đào tạo lòng tin – Lm Giuse Nguyễn Hữu An 295
72. Các con hãy cho họ ăn đi. 301
73. Phép lạ của sự lắng nghe 304
74. Hãy bắt đầu từ việc nhỏ 307
75. Đức Giêsu chữa bệnh và nuôi đám đông dân chúng 310
76. Hóa bánh ra nhiều 319
77. Chú giải theo Noel Quesson 326
78. Chú giải theo Fiches Dominicales 332
79. Đón nhận Chúa và chia sẻ cho anh em 339
80. SNLC – Các ngày trong tuần 18 TN 344
1. Anh em hãy cho họ ăn
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Suy Niệm
Khi nghe tin Gioan bị giết, Đức Giêsu rút lui. Ngài rút lui vì chưa đến Giờ của Ngài (Mt 12,15). Nhưng dân chúng đã đến nơi mà thuyền Ngài sắp cập bến. Thấy họ, Ngài chạnh lòng thương và chữa những người bệnh.
Nơi thì hoang vắng, trời đã ngả về chiều, các môn đệ xin Ngài cho đám đông đi mua đồ ăn. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho họ chưng hửng khi nói: “Chính anh em hãy cho họ ăn.”
Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá, làm sao họ có thể cho đám đông này ăn được?
Các môn đệ thú nhận giới hạn của mình. Họ chỉ có thế, nên không làm được điều Thầy muốn.
“Hãy đem lại đây cho Thầy.”
Ngài cần đến phần đóng góp nhỏ nhoi của chúng ta, Ngài cần chúng ta trao cho Ngài tất cả những gì mình có,tất cả những gì chính chúng ta đang cần: năm cái bánh và hai con cá.
Chúng ta nên nhìn lại đường đi của những tấm bánh: từ tay các môn đệ đến tay Đức Giêsu, từ tay Đức Giêsu nâng cao dâng lên Cha, rồi trở lại tay các môn đệ, và cuối cùng đến tay của từng người trong đám đông. Chúng ta tự hỏi phép lạ đã xảy ra ở trên tay ai.
Tin Mừng không nói Đức Giêsu đã làm phép lạ để có một đống bánh và cá thật to, rồi các môn đệ cứ đến lấy mà phân phát. Tin Mừng chỉ nói Ngài bẻ bánh trao cho họ, rồi chắc họ phải bẻ ra để chia cho đám đông, và có lẽ những người trong đám đông cũng đã bẻ tấm bánh của mình để chia cho người khác. Chẳng mấy chốc, ai cũng có bánh ăn.
Như thế, những tấm bánh từ tay Đức Giêsu đã được bẻ ra, trao đi và hoá nhiều. Đó là cốt lõi của phép lạ.
Có thể các môn đệ và dân chúng đã góp phần của họ: bẻ ra, trao đi và hoá nhiều.
Đây là phép lạ quan trọng vì có đông người chứng kiến, vì được cả bốn sách Tin Mừng kể lại, và vì Chúa muốn nó được kéo dài đến tận thế: bẻ ra, trao đi và hoá nhiều.
Hôm nay Đức Giêsu cũng mời chúng ta tham dự để biết phép lạ không phải là chuyện viển vông.
Đừng sợ bẻ ra và trao đi sẽ làm hao hụt. Nếu giữ lại, 5 chiếc bánh vẫn chỉ là 5 chiếc bánh.
Hãy nhìn đến biết bao người đang cần bánh: bánh mì, bánh sự thật, bánh tự do, bánh công bằng, bánh yêu thương, cảm thông và tha thứ.
Đừng lo vì bạn không có chi nhiều.
Nếu bạn dám bẻ đôi những gì bạn đang có thì thế giới sẽ được no nê.
Gợi Ý Chia Sẻ
Hiến trao chẳng những không làm mình nghèo đi, mà còn làm mình được thêm giàu có, phong phú, trưởng thành. Bạn có kinh nghiệm trên đây không?
Đứng trước cơn đói của con người hôm nay, bạn có thấy mình bó tay không? Họ đang đói điều gì hơn cả? Bạn có thể làm gì để giúp họ một cách cụ thể?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ, xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.
Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho con đừng thu tích của cải.
Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp, xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.
Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống, xin cho con biết xây lại niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người,
xin cho con nghe được lời mời của Chúa: “Các con hãy cho họ ăn đi.”
Ước gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại.
2. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Suy Niệm
Trong các hình ảnh người ta vẽ Ðức Giêsu,
ta thường thấy Ngài có vòng hào quang trên đầu.
Thật ra Con Thiên Chúa đã nên giống chúng ta.
Ngài mang khuôn mặt bình thường như ta.
Chính nơi khuôn mặt này mà ta thấy Thiên Chúa.
“Ai thấy Ta là thấy Cha” (Ga 14,9).
Khuôn mặt con người có thể phản ánh khuôn mặt Thiên Chúa.
Nơi khuôn mặt Ðức Giêsu, khuôn mặt như mọi người,
ta có thể gặp thấy Thiên Chúa vô hình,
Ðấng ngàn trùng thánh thiện và vô cùng siêu việt.
Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu,
khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ,
khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm của con người.
Chính vì thế họ ngây ngất hạnh phúc
khi thấy khuôn mặt ấy rực sáng vinh quang.
Họ muốn dựng lều để ở lại tận hưởng.
Tiếng từ đám mây phán ra
như một lời giới thiệu và nhắn nhủ:
“Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người,
các ngươi hãy vâng nghe lời Người.”
Thầy Giêsu vừa là Con, vừa là Người Tôi Trung (Is 42,1),
vừa là vị ngôn sứ đã từng được Môsê loan báo (Ðnl 18,15).
Phêrô không quean được kỷ niệm độc đáo này.
Ông viết: “Chúng tôi đã được thấy tận mắt
vẻ uy phong lẫm liệt của Người…
Chúng tôi đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra
khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người” (2Pr 1,16-18).
Ðức Giêsu được biến hình sau khi chấp nhận cuộc khổ nạn,
sau khi thắng được cơn cám dỗ của Phêrô (Mt 16,23),
và kiên quyết đi trên con đường Cha muốn.
Biến hình là một bừng sáng ngắn ngủi, bất ngờ,
báo trước vinh quang phục sinh sắp đến.
Thân xác Ðức Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn
khi thân xác ấy chịu lăng nhục và đóng đinh
vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.
Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng,
nếu chúng ta dám yêu, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ,
để cái tôi đích thực được lộ ra, trong ngần.
Chúng ta cần có lần lên núi cao, thanh vắng,
để nhìn thấy khuôn mặt ngời sáng của Ðức Giêsu,
nhờ đó chúng ta dễ đón nhận
khuôn mặt bình thường của Ngài khi xuống núi,
và khuôn mặt khổ đau của Ngài trên thập tự.
Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng,
nhưng họ có thể cảm nghiệm được phần nào
khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi,
chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng.
Sám hối là đổi tâm hồn, đổi khuôn mặt
để chính tôi và cả Hội Thánh mang một khuôn mặt mới.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa,
xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con rạng ngời hơn
sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
trong nụ cười của con,
thấy sự dịu dàng của Chúa
trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu
có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
cùng đi với Chúa và với tha nhân
trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
3. No nê dư thừa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Phép lạ bánh hóa nhiều là một phép lạ đặc biệt,
vì được cả bốn sách Tin Mừng kể lại,
vì những người chứng kiến và thụ hưởng là một đám đông lớn,
và vì các môn đệ được cộng tác với Thầy Giêsu trong phép lạ này.
“Xin Thầy giải tán dân chúng để họ đi mua thức ăn” (Mt 14,15).
Các môn đệ bén nhạy khi nhận ra nhu cầu có thật của dân chúng.
Bây giờ trời đã về chiều, và đây lại là nơi vắng vẻ.
Họ đã theo Thầy cả ngày, bụng đã đói,
nên Thầy cần cho họ về để họ đi mua thức ăn.
Lời của các ông khơi mào cho Thầy Giêsu đi đến một quyết định.
“Họ không cần phải đi mua. Chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16).
Lời của Thầy làm các ông ngỡ ngàng chưng hửng.
Thầy giao cho các ông sứ mạng nuôi đám đông lớn ngần này,
cho họ ăn miễn phí, không phải tốn tiền đi mua!
Làm sao các ông có thể thực hiện được mệnh lệnh đó?
“Ở đây chúng con chỉ có năm ổ bánh và hai con cá!”
Đó là tất cả những gì các ông có trong hiện tại.
Nhưng bấy nhiêu thì đáng là gì so với nhu cầu của đám đông!
Các ông cảm thấy bất lực, bế tắc và thất vọng.
“Đem lại đây cho Thầy!” (Mt 14,18).
Thầy Giêsu bảo các ông cứ đưa cho Thầy tất cả những gì đang có.
Thầy cần cái vốn liếng nhỏ bé đó của các ông.
Thầy cần các ông trao tất cả cho Thầy và an tâm để Thầy định liệu.
Năm ổ bánh và hai con cá từ tay các ông được chuyển qua tay Thầy.
Thầy sẽ chẳng làm gì nếu con người không tích cực đóng góp.
Vào buổi chiều mùa xuân, tại vùng đất hoang vắng,
Thầy lệnh cho đám đông ngả mình trên thảm cỏ xanh.
Tay cầm bánh, Thầy dâng lời chúc tụng lên Cha trên trời,
bẻ bánh ra và trao cho các môn đệ, để các ông trao lại cho dân chúng.
Những ổ bánh đã đi một vòng.
Từ tay môn đệ đến tay Thầy Giêsu,
Thầy dâng bánh lên chúc tụng Cha trên trời, và trao lại cho các ông,
các ông đã trao lại cho đám đông dân chúng.
Bánh cứ được bẻ ra khi trao đi.
Lạ thay, khi bẻ ra, bánh chẳng những không nhỏ đi mà lại tăng lên.
Năm ổ bánh nuôi được ít là năm ngàn người, ăn no nê.
Mười hai môn đệ làm công tác cuối cùng:
đi thu lại mảnh bánh vụn được đầy mười hai thúng.
Phép lạ bánh hóa nhiều không chỉ diễn ra một lần.
Ngày nào trên thế giới này còn có người đói,
Đức Giêsu còn muốn chúng ta giúp Ngài cho họ ăn.
“Chính anh em hãy cho họ ăn!”
Mệnh lệnh này vẫn vang lên và làm chúng ta lúng túng,
Vì nguồn lực, khả năng, thời gian, sức khỏe của ta có giới hạn.
Lắm khi ta muốn bỏ cuộc, buông xuôi.
Nhưng Đức Giêsu chỉ đòi ta đặt tất cả những gì mình đang có
vào bàn tay quyền năng và nhân ái của Ngài.
Nếu ta dám trao cho Chúa số bánh và cá ít ỏi của đời ta,
và nếu ta dám trao cho Dân Chúa những gì Chúa trao lại,
thì phép lạ bánh hóa nhiều lại tiếp tục diễn ra hôm nay.
Đừng ngại bẻ ra và trao đi những gì mình có.
Hãy liều lĩnh tin vào mầu nhiệm của sự chia sẻ.
Chia sẻ chỉ làm người nhận và cả người cho được giàu lên.
Nếu ta cứ giữ lại, năm ổ bánh vẫn chỉ là năm ổ bánh.
Năm 2019, có gần 690 triệu người đói trên thế giới.
Với dịch bệnh hiện nay, năm 2020 sẽ có thêm 130 triệu người.
Thiên Chúa vẫn chờ ta cộng tác để Ngài làm phép lạ nuôi họ.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã có kinh nghiệm về cái đói,
sau khi ăn chay bốn mươi ngày trong hoang địa.
Sau khi được dân chúng tung hô lúc vào thành Giêrusalem,
Chúa cũng đói đến mức phải tìm trái nơi cây vả.
Chúa đã xin nước uống nơi người phụ nữ Samari,
và Chúa đã nếm cái khát của người bị mất máu trên thập giá.
Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa có thân xác như chúng con,
nên Chúa đã bênh các môn đệ khi họ bứt lúa mà ăn vì đói,
Chúa đã làm phép lạ bánh hóa nhiều vì sợ người ta xỉu dọc đường,
Chúa đã bảo người ta cho cô bé mới hồi sinh được ăn.
Đói khát là chuyện bình thường của thân xác con người,
và Chúa chẳng bao giờ coi thường
những nhu cầu chính đáng của nó.
Nhưng xin nhắc chúng con nhớ rằng
con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, mà còn nhờ Lời Chúa,
con người không chỉ đói khát thức ăn vật chất
mà còn khao khát những giá trị tinh thần của Nước Trời.
Xin dạy chúng con đừng khép cửa lòng
như ông nhà giàu xây thêm kho.
Nhưng biết chia sẻ cho những Ladarô đang nằm ngoài cổng,
Xin cho chúng con hiểu được giá trị của một ly nước được trao đi,
một tấm bánh giữa đêm khuya cho người bạn mượn,
và chút vụn bánh rơi xuống từ bàn ăn đủ nuôi một người.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa là người đói khát vẫn ngửa tay xin chúng con mỗi ngày
mà chúng con không hay.
Xin giúp chúng con bắt chước Chúa trong bữa tiệc cuối cùng
dám bẻ ra và trao đi tấm bánh đời mình để phục vụ tha nhân.
Ước gì mai này chúng con được đồng bàn với Chúa
và với mọi người thành tâm thiện chí trong Nước Trời.
4. Chúa nhật 18 Thường niên
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
“QUYỀN NĂNG CỦA THIÊN CHÚA VÀ LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA CON NGƯỜI”
Trong thời gian mọi người phải cách ly vì đại dịch viêm phổi Vũ Hán vừa qua, chúng ta được chứng kiến lòng quảng đại của người dân Việt. Câu ca dao “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” được thể hiện rõ, qua những nghĩa cử chia sẻ đầy tình người. “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”, những ATM phát gạo, những bữa cơm miễn phí, những chiếc khẩu trang chống dịch… tất cả làm nên vẻ đẹp truyền thống của lòng nhân ái nơi người Việt Nam chúng ta.
Lời Chúa trong Chúa nhật XVIII thường niên này nói về lòng quảng đại và hào phóng của Thiên Chúa đối với con người. Ngài cũng đang qua các tín hữu để thể hiện quyền năng và lòng quảng đại cứu giúp những người thiếu thốn. Thánh Máthêu nói với chúng ta về tâm trạng của Chúa Giêsu: Người chạnh lòng thương khi thấy đám đông theo Người vào sa mạc, vào lúc cuối ngày, họ đang đói và cần có lương thực. Xin lưu ý: khi Chúa Giêsu ăn chay trong sa mạc, ma quỷ đã cám dỗ Chúa về nhu cầu ăn uống. Nó nói với Chúa: Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy biến những tảng đá này thành bánh mà ăn”. Nhưng Chúa không làm theo lời dụ dỗ của ma quỷ. Người tuyên bố: “Người ta sống không chỉ bằng cơm bánh, mà còn bằng lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Nếu trong sa mạc, lúc chay tịnh, Chúa Giêsu không hoá đá thành bánh theo cám dỗ của ma quỷ, thì bây giờ, cũng trong sa mạc, trước đám đông dân chúng đang đói khát, Chúa lại chạnh lòng thương, và Người làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều để nuôi dưỡng họ. Người Do Thái am hiểu lịch sử đều dễ dàng nhận ra Chúa Giêsu như một Môisen mới. Trong hành trình sa mạc về Đất Hứa, qua trung gian ông Môisen, Chúa đã ban mana và chim cút để nuôi dưỡng dân lữ hành, nhờ vậy mà suốt thời gian 40 năm, họ không trồng cấy, không chăn nuôi, mà vẫn có lương thực để đi về Đất Hứa. Như thế, chúng ta có thể nói: nếu Chúa làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều là vì thương dân chúng. Người cũng muốn qua phép lạ này chứng minh quyền năng thiên linh của Người, như chính Chúa nói với người Do Thái trong Tin Mừng Thánh Gioan: “Chính Cha tôi cho người Do Thái ăn Manna trong sa mạc là bánh bởi trời”.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa quyền năng. Người có thể phán một lời là có bánh ăn cho mọi người. Nhưng Người không làm thế mà lại chọn cách hoá bánh ra nhiều khởi đi từ đồ ăn dự trữ có người mang theo. Các tác giả Tin Mừng đều kể lại phép lạ nhân bánh khởi đi từ những chiếc bánh và những con cá từ những người có mặt. Cụ thể, trong trình thuật của Thánh Mátthêu hôm nay, trước câu hỏi của Chúa, các môn đệ đã trả lời: “Ở đây chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá”. Dựa theo câu trả lời này, thì có lẽ đó là bánh và cá các môn đệ đã chuẩn bị cho Thày và trò. Số bánh này quá ít ỏi so với nhu cầu của đám đông. Vì chỉ có chút ít như thế, các ông đã tìm một phương pháp đơn giản để thoái thác trách nhiệm, như lời các ông thưa với Chúa: “Xin Thầy cho họ về, vì nơi đây hoang vắng và cũng đã muộn”. Vâng, đó là cách giải quyết dễ dàng hơn cả mà các môn đệ cũng như chúng ta thường lựa chọn. Cách giải quyết này vừa nhanh gọn vừa không gây bận rộn cho các môn đệ. Đức Giêsu không chấp nhận giải quyết kiểu đó. Người nghĩ đến những người già cả, những người đến từ xa. Họ đang rất đói và có thể gục ngã trên đường trở về. Lòng thương xót của Chúa muốn mang lại sức sống và niềm vui cho con người. Đức Giêsu muốn khẳng định cho mọi người thấy những ai kiên tâm theo Người sẽ không phải thất vọng. Họ sẽ không về tay không.
Khởi đi từ năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giêsu đã nhân lên nhiều đến nỗi năm ngàn người ăn no mà vẫn còn dư đến mười hai thúng. Một khi quyền năng của Thiên Chúa gặp gỡ lòng quảng đại của con người, phép lạ sẽ xảy ra, những điều kỳ diệu sẽ xuất hiện ngoài sức tưởng tượng của con người. Thánh Mátthêu còn nhấn mạnh thêm con số năm ngàn chỉ tính đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ. Kết quả kỳ diệu đó đến từ tình thương của Thiên Chúa và sự cộng tác của con người. Từ năm cái bánh và hai con cá, những gì được chia sẻ không mất đi, trái lại được nhân lên gấp bội. Có người sánh ví đức ái như ngọn lửa tài tình, càng được chia sẻ thì càng được bùng lên, lan rộng khắp nơi mà không hề bị tiêu hao mất mát.
Ngày hôm nay, đây đó có những người giàu có tới mức dư thừa, đồng thời cũng còn những người bất hạnh, thiếu thốn kể cả những gì tối thiểu cho cuộc sống hằng ngày. Làm ra cơm bánh và tăng trưởng kinh tế là một thách đố lớn đối với con người của mọi thời đại. Người ta đã trách Chúa sao không phân phối tài sản đồng đều giữa các nước bắc bán cầu và nam bán cầu, giữa những người giàu “nứt đố đổ vách” và những nghèo “rớt mồng tơi”. Nhưng thực ra, Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ cho mọi người và cho mỗi người. Ngài cũng luôn mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài bằng việc giang rộng cánh tay để xoá đi chênh lệch, xóa đi bất hạnh nghèo đói. Vì mọi người đều là anh chị em với nhau và cùng được hưởng những tài nguyên mà Thiên Chúa ban tặng. Những người giàu có chỉ là người quản lý của cải Chúa ban để phân phát cho những anh chị em mình. Họ không thể dựa trên lý lẽ “là của mình” để tùy tiện phung phí hoặc dửng dưng trước sự nghèo đói của những người xung quanh. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tuyên bố một cách dứt khoát: “Của cải để lãng phí là của cải ăn cắp của người nghèo”. Gần đây, có những nhóm thiện nguyện, gom góp những đồ đạc đã sử dụng để tặng cho những người có nhu cầu. Họ trưng dẫn một câu thơ rất có ý nghĩa: “Mọi thứ đều là của chung, khác nhau ở chỗ ai dùng mà thôi”. Đúng thế, những gì chúng ta thấy trong cuộc sống hàng ngày đều là của Chúa ban. Một số người may mắn được Chúa trao làm người sở hữu. Người quảng đại biết chia sẻ với tha nhân; người ích kỷ chỉ ôm lấy cho riêng mình. Ca dao Việt Nam đã nói: “Xởi lởi trời cho, so đo trời lấy”. Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Đong đấu nào thì sẽ nhận đấu ấy”. Sống rộng rãi với tha nhân, Chúa sẽ bù đắp cho chúng ta.
Kính thưa anh chị em,
Chính trong lúc này, chúng ta cử hành Bí Tích Thánh Thể. Nơi đây Đức Giêsu tiếp tục hóa bánh ra nhiều để nuôi dưỡng chúng ta. Nơi đây chúng ta lãnh nhận lương thực thiêng liêng, lương thực nuôi sống chúng ta và là bảo chứng cho chúng ta được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Đức Giêsu Thánh Thể là tấm bánh bẻ ra cho toàn thế giới, đồng thời là lời mời gọi mọi người hãy yêu thương và chia sẻ cho nhau, như Người đã yêu thương và hiến chính mình cho chúng ta. Lời ngôn sứ Isaia năm xưa (trong Bài đọc I) nay đang được thực hiện: “Đến cả đi hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây. Dù không tiền bạc, cứ đến mua mà dùng, đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào… Hãy lắng tai nghe Ta thì các ngươi sẽ được sống…”., Thật là kỳ diệu, Thiên Chúa như người mẹ, luôn luôn quan tâm chăm sóc chúng ta. Bí tích Thánh Thể là nguồn suối vô tận của tình thương. Hãy đến kín múc nơi Bí tích này những ân sủng thiêng liêng, giúp ta bước đi, kể cả những lúc đi trong sa mạc hoang vắng và những lúc cô đơn trong dòng chảy cuộc đời. Nhờ ơn Chúa, chúng ta có thể luôn tự tin và trung thành gắn bó với Chúa, như Thánh Phaolô diễn tả (Bài đọc II): Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, kể cả gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo. Nhờ Đấng yêu mến chúng ta mà chúng ta sẽ toàn thắng. Trong những ngày này, qua các thông tin xã hội, chúng ta đau lòng thấy bên Trung Quốc, chính quyền một số địa phương không ngừng đập phá các nhà thờ, tượng ảnh và thánh giá, thiêu huỷ sách Đạo và các ấn phẩm Công giáo. Không chỉ có các cộng đoàn Kitô hữu là nạn nhân của chế độ, mà cả các tôn giáo khác cũng chịu chung số phận: chùa chiền bị phá, kinh Phật bị đốt cháy. Biết bao anh chị em Kitô hữu của chúng ta trong quốc gia này đang bị bách hại. Chúng ta cầu nguyện cho họ, để giữa gian truân khốn khó, những Kitô hữu này vẫn nhận thấy tình thương của Chúa, gắn bó với Người để Người ban sức mạnh và lòng trung thành. Xin cho những kẻ báng bổ thân linh tỉnh ngộ và ngừng ngay những hành động điên rồ của họ, để thoát khỏi những hậu quả khủng khiếp cho quốc gia và dân tộc.
Đối với chúng ta, thông điệp Giáo Hội muốn gửi đến cho chúng ta Chúa nhật này là lòng liên đới với anh chị em. Xung quanh chúng ta, vẫn còn đó biết bao người cần được giúp đỡ tinh thần và vật chất. Sống trong cuộc đời, ai cũng phải có trách nhiệm đối với anh chị em mình. Một tác giả đã viết: “Không ai giàu đến độ không có gì cần phải nhận. Không ai nghèo đến mức không có cái gì để cho” (Helder Camara). Nếu không có tiền bạc, ít nhất chúng ta có thể chia sẻ cho anh chị em nụ cười, sự quan tâm, lời khích lệ và sự cảm thông. Tất cả những điều này, được thực hiện đúng lúc, đúng nơi và với tâm tình trân trọng quý mến, sẽ có giá trị tuyệt vời.
5. “Họ không cần phải đi đâu cả”
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.)
1. “Chạnh lòng thương”
Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đoàn người đông đảo, thì “chạnh lòng thương”; và tình thương của Đức Giê-su được diễn tả bằng những hành động rất cụ thể: chữa bệnh và cho ăn. Như thế, Đức Giê-su quan tâm đến sự sống của con người chúng ở mức độ căn bản nhất, đó là sức khỏe và lương thực. Và điều này hoàn toàn phù hợp với kinh nghiệm hằng ngày của chúng ta, như lời nguyện Thánh Vịnh diễn tả:
Tôi nằm xuống và tôi thiếp ngủ,
rồi thức dậy, vì CHÚA đỡ nâng tôi.
(Tv 3, 6)
Người ban lương thực cho tất cả chúng sinh,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
(Tv 136, 24)
Một khi nhận ra chính mình được Đức Giê-su yêu thương gìn giữ và nuôi dưỡng, chúng ta được được mời gọi “chạnh lòng thương” người khác như Đức Giê-su, và diễn tả tình thương của chúng ta một cách cụ thể, qua việc đáp ứng những nhu cầu liên quan đến sự sống của con người hôm nay, nhất là những người nghèo đói, bệnh tật và đau khổ. Như thế, Đức Giê-su tiếp tục chạnh lòng thương con người hôm nay ngang qua sự hiện diện và hoạt động của Giáo Hội, trong đó có từng người chúng ta, vốn là thân thể của Ngài.
Tuy nhiên, bối cảnh của bài Tin Mừng mời gọi chúng ta hiểu sâu hơn và rộng hơn tình thương của Đức Giê-su, và mời gọi chúng ta vượt qua bình diện nhu cầu chóng qua để mở lòng ra đón nhận. Thật vậy, khi nghe tin ông Gio-an Tẩy Giả bị trảm quyết, dường như Đức Giê-su cảm thấy sự sống của chính mình cũng bị đe dọa; chính vì thế, Ngài đã xuống thuyền đến một nơi hoang vắng riêng biệt. Hơn thế nữa, cái chết của ông Gioan Tẩy Giả loan báo cuộc Thương Khó của Đức Giê-su (x. bài Tin Mừng thứ bảy, sau Chúa Nhật XVII Thường Niên: Mt 14, 1-12); và chính khi Ngài hi sinh sự sống của mình trên Thập Giá:
Ngài “chạnh lòng thương” loài người chúng ta ở mức độ tuyệt đối nhất, đến độ thánh Phao-lô nói: “không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8, 39). Loài người chúng ta không chỉ sống bằng nhu cầu sức khỏe hay lương thực, nhưng nhất là bằng tình thương nữa, tình thương của nhau và tình thương của Thiên Chúa.
Ngài không chữa lành bệnh thể lí của chúng ta, vì sức khỏe dù quan trọng nhưng không bền vững và tuyệt đối. Ngài chữa lành những tổn thương trong tương quan của chúng ta với Thiên Chúa và với nhau, bằng ơn tha thứ và ơn giải phóng chúng ta khỏi “mọi sự dữ”.
Ngài không kéo dài sự sống này của chúng ta, nhưng ban cho chúng ta sự sống đời đời. Như ngôn sứ Isaia loan báo: “Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, để trọn bề nhân nghĩa với Đa-vít.” (Is 55, 3)
2. “Chính anh em hãy cho họ ăn”
“Nơi đây hoang vắng và đã muộn rồi”. Chúng ta có thể dừng lại một chút để đón nhận những gì hình ảnh “nơi hoang vắng” và “bóng đêm đang đến” cùng với cơn đói gợi ra tâm tâm trí chúng ta. Mỗi ngày, chúng ta được ăn và ánh sáng cũng trở lại. Nhưng đến một lúc nào đó, chúng ta không còn ăn được nữa, bóng tối đến và không chịu biến đi. Lúc ấy, chúng ta còn mong chờ ai ngoài Đức Kitô là ánh sáng và là bánh ban sự sống đời đời? Điều này giúp chúng ta hiểu câu nói này của Đức Giê-su ở mức độ tuyệt đối: “Họ không cần phải đi đâu cả”. Đức Ki-tô là Đấng hằng sống và là Đấng ban sự sống đang hiện diện, vì thế, trong cơn đói và trong bóng tối chết người, loài người chúng ta và từng người chúng ta “không cần phải đi đâu cả”!
Đức Giê-su, vì lòng thương đám đông, không nỡ để họ trở về đói bụng, nên muốn cho họ ăn. Có điều là, Chúa muốn cho họ ăn, nhưng Chúa lại biểu các môn để làm: “Chính anh em hãy cho họ ăn”! Có lẽ, chúng ta cũng đã từng có kinh nghiệm tương tự, ở bình diện cá nhân, cộng đoàn hay Hội Dòng: Chúa mời gọi chúng ta làm điều vượt quá sức lực và khả năng của chúng ta. Trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô, các môn đệ nói: “Chúng con phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh mà cho họ ăn sao?” (Mc 6, 37)
Trước một nhu cầu lớn như thế, các môn đệ nghĩ ngay đến tiền. Chúa bảo mình làm nhưng lại không cho tiền! “Tiền” ở đây có thể được hiểu theo nghĩa rộng là tất cả các phương tiện, tài năng, khả năng chuyên môn nhằm đáp ứng nhu cầu của người khác cách nhanh chóng và hiệu quả [1]. Nhưng sống tương quan với Chúa, và nhất là khi cộng tác với sứ mạng của Chúa, nghĩa là làm chứng cho Tin Mừng qua đời sống gia đình, đời sống tu trì, việc phục vụ, việc tông đồ, mục vụ…, chúng ta không thể chỉ suy xét trên bình diện phương tiện, nhưng còn trên bình diện thần nhiệm nữa, như thánh Phaolô đã kinh nghiệm: “Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cr 12, 8-9). Sống chiều kích thần nhiệm là kết hợp với Đức Kitô và để sức sống Phục Sinh của Ngài tỏ hiện ra nơi con người giới hạn, mỏng dòn, yếu đuối của chúng ta, và nơi những phương tiện hạn hẹp và nghèo nàn của chúng ta. Năm chiếc bánh và hai con cá diễn tả con người thật của chúng ta.
3. Năm chiếc bánh và hai con cá
Đức Giê-su nói: “Đem lại đây cho Thầy”. Như thế, Ngài muốn hành động khởi đi từ những gì chúng ta có và với những gì chúng ta là; và điều này đòi hỏi thời gian và cả sự từ bỏ để trao lại cho Chúa tất cả những gì mình có. “5 chiếc bánh và 2 con cá” tượng trưng cho con người thật của chúng ta, những gì chúng ta có và những gì chúng ta là: thật nhỏ bé, thật giới hạn. Tuy nhiên, Đức Giê-su không chê bỏ, nhưng đón nhận với tất cả sự trân trọng, hơn nữa còn đón nhận như ơn huệ của Chúa Cha.
Chúng ta hãy dừng lại để nhìn và nghe từng cử chỉ là lời nói của Đức Giêsu:
“Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng”
(c. 19)
Bánh đến từ đất trời và công lao của con người: “Lạy Chúa, là Chúa Cả Trời Đất, chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh này, là hoa màu của ruộng đất và công lao của con Người, chúng con dâng lên Chúa để trở nên Bánh Trường Sinh cho chúng con”. Và Bánh chưa hóa nhiều, nhưng Đức Giêsu đã tạ ơn rồi; và trước ngưỡng cửa của cuộc Thương Khó, Đức Giêsu chưa được cứu thoát khỏi sự chết, Ngài đã tạ ơn rồi, ngang qua Bí tích Thánh Thể, vốn là Bí Tích Tạ ơn. Đó là lời Tiền Tụng (Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta – Thật là chính đáng) trước khi truyền phép trên bánh và rượu, hiện thân của cuộc Thương Khó. Tạ ơn trước khi dấu lạ xẩy ra, tạ ơn trước khi được Thiên Chúa cho trỗi dậy từ cõi chết, diễn tả lòng tín thác vào quyền năng Thiên Chúa ở mức độ tận cùng. Chúng ta được mời gọi tạ ơn hằng ngày, dù còn đang ở trên đường đi đầy thách đố.
Chúng ta có thể đọc ra nơi phép lạ bánh hóa nhiều ba cấp độ ý nghĩa:
(1) Bánh lương thực. Bánh ăn hằng ngày đã hóa nhiều thực sự, và trong những năm thi hành sứ vụ, Đức Giêsu thực hiện 2 lần (theo Tin Mừng Gioan, thì một lần). Điều này cho thấy, Đức Giêsu đến không để giải quyết nạn đói cho con người. Vì con người có khả năng lo cho nhau no đủ, nếu biết chia sẻ. Phép lạ là những “dấu chỉ” của một thực tại khác.
(2) Bánh Thánh Thể. Bánh Thánh Thể được trao ban cho chúng ta một cách quảng đại mỗi ngày trong Thánh Lễ ; chúng ta chỉ cần mở tay và mở lòng ra để đón nhận. Tuy không có sự dư tràn vật chất, nhưng lại có sự “dư tràn” về ơn huệ sự sống và ngôi vị của Đức Ki-tô. Ngoài ra, phép lạ “Bánh Lời Chúa” hóa nhiều cũng được Chúa thực hiện cho chúng ta mỗi ngày trong Thánh Lễ và nhất là khi chúng ta cầu nguyện với Lời Chúa và chia sẻ Lời Chúa.
(3) Bánh đời ta. Để đáp lại ơn huệ lương thực hàng ngày và ơn huệ lương thực trường sinh, chúng ta được mời gọi dâng cho Chúa “tất cả”, tất cả những gì chúng ta có và những gì chúng ta là ; và cái “tất cả” của chúng ta thì nhỏ bé và giới hạn như “5 cái bánh và 2 con cá”, nhưng chúng ta được mời gọi trao vào tay Chúa. Đây là cử chỉ mang chiều kích Thánh Thể: “năm chiếc bánh và hai con cá”, là chính con người chúng ta, đã trở thành chính Chúa ; tương tự như bánh là “hoa mầu của ruộng đất và công lao của con người” nhưng được dâng cho Chúa, để trở thành “Bánh Trường Sinh” nuôi dưỡng chúng ta. Và chúng ta được mời gọi cộng tác để chia sẻ và trao ban chiếc “bánh đời tôi”, đã được trao vào tay Chúa và Chúa làm cho trở thành chính Chúa, cho nhiều người.
“Năm chiếc bánh và hai con cá”, diễn tả con người thật của chúng ta, nhưng nếu chúng ta quảng đại trao vào tay Chúa, như là Ngài mời gọi: “Đem lại đây cho Thầy”, thì trở thành điều kì diệu một cách nhiệm mầu, sẽ trở thành, có thể nói, “chính Chúa”, như thánh Phao-lô nói: “Anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Rm 12, 1).
* * *
Các môn đệ phân phát bánh, nhưng không còn là bánh của mình nữa, nhưng là từ bàn tay của Chúa. Chúa không làm cho bánh rơi xuống từ trời ào ào, như xưa Đức Chúa cho Manna đổ xuống từ trời như mưa rào, nhưng Đức Giêsu làm cho những gì có sẵn, dù rất nhỏ bé và giới hạn sinh sôi nẩy nở đến vô hạn. Đó lạ dấu lạ cả thể, nhưng lại được thực hiện ngang qua một hành động rất đỗi bình thường nhưng ý nghĩa thật lớn lao.
Và kết qua là ai nấy được ăn và được ăn no nê, và dư với số lượng lớn: 12 thùng bánh đầy. “Dư Tràn” một cách nhưng không chính là dấu vết của Thiên Chúa (mẻ cá lạ, gấp trăm, 70 lần 7, lòng nhân hậu của người cha, người gieo giống ra đi gieo giống, 6 chum nước trở thành rượu ngon, chữa bệnh gắn liền với tha tội, nước hằng sống..). Bởi lẽ, để giải quyết cơn đói của dân chúng trong hoang địa, không cần bánh nhiều và ngon như thế ; tương tư như trường hợp phép lạ nước hóa thành rượu. Bánh tiếp tục được ban cho dân của Chúa, cho từng người chúng ta mỗi ngày, mỗi ngày cách dư tràn. Bánh diễn tả hồng ân, hồng ân Thiên Chúa được ban ngang qua đất trời và bàn tay của con người của anh chị em, đó là những bữa ăn hàng ngày ; bánh diễn tả sự sống đời đời, đó là bánh Thánh Thể ; và cả hai đều diễn tả chính Chúa, chính Ngôi vị của Chúa. Đấng chúng ta khát khao và chỉ ngài mới làm chúng ta no thỏa, dư tràn.
***
[1] Đến độ cầu nguyện, tĩnh tâm, Thánh Lễ, giáo lý cũng phải nhanh chóng và phải có hiệu quả tức thì và thấy được ngay; nếu không sẽ bị xếp loại! Trong khi hình ảnh “hạt giống” được gieo mang những ý nghĩa hoàn toàn ngược lại: âm thầm, lâu dài, đích thật và bền vững.
6. Thiên Chúa nuôi con người – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Từ năm chiếc bánh và hai con cá Đức Giêsu đã làm phép lạ hóa ra nhiều cho cả chục ngàn người ăn còn dư mười hai thúng đầy.
Tin mừng hôm nay giúp chúng ta có hai cái nhìn: Một về theo phía người theo Chúa, hai về phía Đức Giêsu.
1) Về phía người theo Chúa: Người theo Chúa rất đông, kể số đàn ông độ năm ngàn tất nhiên số đàn bà, các cô, các trẻ em phải đông gấp đôi là ít. Họ theo Chúa vào nơi hoang địa, không nhà không cửa, không một quán ăn. Họ theo Chúa không phải vì miếng ăn, không phải đi đạo kiếm gạo mà ăn vì họ biết Chúa quá nghèo như Người đã nói: “Con cáo có hang, con chim có tổ, Con Người không nơi gối đầu”. Ngay cả các môn đệ Người khi đói cũng phải bứt bông lúa mà ăn trong ngày Sabát (Mt. 12,1) và từ trước đến giờ Người chưa làm phép lạ nào cho bánh hóa nhiều. Dân chúng theo Chúa cũng không phải mong được Chúa chữa bệnh cho mình, vì chỉ có số ít bệnh nhân đến được đây thôi. Vậy họ theo Chúa hoàn toàn vì mộ mến Chúa mà thôi. Đó mới chính là những người thật lòng theo Chúa, theo đạo Chúa thật thì thường sống theo hai đường lối:
+ Một là hoàn toàn phó thác sống theo ý Chúa, như Đức Maria đã thưa: “Tôi xin vâng như lời Thiên sứ của Chúa truyền”. Chính Đức Giêsu đã thực hiện con đường này khi Người xuống thế gian, Người đã thưa: “Này Con xin đến để thực thi ý Cha”. Khi lên mười hai tuổi đi lễ đền thờ, Người đã cho Đức Mẹ và thánh Giuse biết: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận lo làm việc theo ý Cha con?” (Lc. 2, 49) và dù phải khổ đến hấp hối, Người vẫn vâng theo ý Chúa Cha: “Cha ơi, nếu Cha muốn, xin cất chén đắng này khỏi Con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Lc. 52, 42). Bao nhiêu vị thánh đã sống theo gương Đức Giêsu như thế, đặc biệt thánh Phanxicô khó khăn. Ngài sống hoàn toàn phó thác cho Chúa, bán hết của cải bố thí cho kẻ nghèo. Ngài đã trở nên kẻ nghèo cùng cực, đói khát, ăn xin, ôm bế những người cùi, cùng cực của xã hội với lòng yêu thương vui mừng bình an và phó thác.
+ Hai là cố gắng thực hiện lòng mến Chúa yêu người, sống công bình bác ái, khiêm tốn, cần kiệm, liêm chính, hy sinh phục vụ kẻ khác. Nhờ đó, xây dựng đời sống cá nhân, gia đình, xã hội văn minh, tiến bộ, hòa bình, thịnh vượng bảo đảm đời sống hạnh phúc thực bây giờ và muôn đời.
2) Về Chúa Giêsu: Người thấy dân chúng thì cảm thương, thương những người theo Chúa và thương cả nhân loại, thương cả hồn xác.
Chúa thương phần xác loài người. Người không để họ đói. Người đã cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng và bẻ ra, trao cho các môn đệ phân phát cho họ ăn no nê. Người đã chữa lành các bệnh nhân. Người nâng đỡ họ lâm cảnh bệnh tật, đúng như Người kêu gọi: “Hỡi tất cả những ai vất vả khó nhọc, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức cho các ngươi” vì “Ta đến để cho thế gian được sống và được sống dồi dào”. Hơn sáu trăm năm trước, tiên tri Isaia đã thấy được cảnh dân sống phong phú đó, nên ông viết: “Đây Chúa phán: đến tất cả đi, hỡi những người đang khát: nước, rượu, sữa đã sẵn đây, cứ dùng đi, không tiền bạc chi cả. Hãy chăm chú nghe Ta, các ngươi sẽ được ăn ngon, sẽ được thưởng thức cao lương mỹ vị. Hãy lắng tai, và đến với Ta, các ngươi sẽ được sống” (Bài I).
Đúng thế, Thiên Chúa đã dựng nên thế giới này thật phong phú đầy cao lương mỹ vị nuôi hàng tỉ tỉ chim trời cá biển, và muôn loài hàng trăm triệu năm mà vẫn dư thừa. Thiên Chúa đã trao kho tàng vô tận đó cho con người hưởng dùng, cai quản và phát triển. Nếu loài người đừng như đứa con phung phá thì không bao giờ thiếu thốn, đói khổ. Sở dĩ có nghèo đói là do chính loài người phá hủy vào chiến tranh, vào xì ke ma túy …
Thiên Chúa còn làm nên những việc lạ lùng vô cùng hơn nữa để nuôi sống linh hồn con người đời đời. Từ chút bánh rượu, Người đã làm trở nên thịt máu vô cùng châu báu nuôi hồn ta sống hiệp thông trong nguồn sống vinh quang cao cả của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dựng nên nước Trời hạnh phúc muôn thuở cho ta được sống trong tình thương vô biên của Ngài.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết hết lòng, hết sức, hết trí khôn, hết linh hồn, mộ mến Ngài với bất cứ giá nào. “Dù gian truân, cùng khốn, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo, cũng không thể xa lìa chúng con khỏi tình yêu Chúa Kitô” (Bài II – Rm. 8, 35-39)
7. Một tình yêu có thể sờ chạm đến được
(Suy niệm của John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Ai có thể tách chũng ta ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô ( Rm 8,13)”.
Báo “Người Canh Phòng” số ra ngày 19/6 có tường thuật rằng, theo một báo cáo của liên hợp quốc, con số những người di dân phải rời bỏ quê hương hiện nay vượt quá 50 triệu người trên khắp thế giới. Đây là con số kỷ lục kể từ sau thế chiến lần thứ hai. Sự gia tăng số người di dân khiến các quốc gia tiếp nhận và các tổ chức trợ giúp cũng phải khựng lại. Phân nửa số dân tị nạn là trẻ em. Họ đi một mình hay từng đoàn, thất thểu tìm chốn nương thân, và thường bị rơi vào tay bọn buôn người.
Tôi chưa từng bị thiếu ăn một ngày nào, nhưng gia đình thân phụ tôi, khi phải di tản sau thế chiến lần thứ 2, đã có kinh nghiệm này. Họ lê lết đi qua nhiều quốc gia và sống nhiều năm trong các trại tị nạn. Một người bà con của bố tôi đã sống cảnh ly tán từ năm 16 tuổi và sống sót sau chiến tranh nhờ được tiếp tế thực phẩm từ những người Mỹ thiện nguyện. Câu chuyện bi thảm của người họ hàng đó mãi 30 năm sau mới kết thúc, khi ông ta được đoàn tụ với mẹ và những người thân ở Canada.
Kinh Thánh thuật lại khá nhiều câu truyện về những di dân và những người đang bị cơn đói hành hạ, giống như trình thuật trong bài Tin mừng hôm nay. Thời Chúa Giêsu, nhiều người sống rất bấp bênh, thiếu cái để ăn, thiếu nơi để ở, luôn bị đe dọa phải sống lưu vong hay bị tống khứ ra ngoài xã hội. Nhiều người trong họ, nhất là phụ nữ và trẻ em, dễ rơi vào tình trạng như vậy. Matthêu nói về việc Đức Giêsu làm phép lạ nhân bánh ra nhiều cho dân chúng ăn, khởi đầu bằng sự thương cảm của Ngài đối với đám đông, khi họ cần được chữa lành về thể lý cũng như tinh thần. Đoàn người đi theo Đức Giêsu tới một nơi hoang vắng. Các môn đệ Chúa đã không tỏ ra vô cảm. Khi các ông thấy họ đói, đã xin Đức Giêsu giải tán để họ vào các làng mua thức ăn.
Tuy nhiên, việc Chúa Giêsu giảng dạy và chữa lành, thỏa mãn sự đói khát thiêng liêng của dân chúng, cũng chưa đủ nói lên việc thực hiện sứ mạng cứu thế của Ngài. Để trả lời các môn đệ, khi họ xin Chúa giải tán dân chúng, một đám đông khổng lồ gồm 5 ngàn người không kể phụ nữ và trẻ em, Ngài đã nói với các ông:” Họ không cần đi đâu cả, anh em hãy cho họ ăn”. Đây đích thực là một sự quan tâm rất cụ thể, khởi dẫn đến một phép lạ Đức Giêsu sẽ thực hiện. Nhưng về phía chúng ta thì sao? Đức Giêsu nhắc đến trách nhiệm của các tông đồ cũng như của mọi người. Phép lạ Đức Giêsu thực hiện chỉ có thể hiểu được khi gắn kết với sứ mạng cứu thế của Ngài. Phép lạ này không phải để phô diễn một kỳ tích trước quần chúng, nhưng nhằm biểu tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, một tình yêu cụ thể mà chúng ta có thể sờ đến, chạm đến được. Khi chúng ta cho người nghèo túng được ăn , hay cho những người vô gia cư có nơi trú ngụ, cho dù đó có phải là phép lạ hay không, thì ít ra động thái ấy vẫn biểu tỏ tình yêu của Thiên Chúa một cách rất cụ thể. Và đây chính là bổn phận của mỗi người chúng ta, cũng như của cả Giáo hội.
Tình yêu có thể sờ thấy, chạm thấy, đáp ứng những nhu cầu rất cụ thể của con người. Đó cũng là lý do ngôn sứ Isaia đã phóng một tầm nhìn xa về Vương quốc của Thiên Chúa, và không phải chỉ mình Isaia có được viễn kiến đó. Cái nhìn về Vương quốc được biểu tỏ qua hình ảnh nước uống nhằm thỏa mãn cơn khát. Đồng thời, mọi người có thể thỏa thích mua rượu và sữa mà không phải trả đồng nào. Bản văn thực sự nói về cuộc lưu đày của dân Israel, hoài vọng về cố hướng và mơ ước dến một đời sống mới, một cuộc sống mà Thiên Chúa đã hứa ban cho họ. Đó không phải là một quê hương trần thế, nhưng là một vương quốc thiêng liêng sẽ được thiết lập.
Đối với những người sống lưu vong rời xa đất mẹ, phải chiến đấu chống lại cái đói và tình trạng vô gia cư, không gì đáng mơ tưởng cho bằng lời hứa về một quê hương thanh bình với lương thực dồi dào. Khi đáp ứng những nhu cầu thể lý của những con người đang sống cảnh cơ hàn, tình yêu và những lời hứa của Thiên Chúa trở nên thật kỳ diệu.
Tình yêu của Thiên Chúa là một thực tại linh thánh. Quả thật, Thánh Phaolô đã khẳng định rằng “ Cho dù hoạn nạn, cơ cực, bị sát hại, đói khát, trần trụi, tù đày, gươm đao,..vẫn không thể tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô”. Đây là một lời hứa linh thiêng rất sâu sa, được gói ghém nơi một đoạn văn đẹp nhất trong toàn bộ Kinh Thánh. Thánh Phaolô đã khẳng khái tuyên bố “ Dù sống hay chết, dù thiên thần hay ma vương quỷ lực, dù hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ một sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một thụ tạo nào khác, đều không thể tách lìa chúng tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Đây là lời hứa của Thiên Chúa về một tình yêu vĩnh cửu dành trao cho con người. Điều này biểu tỏ một thực tại, cho thấy tình yêu chính là căn gốc thuộc bản tính Thiên Chúa và Thiên Chúa hứa sẽ chăm sóc, yêu thương chúng ta, cho dù hiện tại chúng ta có như thế nào đi nữa. Đây cũng là lời gọi mời được gửi trao cho các tông đồ của Đức Giêsu cũng như cho toàn thể Hội Thánh, một cộng đoàn được quy tụ nhân danh Ngài. Hội Thánh tiếp nối sứ vụ của Đức Giêsu và các môn đệ, để nuôi dưỡng những người đói khát, giúp đỡ những người trần trụi có áo mặc, những kẻ không nhà có nơi ăn chốn ở, và cho những kẻ bị hất ra khỏi xã hội có chỗ dung thân. Khi thực hiện điều này, ánh sáng của tình yêu Thiên Chúa sẽ trở nên một thực tại hữu hình, đập tan bóng tối đè nặng nơi những trại tị nạn đang nhốt kín biết bao con người khổ đau, và tình yêu của Thiên Chúa sẽ thâm nhập vào tận đáy lòng của những con người mà trước đây họ vẫn tưởng rằng mình bị quên lãng.
Thiên Chúa không lãng quên ai bao giờ.
8. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất được 4 tác giả sách Tin mừng thuật lại (x. Mt 14,13-21; Mc 6,30-44; Lc 9,10 -17; Ga 6,1-14). Số lượng người hôm đó khoảng 5 ngàn người đàn ông không kể đàn bà và con trẻ. Nếu tính cả đàn bà và con trẻ thì có lẽ phải lên tới khoảng 15-18 ngàn người. Họ đi theo Chúa vì khát khao được lắng nghe Lời Ngài. Họ lắng nghe một cách say mê đến nỗi quên cả giờ giấc và ăn uống.
Trước tâm tình của dân chúng như vậy, Đức Giêsu đã không phụ lòng họ. Trái lại, Ngài không chỉ giảng dạy để đáp ứng cơn đói khát về tinh thần, mà còn hóa bánh ra nhiều để đáp ứng cơn đói khát vật chất cho họ. Phép lạ này không chỉ nói lên quyền phép của Đức Giêsu và báo trước về việc Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể sau này, mà còn cho chúng ta nhiều bài học cao quý, trong đó thiết nghĩ có ba bài học cần thiết sau đây:
1. Bài học về tình thương
Khi thấy trời đã về chiều, nơi đây lại không có làng mạc, các môn đệ đề nghị Đức Giêsu rằng: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14,15). Lời đề nghị này xem ra rất hợp lý. Với các môn đệ, đó là giải pháp tối ưu và an toàn nhất. Vì giúp cho dân chúng đi vào các làng mạc để kiếm thức ăn. Còn các môn đệ, khi giải tán được đám đông, họ sẽ không còn phải lo lắng, không còn phải bận tâm đến giờ cơm tối cho họ nữa. Thái độ của các môn đệ có lẽ cũng là thái độ của nhiều người trong chúng ta. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta không phải vì bất lực trước nhu cầu chính đáng của anh em đồng loại, nhưng vì không muốn liên lụy, không muốn hy sinh, không muốn giúp đỡ, nên chúng ta chọn giải pháp an toàn cho bản thân mình. Cho nên, chúng ta vẫn có thái độ như các môn đệ ngày xưa. Nhưng thái độ đó của các môn đệ và của chúng ta không phù hợp với thái độ của Đức Giêsu. Ngài yêu thương đám đông dân chúng. Ngài không nỡ giải tán dân chúng khi họ còn đói. Ngài sợ khi họ đi về dọc đường có người bị chết đói chăng? Chính Ngài đã nói: “Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường” (Mt 15,32). Chính vì thương nên Ngài đã đáp ứng cơn đói vật chất của họ bằng việc làm phép lạ cho năm chiếc bánh và hai con cá hóa ra nhiều. Phép lạ này thể hiện tình thương của Đức Giêsu. Đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải xót thương những kẻ đói khát chung quanh chúng ta. Cầu nguyện cho họ mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải giúp đỡ họ tùy theo khả năng của mình. Tiền bạc của cải chúng ta đang có là do Chúa ban và chúng ta chỉ là những người quản lý mà thôi. Vì vậy, hãy lắng tai nghe, hãy mở mắt nhìn, hãy cảm nhận những đói khát của những người chung quanh, để từ đó chúng ta ra sức an ủi, khích lệ và giúp đỡ họ.
2. Bài học về sự cộng tác
Từ không, Đức Giêsu có thể biến thành bánh và cá nhưng Ngài không làm như vậy, bởi Ngài muốn có sự cộng tác của con người. Vì thế, Ngài bảo các môn đệ rằng: “Các con hãy cho họ ăn”(Mt 14,16). Với lời đề nghị này, Ngài muốn đánh thức nơi các môn đệ tinh thần cộng tác. Cho dù các ông không thể đáp ứng được cơn đói cho đám đông nhưng các ông cần phải làm gì đó chứ không được phủi tay an phận. Thực tế chúng ta thấy, sau lời đề nghị của Đức Giêsu, các môn đệ đã tìm ra được 5 chiếc bánh và 2 con cá. Đây là phần ăn của một em bé. Dù nhỏ bé, nhưng lại là phần đóng góp quan trọng mà Đức Giêsu mong muốn. Nhờ sự đóng góp này, Đức Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người được ăn no nê và còn dư thừa.
Ngày hôm nay, nhiều người vẫn có thái độ như các môn đệ ngày xưa, không muốn dấn thân để cứu giúp sự thiếu thốn, đói khát, nghèo nàn của anh em vì sợ liên lụy, ngại khó, ngại khổ, và sợ hy sinh. Hãy nhớ bài học về sự cộng tác mà Đức Giêsu dạy hôm nay. Một mình không thể làm gì được, nhưng nếu biết cộng tác với ơn Chúa, cộng tác với anh chị em đồng loại sẽ làm nên những phép lạ, giúp biến đổi và thăng tiến những mảnh đời đói khổ trong cuộc sống hôm nay. Chẳng hạn: tham gia vào các hội bác ái từ thiện, hội khuyến học, hội bảo trợ chủng sinh, tu sĩ…Đó là chúng ta đang“góp gió thành bão”; “một cây làm chẳng nên non ba cây chùm lại thành hòn núi cao.”
3. Bài học về tinh thần tiết kiệm
Tin mừng hôm nay cho biết, sau khi dân chúng ăn no, người ta còn thu lại được 12 thúng đầy miếng bánh vụn. Thánh Gioan còn cho biết thêm, sau khi dân chúng ăn no, Đức Giêsu đã ra lệnh cho các môn đệ: “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi. Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng” (Ga 6,12-13). Đức Giêsu muốn dạy chúng ta bài học về tinh thần tiết kiệm. Khi no phải biết tiết kiệm để dành khi đói. Vì “Một miếng khi đói, bằng một gói khi no.” Người giàu biết tiết kiệm để giúp đỡ người nghèo. Chúng ta dù giàu hay nghèo nhưng luôn phải biết tiết kiệm để có thể giúp đỡ những người đang đói khát, khổ đau. Vì trên thế giới này còn biết bao nhiêu người đang sống trong cảnh thiếu thốn. Họ phải chết đói vì không có gì để ăn.
Theo UNICEF, mỗi năm có khoảng 7,6 triệu em chết do nghèo đói, vì không có cơm bánh để ăn, và thuốc men cần thiết. Cụ thể: cứ 4 giây trôi qua là có 1 trẻ em chết; mỗi phút, có 14 trẻ em chết; một giờ có khoảng 840 em chết; mỗi ngày có khoảng 22.000 trẻ em chết. Trong khi đó, có nhiều người rất giàu có, có nhiều nơi lương thực lại dư thừa. Trong cuốn “hành trình vào đời,” linh mục Trần Quý Thiện có viết: “Hằng ngày người ta vẫn thường thấy những người ngồi ăn uống thỏa thuê với hết thùng bia này đến hết thùng bia khác, thậm chí có người nôn mửa hoặc phải móc họng cho nôn mửa bớt để vào ăn uống tiếp. Trong khi đó có biết bao trẻ em đứng chờ chực bên các tiệm ăn để tranh nhau từng bát phở thừa, từng đĩa cơm dư, canh cặn. Nhiều người nghèo phải nhặt từng củ khoai vụn, bới moi từng thùng rác để tìm những đồ ăn dư thừa. Nơi khác có những con người, có những trẻ em đang chết dần chết mòn vì đói”.
Vì thế, bài học về tinh thần tiết kiệm để chia sẻ cho những người nghèo khó mà Đức Giêsu dạy các môn đệ ngày xưa vẫn còn mang tính thời sự. Xin cho chúng ta luôn sống tinh thần tiết kiệm, không chỉ khi no chúng ta tiết kiệm để dành khi đói mà còn biết tiết kiệm để giúp đỡ những anh chị em nghèo đói, đừng để chúng ta trở thành những nhà phú hộ bên cạnh những Lazarô nghèo đói.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm được tình thương của Chúa qua phép lạ hóa bánh ra nhiều này, nhờ đó chúng con cũng biết yêu thương anh chị em mình như Chúa. Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa và với nhau để dấn thân phục vụ, hầu góp phần làm cho cuộc sống này thêm tươi đẹp hơn. Xin cho chúng con có tinh thần tiết kiệm để giúp đỡ những người thiếu thốn, khổ đau. Xin cho sứ điệp Lời Chúa hôm nay khắc ghi trong lòng mỗi người chúng con, để chúng con biết đem ra thực hành trong cuộc sống của mình. Amen.
9. Quan tâm tới cái đói
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã quan tâm đến cái đói cái khát, cũng như đến những khổ đau, bệnh tật là những sự kiện rất bình thường của thân phận con người. Từ đó chúng ta ghi nhận được những khác biệt cần suy nghĩ.
Trước hết là các tông đồ, những người đã từng chứng kiến cách cư xử của Chúa Giêsu, thế mà các ông cũng chưa có được cái nhạy cảm của Ngài. Các ông đã đề nghị Ngài giải tán đám đông khi trời đã xế chiều, để mỗi người tự giải quyết lấy vấn đề cơm ăn thức uống của riêng mình. Bởi vì đâu có gì bắt buộc các ông phải giải quyết cho họ. Hơn nữa các ông là những người cộng tác với Chúa, có nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ, một nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả, chứ đâu có phải là ba cái chuyện tẹp nhẹp, vụn vặt là ăn và uống.
Còn Chúa Giêsu thì sao? Ngài đã phản ứng như thế nào? Tin Mừng cho chúng ta thấy giữa Chúa Giêsu và đám đông có một sự gắn bó mật thiết: Đám đông đói khát giáo huấn của Ngài. Họ đã đi theo Ngài ngay cả khi Ngài muốn lẩn tránh họ. Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ thấy được cái đói khát lời đem lại chân lý và sự giải phóng cho họ. Mà hơn thế nữa, Ngài còn thấy cả cái đói đang giày vò thân xác họ. Ngài không chỉ thấy suông, như một con người bàng quan. Trái lại, Tin Mừng đã ghi lại một chi tiết đầy ý nghĩa: Thấy đám đông, Ngài chạnh lòng thương xót và chữa lành những kẻ đau yếu. Ngài đã làm phép lạ cho 5 chiếc bánh và hai con cá hoá ra nhiều đến độ tới 5.000 người, không kể đàn bà và trẻ em, có thể ăn no mà còn dư tới 12 thúng bánh vụn.
Chúa đã chẳng làm phép lạ từ con số không, nhưng từ những chiếc bánh và những con cá, đang có sẵn là khẩu phần của một người nào đó đã biết tiên liệu mang theo mình. Dĩ nhiên lương thực ấy phải là kết quả của mồ hôi nước mắt, của lao công khó nhọc. Khẩu phần ấy giờ đây được bẻ ra và phân phát cho mọi người.
Thế giới hôm nay còn có những kẻ đói, còn có những dân tộc đói bởi vì có những chiếc bánh được giữ riêng cho những cá nhân, và không hề được bẻ ra để chia sẻ, để giúp đỡ. Chúng ta không có khả năng thực hiện được một việc làm ngoạn mục như Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta luôn được mời gọi để chạnh lòng thương xót, để chia sẻ và quan tâm tới người khác, nhất là những kẻ nghèo đói. Chính mối quan tâm này sẽ giúp chúng ta dần dần tìm thấy cách thức giải quyết, bởi vì có rất nhiều cái đói chồng chất trong xã hội này: đói của ăn thiêng liêng, đói của ăn vật chất, đói tình thương, đói văn hoá, đói giáo dục, đói sự thật, đói chân lý, đói những quyền căn bản để làm người. Thế nhưng chúng ta đã làm được những gì để giải quyết phần nào những cái đói ấy cho bản thân cũng như cho những người chung quanh.
10. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Thiên Chúa là Ðấng thỏa mãn những khát vọng của con người. (Mt 14,17)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa mấy tuần gần đây đưa ra những sứ điệp rất an ủi: Chúa nhựt tuần trước. Chúa cho biết Ngài là một người Cha yêu thương luôn tìm những ơn tốt lành nhất để ban cho chúng ta là con cái Ngài. Hôm nay Chúa cho biết thêm Ngài sẽ thỏa mãn tất cả những khát vọng của con người.
Chúng ta hãy cùng dâng Thánh Lễ này trong tâm tình biết ơn và trông cậy Chúa.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta quan tâm thỏa mãn những nhu cầu vật chất mà quên những nhu cầu tâm linh.
Nhiều khi chúng ta sống thiếu lòng trông cậy Chúa.
Nhiều khi chúng ta cũng không biết ơn Chúa vì biết bao ơn lành Ngài đã ban.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 55,1-3)
Ðoạn này thuộc về chương cuối của phần II sách Isaia (“sách an ủi”, gồm các chương 40-55). Ðệ nhị Isaia công bố lời Thiên Chúa mời gọi người ta đến dự một bữa tiệc do Ngài khoản đãi. Bữa tiệc này rất đặc biệt:
Những món ăn rất thịnh soạn toàn đồ bổ và cao lương mỹ vị.
Bữa tiệc hoàn toàn miễn phí.
Người được mời là những kẻ nghèo khổ, đói khát, không tiền bạc, cũng không có gì để đổi chác.
Dĩ nhiên, hình ảnh bữa tiệc mang ý nghĩa tượng trưng:
Tượng trưng cho sự thỏa mãn những khát vọng của con người
Tượng trưng cho hạnh phúc Nước Trời.
2. Ðáp ca (Tv 144)
Tv 144 ca tụng tình thương ân cần của Thiên Chúa đối với tất cả những thụ tạo của Ngài: chẳng những Ngài đã tạo nên chúng, mà còn quan tâm dưỡng nuôi và chăm sóc chúng: “Muôn loài để mắt cậy trông vào Chúa. Chúa mở rộng bàn tay và thi ân cho mọi sinh vật được no nê”.
3. Tin Mừng (Mt 14,13-21)
Phép lạ hóa bánh ra nhiều. Cách viết của thánh Matthêu rõ ràng muốn so sánh với phép lạ manna thời Xuất Hành và bí tích Thánh thể mà Chúa Giêsu sẽ lập: thời xưa Thiên Chúa đã nuôi dân Do Thái no nê bằng thứ lương thực diệu kỳ là manna. Thời nay Chúa Giêsu còn nuôi dân mới bằng một thứ lương thực diệu kỳ hơn nữa là Bí tích Thánh Thể.
4. Bài đọc II (Rm 8,35.37-39) (Chủ đề phụ)
Ðoạn thư này của Thánh Phaolô là lời tuyên xưng đức trông cậy mạnh mẽ nhất: không gì có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Ðức Kitô.
– Bảng liệt kê thứ nhất kể ra những gian truân thử thách của bản thân Thánh Phaolô và có thể cũng là của mọi kitô hữu: gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo.
– Bảng liệt kê thứ hai kể ra những gian truân của thân phận làm người: chết hay sống, hiện tại hay tương lai…
IV. Gợi ý giảng
1. Phép lạ = quyền phép Thiên Chúa + đóng góp của con người
Ðức Giêsu đã làm phép lạ có lương thực nuôi năm ngàn người ăn thừa thải. Nhưng phép lạ này bắt đầu từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé.
Mẹ Têrêxa hàng ngày nuôi chín ngàn người nghèo ở Calcutta. Nhưng số lượng lương thực này là do phần đóng góp của biết bao người hảo tâm.
Một hôm có một cặp vợ chồng trẻ đến trao cho Mẹ một số tiền lớn. Mẹ ngạc nhiên hỏi:
– Làm sao mà anh chị có được số tiền lớn này?
– Chúng con vừa cưới nhau hai ngày trước đây. Chúng con đã nhất trí với nhau không tổ chức tiệc cưới, để dành tiền giúp những người nghèo.
– Tại sao anh chị làm thế?
– Vì chúng con rất yêu nhau, chúng con muốn bắt đầu cuộc sống gia đình bằng một việc hy sinh, để Chúa chúc lành cho chúng con.
2. Có thể tin được Lời Chúa không?
Lời Chúa hôm nay thật rõ ràng: Chúa nói Ngài thỏa mãn mọi thứ đói khát của con người.
Nhưng ta có thể tin vào Lời đó không, bởi vì ngày nay biết bao người còn đang đói khát, trong số đó có thể có chính chúng ta nữa?
– Ðiều căn bản mà chúng ta phải nhớ là Thiên Chúa đã tạo dựng nên trái đất này, một trái đất phong phú, sản sinh ra đầy đủ đến dư thừa mọi lương thực chẳng những cho loài người mà còn cho muôn loài. Cho nên trên căn bản là Chúa bảo đảm cho muôn loài được no nê.
– Trong bài Tin Mừng, Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá mà một cậu bé đã bỏ ra để chia xẻ cho mọi người khác; sau khi chúc tụng, bẻ ra, Chúa bảo các môn đệ “phân phát”. Nghĩa là Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc chia xẻ, phân phối. Với nguồn tài nguyên phong phú của trái đất, theo nguyên tắc thì mọi người đều có thể no đủ, miễn là con người biết chia xẻ cho nhau và biết phân phối hợp lý.
– Ngoài thức ăn vật chất, Chúa Giêsu còn muốn hướng con người đến một thức ăn khác nữa, cần thiết hơn, quý trọng hơn. Bởi đó, sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, người ta tiếp tục tuôn đến với Chúa mong Ngài tái diễn phép lạ ấy, nhưng Ngài đã lánh họ mà đi. Theo tường thuật của Thánh Gioan, Ngài còn nói với họ “Các ngươi tìm Ta chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Hãy nỗ lực tìm kiếm thứ lương thực nuôi dưỡng sự sống muôn đời”
– Thứ lương thực ấy chính là bản thân của Chúa Giêsu, được ban cho chúng ta qua bí tích Thánh Thể.
3. Những khát vọng của con người
Con người có nhiều khát vọng, nhưng tiếc thay họ chỉ để ý tới những khát vọng tầm thường.
– Rõ rệt và dễ cảm thấy nhất là những khát vọng của thân xác: ăn uống, nghỉ ngơi, vui chơi. Xét cho cùng, những khát vọng này cũng giống với những khát vọng của thú vật và thực vật thôi. Và xét cho cùng thì cũng dễ thỏa mãn thôi miễn là tài nguyên của trái đất này được chia xẻ và phân phối hợp lý. Chúa Giêsu nói “Hãy xem chim trời… hãy xem hoa huệ ngoài đồng…”
– Còn nhiều khát vọng cao hơn và quý hơn: bình an sâu sắc, tình yêu chân thật, sự sống vĩnh cửu… Chân, thiện, mỹ tuyệt đối… Những khát vọng này không ai và không cái gì có thể thỏa mãn cho chúng ta, ngoài một mình Thiên Chúa.
4. Một giải thích mới về phép lạ hóa bánh ra nhiều
Có người giải thích rằng phép lạ này không nằm ở chỗ số lượng bánh rất nhiều, mà nằm ở chỗ Ðức Giêsu đã làm được một việc lạ lùng hầu như không ai làm nổi: biến tính tự tư tự lợi của con người thành tính quảng đại chia xẻ.
Câu chuyện sau đây có thể minh họa cho ý nghĩa này:
Một hôm, có một người đàn ông vào nhà một bà dân làng xin ăn. Bà này từ chối:
– Xin lỗi. Hiện giờ trong nhà tôi không còn gì có thể ăn cả.
– Không sao. Chỉ nhờ bà cho tôi mượn chiếc nồi nấu súp. Tôi có một viên sỏi có thể nấu thành một nồi súp đặc biệt ngon, từ trước tới giờ chưa từng có món ăn nào ngon bằng.
Bà chủ nhà bằng lòng. Người khách đổ nước vào nồi, bỏ viên sỏi vào rồi bắt đầu nấu. Trong khi đó, bà chủ nhà sang nhà hàng xóm tiết lộ bí mật của nồi súp tuyệt vời ấy. Hàng xóm này lại tiết lộ cho hàng xóm khác. Chẳng bao lâu căn nhà đầy người.
Khi nước bắt đầu sôi, người khách lạ múc lên một muỗng nếm: “Chà, rất ngon. Nhưng phải chi có thêm chút ít khoai tây nữa thì sẽ ngon tuyệt”. Một người vội vàng chạy về nhà lấy khoai tây bỏ vào. Lát sau người khách lại nếm và lại nói “Ngon hơn trước rồi. Phải chi có thêm một chút thịt nữa thì hết chỗ chê”. Một người khác vội chạy về nhà lấy thịt. Cứ như thế…
Cuối cùng nồi súp chín. Người khách mời mọi người ngồi vào bàn. Mỗi người một tô. Ai nấy đều khen món súp ngon tuyệt vời. Còn người khách thì vớt từ đáy nồi lên viên sỏi của ông, bỏ vào túi, vui vẻ chào mọi người và ra đi.
5. “Ðiều gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Ðức Kitô”?
Kiểu nói “lòng yêu mến của Ðức Kitô” có hai nghĩa: a/ Lòng Ðức Kitô yêu mến chúng ta; và b/ lòng chúng ta yêu mến Ðức Kitô.
Chúng ta hãy trả lời câu hỏi của Thánh Phaolô theo nghĩa thứ nhất: có gì có thể làm Ðức Kitô không còn yêu mến chúng ta nữa không? Chắc chắn là không: Ðức Kitô đã phải “gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo” nhưng Ngài vẫn yêu mến chúng ta, Ngài yêu mến chúng ta đến nỗi hiến thân chịu chết vì chúng ta.
Bây giờ chúng ta cũng trả lời câu hỏi ấy nhưng theo nghĩa thứ hai: có gì có thể làm cho chúng ta hết yêu mến Ðức Kitô không? Câu này có thể có hai câu trả lời:
– Nếu chúng ta thực lòng yêu mến Chúa thì không. Chẳng hạn Thánh Phaolô. Ngài đã chịu đủ thứ “gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo”, nhưng Ngài vẫn một mực yêu mến Chúa. Ngài còn lấy làm hạnh phúc bởi được chịu khổ vì Chúa. Các thánh thì cũng thế.
– Nhưng nếu chúng ta không thực lòng yêu mến Chúa, tất cả đều có thể tách ta ra khỏi Chúa. Mà xét cho cùng, chỉ có một người có thể tách chúng ta ra khỏi Chúa, đó là chính bản thân chúng ta.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Tình yêu. Người yêu thương, chăm sóc và dưỡng nuôi hết thảy mọi người. Tin tưởng vào tình thương của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Hội Thánh không những cung cấp lương thực thiêng liêng / là Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa cho con cái mình / mà còn quan tâm giúp đỡ những ai nghèo khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh / làm tròn trách nhiệm cao quý nhưng hết sức nặng nề này.
2. Trên thế giới ngày nay / nạn đói vẫn còn đang hoành hành dữ đội / mỗi năm giết chết hàng triệu người lớn và trẻ em tại các nước chậm phát triển / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều nhà hảo tâm / luôn sẵn sàng trợ giúp những người nghèo đói một cách quảng đại.
3. Nhiều khi vì miếng cơm manh áo / mà nhiều người đã bán rẻ nhân phẩm / coi thường danh dự / sa lầy trong vũng bủn tội lỗi / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa nâng đỡ những ai đang sống trong cảnh khốn cùng / để dù nghèo khổ / họ vẫn luôn giữ được khí tiết của mình.
4. Quan tâm giúp đỡ những ai đói nghèo / những người bệnh tật / là trách nhiệm của mỗi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết sống bác ái một cách cụ thể với hết thảy mọi người.
CT: Lạy Chúa, thánh Phaolô đã nói với chúng con “Sống bác ái là chu toàn cả lề luật”. Xin Chúa ban ơn giúp sức, để chúng con có thể sống trọn vẹn đức bác ái yêu thương, và biết thật tình chia sẻ với những ai đói rách bần cùng. Chúng con cầu xin…
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta đều là con cùng một Cha trên trời. Chúng ta hãy một lòng một ý với nhau cầu xin Cha trên trời ban cho chúng ta lương thực hằng ngày, chẳng những lương thực vật chất mà cả lương thực thiêng liêng nữa.
– Trước rước lễ: Dân Do Thái ngày xưa được ăn manna. Dân chúng thời Ðức Giêsu được ăn no nê từ 4 chiếc bánh và hai con cá mà Chúa đã làm phép lạ cho ra nhiều. Thực ra chúng ta cũng không thua kém gì họ, bởi vì chúng ta được ăn chính Mình Thánh Ðức Giêsu. “Ðây Chiên Thiên Chúa…”
VII. Giải tán
Thánh lễ đã xong, anh chị em hãy ra về và cố gắng sống tinh thần chia xẻ mà Chúa đã dạy chúng ta.
11. Năm chiếc bánh và hai con cá
(Suy niệm của JB. Lê Ngọc Dũng)
Chúa Giêsu đã “chạnh lòng thương” khi thấy đoàn dân chúng đông đảo đi tìm Ngài; tìm Ngài để được nghe những lời chân lý, để được học đạo lý. Họ đã muốn nghe Lời Chúa nơi Đức Giêsu. Họ đã đi tìm học biết Lời Chúa mà bất kể đường xa mệt nhọc. Họ đã đi bộ quãng đường dài, mà không kịp mang theo thức ăn thức uống.
Chúa Giêsu đã “chạnh lòng thương” đối với những người thành tâm tìm kiếm Ngài như vậy. Ngài chửa lành bệnh tật cho họ và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để cho họ được ăn no nê.
Điều này làm cho chúng ta nhớ lại Lời Ngài đã dạy:
Vậy các ngươi chớ lo mà rằng: Ta sẽ ăn gì? Ta sẽ uống gì? Ta sẽ lấy gì mà mặc? Các điều đó, dân các ngươi kiếm gì. Nhưng Cha các ngươi, Ðấng ở trên trời, biết rõ các ngươi cần đến các điều ấy. Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, và sự công chính của Người, và các điều ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi. Vậy chớ lo đến ngày mai: Mai sẽ lo cho mai. Khổ ngày nào, đủ cho ngày ấy (Mt 6,31-34).
Nhiều khi chúng ta quá lo cho cuộc sống, lo cho có công ăn việc làm, lo cho có nhà có cửa, lo cho con cái học hành thành tài nhưng lại không lo cho phần rỗi linh hồn của mình; không lo cho con cái có đời sống đạo đức mà chỉ lo cho chúng làm sao học giỏi, đỗ đạt cao. Biến cố dịch bệnh hiện nay là một lời cảnh tỉnh. Nhiều công ty, nhiều nhà đầu tư phải bị phá sản. Biết bao nhiêu công sức đổ dồn vào đó, bổng chốc trở nên trống rỗng. Giá như những công sức đó lại bỏ ra để đi tìm chân lý đi tìm Nước Thiên Chúa thì đáng gía biết bao!
Thiên Chúa không hề bỏ những người đi tìm chân lý, tìm kiếm Nước Trời mà phải bị đói khát. Ngài hằng lo lắng cho họ, cho họ được ăn no nê. Phép lạ hóa bánh ra nhiều cũng cho thấy Thiên Chúa lo cho chúng ta qua những người khác và kêu gọi chúng ta cũng hãy giúp Ngài lo cho những người khác đó.
Trong phép lạ này, Chúa Giêsu đã không hóa bánh ra nhiều từ hư không nhưng đã hóa từ một lượng bánh và cá nhỏ của một người. Ngài đã không lập tức hóa bánh ra nhiều từ những viên sỏi đá, nhưng đã từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé. Ngài đã tựa vào một lượng bánh và cá nhỏ của một người để làm ra nhiều bánh cá cho nhiều người được ăn no nê.
Và trước đó, các môn đệ vì thấy dân chúng đói, nên thưa với Chúa Giêsu: “ Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn.” (Mt 14,15), thì Ngài đã đáp lại: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Chúa Giêsu muốn chính chúng ta phải làm một cái gì đó để cộng tác với Ngài, trước những nhu cầu của những người anh em.
Người ta kể chuyện ở Mỹ. Một công ty cung cấp một bửa tiệc cho đơn đặt hàng cho 500 người ăn. Nhưng vì một lý do gì đó thực khách chỉ có khoảng 100 người. Dù được báo trước như vậy, công ty vẫn làm đủ 500 khẩu phần cho 100 người ăn. Dĩ nhiên là 400 phần còn lại phải đổ bỏ. Họ không thể làm khác hơn vì việc sản xuất ra 500 khẩu phần ăn là nằm trong dây chuyền kế hoạch, không thể xáo trộn. Phải sản xuất ra lượng thực phẩm lớn, cho dù phải đổ bỏ. Nhưng dù sao chúng ta vẫn thấy đó quả là phí phạm, vì đang lúc đó có hàng trăm trẻ em bị chết đói ở các nước Phi Châu.
Ngược lại với câu chuyện phí phạm lương thực trên, mẹ Têrêxa hàng ngày nuôi chín ngàn người nghèo ở Calcutta. Nhưng số lượng lương thực này là do phần đóng góp của biết bao người hảo tâm.
Một hôm có một cặp vợ chồng trẻ đến trao cho Mẹ một số tiền lớn. Mẹ ngạc nhiên hỏi:
– Làm sao mà anh chị có được số tiền lớn này?
– Chúng con vừa cưới nhau hai ngày trước đây. Chúng con đã nhất trí với nhau không tổ chức tiệc cưới, để dành tiền giúp những người nghèo.
– Tại sao anh chị làm thế?
– Vì chúng con rất yêu nhau, chúng con muốn bắt đầu cuộc sống gia đình bằng một việc hy sinh, để Chúa chúc lành cho chúng con.
Hơn bao giờ hết, con người cần ý thức chia sẻ cho nhau, cần cố gắng hoạt động để giúp đổ những người nghèo đói khác trong phạm vi cá nhân riêng rẽ hay ở mức độ lớn, gây một ý thức liên đới yêu thương.
Nhìn lại Tin Mừng, chúng ta hẳn cũng phải cảm phục cậu bé đã hy sinh đi 5 chiếc bánh và hai con cá để chia sẻ cho những người khác đang đói khát. Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá đó. Ngài còn bảo môn đệ “phân phát”. Nghĩa là Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc phân phối, chia sẻ cho nhau.
Hơn nữa, chắc hẳn Chúa Giêsu đã không chỉ dừng lại ở việc chia sẻ thức ăn vật chất, Ngài còn muốn hướng con người đến một thức ăn khác nữa, cần thiết hơn, quý trọng hơn, đó là chia sẻ thức ăn tinh thần, chia sẻ sự sống đời đời. Từ chính phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu hướng đến bí tích Thánh Thể, lương thực nuôi sống muôn đời. Từ việc con người biết chia sẻ vật chất cho nhau, con người sẽ được chia sẻ những giá trị tinh thần. Giá trị tinh thần đó, trước mắt, đó là niềm hạnh phúc của chính hành vi bác ái yêu thương. Quan trọng hơn, chúng ta được chia sẻ vào hy tế Thánh Thể, mang lại sự sống hạnh phúc đời đời.
12. Tình liên đới đồng loại
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Báo cáo của tổ chức vận động chống đói nghèo quốc tế Oxfam có tiêu đề “Nền kinh tế của 99%”, được đưa ra trước thời điểm khai mạc Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại Davos (Thụy Sỹ) từ 17-20/1, theo đó, tổng tài sản của 3,6 tỷ người nghèo nhất thế giới chỉ tương đương với tổng giá trị tài sản ròng của 8 người gồm 6 công dân Mỹ, một doanh nhân Tây Ban Nha và một doanh nhân đến từ Mexico. Trong số này có những tỷ phú như Bill Gates – nhà sáng lập Tập đoàn công nghệ danh tiếng Microsoft, Mark Zuckerberg – ông chủ trang mạng xã hội “đình đám” Facebook và Jeff Bezos, nhà sáng lập trang bán hàng trực tuyến Amazon. Ước tính, giá trị tài sản của nhóm người giàu nhất này tăng trung bình 11% mỗi năm kể từ 2009.
Cũng theo cách tính toán mới, con số của năm là 43 người giàu nhất và 3,6 tỷ người (50% dân số thế giới).
Câu hỏi được đặt ra: Tại sao lại có sự bất bình đẳng và chênh lệch giầu nghèo quá lớn như vậy? Có phải vì con người ích kỷ, hẹp hòi không biết chia sẻ cho nhau không, hay thay vì chế tạo ra bột mỳ, lương thực, thuốc men giúp con người đỡ khổ, thì lại tích luỹ làm giầu, chế tạo súng ống chạy đua vũ trang?
Thật nguy hiểm, khi con người ngày càng giầu về vật chất, nhưng lại nghèo về tinh thần như: đạo lý, công bằng, tình thương, sự thật, tình liên đới và trách nhiệm, kéo theo sự đói nghèo tổng thể. Phải khẳng định rằng, Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh và như họa ảnh của mình (x. St 1,26). Người cũng là Thiên Chúa tình thương (x. 1Ga 4,8), nên con người tự bản chất là tình thương. Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người sẽ là kẻ không thể hiểu được đối với chính bản thân mình, cuộc sống con người mất nghĩa nếu không nhận lấy mạc khải về tình yêu, nếu không gặp tình yêu, nếu không kinh nghiệm tình yêu và không nhận lấy kinh nghiệm đó làm của mình và dự phần vào đó cách mãnh liệt” (Thông điệp Đấng Cứu Chuộc số 10). Không có tình thương, thế giới không còn là thế giới của con người nữa.
“Anh em hãy cho họ ăn”, lệnh Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải làm ngay lập tức. Nhìn thấy đám đông, Đức Giêsu chạnh lòng thương. Đây là một đám đông nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ vơ không người chăn dắt. Đám đông tội nghiệp đi tìm Đức Giêsu không phải chỉ để được ăn no, nhưng còn để được chữa lành bệnh, nhất là được ủi an, dạy dỗ và bảo ban.
Các môn đệ đã nhìn thấy đám đông đói khát. Các ngài muốn thoái thác, phủi tay: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thày giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn”. Đó là một giải pháp hợp lý. Lo cho năm ngàn người ăn là ngoài tầm tay của các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng, ai lo phần nấy, thật dễ dàng. Nhưng, đó là giải pháp không được Chúa chấp nhận. Tại sao vậy? Vì thiếu tình liên đới.
Triệu chứng thờ ơ xuất hiện, gặp người có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn mà không thấy xót xa, không ra tay giúp đỡ dù có điều kiện; đứng trước sự bất công mà không thấy phẫn nộ ; thấy điều tốt đẹp, cao thượng mà không ngưỡng mộ, cảm phục. Dù là thờ ơ, dửng dưng, hay mặc kệ, bất cần đều là vô cảm.
Chúa muốn loại bỏ sự vô cảm nơi các môn đệ, Người phán: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy lo cho họ ăn. Họ đói, các con phải lo cho họ ăn”. Một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các môn đệ, nhưng đã đồng cảm thì phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải truyền tới bàn tay.
Đồng cảm là góp phần mình. Chúa không cần những phép tính vĩ mô, năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh? Những tính toán như thế, không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá”. Thật là ít ỏi, nghèo nàn, Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn ấy: “Hãy mang lại đây cho Thày”. Có ít hãy đóng góp ít. Nhưng quan trọng là phải bắt tay vào. Đồng cảm không đòi ta phải quán xuyến mọi sự, nhưng đòi ta góp phần của mình vào việc chung.
Đồng cảm là chia sẻ. Chúa chúc tụng để làm phép bánh và cá như ta thấy, những đóng góp dù ít ỏi của ta đã thành thiêng liêng cao quí. Chúa không làm phép lạ tức khắc biến ngay cá và bánh ra một núi lương thực cho mọi người tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực cho mọi người. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Và mọi người trao lại cho nhau. Đó là bài học lớn của phép lạ. Chính khi mọi người trao cho nhau, Chúa làm phép lạ. Bánh và cá cứ tiếp tục sinh sôi bao lâu những bàn tay còn trao cho nhau. Bánh và cá vẫn tiếp tục nhân lên bao lâu mắt con người vẫn còn nhìn nhau. Những tấm bánh của tình liên đới. Những đàn cá của sự chia sẻ nhân lên theo nhịp đập đồng cảm của trái tim. Khi trái tim chan chứa yêu thương, quan tâm, liên đới, lương thực trở nên phong phú, dư thừa.
Thế mà các môn đệ đã vội lo. Cũng như ta thường lo thế giới này quá chật hẹp không đủ chỗ cho mọi người. Lương thực trên thế giới không đủ nuôi mọi người. Hôm nay Chúa dạy ta mỗi người hãy chia sẻ những gì mình có thì thế giới sẽ dư thừa lương thực. Khi trái tim mở ra thế giới sẽ có đủ chỗ cho mọi người.
Quả thật, có lòng thương cảm người khác là một điều tốt, nhưng chưa đủ, cần phải có hành động thực sự nữa. Chúa Giêsu đã làm và dạy chúng ta như thế. Thử nghĩ, trước nỗi đau và túng cực của tha nhân, ta có thái độ thế nào? Ngoảnh mặt làm ngơ hay bưng tai giả vờ làm điếc, không thể chấp nhận được. Chúa không đòi chúng ta làm những việc to lớn, nhưng đòi chúng ta biết chia sẻ những gì trong tầm tay của chúng ta, phần còn lại Chúa sẽ thực hiện. Ngạn ngữ phương tây có nói: Giúp người thì trời giúp cho. Việt Nam ta cũng thường nói: ở xởi nởi thì trời cởi cho, ở xẻn xo thì trời co tay lại.
Hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta hãy nhìn những người chung quanh bằng ánh mắt của tình liên đới, đừng dửng dưng, vô cảm. Những người già bị bỏ rơi cô đơn, người này đói vì tôi vô tâm hay đã ăn quá nhiều, người kia rách vì tôi đã mê mải chạy theo mốt. Những đứa trẻ này hư hỏng vì tôi đã thiếu quan tâm chỉ bảo. Những đứa trẻ kia rơi vào tội phạm vì tôi đã không làm gương tốt cho chúng. Thế giới này chưa tốt một phần có trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Thế giới này chưa công bằng trong đó có phần lỗi của chúng ta. Ý thức về sứ mạng này, chúng ta hãy phấn đấu để trở nên những tông đồ, những sứ giả, những người cổ vũ và kiến tạo nền văn minh tình thương.
Lạy Đức Maria, Đấng chỉ bảo đàng lành, xin cầu cho chúng con. Amen.
13. Ai nấy đều được ăn no nê
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Một thế giới huynh đệ đại đồng là lý tưởng con người hằng mơ ước. Phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá (Mt 14, 17) cho năm ngàn người cùng ngồi trên một thảm cỏ ăn no hôm nay vẫn thật thức thời.
Những con số cụ thể như: năm chiếc bánh, hai con cá, năm ngàn người với mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (x. Mt 14, 13-21) thật ấn tượng. Làm sao chúng ta không thể nghĩ đến những con số khác: có tới trăm ngàn người thiệt mạng trong các cuộc giao chiến, hàng trăm triệu euros cho việc chuyển giao một cầu thủ bóng đá, hàng tỷ người đói hiện nay trên thế giới. Những con số không biết nói nhưng đã trở thành lời. Một bên là tiếng hoan hô ngưỡng mộ trước phép lạ; bên kia là sự khiếp sợ.
Con số: “ năm chiếc bánh và hai con cá với năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ “ (Mt 14, 21), cho thấy sự mất cân bằng quá lớn giữa thực phẩm với nhu cầu của con người. Chúng ta cũng đang phải đối diện với những vấn nạn tương tự về các thảm họa chết người, chiến tranh và nạn đói, và cảm thấy bối rối, bất lực: chúng ta có thể làm gì?
Đoạn Tin Mừng này gửi đến chúng ta cách thời sự trong thế giới chúng ta đang sống. Làm sao không thể nghĩ tới nạn đói đang hoành hành một phần lớn nhân loại? Ngay cả ở các nước phương Tây, nhiều người vẫn không có cái tối thiểu để mà sống. Vì vậy, chúng ta cảm thấy nhu cầu rất lớn của nhân loại mà chúng ta bất lực. Nhiều người đặt câu hỏi: Thiên Chúa đang ở đâu? Tại sao ngày nay Thiên Chúa không còn làm như vậy? Tại sao Người không hoá bánh ra nhiều cho triệu triệu người đang đói trên mặt đất này?
Một chi tiết trong bài Tin Mừng có thể giúp chúng ta tìm ra lời giải đáp cho những vấn nạn trên. Chúa Giêsu không búng ngón tay để rồi bánh và cá xuất hiện cách ma thuật theo ý muốn. Nhưng Người hỏi các môn đệ có gì và truyền: “các con hãy cho họ ăn” (Mt 14, 16); Người kêu gọi các ông chia sẻ điều các ông có: “năm cái bánh và hai con cá “ (Mt 14, 17).
Ngày nay Chúa Giêsu cũng làm như vậy. Người xin chúng ta chia sẻ những tài nguyên trái đất. Điều được biết rõ, ít nhất về thức ăn, là trái đất chúng ta có khả năng nâng đỡ hơn một tỷ người nữa đang ở trên mặt đất này.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta, “ hãy cho họ ăn “. Chỉ cần ít mà có một chút tình yêu, tí chút vật chất để khắc phục nạn đói, thân xác và tâm hồn. Chút ít ấy, chúng ta đặt vào tay Chúa. Thiên Chúa sẽ thực hiện những điều kỳ diệu.
Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta nhìn lại phép lạ hóa bánh ra nhiều theo một cách khác. Trước hết, Người khiêm tốn bảo các ông rằng: “Hãy đem lại cho Thầy” (Mt 14, 18), và chấp nhận dùng bánh của các ông. Sẽ chẳng có gì, nếu các ông không đồng ý cho bánh. Thiên Chúa cần những cử chỉ chia sẻ của chúng ta để thực hiện những điều cao cả. Do đó, năm cái bánh và hai con cá đã được Chúa Giêsu dùng để nuôi ngần ấy ngàn người, tất cả đều no nê. Người hoàn toàn tin tưởng ở Chúa Cha. Người biết rằng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể.
Một câu hỏi khác được đặt ra: Chúa Giêsu đã nuôi sống đám đông trong một ngày. Nhưng ngày hôm sau, họ tiếp tục bị đói. Họ tìm thấy mình ở trong một tình trạng khác của khổ đau. Vậy tại sao Chúa Giêsu không thay đổi tình trạng này?
Mục đích của Chúa Giêsu không phải là để thay đổi tình thế, cho bằng thay đổi lòng người. Khi con người thấm nhuần sứ điệp tình yêu Chúa, họ không còn như trước nữa. Điều quan trọng là con người cho đi những điều tốt nhất là hành vi yêu thương và chia sẻ làm cho cuộc sống có giá trị.
Bánh cần thiết cho cuộc sống, nhưng chúng ta không bị giới hạn vào thứ bánh vật chất, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi xa hơn. Người muốn nói, Thiên Chúa hiện diện trong tất cả mọi thực tại và sự kiện trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta đang sống trong tình yêu của Chúa. Trước đây, Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Cử chỉ này là một dấu hiệu của sự gia tăng tình yêu Chúa vẫn tiếp tục thể hiện nơi nhân thế. Vì con người, ngoài nhu cầu vật chất, con người còn đói khát một cái gì hơn nữa, cần một cái gì hơn nữa. Bánh Giêsu, Bánh bởi Trời mang lại sự sống đời đời, biến con người thành các chứng nhân của tình yêu Thiên chúa đối với từng anh chị em một. Người trao cho chúng ta, để chúng ta phân phát cho những ai đói khát tình yêu. Như thế, tình yêu tùy thuộc vào chúng ta và phép lạ của tình yêu giữa con người với nhau sẽ không bao giờ dừng lại.
Làm sao con người có thể trách cứ Thiên Chúa không cung cấp thức ăn cho mọi người đang khi mỗi năm người ta tiêu hủy hàng triệu tấn thức ăn mà thông tin đại chúng nói là quá nhiều hầu phòng chống sự giảm giá thức ăn? Có giải pháp nào chăng? Sự phân phối càng tốt thì tình liên đới càng lớn và sự chia sẻ càng nhiều.
Báo chí ngày nay cũng cho biết, chưa bao giờ con người có nhiều của cải như thế. Ông Bill Gates tỷ phú người Mỹ, có tài khoản tại các ngân hàng trên thế giới tương đương với thu nhập quốc dân của 40 nước nghèo ; Một tên lửa được Mỹ bắn lên đốt cháy hàng tỷ đô la. Chiến tranh tiêu huỷ biết bao tiền của, bao sinh mạng con người. Ấy vậy mà, chưa bao giờ có nhiều người nghèo đói như ngày nay. Tại sao có sự chênh lệch giầu nghèo trên thế giới như thế. Sở dĩ như vậy chỉ tại chúng ta giữ chặt lấy bánh và cá và không muốn chia sẻ với mọi người đó thôi. Thay vì tích luỹ làm giầu, chế tạo súng ống chạy đua vũ trang, thì con người chế tạo ra bột mỳ, lương thực, thuốc men để giúp cho đồng loại đỡ khổ thì tốt biết bao.
Lạy Mẹ Maria, xin mở rộng con tim chúng con, để chúng con biết sống yêu thương và chia sẻ với anh em đồng loại, hầu xây dựng một xã hội công bằng, huynh đệ đầy ắp tình yêu thương Chúa. Amen.
14. Cộng tác với Chúa
Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hoá nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá. Theo thánh Gioan, thì số thực phẩm ít ỏi này là của một em bé. Em bé này đã trao cho Chúa tất cả và rồi hàng ngàn người đã được ăn uống no nê. Giá như em bé này đã không trao cho Chúa, thì có lẽ đám đông đã không được nuôi ăn giữa nơi hoang vắng khi trời đã về chiều. Từ hành động của em bé, chúng ta đi tới một kết luận, đó là hãy cộng tác với Chúa để xoa dịu nỗi đớn đau của người khác, cũng như để đem lại cho họ niềm vui mừng và hy vọng.
Có một hành khách vừa mới bước lên chiếc xe taxi, anh liền nói với bác tài xế: Bác lái giỏi quá. Bác tài nhìn anh và hỏi: Bộ anh định xỏ xiên tôi hả. Anh trả lời: Không phải vậy đâu, tôi khen bác thực mà. Bác tài mỉm cười, lát sau bác nói: Anh làm vậy với mục đích gì? Anh trả lời: Tôi muốn, đem lại tình yêu, niềm vui mừng và hy vọng cho những người sống quanh tôi. Tôi nghĩ rằng một khi bác cảm thấy vui, bác sẽ niềm nở với những khách hàng của bác. Rồi những người này cũng sẽ niềm nở với những người mà họ gặp. Như vậy, sự niềm nở và tử tế sẽ được trải rộng đến hàng trăm, hàng ngàn người. Lời nói của anh làm chúng ta nghĩ tới một câu danh ngôn: Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi đó mà rủa sả bóng đêm.
Trở lại với đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy em bé đã trao cho Chúa tất cả những gì mình có. Và Chúa đã chia sẻ quà tặng ấy cho hàng ngàn người. Như thế, mỗi người chúng ta đều có thể và phải trở thành dụng cụ cho Chúa thực hiện những phép lạ. Mỗi người chúng ta đều có thể và phải trở trở thành phương tiện cứu giúp cho hàng ngàn người.
Có một ngôi sao truyền hình nổi tiếng của Anh quốc đã trở lại Công giáo. Anh cho biết: Sở dĩ có cuộc đổi đời này là do ảnh hưởng của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh nói: Làm sao tôi có thể diễn tả được tôi đã mang ơn Mẹ như thế nào. Mẹ đã chỉ cho tôi thấy một Kitô giáo bằng hành động. Mẹ đã dạy cho tôi biết quyền năng của tình thương. Mẹ đã làm cho tôi xác tín: Một cá nhân giàu lòng khoan dung từ ái có thể khơi dậy cả một ngọn sóng thương yêu, để rồi ngọn sóng này sẽ ùa tràn vào thế giới.
Đó cũng là sứ điệp của đoạn Tin Mừng hôm nay: dù chỉ là một cá nhân, nhưng hành động của chúng ta vẫn có một tầm mức quan trọng và đáng kể, nếu chúng ta biết chia sẻ những gì mình có với Chúa, thì Ngài sẽ làm phần còn lại, là biến cái ít ỏi, nhỏ nhoi ấy trở thành hữu ích, đem lại hoa trái vượt quá điều chúng ta mong ước. Chúng ta hãy dâng cho Chúa mọi khả năng, vật chất cũng như tinh thần để tuỳ Ngài sử dụng. Và rồi Ngài có thể dùng chúng để làm những phép lạ.
Để kết thúc, tôi xin ghi lại nơi đây lời thơ của một thi sĩ: Lạy Chúa, con chỉ là một sợi dây, xin hãy biến con trở thành chiếc đàn. Con chỉ là một giọt nước, xin hãy biến con trở thành một dòng suối. Con chỉ là một tia lửa, xin hãy biến con trở thành một ngọn đuốc bùng cháy.
15. Khi con tim bồi hồi yêu thương
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Trong Đệ nhị Thế chiến Việt Nam bị Nhật Bản chiếm đóng nên bị quân Đồng Minh, chủ yếu là Hoa Kỳ thường xuyên oanh tạc các tuyến đường vận tải để tấn công quân Nhật Bản. Kết quả là hệ thống giao thông ở Đông Dương bị hư hại nặng. Tính vào thời điểm năm 1945 thì đường sắt Xuyên Đông Dương không còn sử dụng được nữa và đường Bắc Nam cũng bị phá hoại. Đường biển thì quân Đồng minh đã gài thủy lôi ở cửa biển Hải Phòng khiến hải cảng chính ở Bắc Kỳ cũng không thông thương được.
Tàu bè chở gạo ra bắc chỉ ra được đến Đà Nẵng. Khi không quân Đồng minh mở rộng tầm oanh kích thì tàu chở gạo phải cập bến ở Quy Nhơn, rồi cuối cùng chỉ ra được đến Nha Trang. Cùng lúc đó thì lượng gạo tồn kho ở Sài Gòn lên cao vì không xuất cảng sang Nhật được khiến chủ kho phải bán rẻ dưới giá mua. Hơn 55.000 tấn gạo phải bán tháo cho các xưởng nấu rượu vì gạo ứ đọng sẽ mốc, trong khi nạn đói hoành hành ở ngoài Bắc.
Đối với Pháp và Nhật Bản thì cả hai đều chú tâm vào những mục tiêu khác cho nhu cầu chiến tranh của họ. Toàn quyền Jean Decoux từ trước năm 1945 đã ra lệnh trưng thu thóc gạo để chở sang Nhật theo thỏa thuận với Nhật Bản. Bản thân lực lượng quân quản Nhật cũng thi hành chính sách “Nhổ lúa trồng đay”, do cây đay là nguyên liệu quan trọng cho sản xuất quân nhu.
Đa phần các kho thóc có khả năng cứu đói trực tiếp tại miền Bắc khi đó đều nằm trong tay quân đội Nhật. Người Nhật vì mục đích chiến tranh đã thờ ơ trước sự chết đói hàng loạt của dân bản địa. Các kho thóc trở thành tâm điểm nơi người đói kéo về nhưng không được cứu đói đã nằm chết la liệt quanh đó. Ngoài bối cảnh chiến tranh, chính trị và kinh tế, tình hình thời tiết ngoài Bắc cũng đã góp phần trong những động lực tạo ra nạn đói. Các nhà sử học Việt Nam ước đoán là từ 1 đến 2 triệu. (Wikipedia)
Con người trở nên vô cảm, vô nhân, vô đạo, cư xử dã man như loài cầm thú khi bùng nổ chiến tranh. Những hình ảnh kinh hoàng về nạn đói 1945 tại Bắc Việt còn được trung thực lưu lại qua ống kính của nhiếp ảnh gia Võ An Ninh, như một chứng cứ diệt chủng. Ngày nay, tuy không còn đói khát lương thực, nhưng dân Việt vẫn đang đói khát chân lý, sự thật, đạo lý, tình người.
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, Thánh Matthêu tường thuật Đức Giêsu chạnh lòng thương dân chúng đi theo Người, đang đói khát, bệnh hoạn. Người liền giảng dạy, chữa lành, và nuôi dưỡng, biến hóa năm cái bánh và hai con cá cho hơn năm ngàn người no nê dư thừa. Qua đó, phản ảnh những khía cạnh Tình Yêu của Thiên Chúa, lẫn của con người đối với Ngài và tha nhân.
Tình yêu phó thác
“Đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người.”(Mt 14, 13) Những tín hữu Kitô đầu tiên nồng nàn lửa mến, khao khát tìm thức ăn thiêng liêng là Lời Chúa, chẳng màng đem theo lương thực, hay hành trang, khiến Chúa cảm động đoái thương, cứu chữa.“Ra khỏi thuyền Đức Giê su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ.”(Mt 14, 14)
Kitô hữu yêu mến và tin cậy Chúa là luôn biết phó thác sinh mạng, bệnh tật, đói khát vào cánh tay Chúa Quan Phòng che chở, chữa trị và dưỡng nuôi, để sống đời đời.“Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai: nhày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.“(Mt 6,33-34).
Cậu bé có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá làm của ăn đi đàng, nhưng phó dâng hết cho Đức Giêsu. Tấm gương sáng ngời cho Kitô hữu hoàn toàn trông cậy vào Chúa Quan Phòng.
Tin Mừng hôm nay, còn phác họa Đức Giêsu chính là Mục tử nhân lành, luôn quan tâm dạy dỗ, chăm sóc, chỉ đường, chữa bệnh và nuôi dưỡng đàn chiên sống viên mãn.
Tình yêu hỗ tương
Tình yêu tha nhân là tình hỗ tương, liên đới chia sẻ, hiện thực hóa bằng hành động trao tặng, cho đi, tương thân tương ái, giúp đỡ và phục vụ.“Chính anh em hãy cho họ ăn!”Mệnh lệnh của Đức Giêsu rõ ràng, đích xác và cụ thể về trách nhiệm chung sống, giúp đỡ nhau, tương trợ, liên kết trong tình yêu. Không thể đơn giản và lạnh lùng, vô cảm, mạnh ai nấy lo, như“giải tán đám đông, để họ vào làng mạc mua lấy thức ăn.” Không thế trốn trách trách nhiệm liên đới trong gia đình, giáo xứ và xã hội. Nếu không thì chỉ là tình yêu xảo ngôn, như phường tà đạo vẫn huênh hoang lừa đảo.
Đức Giêsu không một lúc hóa bánh và cá ê hề đầy giỏ, đầy mâm, để mọi người kinh ngạc, thán phục, tôn vinh. Mà trái lại, phép lạ hóa bánh ra nhiều chỉ xảy ra, khi bánh được trao tận tay nhau. Khi Đức Giêsu trao các nôn đệ và khi các môn đệ trao lại cho dân chúng. Đó là hình ảnh liên đới, chia sẻ và yêu thương chân tình, tương tự như xưa, ngôn sứ Êlisa đã biến hóa 20 tấm bánh trao tay cho hơn 100 người no nê, dư thừa. (2V 4, 42-44)
Hơn nữa, đó cũng là ngụ ý Chúa muốn dạy mọi người: “Anh em đã được cho không, thì hãy cho không như vậy” (Mt 10, 8) Bởi chưng tất cả mọi sự đều là hồng ân Chúa thương ban.
Tình yêu bội tăng
Trong tin nhắn ngày 10-07-2014, gửi qua Tweet đến mọi người, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc nhủ: “Đừng ngại nương tựa vào vòng tay che chở của Thiên Chúa; bất cứ điều gì Ngài yêu cầu bạn cũng sẽ được trả gấp trăm lần.”
Năm tấm bánh và hai con cá của chú bé vô danh kia dâng hiến, đã hóa ra hàng vạn bánh và cá, cung cấp dư giả cho năm ngàn người đàn ông, không kể phụ nữ và nhi đồng. Tình yêu đã bội tăng gấp vạn lần. Cho đi một, nhận lại gấp vạn. “Chẳng ai bỏ tất cả vì Thầy và vì Phúc Âm, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm, và đời sau được sự sống vĩnh cửu.” (Mc 10, 29-30)
Tình yêu hiệp nhất
“Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho đám đông.” (Mt 14, 19) Với của ăn nuôi thân xác, Đức Giêsu đã thánh hóa, biến thành mối liên kết từ Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, Tông đồ, Giáo Hội, đến toàn thể dân Chúa.
Tất cả hiệp nhất trong Nước Chúa, mà cụ thể sau này qua Nhiệm tích Thánh Thể dưỡng nuôi nhân loại. “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy.“(Ga 6, 56-57)
“Con phải là “món quà” trong tay Chúa, sẵn sàng để Chúa tặng cho bất kỳ ai. Một món quà mà ai cũng quý yêu thèm muốn.” (Đường Hy Vọng, số 768)
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã nhận năm chiếc bánh và hai con cá của cậu bé kia, đó là tất cả lương thực của cậu, nay kính xin Chúa nhận lấy tất cả vốn liếng, khả năng, kiến thức hạn hẹp của chúng con, để Chúa nhân lên, phân phát lại cho tha nhân chung hưởng.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã dâng lên Thiên Chúa hoa quả đầu mùa độc nhất là Đức Chúa Con, để Ngài ban lại cho nhân loại hồng ân cứu độ. Xin Mẹ dạy chúng con luôn biết dâng hiến cả cuộc đời cho Thiên Chúa, để Ngài tùy nghi sử dụng hữu hiệu. Amen.
16. Ai nấy đều ăn và được no nê
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa đọc thật an ủi. Chúa Giêsu thật đáng yêu. Ngài đầy lòng thương xót. Ngài rao giảng cho dân và khi thấy dân chúng theo Ngài, Ngài chạnh lòng thương và lo lắng cho họ, cả về vật chất: “Ngài chữa những bệnh nhân của họ”. Ngài tiếp tục giảng cho đến chiều. Chúng ta không thể tưởng tượng mức độ làm việc của Ngài và lòng hâm mộ của đám dân lành khao khát được nghe lời Chúa.
Ngài chạnh lòng thương. Một nét đặc biệt của Chúa Giêsu mà thánh Matthêu đã ghi nhận. Ngài không như chúng ta. Ngài nhìn và cái nhìn của Ngài thấu suốt không những dáng vẻ bên ngoài, Ngài thấu suốt tự tâm can. Ngài thấy rõ nỗi khát khao bần cùng của chúng ta. Chúng ta tưởng mình đã đầy đủ khi tiền bạc đầy túi hay lương thực đầy nhà. Không, chúng ta chỉ là “những con vật trống rỗng”. Chúng ta luôn khắc khoải chờ mong một cái gì mà chúng ta tìm chưa thấy. Chúng ta đang cần hạnh phúc, một thứ hạnh phúc thật không tan biến theo thời gian, không lệ thuộc vào sức khỏe hay những điều kiện xã hội. Chúng ta cần một bảo đảm an toàn vững chắc.
Thế giới hôm nay không có sự an toàn đó. Khắp nơi là chiến tranh, đe dọa, khủng bố, tai nạn, tội ác… Con người hôm nay thật đáng thương! Thế giới hôm nay là một thế giới đang lo sợ, không biết tương lai của mình sẽ ra sao. Con người trở thành một con vật dã man chưa từng thấy. Trong thế giới hôm nay, trong sáu người có một người đói, sống trong những điều kiện tồi tệ, thiếu thốn tất cả. Đang lúc những người giàu có phung phí xa hoa một cách thản nhiên và lấy làm hãnh diện vì mình có tiền để phung phí. Chúng ta đang khao khát. Đừng tưởng rằng vật chất sẽ bảo đảm cho tương lai, tiền bạc là hạnh phúc. Tất cả đang nằm trong đe dọa liên miên. Không có gì vững chắc. Chúng ta thật đáng thương. Chúa Giêsu chạnh lòng thương là phải. Ngài vẫn thương. Tình thương của Ngài vẫn tràn đầy, nhưng không mấy người đã nhìn thấy. Ngài luôn kêu gọi: “Hỡi những ai gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.
Trong tường thuật, thánh Matthêu nói là chính dân chúng đi tìm Chúa Giêsu. Họ biết Ngài đi đâu và đi bộ đón Ngài. Chúng ta có tìm Ngài như đám dân lành đó không? Chúng ta có cần Ngài như những con người chơn chất đó không, hay chúng ta dửng dưng, lạnh lùng? Chúng ta có khao khát được nghe lời Chúa không? Hay chúng ta chỉ thích nghe những bài ca trữ tình, những thứ nhảm nhí của thế gian, những tiếng ồn ào trống phách?
Thánh Matthêu cũng cho chúng ta thấy, nơi đó là nơi thanh vắng. Chúa Giêsu muốn cùng với các môn đệ nghỉ ngơi đôi chút sau những ngày giảng dạy mệt mỏi. Nhưng khi thấy dân chúng tìm đến Ngài, Ngài không thể từ chối và Ngài tiếp tục rao giảng cho họ. Nơi thanh vắng đó, chúng ta mới có thể nghe được tiếng của Ngài. Tâm hồn chúng ta ồn ào những lo toan vật chất làm sao nghe được tiếng Chúa? Qua tiếng nói của tiên tri Hôsê, Chúa nói với chúng ta: “Ta sẽ dẫn nó vào sa mạc, ở đó Ta sẽ nói với nó những tiếng nói ân tình”. Phải, chúng ta phải tạo cho mình những vùng sa mạc tĩnh mịch để lắng nghe những tiếng nói ân tình của Chúa. Phải tạo cho mình một tâm hồn nghèo khó để Chúa có thể lắp đầy bằng tình yêu của Ngài.
Chiều đến. Các tông đồ mệt mỏi đến trình Chúa Giêsu: “Thưa Thầy giờ đã muộn, xin Thầy giải tán dân chúng…”. “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Một câu nói tầm thường nhưng là một điều không thể. Các môn đệ hoảng hốt và tưởng Thầy lầm lộn gì đây. Họ trình cho Ngài biết, họ chỉ có năm cái bánh và hai con cá, vừa đủ cho một vài người ăn. Đây là giây phút ngỡ ngàng. “Ngài cầm lấy bánh và cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho các môn đệ…” Thánh Matthêu, khi tường thuật việc này đã ngụ ý gì mà chi tiết như thế? Những cử chỉ này, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu lặp lại trong bữa Tiệc Ly. Hình bóng của phép Thánh Thể ẩn hiện lờ mờ phía sau của bữa tiệc sa mạc này.
Chỉ cần một cử chỉ đơn giản thế mà mọi người đều ăn no, và người ta thu lại bánh dư thừa mười hai thúng. Số người ăn là năm ngàn người theo ước tính của các môn đệ. Chúng ta nghĩ sao? Ngài là ai? Ngài muốn gì khi nuôi dân như thế?
Ngài cho thấy quyền năng lạ lùng và lòng thương của Ngài. Quyền năng và lòng thương xót đi đôi. Ngài quyền năng và quyền năng của Ngài là Tình Yêu. Chỉ cần một lời nói là mọi người được no nê. Ngài cũng là sự sung mãn tuyệt đối. Vũ trụ là của Ngài, mọi sự là của Ngài. Chúng ta có tin vào quyền năng của Ngài không?
Bữa tiệc sa mạc kia chỉ là hình bóng của những bữa tiệc khác, vô tận cho đến tận thế. Vì thế Ngài bảo các môn đệ: “Anh em hãy cho họ ăn đi”. Một lệnh truyền mà ngay lúc bấy giờ các môn đệ không thể hiểu, và vượt quá khả năng của họ. Họ hết sức ngạc nhiên và trình cho Thầy rằng họ chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, làm sao cho đám người đông đúc này ăn. Họ không ngờ rằng đây là một công việc họ phải đảm nhận mãi mãi, vì còn bao nhiêu đám dân khác phải nuôi không phải bằng thứ của ăn thông thường này mà một của ăn mang lại sự sống đời đời. Hình ảnh của Thánh Thể đang ẩn hiện qua bữa tiệc sa mạc này. Sau đó ít lâu, Ngài lại ban cho họ một lệnh truyền khác cũng tương tự để họ thực hiện lệnh truyền trong sa mạc: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.
Chúa Giêsu biết rằng Ngài không mãi có mặt ở trần gian này và công việc của Ngài phải được tiếp tục cho đến tận thế, Ngài đã chọn những người cộng tác, những người bạn có thể tiếp tục công việc của Ngài: “Hãy cho họ ăn đi”. Họ không chỉ cho người ta ăn bánh mà còn phải nuôi người ta bằng Lời Hằng Sống, một thứ lương thực hết sức cần thiết cho tâm hồn. “Hãy cho họ ăn đi”, lệnh truyền này sẽ được tiếp nối với một lệnh truyền khác tương tự “Ai nghe anh em là nghe Thầy”, “hãy đi rao giảng Tin Mừng đến tậncùng trái đất”. Từ đó, qua bao nhiêu thế hệ vẫn được dưỡng nuôi và hạt giống Tin Mừng được gieo vãi khắp nơi. Nhưng chúng ta có tham gia vào việc nuôi dưỡng các linh hồn không? Chúng ta có cho họ ăn khi đang đói không? Chúng ta có gì cho họ ăn không? Thế giới này đang đói, đói lời Chúa, đói tình yêu.
Lời Chúa không phải trong một quyển sách mà trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, trong những cử chỉ bác ái, những cố gắng cảm thông, những hành vi khiêm tốn của chúng ta. Phải sống thế nào để cuộc sống chúng ta thành niềm vui, sự êm đềm cho những người chung quanh. Đó là cách chúng ta tiếp nối công trình cứu chuộc của Chúa. Vì chúng ta được dưỡng nuôi, chúng ta cũng phải dưỡng nuôi những người khác bằng tình yêu của chúng ta. Không có tình yêu, người Công giáo mất hết giá trị.
Trong tiệc Thánh Thể hôm nay, Chúa Giêsn nhìn chúng ta cũng như khi xưa Ngài nhìn đám dân lành theo Ngài trong sa mạc, khao khát Lời Ngài đến nỗi không có gì ăn, Ngài đã hóa bánh ra nhiều để mọi người được no nê. Chúng ta cũng đang theo Ngài, hãy lắng nghe Lời Ngài và hãy đến dự bàn tiệc của Ngài vì Ngài vẫn luôn yêu thương chúng ta và đem thịt máu mình nuôi dưỡng chúng ta. Hãy xin Chúa cho chúng ta luôn khao khát lời Chúa và khao khát mình Chúa mãi, cho đến ngày chúng ta được dự tiệc trong Nước Tình Yêu của Ngài.
17. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Chúa Giê-su luôn bị đám đông bao vây đến nỗi có lúc Ngài và các môn đệ không có giờ dùng bữa. Có nhiều lý do: Ngài giảng dạy họ và hấp dẫn: “Không ai nói được như ông nầy”. Ngài giảng dạy với uy quyền không như những ông Ký lục Do Thái. Ngài chữa lành mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền. Như thế Ngài đem lại cho họ những gì họ đang khao khát: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng bằng những lời từ miệng Thiên Chúa phán ra.” Họ khao khát, không chỉ của ăn vật chất, mà còn một nhu cầu khẩn thiết hơn đang dày vò họ, đó là của ăn tinh thần.
Đám đông chạy tìm Ngài, khi Ngài và các môn đệ đang cần một chút thì giờ nghỉ ngơi thư giãn, và Ngài không từ chối, Ngài tiếp tục giảng dạy họ, ân cần đem lại cho họ những gì họ khao khát. “Ngài chạnh lòng thương xót đoàn dân bơ vơ vất vưởng như bầy chiên không có chủ chăn”.
Chúa Giê-su là thế đấy. Ngài không bao giờ từ chối ai đến với Ngài. Ngài luôn sẵn sàng đón tiếp. Cuộc đời của Ngài mãi mãi là một quà tặng nhưng không cho mọi người, không trừ ai: “Ai đến với Ta, Ta không bao giờ đuổi họ ra ngoài”. Nét độc đáo của Ngài là luôn sống cho người khác.
Đám đông theo Ngài, không đòi hỏi điều gì khác là nghe lời Ngài giảng.
Con người là một quả tim luôn khao khát. Trần gian nầy, với tất cả sự giàu sang, những món ngon vật lạ, tiện nghi, không làm nguôi cơn khát của con người. Họ được tạo nên cho vô biên, cho tuyệt đối. Những người giàu có nhất trên trần gian, dù đầy đủ mọi tiện nghi vẫn không thể hạnh phúc nếu họ chỉ sống cho thân xác.
Chúa Giê-su không cần tiện nghi. Ngài đưa dân vào sa mạc, hoàn toàn trơ trọi. Ở đó chỉ có một người, đó là Ngài, là Giê-su, Con Thiên Chúa đang ẩn mình. Đoàn dân theo Ngài, không phải để dự một buổi lễ long trọng, có kèn, có trống, không phải để tìm một quyền lợi vật chất nào. Họ cần “những lời ban sự sống.”
Chúa đón tiếp họ với tất cả lòng thương cảm. Ngài chú ý tới những người bệnh hoạn tật nguyền và Ngài chữa lành họ.
Đám đông mang đến với Ngài lòng khao khát của họ. Hôm nay, chúng ta hôm nay cũng đến với Ngài, mang cho Ngài tất cả khối năng nề của cuộc sống cam go, những nỗi niềm ưu tư phiền muộn, những khao khát thầm kín của chúng ta, những bệnh tật tâm hồn của chúng ta.
Tâm hồn chúng ta luôn nghèo đói và tật nguyền. Hãy xin Ngài thương xót chúng ta. Chắc chắn, Ngài không bao giờ từ chối một ai. Ngài sẽ lấy sự sung mãn tuyệt diệu của Ngài bù đắp sự nghèo nàn trống rỗng của chúng ta.
Đến với Ngài với tất cả lòng tin cậy, chúng ta sẽ được no nê cả hồn lẫn xác. Chúng ta dám tin như thế không? Chúng ta có tin rằng Ngài có thể làm được mọi sự, có thể giúp chúng ta hơn điều chúng ta mong ước không?
Chúng ta bị ô nhiễm bởi làn sóng vô đạo hôm nay. Chúng ta không còn tin Chúa vô điều kiện như các thánh tổ phụ nữa. Chúng ta tin vào con người, vào khả năng riêng của chúng ta. Hình như con người của thế kỷ 21 nầy, với những bước tiến thần tốc của khoa học kỹ thuật, tự cho mình là vạn năng, không còn muốn nói đến Thiên Chúa là Đấng tạo nên họ nữa. Họ cảm thấy như không cần đến ai khác.
Nhưng khi con người không cần Thiên Chúa, họ sẽ tranh nhau làm Thiên chúa, họ sẽ cắn xé nhau và hủy diệt lẫn nhau.
Chiến tranh hôm nay là một đe dọa liên lỉ, như một áng mây xám đang đè nặng trên bầu trời. Những thiên tai khủng khiếp đã qua (động đất, núi lửa, sóng thần vv…) và những thiên tai được dự đoán đang là một ám ảnh nặng nề, không đánh thức được sự kiêu căng mù quáng của họ. Không nhìn nhận Thiên Chúa, con người sẽ đi về đâu?
Đứng trước trào lưu vô đạo hôm nay, chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã cho chúng ta niềm tin. Thánh Phê-rô dạy: “Giữa một thế hệ gian tà, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên bầu trời”.
Chúng ta hoàn toàn tin cậy vào Đấng đã thương xót chúng ta, đã nhìn thấy nỗi cơ cực của chúng ta và đã dùng quyền năng cứu giúp chúng ta như đã cho đám dân lành đang đói được ăn no nê.
Chúa Giê-su, đứng trước tình thế khó xử đó, Ngài biết phải làm gì, nhưng Ngài bảo các môn đệ: “Chúng con hãy cho họ ăn đi”. Các ông ngỡ ngàng, nhìn nhận sự hèn kém của mình: “Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”.
Các môn đệ lo âu là phải. Khả năng của họ chỉ có bao nhiêu đó thôi. Trước năm ngàn người đang đói, năm chiếc bánh có nghĩa gì. Làm sao bây giờ?
Chúa Giê-su giải đáp thắc mắc của họ. Chính Ngài làm cho họ lúng túng, chính Ngài giải quyết tất cả.
“Chúng con hãy cho họ ăn đi”. Đây không phải là một lệnh truyền lúc bấy giờ mà thôi mà cho mãi về mai sau. Sau nầy, các môn đệ sẽ nuôi sống mọi người bằng “Bánh bởi trời, bằng Bánh hằng sống” mà Ngài sẽ ban cho trong bữa Tiệc Ly.
Thánh Matthêu và các thánh sử khác ghi lại:
“Ngài cầm lấy bánh,
Ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng,
Bẻ ra và trao cho các môn đệ …”
Phải chăng các thánh sử đã nghĩ đến và muốn nhắc lại những cử chỉ của Chúa trong bữa Tiệc Ly?
“Mọi người đều ăn no.” Chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá. Bánh còn dư là mười hai thúng đầy. Điều nầy chứng tỏ Chúa Giê-su là sự sung mãn tràn trề. Quyền năng của Ngài vượt xa tất cả những gì con người có thể tưởng tượng. Ngài có thể không cần mấy chiếc bánh nhỏ hèn đó… Ngài chỉ cần phán một lời là mọi người có thể ăn no như xưa kia trong sa mạc cằn khô, dân Do Thái đã được nuôi dưỡng bằng manna suốt bốn mươi năm. Nhưng Ngài muốn dùng mấy chiếc bánh, để báo trước một thức ăn quan trọng hơn mà Ngài sẽ ban cho mọi người, không trừ ai. Đó là Thịt Máu Ngài được ban cho thế gian được sống.
Hơn nữa, Ngài muốn cho các môn đệ tham dự vào việc Ngài làm, vào chương trình cứu độ của Ngài: “Chúng con hãy cho họ ăn”. Trong bữa Tiệc Ly, Ngài sẽ truyền: “Anh em hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy”.
Trong nơi hoang vắng, Ngài chỉ nuôi năm ngàn người, sau nầy, các môn đệ sẽ nuôi hàng triệu triệu người trên khắp thế giới, trong mọi thời bằng của ăn Hằng Sống.
Chúa Giê-su chứng tỏ Ngài là VÔ BIÊN, là SỰ SUNG MÃN TUYỆT ĐỐI, nhưng đồng thời là TRAO BAN.
Hôm nay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta vào bàn tiệc yêu thương của Ngài, ăn chính Thịt Máu Ngài… Bàn tiệc dành cho những người khao khát tình yêu của Ngài, khao khát sống gắn bó với Ngài.
Ngài mãi mãi là HIẾN DÂNG và TRAO BAN. Chúng ta, khi ăn lấy Ngài sẽ là một với Ngài, Ngài mong ước chúng ta biết trao ban như Ngài. Chúng ta có cảm thấy như thế không?
18. “Chính anh em hãy cho họ ăn”
(Suy niệm của Lm. Hiền Lâm)
Chắc chắn rằng, phép lạ hóa bánh ra nhiều là một sự kiện lịch sử. Bởi vì đây là sự kiện mà cả bốn Tin Mừng đều đã tường thuật một cách rất chi tiết về địa danh, thời gian và số lượng người trong phép lạ này.
Hành động của Chúa Giê-su trong sự kiện hóa bánh ra nhiều hôm nay, bao gồm cùng lúc hai công việc của Đấng Cứu Thế, là chữa lành và nuôi dưỡng dân Người. Cả hai đều nói lên lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa đối với con người, nhất là những người đau khổ, vì họ vừa mang lấy bệnh tật thể lý vừa mang nặng bệnh tật tâm linh, vừa đói khát của ăn vật chất vừa đói khát của nuôi linh hồn. Hành động yêu thương của Chúa được cụ thể qua việc ra tay chữa lành các bệnh tật cho dân, và đặc biệt chạnh lòng thương hoá bánh ra nhiều để nuôi dưỡng họ.
Chúa Giê-su ngước mắt lên và thấy đông đảo dân chúng đến với mình… Chúa Giê-su chạnh lòng thương (cái đói vật chất cũng như tinh thần của con người). Chúng ta cũng được mời gọi ngước mắt lên để nhìn thấy hoàn cảnh của mọi người mà cảm thông với họ, chứ không phải ru rú cho mình mà bất biến với mọi người xung quanh đang cần đến chúng ta.
Chúa Giê-su không dùng quyền năng để hô biến đem của ăn từ đâu tới, nhưng Người muốn con người cộng tác dâng lên của ăn từ bàn tay lao động của con người (nghề trồng trọt – bánh; nghề đánh lưới – cá). Phép lạ xảy ra khi biết đem chia sẻ cho nhau và cùng ngồi xuống ăn chung với nhau, chứ phép lạ không thể xảy ra khi chúng ta giữ khư khư năm chiếc bánh và hai con cá để ăn một mình.
Vì thế:
Cần có tâm trạng “chạnh lòng thương” của Chúa Giê-su trước những người kém may mắn, những người đói khát cả tinh thần lẫn vật chất (nghèo tinh thần là đói khát Lời Chúa và Thánh Thể…, nghèo đói vật chất là thiếu những nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống).
Hành động như Chúa Giê-su là dâng lời tạ ơn Thiên Chúa Cha rồi bẻ ra phân phát cho dân. Các động từ “chia sẻ”, “tạ ơn”, “bẻ ra” và “trao” mang ý nghĩa đặc biệt:
Chia sẻ: Giúp đỡ người khô khan trở về với Chúa, san sẻ phần mình cho kẻ đói nghèo trong mức độ có thể.
Tạ ơn: mỗi người dâng cho Chúa phần của mình, dâng lời tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta lương thực hắng ngày.
Bẻ ra: Mọi người đừng ăn một mình, nhưng hãy bẻ ra để chia cho những người khác thiếu may mắn hơn chúng ta.
Trao cho: Nhạy bén trước nhu cầu của người đang đói mà đến trao cho họ, chứ không đợi họ phải xin rồi mới cho.
Chúa muốn các môn đệ phải lo cho dân no đủ chứ Chúa không bảo ông này bà kia cho họ ăn. Nghĩa là chính mỗi người chúng ta có liên đới trách nhiệm với mọi người xung quanh chúng ta (nơi giáo xứ, trường học, nơi làm việc) cả tinh thần và vật chất:
Về tinh thần: Có trách nhiệm về đức tin và đạo đức với cận nhân. Đó không phải chỉ là chuyện chỉ dành cho cha xứ, dành cho các giáo lý viên, mà là mọi người con Chúa đều mang trên mình sứ mạng phải truyền bá và làm chứng đời sống đức tin và đạo đức cho anh em.
Về vật chất: Biết chia cơm sẻ áo cho người thiếu thốn hơn mình. Đó không phải chỉ là việc của những nhà từ thiện, những tổ chức cứu trợ, mà là trong khả năng chung tay đóng góp của mình.
Chúa bảo “cho” chứ không bảo phải mua của mình, không phải đưa ra lời khuyên bảo họ ra quán mà mua (như giải pháp của các môn đệ đưa ra).
Mọi người có tương quan liên đới và chịu trách nhiệm với nhau trong một giáo xứ, trong một trường học, trong nơi mình sống và làm việc, liên đới với đồng loại. Khi một thành viên trong giáo xứ làm điều xấu, thì thiên hạ đàm tiếu rằng nó là người của xứ đó, người của lớp đó, người của trường đó, người thuộc sự dạy dỗ của cha xứ đó, thầy cô đó… Và ngược lại, một người làm điều tốt, thì cũng liên đới như vậy… Chúng ta có trách nhiệm giúp đỡ nhau sống đạo, giúp đỡ nhau sống đời. Chúng ta cũng có bổn phận đưa tiễn và cầu nguyện cho người đã qua đời…
Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con mặc lấy tâm tình của Chúa, để không những có lòng cảm thương, mà còn biết cộng tác thiết thực với Chúa trong khả năng mình có thể, để xoá dần sự đói nghèo vật chất cũng như tinh thần của những người cần đến chúng con. Amen.
19. Năm chiếc bánh và hai con cá
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Trình thuật phép lạ bánh cá hoá nhiều (14,13-21) nằm trong văn mạch của thắc mắc về căn tính của Chúa Giêsu (14,2). Đối với dân chúng, Ngài là một ngôn sứ (14,5), vì Ngài đã giảng dạy họ (xem chương 13). Trong trình thuật nầy, Ngài sẽ tỏ mình ra cho họ hơn là một ngôn sứ. Ngài là vị mục tử Thiên Chúa sai đến như Ngài đã hứa qua các ngôn sứ (Ezk 34,12-16). Từ xuất hiện nhiều nhất trong đoạn nầy làochlos, “dân chúng” (cc. 13.14.15.19 [2x]), và các từ liên quan đến việc ăn uống: brōma, “thức ăn” (c. 15), esthiō, “ăn” (cc. 16.20.21); artos “bánh mì”, ichthys, “cá” (c. 17.19), anaklinō,“nằm ngả” (c. 19), chotazō, “no nê” (c. 20), klasma, “mảnh vụn” (c. 20), “mười hai thúng đầy” (c. 20). Chúa Giêsu chủ động mọi sự trong trình thuật nầy. Dân chúng là đối tượng thi ân của Ngài. Họ đi theo Ngài, được Ngài chữa lành và cho ăn no nê.
Đoạn tin mừng nầy được phân chia dựa trên sự xuất hiện của ochlos, “dân chúng”: – Chúa Giêsu xót thương và chữa lành bệnh tật của dân chúng (cc. 13.14); – Chúa Giêsu làm bánh cá hoá nhiều cho dân chúng (cc. 15-21).
Chúa Giêsu xót thương và chữa lành bệnh tật của dân chúng (cc. 13-14)
So với các đoạn song song trong các tin mừng nhất lãm (Mc 6,32-44; Lc 9,10b-17) và cả Gioan (Ga 6,1-15), chỉ mình Matthêo đưa trình thuật tử đạo của Gioan Tẩy Giả vào trước trình thuật phép lạ nầy. Thánh sử nhập đề trình thuật nầy với câu: “Nghe được Chúa Giêsu bỏđó”, akousas…anachōreō (c. 13). Chúa Giêsu nghe chuyện Gioan Tẩy Giả bị Hêrôđê giết (cc. 3-12), và Ngài bỏ đó mà đi vào hoang địa. Matthêô cố ý đưa câu chuyện tửđạo của Gioan vào đây, cũng như thánh sử đã làm ở 4,12. Thánh sử muốn cho thấy khi Gioan bị bắt, nghĩa là khi ông chấm dứt sứ vụ rao giảng của mình, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng công khai trước tiên ở Galilêa, và khi người ta bắt đầu thắc mắc về tên tuổi của Chúa Giêsu (14,1), Matthêô đưa vào câu chuyện Gioan bị giết. Cuộc đời Gioan Tẩy Giả phải hoàn toàn biến mất đi trước khi Chúa Giêsu mạc khải cách toàn vẹn mình là ai.
Khung cảnh không gian trình thuật là hoang địa. Trong câu 15-16, thánh sử chỉ cho thấy hai nhân vật là Chúa Giêsu và dân chúng; động từ anachōreō, “bỏ đó mà đi” số ít (c. 13). Câu dẫn nhập 13 gồm hai vế song song, có cùng một cấu trúc: bắt đầu bằng akousas/akousantes “nghe biết”, Chúa “rút lui”/dân chúng “đi theo” (động từ ở aorist), đi “bằng thuyền”/ “đi bộ”, “vào hoang địa”/ “từ các thành”.
Chúa Giêsu đi trước, dân chúng theo sau, cả hai cùng vào hoang địa; cách trình bày nầy vẽ lên hình ảnh người mục tử đi trước, đàn chiên theo sau. Matthêô rất thích nhắc đến “Dân chúng đi theo Ngài” (4,25; 8,1.10; 12,15; 14,13; 19,12). Lần nầy họ “từ các thành” theo Ngài vào hoang địa, cũng như trước đây “Giêrusalem và cả xứ Giuđê và khắp vùng giáp cận sông Giorđan trẩy đến” với Gioan Tẩy Giả trong hoang địa (3,5). Chúa Giêsu đã thay thế Gioan Tẩy Giả, và Ngài cao trọng hơn ông (11,7.9).
Chúa Giêsu thấy và động lòng thương (c. 14). Động từ splanchnizomai, “chạnh lòng thương xót”, thường kèm theo việc chữa lành, therapeuō hoặc làm phép lạ (9,36; 14,14; 15,32; 20,34). Ngài đã hành động của một vị mục tử, dù Matthêô không trích dẫn ở đây câu “vì họ bơ phờ vất vưởng, như chiên không người chăn giữ” như trong đoạn song song của Marcô (Mc 6,34; x. Mt 9,36; Ds 27,17).
Chúa Giêsu làm bánh cá hoá nhiều cho dân chúng (cc. 15-21)
Bố cục của đoạn nầy: – Dẫn nhập với khung cảnh thời gian (c. 15a), – Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và các môn đệ (cc. 15b-18), – Phép lạ gồm chúc tụng, phân phát bánh (cc. 19), – Kết quả là dân chúng no nê, và tổng kết với những con số: 12 thúng đầy bánh vụn thừa (c. 20) và năm ngàn người ăn (c.21) cho thấy sự vĩ đại của phép lạ.
Sang đoạn nầy, Matthêô đưa vào đây chi tiết thời gian “Chiều đến”, cũng là thời gian của bữa Tiệc ly (26,20), và “các môn đệ” (c. 15a). Trong lời trình bày của các môn đệ, thánh sử cho thấy một tình huống thách đố, không thuận lợi cho dân chúng: “chiều đến”, nơi họ đang đứng là “hoang địa”, “giờ đã quá”; các môn đệ có mặt nhưng họ không giải quyết được gì cả, “Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá” (c. 17). Họ yêu cầu Chúa Giêsu giải tán dân chúng, để họ vào làng mạc mua thức ăn cho mình (c. 15b). Chúa Giêsu hành động khác với các môn đệ của Ngài. Ngài nhận trách nhiệm cho dân chúng ăn. Một số thủ bản nêu tên Iēsous ở câu 16, nhấn mạnh sự hiện diện chủ động của Ngài.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ, “Họ không cần phải ra đi” (c. 16). Cụm từ echō + cheia, “có nhu cầu” cũng gặp thấy ở 3,14; 6,8; 21,3,chỉ sự cần thiết không thể thiếu. Ngược lại, ở dạng phủ định (9,12; 14,16), cụm từ có nghĩa là không cần thiết chút nào. Dân chúng “không cần phải ra đi” vì ở đây họ vẫn có thức ăn. Vì thế, Chúa Giêsu ra lệnh cho các môn đệ “Các con hãy cho họ ăn” (c. 16b), như thể thức ăn đã có sẵn và chỉ cần các môn đệ dọn ra cho dân chúng mà thôi. Để có thể hoàn thành mệnh lệnh nầy, chính Chúa Giêsu sẽ ban/cho, didōmi, bánh và cá cho các môn đệ (c. 19) để họ trao lại cho dân chúng. Động từ didōmi “cho” (cc. 16 và 19) đóng khung lại hành động “cho họ ăn” của các môn đệ.
Với dân chúng, Ngài hành động như một vị mục tử đối với đàn chiên. Ngài trực tiếp “truyền lệnh dân chúng ngả trên bãi cỏ”; khác với Mc 6,39 và Lc 9,14 là Chúa ra lệnh cho các môn đệ để họ cho dân chúng nằm ngả trên bãi cỏ thành nhóm (x. Tv 23). Anaklivō, “nằm ngả” động từ nầy cũng được dùng trong khung cảnh bữa tiệc Nước Trời (8,11).
Tiếp theo là phần cầm lấy bánh và chúc tụng. So sánh cc. 19-20 nầy với cc. 26,20-29 liên quan đến bữa Tiệc ly, có những từ ngữ chung như sau: “chiều đến”, nằm ngả”, “cầm lấy”, “bánh”, “chúc tụng”, “bẻ ra”, “cho/trao cho các môn đệ”, “ăn”.
Phép lạ nầy hoàn toàn là ý của Chúa Cha. Câu 19 nầy có cấu trúc đối đảo:
a- Truyền cho dân chúng ngả mình trên cỏ,
b- cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá,
c- Ngài ngẩng mặt lên trời mà chúc tụng,
b’- bẻ ra, Ngài ban bánh cho môn đồ,
a’- và môn đồ cho dân chúng.
Giải thích cấu trúc:
Từ “dân chúng” đóng khung cấu trúc, và cho thấy việc ban bánh cho họ được thực hiện (a,a’);
Từ “bánh” đóng vai trò chính yếu trong b,b’, + hai phân từ “cầm lấy” và bẻ ra” tương hợp với nhau + “và ban”. Tất cả yếu tố nầy cho thấy Chúa Giêsu hoàn thành việc ban bánh;
Phần c gồm một câu bắt đầu bởi một phân từ “Ngẩng mặt lên trời” và động từ chỉ hành động đã hoàn thành “chúc tụng”. Hai phần nầy liên kết với nhau bởi trạng từ kai “và”. Như thế, hành vi “chúc tụng” diễn ra khi Chúa Giêsu “ngẩng mặt lên trời”. Điểm nhấn mạnh trong cấu trúc nầy chính là hành vi Ngài chúc tụng Chúa Cha.
Ouranos, “trời”, nơi Thiên Chúa ngự (5,45; 12,50; 18,10.14.19). Ngài “nhìn lên trời” nghĩa là nhìn lên Chúa Cha (x. Tv 123,1); và cử chỉ bên ngoài nầy cho thấy là Ngài hướng về Cha trước khi làm phép lạ (x. Mc 7,34). Ngài chỉ làm phép lạ vì Cha muốn. Nếu hiểu như thế nầy là đúng, động từ eulogeō có nghĩa là “chúc tụng/tạơn (Chúa Cha)”, chứ không phải là chúc tụng trên bánh; ý nghĩa của động từ cũng được hiểu như thế trong trình thuật về Tiệc ly (22,26). Ngoài 14,19 và 26,26, động từ nầy chỉ được dùng theo nghĩa “được Thiên Chúa chúc phúc” (x. 21,9; 23,39).
Bởi lòng nhân lành của Chúa Giêsu Kitô, dân chúng được chữa lành mọi bệnh tật và no thỏa bánh cá. Bữa tiệc Ngài đãi dân chúng trong hoang địa nầy báo trước bữa tiệc Thánh Thể, trong đó lòng nhân lành của Ngài biểu lộ cách vô biên đến nỗi Ngài lấy chính mình làm lương thực cho muôn người.
20. Các con hãy cho họ ăn
(Suy niệm của Lm. Đam. Trần Văn Điều)
Trung Hoa và Ấn Độ là 2 quốc gia có tỷ lệ dân số cao nhất thế giới hiện nay. Trung Hoa nhờ áp dụng chính sách kinh tế hợp lý, đang triển vọng vươn lên thành một nước giàu có; trong khi đó, Ấn Độ do tài nguyên thiên nhiên không dồi dào, đường lối kinh tế chưa ổn định, xã hội quá phân biệt nhiều giai cấp khác nhau, nên quốc gia còn đang phát triển, đời sống dân chúng vẫn vất vả lầm than.
Cách đây vài thập niên, Calcutta khi ấy là một thành phố đông dân: ban ngày, người nghèo ngồi la liệt khắp phố, mong chờ lòng rộng rãi giúp đỡ của khách thập phương; ban đêm, họ không nơi cư trú phải nghỉ đêm trên các vỉa hè, hẻm cụt của thành phố. Một nữ tu trung niên người Albanie vốn đang phục vụ truyền giáo tại Ấn Độ, đã động lòng xót thương họ. Đêm ngày đối diện những cảnh nghèo hèn đau khổ của cư dân thành phố Calcutta, Chị đã tự hỏi: “Ta phải làm gì cho đám đông những người đáng thương này?”. Trở lại nhà dòng, Chị gom hết số tiền mình có, mua một căn nhà rẻ mạt và sửa chửa nó thành nơi cư trú qua đêm cho những kẻ không nhà. Bằng khả năng nhỏ bé nhưng với tấm lòng quảng đại to lớn, Chị muốn ra tay làm một cái gì đó giúp người khốn cùng không còn phải bơ vơ hiu quạnh nữa.
Không những lo cho họ có chỗ định cư, lại còn phải tìm nguồn cung cấp lương thực giúp họ sống qua ngày. Làm thế nào Chị nữ tu ấy- mà sau này người ta quen gọi là Mẹ Têrêsa- có thể nuôi đủ 9000 miệng ăn mỗi ngày? Chúa đã không chịu thua lòng bác ái của Mẹ. Nhiều bàn tay yêu thương sẵn sàng liên đới công việc từ thiện của Mẹ: một đôi bạn trẻ sắp lập gia đình, hy sinh không tổ chức tiệc cưới dành toàn bộ chi phí giúp người nghèo; Ủy Ban Nobel trao tặng Mẹ giải thưởng Nobel Hoà Bình năm 1979; nhiều phụ nữ thiện chí dâng hiến cuộc đời trong hội dòng Thừa Sai Bác Ái nối dài việc cứu tế.
Biết nhận ra những người nghèo đói quanh mình, sẵn sàng giúp đỡ tình trạng đau khổ của họ là phương thế đáp ứng lời mời gọi của Chúa: “Các con hãy cho họ ăn” (Mt 14,16).
A. Tình trạng đói khát trong cuộc sống.
1. Sách Các Vua quyển thứ II thuật lại: tiên tri Êlisa, môn đệ thân tín của Êlia, đến vùng Baal- Salisa rao giảng. Dân chúng hàng trăm người khát Lời Chúa tuôn đến nghe Êlisa nói đến nỗi không mang lương thực đi đường (2V. 4,42-44). Với 20 bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa của một người dâng cúng, Êlisa đã xin Chúa giúp dân no nê cơm bánh đường dài.
2. Tin Mừng hôm nay (Mt 14,13-21) cũng cho thấy: đám đông dân chúng từ các thành thị đến nghe Chúa giảng. Nơi hoang địa xa nhà, họ không đủ thuận lợi để mua thức ăn dọc đường. Với 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé mang theo (Ga. 6,9), Chúa đã làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều nuôi trên năm ngàn người ăn dư dả.
3. Cha Mark Linh, SJ. cho biết: Báo Chicago Sun Times có thực hiện một nghiên cứu thì biết rằng thế giới hiện nay trên 6 tỉ người, trong đó hàng đêm khoảng 450 triệu người đi ngủ (13%) mà bụng vẫn đói cồn cào. Họ không đủ điều kiện để có cơm bánh qua ngày, suy dinh dưỡng trầm trọng.
4. Phi Châu xưa nay vốn là một lục địa có nhiều quốc gia nghèo đói trong vùng. Thập niên 1990, nước Rwanda xảy ra tình trạng tranh chấp giữa 2 sắc tộc: Tutsi và Hutu. Đất đai kém cỏi, hạn hán thường xuyên, lại thêm cuộc nội chiến phe phái, đời sống dân Rwanda mỗi ngày một cùng cực hơn. Liên Hiệp Quốc phải kêu gọi Quốc Tế cứu đói Rwanda.
B. Giúp đỡ kẻ khốn cùng: hãy cho họ ăn.
1. Thiên Chúa luôn yêu thương con người. Ngài không ngừng thi ân cứu giúp khi con người lâm cơn đói khát.
* Nơi sa mạc nắng cháy da người, dân Do Thái lo sợ đói ăn, khát uống. Thiên Chúa đã nuôi dân bằng manna và chim cút, Ngài lại còn cho Maisen cầm gậy gõ vào đá khiến nước vọt ra tràn trề dân uống thoả thuê (Xh. 16-17,1-6).
* Tiên tri Êlia bị hoàng hậu I-de-ven truy nã vì đã ra lệnh sát hại các sư sãi thần Ba-al. Trên đường tránh nạn, Êlia khiếp sợ và lo lắng cho mạng sống mình. Suốt bốn mươi ngày đi đến núi Khô-rếp, Chúa đã nuôi Êlia bằng bánh và nước, giúp ông an tâm ẩn mình, tiếp tục phục vụ Thiên Chúa (1V. 19,1-8).
* Sách tiên tri Isaia còn cho thấy: Thiên Chúa dọn sẵn cho dân Người một bữa tiệc miễn phí đầy cao lương mỹ vị, người nghèo khổ đói khát không có gì để trả cũng được mời tham dự (Is 55,1-3). Bữa tiệc ấy chính là hình ảnh Nước Trời, nơi con người được no nê sung mãn mọi sự.
2. Chúa Giêsu cũng thúc giục các Tông Đồ: “Các con hãy cho họ ăn” (Mt 14,16). Ngài mời gọi con người hãy quan tâm đến nhu cầu thiếu thốn của tha nhân.
* Thánh Martin de Porrès: “đứa con bị từ chối” bởi người cha là một hiệp sĩ Tây Ban Nha. Tuy gia đình nghèo khổ, mẹ Ngài vẫn kiên tâm giáo dục 2 chị em Martin nên người tốt lành, hữu ích cho xã hội. Một ngày nọ đi chợ, Martin gặp người nghèo túng bên đường, Martin đã bớt xén tiền chợ, bố thí giúp kẻ khốn cùng. Cậu biết mình cơ cực nhưng nghĩ đến còn nhiều người khác neo đơn hơn: Martin đã rộng tay san sẻ cái mình có.
* Cơn bão Katrina 2005 làm nhiều cư dân VN vùng New Orleans và Bilosi gặp khó khăn. Ngày ngày, họ nhận hàng viện trợ Red Cross cung ứng, tháng tháng lãnh phiếu Food Stamps chi tiêu cho qua ngày đoạn tháng. Bất ngờ vài tháng sau đó, quê nhà Việt Nam bị cơn bão số 9 tàn phá miền Trung dấu yêu: đồng hương đất Mẹ không nhà cửa trú thân, mỗi bữa ăn chỉ được giúp tiêu chuẩn một gói mì tôm, cơn đói hành hạ thê thảm. Kiều bào VN hải ngoại đã không ngại đóng góp tiền của, nhanh tay cứu giúp anh chị em quê nhà còn khốn khổ hơn nỗi xót xa Katrina của mình.
* Mahatma Gandhi đã nói: “Theo quan niệm cá nhân tôi, tất cả chúng ta xét ý nghĩa nào đó đều là tên ăn cắp. Vì: ta có quá nhiều cái dư thừa không cần thiết, trong khi người anh em quanh ta còn thiếu thốn đang cần đến nó. Chúng ta có vật nào đó không cần, thì vật ấy chính là của ăn cắp mà chúng ta lấy từ những người nghèo cần đến nó”.
C. Thiên Chúa cần những bàn tay cộng tác của con người.
Tiên tri Êlisa không thể giúp dân chúng vùng Baal-Salisa thoát khỏi cơn đói lả, nếu không có người dâng cúng cho tiên tri 20 bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa. Chúa Giêsu muốn giúp cho dân chúng đi nghe Ngài giảng được ăn no nê, Chúa mời gọi em bé dâng cúng 5 chiếc bánh và 2 con cá. Ngài đã thực hiện phép lạ hoá bánh ra nhiều vì yêu thương con người. Ngài sẵn sàng chúc phúc cho con người, khi con người biết cộng tác, đóng góp khả năng mình vào chương trình của Thiên Chúa. “Thánh ý Ngài là gia nghiệp con mãi mãi…Con hướng lòng quyết thực thi thánh chỉ, mãi mãi cho đến cùng” (Tv.118:111-112).
* Trong một lớp Kinh Thánh, khi học hỏi tìm hiểu về phép lạ hoá bánh ra nhiều, một học viên tân tòng đã hỏi Cha xứ rằng: “Thưa Cha! Ngày xưa Chúa đã làm phép lạ nuôi 5000 người ăn, tại sao thời nay Chúa không tiếp tục làm phép lạ thêm, để chúng ta khỏi phải đi làm đầu tắt mặt tối như thế này?”. Cha xứ đã khéo léo trả lời: “Chúa là Đấng quyền năng, Ngài vẫn thường xuyên làm phép lạ cho con người. Ngài vẫn nuôi dân Chúa mỗi ngày bằng lương thực Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Nhưng Chúa vẫn muốn chúng ta cộng tác với Ngài vì nếu Chúa cứ làm phép lạ hoài, con người sẽ lười biếng, cậy dựa vào Chúa hoàn toàn, không trưởng thành được”.
* Có một lần đi sang Hoa Kỳ, nghiên cứu cơ sở để lập các chi nhánh dòng Thừa Sai Bác Ái tại quốc gia này, Mẹ Têrêsa Calcutta đã tâm sự: “Nhiều trẻ em sinh sống tại Mỹ không nghèo vật chất nhưng thật tội nghiệp, chúng lại nghèo tình thương”. Đời sống sung túc đưa con người đến tình trạng hưởng thụ quá đáng, quên cả sự hy sinh tiết kiệm để chia sẻ cho người nghèo,cộng tác với Thiên Chúa giúp thế giới này bớt đau khổ hơn.
D. Lời nguyện kết thúc:
Lạy Chúa là Thiên Chúa của tình thương,
Chúa yêu thương chúng con quá đỗi, khi tự hiến thân mình
làm Bánh Thánh Thể, bẻ ra nuôi muôn người chúng con
được no nê và được sống dồi dào.
Xin giúp chúng con luôn liên kết cộng tác với Chúa
biết dâng mọi sức lao công vui buồn cùng giọt mồ hôi nước mắt
làm của lễ dâng tiến Chúa mỗi ngày. Amen.
21. Chia sẻ cho người nghèo đói
(Suy niệm của Lm. Phanxico Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Mt 14: 13-21: Điều nguy hiểm nhất cho con người là không còn biết chạnh lòng thương xót trước những nổi khổ đau của người khác. Lòng nhân ái không chỉ làm cho chúng ta “thành người” mà còn là dấu chỉ của người môn đệ Chúa.
Trại trung tâm tiếp nhận người sắp chết ở Calcutta, Ấn Độ, một người nằm dài trên giường, xem ra không thể cử động được cánh tay. Người ta hỏi ông:
– Ông muốn ăn không? Vâng, muốn.
– Tên ông là gì? – Dinenraj (Đinh Văn Rao)
– Ông bao nhiêu tuổi? – Tôi chẳng biết.
– Ông ở đây bao lâu rồi? – Bốn hôm.
– Ông từ đâu đến? – Tôi ở ngoài đường phố.
– Ông mắc bệnh gì? – Bao tử tôi hoàn toàn thắt lại, vì hoàn toàn trống không.
Người ta đem đến cho ông phần ăn của ngày lễ kỷ niệm 25 năm thành lập trung tâm, gồm có: cơm gà giò hầm với cà-ri, khoai tây, sữa đặc, chuối và cam. Ông ăn một cách thèm khát và nhai rất kỹ từng muỗng đồ ăn. Ông mở miệng to để người ta cho ông ăn từng muỗng một. Khi ăn hết dĩa phần ăn, ông nằm duỗi tay chân như một đứa bé chuẩn bị ngủ.
Kể từ ngày được thiết lập (22/8/1952) trong 25 năm trung tâm đã tiếp nhận 36.000 người, trong đó 16.000 người “đã chết trong tay Chúa”. Trung tâm của những người hấp hối này điển hình cho nhiều ngôi nhà tương tự được các nữ tu Thừa Sai Bác Ái của Mẹ Têrêsa thành Calcutta điều khiển trên khắp thế giới. Các soeurs từng nghiêng mình với lòng kính trọng và yêu thương trên những thân xác gầy gò của những người đàn ông và đàn bà được lượm nhặt ngoài đường phố đưa về. Các soeurs từng mang lại cho những con người bị bỏ rơi này một ý thức nào đó về nhân phẩm, đồng thời truyền đạt cho họ về một thế giới bên kia khả dĩ lau sạch mọi nước mắt, xoa dịu mọi cơn đói, chữa lành những tâm hồn mang nặng nhiều thương tích. Lễ Ngân khánh của Trung tâm này tại Calcutta được tổ chức vào chính ngày lễ Các Thánh (1/11), là để nhắc nhớ con người về giá trị đời mình là biết qui về Thiên Chúa Tình Yêu.
Mẹ Têrêsa đã mời các bà đích thân đến, mang theo đồ ăn họ đã dọn sẵn ở nhà và tự tay phân phát cho các bệnh nhân nghèo. Mẹ có tài thu hút người thuộc giới trung lưu và thượng lưu không phân biệt tôn giáo tới tham gia công viêc mà các nữ tu Thừa Sai Bác Ái vẫn làm hằng ngày là nghiêng mình săn sóc những con người bị xã hội bỏ rơi một cách đáng thương.
Anh chị em thân mến,
Phải chăng việc Mẹ Têrêsa thành Calcutta làm trên đây là việc áp dụng Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay môt cách sống động? Nhưng thử hỏi còn biết bao cách áp dụng khác nữa mà bài Tin Mừng này có thể gợi lên cho chúng ta? Các môn đệ xin Chúa giải tán đám đông dân chúng để họ đi mua thức ăn. Nhưng Chúa lại bảo các ông: “Chính anh em phải cho họ ăn”. Rồi Chúa đã cho 5000 người ăn với 5 cái bánh và 2 con cá, còn dư lại 12 thúng bánh vụn. Ngoài con số 5000 người đàn ông, thánh Matthêu còn thêm “không kể đàn bà và trẻ em”. Vậy tổng số có thể lên tới hàng chục ngàn người. Như vậy Chúa Giêsu, với phép lạ hóa bánh ra nhiều, đã nuôi một đám đông rất lớn đi theo Chúa Giêsu vào nơi hoang địa. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài để có của ăn nuôi sống mình.
Ngày nay đám đông dân chúng đã phát triển nhanh tới hàng triệu triệu người. Họ không chỉ cảm thấy đói, mà họ chết đói: 100 ngàn người mỗi ngày và 450 triệu người tối đến đi ngủ bụng đói (theo một bản thống kê quốc tế). Ngay ở đất nước chúng ta đây, còn biết bao người thiếu ăn, thiếu mặc, trẻ em thiếu dinh dưỡng. Với chiến dịch “xóa đói giảm nghèo”, nhiều người đã ủng hộ nuôi dưỡng những người đói khổ cùng cực. Nhưng vấn đề quá lớn đối với con người. Chắc chắn chúng ta phải làm hết sức, hết khả năng con người. Nhưng chúng ta cần sự trợ giúp của Chúa mới làm được. Nếu để cho các môn đệ, các ông chỉ biết giải tán để dân chúng đi về bụng đói và có khi phải chết đói dọc đường. Nhưng với sự đóng góp của con người, Chúa đã làm nên phép lạ. Nếu cậu bé không trao cho Chúa khẩu phần bánh và cá của cậu đem theo, thì đám đông dân chúng sẽ về bụng đói. Nhưng với 5 cái bánh và 2 con cá của cậu bé, Chúa Giêsu đã nuôi được hàng ngàn người ăn no và còn dư thừa.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu không đi quyên góp bánh để phát cho người nghèo. Ngài cũng không khiến bánh tự nhiên từ trời rơi xuống cho họ ăn, nhưng Ngài đã chia sẻ mấy cái bánh mà môn đệ có sẵn trong tay cho tất cả mọi người. Đó là một thách đố: dám nuôi bằng ấy ngàn người với 5 cái bánh của người nghèo. Năm cái bánh đã được nhân lên bằng tình thương của Chúa Giêsu cộng với niềm tin và lòng vâng phục của các môn đệ. Bài học của phép lạ hóa bánh ra nhiều là ở chổ đó: Chúa dạy chúng ta là hãy vâng lời Ngài mà thực hiện điều răn yêu thương. Yêu thương là chia sẻ. Khi chúng ta chia sẻ chính là làm cho tình yêu được nhân lên. Tấm bánh đáng lẽ chỉ nuôi được một vài người, đã có thể nuôi cả ngàn người. Tình yêu có thể làm được chuyện mà đống tiền, đống của không làm được. Người ta thường nghĩ phải có nhiều, có dư thì mới cho. Tình yêu không đợi phải có đủ, có dư mới cho, nhưng còn sẵn sàng cho cả cái chính mình đang thiếu, và thậm chí, cả khi không có gì, vẫn có thể cho, đó là chính mình: công sức, tài năng, thời giờ… bởi vì tình yêu cao cả nhất, trọn vẹn nhất, là dâng hiến chính mình cho người mình yêu (Ga15,13) và đó là tình yêu của Chúa Giêsu. Chính tình yêu này mới khiến Ngài chạnh lòng thương trước cảnh đói khổ, bệnh tật của dân nghèo và ra tay cứu giúp.
Điều nguy hiểm nhất cho con người là không còn biết chạnh lòng thương xót trước những nổi khổ đau của người khác. Lòng nhân ái không chỉ làm cho chúng ta “thành người” mà còn là dấu chỉ của người môn đệ Chúa.
Ông Malcolm Muggeridge, một nhân vật nổi tiếng trên đài TV Anh Quốc, đã trở lại đạo Công Giáo, điều mà trước đây ông đã thề sẽ không bao giờ làm. Ông nói, ông đã bị cảm kích bởi những việc Mẹ Têrêsa Calcutta đã làm: “Không thể diễn tả bằng lời, tôi đã mắc nợ Mẹ Têrêsa thế nào. Mẹ đã tỏ cho tôi thấy kitô giáo trong hành động. Mẹ đã tỏ cho tôi thấy sức mạnh của tình yêu. Mẹ đã tỏ cho tôi thấy một người yêu có thể làm nổi dậy một ngọn thủy triều tình yêu lan tràn khắp thế giới …”
Trình thuật Chúa hóa bánh ra nhiều được lặp lại trong Tiệc Thánh Thể: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, ngước mắt lên trời, tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ”. Chúa vẫn tái diễn phép lạ ấy hằng ngày để nuôi dưỡng chúng ta và cả thế giới. Tại sao từ bàn Tiệc Thánh này chúng ta lại không biết chia sẻ với người nghèo đói? Thế giới hôm nay còn có những kẻ đói, còn có những dân tộc đói, vì có những cái bánh được giữ riêng cho cá nhân và không hề được bẻ ra chia sẻ. Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta, khi đã lãnh nhận Bánh của Chúa thì cũng biết cạnh lòng thương và chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói, để Chúa có thể nuôi sống tất cả anh chị em chúng ta trên thế giới.
22. Anh em hãy cho họ ăn – Jos. Hồng Ân
Trong cuộc sống có biết bao nhu cầu cần thiết, như ăn uống, làm việc, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí, nhu cầu được chữa lành bệnh tật phần hồn và phần xác, nhu cầu học tập, trau dồi kiến thức…, nhất là nhu cầu được sống và sống hạnh phúc.
Chúa Giêsu Kitô là Đấng Mesia đến cứu độ trần gian, vì yêu thương nhân loại, Ngài luôn quan tâm đến mọi nhu cầu của con người. Sau những lần đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cảm thấy mệt nhọc, Ngài cũng có nhu cầu được nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng lấy lại sức và cầu nguyện, nên sau khi rao giảng, “Đức Giêsu lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt” (Mt 14, 13-21). Dân chúng cũng có nhu cầu được lắng nghe lời Chúa, khao khát được nghe những lời hằng sống của Chúa. Khi thấy Chúa Giêsu lên thuyền rời xa họ, dân chúng đã đoán được nơi Ngài sẽ đến. Vì vậy, họ đã đi theo Người: “đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người” (Mt 14, 13). Dân chúng đã đi và đến trước nơi Chúa đến. “Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ” (Mt 14, 14).
Chúa “chạnh lòng thương” là phản ứng của người có lòng trắc ẩn, hay thương xót, cảm thông với những nhu cầu, với những hoàn cảnh éo le, đau khổ của đám đông dân chúng. Vì thế, mặc dù chính Chúa cũng có nhu cầu đang cần được nghỉ ngơi, cần ở một mình để cầu nguyện với Chúa Cha, nhưng Ngài đã quên nhu cầu của mình mà lo cho những nhu cầu của đám đông. Ngài đã đón tiếp họ và “chữa lành các bệnh nhân của họ”. Chúa không chỉ chữa lành bệnh tật phần xác, Ngài còn chữa lành bệnh phần hồn. Ngài giảng dạy họ nhiều điều, an ủi động viên và nhất là ban cho họ lời hằng sống. Đám đông say mê lắng nghe Lời Chúa quên đi mệt nhọc, quên cả đói, quên cả thời gian, làm các môn đệ của Chúa phải lo lắng. Các ông thấy trời đã xế chiều nên lại gần thưa với Chúa Giêsu: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14, 15).
Thấy dân chúng đói khát, ốm đau bệnh tật phần hồn phần xác, Chúa Giêsu “chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ”. Ngài chữa lành cả phần hồn phần xác. Vì vậy, trước lời đề nghị của các môn đệ là “giải tán đám đông”, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn. Vì yêu thương dân chúng, Chúa Giêsu không nỡ để họ nhịn đói mà về, sợ họ bị xỉu dọc đường: “Nếu Thầy giải tán, để họ nhịn đói mà về nhà, thì họ sẽ bị xỉu dọc đường. Trong số đó, lại có những người ở xa đến” (Mc 8, 3). Chúa đã yêu cầu các môn đệ cho họ ăn: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14, 16). Các môn đệ không hiểu được ý định của Chúa, các ông hiểu một cách rất thực tế, vì các ông không có đủ tiền để mua bánh cho đám đông chừng năm ngàn người đàn ông, chưa kể đàn bà và con trẻ. Nhu cầu của đám đông thì quá lớn, khả năng của các ông thì quá hạn hẹp, nên các ông đã thưa với Chúa: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!” (Mt 14, 17). Chúa đã mời gọi các ông cộng tác với Người để nuôi dưỡng dân chúng bằng cả việc chữa trị, nuôi dưỡng phần hồn và phần xác, nên “Người bảo: ‘Đem lại đây cho Thầy!’ Rồi sau đó, Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ để họ trao cho dân chúng” (Mt 14, 19-20). Vì chạnh lòng thương Chúa không nỡ để đám đông dân chúng ra về trong tình trạng mệt nhọc đói khát. Chúa đã cầm lấy năm cái bánh và hai con cá để làm phép lạ nhân bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng. Sau khi nhân bánh ra nhiều Chúa sai các môn đệ phân phát cho dân, “ai nấy đều được ăn no nê” (Mt 14, 20).
Qua việc Chúa làm phép lạ “hóa bánh ra nhiều” Chúa mạc khải cho ta biết quyền phép vô biên và lòng thương yêu vô cùng của Chúa đối với loài người chúng ta. Chúa luôn quan tâm đến mọi nhu cầu vật chất, tinh thần và tâm linh của con người. Chúa hy sinh thì giờ, sức khỏe, hy sinh cả những nhu cầu riêng tư để giảng dạy, chữa bệnh phần hồn, phần xác cho dân chúng. Vậy, chúng ta chạy đến với Chúa, lắng nghe Người giảng dạy, hãy đặt hết niềm tin tưởng, vững lòng trông cậy, phó thác mọi sự trong tay Chúa, vì Người quyền phép vô biên và yêu thương vô cùng. Người không nỡ để những ai, khiêm tốn biết chạy đến với Người và hết lòng tin tưởng, phó thác nơi Người phải đau khổ, ốm đau bệnh tật, đói khát phần hồn phần xác. Chúa sẽ ra tay chữa lành những bệnh tật phần xác, ban lời hằng sống để chữa lành bệnh tật phần hồn. Ngài ban cho chúng ta của ăn nuôi dưỡng phần xác và mọi nhu cầu chính đáng trong cuộc sống trần gian.
Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ khi xưa: “chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14, 16), vẫn luôn là lệnh truyền của Chúa đối với chúng ta hôm nay: “chính anh em hãy cho họ ăn”. Bởi thế giới hôm nay còn biết bao người đói khát về mọi mặt: về tâm linh về tinh thần và vật chất. Là kitô hữu, chúng ta có bổn phận đem Tin Mừng giới thiệu cho người chưa biết Chúa, họ là những người đói khát “đói khát tâm linh”, giúp họ tìm đến với Chúa, lắng nghe Lời Chúa và được “no say lời Chúa”, được hưởng ơn cứu độ Người ban và được sống hạnh phúc với Chúa trên Nước Trời. Với những người đau buồn sầu khổ “đói khát tinh thần”, chúng ta hãy học nơi Chúa gạt bỏ nhu cầu riêng tư để lắng nghe những ai cần chia sẻ, biết nói lời an ủi, động viên, khích lệ, làm cho cuộc sống của tha nhân được vui tươi phấn khởi. Với những người nghèo đói vật chất, chúng ta có bổn phận chia cơm sẻ áo, làm phúc bố thí giúp cho người nghèo đói, những người cô đơn, tàn tật có cơm ăn, có nước uống, người ốm đau có thuốc chữa bệnh. Chúng ta luôn có bổn phận làm thế giới này bớt đi người đau khổ do thiếu hiểu biết, do chưa biết Chúa, không được lắng nghe Lời Chúa, do thiếu những lời ủi an chia sẻ, do thiếu lương thực, nước uống, do thiếu thuốc chữa bệnh…
23. Thu lại những mảnh vụn
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm Chúa làm phép lạ lần thứ hai nữa (Mt 15,32-38; Mc 8,1-10).
Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Họ đói khát, nghèo khổ, bệnh tật, bơ vơ. Họ đi tìm Chúa để được chữa lành, được an ủi, được dạy dỗ. Chúa đã yêu thương họ và muốn tặng cho họ một bữa tiệc đơn sơ bất ngờ ở ngoài trời. “Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây?”. Chúa muốn đưa các môn đệ đi vào mối bận tâm của Ngài, cần sự cộng tác. Các môn đệ thất vọng vì chỉ có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhỏ.
Phản ứng các môn đệ là bế tắc được ghi lại trong 4 phúc âm như sau:
– Matthêu: Ở đây chúng tôi chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá thôi.
– Marcô: Thế chúng tôi phải đi mua 200đồng bạc bánh mà cho họ ăn sao?
– Luca: Chúng tôi không có hơn 5 chiếc bánh và 2 con cá, hoạ chăng là chúng tôi phải đi mua thức ăn cho cả toàn dân này.
– Gioan: Philipphê thưa: Có mua hết 200đ bạc bánh cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ. Anrê nói: Ở đây có một em bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!
Thái độ của các môn đệ là muốn thoái thác: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14,15). Đó là giải pháp hợp lý. Lo cho hàng ngàn người ăn là ngoài khả năng các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng, ai lo phần nấy, tự đi mua lấy thức ăn.
Chúa Giêsu không chấp nhận thái độ đó. Chúa muốn các môn đệ nhận lấy trách nhiệm và cùng cộng tác với Ngài: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn đi”.
Chúa Giêsu cầm 5 chiếc bánh và 2 con cá hướng nhìn về trời cao, đọc lời chúc tụng, những bế tắc âu lo của các môn đệ đã được giải toả. Đám đông ăn no nê đầy ứ và còn dư dả phủ phê.
Chúa Giêsu đã cho họ ăn một bữa đã đời và đó cũng là bữa để đời. Để đời vì là lời mời gọi cộng tác và hãy biết quý chuộng ân sủng Chúa ban.
1. “Anh em hãy cho họ ăn”.
Phép lạ xảy ra do quyền năng Thiên Chúa và sự cộng tác của con người.
“Anh em hãy cho họ ăn”. Chúa không làm phép lạ từ không ra có. Chúa làm phép lạ từ 5 chiếc bánh và 2 con cá là phần đóng góp nhỏ bé của con người. Phần đóng góp nhỏ bé nhưng lại cần thiết. Chúa cần sự cộng tác của con người cho dù sự cộng tác ấy là nhỏ bé nhưng với tấm lòng rộng lớn thì Chúa sẽ biến sự nhỏ bé thành lớn lao, biến điều tầm thường nên vĩ đại. Chúa không làm phép lạ ngay tức khắc biến bánh và cá thành một kho thức ăn để người ta tự do đến lấy tùy thích. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Mọi người trao cho nhau. Đó là bài học lớn lao của phép lạ hoá bánh. Khi mọi người chia sẻ cho nhau, quan tâm giúp đỡ nhau trong tình thương, biết bẻ ra, biết trao đi thì Chúa Giêsu làm phép lạ hoá nhiều. Nghèo nàn hay thiếu khả năng, điều ấy không quan trọng. Chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá mà Chúa đã làm phép lạ ra nhiều. Hãy đóng góp hết khả năng nhỏ bé của mình, phần còn lại Chúa sẽ thực hiện.
“Anh em hãy cho họ ăn”. Đây còn là lời mời gọi lên đường thực thi đức ái. Giáo hội không bao giờ thờ ơ né tránh các vấn đề nhân sinh của nhân loại. Giáo hội quan tâm đến mọi nhu cầu của con người và thế giới. Chúa Giêsu không chấp nhận thái độ thụ động, viện cớ này nọ để tự biện minh: “Chúng con chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, như thế thấm đâu cho ngần ấy người”.
“Anh em hãy cho họ ăn”. Chúa nhắc nhở Giáo hội phải chủ động đi đến với người nghèo khổ, phải ở bên người nghèo đói và phải bênh vực chăm lo cho người nghèo nàn. Mọi Kitô hữu không thể thờ ơ trước những nỗi đau khổ, nghèo đói, thiếu thốn của anh chị em chung quanh. Nổ lực hết mình góp phần với Thiên Chúa để xoa dịu nỗi đau của tha nhân.
2. “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi”.
Đoạn kết Phúc Âm cho biết: sau khi mọi người ăn no thỏa, người ta thu lượm được “mười hai thúng đầy vụn còn dư”. Hồng ân tràn đầy của tình thương Thiên Chúa. Phúc Âm luôn luôn nói về chân lý này: một khi Thiên Chúa ban ơn là Ngài ban dư dật. Người mù xin sáng mắt,Chúa Giêsu cho sáng cả linh hồn; người bất toại xin sức khỏe để vác chõng về nhà, Chúa Giêsu cho sức khỏe cả về phương diện tôn giáo để hội nhập vào nhịp sống cộng đoàn.
Với 5.000 người không để đàn bà con nít, vậy số người rất đông, cả một rừng người. Có cả ngàn ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh nhiều như vậy tại sao Chúa lại tiếc những miếng bánh vụn còn dư? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mảnh vụn?
Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều là vì “chạnh lòng thương”: “Ta thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt 15,32). Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ của Ngài. Nó là tình thương, là ơn sủng, là ơn cứu độ của Chúa trao ban. Tình yêu và ân sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời thành trăm ngàn vụn nhỏ thì càng rực rỡ huy hoàng. Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ, nó trở thành nhỏ bé mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh. Khi hiến lễ đền tội cho nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra, vóc dáng Người sụp xuống, đó cũng chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra chảy tràn kín vũ trụ, tỏa sức sống cho nhân sinh.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn, Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sức khoẻ, thời gian, tài năng, trí tuệ đều là ân huệ được ban tặng, cần trân trọng nâng niu gìn giữ. Trong ơn sủng của Chúa không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường.
Có một cụ bà đã 73 tuổi (có lẽ là một Kitô hữu {trong hình thấy đeo tràng chuỗi Mân Côi} đi nhặt những mãnh vụn thai nhi, sinh linh bị giết chết, đem về chôn cất . Chuyện rất cảm động và thật cảm phục “Mười năm nhặt xác ba ngàn hài nhi!”. (x. Người Lao Động Online, 26.6.2011).
Gần 10 năm nay, có một bà cụ đã bước sang tuổi 73 vẫn ngày ngày lặn lội khắp nơi để nhặt những thai nhi bị bỏ rơi đem về chôn cất. Đó là bà Phạm Thị Cường, ngụ xã Nghĩa Thắng, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Bà bộc bạch: “Hãy yêu thương những linh hồn bé nhỏ bị bỏ rơi kể cả khi chúng đã qua đời, bởi những đứa trẻ tội nghiệp ấy đã gánh thay chúng ta những tai họa ở trần gian”.
Ở làng quê nghèo ven biển xã Nghĩa Thắng, không ai còn lạ với hình ảnh một người đàn bà đã vào cái tuổi thất thập cổ lai hy ngày ngày âm thầm đi gom nhặt thi hài những đứa trẻ khắp nơi về chôn cất. Trên đường về Nghĩa Thắng, khi hỏi thăm nhà bà Cường, chúng tôi đã được nghe nhiều câu chuyện về bà qua những nông dân ở vùng quê này. Ở nơi đây, mọi người vẫn trìu mến gọi bà là bà Cường “hài nhi”có lẽ một phần cũng do những công việc mà bà đã và đang làm.
Bà là một người hiền lành, phúc hậu. Đã gần 10 năm nay, không quản ngày nắng cháy da cháy thịt hay đêm đông lạnh giá, bà vẫn lặn lội khắp mọi ngả đường của huyện Nghĩa Hưng, đặc biệt là khu vực thị trấn Đông Bình, để nhặt các hài nhi xấu số bị phá bỏ về chôn cất.
Cuộc sống của bà Cường chỉ trông vào gánh bán rau quả và những đồ tạp hóa ở khu chợ Đông Bình. Nơi đây có một số cơ sở nạo phá, hút thai nhi. Mỗi ngày có hàng trăm ca nạo phá thai đã diễn ra, một phần công khai còn chủ yếu là bí mật, cũng đồng nghĩa với việc hàng trăm hài nhi bị vứt bỏ.
Mỗi lần nhìn thấy thi hài của các cháu bị vứt bỏ nơi đầu đường, xó chợ tôi lại không thể kìm lòng, càng thương các sinh linh bé nhỏ bơ vơ chưa kịp cất tiếng khóc chào đời đã phải chịu thay tội vạ mà cha mẹ chúng đã gây ra. Đáng trách quá!”…
Gần 10 năm nay, họ đã tìm nhặt và an táng hơn 3.000 sinh linh bé bỏng.
Bà Cường tâm sự về “cơ duyên” dẫn mình đến cái nghiệp làm phúc này. Bà cho biết vẫn nhớ như in ngày 8.3.2002. Trên đường đến chợ Đông Bình để bán rau, khi đi đến cầu Đông Bình, bà Cường thấy có một túi nilông màu đen, ruồi muỗi bám đen.
Bà Cường nhớ lại: “Lúc đầu tôi cứ nghĩ đây là túi rác của gia đình nào đó ném ra đây. Nhưng rồi đi được một đoạn, tự dưng trong người tôi như có lửa đốt, cứ bồn chồn chẳng yên, đặc biệt là hình ảnh chiếc túi màu đen cứ như ngay trước mắt mình. Đứng lại suy nghĩ một lúc, tôi quyết định quay lại xem bên trong túi bóng đó chứa thứ gì”.
Bà Cường bàng hoàng và đau xót khi chứng kiến một hài nhi đang thoi thóp thở, thân thể bị kiến bu đầy nhưng đôi mắt bé mở to nhìn bà chằm chằm như muốn nài nỉ, van xin. “Tôi đem đứa bé về nhà, lau rửa sạch sẽ rồi đi xin sữa cho cháu bú nhưng cũng chỉ được ít phút sau, cháu đã tắt thở. Tôi cứ bị ám ảnh mãi ánh mắt của cháu, cứ đau đáu nhìn tôi. Nhiều đêm trăn trở suy nghĩ, tôi quyết định phải làm một việc gì đó chứ không thể để những cảnh thai nhi bị người ta bỏ đi mà không hề được chôn cất”.
Nhiều lúc bà Cường cũng nản khi có quá nhiều đứa bé bị nạo hút như vậy. Nhiều lúc bà định dừng công việc này nhưng lại nghĩ đến những đứa trẻ bơ vơ, sống không thấy mặt cha mẹ, chưa kịp chào đời đã bị bỏ rơi.
Bà lại thấy mình không thể đứng nhìn được, phải làm việc gì sao cho có ích. “Vì vậy, tôi không kể gì là gian khổ, mưa nắng hay ngày đêm, lúc nào nghe tin ở đâu đó có thi hài bị bỏ rơi là lại tìm đến để xin về mai táng”.
Nghĩa trang Quần Vinh trong một chiều mùa hạ, bà Cường lặng lẽ thắp những nén nhang thơm lên phần mộ của những hài nhi xấu số. Rồi bà nói trong tiếng nấc: “Các con chưa kịp chào đời đã phải trả giá cho sai lầm của những kẻ sinh thành nên các con. Bà thắp nén nhang thơm, mong các con được an nghỉ”…
Tuy hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, bản thân lại già yếu nhưng lúc nào bà Cường cũng hiển hiện niềm tin cuộc sống và tình thương yêu con người. Tâm sự với chúng tôi, bà Cường không mong ước điều gì ngoài việc mình được… thất nghiệp. Bà mong sẽ không còn phải ngày ngày đi làm công việc thu gom xác hài nhi đầy đau đớn này nữa. Tuy vậy, bà Cường vẫn khẳng định: “Tôi sẽ tiếp tục công việc này cho đến khi nào còn sức khỏe. Tôi sẽ tiếp tục đi thu gom những hài nhi xấu số về chôn cất, bởi theo tâm niệm của tôi, những đứa trẻ tội nghiệp đó đã quá bất hạnh. Tôi quyết không để các cháu cô đơn mặc dù đã rời trần thế”…
Đức Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên thánh, con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con”(ĐHV 814). “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con đừng quên rằng, từng trăm năm trước nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” (ĐHV 816). “Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy-mã-lạp-sơn được? Tự nhiên có ai lên cung trăng được? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày mới đạt được đích họ hy vọng” (ĐHV 817).
Suy niệm câu chuyện hóa bánh ra nhiều, nghe Chúa mời gọi chúng ta: hãy mở rộng trái tim để biết “chạnh lòng thương” anh em đồng loại. “Chạnh lòng thương” được thể hiện qua những việc làm cụ thể, bằng sự cộng tác quảng đại, bằng sự tiết kiệm để giúp ích cho nhiều anh chị em.
Chúa muốn trái tim chúng ta vươn lên khao khát những chân trời cao thượng của đời sống tâm linh. Hãy nhìn Chúa Giêsu trong Thánh Kinh. Hãy nhìn Chúa Giêsu trên Thánh Giá. Hãy nhìn Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Tình yêu Thiên Chúa bàng bạc trong Thánh Kinh, Thánh Giá và Thánh Thể. Một tình yêu tha thứ, phục vụ mạnh hơn hận thù. Một tình yêu phục sinh mạnh hơn sự chết. Một tình yêu khiêm tốn bao dung mạnh hơn mọi kiêu căng và hẹp hòi.
24. Bài học tiết kiệm
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Phép lạ “Hóa bánh ra nhiều” có nội dung phong phú về Thần học và Giáo lý Bí Tích Thánh Thể, đồng thời cũng chứa đựng rất nhiều bài học về Nước Trời, về Dân Thiên Chúa, tình liên đới, sự cộng tác… Hôm nay xin được chia sẻ về bài học tiết kiệm.
1. Chúa dạy bài học tiết kiệm
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm lần thứ hai Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. (Mt 15,32-38; Mc 8,1-10).
Lần thứ nhất, Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; cả ba thánh sử Mátthêu, Máccô, và Luca đều ghi nhận: sau khi dân chúng được ăn bánh no nê, người ta đã không bỏ phí những mẫu bánh còn dư thừa nhưng “đã thu lại tất cả được mười hai thúng đầy” (Mt 14, 20; Mc 6,43; Lc 9, 17). Riêng thánh Gioan nhấn mạnh, chính Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các môn đệ: “Anh em (hãy đi) thu lại những miếng thừa kẻo phí đi” (Ga 6,1-12). “Họ liền đi thu những miếng thừa…và được mười hai thúng đầy”.
Lần thứ hai, Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, người ta cũng thu lượm lại tất cả những mẫu bánh thừa, tất cả “được bảy thúng đầy” (Mt 15,37; Mc 8,8).
Năm ngàn người đàn ông không kể đàn bà con nít. Số người phải là đông lắm. Hơn cả chục ngàn người. Có ngàn ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh nhiều như vậy, tại sao Chúa Giêsu lại tiếc những miếng bánh vụn còn dư? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mãnh vụn: “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi”?.
Chắc chắn nguyên nhân của phép lạ hoá bánh ra nhiều là: “Ta thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt 15,32).
Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ Chúa đã làm. Những phép lạ là tình thương,là ơn sủng,là ơn cứu độ của Chúa trao ban.Tình yêu và ân sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời tạo thành trăm ngàn vụn nhỏ càng rực rỡ huy hoàng. Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ, bánh thánh nhỏ bé mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh.Khi hiến lễ đền tội cho nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra,vóc dáng Chúa Cứu Thế sụp xuống, đó cũng chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra, chảy tràn kín vũ trụ.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo thu lại để dạy các môn đệ và chúng ta bài học tiết kiệm.
Những người vừa trải qua cơn đói, nay được một bữa no nê. Họ vất bỏ những mẫu bánh dư thừa. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Chúa Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẫu bánh thừa. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Tiết kiệm thể hiện sự quý trọng kết quả lao động của bản thân và của người khác.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sự sống, sức khoẻ,thời gian,tài năng,trí tuệ, tài nguyên đều là ân huệ được ban tặng,cần trân trọng nâng niu gìn giữ.Trong ơn sủng của Chúa không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường. Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên Thánh, con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con” (ĐHV 814); “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con đừng quên rằng, từng trăm năm trước nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” (ĐHV 816); “Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy mã lạp sơn được? Tự nhiên có ai lên cung trăng được? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày mới đạt được đích họ hy vọng”. (ĐHV 817).
2. Tiết kiệm và lãng phí
Tác giả Gã Siêu viết: “Muốn phát triển, phải cần kiệm. Đó là qui luật của muôn đời. Các nước văn minh đã sống qui luật này một cách nghiêm ngặt và chặt chẽ”.
Ở bên Mỹ, trong các trường tiểu học, người ta đã dạy cho con nít biết: Muốn có một đồng thì phải bắt đầu từ một xu; Muốn có một triệu thì phải bắt đầu từ một đồng. Ở bên Nhật cũng vậy. Trong các gia đình, người ta luôn nhắc nhở con cái sống theo phương châm: Mua gì ăn nấy; Ăn đâu hết nấy; Không để thừa mứa, lãng phí. Ở bên Israel cũng thế. Vào các nhà hàng, khách sạn, người ta không thấy đồ ăn thức uống để dư. Ngay tại các bến xe, bến tàu đều có những khẩu hiệu: Hãy tiết kiệm điện; Hãy tiết kiệm nước… Tại các công sở và xí nghiệp, để trừ khử thói lề mề, người ta trừ ngay vào lương những ai đến làm việc chậm trễ.
Thấy người mà nhớ tới ta.
Trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”, tác giả Phạm Đình Nghiệp đã đưa ra một vài trường hợp lãng phí điển hình.
Trước hết, đó là việc lãng phí sức người, được thể hiện dưới nhiều dạng vẻ khác nhau: thất nghiệp, lao động trái ngành, chéo nghề được đào tạo, sử dụng nhân lực bất hợp lý, nhân tài không được trọng dụng, chảy máu chất xám… Tiếp đến là việc lãng phí tài sản, tiền bạc của dân và của nước. Người ta sẵn sàng tiêu phí hàng chục triệu đồng “của chùa” cho một đêm liên hoan gặp gỡ hay chia tay nào đó.
Việt Nam chúng ta là một đất nước có thu nhập quốc dân tính theo đầu người vào loại thấp nhất, nhưng đã “hội tụ” được đủ mặt các loại bia ngon nhất. Trong nhiều cuộc “bù khú” nhậu nhẹt, người ta thi nhau không phải uống bia, mà là “gội bia”, “tắm bia” với hàng chục, thậm chí hàng trăm lít.
Hằng ngày chúng ta đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh lãng phí tiền bạc, làm nghèo cho dân cho nước. Cơ quan nào, xí nghiệp nào cũng cố xây cho mình những cơ sở bề thế và lộng lẫy.
Hễ có chức một tí là vội sắm cho mình những chiếc xe đời mới đất tiền, trang bị cho mình điện thoại di động, đúng với “mô đen” thời thượng mà nghênh ngang với đời.
Mới đây, trên báo “Tuổi trẻ cười”, có một bài mang tựa đề “hình như là lãng phí”, tác giả đưa ra một sự kiện…rất bình thường nhưng lại rất xót xa. Đó là bộ giáo dục năm nào cũng đổi mới, năm nào cũng cải cách, nên năm nào số sách giáo khoa mới in ra cũng được tha hồ đem bán ký.
Tác giả viết: “Ai ngờ đâu, tôi bỗng trở thành người thu gom giấy phế liệu để kiếm sống và đến nay tôi đã cân cả tấn sách giáo khoa còn thơm mùi giấy mới. Ở đủ mọi lớp, thuộc đủ loại môn học. “Vốn dòng họ “tiếc”, mỗi khi gặp loại sách mới này (mà gặp hoài), tôi đều lấy mẫu về cho con tôi, nhưng chúng lại bảo: Không phải loại sách của trường con (dù đúng cấp, đúng lớp của chúng). Nhìn lại bìa thì thấy là của bộ Giáo dục và năm xuất bản mới cách đó một hai năm mà thôi!!!
“Tôi nhớ ngày xưa, khi anh tôi vào lớp 12, tôi vẫn xài sách lớp 7 của anh ấy để lại. Và khi tôi lên lớp 12, tôi vẫn xài sách anh ấy đã xài mà không có trở ngại gì và vẫn “anh dũng” thi đậu, cha mẹ vui mừng khỏe re… Ôi sao mà dễ dàng tiện lợi và đỡ tốn kém quá cho cho mẹ và lớp học sinh thập niên 60, 70.
“Tôi đã qua cái cảnh ba ngày ròng đi tìm một cuốn sách học cho đứa cháu mới lớp 4. Nhiều lần nhịn ăn nhịn uống để dành tiền mua sách học cho con và bây giờ đứng trước hằng trăm ký sách giáo khoa chưa có tay người lật mà đành cân ký làm giấy gói đồ, hỏi sao không xót cho học sinh, phụ huynh đất nước?
“Tôi cũng rất ngạc nhiên phát hiện ra chỉ một môn học ở lớp 3, lớp 4 mà có đến ba, bốn thứ sách. Nào là quyển bài giải, bài mẫu … rồi quyển cho giáo viên … tất cả còn mới nguyên mà đem cân ký, không biết vì lý do gì và có lãng phí không?
“Năm nào đọc báo cũng thấy bộ giáo dục than thiếu tiền, thiếu giấy in, thiếu sách cho học sinh đến độ có những cuộc phỏng vấn tùm lum về vấn đề này. Ấy thế mà năm nào tôi cũng có dịp cân hết trăm ký lô này đến trăm ký lô khác sách giáo khoa … lòng tôi không khỏi cảm thấy bùi ngùi”.
Trên đây là những chuyện lãng phí của quí vị có chức, tai to mặt lớn. Còn trong phạm vi cá nhân, gã cũng nghiệm ra còn có nhiều loại lãng phí khác nữa, mà chính bản thân gã cũng đã từng mắc phải. Gã chỉ xin đưa ra một thí dụ điển hình mà thôi, đó là lãng phí thời gian.
Người Tây thì bảo: Le temps, c’est l’argent. Thời giờ là bạc. Còn người Tàu thì nói: Nhất thốn quang âm nhất thốn kim. Một tấc thời gian là một tấc vàng.
Thế nhưng, lắm lúc người ta đã không ý thức được sự quí giá của thời gian nên đã lãng phí nó một cách lãng xẹt.
Nơi gã đang cắm dùi là một thị trấn chỉ nhỏ bằng chiếc móng tay, thế mà có đến mấy chục quán cà phê. Đường nào cũng có, góc phố nào cũng có. Bất kể sáng, trưa, chiều và tối, hễ đặt chân ra đường hay xuống phố, đều thấy quí vị thanh niên ngồi thiền ở trong những quán ấy. Đáng lẽ ra: Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên.Thế nhưng, quí vị này lại chẳng biết làm gì cả, ngoài việc giết thời giờ trong quán, nhấm nháp vị đắng cà phê và đốt những điếu thuốc, lim dim thả hồn theo khói, ra dáng siêu nhân hay người cõi trên chi đó.
Tiếp đến là quán nhậu. Mỗi bữa nhậu kéo dài hai ba tiếng đồng hồ, quả là lãng phí. Hồi xưa thấy một kẻ say xỉn ngoài đường phố quả là chuyện họa hiếm, còn hôm nay lại là chuyện thường ngày ở huyện. (Nguồn: dunglac.org).
Lafontaine kể câu chuyện ngụ ngôn. Con ve sầu suốt mùa hè chỉ biết ca hát, khi mùa đông trở về gió bấc thổi tới, nó bị chết đói. Trong khi đó dòng họ nhà kiến, suốt ngày thu tích lương thực, dè sẻn từng hạt gạo, dù có mưa bão hay lạnh giá, đời sống vẫn được bảo đảm an toàn.
3. Cần phải tiết kiệm
Linh mục Nguyễn Hồng Giáo viết: “Ý thức về tiết kiệm (một hình thức của sống nghèo) nói chung còn kém nơi tu sĩ, chủng sinh và linh mục ngày nay. Có vẻ như nhiều người không coi đó là chuyện quan trọng, được nhắc nhở thì để ý, xong rồi lại đâu vào đó, rất khó “đưa vào bộ nhớ”. Trời không lấy gì làm nóng, nhưng hễ vào phòng là mở quạt máy. Nhiều khi tập vở viết chưa hết, cái áo, cái quần, đôi dép cũ còn dùng tốt được nhưng đã bị phung phí vất đi. Cả một chồng sách báo cũ có thể để cho người thu mua đồ vụn hay ít nhất đưa cho nhà bếp làm mồi lửa, vẫn đem đốt một cách “vô tư”. Từ xưa, tục ngữ Việt Nam có câu: xài của chùa. Nghĩa là xài mà không phải trả tiền nên cứ việc thoải mái, khỏi cần chừng mực, tiết kiệm. Và cha chung không ai khóc, của chung không ai quan tâm. Tâm lý đó không chỉ phổ biến nơi cán bộ công chức (như được phản ánh trên Tuổi Trẻ) mà cả nơi quần chúng nhân dân và … trong các tập thể Giáo Hội ta nữa. Trong nội bộ chúng ta cũng có những lãng phí rất quen thuộc. Như khi làm thiệp báo tin một lễ mừng nào đó, người ta thích in thật hoành tráng (giấy sang, in hai ba màu…) dù biết rằng người nhận coi xong là bỏ.
Thật tế nhị, nhưng tôi xin nói tới tiệc tùng trong giới Công giáo ta. Tiệc quá to, rất tốn kém và thường là thừa thãi. Nước ta xưa kia rất nghèo, người dân ăn không no, mặc không ấm nên rất chú trọng chuyện ăn uống. Tuy thế, hay chính vì thế mà lại có tâm lý coi miếng ăn là miếng nhục (muốn ăn lắm nhưng phải làm ra vẻ không cần để tránh làm cho người khác đánh giá mình vì chuyện ăn uống…). Tây phương thì khác. Họ giàu nên các tiệc tùng của họ thường rất đơn giản, chỉ dọn vừa đủ ăn. Ăn uống chỉ là một phần của cuộc họp mặt. Ở nước ta, dù đã bắt đầu có thay đổi, nhưng tâm lý chung của người Việt vẫn còn thích phô trương, thích giữ thể diện bằng vẻ hào nhoáng bên ngoài, đặc biệt trong tổ chức tiệc tùng, phải mâm cao, cỗ đầy, càng nhiều món càng sang cho dù biết trước là sẽ thừa mứa. Và tục lệ xã hội vẫn còn gây áp lực nặng nề. Có những lễ tạ ơn tân linh mục dọn bảy, tám chục mâm, thậm chí cả trăm và hơn nữa.
Thời nay việc truyền chức linh mục trở thành chuyện bình thường, có nên bình thường hoá việc ăn mừng không? Thay đổi một tục lệ xã hội là rất khó. Có khi chính người trong cuộc cũng rất ngại, rất lo khi phải tổ chức linh đình tốn kém, nhưng họ khó có thể làm “cách mạng” …! Tôi nghĩ nếu có một chủ trương chung nào đó từ trên xuống, – dòng tu, giáo xứ, địa phận – thì người giáo dân chắc sẽ chấp nhận. Đây mới chỉ nói tới tạ ơn tân linh mục, nhưng khấn dòng, lễ vàng, lễ bạc, các lễ kỷ niệm này nọ và lễ cưới cũng thuộc diện này. Giáo Hội Việt Nam có nên đi trước xã hội trong vấn đề này không? Nhờ cơ cấu tổ chức rất chặt chẽ và uy tín rất lớn của hàng giáo sĩ đối với giáo dân, thiết nghĩ nếu Giáo Hội quyết tâm và quyết liệt, cơ may thành công sẽ rất lớn. Đây cũng là nhiệm vụ giáo dục con người của Giáo Hội có thể làm ngay, không cần đợi đến khi được phép chính thức mở trường mở lớp. (Nguồn: nguoitinhuu.com).
Tiết kiệm khác với hà tiện, keo kiệt, bủn xỉn.
Tiết kiệm là biết sử dụng một cách hợp lý, đúng mức của cải vật chất, thời gian, sức lực của mình và của người khác. Tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm tiền của.
Người Ý nói: Sự sung túc có được do hai bàn tay. Bàn tay này là tài năng, bàn tay kia là tiết kiệm. Người Thổ Nhĩ Kỳ bảo: Người ta trở nên giàu có, đó là do cần cù lao động và biết tiết kiệm trong chi tiêu.Tại nơi mở trương mục tiết kiệm ở các ngân hàng, người ta thường vẽ hình con gà mái ấp quả trứng vàng, có ý muốn nói những đồng tiền tiết kiệm bỏ vào đó sẽ sinh nhiều lợi lộc, sẽ đem lại cho chủ nhân những trái trứng bằng vàng.
Tiết kiệm đi chung với giản dị.
Sống giản dị là sống phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân, gia đình và xã hội. Người giản dị thì không xa hoa, không lãng phí, không chạy theo những nhu cầu vật chất và hình thức bề ngoài. Sống giản dị sẽ tiết kiệm được thời gian, tiền của, công sức để làm những việc có ích cho bản thân, cho gia đình và xã hội. Người tiết kiệm sẽ biết sống giản dị phù hợp với hoàn cảnh bản thân, gia đình, xã hội.
Việc nhỏ mà mỗi người chúng ta có thể thực hiện dễ dàng trong cuộc sống thường nhật, đó là sử dụng điện, nước, của cải vật chất một cách hợp lý, biết dùng thời gian vào những việc có ích và biết gìn giữ của công.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin.
Con mơ ước những người thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen (Mana).
25. Lương thực sống
“Đức Giêsu thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ”. Không có gì có thể ngăn lại được tấm lòng chạnh thương của Đức Giêsu dành cho con người, bởi vì Ngài là hiện thân của một Thiên Chúa tình yêu.
Bài Tin mừng mà chúng ta nghe hôm nay được đặt ngay sau hai đoạn Tin mừng thuật lại những câu chuyện buồn của Đức Giêsu. Đó là việc người đồng hương của Ngài đã không đón tiếp Ngài và không tin vào Ngài. Rồi Ngài lại nghe tin Gioan Tẩy Giả, người anh em họ của Ngài và đồng thời là người được Thiên Chúa sai đi dọn đường cho Ngài vừa bị hành quyết bởi sự ác độc của con người. Sau những biến cố ấy, Ngài cùng các môn đệ muốn tìm một nơi riêng biệt để cầu nguyện, để tìm biết thánh ý Chúa Cha và cũng để củng cố tinh thần cho các môn đệ, chuẩn bị cho các ông tinh thần để bước vào những giai đoạn khó khăn trong sứ mạng của loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa, đặc biệt là việc Ngài phải trải qua cuộc khổ nạn và phục sinh để cứu độ con người.
Nhưng Tin mừng thuật lại là ngay khi Ngài vừa đến nơi định tới thì đám đông đã chờ đón gặp Ngài trước ở đó. Ngài không tỏ ra khó chịu hay bực bội vì họ. Trái lại, Ngài lại chạnh lòng thương xót họ và tiếp tục trao ban cho họ tất cả theo những nhu cầu của họ. Ngài không tiếc để trao ban chính mình Ngài cho họ, mang lại niềm vui cho họ. Đức Giêsu đã hành động theo đúng căn tính của Ngài “Thiên Chúa là Tình yêu”.
Bài hát “khi yêu”, dân ca Bình trị Thiên có một câu rất hay; “khi yêu thấy tiếc từng giờ, thấy không thể sống hững hờ vô tư’. Quả thật, tình yêu thôi thúc con người phải làm việc, phải hành động, phải ra đi để chia sẻ, để mang niềmvui và hạnh phúc đến cho người mình yêu. Trong con mắt của người đang yêu, không có ai là thù địch, không ai là người xấu, không có ai mà không đáng yêu cả. Ai cũng là đối tượng của Thiên Chúa tình yêu.
Mẹ Têrêsa lúc sinh thời đã từng phải cung cấp thức ăn cho 9000 người ở Calculta mỗi ngày. Chắc chắn mẹ đã không thể làm nổi việc đó nếu có sự quảng đại của nhiều người trên khắp thế giới cộng tác với Mẹ. Mẹ đã kể ra một điển hình về sự quảng đại khiến cho Mẹ có thể thực hiện “phép lạ” nuôi sống nhiều ngàn người mỗi ngày.
Một ngày nọ, có một đôi vợ chồng tìm đến ngôi nhà nơi Mẹ Têrêsa đang chăm sóc những người nghèo khổ, bệnh tật và trao cho Mẹ một số tiền khá lớn. Mẹ hỏi: “Ở đâu chúng con có số tiền lớn như vậy?” Họ trả lời: “chúng con mới lấy nhau cách đây 2 ngày. Chúng con quyết định không làm đám cưới và thay vào đó là tặng số tiền làm đám cưới để nuôi sống những ngươi nghèo”. Mẹ Têrêsa lại hỏi: “Tại sao chúng con hành động như vậy?” Họ trả lời: “Vì chúng con yêu nhau và chúng con muốn bắt đầu đời sống hôn nhân của chúng con bằng một cử chỉ hy sinh”. Điều đáng nói là hơn nữa là đôi vợ chồng này đều thuộc tầng lớp thượng cấp của đạo Hindus. Đó là hạng người mà theo lẽ thường là không bao giờ làm điều gì cho người nghèo cả. Đứng là “khi yêu nhau thấy tiếc từng giờ, thấy không thể sống hững hờ vô tư”.
Khi thấy đám đông dân chúng đi theo mình, Đức Giêsu động lòng thương xót họ.Và ngài đã biểu lộ tình yêu ấy bằng việc chữa lành bệnh tật cho họ và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống họ. Nói cách khác, Đức Giêsu đã mang lại niềm vui và hạnh phúc cho con người bằng việc trao ban chính bản thân Ngài cho họ. Ngài không hề nghĩ đến bản thân Ngài nhưng chỉ nghĩ đến người khác. Ngài không ngần ngại hy sinh thời giờ,sức lực… để tìm lo hạnh phúc cho người khác. Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta có nhiệm vụ tiếp tục sứ mạng của Thầy chí Thánh là mang lại niềm vui và hạnh phúc cho người khác bằng việc trao ban chính mình chúng ta cho họ. Chúng ta phải chấp nhận trở thành tấm bánh bị bẻ ra cho người khác hưởng dùng. Nhưng đây là một việc làm không dễ chút nào.
Để tập sống thân phận của của tấm bánh bị bẻ ra và trao ban, chúng ta phải tập cho đi từ những chuyện nhỏ nhặt trong đời sống hằng ngày, biết quên đi những lời nói hơn thua, quên đi và tha thứ những lầm lỗi của anh em mình… có như thế, chúng ta mới có thể theo gương Chúa Giêsu trong việc trao ban chính mình cho người khác. Cho đi những gì mình có đã là một điều khó, nhưng cho đi chính mình thì càng khó khăn hơn rất nhiều. nhưng vì lòng yêu mến Chúa, chúng ta hãy cố gắng sống và tập cho đi mỗi ngày. Đây quả là một thách đố, một trắc nghiệm về lòng mến cho những người môn đệ Chúa Giêsu. Đức hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn thuận đã nói: “Yêu người là trắc nghiệm chắc chắn nhất về lòng yêu mến Chúa của con”.
Chúa Giêsu ngày nay vẫn tiếp tục trao ban chính mình Ngài cho chúng ta qua Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là bí tích của tình yêu, của lòng quảng đại bao la của Thiên Chúa dành cho con người. Chúa Giêsu trao ban chính mình cho chúng ta qua nhiều phướng cách khác nhau, nhưng Bí tích Thánh Thể là cách thế tuyệt đỉnh của việc trao ban đó. Phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống đám đông dân chúng ngày xưa là hình ảnh báo trước của Bí tích Thánh Thể ngay nay. Và đến lượt mình, Bí tích Thánh Thể là hình ảnh báo trước tiệc Nước trời mai sau.
Ước gì mỗi người chúng ta biết quí trọng và ý thức khi tiếp nhận Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng. Xin cho chúng ta biết có tấm lòng chạnh thương trước những hoàn cảnh khốn khó của con người để không bao giờ từ chối chia sẻ với họ. Làm được như thế, chúng ta sẽ trở thành tấm bánh được bẻ ra để nuôi sống người khác, trở thành lương thực sống cho những người chung quanh chúng ta. Đó chính là tinh thần chính yếu nhất của phép lạ Hóa bánh ra nhiều mà Chúa Giêsu đã thực hiện ngày xưa.
26. Năm chiếc bánh và hai con cá
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Bước ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu đã tỏ lòng thương xót, ủi an, dậy dỗ, chữa lành và ban phát của ăn nuôi dân. Gặp những người cùng khổ và bệnh tật, Chúa xót thương chữa lành họ: Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ (Mt 14,14). Chúa dậy dỗ và mở mang kiến thức để họ hiểu biết về mầu nhiệm Nước Trời và tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn yêu thương và quan phòng cho mọi loài thọ tạo. Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? (Mt 6,26).
Để tiếp tục ban phát ơn lành, Chúa Giêsu cần lòng quảng đại và sự góp phần nhỏ bé của chúng ta. Thánh Matthêô diễn tả: Các ông thưa lại rằng: “Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”. Người bảo các ông rằng: “Hãy đem lại cho Thầy”( Mt 14,16). Chúa nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ, Chúa đã đọc lời chúc tụng, tạ ơn và phân phát cho mọi người. Chúa ban cho dân đầy dư tràn trề và ăn uống thỏa thuê. Chúa Giêsu duỡng nuôi con dân bằng của ăn tinh thần và cả của ăn thể xác.
Năm bánh hai cá là biểu tượng nguồn tốt lành mà mỗi người chúng ta đang sở hữu. Mỗi cá nhân đều có một kho tàng vô giá ẩn sâu trong tâm hồn. Tôn giáo giúp chúng ta khơi dậy những tâm tình, những ân huệ và những khả năng được trao ban.
Chúng ta không thể nói rằng chúng ta không có gì để cho đi. Mỗi người có cả một kho tàng tình yêu, sự cảm thông, tình xót thương và lòng quảng đại. Cái gì cũng có thể cho được, chúng ta có thể cho đi một nụ cười thân thiện, một lời nói êm nhẹ, một cử chỉ yêu thương, một thái độ tử tế, một ánh mắt thông cảm, một vòng tay ấm áp, một tâm tình chia sẻ tế nhị và một chút bánh, một ly nước.
Khi chúng ta biết cho đi, chúng ta sẽ nhân đôi niềm vui cả vốn lẫn lời. Cho đi là làm giầu thêm cho chính mình. Khi lồng ngực còn thở và trái tim còn đập, chúng ta còn có cái để cho, cho đi niềm tin, niềm hy vọng và cậy trông. Càng cho càng có thêm. Xởi lởi trời lại cho mà.
Ngày xưa, khi đi giảng đạo tại những nước nghèo đói xa xôi, các nhà truyền giáo đã dùng mọi cách thế để đi vào lòng dân. Một trong những cách cụ thể, là lo cho dân có nơi ăn chốn ở, giúp đỡ, dậy dỗ và dùng thuốc thang chữa lành bệnh tật. Có nhiều người theo đạo vì: Theo đạo có gạo mà ăn. Điều này không sai, nhưng nếu lạm dụng sự giúp đỡ thì mất đi ý nghĩa của việc truyền đạo. Chúng ta thường nghe nói: Có thực mới vực được đạo. Đúng vậy, con người không sống trên mây trên gió, mà là cuộc sống cụ thể chân chạm đất. Những nhu cầu thể xác về ăn mặc không thể thiếu. Không phải ngày xưa khi mơi truyền đạo, mà cả ngày nay cũng thế, những nơi vùng sâu vùng xa nghèo đói cũng cần sự trợ giúp về cái ăn cái mặc. Không thỏa mãn nhu cầu thể xác thì khó có thể tập trung cầu nguyện, thờ phượng và trau dồi kiến thức văn hóa về đạo giáo hay về xã hội.
Ở Ấn Độ, người dân bị phân biệt giai cấp, những người cùng đinh nghèo đói và bị khinh bỉ. Mẹ Têrêxa đã phục vụ lâu năm tại đây. Mẹ đã lập nhiều nhà Tế Bần. Có nơi, các chị Dòng Bác Ái mỗi ngày phải lo phục vụ cả 9 ngàn người ăn. Một ngày không nấu là một ngày họ không có gì ăn. Vào ngày nọ, có một cặp vợ chồng mới cưới đến thăm và dâng cúng món tiền lớn. Mẹ Têrêxa hỏi: Ở đâu anh chị có món tiền lớn thế? Anh chị trả lời: Họ mới cưới nhau được hai ngày. Chúng tôi quyết định không tổ chức đám cưới vì muốn dành số tiền này để nuôi người nghèo. Mẹ hỏi: Tại sao anh chị lại muốn làm như thế? Họ trả lời rằng vì chúng tôi yêu nhau và muốn bắt đầu cuộc sống hôn nhân với hành động hy sinh này. Biết rằng họ thuộc hàng quý phái. Cử chỉ thật đẹp từ cõi lòng.
Tu thân tích đức là hướng nội. Từ bi hỉ xả và từ thiện bác ái là hướng ngoại. Khi có nội công thâm hậu, thì con người sẽ có sức mạnh phi thường. Ý chí là nguồn sức mạnh. Không phải mọi người to lớn, khỏe mạnh và cường tráng là người có nội lực thâm sâu. Ý chí giúp con người thành nhân và thành thánh. Vị thánh nào cũng có một ý chí kiên cường. Vị thánh nào cũng biết xả thân và cho đi. Cho đi mà không cạn kiệt. Cho đi là hướng ra tha nhân. Càng xả thân càng làm cho sự hiện hữu của mình thêm phong phú. Các thánh nhân đã cho đi không ngừng để làm giầu cho tha nhân và cho chính mình. Chúa Giêsu xuống trần gian, Ngài cho đi với cả trái tim yêu thương, sự tha thứ, thông cảm, chữa lành, sự bình an và cả mạng sống của chính Ngài.
Khi Chúa Giêsu chữa lành, Chúa chữa tận căn và bệnh tật chấm dứt. Khi Chúa ban của ăn, Chúa ban dư tràn. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (x. Mt 14,20). Khi Chúa yêu thương, Chúa hiến cả thân mình đến giọt máu cuối cùng. Chúa không ban ơn nửa vời.
Bước theo Chúa, Chúa cũng đòi hỏi một sự dứt khoát: Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được (x. Lc 14,33).
Xem ra sự đòi hỏi của Chúa không dễ. Làm sao chúng ta có thể từ bỏ hết những gì chúng ta có? Chúng ta thường tìm cách tránh né vấn đề và nêu ra nhiều lý do để chối từ. Các tông đồ xưa đã thực hành lời Chúa một cách triệt để. Các ngài sống trọn vẹn lý tưởng và chết cho sứ mệnh của mình. Thánh Phaolô đã lên tiếng nói rằng: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gal 2,20).
Chúa trao quyền năng cho các tông đồ và sai các ngài ra đi trong tin yêu và phó thác: Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn (x. Mt 10,10).
Tôi nghe kể các tu sĩ Dòng Tên trong những năm huấn luyện tập tu. Mỗi tu sĩ ra đi vào đời trong một tháng thử thách, họ không được mang theo đồ dùng tiền bạc. Họ phải tự lo liệu tất cả, khát xin uống, đói xin ăn, tự tìm nơi ăn chốn ở và mọi nhu cầu thể xác tự giải quyết. Sống hoàn toàn trong sự phó thác nơi Chúa và cậy nhờ lòng tốt người khác. Trong những ngày lang thang giữa chợ đời, cũng có khi các tu sĩ bị xua đuổi, bị khinh rẻ, bị nghi ngờ và bị coi là kẻ ăn bám xã hội. Luyện tập nhân đức cần trải qua những gian truân và nhẫn nại sẽ giúp họ trưởng thành trong đời sống phục vụ sau này.
Thiên Chúa quan phòng cho mọi loài thảo mộc sinh hoa trái và ban nguồn thực phẩm để dưỡng nuôi con người trong thiên nhiên. Trong lịch sử cứu độ, một đôi khi Thiên Chúa can thiệp ban phát ân sủng trực tiếp như nước uống, Manna và chim cút cho dân Do-thái suốt hành trình lữ hành trong hoang địa. Nay Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều để nuôi dân. Bánh và cá là hình ảnh của bánh hằng sống mà Chúa sẽ ban chính là Mình và Máu Thánh Chúa. Chúa Giêsu đã chọn chính bánh rượu là của ăn hằng ngày để hiến thánh. Khi bánh rượu được hiến dâng trên bàn thờ, qua lời truyền phép của linh mục, bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần, bánh rượu đã trở nên Mình và Máu Thánh Chúa để dưỡng nuôi toàn dân. Của ăn thần lương này đã giúp thỏa mãn mọi khát khao của con người dẫn vào cuộc sống đời đời.
Chúa ban cho dư tràn nhưng Chúa cũng nhăc nhở con người không được phung phí. Sau khi dân chúng ăn no thỏa, Chúa kêu gọi mọi người thu dọn: Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (x. Mt 14,20).
Không một ân huệ nào là vô ích. Dù là một chút ít miếng vụn, đó cũng là hồng ân. Trong thế giới chúng ta đang sống, đang có biết bao nhiêu người lên giường ngủ mà bụng còn đói, trong khi nhiều người ăn uống thừa thãi và hoang phí. Xã hội bất công đưa dẫn đến con người tham lam và ích kỷ. Chỉ muốn gom góp và làm giầu cho chính mình. Chúng ta biết rằng thu vào là tiêu hao và tan biến. Có biết bao nhiêu nguồn sung túc của thế giới đã bị chiếm đoạt bất công. Có những người sống như nhà phú hộ giầu có, hằng ngày yến tiệc linh đình, trong khi bên cạnh nhà có Lazarô đói khổ, bệnh tật và thèm khát chén cơm thừa mà chẳng ai cho. Câu truyện đời như thế vẫn xảy ra hằng ngày. Hậu qủa thưởng phạt ngày sau tách biệt mỗi người một nơi.
Năm bánh hai cá là vốn liếng mà mỗi người chúng ta có được. Chúng ta đừng đem chôn vùi, nhưng hãy trao tặng lại cho Chúa, để Chúa biến hóa ra nhiều phân phát cho mọi người. Mỗi người hãy cùng chung góp khả năng, sức lực, của cải và thời giờ để sinh hoa kết qủa trong cuộc sống này. Không có một cuộc sống nào là vô ích. Ai cũng có thể góp phần làm tốt cho xã hội và Giáo Hội.
Lạy Chúa, xin khơi dậy kho tàng ân sủng trong lòng con, để chúng con biết đem ra phân phát và chia sẻ với mọi người.
Tất cả là hồng ân!
Chúng con cảm tạ danh Chúa đến muôn ngàn đời.
27. Lương thực – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã hướng dẫn Dân Chúa đã chọn qua trung gian các tổ phụ, các tiên tri và các ngôn sứ. Trong thời điểm của lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ nhất định, sách Kinh Thánh đã ghi lại rất nhiều biến cố, sự việc và diễn tiến của cuộc lữ hành. Đôi khi chúng ta cảm thấy mỏi mệt với sự cứng đầu, bội ân và bội nghĩa của Dân Chúa chọn. Thiên Chúa càng chăm sóc thương yêu và bảo vệ, họ lại càng rời xa và ngoảnh mặt làm ngơ. Đúng là con người chứng nào vẫn tật đó. Biết rằng con người có linh hồn, ý chí yếu đuối và thân xác mỏng dòn. Con người có khuynh hướng đi tìm sự thỏa mãn mọi nhu cầu tinh thần lẫn thể xác. Nhiều người muốn được sống dễ dãi, hưởng thụ và tự do buông theo những ước muốn bản năng. Thiên Chúa không muốn con người bị tuột dốc, nên luôn có những lời cảnh báo qua các tiên tri: Hãy lắng tai và hãy đến cùng Ta, hãy nghe, thì các ngươi sẽ được sống; Ta sẽ ký kết với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, đó là những hồng ân đã hứa cho Đavid (Is 55, 3). Thiên Chúa dẫn dắt lịch sử ơn cứu độ, nhưng còn tùy thuộc vào sự lựa chọn tự do của con người đáp trả. Không ai có thể điều khiển được sự sống của mình, vì sự sống như hơi thở, nay còn mai mất.
Sống vào bất cứ thời đại nào, con người cũng cần có của ăn tinh thần và thể xác. Quan sát các loài động vật, Tạo hóa đã phú bẩm trong mỗi loài, mỗi loại một cách thức đáp ứng với các nhu cầu thiên nhiên. Chim trời, cá biển và thú vật đồng hoang đều được Thiên Chúa quan phòng nuôi dưỡng. Chúng ta có thể quan sát những đàn cò, đàn chim lớn cả mấy trăm ngàn con, mỗi năm đều có cuộc di tản tìm của ăn nuôi sống. Đàn chim bay từ Bắc xuống Nam cực của địa cầu để tìm lương thực nuôi thân. Tự bản năng, chim trời biết thời gian thuận lợi, nơi chỗ trạm dừng chân và địa điểm cần tới. Chúng không cần các dụng cụ khoa học để dò thám hay đặt chương trình, Tạo Hóa đã an bài cho mỗi loài một cách tuyệt vời. Đây là một thế giới của sự sống nhiệm mầu. Con người chỉ biết cúi đầu chiêm ngắm và kính phục.
Con người có nhiều nhu cầu hơn các loài động vật. Nhu cầu về tâm linh, trí tuệ và các nhu cầu vật chất, còn kèm theo các nhu cầu bản năng cần thỏa mãn. Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng về Nước trời, có rất nhiều người đã bỏ công ăn việc làm mà đi theo Chúa nghe giảng dậy. Chúa Giêsu đáp ứng những khao khát tâm linh của họ. Chúa giảng dậy với uy quyền trong cả lời nói và việc làm. Chúa mở rộng cửa Nước Trời mời gọi mọi người bước vào với nhiều cách thế. Chúa nhìn thấu tâm can và nhu cầu cuộc sống của họ. Thánh Matthêô diễn tả hình ảnh rất thân thương: Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì xót thương họ và chữa những người bệnh tật trong họ (Mt 14, 14). Chúa xót thương dân chúng vì sự mong mỏi chờ đợi và sự đói khổ cả hồn lẫn xác. Chúa đã nuôi họ với của ăn tinh thần là lời Tin mừng và thể xác với của ăn vật chất.
Ân sủng của Chúa tuôn đổ vào những tâm hồn khao khát. Chúa nuôi dưỡng họ và họ mở lòng đón nhận. Không phải ai có cũng muốn cho đi. Chúng ta thấy nhiều người giầu có, tiền bạc đầy dư và của cải chất đống nhưng lòng họ bị khép kín. Họ muốn nhận, nhưng không muốn chia xẻ. Có đôi khi nhiều người chỉ nói xuông ngoài miệng mà không thực hành. Có những bài phát biểu về lòng thương xót được mọi người khâm phục và được vỗ tay liên hồi, nhưng lại không đáp ứng nhu cầu cụ thể của những người cần thiếu. Thùng rỗng kêu to. Chúa Giêsu muốn các tông đồ đáp ứng ngay những nhu cầu của con người hiện tại: Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn (Mt 14, 16). Các con hãy cho họ ăn. Lấy của đâu mà cho cả ngàn người ăn uống trong khu sa mạc hoang vắng. Các tông đồ ngỡ ngàng vì sự đề nghị của Thầy. Các ông không đòi hỏi Thầy làm phép lạ, nhưng các ông tin tưởng vào Thầy sẽ có cách giải quyết.
Các môn đệ chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá. Chúa Giêsu đã nhận bánh và cá, rồi dâng lời cầu nguyện và biến hóa bánh cá ra nhiều nuôi trên năm ngàn người ăn no và còn dư: Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (Mt 14, 20). Chúng ta thử tưởng tượng trong cảnh hoang địa vào lúc chiều tối, cả ngàn người nơi màn trời chiếu đất và vừa đói vừa khát. Họ biết nương tựa vào đâu bây giờ. Chúa Giêsu đã lo liệu đầy đủ cho họ trước khi ra về. Chúng ta biết sa mạc thì cằn cỗi, ngày nóng, sỏi đá hoang vu và đêm về gió lạnh. Sa mạc của hai ngàn năm về trước cũng giống như sa mạc ngày hôm nay. Đồi trọc hoang sơ lạnh vắng không có nhà ở hay mái che. Người ta mải mê đi theo Chúa quên về. Chúa cải hóa họ từng bước. Trong số những người đi theo Chúa đó, đã một số người đã nhận ra lòng thương xót và sự quan phòng của Chúa. Số còn lại, chỉ trong chốc lát sau khi trở về nhà, đâu lại hoàn đó và mau quên mọi ân huệ Chúa ban.
Chúng ta là những người đã từng nhận lãnh tràn đầy các ân huệ của Chúa. Chúng ta được nuôi dưỡng bởi Lời và Bánh hằng sống hằng tuần. Ngày xưa, Trong vòng ba năm, Chúa rảo đi khắp các miền, các vùng và làng mạc từ Galilêa xuống Juđêa. Chúa giảng dậy dân chúng từng bài ngắn ngủi ở nhiều nơi khác nhau: Tại gia, trong Hội Đường, ngoài phố chợ, có lúc ở ngoài cánh đồng, bãi biển và có khi ở ngoài hoang địa. Con người ở mỗi miền chỉ được gặp gỡ và lắng nghe lời Chúa chút ít. Sau khi hoàn tất sứ mệnh dưới trần gian, Chúa Giêsu đã sai các tông đồ tiếp tục ra rao giảng Tin mừng cứu độ. Thánh Phaolô, tông đồ Dân Ngoại, đã nhiệt tâm say sưa rao giảng lời Chúa. Cuộc đời của Phaolô gắn chặt vào việc làm nhân chứng cho Chúa Kitô sống lại. Cho nên không sự gì có thể tách biệt ngài ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô: Ai có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô được? Hay là gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo sao? (Rm 8, 35). Thánh Phaolô đã chấp nhận mọi rủi ro trong đời sống để danh Chúa được rao truyền.
Ngày nay, Lời Chúa được hệ thống hóa qua sách vở và các kỹ thuật truyền thông. Ai cũng có thể đọc, nghe và suy gẫm lời Chúa. Thánh lễ cũng được dâng mỗi ngày trong các nhà thờ, nhưng chẳng mấy người muốn đọc và lắng nghe lời Chúa. Càng ít người muốn lãnh nhận của ăn nuôi hồn là Bí tích Thánh Thể. Hình như con người thời nay chỉ mau mắn đi tìm những món quà giá trị tạm thời mau qua chóng hết. Sách Lời Chúa được bao bọc đẹp đẽ và cất giấu trên kệ tủ. Sự hiện diện cô đơn của Chúa nơi nhà tạm vắng vẻ trong nhà thờ. Chẳng mấy ai muốn ngồi lặng bên Chúa để lắng nghe lòng mình và tâm sự với Chúa. Chúng ta cũng như phần đông trong nhóm người xưa, mong được Chúa làm phép lạ cho ăn uống no nê. Ngay cả các thành phần sống cận kề bên Chúa, họa hiếm mới đến viếng Mình Thánh Chúa. Có nghe Lời Chúa, chúng ta cũng chẳng muốn suy gẫm, áp dụng và thực hành. Mỗi người hãy tự vấn lương tâm về cách sống và hành đạo của mình.
Trải qua biết bao thăng trầm trong cuộc sống, thánh Phaolô luôn kiên vững trong niềm tin: Nhưng chúng ta vượt thắng được trong tất cả những sự ấy, vì Đấng đã yêu thương chúng ta (Rm 8, 37). Không có gì có thể làm lay chuyển lòng tin của Phaolô vào Chúa Kitô. Lạy Chúa, chúng con đi theo Chúa, nhưng chúng con muốn tránh xa mọi sự phiền hà, khó khăn, khổ đau và bắt bớ. Chúng con chỉ muốn làm chứng nhân cho Chúa trong một hoàn cảnh an bình, vui vẻ, đầy đủ và êm ả. Xin cho chúng con biết tìm về nguồn sự sống chân thật là Chúa Kitô, Chúa chúng con.
28. Đói khát tâm linh… SOS!! – Lm Anmai
Các bài đọc trong Thánh lễ 18 thường niên hôm nay phảng phất lên những phép lạ, những dấu lạ mà Thiên Chúa vẫn làm chỗ này chỗ kia trong cuộc sống hiện tại. Những dấu lạ ấy thật ý nghĩa với con người thời hiện tại.
Thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta là dân chúng vì đi theo Chúa Giêsu, vì nghe Chúa Giêsu giảng nhiều quá nên rồi họ đói và họ khát. Chúa thấy hiện trạng của họ để rồi Chúa chạnh lòng thương, Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Không chỉ hoá bánh ra nhiều mà thôi mà Chúa còn chữa lành nhiều bệnh nhân của họ nữa.
Thời đại ngày hôm nay, gần nhất là con người Việt Nam đây thật sự mà nói thì cuộc sống vẫn còn đó, vẫn còn ngổn ngang những mảnh đời khó khăn thiếu thốn nhưng thật ra thì đời sống vẫn ổn hơn thời bao cấp nhiều. Ngày hôm nay thật sự mà nói thì đói khát cơm bánh thì ít mà đói khát tâm linh thì nhiều.
Ai đã trải qua thời đó thì đều có cảm nghiệm, đều trải nghiệm được những khó khăn vất vả của thời ấy. Thế nhưng có điều lạ là chính trong những lúc thiếu thốn cơm bánh thể xác, cơm bánh vật chất ấy thì Thiên Chúa được con người đón nhận, tin nhận nhiều. Ngày nay thì hoàn toàn ngược lại, đời sống vật chất, sự phát triển khoa học kỹ thuật nó tỷ lệ nghịch với niềm tin. Những ngày bao cấp, sống trong cái bấp bênh của cuộc sống, sống trong cái lo lắng thiếu ăn thiếu mặc nhưng mà tình thương, tình huynh đệ, lòng tin nó cứ rực lên như lửa, nồng nàn và ấm áp dường bao.
Và như vậy, cái trống vắng, cái thiếu vắng niềm tin, cái mất mát về tình huynh đệ, cái đói khát về tâm linh nó quan trọng hơn đói khát về vật chất nhiều. Đành biết rằng vật chất, của cải, bánh ăn, nước uống cần cho đời sống con người như thế nào nhưng nó vẫn chưa là điều căn cốt của con người. Con người còn cần hơn cái lương thực, cái bánh ăn hay hư nát đó chính là Lời Chúa như trong sách ngôn sứ Isaia mà chúng ta vừa được nghe:
“Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng? Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị. Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống”. (Is 55,3).
Không chỉ trong đoạn sách Isaia này Chúa mới nói về chuyện lắng tai, nghe nhưng mà chúng ta thấy phảng phất đâu đó rất nhiều trong Thánh Kinh từ Cựu Ước đến Tân Ước Chúa vẫn nhắc với dân của Ngài về tầm quan trọng của Lời, tầm quan trọng của thức ăn thiêng liêng, thức ăn tâm linh. Phảng phất rất nhiều, rất nhiều trong áng văn Tân Ước Chúa gợi lên cho chúng ta về chuyện khát Lời, khát tâm linh.
Có lẽ chúng ta hoặc là vô tình hay cố ý nên không phân biệt được lương thực nào là cần hơn cho cuộc sống chúng ta. Chúa không phủ nhận nhu cầu của thân xác để rồi hôm nay Chúa làm dấu lạ để nuôi thân xác. Nhưng bên cạnh đó Chúa muốn gửi đến cho con người dấu lạ. Vấn đề ngày hôm nay là Chúa vẫn làm dấu lạ này dấu lạ khác cho con người thời đại nhưng chuyện quan trọng là con người có nhận ra dấu lạ của Chúa, có nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời này hay không mới là chuyện quan trọng.
Thời gian gần đây chúng ta thấy khá nhiều dấu lạ đấy chứ! Không phải là dấu lạ ban cho con người được nhiều bánh như trong tin mừng theo Thánh Matthêu nhưng dấu lạ cảnh báo cho con người biết rằng con người đang thiếu về tâm linh, đang thiếu về niềm tin.
Chuyện lạ ở La Vang, chuyện lạ ở Tapao, chuyện lạ ở nhà thờ Đức Bà, chuyện lạ ở giáo xứ Bạch Lâm (Gia Kiệm) không phải là chuyện lạ nói lên đời sống tâm linh của con người ngày nay xuống dốc đó sao? Tại sao Đức Mẹ khóc? Tại sao Đức Mẹ nhắn nhủ phải ăn năn lần hạt Mân Côi?
Tại vì con người ngày hôm nay đã quá tôn sùng của cải vật chất. Tại con người ngày hôm nay quá tôn sùng chủ nghĩa danh giá, chủ nghĩa bề ngoài, chủ nghĩa chức quyền, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng thụ.
Đáng tiếc là ngày hôm nay con người cứ mãi miết sống trong lời trách than của Đức Chúa: “Sao lại phí tiền bạc…”. Vâng! Đức Chúa đã phán đúng như vậy, nhiều lần nhiều lúc trong cuộc sống chúng ta đã quá phí sức vào để tìm cái ăn, cái mặc, cái vật chất nuôi thân mà chúng ta quên đi tình trạng thiêng liêng của mình.
Mới đây, một người chị họ đến với tôi nhờ tôi giúp cho con của chị vì con của chị đang bị “sơ cứng” về tâm linh. Chúng gần như bỏ đạo!
Nhìn lại gia đình chị, cuộc đời của chị hoá ra là gia đình chị may mắn hơn nhiều người là có của ăn của để và thậm chí dư ăn dư để nữa nhưng hiện tại đang phải đối đầu với sự đói khát tâm linh. Giàu có đó nhưng chắc gì là hạnh phúc? Nhà lầu xe hơi bạc tỷ đó nhưng lấy gì bình an? Hình như bên dưới sự dư dật về của cải vật chất thì gia đình chị vẫn đói, vẫn khát về tâm linh. Và chuyện đói khát tâm linh này chẳng ai có thể bù đắp cho chị, cho chồng, cho con ngoài Chúa. Linh mục, các soeurs, các giáo lý viên, các đoàn thể cũng chẳng có thể giúp gì được cho chị nếu như chị không “lắng tai và đến với Ta, hãy nghe Ta thì các ngươi sẽ được sống”. Thế thôi! Đứng trước sự lựa chọn là lắng nghe Chúa hay bôn ba vất vả đi tìm cái đời tạm này đó chính là lựa chọn không phải của riêng chị mà của mọi kitô hữu.
Lý do tại sao? Lý do chắc ai cũng biết rồi: đó chính là không kết hợp mật thiết với Chúa. Như Thánh Phaolô tông đồ, chúng ta ai cũng biết, gần như cả đời Ngài đã không biết Chúa, Ngài đã bắt Chúa nhưng khi cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa dành cho mình Ngài đã hoán cải cuộc đời. Chính tình yêu sâu đậm giữa Ngài và Chúa thắm thiết để rồi Ngài gửi tấm chân tình của mình cho cộng đoàn Rôma mà chúng ta cũng vừa nghe: “Thưa anh em, ai có thê tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, phải chăng là gian truân, khốn khó, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8, 35)
Thế đấy! Ngài nói rằng dù khốn khó, dù có đói đi chăng nữa cũng không thể tách được ra tình yêu của Chúa trong khi đó nhân loại, con người ngày nay lại được dư đầy vật chất của cải nhưng lại đói, lại khát tâm linh!
Ngài còn khẳng định với chúng ta: “Nhưng trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta”. (Rm 8,37).
Nhìn lại cuộc đời mỗi người chúng ta, Chúa yêu chúng ta lắm rồi, quá yêu, yêu cho đến chết nhưng chúng ta có tin vào tình yêu của Chúa hay không mà thôi.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta nhận ra cơn đói cơn khát tâm linh của mỗi người chúng ta để chúng ta chạy đến Chúa kín múc nguồn mạch tâm linh từ nơi Chúa để chúng ta được mạnh sức, được bình an trên con đường lữ thứ về nhà Cha trên trời.
Nguyện xin Chúa là nguồn mạch sự sống, nguồn mạch tân linh đến và ở lại với mỗi người chúng ta để dẫu rằng trong cuộc sống chúng ta còn thiếu điều này khát điều kia nhưng chúng ta không khát về tâm linh, không khát về Chúa.
29. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Trong Kinh Thánh, cái đói và cái khát mà con người cảm nhận trong thân xác được dùng để sánh ví với cái đói và cái khát của con người đối với những thiện hảo tinh thần. Đặc biệt ơn cứu độ được hình tượng về một bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi những người được Ngài tuyển chọn.
Is 55: 1-3
Bài Đọc I được trích từ tác phẩm của I-sai-a đệ nhị, trong đó vị ngôn sứ loan báo cho những người lưu đày cuộc giải thoát của họ gần kề dưới ẩn dụ của một bàn tiệc đầy cao lương mỹ vị. Điều này muốn nói rằng Thiên Chúa tha thứ cho họ, làm mới lại Giao Ước của Ngài và ban cho họ muôn vàn ân phúc.
Rm 8: 35, 37-39
Bài Đọc II được trích từ thư của thánh Phao-lô gửi các tín hữu Rô-ma, trong đó thánh nhân hùng hồn ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa, được mặc khải ở nơi Đức Giê-su Ki-tô.
Mt 14: 13-21
Tin Mừng theo thánh Mát-thêu thuật lại phép lạ hóa bánh ra nhiều. Khi nuôi đám đông dân chúng ăn no nê, Đức Giê-su cho một dấu chỉ tiên trưng về lương thực đích thật mà Ngài sẽ thiết đãi nhân loại: bánh Thánh Thể.
BÀI ĐỌC I (Is 55: 1-3)
Lời mời gọi hãy đến mà ăn uống cho thỏa thích được gửi đến những người lưu đày tại Ba-by-lon. Trong những năm tháng dài, những người bất hạnh này phải chịu những túng thiếu đủ mọi thứ. Ở giữa họ, một vị ngôn sứ đứng lên, vào giữa những năm 550 và 540 trước Công Nguyên, không ngừng khích lệ họ hãy hy vọng: ông hứa với họ một sự giải phóng gần kề. Chẳng bao lâu Thiên Chúa sẽ tuôn đổ muôn vàn ân phúc của Ngài trên họ.
Vị ngôn sứ này được gọi biệt danh là I-sai-a đệ nhị. Sứ điệp của ông, gồm các chương 40-55 của sách I-sai-a, đã được đề tựa là “Sách An Ủi”. Bản văn chúng ta đọc hôm nay là đoạn mở đầu của phần kết.
1. “Đến cả đi, hỡi những người đang khát”
Vị ngôn sứ để cho chính Đức Chúa nói, theo thói quen của văn phong ngôn sứ, mà tác giả của chúng ta trung thành một cách đặc biệt; ông xóa mình sau sứ điệp ông truyền đạt đến mức người ta không biết chút gì về ông, thậm chí ngay cả tên ông.
Vị ngôn sứ gán cho Đức Chúa ngôn từ của một người bán nước rong rảo qua các đường phố và các công trường rao bán mặt hàng của mình; nhưng với một sự khác biệt vì những mặt hàng Thiên Chúa đề nghị thì hoàn toàn cho không. Những lời đề nghị của Thiên Chúa được trình bày theo một sơ đồ rất quen thuộc với Cựu Ước: lời hứa ban “của ăn thức uống vật chất”, xưa kia là vườn địa đàng, bánh man-na trong hoang địa, Đất Hứa chảy sữa và mật ong, bên kia của ăn thức uống này ẩn hiện những “của ăn thức uống tinh thần”, chủ yếu là lương thực tuyệt vời, tức là Lời Chúa. Sau cùng, lời mời gọi tham dự bàn tiệc nghĩa là lời hứa “Giao Ước”.
2. Của ăn thức uống vật chất
“Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng, đến mua rượu và sữa, không phải trả đồng nào”. Ngôn ngữ của vị ngôn sứ hàm chứa hai khía cạnh: vừa thực vừa biểu tượng. Xin đừng giảm thiểu tối đa khía cạnh thực: những người lưu đày sắp được tự do và có thể lại được nếm rượu ngon của những vườn nho xứ Pa-lết-tin, lại được uống sữa đàn gia súc của họ và lại được thưởng thức thịt béo của những bữa ăn hy tế mà đã bao năm qua họ đã bị tước đi. Rượu luôn luôn là biểu tượng niềm vui và sữa là dấu chỉ của sự thịnh vượng phú túc.
3. Của ăn thức uống tinh thần
Nhưng sâu xa hơn, là ý nghĩa tinh thần. Những của ăn thức uống Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến Ngài thường được diễn tả, trong Cựu Ước, bởi những hình ảnh bữa ăn, bánh, rượu, món ăn hảo hạng. Ơn cứu độ thời Mê-si-a như niềm vui tương lai của những người công chính vào thời tận thế, được diễn tả bởi những ẩn dụ như thế. Còn về nước, rỉ ra, phụn vọt lên, chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh như biểu tượng của sự sống thần linh. Đức Giê-su sẽ lấy lại lời của vị ngôn sứ này, vào tuần lễ Lều: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống!” (Ga 7: 37). Cũng vậy, Chúa Ki-tô quang vinh của sách Khải Huyền công bố: “Ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy đến lãnh nước trường sinh mà không phải trả tiền” (Kh 22: 17).
Một bản văn của sách Châm Ngôn đưa ra một sự đối chiếu với bản văn hôm nay: Đức Khôn Ngoan kêu to ngoài đường phố, cất tiếng nơi công trường, kêu gọi chỗ ồn ào náo nhiệt, tuyên bố nơi cổng thành, mời gọi tất cả những ai muốn nếm những thiên ân của mình hãy đến tham dự bàn tiệc của mình: “Hãy đến mà ăn bánh của Ta và uống rượu do Ta pha chế!” (Cn 9: 5). Bàn tiệc Đức Khôn Ngoan thiết đãi rõ ràng hoàn thoàn thuộc về tinh thần. Ở đây cũng vậy: “Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào các thứ chẳng làm cho ấm dạ no lòng”: chỉ lương thực đích thật duy nhất đó là Lời Chúa: “Hãy lắng tai, và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống”. Lời kêu gọi này nhắc nhớ lời kêu gọi của Đức Giê-su: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6: 27).
4. Bữa ăn Giao Ước
Lời Chúa này nói gì với những người lưu đày. Nó loan báo cho họ biết Thiên Chúa sắp hoàn lại sự tự do cho họ, và còn nữa, nó là lời hứa về một giao ước mới giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Mọi giao ước đều được đóng ấn trong một bữa ăn. Thức ăn thật hay thức ăn biểu tượng mà Thiên Chúa thiết đãi những người lưu đày là những dấu chỉ của Giao Ước Mới muôn năm bền vững, theo cùng hàng với những lời hứa được ban cho vua Đa-vít.
Vài thập niên trước đó rồi, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã hiểu ở nơi những biến cố nghiêm trọng: thành thánh Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị tiêu hủy, dấu chỉ tiên báo về những mối liên hệ mới giữa dân Ít-ra-en và Thiên Chúa của dân. Giao Ước Mới sẽ được ghi khắc, không còn trên bia đá, nhưng trong tận đáy lòng. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã lập lại tư tưởng này. Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đến phiên mình công bố giao ước mới này. Khi nhắc lại mẫu gương của vua Đa-vít, vị ngôn sứ gợi lại những tư tưởng rất thân thiết với những người lưu đày: những lời hứa xưa về thành thành Giê-ru-sa-lem và nhà Đa-vít muôn năm bền vững. Như vậy, Thiên Chúa đã không quên!
5. Khía cạnh ngôn sứ
Khía cạnh ngôn sứ của sứ điệp thì hiển nhiên: một lời mời gọi dự phần trước bàn tiệc thời Mê-si-a, tức là ơn cứu độ. Đức Giê-su sẽ là hiện thân Thiên Chúa trong mọi ngã đường và trên các công trường. Trước tiên, cũng chính Ngài đề nghị những lương thực vật chất, cung cấp rượu hảo hạng cho tiệc cưới làng quê, ban bánh và cá để nuôi dưỡng đám đông đói khát, chữa lành bệnh tật cho các bệnh nhân, … ngõ hầu muốn nói rằng Ngài là Đấng cứu độ và ban sự sống, và Ngài mời gọi dự phần vào bữa ăn làm no thỏa mọi đói và khát: bữa ăn Thánh Thể.
Bản văn của vị ngôn sứ chuẩn bị cho chúng ta nắm bắt Tin Mừng hôm nay một cách sâu xa.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 35, 37-39)
Những lời thổ lộ đầy cảm xúc này hoàn tất bài ca hy vọng và khải hoàn, qua đó thánh Phao-lô đóng lại chương 8 thư gửi tín hữu Rô-ma, thực tế, phần đạo lý của thư này.
Sau khi đã chứng tỏ làm thế nào mọi người, Do thái cũng như dân ngoại, bị giam hãm trong tội, và làm thế nhờ Đức Ki-tô họ được tách ra khỏi tội lỗi, thánh nhân đã phô bày, trong chương 8 này, sự mới mẻ của người Ki-tô hữu: một đời sống theo Thần Khí và trong niềm hy vọng được dự phần vào vinh quang của Thiên Chúa.
Chương trình của Thiên Chúa làm chứng về một tình yêu bao la mà con người là đối tượng. Lúc đó, Thánh Phao-lô để mặc cho tình cảm nồng nàn của mình tuôn tràn ra dưới ngòi bút thành một bài thánh thi bộc phát, tôn vinh tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Những dòng sau cùng này chất chứa biết bao sự hùng hồn và cảm xúc.
1. Người Ki-tô hữu đối mặt với sự thử thách
Thánh Phao-lô chọn hình thức nghi vấn. Trở ngại nào có thể khiến chúng ta nghi ngờ tình yêu của Thiên Chúa? Phải chăng là những đau đớn cùng cực nhất? Những thử thách được liệt kê ở nơi con số “bảy”, con cố chỉ sự hoàn hảo. Chắc chắn đây không là ngẫu nhiên. Chắc chắn thánh Phao-lô nghĩ đến tất cả những khốn khổ mà thánh nhân đã kinh qua. Thánh nhân đã nêu lên những nỗi gian truân này nhiều lần (1Cr 4: 9-13; 2Tm 11); thánh nhân thêm vào ở đây, như do sự linh cảm, “gươm giáo”, đó sẽ là dụng cụ trong cuộc tử đạo của ngài. Nhưng đại từ “chúng ta” mà thánh Phao-lô sử dụng chứng thực rằng thánh nhân cũng nghĩ đến mọi người Ki-tô hữu đang gặp phải những khó khăn và những phiền nhiễu.
Thánh Phao-lô khẳng định một cách mạnh mẽ rằng trong mọi gian nan thử thách, những Ki-tô hữu là những người toàn thắng trong cuộc chiến của họ, nhờ Đấng đã yêu mến họ. Họ càng yếu hèn, thì họ càng cảm thấy sự hiệu nghiệm nội tại và tình thân của Thiên Chúa: thánh Phao-lô biết được điều này từ kinh nghiệm của mình.
2. Người Ki-tô hữu đối mặt với thế gian thù ghét
Để hoàn thiện những ví dụ của mình, thánh Phao-lô loại ra khỏi những người Ki-tô hữu nỗi sợ hãi mà họ có thể có về những quyền lực bí nhiệm ám ảnh vũ trụ và có thể dự phần vào sự điều hành vũ trụ, cũng như mọi cảnh huống cuộc đời con người: sự sống và sự chết, hiện tại và tương lai.
Những mê tín dị đoan cổ xưa đầy dẫy trong vũ trụ về những quyền năng ít nhiều tác hại, chúng dễ dàng giải thích cái ác. Sự gia tăng của những mê tín này trở nên thuận lợi nhờ khoa chiêm tinh phát triển, từ đó, những tín ngưỡng dễ dàng tràn lan hơn nữa vì niềm tin trong các tôn giáo truyền thống sa sút.
“Thiên thần hay ma vương quỷ lực” chắc chắn ám chỉ đến những thiên linh, những sức mạnh quỷ thần, có thể những quyền lực của các thiên thần sa ngã (x. Ep 1: 21; 3: 18; Cl 1: 16; 2: 10-15).
“Bất kỳ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác” có lẽ gợi lên từ vựng chiêm tinh và những “định mệnh” đè nặng trên vận mệnh của con người.
Còn đối với những kiểu nói “sự sống hay sự chết”, “hiện tại hay tương lai”, đây là những cặp đối ngẫu. Thánh Phao-lô sử dụng chúng ở nơi khác trong một mạch văn lạc quan hơn, như khi thánh nhân viết cho tín hữu Cô-rin-tô: “Dù cả thế gian này, sự sống hay sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Ki-tô, và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa” (1Cr 3: 22).
Ở đây, thánh Phao-lô nhắm đến khía cạnh bi quan: cái chết với những xao xuyến của mình, cuộc sống với những bận lòng của mình, hiện tại với những lo âu của mình, tương lai với những bấp bênh của mình.
Thánh Phao-lô không muốn nói rằng thánh nhân xem những niềm tin này và những sợ hãi này là của mình. Với một sự thanh thản bình yên, thánh nhân khẳng định rằng không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã bày tỏ một cách rạng rỡ tình yêu của Ngài đối với con người khi ban cho họ Con của Ngài. Đó là nền tảng xác tín của người Ki-tô hữu và là lý do những toàn thắng của họ trên những quyền lực bên ngoài, dù đó là gì đi nữa. Người Ki-tô hữu “trong Đức Giê-su Ki-tô” sống bằng tình yêu này.
TIN MỪNG (Mt 14: 13-21)
Phép lạ “hóa bánh ra nhiều” là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng thuật lại. Quả thật, dường như trong số những phép lạ, đây là phép lạ đặc trưng nhất, chứa đựng mặc khải nhất mà Đức Giê-su thực hiện. Bốn bài tường thuật bổ túc cho nhau và soi sáng cho nhau; mọi chi tiết đều hướng đến sự súc tích và sự chính xác của chúng.
Đức Giê-su tìm cách lánh vào nơi hoang vắng một mình với các môn đệ Ngài. Để được yên tĩnh, Ngài xuống thuyền qua bên kia biển hồ Ghê-nê-sa-rét để lánh xa đám đông. Nhưng đám đông đã nhận biết nên theo đường bộ dọc theo biển hồ và họ đến nơi trước khi thuyền cập bến.
1. Một ngày hồng ân
Đức Giê-su không còn sống cho chính mình; Ngài đến để hiến dâng mạng sống mình cho con người. Dù đám đông cản trở dự định của Ngài, Ngài ân cần tiếp đón họ; Ngài động lòng thương những nỗi khổ của họ và “chữa lành các bệnh nhân của họ”. Thánh Mác-cô và thánh Lu-ca nói: “Ngài dạy dỗ họ suốt ngày” (Mc 6: 34; Lc 9: 11). Khi chiều xuống, Ngài hoàn tất ngày thiên ân này bởi một cử chỉ báo trước cuộc tự hiến của Ngài.
Đức Giê-su đã không lưu lại trên bờ hồ, nhưng dẫn đám đông vào nơi hoang vắng. Hoàn cảnh, thời điểm mà biến cố được định vị, những chi tiết được các tác giả Tin Mừng trình bày, nêu bật sự đồng nhất của những dấu chỉ.
2. Sự đồng nhất của những dấu chỉ
Thánh Mát-thêu nhấn mạnh đến hai lần nơi này thì hoang vắng. Như vậy, thánh sử hướng tư tưởng về thời Xuất Hành, khi người Do thái trong hoang địa Xi-nai lâm vào cảnh đói và nhận được từ trời bánh man-na kỳ diệu. Đức Giê-su là Mô-sê mới, trong hoang địa Ga-li-lê này Ngài sắp ban bánh kỳ diệu cho dân ăn no nê.
Thánh Mát-thêu nói: “Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ”. Thánh Gioan nói: “Chỗ ấy có nhiều cỏ” (Ga 6: 10). Thánh Mác-cô cũng nói: “Người truyền cho các ông bảo họ ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh” (Mc 6: 39). Chỉ vào mùa xuân cỏ non mới thật sự phủ xanh miền Pa-lết tin. Điều này muốn nói rằng Đức Giê-su chính là vị mục tử nhân lành, được các ngôn sứ loan báo, Ngài dẫn đàn chiên của mình đến đồng cỏ xanh tươi. Rõ ràng thánh Mác-cô gợi lên điều đó: “Đức Giê-su chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt” (Mc 6: 34). Đối diện với sự chểnh mảng của các thủ lãnh Ít-ra-en, Đức Giê-su hành xử như “người chăn chiên thời Mê-si-a”, Ngài tận tình chăm lo dân Ngài.
Thời điểm biến cố xảy ra được thánh Gioan xác định rõ hơn nữa: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua” (Ga 6: 4). Sự kiện này trước tiên giải thích tầm quan trọng của đám đông. Chính ở thành Ca-phác-na-um và trong các thành phố ven biển hồ Ghê-nê-sa-rét mà những đoàn người hành hương đến từ miền Ga-li-lê quy tụ lại: chính từ đó mà người ta khởi hành thành từng nhóm tiến về thành thánh Giê-ru-sa-lem.
Mặt khác, làm thế nào không nghĩ rằng thời điểm sắp đến lễ Vượt Qua đem lại một cung giọng đặc biệt cho cử chỉ của Đức Giê-su? Đây là một cử chỉ ngôn sứ, loan báo Lễ Vượt Qua mới.
3. Dấu chỉ Thánh Thể
Phép lạ hóa bánh ra nhiều rõ ràng soi sáng cho việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Các Tông Đồ đã hiểu như vậy, các tác giả Tin Mừng cũng hiểu như vậy. Thánh Mát-thêu viết: “Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho các môn đệ”. Những ngôn từ rất đối xứng với những ngôn từ của Bữa Tiệc Ly.
Việc chia sẻ bánh hóa nhiều trên đồi Ga-li-lê tiên trưng việc phân phát bánh hóa nhiều khác, bánh Thánh Thể, tức việc chia sẻ sự hiện diện hóa nhiều của Thân Thể vinh quang của Đức Giê-su, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu người, mỗi phút giây và khắp hoàn vũ, cho đến ngày tận thế.
Bánh được ban ở trên đồi Ga-li-lê thì dư dật như rượu được ban ở tiệc cưới Ca-na. Người ta thu lại những mẫu bánh còn thừa được mười hai thúng đầy: con số 12 ám chỉ đến mười hai chi tộc Ít-ra-en, cũng như mười hai Tông Đồ, họ đại diện dân Thiên Chúa mới. Hơn nữa, những mẫu bánh còn thừa muốn nói lên rằng có đủ chỗ cho những khách mời khác vào dự bàn tiệc của Thiên Chúa.
Những chiếc thúng được dùng để đựng những mẫu bánh thừa chắc hẳn là những chiếc giỏ mây mà người Do thái thường mang theo bên mình khi di chuyển. Vào buỗi chiều bắt đầu ngày sa-bát, họ đặt vào trong một ít rơm để ủ thức ăn, vì họ không được nhen lửa vào ngày sa-bát. Người Rô-ma gọi người Do thái là “người mang giỏ”.
4. Dấu chỉ thời Mê-si-a
Cử chỉ của Đức Giê-su không chỉ có một tầm mức Thánh Thể, nó còn gợi lên một ý nghĩa trực tiếp: ý nghĩa về bữa tiệc thời Mê-si-a.
Các sấm ngôn ((Is 55: 1-3; 49: 10), các Thánh Vịnh (132: 15; 78: 24-27), các sách minh triết đã loan báo điều đó: triều đại Mê-si-a sẽ được đánh dấu bởi những dấu chỉ của sự dồi dào và no thỏa, những hình ảnh tham dự trước bàn tiệc cánh chung, bàn tiệc mà Thiên Chúa sẽ thiết đãi cho những người được tuyển chọn trong Nước Trời. Chúng ta đã đọc một trong những bản văn này ở Bài Đọc I: sự dồi dào của ăn thức uống được đề nghị một cách nhưng không cho những người lưu đày, có nghĩa đó là giờ giải thoát của họ, giờ tha thứ và ân cần săn sóc của Thiên Chúa.
Đó cũng là ý nghĩa của bữa ăn mà Chúa Giê-su đề nghị cho đám đông: thời điểm cứu độ đã điểm; giờ của Đấng Mê-si-a là giờ Thiên Chúa hiện diện và tác động giữa loài người, giờ Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Ngài. Đó là giờ Đức Giê-su bày tỏ lòng từ ái của Đức Giê-su đối với đám đông dân chúng. Họ đã đi bộ một quảng đường dài để hội ngộ với Ngài, đã lắng nghe Ngài suốt ngày, và chiều xuống, họ không có gì ăn. Nếu họ đã theo Ngài như thế, đó không phải là họ đang tìm kiếm những nhu cầu cốt yếu mà họ cảm thấy một cách lờ mờ sao?
Đức Giê-su làm dịu cơn đói phần xác của họ để giúp cho họ hiểu rằng Ngài có thể cho họ no thỏa cơn đói phần hồn nữa.
5. Bánh Lời Chúa
Dấu chỉ khác của thời Mê-si-a không được bày tỏ minh nhiên, nhưng chúng ta không thể không nghĩ đến: “bánh là biểu tượng cốt yếu của Lời Chúa”. Mối liên hệ thường hằng trong Kinh Thánh giữa bánh, thức ăn ban sự sống cho thân xác con người, và Lời Chúa, lương thực thần thiêng cung cấp sự sống đích thật. Qua việc ban bánh một cách dư dật, Đức Giê-su tỏ mình ra Ngài là Ngôi Lời, lời Thiên Chúa ở giữa loài người như trong Am 8: 11:
“Đây sắp đến những ngày
– sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa thượng –
Ta sẽ gieo nạn đói trên xứ này,
không phải đói bánh ăn, cũng không phải khát nước uống,
mà đói khát được nghe lời Đức Chúa”,
hay trong Đnl 8: 3: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra”.
6. Dấu chỉ về Giáo Hội
Dấu chỉ mà thánh Mát-thêu nhấn mạnh nhất là dấu chỉ về Giáo Hội.
Phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ duy nhất Đức Giê-su cho các môn đệ được dự phần vào. Các môn đệ là những người đề nghị với Thầy cho dân chúng về để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn. Nhưng Đức Giê-su đáp: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy liệu cho họ ăn”. Các môn đệ cố tránh né; họ không có gì cả. Về phương diện con người, không có giải pháp nào có thể. Bài học thật khủng khiếp. Không phải Giáo Hội thường phải chạm trán với những vấn đề mà bên ngoài không thể giải quyết được, nếu như không có đức tin? Chính niềm tin tưởng phó thác vào Ngài mà Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài. Tiếp đó, chính ở nơi họ mà Ngài trao phó việc ân cần phân phát bánh và cá cho dân chúng: họ là những thừa tác viên của những thiên ân. Chính nhờ họ mà ân ban Thánh Thể và Lời Chúa sẽ được tiếp diễn mãi. Còn đám đông dân chúng, hỗn hợp và đông đảo, quy tụ chung quanh Đức Giê-su và được tham dự vào cùng một bánh, họ loan báo những cộng đồng nhân loại hình thành nên Giáo Hội. Như người ta thường nói: “Thánh Thể làm nên Giáo Hội”.
Như thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, thánh Mát-thêu không nêu lên những phản ứng của những người được thụ hưởng sau bài trình thuật phép lạ hóa bánh ra nhiều. Thêm nữa, đa số trong họ đã không biết nguồn gốc bánh và cá mà người ta phân phát cho họ. Chỉ một mình thánh Gioan nói về lòng nhiệt thành của đám đông “họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua” (Ga 6: 15).
Dù sao, phần tiếp theo của những biến cố cho thấy rằng những dấu chỉ được đề nghị, dù quá minh nhiên, đã không được hiểu; chúng xem ra như một trong những thử thách sau cùng của Đức Giê-su ở Ga-li-lê trong việc khai lòng mở trí cho con người hiểu sứ điệp của Ngài.
30. Cơm bánh tình thương
Câu chuyện sau đây là của Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Giám mục giáo phận Đà lạt, đã kể trong bài giảng Tĩnh tâm cho các linh mục giáo phận TP. HCM, năm 2003, về công việc truyền giáo cho người Thượng. Đức Cha nói: Người Thượng ở đây, họ rất nghèo, lại không biết phòng xa, vì vậy một năm họ đói cả 3 tháng. Ngay lúc giáp hạt, giữa hai mùa lúa, họ nhịn đói, vì lúa cũ đã hết, lúa mới chưa có. Họ đói cả tháng… Vì vậy truyền giáo cho họ phải nhắm đến 3 điểm: phát triển – y tế – và giáo dục. Thứ nhất phát triển: là phải nói ngay đến chuyện ăn. Phải cho họ ăn. Khi họ đến nhà thờ đi lễ, phải cho họ ăn. Có những làng ở xa nhà thờ, nên khi đi lễ, họ phải đi từ chiều thứ bảy, vì vậy phải cho họ ăn bữa chiều đó; rồi sáng Chúa nhật lo cho ăn sáng; lễ xong phải cho họ ăn nữa, họ mới ra về. Nếu không cho ăn, có khi họ phải… đói xỉu dọc đường…. Câu chuyện trên đây xem ra sao cũng giống câu chuyện Tin mừng của ngày Chúa nhật hôm nay. Kính mời anh chị em cùng suy niệm…
Qua bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu muốn nói gì?
Chúa Giêsu yêu thương chúng ta, bằng tấm lòng hết sức chân thành. Câu chuyện Phúc âm hôm nay là một bằng chứng. Chúa không chỉ yêu thương lo lắng cho linh hồn chúng ta mà thôi, Người còn lo lắng cho ta, ngay trong những chuyện hết sức tầm thường: lo cái ăn cái mặc, Chúa sợ dân chúng đói. Hóa ra Chúa không chỉ bận tâm lo cứu rỗi linh hồn, Người còn bận tâm lo chuyện ăn uống đói khát vật chất nữa. Lẽ ra Chúa có thể để dân chúng giải tán, tự mua thức ăn, tự lo cho mình như lời các môn đệ nói. Thực ra, chính Kinh Lạy Cha, cũng nhắc nhở cho ta điều đó: xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày… Rõ ràng ta thấy Chúa Giêsu dù là Thiên Chúa Ngôi Hai, dù là Đấng Cứu thế, Người không “siêu” đến nỗi chỉ biết có linh hồn mà thôi. Cũng chính điều này cho ta thấy: Chúa Giêsu, dù là Thiên Chúa, nhưng trong bản tính nhân loại, người lại rất là người.Cũng chính vì đó, cái chết của người trên thập giá mới thực sự đem lại ơn cứu rỗi…..
Chúa muốn các tông đồ, là Hội thánh, cộng tác với Chúa, để lo cho dân chúng ăn: Chúa mời gọi các tông tham gia vào việc lo cho dân chúng. Dĩ nhiên không có Chúa, các ông chẳng làm nên việc gì; nhưng ở đây, Chúa muốn các ông cộng tác với Chúa…Ta thấy rõ điều đó ở câu: Chúa trao bánh cho các môn đệ, và họ phân phát cho dân chúng…
Trở lại câu chuyện truyền giáo cho người Thượng, Đức Cha Đà Lạt nói: Truyền giáo nhắm đến 3 điểm: phát triển – y tế – và giáo dục. Ba điểm này phải thực hành song song, cùng một lúc. Muốn cho đời sống họ phát triển, không phải chỉ cho họ ăn, xây nhà xây cửa cho họ là đủ, phải đi kèm với việc giáo dục. Vì họ kém văn hóa, nhưng lại cũng lười nữa nên cần phải lo giáo dục họ. Một buôn Thượng nọ cách xa nhà thờ chỉ 3 cây số. Đám thanh niên người Kinh muốn giúp họ nuôi tầm vì tầm đang có giá. Họ lựa con giống và chở lên tận nơi cho họ, chỉ sơ cách thức nuôi tầm. Hai tuần sau trở lên, đám tầm giống vẫn còn để y nguyên một chổ. Hỏi ra họ không biết phải làm sao, dù được chỉ dạy nhưng quên cả rồi. Vì sự việc trên, từ năm 1995, Đức Cha đưa ra “chương trình 25 đô la” = 400.000$, cho các trẻ em Thượng đi học, khởi đầu từ Mẫu giáo. Chương trình này phải được tiếp tục trong vòng 7 năm. Tiền thì Tòa Giám mục lo. Các họ đạo đăng ký, thực hiện và theo dõi…
Câu chuyện truyền giáo cho người Thượng trên đây cho ta thấy, yêu thương họ không phải chỉ cho họ ăn, cho nhà họ ở, mà còn chính là cộng tác với Thiên Chúa, làm sao giúp họ phát triển đời sống đi lên ngang với mọi người trong xã hội. Đó cũng chính là cộng tác với Chúa nuôi sống dân chúng và yêu thương họ bằng chính tình yêu Chúa Kitô.
Gợi ý sống và chia sẻ:
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật, Chúa thấy dân chúng đói, nên Người động lòng thương mà cho họ ăn. Dù vậy Chúa không chỉ chia sẻ cơm bánh, mà Chúa còn chia sẻ cả bản thân mình Chúa, sự sống của Chúa để cho nhân loại được sống nữa. Là người Kitô hữu, ta có sẵn sàng chia sẻ cơm bánh, cả khổ đau vất vả với anh em xung quanh ta không?
31. Cộng tác với Chúa
Vào buổi sáng sớm, khi mọi người còn yên giấc, nếu có dịp, anh chị em đi một vòng thành phố, anh chị em nhìn thấy những điều mà khi mặt trời lên thì không bao giờ nhìn thấy được: Những người không có nơi nương tựa, họ phải tá túc nhờ vào những mái hiên. Những ngôi nhà cao tầng, bên trong yên lặng với niệm ấm chăn êm, thì bên ngoài, ngay trước cửa nhà họ, có những con người nằm co ro chống chọi với cái lạnh thấu xương. Những dãy nhà đồ sộ nhưng yên lặng đến vô tình, đứng nhìn những con người lang thang không nơi nương tựa. Những thứ bỏ đi bên lề đường đang chờ người ta đến đem đi, vẫn là niềm hy vọng của bao nhiêu người đến tìm để sinh sống. Một xã hội văn minh, sao vẫn còn những con người khốn khổ đến như thế, sao có biết bao nhiêu nhà hảo tâm, biết bao những việc làm xoá đói giảm nghèo mà vẫn còn những cảnh thương tâm như thế? Thưa vì vẫn còn những người chưa nhìn thấy được những gì chung quanh mình, họ vẫn sợ ách giữa đàng mang vào cổ, nên vẫn còn nhiều người là nạn nhân của sự sợ hãi đến vô tâm đó.
Các môn đệ cũng tìm cách trốn chạy, khi nhìn thấy một đám đông quá sức mình, các ông muốn để cho mọi người tự lo, các ông cũng sợ trách nhiệm đến với mình, khi thấy công việc mà mình không thể làm gì được, chỉ còn cách trốn chạy. Nhưng Chúa Giêsu không chấp nhận thế, Ngài bảo các ông đối diện với thực tế và hành động: “Các con hãy cho họ ăn”. Một việc làm quá sức các ông, những gì các ông có trong tầm tay không thể làm gì được. Nhưng mọi việc đã trở nên có thể vì các ông biết vâng phục, các ông biết lắng nghe, các ông dám bỏ ra phần nhỏ bé của mình mà không ngần ngại. Cùng với Chúa Giêsu, mọi sự đều trở nên có thể; các ông cũng đi phân phát phần nhỏ bé của mình khi đã trao vào tay Chúa, các ông đã hành động vì biết lắng nghe lời Chúa, nên phép lạ đã được thực hiện. Nếu các môn đệ lo sợ mất đi những gì mình có, nếu các ông e ngại trước đám đông, nếu các ông không tin tưởng vào Chúa cho đủ, mà sợ mất uy tín khi không thực hiện được điều cần thiết thì làm sao phép lạ có thể thực hiện được?
Trong cuộc sống đời thường nếu chúng ta chịu nhìn thì không biết bao nhiêu phép lạ đã xảy ra hằng ngày, đồng thời cũng có rất nhiều phép lạ không thể thực hiện được vì rất nhiều lý do:
Những lúc chúng ta nói tiếng không với những người có nhu cầu khi họ chạy đến chúng ta, để họ phải thất vọng ra đi mà không nhận được gì. Những lúc chúng ta sợ mất đi những gì mình đang có, nên không dám cho đi, cho dù chúng ta thấy người khác đang cần. Những lúc chúng ta nhận lấy một cách bất công những điều không phải của mình, khi đó chúng ta làm cho người khác phải vất vả hơn. Những lúc chúng ta lười biếng không thể cho đôi chân mình chuyển động, cũng không thể cho đôi tay có cơ hội ban phát vì chúng ta lo sợ cho bản thân. Những lúc chúng ta để cho tính ích kỷ trong con người nổi dậy và điều khiển cuộc sống của mình, không còn biết nghĩ đến ai, chỉ còn nhìn thấy có chính mình và những lợi ích của bản thân. Những lúc chúng ta chỉ biết cho đi những cái khoát tay và những cử chỉ lắc đầu xua đuổi, nếu có mở miệng nói thì chỉ là tiếng “không” khô khan; những lúc đó, chúng ta làm cho phép lạ của Chúa không thể thực hiện được trong cuộc sống của mình.
Nếu có lần nào trong cuộc sống, con tim chúng ta thổn thức trước một lời kêu xin và sẵn sàng đáp ứng; nếu đôi mắt chúng ta nhìn thấy cảnh thương tâm và đôi tay chúng ta hành động theo con tim mách bảo, để cho người khác có được một chút gì no lòng. Cho dù chúng ta không xứng đáng gì, nhưng khi nhìn thấy những người đang thất vọng nản chí, chúng ta cũng cho họ những lời khuyên, những lời động viên an ủi để cho họ thêm sức sống. Chúng ta cũng không ngại giúp đỡ người khác khi cần thiết, cho dù tốn chút ít thời gian, sức lực hay cả tiền của. Những lúc đó, chúng ta dùng chút công sức của mình, giống như năm chiếc bánh được mang đến cho Chúa, để phép lạ được thực hiện. Nếu trong cuộc sống mà thực hiện được nhiều lần như thế thì thật là hạnh phúc cho chúng ta và cả cho những người chung quanh.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn soi sáng cho mỗi người được biết lắng nghe lời Chúa và thi hành những gì Chúa dạy bảo.
32. Tấm bánh liên đới – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng rất nhiều bài học. Như về Nước Trời, về Dân Thiên Chúa, về bí tích Thánh Thể. Nhưng có lẽ bài học thiết thực nhất cho chúng ta hôm nay là bài học liên đới. Đó cũng chính là bài học Chúa muốn dạy cho các môn đệ của Người.
Liên đới là biết cảm thương. Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Đó là một đám đông nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ vơ không người chăn dắt. Đám đông tội nghiệp đi tìm Chúa không phải chỉ để được ăn no, nhưng còn để được chữa lành bệnh, nhất là được an ủi, được dạy dỗ, được chỉ bảo. Khi chạnh lòng thương, Chúa Giêsu dạy ta hãy nhìn những người chung quanh bằng ánh mắt liên đới. Những người này đói vì tôi đã ăn quá nhiều. Những người kia rách vì tôi đã mê mải đuổi theo “mốt”. Những đứa trẻ này hư hỏng vì tôi đã thiếu quan tâm chỉ bảo. Những đứa trẻ kia rơi vào tội phạm vì tôi đã không làm gương tốt cho chúng. Thế giới này chưa tốt một phần có trách nhiệm của tôi. Thế giới này chưa công bằng trong đó phần lỗi của tôi.
Liên đới là nhận lấy trách nhiệm. Các môn đệ đã nhìn thấy đám đông đói khát. Các ngài muốn thoái thác, phủi tay: “nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn”. Đó là một giải pháp hợp lý. Lo cho năm ngàn người ăn là ngoài tầm tay của các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng. Ai lo phần nấy. Thật dễ dàng. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa chấp nhận, vì thiếu tình liên đới. Chúa muốn các môn đệ Chúa nhận lấy trách nhiệm: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy lo cho họ ăn”. Họ đói, các con phải lo cho họ ăn. Một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các môn đệ. Nhưng đã cảm thương thì phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải hướng dẫn bàn tay làm việc.
Liên đới là đóng góp phần của mình. Chúa không cần những phép tính vĩ mô. Năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh? Những tính toán lớn lao là không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá”. Thật là ít ỏi, nghèo nàn. Nhưng Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn đó: “Đem lại đây cho Thầy”. Có ít hãy đóng góp ít. Nhưng quan trọng là phải bắt đầu, là phải góp phần của mình. Liên đới không đòi ta phải quán xuyến mọi sự, nhưng đòi ta thật sự có trách nhiệm, góp phần của mình vào việc chung.
Liên đới là chia sẻ. Chúa chúc tụng để làm phép bánh và cá như cho ta thấy, những đóng góp dù ít ỏi của ta đã thành thiêng liêng cao quí. Chúa không làm phép lạ tức khắc biến ngay cá và bánh ra một núi lương thực cho người tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực cho mọi người. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Và mọi người trao lại cho nhau. Đó là bài học lớn của phép lạ. Chính khi mọi người trao cho nhau, Chúa làm phép lạ. Bánh và cá cứ tiếp tục sinh sôi bao lâu những bàn tay còn trao nhau. Bánh và cá vẫn tiếp tục nhân lên bao lâu mắt con người vẫn còn nhìn nhau. Những tấm bánh của tình liên đới. Những đàn cá của sự chia sẻ. Chúng nhân lên theo nhịp của trái tim. Khi trái tim chan chứa yêu thương, quan tâm, liên đới, lương thực trở nên phong phú, dư thừa.
Thế mà các môn đệ đã vội lo. Cũng như ta thường lo thế giới này quá chật hẹp không đủ chỗ cho mọi người. Cũng như ta vẫn thường lo lương thực trên thế giới không đủ nuôi mọi người. Hôm nay Chúa dạy ta mỗi người hãy chia sẻ những gì mình có thì thế giới sẽ dư thừa lương thực. Khi trái tim mở ra thế giới sẽ có đủ chỗ cho mọi người.
Lạy Chúa xin mở trái tim con để con biết cảm thương và chia sẻ. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tục ngữ Việt nam có câu: Nhiều no ít đủ. Bạn nghĩ gì về nét văn hoá Việt nam trong câu này. Có gần với bài Tin Mừng hôm nay không?
2) Càng cho đi càng phong phú. Bạn cảm nghiệm điều này bao giờ chưa?
3) Ta có trách nhiệm với những người chung quanh. Những người nghèo chất vấn cách tiêu dùng của ta. Bạn có nghĩ thế không?
33. Bánh Thiên Chúa ban tặng
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Mt 14: 13-21: Chúa Giêsu đã khẳng định: “Người ta sống không nguyên bởi bánh”. Còn cần phải có của ăn thiêng liêng.
Con người cần phải ăn để sống. Không ai thoát khỏi qui luật này. Trong sự duy nhất của bản thể, con người có nhiều tầng lớp sự sống: sự sống thân xác, sự sống trí khôn, sự sống tâm linh, tình cảm… Những sự sống này chỉ nguyên thực phẩm vật chất không thể nào thỏa mãn đủ. Như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Người ta sống không nguyên bởi bánh”. Còn cần phải có của ăn thiêng liêng.
Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến để hiến dâng chính mình thỏa mãn cơn đói khát của nhân loại. Ngày nay, Giáo hội là nơi cung cấp lương thực thiêng liêng cho con người từ bánh lời Chúa và bánh Thánh thể cho đến ngày tất cả được qui tụ để tham dự bàn tiệc vĩnh cửu, thỏa mãn mọi cơn đói khát.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Is 55,1-3
Của ăn đích thực cho người nghèo khó
Dưới những hình ảnh của thức ăn thức uống vật chất được ban tặng quảng đại cho người nghèo của Giavê, Tiên tri Isaia kêu mời mọi người hãy ước ao và tìm kiếm lương thực thiêng liêng là lời Chúa và tình thân hữu của Ngài.
a. Thời kỳ lưu đầy ở Babylon gần kết thúc, những sự đau khổ sự dữ sẽ được cất đi, mọi người sẽ sớm quay về Palestine với cánh đồng và vườn nho của mình. Sẽ không còn phải đói khát nữa.
b. Tuy nhiên, sự thỏa mãn lương thực vật chất không thể nào làm quên được việc đón nhận lương thực thiêng liêng là lời Chúa và tình yêu của Ngài. Đây là việc quan trọng nhất và cần thiết nhất. Nghe lời Chúa thì sẽ được sống.
c. Nếu biết nghe và đón nhận lời Chúa sẽ được Ngài yêu thương ký kết giao ước muôn đời, được đón nhận các ân huệ đã hứa với Đavít.
2. Bài đọc II: Rm 8,35.37-39
Tình yêu của Đức Kitô chiến thắng tất cả
Trong một bài thi ca đức tin gây xúc động bởi tính trữ tình của nó, Thánh Phaolô khẳng định không có gì tách Kitô hữu ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Kitô.
a. Đoạn trích từ thư Rôma này nhằm củng cố niềm tin và khuyến khích tín hữu đang phải đối diện với những thử thách nặng nề. Hãy tin tưởng, Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta trong Đức Kitô.
b. Không có khó khăn nào, không có điều gì có thể tách con người ra khỏi tình yêu của Đức Kitô. Chính tình yêu của Thiên Chúa giúp cho con người vượt thắng tất cả mọi thử thách gian truân.
c. Hãy chạy đến với Đức Kitô, sống thân tình với Người. Tín thác tuyệt đối nơi Người, yêu mến Người trọn tình,
3. Tin mừng: Mt 14,13-21
Phép lạ hóa bánh ra nhiều
Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh và hai con cá để nuôi dân chúng đi theo ngươi trong sa mạc. Sự kiện tất nhiên không dừng lại ở đây, nhưng qua bánh vật chất, điều phép lạ muốn nói đến là giúp chuẩn bị tâm hồn con người ước muốn lương thực thiêng liêng là lời Chúa và bánh Thánh thể.
a. Các Tin mừng ghi lại cả thảy sáu trình thuật về phép lạ hóa bánh ra nhiều: Matthêu và Maccô mỗi vị ghi hai lần ; Luca và Gioan ghi lại một lần. Điều này cho thấy Giáo hội sơ khai đã đánh giá rất cao biến cố này.
b. Nơi Matthêu, trình thuật này mang ý nghĩa Thánh thể rõ nét. Khi so sánh với trình thuật Tiệc ly chúng ta thấy rõ điều này. Cả hai đều dùng các động từ của việc thiết lập bí tích Thánh thể: cầm, chúc tụng, bẻ ra, phân phát.
c. Trình thuật này cũng mang chiều kích Giáo hội rõ nét: Chúa Giêsu ở giữa là nguồn mạch mọi ơn, Người ban lời và bánh. Các môn đệ ở kề bên Người, có trách nhiệm phân phát ơn huệ của Người. Còn tất cả dân chúng được qui tụ lại chung quanh Chúa Giêsu.
II. GỢI Ý BÀI GIẢNG
1. Hóa bánh ra nhiều biểu lộ tình thương của Chúa Giêsu:
Toàn bộ trình thuật phép lạ hóa bánh ra nhiều đều qui hướng vào đám đông dân chúng và thái độ của Chúa Giêsu đối với họ. Đám đông dân chúng đi theo Chúa, hình ảnh của một dân mới đang hình thành, được qui tụ chung quanh Chúa Giêsu. Tất cả các cử chỉ, lời nói của Chúa Giêsu đều hướng về đám đông, đều bày tỏ lòng thương xót của Người dành cho họ. Chúa Giêsu yêu thương họ không phải bằng lời nói suông nhưng bằng hành động cụ thể chăm lo từ của ăn vật chất cho đến thiêng liêng: Khi thấy đoàn lũ dân chúng đông đảo, Người chạnh lòng thương xót họ ; khi họ tuôn đến với Người, Người giảng dạy họ nhiều điều và chữa lành mọi bệnh tật nơi họ ; khi chiều tối lại ở trong sa mạc không có thức ăn, Người hóa bánh ra nhiều nuôi họ. Một tình thương bao la Chúa Giêsu dành cho mọi người. Ngày nay Người vẫn tiếp tục hóa bánh ra nhiều, song bánh này không còn là thứ bánh vật chất tầm thường mà lại là chính Mình Máu Thánh Người, thần lương mang lại sự sống của Thiên Chúa cho những ai được đón nhận. Người tiếp tục yêu thương nhân loại và yêu thương đến cùng. Người tiếp tục làm trung tâm qui tụ một dân mới và phân phát cho họ bánh Thánh thể mang lại niềm tin, sức mạnh và tình yêu.
Ngày nay, mỗi lần đọc lại trình thuật hóa bánh ra nhiều, Kitô hữu không phải đọc lại một chuyện cổ tích hay thần thoại, một biến cố quá khứ đã qua để mơ ước, nhưng là đọc để thấy tình thương của Chúa và cảm nghiệm cụ thể, sâu xa tình thương ấy trong cuộc sống đức tin của mình. Đặc biệt qua những lần tham dự Thánh thể, những giờ cầu nguyện, những ân sủng đã được trao ban, Kitô hữu càng khám phá và trải nghiệm rõ ràng tình thương của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu kitô.
2. Phép lạ hóa bánh ra nhiều mời gọi lòng quảng đại:
“Các con hãy cho họ ăn đi”. Trước khi thực hiện phép lạ, Chúa Giêsu đã kêu gọi và ra lệnh cho các môn đệ. Người không làm phép lạ từ không ra có, nhưng Người làm từ năm chiếc bánh và hai con cá là phần đóng góp nhỏ bé của con người. Phần đóng góp nhỏ bé nhưng lại cần thiết. Chúa Giêsu cần sự cộng tác của con người, cho dù sự cộng tác ấy là nhỏ bé, nhưng với tấm lòng rộng lớn thì Chúa sẽ biến sự nhỏ bé nên lớn lao, biến điều tầm thường nên vĩ đại. Chúa Giêsu đã yêu thương quan tâm chăm lo đến mọi nhu cầu từ vật chất đến tinh thần cho dân chúng thì Kitô hữu, các môn đệ của Người cũng phải biết yêu thương chăm lo cho tha nhân như vậy. Phép lạ hóa bánh ra nhiều là mệnh lệnh, là lời mời gọi lên đường quảng đại thực thi bác ái. Kitô hữu không thể thờ ơ trước những nỗi đau khổ, nghèo đói, thiếu thốn của anh chị em chung quanh. Tất cả phải nỗ lực hết mình góp phần với Thiên Chúa xoa dịu nỗi đau của tha nhân.
Nghèo nàn hay thiếu khả năng, điều đó không quan trọng. Chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá mà Người đã làm phép lạ hóa ra nhiều để nuôi nhiều ngàn người. Vậy thì chúng ta hãy đóng góp hết khả năng nhỏ bé của mình, phần còn lại Chúa sẽ thực hiện.
3. Phép lạ hóa bánh ra nhiều, hình ảnh của Giáo hội lên đường yêu thương:
Đặc tính Giáo hội được thể hiện khá rõ trong trình thuật về phép lạ hóa bánh ra nhiều này. Chúa Giêsu là trung tâm qui tụ mọi người, các môn đệ kề bên Người, phụ với Người tập hợp và phân phát bánh. Đăc tính nổi bật của Giáo hội ở đây chính là hình ảnh một Giáo hội lên đường đến với tha nhân. Chúa Giêsu không cho các môn đệ giải tán dân chúng, Người cũng nói với họ: “Các con hãy cho họ ăn”. Như thế, Người không cho phép Giáo hội thờ ơ trách né các vấn đề nhân sinh của nhân loại. Phải qui tụ, phải đến với mọi người ; phải quan tâm đến mọi nhu cầu của con người và thế giới. Người không chấp nhận một thái độ thụ động, viện cớ này nọ để biện mình cho mình: “Chúng tôi chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, như thế thấm vào đâu cho ngần này người. Các con hãy cho họ ăn đi”. Chúa Giêsu nhắc nhở Giáo hội phải chủ động đi đến với người nghèo khổ, phải ở bên người nghèo đói và phải bênh vực chăm lo cho người nghèo nàn.
Ngày nay mỗi Kitô hữu từ giáo sĩ cho đến giáo dân đều phải lên đường đến với mọi người trong môi trường sống của mình. Đến để tiếp tục phân phát tình thương của Chúa, phân phát bánh lời Chúa và bánh Thánh thể.
III. Dẫn vào Phụng vụ Thánh thể:
Ngày nay, trên bàn thờ Chúa Giêsu vẫn tiếp tục hóa bánh ra nhiều để nuôi sống con người. Bánh Người bẻ ra không phải là của ăn vật chất từ năm chiếc bánh nữa, mà là chính Mình Máu Thánh Người. Bánh này vẫn có phần đóng góp của con người là công lao, mồ hôi, nỗi nhọc nhằn vất vả trên đường sứ vụ. Chúng ta hãy đến tiến dâng lên Chúa tất cả cuộc sống của mình để cùng với bánh rượu được dâng tiến trở nên bánh trường sinh nuôi sống chúng ta và mọi người.
IV. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, phép lạ hóa bánh ra nhiều minh chứng tình thương của Thiên Chúa. Ngài luôn yêu thương chăm lo cho chúng ta. Tin tưởng vào tình thương của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Giáo hội được Chúa thiết lập để tiếp tục phân phát tình yêu cứu độ của Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các công trình của Giáo hội, đặc biệt là việc bênh vực bảo vệ sự sống, bác ái chăm lo cho người nghèo khổ, đấu tranh cho hòa bình, công lý và tự do được tiến triển một cách thuận lợi, tốt đẹp mang lại nhiều thiẹn ích cho con người và thế giới.
2. Chúa Giêsu thấy dân chúng đông đảo thì thương xót họ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những anh chị em nghèo khổ, bất hạnh, các trẻ em mồ côi, bị lạm dụng luôn có được sự yêu thương chăm sóc của toàn thể xã hội. Xin cho các nhà lãnh đạo quốc gia, các tổ chức xã hội và tôn giáo biết tận tình yêu thương và quan tâm phát triển các công trình phúc lợi của xã hội.
3. “Các con hãy cho họ ăn”. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi nhà, mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết vâng theo lời Chúa, biết yêu thương quan tâm và chia sẻ bác ái với anh chị em chung quanh.
Lời kết: Lạy Chúa Giêsu Kitô, vì yêu thương Chúa đã hết lòng chăm lo cho nhân lại chúng con từ nhu cầu vật chất cho đến tâm linh. Đặc biệt Chúa đã lấy chính máu thịt mình làm lương thực ban cho chúng con sự sống, tình yêu và hạnh phúc vĩnh cửu của Chúa. Xin cho chúng con được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần để chúng con đủ nghị lực, đủ niềm tin và đủ tình yêu để đưa Chúa đến cho mọi người bằng chính đời sống hy sinh bác ái của chúng con. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
34. Các con hãy cho họ ăn
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Người thấy dân chúng đông đảo thì thương xót họ (Mt.14, 14)
Dân chúng đi theo Người! Để làm gì? Lợi gì cho họ?
Họ muốn được giáo huấn, muốn được dạy dỗ, hay được gì lợi để mà phải vất vả cực khổ đi theo Ngài vào hoang địa?
Thời nào cũng có những người tốt! Và nói đúng hơn, “nhân chi sơ tính bản thiện”, vì Thiên Chúa tạo dựng tất cả đều tốt lành, và hơn nữa, “con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa” (St.1, 26).
Luôn có những người thao thức đi tìm chân lý, tìm sự sống đời đời “Lạy Thầy tốt lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (Mt.19, 16)!
Đẹp biết bao những người vất vả tìm kiếm chân lý, tìm hoàn thiện!
Đức Yêsu đã cảm thương dân, thấy dân chúng cực khổ, không được dạy dỗ giáo dục!
Ngài dạy dỗ họ, chữa lành bệnh tật cho họ!
Thiên Chúa là tình yêu! Cảm thương trước nỗi khổ của anh chị em đồng loại, đó là nét người, là nét đặc trưng của con Thiên Chúa!
“Chỉ có con vật mới dửng dưng trước nỗi khổ của đồng loại”! Con người, trước nỗi khổ của anh em mình, phải thương cảm! Động lòng thương! Đức Yêsu đã thương cảm trước nỗi khổ của con người. Chúa Yêsu là như vậy, và ngày nay, bây giờ, Ngài cũng đang thương cảm trước nỗi khổ cực của chúng ta, và Ngài sẵn sàng giúp đỡ chúng ta.
Họ không cần phải đi, các con hãy cho họ ăn (Mt.14, 16)
Một trách nhiệm và cũng là một ân huệ!
Là trách nhiệm, Chúa muốn chúng ta lo cho nhau. Chúng ta phải có trách nhiệm trên anh em mình. Phải cho họ ăn khi họ đói. Đói không chỉ về vật chất, cơm áo, nhưng còn là tinh thần! Họ thiếu thốn về tinh thần, chúng ta cũng phải giúp đỡ họ!
Một thánh giáo phụ nói: “nếu chúng ta không cho một người nghèo ăn, mà họ phải chết đói, là chúng ta giết người đó”. Chính Đức Yêsu cũng nói “các ngươi không làm cho những người nghèo đói nhất, là các ngươi cũng không làm cho Ta vậy” (Mt.25, 45).
Cho người đói ăn, là một ân huệ! Vì Chúa đã thương dùng chúng ta, cho chúng ta được cộng tác với Chúa, để chúng ta đại diện Chúa yêu thương, giúp đỡ con người! Cho người đói ăn, là được đại diện Chúa cho họ ăn!
“Được hầu việc Chúa”, đó là một ơn trọng đại!
Tạ ơn Chúa đã dùng chúng con như đại diện, như đại sứ của Ngài!
Các ông phân phát cho dân chúng (Mt.14, 19).
Công việc của các tông đồ quá đơn sơ: chỉ việc đem bánh và cá cho dân chúng!
Chúng ta có sẵn sàng cộng tác với Chúa, để Chúa dùng chúng ta vào những công việc bé nhỏ tầm thường không?
Ai có thể tách chúng ta khỏi lòng yêu mến của Đức Yêsu (Rm.8, 35)?
Gian truân, gươm giáo, buồn sầu, đói khát, trần trụi?
Sự sống sự chết, thiên thần thiên phủ, hiện tại tương lai, chiều cao chiều sâu,…?
Không gì có thể tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu!
Tại sao vậy?
Có phải vì chúng ta giỏi, mạnh mẽ, đạo đức, mà không gì có thể tách chúng ta ra khỏi Thiên Chúa?!
Hoàn toàn không phải vậy!
Không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu Thiên Chúa! Không phải do chúng ta mà không gì có thể tách chúng ta khỏi Thiên Chúa, nhưng bởi vì Thiên Chúa yêu thương ta, Thiên Chúa bảo vệ ta, Thiên Chúa giữ ta trong tình yêu của Ngài!
Nếu Thiên Chúa giữ ta trong vòng tay của Ngài, thì ai có thể giựt chúng ta khỏi tay của Ngài được?!
Hãy an tâm, vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng!
Tạ ơn Chúa, vì Chúa đã yêu thương chúng con vô cùng!
35. Yêu được cụ thể hóa
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Tình yêu được diễn tả qua việc nuôi dưỡng, chăm lo săn sóc, quan phòng để mọi sự trở nên tốt cho người mình thương. Tình yêu giữa con người với nhau giúp con người hiểu biết hơn về tình yêu Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa nuôi dưỡng con người
Những người phải ăn đói nhiều ngày cũng như những người đi trong sa mạc hoặc bị khát trong một thời gian tương đối dài, là những người hiểu biết giá trị của từng hạt cơm và giọt nước.
Quan sát những em bé mồ côi cha mẹ sẽ giúp hiểu về tình yêu của cha mẹ được diễn tả cụ thể qua việc nuôi dưỡng và cho con cái ăn học. Nhìn những em bé mồ côi phải đi làm kiếm sống, khi thì ăn xin, khi thì đi làm vất vả, bị hành hạ bóc lột, sẽ giúp người ta hiểu rõ hơn hạnh phúc của những người được cha mẹ yêu thương cưng chiều săn sóc từng miếng ăn giấc ngủ. Một em bé mồ côi, tỉnh dậy giữa đêm, khóc nhưng chẳng ai biết, chẳng ai hỏi, chẳng ai lo lắng, chẳng ai vỗ về an ủi. Trong khi đó, một em bé có cha có mẹ, tỉnh giấc khóc thì đã được mẹ săn sóc vỗ về, đói chỉ cần khóc là được ăn. Nếu biết nhìn một em bé mồ côi, người ta sẽ nhận ra tình thương và hạnh phúc của những người có cha có mẹ thương yêu.
Cơm bánh hằng ngày con người dùng, không phải là do những người lắm tiền nhiều của, nhưng là nhờ những người làm nông trồng trọt vất vả, những người vận chuyển tới từ những nơi xa. Tuy nhiên, trên hết nhưng ít người nhận ra, đó là Thiên Chúa ban lương thực cho tất cả con người. Chính Thiên Chúa cho hạt giống mọc lên, cho cây lúa đơm bông kết trái, cho mưa gió thuận hòa để cây lúa nặng hạt. Người làm nhà nông dễ thấy Thiên Chúa quan trọng trong việc làm ăn, chỉ cần một cơn bão, một trận mưa đá, là cây lúa dù có tốt như thế nào cũng thành lúa lép, nhưng luống rau có đẹp như thế nào cũng bị nát dập. Thiên Chúa vẫn đang lo lắng và yêu thương con người, cho mưa gió thuận hòa để con người có cơm bánh hằng ngày. Thiên Chúa yêu thương cả những người mồ côi góa bụa, cho họ có những người hảo tâm động lòng thương, chăm lo săn sóc. Thiên Chúa yêu thương nên nuôi dưỡng từng người. Trong bài trích sách Ysaya, Thiên Chúa mời gọi những người không có tiền cũng hãy đến để uống nước, để ăn cho bổ sức. Thiên Chúa như người cha người mẹ, Ngài chăm lo nuôi dưỡng săn sóc từng người. Trong Tin Mừng, Đức Yêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Đức Yêsu là Đấng diễn tả tình yêu Thiên Chúa cho con người.
2. Mọi sự đều trở nên tốt cho những người Thiên Chúa yêu thương
Yêu nhau, muốn những điều tốt lành cho người mình thương, tìm mọi cách để giúp người mình thương triển nở và hạnh phúc hơn. Muốn cho ai đó gặp sự dữ và khó khăn cực khổ, là một dấu chỉ cho thấy không yêu người đó thực.
Cha mẹ yêu thương con, muốn con mình trở thành người tốt, trở thành người hữu dụng cho đời. Để con cái mình triển nở trưởng thành, cha mẹ không chỉ nuôi dưỡng, nhưng còn phải lo giáo dục. Khi chính mình không thể giáo dục tốt con cái, cha mẹ đã phải nhờ đến thầy cô ở trường. Hơn thế nữa, vì ích lợi cho con cái, cha mẹ còn sẵn sàng hy sinh sao cho con cái tìm được một trường hay và tốt để học cho dù phải tốn kém.
Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa yêu thương con người và làm con người yêu thương Thiên Chúa. Theo thánh Yoan, không phải chúng ta yêu thương Thiên Chúa nhưng chính Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước và phó mình cho chúng ta. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài đã yêu thương con người, và Ngài mãi mãi yêu thương con người cho dù thế nào chăng nữa. Tình yêu thương của Ngài cho con người được biểu lộ qua việc Ngài cho chúng ta được sinh ra, Ngài nuôi dưỡng chúng ta qua việc ban cơm bánh hằng ngày qua trung gian của những con người, Ngài luôn tác động giúp con người hướng thiện, và làm con người vươn lên mỗi khi con người sa ngã.
3. Không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu Thiên Chúa
Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài tạo dựng con người để chia sẻ sự sống vĩnh cửu của Ngài với Thiên Chúa. Chính khi con người triển nở hạnh phúc, là dự đình của Thiên Chúa về con người đang thành tựu. Thiên đàng, là từ ngữ diễn tả nơi và tình trạng con người được giải thoát khỏi mọi nô lệ và được hạnh phúc vĩnh cửu.
Con người không đi tìm hạnh phúc một mình, nhưng chính Thiên Chúa luôn đồng hành và giúp con người. Con người có thể tưởng những thực tại trần gian mang lại cho họ hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng kinh nghiệm sống cho thấy không phải vậy. “Cơn vui suốt sáng, trận cười thâu đêm” của những kẻ lắm bạc nhiều tiền, cũng không làm cho họ cảm thấy hạnh phúc đích thực. Ngay cả đời sống của những bậc vua chúa ngày xưa, cũng không phải là cuộc sống hạnh phúc đích thực mà một vài cuốn phim giúp chúng ta thấy phần nào sự thật. Tuy dù những thú vui trần gian không làm con người hạnh phúc, nhưng trong mọi hoàn cảnh con người vẫn có thể có được hạnh phúc đích thực, bởi vì Thiên Chúa yêu thương con người.
Ơn cứu độ, ơn bền đỗ đến cùng, không phải do sức con người, nhưng chính Thiên Chúa là Đấng yêu thương, cứu độ con người, làm con người trở lại với Thiên Chúa cho dù những gì xảy ra. Thiên Chúa toàn năng, đặc biệt trong tình yêu. Ngài cứu độ con người. Cái gì hoặc ai có thể tách con người khỏi tình yêu Thiên Chúa? Phải chăng là gian chuân bĩ cực, hay nguy hiểm hay gươm giáo, hay sự chết, hay ma qủy? Theo thánh Phaolô, không gì, không ai có thể tách con người khỏi tình yêu Thiên Chúa. Không phải vì tình yêu của con người đối với Thiên Chúa, nhưng bởi vì Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài là Thiên Chúa toàn năng, luôn yêu thương con người, luôn trung thành với con người trong mọi hoàn cảnh. Thiên Chúa là Đấng tuyệt vời, không ai yêu thương bằng Thiên Chúa, đường lối của Thiên Chúa không “tầm thường” như đường lối của con người. Ngài quả thật là Thiên Chúa tình yêu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có xúc động trước tình yêu (của người khác mà bạn thấy, hay chính bạn lãnh nhận) bao giờ chưa? Tại sao bạn xúc động?
2. “Các con hãy cho họ ăn”. Trong đời, có bao giờ bạn ý thức bạn được Chúa mời trở thành người diễn tả tình yêu của Thiên Chúa cho người khác không? Xin chia sẻ.
3. Bạn có tin rằng bạn được lên thiên đàng không? Xin cho biết tại sao bạn xác tín hoặc không xác tín?
36. Chúa ban lương thực cho loài người
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Mọi sinh vật trên mặt đất này cần phải có một thứ lương thực thích hợp để nuôi sống. Con người cũng là một sinh vật nên cũng phải theo qui luật bất di bất dịch ấy. Nhưng con người lại khác với những sinh vật khác ở chỗ ngoài sự sống vật chất còn có sự sống tinh thần, sự sống thần linh mà lương thực trần gian không thể đáp ứng được. Căn cứ vào lời Chúa Giêsu nói với qủi đến cám dỗ Ngài:”Người ta không sống nguyên bởi bánh”. Như vậy con người còn có một thứ lương thực đặc biệt khác, đó là lương thực thần linh.
Mọi người đói khát hãy đến với Chúa vì theo ý Chúa Cha, Đức Giêsu đã tự hiến dâng để làm dịu cơn đói khát luơng thực thiêng liêng ấy. Ngày nay Hội thánh dạy chúng ta: lương thực thần thiêng nuôi dưỡng chúng ta đó là Lời Chúa và Thánh Thể. Khi đã được Chúa nuôi dưỡng bằng luơng thực ấy, chúng ta cũng có trách nhiệm phải làm cho người khác cũng được nuôi dưỡng như vậy vì:”Các con đã lãnh nhận nhưng không thì cũng phải cho đi nhưng không”.
Thiên Chúa như nguồn nước, Ngài không ngừng thông ban ân phúc cho con người qua các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể và Lời Chúa, nên các môn đệ Chúa ngày nay mặc dù không có khả năng sản xuất ra lương thực nuôi dân, nhưng họ sẽ gắng sức, tận dụng tài năng, trí lực của mình để đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, rồi trao ban cho con người để người người biết cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, làm giầu mặt đất và đem lại hạnh phúc cho nhân lọai.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 55,1-3.
Khi thời gian lưu đầy ở Babylon sắp hết, tiên tri Isaia được sai đến kêu gọi toàn dân (-540) khi thoát cảnh lưu đầy trở về xây dựng lại đất nước, hãy “lắng tai và đến cùng Ta, hãy nghe thì sẽ được sống”. Thiên Chúa mời gọi người ta đến dự một bữa tiệc do Người khoản đãi. Bữa tiệc sẽ có những cao lương mỹ vị, hoàn toàn miễn phí, không phải trả đồng xu nào.
Với hình ảnh thức ăn và thức uống vật chất được tặng miễn phí cho người nghèo của Giavê, Isaia muốn dạy chúng ta phải biết thèm muốn và tìm lương thực tâm linh là Lời Chúa và tình thân hữu với Chúa.
Như vậy, hình ảnh bữa tiệc mang ý nghĩa tượng trưng:
– Tượng trưng cho sự thoả mãn những khát vọng của con người.
– Tượng trưng cho hạnh phúc Nước Trời.
+ Bài đọc 2: Rm 8,35, 37-39.
Trong đoạn thư này, thánh Phaolô biểu lộ niềm tin và niềm hy vọng vào Chúa Kitô. Tình yêu của Chúa Kitô chiến thắng tất cả, vì thế không có gì có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng mến của Đức Kitô, dù bị gian nan thử thách như gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo.
Chúa yêu thương chúng ta như chưa có ai đã thương như thế bao giờ. Ngay từ bây giờ chúng ta tham dự cuộc sống thần thánh của Người trong khi chờ đợi chúng ta chia sẻ vinh quang của Người trên trời.
+ Bài Tin mừng: Mt 14,13-21.
Thánh Matthêu mô tả việc Chúa Giêsu làm cho bánh hóa ra nhiều để nuôi hơn 5000 người ăn. Phép lạ cũng được cả bốn Thánh sử ghi chép lại, nói lên sự quan trọng của sự việc. Chiều đến, Chúa Giêsu nói với các môn đệ:”Họ chẳng cần phải đi đâu, anh em hãy cho họ ăn”. Việc biến hoá bánh ra nhiều là biểu tượng phép Thánh Thể mà Chúa sẽ thiết lập sau này. Thánh Thể cũng sẽ là lương thực, là của ăn của nhân loại trên đường về quê trời. Và Chúa Giêsu cũng thiết lập vào một buổi chiều tối, Giáo hội tiên khởi cũng “bẻ bánh” lúc đêm về.
Phép Thánh Thể là bí tích của đoàn người đi trong sa mạc, trong đêm tối dưới ánh sáng Chúa Phục sinh, như ngày xưa dân Chúa đi qua sa mạc dưới ánh cột lửa và nhờ manna nuôi sống.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Lương thực dưỡng nuôi chúng ta.
I. NHU CẦU CỦA CON NGƯỜI.
Con người được kết hợp bởi hai phần: linh hồn và thể xác. Mỗi phần có những nhu cầu khác nhau. Con người không những cần phải được thỏa mãn những nhu cầu vật chất nhưng còn những nhu cầu tinh thần nữa.
1. Nhu cầu vật chất.
Con người cũng như các sinh vật phải ăn mới có thể sống. không ăn không uống là chết, đó là qui luật tự nhiên cho mọi sinh vật trên mặt đất này. Người Việt nam chúng ta hay nói:
Dĩ thực vi tiên – hay – Có thực mới vực được đạo.
Người Tây phương cũng nói giống như thế: ”Ăn đã rồi hãy triết lý” (manducare priusquam philosophare).
Điều ấy chứng tỏ rằng ăn uống là cần thiết và cũng là điều kiện tất yếu của sự sống.
Một cuộc nghiên cứu có tính cách quốc tế cho biết một nửa dân số thế giới không được cung cấp đủ nuớc sạch và 450 triệu người mỗi đêm đi ngủ mà bụng đói meo. Nhiều nước châu Phi đã bị nạn đói hoành hành trầm trọng cần được Liên hiệp quốc cứu trợ.
Xem ra loài người được cho là thông minh nhất vẫn mãi mãi lo giải quyết cái ăn cái mặc. Và oái oăm thay vẫn những phương tiện tối tân như cơ giới hóa việc cầy cấy, gieo trồng lúa đúng khoa học kỹ thuật, thay trời làm mưa gió để tăng năng xuất, thế mà dường như thế giới loài người càng ngày càng nghèo hơn, đói khổ lan tràn.
Ở Việt nam chúng ta, chương trình xóa đói giảm nghèo đang được xúc tiến mạnh mẽ, hy vọng dân chúng sẽ bớt nghèo đói. Phải chăng đói khổ mãi mãi là hậu quả của tội nguyên tổ mà con cháu loài người chúng ta phải lãnh đủ lời nguyền rủa của Thiên Chúa “phải khó nhọc bưới đất nhặt cỏ mới có của ăn”?
Chúng ta nên nhớ rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên trái đất này, một trái đất phong phú, sản sinh ra đầy đủ đến dư thừa mọi lương thực chẳng những cho loài người mà còn cho muôn loài. Cho nên trên căn bản là Chúa bảo đảm cho con người được no nê.
2. Nhu cầu tinh thần.
Con người tuy cũng là con vật nhưng là một con vật có lý tính (Homo est animal rationale) không những chỉ đòi hỏi thỏa mãn nhu cầu vật chất mà còn đòi hỏi thỏa mãn những nhu cầu cao hơn vật chất: đó là những khát vọng cao hơn và quí hơn như bình an sâu sắc, tình yêu chân thật, sự sống vĩnh cửu… Chân, thiện, mỹ tuyệt đối. Những khát vọng này không ai và không cái gì có thể thoả mãn cho chúng ta, ngoài một mình Thiên Chúa.
Chúa Giêsu rao giảng ở đâu thì người ta tấp nập kéo đến khắp nơi từ thành thị đến thôn quê. Người ta đến quấy rầy Chúa đến nỗi Ngài và các môn đệ không có thì giờ nghỉ ngơi ăn uống. Số người đến nghe Chúa rao giảng rất đông. Nếu chỉ tính riêng đàn ông mà đã tới 5000 người thì con số sẽ lên đến 10.000 hay 15.000 người nếu kể cả đàn bà và con nít. Họ say mê đi nghe Chúa giảng đến nỗi quên cả thời gian, quên cả ăn uống. Như trong bài Tin mừng hôm nay, sau khi đã giảng dạy dân chúng lâu giờ, trời đã xế chiều, có lẽ vào khoảng 3 giờ chiều, các môn đệ giục Chúa cho họ về, vào làng mạc mà mua thức ăn, kẻo ở nơi hoang địa thì không có gì ăn và đêm đã xuống dần.
II. CHÚA THỎA MÃN NHU CẦU CON NGƯỜI.
Thánh Matthêu cho biết, khi hay tin Chúa Giêsu xuống thuyền đi đến chỗ hoang vắng riêng biệt thì dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người. Chúa Giêsu thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương vì họ như đàn chiên không có người chăn. Họ đến với Chúa như đến với vị mục tử nhân lành, họ đặt tin tưởng vào Chúa. Đáp lại, Chúa Giêsu chữa lành nhiều bệnh nhân và đáp ứng nhu cầu vật chất cho họ.
Dân chúng say mê nghe Chúa giảng, quên ăn quên uống, nhưng dù sao dạ dầy của họ cũng phải nổi loạn khi không được cung cấp thức ăn thức uống cho nó. Bóng chiều đang xuống dần mà dân còn đang ở trong nơi hoang vắng xa làng mạc thành thị, họ ra về, đường còn xa sợ có người đói lả dọc đường. Chúa Giêsu muốn các môn đệ cho họ ăn. Nhưng trong hoang địa này lấy đâu ra lương thực cho ngần ấy người ăn. Ở đây chỉ có thằng nhỏ có 5 chiếc bánh và 2 con cá. Bằng ấy thực phẩm thì nhằm nhò gì với một biển người như vậy! Nhưng Chúa Giêsu cứ bảo họ ngồi xuống thảm cỏ để cho Người làm việc. Thánh Matthêu kể:”Người cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được 12 giỏ đầy”.
Lời giảng của Chúa đã làm cho dân chúng say mê. Lời Chúa là thức ăn nuôi dưỡng và bồi bổ cho linh hồn. Tuy thế, Chúa không quên thỏa mãn nhu cầu vật chất cho họ, vì họ là con người có hồn có xác, phải được nuôi dưỡng đầy đủ. Như vậy Chúa thực hiện lời khuyên:”Tiên vàn hãy tìm Nước Thiên Chúa, còn mọi sự khác Người sẽ thêm cho”.
Ngoài thức ăn vật chất, Chúa Giêsu còn muốn hướng con người đến một thức ăn khác nữa, cần thiết hơn, qúi trọng hơn. Bởi đó, sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, người ta tiếp tục tuốn đến với Chúa mong Người tái diễn phép lạ ấy, nhưng Người đã lánh họ mà đi. Theo tường thuật của thánh Gioan , Người còn nói với họ:”Các ngươi tìm Ta chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Hãy nỗ lực tìm kiếm thứ lương thực nuôi dưỡng sự sống muôn đời”. Thứ lương thực ấy chính là bản thân của Chúa Giêsu, được ban cho chúng ta qua bí tich Thánh Thể.
III. CHÚA CẦN CHÚNG TA CỘNG TÁC.
Ở đây diễn tả lòng nhân đạo của các Tông đồ đối với dân chúng. Nhưng lòng nhân đạo này chỉ có tính cách hạn hẹp theo khả năng tự nhiên của con người, nên bất lực không thể lo cho họ ăn được. Vì thế ở đây muốn nói lên sự hạn hữu và bất lực của con người nơi các Tông đồ nhưng chính sự bất lực này làm nổi bật quyền năng của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu trong việc làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng.
Chúa Giêsu biết rõ các Tông đồ bất lực trong việc cho dân chúng ăn no, nhưng Người vẫn ra lệnh cho các ông để chứng tỏ việc phân phát có ý nghĩa như một trung gian, cho dân chúng ăn là việc các Tông đồ làm được, còn việc làm cho có bánh nhiều là việc các Tông đồ bất lực thì chính Người sẽ làm thay (x Ga 6,6) (Trần hữu Thành, Suy niệm Tin mừng Chúa nhật năm A, tr 235-236).
Chúa Giêsu không muốn làm việc một mình, Ngài muốn cho chúng ta cộng tác, mỗi cái Ngài làm một nửa, Ngài để công việc còn “dang dở” cho chúng ta tiếp tục.
Chiều hôm ấy, đám dân chúng đói không có gì ăn. Các môn đệ không đủ bánh, nghĩa là có nhưng thiếu ; hoặc nói cách khác là có mà dở dang. Chúa không vất cái dở dang ấy rồi tự mình làm phép lạ. Chúa bảo đem cái dở dang ấy đến. Sao Chúa không làm phép lạ cho có bánh, mà chỉ làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều? Sao Chúa ưa thích cái dang dở của các Tông đồ làm chi (Mc 6, 36-43)?
Chúa thích làm phép lạ dang dở. Chúa làm có một nửa nên nhân loại mới được góp phần trong công việc trọng đại ấy. Cái dang dở Chúa để xẩy ra là dang dở huyền nhiệm. Thiếu dang dở này con người thiệt thòi biết bao. Cần có những dang dở của Chúa để dang dở của con người hết dở dang. Con người không thể làm phép lạ tự cứu lấy mình. Chúa cũng không cứu con người khi con người không tự do lãnh nhận. Phép lạ của Chúa cần là phép lạ một nửa, phép lạ dang dở để tôi được tham dự. Cái dở dang của Chúa là chỗ trống cho tôi bước vào. Cái dở dang của Chúa thật là huyền diệu, sâu thẳm (Nguyễn tầm Thường, Viết trong tâm hồn, tr 7).
Các Tông đồ chỉ kiếm cho Chúa được có 5 cái bánh và 2 con cá. Thật là một đóng góp quá nhỏ nhoi, nhưng thực ra, chỉ cần bằng ấy đã quá đủ đối với Chúa. Chúa không muốn làm phép lạ tự không mà có bánh cho họ ăn, nhưng Chúa muốn cho con người đóng góp một chút để cộng tác với Chúa. Như vậy, phép lạ hóa bánh ra nhiều là kết quả của sự kết hợp giữa quyền năng vô biên của Chúa với sự cộng tác nhỏ bé của con người.
Việc này muốn dạy rằng để giải quyết kinh tế, con người với trí óc thông minh và sức lực sẵn có của mình tự tìm kiếm miếng cơm manh áo cách chính đáng trước, còn thiếu những gì Chúa sẽ bù đắp thêm. Cho nên phải tránh tính ỷ lại, lòng cậy trông kiểu khóan trắng cho Chúa an bài, còn mình ngồi không mà thụ hưởng hay kiêu căng tự phụ cho mình làm ra tất cả, chẳng ai giúp đỡ kể cả Thiên Chúa.
Truyện: Người chạnh lòng thương.
Mẹ Têrêsa Calcutta thuật lại một câu chuyện như sau: Một hôm, có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào chi phí mua thức ăn cho những người nghèo.
Ở Calcutta mỗi ngày dòng Nữ tử Bác ái Truyền giáo chúng tôi phải cung cấp lương thực cho 9000 người. Bởi đó không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ tặng vào mục tiêu trên.
Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi:
– Hai con có thể cho mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế?
Họ trả lời:
– Chúng con vừa cưới nhau được hai ngày. Chúng con quyết định không may đồ cưới, cũng không tổ chức linh đình, để dùng tiền đó giúp những người kém may mắn hơn chúng con..
Mẹ Têrêsa hỏi tiếp:
– Ở Ân độ, không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã. Tại sao các con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ và họ hàng?
Họ thưa:
– Chúng con yêu nhau và muốn tặng nhau món quà cưới đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống bằng một hy sinh mà cả hai cùng đóng góp vào.
(Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, tr 106-107)
Hôm nay, Người cũng mời gọi chúng ta góp phần nhỏ bé và âm thầm của mình cho anh em. Người chờ đợi nơi chúng ta một chút lòng chạnh thương. Và cả thế giới được hưởng chung phép lạ lẫy lừng của Thiên Chúa.
Thực ra, con người chỉ tìm được ý nghĩa cho cuộc sống khi biết chia sẻ cho đi. Con người chỉ lớn lên theo mức độ của sự trao ban vô vị lợi mà thôi. Có biết trao ban thì con người mới thực sự triển nở trong nhân cách. Có biết trao ban thì con người mới vui sống và tìm được hạnh phúc đích thực trong cuộc sống. Triết gia Platon quả quyết:”Con người chỉ tìm được hạnh phúc khi làm cho người khác được hạnh phúc”. Thánh Phaolô cũng đã ghi lại khuôn vàng thước ngọc của Chúa Giêsu:”Cho thì có phúc hơn nhận lãnh” (Cv 20,35).
Chúng ta hãy làm cho thế giới này được hạnh phúc. Chắc chúng ta cho rằng mình chỉ là hạt cát trong biển cả làm sao có thể làm gì cho thế giới? Đúng vậy, chúng ta quá nhỏ nhoi và yếu đuối, tài hèn, nhưng Thiên Chúa chỉ cần chúng ta đúng góp phần nhỏ mọn của chúng ta như một dụng cụ trung thành, còn bao nhiêu hãy dành cho Chúa. Cậu bé với 5 cái bánh và 2 con cá làm sao có thể làm cho ngần ấy người ăn no lại còn thu được 12 thúng đầy? Cậu không làm được, nhưng Chúa làm được. Thiên Chúa sẽ hoành chỉnh được những cái “dang dở” của ta.
Trong thời kỳ mới tìm hiểu đạo Chúa, Premanand đến liên lạc với Giám mục Whiley ở Ranchi. Ông viết:”Vị giám mục đọc Kinh thánh với tôi mỗi ngày. Đôi khi tôi đọc tiếng Bangal. Càng sống gần vị giám mục, tôi càng đến gần ngài hơn, và Chúa Cứu thế càng được bầy tỏ cho tôi qua đời sống của ngài. Hành động và lời nói của ngài khiến tôi dễ hiểu được giáo huấn của Chúa Giêsu về những điều tôi đọc trong Kinh thánh mỗi ngày. Tôi có một sự hiểu biết mới về Chúa Giêsu khi tôi nhìn thấy cuộc đời yêu thương, hy sinh và từ chối bản thân của Chúa Cứu thế trong đời sống hằng ngày của vị giám mục, đối với tôi ngài thực sự là sứ giả của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cần những môn đệ để Ngài có thể làm việc qua họ, và nhờ họ đem chân lý và tình yêu của Ngài đến với đời sống của người khác. Không có những người như vậy, Ngài không thể làm việc. Phận sự chúng ta là làm những người đó cho Ngài. Người ta dễ lo sợ nản lòng đối với một công tác to lớn như vậy”.
Nhưng còn một điều khác trong câu truyện này có thể nâng cao tinh thần của chúng ta. Khi Chúa Giêsu bảo môn đệ cho đám đông ăn, họ bảo chỉ có 5 cái bánh và 2 con cá. Với những thứ họ mang đến đó, Chúa Giêsu đã làm phép lạ. Chúa đặt trên mỗi chúng ta một công tác trọng đại là truyền đạt Ngài cho người khác, nhưng Ngài không đòi hỏi chúng ta những tài năng, tiền của và những phẩm tính mà chúng ta không có. Ngài bảo chúng ta:”Hãy đến với Ta bằng con người thật của ngươi, dù nó nghèo nàn, hãy mang đến Ta điều gì ngươi có, dù ít ỏi, và Ta sẽ xử dụng nó một cách lớn lao trong công việc của Ta” (TVH, Tin mừng Chúa nhật, năm A, tr 192).
Chúng ta hãy kết thúc với bài thơ của Amado Nervo, một đại thi sĩ cũng là một nhà huyền bí, người Mễ tây Cơ. Bài thơ này tóm tắt sứ điệp và tinh thần bài Tin mừng hôm nay:
“Con chỉ là một tia lửa,
xin biến con thành ngọn lửa.
Con chỉ là một sợi dây,
xin biến con thành chiếc đàn.
Con chỉ là một ngọn đồi cỏn con,
xin biến con thành ngọn núi.
Con chỉ là một giọt nước,
xin biến con thành một giòng suối.
Con chỉ là một cọng lông,
xin biến con thành chiếc cánh.
Con chỉ là gã ăn mày,
xin biến con thành một ông vua”.
37. Vai trò của Giáo Hội
Trước đám đông đang đói mệt, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Các con hãy cho họ ăn đi. Dĩ nhiên Chúa Giêsu có thể bảo đám đông đi tìm kiếm thức ăn trong các làng mạc lân cận, hay dùng quyền năng của mình để cho mỗi người được no đủ. Nhưng Ngài đã không hành động như vậy. Ngài đã giữ dân chúng lại và yêu cầu các môn đệ giúp đỡ.
Từ hình ảnh các môn đệ đi phân phát bánh cho đám đông chúng ta có thể nhận ra vai trò của Giáo hội trong thế giới hôm nay.
Thực vậy, Thiên Chúa đã giữ nhân loại lầm than ở gần mình. Ngài có thể trực tiếp can thiệp cho mỗi người. Nhưng Ngài đã không làm như thế. Trái lại, Ngài đã thiết lập Hội Thánh và nói với mỗi phần tử của Hội Thánh ấy như sau: Hãy tiếp tục ban phát chân lý và sự cứu độ cho nhân loại. Bởi đó, mỗi người chúng ta phải lo tới cái đói của người đời, cũng như phải lo tới việc mang lương thực thiêng liêng đến cho họ.
Chính Đức Thánh Cha Phaolô đệ lục, trong Tông thư đề ngày 15.5.1971 đã cố gắng khơi dậy trách nhiệm và ý thức nơi những người Công giáo trước những cơn khủng hoảng của xã hội. Ngài viết: Trong các xáo trộn và bất ổn của thời buổi hiện nay, Giáo hội có một sứ điệp đặc biệt phải loan báo và một sức mạnh nâng đỡ phải cung cấp cho con người đang gắng sức làm chủ và định hướng tương lai cho mình. Ngày nay sự kiện lớn mà mọi người phải ý thức đó là vấn đề xã hội mang tính chất toàn cầu, một ý thức đổi mới về các đòi buộc của sứ điệp Phúc âm, khiến Giáo hội cảm thấy có bổn phận đặt mình phục vụ con người để giúp con người thấu hiểu mọi kích thước của vấn đề trọng đại này.
Những lời trên của Đức Thánh Cha gợi lên trong chúng ta ít nhất hai câu hỏi:
Câu hỏi thứ nhất, đó là chúng ta có ý thức được rằng ngày nay sống công bằng cũng chính là một hình thức sống bác ái và yêu thương hay không?
Câu hỏi thứ hai, đó là chúng ta có ý thức được rằng hành động hữu ích cần diễn tiến trong tình liên đới, nghĩa là trong sự hiệp nhất các Kitô hữu, chứ không phải trong sự phản kháng lẫn nhau hay không?
Ngoài ra trong lãnh vực xã hội, Giáo hội muốn chu toàn bổn phận của mình đó là soi sáng các tâm hồn, giúp họ khám phá chân lý và con đường phải theo giữa biết bao nhiêu học thuyết đang lôi cuốn con người thời nay.
Bởi đó, Giáo hội đã gửi đi những vị tông đồ, những nhà truyền giáo. Nếu nhiệm vụ của hàng giáo phẩm là giáo huấn và cắt nghĩa các nguyên tắc luân lý phải tuân giữ trong lãnh vực trần thế, thì vai trò của giáo dân là dùng những sáng kiến của mình để làm cho tinh thần Kitô giáo thấm nhập vào não trạng và phong hóa, luật pháp và cơ cấu của cộng đồng họ đang sống.
Bởi đó chúng ta thử kiểm điểm lại xem: Chúng ta đã làm được những gì để thực hiện mục đích ấy? Chúng ta đã thực sự phân phát lương thực cho những người đang đói. khát hay chưa? Không phải chỉ đói của ăn vật chất, nhưng còn đói của ăn tinh thần, đói tình thương, đói văn hóa, đói giáo dục và nhiều thứ đói khác nữa đang chồng chất trong cuộc sống của họ.
38. Suy niệm của Charles E. Miller.
THÁNH LỄ LÀ NHỮNG GÌ CHÚNG TA THỰC HIỆN NHƯ LÀ NHỮNG NGƯỜI CÔNG GIÁO
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Một tường thuật viên bóng rổ khi thấy đội bóng của mình ở lượt thứ chín đã đánh hụt để thua trong khi họ đã có nhiều cơ hội dẫn trước. Anh ta nhìn và nói: “Mời bác”, tiếp đó anh nói thêm một câu buồn cười: “Lại quá đã rồi”. Thật sự lối diễn tả trên không có nghĩa là anh ta xem thấy điều gì xảy ra nữa nhưng đúng hơn những lời đó ám chỉ đến minh họa, một sự không đáng có mà trước đây người ta đã có kinh nghiệm từ trước rồi và kinh nghiệm đó mới thật sự.
Một người công giáo nghe bài Phúc âm hôm nay về việc hóa bánh ta nhiều nuôi năm ngàn người phải bị cám dỗ để thốt lên: “Quá đã” để bộc lộ tâm tình của mình. Chúng ta cử hành hy tế Thánh Thể vào mỗi Chúa nhật. Trong bài Phúc Âm hôm nay chúng ta thấy những hành động, chúng ta nghe Lời Chúa là thành phần của thánh lễ. Khi thánh Mathêu viết Phúc âm của ngài, các cộng đoàn Kitô hữu đã thực hành việc cử hành hy tế Thánh Thể vào mỗi Chúa nhật, giống như chúng ta làm hôm nay vậy. Ngài trông đợi kể lại cho những thính giả của ngài những gì Chúa Giêsu đã làm ở một nơi hoang mạc, những gì mà họ đang thực hiện trong các cuộc hội họp của họ.
Thánh Mathêu viết: “Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, và các môn đệ trao chúng lại cho dân chúng”. Có gì giống với điều linh mục nói và làm tại thánh lễ, khi trao Thánh Thể cho các thừa tác viên phân phát Bánh Thánh cho dân chúng?
Dĩ nhiên những gì Chúa Giêsu đã làm nơi hoang mạc thì không phải là Thánh Thể, vì khi đó Người chưa thiết lập bí tích Thánh Thể cho đến đêm trước ngày chịu nạn. Những gì Chúa Giêsu đã làm tại bữa Ăn Tối sau hết với các môn đệ tụ họp chung quanh Người thì cao cả hơn nhiều so những gì Người đã làm để nuôi năm ngàn người ăn no. Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có phúc hơn những người đã được đặc ân bởi đã chứng kiến phép lạ kỳ diệu ấy. Thánh Thể là một tặng ân quý giá ban cho chúng ta là những người công giáo. Giá trị của tặng ân ấy không thể đo lường được. Không bao giờ chúng ta xứng đáng để lãnh nhận tặng ân được ban cho cách nhưng không. Chúng ta có thể tránh sai lầm và thật sự lớn lên trong môi trường thích hợp, bằng cách cho phép những khía cạnh của cuộc sống nhắc nhở chúng ta về bí tích Thánh Thể như bài Phúc âm hôm nay đã làm.
Khi chúng ta cảm thấy đói và khát, chúng ta sẽ không chỉ nghĩ đến bữa ăn kế tiếp mà cả lần rước lễ kế tiếp nữa. Khi chúng ta vui hưởng một bữa tối với gia đình hoặc với bạn bè chúng ta sẽ cho phép những ngày lễ hội hướng tâm trí chúng ta đến việc cử hành hy tế Thánh Thể. Khi chúng ta mua một miếng bánh hay một chai rượu vang, chúng ta sẽ nhớ đến Chúa Giêsu đã lấy những yếu tố bánh và rượu thế nào để biến đổi chúng ta thành Thịt và Máu Người trong thánh lễ. Khi chúng ta đọc thấy những món ăn thường ngày, chúng ta sẽ nhận ra rằng Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta một của ăn nuôi dưỡng hoàn hảo cho đời sống thiêng liêng chúng ta trong bí tích Thánh Thể.
Thánh Thể giá trị như thế đối với chúng ta vì đó là của ăn vô giá. Nói cách khác, giá trị của Thánh Thể chúng ta không thể đo lường được. Tiếp đây, chúng ta sẽ nghe lời mời gọi của tiên tri Isaia: “Các bạn là những người không tiền, hãy đến, hãy lấy bánh mà ăn”. Đây là một lời mời gọi dân chúng ta đang từ cuộc lưu đày trở về để dự phần vào tình yêu Thiên Chúa. Thông thường trong Cựu Ước hay dùng hình ảnh ăn hay uống với nhau, như là một dấu hiệu Giao ước của Thiên Chúa, giao ước tình yêu của Người.
Chúng ta vui hưởng bí tích Thánh Thể cao cả này, là thân mình Chúa Giêsu ban cho chúng ta và Máu Người là giao ước mới và vĩnh cửu. Chúa Giêsu là thực phẩm và là thức uống thiêng liêng của chúng ta. Thánh Thể không phải là “mời bác, quá đã”. Mà đó là một thực tại cao cả của đức tin nơi người công giáo chúng ta.
39. Chia sẻ cho người nghèo đói
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trại Trung tâm tiếp nhận người sắp chết ở Calcutta, Ấn Độ, một người nằm dài trên giường, xem ra không thể cử động được cánh tay. Người ta hỏi ông:
– Ông muốn ăn không? Vâng, muốn.
– Tên ông là gì? -Dinenraj (Đinh Văn Rao)
– Ông bao nhiêu tuổi? -Tôi chẳng biết.
– Tên ở đây bao lâu rồi?- Bốn hôm.
– Ông từ đâu đến? – Tôi ở ngoài đường phố.
– Ông mắc bệnh gì? – Bao tử tôi hoàn toàn thất bại, vì hoàn toàn trống không.
Người ta đem đến cho ông phần ăn của ngày lễ kỷ niệm 25 năm thành lập trung tâm, gồm có: cơm gà giò hầm với càri, khoai tây, sữa đặc, chuối và cam. Ông ăn một cách thèm khát và nhai rất kỹ từng muỗng đồ ăn.Ông mở miệng to để người ta cho ông ăn từng muỗng một. Khi ăn hết dĩa phần ăn, ông nằm duỗi tay chân như một đứa bé chuẩn bị ngủ.
Kể từ ngày được thiết lập (22/8/1952) trong 25 năm trung tâm đã tiếp nhận 36.000 người, trong đó 16.000 người “đã chết trong tay Chúa”. Trung tâm của những người hấp hối này điển bình cho nhiều ngôi nhà tương tự được các nữ tu Thừa Sai Bác Ái của Mẹ Têrêsa thành Calcutta điều khiển trên khắp thế giới. Các soeurs từng nghiêng mình với lòng kính trọng và yêu thương trên những thân xác gầy gò của những người đàn ông và đàn bà được lượm nhặt ngoài đường phố đưa về. Các soeurs từng mang lại cho những con người bị bỏ rơi này một ý thức nào đó về nhân phẩm, đồng thời truyền đạt cho họ về một thế giới bên kia khả dĩ lau sạch mọi nước mắt, xoa dịu mọi cơn đói, chữa lành những tâm hồn mang nặng nhiều thương tích. Lễ Ngân khánh của Trung tâm này tại Calcutta được tổ chức vào ngày lễ Các Thánh (1/11), là để nhắc nhớ con người về giá trị đời mình là biết qui về Thiên Chúa Tình Yêu.
Mẹ Têrêsa đã mời các bà đích thân đến, mang theo đồ ăn họ đã dọn sẵn ở nhà và tự tay phân phát cho các bệnh nhân nghèo. Mẹ có tài thu hút người thuộc đới trung lưu và thượng lưu không phân biệt tôn giáo tới tham gia công việc mà các nữ tu Thừa Sai Bác Ái vẫn làm hằng ngày là nghiêng mình săn sóc những con người bị xã hội bỏ rơi một cách đáng thương.
Anh chị em thân mến,
Phải chăng việc Mẹ Têrêsa thành Calcutta làm trên đây là việc áp dụng Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay một cách sống động? Nhưng thử hỏi còn biết bao cách áp dụng khác nữa mà bài Tin Mừng này có thể gợi lên cho chúng ta? Các môn đệ xin Chúa giải tán đám đông dân chúng để họ đi mua thức ăn. Nhưng Chúa lại bảo các ông: “Chính anh em phải cho họ ăn”. Rồi Chúa đã cho 5000 người ăn với 5 cái bánh và 2 con cá, còn dư lại 12 thúng bánh vụn. Ngoài con số 5000 người đàn ông, thánh Matthêu con thêm “không kể đàn bà và trẻ em”. Vậy tổng số có thể lên tới hàng chục ngàn người. Như vậy Chúa Giêsu, với phép lạ hóa bánh ra nhiều, đã nuôi một đám đông rất lớn đi theo Chúa Giêsu vào nơi hoang địa. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài để có của ăn nuôi sống mình.
Ngày nay đám đông dân chúng đã phát triển nhanh tới hàng triệu người. Họ không chỉ cảm thấy đói, mà họ chết đói: 100 ngàn người mỗi ngày và 450 triệu người tối đến đi ngủ bụng đói (theo một bản thống kê quốc tế). Ngay ở đất nước chúng ta đây, còn biết bao người thiếu ăn, thiếu mặc, trẻ em thiếu dinh dưỡng. Với chiến dịch “xóa đói giảm nghèo”, nhiều người đã ủng hộ nuôi dưỡng những người đói khổ cùng cực. Nhưng vấn đề quá lớn đối với con người, chắc chắn chúng ta phải làm hết sức, hết khả năng con người. Nhưng chúng ta cần sự trợ giúp của Chúa mới làm được. Nếu để cho các môn đệ, các ông chỉ biết giải tán để dân chúng đi về bụng đói và có khi phải chết đói dọc đường. Nhưng với sự đóng góp của con người, Chúa đã làm nên phép lạ. Nếu cậu bé không trao cho Chúa khẩu phần bánh và cá của cậu đem theo, thì đám đông dân chúng sẽ về bụng đói. Nhưng với 5 cái bánh và 2 con cá của cậu bé, Chúa Giêsu đã nuôi được hàng ngàn người ăn no vả còn dư thừa.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu không đi quyên góp bánh để phát cho người nghèo. Ngài cũng không khiến bánh tự nhiên từ trời xuống cho họ ăn, nhưng Ngài đã chia sẻ mấy cái bánh mà môn đệ có sẵn trong tay cho tất cả mọi người. Đó là một thách đố: dám nuôi bằng ấy ngàn người với năm chiếc bánh của người nghèo. Năm cái bánh đã được nhân lên bằng tình thương của Chúa Giêsu cộng với niềm tin và lòng vâng phục của các môn đệ. Bài học mọi người. Đó là một thách đố: dám nuôi bằng ấy ngàn người với năm chiếc bánh của người nghèo. Năm cái bánh đã được nhân lên bằng tình thương của Chúa Giêsu cộng với niềm tin và lòng vâng phục của các môn đệ. Bài học của phép lạ hóa bánh ra nhiều là ở chỗ đó: Chúa dạy chúng ta là hãy vâng lời Ngài mà thực hiện điều răn yêu thương. Yêu thương là chia sẻ. Khi chúng ta chia sẻ chính là làm cho tình yêu được nhân lên. Tấm bánh đáng lẽ chỉ nuôi được một vài người, đã có thể nuôi cả ngàn người. Tình yêu có thể làm được chuyện mà đống tiền, đống của không làm được. Người ta thường nghĩ phải có nhiều, có dư thì mới cho. Tình yêu không đợi phải có đủ, có dư mới cho, nhưng còn sẵn sàng cho cả cái chính mình đang thiếu, và thậm chí, cả khi không có gì, vẫn có thể cho, đó là chính mình: công sức, tài năng, thời giờ… bởi vì tình yêu cao cả nhất, trọn vẹn nhất, là dâng hiến chính mình cho người mình yêu (Ga 15,13) và đó là tình yêu của Chúa Giêsu. Chính tình yêu này mới khiến Ngài chạnh lòng thương trước cảnh đói khổ, bệnh tật của dân nghèo và ra tay cứu giúp.
Điều nguy hiểm nhất cho con người là không còn biết chạnh lòng thương xót trước những nỗi khổ đau của người khác. Lòng nhân ái không chỉ làm cho chúng ta “thành người”mà còn là dấu chỉ của người môn đệ Chúa.
Ông Malcolm Muggeridge, một nhân vật nổi tiếng trên đài TV Anh Quốc, đã trở lại đạo Công giáo, điều mà trước đây ông đã thề sẽ không bao giờ làm. Ông nói, ông đã bị cảm kích bởi những việc Mẹ Têrêsa Calcutta đã làm: “Không thể diễn tả bằng lời, tôi đã mắc nợ Mẹ Têrêsa thế nào. Mẹ đã tỏ cho tôi thấy Kitô giáo trong hành động. Mẹ đã tỏ cho tôi thấy sức mạnh của tình yêu có thể làm nổi dậy một ngọn thủy triều tình yêu lan tràn khắp thế giới…”
Trình thuật Chúa hóa bánh ra nhiều được lặp lại trong Tiệc Thánh Thể: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, ngước mắt lên trời, tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ”. Chúa vẫn tái diễn phép lạ ấy hằng ngày để nuôi dưỡng chúng ta và cả thế giới. Tại sao từ bàn Tiệc Thánh này chúng ta lại không biết chia sẻ với người nghèo đói? Thế giới hôm nay còn có những kẻ đói, còn có những dân tộc đói, vì có những cái bánh được giữ riêng cho cá nhân và không hề được bẻ ra chia sẻ. Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta, khi đã lãnh nhận Bánh của chúa thì cũng biết cạnh lòng thương và chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói, để Chúa có thể nuôi sống tất cả anh chị em chúng ta trên thế giới.
40. Chúng ta có đói không?
Chúa Giêsu biết những cái đói của con người, Ngài nhìn đám đông với cặp mắt tinh tế của tình yêu khiến bừng dậy nơi Ngài lòng trắc ẩn của Thiên Chúa: Tôi sẽ cho anh em bánh ăn, và còn hơn thế nữa chính tôi là bánh mà anh em đang hết sức đói khát. Một cách kín đáo, tác giả Tin Mừng làm ta nghĩ đến Thánh Thể: “Ngài cầm lấy bánh, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ”. Đó là đề tài chúng ta sẽ suy niệm: phải chăng chúng ta sẽ chịu lễ vì cơn đói mà chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể làm dịu đi được?
Có lẽ chúng ta đã được đào tạo để nghĩ một cách khác: “Bỏ lễ là phạm một tội trọng”. Khi người ta không còn sợ cái tội này nữa, người ta sẽ hết đi lễ. Tôi ít thấy các bạn trẻ đi lễ chỉ vì bị bắt buộc. Họ sẽ đi lễ nếu người ta khơi dậy được nơi họ sự đói khát.
Khi luật buộc đi lễ ngày ngày Chúa nhật liên kết với cái đói Thánh Thể, luật buộc đó sẽ là điều tốt, nó tăng thêm cái đói, nó bổ túc cho cái chán ăn tạm thời. Nhưng luật buộc cũng có thể che đậy sự thiếu vắng cái đói, khi ấy người ta chỉ còn giữ luật vì thói quen, vì câu nệ vào luật. Bây giờ nếu không ai đi lễ nữa, ta sẽ phải nhắc lại luật buộc hay khơi dậy cái đói?
Phép lạ hoá bánh ra nhiều và vấn đề có nhiều người bỏ đi lễ đặt chúng ta trước cái đói của người khác. Còn chúng ta thì sao? Tại sao chúng ta đi lễ mỗi Chúa nhật, và có khi mỗi ngày? Nếu chúng ta đi lễ mà không cảm thấy đói khát muốn ca ngợi Chúa, muốn kết hợp với hiến tế của Chúa Kitô và muốn sống bác ái yêu thương như Ngài, chúng ta sẽ chỉ làm một việc không có giá trị đích thực và sẽ chẳng đón nhận được Chúa Kitô.
Để được Chúa nuôi dưỡng, chúng ta cần phải có một đức tin rất tỉnh táo, vì thế mà chúng ta được chuẩn bị bằng việc sám hối và bằng những lời tuyên xưng đức tin. Người tín hữu phải sống với hai thực tại. Trước hết là thực tại của cuộc đời: làm việc, nghỉ ngơi, những lo toan, những yêu thương và những nỗi khổ. Và thực tại của Thiên Chúa. Đó không phải là hai thực tại đặt bên cạnh nhau hay đối nghịch nhau như ta có thể nghĩ. Không có Thiên Chúa, thực tại của cuộc đời sẽ nghèo nàn, bị đóng kín và nặng nề. Được xâm nhập bởi thực tại của Thiên Chuá, cuộc sống chúng ta sẽ triển nở không có giới hạn và được biến đổi.
Những điều đó chúng ta đã biết cả, nhưng chúng ta lại quên đi mau chóng và Bánh sự sống chẳng nuôi dưỡng chúng ta được bao nhiêu. Nếu lúc này chúng ta không cảm thấy muốn ăn, chúng ta hãy khơi dậy niềm tin, chúng ta sẽ lại cảm thấy đói khát thực tại của Thiên Chúa và chúng ta sẽ biết tại sao mình đi lễ. Luôn luôn cái thực tại làm chúng ta thấy đói. Nhưng thực tại của cuộc sống đang có đấy, rất cụ thể, nó gợi lên cả ngàn cái đói, trong khi đó thực tại của Thiên Chúa, thường xuyên phải cần đến đức tin mới nhận ra được. Chỉ mình đức tin mới có thể nói cho chúng ta hay Thiên Chúa hiện thực hơn mọi sự tới độ nào, và khi đức tin nói cho chúng ta biết điều đó, chúng ta sẽ cảm thấy hết sức đói.
41. Chia sẻ cơm áo – R. Veritas
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Chúng ta không cần câu truyện nào khác để dẫn vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Các Tông đồ của Chúa lo sợ trước một thách thức không thể vượt qua được trên bình diện con người, đó là 5.000 người đàn ông không kể đàn bà con trẻ đang gặp cảnh đói không có gì ăn, và vào lúc trời sắp tối, có nghĩa là mọi sinh hoạt buôn bán giữa người với người dường như bị đóng lại. Các ông lo sợ và nói theo khuynh hướng tự nhiên là phủi tay chạy trốn trước thách thức khóa khăn ấy, từ đó đổ trách nhiệm cho kẻ khác, và cuối cùng cũng muốn Chúa Giêsu làm như vậy: “Xin Thầy hãy cho họ về, hoặc cho họ vào làng để mua gì ăn, vì trời đã tối và họ có thể kiếm được gì lót dạ qua cơn đói chăng?”.
Thế giới ngày nay có rất nhiều tiến bộ, với những phát minh khoa học kỹ thuật tân tiến, nhưng theo thống kê của cơ quan lương thực Liên Hiệp Quốc cho biết, mỗi ngày có khoảng 400.000.000 người phải đi ngũ với bụng đói không có gì để ăn, và 15.000 người phải chết đói hằng ngày. Điều này không phải vì thế giới thiếu tài nguyên, thiếu lương thực, nhưng vì tài nguyên của quốc gia bị mánh mung, ăn cắp một cách khéo léo bởi một số người không còn lương tâm.
Chúng ta không cần dẫn chứng đâu xa, hãy nhìn vào môi trường trong cuộc sống của chúng ta. Nơi cộng đoàn chúng ta sinh sống, thử hỏi có bao nhiêu người đang đói khổ? Bao nhiêu người trẻ thiếu phương tiện đến trường học? Bao nhiêu người bị bóc lột sức lực và làm việc với đồng lương bất công? Tại Phi Luật Tân 70% dân chúng sinh sống dưới mức phân biệt nghèo túng. Chúng ta đang đứng trước những thách thức bao la và có lẽ cũng muốn bỏ chạy trốn, hoặc đổ trách nhiệm sang cho kẻ khác với những lý do an ủi mình như, nhiều người đói khổ quá làm sao tôi có thể lo cho họ được, sức tôi có hạn làm sao tôi có thể chia sẻ với từng ấy người đang cần đến lương thực để sinh sống.
Thật lạ lùng, một cộng đoàn đông đến 5.000 người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ mà không còn chút lương thực, không còn chúng gì để ăn tối, hay là mỗi người đã đem giấu phần thức ăn của mình? Hay có thể vì sợ không đủ cho kẻ khác? Nếu không có năm cái bánh và hai con cá của một em nhỏ nào đó thì làm sao Chúa Giêsu có thể nhân thêm để nuôi sống hàng mấy ngàn người như vậy. Em bé này đáng được khen ngợi, vì tâm hồn rộng lượng của em, một tâm hồn đơn sơ không nghĩ ngợi, dám dâng cho Chúa phần đóng góp nhỏ nhoi của em.
“Chúng con hãy cho họ ăn”. Đó là mệnh lệnh mà Chúa truyền lại cho các Tông đồ xưa và cũng là mệnh lệnh của Chúa cho mỗi người Kitô hữu hôm nay. Chúng con hãy cho họ ăn, chúng con có trách nhiệm không thể chạy trốn được, chúng con không thể phủi tay đổ trách nhiệm cho kẻ khác. Hãy biêt sống chia sẻ, đóng góp những gì mình có thể làm để mưu cầu hạnh phúc cho đồng loại. Mỗi người hãy thắp lên một que diêm để làm cho căn phòng đầy ánh sáng, nhất là khi cùng thắp que diêm đó với Chúa và nhờ Chúa, cộng tác với Chúa để gìn giữ que diêm đó khỏi gió thổi tắt.
Thánh Matthêu mô tả hành động phép lạ của Chúa Giêsu giống như hành động Chúa cử hành bí tích Thánh Thể với các Tông đồ trong bữa tiệc ly: “Chúa cầm lấy bánh, tạ ơn và trao cho các môn đệ để các ngài đem đi phân phát”. Bí tích Thánh Thể được gọi là “Bữa tiệc chia sẻ tình yêu, Agapae: Bữa tiệc bẻ bánh”. Trong thời Giáo Hội sơ khai, bí tích Thánh Thể là phương tiện hữu hiệu nhất để giúp cho các đồ đệ có được sức sống của Ngài, có được tình yêu và sức mạnh của Chúa.
Đừng chạy trốn trước sự mời gọi chia sẻ của anh em. Chúng ta hãy xét lại xem mình đã cử hành Bí Tích Thánh Thể như thế nào? Bí Tích Thánh Thể có tác dụng thế nào trong đời sống chúng ta? Bí Tích Thánh Thể được chúng ta cử hành, chia sẻ trong nhà thờ và chúng ta có kéo dài nó trong cuộc sống bên ngoài nhà thờ hay không?
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trở nên giống Chúa một ngày một hơn nhờ việc lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, cũng như qua việc chia sẻ sự sống của Chúa, xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được lớn lên, được trưởng thành trong đức bác ái, sẵn sàng đóng góp phần nhỏ của mình để phục vụ anh em, xin Chúa giúp chúng ta trưởng thành trong Đức tin mà chúng ta chia sẻ qua kinh Tin kính.
42. Cộng tác
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Trong ba năm giảng dạy của Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng kể lại hai lần Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Phép lạ kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay là lần thứ nhất, xảy ra vào tháng Tư, gần lễ Vượt Qua của năm 29, tức là vào năm thứ hai giảng dạy của Chúa Giêsu. Chúa muốn nói gì với chúng ta khi làm phép lạ này?
Điều thứ nhất, Chúa muốn nói với chúng ta về lòng thương xót. Xưa kia trong sa mạc, trên đường về Đất Hứa, dân Do Thái đã kêu xin Chúa ban lương thực cho họ. Trước những lời kêu xin đó Thiên Chúa đã không làm ngơ và đã ban man-na cho họ. Cũng vậy, Chúa Giêsu đã không làm ngơ trước cảnh dân chúng đi theo Ngài để nghe Ngài giảng dạy ở một nơi đồng không mông quạnh mà không có gì ăn, Ngài đã hóa bánh ra nhiều cho họ ăn no, Ngài đã thương xót họ. Trong bối cảnh của phép lạ này, chúng ta thấy có hai thứ thương xót, Các môn đệ thấy trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ và đã thưa với Chúa: “Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn”. Đó là thứ thương xót thứ nhất, thứ thương xót nhập đề. Lòng thương xót nầy cần thiết vì là khởi điểm. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ. Vì thế, Chúa muốn các môn đệ bước qua thứ thương xót khởi điểm đó, đem thứ thương xót nhập đề vào thứ thương xót thứ hai, thứ thương xót nhập cuộc: “Các con hãy lo cho họ ăn”.
Quả thực, có tấm lòng thương xót người khác là một điều tốt rồi, nhưng chưa đủ. Có những lời nói xót thương người khác cũng là một điều tốt rồi, nhưng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, phải có hành động xót thương thực sự nữa, Chúa Giêsu đã thể hiện như thế và Ngài dạy chúng ta hãy sống như thế. Chúng ta hãy nghĩ xem: trước những nỗi đau của người khác, trước những túng thiếu của người anh em, chúng ta thường có những thái độ nào? Thái độ ngoảnh mặt làm ngơ, bưng tai giả điếc là thái độ không thể nào chấp nhận được, mà trong thực tế có nhiều người trong chúng ta đã có thái độ đó. Rồi có lòng trắc ẩn hay những lời nói an ủi, khích lệ, thông cảm là thái độ tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là biết chia sẻ, biết san sẻ, giúp đỡ. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì nằm trong tầm tay, nằm trong khả năng của mình, phần còn lại Chúa sẽ thực hiện. Chúng ta hãy nhớ: điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều nhưng là ở chỗ biết ý thức người khác cũng là con Thiên Chúa, cũng là anh chị em của chúng ta.
Trong ý hướng đó, chúng ta hãy suy nghĩ những lời phát biểu trước quốc hội của ông Găng-đi, vị anh hùng đã áp dụng phương pháp bất bạo động để giải phóng dân tộc Ấn Độ khỏi ách thống trị của Anh Quốc. Ông Găng-đi đã nói: “Theo quan niệm của tôi thì về một ý nghĩa nào đó, chúng ta là những người ăn cắp. Bởi lẽ nếu tôi có một vật nào đó mà tôi không cần ngay bây giờ nhưng tôi vẫn giữ nó, thì đó là tôi ăn cắp vật đó từ một người khác đang cần đến nó. Tại Ấn Độ hiện nay, chúng ta có 3 triệu người mỗi ngày chỉ ăn một bữa và thức ăn của họ chỉ là một miếng bánh và một nhúm muối. Trước thực tại này, quý vị và tôi không có quyền sở hữu một vật gì mà chúng ta không trực tiếp cần đến, cho đến khi 3 triệu người này được ăn no, mặc ấm”. Những lời phát biểu đó cũng là những gợi ý giúp chúng ta hiểu và sống lời Chúa hôm nay.
Điều thứ hai, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua phép lạ hóa bánh này là sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa. Với quyền năng vô biên, Chúa chỉ cần phán một lời là có dư thừa bánh cho mọi người ăn, nhưng Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài khi Ngài bảo các ông: “Các con hãy lo cho họ ăn”. Khi các môn đệ tìm được 5 chiếc bánh và 2 con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho chúng ta biết: cần có sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa đối với chúng ta, nghĩa là bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.
Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí, bằng cố gắng, bằng kiên nhẫn, bằng hy sinh. Đừng kể trong đời thường mà thôi nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Âu-Tinh đã nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”.
Câu chuyện sau đây minh họa cho điều đó: Một nhà văn Ki-tô giáo đã dựng một vở kịch diễn tả vụ hành quyết một tên trọng phạm tại một thị trấn nhỏ thời Trung cổ. Theo phép nước, chỉ có một lối thoát chết cho tử tội là nộp đủ 1000 đồng tiền vàng để chuộc mạng. Nhà vua tỏ ra hào hiệp tặng hết số vàng 700 đồng mang theo trong một chuyến tuần du qua đây, hoàng hậu theo gương có 200 đồng cũng giúp hết, các cận thần đi theo cũng dốc túi. Người ta đếm được 999 đồng, còn thiếu một đồng. Công lý không thể nhân nhượng, đành phải thi hành pháp lệnh. Toán hành quyết tròng giây thừng vào cổ tên tử tội thiếu may mắn. Khi sắp sửa rút giây thì có một tiếng kêu lớn: “Khoan đã, lục soát người nó đi. biết đâu đấy”, tên đao phủ lần mò khắp người tội nhân và móc ra được một đồng hắn giấu trong lưng quần từ hồi nào mà hắn cũng không nhớ nữa. Thế là đủ 1000 đồng, tên tử tội được thoát chết. Có lẽ chúng ta đều hiểu câu chuyện này phải không? Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng ta, Mẹ Maria đã trợ giúp chúng ta, các thánh cũng trợ giúp chúng ta, và chính chúng ta cũng phải góp phần.
Tóm lại, dù chúng ta là ai, dù chúng ta hèn kém thế nào, chúng ta hãy cố gắng với hết khả năng của mình, Chúa sẽ trợ giúp chúng ta.
43. Chúa Nhật 18 Thường Niên
LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA THIÊN CHÚA LUÔN ĐÓN NHẬN TẤT CẢ MỌI NGƯỜI
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
Các bài đọc của Chúa nhật XVIII Thường niên hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Cả hai bài đọc đầu tiên và bài Tin mừng đều nhấn mạnh đến sự chăm sóc của Thiên Chúa bằng cách sử dụng các hình ảnh về thực phẩm dinh dưỡng. Khi nghe các bài đọc này, chúng ta có thể tìm được sự an ủi nơi tình yêu Thiên Chúa và lấy tình yêu an ủi này làm khuôn mẫu cho những mối tương quan giữa chúng ta với nhau.
Trong bài đọc một trích từ sách ngôn sứ Isaia, dân của vương quốc Giuđa sau khi đã trải qua đau khổ lớn lao và lưu đày, được mời đến dự một bữa tiệc thịnh soạn. “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây; dù không có tiền bạc cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu và sữa, không phải trả đồng nào.” Đoạn văn này là một lời mời gọi phục hồi, trở về, đón chào hết mọi người đến tận hưởng sự quảng đại của Thiên Chúa. Đoạn văn thậm chí còn khẳng định rằng những người không có tiền bạc cũng hãy đến dự tiệc, dẫn theo mọi người có hoàn cảnh kinh tế khác nhau để cùng chia sẻ sự hào phóng của Thiên Chúa.
Ngôn sứ Isaia có thể gợi hứng để củng cố, sửa chữa và khôi phục các mối tương quan của chúng ta với tha nhân bằng việc mời tất cả cùng đồng bàn. Nhiều người, đặc biệt là người da màu, phụ nữ và những người nghèo khổ, thường cảm thấy bị bỏ mặc và không thể vươn lên. Bổn phận của tất cả chúng ta, nhất là những người có quyền lực và đặc quyền, là chủ ý hành động để bao gồm hết mọi người, đặc biệt là những ai ở bên lề xã hội và bị tước đoạt quyền lợi. Điều này không chỉ là để sửa chữa những sai lầm trong quá khứ hoặc tìm kiếm sự đa dạng, mặc dù đây là những mục tiêu quan trọng. Tuy nhiên, điều quan trọng không kém là chúng ta cần nhìn nhận khả năng đóng góp hữu ích của tất cả mọi người cho xã hội, làm mẫu cho lời kêu gọi của chúng ta với những người khác theo cách thức của Thiên Chúa.
Bài Tin mừng hôm nay là một gợi nhắc khác về sự quảng đại của Thiên Chúa. Chúng ta nghe câu chuyện phép lạ quen thuộc về việc hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng. Tất cả các Tin mừng đều có bản văn kể phép lạ này; Thánh sử Mátthêu và Máccô thậm chí có hai bản văn khác nhau của cùng một câu chuyện. Trước khi hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu chữa lành những người đau yếu vì Ngài “động lòng thương”, như thế Ngài đặt bối cảnh cho câu chuyện. Sau đó, khi các môn đệ tìm cách giải tán đám đông vì không kiếm đủ thức ăn, Chúa Giêsu đã chỉ dạy các ông phải nuôi dân chúng, và rồi Ngài cho các ông thấy cách thức Ngài nuôi đám đông ăn no nê.
Ngước mắt nhìn lên trời, Chúa Giêsu cầm năm chiếc bánh và hai con cá, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ để họ phân chia cho đám đông. Việc làm này gợi nhắc đến Bữa Tiệc Ly, vì những hành động của Chúa Giêsu ở đây báo trước bữa tiệc thánh thiêng(Mt 26,26-29). Quyền năng hành động của Chúa Giêsu được minh họa bằng 12 thúng bánh dư thừa còn lại sau khi mọi người ăn no nê. Các con số trong câu chuyện này mang tính biểu tượng: năm thêm hai bằng bảy, là con số hoàn hảo và trọn vẹn; và 12 là một con số được nhắc nhiều lần trong Kinh Thánh như 12 tông đồ và 12 chi tộc Israel.
Việc hóa bánh và cá ra nhiều làm nổi bật lòng thương xót cũng như sự quan tâm của Chúa Giêsu qua việc nuôi dưỡng những đám đông đang ở với Ngài. Hơn nữa, Chúa Giêsu kết hợp các môn đệ lại với nhau, mời gọi và dạy cho họ quan tâm đến người khác, cung cấp một hình mẫu cho việc chúng ta nên quan tâm đến nhau.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2020/07/17/all-are-welcome-gods-inclusive-generosity?fbclid=IwAR0MbIZc7Fl7o1fqOvUtTuW0gmpCQtDRs-E5gYIjuEAXzZlpqWW0MopVcW8
44. Người bình thường làm nên phép lạ
(Suy niệm của Lm. Mark Link SJ.)
Chủ đề: “Thiên Chúa đã dựng nên thế giới tuyệt đẹp đến nỗi hành động của mỗi cá nhân đều được coi là quan trọng”.
Những báo cáo của tờ Chicago Sun – Times (Thời báo Mặt Trời Chicago) cho biết 70% nhân viên của hãng được khảo sát đều ăn trộm của chủ họ. Nghiên cứu của Ðại học Cormell cho thấy nơi những trẻ em phát triển bình thường. Khi chúng lên 10 tuổi, chúng thường có thái độ dễ chấp nhận việc lường gạt hay gian dối.
Một cuộc nghiên cứu có tính cách quốc tế cho biết một nửa dân số thế giới không được cung cấp đủ nước sạch và có 450 triệu người mỗi đêm phải đi ngủ mà bụng đói meo.
Khi nghe những thống kê trên, chúng ta thường cảm thấy thất vọng. Với tư cách là Kitô hữu. Chúng ta biết rằng mình có can dự vào đó. Tuy nhiên, vì chỉ là những con người nên chúng ta sẽ nói: “Tôi đâu có thể làm gì được? Dầu sao tôi cũng chỉ là một cá nhân”. Thế rồi chúng ta dẹp những thống kê ấy qua một bên.
Bài phúc âm hôm nay cho thấy chúng ta đã xử sự một cách lệch lạc. Chúng ta chỉ biết nhìn vào đó một cách thuần tuý là con người. Lẽ ra chúng ta cần phải nhìn vào đó với nhiều niềm tin hơn mới phải.
Bài phúc âm hôm nay vẽ ra một bức tranh khác với những thống kê chúng ta vừa nghe. Năm ngàn người “không kể đàn bà con trẻ” không có gì ăn và đang đói. Số thực phẩm hiện có chỉ là năm chiếc bánh và hai con cá. Phúc âm thánh Gioan cho biết số thực phẩm này là của một em bé nào đó. Khi Chúa Giêsu biết có em mang theo thực phẩm. Ngài liền gọi em bé đó. Chắc hẳn em không thể tin nổi tai mình khi nghe Chúa Giêsu nói với em: “Này con, hãy đưa cho Ta số thực phẩm của con để Ta cho đám đông đang đói này ăn nhé!”. Dù vậy chú vẫn tin tưởng vào Chúa Giêsu và trao cho Ngài 5 ổ bánh và hai con cá. Tất cả chúng ta đều bíêt sự gì đã xảy ra. Phúc âm hôm nay cho thấy một người cũng có thể thay đổi được cục diện. Hay nói đúng hơn, hai người có thể thay đổi cục diện, tức là Chúa Giêsu và một người nào đó!
Chú bé trao cho Chúa Giêsu những gì chú có và Chúa Giêsu lấy đó để thết đãi đám đông đã không được nuôi ăn và như thế phúc âm sẽ mất đi một trong những câu chuyện hứng khởi nhất. Chúng ta nhớ lại lời Chúa Giêsu: “Một hạt lúa nếu không rơi xuống đất và chết đi thì nó vẫn còn là một hạt lúa” (Ga 12: 24). Ðiều Chúa Giêsu muốn nói như sau: “Mỗi mùa hè, những cây lúa kỳ diệu mọc lên trong những cánh đồng lúa ở Kansas đều do những hạt lúa đã hy sinh sự sống của mình để chết đi. Sự sống còn của nhân loại cũng tuỳ thuộc vào nguyên tắc tự hiến này.”
Thiên Chúa đã sắp đặt thế giới mới cách thức kỳ diệu đến nỗi hành động của mỗi cá nhân đều được coi là quan trọng.
Tôi xin minh hoạ chủ điểm này rõ hơn bằng một câu chuyện hài hước. Art Bưchwald, một tay viết báo, có lần đã víêt về một người bạn ông sống tại thành phố New York. Chúng ta hãy tạm gọi anh bạn đó là Oscar. Một hôm Art và Oscar bước lên một chiếc taxi. Lúc đó Oscar nói với bác tài:”Bác lái giỏi qúa!” Bác ta liền nhìn anh và nói: “Anh làm nghề gì? Bộ anh xỏ xiên tôi hả?” Oscar nói: “Không phải đâu, tôi khen bác thực mà. Tôi khâm phục cách bác di chuyển giữa một đám xe cộ như thế”. Bác ta liền nói: “Ðúng, hẳn là thế” đoạn lái xe đi. Sau đó, Art liền hỏi: “Anh làm như vậy với mục đích gì?”. Orcar trả lời: “Tôi đang cố gắng đem lại tình yêu cho New York”. Art nói: “Anh làm thế nào được?”. Oscar nói: “Hãy lấy trường hợp bác tài lúc nãy. Tôi nghĩ rằng tôi đã giúp bác ta một ngày hạnh phúc. Chúng ta hãy giả thiết hôm nay bác ta lái được hai mươi xuất, bác sẽ niềm nở tử tế hơn với những kẻ khác nữa. Cuối cùng, sự tử tế ấy sẽ trải rộng đến cả ngàn người”. Art nói: “Anh bắt đầu khùng rồi đấy!”
Nhưng ngay lúc đó, họ đi ngang qua một công trường đang xây. Bấy giờ là giữa trưa, đám thợ đang ngồi ăn. Oscar liền bước tới gần một nhóm và nói: “Các bạn đang xây cất một công trình thật tráng lệ!”. Ðám thợ giương mắt ngờ vực nhìn Orcar. Anh liền hỏi: “Chừng nào xây xong vậy?” Một gã thợ đầu đội nón an toàn lầu bầu: “Tháng sáu”. Orcar liền nói: “Tuyệt quá! Vậy là sắp có thêm một công trình mỹ lệ cho thành phố”.
Trong khi họ tiếp tục rảo bước, Art nói với Oscar: “Này bạn, tôi chưa thấy ai giống như anh cả”. Oscar nói: “Ðồng ý! Anh có thể ghẹo tôi, nhưng đám người này sẽ tiêu hoá những lời của tôi, nhờ đó họ sẽ tốt đẹp hơn”. Art liền nói: “Nhưng cho dầu nhờ đó họ tốt hơn đi nữa, thì anh cũng vẫn chỉ là một cá nhân, mà một cá nhân thì làm sao có thể thay đổi thành phố Nữu Ước được”. Oscar đáp:” Có chứ! Ðiều quan trọng là chớ ngã lòng. Mang tình yêu về lại cho Nữu Ước không phải dễ dàng, tuy nhiên nếu mà tôi có thể lôi kéo thiên hạ cộng tác với tôi vào chiến dịch này thì…” Art ngắt lời: “Này! Anh vừa nháy mắt với một mụ đàn bà xấu xí phải không?” Orcar nói: “Ðúng thế! Nhưng nếu chị ta là một giáo viên thì lớp học của chị ta hôm nay nhờ đó sẽ có một ngày đẹp tuyệt với đấy!”.
Bưchwald không hề thêm bớt gì về bài viết này. Chúng ta không biết ông viết nghiêm chỉnh, hoặc nửa đùa nửa thật cho vui, tuy nhiên một số độc giả tin rằng ông ta nghiêm chỉnh hơn chúng ta nghĩ.
Ðiều này dẫn chúng ta trở lại với bài phúc âm hôm nay. Chú bé đã trao cho Chúa Giêsu tất cả những gì chú có và Chúa Giêsu đã chia sẻ món quà tặng của chú với cả hàng ngàn người. Sứ điệp của bài phúc âm hôm nay như sau: “Giống như một hạt lúa, một cá nhân có thể trở thành dụng cụ cho một phép lạ, một cá nhân có thể trở thành dụng cụ cứu giúp hàng ngàn người, khi thấy sứ điệp này xác thực ngay trước mắt, Malcolm Muggeridge, một ngôi sao truyền hình nổi tiếng của Anh Quốc, đã làm điều mà trước đó chàng thề không bao giờ làm, là trở thành một người Công giáo. Chàng cho biết sở dĩ tâm hồn chàng thay đổi là nhờ mẹ Têrêxa Calcutta. Chàng nói: “Không lời nào nói cho xiết tôi đã mang ơn mẹ biết bao nhiêu. Mẹ đã chỉ cho tôi một thứ Kitô giáo bằng hành động. Mẹ đã chỉ cho tôi quyền năng của tình yêu, mẹ đã chỉ cho tôi một cá nhân từ ái có thể khơi dậy cơn thuỷ triều tình yêu lan đến toàn thế giới”.
Ðó cũng là Tin Mừng của bài phúc âm hôm nay. Tin Mừng này cho biết dù chỉ là cá nhân cũng vẫn quan trọng, vẫn đáng kể, và nếu chúng ta chia sẻ điều mình có với Chúa Giêsu thì Ngài có thể làm cho điều ấy sinh hoa kết trái vựơt quá mộng tưởng lớn lao nhất của chúng ta.
Bài phúc âm hôm nay cho thấy nếu chúng ta dâng cho Chúa Giêsu tài năng và tặng vật của mình để tuỳ Ngài sử dụng thì Ngài có thể dùng chúng ta làm nên những phép lạ.
Chúng ta hãy kết thúc với bài thơ của Amdo Nervo, một đại thi sĩ cũng là một nhà huyền bí, người Mễ Tây Cơ. Bài thơ này tóm tắt sứ điệp và tinh thần bài phúc âm hôm nay:
“Con chỉ là một tia lửa,
xin biến con thành ngọn lửa.
Con chỉ là sợi dây,
Xin biến con thành chiếc đàn.
Con chỉ là một ngọn đồi cỏn con,
Xin biến con thành ngọn núi.
Con chỉ là một giọt nước,
Xin biến con thành một giòng suối.
Con chỉ là một cọng lông,
Xin biến con thành chiếc cánh.
Con chỉ là gã ăn mày,
Xin biến con thành một ông vua”.
45. Chia bánh cho nhau
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Nguyên nhân nghèo đói
Nhân ngày sinh nhật của mình, một tỷ phú giàu lòng quảng đại chiêu đãi tất cả dân làng một bữa tiệc thịnh soạn cho cả ngàn người ăn. Khi giờ tiệc chưa bắt đầu, khách mời chưa kịp đến… thì có chừng 100 người đàn ông lực lưỡng đường đột xông vào, trút hết thức ăn trên bàn vào những chiếc bị lớn rồi hùng hục vác đi.
Thế là khi đến giờ nhập tiệc, 900 khách mời còn lại chẳng còn gì để ăn, chỉ biết nhấm nháp chút ít thức ăn rơi rớt trên bàn nên ai nấy phải ra về bụng đói.
Câu chuyện trên đây cho thấy rằng: Sở dĩ có nhiều người, dù vẫn làm lụng hằng ngày, mà vẫn phải đói là vì có những người tích lũy cho mình quá nhiều mà không chia sớt cho những người túng thiếu.
Thiên Chúa là người Cha quảng đại, tạo ra đầy đủ lương thực, thực phẩm cho mọi người trên trái đất hưởng dùng. Tiếc thay, có những người cậy sức, cậy thế, cậy quyền… thu tóm quá nhiều tài nguyên, của cải cho mình… bỏ mặc nhiều người yếu sức, yếu thế… phải lâm cảnh túng thiếu lầm than.
Chia sớt cơm bánh cho nhau
Sáng hôm ấy, đông đảo dân chúng lũ lượt theo Chúa Giê-su để nghe Ngài giảng và đưa nhiều bệnh nhân đến xin Ngài chữa lành.
Chiều xuống, trước khi giải tán dân chúng, Chúa Giê-su không đành để họ về bụng đói, nên truyền cho các môn đệ: “Các con hãy cho họ ăn.”
Các môn đệ phân vân: Làm sao có thể lo liệu cho số người đông đảo thế này có bánh ăn, trong khi mình chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá? Thôi thì cứ trao tất cả cho Chúa Giê-su.
Sau khi nhận được chút ít thức ăn từ tay môn đệ, “Chúa Giê-su cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng và bẻ ra, trao cho môn đệ” rồi truyền cho các ông phát ra cho dân chúng.
Chắc hẳn lúc bấy giờ các môn đệ rất đỗi ngạc nhiên. Với số đông không đếm xuể thế nầy mà chỉ có chừng nầy bánh và cá thì ai nhịn, ai ăn? Tuy nhiên, theo lệnh Chúa Giê-su, các ông vẫn chia ra cho mấy người lân cận. Những người nầy đang đói, muốn giữ lại tất cả cho mình, nhưng vâng lệnh Chúa truyền, họ chỉ ăn một phần vừa phải, rồi chuyền số bánh ít ỏi còn lại qua tay người khác… Đang khi người ta chia bánh cho nhau thì phép lạ xảy ra: Bánh được chia hoài mà không hết! Cá được chuyền mãi vẫn không vơi! Thế là mọi người được no nê, lại còn thu được mười hai giỏ đầy còn dư không ăn hết!
Giả sử người thứ nhất nhận được chiếc bánh nhỏ, nghĩ rằng: Với chừng nầy bánh thì có thấm vào đâu, thôi ta cứ giữ lại hết cho mình… thì dòng chảy yêu thương sẽ khựng lại, phép lạ bánh sẽ không diễn ra.
Qua sự kiện hóa bánh ra nhiều, Chúa Giê-su dạy chúng ta hiểu rằng: Nếu mọi người đều quảng đại chia sớt cơm bánh cho nhau, thì chẳng có ai trên đời phải đói khát.
Câu chuyện mẹ Tê-rê-xa kể lại sau đây giúp chúng ta tin tưởng hơn vào bài học này. Mẹ nói:
Vào một buổi tối nọ, có một người đàn ông đến nhà chúng tôi và cho biết rằng: “Có một gia đình gồm 8 đứa con đã phải nhịn đói suốt mấy ngày qua.” Thế là tôi vội mang theo chút lương thực đi đến nhà đó.
Đến nơi, tôi thấy những đứa bé xanh xao, gầy gò, mặt mũi bơ phờ… đang ngồi trước cửa.
Tôi đưa túi gạo cho người mẹ. Chị ta liền ngồi xuống, chia số gạo đó ra làm hai phần bằng nhau rồi vội mang một phần đi ra ngoài. Khi chị trở về, tôi hỏi: “Con đi đâu vậy?” Chị trả lời cách thản nhiên: “Con trao bớt gạo cho những người hàng xóm, họ cũng là những người nghèo đói như con!”
Nghĩa cử cao đẹp này khiến mẹ Tê-rê-xa xúc động. Mẹ nói: “Nếu ai cũng làm như người đàn bà trên đây, biết chia sẻ cho người khác phần ăn, dù rất ít ỏi của mình, thì phép lạ bánh hoá nhiều lại diễn ra và không ai trên thế giới nầy phải lâm vào cảnh đói kém.”
Trái lại, nếu ai cũng lo thủ thân, nghĩ rằng còn phải để của cải cho tương lai, cho con, cho cháu… thì khi đó, dòng chảy của tình yêu dừng lại, vòng quay của lương thực bị chặn đứng và cảnh thiếu đói sẽ xảy ra.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin giúp chúng con thấu hiểu bài học Chúa dạy hôm nay và sẵn sàng tiếp tay với Chúa làm cho phép lạ hoá bánh ra nhiều được tiếp tục diễn ra trong cuộc sống hôm nay, bằng cách sẵn sàng chia phần bánh ít ỏi của mình cho người khác. Amen.
46. Suy niệm của Lm Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
KHI NGƯỜI TA BIẾT CHIA BÁNH CHO NHAU THÌ THẾ GIỚI SẼ KHÔNG CÒN NẠN ĐÓI
Phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ duy nhất được cả bốn tác giả Tin Mừng cùng thuật lại, và có tác giả thuật đến hai lần như Matthêu (Mt 14,13-21 và 15,32-38) và Mác cô (6,35-44 và 8,1-10) Luca (9,12-17) và Gioan (6,1-13). Như vậy, chắn chắn sự kiện nầy chứa đựng một nội dung hết sức quan trọng.
Nội dung đó là: khi người ta biết chia bánh cho nhau, thì thế giới sẽ không còn nạn đói.
Tài nguyên trái đất gồm hoa màu ruộng đất, các loài gia súc cầm thú, chim trời cá biển được Thiên Chúa dựng nên dư thừa để nuôi những cư dân trên mặt đất.
Thế thì tại sao có nhiều người đói?
Sở dĩ có nhiều người đói vì có một số người thu gom cho mình thật nhiều, tích trữ cho mình dư dật nên mới xảy ra tình trạng “người thì ăn không hết, người thì làm không ra”.
Một chủ tiệc hào phóng dọn ra một ngàn phần ăn đủ cho một ngàn người ăn uống no say. Nhưng có một số khách mời khoẻ hơn, nhanh tay hơn, chạy vào phòng tiệc vơ vét nhiều thực phẩm cho mình, lại còn tọng đầy những túi mang theo để dành cho ngày mai, ngày mốt và cho con cháu… thế là những khách mời đến sau phải đói.
Thế giới hôm nay cũng là một phòng tiệc vĩ đại mà Thiên Chúa dọn sẵn cho mọi người. Lương thực trên mặt đất, dưới biển có dư cho mọi người hưởng dùng. Nếu mọi người biết chia sớt cho nhau, thì chắc chắn không có ai phải thiếu đói.
Nhưng tiếc thay, có những người nắm trong tay những phương tiện sản xuất hiện đại, nắm bắt những công nghệ tiên tiến nên đã thu vén cho mình dư đầy của cải, khiến cho những người sa cơ thất thế phải lâm cảnh thiếu đói triền miên.
Qua phép lạ bánh hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với mọi người rằng: nếu ai cũng biết chia sẻ số bánh ít ỏi đang có cho nhau, thì tất cả mọi người đều no đủ, không những no đủ mà còn dư.
Hôm ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu, say mê nghe lời Người giảng dạy quên cả giờ về. Khi ngày tàn, nhóm Mười Hai đề nghị Chúa Giêsu giải tán đám đông để họ kịp trở về các làng mạc chung quanh kiếm thức ăn, vì hiện nay mọi người đang ở nơi hoang vắng.
Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Các môn đệ đáp: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá, lấy gì nuôi đủ cả năm ngàn người ăn?”
Thế rồi “Chúa Giêsu truyền cho dân chúng ngồi xuống, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông.”
Các môn đệ trố mắt nhìn Chúa Giêsu kinh ngạc! Chừng nầy cá và bánh thì ai ăn ai nhịn? Thôi thì cứ theo lệnh Chúa mà làm. Các vị phân phát phần bánh và cá ít ỏi cho dân.
Thế là người nầy trao qua, người kia chia lại, mọi người tỏ lòng hào phóng với nhau. Và đang khi họ chấp nhận trao phần bánh ít ỏi của mình cho người khác thì phép lạ xảy ra: bánh càng trao đi thì càng được tăng thêm nhiều, cá càng được chia ra thì lại phát sinh gấp bội, nhiều đến nỗi cả năm ngàn người ăn không hết còn dư lại cả mười hai thúng đầy!
Phép lạ nầy cũng như hũ bột của bà goá Sarépta: Dù đang giữa cơn hạn hán trầm trọng, dù nạn đói hoành hành khắp nơi, dù chỉ còn chút bột ít ỏi trong hũ và chút dầu còm cõi trong bình, bà goá thành Sa-rép-ta vẫn vâng theo lời tiên tri Êlia truyền dạy, đem phần ăn ít ỏi của mình cống hiến cho người khác. Thế là hũ bột không vơi, bình dầu không cạn cho đến khi Chúa cho mưa xuống làm hoa trái tốt tươi. (1V 17, 7-16)
Nếu hôm nay, nhân loại biết nghe theo lời Chúa Giêsu: “Các con hãy cho họ ăn” để rồi mọi người biết chia bánh cho người người chung quanh mình, thì chắc chắn nạn đói sẽ không còn tồn tại trên mặt đất nầy.
* * *
Xin mượn lời kể của Mẹ Têrêxa thành Cacutta để thay cho phần kết: Ngày nọ, có một thiếu phụ và tám đứa con dại đến gõ cửa xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con của bà không có được một hạt cơm trong bao tử. Mẹ Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám ơn và chia ra làm hai phần… Ngạc nhiên về cử chỉ ấy, Mẹ Têrêxa hỏi tại sao lại phân làm hai. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: “Tôi dành lại một phần cho gia đình người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không có gì để ăn”.
Mẹ Têrêxa kết luận: Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta biết chia sẻ cho nhau.
47. Bánh hoá nhiều
Đám đông dân chúng say mê đi theo Chúa vì những lời Ngài giảng dạy và những phép lạ Ngài đã làm. Không một ai đã nghĩ đến việc mang thực phẩm dự trữ. Ngoại trừ một em nhỏ có được 2 con cá và mấy chiếc bánh.
Khi các tông đồ hỏi xin, em đã đưa hết không một chút ngần ngại. Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, rồi trao cho các tông đồ đem đi phân phát. Hiệu quả năm ngàn người đã được no nê mà vẫn còn dư lại những 12 thúng đầy. Đám đông kinh ngạc và hớn hở, họ thầm nghĩ phải chăng Ngài sẽ là Đấng dẫn đưa dân tộc họ tới một thời đại vàng son. Họ đang cần một vị vua lẫm liệt oai phong. Biết được ý đồ ấy, Ngài đã một mình rút vào nơi thanh vắng. Nhưng dân chúng một khi đã được khích động thì khó mà thay đổi được tình cảm và mục đích, cho nên ngày hôm sau tại hội đường Capharnaum, họ lại xin Ngài thực hiện phép lạ ấy một lần nữa.
Từ khởi điểm này, Ngài đã giới thiệu một thứ lương thực thần linh và thực hiện một phép lạ còn kỳ diệu hơn nữa. Ngài phán: Hãy làm việc không phải vì của ăn hư nát, nhưng vì của ăn dẫn tới cuộc sống đời đời. Của ăn ấy Ta sẽ ban đó chính là Mình Ta cho thế gian được sống. Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.
Những lời này, khiến họ lấy làm chướng tai khó nghe nên họ đã bỏ Ngài, chỉ còn lại nhóm 12. Mặc dù biết các ông còn bàn tán, Chúa Giêsu đã không cắt nghĩa mà Ngài còn nhấn mạnh hơn nữa: Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống. Sau này trong bữa Tiệc Ly Ngài đã lặp lại: Hãy cầm lấy mà ăn vì này là Mình Ta. Hãy cầm lấy mà uống, vì này là Máu Ta. Lời Chúa về lương thực thần linh đã trở nên một điểm làm phân rẽ nhân tâm, để rồi nhiều người đã bỏ Chúa. Từ đó cho đến nay, Bí tích Thánh Thể vẫn là một mầu nhiệm cao cả nhất và cũng là một điểm làm cho nhiều người vấp ngã. Nhưng lập trường của Chúa vẫn luôn dứt khoát và rõ rệt trước sau như một: Nếu các ngươi không ăn thịt và uống máu Con Người, các ngươi sẽ không có sự sống. Đây cũng là một định luật căn bản: được nuôi dưỡng hay là sẽ phải chết. Sự sống cần đến những năng lượng để sinh hoạt và phát triển, bằng không sẽ bị tàn lụi.
Bánh cho người tây phương và cơm gạo cho người đông phương là những hình ảnh thật cụ thể và quen thuộc, mà chúng ta cần đến hằng ngày. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã chuyển hình ảnh ấy vào lãnh vực siêu nhiên. Bánh đó không phải là thứ của ăn mà Ngài đã ban cho đám dân chúng, nhưng là lương thực thần linh nuôi sống linh hồn.
Sự sống siêu nhiên khởi đầu từ Bí tích Rửa tội, lớn lên bằng Bí tích Thêm sức và được bồi dưỡng bằng Bí tích Thánh Thể. Với Bí tích Thánh thể tâm hồn chúng ta được nuôi dưỡng và khỏe mạnh. Nếu chúng ta siêng năng rước lễ, chúng ta sẽ không còn khô khan nguội lạnh và xa tránh được nhiều tội lỗi, vì lúc bấy giờ Chúa sẽ ở cùng chúng ta và ai mạnh mẽ uy quyền cho bằng Chúa.
Trong thời buổi Giáo Hội bị bách hại bởi các bạo vương Lamã, người ta đã bí mật đem Mình Thánh Chúa cho các tín hữu bị bắt và bị giam cầm, nhờ đó mà các tín hữu ấy tìm được nguồn an ủi và trung thành với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng.
Cũng vậy, trong những trại tập trung, người ta đã chuyển bánh và rượu vào cho các linh mục bị tù đày để các ngài âm thầm cử hành thánh lễ, rồi phân phát Mình Thánh cho những bạn tù bất hạnh, lúc bấy giờ nhà tù trở thành gian cung thánh cho Thiên Chúa. Thân xác của chúng ta cần đến của ăn như thế nào thì tâm hồn chúng ta cũng cần đến Bí tích Thánh thể như vậy. Nhờ Bí tích Thánh Thể chúng ta kín múc được nguồn sinh lực, để vượt thắng mọi tội lỗi và mọi khổ đau, đồng thời bảo đảm cho chúng ta sự sống lại và niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Hãy xét mình xem chúng ta đã đáp trả lời mời gọi ân tình của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh thể như thế nào?
48. Bánh hóa nhiều
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mt 14: 13-21: Trên vạn nẻo đường Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm và gặp gỡ những con người ấy. Chỉ cần một chút quảng đại, một chút đóng góp của con người là đủ để Thiên Chúa thực hiện một phép lạ.
Nơi đây hoang vắng và đã muộn rồi, xin Thầy giải tán đám đông để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn, đây là một giải pháp hợp lý. Lo cho năm ngàn người ăn là ngòai tầm tay của các môn đệ, đây cũng là điều hợp lý. Tất cả đều hợp lý, nhưng lại không được Chúa chấp nhận. Chúa muốn các môn đệ phải nhận lấy trách nhiệm. Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn. Họ đói, các con phải lo cho họ ăn. Nhưng ở đây chúng con vỏn vẹn chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá. Vậy thì đem lại đây cho Thầy. Có ít đóng góp ít, điều quan trọng là phải đóng góp phần của mình. Có ít đóng góp ít, điều quan trọng là phải bắt đầu…và một phép lạ đã xảy ra.
Năm chiếc bánh và hai con cá là tượng trưng cho một sự đóng góp cần thiết để thực hiện một phép lạ vĩ đại là cho năm ngàn người ăn no. Trên vạn nẻo đường Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm và gặp gỡ những con người ấy. Chỉ cần một chút quảng đại, một chút đóng góp của con người là đủ để Thiên Chúa thực hiện một phép lạ.
– Sự đóng góp ở đây, không phải lúc nào cũng là 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng sự đóng góp có thể là thời gian, sức khỏe, tiền bạc cho tha nhân, cho những người cần đến chúng ta.
– Sự đóng góp ở đây, không phải lúc nào cũng là 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng có thể là bớt đi một chút nóng giận, một chút ghen tương, một chút hận thù.
– Sự đóng góp ở đây, không phải lúc nào cũng là 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng có thể là một chút khiêm nhường, bớt đi những kiêu căng, tự mãn, những phách lối trong cuộc sống gia đình và xã hội.
– Sự đóng góp ở đây, không phải lúc nào cũng là 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng có thể là một chút kiên nhẫn, biết chờ đợi giờ của Chúa.
Chỉ cần một chút đóng góp của con người là Thiên Chúa thực hiện ngay những phép lạ.
Nếu trong gia đình, người cha biết đóng góp phần của mình, người mẹ biết đóng góp phần của mình, người con biết đóng góp phần của mình. Chắc chắn những phép lạ sẽ đến với gia đình chúng ta.
Một điều chắc chắn là ai trong chúng ta cũng mong muốn những phép lạ, bởi vì phép lạ luôn làm chúng ta ngạc nhiên, phép lạ luôn làm chúng ta phấn khởi, phép lạ luôn mang lại cho chúng ta những niềm vui.
Vậy tại sao chúng ta không chuẩn bị để mỗi ngày phép lạ đến với gia đình chúng ta ?
Một vị ẩn sĩ nọ, sau 60 năm sống khắc khổ giữa sa mạc, bỗng cảm thấy chán nản khi nghĩ rằng mình chưa hề làm được phép lạ nào như các vị tiền bối. Ông quyết định rời bỏ sa mạc để trở về đô thị sống một cuộc sống tiện nghi, bình thường như mọi người. Nhưng đôi mắt Chúa lúc nào cũng dõi theo từng suy nghĩ, từng đường đi nước bước của ông. Biết ông đang toan tính bỏ cuộc,
Thiên Chúa bèn sai một thiên thần đến với ông.
Vị sứ thần đã nói với ông như sau: “ngươi đang toan tính điều gì thế ?
Ngươi hãy thử nghĩ có phép lạ nào kỳ diệu hơn chính cuộc sống của ngươi không ?
Ai đã ban sức mạnh để ngươi có thể tồn tại ở nơi hoang vu này trong mấy chục năm qua?
Ai đã chúc lành cho cây cỏ ngươi hưởng dùng mà không hề gây nguy hại cho ngươi ?
Ngươi hãy ở lại đây và xin Chúa cho ngươi thêm lòng khiêm nhường…”.
Được lời của sứ thần nâng đỡ, nhà ẩn sĩ ở lại trong sa mạc và tiếp tục cuộc sống tu trì của ông với niềm tin vững vàng rằng mỗi một giây phút qua đi trong cuộc sống là một phép lạ mà Thiên Chúa đang thực hiện cho ông.
Chúng ta vẫn thường nói: ngạc nhiên là khởi đầu của khám phá. Nếu tất cả những khám phá của khoa học đều bắt nguồn từ những câu hỏi mà con người tự đặt ra khi nhìn ngắm vũ trụ, thì sự ngây ngất trước những kỳ công của sáng tạo, trước cuộc sống, trước tình người cũng phải là động lực giúp người Kitô hữu chúng ta thấy được, cảm nếm được sự hiện diện và tác động kỳ diệu của Thiên Chúa.
Cái nhìn ấy sẽ giúp chúng ta thấy được giá trị của những công việc âm thầm từng ngày của chúng ta. Cái nhìn ấy sẽ mang lại cho chúng ta sức mạnh để tiếp tục phấn đấu khi phải đương đầu với bệnh tật, với thử thách, với những mất mát trong cuộc sống. Một Thiên Chúa luôn làm những kỳ diệu cũng chính là Đấng đang có mặt từng giây phút trong cuộc sống chúng ta để đem lại cho chúng ta những điều thiện hảo đôi khi vượt quá cái nhìn nông cạn, sự thẩm định giới hạn của chúng ta. Amen.
49. Chúa Nhật 18 Thường Niên
(Suy niệm của Lm Gioan Phan Tiến Dũng)
Hai tuần qua khi “dịch bệnh Covid 19” bùng phát lại tại một số nơi, hai từ “Cách Ly” được nói tới rất nhiều, nhưng không biết lần cách ly này có làm ảnh hưởng và làm cho chúng ta lo sợ chăng? Thưa ACE, nếu bị phải cách ly, thì chúng ta sẽ làm gì? Trong đợt bùng phát của “đại dịch covid 19” vừa qua, lúc mà cả nước phải cách ly, thì ai cũng lo lắng vì không biết mình phải sống ra làm sao? Thật vậy, khi phải cách ly toàn xã hội, điều làm cho nhiều người lo lắng nhất là: lấy gì để mà ăn? làm sao để mua và tích trữ được nhiều đồ ăn thức uống cho những ngày cách ly này? Trong khi nhiều người đổ xô đi mua đồ ăn thức uống, đến mức nhiều lúc không còn đồ gì để mua. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, lại có những người thiện nguyện, những nhà hảo tâm với cách này hay cách khác lại giúp đỡ chia sẻ cho anh chị em những đồ ăn thức uống. Tôi nhớ rất rõ ngay trong Giáo xứ Tấn Tài trong dịp cách ly vừa qua cũng đã có tới 6 lần chia sẻ những món quà tình thương cho những người có hoàn cảnh khó khăn. Tất cả những món quà này là do tình yêu thương, lòng quãng đại của các vị ân nhân cách thầm lặng như “năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ” mà họ muốn cùng với Giáo xứ gởi đến cho ACE của mình.
Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đã “xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ”. Cách nào đó, cũng có thể nói Chúa đang đi vào một nơi để “cách ly” với cuộc sống thực tại của xã hội. Vì hoang địa vắng vẻ, chắc chắn sẽ là nơi không có người hay không có đồ ăn thức uống gì. Vậy, tại sao Chúa lại chọn đến nơi này? Chúa đi đến nơi hoang địa vắng vẻ để cầu nguyện, để gặp gỡ với Thiên Chúa Cha; Chúa đã chọn cách thức “cách ly” này để có một cách sống thân mật và gắn bó khác với Chúa Cha, để từ đây Ngài có thể thi hành cách trọn vẹn sứ vụ của Cha Ngài trao phó. Một điều thú vị ở đây là: “Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người”. Dân chúng cũng đã chọn cách thức “cách ly” như Chúa Giêsu. Tại sao họ lại chọn cách này? Vì họ tìm đến để nghe những lời giáo huấn, dạy dỗ của Chúa Giêsu; họ lựa chọn, vì họ tin rằng chỉ có Chúa mới là Đấng yêu thương chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền, và trên hết họ đến để được lãnh nhận những ân sủng từ Thiên Chúa ban. Qua cách chọn lựa của dân chúng đi vào nơi “cách ly” cùng với Chúa Giêsu, “Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ”. Không những thế, Chúa còn truyền dạy với các môn đệ: “Các con hãy cho họ ăn” trong khi các ông muốn Chúa giải tán dân chúng.
“Hãy cho họ ăn” là một vấn đề quá nan giải và không thể với các môn đệ. Vì sẽ lấy đâu ra bánh nơi “hoang địa vắng vẻ-cách ly” này. Đứng trước những khó khăn và thách đố của cuộc sống, thật khả năng và sức lực của con người dường như “bó tay-tuyệt vọng”. May mắn thay, vẫn còn chút hy vọng là dấu chỉ từ “năm chiếc bánh và hai con cá”. Thế nhưng, năm chiếc bánh và hai con cá thì quá nhỏ so với hơn 5000 người. Từ đây chúng ta nhận ra chính sự can thiệp-ơn quan phòng của Thiên Chúa, khi Chúa truyền dạy các môn đệ “Hãy đem lại cho Thầy…Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no”. Chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, thế mà từng ấy người, họ đã được ăn no nê. Tại sao lại có thể? Vì đây chính là phép lạ của tình yêu thương, phép lạ của ân sủng, phép lạ của sự chia sẻ và cộng tác của con người với ơn thánh của Chúa. Thật vậy, với “Thiên Chúa thì không có việc gì mà không thể được”.
Quay trở lại với thực tại cuộc sống của chúng ta hiện nay, khi con người đang phải đối diện với quá nhiều khó khăn; có quá nhiều thứ đang làm cho chúng ta phải lo lắng, hoang mang, và ngay cả sợ hãi…Vậy để được bình an và thoát khỏi những ràng buộc đó, điều quan trọng là chúng ta có dám để cùng với Chúa Giêsu đi vào trong “hoang địa vắng vẻ-cách ly” cùng với Ngài không? Khi cùng Ngài đi vào cuộc hành trình này, chắc hẳn Chúa không đòi chúng ta phải mang theo đồ ăn thức uống, nhưng Chúa muốn chúng ta đem theo tấm lòng khiêm tốn, rộng mở và lòng tín thác tuyệt đối vào Chúa. Đi vào nơi “hoang địa vắng vẻ-cách ly” cùng với Chúa là một sự tự do lựa chọn chỉ dành cho ai dám sống dấn thân cho Chúa và tha nhân. Thánh Phaolo trong bài đọc hai đã chọn Chúa, Ngài đã đi vào cuộc hành trình mà Thánh ý Chúa vạch ra, hướng dẫn và đồng hành. Trên cuộc hành trình này chính Ngài đã cảm nghiệm và chia sẻ lại cho chúng ta: “ai sẽ tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Ðức Kitô được? là gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo sao”? “Chúng ta vượt thắng được trong tất cả những sự ấy, là vì Ðấng đã yêu thương chúng ta”. Thật vậy, với tình thương-quan phòng mà Chúa dành cho chúng ta, cùng lòng mến và sự tín thác của chúng ta vào ơn Chúa. Phép lạ của tình thương và ân sủng sẽ xảy ra.
Xin cho mỗi người chúng ta dám can đảm để trút bỏ những vướng bận, khó khăn của cuộc sống, để dấn thân đi vào cuộc hành trình đức tin với Chúa qua các ân sủng của bí tích, để với ơn Thánh tình yêu của Chúa, chúng ta được trở nên những người được Chúa chúc phúc. Amen.
50. Suy niệm của JKN
Hãy yêu thương và chủ động làm những gì tình yêu đòi hỏi
Câu hỏi gợi ý:
1. Khi ta đang cần nghỉ ngơi, cần cầu nguyện, mà có ai đó cần đến ta, ta sẽ hành xử thế nào?
2. Đức Giêsu yêu cầu chính các tông đồ phải lo cho dân chúng ăn, điều đó có ý nghĩa gì?
3. Tại sao Ngài không làm phép lạ hóa bánh và cá từ không ra có, mà lại phải biến bánh và cá do các môn đệ kiếm được từ ít ra nhiều?
4. Trong công việc của Chúa, phần cộng tác của ta quả thật quá nhỏ bé, mọi việc chủ yếu là nhờ Chúa, do Chúa. Nhưng nếu không có phần cộng tác của ta, của con người, thì việc của Ngài ở trần gian có thành tựu không?
Suy tư gợi ý:
1. Dù mệt nhọc, cần nghỉ ngơi, Ngài vẫn đón tiếp dân chúng
Sau khi nghe tin Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrốt chém đầu (x. Mt Mt 14,3-12), chắc chắn Đức Giêsu hết sức xúc động, ngậm ngùi thương tiếc người đã từng nhiệt thành làm tiền hô cho mình. Đoạn Tin Mừng Mt 14,13-21 cho biết lúc ấy Ngài «đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt», vì Ngài có nhu cầu ở một mình để tưởng niệm người quá cố, đồng thời để nghỉ ngơi và cầu nguyện. Nhưng không ngờ dân chúng lại tìm đến Ngài rất đông. Tin Mừng cho biết: «Trông thấy đoàn người đông đảo thì Ngài chạnh lòng thương». «Chạnh lòng thương» là phản ứng của người có lòng trắc ẩn, hay thương xót, thông cảm với những nhu cầu, với những hoàn cảnh éo le, đau khổ của tha nhân. Vì thế, mặc dù chính Ngài đang cần nghỉ ngơi, cần ở một mình, nhưng Ngài đã quên nhu cầu của mình mà chỉ nghĩ đến nhu cầu của dân chúng. Ngài đã đón tiếp họ và «chữa lành các bệnh nhân của họ».
Trong cuộc sống đời thường, ta cũng gặp rất nhiều trường hợp tương tự như Ngài: đang khi cần yên tĩnh nghỉ ngơi sau cả một ngày làm việc mệt nhọc, hoặc khi đang nghỉ ngơi thì có người gọi điện thoại hoặc đến tận nhà nhờ vả ta một điều gì cần thiết. Lúc đó ta phản ứng thế nào? Có thể ta nghĩ rằng: «Mình phải nghỉ ngơi cái đã, vì có nghỉ ngơi thì mới làm việc được. Vả lại mình còn biết bao việc khác phải làm nữa. Phải yêu cầu người ta chờ mình nghỉ ngơi đã!»? Hay ta nghĩ rằng: «Người ta cần mình ngay bây giờ nên mới đến vào giờ này. Nếu không giúp họ giờ này thì có thể không còn cơ hội nào giúp họ nữa và công việc của họ sẽ bị lỡ. Thôi mình ráng hy sinh cho họ một chút, mình có thể nghỉ ngơi bù vào lúc khác cũng được mà!»? Phải công nhận nghĩ và làm được như thế là việc rất khó, đòi hỏi nhiều tình yêu và lòng bao dung. Trong quá khứ, một vài lần vì mệt mỏi sau cả ngày làm việc, tôi đã từ chối giúp đỡ một vài người, nay tôi rất hối hận và tự hỏi: không biết người ta bị kẹt đến thế nào khi mình không giúp họ, và họ buồn thế nào vì việc ấy? Tôi thấy mình đã không giống Đức Giêsu Thầy của mình bao nhiêu, vì mình ít tình yêu quá! Tình yêu mình không đủ mạnh để có thể ráng hy sinh cho tha nhân khi họ cần, dẫu mình đã mệt!
2. Người tông đồ phải có tình thương trong lòng trước đã
Ở những vùng dân chúng rất nghèo – như những vùng truyền giáo cho các dân tộc thiểu số – giáo dân phải đi thật xa hàng mấy chục cây số mới đến được nhà thờ để dâng thánh lễ và học hỏi giáo lý. Nhiều vị chủ chăn đã lo cho họ ăn uống cả hàng trăm người trước khi họ ra về (khi thì cơm, khi bánh mì, khi thì mì ăn liền…). Để thực hiện việc này, tháng nào vị linh mục cũng phải đi hàng chục hay hàng trăm cây số đến gõ cửa những nhà hảo tâm quen biết hoặc được giới thiệu để «ăn mày» dùm cho họ. Thật là một hình ảnh rất đẹp về người chủ chăn! Các vị đã thực hiện lời Đức Giêsu: «Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn».
Khi nói câu ấy, Đức Giêsu muốn gây ý thức nơi các tông đồ về tình yêu thương, sự quan tâm mà một mục tử phải có đối với dân chúng. Mặc dù mục đích của người tông đồ là loan báo Tin Mừng chứ không phải là lo chuyện vật chất cho dân chúng. Nhưng khi ta biết dân chúng có nhu cầu nào đó, ta nên thể hiện tình yêu thương của ta đối với họ bằng cách giúp họ nhu cầu ấy. Dân chúng có yêu thương mình, lời mình rao giảng mới thấm vào lòng họ. Dân chúng có cảm thấy mình yêu thương họ, họ mới hứng khởi thực hiện những điều mình dạy dỗ. Dân chúng bị hấp dẫn đến với Đức Giêsu không chỉ vì Ngài dạy dỗ họ những điều hay lẽ phải cho bằng vì họ cảm thấy Ngài yêu thương họ, vì Ngài quan tâm săn sóc họ, vì Ngài chữa bệnh cho họ, giúp họ giải quyết những khó khăn trong đời sống họ…
Kitô giáo là đạo của tình thương, lấy tình yêu thương làm bản chất của đạo (x. Ga 13,34-35), nên những người rao giảng đạo này phải là người có dồi dào tình thương hơn mọi người, và tình yêu thương ấy phải được chứng tỏ bằng hành động. Truyền đạo không phải chỉ là cung cấp cho người ta có một số kiến thức về Thiên Chúa, về Đức Giêsu hay về Lời của Ngài, mà là làm cho họ trở thành môn đệ Ngài, theo Chúa, và sống giới luật yêu thương của Ngài. Chính mình không sống tinh thần yêu thương này, làm sao mình có thể truyền tinh thần yêu thương này cho người khác được?
3. Hãy chủ động phần việc của mình trước đã…
Khi yêu cầu các môn đệ hãy tự mình lo cho họ ăn, Đức Giêsu đã thừa biết khả năng hạn hẹp của các ông, và Ngài cũng đã biết mình phải làm gì. Với quyền năng của Ngài, Ngài có thể biến không khí thành bánh và cá nuôi đám dân chúng, không cần đến 5 chiếc bánh và 2 con cá mà các ông tìm được trong dân chúng. Nhưng Ngài không muốn đơn phương làm như vậy, Ngài muốn có sự góp phần của mọi người. Trước tiên, Ngài muốn chính các tông đồ phải có tình thương, có ý thức trách nhiệm đối với dân chúng và thật sự muốn lo cho họ. Ngài nói: «Chính anh em hãy cho họ ăn».
Các tông đồ quả có nhận ra nhu cầu của dân chúng, nhưng tình yêu của các ông đối với dân chúng chưa mạnh đủ để có thể lóe lên sáng kiến hay thúc đẩy các ông tìm cách nào nuôi dân chúng. Vì thế, ngay từ đầu các ông đã nghĩ mình bất lực không thể giúp gì họ được, và các ông đề nghị giải tán dân chúng. Nếu các ông có nhiều tình yêu hơn, các ông sẽ nghĩ ra được mình nên làm gì. Chẳng hạn các ông có thể nói với Đức Giêsu: «Bây giờ chúng ta phải lo cho họ ăn, chúng con chưa biết làm cách nào, nhưng chúng con biết Thầy có cách». Nói như thế, các ông vừa tỏ ra tình yêu và ý thức trách nhiệm của mình, vừa tỏ ra tin tưởng vào quyền năng của Thầy mình.
Trong cuộc đời, rất nhiều khi có những việc nào đó ta nên làm hay phải làm nhưng không làm được chỉ vì ta không đủ tình yêu, không đủ nhiệt thành và lòng hăng say. Thiếu yếu tố quan trọng này, ta thường bi quan yếm thế cho rằng mình không thể thực hiện được. Trong một trận chiến, chưa xuất quân mà ta đã nghĩ rằng mình sẽ thua thì quả thật ta đã thua ngay từ đầu ngay trong tư tưởng của mình rồi. Nguyễn Bá học nói: «Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông». Nhiều việc tốt ta không làm được, không phải vì nó khó hay vì nó không thể làm được, mà vì ta không đủ tình yêu để làm, vì ta đã đầu hàng nó ngay từ trong tư tưởng của ta.
Người Kitô hữu không nên sợ mình không làm được, vì ta luôn luôn có một sức mạnh ở ngay trong bản thân mình, đó là quyền năng của Thiên Chúa. Nếu ta tin tưởng vào quyền năng của Ngài, ta sẽ làm được nhiều việc mà mọi người đều nghĩ rằng ta không thể. Vì «không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được» (Lc 1,37). Vì «tôi có thể làm được tất cả nhờ quyền năng của Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13). Vì «nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì (…) sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được» (Mt 17,20). Tại sao có những vị thánh đã làm được rất nhiều phép lạ? Chính vì các ngài có rất nhiều tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, và vì các ngài tin tưởng vững chắc vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng luôn hỗ trợ cho mình. Tình yêu thúc đẩy các ngài hành động, và lòng tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa khiến hành động của các ngài đi đến thành công.
Người đời vẫn nói: «Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên». Qua bài Tin Mừng về Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều này, ta thấy Ngài muốn các tông đồ, tức con người, phải mưu sự trước, và Ngài chỉ là người giúp cho mưu sự ấy thành công. Các nhà tu đức vẫn nói: «nỗ lực rồi cậy trông», nghĩa là chúng ta phải chủ động nỗ lực trước đã, dù nỗ lực ấy chỉ là yếu tố rất nhỏ (chỉ 1%) để thành tựu và phần chủ yếu (có đến 99%) là do Ngài, nhưng nếu không có phần nỗ lực rất nhỏ khởi đầu của ta thì không có sự việc gì thành tựu. Thánh ý Ngài là muốn có phần chủ động cộng tác của ta. Cho dù ngay cả việc chủ động của ta cũng do Thánh Thần Ngài thúc đẩy, vẫn phải luôn có phần của ta, vì nếu thiếu nó, Thiên Chúa cũng không còn muốn làm phần của Ngài nữa!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Cha luôn muốn phát triển tình yêu thương trong lòng con người. Cha muốn mọi điều tốt được thực hiện trên đời này là do sáng kiến của con người, bắt nguồn từ tình yêu thương của họ. Cha rất sung sướng được cộng tác với những công việc tốt đẹp mà chính họ sáng kiến và quyết tâm thực hiện, cho dù sự thành tựu là do Cha tới 99%. Nhưng Cha vẫn muốn phải có 1% công lao của con người, mà thiếu nó thì chính Cha cũng không muốn thực hiện 99% còn lại kia. Xin Cha giúp con ý thức điều đó, để con tập sáng kiến và chủ động trong những việc tốt lành mà với sự cộng tác của Cha, con có thể làm được cho tha nhân, cho thế giới. (JK)
51. Cộng tác
Trong ba năm giảng dạy của Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng kể lại hai lần Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Phép lạ kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay là lần thứ nhất, xảy ra vào tháng tư, gần lễ Vượt Qua của năm 29, tức là vào năm thứ hai giảng dạy của Chúa Giêsu. Chúa muốn nói gì với chúng ta khi làm phép lạ này?
Điều thứ nhất, Chúa muốn nói với chúng ta về lòng thương xót. Xưa kia trong sa mạc, trên đường về Đất Hứa, dân Do Thái đã kêu xin Chúa ban lương thực cho họ. Trước những lời kêu xin đó Thiên Chúa đã không làm ngơ và đã ban man – na cho họ. Cũng vậy, Chúa Giêsu đã không làm ngơ trước cảnh dân chúng đi theo Ngài để nghe Ngài giảng dạy ở một nơi đồng không mông quạnh mà không có gì ăn, Ngài đã hóa bánh ra nhiều cho họ ăn no, Ngài đã thương xót họ. Trong bối cảnh của phép lạ này, chúng ta thấy có hai thứ thương xót. Các môn đệ thấy trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ và đã thưa với Chúa: “Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn”. Đó là thứ thương xót thứ nhất, thứ thương xót nhập đề. Lòng thương xót này cần thiết vì là khởi điểm. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ. Vì thế, Chúa muốn các môn đệ bước qua thứ thương xót khởi điểm đó, đem thứ thương xót nhập đề vào thứ thương xót thứ hai, thứ thương xót nhập cuộc: “Các con hãy lo cho họ ăn”.
Quả thực, có tấm lòng thương xót người khác là một điều tốt rồi, nhưng chưa đủ. Có những lời nói xót thương người khác cũng là một điều tốt rồi, nhưng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, phải có hành động xót thương thực sự nữa, Chúa Giêsu đã thể hiện như thế và Ngài dạy chúng ta hãy sống như thế. Chúng ta hãy nghĩ xem; trước những nỗi đau của người khác, trước những túng thiếu của người anh em, chúng ta thường có những thái độ nào? Thái độ ngoảnh mặt làm ngơ, bưng tai giả điếc là thái độ không thể nào chấp nhận được, mà trong thực tế có nhiều người trong chúng ta đã có thái độ đó. Rồi có lòng trắc ẩn hay những lời nói an ủi, khích lệ, thông cảm là thái độ tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là biết chia sẻ, biết san sẻ, giúp đỡ. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì nằm trong tầm tay, nằm trong khả năng của mình, phần còn lại Chúa sẽ thực hiện. Chúng ta hãy nhớ: điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều nhưng là ở chỗ biết ý thức người khác cũng là con Thiên Chúa, cũng là anh chị em của chúng ta.
Trong ý tưởng đó, chúng ta hãy suy nghĩ những lời phát biểu trước quốc hội của ông Ganhdi, vị anh hùng đã áp dụng phương pháp bất bạo động để giải phóng dân tộc An Độ khỏi ách thống trị của Anh Quốc. Ông Ganhdi đã nói: “Theo quan niệm của tôi thì về một ý nghĩa nào đó, chúng ta là những người ăn cắp. Bởi lẽ nếu tôi có một vật nào đó mà tôi không cần ngay bây giờ nhưng tôi vẫn giữ nó, thì đó là tôi ăn cắp vật đó từ một người khác đang cần đến nó. Tại An Độ hiện nay, chúng ta có ba triệu người mỗi ngày chỉ ăn một bữa và thức ăn của họ chỉ là một miếng bánh và một nhúm muối. Trước thực tại này, quí vị và tôi không có quyền sở hữu một vật gì mà chúng ta không trực tiếp cần đến, cho đến khi ba triệu người này được ăn no, mặc ấm”. Những lời phát biểu đó cũng là những gợi ý giúp chúng ta hiểu và sống lời Chúa hôm nay.
Điều thứ hai, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua phép lạ hóa bánh này là sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa. Với quyền năng vô biên, Chúa chỉ cần phán một lời là có dư thừa bánh cho mọi người ăn, nhưng Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài khi Ngài bảo các ông: “Các con hãy lo cho họ ăn”. Khi các môn đệ tìm được 5 chiếc bánh và 2 con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho chúng ta biết: cần có sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa đối với chúng ta, nghĩa là bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.
Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí, bằng cố gắng, bằng kiên nhẫn, bằng hy sinh. Đừng kể trong đời thường mà thôi nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Âu Tinh đã nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”.
Câu chuyện sau đây minh họa cho điều đó: Một nhà văn Kitô giáo đã dựng một vở kịch diễn tả vụ hành quyết một tên trọng phạm tại một thị trấn nhỏ thời Trung Cổ. Theo phép nước, chỉ có một lối thoát chết cho tử tội là nộp đủ 1000 đồng tiền vàng để chuộc mạng. Nhà vua tỏ ra hào hiệp tặng hết số vàng 700 đồng mang theo trong một chuyến tuần du qua đây, hoàng hậu theo gương có 200 đồng cũng giúp hết, các cận thần đi theo cũng dốc túi. Người ta đếm được 999 đồng, còn thiếu một đồng. Công lý không thể nhân nhượng, đành phải thi hành pháp lệnh. Toán hành quyết tròng dây thừng vào cổ tên tử tội thiếu may mắn. Khi sắp sửa rút dây thì có một tiếng kêu lớn: “Khoan đã, lục soát người nó đi, biết đâu đấy”, tên đao phủ lần mò khắp người tội nhân và móc ra được một đồng hắn giấu trong lưng quần từ hồi nào mà hắn cũng không nhớ nữa. Thế là đủ 1000 đồng, tên tử tội được thoát chết. Có lẽ chúng ta đều hiểu câu chuyện này phải không? Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng ta, Mẹ Maria đã trợ giúp chúng ta, các thánh cũng trợ giúp chúng ta, và chính chúng ta cũng phải góp phần. Tóm lại, dù chúng ta là ai, dù chúng ta hèn kém thế nào, chúng ta hãy cố gắng với hết khả năng của mình, Chúa sẽ trợ giúp chúng ta.
52. Các con hãy cho họ ăn – Lm. Minh Vận, CRM
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy tình thương của Chúa thật dạt dào vô bờ vô bến. Suốt một ngày, dân chúng từng đoàn lũ đông đảo theo Chúa để nghe lời Ngài giảng. Chiều đến, Chúa và môn đệ tìm một nơi an tĩnh để nghỉ ngơi một chút, nhưng cũng chẳng được, vì đoàn lũ cứ theo các ngài.
I. TÌNH CHÚA YÊU THƯƠNG MỌI NGƯỜI
Thấy dân chúng đông đúc vẫn theo Chúa mãi không biết mỏi mệt, Ngài động lòng thương họ; vì họ như đoàn chiên không người chăn dắt. Chúa đã chữa họ khỏi mọi bệnh tật đau yếu. Sau cùng, trời đã về chiều các môn đệ xin Chúa giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mua đồ ăn, Chúa không chấp nhận, mà trái lại còn truyền dạy: “Các con hãy cho họ ăn”. Khốn nỗi, các môn đệ lại chỉ còn có 5 ổ bánh và 2 con cá, mà bằng ấy thì thấm vào đâu. Chúa đã làm phép lạ bánh và cá hóa ra nhiều cho 5000 người ăn no, không kể đàn bà con trẻ, thế mà còn thu lại được 12 thúng những mẩu bánh vụn.
Chúa là Chúa Tình Thương, bản tính của Người chỉ là yêu thương, không để lỡ một cơ hội nào mà Người không thể hiện tình yêu thương đó qua mọi thế hệ, trong mọi hoàn cảnh và dưới mọi lãnh vực. Không những cứu chữa con người khỏi các chứng bệnh phần xác, nuôi sống họ trong lúc đói khát; mà còn cứu họ khỏi những cơn đói khát tinh thần, đói khát tình thương, đói khát chân lý, đói khát an bình, đói khát lòng nhân đạo.
Đọc Thánh Kinh, chúng ta thấy Chúa luôn luôn biểu lộ tình yêu thương: Nuôi sống Dân Chúa suốt 48 năm trong hoang địa hiu quạch bằng manna, chim cút và giãn khát họ bằng mạch nước từ tảng đá chảy ra, do lệnh Chúa truyền cho Maisen giơ gậy đập vào tảng đá (Exd 16:9-15). Chúa nuôi tiên tri Elia đang ẩn trốn trong hang núi bằng ổ bánh mì và thịt nướng, cứ mỗi buổi chiều do con quạ từ đâu mang tới (I Kg 17:2-7). Cũng cách thế đó, Chúa nuôi dưỡng Thánh Antôn tu rừng sau khi Thánh Nhân đã bán hết tài sản phân phát cho người nghèo khó, bằng ổ bánh lùi và ve nước mát do chú quạ từ xa mang lại.
Mỗi người chúng ta cũng đều có thể cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương chúng ta: Với niềm tin và lòng biết ơn, ai trong chúng ta cũng cảm thấy lòng Chúa yêu thương, không những đã dựng nên chúng ta làm người, cứu chuộc chúng ta khỏi chết trong tội lỗi, quan phòng bảo tồn cho chúng ta được luôn tồn tại. Trong suốt cuộc sống, qua mọi hoàn cảnh, chúng ta đều có thể cảm nhận được tình Chúa yêu thương chúng ta, ban cho chúng ta đủ mọi ơn lành hồn xác.
II. LỆNH TRUYỀN CÁC CON HÃY CHO HỌ ĂN
Để đáp lại tình Chúa yêu thương, Giáo Hội cũng như các Tông Đồ xưa, luôn tìm mọi cách thực thi lệnh Chúa truyền: “Các con hãy cho họ ăn! Các con hãy cho họ ăn!”
Cảm thương trước nỗi đói khổ, nghèo túng, bệnh tật, đau thương của nhiều người trong nhiều quốc gia trên thế giới, Chúa đã ban cho Giáo Hội nhiều Vị Thánh, nhiều nhà hảo tâm, đã lập nên những cơ quan từ thiện, viện cô nhi, trại cải huấn, làng phong cùi, bệnh viện… để xoa dịu vết thương đau của con người, nhất là những thành phần bị bỏ rơi, phải quên lãng, bị gạt ra ngoài lề xã hội, không còn có quyền được sống.
Mẹ Terexa Calcutte là một điển hình sống động nhất hiện nay. Mẹ là một Nữ Tu nay đã gần 80 tuổi, mới được Đức Thánh Cha chấp nhận đơn từ nhiệm chức vụ Bề Trên Tổng Quyền Dòng Thừa Sai Bác Ái do Mẹ sáng lập vì lý do già yếu. Mẹ là một người đàn bà đơn côi, khó nghèo, khiêm hạ, chẳng có quyền uy nào trong xã hội hiện nay, cũng chẳng có của cải sản nghiệp; thế nhưng Mẹ đang nổi tiếng vào bậc nhất trong thời đại chúng ta. Năm 1979 Mẹ đã được giải thưởng Hoà Bình Nobel, Mẹ đang làm chủ nhiều nhà thương, do công cuộc từ thiện bác ái của Mẹ, viện tế bần, nhà bác ái, trường huấn nghệ tại 50 thành phố trong cả nước Ấn Độ và 400 chi nhánh rải rắc trong 92 quốc gia trên thế giới với tổng số Nữ Tu lên hơn 3 ngàn.
Không một nạn đói khổ, thiên tại, động đất, chiến tranh, mất nhân quyền, những vụ bị đàn áp bất công nào xảy ra trên giới, mà không được Giáo Hội quan tâm trợ giúp, nâng đỡ hoặc ra sức dùng uy tín mình để bảo vệ, tranh đấu hầu có thể tái lập thế quân bình trong xã hội.
Cảm thương những nỗi thương đau tinh thần của nhiều người, chưa được ánh sáng Đức Tin soi chiếu trở về chính lộ, chưa được diễm phúc nhận biết và tôn thờ Chúa, nhiều vị Thánh, nhiều nhà truyền giáo đã hy sinh trót cuộc đời, vượt trùng dương, hiến thân chịu cực khổ, đến những nơi man ri mọi rợ để rao giảng danh Chúa, chinh phục muôn người trở về với Chúa và Giáo Hội… Nhiều vị còn sẵn sàng hiến thân chịu chết để làm chứng nhân cho niềm tin, hoặc chết thay cho người khác để họ được sống, hầu cho Chúa được tôn vinh, như trường hợp Thánh Maximilian Kolbe đã chết cho một anh bạn tù của Đức Quốc Xã, để anh được sống và trở về với vợ con. Ngài đã được Giáo Hội tuyên dương công đức để thế giới ngưỡng mộ và noi theo bắt chước, bằng cách tôn phong ngài lên bậc Hiển Thánh.
III. CHÚNG TA CẦN CÓ NGHĨA VỤ NÀO
Trước tình Chúa yêu thương, qua ơn tạo dựng, săn sóc, bảo tồn chúng ta, trào đổ muôn ơn phúc xuống trên chúng ta, trải dài trong cả cuộc sống… Chúa còn hy hiến bản thân, chịu chết để cứu chúng ta khỏi án phạt chết muôn đời. Dầu vậy, Chúa cũng chưa lấy làm mãn nguyện, Người còn lập nên Nhiệm Tích Thánh Thể để ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, hầu nên lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, nên nguồn an ủi hạnh phúc cho chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế. Vậy chúng ta phải có nghĩa vụ nào trước những chứng tích tình yêu vô cùng của Chúa đối với chúng ta?
Các Thánh đã đáp lại tình Chúa yêu thương bằng cách thực thi lệnh Chúa truyền: “Các con hãy cho họ ăn!” Các ngài đã hy hiến cả cuộc đời, đi khắp đó đây rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, lãnh nhận mọi vất vả đến hao mòn kiệt quệ, chịu tủi nhục, chịu khủng bố, bị vu oan cáo vạ, bị tù đầy và còn sẵn sàng lãnh nhận cả cái chết vì các phần rỗi linh hồn, để Chúa được tôn vinh, được phụng thờ, được yêu mến. Còn chúng ta, chúng ta đã làm gì và chúng ta sẽ làm gì?
Chúng ta có dám hy sinh chút ít của cải, công lao, sức lực, thời giờ để xoa dịu vết thương đau thể xác; an ủi những tâm hồn sầu khổ, cải hóa tội nhân, bệnh vực kẻ bị áp bức, nâng đỡ người yếu đuối, khích lệ kẻ thất vọng ngã lòng, an ủi người cô thế cô thân, kẻ mồ côi cô độc, dẫn dụ kẻ lạc bước trở về chính lộ, nhất là cầu nguyện và nỗ lực làm việc tông đồ chinh phục những người chưa nhận biết được trở về với Chúa, theo gương các Thánh và những tâm hồn thiện chí trong Giáo Hội không?
Kết Luận
Chúng ta có dám hy sinh đồng bạc cuối cùng, bát cơm sau hết cho sự sống mình, để giúp đỡ tha nhân như bà góa trong Tin Mừng và bà góa thời tiên tri Elia không?
Chắc chắn Chúa không phụ lòng quảng đại của chúng ta, khi chúng ta đáp lại lệnh Chúa truyền: “Các con hãy cho họ ăn”. Chúa sẽ ân thưởng bội hậu cho những nghĩa cử bác ái của chúng ta khi chúng ta giúp đỡ tha nhân, trong cuộc sống vĩnh cửu mai hậu, có khi Chúa còn trọng thưởng chúng ta ngay ở cuộc sống trên trần gian này nữa.
53. Hãy cho
Bắt đầu bài Phúc âm hôm nay, thánh Matthêu nói rõ Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy giả đã bị chém đầu, nên Ngài buồn bã rút lui khỏi vùng Galilêa vào nơi yên tĩnh.
William Barclay đã đưa ra ba lý do. Ngài là con người, cần nghỉ ngơi. Ngài không bao giờ liều lĩnh lao vào nguy hiểm, phải rút lui kẻo sớm chia sẻ chung số phận với Gioan. Và trên hết, với thập giá đang đến gần kề, Chúa Giêsu đã biết Ngài phải gặp gỡ Thiên Chúa trước khi tiếp xúc với con người, Ngài tìm kiếm sự nghỉ ngơi cho thể xác và củng cố tinh thần nơi thanh vắng.
Phúc âm thánh Matthêu ở chương 14 đã mô tả hai bữa tiệc xảy ra nối tiếp nhau để độc giả so sánh và suy nghĩ: Bữa tiệc sang trọng với chiếc đầu của Gioan Tẩy giả và bữa tiệc của dân nghèo với năm chiếc bánh và hai con cá.
1. Gioan bị chém đầu: tại bữa tiệc ở cung điện của vua Hêrôđê với các quan khách sang trọng quí phái. Họ có tất cả mọi sự trên đời, quyền hành, danh vọng, tiền bạc, sắc đẹp, lạc thú, lương thực cao lương mỹ vị, rượu ngon thỏa thích, vũ nữ duyên dáng… và có cả hận thù, ích kỷ, máu đổ đầu rơi!
Vài tuần lễ trước khi chết, một phóng viên đã phỏng vấn Elvis Presley – nổi tiếng là vua của nhạc Rock: “Elvis, khi anh bắt đầu chơi nhạc, anh đã nói anh muốn có được ba điều trong cuộc đời. Anh muốn giàu sang. Anh muốn nổi tiếng. Và anh muốn sống hạnh phúc. Giàu sang và nổi danh chắc chắn là anh đã có. Thế còn hạnh phúc, không biết anh thực sự có hay không, Elvis?” Chàng ca sĩ trả lời, “Không, tôi sống cô đơn như ở trong hỏa ngục”.
Giàu sang. Danh vọng. Những người hâm mộ vây quanh gồm đủ mọi hạng người, các giai nhân tài tử tuyệt trần, vậy mà Elvis diễn tả cuộc sống của anh như hỏa ngục! Thật lạ lùng! Như thế, cuộc sống của vua Hêrôđê với tiệc tùng nào có khác chi!
2. Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất: tại bữa tiệc nơi hoang vắng với đám dân nghèo đói. Họ chẳng có gì, ngoài sự tin tưởng, hy vọng vào tình thương và sự chia sẻ của Chúa Giêsu. Sự thiếu thốn về vật chất dễ làm đời sống tinh thần của con người trở nên ích kỷ. Họ không muốn đóng góp sự gì, mà chỉ mong mỏi đấng Thiên Sai đến giải thoát họ khỏi khổ cực đang chịu vì sự áp bức của đế quốc Rôma và những người Do Thái giàu có.
Đây không chỉ là phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều nhưng còn là phép lạ thay đổi đám dân chúng ích kỷ trở nên quảng đại nhờ sự hiện diện và tiếp xúc với Chúa Kitô. Đây là phép lạ của tình yêu sinh ra trong những con tim oán hờn. Phép lạ này là một biểu tượng của Bí tích Thánh Thể.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Một hệ quả đầy ý nghĩa khác của chiều hướng cánh chung gắn liền với Thánh thể còn là sự kiện nó thúc đẩy chúng ta tiến bước trong lịch sử và làm nảy sinh hạt giống của niềm hy vọng sống động trong những dấn thân hằng ngày để chu toàn nhiệm vụ của chúng ta. Quả thế, nếu tầm nhìn Kitô giáo dẫn đến việc mong chờ một “Trời mới” và “Đất mới”, nó không làm suy giảm, mà trái lại làm gia tăng ý thức trách nhiệm của ta đối với thế giới hôm nay… Những vấn đề đang bao phủ chân trời của chúng ta thật là nhiều. Chỉ cần nghĩ đến nhu cầu cấp bách phải kiến tạo hòa bình, thiết lập những mối tương giao giữa con người với nhau dựa trên nền tảng vững chắc là sự công bình và tình liên đới… Và chúng ta sẽ nói gì đây về vô vàn mâu thuẫn trong một thế giới “toàn cầu hóa”, trong đó những người yếu ớt nhất, không có quyền lực nhất và nghèo nhất dường như không có chút hy vọng! Chính trong thế giới này, niềm hy vọng của người Kitô hữu phải tỏa sáng! Cũng vì lý do đó, Chúa đã muốn ở lại với chúng ta trong Thánh Thể, bằng cách làm cho sự hiện diện của Người trong bữa ăn và trong hy tế, trở nên lời hứa đổi mới nhân loại bằng tình yêu của Người”.
3. Vai trò của Giáo Hội: Phép lạ còn nhấn mạnh đến vai trò của các môn đệ trong công việc của Chúa Kitô nữa. “Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn… Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn”. Câu chuyện kể rằng Chúa Giêsu đã trao bánh và cá cho các môn đệ và chính các ông phân phát cho đám đông.
Sự thật là các môn đệ chẳng làm gì được nếu không có Chúa Giêsu. Và Chúa Giêsu cần đến những bàn tay cộng tác của các môn đệ. Nếu Chúa Giêsu muốn trẻ em được dạy dỗ, người nghèo đó được nuôi nấng, người ốm đau được săn sóc, Ngài phải có người nào đó làm công việc này.
Vào một đêm người đàn ông rút cây nến nhỏ từ trong ngăn kéo ra, thắp nó lên, và bắt đầu bước lên chiếc cầu thang dài hình trôn ốc. Cây nến hỏi người đàn ông: “Ông đi đâu vậy?” Ông trả lời: “Đi lên chỗ cao hơn nóc nhà nơi chúng ta đang ngủ”. “Và ông sẽ làm gì ở đó?” cây nến hỏi. “Tôi sẽ chỉ cho những con tàu ở biển khơi biết đâu là hải cảng”, người đàn ông nói, “vì chúng ta đang ở ngay lối vào hải cảng, và một số con tàu ngoài biển khơi đang gặp bão táp, có thể tìm thấy ánh sáng của chúng ta”. “Không có con tàu nào nhìn thấy ánh sáng của tôi cả”, ngọn nến nói “tôi quá nhỏ bé mà”. “Mặc dù ánh sáng của ngươi nhỏ bé”, người đàn ông đáp, “cứ hãy thắp sáng nó lên, đừng e ngại, hãy để phần còn lại cho ta tính”. Rồi người đàn ông trèo lên những nấc thang cho tới đỉnh của ngôi nhà hải đăng, cầm cây nến nhỏ bé, châm lửa vào những cái đèn vĩ đại đã đứng sẵn ở đó với những tấm gương phản chiếu bóng láng ở phía sau. Một cây nến nhỏ cũng có thể làm nên một ngọn lửa lớn hơn.
Đây là công việc của Giáo Hội. Giáo Hội được gọi là tông truyền vì luôn tiếp tục các công việc của các tông đồ. Giáo Hội vẫn được thánh hóa và hướng dẫn bởi các tông đồ qua giám mục đoàn với sự cộng tác của các linh mục, hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng, đấng kế vị thánh Phêrô.
54. Chúa Giêsu lo liệu cho kẻ theo Ngài
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô M. Hải Dương, CRM)
Bài Tin Mừng Chúa Nhật 18 hôm nay kể lại: “Lúc lên khỏi thuyền, Chúa thấy trước mặt Ngài một đám đông, Ngài chạnh lòng thương, và Ngài chữa lành những người bệnh.”
Chúa Kitô chữa những người bệnh, không cần họ xin. Việc họ từ xa đến, mang theo các loại bệnh nhân đủ là dấu họ tin tưởng. Thêm vào đó, Ngài đã dành nhiều giờ dạy dỗ, săn sóc họ vì “họ như bầy chiên không có người chăn.”
Cùng với Chúa Kitô, các tông đồ cũng lo lắng cho đám đông khi họ không có gì ăn mà giờ đã muộn, và mọi người đang ở nơi hoang địa. Các tông đồ nói với Chúa Kitô: “Xin Thầy giải tán đám đông để họ đi vào trong các làng mạc mà mua thức ăn.” Chúa Kitô đã làm cho các tông đồ ngạc nhiên: “Họ không cần đi, các con hãy cho họ ăn.” Ngạc nhiên, nhưng các tông đồ đã làm điều có thể khi tìm được 5 ổ bánh, và 2 con cá nhỏ. Một con số quá ít oi, so với đám đông là 5000 người, không kể đàn bà và con nít. Thực vậy, với 5 chiếc bánh và 2 con cá làm sao họ có thể chia ra cho hàng ngàn người. Lời các ngài nói với Chúa Kitô: “Thưa Thầy, ở đây có một đứa bé có 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ, nhưng thấm vào đâu cho ngần ấy người?” đã là lời thú nhận sự giới hạn của mình. Tuy vậy, với sự cố gắng của các tông đồ, và sự quảng đại của em bé, Chúa Kitô đã làm phép lạ từ số bánh và số cá ít oi đó.
Ở đây, chúng ta hãy xem đường đi của những tấm bánh. Theo tác giả sách suy niệm Tin Mừng có tên là Manna, thì “những tấm bánh khởi đi từ tay các môn đệ đến tay Chúa Giêsu, từ tay Chúa Giêsu nâng cao dâng lên Cha, rồi trở lại tay các môn đệ và cuối cùng đến tay của từng người trong đám đông.” Đường đi của những tấm bánh thật kỳ diệu. Sau đó tác giả đã tự hỏi: “Phép lạ đã xảy ra ở trên tay ai? Tin Mừng không nói Đức Giêsu đã làm phép lạ để có một đống bánh và cá thật to, rồi các môn đệ cứ việc đến lấy mà phân phát. Tin Mừng chỉ nói Ngài bẻ bánh trao cho họ, rồi chắc họ phải bẻ ra để chia cho đám đông, và có lẽ những người trong đám đông cũng đã bẻ tấm bánh của mình để chia cho người khác.” Nếu thế thì bài họ quá rõ ràng. Chúa luôn săn sóc con cái mình, dù chỉ là những nhu cầu vật chất. Dẫu thế, Ngài cần tới sự cộng tác của con người, cho dù sự cộng tác đó chẳng đáng là bao.
Phép lạ này rất quan trọng, được nhiều người chứng kiến và tham dự. Phép lạ này thật đặc biệt vì được cả bốn Thánh Ký thuật lại mang tên phép lạ hóa bánh ra nhiều. Câu chuyện được kể 6 lần mà 4 lần của tác giả Mat hêu và Maccô trong những bối cảnh khác nhau (Tác giả Gioan và Luca mỗi vị ghi lại một). Cùng một biến cố mà nhiều trình thuật khác nhau, nói lên tầm quan trọng và phong phú của biến cố đối với việc huấn giáo. Đặc biệt trong trình thuật của tác giả Tin Mừng Mat hêu là một biểu tượng, nói lên sứ mệnh của Chúa Kitô. Trình thuật này đã là một sự diễn tả bữa tiệc Thánh Thể tại nhà Tiệc Ly trong bữa ăn sau hết: Ngài cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ. Qua phép lạ bánh hóa nhiều này tác giả Mat hêu cũng loan báo sứ vụ của các tông đồ trong việc cử hành Thánh Thể trong các cộng đoàn tín hữu thời Giáo Hội sơ khai. Đức Giêsu cần đến sự cộng tác của các tông đồ và muốn cho các ngài khai trương sứ vụ ngày hôm đó, qua lời ghi lại của tác giả Mat hêu: và các môn đệ phân phát cho dân chúng.
Trong cuộc sống, nếu mỗi người biết dâng cho Chúa, dù chỉ là một chút nhỏ nhoi như em bé. Tương truyền 5 chiếc bánh và hai con cá hôm đó là của em bé sau này lớn lên là Thánh Inhaxiô Antiôkia, tử đạo, được mẹ gói cho mang theo, đã dâng cho Chúa. Từ sự nhỏ nhoi, quảng đại đó đã được Chúa Kitô biến thành những ơn khác thường cho tha nhân.
Ngày hôm nay, nhiều người cũng đang cần bánh: bánh vật chất để nuôi sống phần xác; bánh tinh thần như bánh sự thật, bánh tự do, bánh công bằng, bánh tình yêu, bánh yêu thương, bánh cảm thông, tha thứ để nuôi dưỡng đời sống tâm linh. Chúa Kitô cần sự cộng tác của chúng ta cho họ ăn, và Ngài vẫn thường thầm lặng hỏi: các con có mấy chiếc bánh. Có thể số bánh chúng ta có chả là bao, nếu không muốn nói là ít ỏi. Dù ít ỏi nhưng nếu chúng ta dám bẻ ra và trao ban thì nhiều người sẽ được nuôi sống. Nhưng điều quan trọng là Thiên Chúa sẽ làm những điều kỳ diệu, khơi đi từ những gì chúng ta có và chúng ta dám cho đi.
Xin Đức Mẹ giúp chúng ta hiểu rằng những gì chúng con “đã lãnh nhận nhưng không, thì chúng con hãy cho nhưng không” (Mt 10:8).
55. Suy niệm của Lm. Jos. Nguyễn Thái
“Xin thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn”- “Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn.”
Bắt đầu bài phúc âm hôm nay, thánh Mattheu nói rõ lý do tại sao Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng: “Nghe tin ấy, Đức Giêsu lánh khỏi đó…” (14:3). Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy giả đã bị chém đầu, nên Ngài buồn bã rút lui khỏi vùng Galilea vào nơi yên tĩnh. Phúc âm thánh Máttheu ở chương 14 đã mô tả hai bữa tiệc xảy ra nối tiếp nhau để độc giả so sánh và suy nghĩ: bữa tiệc sang trọng với chiếc đầu của Gioan Tẩy giả và bữa tiệc của dân nghèo với năm chiếc bánh và hai con cá.
1. Gioan bị chém đầu (14:3-12): tại bữa tiệc ở cung điện của vua Herode với các quan khách sang trọng quý phái. Họ có tất cả mọi sự trên đời, quyền hành, danh vọng, tiền bạc, sắc đẹp, lạc thú, lương thực cao lương mỹ vị, rượu ngon thỏa thích, vũ nữ duyên dáng… và có cả hận thù, ích kỷ, máu đổ đầu rơi!
Vài tuần lễ trước khi chết, một phóng viên đã phỏng vấn Elvis Presley – nổi tiếng là vua của nhạc Rock ‘n’ Roll: “Elvis, khi anh bắt đầu chơi nhạc, anh đã nói anh muốn có được 3 điều trong cuộc đời. Anh muốn giàu sang. Anh muốn nổi tiếng. Và anh muốn sống hạnh phúc. Giàu sang và nổi danh chắn chắn là anh đã có. Thế còn hạnh phúc, không biết anh thực sự có hay không, Elvis??” Chàng ca sĩ trả lời, “Không, tôi sống cô đơn như ở trong hỏa ngục.”
Elvis Presley đã kết hôn với Priscilla Beaulieu vào ngăm 1967. Sau đó 1 năm, họ có một người con gái, rồi ly dị vào năm 1973. Elvis chết vào năm 1977, hưởng dương 42 tuổi. Không biết khi anh chết gia tài của anh trị giá bao nhiêu tiền, nhưng theo báo Forbes lượng giá, vào tháng 8 năm 2002, nhân ngày giỗ thứ 25, anh được coi là người nghệ sĩ đã để lại lợi tức hằng năm cao nhất – “Top Earning Dead Celebrities”. Lợi tức tính từ tháng 6/2001 đến tháng 6/2002 của anh là 37 tiệu Mỹ kim.
Giàu sang. Danh vọng. Những người hâm mộ vây quanh gồm đủ mọi hạng người, các giai nhân tài tử tuyệt trần, vậy mà Elvis diễn tả cuộc sống của anh như hỏa ngục! Thật lạ lùng! Như thế, cuộc sống của vua Herode với tiệc tùng nào có khác chi!
2. Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất (14:13-21): tại bữa tiệc nơi hoang vắng với đám dân nghèo đói. Họ chẳng có gì, ngoài sự tin tưởng, hy vọng vào tình thương và sự chia sẻ của Chúa Giêsu. Sự thiếu thốn về vật chất dễ làm đời sống tinh thần của con người trở nên ích kỷ. Họ không muốn đóng góp sự gì, mà chỉ mong mỏi đấng Thiên Sai đến giải thoát họ khỏi khổ cực đang chịu vì sự áp bức của đế quốc Roma và những người Do thái giàu có.
Đây không chỉ là phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều nhưng còn là phép lạ thay đổi đám dân chúng ích kỷ trở nên quảng đại nhờ sự hiện diện và tiếp xúc với Chúa Kitô. Đây là phép lạ của tình yêu sinh ra trong những con tim oán hờn. Phép lạ này là một biểu tượng của Bí Tích Thánh Thể.
ĐGH Gioan Phaolo II đã viết: “Một hệ quả đầy ý nghĩa khác của chiều hướng cánh chung gắn liền với Thánh Thể còn là sự kiện nó thúc đẩy chúng ta tiến bước trong lịch sử và làm nảy sinh hạt giống của niềm hy vọng sống động trong những dấn thân hằng ngày để chu toàn nhiệm vụ của chúng ta. Quả thế, nếu tầm nhìn Kitô Giáo dẫn đến việc mong chờ một “Trời mới” và “Đất mới” (Kh 21:1), nó không làm suy giảm , mà trái lại làm gia tăng ý thức trách nhiệm của ta đối với thế giới hôm nay… Những vấn đề đang bao phú chân trời của chúng ta thật là nhiều. Chỉ cần nghĩ đến nhu cầu cấp bách phải kiến tạo hòa bình, thiết lập những mối tương giao giữa con người với nhau dựa trên nền tảng vững chắc là sự công bình và tình liên đới… Và chúng ta sẽ nói gì đây về vô vàn mâu thuẫn trong một thế giới “toàn cầu hóa”, trong đó những người yếu ớt nhất, không có quyền lực nhất và nghèo nhất dường như không có chút hy vọng! Chính trong thế giới này, niềm hy vọng của người Kitô hữu phải tỏa sáng! Cũng vì lý do đó, Chúa đã muốn ở lại với chúng ta trong Thánh Thể, bằng cách làm cho sự hiện diện của người trong bữa ăn và trong hy tế, trở nên lời hứa đổi mới nhân loại bằng tinh yêu của Ngời.” (Eccelesia De Eucharistia, đoạn 20).
3. Vai trò của Giáo Hội: Phép lạ còn nhấn mạnh đến vai trò của các môn đệ trong công việc của Chúa Kitô nữa. “Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn… Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn.” (Mt 14:15-16). Câu chuyện kể rằng Chúa Giêsu đã trao bánh và cá cho các môn đệ và chính các ông phân phát cho đám đông.
Sự thật là các môn đệ chẳng làm gì được nếu không có Chúa Giêsu. Và Chúa Giêsu cần đến những bàn tay cộng tác của các môn đệ. Nếu Chúa Giêsu muốn trẻ em được dạy dỗ, người nghèo đói được nuôi sống, người ốm đau được săn sóc, Ngài phải có người nào đó làm công việc này (Mt 28:19; Mc 16:15). Đây là công việc của Giáo Hội.
Giáo hội được gọi là tông truyền vì luôn tiếp tục các công việc của các tông đồ. Giáo Hội vẫn được thánh hóa và hướng dẫn bơi các tông đồ qua Giám mục đoàn với sự cộng tác của các linh mục, hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng, Đấng kế vị thánh Pherô (GLCG #857), Ecclesia De Eucharistia, đoạn 27).
Trong cuốn sách có tựa đề “Healing The Mass,” linh mục Robert DeGrandis S.J. (Resurrection Press, trang 84-85) kể câu chuyện như sau:
“Nasa, Cơ quan không gian của Hoa Kỳ, đã làm một số thí nghiệm qua một loại máy chụp hình đặc biệt có thể nhìn thấy mức độ năng lực trong cở thể con người. Điều này được nhìn thấy trên màn ảnh máy điện toán. Năng lực này xuất hiện giống như hơi phát ra xung quanh cơ thể. Sự quan tâm của trung tâm Nasa trong cuộc thí nghiệm này là để nghiên cứu về những ảnh hưởng của cuộc du hành không gian trên những phi hành gia bay trong quỹ đạo. Đang khi thí nghiệm tại một bệnh viện, họ khám phá thấy rằng khi một người đang hấp hối gần chết, hơi người xông ra (mà tôi nghĩ đó là năng lực) xung quanh cở thể trở nên mỏng hơn, và nó càng lúc trở nên mỏng dần cho đến khi người ấy chết.
Đang khi nhà khoa học làm một thí nghiệm này trong bệnh viện, thì người phụ tá của ông núp đàng sau một tấm kính hai chiều. họ trông thấy qua máy chụp ảnh một người khác đang tiến vào trong phòng với ánh sáng phát ra từ cái túi áo của ông. Rồi từ trong túi áo người đàn ông đó đã lấy ra một vật và làm một điều gì đó tới nỗi qua máy chụp, toàn thể căn phòng tràn ngập ánh sáng, và qua máy chụp sau đó họ không còn có thể nhìn thấy điều gì đang xảy ra nữa. Họ đã chạy vào trong phòng để nhìn xem điều gì đã gây ra ánh sáng tràn ngập như vậy xuất hiện trên máy chụp của họ. Họ đã khám phá thấy rằng người hấp hối đang được trao ban Mình Thánh Chúa. Sau đó, qua máy chụp, họ có thể nhìn thấy hơi người xông ra xung quanh người bệnh trở nên sáng hơn. Mặc dù tuổi đời đã trên 50, nhà khoa học hướng dẫn cuộc thí nghiệm đã quyết định đi tu trở thành một linh mục sau khi chứng kiến sự kiện lạ lùng này.”
Người hấp hối đã trở nên mạnh mẽ bởi rước lấy Mình Thánh Chúa. Chúa Giêsu hiện diện trong hình thức của tấm bánh là lương thực nâng đỡ tinh thần của người hấp hối. Người ốm đau nằm trên giường bệnh là nười chẳng còn có sự gì. Họ không thể làm được điều gì cho bản thân mình. Chúa Giêsu cũng chạnh lòng thương họ như thương đám đông ngày xưa.
Ngày nay, Chúa Giêsu cũng truyền dậy chúng ta “Hãy cho họ ăn”. Bí tích Thánh Thể diễn tả ý nghĩa tông truyền này, như Công đồng Vatican II dạy: “Các tín hữu tham dự lễ tế Thánh Thể nhờ chức tư tế vương giả của họ, song chính linh mục có chức thánh, “hành động trong tư cách của Đức Kitô, cử hành Hy tế tạ ơn và nhân danh toàn dân mà dâng lên Thiên Chúa.” (ĐGH Gioan Phaolo II, Ecclesia De Eucharistia, đoạn 28; Lumen Gentium, đoạn 10 – Trích Hiệp Nhất, tháng 8-2014).
56. Trời sinh voi, Trời sinh cỏ
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Lời Chúa trong Phúc Âm hôm nay cho thấy cái hình ảnh của việc Chúa quan phòng. Không những Chúa hướng dẫn loài người theo đường lối của Chúa, mà còn săn sóc đến nhu cầu vật chất của họ. Trong suốt 40 năm trường theo Chúa, dân Do Thái được giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai Cập, vượt qua Biển đỏ ráo chân. Họ làm cuộc hành trình theo Mai-Sen đi về đất hứa, dừng lại tại mỗi chặng đường để cắm trại, nghỉ ngơi, chăn nuôi, trồng cấy hầu tích trữ lương thực, rồi lại đi tiếp. Trong suốt thời gian lưu lạc nơi sa mạc, dân Chúa đã trải qua nhiều thăng trầm, họ đã nhiều lần bất trung phản nghịch cùng Chúa, bằng cách bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại lai. Tuy nhiên Chúa vẩn săn sóc họ, còn mưa manna từ trời xuống nuôi họ.
Bài Trích Sách Tiên Tri Isaia hôm nay chứng tỏ lòng ưu ái của Chúa đối với dân Người ghi lại: “ Hỡi những ai khát nước, hãy đến mà uống, những ai không tiền bạc, cũng hãy đến mà ăn” (Is 55,1). Việc quan phòng của Chúa trong Cựu Ước chỉ là để sửa soạn cho chương trình quan phòng của Chúa cho toàn thể nhân loại chứ không riêng gì cho dân tộc nọ, dân tộc kia.
Đói khát lời Chúa đã khiến đám đông dân chúng trong Phúc âm hôm nay đi theo Chúa để lắng nghe lời Người giảng dạy. Và khi dân chúng cảm thấy đói bụng, thì Chúa lại làm phép lạ cho họ ăn no thỏa với năm chiếc bánh và hai con cá. Mỗi người đều nhận thức được cái tầm quan trọng của việc ăn uống để duy trì sự sống. Nếu thân xác đói khát, người ta sẽ cảm thấy khó lòng phụng sự Chúa. Đúng như cha ông ta thường nói: có thực, mới vực được đạo. Điều này được áp dụng cho cá nhân, gia đình cũng như xứ đạo. Nếu giáo xứ không đủ phương tiện vật chất, thì khó có thể xây dựng nơi thờ phượng, khó có thể bảo trì, và còn thiếu phương tiện hoạt động tông đồ nữa.
Đọc Phúc âm ta thấy bất cứ khi nào Chúa làm phép lạ trong những trường hợp khác là do người ta xin. Lần này, Chúa tự làm phép lạ mà không có người xin. Như vậy ta thấy việc quan phòng của Chúa được thể hiện qua lòng thương xót của Chúa, qua việc quan tâm đến nhu cầu vật chất của loài người. Việc quan phòng của Chúa còn được thể hiện trong thế gian qua việc quan tâm của người đối với người, bằng những hành động của người này đối với người khác, bằng việc quan tâm của các tông đồ khi thấy dân chúng đói lả. Hàng triệu người Việt Nam đã trải qua hai cuộc di cư vĩ đại, một lần từ Bắc vào Nam năm 1954, lần khác từ VN qua ngoại quốc năm 1975, hầu như với 2 bàn tay trắng. Thế mà qua sự quan phòng của Chúa, họ không phải chết đói, lại còn tạo dựng được nhà cửa và sự nghiệp.
Qua bài Phúc Âm hôm nay, Chúa dạy ta đừng phung phí đồ ăn. Sau khi nuôi dân chúng bằng phép lạ hoá bánh, Chúa bảo các tông đồ thu bánh còn dư lại kẻo phí phạm. Những người biết quan sát và so sánh đều thấy sống trong xã hội Mỹ có dư thừa đồ ăn thức uống. Tuy nhiên không phải vì thế mà ta phung phí thức ăn uống, trong khi có cả hàng ngàn, hàng vạn người vẫn phải chết đói trên thế giới.
Đúng ra thì trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa làm phép lạ nuôi dân chúng về thể xác do lòng xót thương của Chúa. Tuy nhiên mối quan tâm của Chúa còn đi xa hơn nữa, vượt lên trên cái nhu cầu của ăn vật chất của dân chúng. Thiết tưởng ta phải suy luận qua cái mạch văn để tìm ra ý nghĩa của lời Chúa được thánh Matthê-ô ghi lại. Cái nghi thức Chúa dùng trong việc bẻ bánh cũng giống như trong bữa tiệc ly: Chúa cầm bánh… ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, và trao cho các môn đệ (Mt 14,19). Thánh sử Matthêô trình bày cái việc Chúa làm phép lạ nuôi năm ngàn người như là một dấu hiệu tiên báo Chúa muốn lập Bí tích Thánh Thể để nuôi nhân loại bằng của ăn thiêng liêng là Mình Máu Thánh Chúa.
57. Lương thực trần gian hay Lương thực Thần Linh
(Suy niệm của Lung Linh)
Tin mừng chủ nhật 18 A Thường niên nói về biến cố bánh hóa nhiều.
Và các bài chia sẻ hầu như xoay quanh vài ý chính rất hay sau đây
Biết cảm thương. Khi chạnh lòng thương, Chúa Giêsu dạy ta hãy nhìn những người chung quanh bằng ánh mắt liên đới…. Thế giới này chưa tốt một phần có trách nhiệm của tôi. Thế giới này chưa công bằng trong đó phần lỗi của tôi.
Biết nhận lấy trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải hướng dẫn bàn tay làm việc.
Đóng góp phần của mình. Có ít hãy đóng góp ít. Nhưng quan trọng là phải bắt đầu, là phải góp phần của mình.
Chia sẻ. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực cho mọi người. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Và mọi người trao lại cho nhau. Đó là bài học lớn của phép lạ.
Ngoài những bài học đậm tính người qua việc chia sẻ lương thực hàng ngày
Thầy Giêsu còn muốn mời chúng ta đi vào chiều sâu của lương thực thần linh
Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát,
nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh,
là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông,
bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.”…
Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.
Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào
thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy…..
Một câu hỏi rất lớn được đặt ra:
Hiện nay, tôi sống nhờ lương thực nào?
Lương thực trần gian hay lương thực thần linh?
Lương thực trần gian rất cần thiết..nếu không dùng, tôi sẽ chết đói là cái chắc.
Lương thực thần linh rất quan trọng ảnh hưởng cả cuộc đời tôi suốt đời này và mãi mãi đời sau…
Nhưng dường như tôi chẳng mấy quan tâm..
Vì tôi nghĩ rằng: không cần Lương thực thần linh tôi vẫn sống phây phây.. chẳng chết thằng tây nào..
Nhưng hậu quả tai hại là: mang tiếng là Kitô hữu, tôi chỉ sống đạo hình thức…
Và tôi cứ lê lết sống cho tới cuối đời…
Tới giờ chết, tôi chẳng biết mình ra sao.
Thôi thì chịu khó bị thiêu đốt tronglửa luyện ngục vài trăm năm…
Chỉ còn hy vọng rất mong manh vào lời cầu nguyện của những người còn sống..
Nhưng không lẽ công khó bao nhiêu năm theo Chúa
lại kết thúc bi thảm như vậy sao?
Nhưng không lẽ công khó bao nhiêu năm hy sinh đủ thứ
lại kết thúc bi thảm như vậy sao?
Nhưng không lẽ công khó bao nhiêu năm miệt mài tập tành các nhân đức
lại kết thúc bi thảm như vậy sao?
Nhưng không lẽ công khó bao nhiêu năm ra khơi Loan Báo Tin Mừng
lại kết thúc bi thảm như vậy sao?
Cuối cùng thì mỗi người trong chúng ta cứ đặt vần đề, cứ gõ cửa..
Thì chắc chắn một ngày nào đó sẽ tìm thấy,
Một ngày nào đó sẽ mở ra.
58. Xác tín của Thánh Phaolô
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ! Hiện nay, quá nhiều thứ đang dần tách rời chúng ta ra khỏi anh chị em: sự nghi ngờ, đố kỵ, ganh ghét, cạnh tranh triệt tiêu, thâu tóm, độc quyền, độc tài, áp đặt, áp chế, thói đời dửng dưng, xa cách, hờ hững trước đau khổ của tha nhân, kết bè tạo nhóm thành đồng minh triệt hạ nhau….Trong thực trạng này, đây cũng có thể là những điều đang âm ỉ, lặng lẽ tách rời chúng ta ra khỏi Thiên Chúa.
Đặc biệt, hành vi ‘thượng tôi’, ‘đặt nặng tính cá nhân hay chủ nghĩa cá nhân’, ‘tước quyền quyết định tối hậu của Thiên Chúa’ trong các vấn nạn liên quan đến sự sống (phá thai, phò phá thai, ủng hộ luật phá thai, cấy ghép thụ tinh nhân tạo…) và sự chết (an tử, trợ tử, tử hình…) và hành động loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống (gỡ bỏ Thánh giá trong các trường tại Châu Âu, đốt Kinh Thánh, tịch thu và không cho phổ biến việc tiếp cận Kinh Thánh…) đã và đang khiến chúng ta xa lìa khỏi Thiên Chúa là Đấng hằng muốn và luôn luôn gần gũi, đồng hành với nhân loại dù con người tội lỗi, chẳng hề xứng đáng với tình yêu tha thứ của Ngài.
Tuy nhiên, lí do gì mà Thánh Phao-lô lại quả quyết và xác tín mạnh mẽ rằng: “ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Thậm chí gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo cũng không thể nào khiến chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa” (x. Rm 8, 35)? Và ngài càng xác thực hơn khi viết: “…không một loài thọ tạo nào tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8, 39).
Phải chăng nhờ sự nỗ lực, cố gắng của bản thân, dẫu hết sức mình cho đến cạn kiệt?
Phải chăng nhờ công trạng, thành quả đạt được, thành công nắm lấy, thành tựu được tạo dựng, dù để lại cho mai sau?
Phải chăng nhờ trí lực – thể lực – tâm lực, hay toàn bộ con người của chúng ta?
Phải chăng nhờ xã hội, thế giới công nghệ cao, khoa học phát triễn hay những sáng chế, phát minh, dù lợi ích tới đâu?
Theo xác tín của Thánh Phao-lô, chẳng phải những điều được liệt kê phía trên. Vậy nhờ vào điều gì? Ngài đã khẳng khái viết rằng: “Trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8, 37). Tiên vàn, nhờ vào lòng yêu mến vô điều kiện của Thiên Chúa mà Thánh Phao-lô nói riêng và chúng ta nói chung vượt qua mọi biến cố thăng trầm trong cuộc đời mà dường như ngã quỵ khi phải trải qua hay đối diện: gian truân, khốn khổ, đói khát, nguy hiểm, xung đột, chiến tranh, khủng hoảng, hận thù, tai ương, bệnh dịch, v.v…Chính nhờ tình yêu ‘luôn đi bước trước’ của Thiên Chúa mà chúng ta được tháp nhập vào cung lòng ái tuất vô bờ bến của Ngài, và từ đó có thể mến thương, cảm thông, đồng cảm, thấu hiểu, tha thứ, hạ mình, ra đi, bước tới, đón nhận anh chị em dù nhiều điều khác biệt (văn hoá, ngôn ngữ, sắc tộc, tính cách, phong tục, tập quán, lối sống,…). Và điều này được thể hiện rõ qua con người Giê-su, “Ngài trông thấy một đám người đông đảo thì chạnh lòng thương…” (x. Mt 14, 14) một cách cụ thể: nuôi sống năm ngàn người trong hoang mạc, chưa kể đàn bà và con trẻ. Nói theo ngôn từ của Thánh Phao-lô, “chẳng có điều gì, không một loài thọ tạo nào tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (x. Rm 8, 39). Như vậy, nếu không được liên kết chặt chẽ, không được bám rễ sâu vào tình yêu này, thì chắc chắn chúng ta sẽ xa lìa và bị tách rời khỏi Đức Ki-tô, khỏi Thiên Chúa, vì sự yếu đuối, sa ngã, vương tội, hay mắc lỗi của chúng ta. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã và đang ôm trọn chúng ta vào cung lòng đầy trắc ẩn, khoan dung của Ngài; vì thế, chúng ta chẳng thể nào lìa xa Ngài, và hơn nữa, chúng ta không những được bổ dưỡng no nê, mà ân sủng Ngài còn dồi dào, vượt trên cả niềm trông mong, ước muốn của chúng ta như hình ảnh mẫu bánh còn thừa được thu lại đầy mười hai giỏ (x. Mt 14, 20).
Ước mong xác tín của Thánh Phao-lô cũng truyền lửa sống đạo cho mỗi người chúng ta trong mọi biến cố cuộc đời luôn biết hướng nhìn – nương tựa – tháp nhập vào tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện một cách trọn vẹn qua Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô:
Ai có thể tách rời tôi
Xa lìa tình Chúa muôn đời khổ đau?
Phải chăng gian nan u sầu
Khiến tôi chùn bước nguyện cầu ngày đêm?
Dù đời chẳng mấy êm đềm
Nhưng lòng Chúa mãi vững bền thiên thu! Amen.
59. Phép lạ bánh và cá
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
Thi sĩ Tagore đã từng viết thế này: Tình Ngài yêu con không bơ, không bến nhưng có thấy bóng Ngài đâu. Dù không thấy, nhưng bằng lòng yêu mến của mình, Tagore dám khẳng định: Tình Ngài yêu con không bờ, không bến. Yêu như thế nào mà Tagore lại bảo là không bờ, không bến? Quay về với nội dung Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, bạn và tôi có thể cảm nghiệm như Tagore: Tình Ngài yêu con
Một lần, Chúa Giêsu tìm vào hoang địa vắng vẻ. Nhưng dân chúng nghe biết thì đi theo Ngài. Họ theo đông lắm, có đến trên năm ngàn người! Đến chiều, dẫu đã đói, họ vẫn cứ theo. Vì thương họ, Chúa đã làm phép lạ để nuôi họ. Tin Mừng kể rằng, Chúa cầm bánh và cá mà các môn đệ mang đến, rồi đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ, để các ông phân phát cho dân.
Một phép lạ phi thường: Chỉ một hành động bẻ ra đã trở nên lương thực nuôi một đám người không thể tưởng tượng: trên năm ngàn nugười mà vẫn dư! Nhưng phép lạ ấy không thuộc về quá khứ. Ngày hôm nay, để nuôi linh hồn, nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của ta, Chúa đã bẻ chính cuộc đời Ngài, bẻ chính thân xác Ngài. Là Thiên Chúa, Chúa Giêsu hạ mình làm người ngang hàng với ta, không là một sự bẻ ra hay sao? Bị thù nghịch, bị giết chết, chết ô nhục như một tên tử tội, chết tức tưởi trên cây gỗ giá, không là bẻ ra đó sao? Trong bí tích Thánh Thể, Chúa là tâm bánh nuôi hồn ta, cũng chính là sự tự bẻ ra. Mãi mãi Chúa Giêsu là Thiên Chúa tự bẻ chính mình, bẻ chính cuộc đời, bẻ chính sự sống của Ngài cho ta, vì ta, yêu ta.
Trong mỗi thánh lễ, linh mục chủ tế sẽ bẻ tấm bánh mà mọi tín hữu đều tin đó là Mình thánh Chúa. Chủ tế nâng cao Mình thánh và nói: Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa tội trần gian. Dấu chỉ bẻ Mình Thánh từ tay linh mục là dấu chỉ Chúa Kitô tự bẻ chính mình trong bí tích Thánh Thể. Thánh Thể là lời nói chung quyết, mạnh mẽ của tình yêu, là sự bẻ ra tuyệt đỉnh mà chỉ có một mình Chúa chúng ta mới làm thế. Ngài bẻ ra vì yêu ta không bờ, yêu không bến.
Tôn vinh Mình thánh trên tay, chủ tế còn mời gọi: Phúc cho ai được dự tiệc Chiên Thiên Chúa. Bạn có yêu mến Chúa Giêsu không? Nếu yêu mến, ta hãy cung kính rước Ngài vào tâm hồn mình. Nếu lỡ biết mình bất xứng, lo xưng tội và rứơc Chúa. Khi đến nhà thờ, anh em chúng ta cùng vào trong nhà thờ dự lễ sốt sắng, dự lễ trọn vẹn từ đầu đến cuối, cũng là dấu chứng tỏ lòng mến của ta đối với Thánh Thể. Hay lễ xong, ngồi lại năm phút, ba phút để cầu nguyện cho nhau, cho gia đình, cho bản thân, hay để cảm tạ Chúa, đó cũng là dấu chứng tỏ lòng mến đối với Thánh Thể.
Chúa bẻ cuộc đời Ngài ra, đó là sự tự xóa mình, cho không từng người, vì sao ta không nhận? Ngài xóa mình để làm bằng chứng tình yêu, vì sao ta từ chối tình yêu đó?
Nhân đọc bài Tin Mừng về việc Chúa bẻ bánh và cá làm phép lạ nuôi dân, chúng ta suy nghĩ về Thánh thể để thêm yêu mến Ngài. Ước gì từ hôm nay, mỗi lần đến nhà thờ, ta bước vào trong nhà thờ dự lễ trang nghiêm, sốt sắng. Và ước gì trong từng thánh lễ, ta luôn luôn cảm nghiệm rằng: tình Chúa thương ta không bờ, không bến như Tagore đã từng cảm nghiệm.
60. Năm chiếc bánh và hai con cá
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương)
Anh Chị Em có tin là chỉ “năm chiếc bánh và hai con cá” mà nuôi được 5000 người ăn không? Năm chiếc bánh và hai con cá so với năm ngàn người, không kể đàn bà trẻ con, (nếu tính cả chắc phải lên đến 15 ngàn người), một con số người ăn thật quá lớn so với sự ít ỏi của thực phẩm. Các tông đồ cũng đã lo lắng và lúng túng mà nói với Chúa: “Đây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi: Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn”.
Phép lạ là gì?
Để hiểu đúng ý nghĩa của đoạn Tin Mừng này, chúng ta phải định nghĩa lại phép lạ là gì?
Theo nghĩa rộng, phép lạ là những gì được xảy ra từ cái không thể (impossible) trở thành cái có thể (possible) với sự cố gắng của con người, ví dụ như Người Do Thái vận dụng khoa học kỷ thuật đã trồng cam ngọt trên sa mạc vùng Giêricô. Hay Las Vegas là một sa mạc lại trở thành một thành phố xinh đẹp và hấp dẫn… Người ta có thể coi đó là những phép lạ.
Theo nghĩa hẹp, nghĩa chính xác, phép lạ những gì xảy ra cách lạ thường và khác với quy luật tự nhiên. Ví dụ: trong vật lý học, một vật có trọng lượng thì bị sức hút của trái đất. Đó là quy luật tự nhiên. Nhưng một em bé nhảy lầu giữa chừng em ngừng lại và cứ lơ lững vậy. Đây là điều ngoài quy luật tự nhiên.
Còn có một cách hiểu cao hơn theo Thánh Gioan, thì phép là những dấu chỉ (segni) để diễn tả những sự kỳ diệu của đức tin mà Thiên Chúa thực hiện qua những dấu chỉ đó.
Theo những nghĩa trên thì sự kiện chỉ 5 chiếc bánh và hai con cá hóa nhiều nuôi 5 ngàn người mà còn dư 12 thúng, là một phép lạ, điều không thể trở thành điều có thể, điều xảy ra cách lạ thường và ngoài quy luật tự nhiên.
Ý nghĩa phép lạ hóa bánh nhiều
Ngày nay có hai quan điểm giải thích phép lạ này: quan điểm thứ I là một số học giả Thánh Kinh không tin đây là một phép lạ và nghĩ rằng Chúa Giêsu không làm cho bánh hóa ra nhiều, mà Người chỉ là một nhà hùng biện có tài thuyết phục mọi người bỏ bánh mà họ mang theo trong mình ra để chia sẻ với nhau thôi, theo kiểu “góp gạo thổi nồi cơm chung” nên ai cũng có ăn dư dã. Cách hiểu này chắc chắn không được Giáo Hội công nhận. Nhưng nó nói lên được ý nghĩa của sự kiện là dạy người ta biết chia sẽ với nhau, và khi ta biết chia sẽ với người khác thì mọi sự trở nên dư dã và phong phú.
Cách hiểu thứ hai đó là đa số các nhà chú giải kinh thánh cho rằng phép lạ hóa bánh ra nhiều là hình ảnh, là dấu chỉ của bữa tiệc Thánh Thể và ơn cứu độ mà Đức Kitô sẽ ban cho nhân loại qua cái chết và phục sinh của Người. Học giả kinh Thánh David Garland giải thích: “Việc cung cấp lương thực cho 5 ngàn người ăn mà còn thừa 12 thúng cho thấy rằng sự cung cấp dồi dào cho toàn thể Israel. Như thế Bí tích Thánh Thể sẽ ban lương thực dồi dào cho toàn thể nhân loại”. Đây là cách hiểu truyền thống mà Giáo hội chấp nhận. Quả thế, “bữa tiệc bánh hóa nhiều” là hình ảnh về bữa tiệc mà Đức Kitô sẽ thực hiện trong Thánh Thể trong đó nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần bánh và rượu, tượng trưng cho lao công và đóng góp của con người, trở thành thực sự Mình và Máu Đức Giêsu, mà thần học gọi là “transubstantiation”: biến-thể. Đức Giêsu trở thành Bánh Sự Sống được bẽ ra cho mọi người qua mọi thế kỷ để tất cả được no thỏa và được sống dồi dào (Ga 10,10). Nếu hiểu như thế, mỗi Thánh lễ là một bữa tiệc, một phép lạ mà Thiên Chúa thực hiện cho chúng ta.
Bài học áp dụng
Một chi tiết rất đáng lưu ý trong tường thuật này là: “Chính anh em hãy cho họ ăn” và các môn đệ thưa: “Ở đây chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”. Điều này muốn nói rằng Đức Giêsu không muốn làm gì một mình. Thiên Chúa muốn sự cộng tác của con người, hay nói như Cha Nguyễn Tầm Thường: “Chúa thích làm phép lạ dang dở. Phép lạ dang dở để tôi được tham dự, cái dang dở của Chúa là chổ trống để cho tôi bước vào”. (NTT, Viết trong tâm hồn, tr.7). Nhiều lúc trước những vấn đề lớn nhưng khả năng của chúng ta rất nhỏ nhoi, ít ỏi, nhưng Chúa lại cần đến chúng, Chúa cần đến chút tâm tình “chạnh lòng thương” của chúng ta, để Người thực hiện những điều kỳ diệu trong cuộc đời. Nếu không có chút tình thương của cô Tim, thì làm sao có ngôi làng tình thương cho biết bao nhiều người tàn tật ở Việt nam vv…
Mỗi lần chúng ta dự tiệc Thánh Thể, Chúa cũng mời gọi chúng ta biết chia sẽ và góp phần nhỏ bé và âm thầm của mình vào xây dựng cuộc đời này đẹp hơn, nhân bản hơn và hạnh phúc hơn. Và như thế, “phép lạ hóa bánh ra nhiều” lại tiếp tục diễn ra trong cuộc sống của chúng ta. Amen!
61. Hãy cho
Trong cuốn sách có tựa đề “Healing Through The Mass”, linh mục Robert De Grandis SJ. kể câu chuyện như sau:
“Nasa, Cơ quan Không gian của Hoa Kỳ, đã làm một số thí nghiệm qua một loại máy chụp hình đặc biệt có thể nhìn thấy mức độ năng lực trong cơ thể con người. Điều này được nhìn thấy trên màn ảnh máy điện toán. Năng lực này xuất hiện giống như hơi phát ra xung quanh cơ thể. Sự quan tâm của trung tâm Nasa trong cuộc thí nghiệm này là để nghiên cứu về những ảnh hưởng của cuộc du hành không gian trên những phi hành gia bay trong quỹ đạo. Đang khi thí nghiệm tại một bệnh viện, họ khám phá thấy rằng khi một người đang hấp hối gần chết, hơi người xông ra (mà tôi nghĩ đó là năng lực) xung quanh cơ thể trở nên mỏng hơn, và nó càng lúc càng trở nên mỏng dần cho đến khi người ấy chết.
Đang khi nhà khoa học làm cuộc thí nghiệm này trong bệnh viện, thì người phụ tá của ông núp đàng sau một tấm kính hai chiều. Họ trông thấy qua máy chụp ảnh một người khác đang tiến vào trong phòng với ánh sáng phát ra từ cái túi áo của ông. Rồi từ trong túi áo người đàn ông đó đã lấy ra một vật và làm một điều gì đó tới nỗi qua máy chụp, toàn thể căn phòng tràn ngập ánh sáng, và qua máy chụp sau đó họ không còn có thể nhìn thấy điều gì đang xảy ra nữa. Họ đã chạy vào trong phòng để nhìn xem điều gì đã gây ra ánh sáng tràn ngập như vậy xuất hiện trên máy chụp của họ. Họ đã khám phá thấy rằng người hấp hối đang được trao ban Mình Thánh Chúa. Sau đó, qua máy chụp, họ có thể nhìn thấy hơi người xông ra xung quanh người bệnh trở nên sáng hơn. Mặc dù tuổi đời đã trên 50, nhà khoa học hướng dẫn cuộc thí nghiệm đã quyết định đi tu trở thành một linh mục sau khi chứng kiến sự kiện lạ lùng này”.
Người hấp hối đã trở nên mạnh mẽ bởi rước lấy Mình Thánh Chúa. Chúa Giêsu hiện diện trong hình thức của tấm bánh là lương thực nâng đỡ tinh thần của người hấp hối. Người ốm đau nằm trên giường bệnh là người chẳng còn có sự gì. Họ không thể làm được điều gì cho bản thân mình. Chúa Giêsu cũng chạnh lòng thương họ như thương đám đông ngày xưa.
Ngày nay, Chúa Giêsu cũng truyền dạy chúng ta “hãy cho họ ăn”. Bí tích Thánh thể diễn tả ý nghĩa tông truyền này, như Công đồng Vatican II dạy: “Các tín hữu tham dự tế lễ Thánh Thể nhờ chức tư tế vương giả của họ, song chính linh mục có chức thánh, “hành động trong tư cách của Đức Kitô, cử hành Hy tế tạ ơn và nhân danh toàn dân mà dâng lên Thiên Chúa”.
62. Hãy có lòng thương xót – Jos. Vinc. Ngọc Biển
Nếu lên mạng rồi vào google.com và đánh típ: “Vị Tổng thống nghèo nhất thế giới” chỉ trong 18 giây, chúng ta đã có ngay kết quả lên tới 1.210.000 chuyên mục liên quan đến vị tổng thống này. Ông là ai? Thưa ông là Mujica, Tổng thống Uruguay.
“Dinh thự” của Tổng thống Uruguay là ngôi nhà cũ nát nằm ở ngoại ô thủ đô Montevideo, Uruguay. Ông đã sống ở đó gần hết cuộc đời với người bạn thân thiết là 1 chú chó 3 chân. Tài sản giá trị nhất của vị tổng thống này là chiếc ô tô cũ kỹ có giá chưa đến 2 ngàn đô la Mỹ. Ông là vị Tổng thống không thích sống trong nhung lụa.
Tuy nhiên, Mujica được nhiều người trên thế giới ngưỡng mộ không hẳn vì ông sống giản dị và nghèo, nhưng vì đã dành 90% tiền lương của mình, cho công tác từ thiện.
Chúng ta không cần biết ông có theo đạo Công Giáo hay không! Nhưng chúng ta biết chắc rằng: “Ông là người biết ‘thương xót’ người nghèo”.
Hôm nay, bài Tin Mừng cũng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã “thương xót” dân chúng. Ngài đã chữa lành bệnh tật và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi họ. Qua đó, Đức Giêsu cũng mời gọi các môn đệ và cả chúng ta hãy tiếp bước trên con đường “thương xót” của Ngài, để làm toát lên vẻ đẹp của Thiên Chúa là Tình Yêu nơi hành động của chúng ta.
1. Đức Giêsu là Đấng “thương xót”
Trong suốt hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu luôn yêu thương, quan tâm đến con người, nhất là những người ốm đau, bệnh tật, những người thấp cổ bé họng và đói khát.
Khởi đi từ việc rời bỏ vinh quang Thiên Quốc để nhập thế và sinh ra trong cảnh nghèo, lớn lên trong sự thiếu thốn, hẳn Đức Giêsu hiểu rõ hơn ai hết nỗi bần cùng của con người. Vì thế, đã nhiều lần, Tin Mừng cho thấy: khi dân chúng đến với Ngài, mang theo những bệnh tật trên thân xác, Ngài đã “thương xót” và chữa lành họ.
Không chỉ chữa lành bệnh tật thể lý, Ngài còn đi xa hơn để chữa trị tâm hồn cho những ai đang hoang mang, bất hạnh và thất vọng.
Vẫn tình thương đó, hôm nay, khi thấy dân theo mình nghe giảng, và khi trời đã xế bóng, Đức Giêsu không nỡ để dân chúng bụng đói ra về, nên Ngài đã ra tay để làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng.
Tuy nhiên, điều mà Đức Giêsu đã làm, đã nói và hành động, Ngài không muốn cho các môn đệ ngoài cuộc, bởi vì mai đây chính các ông là những người sẽ thay Ngài để thi hành lòng “thương xót” của Thiên Chúa cho dân. Vì thế, khi được hỏi: “Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn”. Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn”. Như thế, qua câu nói của Đức Giêsu, không phải vì vô lý, cũng chẳng phải Ngài thách thức các ông, nhưng:
Trước hết, Đức Giêsu muốn các ông hãy ra khỏi sự ích kỷ của bản thân, sự an phận của vật chất để biết chia sẻ với những ai bất hạnh, nghèo đói, vì: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (Gaudium et Spes, số 1).
Thứ đến, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các ông về sứ mạng của chính mình, Đấng đến “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10,10).
Cuối cùng, Đức Giêsu cũng dạy cho các ông bài học về sự tin tưởng, cậy trông vào quyền năng của Thiên Chúa. Vì: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37,5).
Còn chúng ta, những người tin và theo Đức Giêsu, hẳn mỗi người cũng được mời gọi để thi hành công việc mà chính Ngài đã làm và muốn các môn đệ thi hành khi xưa. Vậy chúng ta phải làm gì?
2. Thực trạng xã hội
Sứ điệp Lời Chúa hôn nay mời gọi mỗi chúng ta hãy vươn xa tầm nhìn để thấy được trong xã hội loài người gồm hơn 7 tỷ người, trong đó có hàng triệu triệu trẻ em mồ côi, bệnh tật, bị bóc lột sức lao động và buộc làm nô lệ cho tình dục…
Số người chết vì đói, vì thiếu thuốc chữa bệnh cũng lên cả triệu người trên năm. Hàng triệu người vô gia cư, thất nghiệp, mù chữ… Rồi những người mắc phải những căn bệnh thế kỷ, nạn buôn bán phụ nữ để làm gái bán dâm, buôn bán ma túy và tham nhũng cũng tăng lên từng ngày.
Tình trạng loạn luân, phi đạo đức nhan nhản trong xã hội hiện nay. Những chuyện như: cha giết con, con giết cha; vợ giết chồng và ngược lại. Nhiều nạn nhân chết oan uổng chỉ vì một cái nhìn bị cho là “nhìn đểu”, hay chỉ là một câu nói vô tình nào đó…
Như vậy, ngày nay, người ta “bội thực” đủ thứ… nhưng lại “đói khát” đời sống đạo đức và tâm linh hơn bao giờ hết.
Sự thật thà dường như vắng bóng trong học đường, và ngoài xã hội. Niềm tin tưởng lẫn nhau có lẽ quá xa vời đối với thương trường. Sự tương thân tương ái cũng không còn mấy ý nghĩa, mà thực ra chỉ là lợi dụng. Đạo đức gia đình, nghề nghiệp là thứ gì đó xa xỉ phẩm đối với giới trẻ, các ông chủ và ngay cả những người được coi là mang danh đạo đức… Tình trạng thờ ơ, vô cảm và ngăn cấm tôn giáo là điểm “hot”; “nhạy cảm” tại nhiều nơi!
Tất cả những hiện tượng đó, Đức Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta phóng tầm nhìn để có một tấm lòng biết “thương xót”. Đồng thời, hãy ra khỏi sự yên thân để cùng nhau lên đường nhằm góp chút men, chút muối và trở thành ánh sáng để ướp đời và soi sáng thế gian.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Thực ra, chúng ta không thể nào làm thay đổi nổi màu đen trên thế giới!!! Thế nhưng, ngay thời điểm hiện tại và nơi chúng ta sinh sống, không thiếu gì những con người tương tự.
Họ là những người đang đi lạc hướng trong niềm tin, lệch lạc trong lối sống, cách nhìn và suy nghĩ; những người sống trong tội; ham tiền, mê bạc và hám dục… sống dửng dưng, vô cảm với anh chị em đồng loại. Vì thế, không thiếu những Lazarô nghèo ngay bên cạnh người Phú hộ giàu có…
Những hình ảnh trên có thể là chính chúng ta. Nếu quả là vậy, thì chúng ta hãy hối cải và trở về với Chúa. Còn nếu hình ảnh đó là hình ảnh mà người anh chị em chúng ta đang vô tình hay cố ý vấp phải, thì không phải ai, mà là chính chúng ta hãy làm một cái gì đó bé nhỏ như:
– Một cái nhìn thân thiện, cảm thông;
– Một ly nước cho người đỡ khát, một chén cơm cho khách qua đường;
– Một hành động khước từ sự bất chính như cờ bạc, rượu chè, trai gái;
– Một thái đội khẳng khái với sự bất công, tham nhũng;
– Một lời cầu nguyện, hy sinh để xin Chúa “thương xót” và làm động lòng những người dư giả, để họ giúp cho những người đói khát, bần cùng, để kẻ giàu không no và người nghèo không đói.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có được “con mắt của Chúa” để chúng con có cái “nhìn giống Chúa”. Xin cho chúng con “con tim của Chúa” để chúng con cũng biết “chạnh lòng thương” như Chúa. Amen.
63. Đừng cắt nó mỏng quá
Sau khi nói với đám học sinh 6 tuổi về câu chuyện Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi 5 ngàn người, cô giáo bắt học sinh vẽ lại quang cảnh đó. Một bé gái nộp lên bức hình 12 người đang bưng những thúng đầy bánh và cá. Ai trong hình cũng đeo nơ trên mái tóc. Em bé giải thích, “Họ là những cô hầu bàn”.
Bé gái khác họa Chúa Giêsu với con dao cắt bánh trong tay, đang cắt những ổ bánh. Thế nhưng bé lại bỏ cuộc trước khi nó được hoàn tất. Bé nói: “Em không thể làm cho những lát bánh mỏng được”.
Trong hình của một bé trai, một vật hình chiếc hộp lớn với nắp mở cửa được đặt bên cạnh đám đông. “Đây là gì?” cô giáo hỏi. “Nó là chiếc tủ lạnh để cất những đồ còn thừa lại” bé trai trả lời.
Trong sứ điệp hôm nay, Chúa Giêsu buồn bã vì tin Gioan Tẩy Giả bị xử tử, “Ngài xuống thuyền để đến một nơi thanh vắng. Nhưng dân chúng nghe biết, nên từ các thành họ tuốn ra, đi bộ dõi theo Ngài” (Mt 14,13). Họ cảm thấy bị lôi cuốn đến với Chúa Giêsu. Và khi họ thấy vị Tiên Tri của họ dời bỏ lên thuyền, họ tiến đến nơi mà Ngài sẽ cập bến. Khi Chúa Giêsu cập bến, họ đã ở đó, đợi Ngài. Và “Chúa Giêsu thấy đám đông dân chúng,” Matthêu nói với chúng ta, “Ngài động lòng thương xót họ, và Ngài chữa mọi kẻ đau ốm” (Mt 14,14).
Thì giờ đã qua đi. Đám đông dân chúng vẫn ở đấy với Chúa Giêsu. Họ không muốn rời xa Ngài, mặc dầu trời đã tối và nó đã quá giờ cơm rồi. Sao lại lo lắng? Chắc chắn rằng Chúa Giêsu sẽ lo liệu cho họ! Các Tông Đồ nói với Chúa Giêsu giải tán dân chúng để họ có thể kiếm của ăn cho họ tại nơi nào đó. Thế nhưng Chúa Giêsu có ý tưởng hay hơn. “Họ không cần phải đi,” Chúa Giêsu nói, “các con hãy cho họ ăn” (Mt 14,16). Sau đó, các Tông Đồ chỉ có thể mang đến: hai chiếc bánh và năm con cá. Và đám đông dân chúng lại là 5 ngàn đàn ông cộng với đàn bà con nít nữa để nuôi ăn. Rồi Chúa Giêsu làm phép lạ: Ngài ngước mắt lên Trời, làm phép, và trao cho các môn đệ, và các môn đệ phân phát cho dân chúng, và tất cả họ ăn no nê, và các môn đệ đã thu lại 12 thúng đầy những vụn còn lại.
Bé gái đã đọc lướt qua những câu chuyện trong sách Thánh Kinh bằng hình vẽ. Khi cô bé gặp phải câu chuyện của Sứ Điệp hôm nay, cô đã ngừng lật trang và chăm chú ngắm hình vẽ Chúa Giêsu đang đứng trước đám đông vĩ đại, và bẻ bánh. Thấy sự quyến rũ của cô bé với bức hình, mẹ em giải thích rằng đấy không phải là Chúa Giêsu thật sự, mà chỉ là khái niệm của họa sĩ về Ngài mà thôi. Vẫn tiếp tục ngắm bức hình, cô bé trả lời: “Vậy mà nó lại thật giống Ngài.”
Đúng thế bé gái! Trong câu chuyện những chiếc bánh và cá, các ký giả Tân Ước đã cho chúng ta một bức hình về Chúa Giêsu thật sự: Chúa Giêsu Đấng chia sẻ Bánh Sự Sống của Ngài với chúng ta; Chúa Giêsu Đấng chữa lành những bệnh tật của chúng ta; Chúa Giêsu Đấng động lòng thương xót chúng ta.
Làm thế nào Chúa Giêsu nuôi ăn một đám đông chừng 10 ngàn người với chỉ vài chiếc bánh và vài con cá? Chúng ta cũng có thể đặt câu hỏi rằng: “Thiên Chúa làm nên thế giới như thế nào?” Câu chuyện tạo dựng trong Kinh Thánh không phải là bài học nói về cách Thiên Chúa tạo dựng như thế nào. Câu chuyện có ý muốn dạy chúng ta rằng Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa muôn loài. Thì cũng giống như những câu chuyện phép lạ về Chúa Giêsu. Vấn đề không phải “Ngài đã làm nó như thế nào?” nhưng chính là “Tạo sao Ngài lại làm nó?” Và các ký giả Tân Ước đã cho chúng ta câu trả lời: Ngài làm nó bởi vì Ngài quan tâm đến người khác. Ngài làm nó bởi vì Ngài cảm thấy động lòng thương xót đến người khác. Ngài làm nó bởi vì đó chính là gương mẫu mà giờ đây Ngài muốn chúng ta noi theo. Hãy noi gương Ta mà quan tâm đến người khác! Noi gương Ta mà động lòng thương xót với người khác.
Chỉ có sự hiểu biết qua lý trí về những lời khuyên răn lòng quan tâm và thương xót của Chúa Giêsu thôi cũng không đủ. Bài học thật sự dạy chúng ta phải biết cảm thông gánh nặng của người khác như của chính mình vậy. Khi đương đầu với nhu cầu của người khác, bài học thật sự dạy chúng ta phải biết hành động với thái độ mà có thể nói rằng: “Tôi có thể cảm thấy cái đau của anh.”
Trong hoạt họa của tờ tạp chí, một thiếu phụ đang nằm trên ghế sa-lông của một nhà tâm lý. Nhà tâm lý đang cầm lấy tập sách và cây viết mực, và người thiếu phụ đang nói với ông: “Giá chồng tôi biết lắng nghe tôi nói giống như ông nghe!”
Nếu có ai đó giờ đây đang cần đến bạn quan tâm, hay nếu bạn gặp ai đó sẽ cần đến bạn quan tâm trong tuần, bạn sẽ không bao giờ biết được nếu bạn không để tâm chú ý đến. Và như thế, sự chọn lựa sẽ là của bạn. Bạn có thể bắt chước gương Chúa Giêsu và cảm thông gánh nặng của tha nhân như của chính bạn.
Chúa Giêsu “động lòng thương xót, và Ngài chữa mọi kẻ đau ốm”… Ngài nói với các môn đệ: “Hãy cho họ ăn.” Hãy trao ban cho họ Bánh Sự Sống! Và đừng thái nó mỏng quá! Hãy noi theo gương Chúa Giêsu và tình yêu giống như Đức Kitô của bạn sẽ không bao giờ hết cả. Hãy noi gương Chúa Giêsu và sẽ còn những phần dư tràn.
64. Theo Chúa
Lòng quảng đại yêu thương của Thiên Chúa biểu hiện cụ thể, rõ ràng nơi Ngôi Hai là Đức Giêsu Kitô. Ngài yêu thương loài người hơn cả mạng sống của mình và Ngài biểu lộ tình yêu ấy trong cuộc đời Ngài. Tấm lòng của Người đã được dân chúng hồ hởi đón nhận. Đám đông theo Chúa Giêsu như đàn chiên khao khát lương thực lời Chúa và được Chúa cho thoã lòng. Ngài đã chữa lành họ, cả bệnh thể xác và tinh thần, Ngài dạy dỗ họ cả ngày không kể mệt nhọc và họ ở đó nghe Ngài không biết đói.
Chúa Giêsu đến để cứu chữa không chỉ phần hồn mà cho cả phần xác nữa. Ngài cho linh hồn ăn no và không để xác phải đói khổ. Ngài đã hoá bánh ra nhiều cho hơn 5000 người ăn sau khi giảng dạy lời Chúa cho họ. Ngài đã cứu giúp họ về cả hồn và xác nữa. Đối với Chúa không có chi là khó, chỉ cần con người thành tâm, phó thác thì Ngài sẽ lo cho, chỉ cần chúng ta quãng đại với Chúa thì lòng quãng đại của Chúa sẽ tỏ ra gấp bội phần, chỉ cần năm chiếc bánh nhỏ góp vào trong niềm tin có thể đủ cho bao nhiêu người ăn no nê mà còn dư dật. Tuy chúng ta tin tưởng và phó thác cho Chúa tất cả nhưng chúng ta không được tự miễn trừ những việc bổn phận trong cuộc sống hàng ngày như việc lao động kiếm sống, dưỡng nuôi con cái, cha mẹ…
Chúa có thể ban ơn trực tiếp cho chúng ta. Tuy nhiên, Chúa thường ban ơn dồi dào cho chúng ta trong các Bí tích nhờ qua thân thể Người là Hội thánh, có khi Chúa ban ơn huệ gián tiếp qua những người thân, ân nhân nào đó. Chúng ta hãy nhận ra tình thương của Chúa trong Hội thánh, qua tha nhân và những biến cố cuộc đời và cám ơn Người. Trong những lúc đói khát, chúng ta cũng hãy tin tưởng và kêu xin Chúa. Nếu chúng ta sống theo lệnh truyền của Chúa thì sẽ được Chúa ban ơn như Chúa đã hứa: hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. (Lc 11, 9-10)
Chúa Giêsu có cái nhìn xa hơn một đám đông đói khát đáng thương này. Ngài còn thấy những đám đông khác ở những thời đại kế tiếp. Vì thế, Ngài đã thiếp lập Bí tích Thánh thể để trở nên Bánh cho chúng con trong Bí tích Thánh thể để nuôi dưỡng phần hồn, và ban ơn phần xác. Phép lạ hoá bánh hôm nay nhằm ám chỉ mà Ngài sẽ thiết lập để ở lại với loài người chúng con. Cái chết của Ngài mang lại sự sống Phục sinh cho những kẻ tin giữ lời Ngài.
Chúa thương chúng con và đã không bỏ chúng con, những người thuộc thế hệ mai sau nên đã thành lập Giáo hội, trao quyền cho các Tông đồ cử hành các Bí tích và rao giảng Tin mừng, lo cho sự sống của mỗi người trên thế giới. Không chỉ lo cho đời sống thiêng liêng nhưng phải quan tâm đến đời sống vật chất nữa: các con hãy cho họ ăn. Chúng con là những người thuộc thế hệ sau này đã được thừa hưởng trọn vẹn ơn chuá cứu chuộc. Chúng con có bổn phận tiếp tục truyền lại cho thế hệ mai sau những ơn chúng con đang được hưởng. Việc đóng góp cho Chúa 5 chiếc bánh trong Giáo hội là một trong những bổn phận căn bản của Kitô hữu. Mỗi người có quyền và bổn phận đóng góp phần mình cho Giáo hội và xã hội mình đang sống. Mỗi người có trách nhiệm với những người thuộc quyền cũng như phải bác ái với anh em xa gần với khả năng của mình. Nếu chúng ta biết san sẻ trong tinh thần đức tin, Chúa sẽ thực hiện những gì còn lại.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến và ở trong chúng con cho chúng con được no đầy ơn lành của Chúa cả hồn lẫn xác để chúng con ca tụng Chúa và biết phục vụ cho Tin mừng để Nước Chúa mau trị đến.
65. Người chạnh lòng thương – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Mẹ Têrêsa Calcutta thuật lại một câu chuyện như sau: Một hôm, có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào chi phí mua thức ăn cho những người nghèo.
Ở Calcutta mỗi ngày dòng Nữ Tử Bác Ái Truyền Giáo chúng tôi phải cung cấp lương thực cho 9 ngàn người. Bởi đó không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ tặng vào mục tiêu trên.
Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi:
– Hai con có thể cho mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế?
Họ trả lời:
– Chúng con vừa cưới nhau được hai ngày. Chúng con quyết định không may đồ cưới, cũng không tổ chức linh đình, để dùng tiền đó giúp những người kém may mắn hơn chúng con.
Mẹ Têrêsa hỏi tiếp:
– Ở Ấn Độ, không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã. Tại sao chúng con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ và họ hàng?
Họ thưa:
– Chúng con yêu nhau và muốn tặng nhau món quà cưới đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống bằng một hy sinh mà cả hai cùng đóng góp vào.
***
Món quà cưới của đôi bạn trẻ trong câu chuyện trên đây quả là cao đẹp. Nó cao đẹp bởi vì nó được làm nên bởi những hy sinh quá lớn. Nó cao đẹp bởi vì nó kết tinh bằng một tình yêu trao ban. Họ không chỉ hy sinh tiền bạc mà còn hy sinh cả vinh dự và niềm vui. Họ không chỉ trao ban của cải mà còn trao ban cả tấm lòng. Bởi vì họ đã học được nơi Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: “Người thấy đám dân đông đúc thì chạnh lòng thương”.
Chính vì chạnh lòng thương mà Đức Giêsu đã “chữa lành những người bệnh hoạn tật nguyền” (c. 14).
Chính vì chạnh lòng thương mà Người đã không để cho đám đông tự mua lấy thức ăn (c. 15).
Chính vì chạnh lòng thương mà Người đã bảo các môn đệ: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn” (c. 16).
Và cuối cùng, lòng thương xót bao la của người mục tử tốt lành đã thực hiện một phép lạ ngoạn mục nhất trong Kinh thánh là chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá Đức Giêsu đã cho năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà trẻ em được ăn no nê mà còn dư giả.
Hôm nay, Người cũng mời gọi chúng ta góp phần nhỏ bé và âm thầm của mình cho anh em. Người chờ đợi nơi chúng ta một chút lòng chạnh thương. Và cả thế giới sẽ được hưởng chung phép lạ lẫy lừng của Thiên Chúa.
Có lẽ người nghèo sẽ không chết đói vì thiếu lương thực cho bằng vì thiếu những con người biết chạnh lòng thương. Người ta cần có lương thực để sống, nhưng cũng rất cần có tình thương để tồn tại. Những người đang chờ chết là những người đang chờ từng nghĩa cử yêu thương. Những người giàu có mà không biết chia sẻ cũng là những người đang chết đi cái nhân tính của mình. Nếu Đức Giêsu đã bảo: “Chính các con hãy cho họ ăn thì đó không phải lời khuyên mà là một lệnh truyền.
Thực ra, con người chỉ tìm được ý nghĩa cho cuộc sống khi biết chia sẻ cho đi. Con người chỉ lớn lên theo mức độ của sự trao ban vô vị lợi mà thôi. Có biết trao ban thì con người mới thực sự triển nở trong nhân cách. Có biết trao ban thì con người mới vui sống và tìm được hạnh phúc đích thực trong cuộc sống. Triết gia Platon quả quyết: “Con người chỉ tìm được hạnh phúc khi làm cho người khác được hạnh phúc”. Thánh Phaolô cũng đã ghi lại khuôn vàng thước ngọc của Đức Giêsu: “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh”.
Tình yêu trao ban mà Đức Giêsu mời gọi những tín hữu Kitô hãy thực hiện thì chính Người đã làm gương trước. Vào bữa tiệc ly ngày thứ năm Tuần thánh, Người chính là tấm bánh được bẻ ra, và trao ban cho các môn đệ. Tin Mừng thuật lại sáu lần hóa bánh ra nhiều cũng là để nói lên hình bóng của Bí tích Thánh thể là chính Đức Giêsu: tấm bánh được bẻ ra, được trao ban cho một thế giới mới.
Và môn đệ trao cho đám đông. Khi nhận lấy bánh Hằng Sống, chúng ta không thể giữ lấy cho riêng mình, nhưng là sẵn sàng chia sẻ trao ban cho những người chung quanh.
Ai cũng có thể đem cho những thứ mình bỏ đi, nhưng lòng nhân ái thật sự là đem cho những gì mình yêu quí nhất. Trao ban đích thực là trao ban chính bản thân. Con người chỉ trở nên giàu có khi trao ban chính bản thân mà thôi. Mẹ Têrêsa Calcutta không mang đến Ấn Độ một đồng xu dính túi, không cho những người nghèo tiền rừng bạc bể, không mang đến đó tiền của dư thừa. Mẹ trao ban chính mình. Nhưng chắc chắn khi qua đời ít có ai giàu có hơn Mẹ.
***
Lạy Chúa, Chúa chính là tấm bánh nuôi dưỡng hồn xác chúng con. Xin cho chúng con cũng trở nên tấm bánh được bẻ ra và trao ban cho những ai đang đói khát cơm bánh, thiếu thốn tình yêu thương, để chúng con được nên giống Chúa nhiều hơn. Amen.
66. Lòng quảng đại
Mẹ Têrêsa Calcutta đã kể lại câu chuyện một lần kia mẹ đi ngang qua một gia đình Hin đu đã đói nhiều ngày. Mẹ cầm theo một ít gao cho gia đình ấy. Điều xảy ra sau đó làm mẹ kinh ngạc.
Không chút lưỡng lự, người mẹ trong gia đình đã chia số gạo ra làm hai phần. Rồi bà đem một nữa cho gia đình nhà bên cạnh, tình cờ là những người theo Hồi dào.
Thấy điều đó, mẹ Têrêsa nói với bà mẹ “Bà còn lại được bao nhiêu? Liệu có đủ cho gia đình bà không?”.
“Nhưng họ cũng đã nhịn đói nhiều ngày rồi”, người đàn bà ấy trả lời.
Lòng quảng đại như thế làm chúng ta phải trở nên khiêm nhường.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều ấy còn được gọi là phép lạ của lòng quảng đại. Trước hết là lòng quảng đãi tuyệt vời của cậu bé, vì với món quà của cậu là năm chiếc bánh và hai con cá mà phép lạ mới được thực hiện. Có thể tự nó là ít ỏi, nhưng đối với cậu bé đó là to lớn vì đó là tất cả những gì cậu có. Cho vật gì mà cả người cho lẫn người nhận rất cần. Đó mới thật sự là cho và là một sự hy sinh.
Do đó có sự quảng đại kỳ diệu của Đức Giêsu. Để đánh giá điều đó, chúng ta cần xem xét hoàn cảnh của phép lạ. Đến với những người khác khi không gặp sự phiền nhiễu nào là một việc dễ dàng. Nhưng sự việc không dễ dàng khi nó ào đến chúng ta vào lúc mà chúng ta đang gặp rắc rối. Ở đây bao hàm một sự hy sinh. Chúng ta phải để mọi dự định của chúng ta qua một bên và quyên cả chính mình. Đức Giêsu đà làm như thế. Người vừa mới biết tin người anh họ là Gioan Tẩy Giả đã bị giết chết. Người cần được yên tĩnh và thinh lặng. Đó là lý do khiến Người vừa bước ra khỏi thuyền, Người thấy đám đông dân chúng chờ Người. Hẳn Người có thể tức giận và giải tán họ. Thế nhưng Người lại thương xót họ và hoàn toàn cống hiến cho họ.
Rồi với lòng quảng đại tuyệt đối, người đáp ứng cơn đói của dân chúng. Người không chỉ cho họ ăn, nhưng còn cho mỗi người nhiều hơn họ cần, và còn dư mười hai thúng đầy.
Bạn có thể thấy tại sao phép lạ này được gọi là một phép lạ của lòng quảng đại. Lòng quảng đại không phải là lúc nào nào cũng biếu đồ vật. Thường gặp hơn, dâng hiến chính mình là cho thời gian và các tặng vật của mình. Cho đồ vật có thể là dễ dàng, nhưng cho chính mình không bao giờ dễ dàng. Trước khi Người ban chính mình như của ăn, của uống trong Thánh Thể, Đức Giêsu đã ban chính mình cho dân chúng bằng nhiều cách khác nhau.
Câu chuyện hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông đã được các Kitô hữu tiên khởi trân trọng giữ gìn. Phép lạ nhắc lại câu chuyện Man-na trong sa mạc thời Cựu Ước. Đối với họ, Đức Giêsu là Môsê mới, nuôi dân chúng trong sa mạc. Vì thế, họ nhìn thấy trong phép lạ này một sự tiên báo của Thánh Thể. Chính ở bàn tiệc Thánh Thể mà Đức Giêsu nuôi dưỡng họ.
Và Đức Giêsu giờ đây cũng nuôi dưỡng chúng ta ở đó. Chỉ ở bàn tiệc của Thiên Chúa, chúng ta mới có được sự nuôi dưỡng và tâm hồn chúng ta hằng mong ước. Trong Thánh Lễ chúng ta được nuôi dưỡng với Lời Chúa và Bánh Sự Sống. Và khi mời gọi chúng ta đến chia sẻ bữa tiệc sự sống nơi trần gian, Thiên Chúa mời gọi chúng ta chia sẻ bữa tiệc sự sống đời đời trên Thiên Đàng.
Khi dân chúng trở về nhà vào cuối ngày hôm ấy, họ biết rằng họ đã có kinh nghiệm và lòng tốt và tình yêu của Thiên Chúa tình yêu mà Thánh Phaolô nói không điều gì có thể tách chúng ta khỏi tình yêu của Đức Kitô.
Trong Thánh Lễ chúng ta nếm hưởng tình yêu của Thiên Chúa. Bằng chứng việc chúng ta có kinh nghiệm tình yêu ấy là chúng ta sẵn lòng yêu thương những người khác. Chúng ta có thể chỉ cho bằng những phương tiện nhỏ bé và số lượng nhỏ bé. Tuy nhiên, từ cậu bé trong Tin Mừng, chúng ta thấy một số lượng nhỏ bé có thể trở thành một số lượng lớn khi được đặt vào đôi tay của Chúa.
67. Phép lạ do tình thương – PM. Cao Huy Hoàng
Đã có một thời, bà con ta xếp hàng trước cửa hàng nhà nước để mua từng ký gạo thường xuyên ẩm, từng ký cá nhiều lúc ươn, mua cả chút dầu, chút muối tiêu bột ngọt… Tất cả phải mua bằng tiền.
Lúc ấy, không thiếu những người không có gạo ăn, vì không có tiền để mua, và có khi cả nhà năm bảy con người ta phải sống qua ngày bằng những củ nần luộc đến năm bảy nước rồi, mà khi ăn vào vẫn bị rối loạn tiêu hóa hay bị phù, bị ngứa đôi ba ngày không khỏi.
Ngay hôm nay, cuộc sống có khá hơn một chút, thì bức tranh tương phản giàu nghèo còn rõ nét hơn: vẫn còn bao nhiêu người quanh ta đang đói ăn đói mặc, hoặc ăn bữa nay lo bữa mai, và ngược lại, có khối người phung phí tiêu xài bỏ cả bạc triệu, bạc tỷ mua những cuộc vui chơi vô độ nếu không nói là mua lấy cho mình cái tàn lụi nhân phẩm và sự chết ngàn thu. Họ là những con người duy vật, chỉ biết có cuộc sống phàm trần này, và chỉ biết lo sao cho cuộc sống phàm trần này sung túc để hưởng thụ. Họ không bận tân đến những người thiếu đói, hoặc nếu có thì cũng là chút bố thí của ăn cắp để cho thiên hạ biết ta đây cũng có nghĩa có nghì! Trong số những con người duy vật đó, có thể có tôi, có bạn, có cả những người công giáo bị tiêm nhiễm lối sống rất thực dụng của xã hội trần tục.
Bài đọc 1, Is 55, 1-3 hôm nay, Tiên tri Isaia không chỉ cho ta xem bức tranh tương phản của xã hội thời ấy mà còn gửi đến cho mọi người một thông điệp vui mừng của Thiên Chúa: “Hỡi tất cả những ai khát nước, hãy đến uống nước; hỡi kẻ không tiền bạc, hãy đến mua lúa mà ăn; hãy đến mà mua rượu và sữa, không cần trả tiền, không cần đổi chác gì. Tại sao các ngươi không dùng tiền mà mua bánh, sao không dùng tiền lương mà mua đồ nuôi thân? Vậy hãy lắng tai nghe, hãy đến ăn đồ bổ, và các ngươi sẽ được thưởng thức món ăn mỹ vị.”
Như vậy, tiên tri Isaia, cho biết Thiên Chúa quan tâm đến cuộc sống con người: Thiên Chúa hiểu thấu cuộc sống của con người: luôn đói, khát, luôn cần của ăn, thức uống, Thiên Chúa trách cứ những người không biết dùng tiền của mà lo cho sự sống mình, Thiên Chúa mời con người đến với cuộc sống vĩnh cửu: Nghe lời Chúa, ăn của ăn của Chúa.
Thánh vịnh 144 nối tiếp trình bày sự quan tâm ấy: “Chúa mở rộng bàn tay ra, và thi ân cho chúng con được no nê (x. c. 16).
Bài Tin Mừng, Mt 14, 13-21, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã cụ thể chứng minh lòng Thiên Chúa quan tâm đến cuộc sống con người: Ngài “chạnh lòng thương” đoàn dân theo Ngài, Ngài chữa bệnh cho họ và bảo các môn đệ “chính anh em hãy lo cho họ ăn”.
Nếu theo cách xử trí của các môn đệ là “giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn”, nghĩa là, để ai nấy tự lo tự liệu cho cuộc sống của mình, thì cả thầy cả trò đều khỏe khoắn hơn. Nhưng, Chúa Giêsu không đồng ý cách giải quyết vô cảm, thiếu tình thương, thiếu trách nhiệm như thế. Ngài nhận lấy trách nhiệm phát sinh do lòng thương và Ngài muốn các môn đệ Ngài học bài tình thương và trách nhiệm ngay trong tình huống khó khăn nhất: “Đây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi”. “Có mua hết 200đ bạc bánh cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ”. (x Ga 6,1-13) “Ở đây có một em bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!” (x Ga 6,1-13).
Chiều hôm ấy, buổi chiều đáng nhớ, buổi chiều phép lạ của tình thương.
Nếu em bé kia khư khư giữ lại “năm chiếc bánh và hai con cá” cho phần sống của mình và không bằng lòng giao cho các môn đệ và Chúa Giêsu, thì điều gì sẽ xảy ra? Gần 10 ngàn người chết đói chăng? Thiết tưởng không phải vậy. Nhưng bài học của phép lạ bánh hóa ra nhiều ở chỗ: lòng bác ái đơn sơ của em bé là khởi điểm của phép lạ. Có thể nói Chúa Giêsu ‘chạnh lòng thương” dân chúng và càng “chạnh lòng thương hơn” khi thấy một em bé biết “chạnh lòng thương” sẵn sàng nhường phần ăn của mình để không phải “chia năm sẻ bảy” mà là “chia năm ngàn, sẻ bảy ngàn”.
Nếu chỉ với “năm chiếc bánh và hai con cá” của em bé “chạnh lòng thương” kia được quyền năng và tình thương của Chúa Giêsu can thiệp vào có thể nuôi năm ngàn người, thì cũng vậy, dù là chút cố gắng đơn sơ nhỏ bé vì tình thương và trách nhiệm của chúng ta khi được Chúa Giêsu chạm đến, chắc hẳn, chúng ta cũng nuôi sống được mình và nhiều người khác.
Đoàn dân đông đảo đang theo Chúa, không ở xa chúng ta, nhưng rất gần chúng ta, ngay trong gia đình ta: con cái , ngay trong những người chung quanh ta: tha nhân.
Việc có con cái và lo cho con cái có cái ăn, cái mặc, cái học trở thành gánh nặng cho các gia đình thời nay, không phải vì thực trạng kinh tế xã hội quá thấp kém, và lý do nhân mãn cách nào đó cũng chỉ là một ngụy biện cho việc con người thời nay muốn cho mình có một cuộc sống thoải mái hơn, nhẹ nhàng hơn, ích kỷ hơn. Tồi tệ hơn nữa khi xã hội nhân danh chủ trương giảm sinh tránh nhân mãn để phồn vinh hạnh phúc mà tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người trẻ già cứ an tâm sống thử, an tâm hưởng lạc trong, ngoài hôn nhân mà không chút tình thương, không chút trách nhiệm.
Sao không giữ được truyền thống đạo đức tốt đẹp của ông bà ta xưa rằng “mỗi đứa con là một lộc Trời”, ấy vậy mới có những đứa con được đặt tên là Đỗ Mười, Nguyễn văn Mười Hai, Lê Thị Thừa, Trần Dư, v.v… mà ông bà vẫn nuôi dạy tốt, và nhất là, hạnh phúc các gia đình bền vững nhờ tình thương và chu toàn trách nhiệm với con cái.
Không lẽ, con người thời nay không còn biết “chạnh lòng thương” là gì nữa sao? Không đến nỗi bi đát vậy. Trong chúng ta, thiết tưởng còn nhiều trái tim biết chạnh lòng thương trước những đau khổ của nhân loại. Và chúng ta tin tưởng rằng nhờ những trái tim biết chạnh lòng thương ấy mà hằng ngày vẫn thấy những phép lạ bánh hóa ra nhiều ngay trong cuộc sống chúng ta.
Có gia đình gần nhà tôi, suốt 22 năm trời, vợ chồng và tám đứa con chui rúc trong căn nhà lá không có cửa, không có phòng riêng, nắng mưa dọi dột… Vợ chồng làm đủ mọi nghề để nuôi con ăn học. Nay đã có 7 em đại học, 4 ra trường, ba còn đang đại học. Tất cả ngoan ngoãn và sống tốt. Cách đây 10 năm, anh chị mới có được một căn nhà xây nho nhỏ, ấm cúng, chan hòa tình thương. Chị vẫn thường nói: “nhà em có phép lạ”. Những người từng sống ở đây vài chục năm đều có thể nhận ra việc Chúa đã làm cách kỳ diệu cho vợ chồng anh chị, những người có lòng thương và trách nhiệm.
Cô VBH, Việt kiều Virgina, tâm sự: “Thấy mấy chị mua một bức màn cửa vài ngàn, em cũng muốn mua lắm, nhưng nghĩ lại, có làng dân tộc ở quê em đang đói, em gửi mấy ngàn ấy về cho giáo họ gần GX em. Nghe nói Cha sở đã mua gạo thơm tặng cho họ, cứ mỗi người mười ký, có nhà ba chục, có nhà 50, có nhà đến 120 ký đấy anh ạ. Con họ đông ghê. Em nhẹ lòng hơn và vui hơn là mua bức màn cửa”. Hỏi thêm mới biết, lần về dự Bế Mạc Năm Thánh tại La vang, cô về thăm quê nhà ở Di linh và có đi thăm làng dân tộc nghèo khổ ấy. “Chạnh lòng thương” từ ấy đã ủ ấp sâu kín thành một ước vọng bác ái để có một ngày cô đã thực hiện bằng cách “hy sinh phần nhỏ của mình, để Thiên Chúa thực hiện công trình lớn lao”, bằng cách “mở bàn tay của Chúa” ra cho những người đói khổ.
Nghĩ vậy, là vì, chúng ta không thấy “bàn tay của Chúa mở ra cho chúng con được no nê”, nhưng Chúa đang dùng bàn tay quảng đại của bao người có trái tim biết chạnh lòng thương của Chúa, mà làm phép lạ sẻ chia cho con người “sự sống đời nầy để ca tụng và tôn vinh Chúa”.
Có người làm việc bác ái vì tình thương, vì “chạnh lòng thương” nhưng cũng có người làm việc bác ái vì ngộ ra việc bác ái có giá trị đền bù tội lỗi.
Có một bà chừng ngoài 50, rất trẻ đẹp sang trọng, hình như ở Sài gòn. Tôi không biết nhiều về cuộc đời của bà, chỉ gặp bà một lần ở Bệnh Viện Phan Thiết, thấy bà ta giúp đỡ nhiều người bệnh và nghe bà ta nói chuyện với một em gái định phá thai: “Tôi muốn giúp đỡ và cứu sống nhiều người để xin đền vì cái tội tày trời của tôi: đã giết chết năm bảy mạng người con ruột của tôi. Xin trời thương lấy tôi và tha thứ cho tôi. Xin vong hồn các con tôi thương lấy tôi và tha thứ cho tôi”
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã thương yêu chúng con. Xin cho chúng con biết chạnh lòng thương trước những khổ đau của tha nhân và biết quảng đại cho đi phần nhỏ bé của mình để Chúa thực hiện công trình lớn lao của Chúa. Amen.
68. Quảng đại
Mẹ Têrêsa Calcutta đã kể lại câu chuyện một lần kia mẹ đi ngang qua một gia đình Hin-đu đã đói nhiều ngày. Mẹ cầm theo một ít gạo cho gia đình ấy. Điều xảy ra sau đó làm mẹ kinh ngạc.
Không chút lưỡng lự, người mẹ trong gia đình đã chia số gạo ra làm hai phần. Rồi bà đem một nữa cho gia đình nhà bên cạnh.
Thấy điều đó, mẹ Têrêsa nói với bà mẹ “Bà còn lại được bao nhiêu? Liệu có đủ cho gia đình bà không?”. Người đàn bà ấy trả lời.”Nhưng họ cũng đã nhịn đói nhiều ngày rồi”.
Chắc chắn bà mẹ nghèo cho người kia không thể nhiều được, nhưng bà đã cho người khác bằng cả tấm lòng, bằng cả con tim và sự hy sinh, chỉ có những ai có lòng quảng đại thật sự mới có thể thấy được điều đó.
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu hoá bánh ra nhiều cũng được gọi là phép lạ của lòng quảng đại. Trước hết là mẫu gương cậu bé cho năm chiếc bánh và hai con cá, cái cậu có không phải là nhiều, chắc chắc giờ đó cậu ta cũng rất đói, nhưng vì lòng quảng đại cậu cho luôn cả cái mình đang cần. Điều quý nhất nơi người cho không phải là của cho nhưng chính là cách cho. Vì vậy của cậu bé cho không quý bằng tấm lòng cậu bé biết quan tâm đến người khác, một tấm lòng quảng đại cao thượng, biết chia sẻ đến người khác.
Nói đến từ quảng đại thì ai cũng có thể nói được, nhưng để thực hiện nó thì thật là khó khăn và nhất là khi cần phải quảng đại với những người ta không thích, không ưa nhất là với kẻ thù thì lại càng khó hơn nữa. Đến với những người khác khi không gặp sự phiền nhiễu nào là một việc dễ dàng. Nhưng đang khi mệt mỏi, buồn phiền mà phải gặp những chuyện khó khăn bực tức, thì khi đó lòng quảng đại lại càng khó mà thực hiện hơn. Lúc đó chúng ta phải biết bỏ mình đi mà hướng đến người khác. Chính Đức Giêsu đã làm như thế. Người vừa mới biết tin người anh họ là Gioan Tẩy Giả đã bị giết chết. Người cần được yên tĩnh và thinh lặng. Đó là lý do khiến Người vừa bước ra khỏi thuyền, Người thấy đám đông dân chúng chờ Người. Hẳn Người có thể tức giận và giải tán họ. Thế nhưng, Người không chút tỏ ra bực tức, nhưng lại quên mình để lo cho dân chúng. Cũng nhờ lòng quảng đại tuyệt đối, người đáp ứng cơn đói của dân chúng. Người không chỉ cho họ ăn, nhưng còn cho mỗi người nhiều hơn họ cần, và còn dư mười hai thúng đầy.
Lòng quảng đại không phải là lúc nào nào cũng biếu đồ vật. Điều đó thật dễ dàng vì mình chỉ cho đi môt phần quá nhỏ trong cuộc sống, có thể nói mình chỉ mới cho đi một phần chẳng thấm vào đâu so với những gì mình đang có, hay có thể nói là mình chỉ mới cho đi một chút chi thể trong một thân thể to lớn. Ở đây Đức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều là một hình thức tiên báo về Bánh Hằng Sống chính là Thân Thể Người. Vì vậy, cho chính mình không bao giờ dễ dàng, nhưng chính Đức Giêsu đã làm điều đó, Người đã ban chính mình cho dân chúng bằng nhiều cách khác nhau.
Hằng ngày Đức Giêsu vẫn không ngừng ban cho chúng ta Bánh Hằng Sống, Chỉ ở nơi Chúa, chúng ta mới có được sự nuôi dưỡng và tâm hồn chúng ta được thoả lòng ao ước. Trong Thánh Lễ chúng ta được nuôi dưỡng với Lời Chúa và Bánh Sự Sống. Đó là hình ảnh bữa tiệc thiên đàng trong tương lai.
Lạy Chúa, Chúa đã sẵn sàng chia sẻ cho chúng con bằng cả Thân Mình Chúa. Xin cho chúng con biết sẵn lòng chia sẻ cho những người khác không phải chỉ bằng vật chất nhỏ nhoi, nhưng bằng cả tâm hồn, thân xác và cả con người chúng con. Amen.
69. Bánh hoá nhiều
Trong bài Tin Mừng, Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá mà một cậu bé đã bỏ ra để chia xẻ cho mọi người khác, sau khi chúc tụng, bẻ ra, Chúa bảo các môn đệ “phân phát”. Nghĩa là Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc chia xẻ, phân phối. Với nguồn tài nguyên phong phú của trái đất, theo nguyên tắc thì mọi người đều có thể no đủ, miễn là con người biết chia xẻ cho nhau và biết phân phối hợp lý.
Ngoài thức ăn vật chất, Chúa Giêsu còn muốn hướng con người đến một thức ăn khác nữa, cần thiết hơn, quý trọng hơn. Bởi đó, sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, người ta tiếp tục tuôn đến với Chúa mong Ngài tái diễn phép lạ ấy, nhưng Ngài đã lánh họ mà đi. Theo tường thuật của Thánh Gioan, Ngài còn nói với họ “Các ngươi tìm Ta chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Hãy nỗ lực tìm kiếm thứ lương thực nuôi dưỡng sự sống muôn đời”.
Thứ lương thực ấy chính là bản thân của Chúa Giêsu, được ban cho chúng ta qua bí tích Thánh Thể.
Con người có nhiều khát vọng, nhưng tiếc thay họ chỉ để ý tới những khát vọng tầm thường.
Rõ rệt và dễ cảm thấy nhất là những khát vọng của thân xác: ăn uống, nghỉ ngơi, vui chơi. Xét cho cùng, những khát vọng này cũng giống với những khát vọng của thú vật và thực vật thôi. Và xét cho cùng thì cũng dễ thỏa mãn thôi miễn là tài nguyên của trái đất này được chia xẻ và phân phối hợp lý. Chúa Giêsu nói: “Hãy xem chim trời… hãy xem hoa huệ ngoài đồng…”
Còn nhiều khát vọng cao hơn và quý hơn: bình an sâu sắc, tình yêu chân thật, sự sống vĩnh cửu… Chân, thiện, nỹ tuyệt đối… Những khát vọng này không ai và không cái gì có thể thỏa mãn cho chúng ta, ngoài một mình Thiên Chúa.
Có người giải thích rằng phép lạ này không nằm ở chỗ số lượng bánh rất nhiều, mà nằm ở chỗ Đức Giêsu đã làm được một việc lạ lùng hầu như không ai làm nổi: biến tính tự tư tự lợi của con người thành tính quảng đại chia xẻ.
Câu chuyện sau đây có thể minh họa cho ý nghĩa này:
Một hôm, có một người đàn ông vào nhà một bà dân làng xin ăn. Bà này từ chối:
Xin lỗi. Hiện giờ trong nhà tôi không còn gì có thể ăn cả.
Không sao. Chỉ nhờ Bà cho tôi mượn chiếc nồi nấu súp. Tôi có một viên sỏi có thể nấu thành một nồi súp đặc biệt ngon, từ trước tới giờ chưa từng có món ăn nào ngon bằng.
Bà chủ nhà bằng lòng. Người khách đổ nước vào nồi, bỏ viên sỏi vào rồi bắt đầu nấu. Trong khi đó, bà chủ nhà sang nhà hàng xóm tiết lộ bí mật của nồi súp tuyệt vời ấy. Hàng xóm này lại tiết lộ cho hàng xóm khác. Chẳng bao lâu căn nhà đầy người.
Khi nước bắt đầu sôi, người khách lạ múc lên một muỗng nếm: “Chà, rất ngon. Nhưng phải chi có thêm chút ít khoai tây nữa thì sẽ ngon tuyệt”. Một người vội vàng chạy về nhà lấy khoai tây bỏ vào. Lát sau người khách lại nếm và lại nói “Ngon hơn trước rồi. Phải chi có thêm một chút thịt nữa thì hết chỗ chê”. Một người khách vội chạy về nhà lấy thịt. Cứ như thế…
Cuối cùng nồi súp chín. Người khách mời mọi người ngồi vào bàn. Mỗi người một tô. Ai nấy đều khen món súp ngon tuyệt vời. Còn người khách thì vớt từ đáy nồi lên viên sỏi của ông, bỏ vào túi, vui vẻ chào mọi người và ra đi.
70. Thu lại những mảnh bánh vụn
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (X. Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm Chúa làm phép lạ lần thứ hai nữa (X. Mt 15,32-38; Mc 8,1-10).
Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Họ đói khát, nghèo khổ, bệnh tật, bơ vơ. Họ đi tìm Chúa để được chữa lành, được an ủi, được dạy dỗ. Chúa đã yêu thương họ và muốn tặng cho họ một bữa tiệc đơn sơ bất ngờ ở ngoài trời. “Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây?”. Chúa muốn đưa các môn đệ đi vào mối bận tâm của Ngài, cần sự cộng tác. Các môn đệ thất vọng vì chỉ có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhỏ.
Phản ứng các môn đệ là bế tắc được ghi lại trong 4 phúc âm như sau:
– Matthêu: Ở đây chúng tôi chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá thôi.
– Marcô: Thế chúng tôi phải đi mua 200đồng bạc bánh mà cho họ ăn sao?
– Luca: Chúng tôi không có hơn 5 chiếc bánh và 2 con cá, hoạ chăng là chúng tôi phải đi mua thức ăn cho cả toàn dân này.
– Gioan: Philipphê thưa: Có mua hết 200đ bạc bánh cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ. Anrê nói: Ở đây có một em bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!
Thái độ của các môn đệ là muốn thoái thác: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14,15). Đó là giải pháp hợp lý. Lo cho hàng ngàn người ăn là ngoài khả năng các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng, ai lo phần nấy, tự đi mua lấy thức ăn.
Chúa Giêsu không chấp nhận thái độ đó. Chúa muốn các môn đệ nhận lấy trách nhiệm và cùng cộng tác với Ngài: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn đi”.
Chúa Giêsu cầm 5 chiếc bánh và 2 con cá hướng nhìn về trời cao, đọc lời chúc tụng, những bế tắc âu lo của các môn đệ đã được giải toả. Đám đông ăn no nê đầy ứ và còn dư dả phủ phê.
Chúa Giêsu đã cho họ ăn một bữa đã đời và đó cũng là bữa để đời. Để đời vì là lời mời gọi cộng tác và hãy biết quý chuộng ân sủng Chúa ban.
1. “Anh em hãy cho họ ăn”.
Phép lạ xảy ra do quyền năng Thiên Chúa và sự cộng tác của con người.
“Anh em hãy cho họ ăn”.
Chúa không làm phép lạ từ không ra có. Chúa làm phép lạ từ 5 chiếc bánh và 2 con cá, là phần đóng góp nhỏ bé của con người. Phần đóng góp nhỏ bé, nhưng lại cần thiết. Chúa cần sự cộng tác của con người cho dù sự cộng tác ấy là nhỏ bé, nhưng với tấm lòng rộng lớn thì Chúa sẽ biến sự nhỏ bé thành lớn lao, biến điều tầm thường nên vĩ đại.
Chúa không làm phép lạ ngay tức khắc biến bánh và cá thành một kho thức ăn để người ta tự do đến lấy tùy thích.
Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Mọi người trao cho nhau. Đó là bài học lớn lao của phép lạ hoá bánh. Khi mọi người chia sẻ cho nhau, quan tâm giúp đỡ nhau trong tình thương, biết bẻ ra, biết trao đi, thì Chúa Giêsu làm phép lạ hoá nhiều.
Nghèo nàn hay thiếu khả năng, điều ấy không quan trọng. Chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá mà Chúa đã làm phép lạ ra nhiều. Hãy đóng góp hết khả năng nhỏ bé của mình, phần còn lại Chúa sẽ thực hiện.
“Anh em hãy cho họ ăn”.
Đây còn là lời mời gọi lên đường thực thi đức ái. Giáo hội không bao giờ thờ ơ né tránh các vấn đề nhân sinh của nhân loại. Giáo hội quan tâm đến mọi nhu cầu của con người và thế giới. Chúa Giêsu không chấp nhận thái độ thụ động, viện cớ này nọ để tự biện minh: “Chúng con chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, như thế thấm đâu cho ngần ấy người”.
“Anh em hãy cho họ ăn”.
Chúa nhắc nhở Giáo hội phải chủ động đi đến với người nghèo khổ, phải ở bên người nghèo đói và phải bênh vực chăm lo cho người nghèo nàn. Mọi Kitô hữu không thể thờ ơ trước những nỗi đau khổ, nghèo đói, thiếu thốn của anh chị em chung quanh. Nổ lực hết mình góp phần với Thiên Chúa để xoa dịu nỗi đau của tha nhân.
2. “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi”.
Đoạn kết Phúc Âm cho biết: sau khi mọi người ăn no thỏa, người ta thu lượm được “mười hai thúng đầy vụn còn dư”. Hồng ân tràn đầy của tình thương Thiên Chúa. Phúc Âm luôn luôn nói về chân lý này: một khi Thiên Chúa ban ơn là Ngài ban dư dật. Người mù xin sáng mắt,Chúa Giêsu cho sáng cả linh hồn; người bất toại xin sức khỏe để vác chõng về nhà, Chúa Giêsu cho sức khỏe cả về phương diện tôn giáo để hội nhập vào nhịp sống cộng đoàn.
Với 5.000 người không để đàn bà con nít, vậy số người rất đông, cả một rừng người. Có cả ngàn ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh nhiều như vậy tại sao Chúa lại tiếc những miếng bánh vụn còn dư? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mảnh vụn?
Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều là vì “chạnh lòng thương”: “Ta thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt 15,32). Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ của Ngài. Nó là tình thương, là ơn sủng, là ơn cứu độ của Chúa trao ban. Tình yêu và ân sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời, thành trăm ngàn vụn nhỏ thì càng rực rỡ huy hoàng.
Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ, nó trở thành nhỏ bé mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh.
Khi hiến lễ đền tội cho nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra, vóc dáng Người sụp xuống, đó cũng chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra chảy tràn kín vũ trụ, tỏa sức sống cho nhân sinh.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn, Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sức khoẻ, thời gian, tài năng, trí tuệ đều là ân huệ được ban tặng, cần trân trọng nâng niu gìn giữ. Trong ơn sủng của Chúa, không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường.
Có một cụ bà đã 73 tuổi (có lẽ là một Kitô hữu {trong hình thấy đeo tràng chuỗi Mân Côi} đi nhặt những mãnh vụn thai nhi, sinh linh bị giết chết, đem về chôn cất. Chuyện rất cảm động và thật cảm phục “Mười năm nhặt xác ba ngàn hài nhi!”. (x. Người Lao Động Online, 26.6.2011).
Gần 10 năm nay, có một bà cụ đã bước sang tuổi 73, vẫn ngày ngày lặn lội khắp nơi để nhặt những thai nhi bị bỏ rơi, đem về chôn cất. Đó là bà Phạm Thị Cường, ngụ xã Nghĩa Thắng, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Bà bộc bạch: “Hãy yêu thương những linh hồn bé nhỏ bị bỏ rơi, kể cả khi chúng đã qua đời, bởi những đứa trẻ tội nghiệp ấy đã gánh thay chúng ta những tai họa ở trần gian”.
Ở làng quê nghèo ven biển xã Nghĩa Thắng, không ai còn lạ với hình ảnh một người đàn bà đã vào cái tuổi thất thập cổ lai hy, ngày ngày âm thầm đi gom nhặt thi hài những đứa trẻ khắp nơi về chôn cất. Trên đường về Nghĩa Thắng, khi hỏi thăm nhà bà Cường, chúng tôi đã được nghe nhiều câu chuyện về bà qua những nông dân ở vùng quê này. Ở nơi đây, mọi người vẫn trìu mến gọi bà là bà Cường “hài nhi’’, có lẽ một phần cũng do những công việc mà bà đã và đang làm.
Bà là một người hiền lành, phúc hậu. Đã gần 10 năm nay, không quản ngày nắng cháy da cháy thịt hay đêm đông lạnh giá, bà vẫn lặn lội khắp mọi ngả đường của huyện Nghĩa Hưng, đặc biệt là khu vực thị trấn Đông Bình, để nhặt các hài nhi xấu số bị phá bỏ, về chôn cất.
Cuộc sống của bà Cường chỉ trông vào gánh bán rau quả và những đồ tạp hóa ở khu chợ Đông Bình. Nơi đây, có một số cơ sở nạo phá, hút thai nhi. Mỗi ngày có hàng trăm ca nạo phá thai đã diễn ra, một phần công khai, còn chủ yếu là bí mật, cũng đồng nghĩa với việc hàng trăm hài nhi bị vứt bỏ.
“Mỗi lần nhìn thấy thi hài của các cháu bị vứt bỏ nơi đầu đường, xó chợ, tôi lại không thể kìm lòng, càng thương các sinh linh bé nhỏ bơ vơ chưa kịp cất tiếng khóc chào đời, đã phải chịu thay tội vạ mà cha mẹ chúng đã gây ra. Đáng trách quá!”…
Gần 10 năm nay, họ đã tìm nhặt và an táng hơn 3.000 sinh linh bé bỏng.
Bà Cường tâm sự về “cơ duyên” dẫn mình đến cái nghiệp làm phúc này. Bà cho biết vẫn nhớ như in ngày 8.3.2002. Trên đường đến chợ Đông Bình để bán rau, khi đi đến cầu Đông Bình, bà Cường thấy có một túi nilông màu đen, ruồi muỗi bám đen.
Bà Cường nhớ lại: “Lúc đầu tôi cứ nghĩ đây là túi rác của gia đình nào đó ném ra đây. Nhưng rồi đi được một đoạn, tự dưng trong người tôi như có lửa đốt, cứ bồn chồn chẳng yên, đặc biệt là hình ảnh chiếc túi màu đen cứ như ngay trước mắt mình. Đứng lại suy nghĩ một lúc, tôi quyết định quay lại xem bên trong túi bóng đó chứa thứ gì”.
Bà Cường bàng hoàng và đau xót khi chứng kiến một hài nhi đang thoi thóp thở, thân thể bị kiến bu đầy, nhưng đôi mắt bé mở to nhìn bà chằm chằm như muốn nài nỉ, van xin. “Tôi đem đứa bé về nhà, lau rửa sạch sẽ, rồi đi xin sữa cho cháu bú nhưng cũng chỉ được ít phút sau, cháu đã tắt thở. Tôi cứ bị ám ảnh mãi ánh mắt của cháu, cứ đau đáu nhìn tôi. Nhiều đêm trăn trở suy nghĩ, tôi quyết định phải làm một việc gì đó, chứ không thể để những cảnh thai nhi bị người ta bỏ đi mà không hề được chôn cất”.
Nhiều lúc bà Cường cũng nản khi có quá nhiều đứa bé bị nạo hút như vậy. Nhiều lúc bà định dừng công việc này, nhưng lại nghĩ đến những đứa trẻ bơ vơ, sống không thấy mặt cha mẹ, chưa kịp chào đời đã bị bỏ rơi.
Bà lại thấy mình không thể đứng nhìn được, phải làm việc gì sao cho có ích. “Vì vậy, tôi không kể gì là gian khổ, mưa nắng hay ngày đêm, lúc nào nghe tin ở đâu đó có thi hài bị bỏ rơi, là lại tìm đến để xin về mai táng”.
Nghĩa trang Quần Vinh trong một chiều mùa hạ, bà Cường lặng lẽ thắp những nén nhang thơm lên phần mộ của những hài nhi xấu số. Rồi bà nói trong tiếng nấc: “Các con chưa kịp chào đời đã phải trả giá cho sai lầm của những kẻ sinh thành nên các con. Bà thắp nén nhang thơm, mong các con được an nghỉ”…
Tuy hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, bản thân lại già yếu, nhưng lúc nào bà Cường cũng hiển hiện niềm tin cuộc sống và tình thương yêu con người. Tâm sự với chúng tôi, bà Cường không mong ước điều gì ngoài việc mình được… thất nghiệp. Bà mong sẽ không còn phải ngày ngày đi làm công việc thu gom xác hài nhi đầy đau đớn này nữa. Tuy vậy, bà Cường vẫn khẳng định: “Tôi sẽ tiếp tục công việc này cho đến khi nào còn sức khỏe. Tôi sẽ tiếp tục đi thu gom những hài nhi xấu số về chôn cất, bởi theo tâm niệm của tôi, những đứa trẻ tội nghiệp đó đã quá bất hạnh. Tôi quyết không để các cháu cô đơn mặc dù đã rời trần thế”…
Đức Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên thánh, con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con” (ĐHV 814). “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con đừng quên rằng, từng trăm năm trước, nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” (ĐHV 816). “Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy-mã-lạp-sơn được? Tự nhiên có ai lên cung trăng được? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày, mới đạt được đích họ hy vọng” (ĐHV 817).
Suy niệm câu chuyện hóa bánh ra nhiều, nghe Chúa mời gọi chúng ta: hãy mở rộng trái tim để biết “chạnh lòng thương” anh em đồng loại. “Chạnh lòng thương” được thể hiện qua những việc làm cụ thể, bằng sự cộng tác quảng đại, bằng sự tiết kiệm để giúp ích cho nhiều anh chị em.
Chúa muốn trái tim chúng ta vươn lên khao khát những chân trời cao thượng của đời sống tâm linh. Hãy nhìn Chúa Giêsu trong Thánh Kinh. Hãy nhìn Chúa Giêsu trên Thánh Giá. Hãy nhìn Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Tình yêu Thiên Chúa bàng bạc trong Thánh Kinh, Thánh Giá và Thánh Thể. Một tình yêu tha thứ, phục vụ mạnh hơn hận thù. Một tình yêu phục sinh mạnh hơn sự chết. Một tình yêu khiêm tốn bao dung, mạnh hơn mọi kiêu căng và hẹp hòi.
71. Đào tạo lòng tin – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm loá mắt thiên hạ bằng sự lạ lùng.
Khi chống lại sự cám dỗ của Satan trong sa mạc, Chúa không làm ảo thuật ngoạn mục là khiến đá biến thành bánh trong nháy mắt hay gieo mình xuống từ nóc đền thờ.
Chúa làm phép lạ chỉ để cứu giúp người khác và từ sự cộng tác của họ.
Tại Cana, Chúa không khiến cho sáu chum đầy rượu tức khắc mà lại bảo các gia nhân: “Hãy đổ nước đầy các chum!” (Ga 2, 7). Các môn đệ sau một đêm vất vả chẳng bắt được con cá nào, Chúa không truyền lệnh cho cá đầy thuyền mà bảo Simon “ra khơi mà thả lưới đánh cá” (Lc 5, 4 -7). Trong phép lạ hoá bánh ra nhiều cũng vậy: “Các anh có mấy chiếc bánh?” (Mc 6, 38). Chúa đã làm phép lạ từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé.
Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều với mục đích đào tạo lòng tin của các môn đệ.
Chúa Giêsu tỏ ra cho các môn đệ thấy lòng xót thương của Ngài đối với dân chúng “vì họ như cừu chiên không người chăn giữ”. Chúa chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân chứng tỏ Ngài là vị Mục tử mà ngôn sứ Êdêkien đã nói đến (x. Ed 34). Chúa muốn các môn đệ nhận ra Ngài là Chúa Chiên, là Mục tử nhân lành. Phép lạ hoá bánh là cả một bài dạy bằng thực hành về người chăn chiên tốt lành. Chính các môn đệ còn được “tập sự” chia sẻ công việc của chủ chăn. Họ phải đi kiếm bánh, phân phát cho dân chúng và thu lượm những gì còn sót lại.
– Phép lạ hoá bánh là dấu chỉ báo trước Thánh Thể “Ngài cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ” (Mt 14, 20). Trong Tiệc Ly “Ngài cấm lấy bánh, chúc tụng” (Mc 14, 22). Cử chỉ Bẻ Bánh đã trở thành nét đặc trưng của Chúa Giêsu (x. Lc 24, 30) và của Giáo hội (x. Cv 2, 42).
– Được bánh ăn, dân chúng muốn “bắt lấy Ngài tôn lên làm vua” (Ga 6, 15). Họ tiếp nối Satan cám dỗ Ngài lần nữa. Chúa Giêsu nhắc nhở họ rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh “Hãy ra công làm việc, đừng vì lương thực hư nát nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời mà Con Người sẽ ban cho các ngươi” (Ga 6, 27). Họ xin cho được ăn mãi thứ bánh ấy và Chúa đã bảo họ: “Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với ta không hề phải đói, ai tin vào ta, chẳng khát bao giờ” (Ga 6, 35). Chóp đỉnh của mạc khải về Bánh Hằng Sống, chính là “Ai ăn thịt ta và uống máu ta thì được sống muôn đời, và ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6, 54). Ăn thịt, uống máu nhấn mạnh đến cái chết trên thập giá của Chúa.
“Bánh ta sẽ ban” hướng về cái chết của Chúa Giêsu và gợi đến Tiệc Thánh Thể lưu niệm vĩnh viễn sự chết cứu độ của Chúa trên Thập giá. Giá trị cứu rỗi của của cái chết trên Thập giá được hiện tại hoá lụôn mãi trong Tiệc Tạ Ơn của Giáo Hội. Người tín hữu được sống dồi dào khi ăn uống Mình Máu Chúa Giêsu.
– Chúa vẫn tiếp tục đồng hành cùng Giáo hội, thực hiện công trình cứu độ trong Giáo hội, qua Giáo hội và với Giáo hội.
Các anh có mấy chiếc bánh? (Mc 6, 38), đó vẫn mãi mãi vừa là câu hỏi, vừa là lời mời gọi khẩn thiết của Chúa Kitô. Trao cho chúng ta Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể, Chúa mời gọi chúng ta bẻ ra và trao cho anh em mình.
Bánh Lời Chúa:
“Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Lời Thiên Chúa là Lời Quyền Năng, nhưng Ngài lại trao cho con người sứ mạng công bố lời Ngài “Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta qua các Ngôn sứ” (Dt1, 1).
Cũng một sứ mạng ấy được tiếp nối trong Giáo hội hôm nay “Ngài sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9, 2). Sứ mạng đó là nhiệm vụ cốt yếu của các tông đồ “Chúng tôi không thể sao nhãng Lời Thiên Chúa để lo giúp việc bàn ăn” (Cv 6, 2) và chính Thánh Phaolô kêu lên “khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Thế là con người tội lỗi được giao trách nhiệm công bố Lời thánh hoá, con người yếu đuối công bố Lời quyền năng, con người giới hạn công bố Lời vĩnh cửu. Một vinh dự quá đổi lớn lao!
Lời Chúa có thể đọc và giải thích ngoài phụng vụ, trong phạm vi cá nhân hoặc khi làm việc đạo đức. Khi đó Lời Chúa là cơ hội ban ơn hiện sủng và hiệu năng ở đây là hiệu năng “do nhân” (ex opere operantis), tuỳ thuộc thái độ tâm hồn của người đọc và người nghe. Lời Chúa được công bố khi cử hành phụng vụ. Đó là Lời do Chúa Giêsu hoặc Giáo hội ấn định, được công bố nhân danh Chúa và Giáo hội bời Thừa tác viên chính thức.
Lời Bí Tích mang hiệu năng “do sự” (ex opere operato), qua các bí tích, Chúa Kitô ban ân sủng cho người lãnh nhận.
Sứ vụ công bố Lời Chúa được thực hiện trong tác động của Thánh Thần. Bởi thế người rao giảng Tin mừng chỉ có thể thực rao giảng Lời Chúa nhờ quyền năng và tác động của Thánh Thần. Chính Thánh Thần tác động lên người nói cũng như người nghe, để Lời được công bố không còn là Lời của người phàm, nhưng là Lời Thiên Chúa. Dù ta có cố gắng đến đâu cũng không thể cải hoá lòng người vì: “Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà không do Thánh Thần” (1 Cor 12, 3) và “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công” (Tv 127, 1).
Các Con có mấy chiếc Bánh Lời Chúa để trao cho anh em? Chúa vẫn luôn hỏi chúng ta điều ấy mỗi ngày. Bởi đó, cần trau dồi Lời Thiên Chúa, vì người được sai đi để công bố Lời Thiên Chúa, chứ không phải lời của thế gian, cho dẫu lời ấy có khôn ngoan đến đâu chăng nữa. Đồng thời, cũng phải trau dồi lời con người, là khả năng nói, loan báo, kỹ năng diễn đạt tư tưởng và rao giảng để Lời Chúa chinh phục các tâm hồn.
Công bố Lời Chúa, vừa là một hồng ân, vừa là một trách nhiệm. Là hồng ân vì con người tầm thường được Thiên Chúa mời gọi làm ngôn sứ. Là trách nhiệm vì phải nổ lực để chu toàn sứ vụ.
Bánh Thánh Thể:
Bánh và rượu tương trưng đầy đủ chính con người chúng ta. Bánh là kết quả công lao khó nhọc của con người. Người ta thường nói: Đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có mà ăn. Bánh như thế tượng trưng công lao khó nhọc của con người và chính sự sống con người.
Bên cạnh đời sống vật chất còn có đời sống tinh thần. Vì thế cùng với bánh, chúng ta dâng rượu. Rượu tượng trưng cho mọi nỗi vui buồn sướng khổ của đời người: khi vui, ta uống chén rươụ mừng, nhưng khi buồn, ta uống chén rượu giải khuây. Dâng lên Chúa bánh và rượu, là chúng ta dâng lên tất cả đời sống với mọi nỗi vui buồn sướng khổ, tất cả dệt nên cuộc sống hiện tại của chúng ta.
Đến Nhà Thờ dâng Lễ, mỗi tín hữu mang lễ vật riêng, là chính đời sống của mình, nhưng khi dâng lễ, nó được thu hợp lại thành lễ vật chung của cộng đoàn dâng lên Chúa. Tấm bánh được hình thành bởi trăm ngàn hạt lúa miến đã được xay nát ra và hoà trộn với nhau trong chậu bột. Ly rượu là kết quả của nhiều trái nho được ép ra và hoà tan với nhau. Cả hai tượng trưng đầy đủ ý nghĩa cộng đồng cho lễ vật mỗi người cũng như lễ vật toàn thể cộng đoàn.
Linh mục đọc Lời Truyền Phép là lời Chúa Kitô, nhờ quyền năng chúa Thánh Thần, bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Đồng thời Chúa Kitô cũng biến đổi những hy sinh, những hạnh phúc đau khổ, những trách nhiệm của cộng đoàn trong hiến lễ, để rồi khi mỗi người rước lễ, họ đón nhận Mình Máu Chúa là đón nhận lại của lễ mình dâng lên mà giờ đây đã được thánh hiến.
Người tín hữu được lớn lên trong đức tin, trong lòng mến nhờ ân sủng của Thánh Thể Chúa Kitô “Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói;ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (Ga 6, 35). “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 51). Thánh Thể như thế là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người; là quà tặng Thiên Chúa trao ban cho nhân loại, và chính là lương thực thiêng liêng, bảo đảm hạnh phúc trường cửu của chúng ta. Bởi đó, tham dự thánh lễ cách đầy đủ, tích cực, trọn vẹn với tất cả con người, là cách tốt nhất đáp lại tình thương của Chúa, yêu mến Thánh Thể.
Đức Hồng Y Phanxicô Xaiviê Nguyễn Văn Thuận viết “Con muốn hỏi: ‘Cách gì đẹp lòng Chúa hơn cả?’. Hãy tham dự Thánh lễ, vì không kinh nào, không tổ chức, nghi thức nào sánh bằng lời nguyện và hy lễ Chúa Giêsu trên Thánh giá”. (Đường Hy Vọng #349).
Bí tích Thánh Thể là ‘nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu’ (GH 11), là trung tâm điểm của Phụng Vụ vì cử hành mầu nhiệm Vượt Qua, ‘mầu nhiệm Chúa Kitô hoàn tất công trình cứu độ chúng ta’ (GLCG 1068).
Tham dự Thánh Lễ cách “trọn vẹn, ý thức và linh động”, và “qua cuộc sống biểu lộ cho người khác thấy mầu nhiệm Chúa Kitô và bản tính đích thực của Hội Thánh chân chính” (PV 2) là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một niềm tin nhạy cảm để biết nhận ra bàn tay quan phòng của Chúa. Xin ban cho chúng con tấm lòng quảng đại, để biết sống chia sẻ, hầu cảm nhận được tình yêu của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Amen!
72. Các con hãy cho họ ăn đi.
Một bà già sống trong một nửa căn nhà có hai hộ. Bà rất túng nghèo về của cải vật chất, nhưng giàu có về của cải tinh thần. Bà cầu nguyện rất nhiều. Trong khi người chủ nhà sống ở căn hộ sát bên, ông ta không có đức tin, không cầu nguyện, không tôn giáo. Ông ta lại thường chế nhạo bà già về lòng tin vào Thiên Chúa. Có một ngày bà già cầu nguyện lớn tiếng, thưa với Chúa rằng: “Bà không còn chút thực phẩm nào trong nhà”. Người đàn ông không có đức tin ờ sát căn hộ bên nghe được, và quyết định: “Ta phải chơi khăm mụ già này”. Thế là ông ta đem một ổ bánh mì đặt ở trước cửa nhà, bấm chưông rồi vội vã trở về căn hộ của mình, và lắng nghe qua bức tường tiếng kêu sung sướng của bà già: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, con biết rằng Chúa không bỏ rơi con”. Ông già nham nhở trở lại cửa trước nhà bà già và bảo bà: “Bà già thật ngờ nghệch. Bà nghĩ rằng Thiên Chúa đáp lời bà xin ư! Phải, tôi là người đem ổ bánh mì cho bà đấy!” – Bà già dũng cảm kêu lên: “Ngợi khen Chúa! Ngài luôn giúp đỡ tôi trong lúc thiếu thốn, dù rằng Ngài phải dùng ma quỉ mà đáp lời tôi xin”.
Trong câu chuyện Kinh Thánh hôm nay, các môn để xin Chúa giải tán dân chúng… để họ đi mua thức ăn. Chúa Giêsu bảo các ông: “Các con hãy cho họ ăn”. Rồi Chúa đã cho 5000 người ăn với năm chiếc bánh mì và hai con cá – với 12 thúng bánh vụn còn dư lại.
Hôm nay đám đông dân chúng đó đã phát triển nhanh tới hàng triệu người. Họ không chỉ cảm thấy đói, mà họ chết đói, một trăm ngàn người một ngày, theo như một số ước lượng. Ngay ở quê hương chúng ta đây, còn rất nhiều người thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng.
Nhiều Kitô hữu và cả người ngoài Kitô giáo có những hy sinh anh hùng để nuôi dưỡng những người đói khổ cùng cực. Nhưng vấn đề quá lớn lao đối với con người. Chắc chắn chúng ta phải làmhết sức, với khả năng con người. Nhưng chúng ta cần sự trợ giúp ở trên và vượt qua con người. Chúng ta nghe thấy có tiếng kêu: “Người đói cần thực phẩm – không cần lời cầu nguyện”. Dĩ nhiên là thế, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ cho bánh cho người chết đói, cho đến khi chúng ta cũng cho họ lời cầu nguyện. Chỉ riêng các tông đồ không thể nuôi đám đông người đói đó. Họ đã giải quyết được với sự giúp đỡ của Chúa Kitô. Phải, đức tin của tôi chỉ đủ tin rằng nếu chúng ta nài xin Thiên Chúa, Ngài sẽ giúp đỡ chúng ta nuôi dưỡng người đói như bà già trong câu chuyện. Tôi tin tưởng Chúa sẽ thực hiện ngay cả với một phép lạ, có lẽ với phép lạ của lòng bác ái.
Chúng ta cầ cầu nguyện cho vấn đề người đói, vì chúng ta biết tất cả sự việc, số đông vô kể những người đói, sự khó kiếm được thực phẩm cho họ, hay làm cho họ kiếm được lương thực, hệ thống phân phối nhiều khi và thường đầy tội lỗi, thì chỉ nhờ lời cầu nguyện mà các cá nhân và tập thể sẽ bị lay động để làm những gì thiết yếu cho việc cung cấp lương thực cho những người đói khổ.
Chúng ta cần cầu nguyện thường xuyên và thành thực để chúng ta ý thức và luôn ý thức rằng: hàng triệu người đang chết đói.
Sự tin tưởng cầu nguyện được diễn tả trong bài đáp ca: “Muôn loài để mắt trông cậy vào Chúa và Chúa sẽ ban lương thực cho chúng đúng theo giờ”. Trong ít phút nữa, chúng ta sẽ cầu nguyện như những lời Chúa Giêsu đã dạy: “Xin ban cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Chúa Giêsu dạy chúng ta điều mà tôi xin các bạn làm. Hãy cầu xin lương thực cho tất cả chúng ta, tất cả nhân loại. Phải, hãy đào bới và trao tặng, nhưng cũng hãy quì gối cầu nguyện để tất cả anh chị em chúng ta trên thế giới có lương thực.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
73. Phép lạ của sự lắng nghe
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Mỗi lần được nghe bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thường liên tưởng đến phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều hay là hình ảnh tiên báo về bí tích Thánh Thể. Đây là cái nhìn thông thường. Thế nhưng, theo tường thuật của thánh Mat-thêu, phép lạ đã diễn ra ngay từ lúc đám đông tìm kiếm Chúa. Họ vượt qua mọi trở ngại của ngăn sông cách núi. Họ rỉ tai nhau. Họ lũ lượt mời gọi nhau lên đường tìm kiếm Chúa. Họ đến với Chúa không phải vì miếng ăn. Họ không xin Chúa bánh ăn. Họ tìm Chúa để được nghe lời Người rao giảng. Họ muốn tìm ra chân lý của cuộc đời. Họ muốn hiểu về giá trị và mục đích của cuộc sống. Thực sự họ đã say mê khi nghe Chúa giảng về Nước Trời. Họ đã bị lôi cuốn bởi lời rao giảng của Chúa đến mức độ quên cả thời gian. Trời đã tối mà xem ra đám dân chúng này vẫn chưa muốn rời xa Chúa. Họ vẫn muốn được nghe lời hằng sống phát ra từ môi miệng Chúa.
Thánh Matthêu còn kể tỉ mỉ là số lượng khoảng trên 5.000 người đàn ông, không kể phụ nữ và trẻ em. (Nếu tính tổng cộng phải trên 10.000 người). Đây cũng là một sự kiện lạ. Một sự kiện mà cho tới hôm nay dù rằng có âm thanh hỗ trợ, có phương tiện tối tân vẫn khó khăn truyền tải sứ điệp đến với thỉnh giả tại bãi biển đầy sóng gió ồn ào. Nơi mà người ta nói “ăn sóng nói gió”, phải nói thật to, phải gào thật lớn mới nghe được nhau. Thế mà, lời rao giảng của Chúa Giê-su lại đến với tai mọi người. Mặc dù không micro, không loa phóng thanh. Ngài nói trong gió trời lồng lộng, trong sóng vỗ miên man mà ai cũng nghe được. Ai cũng hiểu. Ai cũng say sưa nghe giảng. Quả thực, đây là một phép lạ! Phép lạ của sự tôn trọng và lắng nghe. Họ tôn trọng Chúa là người đang nói và cũng tôn trọng tha nhân là người đang lắng nghe. Thông thường ai cũng muốn nói, nhưng ở đây hầu như ai cũng muốn lắng nghe. Chính nhờ thế mà đám đông đã tạo thành một không gian thanh bình, một nơi chốn của thinh lặng cho con tim rung cảm chan hoà yêu thương và tôn trọng lẫn nhau.
Và hôm nay phép lạ đó vẫn có thể tái diễn trong cuộc sống khi chúng ta biết lắng nghe, tôn trọng lẫn nhau. Khi mỗi người biết nhường nhịn nhau và tha thứ cho nhau. Thế giới hôm nay rất cần phép lạ này để thế giới được thanh bình hơn. Để con người biết đối thoại với nhau trong chân thành, cởi mở và yêu thương. Một thế giới mà con người biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhau, đó cũng là một thế giới hòa bình, một thế giới của bình an mà người người biết trao cho nhau niềm vui và hoan lạc hạnh phúc. Một thế giới mà còn đầy những hiềm khích, nói xấu, bỏ vạ cáo gian thì làm sao có những giây phút bình yên. Kẻ gieo gió đã gây tai họa tổn thất cho người khác và chính họ cũng sẽ không có được tâm hồn thanh thỏa bình an.
Một gia đình hạnh phúc là một gia đình biết lắng nghe nhau. Vợ chồng lắng nghe nhau trong chân thành cởi mở. Con cái vâng lời cha mẹ. Kính yêu ông bà và cùng nhau kiến tạo một gia đình hạnh phúc yêu thương. Một thôn ấp văn hóa là một thôn ấp người người biết nhường nhịn nhau. Tối lửa tắt đèn có nhau trong sự chia cơm sẻ áo. Không thể có một ấp văn hóa nếu hàng xóm láng giềng vẫn lời qua tiếng lại. Chê bôi, dè bửu nhau. Chỉ gây thêm hận thù. Đánh mất truyền thống tổ tiên. “Thương người như thể thương thân. Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Một xứ đạo hiệp nhất là một xứ đạo cảm thông tha thứ và sống chan hòa tình huynh đệ. Một xứ đạo đúng nghĩa phải mô phỏng lại lối sống của cộng đoàn Giáo hội thời sơ khai mà sách tông đồ công vụ đã ghi lại. “Ngày ngày họ chuyên chăm cầu nguyện, lắng nghe lời các tông đồ giảng dạy và gom góp của cải thành của chung”. Một con người biết đóng góp và xây dựng giáo xứ trước tiên phải hỏi chính mình: “Tôi đã làm gì cho giáo xứ”, hay tôi chỉ là một lữ khách, sống bàng quan với công việc của giáo xứ.
Nét đẹp của Bài Phúc âm hôm nay không chỉ dừng lại ở việc con người biết lắng nghe và tôn trọng nhau mà còn quan yếu ở chỗ sự chia sẻ lương thực được trao tặng cho nhau. Cho dù chỉ với phần lương thực quá ít ỏi của một đứa bé. Thế nhưng, với 5 chiếc bánh và hai con cá được trao ban từ lòng quảng đại đã được Chúa nhân lên đến nỗi nuôi đủ 5 ngàn người ăn, không kể đàn bà và trẻ con.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn quảng đại cho đi chính bản thân của mình, để trở nên nguồn sống cho tha nhân. Xin giúp cho mỗi người chúng ta luôn biết cho đi chính sự sống mình để gieo mần sống đức tin cho các thế hệ mai sau. Xin cho chúng ta luôn đơn sơ nhỏ bé ngõ hầu dễ dàng lắng nghe và tôn trọng lẫn nhau để xây dựng một thế giới văn mình tràn đầy tình thương. Amen.
74. Hãy bắt đầu từ việc nhỏ
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có đứa trẻ nói với cha rằng: “cha ơi, con muốn sau này con sẽ thay đổi cả thế giới”. Người cha ôn tồn bảo con: “con phải học thật giỏi hôm nay thì mới hy vọng ngày mai giúp đời”.
Hóa ra muốn thay đổi thế giới không phải là chờ lớn lên mới làm mà phải bắt đầu từ ngày hôm nay. Sự trau dồi kiến thức, sự học hành là điều tối thiểu để có khả năng giúp đời mai sau.
Có một cậu bé vào tập việc trong một tiệm sửa xe đạp, có người khách đem đến một chiếc xe đạp hư, cậu bé không những sửa lại cho thật tốt, mà còn lau chùi chiếc xe cho sạch đẹp. Những người đang học việc khác cười nhạo cậu bé đã dại dột, đã chẳng được thêm chút tiền công nào lại còn tốn sức. Hai ngày sau, người khách trở lại, thấy chiếc xe đạp vừa tốt vừa đẹp như mới mua, cậu bé liền được người khách nhận đưa về hãng của ông ta để làm việc với mức lương cao.
Hóa ra để thành đạt trong đời thật đơn giản, chỉ cần tận tụy với công việc trước mắt, đôi khi chịu thiệt thòi một chút sẽ giúp ta thành công.
Có một thanh niên đến xin làm môn đệ của một vị hiền triết liền được vui vẻ chấp nhận. Lúc ấy có một người phong hủi lầm lũi bước ra. Nhà hiền triết liền nói với đồ đệ: “Con hãy đến giúp người phong hủi này tắm rửa cho sạch sẽ đi.” Người đồ đệ trố mắt ngạc nhiên: “Con là môn đệ của ngài, sao lại có thể đi phục vụ một con người bẩn thỉu như thế chứ?” Nhà hiền triết bảo: “Con không đi phục vụ kẻ khác, thì kẻ khác làm sao biết được con là… môn đệ của Ta?
Hóa ra học hành tập luyện để nên giống thầy mình thật đơn giản, chỉ cần đem lòng thành thật ra mà phục vụ hết mình là được rồi.
Các môn đệ của Chúa khi thấy biển người bao la đã thấm đói và khát vì suốt một ngày phơi nắng nơi vùng đồng quê hẻo lánh. Rồi trời lại sắp tối. Các ông đã “bàn” rất hợp lý với Đức Giêsu rằng “lực bất tòng tâm”, tốt nhất là giải tán dân chúng để họ đi mua thức ăn! Nhưng Chúa Giêsu đã bảo họ: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính chúng con hãy cho họ ăn đi.”. Các ông bàng hoàng sửng sốt vì biết đào đâu ra thức ăn cho bằng ấy ngàn người? Các ông đã thưa với Chúa: “Ở đây chúng con chỉ vỏn vẹn có năm cái bánh và hai con cá!”. Ấy thế mà khi đã đưa cho Chúa rồi thì “ai nấy đều ăn no nê”.
Hóa ra phép lạ không bỗng dưng mà có. Phép lạ chỉ xảy ra qua sự nỗ lực của con người, và Thiên Chúa hoàn tất những nỗ lực ấy theo thánh ý của Ngài.
Nhiều người chúng ta luôn ao ước có thể góp sức làm thay đổi thế giới. Chúng ta ao ước có thể làm những chuyện phi thường, những chuyện siêu phàm để mang lại hạnh phúc cho con người. Thế nhưng, điều ấy sẽ không bao giờ xảy ra vì chúng ta chỉ là người phàm nên chăng chỉ có thể làm những chuyện bình dị mà thôi! Điều mà chúng ta có thể làm thay đổi cả thế giới này là bằng chính những hành động nhỏ nhặt nhất của mình, những công việc của bổn phận, những công việc của tự nguyện hy sinh vì lợi ích tập thể đều là những công việc góp phần thay đổi thế giới. Vâng chúng ta chỉ cần làm một việc nào đó với tất cả sự yêu thương và tình cảm chân thành là chúng ta đang làm vơi đi những khổ đau, những gánh nặng cho tha nhân.
Khi chung tay giúp đỡ người khác chỉ với một hành động nhỏ thôi chúng ta cũng làm nên những điều to lớn đối với người nhận được sự giúp đỡ và cả những người xung quanh.
Giáo xứ chúng ta mỗi tháng ban Caritas đều đến thăm hỏi hơn 100 gia đình già, neo đơn, nghèo và chia sẻ cho họ một chút gạo trong chương trình chén gạo tình thương. Một chút gạo chẳng là bao nhưng mang nặng cả một tình yêu đùm bọc của giáo xứ dành cho người nghèo. Chén gạo của từng người tuy nhỏ nhưng được gom vào tay Chúa đã đem lại rất nhiều niềm vui cho người nghèo.
Thế nên, hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ nhặt nhất để thay đổi cuộc sống của chính mình và những người xung quanh. Nhiều người với những hành động nhỏ nhặt của mình đã làm thay đổi cả thế giới. Mẹ Tê-rê-sa thành calcutta là một ví dụ. Và hôm nay Đức Giáo Hoàng Phanxico vẫn đang là tấm gương phản chiếu tình yêu của Chúa qua những nghĩa cử bình dị mà ngài vẫn dành cho người nghèo, người bệnh tật…
Không cần làm những chuyện phi thường mà chỉ cần làm những việc nhỏ nhưng biểu lộ một tình yêu chân thành vẫn có thể làm vơi đi biết bao phiền muộn, đau khổ cho tha nhân.
Xin Chúa cho chúng ta luôn là những con người biết đóng góp phần nhỏ bé của mình để làm vơi những đau khổ, đói nghèo cho những người chung quanh. Amen.
75. Đức Giêsu chữa bệnh và nuôi đám đông dân chúng
(Suy niệm của Lm. PX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chúng ta nên đặt đoạn văn này vào trong ngữ cảnh của nó là toàn khối từ cuối chương 13 đến chương 17. Đọc khối này, chúng ta nhận ra những ý tưởng quan trọng:
1) Chương 13 cho hiểu rằng Nước Trời đang tăng trưởng và bất cứ người nào hiểu rằng mình được kêu gọi đi vào đấy, thì phải lựa chọn dứt khoát. Kể từ nay, chúng ta thấy cộng đoàn của Đức Giêsu xuất hiện rõ nét dần, được củng cố dần, mở ra dần với đức tin (x. 14,33; 16,16), đào sâu dần mầu nhiệm Đức Giêsu. Chính là nơi cộng đoàn này mà người ta nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện diện và ngày càng rõ nét. Chúng ta có thể đặt tên cho toàn khối ch. 13-17 này: “Tiến tới việc loan báo Giáo Hội”hoặc “Giáo Hội, hoa quả đầu mùa của Nước Trời” hoặc “Hành trình đức tin trong Giáo hội”, bởi vì qua các chương này, Mt đề cập đến việc đào tạo tiệm tiến cộng đoàn Giáo Hội.
2) Khối này mở ra với việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu (13,53-58) và kết thúc với câu chuyện cho thấy Phêrô được Đức Giêsu cho gắn bó với Người (17,24-27). Xuất hiện gương mặt đe dọa của vua Hêrôđê, người đã giết Gioan Tẩy Giả (14,13). Nhóm Pharisêu ngày càng tỏ rõ thái độ hiềm thù đối với Đức Giêsu (15,1tt.12; 16,1.4). Những thái độ đe dọa thù nghịch khiến Đức Giêsu lo sợ, Người rút lui về những nơi an toàn hơn hoặc tách biệt hơn (14,13; 15,21).
3) Toàn khối này được xây dựng quanh hai điểm: đức tin và hiểu biết:
– Tác giả nói đến những người kém tin trong câu truyện Phêrô đi trên mặt nước (14,31) và câu truyện các môn đệ bàn tán về việc quên bánh (16,8). Trong câu truyện Đức Giêsu chữa đứa trẻ bị kinh phong, có một lời than: “Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin …” (17,17). Mt là tác giả duy nhất xác định rằng các môn đệ không chữa lành được em bé vì họ kém tin. Người cũng là người duy nhất ghi nhận đức tin mạnh của bà Canaan (15,28).
– Ngài đã sử dụng động từ hiểu 9 lần trong các chương này. Ở 15,10, các đám đông được mời gọi nghe và hiểu. Ở 15,16, các môn đệ bị gọi là ngu tối (= không hiểu). Và cũng chỉ một mình Mt đã ghi nhận rằng các môn đệ khi ấy mới hiểu ra (16,12; 17,13) những gì cho tới nay họ vẫn không hiểu.
Các ghi nhận này cho thấy, dọc theo các chương này, tác giả Mt đặc biệt quan tâm đến đức tin, nhất là đức tin của các môn đệ, nhìn như một hành trình và như một nỗ lực đào sâu và củng cố đức tin.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia làm ba phần:
1) Đức Giêsu chữa bệnh cho đám đông (14,13-14):
a) Hoàn cảnh (c. 13),
b) Đức Giêsu chữa bệnh (c. 14);
2) Đức Giêsu nuôi đám đông (14,15-21):
a) Đức Giêsu đối thoại với các môn đệ (cc. 15-18),
b) Đức Giêsu nuôi đám đông nhờ trung gian các môn đệ (c. 19-20a);
3) Kết luận: Ghi nhận về bánh hóa nhiều (cc. 20b-21).
3.- Vài điểm chú giải
– nơi hoang vắng (13): dịch sát là nơi “sa mạc”. Phép lạ hóa bánh ra nhiều tại sa mạc này khiến chúng ta nhớ đến Môsê đã xin Chúa ban man-na cho đoàn dân trong thời gian họ tiến đi trong sa mạc để về Đất Hứa (x. Xh 16; Ds 11).
– chạnh lòng thương (14): dịch sát là “đau đớn quặn thắt trong ruột”. Nhiều lần Mt ghi nhận là Đức Giêsu “động lòng thương” (esplanchnisthê: 9,36; 15,52) và bày tỏ lòng thương bằng những hành vi cứu chữa.
– chiều đến (15): Ghi nhận là bài tường thuật Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể cũng bắt đầu với công thức chỉ thời gian này (26,20).
– năm cái bánh và hai con cá (17): Bánh và cá muối hoặc ngâm dấm là những món thuộc về bữa ăn thông thường của dân chúng.
– ngả mình trên cỏ (19): Chi tiết này cho hiểu đây là thời gian trong mùa xuân, tức ám chỉ đến lễ Vượt Qua. Anaklithênai, “ngả mình”, là động từ gợi ý đến một bữa tiệc, bởi vì khi ăn, các thực khách Do Thái “ngả mình” trên những chiếc bàn thấp (đi-văng). Bài tường thuật bí tích Thánh Thể cũng dùng một động từ tương tự (“Chiều đến, Đức Giêsu vào bàn tiệc” = ngả mình [anekeito] trên giường tiệc; Mt 26,20).
– cầm lấy … dâng lời chúc tụng … bẻ ra … trao cho (19): Đây là chuỗi động từ được dùng trong bài tường thuật về bí tích Thánh Thể (so sánh: Mt 14,19 // Mt 26,26: “cầm lấy”: labôn/labôn; “bánh”: artous/arton; “dâng lời chúc tụng”: eulogêsen/kai eulogêsas; “bẻ ra”: klasas/eklasen; “trao cho các môn đệ”: edôken tois mathêtais/dous tois mathêtais). Việc bẻ bánh luôn luôn là một nghi thức được thực hiện trong bữa tiệc.
– … trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng (19): Các môn đệ là trung gian giữa Đức Giêsu và đám đông. Mt dùng một động từ duy nhất (didômi, “cho, trao cho”) để nói về hành động của Đức Giêsu và của các môn đệ. Trong khi trong Mc (6,41) và Lc (9,16), các tông đồ “mang; phân phát” (Mc: paratithôsin; Lc: paratheinai) bánh cho đám đông, trong Mt, các ông có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu của dân chúng bằng cách tiếp nối công việc của chính Đức Giêsu.
– những mẩu bánh còn thừa (20): Trong các bữa tiệc Do Thái, có việc bẻ bánh trao cho nhau như một nghi thức. Những mẩu bánh thừa khiến nhớ lại “nghi lễ bẻ bánh”, tức bí tích Thánh Thể, mà các tông đồ và môn đệ cử hành sau khi Đức Giêsu đã về trời (x. Cv 2,42; 20,7).
– năm ngàn đàn ông (21): Không chắc đây là con số chính xác (làm sao đếm xuể?). Có lẽ Mt muốn so sánh Đức Giêsu với ngôn sứ Êlisa và cho thấy Đức Giêsu vượt xa ngôn sứ này: Trong sách 2 V 4,42-44, Êlisa đã hóa hai mươi cái bánh lúa mạch ra nhiều để nuôi 100 người (từ 1 thành 5). Ở đây Đức Giêsu đã hóa năm cái bánh ra nhiều để nuôi 5000 người (từ 1 thành 1000). Vậy Đức Giêsu cũng là một ngôn sứ có khả năng làm phép lạ, nhưng cao trọng hơn Êlisa nhiều.
– giỏ (20): Cái giỏ (kophinos) để đựng các đồ vật cũng là một đồ dùng để đo thể tích (khoảng 10 lít).
4.- Ý nghĩa của bản văn
Câu truyện Đức Giêsu nuôi đám đông hôm nay có thể khiến chúng ta nhớ đến giai thoại man-na trong hoang địa (Xh 16,11-36; Ds 11), Êlisa nuôi đám đông (2 V 4,32-44), câu truyện tiệc cưới Cana (Ga 2,1-12), cũng như các bữa ăn Đức Giêsu chia sẻ với những người khác. Dù thế, hẳn là có thật một hoàn cảnh ngặt nghèo, đói khát.
– Đức Giêsu chữa bệnh cho đám đông (13-14)
Hoàn cảnh lúc đó là một lần nữa, Đức Giêsu lại muốn lánh đi về một nơi hoang vắng riêng biệt vì bị giới lãnh đạo đe dọa (x. 12,15). Tuy nhiên, đám đông dân chúng biết tin liền đi theo Người. Đây không phải là lần đầu tiên Mt cho thấy Đức Giêsu có đám đông đi theo (x. 8,1; 12,15). Vẫn chính là Người hướng dẫn cộng đồng những kẻ lưu đày về quê hương. Lần này, đám đông thậm chí còn đi trước Người, đưa theo những người bệnh, và hẳn là cả các niềm hy vọng của họ (c. 14). Đức Giêsu không bực bội nóng giận vì dân chúng làm mất sự yên tĩnh, cũng không tỏ ra lãnh đạm với đoàn dân; Người thương cảm họ sâu xa (esplanchnisthê), hẳn cũng vì một lý do như ở 9,36 (x. 15,32; 20,34; đọc thêm: vì “thương xót” [eleeô]: 9,27; 15,22; 17,15; 20,30-31): “vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt”. Thế là Người lại hòa mình vào giữa đám đông để chữa bệnh cho họ. Hành vi đầu tiên Người làm lúc này là chữa bệnh: các sự dữ không chỉ được khoan nhượng, mà còn bị loại trừ. Sau những ca chữa bệnh “cụ thể”, khó mà nói rằng việc nuôi đám đông chỉ có tính biểu tượng hoặc bí tích; hẳn đây cũng là một phép lạ “cụ thể”.
– Đức Giêsu nuôi đám đông (15-21)
Khi chiều đến, các môn đệ là những người thực tế, đánh giá tình hình khách quan, đã đến đề nghị Đức Giêsu giải tán đám đông, để họ có thể tùy nghi vào các làng mạc mà mua lương thực. Chi tiết này cho thấy họ không nhất thiết là những người “khố rách áo ôm”. Chẳng những không đồng ý, Đức Giêsu còn yêu cầu các ông cho đám đông ăn. Đây là một yêu cầu rất thiếu thực tế, mà chính Đức Giêsu biết. Tác giả phác họa ra Người như một bề trên, Chúa tể tối cao ra lệnh cho các môn đệ làm một việc dường như không thẻ làm nổi, nhưng người thì biết chính xác Người sẽ làm gì. Người chỉ muốn các môn đệ cộng tác với Người để làm công việc cung cấp lương thực cho dân chúng. Khi các môn đệ tỏ ra ngại ngùng, vì chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá (c. 17), Người không trả lời họ; Người bảo mang cá và bánh lại cho Người (c. 18).
Với một lệnh một lần nữa gợi ra uy quyền tối thượng của Đức Giêsu, tác giả đưa vào truyện phép lạ. Ngài không ghi lại chi tiết phân thành các nhóm một trăm và năm mươi như Mc 6,40. Đức Giêsu cầm lấy bánh và cá, ngước mắt lên trời (không phải là cử chỉ thông thường của người Do Thái khi cầu nguyện, dù có thể làm), dâng lời chúc tụng Thiên Chúa (chứ không phải là làm phép bánh và cá), rồi bẻ ra, tao cho các môn đệ; các môn đệ phân phát cho dân chúng. Với những công thức này, một độc giả Kitô hữu gốc Do Thái nhớ tới những bữa ăn trong gia đình, tại nhà thờ và Bữa Tối của Chúa. Họ hiểu rằng bài tường thuật trước tiên kể lại một phép lạ, nhưng cũng nhắc họ nhớ đến bữa tiệc Thánh Thể. Quả thật tác giả nhắc lại những công thức của bài tường thuật về bí tích Thánh Thể nhằm nhắc lại và cũng giới thiệu trước bài tường thuật về việc thiết lập bí tích Thánh Thể.
Biến cố này là một hình ảnh về Giáo Hội, nên cũng cần được giải thích theo hướng đó. Đức Giêsu ở tại trung tâm, Người là nguồn mạch ban phát mọi ân huệ, Người ban lời và bánh. Rồi đến nhóm nhỏ các môn đệ bao quanh Người. Họ ở sát bên Người, họ chuyển thông các ân huệ của Người, họ như là cánh tay Người nối dài ra. Đám đông được Đức Giêsu quy tụ lại thì ngồi xung quanh các ngài: họ vui sướng được ở với Người. Đức Giêsu ngước mắt lên trời khi đọc lời chúc tụng. Người làm những việc “Chúa Cha giao cho Người hoàn thành” (x. Ga 5,36). Người không còn chỉ là vị trung gian như Môsê, hay chỉ là một ngôn sứ nhỏ như Êlisa ngày xưa. Nay Người chính là Đấng ban sự sống, bởi vì Người là nguồn sự sống. Tương quan giữa hai mươi cái bánh của Êlisa với một trăm người được ăn no (1 thành 5) và năm chiếc bánh của Đức Giêsu với năm ngàn người được no nê (1 thành 1000) nêu bật sự trổi vượt của phép lạ thứ hai. Đức Giêsu là một ngôn sứ và một Đấng làm phép lạ, nhưng cao cả hơn Êlisa nhiều.
– Kết luận: ghi nhận về bánh hóa nhiều (20b-21)
Chi tiết “mười hai giỏ đầy” (c. 20) những mẩu bánh thừa không có điểm tựa nào khác trong bài để độc giả có thể nói rằng chi tiết này quy về mười hai môn đệ hay mười hai chi tộc Israel. Chúng ta chỉ có thể nói: như vậy đám đông đã được ăn no.
Bản văn hẳn cũng song song với truyện phép lạ man-na, cũng xảy ra trong hoang địa trước đám đông dân chúng (x. Xh 16; Ds 11). Bánh và cá hôm nay thay thế cho man-na và chim cút ngày xưa. Với những dấu lạ này, Đức Giêsu xuất hiện như nhà giải phóng của thời cuối cùng. Nhờ năm chiếc bánh, tượng trưng năm quyển sách của Torah mới (Ortensio da Spinetoli), Đức Giêsu nuôi đoàn dân Thiên Chúa đang tiến về đất hứa. Những chi tiết này đặt sánh đôi Đức Kitô với Môsê, Họi Thánh với cộng đoàn Xuất Hành. Hôm nay, nhà giải phóng đích thực, vị mục tử, nhà lãnh đạo dân Thiên Chúa, dẫn dắt một đoàn dân bị bỏ rơi và đang tiến đi trong sa mạc trần gian này, là một mình Đức Giêsu.
Trong nền văn chương kinh sư, bữa tiệc là biểu tượng của cộng đoàn cánh chung (hiệp thông đời sống: St 31,54; Xh 18,12; 1 Sm 9,12; Am 2,8; Hs 8,13; và niềm hạnh phúc thời thiên sai: Is 48,21; 49,9-10; 55,1; 65,13; Dc 5,1; Is 25,6; Tv 23,1-5). Việc Đức Giêsu quy tụ các môn đệ và dân chúng ở bờ hồ như thế trở thành nghi thức khai mạc thời đại mới. Sa mạc, nơi đầy những thử thách và gai góc, đã trở thành một khu vườn.
+ Kết luận
Đức Giêsu quả là Đấng có quyền trên bệnh tật và sự đói khát. Một lần nữa, dân chúng trải nghiệm về quyền lực và sự quan tâm của Đấng Mêsia.
Biến cố được kể trong bản văn này là một hình ảnh về Hội Thánh. Đức Giêsu ở ngay trung tâm, Người là nguồn mạch từ đó phát xuất mọi ân huệ, Người chữa lành, ban Lời và bánh. Kế đó là nhóm nhỏ các môn đệ. Các ông ở ngay bên Đức Giêsu, các ông chuyển giao các ân huệ Người ban, các ông là như cánh tay nối dài của Người. Dân chúng được quy tụ lại thì ngồi chung quanh Người; họ sung sướng được ở với Người. Đức Giêsu ngước mắt lên trời mà đọc lời chúc tụng. Người hướng về Thiên Chúa là Cha của Người, là Đấng mà Người luôn tìm biết ý muốn để chu toàn (x. Mt 11,25-27). Bây giờ Đức Giêsu không chỉ còn là một trung gian như Môsê xưa kia nữa; Người chính là Đấng ban sự sống, bởi vì Người là nguồn mạch từ đó phát xuất ra sự sống.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Các môn đệ cần quan tâm học hỏi cách xử sự của Đức Giêsu: cứu chữa. Nhưng họ chỉ có thể học được bài học này, nếu họ có trái tim của Đức Giêsu: thương cảm sâu sắc trước tình cảnh của người anh em chị em, tức là biết quan tâm đến hoàn cảnh sống của anh chị em mình, với trá tim đầy tình yêu thương.
2. Phép lạ đặc biệt nhắm đến các môn đệ. Có thể họ còn yếu đức tin, nhưng họ đã trải nghiệm quyền năng từ bi của Chúa họ. Họ sẽ còn trải nghiệm về điều này lần nữa (15,32-39). Qua những kinh nghiệm đó, họ sẽ hiểu (16,5-12). Đàng sau các môn đệ là Hội Thánh: trong cuộc sống chia sẻ với Đức Chúa Phục Sinh, qua những bữa ăn, và trong mỗi Thánh Lễ, Bữa tiệc của Chúa, Hội Thánh lại sống biến cố hóa bánh ra nhiều tại bờ hồ hôm ấy.
3. Không được quá đề cao cơm bánh vật chất (x. Mt 6,25-26), nhưng cũng không được quên cơm bánh vât chất (6,11). Phải nghĩ đến việc nuôi dưỡng bản thân (6,11), nhưng cũng phải quan tâm đến việc nuôi sống người khác. Người Kitô hữu không được ăn uống một mình, vì luôn ở giữa một đoàn anh chị em đang chờ đợi thức ăn họ thiếu. Họ phải đi ra khỏi tình trạng cô lập mà sống trong cộng đoàn và trong sự hiệp thông với mọi người. Bài học hôm nay cho hiểu rằng họ chỉ việc dâng cho Đức Giêsu chút tài nguyên ít ỏi của mình, rồi làm theo sự hướng dẫn của Người.
4. Trong khi trong bản văn Ga 6, các tông đồ không có sáng kiến nào, trong các Tin Mừng Nhất Lãm, chính các ông lưu ý Đức Giêsu, trao đổi về cách cung cấp các nhu yếu phẩm cho đám đông, cuối cùng nhận được nhiệm vụ phân phát bánh và thu gom các mảnh vụn còn dư. Các môn đệ nhận lệnh đưa bánh và cá, chuẩn bị và phục vụ bữa ăn. Công việc của các ông nối dài công việc của Đức Giêsu. Hôm nay, các mục tử cũng không thể bỏ mặc đoàn chiên thiếu lương thực thiêng liêng và nhất là lương thực Thánh Thể.
5. Mỗi khi tham dự thánh lễ, các tín hữu sống một biến cố mang tính Giáo Hội: họ vây quanh Đức Giêsu, họ chia sẻ chính Mình Máu Người. Sau đó, họ được mời gọi ra đi (Ite, missa est: “Lễ đã xong, anh chị em hãy ra đi (loan báo Tin Mừng)”) để, cũng như Đức Giêsu, họ trở thành “tấm bánh” nuôi dưỡng nhân loại và kiến tạo một thế giới mới.
76. Hóa bánh ra nhiều
(Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Có bao nhiêu trình thuật “hóa bánh ra nhiều” trong các Tin Mừng?
2. Đâu là ý nghĩa tổng quát của trình thuật này trong bố cục toàn bộ Tin Mừng Mt?
3. So sánh c.19 với Mt 26, 26: các động từ có giống nhau không? Điểm tương hợp này gợi lên điều gì?
4. Cá có được thường xuyên nhắc đến như bánh trong trình thuật này chăng? Phải kết luận thế nào từ đó?
5. Ở đây động từ “lui đến”? (c.13) có nghĩa đặc biệt nào không?
6. Lần đầu tiên trong Tin Mừng Mt, các môn đồ giữ một vai trò tích cực nơi giai thoại này. Có nên xem chi tiết ấy như có ý nghĩa đặc biệt đối với cơ cấu chung của Tin Mừng không?
1. Các Tin Mừng đã ghi lại ít nhất 6 trình thuật “hóa bánh ra nhiều” (xem thêm 15, 32- 39; Mc 6, 30-44; 8, 1-10; Lc 9, 10-17; Ga 6, 1-13). Mt và Mc mỗi người ghi lại hai, Lc và Ga mỗi người ghi lại một. Sự phong phú đặc biệt ấy khiến ta nghĩ rằng các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã lượng giá rất cao giai thoại này của cuộc đời Chúa Giêsu, và rằng họ đã không cảm thấy lúng túng khi đọc hai bản văn hơi khác nhau đôi chút, trong Mc và trong Mt.
2. Lúc đặt giai thoại trong bố cục chung của Mt, ta thấy ngay ý nghĩa của nó được sáng tỏ thêm nhiều: dù đã khước từ Chúa Giêsu ở Nadarét (13, 53- 58) và nghe biết cái chết bi thảm của vị Tiền hô (14, 1- 12), đám đông dân chúng vẫn tuôn đến bên Người (c.13) và được Người chạnh lòng thương xót (c.14). Toàn bộ trình thuật đều quy hướng vào đám đông và thái độ của Chúa Giêsu đối với họ: một dân mới đang được tập trung và thành hình. Mọi chi tiết không cần thiết đều bị gạt bỏ để làm nổi bật cử chỉ và lời nói trang trọng của Chúa Giêsu, toàn thể trình thuật xoay quanh các mệnh lệnh của Người (“hãy cho…hãy đem lại đây . . . sau khi truyền cho dân chúng . . . ” ); nhưng Đấng ra lệnh cũng là Đấng thương xót lũ đông (c. 14) và là Đấng khiêm tốn tạ ơn vì được lương thực trong ngày (c.19).
3. Ý nghĩa thánh thể của giai thoại này được nổi bật nhờ một vài chi tiết thuộc về văn thể. Chẳng hạn như trình thuật mở đầu với cùng những chữ mà sau đó Mt sẽ dùng để mở đầu trình thuật Tiệc ly: “Chiều đến” (c.15 – so sánh với 26, 20; hai câu đều có cùng hy ngữ: opsias de genomenês). Lại nữa, c.19 sử dụng cùng những động từ và trong cùng thứ tự mà 26, 26 sẽ đùng để tường thuật việc thiết lập phép Thánh Thể:
c.19: labôn . . . . eulogêsen . . klasau . . . edoken
(cầm) (chúc tụng) (bẻ ra) (ban)
26,26: labôn … eulogềsas … eklasen … dous
(cầm) (chúc tụng) (bẻ ra) (ban)
Vai trò của các môn đồ như là trung gian giữa Chúa Giêsu và dân chúng cũng được nói rõ, như thể Mt ngụ ý rằng khi phân phát bánh của Chúa trong Giáo Hội, các môn đồ làm việc ấy chiếu theo quyền năng mà họ đã thực sự lãnh nhận từ Chúa Giêsu. Việc người ta không còn nhắc đến cá nữa (kể từ câu 19b) có lẽ cùng do một ý hướng tương tự, cũng như việc dư lại 12 giỏ đầy (c.20).
4. Khi ban lệnh sau đây cho các sứ đồ: “Các con hãy cho họ ăn”, rõ ràng Chúa Giêsu tỏ ra mình thực sự quan tâm đến nỗi thống khổ vật chất lẫn tinh thần của thế giới. Người không cho phép Giáo Hội tránh né các vấn đề thực tiễn và bỏ qua các khó khăn kinh tế. Người cũng chẳng cho phép Giáo Hội viện cớ bất lực hay nghèo nàn để biện minh sự thụ động của mình: “Chúng tôi chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá “. Không, Chúa Giêsu không muốn loài người chết đói. Người nuôi dưỡng họ về mặt vật chất, mà chẳng xét xem tại sao họ túng quẫn, cũng chẳng khiển trách hay khuyên bảo gì; Người chỉ muốn chứng tỏ việc Nước Trời đến có nghĩa là việc “canh tân mọi sự” nhờ Đấng vốn là Chúa trời đất. Sự can thiệp oai hùng của Người cho thấy khi triều đại Người đến thì lập tức lời cầu xin trong kinh Lạy Cha: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” được chấp nhận ngay. Đây là một phép lạ, nghĩa là chẳng phải một dấu phi thường nhằm gây kinh ngạc, sững sờ hay cưỡng bức người ta theo kiểu các việc kỳ diệu mà thần dữ đòi Chúa Giêsu thực hiện (x. 4, 1- 10: cám dỗ biến đá thành bánh) – nhưng đúng hơn là một dấu tiên tri về Nước Thiên Chúa, được thực hiện chỉ để giải quyết một nỗi khốn cùng của con người. Những kẻ nào được giải thoát khỏi nỗi khốn khổ vật chất như thế, thì cũng được kêu mời hãy hy vọng được giải thoát khỏi nỗi khốn cùng căn đế hơn là tội lỗi.
5. Một lần nữa, Mt kín đáo nhấn mạnh đến mối liên hệ thiêng liêng giữa Chúa Giêsu và Môisen. Sự kiện giai thoại này xảy ra ở sa mạc, với một đám đông đói lả rồi được bánh lạ nuôi dưỡng, làm ta lập tức nghĩ tới giai thoại dân Israel đói lả trong sa mạc, sau khi xuất Ai cập, và được nuôi dưỡng bằng bánh lạ manna. Điểm khác biệt là ở đây Chúa Giêsu không phải là kẻ trung gian xin giao ban manna, nhưng là chính Đấng ban manna mới, nhờ lời nói vô cùng hiệu lực của Người.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Người lui đến một nơi hiu quạnh”: Động từ này (anachôrêô) thường thấy trong Mt (2, 12.13.14.22; 4,12; 9,24; 12,15; 15,21) và luôn luôn diễn tả phản ứng của Chúa Giêsu khi thiên hạ không chịu tin Người. Ở đây Người rút lui trước sự cứng tin của quận vương Hêrôđê, kẻ vừa ra lệnh giết Gioan Tẩy giả.
“Và Người chữa lành các kẻ yếu liệt trong họ”: Sau khi viếng Nadarét (13, 53-58), Chúa Giêsu ngừng giảng dạy dân chúng nhưng không phải vĩnh viễn xa họ. Họ vẫn luôn có đó và tiếp tục đổ xô đến bên Người. Như mục tử tốt lành mà Mt 9, 36 đã gợi lên hình ảnh, Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót đám đông. Nhưng người không còn giảng dạy, ngay cả nhờ các thừa sai, mà chỉ chữa lành các kẻ đau yếu. Ngoại trừ cuộc tranh luận với nhóm Biệt phái trong đó Người kêu mời dân chúng hãy xa lánh những kẻ này (15, 10-11), Chúa Giêsu không còn ngỏ lời ra với đám đông. Đây là một loại bỏ quan trọng của Matthêu, nhằm diễn tả một chủ ý thần học: ngày hóa bánh ra nhiều chỉ gồm có việc chữa lành các kẻ đau yếu, chứ không giảng dạy nhiều điều” (Mc 6,34) hay “nói về Nước Thiên Chúa” (Lc 9,11). Giờ phân biệt lúc này chẳng còn gì nữa, vì đã đến vào lúc Chúa Giêsu thực hiện các việc phi thường trước mắt người Do thái (ch.11-12) hay trong dịp giảng dạy bằng dụ ngôn (ch.15). Vì thế, dù trong cả phần này (các chương 14-17), đám đông còn đứng chen chúc đó, thì họ vẫn không còn có thể nghe sứ điệp của Chúa Giêsu; đối với họ, Người chỉ làm thêm phép lạ, vì hoạt động cứu thế của Người vẫn còn liên hệ đến họ luôn. Nhưng hoạt động ngôn sứ của Người đã chấm dứt, chấm dứt với nhận xét sau đây của Người khi bị khước từ ở Nadarét: “Một ngôn sứ chỉ bị khinh khi nơi quê quán mình”. Rồi số phận bi thảm dành cho ngôn sứ Gioan Tẩy giả đến hoàn thành quyết định của Chúa Giêsu.
“Năm chiếc bánh và hai con cá”: Bánh và cá là thức ăn căn bản của dân Galilê. Nhà nghèo ăn bánh lúa mạch, nhà giàu ăn bánh lúa mì.
“Đọc lời chúc tụng”: Trước bữa ăn trong các gia đình Do thái, ông cha đọc một công thức khen ngợi và cám ơn Thiên Chúa về các ơn Ngài đã khấng ban. Sau đây là một ví dụ về lời chúc tụng kiểu đó: “Xin chúc tụng Ngài, lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, là Vua vũ trụ, là Đấng làm cho đất nảy sinh cơm bánh”. Chúa Giêsu là chủ gia đình của toàn dân vậy.
“Ai nấy đều ăn no và người ta cất mảnh vụn dư lại được 12 giỏ đầy”. Bữa ăn no nê nầy gợi lên bữa tiệc cánh chung mà Isaia đã tiên báo (Is 25,6; 55,1; 65,13); mười hai giỏ đầy mảnh bánh dư có lẽ ám chỉ đến 12 chi họ Israel; sự nghiệp của Chúa Giêsu lan rộng đến toàn dân chứ không dừng lại ở những kẻ thụ ân Người trực tiếp.
KẾT LUẬN
Biến cố này là một hình ảnh về Giáo Hội, và phải được giải thích như thế. Chúa Giêsu ở giữa, Người là nguồn mạch mọi ơn, Người ban Lời và bánh. Rồi đến nhóm nhỏ môn đồ. Họ ở kề bên Người, chuyển đạt các ơn của Người, nối dài cánh tay Người ra một cách nào đó. Còn dân được Chúa Giêsu quy tụ thì ngồi chung quanh, và vui mừng vì có Người hiện diện. Khi đọc lời chúc tụng, Người ngước mắt lên trời. Người làm các việc mà “Cha đã cho Người thực hiện” (Ga 5, 36). Người không còn là vị trung gian như Môisen xưa, song chính là Đấng ban sự sống, vì Người là nguồn mạch sự sống.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Cử chỉ của Chúa Giêsu nói lên quyền năng Người thi thố trên các yếu tố tạo vật; Người đang ở nơi nhà mình, trong cái thế giới “đã được dựng nên nhờ Người và cho Người” (C. l1,16). Việc Người hóa bánh ra nhiều là một cử chỉ sáng tạo nói lên mối liên hệ sâu xa giữa Người với Đấng tạo thành trời đất, và biểu lộ mầu nhiệm của bản thân Người vậy.
2) Ngày nay Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục hóa bánh ra nhiều, song bánh này đã trở thành một cái gì khác hơn là của ăn vật chất; chúng đã biến nên thân thể Người được ban làm lương thực cho nhân loại. Nhờ thế Người vẫn tiếp tục làm trung tâm của Dân mới mà Người đã quy tụ trong thuyền của Phêrô và phân phát cho họ sức mạnh, hy vọng và tình yêu trong phép Thánh Thể.
3) “Các con hãy cho họ ăn”. Mệnh lệnh này của Chúa Giêsu vẫn luôn vang rền trong Giáo Hội. Người ngỏ nó với những đấng kế vị, các sứ đồ và mọi ai có trách nhiệm trên các linh hồn, kể cả các nhà giáo dục và phụ huynh Kitô giáo. Đó là phân phát cho hết thảy Mình Chúa Kitô và lương thực bổ dưỡng là Lời Người. Nếu các linh mục được chính thức ủy thác thi hành sứ mệnh ấy, thì giáo dân cũng được tham dự vào theo cách thế riêng, bằng cách dẫn đưa những kẻ mà họ có trách nhiệm coi sóc đến bàn tiệc Thánh Thể và dạy cho biết lời Chúa Kitô.
4) Như Chúa Kitô đã quan tâm đến các nhu cầu vật chất của quần chúng, thì các môn đồ người ngày nay cũng phải làm hết sức để xoa dịu các nỗi khốn khổ thể lý mà họ gặp phải, trước hết là cảnh đói nghèo. Việc “hóa bánh ra nhiều” hôm nay là một trong các bổn phận căn bản của Kitô hữu, bổn phận mà nếu cố gắng chu toàn thì họ sẽ được cứu độ: “Hãy đến, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, vì… xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn” (25, 34-35). Nghèo nàn hoặc chỉ có 5 chiếc bánh và hai con cá, điều đó không quan hệ gì cả, miễn là ta biết bắt đầu san sẻ trong tinh thần đức tin. Chúa sẽ thực hiện những gì còn lại.
5) Ngay cả khi làm phép lạ, Chúa Giêsu cũng luôn đòi hỏi một sự hợp tác nào đó từ phía những kẻ kêu xin Người: thông thường là lòng tin, ở đây là năm chiếc bánh và hai con cá. Dù tài nguyên, năng lực, văn hóa, sức khỏe ta yếu kém Chúa Kitô vẫn sẽ dùng ta để thực hiện những việc kỳ diệu nếu ta hiến thân trọn vẹn cho Người.
77. Chú giải theo Noel Quesson
Khi nghe tin Gioan Tẩy Giả bị giết chết, Đức Giêsu lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt.
Cảnh hóa bánh ra nhiều mà chúng ta sắp đọc và xảy ra trong bối cảnh bi thảm: Đức Giêsu vừa bị xua đuổi khỏi Nadarét (Mt 13,53-58) và vua Hêrôđê vừa mới giết chết Gioan Tẩy Giả, người anh họ của Người (Mt 14, 1-12) Khi nghe tin cái chết thảm khốc ấy, Đức Giêsu “chạy trốn” vào một nơi hoang vắng. Trong năm Chúa nhật sắp đến, chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu “chạy trốn”, rút lui (Mt 14,13; 15,21; 16,13). Chúng ta thường quá tưởng tượng cho rằng Đức Giêsu như một người được thiên tính của Người để riêng ra. Thật ra Người chịu những cái đánh của số phận, bị liên hệ đến những biến cố mà Người đã không muốn. Phản ứng đầu tiên của Người là chạy trốn một mình.
“Người đến một chỗ hoang vắng riêng biệt…”
Sự ghi nhận này phải có một ý nghĩa cho chúng ta: các Kitô hữu – chẳng cần đôi lúc rút vào nơi riêng biệt đó sao? Phải chăng họ có thể sống đời sống Kitô hữu của họ mà thỉnh thoảng không gặp nhau ngày Chúa nhật? Phải chăng họ có thể không bị lây nhiễm bởi một thế giới ngoại đạo và vô thần nếu như họ không bao giờ biết rút lui ra chỗ riêng biệt, chỗ hoang vắng.
Nghe biết vậy đám đông từ các thành đi bộ mà theo Người. Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu trông thấy một đoạn người đông. đảo…
Thế là giờ đây Người đã bị đám đông đuổi kịp, Người chỉ ở riêng biệt khoảng thời gian đi thuyền qua họ, Người không làm cách nào để sống cô tịch được, Người bắt buộc phải gặp lại đám đông. Chắc chắn chúng ta phải suy niệm về đề tài những sự “bó buộc”? Thực hành đức vâng lời, trong những điều kiện sống thực của chúng ta, và cũng là vâng lời theo những ý định khôn dò của Chúa Cha, như thánh Phaolô có nói (Pl 2,8). Đó là điều mà chúng đã không tiên liệu. Điều xảy đến với chúng ta và làm đảo lộn những kế hoạch của chúng ta: Một cơn bệnh đến bất ngờ, một nỗi lo lắng mới, một trách nhiệm được đặt lên chúng ta, một cuộc thăm viếng, một cú điện thoai, một công việc được yêu câu, một sự hiện diện miễn cưỡng với những người khác, những đám đông mà chúng ta muốn chạy trốn.
Thì Người chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ.
Chúng ta đã gặp từ này: “chạnh lòng thương”; “xúc động trong lòng”: phải cho từ ngữ này tất cả sự phong phú của nó. Lòng “nhân hậu” không chỉ là lòng nhân từ hay tha thứ nhưng cũng là lòng thương xót chia sẻ nỗi đau khổ của người khác. Đức Giêsu không thể nhìn một ai đau khổ mà Người lại không xúc động, giống như bản năng của một bà mẹ đối với đứa con của mình.
Tôi phải dành thời gian để chiêm niệm (nguyện gẫm)
Đức Giêsu “chạnh lòng thương”. Hãy tưởng tượng ánh mắt, khuôn mặt, giọng nói, những cử chỉ dịu dàng đối với các bệnh nhân. Ngày nay cũng thế, Đức Giêsu cũng có những tình cảm thương xót như thế đối với mọi người đang đau khổ.
Chiều đến…
Cũng chính những chữ này mà Matthêu sẽ dẫn nhập vào Bữa Tiệc Ly (Mt 26,20) và việc mai táng Đức Giêsu (Mt 27,57). Các Kitô hữu tiên khởi có thói quen cử hành Thánh Thể như một “bữa ăn chiều”, một bữa tiệc ly. Ở bình diện tượng trưng, Thánh Thể xuất hiện với chúng ta như một “bí tích của sa mạc” trong đó chúng ta được ban cho một của ăn đi đường (Thánh Gioan sẽ nói đó là manna xuống từ trời để chú giải cùng một biến cố).
Đó cũng là bí tích của những đêm tối của chúng ta ở đó ánh sáng mầu nhiệm sẽ chiếu rọi đêm đen…
…Các môn đệ lại gần thưa với Người: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn!”
Đây là một giải pháp hoàn toàn “nhân bản” và “khôn ngoan”. Theo gương Thầy mình, các môn đệ của Đức Giêsu trong suốt sứ vụ có thói quen tìm kiếm lương thực khi chiều xuống. Một cách tự phát các môn đệ đề nghị giải pháp giải tán đám đông. Nhưng rõ ràng Đức Giêsu nhìn xa hơn. Đàng sau “bữa ăn trong sa mạc”, có một mầu nhiệm nuôi đám đông bằng của ăn vật chất trong khi vẫn để họ đói một cách sâu xa; bởi lẽ con người không chỉ sống bởi bánh! Khi chạy theo sau Đức Giêsu, những đám đông ấy trước tiên không đến để ăn, nhưng bởi vì họ cảm thấy trong Người có một “sức mạnh” siêu nhiên: các đám đông ấy đói Thiên Chúa, họ đói Đức Giêsu? Và không bao giờ một cái bánh mà họ mua ở chỗ này hay chỗ khác trong các làng mạc có thể làm cho họ no thỏa.
Nhưng Đức Giêsu bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả chính anh em hãy cho họ ăn”.
Không! Không có Đức Giêsu, không thể có giải pháp. Không phải bỏ đi mà đám đông sẽ tìm được sự no thỏa.
Các ông đáp: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!”
Các môn đệ cũng rất tử tế. Họ thấy việc họ phải làm nhưng họ không có những phương tiện để thực hiện. Hầu hết thời gian, chúng ta cũng giống y như họ. Cái mà các môn đệ có sẵn thật nực cười: năm cái bánh và hai con cá.
Người bảo: “Đem lại đây cho Thầy!”
Thiên Chúa cần có những con người góp một tay. Biết rõ điều mình sẽ làm, hẳn Đức Giêsu có thể hoàn toàn không cần đến những cái bánh đáng thương và vô nghĩa ấy. Thiên Chúa cần đến tôi… Hãy đặt những phương tiện nghèo nàn của con người trong tay Chúa! Và lạy Chúa? Con đang hình dung trong sự nguyện gẫm của con năm cái bánh nhỏ tội nghiệp ấy và hai con cá nhỏ đơn sơ ấy, trong đôi bàn tay của Chúa!
Rồi sau đó, Người truyền cho đám đông ngả mình trên cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ.
Rõ ràng đây cũng là những động tác, cử điệu dùng để mô tả lại bữa Tiệc Ly trong ngày thứ Năm Tuần Thánh (Mt 26,26). Không một tình tiết nào trong đời sống của Đức Giêsu lại có tính chất xác quyết như thế: các sách Tin Mừng thuật lại cho chúng ta sáu lần hóa bánh ra nhiều (Mt 14,13.21; 15,32-39; Mc 6,30-44; 8,1-9; Lc 9,10-17; Ga 6,1-15). Khi người ta biết được vị trí của Thánh Thể trong đời sống của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, người ta không còn ngạc nhiên về vai trò đặc biệt nổi bật mà việc hóa bánh ra nhiều thể hiện trong đời sống của Đức Giêsu.
Khi thực hiện những động tác này, Đức Giêsu có thái độ của người cha trong gia đình đang chủ tọa một bữa ăn. Không có bữa ăn của người Do Thái nào mà không có “sự chúc lành” bánh … mà không có hành động tạ ơn Thiên Chúa (chữ “hành động tạ ơn” dịch ra tiếng Hy Lạp là “eucharistia”).
Sau đây là lời “chúc lành” mà các người Do Thái sùng đạo hôm nay vẫn luôn luôn đọc: “Chúng con chúc tụng Đấng ban cho chúng con lương thực nuôi sống chúng con vì lòng nhân từ của Ngài. Lạy Chúa, Đấng Hằng Hữu, chúng con cảm tạ Ngài đã nuôi sống mọi tạo vật”. Lương thực mà chúng ta ăn là một “hoa quả của đất đai và của lao công con người “. Nhưng trước hết nó là “một ơn của Thiên Chúa”.
Hạt lúa mì trong đất sẽ không bao giờ cho ra một bông lúa nếu Thiên Chúa không cho nó lớn lên. Nền văn minh kỹ thuật của chúng ta sau cùng đã quên đi chân lý sơ đẳng ấy. Vả lại, không có gì tự nhiên cho bằng cầm một mẩu bánh mì trong đôi tay, hoặc một bát cơm, một củ khoai mì để làm dịu cơn đói của mình? Thế mà hỡi ôi, chúng ta biết rằng “lao động con người” không đủ để nuôi sống mọi người, và nền kỹ thuật công nghiệp của chúng ta có thể trở thành một công cụ của tính ích kỷ và sự nô dịch con người: Những chủ nghĩa duy vật không có Thiên Chúa, từ Đông sang Tây đã quên mất “lời chúc tụng” cũng đã trở thành những kẻ phá hủy nhân phẩm con người.
Đức Giêsu còn có nhiều điều để nói với chúng ta, khi chính Người chúc tụng Thiên Chúa vì đã ban lương thực hàng ngày, và đã bảo chúng ta cầu xin “lương thực hàng ngày”.
Người trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông.
Tất cả các nhà chú giải đều nhấn mạnh ở đây vai trò của các tông đồ: chúng ta đã có một phục vụ đích thực.
Ở đó các tông đồ đóng vai trò nhiều hơn công việc của một người phân phát. Họ tham dự vào chính công việc của Đức Giêsu và làm như Người. Họ là những người làm trung gian giữa Đức Giêsu và dân chúng.
Đức Giáo Hoàng trong thông điệp tại Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế ở Lộ Đức nhắc lại vai trò thiêng liêng của các linh mục: “Các linh mục đã nhận lãnh bí tích truyền chức đảm nhận ở giữa dân Chúa gồm những người đã chịu phép Thánh tẩy vai trò của Đức Kitô, là Đầu của Giáo Hội Người: tác vụ thiêng liêng của họ là cần thiết để biểu thị rằng việc “bẻ bánh” được họ thực hiện là một ơn nhận được từ Đức Kitô hoàn toàn vượt qua quyền lực của cộng đoàn”.
Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu được mười hai giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.
Sự dư dật này là một dấu chỉ được loan báo cho thời kỳ của Đấng Mêsia trong Kinh Thánh (Đệ nhị luật 6,11; Thánh Vịnh 132,15; Is 65,10).
Trang Tin Mừng này đang tra hỏi chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng Đức Giêsu qua cử chỉ quảng đại ngày hôm đó, đã không loại trừ được cái khốn cùng to lớn của nạn đói trên thế giới. Ở đây giá trị nổi bật không phải là khía cạnh mầu nhiệm, phi thường mà là ‘dấu chỉ’ Đức Giêsu đã làm. Vả lại, điều được biểu thị qua dấu chỉ này chính là sự ân cần đầy lòng yêu thương của Đức Giêsu, Người đã chạnh lòng thương đám đông. Như thế mỗi bữa tiệc Thánh Thể phải trả chúng ta về những bổn phận chia sẻ trong tình huynh đệ: Đức Giêsu Kitô là tấm bánh được bẻ ra, được chia sẻ cho một thế giới mới!
78. Chú giải theo Fiches Dominicales
VỚI NĂM CÁI BÁNH VÀ HAI CON CÁ,
ĐỨC GIÊSU ĐÃ CHO ĐÁM ĐÔNG
ĂN UỐNG THOẢ THUÊ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1) Một cử chỉ biểu tượng sứ mệnh của Đức Giêsu.
Bốn thánh sử đều tường thuật câu truyện hoá bánh ra nhiều. Cả thảy là sáu lần mà hai lần trong Matthêu và Máccô trong những bối cảnh khác nhau. Ở đây chúng ta gặp một trường hợp duy nhất là cùng một biến cố mà có những ngần ấy trình thuật khác nhau; điều đó đủ nói lên tầm mức quan trọng và vẻ phong phú của biến cố đối với huấn giáo.
Hôm nay Giáo Hội đề nghị ta suy niệm trình thuật thứ nhất trong hai trình thuật của thánh Matthêu.
Tác giả đã đặt câu truyện vào một bối cảnh bi thảm. Nỗi thất bại đã trải qua trong chính quê hương của mình” ở Nadarét (13,53-55) Đức Giêsu lại vừa mới hay tin Gioan Tẩy Giả bị Hêrôđê ra lệnh chém đầu(14,1-3). Khởi sự một chuyến đi lánh nạn sẽ dẫn Người từng chặng lần lượt đến miền Césarée Philipphe “Người lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng, riêng biệt. Không như một bài báo tường thuật biến cố xảy ra, bài trình thuật rất mau chóng lộ ra – cho ai xem xé kỹ lưỡng – là một bài tích luỹ những vay mượn các mẫu của Cựu Ước, đồng thời được đọc lại dưới ánh sáng kinh nghiệm bữa ăn Thánh Thể của các cộng đồng tín hữu đầu tiên.
+ Gặp lại “đám đông” đã đi bộ mà theo Chúa, còn Người thì dùng thuyền tìm nơi êm ả, thanh vắng, Đức Giêsu “chạnh lòng thương” (đúng chữ là “quặn lòng”) họ. Lúc bắt đầu bài giảng về truyền giáo Đức Giêsu đã quặn lòng như vậy khi nhìn thấy đám đông không người chăn dắt (9,36). Người cũng sẽ quặn lòng như thế khi gặp người mù ở Giêricô (20,34). Trước mặt đám người đông đúc mà Người trông thấy khi ra khỏi thuyền”, Đức Giêsu tỏ mình ở đây là MỤC TỬ ĐÍCH THỰC mà các ngôn sứ đã loan báo (cf. Ez, 34), là Mục Tử Thiên Chúa sai đến để quy tụ dân Người và đưa họ đến những đồng cỏ xanh tươi.
F. Prud’homme chú giải: “Người chạnh lòng thương”. Từ ngữ chỉ thứ xúc động của tình yêu sâu xa, như bản năng, bắt nguồn từ trong tim hay trong “ruột gan” của một người mẹ: đó không phải chỉ là tình cảm thuần tuý, nhưng là lòng trắc ẩn có sức tác động. Trong Cựu Ước động từ ấy chỉ tình yêu của Đức Giavê đôi với dân Người, một tình yêu thuộc bản tính của Thiên Chúa… Truyền thống nguyên thuỷ đã trình bày việc Chúa hoá bánh ra nhiều như một cử điệu chỉ thoát ra từ lòng trắc ẩn của Đức Giêsu. Trong bài tường thuật của mình, thánh Máccô dùng Ezechiel 34 để mô tả Đức Giêsu mang những nét của vị Mục Tử đích thực mà dân trông đợi Thánh Matthêu lại dùng cũng điểm quy chiếu trên ở 9,36 để nói lên ý tưởng là sứ mệnh của các tông đồ có nguồn gốc trong tình yêu trắc ẩn của Đức Giêsu. Ở đây cũng vậy, cử chỉ xót thương của Đức Giêsu được gợi nên do tính cách của đám đông đang đi tìm kiếm mà chẳng biết, đang “đi theo” mà đích thực chẳng khám phá ra Đấng Cứu Thế. Cái “đói” đích thực của đám đông này là thế đó. Hành động của Đức Giêsu sẽ mang tính biểu tượng cho tất cả sứ mệnh của Người, và các tông đồ sẽ tham dự chặt chẽ vào sứ mệnh đó. Nhưng con người nghèo khổ đói khát này, tất cả đều cần được chữa lành và hết thảy không trừ một ai đều được mời gọi tham dự bàn tiệc” (“Assemblée, du Seigneur” số 49, trang 24).
Cũng giống như ba tác giả kia, thánh Matthêu nhấn mạnh đến sự bất cân xứng lớn lao giữa số thực phẩm mang tới: năm chiếc bánh và hai con cá”, và đám đông ăn no nê: “Chừng năm ngàn người, không kể đàn bà và trẻ em”. Như thế Đức Giêsu được giới thiệu như vị NGÔN SỨ ĐƯỢC TRÔNG ĐỢI, vượt trên cả chính Elisée người đã nuôi ăn một trăm người bằng hai mươi cái bánh lúa mạch (2V 4,42-44). Thời đại mới, thời đại ứng nghiệm những hình ảnh của Giao ước cũ, đã được khai trương trong con người Đức Giêsu.
+ Cảnh được đặt vào “một chỗ hoang vắng”. Đối với thánh sử Matthêu, đó là một cách để chào mừng Đức Giêsu là Môsê mới tụ họp dân Chúa tiến vào hoang mạc (Xh 10,4) rồi dẫn họ tới Đất Hứa thực, nơi đó “mọi người sẽ được nuôi ăn và ăn no nê” (Nl 6,11; 11,15; 31,20).
+ Sau cùng khi nhấn mạnh đến số thực phẩm quá dồi dào được ban tặng miễn phí, thánh sứ hàm ý chỉ Đức Giêsu là CHỦ BÀN ĂN quy tụ quanh Người những đám dân tản mác vào dự bàn tiệc của Đấng Cứu Thế (cf. Isaie 55, bài đọc I của Chúa nhật XVIII thường niên).
2. Một cử chỉ biểu tượng của Giáo Hội:
Nếu cảnh hoá bánh ra nhiều mạc khải bằng biểu tượng căn tính đích thực và sứ mệnh của Đức Giêsu, thì cảnh ấy cũng vén lên bức màn về sứ mệnh của các môn đệ Người phải thực hiện cho tới ngày Người trở lại.
Vả lại khi đặt cảnh hoá bánh ra nhiều vào lúc “chiều đến”, giống như ở Tiệc Ly (26,20), thánh Matthêu có vẻ như muốn đúc kết trình thuật của mình để cho nó có vẻ long trọng hơn, một phong cách phụng vụ hơn, và như thế tập trung hơn những cái nhìn hướng về những cử chỉ của Đức Giêsu. Những cử chỉ được thánh sử tường thuật bằng cùng những lời lẽ như những cử chỉ Chúa đã làm trong bữa ăn sau hết với các môn đệ”, “Cầm lấy bánh”, “đọc lời chúc tụng” (hoặc “tạ ơn”), “bẻ ra và “trao cho” (Mt 26,26). Những cử chỉ này chính là những cử chỉ của truyền thống phụng vụ về nghi lễ “Bẻ bánh” diễn ra trong các buổi họp hội của các tín hữu. Đối với thánh sử, đó là một cách để trình bày việc hoá bánh ra nhiều như là một báo hiệu tiệc Thánh Thể sau này. Còn về nhiệm vụ dành cho các môn đệ, thánh Matthêu cũng loan báo bằng biểu tượng thừa tác vụ mà sẽ là chính tác vụ của các ông trong việc cử hành Thánh Thể vốn được sinh hoạt trong các cộng đồng tín hữu: “Đức Giêsu cầm lấy bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ. Và Môn đệ trao cho đám đông. J. Perron giải thích: “Đức Giêsu đã muốn cần đến các tông đồ, và muốn cho các ông khai trương ngay hôm đó nhiệm vụ vốn phải là nhiệm vụ của chính các ông. Thánh Matthêu còn nhấn mạnh ở đây tầm quan trọng và phẩm cách của chức vụ này khi dùng cũng một động từ “trao cho”, mà chủ từ trước tiên là Chúa Giêsu, rồi sau là các môn đệ; điều đó hàm ý rằng: có cùng một ơn ban, và ơn đó được trao qua tay các môn đệ. Phải chăng Đức Giêsu đã muốn như thế, bởi trước đó, Người vừa mới nói với các ông: “Chính anh em hãy cho họ ăn”(Lire La Bible, số 52, trang 227).
Chuyện kể kết thúc ở việc thu gom những “mẩu bánh còn thừa”: “mười hai giỏ đầy”, cũng bằng con số các chi tộc Israel là dấu hiệu nói lên rằng công việc Chúa làm vượt trên số những người được hưởng ơn ngay tức thì, mà còn lan rộng tới cả một dân tộc. Là biểu tượng tiêu biểu việc Chúa ban ơn tràn trề, mười hai thúng đầy này cũng còn là dấu chỉ rằng thứ lương thực này còn mãi cho những ai được mời gọi tham dự cùng một bữa ăn trong cuộc lữ hành hôm nay của Giáo Hội: mỗi lần chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể, một cách nào đó, là chúng ta lấy ra ở trong “mười hai thúng đã được uỷ thác chiều hôm đó cho mười hai tông đồ. Như thế, việc hoá bánh ra nhiều, suy niệm về “bánh” của Đức Giêsu, về chính con người Đức Giêsu, và về sứ mệnh của Người, dưới ngòi bút của thánh sử Matthêu, trở thành sự chiêm ngắm Giáo Hội kẻ trao bánh, Giáo Hội kẻ trao ban Đức Giêsu trong khi tiếp tục sứ mệnh của mình trong thế giới.
BÀI ĐỌC THÊM:
1) “Một biến cố biểu tượng đầy ý nghĩa” (J.Potin, trong “Jésus, L’histoire vraie”, Centurion, trang 276-277).
“Thực tế mà nói, biến cố ấy có một tầm mức mà những người chứng kiến không thể lĩnh hội hết mọi chiều kích. Sau này các tín hữu sẽ không chỉ xem đó là kỷ niệm việc hoá bánh và cá ra nhiều mà thôi. Tất cả mọi chiều kích của ơn cứu độ Đức Giêsu Kitô mang đến cho toàn thể nhân loại, được diễn tả qua phép lạ này. Người là Môsê mới. Cũng như Môsê, Người đã dẫn Israel, từ bên kia biển, đi qua sa mạc, để tìm đất Hứa. Như Môsê, sau lễ mừng Vượt qua đầu tiên đã ban bố Lề Luật cho dân, thì ở đây, dân chúng cũng đã được nghe Người loan báo Luật mới của Nước Trời. Dân chúng đông đảo Thánh Matthêu nói rõ là bốn hoặc năm ngàn người, không kể đàn bà và con trẻ. Đức Giêsu đã chia họ thành từng nhóm năm mươi hoặc một trăm cũng như Môsê xưa đã tổ chức nhóm nô lệ chạy trốn này thành một dân tộc chính cống. Xưa để nuôi dân Israel, Thiên Chúa cho họ Manna mỗi ngày. Cũng thế, để nuôi những kẻ theo Người, Đức Giêsu hoá bánh ra nhiều. Nhưng bánh này không phải chỉ là đồ ăn nuôi xác mà thôi Đức Giêsu còn loan báo bánh Thánh Thể mà Người sẽ phân phát cho các môn đệ của Người chiều hôm trước ngày chịu chết và là bánh các môn đệ đến phiên mình cũng sẽ phân phát cho các tín hữu trong các cộng đồng tụ họp lại nhân danh Người. Vì thế, hình ảnh chàng trẻ tuổi làm-phép-lạ sẽ mờ nhạt đi sau con người Đấng Cứu Thế, Đấng mà trong bữa ăn cuối cùng đã phán: “Này là Mình Thầy bị nộp vì các con. Không thể gợi nhớ lại cảnh tượng xảy ra ở ven biển hồ mà lại không nghĩ đến cảnh ở nhà Tiệc Ly. Buổi chiều hôm đó, nhóm Mười Hai là tất cả Giáo Hội non trẻ. Đám đông hưởng phép lạ lúc ấy há không phải là hình ảnh loan báo Israel mới mà Thiên Chúa ban cho dư đầy của cải Nước Trời sao? Thì sách Xuất hành cũng đã tường thuật rồi đó: chiều hôm trước ngày Sabát, Thiên Chúa đã ban cho dân Người khẩu phần manna gấp đôi, để họ giữ lại cho ngày hôm sau, vì ngày hôm đó không có manna rơi xuống. Đức Giêsu cũng vậy, Người đã không đành chỉ làm dịu cơn đói, mà còn ban cho họ lương thực dự trừ để tiếp tục con đường. Quả thực, sau khi dân chúng ăn no nê, các môn đệ thu lại các mẩu bánh thừa được mười hai thúng, theo thánh Matthêu (con số biểu tượng Giáo Hội). Chúa Giêsu quả thật làm no đầy những kẻ thuộc về Người.
Nhờ việc sử dụng bài tường thuật về việc ra khỏi Ai Cập, và hơn nữa, bài nói về việc Chúa lập bí tích Thánh Thể mà biến cố hoá bánh ra nhiều được kể lại trong các Phúc âm có được một tầm mức biểu tượng nói lên rất nhiều điều, biểu tượng ấy đã nuôi dưỡng việc rao giảng của Giáo Hội.
2) ”Giáo Hội không thể là Giáo Hội mà không thể chia sẻ tình yêu của Chúa mình cho quảng đại quần chúng”. (Đức Cha L. Daloz, trong “Le Règne des cieux s’est approché” Desclée de Brouwer, trang 219-220).
Giáo Hội có sứ mệnh biểu lộ và làm cho người ta chia sẻ cho mọi người tình yêu thương và lòng nhân ái của Thiên Chúa. Điều đó không chỉ giới hạn trong nội bộ của chính Giáo Hội, mà còn vì Giáo Hội có liên quan với tất cả nhân loại. Giáo Hội chỉ có thể là một căn nhà mở ra tứ phía, đón gió muôn phương. Các tín hữu là những người sống liên đới với đồng bào của mình, với những người sống cùng thời với mình, nên các tín hữu ấy chia sẻ những vấn đề, những niềm vui và những nỗ lực của họ. Đức Giêsu luôn luôn tiếp đón đám đông là một mẫu gương luôn luôn hiện thực đối với ta. Ở mọi thời đại, các tín hữu đã dấn thân không biết mệt mỏi để phục vụ con người; họ phục vụ cách nhưng không, không đòi hỏi được đền đáp, không bận tâm về vấn đề chủng tộc hay tôn giáo. Thời nay, nhờ những phương tiện thông tin đại chúng, các nhu cầu của con người được truyền đi mau lẹ và được toàn cầu biết đến, thì Giáo Hội nhất thiết phải quan tâm đến mọi nỗi thống khổ của con người, mọi tiếng kêu gọi có tính nhân đạo. Giáo Hội không thể sống khép kín, chỉ biết lo lắng cho những phần tử của mình. Trong mọi lãnh vực thăng tiến nhân loại, bênh vực quyền con người, Giáo Hội phải là người có mặt, Giáo Hội không thể là chính mình, nếu không chia sẻ tình yêu của Chúa mình cho quảng đại quần chúng mà Người luôn luôn quan tâm”.
79. Đón nhận Chúa và chia sẻ cho anh em
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả. Chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16).
2. CÂU CHUYỆN: BẠN CHÍNH LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA:
Vào cuối Thế Chiến Thứ Hai, để thu phục nhân tâm của dân chúng trong một làng quê ở miền cực Nam nước Ý mới được giải phóng khỏi bọn phát xít Đức, toán quân Đồng Minh đã cố gắng phục hồi lại bức tượng Thánh Tâm Chúa Giê-su bằng thạch cao, đã bị bể tan trong cuộc chiến trước đó. Bức tượng này cao khoảng 2 mét, được dựng trên đài phía trước nhà thờ của làng. Sau nhiều ngày tìm kiếm, toán lính kia đã tìm ra các mảnh bị vỡ và gắn lại thành bức tượng Thánh Tâm đẹp đẽ như trước, duy chỉ còn thiếu đôi tay của bức tượng, có lẽ đã bị bể tan do bom đạn chiến tranh. Sau khi đã làm hết cách, cuối cùng tóan lính đành chịu bỏ dở công việc dựng lại bức tượng nói trên. Bấy giờ một người trong bọn bật ra sáng kiến hay. Anh ta đi lấy hai khúc gỗ gắn giả để thay cho hai cánh tay của bức tượng Chúa, rồi viết vào tấm bảng nhỏ đặt trước bức tượng một hàng chữ: “BẠN CHÍNH LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA”. Hàng chữ này không những đã đánh động tâm hồn của dân chúng trong làng, mà còn thu hút nhiều du khách từ các nơi đến chiêm ngưỡng bức tượng Thánh Tâm Chúa với hai cánh tay bằng gỗ của loài người.
Ngày nay khi chúng ta biết chạnh lòng xót thương những người đau khổ bệnh tật và đói khát rồi tìm cách đáp ứng nhu cầu của họ là chúng ta đang làm theo lời Đức Giê-su dạy trong Tin Mừng hôm nay: “Người chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh tật của họ” (Mt 14,14). Người cũng muốn chúng ta cộng tác với Người để chăm lo phục vụ giúp đỡ những kẻ đau khổ nghèo đói, khi Người nói với các môn đệ rằng: “Họ không cần phải đi đâu cả. Chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16).
3. SUY NIỆM:
– DIỄN TIẾN PHÉP LẠ: Tin Mừng thuật lại câu chuyện nhân bánh ra nhiều với ba điểm nhấn như sau:
+ Đem lại đây cho Thầy!: Đức Giê-su không chê phần đóng góp nhỏ bé của các môn đệ để làm phép lạ nhân chúng ra nhiều. Người chỉ cần chúng ta trao cho người những gì chúng ta có là sự quảng đại và lòng nhiệt tình.
+ Người cầm lấy năm chiếc bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông: Con đường đi của năm chiếc bánh nhỏ là từ tay các môn đệ đến tay Đức Giê-su, được Người dâng lên cho Chúa Cha, rồi trao lại cho các môn đệ, để cuối cùng đến tay từng người trong đám đông dân chúng.
+ và trở nên nhiều: Phép lạ nhân bánh ra nhiều đã xảy ra khi nó đang ở trong tay ai? Bình thường chúng ta sẽ tưởng tượng Đức Giê-su nhân bánh và cá thành một đống bánh và cá lớn, rồi các môn đệ đến lấy mang đi phân phát cho dân chúng, nhưng ở đây thánh Mát-thêu viết tiến trình biến hóa bánh và cá ra nhiều như sau: “Người bẻ bánh ra trao cho các ông”, và sau đó chắc các ông cũng tiếp tục bẻ bánh ra và chia cho đám đông. Và có lẽ mỗi người trong đám đông cũng phải bẻ tấm bánh của mình ra để chia sẻ cho người bên cạnh. Chẳng mấy chốc ai nấy đều có bánh ăn. Như thế những tấm bánh từ tay Đức Giê-su đã được bẻ ra, trao đi và nhân ra nhiều khi nó di chuyển từ tay người này sang tay người khác. Đó là điều mấu chốt mà phép lạ này muốn nói lên.
– ANH EM HÃY LÀM VIỆC NÀY MÀ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (Lc 22,19):
+ Phép lạ Bánh được nhân ra nhiều là hình ảnh của bí tích Thánh Thể Đức Giê-su sắp thiết lập trong bữa Tiệc ly trước khi chịu tử nạn: Bữa tiệc này trùng với bữa tiệc Vượt Qua của dân Do thai. Đức Giê-su đã sử dụng Bánh Không Men dùng trong tiệc Vượt Qua theo truyền thống, để biến thành Bánh Ban Sự Sống tức là Thân Mình của Người, sắp chịu hiến tế vì nhân loại. Người cũng dùng chén rượu nho để biến thành Máu Huyết Người sắp đổ ra để đền tội thay cho nhân loại. Cuối cùng Người truyền cho các môn đệ: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (x. Lc 22,19-20).
+ Điều kiện để tham dự Bữa Tiệc Thánh của Chúa là quảng đại tha thứ và yêu thương hiệp nhất (x. Mt 5,23-24; 6,14-15): Thánh Phao-lô đã quở trách các tín hữu Cô-rin-tô họp nhau mà không làm theo cách thức như bữa ăn tối của Chúa. Vì mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế kẻ thì đói, người lại no say (x. 1 Cr 11,17-21). Thánh nhân cảnh cáo họ về tội chia rẽ và thái độ lỗi đức bác ái với nhau: “Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của? “(1 Cr 11, 20-22). Vì thế bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa” (1 Cr 11, 27).
– PHÉP LẠ BẺ BÁNH GIỮA ĐỜI THƯỜNG: Phép lạ nhân Bánh ra nhiều không dừng lại ở việc Bẻ Bánh tại nhà thờ, mà còn phải đựơc tiếp tục kéo dài trong cuộc sống: bẻ ra, trao đi và hóa nhiều.
+ Đừng sợ tấm bánh bị bẻ ra và cho đi sẽ bị hao hụt và không còn đủ phần bánh cho mình và người thân: Nếu các môn đệ xưa cũng nghĩ như vậy và không chịu trao cho Đức Giê-su năm chiếc bánh và hai con cá thì số bánh cá đó vẫn chỉ có bằng đó. Nhưng nhờ quảng đại trao cho Đức Giê-su, để Người bẻ ra trao lại cho các ông để các ông chia cho dân chúng mà bánh đã được nhân ra nhiều.
+ Ngày nay cũng có nhiều người đang cần các thứ bánh vật chất và tinh thần: bánh công lý, bánh yêu thương, bánh cảm thông tha thứ và phục vụ. Đừng ngại khi phải hy sinh nhiều. Nếu bạn dám bẻ đôi những gì bạn có thì chắc thế giới này sẽ không còn người đói, mà tất cả sẽ được no nê bánh ăn vật chất và còn được no đầy cả bánh tinh thần là sự bình an, niềm vui, hạnh phúc và hy vọng.
4. THẢO LUẬN:
1) Ngoài việc cho kẻ đói bánh ăn vật chất, bạn có thể cho họ những thứ bánh tinh thần nào nữa?
2) Trong những ngày sắp tới bạn quyết tâm sẽ trao bánh tinh thần nào cho người sống bên cạnh như: Một nụ cười, một lời khen thành thật, một sự giúp đỡ tận tình và còn gì nữa không…?
5. NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn chúng con noi gương Chúa “Luôn chạnh lòng xót thương” những kẻ đói nghèo đang sống bên cạnh chúng con. Xin cho chúng con cảm nghiệm được sự đói khát đang giày vò bao người, để sẵn sàng làm theo lời Chúa dạy: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Nhưng Lạy Chúa, bản thân con và gia đình con cũng đang gặp khó khăn, phải “ăn bữa nay lo bữa mai”, thì làm sao chúng con có thể chia sẻ cơm ăn áo mặc cho người khác được? Khả năng của chúng con thì giới hạn và không thấm vào đâu so với nhu cầu to lớn của tha nhân. Xin cho chúng con biết noi gương quảng đại của các môn đệ Chúa xưa để dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, và Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho chúng con, rồi chúng con sẽ noi gương Chúa tiếp tục chia sẻ cơm bánh tiền của và tình thương cho những người nghèo khổ đang ở chung quanh chúng con.
– Lạy Chúa. Con xin mượn lời cầu nguyện của một thi sĩ để dâng lên Chúa lời cầu nguyện như sau: “Con chỉ là một tia lửa, xin biến con thành ngọn lửa hồng. Con chỉ là một sợi dây, xin biến con thành một cây đàn. Con chỉ là một quả đồi, xin biến con thành một rặng núi. Con chỉ là một giọt nước, xin biến con thành đại dương. Con chỉ là một cọng lông, xin biến con thành đôi cánh lớn. Con chỉ là một gã ăn xin, xin biến con thành một vương hầu”. Khi nhìn lại bản thân, con cảm thấy thân xác con quá yếu đuối, suy nghĩ con thật nông cạn, trái tim con lại nhỏ bé, địa vị con quá thấp hèn, tài sản con chỉ là đôi bàn tay trắng! Nhưng con tin rằng, nếu con biết quảng đại hiến dâng những gì chúng con có cho Chúa, thì Chúa sẽ biến hóa nó nên sức mạnh giúp con làm được những việc lớn lao. Xin cho con luôn sẵn sàng đóng góp phần nhỏ bé của con cho Chúa để chu tòan sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ cho anh em con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
80. SNLC – Các ngày trong tuần 18 TN
Jos. Vinc. Ngọc Biển
THỨ HAI
HÃY VỮNG TIN VÀO CHÚA
Lễ thánh Gioan Maria Vianney, linh mục
Gr 28, 1-17; Mt 14, 22-36
Trong cuộc sống, nơi xã hội hôm nay luôn có những bất trắc. Nào là chuyện “cá lớn nuốt cá bé”; hay “ma mới bắt nạt ma cũ”; hoặc “chân lý thuộc về kẻ mạnh”. Một xã hội như thế, người ta lấy thước đo để đánh giá vấn đề, sự kiện… dựa vào tiền và quyền… Vì thế, không lạ gì khi vẫn còn đó tình trạng áp bức, bất công với người lương thiện và thấp cổ bé họng!
Đứng trước thực trạng ấy, chúng ta không thể không đặt ra câu hỏi: “Thiên Chúa ở đâu?”; “Ngài có thực sự hiện hữu không?”; “Nếu có, tại sao lại có chuyện con người thay Trời hành đạo như vậy?”.
Hôm nay, bài Tin Mừng tường thuật việc các môn đệ đang trên thuyền để đi sang bờ bên kia. Trong lúc các ông trèo thuyền ra xa, thì gió lớn nổi lên, khiến các ông lo sợ. Đúng lúc đó, Đức Giêsu hiện đến mà các ông không nhận ra Ngài. Vì thế, trong cơn hốt hoảng, các ông đã la lên: “Ma đấy”. Thấy vậy, Ngài đã trấn an các ông và nói: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”. Tuy nhiên, chưa tin và vẫn còn nghi ngờ, nên Phêrô đã thử liều một phen mang tính thách thức: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”.
Sự kiện Đức Giêsu đi trên mặt biển để đến với các môn đệ và việc cho Phêrô đi trên mặt nước với Ngài giúp cho chúng ta hiểu rằng: Chúa vẫn luôn còn đó trong cuộc đời. Mọi khó khăn thử thách, Ngài luôn có mặt, chỉ có điều chúng ta có một đức tin đủ mạnh để vượt qua mọi khó khăn và có đủ độ nhạy bén để nhận ra Ngài hay không mà thôi!
Hôm nay, phụng vụ Giáo Hội mừng kính cha thánh Gioan Maria Vianney linh mục, bổn mạng các cha xứ. Thánh nhân là người đã thể hiện niềm tin của mình vào Thiên Chúa cách tuyệt đối và có một đời sống khiêm nhường thẳm sâu, nên ngài đã luôn nhận ra Chúa hiện diện trong cuộc đời mình mọi nơi, mọi lúc. Vì thế, khi bị vị giáo sư mắng: “Vianney, anh dốt đặc như con lừa. Với một con lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì?”. Nhưng vì ý thức sự bất toàn của mình, Vianney đã khiêm tốn, bình tĩnh trả lời: “Thưa thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương con lừa mà đánh bại 3 ngàn quân Philitinh. Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?”.
Quả thật, niềm tin của thánh nhân đã được Chúa chúc phúc và dành tặng cho ngài một món quà vô cùng quý giá, đó là các linh hồn. Từ một xứ đạo khô khan, biếng nhác, không tha thiết việc đạo nghĩa, lại càng không thích sự hiện diện của các linh mục… Tuy nhiên, nhờ đời sống cầu nguyện, đạo đức và hy sinh của thánh nhân, họ đã xưng tội, bỏ đàng tội lỗi để trở về với Chúa và sống với nhau trong tình huynh đệ.
Thật vậy, không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được. Chỉ có điều chúng ta có tin hay không, hoặc qua các biến cố đó, chúng ta có khám phá ra thánh ý của Thiên Chúa và thi hành hay chỉ ngồi đó để than thân trách phận, nghi ngờ, và thậm chí chỉ trích cả Thiên Chúa…?
Sứ điệp Lời Chúa và cuộc đời của cha thánh Gioan Maria Vianney dạy cho chúng ta bài học: nếu có niềm tin và tín thác vào Chúa trong sự khiên tốn thì sẽ được Chúa thương.
Mong sao trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy nhớ đến câu nói của Đức Giêsu khi xưa: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của chúng con nhiều khi hoang mang và sợ hãi chẳng kém các môn đệ của Chúa là bao. Nhưng như các môn đệ, các ngài đã tin vào Chúa và được Chúa cứu, thì xin cũng ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con cũng được Chúa thương như các môn đệ khi xưa. Amen.
THỨ BA
GIỮ LUẬT VÀ SỐNG Ý NGHĨA CỦA LUẬT
Gr 30, 1-2. 12-15. 18-22; Mt 15, 1-2. 10-14
Ngày xưa, có người học trò hỏi Đức Khổng thế này: “Nếu mình xấu mà người ta nói mình tốt, người đó có tốt không?” Đức Khổng trả lời: “Không!”. Cậu học trò hỏi tiếp: “Vậy ai là người tốt?”. Lần này Đức Khổng trả lời: “Người tốt là người chân thành nói sự thật. Nếu mình xấu, người ta bảo là xấu. Mình tốt, người ta bảo là tốt”.
Thật vậy, người tốt là người sống thật tâm, không nịnh bợ, tâng bốc, hai lòng, lập lờ… Người tốt là người không vụ lợi, không nhân danh tập thể để lợi dụng cho cá nhân mình, không ăn bớt của công, và cuối cùng, họ là những người không: “sợ tiếng chửi, và ăn mày tiếng khen” (x. Đường Hy Vọng số 693).
Hôm nay, Đức Giêsu đã dạy cho những người Pharisêu và các Kinh sự bài học về việc giữ Luật. Luật vì con người chứ không phải con người vì Luật. Hiểu và giữ cốt lõi của Luật là tình thương thì quan trọng và đẹp ý Thiên Chúa hơn là những thứ bề ngoài. Trong khi đó, các Pharisêu và Kinh sư lại cổ súy người ta sống xa rời cốt lõi của Luật để chỉ tuân giữ Luật cách hình thức và chú tâm vào việc giữ gìn truyền thống cha ông mà thôi.
Thật vậy, nếu chỉ có vì Luật, người ta sẽ xử với nhau trên mặt chữ hay cái đầu mà không cần cái lý, cái tình và trái tim. Nếu cứ bề ngoài mà đánh giá và lấy đó làm chuẩn mực, thì sẽ luôn xảy ra tình trạng “thấy vậy mà không phải vậy” do những kẻ cầu thân nịnh bợ gây nên. Họ là những hạng người: “bên ngoài thì trông sáng láng, đẹp đẽ như mồ mả được tô vôi, nhưng bên trong thì toàn là xương người chết, dơ bẩn, thối tha”.
Nói như thế không có nghĩa là Đức Giêsu phủ nhận giá trị của Luật hay coi thường! Không! Chúng ta nên nhớ rằng: Đức Giêsu đến, Ngài không bao giờ bỏ một chấm một phết nào của Luật, nhưng Ngài kiện toàn nó và mặc cho nó một tinh thần mới, đó là tinh thần yêu thương.
Là kitô hữu, bài học của Đức Giêsu cho các Pharisêu và Kinh sư khi xưa cũng chính là bài học cho mỗi chúng ta hôm nay. Hãy sống hài hòa giữa cái bên trong và bên ngoài chứ không chỉ vụ Luật, tức là hình thức, phô trương mà bên trong thì rỗng tuếch. Hãy sống thật tâm chứ đừng giả dối. Thương người mà không có tâm tốt thì là một sự thương hại và xúc phạm, vì thế đáng nguyền rủa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn mặc lấy tâm tình của Chúa trong khi giữ Luật, tinh thần đó là đi vào trong trái tim Chúa và sống chan hòa với nhau. Amen.
THỨ TƯ
QUA ĐAU KHỔ ĐẾN VINH QUANG
Ðn 7, 9-10. 13-14; 2 Pr 1, 16-19; Mt 17, 1-9
Nick Vujicic được chào đón tại Việt Nam từ ngày 22 tháng 5 đến ngày 26 tháng 5 năm 2013. Khi xuất hiện, chàng trai trẻ này đã “truyền nghị lực sức sống mãnh liệt cho giới trẻ Việt”. Vậy chàng trai này là người như thế nào? Hẳn không cần câu trả lời, ai cũng biết anh là một người không chân, không tay, nhưng đã làm được nhiều điều kỳ diệu trong cuộc sống của mình. Anh đã thành công và trở thành người nổi tiếng. Nhờ anh, mà biết bao người thất vọng trở thành hy vọng. Buồn khổ trở nên vui vẻ và đón nhận cuộc đời như một quà tặng của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, mấy ai biết được rằng: anh đã nhiều lần lên kế hoạch tự tử chỉ vì cảm thấy thất vọng về thân hình của mình. Nhưng cuối cùng anh đã vượt qua và trở thành một biểu tượng của niềm hy vọng cho biết bao người bất hạnh và đang tìm đến ngõ cụt của cuộc đời là cái chết. Tại sao lại có sự thay đổi tuyệt vời như thế? Thưa! Nguyên nhân chính là nhờ niềm tin của anh đặt nơi Thiên Chúa. Phần khác nhờ động lực của bà mẹ. Giờ đây, anh trở thành người loan truyền Tin Mừng cách sống động.
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Chúa Biến Hình. Tại sao Đức Giêsu lại biến hình trước mặt các môn đệ? Thưa! Chỉ vì Ngài muốn làm điểm tựa và củng cố niềm tin nơi các ông. Có lẽ Ngài sợ đức tin của các ông không đủ mạnh để chứng kiến và đứng vững trước những hình khổ mà Ngài phải chịu. Mặt khác, chính các ông là những người bước theo Thầy của mình trên chính con đường mà Thầy đã trải qua, e rằng vì sợ hãi mà sinh ra thất vọng, và nguy cơ bỏ cuộc có lẽ là rất cao! Vì vậy, khi biến hình trước mặt các ông, Đức Giêsu muốn cho các ông nếm trước vinh quang Nước Trời, nơi đó sẽ là phần thưởng dành cho những người trung thành vượt qua thử thách trong cuộc đời và trên hành trình sứ vụ.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức rằng: đi theo Chúa là đi trên con đường hẹp, con đường của khổ giá, con đường của cái chết. Tuy nhiên, cứ theo Chúa đến cùng, ta cũng sẽ được phục sinh. Nguyên tắc của hạt lúa gieo vào lòng đất là phải thối và chết đi thì mới sinh ra những bông hạt khác.
Trong mọi hoàn cảnh, không bao giờ thất vọng. Tương lai vẫn chờ đón ta ở phía trước. Thật vậy, cuộc đời này không ai là vô dụng, và cũng không ai là trọn vẹn trước mặt Thiên Chúa cả. Chỉ có điều ta có làm nên điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đã phú bẩn, gieo mầm ngay từ khi ta còn trọng bụng mẹ hay không mà thôi.
Nguyên lý của sự thành đạt chính là hy sinh và kiên trì. Thật vậy, người tín hữu kitô cần phải hiểu cho rõ nguyên tắc này là: muốn vào Nước Trời, phải trải qua đau khổ, phải vác thập giá hằng ngày mà theo, phải đi theo con đường hẹp. Thiên Đàng không có chỗ cho kẻ lười biếng và ngủ mê trong tội. Thiên Đàng cũng không có chỗ cho những kẻ mang trên mình quá nhiều thứ kủng kỉnh…
Lạy Chúa, xin cho chúng con được theo Chúa đến cùng trên con đường Chúa đã đi qua. Xin cho chúng con ý thức mình thuộc về con cái Nước Trời, tuy nhiên, muốn vào được Nước đó, phải trải qua đau khổ của thập giá. Amen.
THỨ NĂM
CẦN TUYÊN XƯNG ĐỂ ĐÓN NHẬN SỨ VỤ
Gr 31, 31-34; Mt 16, 13-23
“Người ta bảo Con Người là ai?”.
Tại sao Đức Giêsu lại hỏi các môn đệ như vậy? Câu hỏi này của Đức Giêsu có ý gì?
Thưa vì những lý do sau:
Thứ nhất, Ngài và các môn đệ đang ở vùng Cêsarêa Philipphê. Đây là vùng đất của dân ngoại. Địa danh này còn được biết đến là một trung tâm thờ thần Baan. Nơi đây cũng có thể là nơi “chôn rau cắt rốn” của thần Hylạp có tên là Panias thần thiên nhiên.
Dân chúng ở đây, trong tâm thức của họ, Đức Giêsu chỉ là một nhân vật vĩ đại và thuần túy, hay chỉ là người tiếp nối quá khứ truyền thống các tiên tri mà thôi. Sẵn có lối suy nghĩ như vậy, nên họ không hiểu rõ sứ vụ Thiên Sai của Đức Giêsu. Vì thế không lạ gì khi được hỏi về dư luận trong dân chúng về mình, các môn đệ đã thông tri cho Đức Giêsu biết: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó”. Khi nghe thấy như thế, Đức Giêsu không thỏa mãn với câu trả lời đó, nên đã hỏi trực tiếp các môn đệ: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”. Phêrô đã thay mặt anh em lên tiếng: “Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Khi Phêrô tuyên xưng điều đó, có lẽ ông cũng không hiểu hết, bởi vì mầu nhiệm này quá sức của ông và các môn đệ khác.
Quả thật, “Đấng Kitô” mà Đức Giêsu muốn các môn sinh của mình hiểu ở đây không chỉ đơn thuần theo nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sinh ra, mà còn là người hành động như Thiên Chúa, ngang bằng với Thiên Chúa. Còn “Con Thiên Chúa hằng sống ”, tức Ngài là Đấng tự hữu và tự tồn tại, vì thế “Ngài ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”.
Thứ hai, đây là dịp để Đức Giêsu trắc nghiệm niềm tin của các ông vào mình, bởi lẽ không thể trao phó một trách nhiệm quan trọng mang tính trường tồn cho một kẻ kém tin và không hiểu biết gì về mình.
Vì vậy, khi Phêrô tuyên xưng niềm tin, ngay lập tức, Ngài đã đổi tên của ông là Simon thành Phêrô và giải thích là “Đá Tảng”, đồng thời Ngài cũng đặt gánh nặng lên vai Simon Phêrô: “Trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” và “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”.
Khi nói Phêrô là “Đá Tảng”, Đức Giêsu cho biết, đây là một thực tại chắc chắn, không lay chuyển, không thay đổi.
Thứ ba, khi đặt Phêrô làm “Đá Tảng” để xây dựng Giáo Hội, Đức Giêsu muốn chúng ta tin rằng:
Giáo Hội được Ngài thiết lập trên “Đá Tảng” là Phêrô, và chúng ta là người được ở trong tòa nhà đó, hẳn chúng ta có quyền tin rằng: “quyền lực tử thần sẽ không phá nổi”.
Thật vậy, trải qua biết bao thế kỷ, Giáo Hội luôn đứng vững trước sự công phá của ma quỷ, không những thế, Giáo Hội còn giải thoát con người khỏi ách của tội lỗi… và sự chết.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn mời gọi chúng ta hãy vững tin vào Đức Kitô, vì “Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống”. Tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa nơi Bí tích Hòa Giải. Vâng phục, yêu mến đấng thay mặt Chúa, kế vị Thánh Phêrô là Đức Giáo Hoàng. Đồng thời luôn biết thể hiện tinh thần hiệp thông để xây dựng Giáo Hội của Chúa trên trần gian này. Hầu cho nhiều người nhận biết “Ðức Kitô, là Con Thiên Chúa hằng sống”. Amen.
THỨ SÁU
TỪ BỎ MÌNH ĐỂ ĐI THEO CHÚA
Lễ thánh Đaminh, linh mục
Nk 1, 15; 2, 2; 3, 1-3. 6-7; Mt 16, 24-28
Ngày nay, khi đi phỏng vấn để xin việc, người ta thường đòi hỏi những điều kiện về sức khỏe và chuyên môn, đồng thời tùy một số công việc đặc thù, cần phải có sự thỏa thuận cụ thể hơn. Cũng vậy, khi được gọi để trở thành môn đệ, Đức Giêsu cũng đòi hỏi người môn sinh phải hội đủ những điều kiện cần thiết để chu toàn bổn phận của người thừa sai, hầu những ai được gọi và chọn thì đều cảm thấy hạnh phúc khi thi hành sứ vụ của người sai đi.
Hôm nay, bài Tin Mừng kể lại việc Đức Giêsu đòi hỏi những người Ngài muốn gọi và chọn để ra đi thi hành sứ vụ cần phải “từ bỏ mình và vác thập giá theo Ngài”.
Thoạt nghe, chúng ta cảm thấy buồn cười và có sự mâu thuẫn! Tuy nhiên, nhìn dưới khía cạnh của Kinh Thánh thì sự đòi hỏi này của Đức Giêsu mang tính tự do cho người đón nhận chứ không phải vì ép buộc. Tức là tự nguyện từ bỏ một cuộc sống dễ dãi, an nhàn, hay ăn trên ngồi trước, để lựa chọn một cuộc sống thiếu thốn, khổ hạnh vì ích lợi và niềm vui của kẻ khác.
Từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo, tức là chấp nhận đi trên con đường mà chính Đức Giêsu đã đi. Con đường đó là một con đường hẹp. Con đường của hy sinh, thiệt thòi. Con đường của tự hủy. Con đường khiêm tốn và là con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha hoàn toàn.
Thật vậy, từ bỏ chính mình quả là điều khó nhất, bởi vì: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con bỏ trước” (Đường Hy Vọng, số 3). Nhưng nhiều người lại có suy nghĩ là bỏ tất cả, nhưng từ bỏ mình thì nhất quyết không, bởi vì họ từ bỏ cái tôi thì phải chăng họ không còn là họ nữa!
Tuy nhiên trong hoàn cảnh này, Đức Giêsu muốn các môn đệ ra khỏi sự ích kỷ, tự phụ, kiêu ngạo, để ý Chúa rợp bóng trên cái tôi của mình, và chính từ đó, tôi được trở thành tôi đúng nghĩa trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Thánh Đaminh mà chúng ta hôm nay mừng kính, ngài đã từ bỏ hết tất cả để sống cho Thiên Chúa và tha nhân.
Vì thế: “Ngài năng dâng lên Chúa lời cầu xin đặc biệt này là cho ngài được lòng bác ái chân thật, có khả năng săn sóc và đem lại phần rỗi cho người ta. Ngài nghĩ mình sẽ thật là chi thể của Chúa, nên tiên vàn mình đem hết sức lực mình ra cứu rỗi các linh hồn, giống như Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc mọi người, đã tận hiến mình để cứu chuộc chúng ta. Và chính để làm công việc ấy mà theo ý Chúa an bài sâu xa, Ngài đã lập ra “Dòng Anh em Thuyết Giáo”.
Thật vậy, ngài đã từ bỏ tất cả, cho đi tất cả, kể cả mạng sống của mình. Nên đã có lần ngài thấy một phụ nữ vì không có tiền để chuộc lại đứa em gái của mình, nên đã nói: “Tôi không có tiền, nhưng này, chị hãy dẫn tôi nộp cho người ta, để chuộc em chị về”. Rồi ngay cả có cuốn sách quý hiếm, khi không còn gì để cho người nghèo nữa, ngài cũng bán. Khi được hỏi tại sao thì ngài trả lời: “Tôi không thể học trên những miếng da chết đang khi người khác chết đói”.
Thật vậy, ngài đã trở nên vị thánh lỗi lạc nhờ những trang Tin Mừng sống qua những hành vi bác ái với người nghèo. Cả cuộc đời của ngài đã cố tâm thực hiện câu Lời Chúa: “Ai muốn nên trọn lành, hãy về bán hết gia tài, bố thí cho người nghèo, đoạn hãy theo Tôi” (Mt.19,21).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết an vui khi chọn Chúa làm gia nghiệp. Xin cũng cho chúng con được từ bỏ mọi sự, vác thập giá để theo Chúa trên con đường cứu độ mà Chúa muốn chúng con thi hành. Amen.
THỨ BẨY
KIÊU NGẠO SẼ THẤT BẠI
Kb 1, 12 – 2, 4; Mt 17, 14-19
Một sự cám dỗ lớn lao nhất thường đến với con người, đó là cơn cám dỗ về sự kiêu ngạo.
Thật vậy, sự kiêu ngạo nó thường trực trong con người, và mức độ nguy hiểm của chúng là rất cao. Có thể ví rằng: sự kiêu ngạo luôn nhăm nhe bừng phát, chúng giống như bình xăng. Ma quỷ như bó đuốc. Nếu không cẩn thận và đề phòng bằng sự khiêm nhường, ắt không sớm thì muộn, chúng cũng làm cho bình xăng bốc cháy.
Đọc lại lịch sử cứu độ, chúng ta thấy, từ xa xưa, người ta vẫn bị mắc vào cám dỗ này.
Khởi đi từ Nguyên Tổ loài người là Ađam và Evà; rồi câu chuyện tháp Babel, đến hành động của Môsê, Aharon, Đavít, và ngay cả đến các Tông đồ, tất cả đều bị ngã gục trước sự cám dỗ của ma quỷ dưới lưỡi hái của sự kiêu ngạo.
Thật vậy, cậy vào sức riêng của mình là chuyện bình thường. Tuy nhiên, vì tự tin đến độ không cần đến Thiên Chúa thì lại là kẻ bất thường, vì thế, thất bại là lẽ đương nhiên.
Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy việc các môn đệ thất bại trong việc trừ quỷ. Nguyên do chính là do các ông tự mãn và cậy vào khả năng riêng của mình chứ không phải là niềm tin vào Thiên Chúa.
Tin Mừng thuật lại, sau khi Đức Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor, số môn đệ còn lại ở dưới núi, vì thế người ta mang đến cho các ông một đứa trẻ bị quỷ ám mắc kinh phong. Các ông đã trừ mà không được. Nên thấy Đức Giêsu xuống, dân chúng đã xúm lại và xin Ngài chữa lành. Sau khi Ngài chữa cho bé gái khỏi quỷ ám. Các môn đệ tiến lại gần và hỏi: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?”. Đức Giêsu mặc khải cho họ biết: “Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘rời khỏi đây, qua bên kia!’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được”.
Sau khi các ông nhận ra sự thất bại của mình và hiểu rõ về sức mạnh của niềm tin, Đức Giêsu muốn dạy các ông sự khiêm nhường và gắn bó với Thiên Chúa cách trọn ven thì mới có thể thi hành được sứ vụ.
Trong cuộc sống đức tin của chúng ta, có lẽ không cần phải xin Chúa cho được chuyển núi dời non theo nghĩa đen. Nhưng điều mà chúng ta cần chuyển dời chính là ngọn núi của kiêu căng, tự ái, ghen ghét. Có thế, chúng ta mới để cho đức tin mà Thiên Chúa ban cho chúng ta được lớn mạnh.
Lạy Chúa, xin cho ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con biết gắn bó với Chúa để được Chúa yêu thương. Amen.