SUY NIỆM TẾT NGUYÊN ĐÁN – A

TẾT NGUYÊN ĐÁN – A
Lc 5, 1 – 10; Mt 6: 25-34; Mt 15: 1-6; Mt 25: 14-30

PHỨC TẠP ĐẦU XUÂN …………………………….…….. Gm. JB Bùi Tuần 02
MỘT NĂM MỚI TỐT ĐẸP .…….………………………. Lm. Giuse Đinh Lập Liễm 06
KÍNH NHỚ ÔNG BÀ TỔ TIÊN .…….…………………. Lm. Giuse Đinh Lập Liễm 14
MỒNG BA RA MẮT ………………….…………………. Lm. Giuse Đinh Lập Liễm 19
TẤT NIÊN: CẢM TẠ TRI ÂN ….…………… Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR 24
GIAO THỪA: BÀN GIAO MỚI VÀ CŨ …… Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR 26
MỒNG MỘT: BÌNH AN NĂM MỚI …….. … Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR 29
MỒNG HAI: THẢO KÍNH CHA MẸ ….……. Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR 31
MỒNG BA: CHÚA CŨNG LÀM VIỆC ……. Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR 34
RỘN RÀNG TẾT .………………………………………….… Pm. Cao Huy Hoàng 36
CHO NHAU MỘT MÙA XUÂN .………………………….… Pm. Cao Huy Hoàng 42
XUÂN TÂM HỒN .…………………………………..… Giuse Mai Văn Tuyền, OP 45
XUÂN THANH BÌNH ……………………………..……..…..… JM Lâm Thy, DVD 48
MÙA XUÂN CHO LÒNG NGƯỜI .……………………….…….. Gm. JB Bùi Tuần 53
LỜI CẦU CHÚC NĂM MỚI .…….……………. Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long 55
GIAO THỪA:BÌNH AN VÀ HẠNH PHÚC TRONG TAY ..Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 58
MỒNG HAI: KÍNH NHỚ ÔNG BÀ TỔ TIÊN ……………. Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 68
MỒNG BA: CẦU NGUYỆN CHO CÔNG VIỆC …..……. Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 71
TẾT NGUYÊN ĐÁN: TẤT NIÊN – MỒNG BA …….. Lm. Giuse Đoàn Văn Lữ 83-95
SUY NIỆM BA NGÀY TẾT ………………………….. Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 96-105
BÀI ĐỌC THÊM:
TẢN MẠN CHUYỆN TẾT CỔ TRUYỀN ……….. ThS Đặng Quốc Minh Dương 105
NĂM MÃO KHÁO CHUYỆN MÈO THEO THÁNH KINH ….. Hoàng Đức Trinh 115
TẾT TÂN MÃO: TẢN MẠN CHUYỆN MÈO …….… Lm. Giuse Nguyễn Hữu An 121

PHỨC TẠP ĐẦU XUÂN
Gm. JB Bùi Tuần

“Phức tạp”, đó là những chữ, những lời, được đọc và được nghe nhiều trong mấy tháng qua.

Tình hình phức tạp, diễn biến phức tạp. Thực tế đã qua đúng là như vậy. Thực tế đang tới chắc cũng là thế. Tính cách phức tạp và mức độ phức tạp có thể rất khó lường.

Mọi phức tạp đều ảnh hưởng đến đời sống đạo. Nhân dịp đầu Xuân, tôi xin chia sẻ vài nhận xét khiêm tốn của tôi.

1. Cảnh lẫn lộn tốt xấu
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh cánh đồng có lúa tốt nhưng cũng có cỏ lùng chen vào: Lúa tốt do chủ trồng. Cỏ lùng do kẻ xấu gieo. Cả lúa cả cỏ cùng mọc xanh tươi. Đến mùa gặt, chủ mới phân loại. Lúa thì được giữ trong kho. Cỏ thì đem đi đốt (x. Mt 13,24-30).

Những lời Chúa phán trên đây cho chúng ta thấy tính cách phức tạp của cuộc đời. Sống ở đâu cũng là sống trong một xã hội, sống với những cơ cấu và sống chung cùng những người khác. Đó là một thứ cánh đồng. Cỏ lùng, mà Chúa nói, là những người xấu, việc xấu. Chúng phát sinh và phát triển. Cảnh lẫn lộn đó cũng thấy ngay cả trong Hội Thánh.

Cảnh lẫn lộn đó càng ngày càng phức tạp hơn, khi việc xấu người xấu lại khéo đội lốt việc tốt người tốt. Thời Chúa Giêsu, Người khuyên dân chúng đừng theo loại xấu đó. Nhưng phức tạp càng thêm phức tạp, khi những người đạo đức giả đó trở thành một giai cấp quyền lực trong đạo. Chính họ đã bày mưu giết Chúa Giêsu.
Tất nhiên, chương trình cứu độ của Chúa không chấm dứt ở đó.

Tôi có cảm tưởng là cuộc phấn đấu giữa thiện và ác trên thực tế Hội Thánh nói chung và Hội Thánh Việt Nam nói riêng cũng đang diễn biến phức tạp. Chắc chắn sau cùng Chúa sẽ thắng. Nhưng trong hành trình đi tới chiến thắng cuối cùng, các môn đệ Chúa phải triệt để trung thành với Chúa. Tuy nhiên, trên thực tế ai trong chúng ta dám nói là mình không bao giờ phạm tội. Thành ra, chính chúng ta gọi là tốt, mà cũng không luôn tốt. Tốt xấu lẫn lộn ngay trong chính mình ta. Bao lần mạnh đâu theo đó một cách tuỳ tiện. Tình hình mất ý thức về tội đang phát triển một cách đáng ngại. Hiện tượng không biết và không cần phân biệt đúng sai cũng đang phổ biến mạnh.

2. Cảnh không thi hành ý Chúa
Từ ít năm nay, nhất là trong Năm Thánh vừa qua, một phong trào được nở rộ, đó là phong trào học hỏi về đạo. Phải nói ngay là những phong trào đó bề ngoài coi như đạo đức. Nhưng chất lượng không phải đâu cũng hoàn toàn mang Tin Mừng. Nguyên nhân hoặc ở nội dung thiếu vắng lời Chúa, hoặc ở người dạy trống vắng đời sống nội tâm, hoặc ở người học hời hợt, không chủ ý học để hành.

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu phân loại và đánh giá người ta một cách đơn giản. Một loại là những người nghe lời Chúa mà không thực hành, một loại là những người nghe lời Chúa mà thực hành. Những người không thực hành thì bị phạt, những người thực hành thì được thưởng. Xin đọc lại nguyên văn đoạn Phúc Âm đó:
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, nhân danh Thầy mà trừ quỷ, nhân danh Thầy mà làm nhiều phép lạ đó sao? Bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác.

“Vậy, ai nghe lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví như người ngu xây nhà trên cát. Gặp mưa sa nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ tan tành” (Mt 7,21-27).

Những lời Chúa Giêsu phán trên đây làm tôi khiếp sợ. Nhân danh Chúa nói tiên tri, trừ quỷ và làm phép lạ, những việc như thế thường được coi là những việc đạo đức do người đạo đức mới làm được, thế mà Chúa Giêsu lại không nghĩ như vậy. Chúa Giêsu để ý đến ý hướng khi ta làm những việc lành. Chẳng hạn, tôi dâng thánh lễ đúng phụng vụ, thì việc đó luôn sinh hiệu quả tốt. Nhưng nếu tôi dâng thánh lễ với mục đích chỉ để làm kinh tế hay để khoe khoang và trong tình trạng mang tội trọng, thì tôi dâng lễ sai thánh ý Chúa, đáng bị Chúa phạt.

Nghe lời Chúa, nhưng không thi hành lời Chúa đang là một lối sống đạo khá bình thường.

Một tình hình nữa đang diễn biến phức tạp, đó là: Càng ngày càng thêm kinh mới. Càng ngày càng mọc lên những công trình xây cất mới. Càng ngày càng thêm nhiều tổ chức mới. Tất cả đều nhân danh Chúa. Nhưng, nếu xét về sự thực thi Tám mối phúc, thì xem ra xa lạ. Nếu thế, thì lối sống đạo của chúng ta đang trở thành một thứ phức tạp cực kỳ nguy hiểm.

Ấy là chưa nói tới những việc gieo rắc hận thù, gian dối, phân hoá, dưới nhãn hiệu “nhân danh Chúa”. Những phức tạp như thế, xem ra đang được tự do phát triển một cách bình thường. Đó là một diễn biến phức tạp có khả năng đưa Hội Thánh Việt Nam rời xa Tin Mừng.

Một diễn biến phức tạp khác rất nguy hiểm, đó là cảnh đi vào con đường thênh thang.

3. Cảnh đi vào con đường buông thả
Trong Phúc Âm Chúa Giêsu phán: “Hãy qua cửa hẹp mà vào thiên đàng, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường hẹp thì đưa tới sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt, 7,13-14).

Lời Chúa phán trên đây vốn được kính trọng, nhưng xem ra không luôn được thực hành nghiêm túc. Thậm chí, ngay cả việc nhắc đến lời đó, cũng đã và đang bị hạn chế. Lý do sau cùng chỉ vì người ta muốn được an tâm đi theo lối sống tự do hưởng thụ. Lối sống tự do hưởng thụ đang là một mời gọi của đà phát triển kinh tế và tự do. Tự do và hưởng thụ, nếu thực thi trong những ranh giới được phép, thì vẫn cần cảnh giác, kẻo dễ sa vào hư hỏng. Đạo đức Phúc Âm khuyên người môn đệ Chúa hãy tự hy sinh, tự từ bỏ cả nhiều cái được phép hưởng, vui sống khó nghèo để góp phần vào việc cứu rỗi các linh hồn và đổi mới Hội Thánh.

Trên thực tế tại Hội Thánh Việt Nam, nhiều người vốn coi trọng việc đi vào cửa hẹp, đi trên đường hẹp, theo lời Chúa dạy. Họ sống từ bỏ mình một cách quảng đại, âm thầm. Đang khi đó, không thiếu người lại đi vào cửa rộng đường rộng. Phạm vi tự do càng ngày càng rộng thêm. Nhiều người tự cho phép mình được làm những gì mình thích. Ranh giới tự do cũng do họ tự đặt ra cho mình. Thậm chí một số người có vẻ quả quyết họ và Chúa Thánh Thần là một trong một phương diện nào đó. Họ mở ra một chân trời quyền lực rộng lớn, để tự quyết định.

Những diễn biến phức tạp trên đây khiến chúng ta lo ngại. Nhưng bên cạnh đó, đang phát triển những diễn biến đáng mừng. Đó là những phong trào đạo đức trở về với Đức Kitô và thánh giá của Người. Tôi tin Mùa Xuân thiêng liêng đang và sẽ đến với Hội Thánh chúng ta từ thánh giá của Đức Kitô. Chính sự từ bỏ quảng đại theo gương Đức Kitô mới là yếu tố chính của tình yêu cứu độ.

Gm. JB Bùi Tuần

MỘT NĂM MỚI TỐT ĐẸP
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

I. NĂM MỚI VỚI LỜI CHÚA
Bài đọc 1: St 1,14-18
Thiên Chúa là Alpha và Oméga, nghĩa là Khởi Nguyên và Cùng Tận của vũ trụ muôn loài. Ngài sáng tạo thời gian và không gian, chính Ngài ấn định năm tháng ngày giờ và đặt ra các chu kỳ đại lễ.

Một năm mới bắt đầu là một khoảng thời gian nữa được ban cho chúng ta. Có thời gian là một ơn rất quí. Chúng ta có thời giờ để làm ăn sinh sống, nhưng cũng có thời giờ để chuẩn bị cho đời sống vĩnh cửu.

Bài đọc 2: Pl 4,4-8
Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Không phải ngẫu nhiên mà thánh Phaolô lại thêm chữ niềm vui của Chúa, vì niềm vui của Chúa thì khác với niềm vui của người ta. Niềm vui của người ta thì tùy ở nhiều yếu tố vật chất bên ngoài; còn niềm vui của Chúa thì nhẹ nhàng thanh thoát và tùy thuộc những điều kiện bên trong nhiều hơn như: tính hiền hòa, lòng quảng đại và tinh thần cầu nguyện. Có được những điều kiện đó là chúng ta có thể vui luôn trong Chúa.

Bài Tin mừng: Mt 6,25-34
Bài Tin mừng mời gọi chúng ta an tâm bước vào năm mới với niềm tin tưởng phó thác cho Chúa. Chúng ta phải biết cái gì đáng lo, đó là sống công chính, lo xây dựng Nước Trời. Xây dựng Nước Trời, có nghĩa là thực thi công bình bác ái, kiến tạo hòa bình và tạo dựng hạnh phúc cho mọi người. Có được Nước Trời như thế, thì còn gì phải lo lắng cho vấn đề cơm ăn áo mặc nữa: tất cả những cái mà chúng ta cho là thiết yếu nhất, chẳng qua chỉ là những cái được “thêm cho” mà thôi.

II. XUÂN ĐẾN XUÂN ĐI, XUÂN BẤT TẬN
Người ta thường nói:
Xuân khứ xuân lai, xuân bất tận,
Nhân hòa nhân thỉnh, nhân trường sinh.

Xuân đến xuân lại đi và sang năm xuân sẽ tới vì quả đất tròn quay mãi không ngừng. Dù có ai yêu hay ghét xuân thì xuân vẫn đến, không phụ thuộc ai dù già trẻ, lớn bé, giầu nghèo, trí thức hay dốt nát, xuân đến một cách nhẹ nhàng, đều đặn.

Chúng ta hãy trở lại với sách Sáng thế. Sách cho biết Thiên Chúa dựng nên trời đất muôn vật và Ngài đã tách ánh sáng ra khỏi bóng tối để làm ra ngày và đêm phân biệt. Ngày và đêm thay đổi nhau để làm nên năm tháng. Ngày đêm thay đổi nhau 365 lần làm nên một năm (x. St 1,14-18)

Sau 365 ngày lại có một năm khác mà ta gọi là “Năm Mới” mà năm nay là năm Tân Mão. Ai trong chúng ta cũng gọi năm nay là năm mới, nhưng có thật là mới không vì có người cho rằng chả có gì là mới cả, năm nào cũng vậy thôi và năm nay có thể cũ hơn năm ngoái.

Trước đây, thi sĩ Trần Tế Xương có cái nhìn khác không giống như mọi người, khi ông nói:
Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ai trong đời
Vua quan sĩ thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.

Thực ra, nếu xét theo xuân cảnh vật thì càng ngày càng cũ đi như 70 tuổi thì phải cũ đi hơn là 20 tuổi. Nhưng nếu xét theo xuân trong tâm hồn, tức là xuân của ơn thánh thì có thể gọi là năm mới.

Francis Bacon đã có cái nhìn sâu sắc về vấn đề này khi ông nói: “Con người thời nay đã già cỗi, cần phải trở lại “thời thanh xuân” của con người nguyên thủy”.

Đúng vậy, con người trẻ trung ngày xưa đã bị vật dục làm hư hỏng đã trở nên già khọm. Phải làm sao canh tân con người già cả của chúng ta để trở nên người trẻ trung tươi mát vì nó phải trở nên trẻ thơ mới được vào Nước Trời (x. Mt 19,13-15).

III. NGƯỜI TA CHÚC NHAU NHỮNG GÌ ?
Chúng ta cứ coi năm Tân Mão này là Năm Mới đi và cùng mọi người chúc nhau. Vậy người ta thường chúc nhau những gì ? Người ta thường chúc nhau một: Năm Mới Tốt Đẹp, Bonne année hay Happy new year. Câu chúc cổ điển nhất của xã hội chúng ta vừa súc tích vừa vắn gọn nhất bằng 3 chữ là: PHÚC, LỘC, THỌ.
Cũng có người chúc nhau nhiều hơn bằng 5 chữ: PHÚ, QUÍ, THỌ, KHANG, NINH. Nhưng có lẽ chữ Phúc luôn đứng hàng đầu vì nếu được tất cả mà thiếu Hạnh phúc thì cuộc đời trở nên vô nghĩa. Chúng ta hãy xem thi sĩ Trần tế Xương nói chuyện với chúng ta về lời chúc Năm Mới như thế nào:

1. Chúc cho sống lâu
Có người cho rằng năm mới tốt đẹp là ở tại chỗ sống thật lâu thật bền cho đến lúc đầu phủ tuyết, da đồi mồi. Thi sĩ nói:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.

Nhưng sống lâu có hạnh phúc không ? Tại sao người ta thường nói: ”đa thọ, đa nhục” hoặc thành ngữ có câu: ”Trẻ khôn qua, già lú lại”. Đã “lú lại” sẽ bị con trẻ chê bai ! Đã “lú lại” tất không thể trốn đâu được cái nhục. Không thiếu gì các ông già bà cả bị bỏ rơi, đang sống tủi sống nhục trong tuổi già. Ít có người già nào nói: mình được hạnh phúc trong tuổi già.

Ngắm nhìn ngày tháng dần trôi, người già mới thấm thía câu ca dao:
Còn duyên như tượng tô vàng
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa.
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa… một mình.

Trước cảnh tượng phũ phàng ấy, người ta tự nhiên cảm thấy ù tai chóng mặt. Để cứu vãn tình thế, tranh thủ thời gian, họ đâm ra ăn chơi phóng đãng:
Ai ơi, chơi lấy kẻo già,
Măng mọc có lứa, người ta có thì.
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già xống xộc nó thì theo sau.

2. Chúc cho giầu có
Có người cho rằng: năm mới tốt đẹp là ở chỗ làm ăn phát tài phát lộc, tiền chảy vào túi như nước như non. Người ta chúc nhau: ”Nhất bản vạn lợi” hay “Một vốn bốn lời”:
Nó lại chúc nhau cái sự giầu
Trăm ngàn vạn mớ để vào đâu ?

Người ta chúc nhau giầu có, nhưng thử hỏi giầu có đến đâu là đã thỏa mãn ? Chắc chẳng bao giờ ngươi ta thỏa mãn với cái lòng tham vô đáy, nên chẳng bao giờ người ta đạt được sự giầu có như lòng mong ước ?. Người ta vẫn khát khao sự giầu có mà không được.

Nhiều người đã tôn vinh tiền của lên hàng thần thánh: thần MAMMON (thần Tiền Của). Vị thần này rất quyền năng, trở thành ông chủ khắc nghiệt tuyệt đối chi phối con người họ, bắt họ làm nô lệ cho mình, và có ai thấy mình được hạnh phúc khi phải sống kiếp nô lệ không ?

Ngày 06/06/1976 ông Paul Getty, một người giầu có, đã qua đời. thọ 83 tuổi. Ông để lại khoảng 4 tỉ Mỹ kim. Sau 5 lần ly dị, trong một cuộc phỏng vấn, ông đã tuyên bố: ”Tôi đã mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi sợ mình không thành công. Tôi sợ không thể tạo được hạnh phúc hôn nhân ấy”.

Một lần khác, ông đã phải thú nhận với một phóng viên là ông đã không đạt được hạnh phúc gia đình.

Một lần khác nữa, ông Paul Getty xác nhận: tiền bạc không thể mua được hạnh phúc. Hơn nữa, ông còn tin rằng tiền bạc có bà con với nỗi bất hạnh.

3. Chúc cho vinh sang
Có người cho rằng một năm tốt đẹp là được mọi người ca tụng, tiếng tăm được vang khắp bốn bể, được thiên hạ nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa:
Nó lại chúc nhau cái sự sang
Đứa thì buôn tước, đứa buôn quan.

Danh tiếng vang lừng bốn bể có làm cho người ta được hạnh phúc không ? Đây là một chứng từ mà người ta đã biết: ông Anatole France là một người giầu có, được mọi người hoan nghênh, được nếm đủ các thứ khoái lạc trên đời, đã phải thú nhận rằng: “Nếu anh có thể đọc được trong tâm hồn tôi, anh sẽ rùng mình. Trong trời đất không có vật nào vô phúc bằng tôi: người ta tưởng tôi sống hạnh phúc. Thật ra, không bao giờ được sung sướng cả, dầu trong một giờ, dẫu trong một ngày”.

Còn một chứng từ khác của một người còn sang hơn quan nữa, tiếng tăm lừng lẫy khắp muôn phương, được thiên hạ học từ lời ăn tiếng nói, được theo dõi, từ chân tơ kẽ tóc như cô đào minh tinh màn bạc Brigitte Bardot mà cũng không thấy được hạnh phúc.
– ?
– Mộng tôi bây giờ không phải là thủ vai tài tử quan trọng. Mộng tôi bây giờ là làm thế nào có đủ can đảm rút lui khỏi màn bạc.
– Thế thì tất cả những công danh của cô xưa rầy là mây, là khói hay sao ?
– Phải ! Brigitte Bardot đáp lại những câu hỏi bồi hồi của một ký giả báo Văn Đàn. Phải ! Tất cả là mây khói, là hư vô.

IV. CHÚNG TA NÊN CHÚC NHAU NHỮNG GÌ ?
Nếu chúc cho ông bà anh chị em được sống lâu, giầu có, được vinh sang… thì thấy không ổn vì tất cả những cái đó chưa làm nên hạnh phúc vì nó vẫn là mây khói. Xin được lấy lại câu chúc của thi sĩ Trần Tế Xương một lần nữa:
Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ai trong đời
Vua quan sĩ thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.

Câu chúc của thi sĩ “Sao được cho ra cái giống người” xem ra có vẻ hài hước và mang tính cách châm biếm. Nhưng cái nhìn của ông về con người cũng giống như cái nhìn của nhà hiền triết Diogène ngày xưa. Đang giữa trưa ông cầm đèn ra giữa thành phố Athènes để đi tìm cài gì đó. Người ta hỏi tìm gì. Ông trả lời: đi tìm người! Thiếu gì người ở giữa thành phố mà phải đi tìm ? Nhưng ông cho rằng những đám người này chưa phải là người đúng nghĩa, ông đi tìm một con người chính danh, con người xứng đáng “linh ư vạn vật” kia !

Năm mới chúng ta chúc nhau hãy trở nên con người đúng nghĩa, phải “linh ư vạn vật“ mới được.

Đối với người Việt nam Công giáo chúng ta, thời gian được ban cho chúng ta trong Năm mới này là để chúng ta “làm người” và “làm con Chúa”. Chúng ta không tự nhiên là người hay là con Chúa được, có là hay không còn tùy thuộc ở chỗ chúng ta có “làm” và có “làm” được hay không. Hạt giống không tự nhiên có thể nở thành cây và sinh hoa kết quả: nó cần phải được gieo cấy trong ruộng trong vườn, và cần phải có thời gian để phát triển. Con người chúng ta cũng vậy, chúng ta là những cái “nhân” được gieo cấy trong ruộng đồng là thế gian này và thời gian được ban cho chúng ta làm nên đời mình bằng cách cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa: ân sủng này cũng ví như ánh sáng và sương mưa cần thiết cho sự sinh trưởng của cây.
Chúng ta sẽ trở nên người con có Thiên Chúa là Cha, để chúng ta có thể thưa với Chúa là “Abba, Cha ơi” (Mc 14,36), và chúng ta có mọi người là anh chị em, và đây là một vinh dự lớn lao đối với con người hèn mọn chúng ta, như người ta nói:
Con có cha như nhà có nóc
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.

Cha chúng ta điều khiển muôn loài muôn vật, Ngài nuôi chim trời cá biển, săn sóc từng cây cỏ nơi đồng nội. Ngài lại càng săn sóc chúng ta hơn nhiều vì chúng ta là con của Ngài. Vì thế, chúng ta đừng quá bồn chồn lo lắng về đời sống vật chất cho có cơm ăn áo mặc, hãy tin vào Chúa quan phòng.

Có một điều khác biệt nơi người tin và người không tin là người tin thì một đàng ra sức xây dựng và phát triển những giá trị trần gian (trong đó có sự tích lũy tiền của), một đàng vẫn hướng mắt, hướng lòng, hướng lời cầu về với Thiên Chúa là Cha, là Nguồn Mạch mọi sự giầu có và hạnh phúc.

Nhân dịp Năm Mới, xin chúc ông bà anh chị em một năm mới tốt đẹp và một năm mới tốt đẹp như lời Chúa dạy: ”Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và ăn ở công chính như Người đòi hỏi; còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho”(Mt (Mt 6,23). Còn ăn ở công chính đây là sống Tám mối Phúc thật như Chúa đã dạy trong bài giảng trên núi (x. Mt 5,3-12).

Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

KÍNH NHỚ ÔNG BÀ TỔ TIÊN
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
I. Ý NGHĨA BA NGÀY TẾT
Theo tục lệ Việt nam, ngày Tết là ngày con cháu dù ở nơi xa cũng xum họp cùng gia đình để chúc tuổi mới ông bà cha mẹ. Đồng thời nói lên lòng yêu mến, biết ơn của con cháu đối với các bậc tiền bối.

Giáo hội Việt nam cùng đồng hành với dân tộc cũng muốn đề cao ba ngày Tết để giúp giáo dân thánh hóa ngày Tết với ý chỉ:
• Mùng một: cầu bình an cho năm mới.
• Mùng hai: kính nhớ ông bà tổ tiên.
• Mùng ba: thánh hoá công việc làm ăn.

Hôm nay mùng hai Tết, Giáo hội muốn cho giáo dân tỏ lòng hiếu thảo đối với ông bà tổ tiên bằng cách dâng thánh lễ đặc biệt để cầu cho các ngài còn sống hay đã qua đời, tuy đã khuất nhưng còn luôn ở bên cạnh chúng ta.

II. ĐẠO HIẾU CỦA TA

1. Luật của Chúa
Hằng tuần chúng ta vẫn đọc kinh Mười điều răn Đức Chúa Trời, khi đọc đến giới răn thứ bốn, ta nhớ ngay đến nghĩa vụ phải thảo kính cha mẹ. Thảo kính cha mẹ là gì ? Thưa là phải yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và khi đã qua đời. Ta phải hiếu thảo ngay cả khi cha mẹ đã qua đời, vì tuy các ngài đã khuất nhưng vẫn còn ở bên chúng ta.

2. Chữ hiếu của người Á đông
a) Người Á đông đề cao chữ hiếu, coi như cội rễ của mọi đức. Người con bất hiếu là người con bỏ đi, và tội nặng nhất là tội “bất hiếu”.
b) Người Phật giáo cũng có một lễ riêng vào ngày rằm tháng bảy, ngày xá tội vong nhân mà ta gọi là lễ Vu lan. Ngày này, người ta có những nghi lễ đặc biết để nhớ đến ông bà tổ tiên.
c) Người ta còn có lệ “cúng cô hồn”, tặng cho các cô hồn thức ăn cho khỏi đói, một nghĩa cử cao qúi đối với những hồn cô đơn không ai nhớ tới. Bên Công giáo chúng ta gọi là cứu giúp các linh hồn mồ côi trong luyện
ngục.

3. Sự tử như sự sinh
Những người thờ cúng tổ tiên có vẻ sống gần gũi với ông bà cha mẹ đã khuất. Người ta coi “sự tử như sự sinh” (phụng dưỡng người chết cũng như người sống). Do đó, người ta khấn vái, nói chuyện với cha mẹ đã chết giống như nói chuyện với người còn sống. Họ dâng cho cha mẹ hoa quả, nén hương, thậm chí cả mâm cơm để tỏ tấm lòng thành với các ngài.

Truyện: Đôi đũa thứ năm.
Bác Năm Hớn có một vợ và hai con. Chẳng may vợ mất sớm. Một hôm bác mời cha Piô Ngô phúc Hậu đến dùng cơm với bác. Trong mâm chỉ có bốn người mà sao lại thắp những 5 đôi đũa bát. Cha Hậu ngạc nhiên hỏi: ”Bát đũa này dành cho ai” ? Bác trả lời: ”Dành cho vợ bác”. Tuy vợ bác đã khuất nhưng bác vẫn mời vợ về cùng dùng cơm.

III. Ý NGHĨA NGÀY MÙNG HAI TẾT
Giáo hội Việt nam luôn đồng hành với dân tộc, không những phải giữ lấy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn nâng cao lên, cho nó một ý nghĩa cao qúi. Vì thế, Giáo hội Việt nam muốn dùng ngày mùng hai Tết để chúng ta kính nhớ ông bà tổ tiên, vì

Người ta có cố có ông,
Như cây có cội, như sông có nguồn. (ca dao)

Không có ông bà tổ tiên thì không có ta, tất cả những cái ta có là do ông bà cha mẹ để lại. Không ai đuợc quên công ơn lớn lao đó:
Ai mà phụ nghĩa quên công,
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm (ca dao)

Truyện: Con kiện mẹ.
Tại bang New Jersey bên Hoa kỳ, một bà mẹ 78 tuổi bị đứa con trai kiện vì bà không trả tiền công cho chàng đã sửa chiếc xe vận tải của bà.

Bà đã đệ đơn tố ngược lại con mình, với đề nghị là chàng phải bị đánh đòn vì lúc chàng còn nhỏ, bà đã không áp dụng câu: ”Thương con cho roi cho vọt”.

Trả lời đơn người con trai kiện mình, bà đã viết: ”Nguyên cáo mắc nợ bị cáo 40 năm phục dịch của một người mẹ, một người giữ em, một người giúp việc nhà, một nhà tâm lý để cố vấn khuyên bảo… Tất cả những dịch vụ trên nguyên cáo đã không trả tiền công cho bị cáo”.

Bà mẹ viết tiếp: ”Như một người mẹ, nếu luật pháp cho phép, tôi sẽ công khai đánh con tôi, những roi vọt cần thiết cho nó mà tôi đã không dành cho nó lúc nó còn bé. Nếu pháp luật không cho phép mẹ đánh con, thì xin tòa hãy cử một nhân viên ngành tư pháp đánh đòn để sửa trị con tôi”.
(R.D. Warhreit, Ánh sáng hy vọng, tr 226)

Ngược lại câu truyện cười ra nước mắt trên đây, một PHONG TRÀO vô danh đã gợi ý các thành viên mình suy nghĩ về câu châm ngôn: ”Những cụ già là một hồng ân”, với những tư tưởng như sau:
Phúc cho anh chị khi hiểu rằng tay tôi đã khởi sự run rẩy và chân tôi bắt đầu yếu dần.

Phúc cho anh chị khi nhớ rằng tai tôi không còn nghe rõ như xưa và dù muốn hay không những người lớn tuổi cũng phải chấp nhận câu: ”Trẻ khôn ra, già lú lại”.

Phúc cho anh chị nếu biết rằng mắt tôi không còn sáng được như xưa.

Phúc cho anh chị nếu không giận dữ vì tôi đánh rơi một cái tách đắt tiền, khi tôi năm lần bảy lượt thuật lại cùng một câu truyện.

Phúc cho anh chị nếu anh chị biết trao cho tôi những nụ cười thông cảm, nếu anh chị hỏi tôi về quãng đời quá khứ, những kinh nghiệm của tuổi thanh xuân, nếu anh chị hiểu được những dòng nước mắt cô đơn của tôi, nếu anh chị dành cho tôi chút tình yêu thương kính trọng.

Phúc cho anh chị nếu ở lại với tôi thêm giây lát dù trời sắp tối.

Phúc cho anh chị nếu nắm lấy tay tôi khi tôi phải giã từ cõi đời để một mình đi vào bóng đêm, bóng đêm của sự chết.

Phải, phúc cho anh chị, vì khi lên thiên đàng, tôi sẽ thắp cho anh chị những vì sao.

KẾT LUẬN
Chúng ta có hiểu câu thành ngữ tha thiết và trách móc này không:
Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.
Để dễ dàng lấp đầy hố sâu chia cách hai thế hệ, giới trẻ chúng ta phải ghi nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ mà giữ trọn chữ hiếu. Đấy là bài học hữu hiệu để giữ được mãi trong xã hội chúng ta nét đặc thù mà xã hội Âu Mỹ đã đánh mất từ lâu.

Hôm nay chúng ta hãy làm hai việc khẩn thiết trong ngày kính nhớ ông bà tổ tiên

1. Sốt sắng hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho các ngài vì Thánh lễ là một phương thế hiệu nghiệm nhất chúng ta có thể kéo ơn Chúa xuống cho ông bà cha mẹ chúng ta khi các ngài còn sống cũng như đã qua đời.

2. Khơi lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với các ngài bằng những việc làm cụ thể nhất là trong những ngày Tết này. Hãy ghi nhớ lại điều răn Chúa đã dạy chúng ta trong kinh Mười điều răn: ”Thứ bốn thảo kính cha mẹ”.
Ơn ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng.(Ca dao)

Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

MỒNG BA RA MẮT
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

I. CÔNG VIỆC BA NGÀY TẾT
Người Việt nam chúng ta rất qúi trọng ba ngày Tết. Ba ngày này được coi như là linh thiêng. Mỗi ngày được phân chia cho một công việc. Công việc ba ngày Tết là:
Mùng một tết cha,
Mùng hai tết mẹ,
Mùng ba tết thầy.

Tại sao lại chia ra như vậy ? Vì muốn cho ba ngày tết có đầy đủ ý nghĩa:

Nhà cha là nhà bên nội, ngày mùng một linh thiêng nhất nên ai cũng về từ đường bên nội cúng gia tiên, viếng thăm, mừng tuổi và chúc tụng họ hàng.

Cũng vậy, ngày mùng hai, lại kéo cả nhà về bên ngoại, cố thực hiện cho bằng được ý nghĩa đoàn tụ truyền thống trong mấy ngày Tết nhất.

Ai cũng hiểu, cha mẹ là đấng sinh thành, dưỡng dục, còn việc dạy dỗ cho nên người hữu dụng chính là thầy dạy học của mình; do đó, ngày mùng Ba thì học trò đồng môn rủ nhau đi viếng thầy (dạy chữ hoặc dạy nghề). Họ mang theo lễ vật để tỏ chút lòng thành. Thầy trò làm thơ, nói chuyện văn chương hoặc trao đổi chuyện làm ăn, nghề nghiệp trong bầu khí vui tươi, bổ ích.

Do mọi việc xã giao, chúc tụng được tập trung cho kịp trong ba ngày Tết, nếu để “ra ngoài ngày” (tức từ mùng bốn trở đi) sẽ giảm mất ý nghĩa, nhất là về mặt tình cảm, tôn kính, qúi trọng, cho nên người ta cũng sắp xếp có người trực ở nhà vừa để không trống vắng lạnh lẽo, vừa cũng để tiếp khách. Do đó có qui ước truyền thống “Mùng một tết cha, mùng hai tết mẹ, mùng ba tết thầy”, nên bạn bè muốn đến vui chơi trong ba ngày Tết đều nhất thiết phải hẹn trước.
(Nguyễn hữu Thiệp, Dân ta ăn Tết, 1995, tr 135-136)

II. MÙNG BA RA MẮT
Do “Mùng Ba tết Thầy” nên ngày này cũng là ngày ra mắt Tổ sư, Tiên sư nghề nghiệp mình.

Sáng sớm ngày ấy, ai làm nghề gì thì đem đồ nghề ra khởi động nghề ấy. Khởi động lấy lệ, mang tính hình thức. Đại khái, nhà nông thì mang lưỡi hái ra quơ cắt một ôm cỏ đem về cho trâu ăn (nhưng chưa làm động thổ). Người buôn bán thì mở cửa hàng bán tượng trưng vài món lấy ngày. Thợ thầy cũng đem kéo, búa ra cắt đập ít cái để “gọi là”. Nói chung, mọi công việc đều có tính cách tượng trưng, gọi là ra mắt Tổ nghề, mong Tổ sư và Tiên sư hộ độ suốt năm làm ăn phấn phát. Tất nhiên, trong những ngày này, bàn thờ các ông Thần tài, Thổ địa và Tổ nghề đều rất tươm tất, hương đăng không tắt, hoa trái lúc nào cũng đầy ắp.

Sau lễ ra mắt, người ta lại tiếp tục ăn Tết. Nhà giầu ăn tết đến hết ngày mùng 7 hoặc hơn. Người lao động nghèo tranh thủ khai trương sớm (Sđd, tr 137-138).

III. THÁNH HÓA CÔNG VIỆC LÀM ĂN
Hội thánh Công giáo Việt nam luôn đồng hành cùng dân tộc cố gắng làm phát huy những gì tốt đẹp phù hợp với bản sắc văn hoá dân tộc. Nếu “Mùng Ba ra mắt”, các người thợ trình diện với Tổ sư ngành nghề của mình về công việc làm ăn trong năm, Hội thánh Việt nam cũng muốn dành ngày mùng ba Tết để thánh hoá công việc làm ăn. Chúng ta hãy trình lên Chúa công việc làm ăn trong năm, để xin Chúa chúc lành và ban ơn phù giúp để mọi công việc của chúng ta phù hợp với thánh ý Chúa.

Đọc chương đầu của sách Sáng thế, ta thấy Đức Chúa Trời đã dựng nên loài người “giống hình ảnh Ngài” (St 1,26). Các nhà chú giải Thánh kinh cho rằng loài người giống Thiên Chúa nhờ sự thông minh và tự do, giống Thiên Chúa ở điểm loài người có uy quyền bá chủ trên vạn vật:”Ta hãy dựng nên loài người giống hình ảnh Ta để họ làm chủ cá biển, chim trời, muôn thú vật trên đất và mọi côn trùng sống động trên địa cầu” (St 1,26).

Như vậy, theo nghĩa chung, lao động tinh thần hay vật chất đều mang ý nghĩa trọng đại: ”cộng tác vào việc sáng tạo” của Thiên Chúa. Giữa ý niệm lao động và giáo thuyết về sáng tạo có một tương liên mật thiết.

E. Krebs đã không ngần ngại tuyên bố:
”Khái niệm căn bản về giá trị tuyệt đối của tất cả hoạt động nhân sinh đã được phú ban cho loài người nhờ lòng tin vào Thiên Chúa sáng tạo, Ngài là Đấng tự do và khôn ngoan, sau khi dựng nên loài người đã nghỉ ngơi ngày thứ bảy để giao phó cho họ tiếp tục thực hiện chương trình sáng tạo của Ngài có từ đời đời”(Die wertprobleme, tr 43; theo J. Haessle, Le Travail, Paris, 1933, tr 350).

Mọi sự trên thế gian này là của Chúa, nhưng Ngài muốn cho con người quản trị, đổi mới và làm cho phong phú thêm. Chúng ta có thể nói Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất, còn chúng ta là nguyên nhân đệ nhị của vũ trụ. Ngay sự quan phòng hằng ngày của Thiên Chúa trên vạn vật cũng là một cuộc sáng tạo không ngừng. Chúng ta là nguyên nhân đệ nhị và chỉ có thể góp phần vào với nguyên nhân đệ nhất. Chính vì thế Haessle viết:
“Nguời thợ là hình ảnh đặc biệt của Thiên Chúa… sản xuất và sản xuất trong niềm vui là con người đã đem năng lực của mình ra hành dộng để thực hiện một đời sống trọn vẹn hơn và làm cho mình nên giống Thiên Chúa dầu họ có ý thức hay không. Đời sống “làm việc” tức là hành động và phản ảnh sức hoạt động tuyệt đối… Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất tuyệt đối… người thợ là nguyên nhân kết thành xét như chính họ làm cho những sự vật trở thành chính nó và hoàn hảo hơn. Con người đã truyền sức lực, tư tưởng, nhân vị mình cho chúng. Nguyên nhân tương đối là phản ảnh trung thực của nguyên nhân tuyệt đối”. (J. Haessle, Le Travail, Paris, 1933, tr 63-64)

Công đồng Vatican 2 cũng xác quyết sự làm việc là góp phần sáng tạo và hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử:

“Thực vậy, trong khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, tất cả những người nam cũng như nữ hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu đều có lý để tin rằng nhờ lao công của mình họ tiếp nối công trình của Tạo hóa, phụng sự anh em, đóng góp công lao của mình vào việc hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử” (Gaudium et Spes, bản dịch của GHHV Piô X, Đà lạt).

Nếu lao động là được cộng tác vào chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, thì đây là vinh dự lớn lao của con người, vì “nhân linh ư vạn vật”. Theo ý nghĩa đó, ta có thể kết luận mà không sợ sai lầm: ”LAO ĐỘNG LÀ VINH QUANG”.

KẾT LUẬN
Trong ngày mùng Ba Tết hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được biết thánh hoá công việc làm ăn của chúng ta, đặc biệt trong thánh lễ này.

Trước hết, như bài Tin mừng thánh lễ hôm nay, ta hãy cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta những nén bạc cơ bản làm vốn: sự sống, sức khỏe, trí khôn, thiên hướng, những kinh nghiệm của cộng đồng, tri thức của người đi trước, những nhu cầu phát triển của thời đại…

Sau đó, xin Chúa ban ơn nâng đỡ tinh thần và nghị lực để chu toàn mọi trách nhiệm liên quan đến công việc.

Đồng thời cũng xin luôn ý thức công việc làm ăn của bản thân và của mọi người là thước đo về công bằng và phát triển của xã hội. Ai cũng có quyền được làm việc và quyền được chuẩn bị chu đáo để có việc làm phù hợp với nguyện vọng và khả năng.

Như vậy, khi nguyện ước công ăn việc làm của mình được Thiên Chúa thánh hoá, người Kitô hữu đang khao khát diễn tả, qua thực tiễn lao động của bản thân, hình ảnh một Thiên Chúa hoạt-động-không-ngừng và đã trao cho loài người quyền được làm giầu đẹp thêm cho cuộc sống.

Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

TẤT NIÊN: CẢM TẠ TRI ÂN
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

Ngồi tính sổ cuối năm, ai cũng có những cảm nghĩ, suy tư về cuộc đời mình. 365 ngày là mấy nhỉ, 3.600 cũng chẳng là bao ! Tuy nhiên, ai cũng hiểu rằng mình còn sống được ở trần gian này là do một sức mạnh thiêng liêng đã nâng đỡ, đã thúc đẩy mình sống và còn sống cho tới giây phút này. Sức mạnh linh thiêng ấy là Thiên Chúa, Đấng dựng nên đất trời, Đấng tác tạo con người. Do đó, ngày cuối năm là ngày mọi người chúng ta phải nói lên lời cảm tạ tri ân Thiên Chúa như thánh Phaolô đã viết :” Đàn hát lên ! Nhờ Thánh Thần linh hứng, trót tâm tình, dâng Thiên Chúa là Cha. Luôn cảm tạ Người nhân danh Thánh Tử, vì Người ban muôn phúc lộc chan hòa “.

Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta hiểu được thế nào là ca tụng, thế nào là cảm tạ, thế nào là cám ơn. Ngôn sứ Isaia đã không ngại cất lên :” Tôi xin dâng lời ca tụng, vì lòng nhân hậu lớn lao của Người “. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corintô 1,3-9 đã viết :” Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô Giêsu “. Thánh vịnh đáp ca thánh lễ tất niên cũng nói lên những kỳ công, những hồng ân mà chỉ mình Chúa mới ban cho nhân loại, ban cho con người :” Hãy cảm tạ Chúa vì Chúa nhân từ. Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương “. Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô I, Đức Giáo Hoàng được mệnh danh là Đức Giáo Hoàng luôn nở nụ cười, đã kể một câu chuyện thật dí dỏm về sự vất vả, công lao và hy sinh của bà vợ trong gia đình nhưng không ai hiểu dù là chồng, là con và không ai biết động viên, cám ơn, khen ngợi. Thế là một bữa kia, chồng con đi chơi về họ chỉ nhận được một bàn được bầy biện toàn cỏ khô thay vì các món ăn…Và như thế, họ mới nhận ra lỗi tại mình đã không hiểu biết gì về lòng yêu thương bao la của người vợ hiền, từ lúc đó họ động viên nhau, giúp nhau, biết nói lời cám ơn và gia đình bỗng trở nên hạnh phúc…

Tin mừng của thánh Luca 1, 39-55 đã cho thấy lời kinh Magnificat chan hòa như thế nào. Trước hồng ân hết sức lớn lao, trước ơn huệ vô biên của Thiên Chúa, Mẹ Maria chỉ biết thốt lên lời ca tụng tri ân :” Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn “ ( Lc 1, 49 ). Mẹ Maria chỉ biết nói lên tâm tình của mình, nói lên cõi lòng của mình, nói lên tất cả con người và cuộc đời của mình trước tình thương cao cả, vô biên của Thiên Chúa :” Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi “. Lời tiền tụng chung IV nói lên một sự thực hiển nhiên :” Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho cha nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời nhờ Đức Kitô, Chúa chúng tôi “.

Cảm tạ Chúa bởi biết bao ơn lành Ngài đã đổ xuống trên chúng ta, trên gia đình, trên bản thân, trên Giáo Hội và trên cả thế giới này. Thánh vịnh 115, 12-13 đã viết:” Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Đức Chúa“.

Chính Chúa Giêsu trong cả cuộc đời tại thế của Ngài, dù làm việc gì, dù nói lời gì : công bố Lời Chúa, làm phép lạ,chữa bệnh, xua trừ ma quỷ, Chúa luôn luôn cảm tạ Chúa Cha. Lần làm cho cá và bánh hóa nên nhiều nuôi hơn 5.000 người ăn, không kể đàn bà con nít, Chúa đã ngước mắt lên trời tạ ơn thiên Chúa là Cha của Ngài, rồi truyền cho các môn đệ phân phát bánh và cá cho dân chúng đang đói được ăn no nê. Khi lập Phép Thánh Thể, Chúa cũng tạ ơn Thiên Chúa Cha và truyền cho các môn đệ hãy làm việc này mà nhớ đến Ngài…

Ngay trong ca nhập lễ của thánh lễ tất niên, chúng ta cũng đọc thấy :” Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong suốt cả năm nay, Chúa đã thương ban phù trợ cho hồn xác chúng con an toàn. Giờ đây năm cũ sắp qua, chúng con cùng họp nhau dâng lên Chúa lời cảm tạ tri ân, và xin Chúa thứ tha tội lỗi, để chúng con được thư thái bình an trước thềm năm mới “. Và trong lời nguyện hiệp lễ, Giáo Hội cũng giúp chúng ta hiểu :” Lạy Chúa, trong thánh lễ tất niên này, Chúa đã cho chúng con được no thỏa nhờ Lời Chúa và Bánh Thánh. Xin cho chúng con được đầy lòng tin yêu, để sang năm mới, chúng con thêm phấn khởi sẵn sàng phục vụ Chúa và tất cả mọi người”.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ tri ân vì muôn hồng ân Chúa đã tuôn đổ trên chúng con, xin Chúa tiếp tục củng cố lòng tin của chúng con để chúng con sẵn sàng giới thiệu Chúa cho những người khác. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

GIAO THỪA: BÀN GIAO MỚI VÀ CŨ
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

Thánh lễ Giao Thứa, Cầu Bình An Cho Năm Mới là giây phút rất quan trọng của mọi người. Bởi vì trong thánh lễ này, Vị chủ tế và mọi người giáo dân hiện diện dâng lên Chúa lời cảm tạ tri ân vì muôn vàn hồng ân Ngài đã ban cho mọi người, mọi gia đình, giáo họ, giáo xứ trong suốt một năm qua. Giây phút mà linh mục Chủ tế dâng lên Chúa trong thánh lễ giao thừa là giây phút linh thiêng, huyền nhiệm. Giây phút năm cũ sắp sửa bàn giao cho năm mới. Những ngày cũ sắp sửa bị đẩy lui vào dĩ vãng để cho những ngày mới linh thiêng có mặt.

Quả thực, mọi người có mặt trong thánh lễ đêm giao thừa đều cảm nghiệm sâu xa lời Thánh vịnh:” Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion “ ( Tv 133, 3 ). Lời nguyện của ca nhập lễ thúc giục mỗi người hãy hướng về Thiên Chúa, Đấng là Alpha và Ô Mêga, Đấng là Nguyên thủy và là Cùng đích :” Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh danh thánh “. Ông Môsê đã nói với Aaron và các con ông Aaron rằng :” Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em ! “. Còn thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Thêxalônica thì viết :” Hãy cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh “. Thánh vịnh đáp ca lại nói :” Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời “. Những lời Kinh Thánh muốn nhắc nhớ chúng ta Thiên Chúa là Đấng ban ơn giáng phúc, không có Ngài không có ơn huệ và tình thương. Do đó, thánh lễ giao thừa là thánh lễ tạ ơn, thánh lễ đón chào những khoảnh khắc mới.Mỗi khoảnh khắc của cuộc sống chúng ta theo như Đức Cố Hồng y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận là khoảnh khắc đầu tiên, khoảnh khắc cuối cùng, khoảnh khắc duy nhất. Và Ngài dùng lời của Thánh nữ Faustina Kowalska để nói :” Nếu con nhìn tương lai, thì lo sợ sẽ xâm chiếm lòng con, Nhưng tại sao lại dấn bước vào tương lai ? Chỉ có hiện tại là thiết thân với con. Bởi vì tương lai có lẽ sẽ không ở lại trong linh hồn con. Thời gian quá khứ không nằm trong quyền lực của con. Để thay đổi, sửa chữa hay thêm điều gì vào. Vì điều này các nhà thông thái, các ngôn sứ cũng không thể làm được. Chúng ta hãy tín thác cho Thiên Chúa những gì thuộc về quá khứ. Ôi phút hiện tại, ngươi hoàn toàn tùy thuộc nơi ta. Ta ước muốn sử dụng ngươi trong quyền hạn của ta…Vì thế, con tín thác nơi Lòng Nhân Từ Chúa. Con tiến bước trong đời như một trẻ em.Và mỗi ngày con dâng cho Chúa trái tim con nồng cháy tình yêu để danh Chúa được cao cả hơn “. Đúng giây phút linh thiêng, huyền nhiệm là giây phút hiện tại của một năm mới, giây phút mới nhất của một năm mới tới.Bởi vậy, giây phút tạ ơn trong thánh lễ giao thừa là giây phút trời đất giao hòa, giây phút chứa chan ân lộc. Giây phút giao thừa là giây phút mở ra cho những ngày mới, giây phút giúp con người hy vọng, cậy trông và tín thác nơi Chúa vì tất cả đều là bởi Chúa, tất cả đều là hồng ân.

Thánh lễ giao thừa đưa chúng ta vào lời Kinh tiền tụng để muôn đời là lời cảm tạ tri ân :” Lạy Cha chí Thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con. Trong Cha chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên cõi đời này, chẳng những chúng con hằng nghiệm thấy hiệu quả tình thương của Cha, mà còn nhận bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết ; do đó, chúng con hy vọng, muôn đời được sống lại từ cõi chết “. Giây phút giao thừa, đặc biệt trong giây phút con người được rước Mình Máu Chúa là giây phút thánh thiêng, giây phút Thiên Chúa gặp gỡ con người và ngược lại con người kết hợp với Chúa vì Thiên Chúa là Tình Yêu, là Mùa Xuân vĩnh cửu.

Lạy Chúa Giêsu, trong giây phút giao thừa linh thiêng đêm nay, xin củng cố đức tin cho chúng con, để chúng con luôn nhìn ra tình thương tuyệt vời của Chúa và để chúng con nhận ra những giây phút mở đầu của ngày mới là giây phút quý hóa nhất cho một năm mới tốt đẹp và trong lành. Amen .

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

MỒNG MỘT: BÌNH AN NĂM MỚI
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

Bình an mà các Thiên thần hát vang trên không trung ngày Chúa Giáng sinh vẫn là sự bình an con người thành tâm thiên chí đang cầu mong, khẩn nguyện cho Quê hương, cho Gia đình, cho Giáo xứ, cho Giáo Hội, cho xã hội. Ngày đầu năm mới giây phút thiêng liêng của đêm giao thừa nhường cho những giây phút, những khoảnh khắc đầu tiên của ngày mồng một huyền diệu. linh thiêng. Những giây phút con người mừng tuổi Chúa, chúc tuổi nhau, những giờ phút đầu tiên của ngày mới mồng một con người gặp nhau chúc nhau an bình, thịnh vượng, sức khỏe và may mắn.

Ngày đầu xuân mới, ngày mồng một tết là ngày thiêng liêng của ngày đầu năm.Ngay trong ca nhập lễ chúng ta đã đọc thấy : “ Nguyện Chúa trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài “. Đáp ca vạch cho chúng ta một hướng đi rõ rệt :” Hãy ký thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay “. Sự bình an mà mọi người, mọi nhà tin tưởng, cầu xin và cậy trông là sự an bình đích thực xưa các thiên thần đã công bố cho những người có lòng thành tâm. Sự bình an ấy, ngày hôm nay nhân loại và mọi người vẫn đang tìm kiếm. Vật chất cần thiết thật, nhưng tất cả đều do tay Chúa. Con chim sẻ, hoa huệ ngoài đồng, sợi tóc trên đầu cũng không nằm ngoài bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Thánh vịnh 36 vẫn vang lên :” Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh, công lý bạn, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ “ hoặc “ Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng “. Lời Chúa trong Tin Mừng của thánh Matthêu 6, 25-34 dạy con người hãy luôn tín thác nơi Chúa. Tất cả đều là hồng ân. Tất cả đều do Chúa. Đừng bám chặt lấy của cải cách thái quá. Đừng coi của cải, vật chất là cùng đích đời mình. Điều căn bản và chính yếu là tìm kiếm Nước Thiên Chúa.

Thánh Phaolô viết cho Giáo đoàn Philipphê :” Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại : vui lên anh em ! “, đồng thời Ngài còn khuyên nhủ :” Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giải bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu “. Chúa vạch ra cho chúng ta con đường phải đi: Con đường phó thác. Tin tưởng, cậy trông, phó thác vào Chúa, mọi sự sẽ tốt đẹp, hanh thông. Bởi vì Kinh tiền tụng cho thấy :” Cha đã sáng tạo mọi loài trong vũ trụ và sắp đặt cho thời tiết bốn mùa thay đổi nối tiếp nhau. Riêng con người, Cha đã tác tạo nên giống hình ảnh Cha và cho điều khiển mọi công trình kỳ diệu trong hoàn cầu vũ trụ để họ thay quyền Cha làm chủ mọi loài, và khi chiêm ngưỡng những kỳ công Cha đã thực hiện, họ hát mừng ca tụng Cha luôn mãi, nhờ Đức Kitô Chúa chúng con”. Đúng Chúa dặn dò và dạy bảo chúng ta hãy tin tưởng, tín thác nơi Ngài vì :” Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế “.

Tin vào Lời Chúa và tin sự hiện diện của Chúa ở với con người luôn mãi nên “ Chúa đã trao cho loài người chúng con trách nhiệm trông coi vũ trụ. Nay chúng con hoan hỷ dâng lên Chúa những lễ vật đầu xuân, chọn lựa trong tinh hoa của ruộng vườn. Xin cho chúng con không ngừng cảm tạ tri ân, và chu toàn làm chủ trái đất “. Người Pháp có câu rất ấn tượng :” Aide-toi et Dieu t’aidera “ ( hãy tự giúp ta rồi Thiên Chúa sẽ giúp ta ). L’ Homme propose et Dieu dispose ( con người ra kế hoạch nhưng Chúa mới là người định đoạt ).

Vâng, chúng ta hãy ký thác đường đời cho Chúa. Chúa, Chúa chính Chúa Ngài sẽ ra tay. Năm mới chúng ta cầu chúc cho nhau luôn sống tin tưởng, tin yêu và phó thác. Chúng ta chúc cho nhau luôn được sống an bình, sự bình an đích thực Chúa đã hứa ban cho những ai thành tâm thiện chí.

Lạy Chúa Giêsu, ngày lại ngày, chúng con ca ngợi Chúa, mãi ngàn năm, xin chúc tụng danh Ngài. Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

MỒNG HAI: THẢO KÍNH CHA MẸ
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

Ngay trong thập giới, điều răn thứ 4 viết : “ Hãy thảo kính cha mẹ “. Thảo kính cha mẹ được đặt trong mười giới răn của Chúa, cho chúng ta thấy ý nghĩa cao vời và quan trọng của nó.Mỗi dân tộc cũng đều có đạo lý uống nước nhớ nguồn, nhớ về nguồn cội, nhớ tới tổ tiên, ông bà cha mẹ vv…Hôm nay, ngày mồng hai tết, Giáo Hội dành riêng ngày này để kính nhớ Tổ tiên và Ông bà Cha mẹ. Quả thực Giáo Hội đã luôn động viên, khuyến khích mọi người hãy luôn có tấm lòng nhớ tới và cầu nguyện cho những Bậc sinh thành đã sinh ra và dưỡng dục chúng ta…

Mười giới răn của Chúa là mười điều dạy dỗ, hướng dẫn con người đi theo con đường tốt lành mà Thiên Chúa đã vạch ra cho moi người bước đi. Qua bàn tay của Môsê, bia đá và mười giới răn đã được tới tay mọi người. Bởi vì, từ núi Sinai, Thiên Chúa đã trao bia đá viết mười giới luật tận tay ông Môsê để rồi Môsê xuống núi truyền đạt cho Dân Chúa. Mười giới răn Chúa truyền là những nấc thang để giúp con người nên thánh. Và ngay từ thời tạo thiên lập địa việc hiếu thảo, tôn kính các bậc sinh thành luôn luôn được con người trân trọng, giữ gìn cách kính cẩn. Giáo Hội Chúa Kitô ở muôn thời luôn dạy dỗ con cái phải kính Chúa và yêu mến cha mẹ. Đoạn Tin mừng của thánh Matthêu 15, 1-6 cho chúng ta thấy rõ quan niệm trái ngược của các Kinh sư, Biệt phái và Chúa Giêsu. Chúa Giêsu dạy con người phải thảo kính cha mẹ không chỉ dừng ở của cải vật chất mau qua, nhưng phải hiếu thảo bằng cả tấm lòng yêu thương, tôn kính, mến yêu đến nỗi ai nguyền rủa cha mẹ tức là đụng đến nhân phẩm, đụng đến quyền làm người của cha mẹ, thì phải bị xử tử. Sách Cách ngôn viết :”Con ơi giữ lấy lời Cha, chớ quên lời Mẹ, nhớ mà ghi tâm. Đèn soi trong chốn tối tăm, ấy là chính những lời răn, lệnh truyền. Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi công đức một niềm tri ân“(Cn 6,20.23abc) và Sách Khải huyền 14, 13 cũng viết :” Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả, giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi. Vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi “. Sách Đức Huấn ca 44,1.10-15 nhắc nhở các thế hệ :” Chúng ta hãy ca tụng các bậc cha ông của chúng ta đã sống qua các thời đại “. Thánh vịnh 127 dùng làm đáp ca lễ hôm nay cho thấy :” Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người “. Tất cả những lời Kinh Thánh đều nhắm hướng dẫn chúng ta hãy tôn kính tổ tiên, ông bà cha mẹ vì các Đấng đã có công sinh thành, dưỡng dục chúng ta. Thánh Phaolô trong thư gửi Giáo đoàn Êphêsô 6.1-4.18-23 nhắn nhủ :” Hãy tôn kính cha mẹ, để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất “. Kinh tiền tụng lại viết những câu rất thấm thiết như sau :” Quả vậy, khi ngắm xem muôn loài trong vũ trụ, tự nhiên chúng con thấy vạn sự đều có cội rễ căn nguyên. Chim có tổ, nước có nguồn, con người sinh ra có cha có mẹ. Nhưng phải nhờ ơn Cha mạc khải, chúng con mới nhận biết Cha là nguyên lý sáng tạo muôn loài, là Cha chung của tất cả chúng con. Cha đã ban sự sống cho tổ tiên và ông bà cha mẹ chúng con, để các ngài truyền lại cho con cháu. Cha cũng đã ban cho các ngài ân huệ dư đầy để chúng con được thừa hưởng mà nhận biết, tôn thờ và phụng sự Cha“.

Tổ tiên, ông bà, cha mẹ là những Đấng bậc đã sinh ra chúng ta. Các ngài đã tuân hành lệnh Chúa mà tạo dựng gia đình và noi gương gia đình Thánh Gia, các ngài đã luôn hết mực trung thành, yêu thương, nuôi dưỡng con cái, cháu chắt theo ý của Chúa để góp phần bảo vệ vũ trụ và làm sáng danh Chúa trong đời sống con người. Nay, tổ tiên, ông bà cha mẹ kẻ còn sống, người đã qua đời, bổn phận của con cái cháu chắt là nuôi dưỡng, thăm hỏi, giúp đỡ ông bà cha mẹ khi các ngài còn sống và lúc các ngài qua đời, con cái cháu chắt phải tỏ lòng hiếu thảo, tôn kính bằng cách xin lễ, làm việc bác ái và cầu nguyện cho các ngài.

Lạy Chúa, nhân dịp đầu năm mới, chúng con đã được dự tiệc Mình và Máu Đức Kitô. Chớ gì nguồn sinh lực thần linh này giúp chúng con ngày nay sống sao cho tròn chữ hiếu đối với tổ tiên và ông bà cha mẹ để mai sau được cùng các ngài vui hưởng phúc trường sinh. Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

MỒNG BA: CHÚA CŨNG LÀM VIỆC
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

Người ta cứ tưởng đã là Chúa thì chẳng cần phải làm việc, tự nhiên, hằng ngày Ngài cứ làm phép lạ là đã có của ăn. Không Chúa Giêsu khi xuống thế gian đã làm việc không ngừng, Ngài lao động để nâng cao giá trị của công ăn việc làm. Chúa Cha làm việc, Chúa Con cũng làm việc không ngừng. Ngày mồng ba tết mỗi năm, Giáo Hội dành riêng một ngày để mọi người nhớ tới Chúa, bởi vì làm bởi chúng ta mà ban cho lại do Thiên Chúa. Giáo Hội luôn mời gọi chúng ta hãy noi gương bắt chước Chúa, Ngài đã miệt mài tạo dựng vũ trụ, tạo nên con người suốt trong sáu ngày, và Ngài chỉ dành ngày thứ bảy để ca tụng Thiên Chúa Cha và nghỉ ngơi, dưỡng sức và cầu nguyện. Giáo Hội cũng khích lệ chúng ta hãy xem gương lao động của cả gia đình Nagiarét để noi gương bắt chước. Thánh Phaolô nói một câu chí lý, để đời, dạy chúng ta và mọi người phải lao động :” Không làm thì đừng có ăn “.

Thật là chí tình, chí lý khi ca nhập lễ viết :” Bao lâu trái đất này còn, còn gieo còn gặt, còn vun còn trồng ; bốn mùa xuân hạ thu đông, ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên “ ( St 8, 22 ) và Thánh vịnh 64, 2 cũng viết :” Bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi “. Qui chiếu ba bài đọc Thánh lễ thánh hóa công ăn việc làm, Giáo Hội cho thấy Lời Chúa xoay quanh việc lao động. Cả ba bài đọc đều nêu cao giá trị của công ăn việc làm, của sự lao động sản xuất. Bài đọc I, đoạn sách Sáng thế cho thấy Chúa dạy con người phải trồng trọt nghĩa là làm việc để tạo ra lương thực. Thiên Chúa luôn muốn con người góp tay cai quản vũ trụ và tô đẹp vũ trụ, công trình của Chúa theo ý của Thiên Chúa. Bài Tin Mừng Mt 25, 14-30 là một bài học lớn về sự lao động, con người sẽ không có lợi nhuận nếu làm biếng không chịu đầu tư kiếm lời như người nhận một nén bạc mà đem chôn cất…Lao động đòi hỏi sự cố gắng và óc sáng tạo, bởi không thể có thành công mà không phải đổ mồ hôi, không phải cố gắng vv…Mọi người, mọi dân tộc đều phải lao động, đều phải làm việc mới có của ăn của để. Việt Nam chúng ta cũng có câu ca dao tục ngữ chí lý: ”Giầu đâu đến kẻ ngủ trưa. Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày“. Lao động theo ngôn ngữ nhà đạo là góp tay xây dựng thế giới do Chúa tạo thành. Chính Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: ”Cha Ta hằng làm việc thì Ta cũng làm việc“. Lao động theo cái nhìn Kitô giáo là bài ca tình yêu, là lời cảm tạ tri ân không ngừng bởi Thiên Chúa không ngừng sáng tạo và Chúa Giêsu cũng đã lao động liên lỉ, làm việc không ngơi nghỉ như Thánh Kinh đã tường thuật.

Đức Kitô khi sống với Cha mẹ của Ngài 30 năm ở làng quê Nazarét, Ngài đã cùng Cha mẹ là thánh Giuse và mẹ Maria làm việc không ngừng. Ngài đã làm cho việc làm có giá trị cao cả như thánh Phaolô đã từng viết :” Anh em không làm việc thì đừng có ăn “. Con Thiên Chúa làm người cũng đã nêu gương lao động cho mọi người, do đó, con người thế hệ này qua thế hệ khác vẫn luôn phải làm việc, luôn phải lao động để góp phần xây dựng thế giới, tô đẹp thế giới do Chúa sáng tạo. Kinh tiền tụng thánh lễ thánh hóa công ăn việc làm nói rất rõ :” Chính Cha đã tạo dựng con người giống hình ảnh Cha, và giao trách nhiệm trông coi trái đất. Cha còn sai Con Một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao động và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người mà còn để làm rạng Danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại trần thế “.

Ngày mồng ba tết, dâng thánh lễ xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm để mọi người rằng :” Không Thầy các con không thể làm gì được “ và để mọi Kitô hữu xác tín :” Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế “. Con người có nhiều dự phóng, có nhiều chương trình, có nhiều việc làm nhưng nếu Chúa không ban trí khôn, sức khỏe thì dù con người có cố gắng mấy cũng không thành công. Con người theo kế hoạch của Chúa luôn phải làm việc để tạo ra của cải, nhưng làm ra của cải vật chất mà biết chia sẻ bố thí cho những người túng thiếu, nghèo nàn, bất hạnh, của cải sẽ mang ý nghĩa cao vời, ý nghĩa cứu rỗi.

Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần Kitô giáo , để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa. Amen. (Lời nguyện nhập lễ thánh lễ thánh hóa công ăn việc làm).

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

RỘN RÀNG TẾT
Pm. Cao Huy Hoàng

Chỉ còn có mấy ngày nữa là đến Tết. Rộn Ràng Tết. Rộn Ràng Xuân. Những rộn ràng đã bắt đầu xôn xao từ đầu tháng chạp, và nóng dần lên, rồi cuối cùng là nóng cực độ trong những ngày giáp Tết.

Tết, như một cái mốc thời gian, như một điểm hẹn, như một thời hạn.. mà trước đó, người ta phải rộn ràng tổng kết, rộn ràng thanh thỏa, rộn ràng vay trả trả vay, rộn ràng tân trang, rộn ràng sum họp, rộn ràng lễ bái… cũng không quên những rộn ràng của toan tính gian tà ma thuật cho chìm xuồng những thất thoát công, tư…
Các tín hữu công giáo cũng không tránh khỏi những rộn ràng ấy trong chuyện đời thường.

Ở chỗ tôi sống, đa số là người nghèo khổ, nên rộn ràng nhất vẫn luôn là rộn ràng nợ nần, rộn ràng vay trả! Chị L bán bánh canh mượn đầu heo nấu cháo, vay nóng 2 triệu lãi 10 phân. Sáu tháng chưa tính lãi, vì được đồng lãi nào cũng phải gửi vào Sài gòn cho con kịp đóng tiền nhà trọ hằng tháng, tiền ăn học… Bà chủ nợ làm hung dữ, chị đành khóc lóc đưa cái sổ đỏ nhà mình.

Ông T bệnh nuôi vợ bệnh triền miên mượn bà V một chỉ vàng từ hồi giá vàng còn chưa tới hai triệu một chỉ. Cuối năm, bà V tổng kết lại còn bao nhiêu lượng trong cái kho tàng của mình. Ngày nào bà cũng tới thăm ông bà T bệnh. Những giọt nước mắt lăn dài của bà T trên giường bệnh…

Năm ngoái tôi còn được chứng kiến cảnh rùng rợn hơn: vợ chồng anh H làm mướn cả năm, chẳng may, chị bị tai nạn, một mình anh cáng đáng nuôi vợ nằm một chỗ và hai con nhỏ. Anh nợ chị L chỉ 200 ngàn đồng thôi. 28 tết, Chị L đến hỏi tiền, không có, xiết luôn thùng mì tôm với túi gạo mười ký mà Cha sở và Giáo xứ mới cho người nghèo ăn tết: “đủ rồi nhé!”, ngoắt cái, ra về.

Ai cũng phải làm cho có kinh tế để nuôi sống gia đình, nên cũng phải tổng kết thu chi vốn lời thắng thua được mất, là chuyện thường. Nhưng có phải chỉ người nghèo là đau khổ đâu. Người giàu cũng có khi tan tác.

Nửa đầu năm công ty cô Đ thắng 2 tỷ buôn bán Thanh Long sang Trung Quốc, chỉ sau một cơn bệnh, nửa cuối năm cô lại thua 4 tỷ, và hiện cô còn mắc nợ của những người buôn nhỏ, từ người đôi ba chục triệu đến người đôi ba trăm triệu. Nhìn cái công ty cuối năm của cô mà phát rầu… đôi ba chục người đang đòi nợ. Khi thịnh vượng thì “cô cô chủ chủ”, lúc suy vong thì “cái mặt con mẹ đó đoản hậu” mới ghê!

Chuyện lớn của những người làm kinh tế to sinh ra chuyện rộn ràng đau to. Còn chuyện nợ nần tưởng nho nhỏ, nhưng cũng rộn ràng đau nhói trong lòng biết bao người nghèo. Mà nhất là người bệnh.

Ông H thất nghiệp cả hơn 2 năm nay, vì tim ông có vấn đề. Sau lần cấp cứu vì nhồi máu cơ tim, ông đang ở giai đoạn chuẩn bị mổ tim, nông vành, ngày nào cũng phải chiến đấu với nỗi buồn của nhịp thở lúc được lúc mất. Những ngày cuối năm ông còn phải đối diện với ít là ba chủ nợ với số tiền chưa đến 20 triệu trong khi cảnh nhà trống hươ trống hoác từ trước ra sau, chẳng thấy gì là tết! Đã mấy lần ông tự làm nghi thức cấp cứu!

Ngược đời, trong khi những người nghèo ngay ngáy lo thanh thỏa những món nợ nần, thì những người có của ăn của để lại rộn ràng chuyện tân trang: tân trang nhà cửa, tân trang xe cộ, tân trang y phục, tân trang lỗ mũi, con mắt, tân trang cả người, tân trang luôn cả cái quan hệ xã hội: mời mấy ông cán bộ, mấy nhà giàu có tất niên ở nhà mình cho rôm rả, cho khí thế, cho có cảnh Đại Lai trọng vọng…

Có những chuyện đáng tân trang cho nó mới mẻ, đàng hoàng, nhưng cũng không thiếu những chuyện tân trang lãng phí. Lãng phí thật chứ không phải vì người nghèo thấy lãng phí.
Chuyện rộn ràng tân trang, kéo theo rộn ràng chuyện sum họp lễ bái cho tưng bừng cho hoành tráng. Phải chuẩn bị cho sẵn vài chai rượu ngoại, năm bảy thùng bia Heneiken, sẵn vài ký mực khô, năm bảy con mực một nắng, để còn bạn bè của bố, bạn bè của con, bạn bè của Mẹ nữa sum họp cho ra trống ra trò. Rộn ràng sum họp cái tết chỉ đôi ba chục triệu, trăm triệu, thôi mà!

Trong khi, có những chuyện rộn ràng sum họp ở những nhà nghèo thật đáng trân trọng. Chị N nuôi được năm bảy con gà, dẫu có túng tiền tiêu tết cũng không dám bán, quyết để dành cho mấy đứa con học ở Sài Gòn về ăn một cái Tết đơn sơ với Mẹ: Gà Mẹ nuôi lúc nào cũng ngon hơn gà mua ngoài chợ, rau Mẹ trồng thơm nồng hơn bởi được tưới tắm bằng những giọt mồ hôi, bánh tét mẹ gói thoang thoảng hương lạ lùng, hương yêu từ lòng Mẹ, bánh in mẹ làm in cả hình dáng Mẹ gầy còm tiều tụy , in cả bóng trăng mờ le lói. Biết vậy, nên Mẹ chắt chiu. Biết vậy nên Mẹ thắt lưng buột bụng để không nhất thiết phải sắm sửa tân trang gì thêm mà hoang lãng. Ra giêng ra hai còn phải lo chuyện học phí đầu năm cho các con!
Còn bao nhiêu chuyện rộn ràng khác….rộn ràng tính chuyện du xuân, người rộn ràng thử tài thử vận, người rộn ràng chờ cơ hội đánh lận con đen có thêm lợi nhuận mới.

Quả thật, trước một thềm Xuân, có quá nhiều chuyện rộn ràng cho một cái Tết, đã cuốn hút người tín hữu của Chúa vào dòng xoáy của một trào lưu duy vật chất, khiến cho mảng sống tâm linh con người ta nghẹt thở, nếu không nói là đã tắt thở trong một vài trường hợp tuyệt vọng.

Nếu đã quá chú tâm đến việc thanh thỏa nợ nần và đôi khi phải quì, phải lạy chủ nợ để xin khất nợ, thì sao không có một phút lắng lòng trước mặt Thiên Chúa rằng con đã vung tay tiêu xài của Chúa bao nhiêu hồng ân miễn phí. Con đã xử bất công với Chúa biết dường nào! Chúa không đòi nợ con sao? Vì Chúa không cho mượn, không cho vay, nhưng đã ban tặng tất cả.

Sao không tính đến chuyện rộn ràng Tạ ơn Chúa, vì những hồng ân năm qua, và rộn ràng tạ lỗi với Chúa vì những ơ hờ thiếu sót. Tôi còn nhớ, có một thánh lễ tạ ơn cuối năm ở Giáo Xứ tôi, mà cha cố Phêrô tỏ ra buồn sầu đến nóng giận. Vài chục người đi lễ. Thưa thớt, trể tràng. Trong bài giảng Ngài nói: “Sao có ít người đến tạ ơn Chúa quá vậy? Những chuyện rộn ràng đón tết quan trọng như vậy sao? Nếu không còn sống đến ngày cuối năm thì ai lo tết?” Sáng mùng một tết, thánh lễ minh niên quá đông. Vào thánh lễ, Cha cố Phêrô kêu gọi: “Năm nào, anh chị em đi lễ minh niên cũng rất đông, chắc chắn là để dâng năm mới cho Chúa, để xin ơn Chúa. Nhưng lễ tạ ơn cuối năm có mấy chục người. Xin mọi người hãy tạ lỗi vô ơn với Chúa”…

Phải nhờ con mắt Đức Tin mới nhìn thấy được những ơn lành Chúa ban trong cảnh nghèo khổ, trong khi túng thiếu, trong lúc bệnh tật. Trong khi chúng ta vẫn dùng con mắt duy vật để thẩm định ơn Chúa thì vừa mất lòng Chúa vừa mất ơn ích thiêng liêng.

Cũng phải nhìn lại tội đỗ thừa cho Chúa những tai họa, mà không nhận ra lầm lỗi do chính mình: Chúa ban tặng sức khỏe quí hơn vàng, còn con, làm tiêu hao sức khỏe không thương tiếc. Những cuộc vui say mèm làm mất trí, mất nhân cách, mất thời gian, mất công việc. Những cơn nghiện hút chích dày vò thân thể đến tàn tạ. Những cuộc vui chơi vô bổ lây nhiễm bao hiểm họa tận diệt chính cuộc đời mình. Những thương tật và cái chết lãng xẹt vì những cuộc đua xe cho thỏa chí anh hùng một thoáng. Những chán nản thất vọng không tìm được lối thoát chính đáng để có niềm cậy trông, tự làm cho xác thân tiều tụy đến bạc nhược. Thân xác không còn là đền thờ để Chúa Thánh Thần ngự trị, mà là một bãi hỗn độn những rác rưởi nhớp nhơ.

Tưởng phải rộn ràng chuyện khất nợ với Thiên Chúa vì những hồng ân đã không sinh lãi sinh lời mà còn hao hụt thạm tệ. Phải rộn ràng chuyện lắng lòng một chút cuối năm để thấy một năm qua đi đầy những hững hờ, đầy những vô tình đối với một Ân Nhân không tận tay trao tiền trao bạc trao vàng, nhưng trao ban ân sủng thiêng liêng, sức khỏe, ý chí, nghị lực và cả những cơ hội thuận tiện để thăng tiến đời sông cá nhân và gia đình.

Chỉ còn mấy ngày nữa để rộn ràng…đón tết.
Xin cho chúng con rộn ràng niềm vui tạ ơn, vì có Chúa luôn đồng hành với chúng con trong năm qua. Chúa biết tất cả khi con đứng, lúc con ngồi.. Chúa biết cả trong tâm tư… Và Chúa vẫn can thiệp vào đời sống chúng con bằng cách yêu thương khôn ngoan của Chúa.

Xin cho chúng con biết rộn ràng tạ lỗi với Chúa. Tội lớn nhất của chúng con là loại trừ Chúa ra khỏi cuộc sống chúng con. Tâm hồn, thân xác và tâm trí của chúng con không chấp nhận để Chúa ngự trị.

Và xin cho chúng con biết rộn ràng một quyết tâm mời Chúa vào lòng, mời Chúa đến nhà, và giữ Chúa ở lại với cuộc đời chúng con trong năm mới này.
A men.

Pm. Cao Huy Hoàng

CHO NHAU MỘT MÙA XUÂN
Pm. Cao Huy Hoàng

Mùa xuân đến.
Mỗi người đang nhận được thật nhiều hồng ân.

Hồng ân không đếm được như tiền lì xì năm mới, hay nhìn thấy được như những trang phục mới, trang sức mới nhưng có thể cảm nghiệm được chỉ trong một phút lắng lòng nghe mùa xuân đang nói, mùa xuân đang hát, mùa xuân đang rạo rực trong lòng.

Ai cũng đã có hơn một lần nhầm lẫn tiếng xuân nói, tiếng xuân hát với tiếng pháo nổ đì đùng, tiếng người rộn rã mừng xuân, tiếng chúc mừng năm mới, tiếng nhạc tiếng đàn nơi nơi từ thôn quê lên phố thị… Tưởng như là xuân đấy sao?

Không, trăm ngàn lần không. Vì âm thanh của mùa xuân rất trầm lắng trong cõi lòng, tai nhân gian không thể nào nghe được. Tiếng nói của mùa xuân rất đỗi nhẹ nhàng êm ái, đến nỗi phải tách ra khỏi những âm thanh hỗn độn của cuộc đời, con người mới có thể nghe được. Có người nói với tôi “em đang nghe mùa xuân về”, hay “em đang nghe mùa xuân nói”. Tôi hỏi lại: “Mùa xuân thế nào, mùa xuân nói gì em ơi”, thì không thấy trả lời, hoặc trả lời rằng: “anh hỏi gì kỳ vậy!”. Nhưng cũng có người cho tôi biết “Mùa xuân đẹp tinh khôi, mùa xuân tuyệt trong trắng, mùa xuân nói rằng Em đẹp vô ngần, Em tinh tuyền lắm, hãy bước vào với mùa xuân”.

Cảm ơn em. Câu trả lời của em nhắc nhớ tôi về nét đẹp tinh tuyền của Mùa Xuân.

Vâng, đã có Mùa Xuân đầu tiên trên dương gian này: Mùa xuân tinh tuyền đến nỗi có thể nói, có gió xuân nhẹ bay, có cuốn cả những hạt bụi trần nhưng hạt bụi trần còn óng ánh như pha lê tinh khiết. Mùa xuân mà sách Sáng Thế ghi lại là Thiên Chúa thích xuống dạo chơi với con người, một tạo vật đẹp tuyệt vời vì mang hình ảnh của Thiên Chúa. Một mùa xuân hòa bình bởi lòng người luôn chan chứa niềm hạnh phúc bình an: có Thiên Chúa ở với con người, được Thiên Chúa vui thích tung tăng múahát dạo chơi cùng muôn tạo vật trong vườn địa đàng, hoa xuân không tàn vì thời gian vô hạn, tình yêu vô biên.

Cảm ơn em, làm tôi nghĩ đến Mùa Xuân của Noe sau lụt Đại Hồng Thủy. Con chim bồ câu ngậm cành ô liu mới nhú trở về, báo tin Xuân đang đến, tất cả đều đang rất mới, đang tràn trề một sức sống mới trên địa cầu đã được thanh tẩy. Dòng nước của cơn hồng thủy đã cuốn trôi đi một thế giới cũ, một trần gian cũ, để thiết lập một trần gian mới, một thế giới mới tuyệt tinh tuyền, một mùa xuân mới.

Có một mùa xuân bắt đầu từ lòng khiêm cung vĩ đại của cô thôn nữ trinh nguyên diễm kiều được Thiên Chúa để mắt yêu thương. Thiên Chúa bàn bạc, hỏi ý kiến cô về việc cho phép Ngài thực hiện một mùa xuân cứu thế, bắt đầu từ cung lòng trinh nữ của cô. Và chỉ từ hai tiếng “xin vâng”, Mùa Xuân Cứu Thế đã khởi đầu. Mùa xuân lắng trong cung lòng thôn nữ khiêm cung và trầm lắng.

Vâng Mùa Xuân Cứu Thế, một mùa xuân thánh khiết tinh khôi. Giữa đêm đông cất tiếng khóc con người. Đêm cực thánh chồi Giêsê nẩy lộc. Một mầm Xuân Cứu Thế đã ra đời. Thế đấy, Xuân mãi tinh tuyền, trong thân phận bé thơ. Máng chiên lừa tanh hôi không đủ làm cho Xuân ra nhơ uế, mà ngược lại, ánh sáng tinh tuyền của Xuân đã biến máng chiên lừa tanh hôi nên chiếc nôi trọng thể cho Mùa Xuân Giáng Thế.
Mùa xuân nay đã thành nhục thể. Giữa trần gian rong ruổi kiếp nhân sinh.

Vâng, đúng thế, xuân rong ruổi kiếp nhân sinh, từ một buổi sáng xuân thanh bình, trên dòng sông Giordano lờ lững. Các tầng trời ngàn xưa đóng kín, nay phải mở ra long trọng, cùng với tiếng loa thần vọng xuống: Đây Xuân Mới, Con Chúa Trời yêu chuộng, cả nhân gian hãy đón lấy hồng ân.

Tôi còn nhớ có một mùa xuân rất riêng của một người tên là Matthêu, của một người khác tên là Giakêu, của mười người phung hủi, của cuộc đời cô gái Madaleine đẫm lệ, của người trộm lành, và cả của người lính kia bừng tỉnh đón xuân khi đất động, núi đã vỡ tung… Cả nhân gian hãy đón lấy hồng ân Mùa Xuân là đón lấy chính Con Người của Mùa Xuân Mới.

Vì Xuân đi mười phương cõi dương trần. Để tái thiết một mùa xuân tinh khiết. Mùa xuân tình thương tự cõi trời tha thiết. Muốn du xuân, múa hát với phàm nhân…

Chiêc cầu du xuân của Thiên Chúa đã nối lại. Chiêc cầu mang hình thập tự từ đất lên tới trời. Nắng xuân bên kia cầu Thập Tự, đổ tràn về ấm cả trần gian

Tạ ơn Mùa Xuân mới đã đến, với phúc lộc muôn ngàn. Tạ ơn trời cao đã ban tặng Mùa Xuân Mới, Mùa Xuân Ơn Cứu Rỗi: CHÚA GIÊSU KITÔ, MÙA XUÂN CỦA CUỘC ĐỜI CHÚNG CON.

Bây giờ thì tôi hiểu tiếng Mùa Xuân nói với em: “Em hãy đẹp tinh khôi, Em hãy tuyệt trong trắng bước vào với Mùa Xuân”.

Vâng, vì yêu Đức Giêsu, vì ước ao được hưởng trọn Chúa Giêsu, hưởng trọn Mùa Xuân Cứu Thế mà em được thôi thúc nên toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ làm một với Ngài. Em xứng đáng được vui xuân với Ngài. Em có một mùa xuân bình an hạnh phúc, vì em có chính Ngài, Chúa Giêsu, Mùa Xuân của em.

Hãy cho nhau Mùa Xuân Tinh Tuyền, Thánh Khiết.
Hãy chia nhau Chúa Giêsu, quà tặng Mùa Xuân tự trời cao ban xuống, để mọi người cùng sống trong Một Mùa Xuân An Bình, Hạnh Phúc.

Pm. Cao Huy Hoàng

XUÂN TÂM HỒN
Giuse Mai Văn Tuyền, OP
Xuân sang thời, hoa nở người cười.
Xuân sang thời, vui cả đất trời, vui chung…
(Lời ca chúc xuân)

Mùa xuân vẫn được xem là mùa đẹp nhất trong năm. Sau những tháng ngày rét mướt của mùa đông, tiết trời bắt đầu ấm dần lên. Cỏ cây cũng hồi sinh sau những ngày lụi tàn vì giá rét.. Cùng nhịp sống với cỏ cây, muông thú, con người cũng như “bừng tỉnh” vào những ngày đầu xuân. Người ta như vui hơn, khỏe hơn và yêu đời hơn. Theo một thống kê của báo Phụ nữ cách đây khoảng 10 năm, mùa xuân cũng là mùa các cặp trai gái nảy sinh tình yêu nhiều nhất trong năm (khoảng 40% cả năm). Nếu thể xác cần khí tiết của mùa xân để phát triển thì tâm hồn cũng vậy; một thể xác to khỏe sẽ chẳng làm được gì khi tâm hồn cằn cỗi, mệt mỏi. Ngược lại, tâm hồn thanh thoát có thể hóa giải được nhiều nỗi đau thể xác, thậm chí còn có thể giúp thể xác vượt trên bệnh tật. Cần biết bao “xuân tâm hồn”!

Tạo hóa thật tài tình ấn định trời đất tuần tự xoay vần liên tục Xuân – Hạ – Thu – Đông. Cỏ cây, muông thú và ngay cả con người cũng cần có cái nóng của mùa hè, cái heo hắt của gió thu, cái băng giá của mùa đông và nhất là cái ấm áp, tươi vui, đầy sức sống của mùa xuân. Tiết trời đã được Tạo Hóa tài tình an bài. Con người không thể thay dổi, có chăng chỉ tác động chút ít mà thôi. Riêng “tiết trời tâm hồn”, dường như Tạo Hóa cho con người được toàn quyền. Ngài chỉ đóng vai trò hướng dẫn, giúp đỡ mà thôi. Ngài không bao giờ áp đặt con người trong lãnh vực này. Mỗi người hoàn toàn tự do chọn lựa “nhiệt” cho cõi lòng mình. Mỗi người có thể chọn “cái nóng của mùa hè”, “cái buốt giá của đêm đông”, “cái heo hắt của gió thu” hay “cái ấm áp, vui vẻ, an bình của tiết xuân”.

Thật lạ lùng, khi được tự do chọn lựa, không hẳn người ta luôn chọn phần tốt cho mình. Nhưng ngược lại, nhiều khi người ta lại chọn sự nóng nảy, đông cứng hay bất an cho mình.

Mùa xuân được gắn với bình an, hạnh phúc. Mà hạnh phúc lại chỉ thực sự hiện hữu khi biết cho đi: “Chính lúc hiến thân là khi được nhận lãnh” (thánh Phan-xi-cô At-xi-di). Theo lẽ tự nhiên, ai cũng muốn trở thành người nổi bật, muốn mọi người nghĩ rằng “tôi là nhất”. Vì thế, chúng ta thường hay cắt ngang câu chuyện của người khác và mau chóng nói về mình để lôi kéo sự chú ý đến mình. Tuy nhiên, khi để cái tôi ích kỷ bành chướng, khi cố gắng thể hiện mình thì chúng ta đang tự chuốc lấy những thất bại: mọi người xa lánh và nguy hiểm hơn cả là tự tạo ra sự trống rỗng trong tâm hồn. Tâm trạng bất an là không thể tránh khỏi. Ngược lại, khi biết nhường vinh dự của ta cho người khác, biết vui khi thấy người khác vui, biết lắng nghe người khác nói, chúng ta sẽ tìm được sự bình an sâu xa trong tâm hồn. Đây là phần thưởng quí giá cho người sống vị kỷ.

Phê bình, chỉ trích người khác là điều mà chúng ta hay làm. Chúng ta dễ dàng nhìn thấy “cái rác” nơi người khác mà lại chẳng nhìn thấy “cái xà” nơi mình. Điều tốt người ta làm, chúng ta ít nhận ra để khích lệ, nhưng chúng ta lại dễ dàng thấy khuyết điểm nơi anh em. Chúng ta hay ảo tưởng là khi chỉ trích, phê bình ngừơi khác thì họ sẽ biết ơn, thán phúc ta. Chúng ta hay chỉ trích không phải vì muốn người khác được nên tốt hơn cho bằng chúng ta đang cố chứng minh “tôi khôn hơn anh, tôi giỏi hơn anh hay tốt hơn anh…” Kết quả của việc phê bình, chỉ trích thường ngược lại những gì ta muốn: bạn bè phản kháng, bới móc những tật xấu của ta hoặc tình trạng của người ta chỉ trích sẽ xấu hơn. Khi đó, ta càng bất an hơn. Chúng ta cũng hay “mặc” cho những “hành động ích kỷ” đó một “cái áo” rất đẹp: tôi muốn tốt cho anh, góp ý cho anh…. Nhưng chúng ta quên rằng: chỉ trích và góp ý chân tình cách nhau rất xa. Vì thế kết quả của nó cũng trái ngược nhau.

Mùa xuân không phải lúc nào cũng ấm áp, vui tươi. Nó cũng có chút nóng nực của mùa hạ, pha chút buốt giá của mùa đông và cả chút heo hắt của mùa thu. Nhưng mùa xuân vẫn được mệnh danh là mùa của tình yêu, mùa của hạnh phúc, mùa của bình an và mùa của sức sống. Đời sống chung cũng thế, cũng có lúc chúng ta nóng nảy, nguội lạnh hay đông cứng… Nhưng những điều đó chỉ là và chỉ nên là một chút, một chút thôi. Nếu mọi người đều gắng sức xây dựng cộng đoàn, nhiệt tâm lo cho “căn nhà chung”, bỏ qua những ý riêng, chấp nhận những khác biệt thì hạnh phúc ắt sẽ hiện diện, cộng đoàn sẽ mang sức sống của mùa xuân.

Chính cái nhìn về sự việc của mỗi người sẽ quyết định thái độ sống:
“Những suy nghĩ cuả chúng ta giống như những hạt giống; mỗi suy nghĩ tạo ra hoa và quả riêng. Khi chúng ta học cách kiểm soát những ý nghĩ của chúng ta thì chúng ta sẽ có hạnh phúc và bình an hơn ở trong tâm hồn. Tư duy tích cực dạy cho ta cách suy nghĩ thay vì phản ứng, hướng dẫn cuộc đời ta thay vì để hoàn cảnh và hành vi của người khác hướng dẫn tinh thần ta” (khuyết danh).

Cùng với xuân đất trời, ước mong mỗi người chúng ta tìm được “xuân tâm hồn” cho riêng mình và tỏa lan hơi ấm ra bầu khí chung. Cầu mong Chúa xuân hiện diện trên từng người và toàn thể cộng đoàn chúng ta.

Giuse Mai Văn Tuyền, OP

XUÂN THANH BÌNH
JM Lâm Thy, DVD

“Lại một mùa Xuân nữa tới à? / Một mùa Xuân nữa sắp đi qua”, đó là 2 câu mở đầu cho một bài thơ Xuân của tôi (*). Cũng chẳng khác tâm trạng Xuân Diệu “Xuân đang tới nghĩa là Xuân đang qua./ Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già” (“Vội vàng”). Tuy nhiên, Xuân Diệu thì “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ./ Em em ơi tình non đã già rồi” (“Giục giã”) để kịp hưởng hương sắc mùa Xuân; nhưng còn tôi thì ”Mai ngơ ngác nép cành thông cỗi./ Cúc ngẩn ngơ chen khóm trúc già”, nên chi cứ “bước đi một bườc lại dừng…” (Nguyễn Du). Tại sao thế? Vì đi nhanh rất có thể bị xe đụng, bị té u đầu (chấn thương sọ não là cái chắc!), rồi còn bị thiên hạ chửi “ông già mù hả? điếc à?” Khổ thế đấy! Biết làm sao được, hở trời? ĐỊnh viết một bài về Xuân, mà nói về Xuân là phải nói về những vui tươi, rực rỡ, không ngờ ngòi bút – í quên, những ngón tay gõ trên bàn phím – lại toàn gõ những câu ỉu xìu, ảm đạm. Âu cũng là nghiệp dĩ của những anh chàng ưa “bôi nhọ giấy trắng” (hay “bôi nhọ màn hình”?)

Bài Tin Mừng đêm Giao Thừa năm nay có chủ đề giống như CN IV/TN-A (30/01/2011), đó là Hiến chương Nước Trời (Tám mối Phúc). Bài này đã được chia sẻ rồi, nay xin chia sẻ bài TM Tân niên (03/02/2011) : “Tin tưởng vào Chúa quan phòng” (Ga 14, 23-27 hay Mt 6, 25-34). Bài TM đêm Giao Thừa nói về những quy định hướng dẫn con người hành động nếu muốn được hưởng hạnh phúc đích thực nơi quê Trời. Cứ kể ra thực hành được bản Hiến chương Nước Trời cũng khó khăn vô cùng, bởi con người vốn luôn ngại khó ngại khổ. Quả thật “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học). Tuy nhiên, nếu suy niệm bài TM Tân niên (Ga 14, 23-27) cho chín chắn, sẽ tìm được lối thoát để vượt qua được những cái khó, cái khổ ngăn trở trước mặt. Điều kiện tiên quyết là phải tin vào Thiên Chúa quan phòng. Tin và làm theo Lời dạy của Đức Giê-su Thiên Chúa, ắt sẽ được như nguyện ước (“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” – Ga 14, 23). Làm theo Lời Người dạy, mà Người đã dạy thế nào?

Trong bài TM Tân niên 1 (Ga 14, 23-27), Đức Ki-tô chỉ khuyên là hãy giữ Lời Người, mà Lời ấy không phải của Người, nhưng là của Đấng đã sai Người. Người không nói rõ ở đoạn này vì Lời Người dạy nhiều lắm, nhiều không kể xiết. Tuy nhiên, nếu đọc qua bài TM 2 cùng chủ đề (Mt 6, 25-34), thì cũng hiểu được một phần. Đó là Lời dạy của Đức Giê-su Ki-tô, khuyên mọi người đừng lo cái ăn cái mặc thường ngày, việc ấy đã có Thiên Chúa quan phòng lo cho (“Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?” (Mt 6, 25). Đừng lo cái ăn cái mặc, nhưng hãy lo “tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chinh của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 33). Tuy nhiên, đến câu kết, thì Người lại dạy: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6, 34). Và đó cũng là lý do khiến kẻ viết bài này “lại toàn gõ những câu ỉu xìu, ảm đạm”.

Vâng, chuyện cơm áo gạo tiền là chuyện – biết rồi, khổ lắm, nói mãi – đã quấy rầy tôi trong suốt cả cuộc đời, và nhất là từ năm 1975 tới nay. Nó không hề để tôi yên và hễ cứ tới Tết thì hình như nó lại lên mặt (lên giá đấy!) kênh kiệu với tôi, như thách thức. Tôi vẫn không quên được năm Ất Mão (1975) phải gánh chịu 2 đại tang (phụ mẫu cùng khuất núi trong một năm), một căn nhà đi tong và nghề nghiệp khốn đốn vì thời cuộc, cộng với một trận ốm thập tử nhất sinh. Đến năm Kỷ Mão (1999) thì vợ chết, nhà bị giải toả, bản thân thì “sung huyết bao tử”. Còn năm nay lại là Tân Mão (mà tôi tuổi Kỷ Mão – 1939), chẳng biết ra sao ? “Que sera… sera…? What will be… will be…?” (Ừ! Đúng vậy! “Sẽ ra sao ngày sau?”. Câu hát này, hồi chế độ cũ, chúng tôi đã hát thế này: “Cứ xê ra xề ra… Muốn ăn bi xài bi…” (ăn bi là ăn đạn đó). Hồi đó nghêu ngao hát cho vui, chớ ai dại gì cơm không ăn lại thích ăn đạn. Sau 1975 nhớ lại, nhiều lúc cũng muốn tự tặng mình một viên đạn cho xong; nhưng khổ một nỗi ngày nào cũng sáng khoai lang luộc, chiều luộc khoai mì, cơm còn chẳng có mà ăn thì đào đâu ra đạn mà đòi ăn. Thậm chí muốn mua được khoai lang, khoai mì cũng phải biết Xếp Hàng Cả Ngày (XHCN – Xã hội chủ nghĩa đấy!) Buồn chết được. Quả thật “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy”.

Thầy Chí Thánh đã dạy: “Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo”; nhưng tiếp liền theo đó thì Người lại phán: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6, 34). Ngày mai của hôm nay sẽ được gọi là hôm nay của ngày mai (hôm nay gọi ngày cận kề sắp tới là ngày mai, khi cái ngày cận kề ấy tới rồi thì lại gọi nó là hôm nay và cái ngày ở vế trước của câu nói đã trở thành hôm qua, không còn là hôm nay nữa). Đúng là cái vòng luẩn quẩn, nên mới “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (hôm nay: khổ, ngày mai cũng sẽ khổ, bởi hôm qua đã khổ rồi). Thôi chết! Bí mất rồi! Còn nhớ năm ngoái viết bài cho Tết (bài “Đầu năm khai bút” – xc. Tr. “các tác giả” – Thanhlinh.net) cũng chia sẻ về cùng một bài TM (Mt 6, 25-34), và cũng bí rị. Bình tâm lại, bèn đấm ngực 3 lần mà “mea culpa, mea maxima culpa”. Quả thật “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Né bài TM đêm Giao Thừa thì còn khả dĩ, nhưng ai bảo tham lam quá, ôm luôn cả 2 bài Tân niên (trong khi được chọn 1 trong 2). Thế đấy! Ham nói thì tránh sao khỏi trật đường rầy hoặc đâm vào ngõ cụt. Trong cái khó ló cái khôn, trong cái bí bỗng loé tia sáng. Hình như có ai nhắc nhở: “Ai bảo đang chia sẻ bài 1 (Ga 14, 23-27) lại sa vào bài 2 (Mt 6, 25-34) để bí rị. Quay lại bài 1 đi, và đọc kỹ đoạn cuối”. Tôi thở phào nhẹ nhõm và căng đôi mắt kèm nhèm đọc đi đọc lại bài 1, nhất là câu 26 gần cuối bài: “Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14, 26). Vâng, đầu óc lú lẫn đã quên mất Đấng hằng soi sáng hướng dẫn tìm ra ánh sáng chân lý, đó chính là Chúa Thánh Thần.

Tuổi già nó khổ thế đấy! Lan man, ôm đồm, tham lam, và cuối cùng thì bí rị, khiến đầu óc căng lên. “Cái đầu căng thẳng là tại cái tâm thiếu an bình”, có lẽ thế chăng? Đúng vậy, tim thiếu máu hoặc tăng áp lực thì đầu óc căng thẳng, tim đập loạn xạ thì đầu óc rối tung, đột quỵ, nhưng nếu tim ngưng đập thì đầu cũng đi tong. Vì thế, trái tim phải cân bằng, phải an bình. Nhắc đến an bình lại nhớ đến bài viết “Đêm an bình” (xc. , tr. “các tác giả”) trong đó có vấn nạn “Đức Giê-su giáng trần đem lại bình an cho nhân thế. Đêm Giáng Sinh là đêm an bình, mùa Giáng Sinh là mùa hoà giải. Vậy tại sao chiến tranh, khủng bố vẫn liên tục xảy ra khắp nơi, ngay đến nơi Chúa hoạt động cho sứ vụ cứu độ loài người là Giê-ru-sa-lem cũng vẫn còn xảy ra tranh chấp (giữa Israel và Palestin) và ngòi nổ chiến tranh vẫn âm ỉ ?”. Cái đầu căng thẳng là tại cái tâm không an binh, mà nhiều cái tâm không an bình trong một xã hội có thể gây nhiễu loạn đủ thứ. Chẳng thế mà đầu năm nay (dl), ĐTC Biển Đức XVI đã mở đầu cho Sứ điệp Hoà bình : ”Năm vừa kết thúc, thật đáng buồn, lại được đánh dấu bằng sự bách hại, phân biệt đối xử, bằng những hành động đáng sợ của bạo lực và bất khoan dung đối với tôn giáo” (SĐ NHÂN NGÀY HOÀ BÌNH THẾ GIỚI, số 1). Tiếp theo là ngài nhắc đến vụ bạo lực khủng bố tại I-rắc khiến 2 linh mục và 50 giáo dân tử thương (ngày 31/10/2010). Ai cũng nghĩ muốn có hoà bình thì phải chấm dứt chiến tranh, khủng bố. Nghĩ như thế tuy không sai, nhưng chưa đủ, vì “Hòa bình là một ơn Chúa ban và cũng là một kế hoạch phải được thực hiện, nhưng chẳng bao giờ đạt được trọn vẹn. Một xã hội đã giao hòa với Thiên Chúa thì tiến đến gần hòa bình hơn, và hòa bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh, cũng không đơn giản là kết quả của một ưu thế quân sự hay kinh tế, càng không phải là những thủ đoạn dối trá hoặc các dàn xếp khôn khéo. Hòa bình, trên thực tế, là kết quả của một quá trình thanh luyện và nâng cao văn hoá, đạo đức và tinh thần của mỗi người và của từng dân tộc, một quá trình mà trong đó nhân phẩm con người được tôn trọng đầy đủ.” (ibid, số 15). “Thanh luyện, nâng cao văn hoá, đạo đức và tinh thần…”, có như thế thì mới có được cái tâm an bình. Muốn có hoà bình, mỗi người và mọi người cần thiết phải có một cái tâm an bình trước đã.

Từ lời chúc đầu năm của ĐTC Biển Đức XVI: “Đầu năm mới, tôi muốn gửi đến mọi người và từng người lời chúc an vui, thịnh vượng, và trên tất cả, là lời chúc bình an” (ibid, số 1), xin mọi người – trong tâm tình phụ tử – cùng mở rộng tấm lòng đón nhận lời chúc của vị Cha chung và biến nó thành lời cầu nguyện (như lời kinh của Thánh Phan-xi-cô As-si-si – “Kinh Hoà bình“), để có được một cái tâm an bình hầu chung tay góp sức xây dựng một mùa Xuân Thanh Bình, một nền hoà bình trường cửu trên quê hương Việt Nam, cho đến tận cùng trái đất. Vâng, xin hiệp lời: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phung sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa… Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí ƠN AN BÌNH“. Amen.

JM Lâm Thy, DVD

MÙA XUÂN CHO LÒNG NGƯỜI
Gm. JB Bùi Tuần

Xuân đang đẹp trong lòng thiên nhiên. Xuân đang đẹp trên đất nước. Nhưng xuân đẹp nhất là xuân trong lòng người. Xuân đẹp trong lòng người, khi lòng người mang những đức tính tốt, không ngừng vươn tới mức độ đẹp hơn, và luôn luôn vươn tới những vẻ đẹp mới.

Những đức tính tốt làm nên mùa xuân tâm hồn đã được Đức Kitô nêu lên trong Phúc Âm, đặc biệt là trong bài giảng về Tám Mối Phúc. Xin hãy kể đây những đức tính căn bản, đó là đức bác ái xót thương, đức khiêm nhường đơn sơ, đức hiền từ hoà nhã, đức công chính đầy phấn đấu.

Những đức tính trên đây tự chúng vốn đẹp. Theo cái nhìn của Phúc Âm, chúng là dấu chỉ sự thắng thế của sức mạnh sự thiện trên sự ác. Hơn nữa khi nhìn thấy ai có những đức tính tốt đó, người ta có thể nhận ra sự hiện diện của ơn thánh cứu độ. Một cách nào đó, những người mang mùa xuân tâm hồn như thế sẽ là chứng nhân của Nước Trời, một Nước Trời tươi đẹp trong lòng họ.

Sở dĩ với những đức tính đó họ là chứng nhân của Nước Trời, bởi vì những đức tính ấy mang chiều kích rất cao, rất sâu. Thí dụ đức tính xót thương, bác ái, công bình, mà Đức Kitô hay nhấn mạnh trong các đức tính làm nên mùa xuân tâm hồn, phải mang tầm vóc can đảm phi thường. Xin nhắc ở đây chỉ vài lời Người dạy:
“Anh em hãy biết xót thương, như Cha trên trời là Đấng hay thương xót. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6,36-38).

Tóm lại: “Tất cả những gì anh em muốn người khác làm cho mình, thì chính anh em hãy làm cho người ta” (Mt 7,12).

Nghe những lời Chúa dạy, tôi nghĩ rằng: mùa xuân tâm hồn là một hồng Ân Chúa ban, nhưng đòi sự cộng tác của con người. Nghĩa là chúng ta phải phấn đấu với chính mình, để từ bỏ cái tôi hẹp hòi ích kỷ kiêu căng cứng cỏi của mình, để đón nhận cái tốt Chúa trao tặng. Phải phấn đấu bằng một nền tu đức quân bình sáng suốt. Đức Kitô dạy: “Anh em hãy bước vào cửa hẹp, vì cửa rộng thênh thanh sẽ dẫn đến hư hỏng” (Mt 7,13). Phải phấn đấu bằng sự từ bỏ ý riêng mình, để tuân phục thánh ý Chúa. Đức Kitô dạy: “Không phải những ai kêu: Lạy Chúa, lạy Chúa là sẽ vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo ý Cha trên trời” (Mt 7,2).

Như thế, mùa xuân tâm hồn là kết quả của một hành trình nội tâm, luôn vươn lên lý tưởng, phấn đấu với chính mình, hướng về bác ái phục vụ con người. Đồng thời cũng hướng về tuân phục thánh ý Chúa. Một mùa xuân tâm hồn như thế sẽ toả hương thơm bình an, yêu thương, công chính.

Nếu “xem quả thì biết cây” là một tiêu chuẩn để đánh giá con người và đánh giá tôn giáo, dân tộc, thì khi gặp được nơi ta những mùa xuân tâm hồn như tôi vừa phác hoạ, người ta sẽ đánh giá tốt về chúng ta, về đất nước chúng ta, về tôn giáo chúng ta. Và như thế thiết tưởng, đó là cách tốt nhất để làm chứng cho đạo ta, cho dân tộc, trong đời thường và trong mọi hoàn cảnh, dù khó khăn nhất.

Với cái nhìn như trên, tôi xin thân ái cầu chúc anh chị em một mùa xuân tâm hồn tốt đẹp nhất.

Gm. JB Bùi Tuần

LỜI CẦU CHÚC NĂM MỚI
Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long

Chúng ta đang sống trong những ngày cuối tháng Chạp của năm Canh Dần, trong không khí sửa dọn đón mừng ngày Tết Nguyên Đán năm mới Tân Mão đang đến, theo phong tục văn hóa âm lịch của quê hương đất nước Việt Nam chúng ta.

Đón mừng mùa xuân năm mới con người chúng ta cầu chúc cho nhau sức khoẻ, tinh thần đời sống khang an hạnh phúc. Lời cầu chúc tốt đẹp cần thiết này không chỉ theo nếp sống tập tục văn hóa trong xã hội xưa nay. Nhưng còn nói lên tâm tình đạo đức sâu thẳm của con người. Vì ai cũng biết sức khoẻ, sự khang an hạnh phúc không do con người làm tạo ra được, mà do được trao tặng ban cho từ Trời cao. Và con người chúng ta chỉ còn biết cầu xin cùng lãnh nhận.

Cầu chúc cho nhau như thế là lời cầu xin khấn nguyện với Trời cao ban cho. Đây là nếp sống vừa văn hóa tình người, vừa là nét đẹp cao thượng của đời sống giữa con người với nhau và cũng là tâm tình chan chứa lòng tin tưởng đạo đức.

Trong dòng thời gian, con người suy nghĩ sáng tác viết ra những lời cầu chúc thâm sâu có ý nghĩa hợp với cuộc sống thực tế, cùng muốn chia sẻ về nếp sống với người được cầu chúc.

Lời cầu chúc văn chương viết như sau: Xin cầu chúc mọi người
• Vừa đủ HẠNH PHÚC để giữ tâm hồn được ngọt ngào.
• Vừa đủ THỬ THÁCH để giữ mình luôn kiên cường.
• Vừa đủ MUỘN PHIỀN để thấy mình thật sự là một con người.
• Vừa đủ HY VỌNG để thấy mình hạnh phúc.
• Vừa đủ THẤT BẠI để giữ mình mãi khiêm nhường.
• Vừa đủ THÀNH CÔNG để giữ mình mãi nhiệt tâm.
• Vừa đủ BẠN BÈ để bớt cảm giác cô đơn.
• Vừa đủ VẬT CHẤT để đáp ứng các nhu cầu cuộc sống.
• Vừa đủ NHIỆT TÌNH để có thể chờ đợi trong hân hoan.
• Vừa đủ NIỀM TIN để xua tan thất vọng mỗi khi chán nản.“

Đọc những những lời cầu chúc văn chương này, gợi lên trong tâm trí triết lý tích cực trong đời sống con người, mà hầu như vào mọi không gian thời đại họ hằng đi tìm kiếm.

Những lời cầu chúc văn chương này còn phản ảnh điều đạo đức tin tưởng thâm sâu của tâm hồn con người nữa. Vì tin rằng vẻ vỏ bên ngoài đời sống tuy cần thiết, nhưng tinh thần mới là chính yếu mang đến cho đời sống có ý nghĩa trọn vẹn.

Những lời cầu chúc thắm thiết tình người này là một cách suy tư cắt nghĩa về Tám Mối Phúc Thật, mà Chúa Giêsu đã rao giảng làm khuôn mẫu, giềng mối cho cuộc sống tinh thần đạo giáo của con người trong xã hội:
– “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
– Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp.
– Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an.
– Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả.
– Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương.
– Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa.
– Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
– Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.
– Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác.
Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời”.( Mt 5,1-11)

Những lời của Chúa trong Tám Mối Phúc Thật là khuôn thước cho đời sống, nhưng cũng là lời chúc phúc lành của Chúa cho con người.

Đời sống con người trong dòng thời gian ngày giờ năm tháng cần cơm ăn áo mặc nhà cửa cùng những phương tiện vật chất khác.

Nhưng một đời sống có bình an cùng được Thiên Chúa chúc phúc lành vẫn luôn là ước mong căn bản cần thiết cho đời sống có ý nghĩa và được trọn vẹn tràn đầy, nhất là những lúc gặp gian nan thử thách.

Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long

GIAO THỪA:
BÌNH AN VÀ HẠNH PHÚC TRONG TAY CHÚA
Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Một năm cũ sắp trôi qua và một năm mới sắp đến. Trong khoảng khắc giao thừa giữa cũ và mới này, chúng ta đến với Chúa, Ðấng Tạo dựng muôn loài, Ðấng làm chủ thời gian, để tạ ơn Ngài về 365 ngày sắp qua, và xin Ngài giúp chúng ta biết sử dụng 365 ngày sắp đến theo đúng thánh ý Ngài.

II. GỢI Ý SÁM HỐI
• Chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì đã phí phạm rất nhiều thời giờ để không làm gì cả hoặc làm những việc xấu mất lòng Chúa.
• Chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì trong năm qua chúng ta chưa phụng thờ Chúa cho xứng đáng.
• Chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì trong năm qua chúng ta chưa hết lòng yêu thương anh chị em đồng loại.

III. GỢI Ý GIẢNG
1. Trời tuôn ơn phước (Mt 5,1-10)
Thiên hạ bình và Trời tuôn ơn phước
Ðêm ba mươi co cẳng đạp thẳng bần ra cửa.
Sáng mồng một giang tay bồng ông Phước vào nhà.

Mùa Xuân, ngày Tết, ai cũng mong nhận được nhiều phước, nên ai cũng chúc cho nhau nhiều tài nhiều lộc, nhiều tiền, nhiều của. Những người có tín ngưỡng thì tin rằng may mắn, tiền của là sự chúc lành của Ðấng Bề Trên.

Chúa chúng ta cũng dạy ta phải cầu xin để được Chúa ban lương thực hằng ngày. Nhưng Chúa cũng dạy con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, mà còn sống và được hạnh phúc vì những giá trị tinh thần nữa. Bởi vì con người không chỉ thuần là vật chất, mà còn là loài khao khát cái vô biên.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa chúc phúc cho những người có tâm hồn nghèo, không ham lợi lộc vật chất, vì nước Thiên Chúa là của họ. Những người hiền lành là có phước vì họ sẽ nhận được Ðất Hứa. Chúa cũng chúc phúc cho những ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. Phước cho người khao khát sự công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho no lòng thỏa dạ. Phước cho người hay thương xót người khác, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Chúa còn cầu phước cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. Phước cho người xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Phước cho ai bị bách hại vì sự công chính, vì Nước Trời là của họ.
Tiếng pháo đi: bao nhiêu kinh cầu nguyện.
Ðều dâng lên cho đến chín tầng mây
Hơi xuân ấm mĩ vị hơn dạ yến.
Ta đem ươm trong ý vị đêm nay…
Cả trời bỗng diêu diêu như báu vỡ:
Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm.
Mà ta ngỡ đấng Tiên Tri muôn thuở
Giữa đêm nay còn đứng giảng Phúc âm.

Cùng với nhà thơ Hàn Mạc Tử, trong giây phút giao thừa linh thiêng giữa năm cũ và năm mới, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện và lắng nghe những lời chúc phước của “Ðấng Tiên Tri muôn thuở”, đem áp dụng những lời chúc đó vào cuộc sống hàng ngày, thì suốt năm nay, chúng ta sẽ được dồi dào ơn phước. (CgvDt, Số đặc biệt Giáng sinh ’99)

2. Suy nghĩ về thời gian (Bài đọc I: 1 Cor 7,29-31; hoặc Gcb 4,13b-15)
Chúng ta đang tham dự Thánh Lễ Giao Thừa. Theo chữ Nho, “giao” là trao, còn “thừa” là nhận lãnh để tiếp tục. Trao nhận cái gì và ai trao, ai nhận? Thưa năm cũ trao thời gian lại cho năm mới đón nhận và tiếp nối. Bởi vậy, khoảng khắc gian giao thừa này là lúc rất thích hợp để chúng ta suy nghĩ về thời gian.
Xin mượn một câu chuyện kể để làm điểm tựa cho chúng ta suy nghĩ: có một chàng thanh niên đang đứng dưới gốc cây để chờ người yêu. Anh cứ ngó chiếc đồng hồ và sốt ruột vì chưa tới giờ hẹn. Anh đứng ngồi không yên, cứ đi đi lại lại hoài. Anh mong sao cho thời gian qua nhanh đề người yêu sớm đến. Bỗng một vị tiên hiện ra ban cho anh một chiếc đồng hồ đặc biệt, hễ xoay tới một vòng là thời gian tiến nhanh như mình mong muốn. Nhưng vị tiên căn dặn anh chớ nên lạm dụng chiếc đồng hồ ấy. Vị tiên vừa biến đi là anh chàng vội vàng vặn đồng hồ, và người yêu liền đến. Hai người ôm nhau tha thiết. Nhưng chỉ ôm nhau thì chưa thỏa lòng, anh chàng lại muốn mau tới ngày cưới để hai người được sống mãi bên nhau. Anh lại vặn đồng hồ nữa, và thấy mình đang đám cưới. Vẫn chưa thỏa mãn, anh lại muốn mau có con, nên lại vặn, và thấy mình có con. Rồi anh muốn con mình mau lớn. Lại vặn đồng hồ và thấy con mình đã lớn. Nhưng nó chưa có sự nghiệp, chưa có gia đình. Ông lại vặn đồng hồ – bây giờ thì tôi gọi anh chàng kia bằng ông vì lúc đó người này đã khá nhiều tuổi – ông vặn đồng hồ thì thấy con mình có nghề nghiệp, có gia đình. Ông lại muốn có cháu để bồng, rồi lại muốn có chắc, chút, chít… cứ thế ông vặn, vặn, vặn và thời gian cứ tiến tới vùn vụt. Một hôm ông không vặn nổi chiếc đồng hồ ấy nữa và chợt khám phá mình đã quá già, đang nằm trên giường hấp hối. Khi đó ông mới sực nhớ lời khuyến cáo của vị tiên là chớ nên lạm dụng chiếc đồng hồ kỳ diệu ấy. Nhưng khi đó hối tiếc thì đã muộn. Bây giờ ông gần chết rồi mà hầu như chưa hưởng được những niềm vui của tuổi thanh xuân. Ông tiếc vô cùng. Ông lấy hết sức tàn còn sót lại để vặn ngược chiếc đồng hồ. Ông có vặn nổi không? Không nổi nữa rồi. Nhưng ông lại cố sức một lần nữa. May thay lần này ông thành công. Ông thấy mình trở lại thành một người thanh niên đang đứng dưới gốc cây ngày xưa chờ người yêu. Mặc dù chưa tới giờ người yêu đến, nhưng anh – bây giờ ta lại gọi người ấy bằng anh vì người ấy đã trẻ lại – anh không sốt ruột nữa. Anh đưa mắt nhìn những khóm hoa chung quanh, lắng tai nghe tiếng chim hót trên cành, hít thở những luồng gió mát ngoài đồng nội. Và anh thấy cái giây phút hiện tại đẹp quá, hạnh phúc quá…

Ngụ ý của câu chuyện rất rõ: hãy biết xử dụng thời gian hiện tại, hãy tận hưởng những niềm vui của hiện tại, và hãy làm những việc phải làm của hiện tại.

Bài học này tuy đơn sơ nhưng rất hữu ích.
Có những người, nhất là những người trẻ, chỉ lo ngóng tới tương lại; ngược lại, có những người, đặc biệt là những người già, chỉ nhớ về quá khứ. Còn hiện tại thì ít ai để ý tới. Nhưng mà thời gian hiện tại mới chính là thời gian có ý nghĩa và giá trị nhất, vì quá khứ có ích gì nếu không trở thành kinh nghiệm để ta áp dụng cho hiện tại được tốt hơn; và tương lại sẽ chẳng ra sao hết nếu không được xây dựng bằng hiện tại bây giờ.
– Trong việc làm ăn, nhiều người cứ mãi chần chờ do dự: “Ðợi sau này có chút vốn, tôi sẽ làm thế này, làm thế nọ”
– Trong việc chăm sóc gia đình, nhiều người vạch ra biết bao dự định tốt đẹp: con cái đang hư dần trước mắt mà không lo sửa dạy ngay, cứ ngồi đó mà vẽ ra những dự định: “sau này, tôi sẽ dạy dỗ con cái cách này cách nọ”
– Trong việc sống đạo cũng thế, nhiều người nguội lạnh, rối rắm, khi được người khác nhắc nhở đã trả lời: “Bây giờ đang túng thiếu quá, rất bận làm ăn, đợi tới khi khá hơn sẽ trở lại nhà thờ”; “Bây giờ trong nhà còn nhiều chuyện rắc rối phải giải quyết, đời khi giải quyết xong sẽ tính tới chuyện linh hồn”. Bởi vậy có chuyện sau đây: một hôm các quỷ họp ban tham mưu để vạch ra kế hoạch cám dỗ cho loài người mất linh hồn. Một tên quỷ đưa ý kiến “Ta hãy nói với họ là Chúa rất nhân từ, cứ phạm tội rồi xưng tội, Chúa sẽ tha hết”. Ý kiến ấy không được chấp thuận. Tên khác đề nghị “Ta hãy nói với họ là không có Thiên Chúa, không có thiên đường hỏa ngục gì ráo”. Ý kiến này cũng không được coi là hay nhất. Cuối cùng chính Luxiphe đưa đề nghị và mọi quỷ đều coi là tuyệt vời nhất, hữu hiệu nhất. Cám dỗ hay nhất ấy là “Hãy nói với người ta rằng có Thiên Chúa, có thiên đường, có hỏa ngục, nhưng còn lâu lắm họ mới chết, nên đừng vội ăn năn sám hối”.

Một năm đã trôi qua, chắc hẳn chúng ta đã làm mất biết bao nhiêu thời giờ của 365 ngày qua để không làm gì hết hoặc chỉ làm những việc phụ thuộc hay những điều tội lỗi. Trong giây phút giao thừa này chúng ta hãy xin Chúa tha thứ vì điều đó. Và năm mới sắp đến, Chúa lại ban cho chúng ta thêm 365 ngày nữa. Chúng ta hãy cám ơn Chúa, hãy đón nhận thời gian Chúa ban và cố gắng xử dụng tốt khoảng thời gian mới này, xử dụng tốt từng ngày từng phút từng giây để lo làm ăn chăm chỉ lương thiện, để chăm sóc gia đình và nhất là để lo sống đạo. Nhưng thế nào là xử dụng tốt thời giờ Chúa ban? Thưa là từng phút giây lo chu toàn những bổn phận của mình với hết tâm tình yêu thương, bởi vì, như một chùm câu châm ngôn mà tôi xin trích đọc để kết thúc bài chia xẻ đơn sơ này:
“Thời gian là một cái gì đó rất chậm đối với kẻ đang chờ, rất nhanh đối với người đang sợ, rất dài đối với kẻ đang buồn, rất ngắn đối với người đang vui. Nhưng đối với kẻ đang yêu thì thời gian hình như không hiện hữu.” Chúng ta hãy bình tĩnh chu toàn bổn phận với tâm tình yêu thương trong từng giây phút của thời gian hiện tại.

3. Ðừng lo (Mt 6,25-34)
Quyển sách mà Phụng vụ luôn trích đọc mỗi ngày một đoạn trong Thánh lễ, ngày xưa người ta gọi là “Sách Ê vang”, nhưng gần đây người ta gọi là “Sách Phúc âm”, còn bây giờ càng ngày người ta càng thích gọi nó là “Sách Tin Mừng”. Tại sao vậy? Thưa vì quả thực quyển sách ấy chứa đựng rất nhiều tin làm cho ta vui mừng. Chẳng hạn như đoạn mà chúng ta vừa mới nghe. Chúa Giêsu bảo “Chúng con đừng lo”. Câu này đúng là một Tin Mừng.

Nhưng trước khi nói tới sự mừng, xin được phép nói đôi lời về sự lo.
a. Khi suy nghĩ về sự lo, tôi khám phá rằng con người chúng ta là sinh vật duy nhất hay lo. Hãy quan sát chung quanh ta, đất đá đâu có biết lo, cây cối cũng không biết lo và thú vật cũng không bao giờ lo. Ðúng như lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng này “Hãy xem chim trời…Hãy nhìn hoa huệ… Chúng không hề lo lắng gì cả”.

b. Tại sao con người chúng ta hay lo? Và chúng ta thường lo về những điều gì?
Trước hết chúng ta hay lo vì chúng ta còn quá vấn vương với quá khứ. Một người trong quá khứ đã từng thi rớt thì sẽ lo nhiều khi sắp sửa đi thi lần nữa. Một đứa con thấy hôn nhân của cha mẹ và anh chị nó thất bại thì sẽ rất lo khi tới phiên nó lập gia đình. Ðã hẳn quá khứ cũng có phần nào ảnh hưởng trên hiện tại và tương lai. Nhưng ảnh hưởng đó không phải bao giờ cũng xấu cả. Người ta thường nói “Thất bại là mẹ thành công”. Chính vì đã có kinh nghiệm thất bại trong quá khứ nên ta sẽ dễ thành công hơn trong hiện tại và tương lai. Cho nên ta đừng nên quá lo về quá khứ.

Nguyên nhân thứ hai làm chúng ta hay lo là quá sợ về tương lai. Không biết tháng tới năm tới sẽ ra sao? Không biết sẽ xảy ra điều gì đây? Thực ra những việc sẽ xảy ra trong tương lai mà ta có thể tác động vào chỉ là một phần thôi và là một phần rất nhỏ. Nhiều phần khác là do những nhân tố khác không phải là ta, nhất là do Chúa. Vậy có lo quá cho tương lai thì cũng là bằng thừa thôi. Bởi vậy trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy “Chúng con chớ quá lo lắng cho ngày mai”.

Nguyên nhân thứ ba khiến chúng ta lo lắng là vì chúng ta quá dựa vào vật chất trong cuộc sống hiện tại như dựa vào cơm gạo, tiền bạc, áo mặc, nhà cửa v.v. Những thứ vật chất này ta cũng nên lo, chứ đừng như chuyện ngụ ngôn của Lafontaine về con ve và con kiến. Con kiến thì lo dự trữ lương thực, còn con ve chỉ biết hát xướng cả mùa hè. Ðến khi mùa đông tới thì con ve chết đói. Tuy nhiên ta cũng hãy nhớ lời Chúa nói trong bài Tin Mừng hôm nay “Chúng con đừng quá lo lắng xem sẽ phải ăn gì, uống gì, mặc gì”.

c. Xin sang một khía cạnh khác: thử hỏi quá lo lắng có đem lại lợi ích gì không?
– Dĩ nhiên là cũng có, nhưng mà rất ít, bởi vì hầu hết những lo lắng của chúng ta là hão huyền. Một giáo sư trẻ nọ lần đầu tiên được chọn làm phó giám đốc một trường lớn. Ông gặp một vấn đề rắc rối phải giải quyết ngày hôm sau nhưng chưa biết giải quyết làm sao, vì thế ông rất lo lắng và bồn chồn. Vị Giám đốc cao tuổi hơn và giàu kinh nghiệm hơn mới khuyên vị phó giám đốc trẻ tuổi như thế này: Từ đây cho đến sáng mai anh cứ an tâm ngủ nghỉ đi, sáng mai hãy tính. Bởi vì khi đó một phần ba khó khăn đã biến mất rồi, một phần ba khác tự nó giải quyết, anh chỉ cần suy nghĩ về một phần ba còn lại. Dĩ nhiên lời khuyên này có tính cách động viên để trấn an một người trẻ tuổi, nhưng không phải là không có những chân lý trong đó.

Tôi cũng nhớ đã đọc một chuyện cổ tích như sau: Một thanh niên nọ muốn đi cứu người yêu đang bị một tên phù thủy bắt giữ. Tên phù thủy buộc anh phải làm một chuyện rất khó thì mới chịu thả cô gái ra. Chàng thanh niên lo lắng quá tới xin một bà tiên giúp đỡ. Bà tiên bảo: Anh cứ về nhà mà ngủ đi. Giấc ngủ là một vị cố vấn rất sáng suốt. Nghe lời bà, chàng thanh niên về nhà đánh một giấc ngon lành, sáng hôm sau, tự nhiên anh tìm được cách giải quyết khó khăn. Nhưng tên phù thủy lại đưa một điều kiện khó khăn nữa. Chàng thanh niên lại tìm đến bà tiên và cũng được khuyên “Giấc ngủ là một vị cố vấn rất sáng suốt”. Anh cũng về nhà nằm ngủ và sáng hôm sau cũng tìm được cách giải quyết. Lần thứ ba tên phù thủy buộc anh làm một chuyện càng khó hơn nữa. Bà tiên lại bảo “Giấc ngủ là một vị cố vấn rất sáng suốt”. Anh lại đi ngủ và sáng hôm sau lại biết cách giải quyết. Cuối cùng anh đã giải cứu được người yêu. Không phải nhờ lo lắng mà nhờ bình tĩnh sáng suốt tìm giải pháp cho vấn đề.

– Xét theo ý học và tâm lý học, các bác sĩ và các nhà tâm lý còn cho ta biết rằng sự lo lắng chỉ tổ làm cho chúng ta thêm rối trí mà thôi. Càng lo lắng thì càng rối rắm và khó khăn càng chồng chất thêm. Trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu đã nói rất chí lý “Hỏi có ai trong anh em nhờ lo lắng mà kéo dài thêm đời mình dù chỉ một gang tấc không?”.

d. Nếu những phân tích trên có lẽ không có sức thuyết phục lắm, thì bây giờ chúng ta hãy nghe thêm một lý lẽ do chính Chúa Giêsu đưa ra. Lý do Chúa bảo chúng ta đừng lo lắng là vì chúng ta có một người Cha trên trời vừa rất quyền phép vừa rất yêu thương chăm sóc chúng ta. Ngài nói “Cha chúng con ở trên trời đã thừa biết chúng con cần gì. Ngài sẽ lo cho chúng con tất cả những điều đó”. Hồi còn nhỏ tôi thường nghe má tôi hát những bài ru con bằng ca dao. Có một câu như sau “Một mình lo bảy lo ba, lo cau trổ muộn lo già hết duyên”. Nếu chúng ta chỉ có một mình, không ai thân thích, thì chúng ta phải lo bảy lo ba là đúng. Nhưng nếu một đứa con có cha, không lẽ cha nó để nó phải lo mọi chuyện sao. Cha nó thương nó và nhất là cha nó có khả năng, nên ông sẽ lo cho nó đầy đủ mọi sự, từ chén cơm, manh áo, quyển tập, viên thuốc v.v. Ðiều người cha muốn nơi đứa con ấy là nó hãy nghe lời cha mà an tâm học hành, mọi sự khác ông sẽ lo. Ðó chính là ý nghĩa câu Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay “Tiên vàn chúng con hãy lo tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn mọi sự khác Cha trên trời sẽ lo cho chúng con”: làm con thì điều quan trọng nhất là ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ, rồi cha mẹ sẽ lo cho con tất cả mọi sự.

e. Có người kia rất nghèo và có đứa con bị bệnh nặng. Lòng anh ta như rối lên, không biết kiếm đâu ra tiền để mua thuốc, không biết con mình có hết bệnh hay không. Ðang khi ấy, có một người bà con giàu có đến bảo anh “Ðừng lo. Ðể tôi lo hết cho. Tôi sẽ tìm bệnh viện hay, bác sĩ giỏi, cần bất cứ thuốc gì tôi cũng sẽ mua. Chắc chắn con anh sẽ khỏi bệnh mà”. Ta hãy đặt mình vào hoàn cảnh đó xem ta có mừng không. Dĩ nhiên là rất mừng.

Bài Tin Mừng hôm nay đúng là một Tin Mừng: bắt đầu một năm mới, chúng ta vừa vui mừng ăn Tết, nhưng cũng vừa lo lắng cho tương lai: Không biết năm nay sẽ thế nào, gia đình tôi có được bình yên không, công việc làm ăn có gì trục trặc không… đủ thứ lo. Nhưng chúng ta vừa nghe Chúa bảo: hãy để cho Chúa lo tất cả những việc đó. Phần chúng ta, điều duy nhất Chúa để chúng ta lo, và cũng là điều quan trọng nhất, đó là chúng ta hãy lo tìm biết ý Chúa là Cha chúng ta và cố gắng làm theo ý Cha,

Chúng ta hãy tin vào lời hứa của Chúa và an tâm bức vào năm mới, với quyết tâm là trong năm nay chúng ta sẽ hết sức tìm hiểu và thực thi ý Chúa.

4. Chuyện minh họa
a/ Chúa luôn thấy tôi
Ngày nọ, một người bạn đến tìm nhà giảng thuyết Mc-Leod Campbell trong tâm trạng bối rối: “Này anh, xin anh nói cho tôi hay; làm thế nào mà anh luôn tìm thấy Chúa?” Nhà giảng thuyết trầm ngân một lúc rồi nói: “Làm thế nào mà tôi luôn tìm thấy Chúa ư? Không đâu, tôi không luôn tìm thấy Chúa đâu, nhưng tôi biết là Chúa luôn tìm thấy tôi!”

b/ Lời cầu nguyện
Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng.”

Bà cầu nguyện suốt ba ngày vẫn những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra từ sau bàn thờ: “Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai.”

Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện.

IV. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến, chúng ta dành những giờ phút đầu tiên trong năm mới này để chúc tụng Chúa và dâng lên Chúa những ý nguyện đầu Xuân của chúng ta:

1. Xin cho các vị lãnh đạo trong Hiệp thông và toàn thể dân Chúa / được hưởng một năm mới dồi dào phúc lộc / và luôn hăng say trong sứ vụ Phúc âm hóa.
2. Xin cho các nhà cầm quyền trong xã hội và mọi dân tộc trên thế giới / được hưởng một năm mới trong hòa bình và thịnh vượng hơn năm cũ.
3. Xin cho mọi người đang sống trong hoàn cảnh khó khăn về vật chất cũng như tinh thần / sang năm mới gặp được nhiều may mắn / và sớm vượt qua được mọi khó khăn.
4. Xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta / sang năm mới cố gắng sống hiệp thông với Chúa và hiệp thông với mọi người chung quanh / để mọi người trong khu xóm được sống hạnh phúc hơn / và làm chứng về Chúa cho mọi người.

CT: Lạy Chúa, trong những ngày Tết, chúng con thường dẹp bỏ mọi âu lo, buồn phiền và chúng con luôn chúc cho nhau những gì tốt đẹp nhất, xin Chúa giúp chúng con luôn duy trì tâm tình tốt đẹp tươi vui đó, và luôn sẵn sàng góp phần cho mọi người được sống hạnh phúc hơn. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Kitô…

Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

MỒNG HAI: KÍNH NHỚ ÔNG BÀ TỔ TIÊN
Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Dân tộc Việt Nam vốn trọng Ðạo Hiếu, cho nên trong những ngày Tết vui vẻ, chúng ta vẫn không quên Ông Bà Tổ Tiên của mình đã qua đời. Trong Thánh Lễ ngày Mồng Hai Tết hôm nay, chúng ta đặc biệt cầu nguyện cho các ngài; đồng thời cũng cầu xin Chúa giúp chúng ta sống tốt để làm các ngài được vui lòng, đó chính là cách thể hiện lòng hiếu thảo đúng nhất.

II. GỢI Ý SÁM HỐI
• Chúng ta đã không hiếu thảo đủ với Ông Bà Cha Mẹ chúng ta khi các ngài còn sống.
• Chúng ta không thường xuyên cầu nguyện cho những ông bà cha mẹ đã quá cố.
• Chúng ta đã làm nhiều điều mà nếu ông bà cha mẹ chúng ta thấy được chắc hẳn sẽ không vui lòng.

III. GỢI Ý GIẢNG
Kính nhớ Tổ Tiên
Một nhà văn Việt Nam, về cuối đời, chắc là để cho có vẻ giống với các cây đại thụ trong khu rừng văn học nhân loại, đã tuyên bố cái gọi là “Nhân sinh quan của tôi”, trong đó, có câu viết:”Ðời sống tự nó vô ý nghĩa, trừ ý nghĩa truyền chủng”. Vô hình trung, ông đã nhận ra một trong những ý nghĩa của cuộc đời là truyền lưu sự sống. Ông bà để lại sự sống cho cha mẹ. Cha mẹ tặng lại sự nghiệp cho chúng ta. Ðến lượt chúng ta truyền lưu sự sống và sự nghiệp cho con cái. Cứ thế lưu truyền từ đời này đến đời kia.

Lòng biết ơn ông bà tổ tiên đã vun trồng cây sự sống cho thế hệ đời sau, là nội dung của phong tục thờ cúng tổ tiên, mà các dân tộc Châu Á, đặc biệt là dân tộc ta, rất coi trọng.

Thánh Augutinh cũng đã viết về sự truyền thừa các thế hệ một cách hình tượng như sau: “Các ngài thấy, các thế hệ loài người trên mặt đất cũng giống như những chiếc lá trên cành cây, luôn luôn xanh tươi. Trái đất này cũng mang những con người, như cây mang những chiếc lá. Trái đất đầy dẫy những con người kế tiếp nhau, người này chào đời, trong khi người kia vẫy tay giã biệt. Cây không bao giờ cởi bỏ bộ áo màu xanh của mình, nhưng xin hãy nhìn xuống gốc cây: các ngài đang đạp trên một tấm thẩm đầy những chiếc lá khô mục” (Enarratio in Psalmum 101).

Người tín hữu Công giáo Việt Nam nào cũng có lòng biết ơn và kính nhớ tổ tiên của mình. Bàn thờ ông bà cha mẹ nhà nào cũng luôn hoa hương nhang khói chân thành ấm cúng. Ngày xuân ngày tết lại là dịp đặc biệt gợi nhớ đến công lao các vị tiền bối trong gia đình họ mạc. Hội thánh Việt Nam đã dành ngày mùng hai tết để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Nhớ đến công lao sinh thành dưỡng dục của các ngài, chúng ta tỏ lòng biết ơn các ngài và chân thành tâm nguyện sẽ tiếp tục sự nghiệp còn dang dỡ của các ngài, lo vun trồng tươi tốt những cây non là các thế hệ đến sau, để cho cây nhân sinh của dòng họ ta mãi mãi xanh tươi và đơm nhiều hoa trái, đóng góp với sự tốt tươi chung của rừng cây nhân loại. (CgvDt, số đặc biệt Giáng sinh ’99)

IV. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến, Chúa đã dạy chúng ta phải luôn hiếu thảo với ông bà cha mẹ, khi các ngài còn sống cũng như khi đã qua đời. Chúng ta cùng dâng những lời cầu nguyện sau đây:
1. Hội thánh luôn khuyến khích chúng ta phải nhớ ơn ông bà cha mẹ và các ân nhân đã qua đời / Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn làm gương cho mọi người chung quanh về lòng biết ơn đối với những người đã qua đời.
2. Truyền thống của dân tộc Việt Nam có những ngày tảo mộ, ngày giỗ, để tỏ lòng kính nhớ ông bà tổ tiên / Xin cho các nhà cầm quyền trong dân tộc luôn cổ võ và duy trì truyền thống tốt đẹp này.
3. Nhờ sự hiệp thông trong Hội thánh giữa các người còn sống với những người đã qua đời / Xin cho những người đã qua đời mà không có ai nhớ cầu nguyện cho / sớm được hưởng phúc trường sinh với Chúa.
4. Tham dự Thánh lễ là việc làm tốt đẹp nhất để cứu giúp các linh hồn còn đang phải luyện tội / Xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta biết sốt sắng tham dự Thánh lễ / để đền ơn trả nghĩa cho ông bà cha mẹ đã qua đời.

CT: Lạy Chúa, nhờ lời cầu nguyện và Thánh lễ chung con dâng lên Thiên Chúa hôm nay, xin Chúa thương giải thoát các linh hồn còn đang phải luyện tội / để sớm về nơi an nghỉ muôn đời với Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Kitô Chúa chúng con.

Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

MỒNG BA: CẦU NGUYỆN CHO
CÔNG ĂN VIỆC LÀM
Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Sau mấy ngày nghỉ ngơi vui Tết, chúng ta sẽ trở lại với công ăn việc làm thường ngày. Chúng ta hãy sốt sắng tham dự Thánh Lễ này và tha thiết cầu xin Chúa cho những việc làm của chúng ta vừa thánh hóa bản thân chúng ta, vừa đem lại những của cải vật chất nuôi sống gia đình chúng ta, vừa giúp chúng ta có điều kiện phục vụ tha nhân và xã hội.

II. GỢI Ý SÁM HỐI
• Nhiều khi chúng ta lười biếng không làm việc.
• Nhiều khi chúng ta làm những việc bất chính, không theo lương tâm, không hợp lẽ công bình.
• Ít khi chúng ta quan tâm làm việc để phục vụ tha nhân và xã hội.

III. GỢI Ý GIẢNG
1. Thánh hóa công ăn việc làm (St 1,11-12; Ga 5,1-18)
Ngày mùng ba tết đã được giáo quyền dành ra để thánh hóa công ăn việc làm.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Ðức Giêsu đã nói:”Cho đến nay, cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc”.

Mở đầu, Thiên Chúa đã làm việc trong sáu ngày để tạo dựng nên vũ trụ. “Cho đến nay, cha tôi vẫn làm việc”. Thiên Chúa hằng làm việc để duy trì gìn giữ công trình tạo dựng bao la kỳ vĩ của Ngài. Hằng ngày, chim trời vẫn ca hót líu lo, cá biển vẫn tung tăng bơi lợi, bông huệ ngoài đồng vẫn nở đẹp và không ngừng tỏa hương thơm. Mặt trời vẫn lên để làm cho đồng lúa chín vàng rực. Sóng biển vẫn ầm ào vỗ vào bờ cát và con người vẫn sống vui tươi…

Thiên Chúa vẫn làm việc và tôi (Ðức Giêsu) vẫn làm việc. Ngài đi khắp nơi rao giảng về vương quốc công bình tình thương của Thiên Chúa, làm các dấu lạ, chữa các tật bệnh phần hồn phần xác cho người đời.

Noi gương Chúa Giêsu, mỗi người cũng cần chăm chỉ làm tốt công việc hằng ngày của mình.

Có những người làm việc quên chết để trở nên giàu có và nổi tiếng, như các chính khách, các cầu thủ, các ca sĩ, các ngôi sao thể thao… Họ là những con người thành đạt, được người đời hăm mộ. Nhưng như ông Albert Einstein nhận định:”Con người thành đạt là một con người đã nhận rất nhiều ân huệ từ đồng loại mình, thường là nhiều vô kể so với cái anh chị ta đáp lại đồng loại mình. Giá trị của một con người ở nơi khả năng dâng tặng, chứ không phải ở khả năng lãnh nhận”.

Vậy ý nghĩa của sự làm việc, ngoài mục đích mưu sinh, còn là để góp phần với đồng bào đồng loại, làm cho xã hội ta sống phát triển ngày một cao hơn về hai mặt tâm linh lẫn vật chất.

Ngày mùng ba là ngày nghỉ chót, chúng ta chuẩn bị bắt đầu lại một năm làm việc cần mẫn. Thánh hóa công ăn việc làm, chính là mặc cho nó một ý nghĩa, đó là: làm việc để phục vụ. Phục vụ mình, phục vụ gia đình, và nhất là phục vụ đồng bào đồng loại. (CgvDt, số đặc biệt Giáng sinh 99)

2. Cảm nghĩ đầu xuân
Bầu khí của những ngày đầu năm rất đặc biệt khiến cho lòng chúng ta nao nao và gợi lên trong ta nhiều cảm nghĩ.

a. Cảm thấy lòng mình nao nao vì cảnh kẻ đến người đi
Cõi đời này giống như một sân khấu và người đời giống như những diễn viên. Mỗi diễn viên được đạo diễn dành cho một khoảng thời gian diễn xuất trên sân khấu cuộc đời. Diễn xong thì rút lui nhường chỗ cho diễn viên khác bước lên. Nhưng có một điều không hoàn toàn giống sân khấu, đó là cuộc đời không phải chỉ là đóng kịch. Bởi vậy điều quan trọng không phải là mình đóng vai chính hay vai phụ và thời gian đóng của mình dài hay ngắn, nhưng là mình có đóng trọn vai trò của mình đúng ý đạo diễn hay không, mình có hoàn thành sứ mạng mà Thiên Chúa đã giao cho mình thực hiện trong khoảng thời gian mà Thiên Chúa ban cho mình ở cõi đời này hay không.

b. Nghĩ tới vai trò và sứ mạng của mình
Tôi không được biết vị Ðạo diễn đời tôi là Thiên Chúa sẽ dành cho tôi bao nhiêu thời gian. Nhưng tôi biết chắc Chúa cho tôi thời gian sống không phải chỉ để ăn để ngủ để vui chơi và để hưởng thụ, mà để đóng trọn vai tuồng của mình, để hoàn thành nhiệm vụ Ngài giao. Sự có mặt của tôi trên sân khấu đời này không phải chỉ làm cho đời này tốn thêm một phần cơm áo, không phải để bắt một số người phải cực nhọc phục vụï tôi, phải khổ sở vì tính tình ích kỷ khó chịu của tôi. Trái lại Chúa muốn sự có mặt của tôi trên đời sẽ làm cho đời được tốt đẹp hơn, những người sống chung với tôi được hạnh phúc hơn. Chúa cho tôi sống trên đời là để tôi làm đúng theo ý Chúa, và sứ mạng của tôi là góp phần làm cho Nước Chúa trị đến.

Lời Chúa khuyên trong Tin Mừng thật chí lý: Chúng con đừng mãi lo sẽ ăn gì uống gì mặc gì, cũng đừng lo làm sao kéo dài mạng sống của mình. Tiên vàn chúng con hãy lo tìm sự công chính (tức là tìm làm theo thánh ý Chúa) và xây dựng Nước Chúa. Rồi mọi sự khác Cha sẽ lo cho chúng con. Khi nào màn kịch của đời tôi chấm dứt, vị Ðạo diễn Thiên Chúa sẽ đánh giá đời tôi: Ngài không đánh giá xem tôi sống ở đời dài hay ngắn, tôi làm ăn có khá không, nhưng chỉ đánh giá xem tôi có dùng thời gian Ngài ban để làm đúng ý Ngài và để góp phần xây dựng Nước Chúa không. Rồi Ngài sẽ thưởng phạt tôi. Một khoảng thời gian ngắn ngủi trên đời sẽ là thước đo định đoạt số phận của tôi muôn đời.

c. Nghĩ rằng thời gian dành cho mình đang hết dần
Khi tôi đi nhổ một cái răng hư, tôi chợt nghĩ “Thế là một phần cơ thể của mình đã từ giã mình ra đi”. Khi tôi mua mắt kiến để đọc chữ cho được rõ hơn, tôi tự nhủ “Thêm một phần cơ thể của mình suy yếu nữa”. Và khi bác sĩ cho tôi biết bao tử của tôi đang có vấn đề, tôi lại nghĩ “Ðây là tiếng còi báo hiệu chuyến tàu đời mình đã đi xong một chặng đường nữa để dần dần tiến đến chặng cuối”. Thực vậy, mỗi một phần cơ thể bị bệnh đều là những tiếng Chúa nhắc chúng ta nhớ rằng mình không sống mãi, mình đang tiến dần đến cái chết. Những người hơi cao tuổi chắc cảm nghiệm điều này rõ hơn.

Nhưng chúng ta không nên sợ, trái lại càng phải cám ơn Chúa, vì nếu Ngài không nhắc để rồi đột ngột một ngày nào đó Ngài gọi chúng ta vĩnh viễn ra đi thì chúng ta sẽ chới với rụng rời. Ra đi vào cõi đời đới mà không kịp chuẩn bị hành trang gì cả, đó mới là đáng sợ. Bởi đó chúng ta phải cám ơn Chúa vì những tiếng chuông nhắc nhở của Ngài cho chúng ta lo chuẩn bị. Chuẩn bị thế nào ” Tiên vàn chúng con hãy tìm làm theo ý Chúa và góp phần xây dựng Nước Ngài, rồi mọi sự khác Chúa sẽ lo cho chúng con”.

d. Cần lao (St 1,11-12; Ga 5,1-18)
Ca dao có câu “Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai trồng đậu trồng khoai trồng cà”. Có lẽ thời trước người ta nhàn hạ hơn nên dám bỏ ra cả một tháng để “ăn chơi”. Còn thời nay chúng ta chỉ ăn Tết một vài ngày. Nhưng dù xưa hay nay, dù ăn Tết cả một tháng hay chỉ một vài ngày thì sau đó cũng phải làm việc trở lại.

Nghĩ đến công việc phải làm trong năm mới, có người thì ngao ngán, nhưng dù ngán cũng vẫn phải làm; có người thì dửng dưng chẳng suy nghĩ gì cả, làm thì làm vậy thôi. Phần chúng ta, Giáo Hội dành ra ngày mồng 3 Tết để cầu nguyện cho công ăn việc làm trong năm. Hôm nay chúng ta hãy dựa vào Lời Chúa để suy nghĩ về việc làm của chúng ta trong năm sắp tới.
Nếu đọc kỹ bài đọc thứ nhất trích sách Sáng thế có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên. Xưa nay chúng ta tưởng rằng 2 ông bà nguyên tổ trong vườn Ðịa đàng chỉ ở không và hưởng thụ, không phải làm gì cả. Nhưng sách Sáng thế nói Thiên Chúa cho ông bà ở trong vườn địa đàng để “canh tác và giữ vườn”. Ðịa đàng là hình ảnh của hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ấy con người phải “canh tác” nghĩa là phải làm việc để tạo ra. Và con người cũng cần phải “giữ vườn” nữa, nghĩa là hạnh phúc ấy con người phải gìn giữ thì nó mới tồn tại và con người mới tiếp tục được hưởng nó.

Như vậy, bài trích sách Sáng thế cho ta thấy mục đích thứ nhất của việc làm là để tạo ra hạnh phúc và gìn giữ hạnh phúc cho mình. Nói cách khác, mục tiêu thứ nhát của làm việc là “vì mình” và những người thân trong gia đình mình.
Còn bài Tin Mừng thì ghi lại một cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái. Vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabát nên những người biệt phái trách rằng Ngài vi phạm luật nghỉ làm việc trong ngày đó. Ðể trả lời họ, Chúa Giêsu nói “Cha tôi vẫn làm việc luôn, cho nên tôi cũng làm việc”. Trong cuộc tranh luận này, cách suy nghĩ của những người biệt phái và Chúa Giêsu khác nhau.. Những người biệt phái chỉ biết có mỗi một việc làm của Thiên Chúa là tạo dựng, sau khi tạo dựng xong trời đất muôn vật thì Thiên Chúa nghỉ ngơi. Suy nghĩ như thế thật thiếu sót. Chúa Giêsu cho biết thêm rằng ngoài việc tạo dựng, Thiên Chúa còn quan phòng nữa, nghĩa là tiếp tục chăm sóc những loài Ngài đã dựng nên. Và việc chăm sóc này thì Ngài làm không bao giờ nghỉ. Nếu Chúa chỉ buông lơi một phút thôi không chăm sóc chúng ta thì chúng ta sẽ chết liền. Bởi thế Chúa Giêsu nói “Cha tôi làm việc liên lỉ”. Ngài còn nói tiếp “Cho nên tôi cũng làm việc”. Chúa Giêsu làm việc gì? Thưa Ngài giảng dạy và cứu chữa những người bệnh tật đau khổ.

Như vậy, Chúa Giêsu cho ta hiểu việc làm còn có mục đích thứ hai nữa, là “vì người khác”, đặc biệt là những người khốn khổ.

Lời Chúa hôm nay soi sáng cho chúng ta thấy rõ hơn một số điều:
– Thứ nhất, làm việc là điều tốt đẹp cao cả. Ngay từ khi mới tạo dựng con người, dù Thiên Chúa cho nguyên tổ được sống hạnh phúc trong vườn Ðịa đàng, nhưng nguyên tổ vẫn phải canh tác và gìn giữ hạnh phúc được tượng trưng bằng khu vườn Ðịa đàng ấy. Chúa Giêsu và ngay cả Thiên Chúa cũng phải làm việc liên lỉ. Huống chi là chúng ta.
– Thứ hai, noi gương Thiên Chúa, chúng ta làm việc, không chỉ làm việc vì mình và những người thân của mình, mà còn để phục vụ và giúp đỡ những người khác, nhất là những người khốn khổ. Phải thành thật nhìn nhận rằng từ trước tới nay, chúng ta làm việc hầu như chỉ nhắm đến mỗi một mục tiêu là “vì mình” chứ không nhắm đến “vì người khác”.

Chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả những việc chúng ta sẽ làm trong năm cùng với những lao nhọc cực khổ chúng ta sẽ gặp phải khi làm việc.
• Xin Chúa giúp chúng ta cảm thấy hạnh phúc trong công việc
• Xin Chúa giúp để việc làm của chúng ta đem lại đủ nuôi sống bản thân và gia đình chúng ta.
• Xin Chúa mở rộng lòng, rộng tay của chúng ta để chúng ta biết chia sẻ thành quả công việc cho những người túng thiếu.

e. Xin gì dịp đầu năm? (Mt 6,31-34)
Trong những ngày đầu năm, chắc hẳn mỗi người chúng ta đều có chung một ước muốn, đó là xin Chúa ban ơn cho mình trong năm mới. Phần Chúa thì chắc hẳn cũng sẵn sàng ban ơn cho chúng ta. Vậy hôm nay chúng ta nên xin gì?

Một người kia cứ xin Chúa ban ơn hoài. Chúa nghe mãi đến nỗi phải mệt. Vậy để giải quyết anh này, Chúa nói: “Bây giờ Ta quyết định ban cho con bất kỳ 3 điều nào mà con xin. Sau đó thì thôi Ta không ban ơn gì nữa cả”. Anh rất vui sướng và xin ngay: “Xin cho vợ con chết đề con cưới một người vợ khác tốt hơn”. Chúa nhậm lời, vợ anh chết. Nhưng khi bà con và bạn bè đến lo chôn cất vợ anh, họ nhắc lại những phẩm chất tốt của chị, khi đó anh mới tiếc và biết rằng mình đã quá hấp tấp khi xài lời xin thứ nhất. Anh đành phải xài thêm lời xin thứ hai: Xin cho vợ con sống lại. Chúa cũng nhậm lời. Thế là anh chỉ còn có một lời xin thôi. Ðây là cơ hội cuối cùng nên anh suy nghĩ rất kỹ phải xin gì?
– Một người bạn góp ý hãy xin cho được bất tử. Nhưng người khác nói bất tử có ích lợi gì nếu không có sức khoẻ tốt. Vậy hãy xin sức khoẻ.
– Nhưng một người khác nói sức khoẻ thì làm gì được nếu không có tiền. Vậy hãy xin tiền.
– Người thứ ba phản đối: tiền bạc có nhiều cũng vô ích nếu không có bạn. Hãy xin có thật nhiều bạn. Ý kiến này cũng có người khác phản đối nữa.
Tóm lại, muốn xin cái gì thì thoạt đầu thấy cái đó là tốt nhưng suy nghĩ lại thì thấy nó cũng chưa phải là tốt nhất. Anh chàng bối rối quá, chạy tới nói với Chúa “Xin Chúa dạy con biết phải làm gì bây giờ?”. Chỉ vì bối rối quá nên anh mới nói với Chúa vậy thôi chứ anh nào ngờ đây là lời xin thứ ba và cũng là lời xin cuối cùng. Từ nay anh không còn được quyền xin gì nữa cả. Anh tiếc quá sức, gãi đầu gãi cổ và tự trách mình. Nhưng khi đó xảy ra một điều bất ngờ, bất ngờ hơn cả sự bất ngờ của anh khi thốt lên lời xin thứ ba. Sự bất ngờ này là Chúa mỉm cười hài lòng. Chúa nói: Con thật là khôn ngoan khi xin như vậy. Từ nay Ta sẽ chỉ cho con biết phải làm gì. Con chỉ việc nghe theo lời Ta chỉ dạy, và đời con sẽ được hạnh phúc, hạnh phúc muôn đời, hạnh phúc mãi mãi.

Câu chuyện trên đủ trả lời cho câu hỏi chúng ta đặt ra hồi nảy: Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta nên xin gì với Chúa.
– Xin cho được nhiều tiền chăng? Nhưng phải chăng có nhiều tiền là hạnh phúc? Chúng ta đã thấy nhiều gia đình rất giàu nhưng vợ chồng con cái đối xử với nhau rất tệ.
– Xin cho được sống lâu chăng? Nhưng phải chăng sống lâu là hạnh phúc? Có nhiều người sống lâu quá đến nỗi con cháu phát chán.
Chúng ta đang rơi vào tình trạng bối rối của anh chàng kia rồi.
Vậy hãy hỏi Chúa xem ta nên xin gì.
Trong Tin Mừng, Chúa bảo: “Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính. Rồi mọi thứ khác Cha trên trời sẽ lo cho chúng con”. Trong ngữ vựng của Tin Mừng, “tìm sự công chính” có nghĩa là tìm thánh ý Chúa. Như thế, câu trả lời này giống y câu Chúa đã trả lời cho anh chàng kia: xin cho mình được biết ý Chúa và làm theo ý Chúa, đó là lời xin khôn ngoan nhất, tốt đẹp nhất, quý giá nhất, vì xin điều này là sẽ được tất cả mọi điều khác.

Chắc là có người không tin. Vậy chúng ta hãy lý luận một chút. Những ai đã làm cha làm mẹ chắc hiểu rất rõ cha mẹ lo gì cho con cái và mong muốn gì nơi chúng. Có phải chăng ông bà anh chị em sẵn lòng lo cho con cái mình tất cả những gì cần thiết cho nó như cơm nước, quần áo, tiền bạc, vui chơi, sức khoẻ, học hành, tương lai v.v. Tóm lại là lo hết mọi thứ, dù cho mình thiều thốn nhưng mình cũng sẵn sàng lo cho con, miễn là nó hạnh phúc thôi. Và khi lo cho nó tất cả như vậy, ông bà anh chị em mong muốn gì nơi con cái mình? Phải chăng chỉ mong muốn một điều duy nhất là nó biết nghe theo lời dạy bảo của mình. Nếu chúng ta có một đứa con thông minh, làm được rất nhiều việc nhưng luôn cãi cha cãi mẹ, thì chắc chúng ta không vui vẻ gì. Trái lại một đứa con ít thông mình, ít tài nhưng ngoan ngoãn, chịu khó làm theo lời mình dạy bảo thì một mặt nó làm vui lòng mình và mặt khác đời nó cũng thành đạt, bởi vì thực ra tất cả những gì mình chỉ dạy nó đều là để cho nó được tốt mà thôi, nếu nó nghe thì nó tốt.

Thì Thiên Chúa cũng thế. Có khác một điều là vì chúng ta là người phàm nên có nhiều điều chúng ta muốn lo cho con cái nhưng lo không nổi, một số điều ta dạy bảo chúng cũng chưa hẳn là hay nhất, tốt nhất. Phần Chúa thì toàn năng quyền phép vô cùng Chúa muốn lo cho chúng ta điều gì là Ngài thừa sức lo được. Ngài thông minh vô cùng nên Ngài dạy ta điều gì thì chắc chắn đó là đều hay nhất và tốt nhất.

Bởi vậy Chúa có đầy đủ lý do để nói rằng: chúng ta chẳng cần lo gì cả ngoài lo tìm biết và làm theo ý Chúa. Chúng ta cũng có đầy đủ lý do để tin một cách chắc chắn rằng xin cho được biết ý Chúa và làm theo ý Chúa, đó là điều xin khôn ngoan nhất, được điều này là được tất cả những điều khác.

Tóm lại, điều chúng ta cần xin nhất là xin Chúa cho ta biết Ngài muốn ta làm gì; điều chúng quyết tâm là trong năm nay ta sẽ lo tìm biết để thi hành ý Chúa, còn mọi sự khác chúng ta giao hết cho Chúa xin Ngài lo liệu cho chúng ta.

IV. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến
Sau những ngày nghỉ Tết, chúng ta sắp trở lại với công ăn việc làm thường ngày. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện với Chúa.

1. Người kitô hữu không chỉ có trách nhiệm xây dựng gia đình mình mà còn phải xây dựng Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi kitô hữu ý thức trách nhiệm của mình / và mỗi người tích cực góp phần xây dựng Hội Thánh.
2. Trong xã hội / vẫn còn rất nhiều người thất nghiệp / hoặc làm những nghề nghiệp bất chính / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người có trách nhiệm lãnh đạo Ðất Nước / có thể đề ra những đường lối tạo công ăn việc làm tốt cho hết mọi người.
3. Chúng ta hãy đặc biệt hiệp lời cầu xin cho những người nghèo khổ / không có công ăn việc làm xứng đáng / xin Chúa thương ban cho họ luôn có lương thực hằng ngày.
4. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thánh hóa việc làm hằng ngày của mình / và biết chia xẻ thành quả lao động cho những người túng thiếu hơn mình.

CT: Lạy Chúa, sau mấy ngày nghỉ ngơi, chúng con sắp trở lại với công ăn việc làm. Chúa đã ban cho chúng con đôi tay và khối óc. Xin Chúa giúp chúng con sử dụng chúng để siêng năng lao động, vừa lo cho cuộc sống bản thân, vừa phục vụ mọi người. Chúng con cầu xin nhờ công nghiệp Ðức Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.

Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Lễ tất niên
Lắng nghe Lời Chúa:
Is. 63, 7-9 / 2 Co. 1, 3-9 / Lc. 1, 39-55

Tìm hiểu Lời Chúa
Hôm nay là ngày lễ tạ ơn cuối năm ,. Phụng vụ ngày lễ tất niên hôm nay lấy lại lời kinh Magnificat của Đức Mẹ để tạ ơn Chúa trong dịp cuối năm.

Bài Tin Mừng nhắc đến cuộc viếng thăm của Đức Maria. Và không phải một mình Đức Mẹ mà cả Chúa Giêsu trong bụng Mẹ. Suốt năm qua, Chúa và Mẹ cũng đã đến trong gia đình ta, thăm mỗi người chúng ta khi ta cần đến Chúa và Mẹ, cũng như bà Êlisabeth cần đến sự giúp đỡ của Mẹ trong những ngày sắp sinh nở. Phải, không có Chúa và Mẹ thì cuộc sống của chúng ta có lẽ không được như ngày hôm nay.

Đức Mẹ đã hát lên bài kinh Magnificat để tạ ơn Chúa: Linh hồn tôi ngợi khen Đức Cha vì Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi. Dân Do thái đã không nhận ra cuộc viếng thăm của Chúa, cũng như nhiều người trong chúng ta cũng không nhận ra sự viếng thăm của Chúa và Mẹ; nhưng dầu ta có nhận ra hay không, thì Chúa và Mẹ vẫn đến trong gia đình ta, trong đời sống ta, cũng như Chúa vẫn đến trong thế gian nầy mặc dầu con người không nhận ra Ngài.

Vì thế dịp cuối năm là lúc chúng ta cùng với Đức Mẹ tạ ơn Thiên Chúa.

Tạ ơn Chúa vì những sự may lành trong năm vừa qua, nhưng nhất là tạ ơn Chúa vì sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống suốt năm qua, chính sự hiện diện đó đã làm cho đã làm cho cuộc đời chúng ta có ý nghĩa, cũng đã làm cho những thử thách đau khổ của chúng ta có ý nghĩa.

Thêm một lý do nữa để ta phải tạ ơn Chúa là suốt năm qua, mặc dầu chúng ta lỗi lầm thiếu sót rất nhiều đối với Chúa cũng như đối với tha nhân, nhưng Chúa vẫn không bỏ mặc chúng ta. Chúa đã tha thứ và đón nhận chúng ta như người Cha nhân lành chờ đứa con hoang trở về.

Dịp nầy, chúng ta cũng tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta có nhiều người giúp đỡ ta trong cuộc sống. Chúng ta phải biết tạ ơn Chúa và tạ ơn nhau. Hai tiếng cám ơn rất dễ nói, nhưng trong gia đình, giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, chúng ta ít khi nói với nhau, ít biết ơn nhau. Đó là một sự thiếu tế nhị, một thiếu sót trong việc xây dựng một gia đình hạnh phúc.
Dịp cuối năm thường người ta cũng tính lại sổ sách, nhìn lại cuộc sống gia đình cũng như bản thân. Người ta thường làm như thế về cuộc sống vật chất, nhưng ít ai biết làm như thế về đời sống tinh thần hay đạo đức. Nhìn lại để chúng ta tìm cách cho cuộc sống đó tốt hơn. Thiết tưởng chúng ta cũng phải làm như thế, đối với đời sống tinh thần và đạo đức, đời sống với Chúa.

Lắng nghe Chúa nói:
Chớ gì tối nay mỗi thành phần trong mỗi gia đình đều tụ họp nhau trước bản thờ gia đình để dâng lên Chúa và Đức Mẹ lời tạ ơn.

Chúa Giêsu đã trách những người cùi khi được lành không trở lại tạ ơn Chúa. Nếu trong dịp cuối năm nầy, chúng ta không biết tạ ơn Chúa và Đức Mẹ thì cũng thật là đáng trách vậy.

Lời nguyện cuối năm:
Lạy Chúa Giêsu, ngày cuối năm, chúng con xin dâng lên Chúa lời cảm tạ tri ân vì những ơn lành Chúa đã ban cho chúng con trong năm qua. Chúa đã gìn giữ chúng con an lành qua khỏi mọi tai họa, và hướng dẫn mỗi người chúng con trong cuộc sống hằng ngày. Chúng con hết lòng cảm tạ Chúa.

Lễ Giao thừa.
CẦU BÌNH AN CHO NĂM MỚI
Lm. Đoàn Văn Lữ

Lắng nghe Lời Chúa:
Bài đọc 1: dân số 6, 22-27: Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em.
Bài đọc 2; 1 Thess. 5, 16-26. 28: Hãy càu nguyện không ngừng, hãy ạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Mt. 5, 1-10: Phúc thay ai có lòng nghèo khố vì nước Trời là của họ

Tìm hiểu Lời Chúa.
Bát Phúc .Trước đây, mỗi lần đọc đến bài Bát phúc, tôi thường thấy khó chịu : Nghèo, than khóc, bị bắt bớ…mà phúc cái nỗi gì! Nhưng khi đọc lại kỹ lời dạy trong Bát Phúc, tôi lại thấy thấm thía và phấn khởi. Trước đây tôi thấy khó chịu là vì tôi không hiểu lời chúc phúc của Chúa cũng như không hiểu niềm hy vọng chưa đựng trong đó.
Vậy trước hết chúng ta tìm hiểu mỗi lời chúc trong Bát Phúc.
Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì nước Trời là của họ : Chúa không chúc phúc cho người nghèo, vì nghèo thì có gì sung sướng mà gọi là phúc; nhưng Chúa chúc phúc cho người có tinh thần nghèo khó: trước mặt Thiên Chúa, con người luôn là người nghèo, luôn lãnh nhận tất cả từ Thiên Chúa, không có quyền đòi hỏi. Sự sống, ông bà cha mẹ, tình yêu, mọi khả năng…tất cả đều là ân huệ của Chúa. Chính cái tinh thần nghèo khó nầy làm nên phẩm giá con người chứ không phải là sự giàu có vật chất. Phẩm giá của chúng ta là được thuộc về Thiên Chúa, được Thiên Chúa thương yêu và ban cho. Phẩm giá đây là được làm con Chúa, hưởng phần gia nghiệp của Chúa. Tinh thần nghèo khó vì thế là tinh thần con cái.

Phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp : người nghèo thường hiền lành vì họ không có sức mạnh hay uy thế của đồng tiền, họ là người thấp cổ bé miệng. Họ chỉ có một khí giới duy nhất là sự hiền lành, đức nhẫn nhục và lòng cậy trông vào Thiên Chúa. Chiến thắng cuối cùng không thuộc về kẻ dùng sức mạnh hay vũ lực, nhưng thuộc về kẻ cậy trông vào Chúa.

Phúc thay ai sầu khổ vì họ sẽ được ủi an : Được ủi an đây nghĩa là được Thiên Chúa ủi an. Những lúc ta sầu khổ, thất vọng lại là lúc Thiên Chúa gần chúng ta nhất. Hai môn đệ trên đường Êmau, thất vọng vì cái chết của Chúa Giêsu, chính lúc ấy Chúa lại hiện ra và đồng hành với họ.

Phúc thay ai khao khát nên người công chính, vì họ sẽ được thỏa lòng : Người công chính là người sống đức tin, là người muốn sống tốt, người cố gắng sống những đòi hỏi của Phúc Âm, để cho lời Chúa uốn nắn tâm hồn và cuộc sống mình. Đang lúc cố gắng sống như thế thì ơn Chúa sẽ giúp họ được thỏa lòng.

Phúc thay ai biết xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương : Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, quảng đại khôn lường, Ngài không bao giờ thua lòng quảng đại của con người. Người kitô hữu phải học cho biết sống lòng quảng đại, tha thứ cho mọi xúc phạm của anh em, cũng như biết giúp người anh em trong cảnh sầu khổ như Cha trên Trời, Đấng đã cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người dữ.

Phúc thay ai có lòng trong sạch vì họ được nhìn xem Thiên Chúa : Lòng trong sạch ở đây không nói trực tiếp đến đức trinh khiết, nhưng là lòng ngay thẳng, một đức tính nối kết lời nói việc làm với con tim trước mặt Thiên Chúa cũng như trước mặt người đời.

Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa : Xây dựng hòa bình mà chỉ sống hòa thuận với mọi người mà thôi thì chưa đủ, phải chủ động mang hòa bình tới nơi không có hòa bình: trong môi trường gia đình, xóm giềng, trong cộng đồng kitô hữu, giữa các dân tộc. Vì Cha trên Trời đã ban bình an cho mọi người thì con cũng phải tiếp tục công việc của Cha.

Phúc thay ai chịu bách hại vì sự công chính, vì Nước Trời là của họ : Thường những ai muốn sống tốt, muốn sống theo tinh thần Bát Phúc, sẽ bị hiểu lầm và chống đối, cả bách hại nữa, vì tinh thần Phúc Âm thường đi ngược lại với mọi thứ đam mê trần thế, sống Phúc Âm thường bị hiểu lầm.

Qua những mối phúc vừa nói trên đây, ta thấy hiện lên dung mạo của Đức Kitô, Đấng đã thực hiện cách trọn vẹn những mối phúc ấy trước khi đem ra dạy dỗ lòai người. Cuộc sống, lời nói, việc làm của Chúa tỏ ra Ngài là người nghèo, người hiền lành, người có lòng thương xót, người có tấm lòng thanh sạch và người luôn xây dựng hòa bình.

Chữ sẽ : sẽ được đất, sẽ được Nước Cha, sẽ được thấy, sẽ được gọi là con…chữ sẽ hướng về tương lai, về niềm hy vọng. Nói cách khác, nếu chúng ta cố gắng sống tinh thần tám mối phúc thì ta sẽ được đất , được Nước Chúa…làm gia nghiệp.
Trong đêm Giao thừa nầy, chúng ta dâng lễ cầu bình an cho năm mới. Đầu năm mới chúng ta thường chúc cho nhau những điều may mắn, điều đó cũng đúng thôi, ai mà chẳng muốn thế. Nhưng người kitô hữu cũng phải cầu nguyện cho chính mình và người thân của mình, cho mọi người biết sống tinh thần tám mối phúc như chúng ta vừa hiểu trên đây. Vì có như thế thì chúng ta mới có cuộc sống tốt đẹp được, tốt đẹp cả hồn lẫn xác.

Nhưng giờ phút giao thừa nầy, chúng ta cầu xin ơn bình an cho mỗi một người chúng ta, cho gia đình chúng ta, cho làng xóm và đất nước chúng ta, cho Giáo Hội và thế giới. chúng ta đang chứng kiến những cuộc chiến tranh đẩm máu, chứng kiến sự mất bình an trong nhiều quốc gia, trong nhiều gia đình cũng như trong nhiều tâm hồn. Ai cũng muốn bình an cả, nhưng ít ai chịu sống bình an với kẻ khác. Hòa bình bắt nguồn từ cái tâm của con người. Vì thế cầu nguyện chưa đủ, chúng ta phải xây dựng hòa bình, trở nên chiến sĩ hòa bình trong gia đình, trong xóm giềng, với những kẻ chung ta chung sống hằng ngày với ta. Mỗi người chúng ta hằng ngày phải hát lên kinh Hịa Bình của Thánh Phanxicô, để thúc dục mình trở nên khí cụ hòa bình của Chúa, và không có Chúa trong cuộc sống thì không thể nào có hòa bình đích thực được: Thầy ban bình an cho anh em: bình an cuối cùng là một ơn của Chúa ban., chúng ta cần xin ơn ấy cho chính mình, cho gia đình, cho Giáo Hội, cho đất nước và cho cả thế giới.
Lắng nghe Chúa nói:
Tâm hồn nào, gia đình nào có Chúa ở cùng thì sẽ có bình an. Đầu năm mới nầy, chúng ta hãy mời Chúa và Mẹ Maria đến trong tâm hồn, trong gia đình chúng ta.

Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, trong giây phút giao thừa này, gia đình chúng con xin dâng lên Chúa lời cầu xin cho Năm mới được bình an mạnh khỏe và luôn biết cố gắng sống đẹp lòng Chúa.

Lm. Đoàn Văn Lữ

Tết Nguyên Đán
Ngày Mồng một.
Lm. Đoàn Văn Lữ

Lễ tân niên

Lắng nghe Lời Chúa;
St. 1, 14-18 / Phil. 4, 4-8 / Mt. 6, 25-34

Tìm hiểu Lời Chúa. Chúc bình an
Người Do thi gặp nhau thì chào: Shalom, chúc bình an. Lời cầu chúc trong Kinh Thánh là một vấn đề quan trọng trong cuộc sống. Trong Cựu ước, các Tổ phụ rất coi trọng lời cầu chúc. Chúng ta nhớ đến câu chuyện ông Giacob phổng tay trên lời chúc lành của cha là Isaac. Khi thánh Phaolô viết thư cho các giáo đòan, lời đầu tin là lời cầu chúc bình an và ân sủng. Vậy việc cầu chúc cho nhau trong năm mới là một tập tục tốt lành của dân tộc ta.

Có người cho rằng những lời cầu chúc đó chỉ là khách sáo, đầu môi chót lưỡi mà thôi, chỉ là hình thức xã giao ngày tết cho vui mà thôi. Nhưng trong thực tế, lời cầu chúc đó chỉ là xã giao lịch sự bên ngòai hay là một lời nói chân tình và có giá trị, tùy ở hai điểm sau đây:
– Lời cầu chúc đó phải đi đôi với lời cầu nguyện cho nhau, vì chính Chúa sẽ thực hiện lời cầu chúc đó chứ không phải ai khác. ;
– lời cầu chúc chân tình hay không là tùy cách sống của chúng ta: cách sống với nhau là cách thực hiện lời cầu chúc chân tình đó. Cầu chúc cho nhau bình an thì cuộc sống phải cố gắng xây dựng sự bình an đó trong gia đình trong xóm giềng, với những người thân cận của chúng ta.

Lắng nghe Chúa nói:
Chúc cho nhau một năm mới, phải, nhưng năm đang đến không tự nó sẽ nên mới nhờ một phép mầu nào cả. Muốn cho năm mới thật là mới, thì con người phải đổi mới; chỉ có con người với ơn Chúa, cố gắng đổi mới chính mình thì mới làm cho năm mới trở nên mới mà thôi. Những vấn đề của mỗi người, mỗi gia đình cũng như của xã hội trong năm cũ không phải tự nhiên mà biến mất trong năm mới, như bông mai rụng xuống đất sau ba ngày tết. Phải đầu tư trí óc cũng như ý chí mới mong giải quyết được những tồn tại trong năm cũ; ước mơ khi ấy mới trở thành hiện thực được.

Một thiếu nữ nằm ngủ mơ thấy mình đứng trước một gian hàng ở thiên đàng. Một vị thiên thần niềm nở đón tiếp. Thiếu nữ hỏi: Thưa thiên thần, ở đây thiên thần bán những gì?Thiên thần vui vẻ đáp: tất cả những gì cô muốn. Thiếu nữ liền nói một hơi: Thế thì xin thiên thần bán cho con ơn chấm dứt chiến tranh, chấm dứt nạn đói, chấm dứt thiên tai bão lụt. Xin thiên thần bán cho con và cho cả nhân loại nầy, ơn có công ăn việc làm, đất đai phì nhiêu, mùa màng tươi tốt, sự hiệp nhất yêu thương và tình người thắm thiết. . . Thiếu nữ nghỉ hơi, định nói tiếp thì thiên thần vui vẻ lên tiếng: Cơ hiểu lầm gian hảng của tôi rồi. Cô nhìn kỹ xem, chúng tôi chỉ bán hạt giống thôi, chứ đâu có bán hoa trái.
Hạt giống hạnh phúc thì Chúa đã gieo trong tâm hồn, trong con tim mỗi người; chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa để cho hạt giống đó sinh hoa kết quả trong cuộc sống. Hãy cầu chúc năm mới cho nhau trong tinh thần đó.

Lời nguyện đầu năm:
Lạy Cha Chí Thánh, ngày đầu năm, gia đình chúng con xin dâng lên Cha hồn xác chúng con; xin Cha che chở giữ gìn cho chúng con luôn được sống dưới sự che chở của Ch cả hồn lẫn xác, để chúng con luôn sống đẹp lòng Cha.

Lm. Đoàn Văn Lữ

MỒNG HAI TẾT
Lm. Đoàn Văn Lữ

Lắng nghe Lời Chúa:
Hc. 44, 1. 10-15 / Eph. 6, 1-4. 1823 / Mt.15,1-6:
Ngươi hãy thảo kính cha mẹ.

Tìm hiểu Lời Chúa. / Kính nhớ ông bà tổ tiên.
Dân tộc VN . có đạo ông bà, đó là một đặc điểm của chúng ta, dù theo tôn giáo nào hay không, thì người VN vẫn giữ đạo ông bà.

Hơn ai hết, người công giáo phải giữ đạo hiếu, vì chúng ta có điều răn thứ bốn : phải thảo kính cha mẹ.

Một trong những cơn khủng hoảng lớn của nhân loại hôm nay, đó là khủng hoảng của gia đình…Người Âu Mỹ nhìn vào gia đình truyền thống VN với con mắt thèm muốn.

Thánh Phaolô hôm nay nói với chúng. ta: đạo làm con là hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa. Nghĩa là như Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha: vâng lời cho đến chết. Trong lúc đó thì thánh nhân cũng dạy : Cha mẹ đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy thay mặt Chúa mà giáo dục chúng. Thay mặt Chúa đây nghĩa là gì ? Thiên Chúa là tình yêu, phải lấy tình thương mà giáo dục con cái, đừng làm cho con cái khiếp sợ hay tức giận, vì chỉ có tình thương mới đổi mới được con người.

Hãy giáo dục con cái trước hết bằng gương sáng của ông bà cha mẹ. Con nhà tông, không giống lông thì cũng giống cánh. Cha mẹ hiền lành để đức cho con. Người ta thường nói đến phúc ấm gia đình.

Tổ tiên, Ông bà cha mẹ là những ơn to lớn Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Vô cổ bất thành kim, không có ông bà thì làm gì có ta. Nhớ đến tổ tiên ông bà cha mẹ là ta nhớ đến ơn Chúa để cảm tạ Chúa.

Nhớ đến tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời mà hương khói cho họ là điều tốt, nhưng ăn ở hiếu nghĩa với ông bà cha mẹ còn sống thì tốt hơn. Sống không cho ăn, chết lại lăn ra mà khóc. Cách tỏ ra hiếu nghĩa với ông bà cha mẹ đã qua đời hay còn sống là sống cho xứng đáng, đừng làm phiền lòng các ngài.

Ngày xưa vua Lê Thánh Tôn nghe tin một đại gia đình, sống chín đời với nhau trong một nhà mà vẫn hòa thuận thương yêu nhau. Lấy làm lạ, một hôm nhà vua đi ngang qua vùng đó, liền ghé thăm để hỏi cho biết làm sao mà họ có thể sống được như vậy. Người ông cố trong gia đình liền thưa: Muơn tu bệ hạ, chúng thần dốt nát, chỉ biết dạy con cháu một chữ mà thôi. Vua hỏi, chữ đó là chữ gì vậy? Ông thưa: Thưa bệ hạ đó là chữ nhịn; ai nói gì, mình nhịn đi là êm xuôi. Một gia đình mà ai cũng biết nhịn kẻ khác như thế cả, thì gia đình sẽ êm ấm biết bao. Cha mẹ ông bà sống làm gương cho con cái trong những đức tính như yêu thương, nhịn nhục, tha thứ, thì gia đình đó là một gia đình hạnh phúc.
Lm. Đoàn Văn Lữ

Mồng Hai Tết.
Lm. Đoàn Văn Lữ

Niềm vui ngày tết.
Người ta bảo: vui như ngày tết. Đúng vậy. Ngày tết là ngày vui của gia đình, của họ hàng cũng như bạn bè; ngày tết, gặp nhau ai cũng cười cả. Niềm vui ngày tết là niềm vui cho kẻ sống cũng như cho người đã qua đời.

Hồi còn nhỏ, cứ mong cho đến ngày tết. Tết được nghỉ học, được ăn ngon mặc đẹp, được đi chơi, được tự do không bị rằng buộc bởi bổn phận hằng ngày, được lì xì! Người lớn cũng vui: được nghỉ ngơi thăm viếng nhau, mời nhau ăn uống, nối lại tình nghĩa gia đình, bạn bè, bà con. Đó là niềm vui chân chính trong truyền thống VN.

Nhưng cũng có những người không biết hưởng niềm vui nhẹ nhàng, đem lại chút hạnh phúc cho mình, mà lại lợi dụng dịp tết để phóng mình vào những đam mê bất chính: rượu chè cờ bạc. Trước tình trạng ăn tết như vậy, một nhà báo đã viết một bài thơ châm biếm như sau:
Vợ tơi ăn tết thật là vui,
Đâu có sòng bài bả tới lui,
Xì phé cá cua thường mê mẩn,
Xả láng từ trưa đến tối thui.

Chồng tơi ăn tết thật là mê,
Sáng say chiều xỉn, nhậu hả hê,
Bia long lốp đốp khui, khui mãi
Tiệc tàn, nhà cửa thấy mà ghê!

Con tôi ăn tết thật là kinh,
Lên xe là hụ, còi tin tin,
Chở bồ mỏ đỏ mắt xanh chớp
Dỡn cười lạng lách thấy rùng mình!

Người kitô hữu chúng ta có quyền hưởng niềm vui ngày tết, nhưng cũng phải biết đem niềm vui đến cho kẻ khác, nhất là những kẻ không có điều kiện để vui trong ba ngày tết. Tôi biết, có những gia đình rất lo khi tết sắp đến. Vì nghèo đói thiếu thốn, ngày tết đi xin không ai cho, vay mượn cũng không được! Chỉ biết ngồi nhìn kẻ khác vui tết mà thôi! Có một bà già trên bảy mươi tuổi, sống một mình không có việc làm; hằng ngày bà tập trung mấy đứa trẻ chạy lang thang, kể chuyện cho chúng nghe và nhân dịp đó dạy giáo lý cho chúng; cha mẹ đám trẻ thấy vậy thì thỉnh thoẳng cho bà gạo; khi nào không ai cho thì bà đi xin. Dịp gần tết, tôi đến thăm bà và được bà cho biết chương trình chuẩn bị tết của bà như sau, bà nói: Ngy 27, 28 v 29 con sẽ đi xin cho hai ông bà vừa mù vừa què trong xóm, ngày 30 con sẽ đi xin cho con, để có ăn trong ngày tết! Một chương trinh chuẩn bị tết tuyệt vời: Một người nghèo đang tìm cách đem lại niềm vui ngày tết cho kẻ đồng cảnh ngộ với mình. Thật là cảm động! Tết là dịp vui cho chúng ta nhưng chúng ta sẽ hưởng được niềm khác trong tâm hồn khi ta biết làm cho kẻ khác cũng được vui.

Ở một họ đạo nọ, một nhóm thiếu nhi đi múa lân ngày tết để kiếm tiền và bánh trái, không phải để chia nhau, nhưng để chia cho những người nghèo cô đơn, đem lại niềm vui cho họ trong dịp tết. Một cử chỉ đáng kính phục.

Lắng nghe Chúa nói:
Tết cũng là niềm vui cho ông bà tổ tiên đã qua đời. Dịp tết người ta chăm sóc mồ mả ông bà, dâng lễ cầu nguyện cho ông bà tổ tiên. Vô cổ bất thành kim, Không có ông bà thì làm gì có ta.

Cuối cùng tết cũng là dịp để chúng ta nối lại tình thân với nhau bằng những cuộc viếng thăm nhau; hàn gắn lại những gì đã sứt mẻ trong quan hệ gia đình, bạn bè, đem lại sự bình an cho mọi người.

Lời nguyện cầu cho ông bà tổ tiên:
Lạy Cha nhân ái, chúng con cảm tạ Cha đã cho chúng con có ông bà tổ tiên, có cha co mẹ, những hồng ân quí báu nhất trên đời; xin Cha thương đến những bậc còn sống, được hồn an xác mạnh, cho những bậc đa qua đời được mau hưởng thánh nhan Cha, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con.

Lm. Đoàn Văn Lữ

Mồng Ba Tết.
THÁNH HOÁ LAO ĐỘNG

Lắng nghe Lời Chúa:
St 2, 4b-9. 15: Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Eden để con người canh tác và coi dóc đất đai.
TĐCV 25, 14-30: Những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, chính đôi tay này tự cung cấp lấy.
Mt 25, 14-30: ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã làm lời được 5 yến khác.

Tìm hiểu Lời Chúa.
Ngày Mồng ba Tết, chúng ta cầu nguyện xin Chúa thánh hóa công việc làm ăn trong năm mới được thịnh đạt, đồng thời cũng xin Chúa thánh hóa chúng ta qua cuộc sống lao động hằng ngày.

Nhưng tại sao chúng ta lại phải cầu nguyện cho việc làm ăn?
Người ta thường nói: mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Vì vậy người nhà nông thường cầu với ông Trời: Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm, lấy rơm đun bếp.

Với khoa học kỷ thuật, nhiều người tưởng rằng mình đã chiếm được chỗ đứng của Thiên Cha, có một thời người ta nói: Thằng Trời xếp lại một bên, để cho nông hội tiến lên làm Trời!Nietzche, một triết gia vô thần Đức đã tuyên bố: Thiên Chúa đã chết! Voltaire thì bảo: Đã đến lúc Thiên Chúa phải về hưu! Cuộc cách mạng Pháp đã tưởng đem lý trí thay thế Thiên Chúa. Nhưng sau đó ít lâu thôi, hậu quả của việc tôn thờ lý trí đã làm cho Robespierre, người đứng đầu nhà nước Pháp lúc đó, đã phải ra lệnh cho dân chúng Balê dăng khắp đường phố những băng với hàng chữ lớn: Nhân dân Pháp tin có Thiên Chúa.

Thánh Phaolô viết: Phaolô trồng, Apolô tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới làm cho mọc lên. Câu ngạn ngữ của nhà nông là : Nhất thủy nhì phân tam cần tứ giống. Làm nghề nông thứ nhất là cần nước; nhưng nếu trời không mưa thì nước đâu mà tưới. Vì thế ngày mồng ba tết, chúng ta cầu nguyện cho việc cày cấy làm ăn là phải lẽ, vì không có Thiên Chúa thì:người lính canh đêm cũng hòai công!

Những giá trị của lao động.
Lao động được quan niệm như một hình phat của tội tổ tông. Nhưng đó chỉ là một cách cắt nghĩa mà thôi, vì chính Thiên Chúa cũng đã làm việc mà Thiên Chúa thì có tội tình gì mà phải chịu phạt? Ngày nay người ta bảo: lao động là vinh quang. Đối với người công giáo thì câu nầy rất đúng. Nhờ lao động mà con người được vinh dự cộng tác vào công việc sáng tạo của Thiên Chúa. Khi tạo dựng trời đất, Thiên Chúa cho con người làm chủ muôn vật; và Thiên Chúa chỉ tạo nên hạt giống để con người cộng tác bằng cách tạo đủ điều kiện để mọc lên.

Lao động còn giúp ta thánh hóa cuộc sống. Lười biếng là mẹ mọi nết xấu. Lao động giúp ta tránh mọi cám dỗ và nết xấu. Cha Giêsu đã lao động khi ở trần gian; Ngài làm như thế để cho ta hiểu, lao động cũng có gi trị cứu chuộc và thánh hóa con người. Chúng ta đang nói đến việc lao động chân chính, mới có sức thánh hóa con người, còn có những nghề chẳng những không thánh hóa mà còn làm ta thêm tội như nghề chà đồ nhôm!

Lắng nghe Chúa nói:
Cha Ta hằng làm việc, và Ta cũng vậy. Qua câu nầy, Chúa Giêsu cho ta hiểu, lao động là qui luật của tình yêu và có gi trị tình yêu. Khi lao động chân chính thì chúng ta lại nên giống Chúa.

Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã lao động cực nhọc để dạy chúng con giá trị của lao động, được nên giống Chúa Cha như lời Chúa dạy. Xin cho công việc lao động thánh hóa chúng con và giúp nuôi sống chúng con cách xứng đáng.

Lm. Đoàn Văn Lữ

SUY NIỆM BA NGÀY TẾT
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

PHÚC – LỘC – THỌ

Ngày tết người ta thường cầu chúc cho nhau được ba điều ước mơ lớn nhất đó là: Phúc – Lộc – Thọ. Cái phúc của con người là công thành danh toại. Cái lộc không chỉ là con thảo cháu ngoan mà còn là ơn trời mưa móc xuống muôn hồng ân cho gia đình dòng tộc, và thọ là tuổi già, sống lâu trăm tuổi hay còn gọi là “bách niên giai lão”.

Ước mơ được sống hạnh phúc trường sinh bất tử là nỗi khao khát của con người vượt qua mọi thời đại. Dân tộc nào cũng ước mơ trường thọ, thời đại nào cũng mong được trường sinh bất tử. Dân tộc Việt Nam cũng biểu lộ sự khao khát trường sinh bất tử qua câu truyện Từ Thức lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh. Chỉ một thoáng ở chốn bồng lai tiên cảnh hạnh phúc êm đềm mà dài bằng cả đời người một trăm năm. Đến độ, Từ Thức khi trở về chốn xưa đã không còn, người thân cũng chẳng còn ai. Hay có thể nói “chốn xưa mình ở, mà nay cũng chẳng còn biết mình”. Nỗi khao khát này còn được biểu lộ nơi chúng ta trong những dịp lễ tết đầu năm thường chúc nhau mạnh khỏe sống lâu, và trong đám cưới người ta vẫn thường cầu chúc cô dâu chú rể trăm năm hạnh phúc.

Thánh Kinh kể rằng: thuở ban đầu Thiên Chúa đã cho con hưởng đầy đủ Phúc – Lộc – Thọ. Cái phúc của con người thuở tạo dựng là được làm chủ mọi loài chim trời cá biển, Chúa còn cho cả giang sơn làm sản nghiệp riêng mình. Cái lộc của con người là lời chúc phúc sẽ có con đàn cháu đống như sao trên trời như cát dưới biển. Và cái Thọ miên trường của con người là sinh ra không phải đau khổ và không phải chết. Thế nhưng, những điều hạnh phúc đó đã tan vỡ và trờ thành một niềm mơ ước triền miên của cả kiếp người. Bi kịch của con người khi mà tội đã vào thế gian. Bởi sự tội mà con người phải chết. Bởi sự tội mà con ngưởi đầy đoạ nhau, gây nên đau khổ cho nhau. Từ đó, ước mơ Phúc – Lộc – Thọ đã là ước mơ muôn thuở của con người. Dường như trong cuộc đời chẳng mấy ai an phận với những gì mình đang có. Ai cũng muốn giầu sang, nhưng có rồi lại muốn giầu sang hơn nữa. Ai cũng muốn chức cao quyền trọng nhưng đứng núi này lại trông núi kia. Những người nghèo nghĩ rằng, họ sẽ đạt được hạnh phúc khi trở nên giàu có. Những người giàu lại nghĩ rằng họ sẽ hạnh phúc khi họ không còn bệnh tật. Dường như chúng ta không bao giờ cảm thấy hạnh phúc vì chúng ta chẳng bao giờ bằng lòng với hiện tại của chúng ta, với những gì mình đang có.

Ngày đầu xuân chúng ta dâng cuộc đời cho Thiên Chúa. Nguyện xin Chúa chúc lành và ban cho chúng ta vạn sự như ý. Chúng ta tin rằng: Chúa Giêsu đã đến để mang lại cho con người hạnh phúc và hạnh phúc ngay từ trên cõi đời này. Vì Ngài là hoàng tử bình an, là vua thái bình. Ngài đã đến để mang lại bình an cho những ai thành tâm thiện chí hướng về sự thiện, cho những ai ăn ở ngay lành, và cho những ai sống một cuộc đời cao thượng vượt qua khỏi những tham sân si làm hư hoại thanh danh đời người. Dĩ nhiên, hạnh phúc không có nghĩa là không có đau khổ. Hạnh phúc chính là biến đau khổ thành niềm vui của hiến tế, của sự hy sinh cho gia đình, cho con cái. Hạnh phúc tìm được ở sự cống hiến vun đắp hoà bình và bảo vệ công lý cho nhân loại. Ở gia đình, cha mẹ hy sinh cho con cái là niềm vui, vợ chồng hy sinh cho nhau là niềm vui, con cái hy sinh vì cha mẹ là niềm vui. Niềm vui và hạnh phúc của đời người được dệt bằng hy sinh, vất vả để mang lại hạnh phúc cho người mình yêu. Chính Chúa Giêsu cũng đã trải qua rất nhiều đau khổ. Ngài bị chống đối, bị khước từ, và cuối cùng bị treo trên thập giá. Ngài đã hiến thân mình để mang lại niềm vui cho tha nhân. Qua cuộc sống hy sinh cứu độ đó, Ngài cũng mời gọi chúng ta sống giây phút hiện tại hạnh phúc hệ tại ở việc trao ban cho thế nhân. Sống có ích cho tha nhân mới là cuộc sống có ý nghĩa. Sống vì lợi ích tha nhân mới là cuộc sống đẹp. Sống vì mọi người và cho mọi người là chúng ta đang làm cho nét xuân luôn nở rộ những bông hoa của công bình, của bác ái, của yêu thương và vị tha.

Ngày tết ai cũng muốn nở nụ cười thật tươi với anh em của mình. Ngày tết ai cũng muốn mang lại lời chúc phúc cho anh em. Ước gì mỗi giây phúc trong ngày sống của chúng ta đều là lời chúc phúc cho anh em. Không chỉ ba ngày tết mà kéo dài mọi ngày trong đời của chúng ta. Để cho dù mùa xuân của trời đất qua đi nhưng mùa xuân của tình người mãi nở rộ khắp muôn nơi và đến với mọi người. Nguyện xin Chúa xuân chúc lành cho những ước nguyện đầu năm của chúng ta. Xin Người ban phúc lành và ban cho chúng ta một năm mới bình an và tràn ngập niềm yêu thương của chúng ta dành cho nhau. Amen

HIẾU KÍNH MẸ CHA

Có một chàng trai sắp thi tốt nghiệp đại học. Trước đó anh đã nói với cha về ước muốn có chiếc xe thể thao xinh đẹp và mong rằng nó sẽ là quà tặng của cha nhân ngày tốt nghiệp. Người cha nghe xong im lặng, không có ý kiến gì.

Sau ngày chàng trai tốt nghiệp, người cha đã gọi anh vào phòng, nói rằng ông rất yêu thương và hãnh diện có được đứa con như anh. Sau đó ông trao cho anh một hộp quà được gói cẩn thận. Ngạc nhiên, chàng trai mở hộp quà và nhìn thấy đó là một quyển sách thể loại “rèn nhân cách” được đóng gáy và bọc bìa da rất đẹp. Chàng trai nhíu mày, “với tất cả tài sản mà cha mình đã có… và món quà tặng cho con tốt nghiệp đại học chỉ là một quyển sách tầm thường này hay sao?”.

Chán nản và buồn phiền với ý nghĩ đó, chàng trai không nói lời nào với cha mình, rời khỏi phòng, để lại quyển sách trên bàn. Sau đó anh bỏ nhà ra đi…

Trong một thời gian dài, chàng trai không liên hệ với cha mình. Cho đến một ngày anh nhận được tin cha mình đã qua đời và để lại toàn bộ tài sản cho anh ta.

Khi anh về đến căn nhà cũ xưa, sự buồn phiền và hối hận tràn ngập trong lòng chàng trai khi anh nhớ đến sự cư xử lạnh nhạt mà anh đã có với cha trước đây. Anh tìm đọc những giấy tờ quan trọng của cha mình và nhìn thấy cuốn sách “rèn nhân cách” vẫn còn nguyên vẹn trên bàn như ngày anh từ bỏ nó. Chàng trai mở cuốn sách ra, lật từng trang và thấy một bao thư được ép chặt trong đó. Anh đã nhẹ nhàng mở bao thư ra, và bỗng dưng nước mắt anh tuôn trào khi nhận ra đó chính là một chìa khóa xe hơi và tờ hóa đơn của chính chiếc xe mà anh ta yêu thích ngày trước. Tờ hóa đơn ghi đúng ngày anh ta tốt nghiệp với dòng chữ đã thanh toán đầy đủ…

Trong cuộc sống của chúng ta không ai mà không mắc những sai lầm. Có những sai lầm thì sau đó được sửa chữa và trở nên bình thường. Nhưng có những sai lầm sau khi khắc phục rồi nó vẫn còn để lại “một vết sẹo” mà khó có thể phai mờ được.

Có thể nói, “vết sẹo” mà chúng ta đã gây ra đối với đấng sinh thành là đáng trách nhất. Vết sẹo đó sẽ mãi mãi ở bên chúng ta khiến chúng ta luôn bị nhức nhối lương tâm mỗi khi nhớ đến nó. Như trong câu chuyện trên, chàng trai sau khi thức tỉnh đã vô cùng ân hận, nhưng người cha đã không còn nữa để anh ta làm một cái gì đó, dù chỉ là một lời xin lỗi…

Ngày tết là dịp để chúng ta về đoàn tụ bên các đấng sinh thành để xin lỗi, để cầu chúc các đấng an khang trường thọ. Ngày tết là dịp để con cái nhìn nhận tình thương của cha mẹ là tình thương không thể thiếu cho con bước đi trong cuộc đời. Dầu rằng, tình cha, tình mẹ có khác nhau nhưng nhờ ơn cha, nhờ nghĩa mẹ mà con cái mới đứng vững trước những sóng gió cuộc đời.

Thực vậy, tình cảm của người cha không bao giờ như người mẹ. Tình thương của cha luôn giấu kín trong lòng, đôi khi còn tỏ ra nghiêm nghị, cứng rằn mỗi khi dạy con. Cha giống như một thân cây vững chắc, bám rễ thật sâu dưới lòng đất để hút nhựa nuôi dưỡng cành lá, hoa, quả. Mẹ là tình cảm, cha là lý trí, mẹ mềm lòng, cha phải giữ kỷ cương, mẹ chín bỏ làm người, cha phải cầm cân nảy mực. Cuộc sống đòi buộc cha lăn lộn với đời để kiếm tìm miếng cơm manh áo cho gia đình. Cha thường xuyên phải xa gia đình, xa con cái nên tình cảm đôi khi cũng lạt hơn mẹ. Cha còn thẳng tay trừng phạt những đứa con thiếu ý chí vươn lên, lười biếng, vô dụng. Cha luôn đòi đứa con phải tự bước đi trên đôi chân của mình, cho dù có té ngã vẫn phải một mình đứng dậy. Đó chính là một tình thương mà chỉ có người cha mới rèn nên cho con tính đoan trang, tính mực thước và nghị lực khi bước vào đời vốn dĩ luôn ngập tràn những khó khăn. Nhưng đáng tiếc chỉ khi nào mất cha, người con mới cảm thấy mất núi thái sơn, mất đi cái nóc cột trụ gia đình. Mất cha người con mới ngậm ngùi nói rằng:
“Còn cha gót đỏ như son
Mất cha gót mẹ gót con đen xì”
Hay:
Thương cha lam lũ một đời
Tìm trong xa vắng những lời xa xưa
Bồng bềnh gió đẩy mây đưa
Bơ vơ con đứng bóng mưa ngập lòng. (Nguyễn Ánh Hồng)

Vâng, đời của những người làm con sẽ trở nên trống vắng lạc lõng vô cùng nếu như một ngày kia cha mẹ vĩnh viễn ra đi, bỏ lại thân xác trong nấm mồ cô đơn lạnh lẽo. Lúc đó, lòng con lại dâng trào một nỗi buồn mênh mông sâu lắng:
Thấy bơ vơ lạc lõng dấy trong lòng
Khi chợt nhớ mẹ già không còn nữa.
Bởi vì:
Mẹ ơi, trên vạn nẻo đường
Con đi mới hiểu tình thương mẹ hiền
Đời con xuôi ngược bao miền
Nhưng tình của mẹ là nguồn yêu thương

Bởi thế, đạo làm con luôn mời gọi chúng ta hãy thờ cha kính mẹ, để mai này chúng ta khỏi phải xót xa mà nói rằng:
Tình thương xuôi chảy một miền
Nhưng con nào biết giữ niềm kính yêu
Con nay hầu mẹ tuổi chiều
Nuôi cha dưỡng mẹ ít nhiều kể công.

Và với lòng hiếu kính đang trào dâng trong ngày Mồng Hai Tết, có lẽ ai trong chúng ta cũng thầm mong ước cho cha mẹ mãi mãi ở cùng chúng ta:
“Ngày đêm khấn nguyện cầu trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con”.
Cầu cho cha mẹ sống đời với con, đó là tâm nguyện của tất cả những người con dành cho cha mẹ. Bởi lẽ không có một tình con người nào sâu đậm, gắn bó, chân thành bằng tình cha mẹ yêu con, và càng không có một tình yêu nào trên trái đất này có thể thay thể được tình phụ mẫu yêu con, mà bài cầu cho cha mẹ của Lm Nguyễn duy đã lột tả.
“Này chúng con sinh vào đời nhờ có tay của mẹ cha. Là thái sơn cao xa cao xa, là biển đông bao la bao la, như một rừng hoa ngát hương cả bốn mùa. Ôi tình mẹ cha nói lên tình Chúa. Đời chúng con yên vui hân hoan, nhờ mẹ cha gian nan lo toan, trong giọt mồ hôi có chung cả máu hồng, luôn dạy lòng con biết câu mặn nồng.

Rồi lớn lên con vào đời, gặp biết bao nhiêu người thương. Dù có ai hy sinh cho con. Dù được ai cho mân cơm ngon, đi gần về xa thấy đâu một mái nhà, như nhà mẹ cha thiết tha từ ấy. Rồi lớn lên con xây non cao, vượt biển khơi bay lên trăng sao. Khi về nhà xưa với cha và với mẹ vẫn là trẻ thơ bé như ngày nào”

Vâng, lời ca như muốn mời gọi chúng ta hãy sống trọn tình con thảo ngay từ hôm nay. Hãy sống ngoan hiền bên những người cha mẹ đang còn trẻ để hưởng nếm giây phút ngọt ngào mà ai đó nói rằng: là chùm khế ngọt cho con trèo hái mỗi ngày. Hãy sống thảo hiếu, quan tâm chăm sóc các đấng sinh thành khi đã còng lưng vì một đời lam lũ cho đoàn con. Vâng, hãy tạ ơn Chúa đi, hãy sống cho trọn vẹn đạo làm con, trọn nghĩa tình với cha mẹ mình, vì cha mẹ là món quà thiêng liêng và quí giá nhất, tình cha mẹ là cái gì rất cao siêu lành thánh mà lại thật thân mật gần gũi mà Chúa dành cho chúng ta.

Nguyện xin Chúa chúc lành và trả công cho các bậc sinh thành và ước gì những ngừơi con hôm nay đang vinh dự được chúc mừng tuổi mới của cha mẹ thì cũng biết sống hiếu thảo để đền đáp ân nghĩa cù lao chín chữ mà cha ông ta đã từng khuyên răn rằng:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi. Amen.
Note: Chín chữ cù lao, tức là chín điều khó nhọc của cha mẹ sanh dưỡng con cái. Chín chữ cù lao gồm:
1.Sinh: Sanh đẻ.
2.Cúc: Nâng đỡ.
3.Dục: Dạy dỗ.
4.Phủ: Vuốt ve triều mến.
5.Xúc: Cho bú sữa.
6.Trưởng: Nuôi cho khôn lớn.
7.Cố: Trông nom.
8.Phục: Ôm ấp.
9.Phúc: Bảo vệ.

MỌI SỰ ĐIỀU NHỜ ƠN CHÚA

Ngày Mồng Ba Tết chúng ta dành để dâng lên Chúa những dự định và tương lai của chúng ta. Chúng ta xác tín rằng mọi sự đều nhờ ơn Chúa, vì “nếu Chúa không xây nhà thì thợ nề vất vả cũng bằng uổng công”. Thực vậy, nhìn lại năm 2010 với biết bao thiên tai giáng xuống địa cầu cho chúng ta thấy con người thật nhỏ bé trước bao sóng gió của thiên nhiên. Con người cần phải có ơn Chúa để gìn giữ, chúc lành cho chúng ta một năm bình an.

Vâng, có thể nói năm 2010 đã vụt qua nhưng đã để lại nỗi hãi hùng cho con người với những trận thiên tai kinh thiên động địa nhất. Xin được lướt qua những thiệt hại về nhân mạng cũng như vật chất:
1) Trận động đất 7 độ Richter ở Haiti xảy ra ngày 24-01, đã giết chết 230,000 người, hơn 300,000 người bị thương và hơn một triệu người màn trời chiếu đất. Ðến nay, một năm sau, vẫn chưa hồi phục dù thế giới đã đổ hàng tỷ đô-la vào xứ sở nghèo đói bệnh tật này.
2) Ngày 27-2, lại một trận động đất mạnh tới 8.8 độ Richter, đã xảy ra ở vùng duyên hải Chí Lợi (Chile), rung chuyển 6 tiểu bang lớn và một phần của Á Căn Ðình. Ðộng đất kéo theo sóng thần, quét qua các thị trấn ven biển, khiến 500 người thiệt mạng, hơn 200.000 người mất nhà cửa, gây thiệt hại 30 tỷ đô.

3) Ngày 21-3, núi lửa ở Băng đảo (Iceland) bỗng nhiên thức giấc sau 200 năm, phun bụi và khói ngập trời khiến hàng ngàn người phải di tản. Thiên tai này đã ảnh hưởng nặng nề tới hoạt động hàng không, làm cho 100.000 chuyến bay của các nước Âu Châu bị hủy bỏ và 8 triệu hành khách bị mắc kẹt ở các sân bay trong suốt 6 ngày, thiệt hại gần 2 tỷ đô-la.

4) Tháng Bảy, sau những trận mưa dai dẳng đã gây ra lụt lội tại Pakistan. Trận mưa lụt này được coi là thiên tai lớn nhất trong 100 năm tại Pakistan. Một phần năm (1/5) diện tích quốc gia này đã chìm trong biển nước, hơn 2.000 người bị cướp đi sinh mạng. Con số này còn tăng cao vì dịch bệnh, gây thiệt hại lên tới 10 tỷ đô-la, khiến ít nhất 9 triệu người, trong đó phần lớn là trẻ em, lâm vào cảnh đói khát.

5) Cũng vào tháng Bảy, nóng chưa từng có đã kéo theo nạn cháy rừng nhiều nơi ở Nga. Bầu trời thủ đô Moscow bị bao phủ khói đen, nhiều chuyến bay đã bị hủy bỏ. Hỏa hoạn và cháy rừng làm cho 50 người thiệt mạng và 3.000 người mất nhà cửa. Nguyên nhân của thảm họa cháy rừng là do mức nhiệt độ lên cao kỷ lục trong hơn 100 năm qua.

Ðó là những trận thiên tai lớn đã xẩy ra trong năm 2010, khiến thế giới phải lo ngại sẽ tạo thêm khủng hoảng tài chánh, vì hai năm qua kinh tế thế giới đã gặp nhiều khó khăn chưa giải quyết nổi. Các nhà tiên tri cho rằng, năm 2010 chỉ là năm bắt đầu của những thiên tai, bệnh tật mà nhân loại sẽ phải gánh chịu vào những năm kế tiếp.

Người Việt thì nói rằng: mỗi năm làm ăn càng ngày càng khó khăn hơn. Người đông của ít khiến con người phải bon chen vật lộn với cuộc sống nhiều hơn. Thêm vào đó lại thiên tai, lũ lụt, thời tiết khắc nghiệt khiến ngành chăn nuôi, trồng cấy càng mong manh. Như dịch bệnh cùm gia gia cầm, dịch tai xanh .. . tràn lan suốt năm qua.

Hôm nay ngày đầu năm chúng ta hướng về Cha trên trời, là Đấng làm chủ mọi loài, là Đấng quan phòng kỳ diệu, xin Chúa chúc lành cho chúng ta một năm bình an hạnh phúc, một năm an khang thịnh vượng. Xin Chúa chúc lành cho những dự định tương tai của chúng ta được thành toàn. Chúng ta hãy trao vào tay Chúa những lo toan vất vả của đời người. Chúng ta hãy bước đi trong sự tín thác vào tình thương quan phòng của Chúa. Xin Chúa là Chúa của mùa xuân chúc lành cho những ước nguyện đầu xuân của chúng ta. Amen

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

BÀI ĐỌC THÊM:
TẢN MẠN CHUYỆN TẾT CỔ TRUYỀN
ThS. Đặng Quốc Minh Dương

Đất trời đang giao thời chuyển từ mùa đông giá rét sang tiết xuân âm áp. Như vậy là một năm nữa sắp qua đi! Những lo lắng, những gian lao, những bươn chải của năm củ đã khép lại. Giờ là lúc chúng ta “quẳng gánh lo đi mà vui sống”. Giờ là lúc ta được nghỉ ngơi, vui thỏa. Giờ là lúc chúng ta sum vầy, đoàn viên.

Trong không khí này, bài viết xin chia sẻ vài tâm tình về ngày Tết cổ truyền người Việt.

1. Không khí đón tết
Tôi thích không khí đón tết hơn là không khí tết. Bởi 3 ngày xuân, bên cạnh niềm vui còn có nỗi lo nơm nớp vì sợ…hết tết. Không khí đón tết, niềm háo hức bóc từng tờ lịch để mong chờ ngày tết đến thật tuyệt vời. Cuộc sống như dài thêm, niềm vui sống và làm việc như tăng thêm trong những ngày này. Nói về không khí đón tết, tôi điểm qua một số nét chính sau:

Tảo mộ. “Tảo mộ” theo từ hán việt nghĩa là sửa sang lại mộ cho mới! Theo phong tục tập quán của người Việt nam ta, hàng năm cứ đến tháng 12 âm lịch thì nhà nhà kéo nhau đi tảo mộ. Sau khi sửa sang lại mộ chí thì khấn mời tổ tiên về ăn tết với con cháu! Ngày xưa, các nấm mồ được đắp bằng đất nên chỉ sau một thời gian ngắn cỏ mọc um tùm. Cỏ mọc nên cần phát quang, dọn dẹp. Ngay nay, ngôi mộ đã được bê tông hóa nên việc tảo mộ cũng trở nên nhẹ nhàng hơn. Quê tôi nói riêng và người công giáo Việt Nam nói chung, tối thiểu có hai dịp “tảo mộ” trong năm là trước tháng Linh hồn (tháng 11) và trước ngày tết nguyên đán. Như đã nói, do ngôi mộ đã được bê tông hóa nên dịp này con cháu chỉ phải nhổ vài cây cỏ, lau chùi ít bụi bám trên nấm mộ, cắm hoa và đặc biệt nhất là thắp hương cho người quá cố. Nơi giáo xứ tôi sinh sống và các vùng lân cận thường có một thánh lễ khá đặc biệt, rất trang trọng và xúc động vào chiều mồng 2 Tết – ngày kính nhớ tổ tiên tại nghĩa trang. Cũng cần phải nói thêm rằng, trước đây, khi đạo công giáo mới du nhập vào Việt Nam, do hiểu nhầm nên những người bài công giáo đưa việc kính nhớ tổ tiên để tẩy chay tôn giáo này! Do vậy, một thời gian dài, nhiều người vẫn không có thiện cảm với đạo công giáo. Việc dành hẳn một trong ba ngày Tết – đặc biệt nguyên cả tháng 11, tháng linh hồn để chúng ta tưởng nhớ tổ tiên, cầu nguyện cho người đã chết là nét đẹp đầy tính nhân văn, là câu trả lời cho sự hoài nghi trên.

Dọn nhà cửa. Song song với việc tảo mộ – ngôi nhà của kẻ đã khuất, việc dọn nhà cửa của người sống cũng luôn được chú trọng. Nhà người Việt thường không rộng, lại là tam tứ đại đồng đường – nhiều thế hệ, nhiều người chung sống dưới một mái nhà. Chính vì thế, nhà cửa thường rất bề bộn, không ngăn nắp. Thôi thì thời thế, thế thời thời phải thế! Nhưng đó là chuyện trong năm, còn dịp Tết thì phải khác. Những ngày giáp Tết nhà nào cũng tất bật dọn dẹp trong nhà ngoài ngõ. Cánh đàn ông thì sơn phết lại tường, lau chùi mạng nhện, kê lại bàn ghế…Cánh chị em thì tổng vệ sinh, lau chùi ly chén rồi trang hoàng lại ngôi nhà cho đẹp mắt. Gom nhặt rác thải, vật dụng không cần thiết rồi đem đốt. Về các vùng quê những ngày này chúng ta hay thấy bàng bạc một màu khói trắng. Một không khí rất riêng nhưng cũng rất đặc trưng của các vùng nông thôn. Hồi ức mùi khói này đã làm cay xè ánh mắt của những người xa xứ những ngày Xuân về!

Chợ Tết. Không khí tết thể hiện rõ nhất là văn hóa chợ tết. Cho dù kinh tế khó khăn hay bão giá, siêu bão giá mọi người, mọi nhà đều phải mua sắm tết. Tết về vai mẹ thường oằn thêm một chút, tóc mẹ bạc thêm nhiều sợi. Bởi tết có lẽ là dịp mẹ phải lao trí, lao lực nhất. Mẹ phải tính toán để đảm bảo thức ăn ngon cho cả gia đình trong ngày tết. Mẹ phải toan tính để mua cho các thành viên trong gia đình mỗi người một bộ đồ mới. Me vừa phải lo chi phí ngày xuân vừa phải cân đối chi phí cho cả 365 ngày sắp tới! Tôi còn nhớ, những ngày cận Tết ở Việt Nam mẹ ngày nào cũng phải đi chợ. Mẹ hay nói đùa “mua hết chợ rồi mà thấy vẫn còn thiếu”. Thế mới hiểu được tình mẹ bao la, thế mới biết được giá trị của cuộc sống. Nhắc đến vấn đề này lại nhớ bài thơ Chợ tết nổi tiếng của Đoàn Văn Cừ:
Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết.
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc;
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon.
Vài cụ già chống gậy bước lom khom
…Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ.
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu.

Pháo Tết. Tôi còn nhớ không khí của những đêm ba mươi tiếng pháo râm ran trong ngõ ngoài phố. Khắp không gian hương trầm quyện với khói pháo tạo nên một mùi hương nồng nàn, xao xuyến. Sáng mùng một tết, nằm trong chăn nghe tiếng pháo lác đác xa gần, ra đường xác pháo đỏ vương khắp nơi, tiếng trẻ con nô đùa nghịch pháo làm cho những kẻ thích ngủ nướng cũng phải bung chăn mà thức dậy. Tất cả làm nên một không khí đặc trưng mà chỉ ngày tết mới có. Từ năm 1994, theo quy định của Chính Phủ, lệnh cấm đốt pháo đã được ban hành. Ừ thì luật thì phải thi hành nhưng vẫn thấy đâu đây cảm giác luyến tiếc, hoài cổ.

Ngoài những điều trên, không khí đón tết còn phải kể thêm như không khí đêm giao thừa, tiệc tất niên, mùi hương, mùi bánh tét…

2. Ẩm thực ngày Tết
Người Việt khá thực tế, họ luôn xác định “có thực mới vực được đạo”. Tết là lễ hội nhưng họ cũng không quên đến chuyện ăn uống. Với người Việt, ăn tết luôn chú ý đến vấn đề an toàn, đủ chất dinh dưỡng và hơn nữa, thức ăn còn mang đến cho họ nhiều hy vọng thành công trong năm mới. Ẩm thực truyền thống của ngày tết cổ truyền là bánh chưng, bánh tét, củ kiệu, các loại bánh gia truyền và rượu…Đó là cái nền chung. Khi tìm hiểu từng vùng miền của đất nuớc, chúng ta sẽ thấy có vô vàn phong vị tết hiện ra thật đặc sắc, lôi cuốn. Chúng tôi điểm qua đặc sản của ba vùng miền.
Đến Sa Pa, trong cái lạnh tê tái, bạn sẽ có dịp lót dạ bằng một gói xôi gấc đỏ ửng, ngọt lịm. Nơi đây còn có món trứng vịt… nướng mà có cố tìm đến mấy cũng không có ở dưới xuôi. Nhưng thú vị nhất vẫn là món thịt lợn xông khói của bà con người dân tộc Dao đỏ ở trong bản Tả Phìn. Nếu gặp may sẽ được họ mời một bữa cơm tết thịnh soạn với “thịt lợn rừng cắp nách” hay thịt hoẵng. Ngoài ra, nơi đây còn có các món rau như: ngồng su hào, đọt su su luộc ngọt lừ.

Về Cần Thơ có món chả lụa, lạp xưởng, tôm khô, củ kiệu chua – nhất là những đòn bánh tét lá cẩm tím. Cần Thơ cũng như các tỉnh miền Tây Nam Bộ thường gói bánh chưng, bánh tét bằng nhân chuối, đậu đỏ hoặc nhân đỗ xanh có vị ngọt. Món ăn vẫn được xem là thực đơn vĩnh cửu trong mâm cơm ngày Tết của người Nam bộ là món canh khổ qua nhồi thịt, thịt heo kho rệu, nhà khá giả có thêm thịt gà luộc xé phay trộn gỏi, đĩa bì cuốn. Nhiều người nhận xét, trong mâm cơm ngày Tết có hết thảy các vị mặn, ngọt, chua, cay, đắng. Năm vị này tượng trưng cho ngũ hành vần xoay.

Nói đến văn hóa ẩm thực là nói đến Huế. Ngoài bánh tét, bánh chưng, người Huế còn thích ăn một số bánh khác như bánh su sê (phu thê), bánh măng, bánh sen chấy, bánh dừa mận…
Các món ăn mặn cũng được các mệ, các o chuẩn bị chu đáo từ vài hôm trước tết. Trong các món ăn, dưa món là thứ không thể thiếu được trong mâm cỗ tết của người Huế. Dưa món gồm dứa (thơm) và củ cải thái miếng đem phơi săn trộn với ớt chín, cà muối, đu đủ, tỏi, cà rốt, nước mắm và đường. Món này phải làm trước tết độ vài tuần lễ cho ngấm. Ngoài ra, danh mục ẩm thực tết nơi đây còn có các món chả tôm, nem bò lụi, chả da, xà lách gân bò, chả tré, hành dầm dấm, chả lụa…

Cùng với thức ăn, trên bàn ăn ngày tết cũng không thể thiếu các thức uống. Người trẻ thì nâng chén rượu, ly bia. Rượu phổ biến là rượu trắng, rượu nếp và rượu thuốc. Ngày nay, các loại bia đang chiếm ưu thế trong thực đơn ngày Tết. Các nhà khá giả thì có thêm rượu ngoại. Dịp này, các cụ già ngồi lại bên nhau ôn chuyện củ và nhâm nhi chén trà

3. Chúc tết hay mừng tuổi?
Lâu nay, có hai khái niệm hay bị sử dụng nhầm lẫn là “Mừng tuổi” và “chúc tết”. Rất nhiều con – cháu, khi chúc tết cha mẹ, ông bà đều nói “chúng con mừng tuổi ông bà/cha mẹ”. Thực ra, đây là một ngộ nhận đáng tiếc! Chỉ có ông bà, cha mẹ (bậc trên, hơn tuổi) mới mừng tuổi cho con cháu: mong cháu con thêm một tuổi thêm lớn khôn, thêm trưởng thành. Do vậy, con cháu phải chúc tết ông bà cha mẹ chứ không phải mừng tuổi. Tâm lý thường tình, khi con người về già, ai cũng sợ năm hết tết đến vì thêm một năm mới đến là giảm một năm được vui sống với cháu con!

Nhắc đến chuyện chúc tết, mừng tuổi cũng là nhắc đến các câu chúc tết. Tết nhất, người ta hay chúc nhau sức khỏe, giàu sang và thành đạt. Tuy nhiên, cùng với thời gian, cùng bấy nhiêu nội dung nhưng những câu chúc đó đã được các thế hệ tiếp tục “nhuận sắc” thêm, trau chuốt thêm về lời văn, bồi đắp thêm yếu tố thời cuộc, cụ thể hơn về lời chúc. Chúng tôi điểm qua một số câu “ấn tượng” như:
1. Trẻ mãi không già, mặn mà nhan sắc.
2. Chúc năm mới: 1 vợ, 2 con, nhà 3 tầng, xe 4 chỗ!
3. Tống cựu nghênh tân. Vạn sự cát tường. Toàn gia an phúc!
4. Đong cho đầy Hạnh phúc. Gói cho tròn Lộc tài. Giữ cho mãi An Khang. Thắt cho chặt Phú quý.
5. Chúc bạn năm mới làm ăn tấn tới, nhiều tiền nhiều bạc để… cho tui vay!
6. Ngàn lần như ý. Vạn lần như mơ. Triệu sự bất ngờ. Tỷ lần hạnh phúc.
7. Tết tới tấn tài. Xuân sang đắc lộc. Gia đình hạnh phúc. Vạn sự cát tường!
8. Năm Mão sắp đến. Chúc bạn đáng mến. Sự nghiệp tiến lên. Gặp nhiều điều hên!
9.
10. Cùng chúc nhau Như ý. Hứng cho tròn An Khang. Chúc năm mới Bình An. Cả nhà đều Sung túc.
11. Năm mới chúc nhau sức khỏe nhiều. Bạc tiền rủng rỉnh thoải mái tiêu. Gia đình hạnh phúc bè bạn quý. Thanh thản vui chơi mọi buổi chiều!
12. Kính chúc mọi người một năm mới tràn đầy niềm vui và hạnh phúc! Vui trong sức khoẻ, trẻ trong tâm hồn, khôn trong lý tưởng, trưởng thành trong… tất cả mọi lĩnh vực.
13. Chúc mọi người có một bầu trời sức khoẻ, một biển cả tình thương, một đại dương tình cảm, một điệp khúc tình yêu, một người yêu chung thủy, một tình bạn mênh mông, một gia đình thịnh vượng.
14. Chúc mọi người khoẻ như hổ, sống lâu như rùa, mắt tinh như đại bàng, nhanh nhẹn như thỏ, tinh ranh như cáo, ăn nhiều như… heo, mau ăn chóng nhớn, tiền vô như nước, phúc lộc nhiều như đàn châu chấu tràn về.
15. Chúc các bà, các ông, các cô, các chú, các chị, các anh sang năm mới vạn sự như ý, tỷ sự như mơ, làm việc như thơ, đời vui như nhạc, coi tiền như rác, coi bạc như rơm, chung thủy với cơm và sắc son với phở. Chúc vui vẻ!
16. Năm hết tết đến. Rước hên vào nhà. Quà cáp bao la, một nhà không đủ. Vàng bạc đầy tủ. Gia chủ phát tài. Già trẻ gái trai, sum vầy hạnh phúc. Cầu tài chúc phúc. An lành thịnh vượng!
17. Chúc bạn 12 tháng phú quý, 365 ngày phát tài, 8760 giờ sung túc, 525600 phút thành công 31536000 giây VẠN SỰ NHƯ Ý.
18. Vừa đủ HẠNH PHÚC để giữ tâm hồn được ngọt ngào. Vừa đủ THỬ THÁCH để giữ mình luôn kiên cường. Vừa đủ MUỘN PHIỀN để thấy mình thật sự là một con người. Vừa đủ HI VỌNG để thấy mình Hạnh Phúc. Vừa đủ THẤT BẠI để giữ mình mãi khiêm nhường. Vừa đủ THÀNH CÔNG để giữ mình mãi nhiệt tâm. Vừa đủ BẠN BÈ để bớt cảm giác cô đơn. Vừa đủ VẬT CHẤT để đáp ứng các nhu cầu cuộc sống. Vừa đủ NHIỆT TÌNH để có thể chờ đợi trong hân hoan. Vừa đủ NIỀM TIN để xua tan thất bại!

Câu đối tết. Câu đối ngày xuân là thú chơi tao nhã cho mọi người, mọi nhà. Chính vì thế, ngày xuân nếu thiếu một đôi câu đối đỏ treo trong nhà chắc hẳn là ngày tết chưa toàn vẹn. Đôi câu đối khiến người ta cảm thấy tết cổ truyền trở nên thiêng liêng hơn, trang trọng hơn, và đặc biệt hơn những ngày bình thường khác. Câu đối tết thường viết vào giấy màu đỏ, vì màu đỏ tượng trưng cho sự đầm ấm, phù hợp với không khí thiêng liêng của ngày tết cổ truyền. Màu đỏ chống được hơi sương, cái khí ẩm của mùa đông buốt giá. Những người chơi câu đối lâu năm khi chọn câu đối là cả một quá tình nghệ thuật. Câu đối thường gắn liền với hình ảnh ông đồ già. Xin điểm qua một số câu đối “vang bóng một thời”.

Tối ba mươi khép cánh Càn Khôn, nịch thật chặt kẻo Ma vương đưa quỷ tới/Sáng mồng một lỏng then Tạo hoá, mở toang ra cho thiếu nữ đón xuân vào. Câu đối này trông có vẻ bác học, nào là Càn Khôn, nào là Tạo hóa, nhưng vẫn có cái nghịch ngầm của các cụ – khi sử dụng hình ảnh thiếu nữ đón xuân vào.

Nguyễn Khuyến có một câu đối nói được cả cái cảnh nhà bần hàn, nhưng lòng vẫn phơi phới sắc xuân khi đón tết – một bức tranh thật của gia đình ông cũng như nhiều gia đình làng quê Việt Nam bao đời nay: Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa/Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà. Ngoài câu này, Nguyễn Khuyến còn được mọi người nhắc đến bởi câu đối: Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái/Tết ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa xuân (Nguyễn Khuyến).

Tết là ngày vui nhưng cũng có những câu đối chua chát, kiểu như cụ Tế Xương: Thiên hạ xám rồi, còn đốt pháo/Nhân tình bạc thế, lại bôi vôi. Vẫn hình ảnh ngày Tết, pháo đỏ, vôi bôi trước cửa đuổi tà ma, nhưng đọc lên nghe chua chát, cay nghiệt… Nghe như cuộc đời thực của các nhà nho bất phùng thời!

Có thể xem các câu đối trên là câu đối chơi, câu đối phi chính thống. Đây là một số câu đối chính thống – những câu đối được dán bên bàn thờ: Phước thâm tự hải/Lộc cao như sơn hay Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ/Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường.

Chơi xuân. Sẽ thiếu sót khi nhắc đến tết mà không nói đến các trò chơi ngày xuân. Các dân tộc như Mường, Tày, H’mông, Thái…nổi tiếng với trò chơi ném còn. Với người Việt, kho tàng trò chơi xuân cũng rất phong phú, có thể kể đến như đánh đu, đánh đáo, tổ tôm, cờ cá ngựa, cờ tướng – cờ người, chọi gà, đấu vật…sau này còn có thêm các trò chơi lô tô, xì dzách, tôm cua cá bầu…Xin điểm lại một trò chơi rất phổ biến những năm 80 của thế kỷ trước, đó là trò đánh đáo. Đây là trò chơi rất phổ biến ở các vùng quê xưa. Thú vui đánh đáo không chỉ hấp dẫn trẻ em mà cả đối với người lớn bởi nó thể hiện sự khéo léo của người chơi và lại còn có tâm lý ăn thua kích thích (dù chỉ là rất ít). Trò chơi được diễn ra trên một bãi đất bằng phẳng. Tùy theo quy định của người chơi mà khoét lỗ. Dễ thì khoét lỗ to, khó thì khoét lỗ nhỏ. Ngoài lỗ đáo là vạch quy định để từ đó người chơi đứng ném tiền xu về phía lỗ đáo. Vạch này xa hay gần lỗ đáo cũng do những người chơi tự quy định, càng xa thì càng khó. Đồng xu nào trúng vào lỗ thì người ấy được ăn. Cứ như vậy, lần lượt tới người tiếp theo, đến khi nào không còn xu nữa thì hết ván…

Lì xì tết. Nghe hai tiếng “lì xì” người ta liền tưởng tới bao giấy màu đỏ, nho nhỏ bằng phần tư trang giấy học trò, bên trong có xếp mấy tờ tiền mới. Theo nhà nghiên cứu Cao Sơn thì: “Lì xì tiếng chữ là lợi thị, đọc theo âm Quảng Đông, Triều Châu thành “Lê – i – xị”, chỉ số tiền được cho, tặng trong các dịp đầu năm, khai trương và cả trong lễ thành hôn nữa, chứ không bó hẹp trong dịp Tết Nguyên đán. Ở Việt Nam, “lì xì” được hiểu một cách đơn giản là “tiền mừng tuổi “. Lì xì nhằm cầu chúc người nhận gặp may mắn, phát đạt. Tiền này không nhằm để cất cho nặng hầu bao, mà ngụ ý cầu chúc người nhận quanh năm sung mãn, may mắn. Như vậy, khi lì xì, ý nghĩa chính không nằm ở “tiền” mà ở “tình”, tức ở lòng mong ước cầu chúc con cháu hay ăn chóng lớn, vui chơi, học hành tấn tới, còn phong bì nặng nhẹ nhiều ít (tiền) không phải là điều đáng để tâm lắm. Tiếc là hiện nay văn hóa lì xì đang bị nhiều người lợi dụng, làm biến tướng, làm giảm đi ít nhiều giá trị của nét văn hóa này.

***

Tết là dịp để “ôn cố tri tân”. Xin ghi lại vài dòng tản mạn có tính chất hồi tưởng, hồi cố để mong gặp sự đồng cảm nơi những người cao niên, để như một sự mời gọi, nhắc nhớ cho người trẻ. Ước mong sao cuộc sống sẽ thay đổi nhưng những giá trị truyền thống, linh thiêng của ngày tết cổ truyền vẫn được bảo lưu và gìn giữ.

ThS. Đặng Quốc Minh Dương

NĂM MÃO KHÁO CHUYỆN MÈO
THEO THÁNH KINH
Hoàng Đức Trinh
Mão là năm thứ tư trong chu kỳ tính âm lịch theo mười hai địa chi. Việt Nam ta các cụ xưa đã đặt con Mèo làm con vật biểu tượng. Ở các nước khác họ lại cho con thỏ là vật cầm tinh năm mão, có lẽ Việt Nam là nước nông nghiệp, đại đa số dân chúng sống trên đồng bằng, mèo là con vật hữu dụng, phổ quát hơn. Con thỏ hiếm thấy, nên cha ông ta xưa đã chọn con mèo làm con vật cho chi Mão. Năm Mão lại đến, chúng tôi lại có dịp mở Kinh Thánh để tìm xem con mèo có được các sách Kinh Thánh nhắc đến không?

Gốc gác con Mèo
Trong chuyện cổ nước ta có nhiều chuyện nói đến lai lịch con Mèo. Nhưng chúng tôi muốn nhắc đến con mèo của Bà E-và. Ai cũng biết Kinh Thánh ghi rằng Bà E-và là Mẹ chúng sinh (xem St 3, 20), nên nếu có con mèo của bà E-và, ắt hẳn nó phải là con mèo đầu tiên được người nuôi trên trái đất.

Chúng tôi nhớ mãi hồi còn nhỏ, chúng tôi đã đọc được chuyện con mèo của bà E-và trong một tờ báo với trí tưởng tượng như sau: Khi bà E-và thấy ông A-đam có con hổ làm hầu cận, bà E-và rất thích con hổ, nhưng nó quá uy dũng lại to lớn, bà không thể ôm ấp cưng chiều nó. Vì thế bà nũng nịu vòi ông A-đam xin Chúa cho bà một con vật hoàn toàn giống như con hổ, nhưng nhỏ nhắn, mềm mại hơn để bà có bạn. Chúa truyền cho A-đam lấy đất và bông gòn làm thành con vật như ý E-và, rồi đem trình trước Chúa. Chúa thổi hơi ban sự sống cho nó. Khi A-đam trao con vật cho E-và, con vật vui vẻ kêu lên những tiếng “meo meo”, dụi đầu vào người E-và, bà liền gọi nó là con Mèo. Từ đó bà E-và luôn đem theo con mèo bên mình. Những buổi trưa nóng bức, bà thường tìm đến ngồi mát dưới bóng râm của cây Cấm. Bà đang thiu thiu ngủ … bỗng bà nghe tiếng kêu chế diễu “eo…eo” và tiếng phun phì phì của con mèo. Bà nhìn lên thì thấy có con rắn to tướng quấn trên cành cây cấm…Con mèo không theo bà đến gốc cây cấm nữa.

Bà E-và dùng sợi dây thắt một cái nơ thật đẹp trên cổ mèo, sợi dây không cho mèo xa bà, nên mèo phải miễn cưỡng theo bà ra gốc cây cấm. Cho đến một hôm con mèo thấy bà hái trái cấm (xem St 3,6), nó liền khép chặt con ngươi trong đôi mắt lại, không dám nhìn bà.

Vì thế giống mèo cứ đến trưa thì tròng đen của mắt chúng khép chặt lại, và dáng bộ con mèo ủ rũ buồn chán, như nhớ lại giờ tội lỗi nhập vào thế gian. Cũng từ đó hễ con mèo gặp rắn là lại phun phì phì như phỉ nhổ vào biểu tượng của quân cám dỗ.

Kinh Thánh có nói đến Mèo không?
Chả mấy người nghĩ rằng trong Kinh Thánh có nhắc đến con mèo, Vì khi nghe Sách Thánh, trong suốt 3 năm trong chu kỳ Phụng vụ, không nghe đến con mèo bao giờ. Các ông bà Dòng Ba Đaminh, hằng ngày nguyện các giờ Kinh Phụng vụ, cũng chẳng đọc được chữ mèo khi nào. Quý vị đã thấy chúng tôi trích từ Kinh Thánh những câu nói đến con chuột của năm Tỳ. Con trâu của năm Sửu, Con hùm của năm Dần. Còn trong năm Mão, không biết Thánh Kinh có nói đến con Mèo không?
Câu hỏi làm kẻ viết bài này phải gia công tìm kiếm mãi cho ra câu trả lời. Chắc chắn Kinh Thánh cũng có nhắc đến con mèo. Nếu không, chúng tôi đã không dám nêu chủ đề “12 con giáp trong Kinh Thánh”. Chỉ. không rõ là KinhThánh nói đến mèo nhiều hay ít. Tổ tiên ta xưa đã đặt con trâu là biểu tượng cho năm Sửu, con mèo là biểu tương cho năm Mão, chứ không theo Tầu đật con bò, con thỏ cho hai năm đó (chứng tỏ Việt Nam chúng ta không lệ thuộc Tầu). Con Mèo là con vật cầm tinh cho năm Mão, nên Tết này chúng tôi phải nói chuyện về con mèo trong Kinh Thánh thì mới hợp với ý của tiền nhân xưa, đã coi người sinh năm Mão được gọi là người tuổi con Mèo.

Vì thế năm Mão này, mời quý vị theo dõi chuyện Mèo, chúng tôi trích từ Kinh Thánh. Mậc dầu trong Kinh Thánh hiếm có sách nói đến con mèo.

Mèo trong sách Tiên tri I-sai-a
Ngôn sứ I-sai-a được coi là anh hùng của đất nước Do Thái vì sự tham gia tích cực của ông vào những vấn đề của quốc gia. Ông còn là một thi sĩ có biệt tài, chiều hướng tôn giáo vẫn nổi bật nơi ông. Ông luôn tin tưởng Thiên Chúa là Đấng chí thánh, Đấng Uy dũng, Đấng đầy quyền năng, Đấng cai trị muôn loài trên trời, dưới đất. Con người là một thực thể bị tội lỗi làm nhơ uế, và Thiên Chúa đòi hỏi họ phải sám hối đền tội, để được tình yêu của Thiên Chúa che chở.

Khi Ít-ra-en bị lưu đầy bên Ba-by-lon, I-sai-a đã tuyên sắm rằng Ba-by-lon sẽ trở thành đổ nát và ra hoang phế, biến ra nơi cho thú hoang, chim trời trú ngụ:
“Cho đến ngàn thu, nó sẽ không có người ở, không có một lều trú cho đến đời đời. Ờ đó mèo hoang làm ổ và cú vọ ở đầy. Ổ đó đà điểu sẽ lưu trú, và dê rừng tha hồ quẩng dỡn.(Is 13, 20-21)

Không những Ba-by-lon, mà còn Ê-đom cũng bị nguyền rủa. Nhắc việc xưa, dân Ít-ra-en trên đường về Đất Hứa, gần đến Ê-đom đã cho sứ giả đến đề nghị Ê-đom cho mượn đường đi ngang qua, nhưng nhà cầm quyền Ê-đom không cho quá cảnh mà còn đe dọa sẽ cho binh đội kéo ra đón đánh nếu xâm phạm lãnh thổ họ. Ít-ra-en phải rẽ qua hướng khác.

Ê-đom ở sát biên giới Giu-đê-a về phía nam, luôn thù nghịch với Ít-ra-en, lúc Ít-ra-en mất quyền kiểm soát Giu-đê-a, Ê-đom lợi dụng cơ hội đã lấn đất của Giu-đê-a. Vì thế ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm cho Ê-đom sẽ ra hoang phế, trở thành nơi trú ẩn của muông thú, chim chóc hoang dã:
“Lâu đài của nó mọc gai tua tủa, đồn canh phòng thì cây dại tầm na, mắc cở mọc um tùm. Nó biến thành hang ổ của thú hoang, sân chim đà điểu. Ở đó mèo hoang sống với chó rừng, dê núi tìm nhau kéo đến ở.” ( Is 34, 14).

Như vậy, dưới cái nhìn của ngôn sứ I-sai-a, mèo hoang dã, bị liệt vào loại thú vật dơ bẩn,dữ dằn gớm tởm đối với con người.

Ngôn sứ Ba-rúc cũng nói đến mèo
Ba-rúc là thư ký của ngôn sứ Giê-ri-mi-a, sách Ba-rúc được viết tại Ba-by-lon sau cuôc phát lưu và được gửi về Giê-ru-sa-lem để người còn ở lại đọc trong các buổi nhóm hội phụng vụ. Sách được viết khoảng giữa thế kỷ thứ nhất trước công nguyên. Trong phần thư của ngôn sứ Giê-ri-mi-a được Ba-rúc trích lại, là một bình luận minh giáo, chống lại việc thờ ngẫu tượng.

Sách của ngôn sứ Ba-rúc thuyết phục dân Chúa không phải sợ các thần dân ngoại tại nơi bị lưu đày: Rồi đây tại Ba-by-lon, anh em sẽ thấy những tượng thần bằng vàng bạc hay bằng đá. Vì các thần ấy đều do tay con người làm ra. Tay thần cầm gươm cầm rìu nhưng không tự bảo vệ được mình. Người ta thắp cho thần nhiều đèn nến nhưng dù một đốm lửa thần cũng chẳng nhìn thấy… Còn nhiều những lý do ngôn sứ đưa ra chứng minh rằng những thần ấy không phải là linh thiêng, cho nên dân Chúa không phải sợ hãi mà tôn kính các thần ấy, như dân ngoại tôn kính.

Những thần ấy được đặt trong đền miếu, nhưng đúng là bị người ta nhốt như giam giữ kẻ phạm pháp, mặc cho chim chuột tung hoành, tranh nhau đồ cúng rơi rớt chung quanh, mà thần cũng không làm gì được: “Mặt thần đã bị khói từ đèn nến hun đen thui, trên thân mình chúng cũng như trên đầu chúng, người ta thấy bay lượn nào dơi, nào nhạn và các thứ chim khác, lại có cả mèo nữa. Cứ thế anh em đủ biết chúng không phải là thần: sợ chúng mà làm chi!” (Br 6, 20-22).

Có lẽ mèo xuất hiện tại đền miếu là để tìm săn chim chuột… những con vật lợi dụng lúc vắng người, bò ra kiếm ăn. Vì thế bàn thờ thần biến thành nơi cho các con vật dơ bẩn tìm đến tranh giành đồ ăn thức uống, từ những đồ cúng rơi rớt

Con mèo của Thánh Gia
Việt Nam ta là nước nông nghiệp, trước kia nhà nào cũng có nuôi ít là một con mèo để giệt chuột, giúp bảo vệ lương thực, mùa màng. Tuy nhiên, người Việt Nam không quý mèo như người Ai-cập. Tại Ai-cập các nhà khảo cổ đã khám phá ra nhiều bãi tha ma chôn hàng chục ngàn con mèo, với những ngôi mộ kiên cố, thật đẹp chứa xác ướp của mèo. Người Ai-cập coi mèo như là thần linh ban phúc, nếu không thì là phù thủy giáng họa, đàng nào cũng phải kính sợ mèo. Cho nên không những khi mèo chết người ta đã ướp xác lập mộ, mà khi mèo còn sống người Ai-cập rất cưng chiều cung phụng. Chính vì thế mà có chuyện “con mèo của Thánh Gia”.

“Khi Thánh Thiên thần báo tin cho Đức Mẹ rằng: Vua Erore đi tìm Đức Chúa Giêsu mà giết, thì Đức Mẹ đem Con sang nước Ichitô, mà Người thương Con còn non nớt mới sinh, và lo buồn đau đớn như phải dao sắc thâu qua lòng vậy”. (Tây-ban-nha gọi Ai-cập là “iexiptô” nên các cố Yphanho chuyển âm qua tiếng Việt là Ichitô). Không những Đức Mẹ phải trốn đi vượt biên ban đêm, mà còn bị người Ai-cập xua đuổi không cho trú nhờ. Cho đến khi Thánh Giuse đeo theo gói hành trang đi gõ cửa thêm một căn nhà nhỏ, để năn nỉ lần nữa. Chủ nhà hé cửa thò đẩu ra hỏi, anh ta thấy trong gói hành trang của Thánh Giuse có con mèo nhô đầu lên, anh chủ nhà vội vàng mở rộng cánh cửa, niềm nở tiếp đón Thánh Gia vào nhà. Khác với Việt Nam “mèo đến nhà thì khó” người Ai-cập được mèo đến nhà là một hạnh phúc như thần linh tới phù hộ. Từ đó chị chủ nhà cung phụng phục vụ Hài nhi Giêsu trước cả con nhỏ của mình. Truyền thuyết kể rằng, mỗi chiều chị đều sắp nước cho Hài nhi tắm xong, rồi chị dùng lại nước đó tắm cho con chị, con chị khỏi hết ghẻ lở và các bệnh khác. Người ta còn nói, người trộm lành cùng chịu án đóng đinh với Chúa Giêsu, chính là đứa trẻ được mẹ dùng lại nước tắm của Hài nhi thánh khi trước. Con mèo của Thánh Gia đã đem hên đến cho gia đình người đón tiếp các ngài.

Hơi hướm Thánh Kinh
Con mèo của bà Evà, con mèo của Thánh Gia dĩ nhiên không có trong Sách Thánh, cùng lắm thì hai con mèo ấy cũng chỉ có hơi hướm một chút Kinh Thánh, nhưng vì trong Kinh Thánh Công giáo chỉ có hai sách nhắc đến mèo. (Chúng tôi nói Kinh Thánh Công giáo, vì bên anh em Tin Lành không có sách của Tiên tri Barúc) nên chúng tôi mới có dịp theo truyền thuyết nhắc lại cho thêm vui câu chuyện Tết con mèo.

Trong sách “Tìm Từ Kinh Thánh Tân Ước” của linh mục Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ, nhà xuất bản Tôn Giáo, không có chữ “Mèo”. Như vậy chứng tỏ trong Kinh Thánh Tân Ước không nói đến con mèo. Quả đúng như vặy, chúng tôi cũng đã để ý mỗi khi đọc Tân Ước cũng không gặp được chữ “Mèo”, kể cả trong một vài bản dịch ngoại ngữ.

Kính chúc quý độc giả nguyệt san Trái Tim Đức Mẹ một Năm Mói an khang, mọi điều như ý mong muốn.

Hoàng Đức Trinh

TẾT TÂN MÃO: TẢN MẠN CHUYỆN MÈO
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Canh Dần qua, Tân Mão tới. Mão là năm thứ tư trong chu kỳ tính âm lịch theo mười hai địa chi. Mèo chỉ có trong 12 con giáp của Việt Nam. Trong khi đó “nhân vật” thứ tư này đối với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn độ, Thái Lan…lại là thỏ.

Nhiều quan niệm khác nhau về mèo.
Người Trung Quốc tin rằng con mèo là sứ giả của điềm lành. Nhiều nơi trên đất nước rộng lớn này, người ta còn mô phỏng động tác của mèo trong các điệu múa cầu mong cho mùa màng. Người Campuchia thường dùng mèo như vật dâng cúng trong các lễ hội cầu mưa. Ở Nhật Bản, mèo là con vật báo điềm dữ. Người Nhật tin rằng mèo có khả năng giết chết đàn bà và nhập hồn vào thân xác họ. Ở Ấn Độ, mèo tượng trưng cho kẻ khổ hạnh đi tìm phúc lạc. Những người cổ Hylạp và Lamã đã nuôi mèo để diệt loài gặm nhấm. Tại Rôma, mèo đã là biểu tượng của tự do và được coi là thần bảo hộ cho các bà nội trợ. Người Đông phương hâm mộ vẻ đẹp và sự huyền bí của mèo. Con vật này trở thành chủ đề hấp dẫn cho các nghệ sĩ và văn sĩ tại Trung Hoa và Nhật Bản. Người Ai cập cổ đại khắc họa mèo như một vị thần có khả năng ban phúc và bảo hộ. Mèo là con vật huyền bí. Họ đã thờ thần tình ái Bastet bằng một pho tượng đồng người phụ nữ có đầu là đầu mèo. Nếu ai giết một con mèo, người ấy sẽ bị tử hình. Khi con mèo họ nuôi bị chết, người Ai cập xưa cạo đôi lông mày như một dấu hiệu để tang cho mèo. Họ đem ướp xác con mèo đó và chôn cất tử tế. Các nhà khoa học đã tìm được tại Ai cập một nghĩa địa cổ chôn đến hơn ba trăm ngàn con mèo đã được ướp xác cẩn thận

Trong thế giới đạo Phật, mèo được xem là kẻ vô cảm, không biết xúc động. Đạo Hồi dành cho mèo một vị trí của kẻ được trọng vọng, ngoại trừ mèo đen. Người Hồi giáo tin rằng con mèo có bộ lông đen mượt cùng với cặp mắt xanh lè là kẻ có nhiều ma thuật.Trong một vài nền văn hóa ở Châu Phi, mèo tượng trưng cho sự tài giỏi, có khả năng thấu thị, giống như những nhà tiên tri. Mèo đặc biệt được quý trọng ở Bắc Mỹ. Tại đây, người ta coi mèo tượng trưng cho kẻ có chí lớn, biết cách đạt được mục đích.

Sở dĩ có sự không đồng nhất trong quan niệm về mèo, ngoài vấn đề văn hóa, có lẽ còn bởi sự mâu thuẫn từ hình thức đến đời sống của mèo.
Tính cách hai mặt của mèo.
Mèo là con vật dễ thương, gần gũi với con người, dáng nhỏ nhắn, cử chỉ đáng yêu. Nơi mèo đầy sự mâu thuẫn ngay từ hình thức bề ngoài của nó. Mèo là con vật đẹp và có tính cách hai mặt đối kháng. Mèo thật hiền lành khi nó nằm dài ngủ yên, khi nó cạ nhẹ vào chân người. Mèo cũng thật dữ dằn khi nó nhe răng gầm gừ và giơ móng nhọn chiến đấu với chó, hay vồ chuột nhanh như chớp. Uyển chuyển, nhẹ nhàng nhưng cũng đầy sự vờ vĩnh. Vẻ đài các từ màu sắc, độ óng mượt của bộ lông, cho đến mỗi bước đi, nhưng kèm theo là khả năng cắn xé tàn bạo, giết con mồi trong chớp mắt. Một thực tế cay nghiệt là mèo chỉ thực sự hấp dẫn, có thiện cảm khi lao thẳng vào con chuột với những móng vuốt sắc nhọn. Từ hành động khả ái nhất này cũng đã hàm chứa sự ghê tởm của kẻ rình rập gieo tai họa cách bất ngờ cho đối phương.Cứ xem mèo vờn chuột và thịt chuột mới thấy sự tàn bạo của hành vi kẻ mạnh hiếp kẻ yếu. Vờn uy hiếp cho chuột mất vía để kích thích dịch vị ăn cho ngon, mèo tung chuột văng xa rồi nhảy theo vồ lấy rèn luyện kỷ năng săn mồi, sau đó mới chén chuột đã tả tơi.

Phim “Tom và Jerry” coi mèo Tom là nhân vật phản diện, đần độn to xác đáng ghét, còn chuột nhắt Jerry lí lắc dễ thương. Con người ghét kẻ mạnh hiếp kẻ yếu nên thường mượn chuyện ngụ ngôn để dạy đời. Mèo to xác mà ăn hiếp con chuột nhắt bé tí. Nếu mèo vồ con hổ, người ta lại bốc thơm mèo ngay.

Theo truyện cổ của các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Thái Lan, khi Ngọc Hoàng mở cuộc thi chọn 12 con vật để làm đại diện cho 12 năm thì chuột (Tí) đã lừa mèo (Mão) bằng cách thông báo sai thời gian thi khiến hôm ấy mèo ngủ quên. Mèo không có mặt trong 12 con giáp và đó là nguyên nhân khiến mèo thù chuột!
Riêng với 12 sự tích của Việt Nam thì mèo cùng chuột đi thi. Khi đi ngang qua con sông lớn, cả hai phải nhờ trâu để quá giang. Giữa dòng, chuột lựa mèo lúc sơ ý bèn đạp mèo ngả xuống sông, còn trâu cõng chuột đến cửa thiên đình sớm nhất. Lúc ấy cửa hé mở và chuột đã nhanh nhẹn lẻn vào trước, trâu chậm hơn đành xếp thứ hai. Riêng phần mèo may mắn khi rớt xuống sông thì gặp hổ cứu và cặp này chiếm vị trí thứ ba và thứ tư trong 12 con giáp. Cái kết của sự tích 12 con giáp ở Việt Nam hay các nước đều giống nhau: mèo thù chuột do cuộc thi này mà ra!

Trong văn học nghệ thuật, nhất là mảng dân gian, mèo thường đóng vai trò nhân vật phản diện. Người ta phủ nhận mọi sự tu dưỡng của mèo! Mèo già… chỉ có thể hóa cáo, một cấp độ còn cao hơn về sự suy đồi đạo đức, bởi cáo bị ví như kẻ gian xảo, tiểu nhân. Khi cần diễn đạt sự hư hỏng, người ta nghĩ ngay đến những con mèo hoang sống lang thang ở những nơi tăm tối, nhơ bẩn.

Ngay bản thân từ mèo khi được dùng trong ngữ cảnh bình thường của đời sống, dùng một cách “vô tư”, cũng không hàm ý một cái gì nghiêm túc, tử tế. Nói chung, hình tượng mèo phần lớn gắn với những gì đáng phê phán. Trong trường hợp phải ẩn dụ kín đáo thì mèo biểu tượng cho thói khuê các không phải lối, ám chỉ những người sống không đúng với vị thế, tư cách của mình “Mèo khen mèo dài đuôi”. Thông thường hơn cả là người ta gán mèo cho những gì gần với sự thô lậu về tính cách. Vì thế, mèo luôn là hình tượng dùng khi cần đả kích chế giễu. Đặc sắc nhất về mặt hài hước gắn với mèo, có lẽ là bài đồng dao: “Con mèo mà trèo cây cau…”. Con mèo ở đây chứa tất cả những phẩm chất của một kẻ võ biền, cậy quyền lực nhưng ngu dốt và lố bịch. Có lẽ mèo trở thành hình tượng bất hủ về sự hung ác, nguy hiểm, đáng ghét hơn cả chính là ở bức tranh “Đám cưới chuột”. Nội dung bức tranh có thể còn nhiều cách hiểu như đa phần những tác phẩm nghệ thuật có thể rộng lớn, thú vị và sâu sắc hơn nội dung tố cáo thói tham tàn của các bậc “đèn Trời” được mệnh danh là “cha mẹ dân”, hoặc đả kích thói hèn hạ của đám nịnh thần… nhưng nếu chỉ xét những nội dung dễ thấy ấy thôi, thì con mèo cũng không có mảy may cơ hội được hiểu như một kẻ vô tội, vô can hay lương thiện. Ở góc độ nào, nó cũng là nhân vật xấu xa và đáng sợ, cần phải cảnh giác bằng cách tránh xa. (x.Tạ Duy Anh, báo Tuổi trẻ cười, số Xuân Tân Mão,).

Mèo, nguồn cảm hứng của võ thuật.
Mèo là loài vật có biệt tài săn mồi. Tất cả mọi sinh hoạt của mèo có đầy đủ tố chất cần thiết để có thể nghiên cứu, chuyển hóa, phổ quát thành những bài võ, bài thế tự vệ, chiến đấu hữu hiệu, nhất là trong những tình huống lấy nhu hóa cương. Đặc biệt ưu điểm của loài mèo là “đánh nhanh, rút êm”, có khả năng quan sát tinh tế, phán đoán linh ứng, phóng cao, chạy nhanh, xoay chuyển linh hoạt, uyển chuyển, mềm mại, nhanh nhạy, tinh khôn…nên mèo trở thành nguồn cảm hứng của võ thuật. Đi không tiếng động, nhảy vọt, leo trèo cực giỏi, khi lâm trận có những cú tát bằng hai chân trước rất nhanh.Theo ông Phạm Đình Phong, Phó chủ tịch liên đoàn võ thuật cổ truyền Việt Nam thì những đặc tính đó của loài mèo đã khiến nó trở thành nguồn cảm hứng của võ thuật. Ông viết trong báo Tuổi trẻ, số Xuân Tân Mão thật đặc sắc về võ mèo.

Chúng ta thường thấy võ khỉ, võ hổ, võ đại bàng… Và mèo, đương nhiên cũng là nguồn cảm hứng cho võ thuật khi con vật này có quá nhiều ưu điểm để các bậc võ sư học theo. Này nhé, dáng đi uyển chuyển không tiếng động là nguồn cảm hứng cho những ai nghiên cứu khinh công, những cú tát mạnh mẽ với hai bộ vuốt sắc như dao và ra đòn nhanh như chớp giật là cảm hứng cho những ai chuyên về trảo.Tuy nhiên, đối với những người nghiên cứu khoa học về những võ thuật như chúng tôi, chuyện võ mèo cần phải được chứng minh cụ thể chứ không chỉ nghe kể là như thế này hoặc thế kia. Còn nếu có thì võ mèo ra đời từ lúc nào và những quyền năng đặc biệt của nó ra sao? Qua nhiều năm nghiên cứu dựa theo các tư liệu, hiện vật, bài võ có liên quan đến võ mèo sưu tập ở một số bảo tàng, thư viện, vùng đất võ, môn phái võ nổi tiếng trong cả nước, tôi được biết ở nước ta võ mèo xuất hiện rất sớm.Trước hết, người Việt xưa rất giỏi võ vì xuất phát từ nhu cầu đấu tranh sinh tồn nhằm chống chọi với thiên nhiên, thú dữ, trộm cướp và kẻ thù luôn rình rập, xâm hại. Điều thú vị là trong thời kỳ sơ khai, võ nghệ của người Việt cổ chủ yếu dựa theo các thao tác lao động hằng ngày như: săn bắt, leo trèo, ném đá, phóng lao, bắn nỏ của người miền núi; cày bừa, mang vác, đâm chém, hái lượm, chạy nhảy của người miền xuôi và chèo chống, kéo đẩy, bơi lặn, chài lưới của người miền biển. Đồng thời con người còn tập trung quan sát, mô phỏng (bắt chước) theo các tính năng di động, tư thế rình mồi, vờn mồi, vồ mồi, bắt mồi, tấn công, phòng thủ của một số loài động vật. Và dĩ nhiên trong đó không thể thiếu con mèo loài vật rất gắn bó với con người. Chính vì vậy võ mèo không chỉ tồn tại như một tất yếu khách quan trong buổi đầu manh nha của các hình thái võ thuật sơ đẳng, cùng với các loại hình võ khác mang tính đặc thù của một số động vật có khả năng tương tự, như: võ hổ (hổ quyền), võ khỉ (hầu quyền), võ rắn (xà quyền), võ gà (kê quyền)…mà còn được các nhà nghiên cứu võ học chuyển tác, xây dựng thành các bài võ, đòn thế võ tuyệt chiêu, với vô số tính năng độc đáo, đa dạng. Võ mèo thực sự đã góp phần làm phong phú các loại hình võ thuật chiến đấu, góp phần bổ sung vào kho tàng võ cổ truyền dân tộc và sau này là nền võ học chân truyền Việt Nam thêm đồ sộ, phong phú hoàn mỹ.Tuy nhiên, do phần lớn bài võ, thế võ được mô phỏng, tạo tác từ các loài vật chủ yếu truyền khẩu là chính và trải qua hàng ngàn năm không được sưu tầm, đúc kết, bảo tồn nên bị mai một rất nhiều. Trong khi đó các vị võ sư tiền bối am hiểu sâu về võ mèo đều lần lượt qua đời nên hầu hết đã bị “tam sao thất bản” hoặc mất dần theo thời gian. Đến nay các bài võ mèo còn lại không nhiều và cùng không được phổ biến rộng rãi. Theo ghi nhận của các nhà chuyên môn, có lẽ bài “miêu tẩy diện” (mèo rửa mặt) là một trong những bài võ mèo tồn tại lâu đời trên đất nước ta. Năm 1965, tôi có học qua thầy Huyền Ấn Khoa và thầy Nghĩa Hiệp, sau đó có xem lão võ sư Quách Cang, Tạ Cảnh Thâm (ở An Thái) cùng một số thầy võ ở Bình Định biểu diễn bài “miêu tẩy diện”. Bài này có khoảng 32 động tác, được phân thành các thế liên hoàn, biến hóa linh diệu, phối hợp nhịp nhàng giữa bộ tay với bộ chân theo nguyên lý âm dương tương tác và cương nhu phối triển, trong đó có phần nghiêng về nhu thuận. Các tư thế di chuyển, né tránh, lập chủ, đảo “ngựa” (chân), phát động tấn công, lui về phòng thủ, phá giải các đòn thế… thường mô phỏng theo các đặc tính của loài linh miêu là hết sức nhẹ nhàng, biến hóa khôn lường, không nghe tiếng động, tựa như chiếc lá đang bay. Trong đó có một số động tác mang hình tượng “mèo đang rửa mặt”. Ngoài ra, bài này còn phối kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa các bộ pháp như: thần pháp, tâm pháp, khí pháp, nhãn pháp… tạo nên bài võ cực kì độc đáo, hóc hiểm, hội đủ các yếu tố về nội công lẫn ngoại lực theo phương châm “mền nhưng không yếu, cứng nhưng không gẫy”. Nhờ vậy, bài võ không những thích ứng với mọi tình huống chiến đấu, tự vệ, nhất là các chiêu thức ẩn mình mai phục, tiến đánh cận chiến, mà còn góp phần bồi bổ sức lực, điều hòa khí huyết cho những người thường xuyên luyện tập đúng phương pháp. Bên cạnh các bài võ mèo, còn có nhiều đòn thế tạo tác từ tính năng đặc thù của mèo như: thế võ “linh miêu mai phục, tấn thích ngưu” (mèo đang mai phục rình mồi, tiến đánh thế đâm trâu), trong bài “Thái sơn thảo pháp”, thế “Thoái bộ kim cương, Miêu tẩy diện” (lui về đứng bộ thương vàng, rồi chuyển thế mèo rửa mặt), trong bài hầu quyền, hay trong 18 đường quyền tuyệt kỹ võ công có thế “ Linh miêu tróc thử” (mèo vồ chuột), hoặc trong bài “Trường côn thế pháp” có thế “Trích thủy linh miêu, thôi sơn tắc hải”, “Hắc miêu lưỡng đả tầm xà”… là những đòn thế cực kỳ lợi hại, mang tính sát thương cao.Mặc dù bị thất truyền rất nhiều do tính chất truyền khẩu của các bài võ cổ truyền, nhưng tôi biết có một số lò võ cố gắng sưu tầm, gìn giữ những bài võ mèo. Ví dụ, võ đường Hà Trọng Ngự và Hà Trọng Khánh (đệ tử của võ sư huyền thoại Hà Trọng Sơn) ở Gò Vấp, Tp. HCM còn lưu giữ và truyền dạy một số bài võ mèo tiêu biểu như “Linh miêu độc chiến” và “Bạch miêu quyền”.

Người tuổi mèo
Con người đã nuôi mèo từ rất xa xưa. Vì dáng điệu con mèo dịu dàng, nhanh nhẹn khôn khéo, coi như nhàn hạ nên được chọn làm biểu tượng cho chi Mão trong 12 địa chi, đề tính thời gian theo âm lịch. Giờ Mão từ 5 giờ đến 7 giờ sáng, giờ con mèo no nê ngơi nghỉ sau khi săn mồi, giờ rạng đông và bình minh của một ngày mới. Ngày Mão thường là những ngày có nhiều điều nên làm mà ít điều cấm kỵ. Tháng Mão là tháng giữa mùa Xuân, thời tiết mát mẻ cây cối đâm chồi nẩy lộc xanh mầu xanh non lá mới, cũng là tháng mà mèo cái xốn xang muốn được truyền giống. Năm Mão là năm thứ bốn theo cách tính âm lịch, qua chu kỳ 12 năm lại tới năm Mão, năm có vũ điều phong thuận, khiến nhà nông được mùa.

Chi Mão có con mèo cầm tinh, nên để đoán thời vận cho người tuổi mão, người ta tìm ra những tính nết của con mèo, rồi bàn rộng ra áp dụng cho cái gọi là vận mệnh của người sinh năm mão. Trong 12 con giáp, mèo là con vật dịu dàng nhất. Ảnh hưởng của thiên nhiên vũ trụ dường như cũng theo chu kỳ mà lặp lại, khiến cho người sinh ra trong năm Mão tuy không thuộc loại nghiêng nước nghiêng thành, nhưng lại toát ra một khí chất đặc biệt, rất dịu dàng, không thích gây gỗ, luôn mong muốn mọi người đều là bạn, nên cũng được nhiều người thương mến. Tuy nhiên, người tuổi mão cũng rất hiếu động, quyết không ngồi yên khi họ bị chèn ép, mà ngay lập tức họ có phản ứng thích hợp. Đó là một số những nhận xét của những nhà tướng số khi đoán vận mệnh cho người tuổi mão, tin hay không tin là tuỳ theo nhận thức của từng người.

Năm nay nhiều người mang tuổi Mão hẵn đã vui vì hầu hết các lá số bói đầu năm đều cho rằng người tuổi Mão thông minh, ôn hòa, giàu nhân ái và nên cẩn trọng trong cuộc sống. Các lời giải bói toán có điểm giống và khác nhau theo từng tuổi, nhưng tựu chung đều có sung sướng, có may mắn và cũng có rủi ro, xui xẻo để đề phòng; và rồi tất cả đều tai qua nạn khỏi nếu biết “ăn hiền ở lành”, vì rõ ràng là “đức năng thắng số”.

Năm cũ đang qua đi, năm mới đang đến gần. Xuân đã về trước sân nhà. Xuân bước nhẹ qua mọi nẻo đường lối ngõ. Nguyện xin Thiên Chúa ban phúc lành cho mọi người, mọi nhà.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An