Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN – C
Lời Chúa: Hc 35,15b-17.20-22a; 2Tm 4,6-8.16-18; Lc 18,9-14
MỤC LỤC
1. Xin thương xót con 4
2. Tự hào 7
3. Đừng xét đoán 9
4. Đấm ngực cầu nguyện 12
5. Khiêm tốn 15
6. Lạy Chúa, xin thương xót con – Dã Quỳ 17
7. Người tín hữu 21
8. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 23
9. Chúa Nhật 30 Thường Niên 33
10. Mũi nhọn xung kích 41
11. Hai con người – Hai thái độ 47
12. Lòng khiêm nhường sám hối 52
13. Đối với Đức Giêsu, ai mới thực là công chính? 56
14. Được nên công chính 60
15. Người thu thuế ra về được khỏi tội 65
16. Người Pharisêu và người thu thuế 68
17. Khiêm tốn trong cầu nguyện. 72
18. Biết ngước mắt nhìn Trời 76
19. Người Pharisêu và người thu thuế 79
20. Bông lúa cúi đầu 84
21. Nâng mình lên sẽ bị hạ xuống 87
22. Được nên công chính 90
23. Quì gối xuống – Lm Vũ Minh Nghiễm 94
24. Con mắt – Lm. Vũ Đình Tường 99
25. Một kiểu nhận thức tai hại 102
26. Hai hạng người cầu nguyện – Veritas 106
27. Hai hạng người cầu nguyện 109
28. Người Pharisiêu với người thu thuế 111
29. Ai là người công chính? – Thiên Phúc 116
30. Xin thương xót con 120
31. Hài lòng về mình hay về Thiên Chúa? 123
32. Chỉ công đức không mua được thiên đàng 125
33. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy 129
34. Ai là người công chính? 132
35. Cúi mình xuống – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An 137
36. Hãy nhận ra chính mình – An Phong 142
37. Tình thương biến đổi 145
38. Khiêm nhường chớ có kiêu ngạo 151
39. Thói giữ đạo thành tích 154
40. Biết mình 159
41. Khiêm nhường 162
42. Xưng thú 165
43. Chấp nhận sự thật về chính mình 167
44. Mãnh lực lời nguyện – Lm. Minh Vận, CRM 170
45. Xin đừng mưa trong ngày vui của tôi 174
46. Suy Niệm của JKN 178
47. Suy Niệm của JKN- 2 183
48. Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy 189
49. Món vật cao quý nhất trước mặt Chúa 194
50. Người thu thuế ra về được khỏi tội 196
51. Cầu nguyện: chiếc cầu hiệp thông 198
52. Biệt phái và thu thuế 201
53. Chúa Nhật 30 TN 204
54. Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống 209
55. Cầu nguyện 215
56. Lời cầu nguyện khiêm nhường 217
57. Cầu nguyện là thông hiệp với Thiên Chúa 220
58. Nhận thức – Trầm Thiên Thu 222
59. Lời cầu nguyện đích thực 229
60. Tội lỗi chống lại sự có tội – McCarthy 234
61. Suy niệm của William Barclay 237
62. Người biệt phái và người thu thuế 241
63. Cầu nguyện và khiêm nhường 248
64. Khiêm nhường trong cầu nguyện và đời sống 253
65. Xét rồi chỉ đoán – Nguyễn Thảo Nam 262
66. Cầu nguyện và khiêm nhượng 264
67. Tự trọng – Như Hạ 269
68. Khiêm nhường cầu nguyện 274
69. Thành thật với chính mình – Huệ Minh 277
70. Cuộc trần ai, ai dễ hơn ai? – Đỗ Lực 282
1. Xin thương xót con
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Khi Đức Giêsu đưa ra kết luận: ‘người thu thuế được nên công chính, còn người pharisêu thì không’, những người nghe Ngài hẳn đã ngỡ ngàng, chưng hửng.
Ông Pharisêu là mẫu mực trong việc giữ Luật. Những điều xấu xa tiêu cực, ông không làm. Những điều Luật đòi hỏi, ông còn làm hơn thế. Lời cầu nguyện của ông hết sức tự phát và chân thành, một lời nguyện mà nhiều người đạo đức thèm muốn. Tại sao Thiên Chúa lại không nhìn đến ông?
Tại sao Thiên Chúa lại thương người thu thuế tội lỗi, dù anh ta nào đã hứa bỏ cái nghề tồi tệ đó; nào đã chịu đền bù bao nhũng lạm mình gây ra?
Tình thương của Thiên Chúa thì nghịch lý, nhưng không vô lý.
Chúng ta cần nhìn ông pharisêu cầu nguyện.
Ông đứng tách biệt với những người khác trong Đền Thờ. Mắt ông vẫn thấy anh thu thuế đứng tuốt phía dưới.
Chúng ta cần nghe lời ông cầu nguyện.
Ông muốn dâng lên Thiên Chúa một lời tạ ơn, nhưng tạ ơn lại trở thành so sánh mình với người khác, và đầy ứ cái tôi tự mãn, tự hào: tôi không như bao kẻ khác, tôi ăn chay, tôi nộp thuế…
Cái tôi của ông thật tuyệt vời, hơn hẳn người khác. Cái tôi của ông quá ngon lành, bảo đảm, nên ông không cần xin Chúa thêm điều gì. Ông chỉ khoe Chúa những thành tích của ông, hay đúng hơn ông đang ngắm mình độc thoại. Đời sống của ông pharisêu đầy đặn quá, tròn trịa quá đến nỗi Thiên Chúa trở nên thừa. Ngài chẳng tìm ra một kẽ hở nào để vào đời ông nên Ngài chịu đứng ngoài.
Ngược lại anh thu thuế thì run rẩy xấu hổ, chẳng dám ngước nhìn Chúa, chẳng dám lại gần tha nhân. Anh thấy rõ các tội của mình, và thấy mình bị kẹt cứng, tự sức không sao tháo gỡ. Anh chỉ còn biết cậy dựa và phó thác cho Tình thương.
Người thu thuế thật là con người tội lỗi, nhưng tội của anh đã trở nên một kẽ hở để Thiên Chúa có thể đi vào đời anh. Chính sự trống rỗng của anh đã thành khoảng trống cho Thiên Chúa.
Tội lỗi hay công đức đều có thể làm ta khép lại hay mở ra. Điều quan trọng là thấy mình luôn luôn cần Chúa.
Tiếc là ông pharisêu chưa nhận ra khuyết điểm của mình. Ông về nhà mà không biết mình chẳng được Chúaưu ái. Ông về nhà mà vẫn khép kín tự mãn như lúc lên đền.
Làm sao tôi có được sự trung tín của người pharisêu và sự khiêm hạ của người thu thuế? Làm sao tôi tận dụng mọi năng lực Chúa ban mà vẫn hoàn toàn phó thác cho Chúa định liệu? Ước gì đời tôi có nhiều kẽ hở để Chúa vào.
Gợi Ý Chia Sẻ
Càng thánh thiện thì càng thấy mình cần đến Thiên Chúa. Khi nào trong cuộc sống bạn thấy mình cần Chúa hơn cả?
Chúng ta vẫn thường ngấm ngầm so sánh mình với người khác như ông pharisêu. Chúng ta rất dễ rơi vào thái độ tự hào. Làm sao để thắng được tính xấu này?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, những tội chúng con phạm vừa mang dáng dấp của tội Ađam vừa mang dáng dấp của tội Cain.
Tội nào cũng là khép lại trên chính mình, khước từ Thiên Chúa và quay lưng trước anh em. Tội nào cũng là lấy mình làm trung tâm và qui tất cả về mình.
Xin cho chúng con đừng nhìn ngắm công trạng của mình, nhưng nhìn vào những nén bạc Cha giao mà chúng con chưa đầu tư sinh lợi cho đủ.
Xin cho chúng con đừng tự mãn nhìn về quá khứ, nhưng hướng đến tương lai với bao điều cần thực hiện.
Lạy Cha, xin cho chúng con đừng lấy đức hạnh của mình làm thước đo người khác, đừng cứng cỏi lạnh lùng khi đánh giá tha nhân.
Ước gì chúng con có quả tim như Con Cha, hiền lành và khiêm nhượng, để chúng con có thể mở ra đến vô cùng trước những đòi hỏi của Cha và nhu cầu của anh em. Amen.
2. Tự hào
Suy Niệm
Đạo đức là một điều tốt, nhưng tự hào về đạo đức của mình lại là một nguy cơ. Làm việc lành là một điều tốt, nhưng nếu việc lành khiến tôi khinh miệt tha nhân thì thật là nguy hiểm.
Dụ ngôn trên đây cho thấy hai khuôn mặt trái ngược: người pharisêu công chính và người thu thuế tội lỗi.
Chúng ta cần hình dung cách đứng cầu nguyện của họ, và cần suy nghĩ về lời họ thưa với Chúa.
Lời nguyện nào cũng phản ảnh tâm hồn.
Người pharisêu trước hết dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, vì ông thấy mình hơn kẻ khác nhiều. Ông liệt kê những tội ông không hề phạm, và những việc đạo đức ông quen làm, vượt quá điều Lề luật đòi hỏi. Ông vừa cầu nguyện, vừa liếc mắt nhìn anh thu thuế đứng ở xa phía dưới. Ông thấy mình hơn hẳn anh ta. Đúng ông là một người giàu, vì ông chẳng có gì phải nài xin Thiên Chúa.
Ngược lại, anh thu thuế lại là người nghèo. Anh muốn làm lại cuộc đời, nhưng hầu như không sao làm nổi. Nếu hoán cải, chắc anh phải bỏ nghề, nhất là phải bồi thường mọi gian lận xưa nay. Anh không dám ngước mắt lên trời, chỉ biết đấm ngực nài xin lòng thương xót Chúa.
Thiên Chúa sẽ nghiêng về phía ai?
Ngài không nghiêng về người pharisêu, kẻ tự hào mình công chính và khinh rẻ tha nhân, nhưng Ngài cúi xuống người thu thuế và đáp lại lời nài xin của anh, vì anh không cậy dựa vào công đức của mình nhưng vào lòng thương xót Chúa.
Chúng ta không thể làm cho mình nên thánh thiện chỉ nhờ thi hành những việc đạo đức nào đó.
Chúng ta cũng không thể mua được Nước Trời chỉ nhờ những cố gắng của bản thân.
Trở nên thánh, nên công chính là việc Chúa làm nơi tôi, là quà tặng Ngài ban cho tôi.
Tôi chỉ cần khiêm tốn mở ra, để cho Ngài chiếm lấy mọi khoảng đời của mình, chi phối mọi khoảnh khắc của ngày sống.
Nên thánh là để cho Chúa chinh phục và yêu thương.
Thánh nhân chẳng bao giờ là người tự hào, nhưng là người càng lúc càng cần đến Thiên Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì với những lời cầu nguyện của bạn? Có khi nào nó giống với lời cầu của người pharisêu không?
Chúng ta thường xét đoán người khác theo cái nhìn bên ngoài. Có khi nào bạn thấy mình mắc phải sai lầm khi vội vã xét đoán người khác không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, khi đến với Chúa con tháo bỏ đôi giày những tham vọng của con, con cởi bỏ đồng hồ thời khóa biểu của con, con đóng lại bút viết các quan điểm của con, con bỏ xuống chìa khóa sự an toàn của con, để con được ở một mình với Ngài.
Lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật, sau khi được ở với Ngài, con sẽ xỏ giày vào để đi theo con đường của Chúa con sẽ đeo đồng hồ để sống trong thời gian của Chúa, con sẽ đeo kính vào để nhìn thế giới của Chúa, con sẽ mở bút ra để viết những tư tưởng của Chúa, con sẽ cầm chìa khóa lên để mở những cánh cửa của Chúa. (Graham Kings).
3. Đừng xét đoán
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Tâm lý thông thường, ai trong chúng ta cũng có khuynh hướng và thói quen xét đoán người khác khi người ta vắng mặt. Việc xét đoán và kết luận về một người nào thường mang tính chủ quan phiến diện và nhiều lúc gây ra những hậu quả khôn lường. Khi xét đoán người khác, chúng ta tự coi mình là chuẩn mực, và nếu ai không giống như chúng ta thì đều bị kết án và phê bình. Xét đoán là một thói quen xấu. Người tin Chúa cần loại bỏ thói xấu này.
“Hai người lên Đền thờ cầu nguyện” – Chúa Giêsu bắt đầu câu chuyện với mục đích cảnh báo chúng ta về thói quen xét đoán chỉ trích người khác. Người biệt phái tự coi mình là người công chính. Anh lên Đền thờ cầu nguyện, nhưng thực ra anh đã lợi dụng môi trường thiêng thánh này để khoe mình và để xét đoán người khác. Nội dung lời cầu nguyện của anh toàn là những lời khoe khoang. Không những khoe khoang những việc đạo đức mình làm, anh còn nặng lời kết án người khác. Nhận định của anh về người khác thể hiện rõ sự ghen tỵ, hằn học. Chúa Giêsu kết luận: lời cầu nguyện của người biệt phái không được nhận lời. Bởi lẽ anh không đến Đền thờ để cầu nguyện nhưng để phô trương.
Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng có quyền xét xử. Ngài là thẩm phán công minh – tác giả sách Huấn Ca khẳng định như thế. Truyền thống Kinh Thánh thường diễn tả Thiên Chúa bênh vực và bảo vệ những người nghèo khổ cô thế cô thân. Những ai lợi dụng quyền hành mà bắt nạt và chèn ép những người yếu thế, sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt. Cũng vậy, lời cầu nguyện của người nghèo được Chúa lắng nghe. Tác giả đã dùng hình ảnh “lời cầu nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm” để diễn tả mối quan tâm của Thiên Chúa. Ngài luôn nhận lời họ khi họ cầu nguyện. Lời cầu nguyện của người thu thuế trong câu chuyện là lời cầu nguyện chân thành. Nội dung lời cầu nguyện của anh là nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình để xin Chúa rù lòng thương. Anh không khoe khoang. Anh cũng không lôi người khác vào lời cầu nguyện của mình. Lời cầu nguyện của anh là những lời tâm sự chân thành giữa anh với Chúa, với xác tín Ngài sẽ nhận lời.
Người tín hữu tin Thiên Chúa là Đấng thẩm phán công minh. Họ phải sống thế nào để không bị kết án vào lúc cuối của cuộc đời. Quả vậy, tất cả những hành vi cử chỉ và lối sống của mỗi chúng ta đều được “ghi chép” và sẽ được phơi bày trong ngày phán xét. Ý thức mình sẽ bị phán xét sẽ giúp con người thận trọng hơn trong cách ứng xử và trong đời sống hằng ngày. Tin vào Chúa là Đấng thẩm phán công minh, người tín hữu không hoảng loạn trước đau khổ thử thách. Phaolô đang bị cầm tù và sắp bị đưa ra xét xử. Ông viết cho môn sinh của mình là Timôthê những dòng tâm sự đầy xác tín: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện”. Phaolô đón nhận đau khổ thử thách trong niềm hy vọng, vì ông biết Thiên Chúa sẽ thưởng công cho mình.
“Phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Đó là giáo huấn rút ra từ câu chuyện hai người lên Đền thờ cầu nguyện. Đó cũng là bài học Lời Chúa dạy chúng ta hôm nay. Cuộc sống đầy bạo lực, xung đột và chia rẽ do con người thiếu khiêm nhường, và sẵn sàng được thua mà không nghĩ đến đạo lý làm người. Trong những ngày cuối tháng Mười này, chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria, mẫu gương của sự khiêm nhường. Chính từ sự khiêm nhường mà Mẹ được tôn vinh: “Muôn thế hệ sẽ khen rằng tôi có phúc”. Xin Mẹ giúp chúng ta biết thưa “Xin vâng” như Mẹ. Đó là lời xin vâng có phó thác, cậy trông và khiêm tốn. Từ lời xin vâng tuyệt diệu ấy, đất trời được nối kết, Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
4. Đấm ngực cầu nguyện
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Một cô gái đang độ thanh xuân, lên đền thờ xưng tội, cô đã than thở với Linh mục rằng: Thưa Cha, con thường dự lễ không nên. Thế con làm gì mà không nên? Thưa Cha suốt buổi lễ, con chỉ biết khóc vì nghĩ đến tội con đã phạm: khi thì ăn bớt tiền chợ, khi thì thích nói chọc ghẹo người ta cho người ta chửi, khi thì liếc trộm mấy cậu con trai, khi thì thích phạm tội.
– Ồ thế thì con cứ tiếp tục dự lễ như vậy, để nước mắt con tẩy sạch tâm hồn con nên trong sáng (Thánh Thể tr. 42). Cô gái này giống với người thâu thuế lên đến thờ đấm ngực cầu nguyện đã được Đức Giêsu nâng lên, và khác với người Pharisiêu cầu nguyện đầy vẻ tự đắc đã bị Đức Giêsu hạ xuống.
Trong kinh nguyện của Giáo Hội, nhất là Thánh lễ, ta thấy: Cầu nguyện gồm bốn việc: Thống hối, thờ lạy, tạ ơn và xin ơn. Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến thống hối.
1- Người Pharisiêu cầu nguyện như đọc bản báo cáo đầy thành tích vẻ vang của mình. Những thành tích như ăn chay mỗi tuần hai lần, còn luật dậy một năm chỉ ăn chay có một lần thôi (Lv. 16, 19-31), nộp thuế tối đa là một phần mười mọi thứ lợi tức, còn luật chỉ buộc một phần mười lợi tức chính, và không bao giờ phạm những tiêu cực như tham lam, bất công, ngoại tình. Rồi Pharisiêu kết luận cho mình hơn hẳn bọn thu thuế và tất cả các người khác. Như vậy, Pharisiêu đã tự khen mình, tự nâng mình lên là người công chính, tự phong thánh, lại khinh chê người khác và coi Thiên Chúa chỉ là khán giả đến xem triển lãm những thành tích công đức của ông.
Đức Giêsu đã phê vào bản báo cáo này như thế nào? Người phê: Làm thì láo, báo cáo thì hay. Cho nên ông bị hạ xuống và tội ông không được tha, còn thêm tội kiêu ngạo. Bao nhiêu lần Đức Giêsu đã cảnh báo Pharisiêu như nấm mồ sơn phết bên ngoài, còn trong đầy ô uế thối tha. Họ xây mồ mả các tiên tri mà cha ông họ đã giết. Rồi đến lượt họ, họ lại giết Đấng Cứu thế trên thập giá (Mt. 23, 4. 27. 34)
2- Người thu thuế cầu nguyện theo lối tự phê, tự kiểm thảo. Ông đã tự xưng thú tội mình, nhận mình là kẻ tội lỗi. Không dám tới gần Thiên Chúa thánh thiện vô cùng, ông chỉ đứng xa xa. ông tự kết án mình trước mặt Thiên Chúa là vị quan tòa tối cao, công minh, nghiêm thẳng, ông không dám ngước mặt lên, ông đã đau đớn đấm ngực ăn năn, thống hối tội lỗi. Ông thâm tín sự khốn nạn của tội lỗi mình. Ông không thấy mình có thành tích nào có thể đền tội ông được, dù ông làm bao nhiêu việc ăn chay, hãm mình, bố thí dâng cúng, cũng chẳng đáng công gì. Ông không thể cậy trông vào đâu được, chỉ có lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa mới cứu ông được thôi, nên ông đã tha thiết van xin: “Lạy Chúa, xin thương xót con, con là kẻ tội lỗi khốn cùng”. Lời cầu hết lòng khiêm tốn đó có sức an ủi ông ngọt ngào biết bao. Ông cảm thấy đầy lòng tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, vì ông biết rằng: Dù tội lỗi như Aaron đúc bò vàng cho toàn dân thờ, như đại vương David giết chồng, cướp vợ, đã hết lòng ăn năn sám hối. Thiên Chúa vẫn sẵn lòng tha thứ. Dù cả toàn dân bỏ Chúa, và bị quân thù bắt lưu đầy ở Babilon, lại bị Thủ tướng Aman ra tay diệt trừ. Trong cơn khốn cùng như thế, Hoàng hậu Esthe cùng toàn dân đã biết ăn năn sám hối tội lỗi, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát họ. Tội lỗi như dân ngoại thành Ninivê, Chúa còn thương bắt buộc ngôn sứ Giona đến rao giảng cho họ để họ biết cải tà qui chính. Chúa liền thương tha thứ cho họ. Thấy tất cả những sự kiện lịch sử thống hối đó, người thu thuế càng thêm tin tưởng vào lòng thương xót khoan dung của Thiên Chúa, ông càng đấm ngực hết lòng sám hối.
Đức Giêsu đã phê cho ông: “Người này ra về thì được nên công chính. Trái lại, Pharisiêu thì không, vì phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”. Người ta thường nói: “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại”. Người phàm còn biết tha thứ cho kẻ hối lỗi. Huống chi Thiên Chúa tốt lành vô cùng. Nhiều lần, Đức Giêsu đã bày tỏ cho chúng ta biết: Thiên Chúa như Mục tử nhân lành, bỏ mọi sự đi tìm chiên lạc; như người Cha đầy lòng thương xót, vui mừng đón rước và long trọng mở tiệc ăn mừng đứa con đi hoang trở về, vì “Con ta đây đã chết, nay sống lại; đã mất, nay tìm thấy” (Mt. 18, 12-14; Lc. 15, 4-7. 11-32).
Tội nặng tầy trời như tông đồ của Phêrô: chối Thầy. Khi hết lòng ăn năn trở lại, Chúa đã lờ đi như không biết, không trách một lời, lại còn thân mật hỏi: “Này anh Simon, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em hay không?”
Thái độ của Chúa thật vô cùng bao dung quảng đại, không miệng lưỡi nào ca ngợi cho xiết.
Thời nay, người ta xa lánh tòa giải tội, không còn lo sám hối, hoặc vì không còn tin vào Thiên Chúa từ bi hay thương xót, nên thất vọng chết như Giuda, hoặc vì quá tự mãn với những tiến bộ khoa học, không cần Thiên Chúa nữa; hoặc vì khô khan lười biếng, thờ ơ lãnh đạm, lòng chai đá, không còn biết tội phúc nữa, đâu còn biết ăn năn sám hối.
Lạy Chúa, xin cho con biết khiêm tốn nhận ra con là kẻ tội lỗi, yếu hèn như kẻ nghèo khó, bị áp bức, sống mồ côi, góa bụa trong Bài đọc 1 để luôn luôn đấm ngực ăn năn, hết lòng chạy đến cầu khẩn Chúa mọi nơi, mọi lúc.
5. Khiêm tốn
Hai nhân vật được đặt đối diện nhau trong bài Tin Mừng sáng hôm nay là đại diện cho hai hạng người trong xã hội Do Thái, đồng thời cũng tượng trưng cho hai thái độ tôn giáo ở bất cứ thời điểm nào.
Trước hết là người biệt phái. Họ được nhìn nhận thuộc thành phần ưu tú và đạo đức. Họ có học thức, thông thạo lề luật, giữ các quy định và tập tục tôn giáo một cách nghiêm chỉnh từng li từng tí. Họ tự nhận mình là người công chính và đi tìm sự công chính trong việc giữ luật hình thức. Không phải mọi việc họ làm đều xấu. Thật ra họ cũng có nhiều đức tính tốt đẹp. Tuy nhiên nơi họ, những điều tự bản chất là tốt đã bị nhiễm độc bởi thứ vi khuẩn tinh tế là lòng tự mãn và tính kiêu căng. Họ tự thoả mãn với chính mình, tự coi mình là hơn kẻ khác và tự đặt mình làm khuôn mẫu cho mọi người noi theo.
Còn người thu thuế thì bị coi là hạng bất lương, bị đồng hoá với phường tội lỗi. Họ bị xã hội khinh chê và xa lánh bởi vì họ thường lạm thu quá mức, làm giàu nhờ gian lận, cộng tác với đế quốc Lamã mà bóc lột đồng bào của mình. Hơn ai hết người biệt phái khinh miệt giới thu thuế và bực tức vì Chúa Giêsu thường tiếp xúc với họ. Thế nhưng qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta thấy người thu thuế đã đem lại cho chúng ta những tình cảm tốt đẹp và lời cầu của anh thực sự có một giá trị to lớn.
Đó là một lời cầu chân thành của một người sáng suốt về mình, biết rõ thân phận mình, không ảo tưởng; trái lại ý thức được tình trạng nghèo nàn của mình. Vì thế, thay vì tin tưởng nơi mình, anh đã hướng tới Thiên Chúa, tìm ơn tha thứ và sự công chính nơi Ngài: Lạy Chúa xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi. Chỉ những ai thất vọng về mình mới có thể khát khao và cậy trông nơi Chúa. Và ai trông cậy nơi Chúa thì Ngài sẽ biến đổi nỗi thất vọng của người ấy thành niềm hy vọng. Ơn công chính chỉ được ban cho những tâm hồn khiêm tốn và chân thành nhận lỗi.
Trái lại lời cầu của người biệt phái không đáng được gọi là lời cầu. Đây là những lời ngạo mạn của một kẻ tự mãn. Và không thể có ơn tha thứ cho một kẻ tự mãn. Thiên Chúa chỉ có thể làm no đầy người đói khát, còn những người coi mình là no đầy thì vô phương cầu cứu. Thiên Chúa đuổi họ về tay không vì ơn tha thứ không có lối để vào một tâm hồn khép kín. Những ai biết mình không công chính thì Thiên Chúa sẽ làm cho họ nên công chính, còn những ai tự nhận mình là công chính thì họ không còn là công chính nữa. Thiên Chúa không phân chia nhân loại làm hai hạng người có tội và không có tội, bởi vì tất cả chúng ta đều là tội nhân. Nhưng Ngài phân chia cách khác thành người có tội biết hối cải và người có tội không nhận tội. Một bên thì được tha thứ còn một bên thì nặng tội thêm. Từ những điều vừa trình bày chúng ta rút ra hai kết luật:
1- Con người không thể tìm thấy sự công chính nơi bản thân. Phải tìm nơi Thiên Chúa, chính Ngài sẽ làm cho chúng ta được nên công chính.
2- Người tự mãn vốn thường tự ý khước ơn tha thứ, trong khi đó lòng khiêm tốn ăn năn sẽ xoá xạch tội lỗi vì luôn gặp được lòng thương xót của Chúa. Thiên Chúa thì ghét tội nhưng lại yêu thương tội nhân chính vì thế mà Chúa Giêsu đã đến trong thế gian.
6. Lạy Chúa, xin thương xót con – Dã Quỳ
Chúng ta đang sống giữa một thế giới mà con người đang cạnh tranh nhau về chỗ đứng và quyền lực. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Muốn mình giàu có hơn, tài giỏi hơn, quyền thế hơn và nổi nang hơn. Nhiều khi chẳng giỏi hay không giàu nhưng vẫn tỏ ra và tự cao tự đại cho mình hơn người, khoa trương, đánh bóng và thổi phồng sự thật. Đó là thói kiêu căng tự mãn ở đời! Dù thế, người ta chẳng ưa thích gì những kẻ kiêu ngạo nhưng lại dễ mến người khiêm nhường và dễ gần người hiền lành biết mình, như câu chuyện trong sách Trang Tử thuật cho chúng ta về hai nàng hầu:
Nhà kia nơi nước Tống có hai nàng hầu, một đẹp một xấu. Một hôm Dương Chu đến trọ, quan sát và nhận thấy trong nhà ai cũng quí yêu nàng hầu xấu mà khinh thường nàng hầu đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu gọi hỏi cậu bé trong nhà, cậu ta trả lời:
– Nàng hầu đẹp kia tự cho mình là đẹp và khinh chê nàng hầu xấu nên mất đẹp. Chẳng ai nhìn thấy nét đẹp của nàng nữa! Còn nàng hầu xấu tự biết mình là xấu mà khiêm nhu kính trọng mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng.
Dương Chu liền gọi môn sinh đến và dặn: Các con nhớ ghi lấy bài học này. Giỏi hay đẹp mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi và đẹp thì đi đâu mà chẳng được người ta yêu mến, tôn trọng.
Cũng vậy, trong Tin Mừng hôm nay, nhân việc Chúa Giêsu thấy “một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác”, Người đã dạy chúng ta bài học khiêm nhường qua dụ ngôn người Pharisiêu và người thu thuế.
Hai người cùng lên đền thờ và dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện cá nhân. Người Pharisiêu nhìn mình, nhìn những công trạng, những việc làm của mình và tự mãn. Anh ta chỉ thấy đó là công sức của mình và cho là đã đủ, đã tốt. Anh ta như chiếc bình đầy kiêu ngạo do thổi phồng mình lên! Còn người thu thuế nhìn mình, thấy mình tội lỗi, bất xứng! Anh không dám ngước mắt nhìn lên Thiên Chúa nhưng chỉ biết đấm ngực thống hối. Anh như chiếc bình rỗng, chỉ chờ mong ân huệ và lòng xót thương của Chúa tuôn đổ vào để tha thứ và thánh hóa anh nên công chính. Anh cầu nguyện với lòng thành khẩn “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”, như người khó nghèo cầu nguyện trong cơn quẫn bách “Lạy Chúa, xin lắng tai và đáp lời con, vì thân con nghèo hèn túng quẫn.”(Tv 85,1).
Thiên Chúa lắng tai nghe lời của kẻ nghèo hèn dâng lên Ngài với lòng khiêm nhượng, nhìn nhận, và xưng thú tội lỗi của mình, vì “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường.”(Gc 4,6) Thiên Chúa-Đấng giàu lòng thương xót chỉ lắng tai nghe lời kẻ cầu khẩn lòng thương xót. Ngài không nghe những lời của kẻ nâng mình lên, tự phụ, cậy sức mình, nghĩ mình chẳng còn thiếu những việc tốt lành nào mà không làm.
Người Pharisiêu đã thực hiện những việc đạo đức, ăn chay, dâng cúng vào nhà thờ hay không làm điều xấu. Điều đó thật tốt và đáng noi theo. Thế nhưng, anh ta tự cho mình là công chính nhờ những việc anh ta làm, kể lể trước Thiên Chúa và so sánh, khinh chê người khác không tốt như mình “Tạ ơn Chúa vì con không như tên thu thuế kia…” Người ta được nên công chính không phải do việc làm mà do lòng tin và ân sủng của Chúa, như lời thánh Phaolô nói “… Người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính.”(Rm 4,4-5)
Đứng trước Thiên Chúa, con người chúng ta chỉ là những tội nhân khốn khổ nghèo hèn. Ta phải biết chân nhận thân phận con người đầy bất toàn, giới hạn và yếu đuối. Ta làm được gì cũng là nhờ ân sủng và sức mạnh từ Chúa, như lời thánh Phaolô khẳng định: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” (1Cr 4,7) Vì thế, như anh thu thuế, chúng ta hãy biết nhìn nhận con người thật của mình, cầu nguyện với lòng khiêm nhường sám hối, cậy dựa vào lòng thương xót và kho tàng ân sủng của Thiên Chúa “Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây… cho đến khi Đấng Tối Cao đoái nhìn” (Hc 35,17-18) Chắc chắn lời cầu nguyện khiêm nhường của chúng ta sẽ được Chúa lắng nghe và nhậm lời, vì Người thấu suốt những đau khổ nơi tâm hồn ta.
Qua dụ ngôn này, chắc hẳn Chúa rất muốn nói với chính chúng ta, cả những mục tử và từng Kitô hữu trong Hội Thánh. Thiên Chúa, Đấng Cao Cả, Chí Thánh; đến trước Ngài, chúng ta trần trụi, ô nhơ nên thái độ khiêm nhường và đấm ngực xưng thú tội lỗi phải là thái độ của mỗi Kitô hữu. Trong cầu nguyện hay nơi cuộc sống, người công chính thật thì chẳng bao giờ khoe khoang, nâng mình lên và chê bai người khác. Người thánh thiện thật thì mọi cử chỉ, lời nói, hành động đều mang đậm nét khiêm tốn, tôn trọng và nâng người khác lên. Trái lại, trong đời sống cộng đoàn giáo xứ, chúng ta thường thấy có những người mãi không lọt tai lời khiển trách nặng nề của Chúa với người Pharisiêu. Họ phô trương ngay cả những thực hành đạo đức như dâng lễ, cầu nguyện, ăn chay, bố thí… trước mặt thiên hạ. Họ chê bai người khác như để đạp lên người cho mình cao hơn.
“Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” Ước mong sao Lời Chúa hôm nay thấm đẫm trong mỗi chúng ta. Xin Tình yêu và ân sủng Chúa biến đổi chúng ta trở nên khiêm nhường, giúp chúng ta thật lòng thống hối về tất cả những lỗi phạm, kiêu căng tự phụ trong đời sống đạo, để rồi ta biết sống khiêm hạ trước Chúa và anh chị em. Có như thế, ta mới trở nên con cái của Cha và ngày càng nên giống Cha chúng ta là Đấng hoàn thiện.
Lạy Thiên Chúa, chúng con đang ở trước nhan Ngài, xin giúp chúng con nhận biết những yếu hèn và tội lỗi của chúng con. Lạy Chúa Giêsu, Con Yêu Dấu của Chúa Cha, xin thương xót chúng con! Lạy Chúa Kitô, Chúa đã mặc lấy xác phàm để cảm thấu thân phận mỏng dòn của chúng con, xin thương xót chúng con! Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chiến thắng sự dữ và tử thần, xin thương xót chúng con!
7. Người tín hữu
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đưa ra hai mẫu người, đó là ông biệt phái và người thu thuế. Còn người tín hữu chúng ta thì sao?
Chúng ta thường có khuynh hướng tự liệt mình vào hạng người khá nhất, chúng ta không phải là những kẻ bết bát như anh chàng thu thuế. Tuy nhiên, người thu thuế, không có công trạng gì nhưng biết quỳ gối trước mặt Thiên Chúa, biết tin tưởng vào lòng nhân từ của Ngài, thì đã được tha thứ và trở nên công chính. Còn lời cầu của ông biệt phái thì lại bị khước từ.
Tin vào Chúa là ơn huệ trọng đại, được làm người kitô hữu là một quà tặng quý giá. Sống như Đức Kitô là một lời mời gọi tha thiết. Tuy nhiên chúng ta cần phải lưu ý: Đức tin là hồng ân vô cùng lớn lao, nhưng lại không lệ thuộc vào công trạng của riêng mình. Thiên Chúa không dựa vào cấp bậc xã hội, vốn liếng văn hoá hay nòi giống chủng tộc mà đánh giá con người. Trái lại Ngài thường tỏ lộ cho những người hèn mọn, Ngài thường yêu thương những người khiêm nhu. Trong khi đó, Ngài lại thường hạ bệ những kẻ giàu có, quyền thế của trần gian.
Lòng khiêm nhường là dấu chứng trung thực nhất của đặc ân Kitô giáo như lời thánh Augustinô: Anh em có gì mà không phải là đã được lãnh nhận. Vậy tại sao chúng ta lại có thái độ như thể đức tin là một cái gì thuộc quyền sở hữu của chúng ta? Tại sao chúng ta chỉ biết xét đoán những người không nghĩ và không sống như chúng ta? Là người Kitô hữu, dù nghèo nàn, nhưng chúng ta đã trở nên giàu có nhờ Đấng đấng cho chúng ta được lãnh nhận tất cả. Vì thế chúng ta có bổn phận phải chuyển ơn Chúa đến với người khác. Đó là sứ mạng truyền giáo.
Truyền giáo theo tôi nghĩ không phải là một sự tuyên truyền rầm rộ về tôn giáo như người ta thường quảng cáo sản phẩm để kinh doanh, nhưng là làm chứng về Tin Mừng mà Thiên Chúa đã trao ban cho con người. Tin Mừng ấy chính là Đức Kitô. Chúng ta là những mảnh gương nhỏ phản chiếu trung thực ánh sáng mặt trời là Đức Kitô, cho dù những mảnh gương ấy thật giòn mỏng và dễ vỡ. Bao giờ chúng ta xác tín được như người thu thuế trong Tin Mừng rằng tình yêu của Thiên Chúa không phải là một cái gì chúng ta chiếm đoạt được, nhưng là một cái gì chúng ta lãnh nhận, lúc đó chúng ta sẽ hiểu vì sao Thiên Chúa ưu đãi kẻ nghèo túng là kẻ không có gì để kể công, để tự phụ mà chỉ tin vào tình thương của Ngài.
Là người kitô hữu chúng ta được ưu đãi không phải để cho mình nhưng để cho Thiên Chúa được vinh quang và người khác được cứu độ bằng sự cộng tác của chúng ta vào tình thương của Chúa.
8. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: cầu nguyện kiên trì (Lc 17, 15)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Cầu nguyện và Tin luôn gắn liền với nhau: vì chúng ta Tin nên chúng ta cầu nguyện, và nhờ cầu nguyện nên đức tin của chúng ta được củng cố thêm. Bởi thế Chúa Giêsu dạy các tín hữu Ngài phải cầu nguyện luôn, nghĩa là không chỉ cầu nguyện khi gặp chuyện gì khó khăn, mà phải cầu nguyện trong mọi lúc.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa dạy chúng ta biết cầu nguyện và giúp chúng ta cầu nguyện luôn, để đức tin của chúng ta ngày càng thêm vững mạnh.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta thường mải mê với công việc mà lười biếng cầu nguyện.
Tuy chúng ta có cầu nguyện nhưng chúng ta không cầu nguyện cách kiên trì.
Nhiều khi chúng ta cầu nguyện mà trong lòng không mấy tin tưởng vào Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Xh 17, 8-13)
Chuyện này kể về thời dân Do Thái đang tiến vào Đất Hứa. Họ phải giao chiến với những dân đã định cư sẵn trong miền đất đó. Đoạn này thuật cuộc giao chiến với quân Amaléc:
Môsê giao cho ông Giôsuê dẫn quân đi giao chiến. Phần ông thì ở trên núi giang tay cầu nguyện.
Khi nào Môsê còn giang tay cầu nguyện thì quân Israel thắng thế; ngược lại khi Môsê mỏi mệt quá bỏ tay xuống thì quân Israel thua. Người ta mới lấy một tảng đá kê cho Môsê ngồi, lại cử thêm hai người giúp Môsê nâng tay lên. Nhờ đó Môsê có thể giang tay cầu nguyện lâu giờ, và kết quả là Israel đã toàn thắng.
Chuyện này muốn nói rằng chiến thắng không phải do sức mạnh của quân Israel, mà nhờ sự phù hộ của Chúa do lời cầu nguyện của Môsê.
2. Đáp ca (Tv 120)
Thánh vịnh này tiếp nối ý tưởng của bài đọc I: “Ơn phù trợ tôi bởi nơi nao? Ơn phù trợ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời”
3. Tin Mừng (Lc 18, 1-8)
Thánh Luca cho biết rõ ý nghĩa của dụ ngôn này là dạy “các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Dụ ngôn có hai vai:
bà góa: trong xã hội Do Thái, các bà góa chịu nhiều thiệt thòi và không ai bênh vực. Bà góa này có lẽ bị người ta ức hiếp nhưng vì không ai bênh vực nên chỉ còn biết chạy đến kêu cứu với thẩm phán.
thẩm phán: lẽ ra nhiệm vụ của ông là bênh vực những người bị ức hiếp. Nhưng ông thẩm phán này không bênh vực bà góa vì bà chẳng có lợi gì cho ông cả. Dù vậy, nhờ bà cứ kiên trì kêu xin nên cuối cùng ông cũng xử công bình cho bà.
* Bài học: một người bất công như viên thẩm phán mà còn phải chịu thua lòng kiên trì của bà góa. Huống chi Thiên Chúa tốt lành, Ngài sẽ mau chóng bênh vực kẻ kêu xin Ngài cách kiên trì.
Tuy nhiên, có nhiều kẻ không kiên trì nên đã mất lòng tin. Đó là ý nghĩa câu cuối cùng: “Nhưng khi Con Người ngự đến. liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”.
4. Bài đọc II (2 Tm 3, 14–4, 2) (Chủ đề phụ)
Phaolô biết rằng mình sắp chấm dứt cuộc đời nên viết thư cho môn đệ mình là Timôtêô để khuyên ông này giữ vững những gì đã học được từ Sách Thánh.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Vai trò của cầu nguyện
Không ai có thể sống đời Kitô hữu tốt mà không cầu nguyện. Nhưng chúng ta phải hiểu cầu nguyện là gì và cầu nguyện thế nào.
Có 3 người bị kẹt trong một căn phòng tối tăm và chẳng có cửa gì cả. Họ làm thế nào để thoát khỏi tình trạng bế tắc này?
– Người thứ nhất là một nhà văn. Anh không có đức tin. Anh ngồi đấy và luôn miệng nguyền rủa.
– Người thứ hai là một tín hữu sốt sắng. Anh đã quỳ gối cầu nguyện rất lâu, sau đó ngồi xuống chờ phép lạ.
– Người thứ ba cũng là một tín hữu làm nghề thợ xây, vừa đạo đức vừa thực tế. Sau khi cầu nguyện, anh lấy từ túi đồ nghề ra một cây búa và một chiếc đục, rồi bắt đầu đục tường. Công việc rất lâu lắc và cực nhọc. Bụi bắn vào mặt anh, vào cả mắt anh. Mồ hôi anh nhễ nhại. Nhưng anh vẫn kiên trì đục. Thỉnh thoảng dừng lại nói “Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con”.
Đang lúc đó người thứ nhất vẫn ngồi ở một góc, vừa hút thuốc vừa nguyền rủa; người thứ hai ở một góc khác tiếp tục cầu nguyện.
Cuối cùng người thứ ba đã mở được một lỗ lớn trong vách tường và cả 3 người đã thoát ra khỏi căn phòng.
Trên đây là 3 thái độ khác nhau đối với sự cầu nguyện:
– Người thứ nhất coi cầu nguyện là mất giờ. Vì anh không có đức tin nên thái độ của anh cũng hợp lý thôi. Nếu bạn không tin Chúa thì cầu nguyện với Ngài sao được?
– Người thứ hai coi cầu nguyện là một sự thay thế cho làm việc, vì thế sau khi cầu nguyện xong người ấy ngồi chờ Chúa giúp. Phải thành thật nhìn nhận rằng chúng ta cũng nhiều lần cầu nguyện cách này, đặc biệt là khi chúng ta cầu nguyện cho người khác. Chỉ là những lời nói, và những lời đó trở thành một cái cớ để ta khỏi làm việc.
– Người thứ ba tin tưởng vào hiệu quả của cầu nguyện, hiệu quả ấy không thay thế làm việc, mà là trợ lực cho làm việc. Cầu xin điều gì thì đồng thời cũng cố gắng làm bất cứ việc gì có thể để đạt được điều đó. Sự cầu nguyện này khơi lên niềm hy vọng và khuyến khích lòng can đảm. Nó cũng giúp ta cảm nhận rằng Chúa ở kề bên ta và không bỏ mặc ta trong cảnh khó khăn.
* 2. Cầu nguyện luôn
Đoạn Tin Mừng hôm nay bắt đầu như sau: “Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Nhiều người chưa thấy giá trị của sự cầu nguyện liên tục. Họ nghĩ chỉ cần cầu nguyện khi có việc cần Chúa giúp, thế là đủ. Chuyện sau đây là câu trả lời cho những người ấy.
Có một thành phố nhỏ kia có đầy đủ mọi cơ quan và dịch vụ cần thiết như bệnh viện, trường học, nhà thờ, tòa án, chợ, tiệm may, tiệm ăn v. v. Chỉ thiếu một điều là không có thợ sửa đồng hồ. Bởi vậy các đồng hồ lớn đồng hồ nhỏ của những cư dân thành phố này dần dần cái thì hư, cái thì chạy sai. Một số người quẳng đồng hồ vào tủ. Một số khác cố gắng tự mình lau chùi, sửa chữa rồi tiếp tục dùng tạm mặc dù những chiếc đồng hồ ấy chạy không được chính xác lắm.
Một ngày kia có một người thợ sửa đồng hồ đến thành phố. Mọi người rất mừng, ai nấy đều mang đồng hồ đến nhờ anh sửa. Tuy nhiên anh nói thật: “Tôi chỉ có thể sửa những chiếc đồng hồ nào còn chạy. Còn những chiếc nào đã ngưng chạy từ lâu thì tôi không sửa nỗi vì chúng rỉ sét hết rồi”.
Cầu nguyện luôn cũng giống như giữ cho chiếc đồng hồ đời ta luôn luôn chạy.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo chúng ta phải cầu nguyện luôn, vì:
Sự cầu nguyện luôn soi sáng niềm hy vọng và những dự định của chúng ta.
Sự cầu nguyện luôn giúp ta phân biệt được điều gì là quan trọng, điều gì là tầm thường.
Sự cầu nguyện luôn giúp ta khám phá ra những ước vọng chân thật, những ray rứt lương tâm bị bóp nghẹt, những nỗi khát khao bị quên lãng.
Sự cầu nguyện luôn chỉ cho ta thấy những lý tưởng cao đẹp cần vươn tới.
Và nhất là sự cầu nguyện luôn giữ ta thường xuyên gần gũi với Chúa.
* 3. Hai tư thế cầu nguyện
Hồi còn bé, chúng ta được dạy chấp tay lại khi cầu nguyện. Khi tham dự Thánh lễ, chúng ta thấy Linh mục cầu nguyện giang tay. Đó là hai tư thế cầu nguyện.
Cầu nguyện chấp tay có nghĩa là chúng ta tạm dừng những hoạt động để chuyên tâm nghĩ đến Chúa. Còn cầu nguyện giang tay là để tỏ ra rằng chúng ta là những người nghèo nàn trước mặt Chúa, chúng ta làm như người ăn xin đưa hai bàn tay không ra để xin ơn Chúa.
Hai tư thế cầu nguyện trên đều tốt. Và ngay cả những khi đôi bàn tay hoặc đôi cánh tay chúng ta đều không chấp lại hay giang ra, chúng ta cũng đừng bao giờ quên ý nghĩa của hai tư thế ấy. (FM)
* 4. Cầu thay nguyện giúp
Một lá thư được viết nguệch ngoạc của một đứa trẻ gởi vào bưu điện, và địa chỉ tới là Chúa. Nhân viên bưu điện lấy làm lạ liền mở ra đọc. Thư viết rằng: “Chúa thân mến, con là Tommy, con sáu tuổi. Ba con đã chết và mẹ con phải cực khổ để nuôi sáu anh em con. Xin Chúa cho chúng con 30O đồng nhé”.
Đọc thư xong, anh nhân viên bưu điện rất xúc động và dưa cho các bạn đồng nghiệp xem. Họ quyết định quyên góp để giúp gia đình cậu bé. Số tiền tổng cộng là 100 đồng, và họ gởi tới địa chỉ cậu bé.
Vài tuần sau, họ nhận được lá thư thứ hai. Họ cũng mở ra đọc, thư viết như sau: “Lần tới, Chúa có thể gởi trực tiếp cho gia đình con, vì gởi qua bưu điện, họ giữ lại 200 đồng!”
***
Nghe xong câu chuyện, chúng ta phải bật cười vì sự ngây ngô của cậu bé, nhưng liền sau đó chúng ta lại cảm thấy hổ thẹn vì thấy bóng dáng mình thấp thoáng trong hình ảnh cậu bé: Chúng ta cầu nguyện và muốn được Chúa đáp lời tức thì theo yêu cầu chúng ta đề ra, nếu Người chậm đáp ứng hoặc đáp ứng chưa đủ “chỉ tiêu” chúng ta đưa ra, thì chúng ta lại khó chịu, và cũng chẳng thèm cám ơn Người.
Tin Mừng hôm nay Chúa dạy các môn đệ: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18, 1). Người muốn chúng ta hãy liên lỉ cầu nguyện và cầu nguyện cách kiên trì. Như Môsê quì giang tay suốt ngày cầu nguyện cho dân Do thái thắng trận, như bà goá suốt bao ngày tháng cầu xin quan toà minh xét cho bà, như thánh Mônica ròng rã 20 năm trường cầu nguyện cho người con là Augúttinô trở lại, chúng ta hãy cầu nguyện liên tục và bền chí, không hề nhàm chán, cả khi xem ra Chúa ngoảnh mặt làm ngơ.
Chúng ta không nên tìm kiếm hiệu quả tức thì. Chúa sẽ đáp lời chúng ta lúc nào và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta, theo như thánh ý nhiệm mầu của Người. Thời gian Chúa nhậm lời có thể sẽ lâu hơn chúng ta tưởng, cách thức Người ban ơn có thể sẽ khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng là lúc thích hợp nhất cho linh hồn chúng ta, bao giờ cũng là cách hữu hiệu nhất cho hạnh phúc vĩnh cửu của mỗi người.
Thường chúng ta lầm tưởng rằng, hơn ai hết chúng ta là người biết rõ những điều mình cần xin. Nhưng thánh Phao lô dạy: “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, chính Thánh Thần sẽ cầu thay nguyện giúp chúng ta theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8, 21-27). Vì thế, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen viết: “Pytago đã cấm môn sinh của ông không được cầu nguyện cho chính họ vì họ không biết điều gì là lợi ích cả”. Khôn ngoan hơn, Socrates dạy môn đồ ông chỉ xin những điều tốt lành, vì lẽ Thiên Chúa biết tường tận những gì là lợi ích. Dốt nát và yếu đuối nên chúng ta phải xin Thánh Thần soi sáng để chúng ta làm đẹp lòng Chúa trong lúc an bình cũng như khi xao xuyến.
Như thế, cầu nguyện không phải là việc xin ơn này ơn nọ, theo óc vụ lợi của chúng ta, cầu nguyện không phải là việc tránh né bổn phận để Thiên Chúa làm tất cả, cầu nguyện cũng không phải là việc liệt kê ước muốn để mong chờ Chúa thực hiện. Nhưng cầu nguyện đích thực chính là việc thực hành Đức Tin, nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa để đối thoại với Người, van xin Người tiếp tục ban ơn để chúng ta đủ sức thực hiện thánh ý Người. Thấu hiểu sự yếu đuối của con người nên Chúa Giêsu than thở: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18, 8). Vậy, cầu nguyện không phải là độc thoại mà là đối thoại liên lỉ và kiên trì với Thiên Chúa trong Đức Tin để trung thành với Chúa cho tới khi Người lại đến.
***
Lạy Chúa, chúng con là những người yếu đuối, bất toàn và bất nhẫn, không biết phải cầu nguyện thế nào cho phải đạo.
Xin cho chúng con biết khiêm tốn, vâng theo ơn soi sáng của Thánh Thần, để chúng con biết sống theo Thánh ý Chúa, hầu bền đỗ trong đức Tin và trung thành theo Chúa đến cùng. Amen. (Thiên Phúc)
5. Mảnh suy tư
a/ Cầu nguyện là dầu giữ cho ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng.
Hoa trái của cầu nguyện là đức tin
Hoa trái của đức tin là tình yêu
Hoa trái của tình yêu là phục vụ
Và hoa trái của phục vụ là bình an.
b/ Lời cầu nguyện của ta được Chúa đáp lời, không phải khi chúng ta có được điều chúng ta xin, mà khi chúng ta được Chúa ban cho ý thức Chúa đang gần gũi mình.
– Lời cầu nguyện của bệnh nhân được đáp lời, không phải khi anh khỏi bệnh, mà khi anh cảm nhận được Chúa vẫn ở cạnh mình, nhờ đó anh ý thức rằng cơn bệnh không phải là hình phạt của Chúa, cũng không phải là dấu Chúa đã bỏ anh.
– Có thể sự cầu nguyện không thay đổi thế giới, nhưng nó giúp ta có thể trực diện với thế giới.
c/ Hồi còn nhỏ, chúng ta đã được dạy cầu nguyện bằng cách đọc kinh. Bây giờ đã lớn, chúng ta hãy học cầu nguyện bằng cách mở rộng cõi lòng ra cho Chúa.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trải qua bao thế hệ, Đức Kitô đã muốn cho Hội thánh, nhiệm thể của Người, phải không ngừng tiếp tục đời sống cầu nguyện và lễ tế hy sinh mà Người đã khởi sự khi còn sống ở trần gian. Với quyết tâm tuân giữ lệnh truyền của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Ngay từ đầu / các tín hữu đã chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy / luôn sống với nhau trong tình huynh đệ / siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người Kitô hữu ngày nay / biết noi gương các tín hữu ngày xưa mà siêng năng nguyện cầu.
2. Khiêm tốn và kiên trì khi cầu nguyện / là điều mà bài Tin mừng hôm nay muốn nói với tất cả mọi Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết khiêm tốn dâng lên Chúa lời cầu khẩn thiết tha của mình.
3. Hội thánh kêu mời mọi tín hữu cầu nguyện theo lối các Giờ Kinh Phụng vụ / kể cả những người mà luật không buộc phải cử hành Thần vụ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu biết sốt sắng tham dự các Giờ Kinh Phụng vụ / vì đây là một trong những phương tiện giúp chúng ta nên thánh.
4. Lời kinh tuyệt vời Chúa Giêsu đã để lại cho người Kitô hữu là kinh Lạy cha / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết vừa đọc vừa suy niệm / và sống tinh thần của lời kinh quan trọng nhất / trong đời sống đức tin của mình.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã truyền cho chúng con: Phải cầu nguyện luôn và không bao giờ được chán nản. Xin Chúa cho mỗi người chúng con biết triệt để thực thi lệnh truyền của Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Không lời cầu nguyện nào tuyệt vời bằng lời cầu nguyện chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài cầu nguyện bằng những lời Ngài dạy.
VII. Giải tán
Chúng ta hãy ghi nhớ lời Chúa Giêsu dạy “Hãy cầu nguyện luôn, đừng bao giờ nản chí”. Chúc anh chị em được bình an nhờ làm theo lời Chúa dạy.
9. Chúa Nhật 30 Thường Niên
(Suy niệm và Chú giải của Lm. Inhaxio Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 30 Thường Niên Năm C ca ngợi tấm lòng khiêm hạ trong cầu nguyện.
Hc 35: 15b-17, 20-22a
Bài Đọc I, trích từ sách Huấn Ca của hiền nhân Si-rác, ca ngợi lời cầu nguyện của những người khiêm hạ và những người nghèo; lời cầu nguyện của họ được Chúa lắng nghe và đón nhận.
2Tm 4: 6-8, 16-18
Những lời vĩnh biệt của thánh Phao-lô là bài ca khải hoàn và tâm tình cảm tạ tri ân. Lời cầu nguyện sau cùng của thánh nhân là chúc tụng Thiên Chúa.
Lc 18: 9-14
Tin Mừng Lu-ca thuật lại dụ ngôn nổi tiếng về người Pha-ri-sêu và người thu thuế. Người Pha-ri-sêu cầu nguyện với thái độ tự mãn; còn người thu thuế cầu nguyện với tấm lòng khiêm hạ, ông ta nhận ra mình là tội nhân: lời cầu nguyện này được Chúa đoái thương và ban ơn công chính hóa: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi”.
BÀI ĐỌC I (Hc 35: 15b-17, 20-22a)
Ông Si-rác là một hiền nhân Do thái sống vào khoảng năm 200 trước Công Nguyên. Vào thời kỳ này, kể từ sau cuộc chinh phục của đại đế A-lê-xan-đê, nền văn hóa Hy-lạp đã ảnh hưởng đến tận miền Pa-lét-tin. Giới quý tộc và tư tế Giê-ru-sa-lem đã mở rộng vòng tay đón nhận văn hóa Hy-lạp. Ông Si-rác không ác cảm với nền văn hóa này, nếu như Do thái giáo không đánh mất đi căn tính của mình. Chính vì để bảo vệ những giá trị truyền thống của cha ông mà ông đã soạn thảo tác phẩm của mình. Ông tỏ ra là người bênh vực nhiệt thành Lề Luật, nền tảng cốt yếu của Do thái giáo, nhưng là Lề Luật mà ở đó những yêu sách luân lý (công bình, đức hạnh, tình thương, vân vân) cũng phải đòi buộc tuân giữ. Tác phẩm của Si-rác bộc lộ tâm tình tôn giáo tinh tế và bày tỏ nỗi bận lòng đến đức hạnh cá nhân với những điểm nhấn mới.
1. Cách thức phụng tự làm đẹp lòng Thiên Chúa
Đoạn văn hôm nay được trích từ một trong những chương tiêu biểu nhất của sách Huấn Ca, chương 35, một trong những đỉnh cao của tác phẩm – ở đó tác giả định nghĩa phẩm chất của việc phụng tự chân thật được Thiên Chúa đoái thương chấp nhận:
“Từ bỏ gian tà thì đẹp lòng Đức Chúa,
chấm dứt bất công là dâng lễ đền tội” (35: 3)
hay:
“Đừng hối lộ, Người chẳng nhận đâu.
Đừng ỷ vào hy lễ bất chính.
Vì Đức Chúa là Đấng xét xử,
Người chẳng thiên vị ai.
Người không vị nể mà làm hại kẻ nghèo hèn,
nhưng nghe lời kêu xin của người bị áp bức” (35: 11-13).
2. Lời cầu nguyện của những người khiêm hạ
Người nghèo hèn trong xứ, kẻ bị áp bức, cô nhi quả phụ đó là tất cả những người mà Cựu Ước gọi là “những người nghèo của Đức Chúa”, những người không có của cải nào khác ngoài một lòng tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa và gặp thấy ở nơi Ngài là Đấng bênh vực họ:
“Lời cầu nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm.
Lời nguyện chưa tới đích, họ chưa được an lòng.
Họ sẽ không rời đi bao lâu Đấng Tối Cao chưa đoái nhìn,
chưa xét xử cho người chính trực và thi hành công lý” (Hc 35: 17-18).
Lòng kính trọng mà ông Si-rác dành cho những người phận nhỏ này xem ra rập theo khuôn mẫu của truyền thống, như chúng ta đọc thấy trong các thánh vịnh, tại các ngôn sứ. Như chúng ta biết, lời cầu nguyện chiếm lấy một chỗ quan trọng trong tác phẩm của bậc hiền nhân này. Ông ca ngợi lời cầu nguyện hết lời. Ông dừng lại những luận bàn của mình để sáng tác lời cầu nguyện của riêng mình. Ông đã thích cầu nguyện từ thời thơ ấu; chính nhờ cầu nguyện mà ông đã gặp thấy sự khôn ngoan.
Ông Si-rác đưa những người nghèo và những kẻ bất hạnh ra làm mẫu gương, không vì cảm thương số phận của họ cho bằng ca ngợi giá trị lời cầu nguyện của họ. Lời cầu nguyện của họ chỉ là lời cầu nguyện đơn thuần, trơ trụi, không có hiến lễ ngoạn mục nào đi kèm theo. Vì thế, lời cầu nguyện của họ chạm đến tấm lòng của Thiên Chúa, động lòng trắc ẩn của Ngài.
BÀI ĐỌC II (2Tm 4: 6-9, 16-18)
Đoạn cuối thư thứ hai gửi ông Ti-mô-thê là bản văn cảm động nhất trong số các thư của thánh Phao-lô. Đây là những lời trăn trối sau cùng của người sắp chờ đợi nhận lãnh phúc tử đạo, ấy vậy, những lời vĩnh biệt này lại vang lên khúc ca khải hoàn.
Thánh Phao-lô khảo sát hiện tại một cách nghiêm túc: thánh nhân sắp đổ máu ra làm của lễ. Thánh nhân khảo sát quá khứ với sự sáng suốt: ngài đã kiên vững trong đức tin và đã hoàn thành sứ mạng mà Ngài đã chịu thương chịu khó cho đến cùng. Thánh nhân khảo sát tương lai với trọn niềm tin tưởng và phó thác vào sự công chính của Thiên Chúa và vào lời hứa vinh quang bất diệt của Nước Trời.
1. Hiến Lễ
Trong các hy lễ của người Do thái cũng như của dân ngoại, người ta đổ dầu hay rượu trên tế vật trước khi hiến tế, như trong Xh 29: 40 hay trong Ds 28: 7. Thánh Phao-lô dâng hiến đời mình thành hy lễ và máu của mình sẽ đổ ra làm rượu tế.
Trước đây, khi còn bị giam cầm có thể ở Ê-phê-xô, và không biết số phận dành cho ngài, thánh nhân gợi lên cho các tín hữu Phi-líp-phê, theo cùng những từ ngữ, tình huống là ngài có thể bị án tử: “Nhưng nếu tôi phải đổ máu ra hợp làm một với hy lễ mà anh em lấy đức tin dâng lên Chúa, thì tôi vui mừng và cùng chia sẻ niềm vui với tất cả anh em…” (Pl 2: 17).
Thánh Phao-lô sẽ đổ máu mình, nhưng từ lâu ngài đã dâng hiến đời mình làm hy lễ rồi, như ngài đã khuyên nhủ mọi người Ki-tô hữu: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Rm 12: 1).
2. Bài ca khải hoàn
Phúc tử đạo này thánh nhân chờ đợi một cách nghiêm túc sẽ là giờ ngài phải ra đi. Thánh nhân gợi ra cái chết của ngài với cung điệu khải hoàn, như người lính chiến đã chiến thắng quân thù, như vận động viên đã dành được vòng nguyệt quế, như người Ki-tô hữu vẫn một mực trung tín cho đến hơi thở cuối cùng: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính”.
Thánh Phao-lô nhắm đến việc Thiên Chúa sẽ trao phần thưởng cho ngài, vào Ngày Quanh Lâm, tức là vào ngày phán xét, và cùng với ngài, cho tất cả những ai đã hết lòng mong đợi Triều Đại Thiên Chúa. Ở phần cuối đoạn văn này, thánh nhân suy nghĩ thêm nữa đến số phận của chính ngài: “Chúa sẽ cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời”.
3. Tâm tình cảm tạ và tri ân
Phần thứ hai của đoạn trích hôm nay mang giọng điệu đượm buồn. Thánh Phao-lô chứng thực rằng các bạn đồng hành xưa kia đã bỏ mặc thánh nhân. Không ai trong họ, kể cả các Ki-tô hữu Rô-ma, đến bênh vực thánh nhân, vào lúc thánh nhân bị điệu ra trước tòa lần đầu tiên. Như Chúa Ki-tô trong cuộc khổ nạn của Ngài, thánh nhân bị bỏ mặc; cũng như Chúa Ki-tô, thánh nhân tha thứ: “Xin Chúa đừng chấp họ”. Hành vi cảm tạ tri ân theo liền sau những giọng điệu buồn phiền. Thánh nhân trông cậy mọi sự vào Chúa. Trong suốt sứ vụ tông đồ của ngài, thánh nhân đã nương tựa vào Chúa. Thánh nhân đã thoát khỏi mọi nanh vuốt sư tử nhờ Chúa bảo vệ che chở; ngài đặt trọn niềm tin tưởng vào ơn phù trợ của Chúa trong những giờ phút sắp đến. Và rồi thánh nhân xướng lên bài thánh thi của những người được tuyển chọn: “Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời”.
TIN MỪNG (Lc 18: 9-14)
Đây là dụ ngôn riêng của thánh Lu-ca, một hạt ngọc được đẽo gọt rất tinh xảo. Thánh Lu-ca họa nên chân dung người Pha-ri-sêu vênh vang tự đắc, còn thánh Mát-thêu thì đã kích kịch liệt hạng người này.
Người Pha-ri-sêu, theo nguyên ngữ Do thái có nghĩa “Biệt Phái”, là một bè phái của những người Do thái trí thức và chính thống. Họ tự tách biệt mình khỏi đám đông bởi kiến thức Kinh Thánh và việc tuân giữ Lề Luật nghiêm nhặt của họ. Tuy nhiên, họ biết kết hợp duy luật với tinh thần cởi mở, chấp nhận những sự phong phú của truyền khẩu (trái với nhóm Xa-đốc). Theo thánh Lu-ca, vài người Pha-ri-sêu, thậm chí những bậc vị vọng, đã mời Chúa Giê-su dùng bữa tại nhà họ. Sự kiện này phù hợp với thực tại lịch sử, được sách Công Vụ củng cố khi tường thuật việc một người Pha-ri-sêu tên là Ga-ma-li-ên, lên tiếng can thiệp cho các tông đồ trong phiên xử của Thượng Hội Đồng (Cv 5: 34-39).
1. Lời cầu nguyện của người Pha-ri-sêu
“Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác… Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Người Pha-ri-sêu này tiêu biểu những người Pha-ri-sêu tự cho mình là đạo đức bằng việc tuân giữ nghiêm nhặt chẳng những những đòi buộc của Lề Luật, thậm chí còn hơn thế nữa. Ví dụ như Lề Luật chỉ buộc mỗi năm ăn chay chỉ một ngày, vào ngày lễ Xá Tội, họ còn sốt sáng ăn chay một tuần hai ngày vào ngày thứ ba và thứ năm. Vì thế, họ tự xem mình là người công chính và coi thường những người khác.
Người Pha-ri-sêu mà dụ ngôn miêu tả chân dung của ông ở nơi lời cầu nguyện này rất tương xứng với những gì mà thánh Phao-lô nói về con người Pha-ri-sêu xưa kia của ngài và con người Ki-tô hữu ngày nay của thánh nhân: “Nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi. Nhưng những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa của tôi. Vì Người mà tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Ki-tô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Pl 3: 6-8).
2. Lời cầu nguyện của người thu thuế
Những người thu thuế là những viên chức nhà nước được chính quyền Rô-ma ủy nhiệm thu thuế dân Do thái ở miền Pa-lét-tin. Họ bị thù ghét vì họ cộng tác với chính quyền chiếm đóng và bị đối xử như kẻ trộm cướp vì người ta nghi ngờ rằng họ làm giàu nhờ lạm dụng chức vụ của mình.
Dụ ngôn đưa ra sân khấu một người trong bọn họ. Lời cầu nguyện của người thu thuế này thì trái ngược với lời cầu nguyện của người Pha-ri-sêu về dáng điệu bên ngoài lẫn tâm tình bên trong. Anh ta không dám tiến lại gần, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời. Và lời cầu nguyện của anh chỉ vỏn vẹn một câu, nhưng đầy lòng khiêm hạ: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Người thu thuế này, chắc hẳn là một người giàu có như bao người thu thuế khác, lại là một người có tâm hồn khó nghèo, những người mà Chúa lắng nghe những lời cầu nguyện của họ.
3. Lời kết
Lời kết đặt câu chuyện vào bối cảnh thuần túy của sách Tin Mừng, tức tôn vinh đức khiêm hạ, như Đức Ma-ri-a đã cất tiếng ca trong Bài Ca “Ngợi Khen” (Mangificat):
“Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1: 52).
Lời kết này cũng theo chiều hướng chủ đề của thánh Phao-lô về ơn công chính hóa nhờ Đức Tin chứ không nhờ Lề Luật. Tuy nhiên, ở đây, Chúa Giê-su không đối lập Lề Luật với Đức Tin (người Pha-ri-sêu là một người tin); nhưng Ngài đối lập tính tự mãn của kẻ lấy mình làm chuẩn mực đạo đức với đức khiêm hạ của người biết nhận ra những bất toàn của mình và cầu xin lòng xót thương của Chúa: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi”.
Lời cầu nguyện đích thật là một hành vi đầy khiêm hạ. Cầu nguyện, chính là nhận ra thân phận yếu đuối của con người và đức hạnh mỏng dòn của con người để mà đặt trọn niềm tin, cậy và mến vào Chúa.
10. Mũi nhọn xung kích
(Trích dẫn từ ‘Nút Vòng Xoay’ của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Phúc Âm hôm nay là một dụ ngôn sống động và mang tính khái quát. Rất gọn về số câu, số chữ nhưng lại rất rộng về hàm ý nội dung. Chỉ có hai nhân vật với vài nét chấp phá sơ sài nhưng cũng đủ khái quát cho mọi tầng lớp dân chúng. Chỉ là một thoáng lên Đền cầu nguyện nhưng lại biểu trưng cho mọi sinh hoạt tôn giáo. Chỉ quanh quẩn trong chu vi Đền Thánh nhưng lại điển hình đến nỗi có thể nới rộng ra cả cuộc đời.
Nhưng điều làm cho dụ ngôn sống động đến hôm nay thiết tưởng không những vì tính khái quát ấy mà đáng lưu ý hơn, theo ngôn từ báo chí, còn vì “tính xung kích” với những mũi nhọn không thể tránh né của nó.
Đẹp lắm nhưng cũng đau lắm. Khéo léo lắm nhưng cũng nhức nhối không kém. Xin chia sẻ về tính xung kích ấy.
1. Mũi nhọn thứ nhất: tố giác một não trạng tôn giáo đầy ảo tưởng
Đối với người Do Thái, luật Thiên Chúa là trên hết, đời sống của họ được khuôn đúc theo lề luật, xã hội của họ gắn liền với tôn giáo nên cũng được tổ chức theo lề luật. Đã có những thành phần ưu tuyển chuyên viên về lề luật được gọi là Luật sĩ và cũng có những thành phần khác chú tâm đến việc thi hành luật đến độ tỉ mỉ, đó là mấy ông biệt phái. Luật lệ là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống. Quan điểm ấy không có gì đáng phàn nàn nếu qua lề luật người ta nhận ra bàn tay và tấm lòng của Thiên Chúa luôn dẫn đưa và giáo hóa con người. Nhưng quan điểm ấy trong thực tế đã không giữ được vẻ tinh ròng của nó mà đã bị biến chất dần dà theo năm tháng để trở thành một thái độ tôn giáo kệch cỡm, di căn trong nếp nghĩ và đồng thời méo mó trong thực hành. Và đây là một thực trạng nguy hiểm mà Chúa Giêsu gọi là “men Biệt phái” cũng là điều dụ ngôn hôm nay tố giác.
Nguy hiểm nhất là tất cả đã bị đảo lộn: luật lệ thay vì là phương tiện đã được nâng lên hàng mục đích và Thiên Chúa thay vì là cùng đích lại bị xếp xuống hàng phương tiện.
Nguy hiểm thứ hai là tất cả đã trở thành máy móc: làm như cứ chu toàn một số khoản luật là tức khắc người ta trở thành công chính và có quyền đòi hỏi Thiên Chúa phải ký tên đóng dấu chứng thực cho sự công chính này, giống như kiểu chấm công và báo công trong các xí nghiệp trước đây đã bị báo chí phê bình gay gắt, chấm công thì rất nhiều nhưng việc chẳng chạy bao nhiêu, ấy là chưa nói tới việc công, việc tư, lẫn lộn và thế là vỡ nợ thất bại.
Và nguy hiểm hơn hết là tất cả đã làm thành một ảo tưởng đặc dầy về quá khứ công trạng để rồi thành chuẩn mực phủ định những người không thuộc về phe cánh mình, không giống như mình, không đúng ý mình, kể cả Thiên Chúa nữa.
Ông Biệt phái trong dụ ngôn đã rơi vào cái ảo tưởng mà Chúa Giêsu muốn tố giác này:
Lời kinh của ông khởi đầu bằng tâm tình tạ ơn rất đẹp, nhưng đã nhanh chóng trở nên xấu bởi có ý đồ níu kéo Thiên Chúa thỏa hiệp với lối sống vụ luật “trên mức bó buộc” của ông. Có biết đâu ông đã ảo tưởng. Thiên Chúa vì yêu thương tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, nhưng chính ông lại xây dựng một Thiên Chúa theo hình ảnh của ông.
Và lời kinh của ông còn tồi tệ hơn khi tự hào cho mình là công chính để so sánh mình với đời sống bên ngoài của những người khác. “Đứng thẳng nguyện thầm” có vẻ tốt đấy, nhưng kênh kiệu làm sao và cũng ảo tưởng biết bao. Khẳng định mình đúng cách là tốt, nhưng khẳng định mình bằng cách phủ định kẻ khác, bằng cách dèm pha nói xấu bôi nhọ khinh chê người ta thì quả thật là trơ trẽn.
Và nguy hiểm cuối cùng đến từ những mối nguy hiểm trên là chính mình không còn cảm thấy nỗi hiểm nguy nào nữa, thành ra khô đạo mà tưởng mình sống đạo, phá đạo mà tưởng mình xây đạo, bài tôn giáo ngay giữa lòng tôn giáo và bóp nghẹt Thiên Chúa trong khi tưởng như mình vẫn tôn thờ Ngài, làm lu mờ Danh Chúa mà tưởng như mình đang làm sáng danh Ngài.
2. Mũi nhọn thứ hai: xây dựng một thực chất tôn giáo.
Nếu qua hình tượng ông biệt phái, dụ ngôn muốn tố giác một thứ đạo đức ảo tưởng đầy nguy hiểm, thì ngược lại qua ông thu thuế, dụ ngôn lại nhắm một mục đích tích cực nhưng cũng không kém phân xung kích, đó là xây dựng một nền đạo đức đích thực tôn giáo.
Nền đạo đức đích thực ấy dựa trên những thái độ cơ bản là không phải chỉ tin có Thiên Chúa mà phải tới chỗ tin vào Ngài. “Tin có” và “tin vào” là hai động từ gói ghém những thái độ khác nhau lắm dẫu ở đó đều hiện diện chữ “tin”. Không ít người tin có Thiên Chúa, nhưng để gọi được là tin vào Thiên Chúa thì còn phải hạ hồi phân giải tùy theo chất lượng chứng minh của cuộc sống. Ông biệt phái tin có Thiên Chúa quá đi chứ, nhưng nếu hỏi “ông có tin vào Ngài chưa?” thì phải trả lời là chưa, mà ngược lại, thay vì tin vào Ngài, đời sống ông lại cho thấy chỉ tin vào mình, cậy dựa vào sức mình để kèn cựa sao cho người khác xem mình là công chính.
Còn ông thu thuế, dẫu không cầu nguyện dài lời cũng cho thấy ông là người đã tới mức tin vào Thiên Chúa và phó thác hoàn toàn cho Ngài. Bởi thấy mình quá lem luốc theo mắt nhìn thành kiến của người đương thời, nên ông chỉ có thể đợi chờ một sự gột rửa trong mắt nhìn của Thiên Chúa; bởi thấy mình đã bất chính trong vòng quay nghiệt ngã của nghề nghiệp, nên con người ông nếu có cái gì phải tiến dâng thì đó chính là cuộc đời tội lụy của tấm lòng tan nát khiêm cung cúi đầu đấm ngực xin ơn tha thứ. Và bởi thấy mình chỉ đáng tội nên Thiên Chúa lại thấy ông chỉ đáng thương, nên bằng tình thương, Ngài đã ban ơn cho ông theo như ông tin vào Ngài.
Rõ ràng là tình thương Thiên Chúa ban cho con người như nước chảy về chỗ trũng, chỉ khi gặp tâm hồn khiêm tốn khai hoang, tình thương ấy mới có thể đổ vào tràn đầy chan chứa. Hay nói cách khác, tình thương Thiên Chúa là một “tình cho không biếu không”, nhưng chỉ những ai đã gạt bỏ ảo tưởng về mình để nhìn nhận mình là không, người ấy mới có thể nhận được tình thương của Thiên Chúa.
Tin vào Thiên Chúa sẽ gặp được tình thương của Ngài, còn chỉ tin vào mình rốt cuộc lại gặp chính mình trong những ảo tưởng chất chồng. Nhưng cũng phải thưa ngay rằng: luôn luôn có một sự quân bình giữa một đàng là tình thương Thiên Chúa và đàng khác là cố gắng của con người. Chỉ ỷ lại vào tình thương Thiên chúa cũng sẽ rơi vào ảo tưởng như là chỉ ỷ y vào sức mình. Thế nên, đạo đức đích thực chính là dung hòa giữa nỗ lực và cậy trông. Xin mượn kiểu chơi chữ của thánh Augustinô để minh họa. Ngài bảo ai càng cảm nhận về sự khốn cùng của mình, người ấy càng gặp được sự khôn cùng của tình thương Thiên Chúa. Ai sống hết mình với cái miseria của mình, người ấy cũng biết cách để tiếp nhận cái misericordia của Thiên Chúa. Giống như người say rượu một khi biết tật của mình mới hết khướt say.
3. Mũi nhọn thứ ba: cật vấn hôm nay.
Với hai mũi nhọn trên, dụ ngôn đã trở thành sống động và sở dĩ còn sức sống đến hôm nay là vì mũi nhọn thứ ba: dụ ngôn là lời cật vấn gởi đến mọi kẻ tin, ngân vang tới mọi sinh hoạt tôn giáo và len lỏi vào mọi ngõ ngách của cuộc sống đời thường. Thế nên vấn đề được đặt ra ở đây trên bình diện cá nhân cũng như tập thể với những thích ứng cần thiết là hãy thử nhận diện cuộc sống của mình và của cộng đoàn mình.
Có thể ta không gặp sừng sững một ông Biệt phái lộ liễu ngất ngưỡng ở trong lối sống đạo của ta, nhưng biết đâu cái ảo tưởng an toàn khi chu toàn các bổn phận trong đạo như ông biệt phái lại chẳng lây lan len lỏi lập lòe trong tâm thức của mình? Biết đâu lúc này khác hơn một lần ta đã tự ru mình vào giấc ngủ “tự hào” khi bằng lòng với cách thể hiện đức tin hiện tại? Biết đâu đó đây trong ngày sống ta đã chiều theo ý nghĩ so sánh đời ta với đời người khác về phương diện đạo đức, theo kiểu “Trông lên mình chẳng bằng ai, nhưng khi trông xuống chẳng ai bằng mình”? Xưa Chúa Giêsu gọi đó là “men Biệt phái”, nay có lẽ nên gọi là “viris BP” xin tránh xa. Nếu “virus BP” mà giống “dầu nhớt BP liên tục phát triển” như quảng cáo trên tivi thì nguy quá! Trượt té dài dài.
Có thể ta thấy mình bỗng dưng gần gũi với ông thu thuế vì đời ta vương nhiều tội lụy, vì ta đi lễ thích đứng cuối nhả thờ, và vì ta cầu nguyện chỉ mong thật ngắn chẳng thích dài lời như như Phúc Âm kể: “Ông thu thuế đứng dàng xa, không dám ngước mặt, vừa đấm ngực vừa cầu nguyện: Lạy Chúa xin thương con là kẻ tội lỗi”. Nhưng chưa chắc đâu, bởi ông thu thuế khiêm tốn hết mình để được thứ tha hết tình, còn ta có khi chỉ là khiêm tốn nửa mùa tưởng bở, như thoáng thấy qua trang Nhật Ký của Đức Gioan XXIII ngày nào: “Tôi tưởng mình là cậu bé Séraphim nhưng nhìn kỹ tôi lại thấy mình là một chú Lucife nhỏ”.
Và vượt lên tất cả chính là lời thầm nhủ: hãy tin vào tình thương của Chúa mà sống tốt cuộc sống Ki-tô của mình. Với người này có thể trút bỏ những ảo tưởng tự hào, với người kia có thể là nhen lên lòng sám hối khiêm cung. Riêng cá nhân tôi nhân ngày tròn bảy năm linh mục, cùng với lời tạ ơn Thiên Chúa, lời cảm tạ cha sở và cộng đoàn, cũng sẽ là một lời kinh âm thầm xin được luôn tin vào tình thương Thiên Chúa.
Chiều qua khi đang sắp xếp lại sách vở, nghe cassette nhà ai mở bài “L’amour c’est pour rien” với lời hát “Tình cho không biếu không chớ nên mua bán tình yêu”, bất giác tôi nghĩ về tình thương Thiên Chúa: một tình thương luôn sẵn cho đi, một tình thương chẳng chờ đợi gì, một tình thương không mong đáp trả, một tình thương mãi mãi thứ tha.
Cầu chúc mọi người luôn tin vào tình thương Thiên Chúa để mãi vươn lên trong mọi cảnh ngộ cuộc đời, bởi xét cho cùng mỗi cảnh ngộ cũng là một dụ ngôn sống động ẩn chứa những mũi nhọn xung kích mời ta khám phá không ngừng.
11. Hai con người – Hai thái độ
Chúa Giêsu vẫn hết sức uyển chuyển, hết sức bình dị để gửi đến những bài học hết sức gần gũi cho những người Ngài gặp gỡ.
Hôm nay, chúng ta bắt gặp hình ảnh của hai con người và hai con người này ở hai hoàn cảnh khác nhau. Một người thuộc nhóm Pharisêu và nhóm kia là người thuế. Theo quan niệm và lập trường hết sức bình thường của người Do Thái thời bấy giờ thì người Pharisêu dù muốn dù không, dù nói gì nói thì họ vẫn đạo đức hơn những người khác bởi lối sống dù là bên ngoài của họ. Ngược lại, chẳng ai tôn trọng người thu thuế cả vì mãi mãi người thu thuế là người xấu, người tiếp tay với ngoại bang để lấy thuế của dân. Không phải người thua thuế thời đó bị người ta chê bai coi khinh nhưng ngày hôm nay người thu thuế cũng bị người ta coi thường và cho là người tội lỗi.
Pharisêu – thu thuế: hai hạng người nầy không khác biệt xét theo giai cấp xã hội hoặc tài sản. Lu ca đã nói rằng người Pha ri sêu thích tiền bạc (16,14) và chúng ta biết rằng người thu thuế thường làm giàu bằng nghề của mình (x. Lê vi 5,39; và ông Gia kêu: 19,2). Tự thân, người Pha ri sêu gần với Thiên Chúa hơn vì tuân giữ lề luật, còn người thu thuế làm việc dưới sự chỉ huy của giới cai trị; đó là tội theo lề luật. Trong thực tế, theo ý kiến chung, thì người Pharisêu được xếp vào loại công chính và thu thuế vào loại tội nhân.
Hai con người ngày hôm nay, theo như lời Chúa Giêsu, họ lên Đền Thờ cầu nguyện. Dĩ nhiên là lên trước mặt Thiên Chúa thì phải bày tỏ lòng mình để Thiên Chúa biết.
Người Pharisêu: lời cầu nguyện của người Pha ri sêu dưới dạng tạ ơn, không khác gì một lời nói tự cao tự đắc về chính mình. Ông ta hài lòng về chính mình và kể ra những công nghiệp mình đã đạt được. Ông đứng riêng ra để cầu nguyện; đó là điều phù hợp với lí tưởng của ông ta. Lời cầu nguyện của ông ta phân cách, tách biệt khỏi cộng đòan; trái lại lời cầu nguyện mà Chúa Giê su dạy tìm cách hòa giải, liên kết (11, 2-4).
Rất thật thà, rất minh bạch, rất rõ ràng, người Pharisêu không ngần ngại: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Anh ta còn hơn cả cái thật thà vốn có trong anh nữa mà anh còn tốt bụng nữa. Tốt bụng đến độ chỉ cho Chúa biết luôn cả cai tội của anh chàng thu thuế đứng đàng xa xa vì cảm thấy mình có tội. Nếu bình thường như người thường thì Thiên Chúa sẽ thích thú lắm bởi vì không đánh mà khai, không cần tìm hiểu nhưng có người tố tội người khác rồi.
Chúa Giêsu cho chúng ta thấy chân dung của người Pharisêu. Đó là một người có một lối sống hoàn toàn đúng với những gì người ta đồn thổi về họ. Ông trung thành với lề luật; ông ăn chay mỗi tuần hai lần. Ông làm việc bố thí. Tất cả những gì ông ta nói trong lời cầu nguyện, ông đã thực sự thi hành và ông hãnh diện về điều đó. Nhưng có một vấn đề nơi ông, đó là lời ông nói không thực sự là một lời cầu nguyện vì chứa đầy sự kiêu căng. Ông chỉ nhìn ngắm chính bản thân thay vì nhìn ngắm Thiên Chúa. Ông không cần gì cả, vì điều duy nhất mà ông quan tâm ấy là kể lể các công nghiệp của mình.
Tiếp đến, Chúa Giêsu vẽ nên hình ảnh của người thu thuế. Người thu thuế thuộc tầng lớp bị người đời căm ghét. Họ là “bọn người tiếp tay cho đế quốc La mã”. Họ phục vụ cho đế quốc thống trị trong một môi trường rất nhạy cảm là thu thuế. Những người lãnh đạo ấn định số tiền mà họ phải nộp. Họ phải ứng trước cho cấp trên rồi sau đó bóc lột của dân nghèo. Vì thế khi anh chàng thu thuế cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con là người tội lỗi”, ông bộc lộ đúng sự thật của đời mình. Và chính vì cái sự thật đó mà Thiên Chúa đã nâng ông lên.
Người thu thuế không ngần ngại đứng đàng xa bởi vì thấy mìn là người tội lỗi. Bi đát đến độ không dám ngước mắt nhìn lên trời nữa và chỉ biết đấm ngực thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Lời kinh của người thu thuế là lời kinh của người tự nhận mình là người tội lỗi. Anh ta ý thức mình không yêu thương đủ hoặc yêu thương không đúng. Anh ta nhớ một vài trang sách cuộc đời mình không được sáng sủa.
Anh ta nhìn thấy cái đà trong mắt mình lớn đến nỗi không thể thấy cái rác nhỏ xíu trong mắt anh em, vì anh biết rằng sự tha thứ chỉ đến từ Thiên Chúa mà thôi. Lời kinh ấy cho phép người tội lỗi tiếp nhận tình yêu Thiên Chúa. Bài Tin mừng nói với chúng ta rằng người thu thuế đã trở nên công chính. Trong Kinh Thánh, từ ấy không có nghĩa là “hoàn hảo”. Người công chính là người có thể khép mình theo Thiên Chúa trong một tương quan tin tưởng tuyệt đối, tiếp nhận thánh ý Chúa và dùng mọi phương tiện để sống thánh ý đó. Người công chính còn là người để cho Thiên Chúa công chính hóa thay vì tự công chính hóa bản thân mình.
Người thu thuế: anh ta đến đền thờ không mang theo công nghiệp nào cả, chỉ mang theo tội lỗi của mình mà thôi. Ông đặt mình trước mặt Thiên Chúa với tâm hồn sám hối (x.5,8;7,36-38; 15,19; 19,8; 23,41-42). Ông khẩn cầu ơn tha thứ, tin vào một Thiên Chúa cứu độ, sẽ đổ tràn ơn phúc của Người xuống nơi có nhiều tội lỗi (Rm 5, 20).
Quả thật, tội thật với cái anh chàng thu thế như thế này! Phải nói rằng anh ta khá can đảm vì cũng đã bước chân đến Đền Thờ nhưng có điều anh cảm thấy mình tội lỗi.
Căn cốt lời Chúa dạy hôm nay đó là được nên công chính. Được nên công chính: động từ này ở thể bị động và ở quá khứ có nghĩa là Thiên Chúa đã công chính hóa người thu thuế và đã cho thầy lòng thương xót của Ngài.
“Khi trở về nhà, ông là người được công chính hóa”. Đó chính là điều mà Tin Mừng mời gọi chúng ta hôm nay. Thành tâm nhận ra sự yếu kém của mình trước mặt Chúa đó là lời cầu nguyện đích thực được Thiên Chúa yêu thích.
Ai tôn mình lên: x. 14,11 (Ed 21,31). Sự đảo ngược tình thế nầy không phải là một sự thay đổi thất thường, hay là một cách trả thù của Thiên Chúa. Nhưng nó vạch rõ chân lý: người tự tôn thì luôn ảo tưởng về chính mình; trái lại, ai hạ mình xuống thì cảm nhận được sự nghèo hèn của mình và dám tin rằng Thiên Chúa có thể và muốn nâng mình lên.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đứng về phía nào? Có lúc chúng ta là người Pha ri sêu mỗi khi chúng ta làm điều mà chúng ta thường chê trách người khác. Chỉ trích mà không bao giờ đề ra những giải quyết xây dựng thực tiễn thì luôn dễ. Người Pha ri sêu là người cho rằng mình được Thánh Thần soi sáng hơn người khác, nhưng điều trầm trọng hơn là sử dụng các câu Kinh thánh để tố cáo sự giả hình của kẻ khác. Thái độ ấy là một sỉ nhục Thiên Chúa và tình yêu của Người. Tất cả chúng ta đều phải cầu xin Ngài tha thứ sự kiêu căng cũng như thái độ tự phụ của chúng ta, cách chúng ta muốn dạy người khác bằng cách làm nhục họ.
Lý tưởng là hai người đối lập nhau ấy cùng hòa hợp với nhau để dâng lời kinh chung của họ lên Thiên Chúa: “Xin thương xót chúng con là những người tội lỗi. Xin thương xót chúng con vì chúng con đã làm điều sai trái cho người khác. Xin thương xót chúng con vì tưởng rằng mình hơn người khác. Xin thương xót chúng con khi chúng con giận nhau..”. Và Chúa sẽ trả lời: “Khi hai hay ba người hợp nhau vì danh Ta, có Ta ở giữa họ”. Chính lời kinh chung đó cho phép chúng ta thực sự đến gần Thiên Chúa và cũng đến gần người khác. Vì Chúa hiện diện để nói với chúng ta rằng Người được nhận diện nơi từng người trong họ. Và Người muốn dạy chúng ta nhìn họ và yêu mến họ như anh chị em chúng ta.
Ngày mỗi ngày chúng ta vẫn dâng lời cầu nguyện. Chúng ta được mời gọi kết hợp lời cầu nguyện của chúng ta với lời cầu nguyện của tất cả những người khác và của tất cả mọi người ki tô hữu trên thế giới cử hành ngày của Chúa. Ước mong sao sau khi cầu nguyện chúng ta trở được công chính hóa.
12. Lòng khiêm nhường sám hối
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới ngập tràn những hàng giả, người giả. Cái giả và cái thực luôn tồn tại song hành bên nhau. Một thế giới “vàng thau lẫn lộn” khó mà phân biệt kẻ tốt người xấu. Có những người bề ngoài sang trọng: có nhà cao cửa rộng, có địa vị, có quyền lực nhưng lại lừa đảo, tham nhũng và tham lam ích kỷ. Có những con người bề ngoài thật bần cùng nhưng tấm lòng lại chân thành và vị tha. Có những người giả nhân giả nghĩa nhưng để hại ngừơi hại đời. Có những người bộc trực thẳng ngay nhưng luôn sẵn lòng giúp người giúp đời. Cuộc đời dường như luôn tồn tại hai loại người trái ngược nhau. Kẻ tốt người xấu. Người hiền kẻ dữ luôn song hành tạo nên một thế giới đầy những trái ngang, bất công và phi lý. Kẻ dữ luôn ngạo mạn khinh người còn người hiền đức luôn khiêm tốn hoà hợp. Kẻ ngay lành thường thua thiệt. Người ác đức lại phủ phê no đầy.
Lời Chúa hôm nay cũng diễn tả về hai cách sống của hai loại người. Người biệt phái và kẻ thu thuế. Người biệt phái thi huênh hoang tự đắc, người thu thuế thì khiêm tốn ăn năn. Người biệt phái luôn khoe khoang công đức của mình còn người thu thuế thì thống hối về qúa khứ lỗi lầm của mình. Người biệt phái tự cho mình đạo đức nên tự cho mình quyền dòm ngó kết án anh em. Người thu thuế cúi mình khiêm cung và sám hối. Xem ra kẻ kiêu căng tự mãn luôn cho mình là nhất và thường coi khinh anh em của mình. Còn người khiêm cung luôn sống hoà nhã và gần gũi với mọi người. Bởi lẽ họ không bao giờ kết án và coi thường anh em.
Để có một hành vi sám hối cần phải biết nhìn lại chính mình. Nhìn lại trong khiêm tốn để thấy con người bất toàn của mình. Nhìn lại với lòng chân thành để thấy những giới hạn của mình. Có nhìn lại chính mình mới thấy cái sai để sửa, cái tốt để thăng tiến. Có nhìn lại chính mình mới có cái nhìn đúng về mình để sống đúng với con người thật của mình.
Vào buổi tối nọ, có người đàn bà phải chờ đợi chuyến bay mất nhiều thời giờ tại một phi trường Hoa Kỳ.
Bà rảo qua các sạp báo trong phi trường, mua một cuốn sách và một gói bánh, rồi tìm chỗ yên tĩnh ngồi đọc sách.
Tuy cắm cúi đọc sách, người đàn bà cũng nhận ra người đàn ông đang ngồi bên cạnh, ngoài cái đầu hói ra chẳng có gì gây sự chú ý. Tuy nhiên, có một điều khiến bà khó chịu, là chốc chốc người đàn ông lại đưa tay vào gói bánh và kéo ra một hai cái. Tuy khó chịu thật, nhưng bà cố tình làm như không biết để tránh người đàn ông khỏi ngượng. Bà cố gắng quên sự hiện diện của người đàn ông không mấy biết điều ấy.
Thỉnh thoảng, bà đưa tay vào gói bánh lấy ra một hai cái, và người đàn ông cũng làm theo. Cuối cùng, gói bánh chỉ còn vỏn vẹn một cái, bà chờ xem người đàn ông mất dạy này sẽ làm gì. Người đàn ông liền mỉm cười và lấy chiếc bánh cuối cùng bẻ ra làm hai và trao cho bà một nửa, nửa kia ông cho vào miệng. Người đàn bà nghĩ đây quả là người vô liêm sỉ, đã không biết xấu hổ thì chớ lại cũng chẳng nói một lời cảm ơn.
Bà thở ra nhẹ nhõm khi chuyến bay được loan báo. Bà thu dọn hành lý và đi về phía cổng lên máy bay, nhưng bà thật sững sờ vì cuốn sách và gói bánh vẫn còn nguyên vẹn bên cạnh chỗ bà ngồi. Như vậy, cuốn sách bà đã đọc khi chờ máy bay là của người đàn ông, và gói bánh bà dùng cũng là của ông ta. Quá trễ để nói lời xin lỗi, bà thở ra tự nhận rằng: Kẻ ăn cắp bánh, người vô liêm sỉ chính là bà.
Sở dĩ con người có thái độ bất khoan nhượng và thiếu cảm thông với người khác là vì họ không biết nhìn vào bản thân. Có lục soát lại hành lý, nghĩa là có nhìn lại chính mình, người đàn bà trong câu chuyện trên đây mới nhận ra lỗi lầm của mình, và thay đổi cái nhìn về người đàn ông.
Một trong những sứ điệp nền tảng của Kitô giáo chứa đựng trong lời kêu gọi của Chúa Giêsu:”Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Sự sám hối đòi phải có thái độ khiêm nhường. Chính sự khiêm nhường sẽ giúp chúng ta sống đúng với con người thật của mình. Sự khiêm nhường cũng giúp chúng ta không cậy dựa vào sức mình quá đáng nhưng biết cậy dựa vào ơn Chúa và sự trợ giúp của đồng loại để hoàn thiện mình mỗi ngày một tốt hơn.
Thế nhưng, thật đáng tiếc, con người thường che dấu yếu đuối của mình bằng những hình thức giả tạo bên ngoài. Có người tham ô nhưng vẫn tỏ ra mình liêm khiết. Có người lừa đảo lại hay làm từ thiện. Có người đầy đam mê tật xấu lại hay dạy đời… Thực ra, giá trị của con người là ở chỗ sống đúng với phận mình. Sống đúng với khả năng của mình mới được người khác yêu mến. Kẻ sống giả hình, sống hai mặt luôn bị người đời coi khinh và xa lánh. Và có lẽ, người đời càng coi khinh đối với những người không biết nhìn lại mình nên chỉ nhìn thấy tật xấu, tội lỗi của anh em. Họ sẽ bị người đời cười chê vì:
“Chân mình còn lấm bê bê
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người”
Xin Chúa cho chúng ta biết khiêm tốn để nhận ra mình cũng đầy những thói hư tật xấu, để hiểu và thông cảm với anh em và để có thể cất lời ngợi khen Chúa là Đấng thánh, ngàn trùng chí thánh. Xin đừng vì những thói tự cao tự đại mà trở thành kẻ lừa dối Chúa và anh em. Amen.
13. Đối với Đức Giêsu, ai mới thực là công chính?
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đang vẽ lên hai diện mạo đối chọi nhau hoàn toàn: ‘một người thuộc nhóm Biệt Phái / người kia làm nghề thu thuế’. Cả hai diện mạo này đều rất gần gũi và điển hình trong xã hội Do Thái thời bấy giờ: một thật tích cực đáng trọng và một thật tiêu cực đáng khinh. Nhưng chính kết luận của Người mới thực sự gậy kinh ngạc vì nó ngược hẳn với lối suy nghĩ thông thường vẫn được mọi người chấp nhận; và nếu như thế thì bài học Người muốn chuyển tải chắc hẳn phải quan trọng lắm đối với Tin Mừng mà Người đang ra công quảng bá. Và quả đúng như thế, vì nó liên quan tới khái niệm ‘công chính’, một khái niệm nền tảng của tất cả mọi trật tự xã hội và tôn giáo mọi thời.
Tất cả mọi xã hội loài người, kể cả các xã hội bán khai hơn hếtđều đề ra các tiểu chuận ‘công chính’ cho mình, thường thì các tiêu chuẩn này dựa trên nền luân lý và luật pháp được xã hội đó chấp nhận. Bất cứ ai giữ luân lý và luật pháp, hay duy trì trật tự mà xã hội đó đề ra, đều được coi là công chính, là lương thiện, là mẫu mực; còn ngược lại thì bị coi là thành phần bất lương, phản động, gây gương mù gương xấu. Ngay cả trong các tập thể tôn giáo, các cộng đoàn tu trì thì định luật trên vẫn cứ được áp dụng cách triệt để! Bất cứ xã hội nào thì cũng phân chia các phần tử của mình thành hai hạng: ‘công chính’ và ‘bất chính’, dựa theo tiêu chuẩn luật pháp. Đây quả là một phân biệt rất cần thiết cho mọi trật tự, cũng như cho sự tồn vong của xã hội đó!
Theo tiêu chuẩn này, xã hội Do Thái thời Đức Giêsu cũng có sự phân định rõ: hai hạng người được nêu lên đúng là tiêu biểu: Biệt Phái là những người, theo tiêu chuẩn luân lý và luật pháp Mô-sê, phải được coi là công chính nhất; còn bọn ‘thu thuế’, dựa trên cùng một tiêu chuẩn đó, rõ ràng là bất lương nhất. Như vậy người Biệt Phái, trong cái xã hội ông đang sống, tự coi mình – hay được người khác suy tôn – là công chính thì cũng chẳng có gì sai; và nếu ông có cho mình là hơn kẻ kia thì cũng hoàn toàn hợp lý thôi; “Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác”. Ngay giữa các người có đạo hay tu sĩ cũng chẳng như thế là gì! Trong Giáo Hội người ta coi người này là đạo đức, kẻ kia là tội lỗi, tùy thuộc vào người đó có giữ các phép đạo hay không. Trong cộng đoàn tu sĩ cũng thế, người ta phân biệc: tu sĩ tốt và tu sĩ xấu, từ đó điều chỉnh cách cư xử khen / chê, giữ thái độ trên / dưới, phản ứng trọng / khinh, thì cũng là điều đương nhiên thôi.
Thế nhưng, trong câu chuyện được kể, Đức Giêsu đã không đặt hai hạng người này trên bình diện xã hội, mà là trên diện Tin Mừng, tức là trước lối nhìn của Thiên Chúa; ‘Có hai người lên đền thờ cầu nguyện…’. Cái sai của người Biệt Phái là ở chỗ: đứng trước Thiên Chúa mà ông vẫn cứ tiếp tục giữ thái độ xã hội. Còn người thu thuế thì khác; chính địa vị xã hội hèn kém (‘Người thu thuế thì đứng ở đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời’) đã là cơ sở để ông có được tư thế ‘công chính’ trước mặt Thiên Chúa. Tư thế ‘công chính’ đối với Tin Mừng chính là một người có thể kêu lên: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi!” Hình như Đức Giêsu muốn khảng định rằng: bất luận tình trạng công chính xã hội của một người có là thế nào đi nữa, thì người đó vẫn có thể trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa, một khi biết nhìn nhận sự yếu hèn của mình và khiêm tốn khẩn cầu (hay tin tưởng vào) lòng thương xót Chúa, còn ai cứ khư khư tự tôn tự mãn về sự công chính xã hội của mình, để không cầu khẩn – đón nhận lòng thương xót, thì sẽ trở thành bất chính trước mặt Thiên Chúa; “Tôi nói cho các ông biết, người này, khi trở xuống mà về nhà thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không.” Khi nói câu này Đức Giêsu hầu như muốn khảng định: sự công chính theo luật pháp của con người không có mấy giá trị trước mặt Thiên Chúa; nắm giữ một nền luân lý cao đẹp tới đâu đi nữa, sẽ không bao giờ có thể là mục tiêu tối hậu của niềm tin Ki-tô hữu. Công chính đích thực trước mặt Thiên Chúa nhân ái lại rất đơn giản: chỉ cần khiêm tốn đón nhận tình yêu cứu độ. Điều này là một đòi hỏi chung cho tất cả mọi người, cho bất kỳ ai, kể cả các bậc thánh hiền đạo đức nhất. Vì trước mặt Thiên Chúa ngay cả các thánh cũng có thể lỗi phạm tới bẩy lần một ngày! Bình đẳng tuyệt đối của con người trước Thiên Chúa chính là ở đây: sang / hèn, cao / thấp (về chức tước hay sự kính nể của người đời), tốt / xấu, lương thiện / bất lương (trước mặt xã hội) đều không mấy quan trọng. Phương thế tối cần để đạt được sự công chính của Nước Trời chỉ là: khiêm hạ (con là kẻ tội lỗi, xin dủ lòng thương xót con!). Ai khiêm hạ cầu khẩn lòng thương xót, người đó sẽ được tình yêu Thiên Chúa nâng lên cao, được nên công chính; ngược lại kẻ tự tôn tự đại, cho dẫu có đạo đức thánh thiện (trước mặt con người) tới mấy, cũng sẽ không bao giờ được coi là công chính trước mặt Thiên Chúa. Quả thế: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Trong tư cách linh mục, có thể tôi là: đáng kính đáng nể trước mặt xã hội, nhưng trong tư cách Ki-tô hữu, làm sao tôi trở thành ‘công chính’ trước mặt Chúa đây? Thật là thiếu yếu việc tôi phải tìm ra đáp án cho vấn nạn này và sống nó cách trung thực.
Lạy Chúa, con cảm tạ ơn Chúa đã cho một Phê-rô, một Ma-đa-lê-na, một Mát-thêu, một tên gian phi thống hối, được trở nên công chính! Con cũng hằng được Chúa mời gọi chiêm ngưỡng sự công chính cao cả của Đức Ma-ri-a nơi cõi lòng khiêm cung sâu thẳm của người; xin hãy giúp con để, mỗi khi vì bất hạnh rơi vào vòng tội lỗi, con vẫn biết như thánh Âu-tinh coi đó là dịp hồng phúc để con trở nên công chính hơn trước mặt Chúa; chính vì nhờ đó con mới có thể khám phá sâu hơn lòng thương xót vô biên của Chúa. Amen.
14. Được nên công chính
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Trong văn mạch chung bàn về việc lại đến của Con Người, dụ ngôn người Pharisêô và người thu thuế không bàn đến sự kiên trì cầu nguyện như đoạn trước nữa (18,1-8), mặc dù có nói đến sự cầu nguyện của người thu thuế (18,13), mà thái độ nội tâm phải có để có thể đến với Thiên Chúa khi Nước của Người đến. Điều nầy liên kết đoạn nầy với đoạn kế tiếp, nói đến việc Chúa Giêsu muốn các trẻ nhỏ đến gần Người (18,15-17). Đoạn nầy được phân chia như sau: – Dẫn vào dụ ngôn và mục đích (c. 9); – Câu chuyện của người Pharisêô và thu thuế (c. 10-13); – Kết luận (c. 14). Chủ đề chính của đoạn là bàn về sự công chính (c. 9.11.14). Chữ “dikaios” “dikaioō” đóng khung đoạn nầy. Dụ ngôn trình bày hình ảnh của người Pharisêô tự cho mình không thuộc hạng những người bất chính, và người thu thuế nhìn nhận mình là người tội lỗi. Tuy nhiên, cuối cùng Chúa Giêsu cho thấy ai sẽ được Người tuyên bố là công chính.
Dẫn vào dụ ngôn và mục đích (c. 9)
Chúa Giêsu tiếp tục kể dụ ngôn, và lý do của dụ ngôn được nêu ra ngay từ đầu (x. 18,1; 19,11) là “nhắm vào”, pros, (x. 20,19) những người “tự tin là mình công chính và khinh miệt những người còn lại”. Đối tượng của dụ ngôn, được xác định và hạn chế, ám chỉ những người Pharisêô (x. 16,14-15). Một đàng họ lấy sự công chính như là nền tảng cho họ để tin vào chính mình; “hoti” dịch là “bởi vì”, sự công chính được xem như là sự kiện. Sự “công chính” nầy sẽ được hiểu như thế nào, và sẽ được kể ra trong lời của người Pharisêô (18,11-12). Động từ peithō, từ gốc có nghĩa là “buộc vào”. Động từ nầy, có epi theo sau, có nghĩa là “lệ thuộc”. Những người được nói đây lệ thuộc hay buộc mình vào chính bản thân họ, dựa trên sự công chính của họ. Khác với người thu thuế, dựa vào Thiên Chúa. Đàng khác, họ “khinh miệt những người còn lại” (c. 9b). Động từ “exoutheneō”, có nghĩa rất mạnh là “khinh miệt”, là xem người khác không ra chi, chế nhạo họ (x. 23,11) và loại bỏ họ (x. Cv 4,11). “Loipos”, những người còn lại. Như thế, dựa trên sự công chính, những người nầy đặt mình tách ra khỏi “những người còn lại”, và khinh miệt họ.
Dụ ngôn người Pharisêô và người thu thuế
Các câu 10-13 trình bày câu chuyện, ngắn gọn, đối xứng mà không cân bằng. Sau ghi nhận sự kiện chung là cả hai người lên đền thờ cầu nguyện (c. 10), Luca dành hai câu trình bày thái độ và những gì người Pharisêô nói về chính mình (cc. 11-12); trong khi về người thu thuế chỉ trong một câu (c. 13). Trái lại, trong câu kết luận, Luca chú tâm nhiều hơn trên người thu thuế (c. 14). Mục đích lên đền thờ là để cầu nguyện (x. 1,10; 2,37; Cv 3,1). Hành trình ngược lại là về nhà (c. 14a). Đền thờ là nơi dành cho mọi người đến để cầu nguyện và thờ phượng Thiên Chúa (2,27); nên không có phân biệt nào cả giữa hai người “một người là… người kia là”; họ chỉ khác nhau ở cuối dụ ngôn (c. 14). Tuy nhiên, đền thờ là nơi có tính xã hội, người Pharisêô cũng muốn tỏ vai trò và quyền hành của họ (x. 20,1); ở đây sự công chính của họ.
Người Pharisêô (cc. 11-12)
Về mỗi người, Luca trình bày tư thế khi cầu nguyện, thái độ và nội dung lời cầu nguyện của họ. Người Pharisêô đứng, histēmi. Động từ nầy chắc hẳn ám chỉ tư thế đứng thẳng, hướng về người đang đối thoại (x. 19,8). Đứng cầu nguyện là tư thế thường thấy giữa người do thái (1 Sam 1,26; 1 V 8,14, 22; Mt 6,5; Mc 11,25). Vì người thu thuế “đứng đàng xa” trong đền thờ, có nghĩa là người Pharisêô đứng phía trước. Khi cầu nguyện, ông kể lể rất dài (động từ ở thể quá khứ chưa hoàn thành). Ở đây có một khó khăn về bản văn: nếu pros heauton (c. 11a) đi theo động từ “đứng”, nó nghĩa là người Pharisêô “đứng riêng”, so sánh với người thu thuế đứng “đàng xa”. Nếu pros heauton đi theo động từ “cầu nguyện”, có nghĩa là người Pharisêô “tự nói với chính mình”. Tuy nhiên, điểm chung trong cả hai trường hợp là người Pharisêô tách mình ra khỏi người khác và cả Thiên Chúa nữa.
Người Pharisêô nói về đời sống đạo đức của mình. Ho Theos, ở thể nominative được hiểu như vocative “Lạy Chúa!”. Ông tạ ơn về những điều đang diễn ra trong đời sống của ông (động từ “tạ ơn” ở thì hiện tại). Dẫn vào danh sách đầu tiên (c. 11b), ông đặt mình tách khỏi số “những người còn lại”, loipoi (cc. 9.11). Ông không “giống như” họ, hay không “như” người thu thuế. “Những người còn lại” nầy như thể đều bị xem là trộm cắp, bất chính, ngoại tình; người thu thuế là thí dụ điển hình cho những người như thế. Sự phân biệt của ông phản ánh suy nghĩ của người thời đó về những người nầy (5,29-30; 7,34; 15,1). Trong danh sách thứ hai (c. 12), ông liệt kê những việc đạo đức cá nhân đang làm để chứng minh ông “không giống như” những người khác. Cả hai động từ “ăn chay” và “đóng góp” đều ở thì hiện tại. Ông đưa ra hai việc tiêu biểu mà người Pharisêô thường làm và hãnh diện về những việc đó: ăn chay (x. 5,33; Mt 9,14); đóng góp cho đền thờ (11,42; Mt 23,23). Sabbaton, ở đây hiểu là một “tuần lễ”, chứ không phải là ngày sabbát, khó có thể hiểu là ăn chay hai lần trong một ngày sabbát. Những điều người Pharisêô kể ra đây thuộc về luật buộc chung. Người nầy hãnh diện vì ông chu toàn tất cả và xem đó như công nghiệp của ông.
Người thu thuế (c. 13)
Tư thế, thái độ và lời cầu nguyện của người nầy khác hẳn với người Pharisêô. “Đứng đàng xa” không chỉ xác định khoảng cách không gian, mà còn cho thấy nơi của người đang đứng đó không phải là chỗ chính và quan trọng. Người phú hộ trong âm phủ (16,23), Phêrô ngoài dinh thượng tế (22,54), những người biết Chúa và các phụ nữ xa nơi Chúa chịu treo trên thánh giá (23,49). Như thế, vị trí “đằng xa” của người thu thuế chắc chắn không phải là ở phần chính trong đền thờ như vị trí người Pharisêô đang đứng. Ông “không muốn ngay cả ngước mắt lên trời”. Luca dùng từ phủ định “ouk…oude” để nhấn mạnh ước muốn của ông. “Ngước mắt lên trời” là để nhìn thấy phúc lành (6,22); ơn cứu độ (16,23; 21,28) và vinh quang của Thiên Chúa (Cv 1,9). Người thu thuế từ chối cách quyết liệt điều nầy vì biết mình không xứng đáng chút nào trước mặt Thiên Chúa. Hành vi “đấm ngực” là dấu hiệu tang chế (x. 8,52), hay thống hối (23,48). Giống như người Pharisêô, người thu thuế kêu cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa! ”, nhưng nội dung khác hẳn “Xin tỏ lòng khoan nhân với tôi, một người tội lỗi”. Động từ “hilaskomai” có nghĩa là “nguôi giận” “giao hòa với ai”. Khi ở thể thụ động, động từ có nghĩa là “tỏ ra quảng đại”, “tỏ lòng thương xót”. Thiên Chúa thường là chủ ngữ của hành động nầy. Người thu thuế xin Thiên Chúa tỏ lòng khoan nhân đối với ông và tha thứ cho ông là người tội lỗi. Tiếng kêu cầu nầy vọng lại lời cầu xin của các hối nhân trong các Thánh vịnh (24,11; 79:9). Như thế, người thu thuế vừa nhận biết Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ, vừa nhận biết mình tội lỗi, nên ông đã có thái độ và hành động xứng hợp; đồng thời đã tìm kiếm lòng thương xót chữa lành và giao hoà từ nơi Người.
Kết luận (c. 14) mở đầu với lời “Tôi nói với các ông” (7,26.28; 11,8; 12,5, …) để nhấn mạnh uy quyền trong dạy dỗ và phán quyết của Chúa Giêsu. Người thu thuế bây giờ được đặt lên trước. Ông được Chúa Giêsu tuyên bố là “được nên ông chính”, trong khi người Pharisêô xem là người tiêu biểu cho hạng người bất chính (c. 11). Còn người Pharisêô tự xem mình là người “công chính” (c.1), không được kể là công chính trước mặt Thiên Chúa; họ có thể được xem là công chính trước mặt con người (x. 16,15). Phần thứ hai của câu kết luận (c. 14b), lập lại câu kết của trình thuật 14,8-11. Áp dụng của nó có khác đi. Luca xem người Pharisêô đã nâng mình lên trước mặt Thiên Chúa, khi ông kể ra những điều ông đã tuân giữ theo lề luật. Ông xem đó là sự công chính của riêng ông, và không cần gì đến Thiên Chúa cả! Trong khi người thu thuế được xem là người hạ mình trước mặt Thiên Chúa, vì ông đã thống hối và cầu xin Thiên Chúa làm cho ông nên công chính.
Điều Thiên Chúa cần nơi con người là lòng thống hối để được Người làm cho nên công chính. Việc tuân giữ lề luật không làm cho con người nên công chính khi không nhận biết Đấng Công Chính và nhận sự thánh hoá từ nơi Người. Không dừng lại ở lề luật và cho mình là công chính vì đã tuân giữ chúng.
15. Người thu thuế ra về được khỏi tội
(Trích dẫn từ ‘Suy Niệm Phúc Âm Hàng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Tác giả tập sách nổi tiếng có tựa đề: “Nơi Thiên Chúa khóc”. Do kinh nghiệm sống đức tin của một cộng đồng Kitô hữu bị bách hại tại Đông Âu trước đây, kể lại kinh nghiệm cảm động nhất của mình trong việc cầu nguyện như sau:
Tôi cùng với một số người Đức bị đưa đi đày xa quê hương từ giữa thế chiến thứ hai. Tất cả đều là người Công giáo và cùng lao động tại một nông trường. Nơi ấy không có nhà thờ cũng chẳng có linh mục, nhưng chúng tôi được tụ họp mỗi chiều Chúa Nhật tại một nghĩa địa cũ để cầu nguyện chung với nhau. Khi biết cách đó 1,000 km có linh mục, anh chị em Kitô bèn quyết định hàng tháng góp chung nhau ít tiền để mua vé xe cho một bà già đi về nơi ấy, để đem Mình Thánh đến cho cộng đoàn. Thế rồi, từ đó mỗi buổi chiều Chúa Nhật, cộng đoàn gặp nhau trong nghĩa địa với tâm hồn hân hoan vui sướng, vì biết rằng có Chúa Giêsu Thánh Thể hiện diện với mình. Chúng tôi sốt sắng cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa. Những ai yếu liệt đều được trao cho của ăn đàng quí giá trước khi qua đời. Nhờ vậy, trong suốt mấy chục năm trời, cộng đoàn Kitô hữu chúng tôi vẫn sống niềm tin kiên vững, đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu thương bác ái huynh đệ.
Tác giả của tập sách nói trên được sang sống bên thế giới tự do và cho biết chính mình là người điều khiển cộng đoàn Kitô hữu vào mỗi buổi chiều Chúa Nhật tại nghĩa địa như đã kể trong tập sách. Sống trong xã hội tự do, nhưng tâm hồn tác giả lúc nào cũng hướng về cộng đoàn huynh đệ vây quanh Chúa Giêsu Thánh Thể để cầu nguyện và nâng đỡ nhau.
Anh chị em thân mến!
Lời cầu nguyện thật lúc nào cũng là lời cầu nguyện của tình yêu thương và tha thứ, lời cầu nguyện liên kết mọi người với nhau, lời cầu nguyện của sự xây dựng cộng đoàn. Thật là khác với những lời cầu nguyện của những người Pharisiêu như được mô tả trong bài Tin Mừng hôm nay.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta liền nhớ đến những lời nhắn nhủ sau đây của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận trong tập sách “Đường Hy Vọng”:
Dù con có tử đạo, nộp mình chịu thiêu, dù con có làm tông đồ, giảng dạy các thứ tiếng của nhân loại và thiên thần, dù con có hoạt động từ thiện, đem hết cả tài sản phân phát cho người nghèo khó mà con không có lòng mến thì cũng như không. Việc con làm không quan hệ, cách con làm mới quan hệ.
Người biệt phái cầu nguyện đứng thẳng, chi tiết này nói lên tinh thần tự kiêu, ỉ lại trước nhan Thiên Chúa, và nội dung lời cầu nguyện của ông chỉ là những lời khoe khoang với Chúa và gây chia rẽ: “Con không phải như người thu thuế, tôi lỗi kia, con không giống như những kẻ khác: tham lam, bất công, ngoại tình…” Đó là những lời kết tội anh em, lỗi đức ái, không có chút gì tích cực xây dựng cộng đoàn và tôn vinh lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ngược lại, người thu thuế đã ý thức được thân phận tội lỗi của mình, nên khiêm tốn cúi mình xin Chúa thương xót, hướng dẫn mình trở về với tình thương của Chúa, trở về với anh em mà mình đã xúc phạm.
Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách “Đường Hy Vọng” đã nhắn nhủ chúng ta về việc cầu nguyện như sau: Khi hai hay ba người hiệp nhau cầu nguyện thì có Chúa ở giữa họ. Lời Chúa Giêsu đã được ứng nghiệm, đặc biệt nơi nhiều cộng đoàn cầu nguyện. Họ sống xa linh mục từng ngàn cây số mà vẫn hướng dẫn nhau cầu nguyện cách kiên trì giữa những gian nan thử thách và cô đơn. Dầu miệng con không nói ra, Chúa đã hiểu thấu lòng con. Con hãy noi gương người đàn bà bị băng huyết động đến gấu áo Chúa được nhận lời ngay. Con tội lỗi không dám ra trước mắt Chúa, nhưng lời Hội Thánh khiến con vững tâm: “Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con”.
Vậy, tất cả sự thương khó của Chúa Giêsu và công nghiệp của Đức Mẹ và các thánh không đủ để bao bọc lời cầu nguyện nhỏ bé của con sao? Trong cuộc đời Chúa Giêsu, hình như Chúa yêu thương cách riêng những kẻ khiêm nhượng và Ngài quên hết tội lỗi của họ, không bao giờ nhắc lại: “Phêrô, Madalena, Simon phong cùi, Giakêu… Chúa đã tự đến nhà họ và đành chịu tiếng làm bạn với quân thu thuế và người tội lỗi”.
Quyền năng nơi Thiên Chúa phục vụ qua lòng nhân từ của Ngài. Quyền năng của một người Cha nhân từ đủ sức thanh tẩy và đổi mới cuộc đời tội lỗi, nếu chúng ta khiêm tốn để cho ơn Chúa được tự do tác động.
Lạy Chúa, như người thu thuế kia, con thành tâm kêu xin Chúa, xin Chúa thương xót con, hãy tha thứ mọi tội lỗi con và dẫn đưa con về với tình yêu: Yêu Chúa và yêu anh em như Chúa đã yêu. Amen.
16. Người Pharisêu và người thu thuế
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa nhật tuần trước, hai nhân vật mang tính biểu tượng được Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta: một bên là vị thẩm phán bất công, đại diện kẻ áp bức, bên kia là bà góa đi kiện, điển hình của kẻ bị áp bức. Qua dụ ngôn đầy tính hài ước, Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải cầu nguyện luôn đừng ngã lòng và xác tín rằng, Thiên Chúa hằng nhận lời chúng ta (x. Lc 18,1-8).
Để xác định thái độ nội tâm và hình thức bề ngoài khi hướng về Thiên Chúa, Chúa nhật tuần này, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn gồm hai nhân vật đại diện cho con người hôm nay: một bên là người pharisiêu tự cho mình là công chính tuân giữ Luật Chúa cách hoàn hảo và bên kia là người thu thuế, tội lỗi, tay sai cho bọn đế quốc, vơ vét tiền bạc trên lưng của đồng bào (x.Lc 18, 9-14).
Khi đọc lý do tại sao người Pharisiêu lại tạ ơn Chúa, chúng ta chiêm ngưỡng sự hào phóng của ông thực sự là một người “tốt”, không chê trách được gì. Điều này dường như không phải là quan điểm của Đức Giêsu, Người không kể dụ ngôn này cho những người công chính, nhưng “cho những ai hay tự hào mình là người công chính.” (x. Lc 18,9-14)
Người Pharisêu
Người Pharisêu tiêu biểu cho người bảo thủ cảm thấy mình phù hợp với Thiên Chúa và tha nhân, khinh thường kẻ khác. Người thu thuế là kẻ đã phạm lầm lỗi, nhưng anh nhìn nhận lỗi lầm đó và khiêm tốn xin Chúa tha thứ. Anh nghĩ, mình không thể cứu được mình nhờ công nghiệp riêng mình, mà phải cậy nhờ vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Câu cuối cùng của dụ ngôn minh chứng: Người này, khi trở về nhà, thì được nên công chính, nghĩa là, được tha và hoà giải với Chúa; người Pharisêu trở về nhà trong tình trạng y như hồi ra đi vẫn giữ cảm giác về sự công chính của mình, đương nhiên mất sự công chính của Chúa (x. Lc 18,14).
Trong thực tế, người Pharisiêu đã đặt ra cho mình chỉ tiêu công chính. Ông không như người khác: ăn chay, nộp thuế… Ông tự xây dựng hình ảnh người công chính cho mình, quên mất điều quan trọng nhất của lề Luật là tình yêu tha nhân.
Tệ hơn nữa là thái độ của ông. Ông “tạ ơn Thiên Chúa”; nhưng không được, ông thích liệt kê những kẻ tội lỗi. Trong lời cầu nguyện, ông không cần đến Thiên Chúa. Như thế, ông không công chính với chính mình, sức mạnh nội tâm của ông cho phép ông vượt lên trên mức tầm thường, nhưng ông đã coi thường sự đáng kính của ông. Một người hài lòng với chính mình, làm sao có thể giao tiếp được với Thiên Chúa?
Người thu thuế
Người thu thuế biết mình không có gì để khoe, và cũng chẳng có ai thấp kém hơn mình để đạp. Anh chỉ biết mình được xếp loại ngang hàng với gái điếm, nên đứng xa xa, không dám ngước lên trời, đấm ngực và nói lên điều mà lòng anh đang khao khát: “Lạy Chúa, xin thương con là kẻ có tội.” (Lc 18,13). Anh khao khát tình thương nên anh được Chúa đoái thương và lời anh cầu xin được chấp nhận. Một kẻ tội lỗi như anh, có thể chứa đựng lòng thương xót, bởi vì không giống như các pharisiêu đóng cửa lòng mình và thỏa mãn với sự đầy đủ của mình, anh mở rộng tâm hồn, sẵn sàng đón lấy ơn tha thứ của Thiên Chúa, Đấng mà anh đã đặt tất cả niềm tin và hy vọng của mình.
Bài học từ hai người trên
Giống như hầu hết các dụ ngôn, Đức Giêsu cho thấy hai nhân vật trái ngược nhau. Những người thu thuế hôm qua là những người Pharisêu mới của ngày nay! Ngày nay người thu thuế, kẻ phạm tội, nói với Chúa: “Lạy Chúa con tạ ơn Chúa, vì con không phải như những người Pharisêu có lòng tin kia, giả hình và bất bao dung, lo lắng về sự ăn chay, nhưng trên thực tế sống còn xấu hơn chúng con.” Thật nghịch lý, xem ra dường như có những kẻ cầu nguyện như thế này: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, vì con là kẻ vô thần!”
Rochefoucauld nói rằng sự giả hình là đồ cống nạp nết xấu trả cho nhân đức. Ngày nay nó thường là đồ cống nạp nhân đức trả cho nết xấu. Đúng thế, điều này được bày tỏ ra, nhất là những kẻ tỏ ra mình xấu hơn và vô sỉ hơn mình, ngõ hầu không xuất hiện kém hơn những kẻ khác. Nhà triết học Tin Lành Soren Kierkegaard viết: “Ngược lại với tội lỗi không phải là nhân đức, nhưng đức tin.”
Một kết luận thực tế: Rất ít người vừa Pharisêu vừa là người thu thuế, tức là, công chính trong mọi sự hay là tội lỗi trong mọi sự. Phần đông chúng ta có một chút ít cả hai trong cuộc sống. Lúc tồi tệ nhất chúng ta ứng xử như quan thu thuế trong cuộc sống, kinh doanh vô đạo đức, và lúc khác chúng ta như người Pharisiêu trong đền thờ, được cho là hợp lý bởi hành vi tôn giáo của chúng ta. Điều tệ nhất có lẽ là hành động như người thu thuế trong đời sống thường ngày của chúng ta và như người Pharisêu trong nhà thờ. Những người thu thuế là những kẻ tội lỗi, không có áy náy lương tâm, coi tiền bạc và nghề nghiệp trên hết mọi sự. Những người Pharisêu, ngược lại, là rất khắc khe và chăm chú đến lề luật trong sự sống hằng ngày của mình.
Nếu chúng ta đành cam chịu nên một ít của cả hai, bấy giờ chúng ta hãy nên kẻ nghịch của điều chúng ta mới diễn tả: Pharisêu trong sự sống hằng ngày và thu thuế trong nhà thờ! Như người Pharisêu, chúng ta phải cố gắng trong sự sống hằng ngày không làm kẻ trộm và người bất chính, nhưng theo những điều răn của Chúa và trả những món nợ chúng ta mắc; như người thu thuế, khi chúng ta ra trước mặt Chúa, chúng ta phải công nhận rằng chút ít gì chúng ta đã làm là hoàn toàn ân huệ của Chúa, và chúng ta hãy cầu xin cho chính chúng ta và cho tất cả mọi người lòng thương xót Chúa. Amen.
17. Khiêm tốn trong cầu nguyện.
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
Ông Alexin Carnel, người lãnh giải Nobel về Y khoa năm 1978, đã chia sẻ kinh nghiệm về đức tin khi ông phát biểu: “Cầu nguyện là một hoạt động không thể thiếu để phát triển con người toàn diện. Càng cầu nguyện, chúng ta càng trở nên con người hơn”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu một lần nữa dạy chúng ta cầu nguyện với sự khiêm hạ chân thành. Càng khiêm tốn, chúng ta càng trở nên vĩ đại, vì được thông dự vào sự cao cả và quyền năng của Thiên Chúa. Điều đó cũng tương hợp với tư tưởng của Pascal khi ông nói: “Con người rất nhỏ bé và tầm thường, nhưng chúng ta sẽ trở nên vĩ đại và phi thường nếu biết cầu nguyện”.
Cầu nguyện: Từ thái độ kiên trì đến tâm tình khiêm tốn.
Tuần trước, lời Chúa khuyên mời chúng ta kiên trì trong việc cầu nguyện qua hình ảnh của Moise đứng giang tay trên núi cầu khẩn khi đoàn quân của ông giao chiến với đội quân Amalếch, hoặc qua thái độ kiên nhẫn của một bà góa đứng kiện cáo nơi cửa công. Tuần này, Chúa cũng vay mượn hình ảnh khiêm hạ của một người thu thuế, đối nghịch với thái độ cao ngạo của ông Pharisiêu khi lên đền thờ cầu nguyện, để dạy chúng ta phải có thái độ khiêm tốn mỗi lần đến với Chúa. Chúng ta đã nghe khá nhiều về việc cầu nguyện. Nhưng sự khiêm hạ Chúa nói hôm nay đòi hỏi nơi chúng ta điều gì và chúng ta đã thực hành như thế nào?
Trước hết, chúng ta nghe lại bài đọc 1 trong sách Huấn ca được đọc lên trong phụng vụ hôm nay. Tác giả viết: “Đức Chúa là Đấng xét xử, người chẳng thiên vị ai. Người không vị nể mà hại kẻ nghèo hèn, nhưng nghe lời kêu xin của người bị áp bức, lời khấn nguyện của kẻ mồ côi, hay tiếng than van của người góa bụa”. Ba hạn từ nêu trên, nói về những người nghèo khổ, cô thế cô thân trong xã hội Do thái thời xưa. Kẻ mồ côi, kẻ bị áp bức, người góa bụa, là những người thấp kém và bị mọi người coi khinh. Họ là đại biểu của giai tầng thấp nhất trong xã hội, nhưng lời cầu nguyện của họ luôn được Thiên Chúa lắng nghe. Trong bài giảng trên núi, Chúa công bố bản Hiến chương Nước Trời với 8 mối phúc dành cho những ai ‘nghèo khó, hiền lành, khóc lóc, bị áp bức..’, tức là những con người luôn biết sống khiêm hạ, không vênh váo và tự mãn về cái tôi của mình như những người quyền quý hay cao sang. Sự khiêm hạ đó một lần nữa được Chúa nói tới qua hình ảnh người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện, đối kháng với sự kiêu căng tự mãn của người Pharisiêu. Vào thời Chúa Giêsu, dân chúng luôn dị ứng và tẩy chay những người hành nghề thu thuế. Họ được xếp ngang với bọn đĩ điếm và phường tội lỗi. Dân chúng ghét họ vì 3 lý do. Thứ nhất, họ làm tay sai cho đế quốc Rôma. Thứ hai, họ phản bội tổ quốc và đồng bào ruột thịt. Thứ ba, khi đụng đến tiền bạc, chắc chắn họ dễ rơi vào tham nhũng hay hối lộ. Những người thu thuế thường hay thu quén tiền bạc cách bất chính trên xương máu và mồ hôi nước mắt của người khác. Đế quốc Rôma ra chỉ tiêu về tiền thuế phải nộp, còn họ sẽ bày ra phương cách để có thật nhiều tiền. Vì vậy, dân Do Thái luôn khinh ghét họ và xếp họ chung với phường tội lỗi.
Người thu thuế ra về được nên công chính, còn người kia thì không (c.14).
Sự công chính nơi người thu thuế khởi đầu từ việc ông nhận ra lỗi lầm của mình và thực tình sám hối. Sám hối, theo nguyên ngữ Hy Lạp ‘Metanoia’, có nghĩa là ‘trở về’. Sám hối không phải chỉ là đấm ngực mình cách máy móc như nhiều khi chúng ta vẫn hay làm khi đọc kinh ‘tôi thú nhận’. Hành vi đấm ngực, cúi gầm mặt xuống vì xấu hổ nơi người thu thuế là bước khởi đầu của cuộc hành trình trở về. Thánh Luca trong chương 15 kể dụ ngôn đứa con đi hoang để nói về cách sám hối chúng ta cần biểu tỏ. Chàng thanh niên can đảm đứng lên, giã từ quá khứ để trở về nhà trong vòng tay yêu thương của Cha. Sự công chính chúng ta có được không phải do nỗ lực cá nhân, nhưng trước hết là do ơn sủng nhưng không, đến từ Thiên Chúa. Trong thơ Rôma, Thánh Phaolô đã cắt nghĩa rất rõ: “Ân sủng Đức Kitô làm cho chúng ta nên công chính, vì ở đâu tội lỗi càng nhiều, ơn sủng càng chan chứa gấp bội (Rm 5, 20-21). Đức Giêsu đã khiêm nhường, tự hạ chấp nhận cái chết và máu của Ngài làm cho chúng ta được công chính hóa. Vì vậy điều kiện tiên quyết để được tha thứ và chữa lành, chính là thái độ khiêm tốn nội tâm.
Muốn sống khiêm tốn phải biết mình.
Người thu thuế biết rõ về chính mình, về những bất xứng và tội lỗi anh ta đã gây ra. Từ chỗ biết mình, anh đã can đảm đi ra khỏi cái tôi để quy hướng về Thiên Chúa. Ngược lại, người biệt phái quá kiêu ngạo, tưởng rằng biết rõ về bản thân, nhưng thực sự thì không. Ông chỉ biết quy về mình. Ông trưng ra những thành tích đạo đức để khoe mẽ mà không biết rằng những việc tốt mà ông có thể làm, tất cả là do ơn của Chúa chứ không phải do công lao của ông. Ông đến đền thờ cầu nguyện tựa như đi tham dự một hội nghị biểu dương ‘Người tốt việc tốt’, giống như xã hội hôm nay vẫn hay tổ chức. Một người đứng lên giữa đám đông kể ra những ‘thành tích xuất sắc’ của mình để nhận bằng khen hay giấy khen, nhiều khi rất lố bịch và giả tạo. Nhiều người đi tham dự hội nghị còn đeo đầy huy chương để khoe cho mọi người biết tôi là người có công với đất nước. Người Pharisiêu trong dụ ngôn hôm nay cũng thế. Ông ta trưng ra những thành tích đạo đức để mong Chúa ban cho ông một tấm bằng khen. Chúa biết rõ tâm hồn mỗi người, từ những gì sâu kín nhất tận bên trong. Điều Chúa mong muốn nhất, chính là sự khiêm hạ và thành tâm sám hối. Khi chúng ta đến trình diện trước mặt Chúa, Chúa không thích ngắm những bộ huy chương chúng ta đeo trên ngực hay nhìn những bằng khen chúng ta trưng ra để khoe khoang. Ngài chỉ thích mân mê sờ nắn những vết sẹo nơi tâm hồn chúng ta, là dấu chứng tội lỗi chúng ta phạm nhưng đã được Thiên Chúa yêu thương và chữa lành. Câu chuyện dụ ngôn trong bài Tin mừng hôm nay khẳng quyết điều ấy.
Kết luận
Bắt chước người thu thuế trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy đến với Chúa với tâm tình sám hối và khiêm hạ, đặc biệt khi chúng ta giơ tay đấm ngực mỗi lần dâng Thánh lễ. Nhiều khi chúng ta đấm ngực mình một cách rất máy móc để rồi khi về đến nhà, lại giơ tay đấm nhầm qua ngực người khác, bằng cách kết án hết người này đến người nọ. Chúng ta mượn lại tâm tình của Thánh Charles de Faucauld để thưa lên với Chúa: “Lạy Chúa, dù còn xấu xa hay tội lỗi đến mấy, Chúa cũng không bao giờ kết án và luận phạt. Chúa cho con tự do để làm mọi sự, nhưng Chúa luôn cấm con không được thất vọng trước sự khốn nạn do tội lỗi con gây ra. Lạy Chúa, xin xót thương con.”
18. Biết ngước mắt nhìn Trời
(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Danh Tường)
Giáo xứ kia là một giáo xứ gần như toàn tòng Công giáo. Có một người ngoại giáo từ làng khác tới giáo xứ để làm nghề. Vì thế mà anh ta quen biết nhiều người trong giáo xứ. Thấy anh sống tốt, có người gạn hỏi anh: Sao anh không theo đạo với chúng tôi luôn đi. Anh trả lời: Tôi ăn ngay ở lành, không trộm cắp, không giết người, không lừa lọc ai. Đạo nào mà chẳng thế. Tôi sống thế là được rồi.
Nếu sống đạo là chỉ giữ những luật lệ, tránh không phạm tội trọng thì quả thực đạo nào cũng như đạo nào. Bởi cái luân thường đạo lý ở đời đâu mà chẳng vậy. Theo Đạo của Chúa là không chỉ sống tốt ở đời mà còn sống thánh, sống vươn lên vượt ra khỏi cái hạn hẹp quẩn quanh ở đời này.
Trong bài Tin mừng Lc 18, 9-14, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn. Trong dụ ngôn này có hai nhân vật đứng trong cùng một nhà thờ nhưng với hai thái độ khác nhau.
Người biệt phái dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về những gì ông đang có. Ông không xin Chúa thêm điều gì. Ông hãnh diện về những gì ông đã làm được: ông không tham lam, không bất công, không ngoại tình như những người khác. Ông cảm tạ Chúa không về những gì Chúa đã làm cho ông nhưng là những gì chính ông đã làm được. Đi xa hơn nữa, ông biệt phái đã so sánh ông với người thu thuế đang đứng phía cuối nhà thờ: Tôi không như tên thu thuế kia, tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả những hoa lợi của tôi.
Ông dám kết án người thu thuế là kẻ gian tham vì người thu thuế đứng ra lấy thuế của dân mà nộp cho đế quốc Rôma. Nộp đủ chỉ tiêu thì được hưởng huê hồng số thu phụ trội!
Ông dám kết án người thu thuế là kẻ bất lương vì dân Do Thái đang có khát vọng độc lập, thoát ra khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, thì kẻ lấy thuế của dân mà nộp cho ngoại xâm là củng cố thế lực cho đế quốc, là hành động bất lương.
Ông dám kết án người thu thuế là kẻ ngoại tình vì người thu thuế đã đánh mất niềm tin và lòng trung thành với Chúa. Ông đã phản bội Thiên Chúa, đi ngoại tình với đế quốc Rôma.
Ông biệt phái đứng đó trước nhan Thiên Chúa nhưng ông không hướng nhìn lên Chúa. Ông đã nhìn xuống người thu thuế và suy xét lòng mình với những lề luật lẽ đời, ông thấy mình đạo đức. Ông ngẩng đầu cao ngạo và thấy mình xứng đáng được hưởng Nước Trời rồi.
Còn người thu thuế thì ngược lại với thái độ của ông biệt phái. Người thu thuế quả thực đã phạm nhiều điều đáng trách. Nhưng chắc chắn ông không phải là người tội lỗi nhất thế gian. Nếu ông nhìn xuống ông cũng sẽ thấy những người tội lỗi hơn ông nữa. Nhưng người thu thuế đã không nhìn xuống những người khác. Ông ngước nhìn lên Thiên Chúa. Ông suy xét lòng mình trước sự cao cả và tràn đầy tình thương của Thiên Chúa, ông thấy mình quá tội lỗi và thật xấu hổ. Ông không dám nhìn lên Chúa nữa mà chỉ biết cúi đầu ăn năn kêu xin: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 18,13).
Người biệt phái nhìn xuống người khác mà không biết nhìn lên Thiên Chúa nên ông dám đứng thẳng để cầu nguyện, để vênh váo. Người thu thuế không nhìn xuống người thấp hèn hơn mình nhưng nhìn lên Thiên Chúa nên ông không dám ngẩng đầu mà chỉ biết cúi mình kêu xin. Người biệt phái cậy dựa vào sức của riêng mình. Còn người thu thuế cậy dựa vào lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Người thu thuế chỉ lo giữ trọn lề luật, tự hào về những gì mình đã làm được mà không biết đến tình thương của Thiên Chúa. Người thu thuế ăn năn về những điều mình đã lỗi phạm, chạy đến với Chúa với tình con thảo nài xin Chúa xót thương.
Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã quả quyết: “người này ra về và được khỏi tội còn người kia thì không. Vì tất cả những ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 18,14).
Nếu tôi thường xuyên hướng nhìn lên Chúa, sống gắn bó với Thiên Chúa thì mọi sự tôi đã làm được chẳng đáng là gì trước những gì Chúa làm cho tôi. Nhìn lên Chúa tôi chỉ còn biết thờ lạy và cảm tạ Ngài. Tôi ý thức được sự yếu hèn của mình. Và như vậy tôi không còn dám chê trách ai vì tôi quá tội lỗi, tôi đâu có đáng gì. Tôi chỉ còn biết nài xin Chúa thương xót và cứu vớt lấy mình, cứu vớt lấy người anh chị em đang sống quanh tôi. Tôi hiểu được sự đau khổ của người khác và sẵn sàng cảm thông, chia sẻ với người khác trong cuộc sống hằng ngày.
Theo đạo là để sống với mọi người và luôn hướng lòng về với Chúa. Theo đạo là bước đi trên con đường tiến tới sự thánh thiện mà Thiên Chúa là đích điểm. Người tín hữu sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Tiêu chuẩn sống của người có đạo là tiêu chuẩn Nước Trời. Sống không chỉ để tránh làm điều bất trung bất nghĩa, nhưng còn phải yêu thương, phục vụ, và nên thánh. Người có đạo luôn bước đi với đôi mắt ngước nhìn Trời.
Lạy Chúa, giữa đêm tối mịt mùng xin Ngài cất tiếng, để con định hướng lòng con về với Ngài. Con chỉ là phận hèn tội lỗi, xin thánh hoá con và kéo con đi trên con đường nên thánh.
19. Người Pharisêu và người thu thuế
(Suy niệm của Vincent Travers)
Dụ ngôn này nhắc nhở tôi câu chuyện về một người đàn ông khoe khoang như sau: nếu trên trần thế này chỉ còn lại hai người tốt mà thôi thì đó chính là tôi và con trai của tôi. Nhưng nếu chỉ còn lại một người tốt, thì chắc chắn người đó phải là tôi!
Người Pharisêu tự thấy mình cũng như người đàn ông đó, nổi tiếng và gương mẫu về mọi phương diện, từ đầu đến chân, trên mọi người khác. Thật thế, ông ta đã nói: “Tôi lương thiện và ai giống tôi?”
Điều nguy hiểm khi đọc dụ ngôn này là chúng ta tự khen ngợi mình không giống như người Pharisêu kia, cũng như người này tự khen ngợi mình không giống như người thu thuế. Nếu chúng ta dám nhìn kỹ hơn, tôi thiết tưởng có rất nhiều điều giống với người Pharisêu ở trong tất cả chúng ta. Vấn đề là giống bao nhiêu mà thôi.
Vào một ngày nắng đẹp trời, một con voi ngâm mình trong một cái hồ ở trong rừng sâu. Một con chuột đến bờ hồ và yêu cầu con voi ra khỏi hồ. Con voi hỏi: “Tại sao?” Con chuột nói: “Tôi sẽ nói cho bạn biết tại sao, khi bạn ra khỏi hồ.” Vì vậy con voi đã ra khỏi hồ và nói: “Tao ra khỏi hồ rồi đó. Vậy mầy muốn gì?” Con chuột đáp: “Tôi chỉ muốn xem có phải bạn đã mặc bộ đồ tắm của tôi không.”
Tất cả chúng ta là những tay tổ trong nghệ thuật phóng đại sự kiện tự quan trọng hoá mình.
Tự ca ngợi mình không phải là ca ngợi
Chúa Giêsu đã dùng những kỹ thuật gây nên sửng sốt. Qua câu chuyện này, thính giả của Ngài đều nhận biết một nhân vật là tốt, còn nhân vật kia thì xấu. Nhưng Chúa Giêsu đã làm cho họ sửng sốt bằng cách kết án nhân vật tốt và ca ngợi nhân vật xấu.
Để hiểu câu chuyện gây nên sửng sốt đến mức độ nào cho những người nghe nói lần đầu tiên, chúng ta phải nhận thức rằng người Pharisêu ở đây không phải là một kẻ giả dối. Ông ta thực sự tốt hơn những người khác. Ông đã đi quá xa hơn những gì ràng buộc ông ta. Ông ăn chay hai lần một tuần không phải là điều bắt buộc đối với ông. Người Pharisêu cũng không bắt buộc phải dâng cúng cho Chúa một phần mười tài sản của mình. Tất cả những điều đó đều tốt và đáng ca tụng nữa.
Rõ ràng công bằng mà nói thì người thu thuế là một nhân vật hoàn toàn xấu. Vào thời Chúa Giêsu, thuế má được thâu bởi những nhà kinh doanh địa phương. Những thuế đó được ấn định bởi những người La-mã mà dân chúng ghét cay ghét đắng, nhằm hỗ trợ cho quân đội chiếm đóng.
Một khi người La-mã đã lấy đủ phần mình, họ không phải quan tâm tới số hoa hồng mà người thu thuế thêm vào. Những người này đã bày đủ thủ đoạn làm tiền để ăn chặn của dân chúng càng nhiều càng tốt. Chính những người thu thuế đó mới đáng ghét và bị tất cả những người tử tế lánh xa.
Trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, người thu thuế tự gọi mình là “kẻ tội lỗi” (Lc 18, 13). Như thế, ít nữa, ông ta đã nói lên một điều hoàn toàn đúng sự thật. Vậy tại sao người thu thuế – không phải người Pharisêu – đã ra về được chứng minh là công chính trước mặt Thiên Chúa.
Sự phản bội
Người Pharisêu đến đền thánh, không phải để cầu nguyện nhưng để khoe khoang, để cho Chúa biết ông ta tốt chừng nào, để cổ võ chính hình ảnh của ông. Lời cầu nguyện của ông đầy những chữ “tôi”, “tôi” và “tôi”. Đó là “tự kỷ trung tâm” (tự cho mình là trung tâm điểm của vũ trụ), thay vì đặt để Thiên Chúa làm trung tâm điểm.
Chúng ta nên cảnh giác đừng chỉ ngón tay vào người Pharisêu. Đó là một thói quen rất nguy hiểm. Điều đó có nghĩa là ba ngón tay kia chĩa lại chúng ta!
Lấy thí dụ đi xem lễ Chúa nhật. Tại sao tôi đi xem lễ? Động cơ nào đã thúc đẩy tôi? Có phải tôi đến để thoả mãn Chúa hay chỉ để thoả mãn tôi? Có phải tôi đến nhà thờ để được khuyên giải và an ủi? Để vinh danh Chúa hay tự vinh danh tôi? Để làm vui lòng Chúa hay làm vui chính tôi? Có phải tôi đã làm đúng, nhưng động cơ thúc đẩy tôi lại sai?
T.S. Eliot trong vở kịch “Murder In The Cathedral” (“Án Mạng trong Nhà Thờ Chính Tòa”) đã đề cập đến việc làm thì đúng, nhưng động cơ thúc đẩy thì sai, nên cuối cùng là một hành động “phản bội”.
Chúng ta thường nghe nhiều người than phiền như sau: “Tôi đi xem lễ nhưng chẳng được ích gì. Tôi không thể chịu đựng được vị linh mục. Bài giảng chán ngấy. Tôi không thể nghe ca đoàn hát. Tôi không thể chịu được tiếng ồn ào. Tôi không thể chịu đựng trẻ con.” Tất cả đều là “tôi”, “tôi” và “tôi”. Đúng họ là những chuyên gia về “cái tôi”!
Những người khác không cùng nhau đến nhà thờ không phải vì bị chống đối; họ không bị đá bị đuổi, đứng trên phương diện đạo giáo. Giờ đây, nếu tôi đến dự lễ hay không đến “vì tôi, cho tôi, để tôi được nhận nhưng không cho đi”, tức nhiên có điều gì đó tự bản chất đã sai lầm rồi. Tôn giáo chân chính là tôn giáo lấy Thiên Chúa làm trung tâm, chứ không phải lấy tôi làm trung tâm (“tự kỷ trung tâm”).
Sự khác biệt giữa “TÔI” và “CHÚA”
Lời cầu nguyện của người Pharisêu nhằm đề cao “cái tôi”, trong khi lời cầu nguyện của người thu thuế nhắm đến “Thiên Chúa”. Người Pharisêu nói: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình…” (Lc 18, 11). “TÔI!” Còn người thu thuế chỉ nói: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18, 13). “CHÚA!”
Điều khác biệt giữa sự tiếp cận “CÁI TÔI” và sự tiếp cận “THIÊN CHÚA” trong bất cứ tương quan nào, dù ở trên trời hay dưới đất, là điều khác biệt giữa sự kiện sống cho chính mình hay cho kẻ khác, giữa sự vị kỷ hay vị tha, giữa sự ấu trĩ hay đã trưởng thành. Chính người thu thuế, chứ không phải người Pharisêu đã đi về nhà được công chính hoá trước mặt Thiên Chúa.
Có một câu chuyện nói về một cậu bé đi xem lễ sáng sớm Chúa nhật. Mẹ cậu cho cậu hai đồng tiền bằng bạc và nói: “Một đồng cho con, còn đồng kia con dâng cho Chúa”, tức là bỏ trong giỏ khi thu tiền trong nhà thờ. Cậu bé cầm chặt hai đồng tiền trong nắm tay, khi bắt đầu đi đến nhà thờ. Trong khi băng qua đường, cậu bé đó vấp ngã trượt chân và té. Tự nhiên theo bản năng, cậu bé mở tay ra để chống đỡ cho khỏi bị ngã và hai đồng tiền vuột khỏi tay cậu. Một đồng lăn tới nằm ở lề đường, còn đồng kia lăn xuống đường mương. Cậu nhặt đồng tiền ở lề đường lên và nhìn xuống đường mương.
Đột nhiên một cuộc chiến đấu dữ dội nổi lên bên trong con người của cậu. Sau một lúc do dự, cậu đút nhanh đồng tiền nhặt được vào túi, nhìn lên trời và nói: “Chúa ôi, con rất lấy làm buồn, đồng tiền của Chúa nằm dưới đường mương rồi!”
Không biết câu chuyện đó có xác thực không? Nhưng cũng có thể lắm. Tất cả đều tùy thuộc vào “cái tôi” và có thể trở thành điển hình cho toàn bộ việc tiếp cận của chúng ta với Thiên Chúa. “Tôi”, chỉ “tôi” thôi, luôn luôn là “tôi” và không ai khác. Một chân lý chứa đựng nhiều điều trong câu chuyện có tính cách bông đùa đó!
Người thu thuế “đã hiểu điều đó một cách đứng đắn”. Việc tiếp cận của ông với Thiên Chúa là lương thiện, khiêm tốn và được công chính hoá. Giờ đây sự tương quan giữa ông với Đấng Tạo Hoá được trực tiếp, thẳng tắp và một cuộc sống mới đã bắt đầu đối với ông.
20. Bông lúa cúi đầu
(Suy niệm của Lm. Ignatio Trần Ngà)
Một người cha dẫn đứa con nhỏ ra thăm đồng lúa đang độ chín vàng chờ ngày thu hoạch. Lần đầu tiên được tung tăng giữa cánh đồng bao la và được nhìn tận mắt những bông lúa mà bé chỉ được nghe kể bằng lời, cháu bé tỏ ra thích thú và lên tiếng hỏi ba:
– Bố ơi! Tại sao có những bông lúa cúi đầu xuống và cũng có những bông lúa khác vểnh đầu lên?
Người cha đáp:
– Những bông lúa cúi đầu là những bông lúa no đầy, chắc hạt, sẽ trở thành những hạt gạo ngon lành; còn những bông vểnh đầu lên là những bông lúa lép, chẳng có gì bên trong, chỉ còn là vỏ trấu.
Hình ảnh bông lúa cúi đầu đã in sâu vào tâm trí người dân Nhật từ rất xa xưa. Người Nhật xem bông lúa cúi đầu là biểu tượng cho những người khiêm tốn, chín chắn, có phẩm chất cao đẹp; còn bông lúa vểnh đầu lên là biểu tượng cho những người huênh hoang, rỗng tuếch.
Thế là từ đó, người Nhật rút ra một câu phương ngôn nhớ đời, in sâu vào tim óc các thế hệ về sau, đó là câu “Bông lúa chín là bông lúa cúi đầu.” hoặc: “Bông lúa cúi đầu là bông lúa chín.”
Qua phương ngôn này, những bậc tiền bối người Nhật muốn dạy con cháu: “Hãy khiêm tốn cúi đầu” trước mọi người, để chứng tỏ mình là người đức hạnh.
Thế là nền văn hóa cúi đầu ăn sâu vào máu thịt người Nhật cũng như người Hàn quốc. Khi gặp nhau, họ chào nhau bằng cách gập người cúi đầu cách khiêm tốn; ông chủ cúi đầu trước khách hàng vì xem khách hàng là ân nhân; nhân viên phục vụ trên sân ga cúi đầu chào khách khi đoàn tàu chuyển bánh; cô trực thang máy cúi đầu chào khi có người đi vào, đi ra cửa thang máy… Đâu đâu cũng đầy dẫy những người chào nhau bằng cách gập người cúi đầu cung kính. Bản sắc của người Nhật là như thế và đó cũng là yếu tố làm cho thế giới càng nể phục họ hơn.
Bài Tin mừng hôm nay cũng đề cập đến hai nhân vật, một người cúi đầu và một người huênh hoang ngẩng đầu cao.
Người biệt phái được Chúa Giê-su đề cập trong Tin mừng hôm nay thuộc dạng bông lúa vểnh đầu cao. Ông ta là người đầy tự phụ, huênh hoang, phô trương công đức của mình. Ông tự cho mình thánh thiện, đạo đức và tự đặt mình lên trên những người khác. Ông cầu nguyện với Chúa bằng những lời lẽ trịch thượng như sau: “Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác, không tham lam, không bất chính, không ngoại tình, không như tên thu thuế kia!”
Rồi ông phô trương thành tích đạo đức của mình: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.”
Còn người thu thuế thuộc dạng bông lúa cúi đầu. Ông ta vốn biết thân, biết phận thấp hèn, tội lỗi của mình nên chỉ đứng ở đằng xa, không dám ngước mặt lên, chỉ biết đấm ngực mà nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18, 9-14).
Thái độ khiêm tốn của người thu thuế làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên cho dù ông mang nhiều tội, ông cũng được Chúa Giê-su tuyên dương và chúc phúc; trái lại, thái độ tự phụ tự cao của người biệt phái bị Chúa Giê-su chê trách và lên án.
Tại sao vậy? Chúa Giê-su cho biết lý do: “Vì hễ ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,14).
Ngoài ra, vì khiêm tốn là đức tính cao đẹp và cần thiết nên Chúa Giê-su cũng đã nhiều lần mời gọi chúng ta: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29).
Ngoài ra, Mẹ Maria cũng răn dạy chúng ta phải coi chừng hậu quả của thói kiêu căng, qua câu nói: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.” và Mẹ khuyến khích chúng ta sống khiêm nhường, qua lời dạy: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Ngài nâng cao những kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 51-52).
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa dạy chúng con chớ dại dột nâng mình lên vì “hễ ai nâng mình lên sẽ phải bị hạ xuống” như người biệt phái trong câu chuyện trên đây, cũng đừng tranh dành chỗ quan trọng (như trong dụ ngôn bữa tiệc) kẻo có ngày chủ nhà sẽ mời xuống chỗ cuối (Luca 14, 7-11).
Xin cho chúng con biết cư xử khiêm nhường như Chúa để được Chúa rót đầy ân sủng và đổ đầy tình yêu thương.
21. Nâng mình lên sẽ bị hạ xuống
(Suy niệm của Lm. Ignatio Trần Ngà)
“Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống” là một giáo huấn rất quan trọng nên thường được Chúa Giêsu đề cập nhiều lần trong Tin Mừng bằng nhiều hình thức (Lc 18,14. Lc 14, 7-11. Mt 23,12)
Lần nầy, để minh hoạ cho bài học của mình, Chúa Giêsu nêu lên hai nhân vật.
Người biệt phái rất tự phụ, vênh vang phô trương công đức của mình. Ông tự cho mình thánh thiện, đạo đức và tự đặt mình lên trên những người khác: “Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác, không tham lam, không bất chính, không ngoại tình, không như tên thu thuế kia!”
Rồi ông phô trương thành tích đạo đức của mình: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”.
Quả là ông nầy có nhiều thành tích tốt lành ít ai bì kịp. Thế nhưng Thiên Chúa chê bỏ ông vì thái độ tự kiêu của ông. Ông ta như chiếc bình đầy tràn, đầy kiêu căng tự phụ, nên chẳng còn chỗ nào cho Chúa rót thêm.
Trong khi đó, người thu thuế vốn biết thân biết phận tội lỗi của mình nên chỉ đứng ở đằng xa, thậm chí không dám ngước mặt lên, chỉ biết đấm ngực mà nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Anh nầy đến với Chúa như một chiếc bình trống rỗng, nghĩa là với lòng thống hối khiêm cung và khao khát được Chúa tuôn đổ ơn tha thứ nên anh đã được Thiên Chúa thứ tha.
Với dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu ghi sâu bài học đáng nhớ nầy vào tâm khảm chúng ta: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”
* * *
Một hôm khi cùng với học trò vào thăm miếu của vua Hoàn Công, nước Lỗ, Đức Khổng Tử thấy có cái lọ đứng nghiêng. Ngài nói với môn sinh: Ta nghe nói vua Hoàn Công có một vật quý để răn dạy người đời. Đó là một chiếc lọ đặc biệt, khi để trống không thì nghiêng, khi đổ nước vào vừa phải thì đứng; nếu đổ đầy nước vào thì lọ đổ nhào. Không rõ vật ấy có phải là cái lọ nầy không?
Rồi ngài sai học trò đổ nước vào thử xem. Quả thật, mới đầu lọ đứng nghiêng, khi nước được rót vào được một nửa, thì chiếc lọ chuyển sang vị thế đứng thẳng; rồi cứ đổ tiếp cho đầy tới miệng thì lọ đổ nhào.
Người đông phương ngày xưa khôn khéo tạo nên chiếc lọ đặc biệt như thế để ghi khắc vào tâm khảm người đời bài học khiêm tốn, bài học trung dung, một cách rất ấn tượng.
Còn người phương tây cũng diễn tả nội dung đó qua một ngạn ngữ khá phổ thông: “virtus in medio – nhân đức nằm ở mực trung”. Người nhân đức là người biết sống trung dung, không bất cập mà cũng không thái quá.
Bởi vì bất cứ điều gì quá dư đầy phải sụp đổ.
“Mặt trời đứng bóng rồi phải xế,
Mặt trăng tròn đầy rồi sẽ khuyết,
Vật gì thịnh lắm rồi cũng phải suy”. (Thái Trạch)
“Cái gì dư đầy sẽ phải đổ “… (Khổng Tử)
Thế nên, Lão tử khuyên chúng ta:
“Thông minh duệ trí, thủ chi dĩ ngu,
Dũng lực chấn thế, thủ chi dĩ khiếp”.
Bậc thông minh duệ trí thì nên giữ mình bằng khiêm nhường, nhận rằng mình còn nhiều điều chưa biết; bậc anh hào có sức mạnh chấn động thế giới hãy biết bảo trọng thân mình bằng cách sống hạ mình như người nhát sợ thì mới được vững bền.
Còn Chúa Giêsu vẫn hằng nhắc nhở chúng ta: chớ dại mà nâng mình lên vì “hễ ai nâng mình lên sẽ phải bị hạ xuống” như trường hợp người biệt phái trong câu chuyện trên đây hay chớ dại dột chọn ngồi chỗ cao trong bữa tiệc, kẻo có ngày chủ nhà sẽ mời xuống chỗ cuối (như ở Tin Mừng Luca chương 14, 7-11).
22. Được nên công chính
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Hai người lên Đền thờ cầu nguyện, nghĩa là họ đến trước mặt Chúa. Người Pharisêu hiên ngang dõng dạc, lên tiếng cầu nguyện: “Lạy Chúa, tôi tạ ơn Chúa, vì tôi không (xấu xa) như những người khác…”
Đọc dụ ngôn này, tự nhiên chúng ta có cảm tưởng là người Pharisêu này đáng ghét, kiêu căng, tự mãn. Đúng thế, nhưng chúng ta đừng vội phê phán, cũng đừng quá nghiêm khắc. Phải công nhận rằng người Pharisêu này cũng đáng khen trên khía cạnh nào đó. Anh biết tạ ơn Chúa. Đó là một điều hợp lý và phải lẽ. “Tôi ăn chay mỗi tuần hai lần”. Như thế anh cũng tốt đấy chứ! Chúng ta dám ăn chay như anh không? “Tôi dâng một phần mười hoa lợi của tôi”…“Tôi không tham lam, không bất công, ngoại tình…” Tất cả những việc lành ấy thật tốt và rất đáng khen. Người Pharisêu giữ luật rất chính chắn và họ lấy làm vinh hạnh vì đã giữ luật một cách trọn hảo. Nhưng nhiều lần Chúa Giêsu đã kịch liệt phản đối người Pharisêu vì họ chỉ biết giữ Luật theo hình thức mà không biết yêu mến Chúa. Họ đã bỏ quên điều răn trọng nhất. Họ phô trương công đức trước mặt thế gian… mà quên rằng Chúa mới là Đấng phán xét chí công, sẽ ân thưởng mọi người theo công việc họ làm…
Thánh Âu–tinh nói: “Không có gì xấu xa cho bằng kiêu căng vì nhân đức.”
Người Pharisêu trong dụ ngôn thật sai lầm khi tự ban cho mình bằng cấp công chính. Nhưng nhìn về bản thân chúng ta, chúng ta có hơn người Pharisêu đó không? Có lẽ chúng ta đôi khi cũng cảm thấy hài lòng vì những việc đạo đức của chúng ta, và rất nhiều khi, chúng ta phê phán những anh chị em khác… Tinh thần Pharisêu chưa chết đâu! Nó vẫn sống và vẫn sống rất dai! Trong mỗi người chúng ta, nếu chúng ta thành thật với chính mình, chúng ta vẫn che giấu một anh Pharisêu nào đó… Chúng ta không nói ra như anh Pharisêu kia, nhưng âm thầm có lẽ chúng ta cũng bằng lòng với thực trạng đạo đức của mình… Chúng ta còn “men Pharisêu” trong xương tủy chúng ta.
Chúng ta hãy nhìn về nhân vật thứ hai của dụ ngôn: người thu thuế.
Anh lên Đền thờ cầu nguyện. Người thu thuế bị loại ra khỏi cộng đoàn, bị xem như những phần tử xấu xa nhất trong xã hội Do Thái, bóc lột và làm tôi mọi cho ngoại bang… Có lẽ anh còn một chút lòng đạo nào chăng? Anh còn nhớ đến Chúa mặc dù anh đang sống trong tình trạng bất hợp pháp.
Chúa Giêsu nói: “Anh đứng xa, không dám ngước mặt lên trời”, một thái độ e sợ, khiêm tốn, vì anh thấy mình không xứng đáng đến trước mặt Thiên Chúa. Người Do Thái vẫn có một tâm thức hết sức rõ ràng về sự cao cả của Thiên Chúa. Chúng ta nhớ thái độ của Mô-sê, của tiên tri Isaia… Anh ý thức tình trạng tội lỗi của mình và tỏ ra lòng khiêm nhượng của mình bằng một thái độ thành thật. Chúa Giêsu nói thêm: “Anh đấm ngực” tỏ lòng thống hối và cầu nguyện bằng một lời thôi: “Xin Chúa thương xót tôi là kẻ có tội”.
Nhìn nhận mình là kẻ có tội một cách thành thật là một thái độ mà không mấy người làm được. Chúng ta cũng nhìn nhận tình trạng tội lỗi của chúng ta, nhưng qua loa, hời hợt. Chúng ta cần tìm lại sự thật của lòng mình. Ý thức một cách chân thành tình trạng không mấy tốt đẹp của mình, Hãy lột hết tất cả những mặt nạ của chúng ta để ánh sáng của Chúa có thể chiếu tỏa chan hòa trên khuôn mặt tội lỗi của chúng ta và ban ơn tha thứ cho chúng ta. “Có thì nói có, không thì nói không”, Chúa Giêsu đã dạy như thế.
Sự lầm lẫn của người Pharisêu là tự cho mình phần thưởng, vì họ tưởng rằng họ có thể được ân thưởng vì những việc họ làm mà không nghĩ rằng chỉ có Thiên Chúa là Thẩm phán chí công mới ân thưởng cho mọi người tùy theo những việc họ làm với lương tâm trong sạch, với tâm tình khiêm tốn. Giá trị của chúng ta không phải là những gì chúng ta tự đánh giá. Chúa không nhìn dáng vẻ bề ngoài, nhưng là nhìn tận tâm can. Chúng ta nhớ lời Chúa nói với tiên tri Samuen khi chọn Đa-vít: “Đừng nhìn dáng vẻ bên ngoài. Ta nhìn tận tâm can”…
Chỉ một mình Chúa mới biết chúng ta như thế nào. Chúng ta không cần phải phô bày thành tích của chúng ta. Chúa dệt chúng ta từng sớ thịt trong dạ mẹ. Cha chúng ta trên trời đủ sáng suốt để biết chúng ta đã sống thế nào…
Vấn đề của chúng ta là hãy sống trước mặt Chúa như Chúa đã dạy Abraham: “Hãy đi trước mặt Ta và hãy sống trọn lành”.
Bài học Chúa Giêsu hôm nay rất thực tế và dễ hiểu, nhưng cũng rất khó thực hành vì vô tình hay hữu ý, chúng ta vẫn không bao giờ thành thật trọn vẹn với chính mình và luôn so sánh với người khác. Đó là một căn bệnh mà không bác sĩ nào có thể chữa lành. Chỉ có một vị lương y duy nhất có thể giúp chúng ta mà thôi, đó chính là Đấng đã dạy chúng ta: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng.”
Bước vào thánh lễ hôm nay, chủ tế đã mời gọi chúng ta nhìn nhận tội lỗi và xin Chúa thương xót thứ tha cho chúng ta. Với một tâm hồn khiêm tốn như thế, của lễ của chúng ta mới đáng Cha trên trời chấp nhận và chúng ta mới có thể nhìn về Chúa một cách tin tưởng. Chúng ta còn được mời gọi dự bàn tiệc của Chúa. Hãy nhìn Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể với tất cả niềm tin để thấy rằng Chúa chúng ta là một Thiên Chúa khiêm tốn tuyệt đối. Vì thương chúng ta, Ngài không từ chối nhận lấy thân phận một tấm bánh, hình thức nhỏ bé nhất, nhờ đó Ngài đến tận trong con người chúng ta và giúp chúng ta sống với Ngài, như Ngài. Nếu không có Chúa Giêsu sống trong chúng ta, cuộc đời chúng ta sẽ là gì? Hãy cầu xin Ngài ở lại mãi trong chúng ta và giúp chúng ta sống đẹp lòng Cha trên trời hơn là ganh đua với thế gian, sống khiêm tốn quên mình để cho Danh Cha cả sáng.
23. Quì gối xuống – Lm Vũ Minh Nghiễm
Cũng như Chúa nhật trước, Chúa nhật hôm nay Đức Kitô dạy chúng ta phải biết cầu nguyện như thế nào. Chúa Nhật trước, Ngài dạy chúng ta phải noi gương bà góa nghèo kia mà cầu nguyện cho kiên trì. Hôm nay Ngài dạy chúng ta phải noi gương người thu thuế mà cầu nguyện cho khiêm nhượng.
Chúng ta biết rằng người Do thái cầu nguyện một ngày ba lần: 9 giờ sáng, 12 giờ trưa, và 3 giờ chiều. Lời cầu nguyện được coi là hiệu nghiệm hơn hết là lời cầu nguyện dâng trong Đền thờ.
Hôm nay Chúa dạy dưới hình thức dụ ngôn. Có hai người Do thái cùng lên Đền thờ cầu nguyện. Một người là biệt phái (mà chúng ta quen gọi là Pharisiêu). Người kia là người thu thuế (chúng ta thường gọi là Publicanô). Nhóm Pharisiêu được gọi là biệt phái, vì họ tự đứng biệt lập ra thành một phái riêng. Họ là hạng người được coi là đáng kính, đạo đức. Trong dân chúng, họ là lớp người ưu tú. Họ giữ luật Chúa rất tỉ mỉ. Nhưng do chỗ giữ luật tỉ mỉ, và được kẻ khác coi là thánh thiện, mà có những người trong nhóm, họ sinh ra tự cao tự đại đối với những người chung quanh.
Trong dụ ngôn hôm nay, một người biệt phái như vậy lên đền thờ cầu nguyện cùng một trật với một người thu thuế. Hạng người sau nầy bị dân chúng coi như ngược lại với người biệt phái. Người biệt phái được coi là thánh thiện, thì người thu thuế bị coi là tội lỗi.
Hồi đó, dân Do thái bị người Rôma đô hộ. Chính phủ độ hộ không tự tổ chức thu thuế lấy, như chúng ta thấy ở Hoa kỳ chẳng hạn. Nhưng họ cho đấu thầu. Đã thầu thì ai thầu cao nhứt, sẽ được độc quyền thu thuế. Dĩ nhiên hạng người thu thuế nầy bị dân chúng gớm ghét và coi là hạng người tội lỗi. Tội lỗi phép công bằng. Tội bóc lột, làm giàu trên xương máu đồng bào. Tội làm tay sai cho chính quyền ngoại bang Rôma.
Vậy hôm nay có hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. Một là biệt phái, một là thu thuế.
Người biệt phái đứng thẳng người lên cầu nguyện rằng:
“Lạy Chúa con cám tạ Chúa, vì con không giống như những người khác, gian tham, bất công, ngoại tình. Không giống như tên thu thuế đứng kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng cúng vào đền thờ một phần mười tất cả các hoa lợi của con.”
Luật Do thái chỉ buộc ăn chay một năm một lần trong ngày lễ Đền tội. Nhưng có người đạo đức ăn chay trường, mỗi tuần hai lần, trong ngày thứ Hai và ngày thứ Năm. Chúng ta biết rằng hai ngày nầy là hai ngày chợ tại Yê-ru-sa-lem. Nhiều nơi, như tại các vùng quê bên Việt Nam ta, không có những nơi bán thức phẩm thường xuyên, không có các siêu thị sẵn sàng mỗi ngày. Dân chúng chỉ nhóm chợ một vài ngày trong tuần. Một vài ngày trong tuần, họ mang rau cỏ, trái trăng, thịt cá, lúa gạo… ra chợ bán. Và ngày đó mới ngày chợ.
Ở Yêrusalem, hai ngày mà người Do thái đạo đức quen ăn chay cũng là hai ngày chợ. Dân chúng lên nhóm chợ chung quanh đền thờ rất đông. Những người ăn chay lên đó, đi qua giữa đám đông, mặt mày xanh xao tiều tụy, áo quần lếch thếch. Ai cũng phải chú ý đến họ. Và trong số nầy, có ông biệt phái của dụ ngôn hôm nay.
Người Do thái phải dâng vào đền thờ một phần mười hoa lợi ruộng đất của mình. (Tl 14,22). Ông biệt phái hôm nay thì dâng vào đền thờ một phần mười về tất cả mọi thứ hoa lợi, dầu những thứ hoa lợi Luật không buộc đóng thuế.
Ông quả là tốt lành, đại lượng. Ông chỉ có cái tội nầy là tự phụ, khoe khoang và khinh người. Ông lên đền thờ nói là cầu nguyện, nhưng không phải cầu nguyện cùng Chúa, mà cầu nguyện với chính mình. Nói cách khác, không phải để chúc tụng ngợi khen Chúa, mà để chúc tung ngợi khen mình.
“Lạy Chúa, con không tham lam, bất công, ngoại tình. Con không như tên tội lỗi thu thuế kia đâu. Con ăn chay mỗi tuần những hai lần. Con dâng vào đền thờ một phần mười tất cả mọi thứ hoa lợi của con.”
Rõ ràng ông không van xin ơn gì cùng Chúa cả. Ông chỉ chúc tụng mình. Ông lên đền thờ là để dùng nhà Chúa làm diễn đàn, tự tuyên dương công trạng. Ông tự cho mình là người thánh thiện, tự trưng bày công nghiệp và nhân đức của mình, với mục đích là thóa mạ, phỉ báng, lên án người cùng lên đền thờ cầu nguyện với mình.
Ông biệt phái hôm nay giống hệt thầy Rabbi Simeon ben Jocai. Có lần thầy đã tuyên bố: “Nếu trên thế giới có hai người công chính, thì đó là tôi và con tôi. Nếu chỉ có một người công chính, thì người đó chính là tôi.”
Có người biệt phái nào dám khoe khoang trước bàn thờ Chúa như ông biệt phái hôm nay chăng? Dẫu sao Đức Giêsu đã muốn làm nỗi bật giáo huấn của Ngài để chúng ta khó quên dễ nhớ. Lời cầu nguyện chỉ dâng lên cho Chúa, không dâng lên cho ai khác. Lại càng không được dâng lên cho chính mình, như kiểu ông biệt phái hôm nay. Đó là tôn thờ mình. Kẻ tôn thờ mình thì phạm tội kiêu căng, trùm của Bảy mối tội. Đã phạm tội kiêu căng thì lời cầu nguyện ấy không thể đẹp lòng Chúa được.
Còn người thu thuế, nhân vật thứ hai trong bài dụ ngôn hôm nay, thì sao? Anh đứng cuối cửa đền thờ, cúi mặt xuống, đấm ngực, thưa lên cùng Chúa:
“Lạy Chúa, xin thương con là đứa tội lỗi.”
Anh tự biết mình là người tội lỗi, khốn nạn. Nhưng anh cũng biết Thiên Chúa là Đấng nhân lành, đầy tình thương xót. Và anh kêu cầu lòng thương xót Ngài thứ tha cho anh. Anh không dùng ngôn từ quyền thế của người cậy có công lênh, nhưng dùng lời lẽ khiêm nhu của người muốn cải thiện.
Và Đức Yêsu đã kết luận rằng:
“Khi về nhà, người thu thuế trở nên công chính. Còn người biệt phái thì trước sao sau vậy?”
Hơn nữa, ông mắc thêm tội. Tội tôn thờ chính mình. Tội kiêu căng, khinh miệt kẻ khác ngay trước mặt Thiên Chúa.
Bài dụ ngôn hôm nay dạy chúng ta những điều sau đây về sự cầu nguyện.
Trước hết, khi cầu nguyện, đối tượng tôi phải so sánh là chính Thiên Chúa, chứ không phải ai khác, hoặc chính mình tôi. Nếu thay vì nhìn vào chính mình, tôi nhìn vào Thiên Chúa là Đấng tốt lành cao cả vô cùng, tôi mới thấy mình thấp kém, hèn hạ, tội lỗi như thế nào.
Một đấng thánh vĩ đại như Thánh Phaolô mà đã tự nhận mình là kẻ thấp kém nhất (1 Cor 15,9), vì “yếu đuối” (2 Cor 12,9) đã bắt đạo và ngạo ngược(1Tm 1,13; Gl 1,13). Thánh Vincente Phaolô, một ngôi sao chói lọi trong công việc bái ái từ thiện, mà tự gọi mình là người “thấp hèn nhứt trên thế gian.”
Cầu nguyện không phải là dâng kiến nghị đòi hỏi, nhưng là cậy trông và phú thc vào Chúa Quang phòng, đại lưỡng vô song, khôn ngoan vô cùng.
Thứ đến, khi cầu nguyện, tôi không được tự cho mình là hơn kẻ khác. Tôi phải luôn luôn nhớ rằng tôi thuộc về đoàn lũ đông đảo những kẻ có tội, được Con Đức Chúa Trời đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc cho.
Người tự cao tự đại không thể cầu nguyện được. Cửa thiên đàng hẹp và thấp, chỉ quì xuống, đi bằng đầu gối, mới vào được.
Tại đền thờ thánh Phêrô ở Rôma, có một bức tượng Chúa chịu nạn do Thorvaldsen (1770-1844), nhà điêu khắc Đan mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng. Ông ta nhìn mãi, rồi lắc đầu nói:
– Tôi nghe đồn bức tượng nầy nổi tiếng là đẹp lắm. Nhưng tôi chẳng thấy gì là đẹp cả.
Một người quì sau lưng ông, nói:
– Ông phải quì gối xuống mới thấy đẹp.
Ông du khách quì gối xuống. Bây giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa chịu nạn.
Muốn đến gần Chúa, muốn được Chúa dủ tình thương xót, tôi cũng phải quì gối xuống mà van xin.
24. Con mắt – Lm. Vũ Đình Tường
Mắt là đèn soi cho chúng ta. Mắt giúp quan sát, nhìn sự việc. Có người ví von mắt là cửa sổ của tâm hồn. Rất nhiều trường hợp hai người cùng quan sát một sự việc, cùng dùng mắt kết quả nhìn khác nhau. Trường hợp hai người nghe cùng câu chuyện do một người kể, kết quả nhận định khác nhau. Tai, mắt hay ngũ quan không nắm vai trò chủ động trong mọi quyết định. Mắt thấy, tai nghe là bước mở đường cho bước kế tiếp đưa đến phán đoán. Khi phán đoán tai mắt đóng góp bao nhiêu phần trăm?
NHÌN KHÁC NHAU
Điều chắc chắn hầu như mọi biến cố quan trọng trong đời mỗi người nhìn một cách khác nhau, nhận định sự việc khác nhau mặc dù họ nhìn chung một sự kiện, nghe cùng một câu chuyện, do một người kể nhưng phán đoán mỗi người mỗi khác. Mắt giúp quan sát, nhìn đi nhìn lại cũng chỉ rõ bên ngoài, không thấu suốt nội tình, bên trong. Phán đoán dựa vào quan sát bên ngoài để đoán những gì bên trong đưa đến kết quả có thể là đúng cũng có thể sai. Bởi vì đoán nên không thể quả quyết. Khi quả quyết thì không còn đoán. Nếu đoán thì không thể xác quyết vì có thể còn những chuẩn đoán chính xác hơn, hợp lí hơn.
XÉT MÌNH
Phúc âm đưa ra trường hợp hai người cầu nguyện trong đền thờ. Một được Chúa nhận lời; một không. Cả hai cùng xét mình, nhìn lại cách ăn, nết ở trong thời gian qua. Trong thánh điện kết quả xét mình của hai người đối nghịch nhau.
Một đứng thẳng, ưỡn ngực cầu nguyện; một cúi mặt, đấm ngực ăn năn.
Một đứng gần gian cung thánh; một xa tít cuối đền thờ.
Một tự hào ăn ngay, ở lành; một hối hận vì tội đã phạm.
Một vỗ ngực tự xưng công chính giữ trọn luật; một đấm ngực ăn năn xin Chúa xót thương.
Cả hai đều nhìn vào chính mình, nhận xét về chính mình, cầu nguyện trong đền thờ. Người tự nhận là tội nhân được tôn vinh; người tự tôn vinh bị hạ xuống.
HAI NGỘ NHẬN
Tự nhận mình công chính là một ngộ nhận lớn, bắt nguồn từ kiêu hãnh, tự phụ. Thực thi đức ái và giữ trọn luật là nhiệm vụ chung mọi thành phần trong xã hội, không trừ ai. Làm xong, làm tốt nhiệm vụ được coi là công dân tốt. Trong Giáo Hội họ là người đầy tớ khôn ngoan và trung thành. Hoàn thành nhiệm vụ không biến ta thành công chính. Ta trở nên công chính nhờ Đức Kitô. Nói theo ngôn ngữ Phúc âm hôm nay ta được công chính hoá nhờ lòng thương xót Chúa.
‘Lậy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi’.
Nhờ thành tâm thống hối, đấm ngực ăn năn sấp mình trước Thánh Nhan xin chúa thương xót để trở nên công chính. Như thế công chính hoá không phải do tài năng con người tự kiếm mà là đặc ân Chúa ban do khiêm nhường, thống hối, thành tâm và tạ ơn.
Khiêm nhường là con đường mở thêm lối đi dẫn ta đến cùng Chúa, đưa ta tới tha nhân. Kêu ngạo là con đường một chiều, không ngã rẽ. Đường dài mấy cũng có cuối đường. Như thế kêu ngạo là con đường cụt, đường dẫn đến sự chết. Người đi đường cụt bị tắc nghẽn nơi cuối đường. Không lối thoát.
Ngộ nhận thứ hai của ngưòi tự nhận công chính là soi mói, buôn điều. Không biết đang đi trên đường cụt. Đến khi nhận ra đã cuối ngày. Kêu ngạo, tự phụ che mất đường công chính. Tôn mình lên cao đến nỗi chỉ nhìn thấy người, còn mình thì không. Dùng quá nhiều thời gian kháo chuyện thiên hạ. Hãy nghe anh ta nói: ‘con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia’.
Trong lời cầu anh nhắc đến tạ ơn. Tạ ơn chân thành luôn đi với khiêm tốn. Thiếu lòng thành việc tạ ơn chỉ là môi mép. Người tự phụ không cần Chúa vì tin vào khả năng mình.
Nhắc đến việc tốt lành: ăn chay mỗi tuần hai lần và công đức mười phần trăm mức thu nhập.
Không thấy anh nhắc đến việc thương người nghèo, cho kẻ đói ăn, khát uống. Không nhắc đến thăm người đau yếu bệnh tật. Những người này không có trong đời của anh có lẽ vì ‘con không như bao kẻ khác’
PHÚC HỌA
Ngộ nhận xảy ra cho mọi thời đại. Thiếu cẩn trọng phúc biến ra hoạ, rơi vào ngộ nhận.
Thay vì đi xét mình, xét tội mình thì kháo tội người, buôn điều, chỉ trích, phê bình người khác. Tưởng như thế là giúp người, làm đẹp lòng Chúa. Lỗi lầm dễ mắc phải, xét tội người khác, cáo lỗi người khác tưởng làm như thế là làm phúc, giúp người trở về đường ngay nẻo chính.
Chê người là tự phong cho mình hay hơn.
Nói xấu người là tự cho mình tốt hơn.
Chỉ trích người là tự nhận mình đúng, người sai.
Làm thế là tự hại chính mình, đang chích cho mình liều thuốc Pharisiêu.
25. Một kiểu nhận thức tai hại
(Suy niệm của JB. Lê Ngọc Dũng)
Chúa Giêsu kể dụ ngôn hai người lên Đền Thờ cầu nguyện, một người biệt phái và một người thu thuế, có ý cho thấy cái tai hại của những người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê những người khác.
Dụ ngôn khiến chúng ta phải nhìn lại chính mình và thấy rằng nhiều khi chúng ta cũng có thái độ giống như người biệt phái mà chính chúng ta cũng không ngờ, không hề hay biết.
Chẳng hạn chúng ta có thể có ý tưởng và cầu nguyện như những mẫu sau:
Nhìn về một người sống lang thang, lười biếng, một người cầu nguyện: Lạy Chúa, con cảm ơn Chúa, là vì con đã có được một việc làm tốt, con đã biết sống tiết kiệm. Con biết quý trọng những đồng bạc do mồ hôi nước mắt làm ra. Con không giống như những người không lo làm ăn, cứ lang thang, la cà hết chỗ này đến chỗ nọ, ăn xài phung phí.
Nhìn về một người rượu chè say sưa, đánh đập vợ con, một người khác cầu nguyện: Lạy Chúa, con có uống rượu, nhưng uống chừng mực, con biết lúc nào nên dừng lại. Con không như cái thằng cha kia. Hôm nào cũng say xỉn, ăn nói lè nhè, thật đáng xấu hổ, lại còn đánh đâp vợ con nữa chứ!
Nhìn về một người đạo đức cầu nguyện trong nhà thờ, một người dự lễ, nhưng đứng bên ngoài nhà thờ cầu nguyện và thấy mình khiêm tốn hơn. Ông cầu nguyện: Lạy Chúa, con không sốt sắng đạo đức mấy, con ngồi ở ngoài là để cho người ta thấy lòng khô đạo của con. Con không muốn người ta thấy con có vẻ đạo đức. Họ cho mình là xứng đáng để thờ phượng Chúa, nhưng ngoài nhà thờ họ lại sống như không có đức tin. Như cái bà kia sáng đi lễ chiều đi nhà thờ mà về nhà thì chưởi rủa um sùm, chưởi con cái, chưởi hàng xóm; chưởi không ai bằng!
Tất cả những người kể trên đều thành thật với chính mình. Họ không nói dối. Họ đã nói những gì họ làm. Người biệt phái trong dụ ngôn Chúa Giêsu cũng vậy. Ông ta rất thành thật, đã giữ luật Chúa rất kỹ lưỡng. Còn hơn thế nữa, ông muốn làm nhiều hơn luật dạy để đẹp lòng Chúa. Luật chỉ dạy ăn chay một năm một lần, nhưng ông ta ăn chay hai lần một năm. Quả là một tâm hồn nhiệt thành. Và nữa, thuế thập phân chỉ áp dụng cho một số sản phẩm. Còn ông ông áp dụng cho tất cả lợi tức của ông.
Vậy thì ông đã sai lầm, hay ngay chính chúng ta cũng đã sai lầm, đã xấu. Hãy xét thêm là sự sai lầm hay xấu xa đó là ở chỗ nào?
Thứ nhất, đó là thái độ của ông đối với Chúa. Ông muốn kể công với Chúa. Dường như ông ta muốn Thiên Chúa phải nhìn đến những điều xấu mà ông đã tránh được và nhìn vào những việc tốt lành mà ông đã làm được. Thiên Chúa như đang mắc nợ ông, phải thưởng công cho ông.
Thứ hai, thái độ của ông đối với người thu thuế. Ông đã nhìn xuống và đã có thái độ khinh dễ kẻ khác. Ông ta nghĩ rằng ông ta tốt, khi đem so sánh với cái xấu của người thu thuế.
Người biệt phái trong câu chuyện được Chúa Giêsu dùng như một cảnh giác cho chúng ta, những người được coi là đạo đức, lương thiện. Vì lẽ, ít ra chúng ta nhận thấy mình: tin có Chúa, dự lễ ngày Chúa Nhật, đi xưng tội rước lễ thường xuyên; mình tuy có lỗi phạm đó, nhưng mà nhè nhẹ thôi, vì mình đâu có gian dâm, đâu có dối gạt ai, đâu có giết người cướp của… Rồi nhìn ra chung quanh, ra xã hội, ra thế giới, chúng ta thấy quá nhiều, dối trá, lừa gạt, quá nhiều tội ác, tham nhũng hối lộ, trộm cắp … trong khi đó, chúng ta sống chân thật, không tham lam gì cả, còn làm việc từ thiện phước đức nữa chứ!
Chúng ta có thể không nói to, nói lớn ra hay cầu nguyện nho nhỏ rằng: “Con cảm ơn Chúa vì con không như họ…” nhưng mà trong thâm tâm, trong chính tư tưởng, chúng ta làm vẫn thường có cái tự hào, vì sự tin Chúa, vì sự giữ đạo tốt, vì những việc đạo đức, việc tốt chúng ta đã làm.
Chúng ta nghĩ rằng mình có công lao, có đạo đức, hay ít ra là người đàng hoàng, ngay chính, không làm điều gì thất đức.
Còn người thu thuế nói: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc, 18,13).
Anh ta nói lên một sự thật. Sự thật thứ nhất là anh tuyên xưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và anh tín thác vào Ngài. Sự thật thứ hai là anh tội lỗi. Anh không dám sánh mình với kẻ khác. Anh chỉ nhìn xuống, không dám ngẩng đầu lên.
Anh chân thành cầu khẩn Chúa. Trọng tâm của anh là không hướng về mình nhưng hướng về Chúa. Anh không tin tưởng vào sự tốt lành của mình nhưng tin tưởng vào sự tốt lành của Thiên Chúa.
Và Chúa Giêsu đã nói: “Người này, khi trở xuống và về nhà thì được công chính rồi, còn người kia thì không.” (Lc, 18,14).
Dụ ngôn của Chúa Giêsu về hai người lên đền thờ cầu nguyện cho chúng ta thấy có mối nguy hiểm phát sinh từ lối sống tự nhận mình là đạo đức và có ý phê bình người khác. Nó dễ làm cho mình kiêu ngạo, xa rời Thiên Chúa và anh em.
Cái gian tham, dối trá, cái xấu xa tội lỗi của xã hội của những người khác, ta dễ nhận ra, để rồi phê bình chỉ trích. Ngay trong họ hàng, gia đình, chúng ta cũng dễ thấy, dễ nhận ra cái tham lam, cộc cằn thô lỗ, cái ích kỷ, bất lịch sự, cái khô đạo… của người vợ người chồng, của người bà con chú bác, của ông bà xui gia. Chúng ta không thấy cái tốt, mà chỉ thấy cái xấu, cái sai của họ và thấy mình là tốt, là đúng!
Rõ ràng là cái kiểu nhận thức đó khiến gây xung đột trong gia đình, trong xã hội. Nếu mỗi người khiêm tốn hơn, chắc sẽ không có xung đột, không có làm khổ cho nhau, không có chiến tranh. Xin Chúa giúp con người chúng ta có lòng khiêm tốn thật sự, nhìn nhận cái yếu kém của mình để luôn tin cậy vào tình thương của Thiên Chúa.
26. Hai hạng người cầu nguyện – Veritas
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe có thể không cần một câu chuyện hướng dẫn nào khác, nhưng tự nó gợi ý để chúng ta suy nghĩ về điều mà chúng ta có thể gọi là sự thành thật của người Kitô. Thành thật với chính mình, thành thật với kẻ khác và thành thật với Thiên Chúa.
Con người thành thật là con người nhìn nhận thực thể của mình và cảm nhận thực thể đó một cách trung thực. Thành thật trước tiên không có nghĩa là nói thẳng ra điều mình nghĩ hay điều mình cảm nhận. Nói thẳng điều mình nghĩ, điều mình cảm nhận được không đủ để sống thành đạt. Trước hết, yếu tố quan trọng phải là chân thành nhìn nhận thực thể mình, nhìn nhận chính điều mình nghĩ về mình, và khi ta nhận thực thể mình và ý thức những giới hạn của nó, ta sẽ không còn hứng thú để xét đoán kẻ khác.
Người thành thật ý tứ để đừng lừa gạt chính mình và cũng không lừa gạt kẻ khác. Người thành thật không thích người giả hình, không thích mánh mung, nói láo. Đây không phải là điều dễ, cần phải kiên trì quan sát mình, phải xét mình hằng ngày dựa theo lời Chúa và trong sự khiêm tốn vâng phục ơn soi sáng nội tâm của Chúa. Lời cầu nguyện của chúng ta cần dâng lên Chúa hằng ngày phải là: “Lạy Chúa, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Lạy Chúa xin thương xót con vì con là kẻ có tội.
Bài dụ ngôn hôm nay nêu bật lời cầu nguyện khiêm nhường của người thu thuế, anh không nhìn sang người khác, không dám so sánh mình với kẻ khác, nhưng nhìn vào mình và so sánh mình với mẫu gương của Chúa, qua đó anh đã khám phá ra những khuyết điểm của mình rồi khiêm tốn chấp nhận.
Chúng ta cũng vậy, mỗi lần chúng ta đặt mình trước nhan Chúa, khi cầu nguyện chúng ta hãy ý thức rằng, Thiên Chúa đã biết rõ cả rồi, đã biết trọn cả con người của chúng ta là như thế nào rồi, nên không cần che giấu tránh né. Nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng nhân từ và hay thương xót, nên chúng ta không quá lo sợ hay tuyệt vọng vì những bất toàn ấy mà hãy vươn lên cùng Chúa, xin Chúa chữa lành: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi”.
Trong lời cầu nguyện của người thu thuế, chúng ta còn có thể khám phá ra một yếu tố quan trọng khác nữa, khi cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi, là kẻ đã xúc phạm đến Chúa”. Người thu thuế kia tha thiết muốn kêu lên cùng Chúa, muốn hưởng nhờ lòng nhân từ của Ngài để tiến mãi trên con đường thiêng liêng, sống mối tương quan với Chúa mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Người Pharisêu không có được thái độ này, ông tự mãn với chính mình và ông nghĩ là do công trạng của mình tạo lập ra, như vậy lời cầu nguyện của ông thật ra không phải là lời cầu nguyện mà chỉ là những lời khoe khoang đi kèm với thái độ khinh dể kẻ khác.
Ước chi trong cuộc sống đức tin của mỗi người chúng ta, chúng ta đừng nhìn sang kẻ khác mà so sánh. Bởi vì chúng ta sẽ bị cám dỗ so sánh mình với những bất toàn của anh chị em và nâng mình lên khinh dể kẻ khác. Chúng ta hãy so sánh mình với chính mẫu gương trọn lành của Chúa để nhận biết chúng ta còn nhiều điều phải canh tân để tiến lên mãi: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi”.
Ước chi lời cầu nguyện này trở thành lời cầu nguyện của mỗi người chúng ta không những hôm nay mà trong mọi ngày của đời sống chúng ta, để chúng ta nhận lãnh ơn thương xót của Chúa và tiến lên mãi trong tình thương của Ngài. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
27. Hai hạng người cầu nguyện
Dụ ngôn về “Hai hạng người cầu nguyện” của bài Tin Mừng hôm nay phê phán những người biệt phái tự hào mình là người công chính và khinh chê người khác. Người đó đứng riêng biệt một mình để cầu nguyện trong đền thờ, cử chỉ này nói lên phần nào thái độ tự hào và khinh dể người khác. Đứng riêng ra để khẳng định mình là mình, mình có đủ bản lãnh. Cung cách này được xác nhận thêm qua lời cầu nguyện của ông: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác…”. Coi mình không giống như kẻ khác là một vinh dự, một ơn phúc, một mục tiêu để phấn đấu, để dành cho được. Vì thế, khi được như vậy người ta không thể không sung sướng và tạ ơn, qua đó chứng minh sự khác biệt của mình với đại chúng.
Để chứng minh, người biệt phái kể ra một số khác biệt của mình với đại chúng, nhất là không giống như người thu thuế vốn nổi bật vì các nết xấu, hay cụ thể hơn nữa là ăn chay một tuần hai lần và dâng cúng cho đền thờ 1/10 hoa lợi.
Tóm lại, sống công chính là thi hành các giới răn của Chúa trong mười điều răn như không tham lam, không ngoại tình và tuân giữ các luật lệ của Môisê như ăn chay, dâng cúng vào đền thờ mà không cần biết tâm tình bên trong cần có. Giữ được như vậy, họ cho mình là người công chính mà khinh chê kẻ khác. Vơ đũa cả nắm, họ liệt kê tất cả mọi người vào hạng tội lỗi. Như thế có thể nói đứng riêng một mình là tư thế phản ảnh đích xác sự thánh thiện của người Pharisêu, nó cũng phản ánh quan niệm cũ về sự thánh thiện.
Nhưng trớ trêu thay, số người cho mình là công chính lại không được Chúa nhận cho là người công chính. Như vậy, vấn đề không phải là làm thế nào để được nên công chính cho bằng là phải hiểu thế nào là được nên công chính. Vì làm như thế cốt để cho ai cũng tưởng họ là nên công chính nhưng rốt cuộc là không phải công chính. Và ngược lại, kẻ mà ai cũng tưởng là không công chính thì họ lại được kể là công chính, được cứu độ. Được ơn công chính là ơn nhưng không của Thiên Chúa, như Ngài đã quyết định cho người thu thuế trong dụ ngôn được kể trên là người công chính.
Thiên Chúa không căn cứ trên thành tích nào của ta, và ơn cứu độ chẳng những không làm xa cách loài người mà là đưa ta đến chỗ kết hiệp mật thiết với Chúa hơn. Những việc ta làm không phải là nguyên nhân khiến ta được cứu độ, được nên công chính, nhưng là chính Thiên Chúa ban cho ta.
28. Người Pharisiêu với người thu thuế
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Người ta đếm được 50 dụ ngôn trong các sách Tin Mừng. Còn nhiều dụ ngôn Chúa nói không được các tác giả ghi lại. Riêng Luca có sở thích về dụ ngôn, đã ghi trên dưới 40 dụ ngôn, 15 là của riêng ngài. Dụ ngôn người Pharisiêu và người thu thuế chỉ có nơi Luca.
Bắt đầu câu chuyện, Luca cho thấy: Đức Giêsu gửi nó cho những người tự hào là công chính. Công chính theo Kinh Thánh không chỉ có nghĩa như hiện nay là trả cho mỗi người cái gì là của người đó, song còn là người có lòng kính sợ Chúa, không làm điều gì mất lòng Ngài, đồng thời thương yêu người thân cận, không làm hại người khác. Abraham, Giuse, Giacaria, Isave, Đức Maria… được gọi là người công chính, mỗi người tín hữu đòi phải trở nên công chính.
Tuy nhiên, con người không bao giờ là người công chính, song là người được công chính hóa, nói cách khác, con người không phải là người “có giᔑ mà là người “được thi ân”. Vì, “bởi tội không vâng lời của một người, mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người, mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế” (Rm 5,19).
Người Pharisiêu
Thế nhưng, một số người tự hào cho mình là công chính, khinh chê người khác, đó là những người Pharisiêu. Chúng ta đừng vội ác cảm với họ. Thời đó, người Pharisiêu được dân chúng kính trọng, không ai giữ luật Maisen hơn họ, điều đó đã được người Pharisêu tỏ bày khi cầu nguyện. Luật chỉ buộc giữ chay một ngày trong năm vào dịp lễ Yom Kippour, lễ đền tội, người Pharisiêu đã tự nguyện thực hành việc sám hối bằng việc ăn chay hai lần trong tuần. Luật buộc nông dân có nghĩa vụ trích một phần mười hoa mầu, để chăm lo người nghèo và việc tế tự trong đền thờ, người Pharisiêu đã tự ý nộp thuế thập phân cả những thực phẩm nhỏ nhất. Bởi vậy khi lên đền thờ cầu nguyện, người Pharisiêu có lý để tạ ơn Chúa về những việc lành đã làm.
Lời cầu nguyện của người Pharisiêu xem ra tuyệt vời, nó tinh tuyền, không có chút gì vị kỷ. Ông không xin điều gì, ông chỉ cảm tạ Thiên Chúa, đó là lời kinh tạ ơn. Thánh lễ của chúng ta cũng là một lời kinh tạ ơn. Thế nhưng người Pharisiêu có điểm không hay đó là tính kiêu ngạo tự mãn.
Trước hết, Luca lưu ý thái độ đứng sững của ông. Tư thế đứng không có gì đáng trách, người thu thuế cũng đứng cầu nguyện. Nhưng có nhiều cách đứng, cách đứng của người Pharisiêu nói lên niềm tự tin, phấn khởi, không có sự kính sợ Thiên Chúa.
Ông đến, để kể công chứ không cầu nguyện, ông phô trương sự công chính trước mặt Chúa như đã quen khua chiêng đánh trống khi bố thí. Ông không để ý đến Chúa, mà chỉ quan tâm đến mình, đến công trạng của mình. Ông cầu nguỵên nơi mình chứ không cầu nguyện với Chúa. Ông không cần Chúa ban thêm hay làm gì cho ông cả. Ông đủ rồi.
Chẳng những thế, ông còn khinh chê người khác. Đức Giêsu không đồng ý với một tấm lòng khinh miệt. Tấm lòng của Người hoàn toàn dịu dàng và nhân hậu. Thiên Chúa không khinh thị một ai. Một người càng khiếm khuyết, hư hỏng, bệnh hoạn, dị dạng… Thiên Chúa càng yêu người ấy. Một người càng bị khinh bỉ, càng được yêu thương bằng một tình yêu không cần đáp lại.
Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là Thiên Chúa của những người nghèo khổ, bị bỏ rơi, bị kết án, bị gạt ra ngoài lề, không được yêu thương. Con chiên đi lạc trong bụi gai bỗng nhiên hoàn toàn chiếm chỗ trong lòng người mục tử. Khinh chê! Làm thế nào người mục tử có thể khinh chê dù chỉ một con chiên. Một kinh nghiệm, ai cũng thấy: Một đứa trẻ có tật, không những không bị khinh chê mà còn chiếm trong lòng cha mẹ một vị trí quan trọng hơn cả những đứa con khỏe mạnh.
Ôi thật nghịch lý, tình yêu thuần khiết nhất, vô tư nhất, hướng về con người đang cần nó nhất, và xét trong một giới hạn không thể đáp trả tình yêu! Thiên Chúa lúc nào cũng như thế. Tình yêu không tính toán và không đòi đáp trả. Tình yêu tuyệt đối.
Thế nhưng người Pharisêu lại khinh chê người khác. Ông tưởng, ông công chính, không có tội, nhưng ông lại có tội rất nặng, tội tự kiêu tự đại. Tội của ông không phải là việc làm tồi tệ. Ông có vấn đề về thái độ, nhưng người dân châu Mỹ thường nói.
Trước hết là thái độ với Chúa, ông tự mãn, tự cho rằng mình đã tích trữ được một tín phiếu khổng lồ, ông coi Chúa như người mắc nợ. Sau là thái độ của với người khác, cho rằng ông là người công chính, còn những người khác đều tội lỗi.
Người thu thuế
Phần người thu thuế, ông đứng lẻn đàng xa, không dám ngước mắt lên, nhưng đấm ngực mà rằng: “Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ tội lỗi”. Phải, ông là người tội lỗi thực sự, ai cũng biết. Với cái nghề, một nghề không mấy tốt đẹp, bị đồng hương, đồng đạo khinh bỉ cho là giáo gian. Chẳng những cộng tác làm việc cho người Lamã, ông còn ăn cướp bóc lột dân. Ông không có quyền là công dân, mọi người tốt lành tránh xa.
Đau khổ hơn nữa, ông thấy mình quá xa Thiên Chúa, hoàn cảnh của ông cũng như gia đình thật vô vọng. Bởi vì để ăn năn hối cải, không phải chỉ từ bỏ đời sống tội lỗi tức nghề nghiệp, còn phải hoàn trả và bồi thường thêm một phần năm những số tiền, đã tham nhũng. Làm sao biết được ông đã biển thủ của ai?
Ông cảm thấy mình bị tội lỗi đè bẹp, ông nói với Thiên Chúa điều đó, ông không có công gì để kể, ông đầy tội lỗi, xứng với sự phán xét của người Pharisiêu. Ông không cậy dựa vào sức riêng mình, tín thác nơi Chúa, khấn xin Thiên Chúa thương xót, lời khấn xin của ông đã được chấp nhận. Đức Giêsu bảo: “Ta bảo các ngươi, người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Thiên Chúa đã tha thứ cho người này mà không tha thứ cho người kia”.
Lời phán quyết của Đức Giêsu đã giáng trên cử tọa lúc bấy giờ như một tiếng sét, chắc chắn không ai trong họ ngờ được điều đó. Đức Giêsu không cho một lời giải thích nào. Ngài chỉ nói cách đơn giản, đó là cách Thiên Chúa xét xử. Nhưng một cách gián tiếp, Ngài cho thấy lý do tại sao Thiên Chúa xem ra bất công, Thánh Vịnh 51,18-19 viết: “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận. Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát; một tấm lòng tan nát dày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê”.
Vâng, Thiên Chúa là thế đó, Ngài nhận lời người tội lỗi thất vọng và từ chối người chỉ để ý đến sự công chính của riêng mình. Ngài là Thiên Chúa của những người thất vọng, lòng thương xót của Ngài vô biên, Ngài muốn tha thứ. Aharon đúc tượng bò vàng, hối lỗi ăn năn; Đavít giết chồng cướp vợ, đã hết lòng sám hối; Dân thành Ninivê đã nghe lời tiên tri Giona, ăn chay, mặc áo nhặm, bỏ tro trên đầu đền tội… tất cả đã được Chúa tha thứ. Người Pharisiêu tự cho mình là công chính, như cốc nước đầy không cần đổ đầy nữa, không được tha thứ.
Và để kết luận, Đức Giêsu nói: “Vì phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.
29. Ai là người công chính? – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Ngày kia, Khổng Tử dẫn học trò từ nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám học trò có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai môn sinh được Khổng Tử sủng ái nhất. Thời Đông Chu, loạn lạc khắp nơi khiến dân chúng lâm cảnh lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói cầm hơi.
Ngày đầu tiên khi đến đất Tề, Khổng Tử và các môn sinh được một người giàu có biếu cho một ít gạo. Khổng Tử liền phân công: Tử Lộ và một số môn sinh khác vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm nhận việc nấu cơm.
Đang khi nằm đọc sách ở nhà trên, Khổng Tử bỗng nghe tiếng động ở nhà bếp, nhìn xuống, người bắt gặp Nhan Hồi đang mở vung xới cơm cho vào tay nắm lại từng nắm nhỏ rồi từ từ đưa vào miệng. Thấy cảnh học trò đang ăn vụng, Khổng Tử nhìn lên trời than thở: “Người học trò tin cẩn nhất của ta lại là kẻ ăn vụng?” Khi Tử Lộ và các môn sinh khác trở về thì nồi cơm cũng vừa chín. Khổng Tử cho tập họp tất cả lại và nói:
– Bữa cơm đầu tiên này trên đất Tề làm cho thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương. Thầy nhớ đến cha mẹ, cho nên muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ, các con nghĩ có nên không? Nhưng liệu nồi cơm này có sạch chăng?
Nhan Hồi liền chắp tay thưa:
– Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch. Khi cơm vừa chín, con mở vung ra xem thử, chẳng may một cơn gió tràn vào, bò hóng bụi trần rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm, con đã nhanh tay đậy nồi cơm lại nhưng không kịp. Sau đó, con định xới lớp cơm bẩn vất đi, nhưng nghĩ rằng cơm ít mà anh em lại đông, nên con đã ăn phần cơm ấy. Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi.
Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngẩng mặt lên trời mà than rằng:
– Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Suýt nữa Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ!
Cho dù là bậc hiền triết như đức Khổng Tử thế mà suýt nữa đã trở thành kẻ hồ đồ, suýt nữa đã phê phán người học trò rất mực chân thật và khiêm tốn, sẵn sàng chịu thiệt về phần mình để được lợi cho anh em. Đó cũng là cám dỗ rất thường gặp nơi những người được xem là đạo đức thánh thiện, những người đã đắc thủ được một số nhân đức nào đó, đã làm được nhiều việc lớn lao, đã leo lên được chức vụ cao trong xã hội, đã đạt được một số thành tích trong đạo ngoài đời. Họ dễ tự mãn và khinh rẻ người khác lắm, nếu chẳng công khai thì cũng ngấm ngầm, lúc thì giấu được khi thì lộ ra. Chuyện ấy thường tình lắm nên Chúa Giêsu mới nhắc nhở chúng ta qua dụ ngôn: “Người Pharisêu công chính và người thu thuế tội lỗi”.
Người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện nhưng thực ra là để khoe khoang thành tích. Ông thưa chuyện với Chúa nhưng thực ra ông đang độc thoại một mình. Ông “tạ ơn Chúa” nhưng thực ra là ông muốn Chúa hãy biết ơn ông.
Quả thật, bảng liệt kê công trạng của ông không có gì sai. Những điều luật cấm ông không dám làm, những điều luật buộc thì ông còn làm hơn mức qui định. Ông thật là con người đúng mực, một con người hoàn hảo, không có gì để chê trách, một tín đồ trung thành với lề luật, một mẫu gương tuyệt vời. Chỉ tiếc có một điều là ông quá tự mãn tự kiêu nên bao việc lành phúc đức của ông theo “cái tôi” bọt bèo của mình mà trôi ra sông ra biển hết. Cái tôi của ông quá to, đến nỗi ông chỉ nhìn thấy mình mà không thấy Chúa; công trạng của ông quá nhiều đến nỗi ông chỉ nhìn thấy nó là đức độ của ông chứ không phải là do ơn Chúa; cái tự mãn của ông quá lớn, cho nên ông thẳng thừng khinh miệt anh em.
Sai lầm trầm trọng của ông Pharisêu bắt đầu từ câu này: ‘Vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia”. Giá như ông đừng so sánh cuộc sống của ông với người khác, mà biết đem cuộc sống của mình đối chiếu với cuộc sống thánh thiện của Đức Kitô, thì ông sẽ nhận ra mình còn thiếu sót biết là bao nhiêu, mình còn bất toàn biết là dường nào. Chính khi đó, ông mới cần đến lòng nhân từ xót thương của Chúa, cần đến sự tha thứ và khoan dung của Người. Chính lúc đó, ông mới biết cầu nguyện bằng những lời lẽ chân thành và khiêm tốn của người thu thuế: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Sai lầm căn bản của người Pharisêu còn ở chỗ ông đã không nhận ra sự công chính là một ân huệ Chúa ban chứ không phải tự ông mà có, tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật được. Chính khi tự mãn thiếu khiêm tốn, và nhận sự công chính ấy là của riêng mình thì ngay lúc đó ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
Người thu thuế nhận mình lầm lỗi, ông biết rõ tội mình vô phương cứu chữa, chẳng dám ngước mắt nhìn lên, chỉ biết đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót Chúa. Ông bất lực hoàn toàn, chỉ phó thác cho lòng Chúa khoan dung. Ngay lúc đó, ông đã trở nên công chính bên trong. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho ông nên công chính.
Như thế, những kẻ cho mình là thánh thiện, là đầy đủ, thì sẽ trở về con số không; còn những kẻ nhận mình là không thì sẽ đủ chỗ cho Đấng Vô Cùng. Vì phàm “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Lạy Chúa, chúng con có là gì mà chẳng do lòng Chúa thương ban. Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận mình thiếu sót lỗi lầm, để được Chúa xót thương tha thứ.
Xin cho cuộc sống chúng con luôn biết rập theo khuôn mẫu thánh thiện của Đức Kitô là Đấng Công Chính tuyệt đối. Amen.
30. Xin thương xót con
(Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. Nhưng kết quả thật bất ngờ. Người mà ai cũng kính trọng thì lại không được nhận lời. Người mà ai cũng khinh miệt thì lại được Chúa nhận lời và được công chính hóa. Qua dụ ngôn này, Chúa cho thấy lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa phải là lời cầu nguyện khiêm nhường.
Khiêm nhường không tự mãn.
Người biệt phái tự mãn vì những việc tốt mình làm được. Làm được việc tốt thật đáng khen. Nhưng cần phải nhận biết nguồn gốc việc tốt của mình. Biết nguồn gốc việc tốt phải khởi đi từ nhận biết nguồn gốc bản thân mình. Tôi có mặt ở đời là ơn Chúa ban. Tôi thừa hưởng một sức khỏe, một gia đình, một nền giáo dục, một nề nếp đạo đức, đó là ơn Chúa ban. Vì thế tôi làm được việc tốt cũng là ơn lành Chúa ban. Nếu tôi rơi vào một hoàn cảnh xấu, tôi có làm được việc tốt không? Rất khó. Vì thế đừng tự mãn khi làm được việc tốt.
Khiêm nhường không khinh người.
Người khiêm nhường nhận biết thân phận mình sẽ không dám khinh người. Tôi làm được việc tốt vì tôi có hoàn cảnh tốt. Người kia làm việc xấu vì họ không có hoàn cảnh tốt như tôi. Vì thế không nên khinh người. Hơn nữa, trong tinh thần bác ái huynh đệ, thấy người hèn kém tôi càng phải yêu thương, nâng đỡ. Thấy người tội lỗi yếu đuối tôi càng phải tế nhị kính trọng. Chúa Giêsu vẫn làm gương trân trọng người tội lỗi như đối với người phụ nữ ngoại tình, đối với Giakêu và cả đối với Giuđa nữa.
Khiêm nhường nhận biết thân phận tội lỗi.
Con người đâu có ai hoàn hảo. Huống hồ có những nết xấu đeo đẳng ta mãi không thể dứt ra được. Ta đã ngã đi ngã lại nhiều lần. Biết bao quyết tâm. Biết bao ơn Chúa. Biết bao lời cầu nguyện. Nhưng “một cái dằm” cứ nằm mãi trong thịt khiến ta đau nhức khôn nguôi. Ta không thể nào thoát khỏi tội lỗi. Vì thế tâm tình xứng hợp là khiêm nhường nhận biết thân phận tội lỗi của mình. Khiêm nhường nhận trước mặt Chúa. Khiêm nhường nhận trước mặt anh em. Đó là thái độ trung thực và đúng đắn.
Khiêm nhường xin Chúa ban ơn cứu độ.
Vì không thể tự mình thoát khỏi tội lỗi, không thể đạt tới ơn cứu độ, nên ta cần ơn Chúa. Không thể tự giải thoát, nên ta cần Chúa giải thoát ta khỏi ách nô lệ tội lỗi. Thân phận ta thật khốn cùng. Sức lực ta thật yếu đuối. Nên lời cầu nguyện đúng nhất là: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Tương truyền đó là lời cầu nguyện liên lỉ suốt đời của thánh Phêrô, vị Tông đồ trưởng, vị Giáo Hoàng tiên khởi.
Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết mình không thể sống công chính tự sức riêng, nhưng chỉ được “công chính hóa” nhờ ơn Chúa. Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết ta được ơn Chúa không phải vì ta xứng đáng nhưng vì được Chúa thương yêu. Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết rằng lời cầu nguyện khiêm nhường là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa.
“Lạy Chúa, xin thương xót con”
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Tôi có hay tự mãn vì mình sống tốt hơn người khác không? Thái độ này có đúng không?
2) Tôi có hay khinh miệt, lên án người khác không? Thái độ này có đúng không?
3) Tại sao tôi phải khiêm nhường khi cầu nguyện?
4) Tôi có một nết xấu thường phạm. Tôi đã xưng tội nhiều lần và quyết tâm chừa cải. Nhưng chứng nào tật ấy. Bạn có cảm nghiệm được điều này nơi bản thân không?
31. Hài lòng về mình hay về Thiên Chúa?
Dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế, nói theo ngôn từ thời nay, có thể gọi là một tiểu luận chớp nhoáng về một sự tương phản. Đức Giêsu dạy chúng ta thái độ phải giữ trước mặt Thiên Chúa. Có hai thái độ: tự mãn của người biệt phái, ăn năn khiêm nhường của người thu thuế. Tự mãn về mặt đạo đức, nghĩa là hài lòng về mình, cho dẫu có ảo tưởng, đó cũng là một cách tạ ơn Thiên Chúa. Trái lại khiêm nhường chính là sáng suốt. Đức Giêsu nêu rõ sự tương phản mạnh mẽ giữa hai nhân vật tiêu biểu hai thái độ trên. Người kết thúc dụ ngôn bằng lời dạy về cách làm đẹp lòng Thiên Chúa. Một sắc thái quan trọng cần ghi nhận: hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. “Cầu nguyện” ở đây là gì? Cầu nguyện là muốn được Thiên Chúa nhìn nhận mình vô tội, mình là kẻ lành, tức là muốn được hưởng lòng nhân lành của Thiên Chúa. Căn cứ vào đâu mà người biệt phái cầu nguyện? Căn cứ vào những việc đạo đức, những việc tuân thủ, mà thật ra trong những việc ấy người biệt phái không phải là không tỏ ra ít nhiều độ lượng. Còn người thu thuế thì sao? Người này biết mình lắm tội nên chỉ trông cậy vào chính Thiên Chúa, vào lượng từ bi, vào tình yêu thương của Thiên Chúa. Một kẻ kể công, một người van xin. Đó là sự khác biệt rất có ý nghĩa giữa thái độ khép kín và tâm tình cởi mở. Chúng ta đặt vấn đề: Thái độ nào được Thiên Chúa từ bi nhân hậu chúc phúc? Chúng ta phải đối xử với anh em đồng loại như thế nào?
1) Thiên Chúa chúc phúc cho kẻ khiêm nhường tin cậy. Như vậy, khiêm nhường, xét về căn bản, là mở rộng tấm lòng đón lấy niềm vui. Hai yếu tố của khiêm nhường là sáng suốt và tin cậy. Sáng suốt cho nên biết rõ thực trạng lương tâm mình. Sáng suốt cho nên khám phá ra nỗi cực khổ lớn lao của mình, do đó có thể đâm ra thoái chí tuyệt vọng. Tuy nhiên vì tin cậy cho nên tâm hồn không bị lay chuyển. Khám phá ra nỗi cực khổ của mình trước con mắt Thiên Chúa, trong khi biết rõ Thiên Chúa là tình thương –đó là phương cách rất hữu hiệu để được Thiên Chúa thứ tha thương xót. Nếu chúng ta thành thật, nghĩa là thực tế quyết tâm muốn ra khỏi hoàn cảnh khốn khổ, thì sau khi than thở với Thiên Chúa, trên đường ra về chúng ta được Người dõi theo với đầy lòng nhân từ thương mến, chúng ta sẽ có được niềm vui sâu rộng nhất.
2) Thái độ tự mãn, hài lòng về mình, ngang nhiên trước mặt Thiên Chúa, ngang nhiên trước mặt tha nhân, là điều làm mất lòng Người. Trong chúng ta ai mà không có lúc muốn cho mình là tốt, là hoàn hảo trước mặt tha nhân? Chúng ta có thật tâm chọn lấy thái độ khiêm nhường làm đẹp lòng Thiên Chúa không? Chúng ta rất dễ sa vào cơn cám dỗ muốn đề cao mình. Chúng ta làm một trắc nghiệm: gặp trường hợp bị người ta coi rẻ, chúng ta phản ứng thế nào? “Chừng nào đến lúc người ta không khen ngợi mình như mình mong đợi, mà lại làm phật ý mình, lúc đó càng tỏ ra nhũn nhặn kiên nhẫn bao nhiêu mình càng thật sự có những đức tính ấy bấy nhiêu, chẳng có gì khác hơn” (thánh Phanxicô). Cũng như khiêm nhường tin cậy thì đẹp lòng Thiên Chúa, nhũn nhặn thành thật thì đẹp lòng người ta. Cả hai thái độ đều mở rộng trí óc và tâm hồn để đón tiếp, trao đổi, vui sướng.
32. Chỉ công đức không mua được thiên đàng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Ngay sau khi dạy cho các môn đệ biết về việc cần thiết phải cầu nguyện luôn luôn và cầu nguyện cách kiên trì, với tất cả lòng tin tưởng (dụ ngôn “Bà goá quấy rầy”), Chúa Giêsu còn dạy các môn đệ biết phải có tâm tình và thái độ nào khi cầu nguyện, qua dụ ngôn “Người biệt phái và người thu thuế”. Đây là một trong những dụ ngôn kinh điển của Tin Mừng Luca. Dụ ngôn đề cập 2 nhân vật chính: người thu thuế và người biệt phái. Cả hai cùng lên Đền Thờ cầu nguyện.
1. Thái độ của người biệt phái khi cầu nguyện là gì?
Người biệt phái đã tự hào cho mình là người công chính. Thế ông đã sống thế nào mà tự cho mình là một người công chính, một “á thánh”? Thưa, ông đã thực hành nghiêm chỉnh những gì luật dạy: không trộm cướp giết người, không tham ô hối lộ, không cờ bạc rượu chè, không xì ke ma tuý, không số đề bia ôm… Nói cách khác, ông chẳng làm gì đáng chê, đáng trách. Ông còn làm những việc đạo đức hơn cả những gì luật dạy: “Mỗi tuần tôi ăn chay hai lần” (Lc 18,12). Trước thời lưu đày Babilon, luật chỉ buộc mỗi năm ăn chay một lần vào dịp Lễ Xá Tội (x. Lv 23,27). Sau lưu đày, người ta đã thêm vào luật một lần ăn chay nữa để tưởng nhớ cảnh Giêrusalem bị tàn phá. Nhưng người biệt phái này tỏ ra rất đạo đức, mỗi tuần tự nguyện ăn chay thêm 2 lần vào ngày Thứ Hai và Thứ Năm (tức là 104 lần/năm) để đền bù những thiếu sót của dân tộc đối với lề luật (x. Tanila Hoàng Đắc Ánh, Bài giảng Chúa Nhật – Tin Mừng theo Thánh Luca, tr. 214). Chưa hết ông còn tự phụ kể lể: “Tôi nộp thuế Thập phân về hết mọi vật tôi mua” (x. Lc 18,12). Luật chỉ buộc dâng một phần mười lợi tức cho các thầy Lê-vi; trong khi đó, người Biệt phái này tình nguyện dâng một phần mười tất cả các thứ, kể cả các thứ ông mua được vốn không buộc phải dâng.
Như vậy, rõ ràng những điều ông làm là rất tốt, tốt hơn điều Thiên Chúa đòi hỏi. Ông là người giữ đạo rất mẫu mực, không có gì đáng chê trách. Có lẽ ông còn mẫu mực hơn nhiều người Công giáo chúng ta gấp bội.
Nhưng vì sao ông lại không đẹp lòng Thiên Chúa? Vì sao Thiên Chúa không nhận lời cầu nguyện của ông? Thưa vì 2 lý do:
– Lý do thứ nhất, vì ông đã tự mãn tự phụ và kể công trước mặt Thiên Chúa, như thể sự công chính ông đang có là nhờ vào công trạng của mình, và như thể Thiên Chúa mắc nợ ông, vì thế Thiên Chúa phải trả công, phải ban thưởng cho ông. Ông lầm tưởng rằng với công đức của mình, ông có thể mua được Nước Thiên Đàng.
– Lý do thứ hai là vì ông tự cao tự đại, cậy dựa vào công đức của mình mà khinh thường người khác. Đại khái ông đã vênh váo: “Lạy Chúa, con không giống như thằng thu thuế khốn nạn đáng sa hoả ngục, đang đứng cuối nhà thờ kia kìa! Chắc là Chúa thấy nó rồi đó”. Rõ là ông không hề biết đấm ngực mình mà chỉ đấm ngực người khác.
Như thế, động cơ của những việc đạo đức ông làm là để tỏ ra mình là người công chính, chứ không phải là do lòng yêu mến. Ông chẳng mến Chúa mà cũng chẳng yêu người. Chính vì thế mà khi ra về, chẳng những ông không được tha thứ mà còn mắc thêm tội: tội kiêu ngạo. Ngược lại, người thu thuế tội lỗi thì được tha thứ và được nên công chính.
2. Thái độ của người thu thuế như thế nào mà lại được Thiên Chúa tha thứ và được nên công chính?
Có phải là do anh ta đã có nhiều công trạng đặc biệt không? Có phải do anh ta là người đạo đức và bác ái không? Hoàn toàn không! Anh ta chẳng có công trạng gì, ngoài một “mớ tội” công khai. Bởi lẽ theo cái nhìn thời bấy giờ, tất cả những người thu thuế đều bị liệt vào hạng người tội lỗi công khai đáng khinh bỉ, hạng mọt dân bán nước, tiếp tay với ngoại bang bóc lột chính đồng bào của mình…. Vậy thì do đâu mà anh ta được nên công chính, như lời Chúa Giêsu quả quyết ở đoạn cuối Tin Mừng: “Người thu thuế được nên công chính, còn người pharisêu thì không”? (x. Lc 18,14). Do trước mặt Chúa, anh biết khiêm tốn nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Thể hiện qua các cử chỉ: đứng xa xa mà không dám tới gần cung thánh, cúi đầu, đấm ngực… Tất nhiên là đấm ngực chính mình, chứ không phải đấm ngực người khác như người Biệt phái. Hơn nữa, còn do anh biết giục lòng thống hối ăn năn một cách sâu xa, và tha thiết kêu xin lòng thương xót thứ tha của Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Chỉ với một lời cầu xin ngắn gọn, có thể nói được là ngắn gọn nhất, mà anh lại được trở nên công chính. Thế mới hay lời Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: “Phàm ai nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 18,14).
3. Phần chúng ta thì sao?
Chúng ta nên bắt chước thái độ của người nào khi chúng ta cầu nguyện? Của người biệt phái hay của người thu thuế? Có khi nào tôi rơi vào thái độ của người Pharisiêu không? Có đấy! Đó những lúc tôi đã gân cổ tranh cãi với người khác: “Tao đúng, mày sai; tao có lý, mày vô lý”… Đó là những lúc tôi bỉu môi, lên tiếng chê bai những người mà tôi cho là xấu xa, đáng trách. Đó là những lúc tôi tự cao tự đại vì thấy mình hơn người nào đó về nhiều mặt: đẹp trai hơn, xinh gái hơn, học giỏi hơn, con nhà giàu có hơn, v.v… Như vậy tôi chính là người Biệt phái đứng nghênh ngang trong Đền Thờ và khoe công trạng của mình với Chúa. Chúa không cần những cái đấm ngực thình thịch “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Chúa cũng chẳng cần công trạng của tôi. Chúa chỉ cần tấm lòng khiêm nhường thống hối của tôi.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết khiêm cung để nhận ra mình cũng đầy những thói hư tật xấu, đầy lỗi tội, để hiểu và cảm thông với anh chị em mình hơn, nhất là để biết xin Chúa thứ tha và biết cất lời ngợi khen một mình Chúa là Thiên Chúa, là Đấng Thánh, ngàn trùng chí thánh. Amen.
33. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
LÀM THẾ NÀO ĐỂ LỜI CẦU NGUYỆN ĐƯỢC CHÚA CHẤP NHẬN
Tin Mừng Lc 18: 9-14: Tin Mừng hôm nay đề cao lời cầu nguyện khiêm nhường của người Thu Thuế, không nhìn sang người khác, không so sánh mình với kẻ khác, nhưng nhìn vào chính mình và so sánh mình với mẫu gương của Chúa.
Ở Palestine, thời Chúa Giêsu, người ngoan đạo giữ ba giờ cầu nguyện mỗi ngày, lúc chín giờ sáng, mười hai giờ trưa và ba giờ chiều.
Lời cầu nguyện được kể là linh nghiệm đặc biệt nếu cầu nguyện trong Đền Thờ, và vì thế vào những giờ đó nhiều người đến Đền Thờ cầu nguyện, chính vì thế Chúa Giêsu nói về hai người lên Đền Thờ cầu nguyện: Người Biệt Phái và Người Thu Thuế.
Người Biệt Phái đứng giữa Đền Thờ và thầm nguyện bằng câu “tôi tạ ơn Chúa”, nhưng thực ra ông không nói với Chúa mà là nói với chính mình.
Ông vui mừng vì so sánh với kẻ khác thì ông thuộc một giai cấp riêng, mọi người khác đều tham lam, bất chính, ngoại tình, và điển hình là bọn Thu Thuế gian tham tội lỗi. Thay vì nhìn vào Thiên Chúa, ông đã nhìn vào người Thu Thuế, ông đã khoe rằng chẳng những đã giữ mình thoát khỏi tội lỗi, lại còn làm được nhiều việc lành phúc đức hơn.
Xem thái độ cầu nguyện của người Biệt Phái, ta thấy ông ta rất tự mãn. Có nhiều chữ “tôi” trong lời cầu nguyện của ông. Tôi thế này, tôi thế nọ, tôi không như thế này, tôi không như người khác. Rốt cuộc, người Biệt Phái lại là người quay vào mình, ông ngắm nghía vẻ đẹp của ông trước Thiên Chúa, dù chúng ta tưởng ông đã mở lòng khi nói: “Lạy Thiên Chúa, con tạ ơn Ngài”. Tạ ơn thực sự là nhìn nhận mọi sự mình làm được đều do ơn Chúa ban. Tạ ơn là quay về với Thiên Chúa, nhìn nhận Ngài là Nguồn Mạch, là Trung Tâm, là Sức Sống của cả đời mình. Người Biệt Phái đã không tạ ơn thực tâm, vì ông quay vào mình, coi mình là trung tâm, là tác giả mọi điều tốt đẹp ông đã làm. Như thế Thiên Chúa chỉ là một người mà ông đến gặp để kể công và đòi nợ. Thiên Chúa phải trả cho ông Nước Trời vì ông đã có công. Người Biệt Phái không xin Chúa điều gì, bởi vì ông không thấy mình thiếu gì cả. Thiên Chúa chẳng thể cho ông điều gì, vì ông đã đầy ắp. Vì tự mãn, nên ông mất đi một khả năng quan trọng, đó là mở ra để đón nhận Thiên Chúa vào đời mình (Augustine).
Tại Đền Thờ Thánh Phêrô có một bức tượng Chúa Chịu Nạn do Thorvaldsen (1770-1844) nhà điêu khắc Đan Mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng, ông ta nhìn mãi rồi lắc đầu nói: tôi nghe đồn bức tượng này nổi tiếng là đẹp lắm nhưng tôi chẳng thấy có gì đẹp cả. Một người quỳ sau lưng ông nói: ông phải quì gối xuống mới thấy đẹp. Ông du khách liền quì gối. Bấy giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa Chịu Nạn. Muốn gặp gỡ Chúa, muốn đón nhận lòng thương xót của Người, con người cần quì gối với tâm tình khiêm tốn.
Tin Mừng hôm nay đề cao lời cầu nguyện khiêm nhường của người Thu Thuế, không nhìn sang người khác, không so sánh mình với kẻ khác, nhưng nhìn vào chính mình và so sánh mình với mẫu gương của Chúa, qua đó anh đã khám phá ra những khuyết điểm bản thân rồi khiêm tốn chấp nhận. “Lạy Chúa! Xin thương xót con”. Lời cầu nguyện của người Thu Thuế thật đơn giản. Ý thức được thân phận yếu hèn tội lỗi của mình, ông hoàn toàn cậy dựa vào lòng thương xót của Chúa. Đó là lời cầu nguyện của người ở trong sự thật và được sự thật giải thoát khỏi tội lỗi. Lời cầu nguyện khiêm nhường là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa.
Quả thật, người Thu Thuế nhận mình lầm lỗi, ông biết rõ tội mình vô phương cứu chữa, chẳng dám ngước mắt nhìn lên, chỉ biết đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót Chúa. Ông bất lực hoàn toàn, chỉ phó thác cho lòng Chúa khoan dung. Ngay lúc đó, ông trở nên công chính. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho ông nên công chính.
Sau khi đưa ra hai thái độ cầu nguyện của người Biệt Phái và Thu Thuế, Đức Giêsu đã nhận định như sau: ”người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không”(Lc 18,14).
Đức Giêsu muốn nói, lời cầu nguyện của người Thu Thuế với thái độ khiêm tốn và thống hối nên được ơn nghĩa với Thiên Chúa và được ơn tha thứ; còn lời cầu nguyện của người Biệt Phái với thái độ tự mãn thiếu lòng khiêm tốn và hoán cải, vì ông chỉ để ý đến sự công chính của riêng mình nên không được ơn nghĩa gì trước mặt Chúa và không được tha thứ “vì ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” Amen.
34. Ai là người công chính?
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
LỜI CẦU CỦA NGƯỜI PHARISÊU
“Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.’” (Lc.18,9-12).
Mở đầu cho lời cầu nguyện, sau khi chào Chúa bằng hai tiếng “tạ ơn”, ông liền thực hiện một cuộc so sánh giữa mình và “người thu thuế” để hình ảnh mình được nổi bật, và nhờ đó Chúa “thấy rõ” được sự “công chính” của mình thật “không thể chê vào đâu được”!
Trong cách so sánh này, người Pharisêu thật như một họa sĩ sành điệu. Trước tiên, ông cho gam màu đen tối bao quanh bằng những hình ảnh của phường “tội lỗi”, điển hình như tên thu thuế kia: “con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia”, để rồi, ngay sau đó, ông tô đậm hình ảnh của ông với gam màu rực sáng bằng những công đức mà ông đã tự thấy mình đã chu toàn hoàn hảo: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.”
Người Pharisêu cố tạo cho mình hình ảnh “rực sáng”, và tất nhiên là muốn “tỏa sáng” giữa “bao kẻ khác”, từ đó, người Pharisêu có dáng đứng đầy tự hào, đầy kiêu hãnh – “đứng thẳng” – khi cầu nguyện. Cung cách cầu nguyện của người Pharisêu tương tự như cung cách của người ngồi vào vòng “đàm phán” với đối phương với tư thế “mạnh” của kẻ đang nắm ưu thế, đầy tự tin, đặt sệt tự tôn.
Cách cầu nguyện như vậy, giống hệt cách cầu nguyện mà Chúa Giêsu đã từng dạy các môn đệ của Ngài phải xa lánh: “Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy” (Mt.6,5).
Cầu nguyện kiểu như Pharisêu là lời cầu nguyện để “vinh danh chính mình” chứ không phải “vinh danh Thiên Chúa”. Vì họ “tự nhận” và “tự tôn” họ đã nên công chính rồi.
Chính vì thấy mình đã nên công chính, nên họ trở nên mù lòa không còn nhận ra mình là kiếp người tội lỗi nữa. “Nhân vô thập toàn”. “Bảy mươi chưa gọi mình lành”… Những người Pharisêu không còn thấy được những thiếu sót của thân phận con người. Và sự đui mù tệ hại nhất, đó là họ không còn thấy sự kiêu căng nơi con người của họ. Một khối kiêu căng to đùng ở trong chính tâm hồn họ, mà họ vẫn không thấy, họ vẫn cho rằng lòng họ đạo đức và trong sáng. “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn” (Ga 9,40).
Vì họ tự cho mình có công đức, nên họ cho rằng đương nhiên là họ được Chúa ban ơn. Nên lời cầu nguyện của họ tuyệt nhiên không thấy kêu cầu đến lòng thương xót của Chúa, mà chỉ khoe khoang và phô trương công đức.
Vì họ cho mình là người công chính, nên họ khinh thường và loại trừ anh em đồng loại. Họ tự cho mình quyền được hưởng những ơn lộc Thiên Chúa, và xua đuổi anh em đồng loại ra khỏi con tim của họ. Họ từ bỏ anh em đồng loại của họ. Từ bỏ có nghĩa là không thể tha thứ. Không tha thứ cho anh em được, thì Thiên Chúa cũng không tha thứ cho con người. “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt.6,14).
Nếu không được Thiên Chúa thứ tha, con người không thể trở nên công chính. Vì con người chỉ có thể nên công chính, khi con người được là con Thiên Chúa.
LỜI CẦU CỦA NGƯỜI THU THUẾ
“Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc18,13).
Sau khi kêu cầu đến thánh danh Chúa, là lời van xin Chúa thương xót. Thật ngắn gọn. Có thể người thu thuế không còn biết nói gì thêm! Vì anh chắc đã tin rằng Chúa đã hiểu thấu nỗi lòng của anh. “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin” (Mt.6,7).
Người thu thuế đang cần gì? – Cần Chúa thương tha thứ.
Xin thương xót là khát khao được Chúa thứ tha những lỗi lầm. Khát khao được thứ tha, là khát khao được vẫn là con Chúa.
Khát khao được vẫn là con Chúa, là nhìn ra thân phận bọt bèo, tro bụi, chẳng nghĩa lý gì, nếu không có Chúa. Điều ấy, cũng có nghĩa là nói lên: “con mãi mãi cần đến Chúa”.
Tâm tình ấy từng bước vươn lên, để từ những lời van xin biến thành những lời ca tụng. Từ những giọt nước mắt ăn năn biến thành những nụ cười hạnh phúc. Từ cử chỉ ngại ngùng khép nép “đứng đằng xa”, đến việc được Chúa ôm vào lòng tràn đầy yêu thương tha thứ.
Và thế là tình yêu Thiên Chúa được ca tụng đến muôn đời.
Vậy, lời kêu xin Thiên Chúa thương xót chính là lời ca tụng tuyệt vời, như lời Chúa Giêsu tóm gọn trong giáo huấn của Ngài: “Yêu thương như Thầy”.
Tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa và biết múc nguồn tình yêu Thiên Chúa để chia sẻ với tha nhân, con người sẽ không có sự lên án nhau, không có sự loại trừ nhau.
Lời nguyện cầu của người thu thuế được đón nhận. Ông trở nên công chính từ giọt lệ thành tâm sám hối. “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không” (Lc.18, 14).
ĐỂ KẾT LUẬN
Trong dòng đời, ai biết ai công chính, ai biết ai tội lỗi?
Có những người trông thật công chính lại cực kỳ gian xảo! Có những tên trông gian manh nhưng lòng lại rất chân thành! Có những người ở địa vị cao trông rất đạo mạo lại có những hành động lừa đảo, dã tâm. Có những tên vô danh tiểu tốt lại âm thầm làm việc chân thiện hết lòng hết dạ!
Nhận ra thiện ác đã là khó, nhận ra người thiện người ác lại càng khó hơn!
Nhận ra hàng thiệt hàng giả đã là khó, nhận ra người thiệt người giả lại càng khó hơn!
Ai là người công chính? Đừng vội trả lời. Đừng vội xét đoán. (Lc.6,37). Chỉ có Thiên Chúa, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, mới có quyền kết luận. (Mt.6,4).
Trong Khổng Tử Gia Ngữ có câu chuyện “Thế nào là kẻ trộm” như thế này: Tử Cống được bổ làm quan Tể Tướng ở xứ Tín Dương. Khi sắp đi nhận chức, đến từ biệt Khổng Tử. Khổng Tử nhân bảo Tử Cống: – Phải siêng năng, phải cẩn thận. Chớ cướp, chớ đánh, chớ bạo tàn, chớ trộm cắp…
Tử Cống đáp: – Tứ này ngay từ lúc nhỏ đã theo học thầy là bực quân tử, có khi nào lại trộm cắp để lụy đến thân?
Khổng Tử nói: – Ngươi chưa hiểu nghĩa.
Ôi! đem người hiền đức này để thay người hiền đức kia, thế là cướp. Đem kẻ bất tiếu này để thay kẻ bất tiếu kia, thế là đánh đập. Hờ hững mệnh lệnh mà gấp rút hình phạt, thế là tàn bạo. Nhận ra điều thiện của người để làm ra điều thiện của mình, thế là trộm cắp. Trộm cắp đây không phải là trộm cắp tiền của vậy!
Lạy Chúa, Con yếu đuối quá, xin thương xót con, xin biến đổi sự yếu đuối của con thành sức mạnh cho cuộc đời con, tất cả nhờ lòng thương xót của Chúa. Amen.
35. Cúi mình xuống – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Dụ ngôn người Biệt phái và Thu thuế lên Đền thờ cầu nguyện cho thấy sự tương phản giữa hai thái độ của con người trước tình yêu thương bao la của Thiên Chúa. Người Biệt phái là nhân vật được xã hội đương thời kính trọng, vì thuộc thành phần nhiệt tâm giữ luật, thực thi đức ái hơn nguời khác. Người thu thuế, kẻ bị xã hội mạt sát, khinh chê. Hai mẫu người đối lập cùng bước vào Đền thờ và làm cùng một công việc là cầu nguyện. Tại đây, sự tương phản giữa hai con người trở nên rõ nét khi tâm tính và thái độ sâu kín được bộc bạch trước nhan Thiên Chúa.
Người Biệt phái ung dung tự tại, đứng thẳng cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa, con cảm tạ Chúa vì con không giống các người khác, không tham lam, không bất công, không ngoại tình hay như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, dâng một phần mười thu nhập của con. Người Biệt phái đang báo cáo thành tích. Ông nói điều ông đã làm và những gì ông làm thì không chê vào đâu được: không gian tham, không chiếm đoạt, không rối vợ rối chồng, không đam mê tội lỗi, thậm chí về phần đạo đức bác ái, ông còn làm quá điều luật dạy.Thường người ta chỉ ăn chay một ngày trong năm vào dịp lễ Sám hối, đàng này ông ăn chay hai ngày trong tuần. Luật buộc các nông dân nộp một phần mười sản phẩm cho việc phụng tự, ông lại nộp thuế thập phân tất cả thu nhập của ông. Đây là lời cầu nguyện mà nhiều người Do thái thời ấy mơ ước. Không thấy ông xin gì cho bản thân. Lời cầu nguyện chỉ là lời tạ ơn. Điều đáng tiếc là lời cầu nguyện của ông đầy nét tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân: Vì tôi không như bao người khác, tôi không như tên thu thuế kia. Rõ ràng người Biệt phái tốt lành quảng đại nhưng lại tự phụ khoe khoang, khinh người. Đây là biểu tượng cho hạng người hay chúc tụng, tôn thờ bản thân mình. Thật đúng, kiêu căng đứng trước trong danh sách bảy mối tội đầu.
Người thu thuế đến thú tội, anh ý thức mình là tội nhân nên run rẩy xấu hổ, đầu cúi xuống chẳng dám ngước lên. Anh đã nghe thấy lời cầu nguyện của người Pharisiêu (hay như tên thu thuế kia), nên anh thấy khỏi cần cáo tội mình. Anh chỉ còn đặt mình trước nhan Thiên Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin: Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Điều anh khao khát là được Thiên Chúa tha thứ và được làm hoà với anh em. Anh chỉ đứng xa xa vì thấy mình bất xứng. Lời cầu hết lòng khiêm tốn đó có sức an ủi anh ngọt ngào biết bao. Anh cảm thấy đầy niềm tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, vì anh biết rằng: dù tội lỗi như Aaron đúc bò vàng cho toàn dân thờ, dù thủ đoạn như vua Đavít đã cướp vợ giết chồng người khác nhưng họ đã hết lòng ăn năn sám hối và Thiên Chúa đã sẵn lòng tha thứ; dẫu rằng cả toàn dân bỏ Chúa và bị bắt lưu đày Babylon, lại bị thủ tướng Aman ra tay diệt trừ nhưng trong cơn cùng khốn như thế, hoàng hậu Ette cùng toàn dân đã biết ăn năn sám hối tội lỗi, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát họ; hay tội lỗi như dân ngoại Ninivê, Thiên Chúa còn thương, bắt buộc Ngôn sứ Giona đến rao giảng cho họ biết cải tà qui chính, Thiên Chúa liền tha thứ cho họ khi họ sám hối chân thành. Thấy tất cả những sự kiện lịch sử thống hối đó, người thu thuế càng thêm tin tưởng vào lòng thương xót khoan dung cùa Thiên Chúa, anh càng đấm ngực hết lòng ăn năn.
Đức Giêsu kết luận: Người thu thuế trở nên công chính còn người biệt phái thì không được…. Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Người thu thuế ra về và được tha hết mọi tội, tâm hồn thành trắng trong.
Người biệt phái ra về tội lỗi vẫn cứ còn đó.Cái tôi nặng quá nên còn phải gánh thêm sức nặng của tội lỗi nữa, thật đáng thương cho đời một người quá tự kiêu tự mãn.
Tội lỗi hay hành động xấu không làm người ta mất sự công chính cho bằng tính tự mãn thói kiêu căng. Người thu thuế đã thật sự phạm nhiều tội lỗi nên đã làm mất đi sự công chính, nhưng hành động khiêm tốn biết nhìn nhận mình tội lỗi và hết lòng thống hối nên được công chính trước Thiên Chúa.
Khiêm nhường có khả năng biến tội lỗi thành thánh thiện, bất chính thành công chính.Trái lại, kiêu ngạo tự mãn có thể biết điều tốt thành điều xấu. Khiêm nhường, tự hạ, quên mình luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện, là gốc rễ của các nhân đức. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I đã nói: Trên thiên đàng không thiếu bọn thu thuế và gái điếm, nhưng không có kẻ kiêu ngạo. Dưới hoả ngục có cả Hồng Y, Giám mục nhưng không có người khiêm nhường.
Khiêm nhường bao nhiêu cũng không đủ, chỉ một chút kiêu ngạo cũng quá nhiều. Đừng vì mình đạo đức mà khép kín trong tự mãn, cũng đừng vì mình tội lỗi mà khép kín trong tuyệt vọng. Ơn Chúa chỉ đến với người biết mở tâm hồn ra để đón nhận. Tội lỗi hay công đức đều có thể làm ta khép lại hay mở ra. Điều quan trọng là thấy mình luôn luôn cần Chúa. Sự triển nở trong đời sống thiêng liêng nằm chỗ là ta trở nên nhỏ lại, là nhường bước để cho Chúa xâm chiếm và chi phối trọn vẹn đời ta. Càng lớn lên trong Chúa, ta càng cảm thấy một cách mạnh mẽ rằng mình cần đến Chúa ngày một hơn.
Một Đấng Thánh vĩ đại như Phaolô mà đã tự nhận mình là kẻ thấp hèn nhất (1Cor 15,9); một ngôi sao chói lọi trong công việc bác ái từ thiện như Thánh Vincent Phaolô mà cũng đã tự gọi mình là người thấp hèn nhất trần gian thì huống là chúng ta! Người tự cao tự đại không thể cầu nguyện được. Cửa thiên đàng hẹp và thấp, chỉ quì xuống mới vào được mà thôi. Thiên Chúa luôn chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng luôn ban ơn cho kẻ khiêm nhường (x. Gc 4,6; 1Pr 5,5).
Tại Đền Thờ Thánh Phêrô có một bức tượng Chúa Chịu Nạn do Thorvaldsen(1770-1844)nhà điêu khắc Đan Mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng, ông ta nhìn mãi rồi lắc đầu nói: tôi nghe đồn bức tượng này nổi tiếng là đẹp lắm nhưng tôi chẳng thấy có gì đẹp cả. Một người quỳ sau lưng ông nói: Ông phải quì gối xuống mới thấy đẹp. Ông du khách liền quì gối. Bây giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa Chịu Nạn. Muốn gặp gỡ Chúa, muốn đón nhận lòng thương xót của Người, con người cần quì gối với tâm tình khiêm tốn.
Đức Cha Fulton J. Sheen viết trong cuốn “Người Galilê vĩnh cửu”: Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng, nhưng Ngài giáng sinh trong hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Đó là một cử chỉ khiêm nhường. Một số người quá tự mãn không hạ mình sẽ không thấy được niềm vui bên trong hang đá. Các mục đồng và các đạo sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như thế, họ thấy mình không ở trong một cái hang, nhưng ở trong một thế giới khác. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng, và cánh tay ẵm Hài Nhi, Đấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất, nơi chúng ta đang sống. Và khi các mục đồng và các đạo sĩ quỳ gối, tôi tự hỏi: không biết những người thông thái ghen với những người đơn sơ, hay những người đơn sơ ghen với những người thông thái? Tôi hướng tới xác tín rằng: các đạo sĩ ghen với các mục đồng, bởi vì con đường của các mục đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.
Tin Mừng hôm nay đề cao lời cầu nguyện khiêm nhường của người thu thuế, không nhìn sang người khác, không so sánh mình với kẻ khác, nhưng nhìn vào chính mình và so sánh mình với mẫu gương của Chúa, qua đó anh đã khám phá ra những khuyết điểm bản thân rồi khiêm tốn chấp nhận. “Lạy Chúa! Xin thương xót con”. Lời cầu nguyện của người thu thuế thật đơn giản. Ý thức được thân phận yếu hèn tội lỗi của mình, anh hoàn toàn cậy dựa vào lòng thương xót của Chúa. Đó là lời cầu nguyện của người ở trong sự thật và được sự thật giải thoát khỏi tội lỗi. Lời cầu nguyện khiêm nhường là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa. Sách huấn ca dạy: “Lời cầu nguyện của người khiêm tốn xuyên thấu các tầng mây” (Hc 35,17). Sách giáo lý cũng dạy: “Khiêm tốn là thái độ căn bản phải có để đón nhận ơn cầu nguyện” (GLCG số 1559).
Lạy Chúa Giêsu, chúng con có là gì mà chẳng do Chúa thương ban. Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận mình thiếu sót lỗi lầm để luôn được Chúa xót thương tha thứ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống một cuộc đời rất khiêm nhường, đầy tinh thần tự hủy và vị tha tới tận cùng, xin cho chúng con biết sống quên mình, tự hạ, yêu thương và hòa đồng với tất cả mọi người chung quanh con. Amen.
36. Hãy nhận ra chính mình – An Phong
Sứ điệp Lời Chúa
Tin mừng chúa nhật 30 thường niên C là dụ ngôn người thu thuế và người Pharisêu. Mặc dầu hai người này được xem là hai mẫu người tiêu biểu, đại diện cho người tội lỗi (người thu thuế) và người đạo đức (người Pharisêu), nhưng họ không phải là tiêu biểu cho toàn thể những người mà họ đại diện. Chắc chắn là có nhiều người Pharisêu “tốt hơn” người Pharisêu trong câu chuyện này và nhiều người thu thuế khác cũng vậy. Có lẽ Đức Giêsu không muốn nói những con người cụ thể cũng như những cách sống cụ thể. Dụ ngôn này muốn nói đến Thiên Chúa chấp nhận người tội lỗi hoán cải, và không chấp nhận người chỉ tin vào sự công chính của riêng mình. Như thế, tin nhận Thiên Chúa, sấp mình trước nhan Người thì hơn là bằng lòng với những thành quả đạo đức cá nhân.
Suy niệm
Trong xã hội Do Thái, thời Đức Giêsu có ba việc mà người đạo đức phải thực hiện suốt đời mình, đó là: cầu nguyện, ăn chay và bố thí. Người Pharisêu trong câu chuyện hôm nay là một người đạo đức. Ông hãnh diện về việc chu toàn lề luật, ăn chay… Ông thực là một người đạo đức, được mọi người chung quanh tôn trọng. “Khiêm tốn là dám chấp nhận những gì mình có được để phục vụ cộng đoàn”. Người Pharisêu có thể được coi là “người khiêm tốn”, nhưng ông hết khiêm tốn khi đánh giá những việc làm của mình và khinh khi người khác. Hơn thế nữa, trước mặt Thiên Chúa, con người chỉ là con số zêrô lớn. Ông hết khiêm tốn khi hãnh diện về những việc đã làm và tự đánh giá mình “hạnh kiểm loại A” trước mặt Thiên Chúa. Sự công chính của một người không phải chỉ là những thành quả cá nhân trong đời sống đạo đức, nhưng còn phải tin vào Thiên Chúa và mở lòng đón nhận ơn cứu độ đến từ Người. Nói như thế không phải muốn làm giảm nhẹ những việc đạo đức cá nhân, nhưng việc đạo đức cá nhân đó phải được thực hiện với lòng tin, cậy, mến yêu Thiên Chúa, đồng thời không coi thường người khác.
Đời sống của các vị thánh là một bằng chứng rõ nét. Phong thánh cho một người là đặt người đó làm kiểu mẫu, chuẩn mực, tiêu biểu cho đức tin, cậy, mến Kitô giáo (canonization nghĩa là chuẩn mực hóa, hay còn nghĩa là phong Thánh). Các vị thánh thực hiện các nhân đức như thương người, khổ chế, cầu nguyện… vì các vị tin vào Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”. Nếu không thế, các vị chỉ là những vĩ nhân của cuộc đời. Vả lại, các việc đạo đức các vị làm được không cầu mong được “cấp bằng khen”, “giải thưởng” này khác (chắc chắn Mẹ Têrêsa Calcutta không mong những giải thưởng đời ban tặng, nhưng thực tế, Mẹ có nhiều giải thưởng.).
Người thu thuế trong dụ ngôn là người nhận mình chẳng có nghĩa lý gì trước mặt Thiên Chúa. Ông là người bị xã hội Do Thái đánh giá là người tội lỗi. Những người chung quanh – nhất là “những người đạo đức” coi thường ông. Ông đứng xa xa, cầu nguyện như một người đầy mặc cảm vì bị coi thường, nhưng cũng như một người đầy lòng khiêm tốn “không dám ngước mặt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ có tội'”. Ông cần Thiên Chúa thương xót và cứu độ. Lòng đầy tin tưởng và cần đến Thiên Chúa đã được Thiên Chúa chuẩn nhận “người này ra về được khỏi tội”. Cho dù ông có thực sự tội lỗi đến đâu, lời Đức Giêsu nói đã công chính hóa ông. Thiên Chúa luôn là Đấng đưa tay cứu vớt con người khi họ biết đưa tay cầu cứu Người. Sự công chính của mỗi người cũng bắt đầu từ lúc họ biết đấm ngực, cúi mình xuống và xin Thiên Chúa thương xót.
Phải chăng chúng ta là người “đạo đức” – theo kiểu Pharisêu – hay chúng ta là người “công chính” vì cần đến Thiên Chúa cứu độ – như người thu thuế.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa Giêsu,
là Đức Chúa và là Cứu Chúa của con.
Trong tay Ngài, con được an toàn.
Nếu Ngài gìn giữ con, nào con sợ chi.
Nếu Ngài ruồng bỏ con,
con không còn gì để hy vọng nữa.
Con xin Chúa ban điều tốt nhất cho con,
và con xin phó thác hoàn toàn cho Chúa.
Hồng y Newman
37. Tình thương biến đổi
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Đi hành hương Đất Thánh, ai cũng muốn đến Giêricô thăm “Cây sung Giakêu” và thưởng thức trái chà là. “Cây sung Giakêu” to lớn khoảng hai người ôm. Cây sung này được trồng lại cách đây hơn 700 năm. Tôi đi dịp tháng 4 nên sung nhiều trái. Các bà thích lắm, hái ăn và tin rằng trái từ “cây sung Giakêu” chữa lành mọi thứ bệnh.
Giêricô trở nên nổi tiếng với câu chuyện ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn cho được Chúa Giêsu đi ngang qua.
Giêricô chính là miến Đất Hứa, khi xưa Môsê từ trên núi Nebô đã được nhìn thấy. Sách Giosuê chương 6 kể lại cuốn đánh chiếm thành Giêricô.
Giêricô là một thành rất giàu có và quan trọng, nằm trong vùng thung lũng sông Giođan, là giao điểm của đường lên Giêrusalem và các lối qua sông Giođan để tỏa về các vùng đất phía sông Giođan.
Giêricô có một rừng chà là rất lớn, những vườn cây thuốc thơm nổi tiếng quốc tế, cách xa mấy dặm vẫn ngửi thấy mùi thuốc thơm. Các vườn hoa hồng ở đó cũng rất nổi tiếng. Người ta gọi Giêricô là “thành cây chà là”. Sử gia Do thái Josephus gọi là “Khu đất thần tiên, khu đất màu mỡ nhất của Phalettin”. Người La mã chở trái chà là và dầu thơm từ đó đi bán khắp nơi trên thế giới.
Chúa Giêsu đi qua Giêricô, tiến về Giêrusalem với đoàn người hành hương đông đảo, chuẩn bị bước vào khổ nạn. Ông Giakêu leo lên cây sung để nhìn cho được Chúa sắp đi ngang qua. Chúa nhìn lên cây sung thấy Giakêu. Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương.Trái tim Giakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương. Ông đáp lại tình thương của Chúa và thể hiện bằng việc đền bù thiệt hại, chia sẻ chân thành cho tha nhân. Tình thương của Chúa đã cảm hóa Giakêu và biến đổi cuộc đời ông.
1. Tình thương biến đổi.
Giakêu là một người thu thuế và là một người giàu có. Ông đã từng nghe biết Chúa Giêsu đã chọn ông Lêvi, một nhân viên ngành thuế như ông làm môn đệ (Mt 9,9). Nay ông rất muốn có dịp nhìn thấy con người kỳ lạ này.
Lần kia, biết Người sắp đi ngang Giêricô quê hương ông, Giakêu ra xem, nhưng vì dân chúng quá đông mà ông lại lùn, nên ông leo lên một cây sung để nhìn cho rõ. Ðường đường một người “đứng đầu những người thu thuế”, một công chức có địa vị, nhưng ông vẫn không sợ mất mặt, vẫn trèo lên cây cao.
Chúa ngước mắt lên cây sung, ánh mắt Chúa và ánh mắt Giakêu gặp nhau. Ánh mắt Giakêu bộc bạch tất cả tấm lòng và cuộc đời của mình: một người thu thuế, một người bị vạ tuyệt thông cách ly, một tâm hồn khát khao muốn gặp Chúa, một con chiên lạc đang tìm lối về. Lòng Chúa xao xuyến, thương mến vô vàn, một tâm hồn mà Chúa đang muốn tìm về đây. Chúa nói: “Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ông”. Giakêu cười sung sướng, nhảy xuống đất, chạy mau về nhà, làm tiệc tiếp đãi khách quý. Và đó phải là một bữa tiệc linh đình, có đông bạn bè trong ngành thuế tham dự, giống như ông Lêvi đã làm trước kia (x. Lc 5,29).
Không phải bốc đồng, nhưng từ đáy lòng Giakêu cuộn lên một niềm sám hối mãnh liệt khiến ông cất tiếng thưa với Chúa: “Thưa Ngài, này đây phần nửa tài sản tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Ông Giakêu tự buộc mình làm một việc đền bù rộng rãi phi thường, vượt xa mức đòi hỏi của luật lệ. Ðiều ấy chứng tỏ ông đã thật lòng hoán cải và hơn nữa ông biết mình đã được tha thứ và cứu độ. Chính Chúa Giêsu xác nhận như thế khi Ngưới phán: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này”.
Trước đây Giakêu chỉ nghĩ đến tiền và sống ích kỷ cho riêng mình, không nghĩ đến người khác.Trước đây Giakêu vốn tham lam, bất lương, lòng quảng đại bị chôn vùi qua bao năm tháng. Hôm nay, gặp được Chúa Giêsu, ông đã biết sống trao ban cho người khác, quan tâm đến người nghèo, sống công bằng với mọi người. Lòng quảng đại đó được bộc phát cách rõ ràng: “Tôi xin bố thí phần nữa của cải của tôi cho người nghèo, và nếu tôi có gian lận gì của ai, tôi xin đền lại gấp bốn”. Quả là mùa xuân về trong tâm hồn Giakêu. Ngập tràn ánh nắng. Ngây ngất niềm vui. Bình minh Ơn Cứu Ðộ chan hoà lòng trí ông, gia đình ông.
1. Tình thương hoán cải.
Trong sách (Lv 5, 20-26; Xh 21, 37; Ds 5, 6) đều nói đến khoản luật phải trả lại, đền bù cho người nghèo, cho kẻ bị thiệt hại một số của cải. Ðó là luật trong Cựu Ước. Giakêu trình bày ngay vấn đề, điều đó cho thấy có lẽ ông đã nghiên cứu Thánh Kinh, biết được các luật lệ đó. Tiếng lòng hồi sinh và như vậy ông đã có thao thức thầm kín, có băn khoăn và chờ đợi. Trong cuộc sống dư giả vật chất, bân rộn với công việc làm ăn, ông vẫn thấy lòng trĩu nặng ưu tư, để rồi hôm nay có cơ hội ông tìm kiếm Chúa mong làm lại cuộc đời mới.
Thánh Luca đã nói rõ: ông là thủ lãnh của những người thu thuế. Giêricô bấy giờ là hải cảng, thu thuế nơi xuất nhập cảng phồn thịnh phải là một tay có thế lực. Trong nghề nghiệp đó, bạn bè của ông phải là những người thu thuế, các sĩ quan Rôma. Vậy tại sao ông lại vất vả chen lấn với đám đông để mong gặp một người tên là Giêsu, kẻ hoàn toàn khác địa vị xã hội với ông? Là người giàu có, sang trọng, tại sao ông bỏ cả thể hiện sẵn sàng trèo lên cây sung như một đứa trẻ để nhìn cho được Chúa Giêsu đi qua? Hơn nữa, vốn bị dân chúng thù ghét, ông có thể bị nguy hiểm tính mạng khi đối diện với quần chúng giữa đám đông. Như thế ông phải liều, và bỏ ngoài tai mọi phê bình.
Ðộng lực nào thúc đẩy ông đi tìm Chúa Giêsu? Chắc chắn không phải vì sự tò mò, nhưng có lẽ nhờ lời Thánh Kinh đánh động.Tâm hồn mong hoán cải đã thúc bách ông lên đường tìm Chúa! Hoán cải là kết quả của một cảm nhận về tình yêu, một ưu tư thao thức tìm kiếm. Hoán cải là từ bỏ. Bất cứ cuộc trở lại nào, dù lớn dù nhỏ, cũng đòi phải từ bỏ. Hoán cải bởi tình thương bao giờ cũng có kết quả tốt. Giakêu tích cực đi tìm Chúa: “Ông chạy tới phía trước, leo lên một cây sung”. Khi nghe tiếng Chúa gọi, ông đã nhanh chóng và vui mừng đáp lại: “Ông vội vàng tụt xuống”. Ông còn “vui mừng đón rước Ngài về nhà”. Ông nhìn nhận tội lỗi của mình.Ông đền bù những thiệt hại mình gây cho kẻ khác. Ông còn lấy tài sản bố thí cho người nghèo. Hoán cải là một hành trình: từ bỏ những tội lỗi, quảng đại đáp lại tiếng Chúa và canh tân đời sống. Giakêu hoán cải đem lại niềm vui cho chính ông và hai nhóm người, đó là nhóm nghèo được ông san sẻ cho phân nửa tài sản, nhóm bị oan ức (nếu có) được giải oan và nhận huê lợi hơn bốn lần thiệt hại. Việc hoán cải của một người mang lại niềm vui cho nhiều người.
Giakêu lùn về thể lý nhưng tâm hồn không thấp chút nào. Giá trị một người hệ tại nơi tâm hồn. Gía trị của một việc làm ở nơi lòng mến. Đối với Chúa Giêsu, giờ đây, Giakêu, đã trở nên cao thượng nhờ ông biết hoán cải và sống có tình người. Chiều cao thân xác Giakêu vẫn thấp nhưng chiều cao tâm hồn bây giờ ngất cao nhờ tình thương chiếu rọi.
2. Tình thương cảm hóa.
Chúa Giêsu là bậc Thầy cảm hoá lòng người. Tôn trọng, yêu thương có sức cảm hoá đến kỳ diệu. Ánh mắt, lời nói và thái độ của Chúa Giêsu đem mùa xuân về cho tâm hồn Giakêu. Những gì xưa nay trói buộc ông, làm cho ông say mê kiếm tìm giờ trở nên vô vị. Giakêu trở nên nghèo hơn trước, nhưng ông lại hạnh phúc hơn xưa nhiều lần. Thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã cao thượng hơn gấp bội. Từ một người đáng khinh, Giakêu bỗng trở thành một người đáng khâm phục. Bởi lẽ, Ông đã gặp được Chúa, được nhận lãnh Ơn Cứu Ðộ của người Mục Tử Nhân Lành đi tìm con chiên lạc.
Kho tàng văn học Thiền có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang bên rồi đứng vào chỗ đó.Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: “Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh!”. Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.
Những lời trách móc, lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc.Nhưng chính thái độ tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Câu chuyện về ông Giakêu cho thấy, thái độ lên án và tẩy chay thường chỉ khiến người có tội thu mình lại và càng dễ dấn sâu hơn vào con đường sai trái của mình; chỉ có một thái độ tích cực có thể giúp họ hồi tâm hoán cải, đó là cởi mở, cảm thông, kính trọng và tùy hoàn cảnh mà nhắc nhở hay sửa dạy với đầy lòng yêu mến.
Giakêu rất cảm động trước sự trân trọng và yêu thương của Chúa Giêsu.Giakêu quyết tâm trở về con đường ngay chính, trước tiên bằng việc thực thi bác ái và công bằng. Cung cách đối xử chan chứa tình người mới là yếu tố chính yếu đem lại thành công trong công việc tông đồ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người mà Chúa Giêsu đã sử dụng để làm nên phép lạ nơi con người Giakêu.
Lạy Chúa Giêsu, tình thương của Chúa đã làm nên bao điều kỳ diệu. Xin dạy chúng con nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa, sống với người khác bằng tình thương, hy vọng vào lòng tốt của mỗi người và tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn. Amen.
38. Khiêm nhường chớ có kiêu ngạo
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Trong kinh Bảy mối tội đầu, Hội Thánh dạy: “Thứ nhất Khiêm nhường chớ kiêu ngạo”. Vì sao chúng ta phải khiêm nhường chớ kiêu ngạo? Vì trong con người chúng ta luôn có hai bản năng khiêm nhường và kiêu ngạo nhưng chúng ta là con người có trí khôn và ơn Chúa giúp chúng ta sống khiêm nhường để trở thành nhân và thành thánh nếu không thì sẽ thất bại, tội lỗi. Chẳng hạn, trong phim “Tây Du ký”, mới đầu con khỉ Tôn Ngô Không mới sinh ra thì ngoan hiền, sau này muốn bằng trời nên mới tự xưng là Tề Thiên Đại Thánh nên mới bị trừng phạt giam cầm dưới núi và sau này cũng không thành Phật. Còn trong Thánh Kinh, chúng ta thấy Thánh Phê-rô, sau một đêm vất vả chài lưới chẳng bắt được con nào, gặp Chúa, Chúa cho mẻ cá đầy thuyền. Đó là thất bại một đêm vì kiêu ngạo không cần Chúa, để ông khiêm nhường chuẩn bị cho thành công một giờ. Lần khác, Ngài đã thất bại một giờ chối Chúa, để khiêm nhường chuẩn cho thành công một đời làm vị thủ lãnh trong khiêm nhường thẳm sâu, và đền bù bằng một tình mến nồng nàn. Rồi, qua lời khiêm nhường của thánh Gioan Tẩy Giả: “Tôi không đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu Thế” (Mt 3, 11). Chúa đã đáp trả bằng một lời tôn vinh mà Ngài có nằm mơ cũng không thấy: “Trong con cái loài người không có ai cao trọng bằng Gioan”. Vì thế, Chúa Giêsu nói: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11), điều đó cũng có nghĩa rằng ai coi mình là con số không, thì sẽ có đủ chỗ cho Thiên Chúa ngự trị. Còn ai cho mình là đầy đủ, thì lại bị loại bỏ, rơi vào con số không.
Vì vậy, khiêm nhường là một nhân đức được Thiên Chúa yêu mến, còn tính tự cao, tự đại, cao ngạo là một mối tội. Khiêm nhường giúp chúng ta đào sâu chố trũng thấp, để đón nhận những hồng ân của Thiên Chúa, mà những hồng ân đó không thể dừng lại ở những đồi núi kiêu ngạo, nhưng chảy xuống và động lại ở những thung lũng dưới chân đồi là khiêm nhường nhìn nhận tội lỗi, phục vụ yêu thương tha thứ và sẻ chia. Còn kiêu ngạo sẽ làm chúng ta tự mãn, bất cần Chúa và mọi người, khinh chê và sống phóng đảng. Cho nên, qua trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải có thái độ khiêm nhường và thống hối trong cầu nguyện để nhờ đó mà không bao giờ kiêu ngạo, khoe khoan, bê bai người khác.
Câu chuyện Chúa Giêsu kể cho thấy thái độ của hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người thu thuế và một người biệt phái, người biệt phái khi lên đền thờ cầu nguyện, gọi là cầu nguyện nhưng thực ra anh ta lên đền thờ để đọc một bài báo cáo thành tích dài trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Ông tự mãn khoe khoang những việc tốt lành của mình. Và ông ta nghĩ rằng nhờ có những việc tốt ấy mà Thiên Chúa phải ban cho ông nhiều ơn khác nữa. Điều đáng chú ý nữa là ông tỏ ra khinh miệt người khác, khi so sánh công trạng mình với người thu thuế tội lỗi, trước mặt Chúa. Thế nhưng, sai lầm lớn nhất của ông là ông tự cho mình làm được mọi sự mà không cần đến ân sủng và sự tha thứ của Thiên Chúa. Ngược lại, người thu thuế không có gì để khoe khoang. Ông biết ông là một tội nhân, ông nói ít lời, nhưng thái độ của ông và lời cầu nguyện khiêm nhường trong tâm tình sám hối, cần được Thiên Chúa tha thứ và xót thương. Ông nhận thấy mình thiếu thốn, yếu hèn, chỉ biết phó thác cho lòng thương xót của Chúa. Ông kêu xin với lòng khiêm nhường và ông đã được Thiên Chúa nhận lời ban ơn tha thứ và ra về nên người công chính. Như Lời Chúa trong bài đọc 1, Sách Huấn Ca dạy: “Vì Đức Chúa là Đấng xét xử, Người chẳng thiên vị ai. Người không vị nể mà làm hại kẻ nghèo hèn, nhưng nghe lời kêu xin của người bị áp bức. Người không coi thường lời khấn nguyện của kẻ mồ côi, hay tiếng than van của người goá bụa”.
Trong đời sống Đạo, chúng ta rất dễ rơi vào lối sống Đạo kể lể công đức với Chúa và với mọi người để rồi chê bai, khinh bỉ người khác: tôi vẫn đi lễ Chúa Nhật mỗi tuần, tôi chẳng trộm cắp giết người hay làm thiệt hại của ai, tôi và gia đình vẫn dâng cúng ủng hộ đóng góp cho nhà thờ cái này, cái kia, tôi còn làm ông này bà nọ trong cộng đoàn…, mà chúng ta quên không biết rằng mình được như thế là do ơn Chúa ban để khiêm tốn tạ ơn Chúa và thờ phượng Ngài trong yêu thương đồng thời biết sẻ chia đồng hành và nâng đỡ người kém may mắn hơn, kém đạo đức hơn hoặc nghèo hơn mình thay vì tự mãn, khinh chê người khác. Bởi lẽ, trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đều là những yếu kém và tội nhân. Cho nên, Thánh Tôma Aquinô nói: “Kiêu ngạo là thích được đề cao hơn người khác, và kiêu ngạo là khoe khoang, là cay đắng, là tàn nhẫn, là chỉ nghĩ đến bản thân, cho nên kiêu ngạo khiến ta đố kỵ nhau. Bởi vậy, muốn yêu thương phải bắt đầu để cho tâm hồn mình thấm nhuần sự khiêm nhường và hiền lành”.
Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa thương giúp mỗi người chúng ta luôn biết sống khiêm nhường nhờ đó biết yêu thương, tôn trọng và nhân ái với tất cả mọi người. Và khi cầu nguyện, chúng ta hãy mượn lời cầu nguyện của người thu thuế mà thưa lên với Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi, con là kẻ thấp hèn yếu đuối, xin nâng đỡ phù trì con” – Amen.
39. Thói giữ đạo thành tích
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Đã từ lâu, nền kinh tế xã hội, văn hóa giáo dục của chúng ta bị mắc vào căn bệnh, gọi là bệnh thành tích, cấp trên chỉ ngồi ở văn phòng và thỏa mãn với những con số báo cáo thành tích của cấp dưới, mà không biết thực tế như thế nào. Các báo cáo toàn là con số ảo, báo cáo láo và chỉ có dân chúng là người thiệt thòi thật, nghèo đói thật. Cũng nhiều lần từ Quốc Hội đến Trung Ương họp bàn và đưa ra kế hoạch chống lại bệnh thành tích này, nhưng dường như vẫn chưa có gì thay đổi, mà ngày càng trầm trọng hơn. Bệnh này không chỉ ở ngoài xã hội, mà có khi nó cũng đang âm thầm ảnh hưởng trong các sinh hoạt của các giáo xứ, giáo phận và giáo hội, khi người ta cũng thỏa mãn với một số công việc bác ái, mục vụ, truyền giáo và nhất là người ta thỏa mãn với các công trình xây dựng bên ngoài mà quên đến chất lượng đời sống đức tin của mình và của người tín hữu, thì đó cũng là bệnh thành tích.
Thời Chúa Giêsu, các Luật sĩ và Biệt phái là nhóm người lãnh đạo tôn giáo cũng đã mắc căn bệnh hình thức và thành tích này, chính vì thế đã nhiều lần Đức Giêsu đã thẳng thắn cảnh cáo lối sống đạo hình thức ở nơi những con người này. Họ giữ đạo không phải vì lòng yêu mến Chúa, họ chu toàn lề luật là để tỏ ra cho mọi người thấy sự thánh thiện hoàn hảo của mình, và họ làm các việc phúc đức là để phô trương với mọi người và để tính công tính điểm với Chúa. Vì thế nhiều lần chúa Giêsu đã không ngần ngại gọi những người này là đồ giả hình, là mồ mả tô vôi xanh đỏ bên ngoài, là kẻ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo đi đứng nghênh ngang để người ta bái chào.
Câu chuyện trong bài Tin Mừng cho thấy thái độ của hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người thu thuế và một người biệt phái, người biệt phái khi lên đền thờ cầu nguyện, gọi là cầu nguyện nhưng thực ra anh ta lên đền thờ để đọc một bài báo cáo thành tích dài trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Thái độ của anh rất nghênh ngang và tự mãn, anh đứng thẳng và nói: Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như bao kẻ khác: tham lam, bất công ngoại tình, hay như tên thu thuế kia, tôi ăn chay một tuần hai lần và dâng một phần mười hoa lợi của tôi. Kể ra như thế, cho thấy, bên ngoài cuộc sống của anh thật hoàn hảo tốt đẹp, nhưng đàng sau lời cầu nguyện ấy lại là một sự khoe khoang về thành tích của mình. Anh nhìn thấy mọi người chung quanh đều thua kém mình về đời sống đạo đức, anh thấy mình hơn hẳn mọi người về đời sống luân lý: Tôi không như bao kẻ khác: tham lam, bất công, ngoại tình. Anh còn so sánh mình và chà đạp lên danh dự và thân phận của người khác khi anh so mình: tôi cũng không như tên thu thuế đang quỳ đàng kia, so với việc đạo đức và đời sống của anh, thì người thu thế chỉ như rơm rác. Chưa dừng lai ở đó, bản báo cáo của anh còn trổi vượt khi anh kể lể: Tôi ăn chay một tuần hai lần, điều này vượt quá cả những đòi hỏi của lề luật, và dâng một phần mười hoa lợi, lại càng chứng tỏ rằng anh ta rất quảng đại để dâng cúng vào đền thờ, nhưng có lẽ anh chưa bao giờ biết chia sẻ và cho đi. Ở điểm này anh lại càng có dịp để hãnh diện với mọi người, và có địp để ném cái nhìn khinh miệt vào người thu thuế là kẻ chỉ biết tham lam vơ vét.
Thế nhưng bản báo cáo thành tích của người biệt phái này lại không phải là điều Chúa muốn nghe và muốn thấy. Điều Chúa muốn thấy và chờ đợi đó là một tâm hồn khiêm nhường, là những lời cầu nguyện chân thành phát xuất từ đáy lòng, từ con tim, và Chúa muốn thấy những tâm hồn dám đặt mình vào tay Thiên Chúa hơn là những người đặt mình vào những công việc mình đã làm. Trái lại người thu thuế đã có tâm tình khiêm nhường trước mặt Chúa, anh nhận thấy mình nhỏ bé và tội lỗi trước sự cao cả và thánh thiện của Thiên Chúa, anh không dám bước lên, không dám dứng thẳng, mà chỉ dám quỳ sấp mình ở đàng xa xa, và đấm ngực thú nhận về những sự bất toàn tội lỗi của mình: Lạy Chúa xin thương xót tôi là kẻ tội lỗi. Anh chẳng có công gì trước mặt Chúa, anh cũng chẳng làm được việc gì nổi bật trước mặt người đời, nhưng anh chỉ có một tâm hồn thống hối sâu xa, để xin sự thương xót tha thứ của Chúa. Chúa Giêsu đã kết luận: Người này ra về thì được nên công chính, còn người kia thì không. Vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Thiên Chúa không ưa những kẻ kiêu căng ngạo mạn, Thiên Chúa ngoảnh mặt làm ngơ trước những kẻ cậy dựa vào bản thân, tiền bạc và của cải vất chất, Thiên Chúa không muốn nghe những lời khoe khoang khoác lác của những kẻ giả hình, trái lại Thiên Chúa yêu mến những người bé nhỏ khiêm nhường, và những người biết cậy trông vào tình thương của Chúa. Tác giả của sách Huấn Ca hôm nay đã đúc kết lại những cảm nghiệm của ông về Thiên Chúa, khi nói: Thiên Cúa là Đấng xét xứ, Ngài không thiên vị ai, Ngài không vị nể ai mà làm hại kẻ nghèo hèn, nhưng lắng nghe lời kêu xin của kẻ bị áp bức, người mồ côi góa bụa. Lời cầu nguyện của kẻ nghèo hèn thì vượt ngàn mây thẳm.
Thưa quý OBACE, bệnh thành tích, lối giữ đạo kể công, có thể nó cũng đang ảnh hưởng trong đời sống đạo của mỗi người, từ các linh mục đến người tin hữu, từ cấp Ban Hành Giáo đến cấp giáo xứ và giáo phận. Người ta rất dễ rơi vào tình trạng huênh hoang khoe khoang về thành tích của ban mình, của nhiệm kỳ mình, của giáo xứ mình, mà lại quên việc canh tân đời sống đức tin, thăng tiến đời sống đạo. Các linh mục rất dễ rơi vào tình trạng an phận với một vài công việc mục vụ của mình, tập trung nhiều vào những hình thức bên ngoài, những công trình vật chất nhiều hơn là xây dựng đời sống cộng đoàn, chú tâm đến những phần nổi mà không quan tâm thao thức về đời sống thiêng liêng, khi nghĩ rằng: tôi vẫn dâng lễ, tôi vẫn cử hành các bí tích, và coi như thế là đủ trong đời sống đạo của cá nhân và của cộng đoàn.
Còn đối với tín hữu, chúng ta rất dễ rơi vào lối sống đạo kể lể công đức với Chúa với mọi người khi cho rằng: tôi vẫn đi lễ Chúa Nhật mỗi tuần, tôi chẳng trộm cắp giết người hay làm thiệt hại của ai, tôi vẫn dâng cúng đóng góp cho nhà thờ, tôi còn làm ông này bà nọ trong xứ, tôi bỏ bào nhiêu công sức, gia đình tôi đóng góp cái này, ủng hộ cái kia…, mà chúng ta quên không làm mới lại tương quan của chúng ta đối với Chúa, không làm phong phú đời sống đức tin, như thế, thì có khác gì người biệt phái trong cầu chuyện của tin Mừng hôm nay.
Như đã chia sẻ ở trên, điều mà Chúa muốn và chờ đợi ở chúng ta là một thái độ khiêm nhường, nhận ra sự yếu hèn thấp kém và tội lỗi của mình, và đến với Chúa để cầu xin sự thương xót và tha thứ. Nhận thật mình là kẻ tội lỗi yếu đuối, điều đó không làm giảm giá trị con người, trái lại nó giúp chúng ta biết khiêm tốn hơn, chân thành hơn khi đến với Chúa và với anh em. Nhận mình là kẻ tội lỗi và xin sự thương xót như người thu thuế trong câu chuyện, là nhận mình cần đến sự trợ giúp và tình yêu của Thiên Chúa, để mình cố gắng hơn nữa, sống tốt hơn nữa.
Lối sống đạo hình thức, thành tích nó cũng đang thể hiện nơi nhiều gia đình, nơi các bậc làm cha mẹ, nhiều người đến với Chúa mà còn tính toán thiệt hơn, sống đạo chỉ là để tránh không phạm luật, không bỏ lễ, mà quên đi điều tích cực và cần thiết, đó là tấm lòng của chúng ta khi đến với Chúa. Vì chỉ để tránh phạm luật, mà nhiều người đến với Chúa hết sức tính toán từng phút, đi trễ về sớm, hoặc là chỉ đến nhà thờ cho có hình thức qua lần, gọi là có đi lễ ngày Chúa nhật mà không hề có một chút tâm tình tạ ơn hoặc thành tâm sám hối.
Cũng như người biệt phái trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, khi đến nhà thờ anh ta đã chỉ còn mân mê với những thành tích của mình mà không nhìn thấy Thiên Chúa nữa, nhiều bạn trẻ ngày nay cũng vậy, bên ngoài họ tự hào, tự mãn về sự thành công và đẳng cấp của mình trong xã hội, nhiều người nghĩ mình đã làm được nhiều thứ, và tự mình có thể giải quyết được tất cả công việc, và không nhìn thấy Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời của mình, vì thế, họ đến với Chúa với một thái độ hời hợt, như một chương trình đã được cài đặt sẵn, mà không có một tâm tình khiêm nhường sám hối.
Hãy cùng với người thu thuế hôm nay, quỳ gối, đấm ngực mà thưa lên với Chúa: Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Chúa sẽ nhìn thấy sự khiêm nhường thành thật của chúng ta và sẽ nhận lời cầu xin và biến đổi chúng ta nên công chính. Amen.
40. Biết mình
Ai nâng mình lên, thì sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên.
Đó chính là tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động của chúng ta, bởi vì ai khiêm nhường thì sẽ trở nên to lớn, còn ai kiêu ngạo sẽ trở thành nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa.
Hơn thế nữa, Chúa thường chống đối kẻ kiêu ngạo và ban ơn phúc cho người khiêm nhường.
Tuy nhiên, điều kiện đầu tiên để sống khiêm nhường, đó là phải biết mình.
Thực vậy, chúng ta thường biết nhiều sự, nhưng có một điều chúng ta cần phải biết thì lại không biết, đó là biết chính bản thân, biết chính con người mình. Và tâm hồn mình vẫn mãi mãi là một vùng đất xa lạ nhất.
Dân ngoại thời xưa cũng đã biết tới tầm mức quan trọng của việc biết mình. Thực vậy, trên cửa đền thờ kính thần Apollo tại Delphes có khắc ghi câu này:
– Hãy biết mình.
Người Trung Quốc cũng bảo:
– Tri bỉ, tri kỷ, bách chiến bách thắng. Biết mình, biết người trăm trận đều thắng.
Và thánh Augustinô thường cầu nguyện:
– Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con.
Sở dĩ như vậy vì nếu không biết mình, thì cũng chẳng thể nào sống khiêm nhường. Mà đã không khiêm nhường, thì chẳng thể nào có nhân đức. Mà đã không nhân đức, thì chẳng thể nào vào được Nước trời.
Ai muốn tập luyện các nhân đức, mà không thực thi khiêm nhường thì cũng chỉ là như bụi bay trước gió. Ai không biết mình, thì làm sao có thể sửa chữa những sai lỗi để trở nên hoàn thiện. Họ không có lấy một cố gắng để thăng tiến, bởi vì họ luôn tự mãn với chính mình. Họ giống như một chiếc đồng hồ đã chết.
Tuy nhiên, biết mình không phải là chuyện dễ. Bởi vì không có một cái thước nào chính xác để đo được thẳm sâu cõi lòng.
Trong kinh Kính mừng, chúng ta thường đọc:
– Cầu cho chúng con là kẻ có tội.
Khi tâm hồn trong sạch, thì chỉ một vết nhơ rất nhỏ bé cũng đủ đập vào mắt chúng ta. Chính vì thế, những người đạo đức thường có nhiều điều để xưng thú trong tòa giải tội. Thậm chí có những vị thánh xưng tội mỗi ngày. Còn chúng ta, một khi tâm hồnđã phủ đầy bùn nhơ, chúng ta không còn cảm thấy những dấu vết của nó nữa và chúng ta thường tự nhủ: – Tôi chẳng có tội gì để mà xưng thú cả.
Hay: – Năng xưng, không bằng năng chừa.
Và chúng ta trở thành những kẻ mù lòa, có mắt mà không nhìn, có nhìn thì cũng chẳng thấy.
Lý do khiến chúng ta khó nhận biết mình, đó là tính kiêu ngạo, đó là tinh thần Pharisêu.
Chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ trước mặt đặt những sai lỗi của người khác, còn cái giỏ sau lưng đặt những sai lỗi của bản thân. Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ những sai lỗi của người khác, để rồi lên tiếng phê bình và chỉ trích một cách thậm tệ. Trong khi đó, những sai lỗi của bản thân thì lại chẳng nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy thì cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bào chữa.
Chúng ta thường cư xử hà khắc đối với người khác mà khoan dung với chính bản thân. Đáng lý ra chúng ta phải khoan dung với người khác mà hà khắc đối với chính bản thân mình.
Vậy có phương cách nào giúp chúng ta biết mình hay không?
Trước hết, chúng ta phải tìm hiểu về tính tình và những sai lỗi của mình. Đâu là điều tôi hay vấp phạm nhiều nhất? Đâu là điểm yếu, đâu là “mối tội đầu” của tôi để rồi bắt tay vào việc sửa đổi.
Tiếp đến là hãy tự vấn lương tâm xem những cám dỗ nào là những cám dỗ tôi thường xuyên gặp phải? Cách thức chống trả của tôi như thế nào? Và tại sao những cám dỗ ấy lại làm cho tôi vấp ngã?
Rồi cũng hãy tự kiểm điểm xem tình trạng đạo đức hiện giờ của tôi ra làm sao? Khô khan và nguội lạnh hay chăm chỉ và sốt sắng?
Và sau cùng, đừng bao giờ quên đi một phương pháp chính yếu đó là sự cầu nguyện. Hãy suy nghĩ và hỏi Chúa trong thinh lặng. Hãy nhìn vào Chúa và chúng ta sẽ thấy được con người thực của mình.
Chỉ khi nào biết mình, thi chúng ta mới thực sự bắt đầu trở nên trọn lành. Hay như lời thánh nữ Têrêsa đã nói:
– Nhận biết mình nhỏ bé thì có giá trị và lợi ích hơn là nhận biết những chân lý cao vời.
41. Khiêm nhường
Chúng ta vừa nghe thánh Luca kể lại một dụ ngôn rất hay, dụ ngôn nêu lên hai nhân vật tương phản, có thể nói là hai thái cực của xã hội Do thái thời ấy: biệt phái và thu thuế. Anh biệt phái là hình mẫu của người giữ đạo tốt, anh thuộc nhóm đạo hạnh. Còn người thu thuế là hình mẫu của loại tội nhân công khai, bởi thu thuế là phục vụ nền hành chính xâm lược, anh bị xếp vào loại hàng ngũ bất hảo. Thế nhưng anh thu thuế lại được Đức Giêsu khen vì anh đã khiêm nhường.
Dụ ngôn ngày hôm nay cũng như nhiều dụ ngôn khác mà thánh Luca ghi lại cho thấy rằng: Đức Giêsu luôn đứng về phía những người tội lỗi để bênh vực, giúp đỡ họ và Ngài luôn lên án những người biệt phái. Thế nhưng chúng ta hãy coi chừng có thể mình sẽ kết án người biệt phái ở những khía cạnh không chính đáng. Thực vậy, khi so sánh người biệt phái: đứng, còn người thu thuế: quì gối khi họ cầu nguyện mà có người cho đó là kiêu ngạo và khiêm nhường. Thực ra đứng khi cầu nguyện là một thái độ rất thường làm của người Do thái. Người khác nữa khi nghe lời cầu nguyện của người biệt phái chỉ thấy anh ta cảm tạ, tri ân mà không van xin gì thì cho đó là kiêu ngạo. Chúng ta phải công nhận đó là lời cầu nguyện hết sức tuyệt hảo. Cầu nguyện không chỉ để xin mà còn để tạ ơn nữa. Vậy, Đức Giêsu không căn cứ vào bên ngoài để kết án anh biệt phái.
Thế thì tại sao người biệt phái này bị Đức Giêsu kết án? Để trả lời được chúng ta nên xác định trong dụ ngôn hôm nay ai là nhân vật chính: anh biệt phái hay anh thu thuế? Xin thưa cả hai người này đều không phải là nhân vật chính. Để ý kỹ chúng ta sẽ thấy cả hai người đang ở trong đền thờ. Vậy nhân vật chính của dụ ngôn này là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa như chúng ta đã nghe trong bài đọc 1: “Người là Thần chí công, không nể mặt giàu để hại nghèo. Người nghe kẻ oan khổ kêu xin”. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu nỗi lòng của người nào cần đến Ngài. Vậy vấn đề then chốt nằm ở chỗ: Anh thu thuế rất cần Thiên Chúa thương xót, trong khi anh biệt phái không cần. Thực vậy, Phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy rất rõ: anh biệt phái chỉ nhìn sau lưng anh, anh tự mãn vì sự quảng đại và hiệu quả của những cố gắng riêng mình, còn anh thu thuế thì nhìn trước mặt mình và xin Chúa giúp; anh biệt phái nhìn chính mình, còn anh thu thuế nhìn vào Thiên Chúa và đó là điều cứu vớt anh. Thay vì đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa và phó thác bản thân cho Người, thì anh biệt phái đã đặt Thiên Chúa trước sự hiện diện của anh và “bắt Chúa” phải “chuẩn nhận” những gì anh có. Anh biệt phái đã đi đến chỗ quên mất Chúa, Chúa chỉ đóng vai phụ, còn anh mới là vai chính.
Các việc lành thánh, đạo đức của anh biệt phái thiết nghĩ là Thiên Chúa có ghi nhận. Nhưng có một điều anh quên mất là chỉ mình Thiên Chúa mới xét đoán ai là người công chính mà thôi, trong khi anh đã thay Chúa làm việc này: tự hào về mình, tự cho mình là “đạo đức”.
Người ta kể rằng có một vị quan nọ đi thăm trại giam. Các tù nhân khi thấy ngài thì ai cũng nói họ vô tội, họ bị oan, (trong khi việc họ bị giam là do chính vị quan này trước khi xét xử). Duy chỉ có một tới trước mặt vị quan và nói: tôi bị tù là đáng với tội của tôi. Nghe thấy thế, vị quan đã tuyên bố một câu làm mọi người quá bất ngờ: “Tôi thấy ở đây ai cũng vô tội, chỉ có anh này đây là người có tội vậy thì chúng ta phải tách anh ta ra khỏi đám người kia, bằng cách đem anh ra ngoài vì sợ mọi người bị “nhiễm” bởi tội của anh”.
Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta hãy sống tâm tình phó thác, khiêm nhường như anh tội nhân trên đây hay như anh thu thuế trong dụ ngôn. Thiên Chúa sẽ đánh đổ niềm tự tin của những kẻ tự xưng mình “đạo đức”, nhưng cũng chính Ngài sẽ làm cho nên công chính những ai biết khiêm nhường, phó thác. Hiểu như thế thì mọi việc đạo đức chúng ta làm như: dâng lễ, đọc kinh, ăn chay, bố thí… có ích gì đâu nếu chúng ta không lồng nơi đó một tâm tình khiêm nhường, phó thác cho Chúa vì mình “đã làm những việc phải làm”. Ngược lại, tội lỗi chúng ta có đáng gì đâu đối với Chúa một khi mình biết thống hối, tin vào lòng Chúa xót thương và chính Chúa sẽ nâng chúng ta lên để ta được công chính hóa.
Họp nhau đây để cử hành thánh lễ “tạ ơn”, chúng ta hãy có nơi mình sự khiêm nhường trước thánh nhan và như thế ta mới có thể để cho lòng mình trào lên lời cầu nguyện rất tuyệt vời như thánh Augustinô: “Lạy Chúa, con xin cảm tạ Ngài. Vì con có thể nghĩ đến tội lỗi của mình, mà vẫn không bị nó đè bẹp”.
42. Xưng thú
Lời cầu nguyện của người Pharisêu như sau: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”.
Lời cầu nguyện của người thu thuế cũng có thể theo cách đó: “Lạy Chúa, Chúa hãy nhìn người Pharisêu đứng ở đàng kia để mọi người có thể nhìn thấy ông ta cầu nguyện. Ông ta nghĩ ông ta tốt hơn những người khác. Ông ta khinh bỉ những người như con. Chúa hãy nhìn cái áo dài ông ta đang mặc như để làm cho ông ta cảm thấy mình thánh thiện và làm người ta chú ý đến ông ta.
“Ông ta đã làm mọi việc không phải để đem lại vinh quang cho Chúa, mà để được những người khác tôn trọng, và do đó đem lại vinh dự cho ông ta. Ông chắc sẽ chiếm được chỗ ngồi danh dự trong những bữa tiệc và trong hội đường. Ông thích được người ta chào ông trên phố và gọi ông bằng “tôn sư”.
“Ông ta rất sốt sắng và lo lắng về những luật chi li ngớ ngẩn theo cách giữ luật của ông ta trong lúc thờ ơ với những điều thật sự là quan trọng, đó là thực hành sự công bằng và lòng thương xót. Ông ta trình bày luật pháp cho người khác rất hay. Ông ta phải thực hành điều ông ta rao giảng. Ông ta sống trên sự đóng góp của các bà góa.
“Ôi lạy Chúa, Chúa đừng tin vào ông ta. Tất cả chỉ là một màn trình diễn. Ông ta không chân thật. Nhìn bên ngoài, ông ta có vẻ trong trắng, giống như mồ mả quét vôi trắng, nhưng bên trong đầy những sự thối rữa. Ông ta là một kẻ giả hình khổng lồ trên đôi chân mình”.
Người thu thuế có thể nói tất cả những điều ấy hoặc hơn thế nữa. Và Chúa phải nói thêm: “Cha đồng ý với mọi lời con nói”. Bởi lẽ chính Chúa cũng sẽ nói những điều ấy về người Pharisêu. Nhưng người thu thuế không nói điều gì theo cách đó. Ông chỉ nói đơn giản: “Lạy Chúa, xin thương xót con là người tội lỗi”.
Điều mà người Pharisêu đã làm là cáo tội người khác, đồng thời phô trương những công việc tốt của ông ta. Người thu thuế đã làm điều ngược lại. Ông này xưng thú tội lỗi của mình và để tội lỗi của những người khác cho Chúa xử lý. Kết quả là người thu thuế về nhà và được nên công chính còn người Pharisêu thì không. Chúng ta nghe Đức Giêsu nói rõ điều đó.
Người ta dễ có thói quen cáo tội người khác. Nhưng điều này nguy hiểm bởi vì nó ngăn cản chúng ta nhìn vào tội lỗi của chính mình. Mặt khác, người ta không thể cân nhắc tội lỗi của người khác mà không để cho tính chủ quan của mình chen vào làm thiên lệch.
Người thành công luôn bị cám dỗ nhìn sự thành công của mình như một sự chúc lành của Thiên Chúa hoặc một phần thưởng vì mình sống công chính. Điều này dẫn người ta đến chỗ phán xét người không thành công và cho rằng người này vừa không bác ái, vừa không chân thật.
Chúng ta đi đến chỗ tin rằng mình phải được sửa sang tề chỉnh cả bên ngoài lẫn bên trong trước rồi mới dám trình diện với Giáo Hội của Người. Nhưng chúng ta phải đến trước mặt Thiên Chúa bằng con người thật của mình. Bởi lẽ như thánh Phanxicô Atxidi nói: “Tôi ở trước mặt Thiên Chúa với con người thật của tôi. Không là cái gì khác. Không hơn. Không kém”.
43. Chấp nhận sự thật về chính mình
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Người khiêm nhường là người chấp nhận sự thật về chính mình. Họ không khinh thường ai. Người khiêm nhường chấp nhận và tôn trọng tha nhân, bởi đó tha nhân thoải mái khi sống với họ.
Nét đẹp của người thu thuế
Người biệt phái trong dụ ngôn nhận ra anh ta không tham lam, bất chính, ngoại tình. Tuy nhiên, anh ta lại đánh giá người khác thấp hơn mình. Anh ta khinh người thu thuế đang cầu nguyện dưới cuối hội đường. Thái độ coi khinh người khác, không đẹp lòng Thiên Chúa.
Nét đẹp của người thu thuế, là thái độ khiêm nhường, nhận ra sự thật về chính mình: “Tôi là người tội lỗi”. Anh ta không so sánh mình với người khác, không khinh người khác, nhưng nhận mình nhỏ bé thấp hèn. Thái độ của anh ta, được Thiên Chúa thương: anh ta ra về và được khỏi tội.
Trong cuộc sống, nhiều người bị coi là người xấu, nhưng chắc gì tôi tốt hơn những người đó? Khi tôi xét đoán người khác, coi thường người khác, khinh người khác, là tôi đã không sống giới răn yêu thương. Khi cho người khác dở hơn mình, tôi đã dành quyền xét đoán của Thiên Chúa. Khi khinh thường người khác, tôi không còn đẹp nữa. Lúc đó, tôi không tôn trọng họ, và như vậy tôi không sống hạnh phúc; và tôi cũng không để người đó hạnh phúc với tôi. Một người khiêm nhường, là người có thể sống với người khác, và để người khác sống thoải mái hạnh phúc với mình.
Khiêm nhường: tuyên dương những gì Thiên Chúa làm cho mình
Thánh Phaolô trong thư gởi Timôthê hôm nay, tin rằng Ngài sẽ được hưởng triều thiên công chính. Nhận sự thật về mình, ngay cả khi mình được những điều tốt, không phải là kiêu ngạo. Phaolô tin mình sẽ được thưởng công, và Ngài biết người khác cũng được vậy nếu họ mong chờ ngày Chúa xuất hiện. Hơn nữa, khi nhận rằng những gì mình được, là hồng ân của Thiên Chúa, đó cũng là hành vi khiêm nhường, vì đã trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Ngài.
Không đặt mình trên người khác, nhận rằng người khác có thể có những điều tốt hơn mình, đó là thái độ của những người khiêm nhường. Những gì mình có hay hơn người khác, không phải do mình, nhưng đó là hồng ân “nhưng không” Thiên Chúa ban cho mình, thế nên mình chẳng có gì để vênh vang hoặc khinh thường người khác khi họ không có điều đó.
Người khiêm nhường không xét đoán
Thiên Chúa là Đấng công bình, Ngài không thiên tư tây vị, Ngài không đứng về phía người giầu hoặc người thế lực; trái lại, Ngài ở bên người nghèo, Ngài nghe tiếng kêu xin của người nghèo. Một trong những cách nói Thiên Chúa nghe tiếng kêu xin của người nghèo, là “lời cầu nguyện của người nghèo không bị bỏ qua cho đến khi đạt được mục đích, nghĩa là, cho đến khi Thiên Chúa nhận lời”, “lời cầu nguyện của người nghèo vượt quá tầng mây”.
Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán. Không kết án người khác. Những điều người khác làm dở, có thể có những lý do mà mình không hiểu được. Thiên Chúa biết lòng người, mình không thể hiểu được những hoàn cảnh cụ thể, để mà phán xét kết tội họ. Người có lòng thương xót không sợ ngày phán xét, vì họ sẽ được thương xót và được phán xét như họ đã thương xót người khác. Không xét đoán người khác, không khinh người khác, là một hành vi vượt thắng chính mình.
Khiêm nhường không là nhu nhược, không là sợ hãi người khác, không là ngu dốt. Người khiêm nhường có thể rất thông minh, có thể đoán được những gì người khác sẽ làm, nhưng họ cũng nhận ra rằng, có thể có những lý do mà họ không hiểu được. Vì tôi không biết hết, nên tôi không phán đoán và kết án ai. Thiên Chúa là Đấng biết tất cả, Ngài sẽ phán xét con người. Có người muốn khẳng định Yuđa xuống hoả ngục! Nhưng, làm sao tôi biết được! Tại sao tôi đòi thay chỗ Thiên Chúa để đưa ra lời phán quyết. Tại sao tôi không nghĩ rằng Yuđa có thể hối hận vào giây phút cuối đời? Nếu muốn phán đoán, hãy có tình yêu của Thiên Chúa, để không phán đoán kết tội ai.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Khi phán đoán kết tội người khác, tôi được gì?
2. Nhận ra nét đẹp của người khác, có giúp tôi sống hạnh phúc hơn không? Tại sao?
3. Tại sao bạn thích sống với người khiêm nhường, hơn sống với người kiêu ngạo?
44. Mãnh lực lời nguyện – Lm. Minh Vận, CRM
Xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, người ta thường phân thành hai đẳng cấp cách biệt nhau, đôi khi còn đối nghịch miệt thị nhau, như chúng ta thấy Chúa đề cập tới trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay.
Thượng cấp: Các thầy thông giáo, biệt phái, luật sĩ và phái pharisiêu là bậc thầy được dân chúng tôn là hàng đạo đức, người công chính. Vì thế, họ thường được trọng kính, được bái chào ngoài đường phố, dành chỗ danh dự nơi bàn tiệc, chiếm chỗ nhất nơi hội đường; mang y phục lộng lẫy, tua rua dài, thẻ bài lớn, huy chương đầy ngực.
Hạ cấp: Trái lại, các nhân viên thâu thuế lại bị liệt vào hạng người tội lỗi, kẻ bất lương đáng khinh bỉ; vì họ là những viên chức của chính quyền Roma, như những tay sai của ngoại bang, tôi tớ của đế quốc, những hạng người bị gọi là mọt dân, đục khoét, hối lộ, hà hiếp, bóc lột dân chúng.
I. ĐỂ CẢNH TỈNH NGƯỜI KIÊU CĂNG
Để cảnh tỉnh những con người kiêu căng, tự cao, tự đại, tự tôn mình là người công chính và khinh dể kẻ khác, Chúa đã nêu ra một dụ ngôn hai người lên Đền Thờ cầu nguyện:
Người biệt phái với điệu bộ huênh hoang, thay vì dâng lời ngợi khen chúc tụng Chúa, ông ta lại liệt kê một loạt những công phúc việc lành ông đã thực hiện; thay vì thống hối xưng thú tội lỗi mình để cầu xin Chúa tha thứ, ông lại phang phui các tội lỗi của người khác. Sau cùng, ông đã tự mãn kết tội: “Tôi không như tên thu thuế khốn nạn tội lỗi dưới kia”. Trái lại, người thu thuế, tự cảm thấy mình là kẻ tội lỗi, khép nép đứng đàng xa mãi cuối Đền Thờ, cúi đầu không dám ngước mắt nhìn lên, đấm ngực khẩn cầu ơn tha thứ: “Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ tội lỗi”. Để kết thúc dụ ngôn, Chúa đã quả quyết: “Người thu thuế ra về được khỏi tội, còn người biệt phái không đáng lãnh nhận ơn tha thứ “. Rồi Chúa kết luận: “Vì, tất cả những ai tự tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống và những ai tự hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.
II. MÃNH LỰC CỦA LỜI CẦU KHIÊM TỐN
Lời cầu nguyện của những kẻ khiêm tốn có một mãnh lực vô song, vì họ luôn chân nhận mình là một thụ tạo, có nghĩa vụ phải tôn vinh ca ngợi Đấng Tạo Hóa; họ ý thức thân phận thụ tạo của mình là phải hoàn toàn tùy thuộc Đấng dựng nên mình, như những kẻ thụ ân luôn phải cảm tạ Chúa, vì muôn ơn phúc Người đã ban; họ thú nhận mình chỉ là những tội nhân đáng Chúa trừng phạt, nên họ cần phải thống hối ăn năn và khẩn cầu ơn Chúa tha thứ tội lỗi. Sau cùng, họ tự cảm nhận được diễm phúc làm con cái Chúa, nên họ phải luôn dâng lời cảm tạ Chúa là Cha Nhân Từ hằng ban muôn vàn ơn lành cho họ và họ cố gắng sống hết tình con ngoan thảo đối với Chúa.
Vì thế, lời cầu của người khiêm tốn dâng lên được Chúa đoái thương chấp nhận, tha thứ tội lỗi và ban muôn phúc lành cần thiết. Đúng như lời Thánh Phêrô đã quả quyết: “Chúa hằng ban ơn cho người khiêm hạ; nhưng Chúa chống lại kẻ kiêu căng tự phụ”.
Ngoài ra, lời cầu của người khiêm tốn còn có thế lực chinh phục tha nhân trở về với Chúa. Câu truyện sau đây minh chứng điều đó: Bà Dorothy Day từ trần tháng 11, 1980, hưởng thọ 84 tuổi. Khi tường thuật về cái chết thánh thiện của bà, tời báo New York Times đã kể bà là một nhân vật có thế lực nhất trong lịch sử Công Giáo Hoa Kỳ. Sau ngày bà từ giã cõi đời, người ta đã khơi dậy một phong trào, vận động xin Giáo Hội phong Thánh cho bà, vì cuộc đời thánh đức và các công việc từ thiện bái ái bà đã thực hiện để cứu giúp những người nghèo đói túng thiếu ở thành phố New York.
Trong cuốn sách nhan đề: “From Union Square to Rome”, bà đã tự thuật cuộc trở lại Công Giáo của bà như sau: “Một điều lôi cuốn tôi trước hết, là một hôm, tôi thấy hình ảnh một bà mẹ đang quì đăm chiêu sốt sắng cầu nguyện. Hình ảnh ấy đã lay động lòng tôi cách mãnh liệt và sâu xa, đến nỗi không bao giờ tôi có thể quên được”. Cũng trong cuốn tự thuật đó, bà còn viết: “Trong những ngày đầu khi tôi mới trở lại, tôi thường nghỉ đêm ở quán trọ, để sáng mai tôi có thể tới dự Thánh Lễ sớm tại nhà thờ Thánh Giuse; điều lôi cuốn tôi đến nhà thờ này, là tôi được thấy người ta quì cầu nguyện cách sốt sắng”. Bà còn quả quyết: “Tôi khát khao được Đức Tin như họ, và bỗng nhiên tôi được ơn tin vào Chúa, nên tôi đã quyết tâm gia nhập Giáo Hội Công Giáo”.
III. SỰ SÁNG CÁC CON PHẢI CHIẾU GIÃI
Mãnh lực nào đã chinh phục bà Dorothy Day từ một người ngoại trở lại Công Giáo? Sức mạnh nào đã biến đổi con người của bà, từ một người phụ nữ tầm thường đã trở nên một người thánh thiện, hăng say xả thân phục vụ trong công cuộc từ thiện bác ái, cứu giúp những người nghèo khó cùng khổ? Đó chính là hấp lực gương sáng của những người có Đức Tin vững mạnh khi họ khiêm tốn sốt sắng cầu nguyện.
Một Cha già Việt Nam, dâng Thánh Lễ trong một cộng đồng người Mỹ. Sau Thánh Lễ, một số người đã tới bày tỏ: “We are very happy to attend your Mass”. Ngài hỏi: “Why?” Họ đã trả lời: “You believe what you do”.
Những người đã từng được chứng kiến Đức Thánh Cha Piô XII cầu nguyện, đều đồng thanh quả quyết: “Ngài giống như một Thiên Thần sốt mến”.
Cha Thánh Gioan Maria Vianney thường xuyên thấy một ông già nông dân vào nhà thờ quì gối thầm lặng, mắt đăm chiêu nhìn lên nhà tạm Thánh Thể Chúa cách sốt sắng phi thường. Một hôm, ngài hỏi cho biết ông cầu nguyện thế nào, mà không thấy ông nói gì với Chúa. Ông trả lời đơn sơ: “Je Le vois, Il me voit. Ca suffit”. Xin tạm dịch: “Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con. Thế là đủ rồi”.
Một cụ già nhà quê, là một trong những người được mời đến thẩm vấn, để lập án xin phong Thánh cho Cha Gioan Maria Vianney, đã được ông phát biểu một nhận định thâm thúy về Cha Gioan Vianney như sau: “Tôi nhìn thấy Thiên Chúa nơi con người Cha Gioan Vianney”.
Kết Luận
Khi dâng hay tham dự Thánh Lễ, tham dự các giờ phượng tự hay bất cứ một việc đạo đức nào, chúng ta có cảm nghiệm được rằng: Chúng ta đang được diễm phúc diện kiến với Thiên Chúa, tâm sự với Đấng thánh thiện và uy linh cao cả, Đấng đáng yêu mến vô cùng, Đấng mà các Thần Thánh trên trời, các chính nhân dưới thế và muôn loài muôn vật phải hết lòng yêu mến, phụng thờ, kính tôn?
Khi giao tiếp với tha nhân, nhất là khi chúng ta làm việc phụng sự Chúa, người ta đã gặp thấy Thiên Chúa nơi chúng ta và cảm nghiệm được Thiên Chúa đang tưởng nghĩ, nói năng và hành động nơi con người chúng ta chưa?
45. Xin đừng mưa trong ngày vui của tôi
“Mật ngọt đời sống và quả cầu bơ mặt trời / xin đừng giăng mây bao phủ / để rồi mưa rơi trong ngày vui của tôi.” Đó là những lời ca của nữ ca sĩ Barbra Streisand hát trong đĩa nhạc nổi tiếng của cô cách đây ít năm: “Xin mưa đừng rơi trong ngày vui của tôi.” Nhưng tôi lại nghĩ rằng băng nhạc Mills Brothers cũ cách đây mấy thập niên lại gần với sự thật hơn khi họ hát, “Mưa sẽ rơi trong mỗi cuộc sống.” Dĩ nhiên ai chẳng muốn sống vô tư dưới ánh mặt trời. Chúng ta đâu muốn giáp mặt với những biến động và nguy cấp như: bệnh tật, đau đớn, khổ sở, chia ly và chết chóc. Ai trong chúng ta đều muốn hát, “Xin đừng mưa trong ngày vui của tôi!” Thế nhưng, ngay khi chúng ta còn đang hát, thì mây đen bao phủ, mưa bắt đầu rơi, và bệnh tật xảy đến, hay người thân yêu của ta giã từ cõi đời, hoặc mối giây yêu đương đứt quãng, hay như những vấn đề kinh tế gia đình đè bẹp chúng ta. Chúng ta không cần phải dẫn chứng thêm nữa để có thể nhận ra rằng bài hát xưa đúng với sự thật hơn: “Mưa sẽ rơi trong mỗi cuộc sống.” Thử thách thật sự của đời sống là không phải ta sống thế nào dưới ánh dương quang, mà là ta sống thế nào dưới cơn mưa.
Khi Chúa Giêsu ban Bài Giảng Trên Núi như một bức ảnh tuyệt mỹ của đời sống, Ngài kết thúc bài giảng đó bằng sự nhấn mạnh rằng đó là sự thật. Ngài nhắc nhở mọi người rằng các biến cố sẽ xảy đến; nghĩa là mưa sẽ rơi trong mỗi cuộc sống của mọi người. Khi trình bày bức ảnh rõ ràng của một cuộc sống sẽ được chúc phúc, no thoả, và xứng danh con người, thì Ngài đã kết bằng những biến cố đó. Ngài dùng dụ ngôn về hai người xây nhà, một người xây trên nền cát và người kia xây trên nền đá. Khi mùa lũ đến, ngôi nhà xây trên cát hoàn toàn bị tàn phá. Còn ngôi nhà kia vì được xây trên đá nên vẫn kiên vững với bão giông. Để dễ hiểu dụ ngôn này, các bạn nên biết là nơi Đất Thánh nơi Chúa Giêsu giảng, thì mưa đổ xuống theo mùa. Trong mùa khô, tức mùa không có mưa, thì có rất nhiều nơi để bạn chọn xây nhà. Nhưng phải cẩn thận, vì biết đâu chỗ bạn chọn lại là giữa lòng sông đang bị khô nên khi mà mưa đến thì nhà bạn sẽ bị chìm dưới 50 hay 60 thước Anh. Chúa Giêsu dùng sự thật của đời sống này ở Đất Thánh mà làm bình phong cho dụ ngôn của Ngài. Ngày dạy rằng bạn hãy cẩn thận khi xây nhà vì chắc rằng mưa bão sẽ đổ xuống trên nó, và chỉ có nhà nào xây trên nền đá mới đứng vững mà thôi. Chúa Giêsu đã kết Bài Giảng Trên Núi bằng sự thật đó.
Nhưng nó có liên quan gì đến chúng ta? Nền đá là gì? Xây dựng trên cái gì để nó có thể giúp ta đứng vững khi những biến cố và nguy cấp chắc chắn xảy đến trong đời sống chúng ta? Đơn giản đó là sự tín phục nhưng lại ít người biết đến. Với tài năng độc đáo của một vị Thầy, Chúa Giêsu đã dễ dàng hướng dẫn chúng ta qua Bài Giảng Trên Núi để vào thực tế. Trước tiên Ngài đưa ra hai lối, đó là 2 con đường rộng và hẹp. Rồi Ngài đề cập đến 2 loại cây đó là tốt và xấu. Xong Ngài nói về 2 căn nhà được xây trên cát và đá. Điều gì làm khác biệt trong mỗi loại của ba trường hợp trên? Tôi xin được trả lời bằng lời của Chúa Giêsu: “Không có ai nói lạy Chúa, lạy Chúa mà vào được Nước Trời, trừ những người làm theo ý Cha Ta” (Mt. 7:21).
Người xây nhà trên đá là người nghe và thực hành Lời Chúa. Chúng ta nghe được trong Bài Phúc Âm hôm nay là: “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lk. 18:14). Sự kiêu căng và dại dột của những người Pharisêu là tự nghĩ họ tốt lành hơn người khác và như thách thức Thiên Chúa tìm ra lỗi lầm trong đời sống của họ. Đó là họ tự xây nhà trên cát sỏi trơn tuột của chính bản thân và ý riêng họ. Người tội lỗi khôn ngoan và khiêm nhượng tự nhận mình có những vấn đề và sẵn sàng bỏ ý riêng mình mà theo ý Chúa, đó là người xây nhà mình trên nền móng bằng đá của sự vâng phục. Thiên Chúa là Chúa Nhân Từ mời gọi chúng ta dâng trót cuộc sống theo luật Ngài, nhưng Ngài không thúc ép chúng ta. Ngài không bắt buộc bất cứ ai. Đó phải là sự tự tình chấp nhận Thánh Ý Ngài, ước muốn sống theo như Ngài muốn chúng ta sống, nhờ đó mà ta có thể trở nên như Thiên Chúa muốn chúng ta trở nên.
Ngay bây giờ các bạn có thể đang ngồi đó và mọi sự coi như tốt đẹp đối với các bạn. Nhưng trước khi ngày tàn, biết đâu tang thương sẽ đến với các bạn, ấy là mưa rơi trong ngày vui của các bạn. Các bạn không thể biết điều gì xảy ra ở góc quẹo kế tiếp…! Đời sống là thế đấy. Có những lúc đau thương nối tiếp nhau. Các biến cố dồn đống lên, và thế là chúng ta phải chiến đấu với chúng. Đôi lúc chúng ta cảm thấy như anh chàng trong câu truyện “Con Chó Xồm.” Trở về nhà sau một cuộc hành trình lâu ngày và được viên tài xế đón ở sân ga, anh chàng hỏi, “Có gì xảy ra khi tôi vắng nhà không?” Người tài xế trả lời, “Dạ không có gì đặc biệt, ngoại trừ con chó xồm của ông chủ bị chết.” “Trời ơi! sao con chó của tôi lại chết?” “Dạ, tại nó ăn thịt con ngựa bị chết cháy,” người tài xế tài xế trả lời. “Hả! ăn thịt con ngựa bị chết thiêu?” “Vâng ạ, con ngựa bị thiêu chết khi chuồng ngựa bị cháy.” “Chuồng ngựa bị cháy?” “Vâng, chuồng ngựa bị cháy vì nhà bị bắt lửa.” “Bắt lửa từ nhà của tôi?” “Vâng thưa ông, nhà bị cháy vì nến của đám tang ạ.” “Hở! sao lại nến đám tang?” “Đúng thế, bà chủ đã tạ thế ạ.” “Trời! Bà nhà tôi chết rồi sao?” “Dạ, bà chủ mất vì quá kích động khi bà nghe tin người cộng sự của ông đã làm thụt két quá mức nên việc buôn bán của ông bị sụp tiệm ạ.” Dĩ nhiên, câu truyện cứ thế tiếp diễn… Hết cái này tới cái khác nối tiếp nhau. Ý của câu truyện là vào một lúc nào đó trong đời sống chúng ta sẽ cảm thấy tựa như thế: nhiều biến cố cứ dồn dập đổ trên chúng ta! Chúa Giêsu rất thực tế về vấn đề này tuần tự mỗi năm mùa mưa sẽ đến; các biến sự sẽ lần lượt xảy đến. Những ai có cách sống ăn rễ sâu nơi tình yêu Chúa sẽ vượt qua những khó khăn.
Những Kitô hữu không phải là những người đứng hát bài ca vô thực với những con mắt thau láu: “Xin mưa đừng rơi trong ngày vui của tôi.” Nhưng những Kitô hữu là những người biết rằng mưa sẽ đổ xuống. Kitô hữu là những người tự do và sung sướng hạ mình vâng phục ý Chúa.
46. Suy Niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Theo cách suy nghĩ thông thường của bạn, khi nghe hai người trong bài Tin Mừng cầu nguyện, bạn đánh giá ai công chính hơn ai? Cách phán đoán của Đức Giêsu về sự công chính có khác với cách của bạn không? Khác chỗ nào?
2. Những người tập luyện được nhiều nhân đức hơn người, làm được nhiều việc tốt lành hơn người, nhưng lại tự hào và lên mặt về sự hơn người đó, thì sẽ được Thiên Chúa đánh giá thế nào?
3. Đọc bài Tin Mừng bạn rút ra được bài học gì cho mình? cho cách xử sự hằng ngày và cho công việc nên thánh của mình?
Suy tư gợi ý:
1. Cách phán đoán của Đức Giêsu khác với cách của ta
Qua lời cầu nguyện của hai người trong bài Tin Mừng này, ta biết tất cả những điều tốt lành mà người Pha-ri-siêu khoe với Chúa rằng mình đã làm đều là sự thật, và tình trạng tội lỗi mà người thu thuế thú nhận trước mặt Chúa cũng đều là sự thật. Nếu để ta xét đoán, ta sẽ dễ cho rằng người Pha-ri-siêu kia mới là người công chính, còn người thu thuế đích thực là tội lỗi. Nhưng câu kết luận của Đức Giêsu làm chúng ta phải ngạc nhiên: «Tôi nói cho các ông biết: người này (tức người thu thuế), khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia (tức người Pha-ri-siêu) thì không». Ta thấy phán đoán của Đức Giêsu về sự công chính khác hẳn cách phán đoán của chúng ta. Đương nhiên, chúng ta phải lấy cách phán đoán của Ngài làm mẫu mực cho cách phán đoán của ta, và phải chỉnh lại cách suy nghĩ của ta theo cách của Ngài.
2. Tự đề cao mình khiến mình bớt giá trị trước mặt Thiên Chúa
Như vậy, điều khiến cho một người nên công chính không phải là những việc tốt lành mà họ làm được cho bằng động lực đã thúc đẩy họ làm những việc ấy. Nếu họ làm những điều tốt để được mọi người khen thưởng, khâm phục, chứ không phải vì yêu Chúa hay thương tha nhân mà làm, thì những điều tốt ấy chỉ có giá trị trước mặt người đời chứ không chắc có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Đức Giêsu đã nói về những hành động ấy như sau: «Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi» (Mt 6,1-2).
Làm điều tốt đẹp để được khen đó là làm vì một động lực vị kỷ, tự kiêu. Đương nhiên, chẳng mấy ai trên đời thoát được tính vị kỷ, muốn tự đề cao mình: người ta chỉ hơn nhau ở chỗ vị kỷ ít hay nhiều mà thôi. Muốn nên thánh, ta phải tập luyện hằng ngày để tính vị kỷ hay tính thích được đề cao của ta càng ngày càng giảm đi. Sự thánh thiện và tính vị kỷ hay «độ phình lớn của cái tôi» tỷ lệ nghịch với nhau. Lời của Gio-an Tẩy giả có thể coi là một định luật: «Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi» (Ga 3,30). Cái tôi của ta càng nhỏ đi thì đời sống thần linh hay sự sống của Đức Ki-tô càng lớn lên trong ta, và giá trị của ta trước mặt Thiên Chúa càng lớn. Ngược lại, cái tôi của ta càng phình lớn, thì sự sống của Đức Ki-tô ở trong ta hay giá trị của ta trước mặt Thiên Chúa càng nhỏ đi. «Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên» (Mt 23,12; Lc 14,11; 18,14).
Người nào hay tìm cách để được mọi người đề cao, khen thưởng thì cũng thường tự coi mình là hơn người và thích chê bai người khác: hạ người khác xuống để mình được nổi bật lên. Những người này dù có làm được biết bao điều tốt lành, thực tập biết bao nhân đức để được người khác nể phục, dù có lên được những bậc thang cao trong Giáo Hội hay xã hội thì vẫn là con số 0 trước mặt Thiên Chúa. Họ không được Thiên Chúa coi là người công chính.
3. Tự hạ, tự coi thường mình lại làm mình tăng giá trị lên trước mặt Thiên Chúa
Qua bài Tin Mừng ta thấy tội lỗi hay những hành động xấu không làm người ta mất sự công chính cho bằng tính tự mãn hay kiêu ngạo. Người thu thuế đã thật sự phạm nhiều tội lỗi, nên đã làm mất đi sự công chính của mình. Nhưng hành động khiêm nhường, biết nhìn nhận sự bất chính và tội lỗi của mình đã lập tức biến anh ta nên người công chính trước Thiên Chúa, bất chấp quá khứ tội lỗi của mình. Tương tự như vậy, tên trộm bị đóng đinh bên phải Chúa, tôi nghĩ chưa chắc anh ta đã phạm ít tội hơn tên trộm bên trái, nhưng chỉ vì anh ta nói được câu: «Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!» mà đã được Đức Giêsu hứa «Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng» (Lc 23,41-43). Ôi thật là kỳ diệu sự khiêm nhường tự hạ, biết nhìn nhận thực trạng hèn kém của mình! Nó có khả năng biến tội lỗi thành thánh thiện, bất chính thành công chính! Ngược lại, cũng thật quái lạ, tính kiêu ngạo, tự mãn, tự đề cao, có thể biến những điều tốt thành xấu, công chính thành bất chính!
4. Bài học về khiêm nhường tự hạ
Nếu thế thì tại sao ta lại không rút ra một bài học cho mình? cho lý tưởng nên thánh của mình? Khiêm nhường, tự hạ, quên mình luôn luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện, của nhân đức. Tất cả những tài năng, nhân đức dường như không có giá trị tự nó (en soi) trước mặt Thiên Chúa. Chúng chỉ trở nên có giá trị khi đi chung với sự khiêm nhường, tự hạ. Cũng như những số 0 (không, zéro) dù nhiều tới đâu cũng chẳng làm cho con số do chúng tạo thành có giá trị gì. Nhưng nếu chúng được dẫn đầu bởi số 1, thì lập tức mỗi số 0 sau đó đều trở nên có giá trị: càng nhiều số 0 đi sau số 1, thì giá trị con số do chúng tạo thành càng tăng lên. Mỗi số 0 sau số 1 đều làm cho con số đã có tăng giá trị lên gấp 10 lần.
Đức Gioan-Phaolô I (1912-1978) nói: «Trên thiên đàng không thiếu bọn thu thuế và đĩ điếm nhưng không có kẻ kiêu ngạo. Dưới hỏa ngục có cả hồng y giám mục nhưng không có người khiêm nhường». Nếu đúng như vậy thì bí quyết để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu là khiêm nhường, tự hạ, và ai khiêm nhường tự hạ thì dường như không thể xuống hỏa ngục được! Còn muốn xuống hỏa ngục thì chỉ cần kiêu ngạo là đủ, và kẻ kiêu ngạo thì dường như không thể vào thiên đàng được!
Trong cuộc đời, ta thấy có nhiều người sống trong sạch như các thiên thần, hoặc làm được rất nhiều việc lành như những vị thánh, nhưng họ lại kiêu ngạo, tự hào không kém gì ma quỉ về sự tốt lành của họ. Chính vì thế, họ không phải là đối tượng của Nước Trời. Thật là uổng, tất cả những nhân đức họ tập được, những việc lành họ làm được, chỉ vì kiêu ngạo mà biến thành «công dã tràng»! Như vậy, ai tự đưa mình lên thì coi chừng kẻo bị hạ xuống tới tận hỏa ngục! Còn ai tự hạ mình xuống thì rất có thể sẽ được đưa lên tới tận thiên đàng! Đức Giêsu đã chẳng nói: «Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu» sao? (Mc 10,31; xem Mt 20,16; Lc 13,30). Vậy thì dại gì mà kiêu căng, khoe khoang, tự mãn! dại gì mà lên mặt chê bai kẻ khác! Chính khi ta chê bai kẻ khác với mục đích để mình nổi bật lên, thì hành động của ta lại trở thành đáng chê hơn kẻ bị ta chê!
Về sự khiêm nhường và kiêu ngạo, Karl Marx (?) nói: «Khiêm nhường bao nhiêu đều không đủ, Chỉ chút kiêu ngạo cũng quá nhiều!».
Vì thế, hãy khiêm nhường được chừng nào hay chừng nấy, và đừng kiêu căng hay tự mãn chút nào cả!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Thánh Kinh cho con biết Cha rất thích kẻ khiêm nhường, và rất ghét kẻ kiêu căng. Đức Giêsu là hình ảnh trung thực nhất của Cha đã sống một cuộc đời hết sức khiêm nhường, đầy tinh thần tự hủy và vị tha tới tận cùng, đến nỗi Ngài không còn sống cho bản thân mình mà hoàn toàn sống cho Cha và tha nhân. Xin cho con biết sống như Đức Giêsu: quên mình, tự hạ, để có thể sống yêu thương và hòa đồng với tất cả mọi người chung quanh con. Amen.
47. Suy Niệm của JKN- 2
Suy tư gợi ý
1. Cách đánh giá của Đức Giêsu thật đáng ngạc nhiên
Đọc đoạn Tin Mừng trên, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và kinh sợ. Ngạc nhiên vì kết luận rất bất ngờ của Đức Giêsu so với cách suy nghĩ đánh giá của chúng ta. Kinh sợ vì thấy chính mình nhiều khi cũng hành xử y hệt người Pharisêu ấy. Người Pharisêu trong đoạn Tin Mừng tự hào về những việc mình làm, điều đó không phải là không có lý do chính đáng. Chắc hẳn ông ta đã thật sự làm được những điều mà ông ta kể ra với Thiên Chúa. Bài Tin Mừng viết, «Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng…». Từ «nguyện thầm» cho ta thấy những việc tốt lành đạo đức ông kể ra là chỉ để cho Chúa nghe, chứ không phải để khoe khoang với mọi người. Cho nên những việc ấy là có thật. Chẳng những ông tuân giữ luật Môsê cũng là luật Chúa một cách nhiệm nhặt, mà còn làm tốt hơn những gì luật ấy buộc nữa. Chẳng hạn luật Môsê chỉ buộc kiêng ăn mỗi năm một lần vào ngày lễ tạ tội, tức ngày 10 tháng 7 của lịch Do Thái (x. Lv 16,29), thế mà ông đã ăn chay mỗi tuần hai lần. Nghĩa là nhiều hơn gấp 104 (=52 x 2) lần luật buộc! Chính những việc làm xem ra tốt lành ấy đã khiến ông tự hào mình đạo đức, khiến ông rơi vào tình trạng mà sách Cách Ngôn nói: «Có hạng người cứ cho mình là trong sạch, dù chưa được gột rửa khỏi vết nhơ» (Cn 30,12).
Nhưng rõ ràng theo quan điểm Đức Giêsu thì ông không phải là người công chính trước mặt Thiên Chúa. Điều đó hẳn phải làm ta ngạc nhiên. Nhưng ta còn ngạc nhiên hơn nữa khi Đức Giêsu lại coi người thu thuế tội lỗi kia – là người công chính sau khi ông cầu nguyện cách khiêm cung như thế. Mặc dù người thu thuế chắc chắn đã phạm nhiều tội hơn người Pharisêu kia. Quả thật, cách suy nghĩ, đánh giá của Đức Giêsu ngược hẳn với cách thường tình của chúng ta, kể cả những Kitô hữu “cao cấp”. Nhưng là người Kitô hữu, chúng ta phải học cách suy nghĩ và đánh giá của Đức Giêsu, chứ không phải tiếp tục cố chấp với cách suy nghĩ của mình.
Thiên Chúa cũng sẽ xét xử chúng ta dựa trên cách suy nghĩ và đánh giá của Đức Giêsu chứ không theo cách của chúng ta. Do đó, tới ngày phán xét, sẽ có một sự đảo lộn không ngờ so với những suy nghĩ hay dự đoán của con người, vì có «những điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa» (Lc 16,15). Vì thế, ngày ấy có thể xảy ra: «Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót» (Mt 20,16; Mc 10,31; Lc 13,30); «Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng» (Mt 8,11-12); «Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác» (Mt 7,22-23).
2. Sự công chính theo quan điểm của Đức Giêsu
Rõ ràng Đức Giêsu không phán đoán theo kiểu con người, kể cả những Kitô hữu “cao cấp”. Sự công chính không chính yếu hệ tại những việc đạo đức, những lễ nghi tôn giáo mà ta làm được, cho dù nhiều tới đâu. Lời của thánh Phaolô soi sáng cho ta phần nào: «Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,2-3). Như vậy, tất cả những việc tốt lành mà ta làm được, dù nhiều đến đâu, nếu không phát xuất từ tình yêu đích thực, thì trước mặt Thiên Chúa, vẫn chỉ là một con số không to tướng.
Những việc làm tốt đẹp ấy nếu thật sự phát xuất từ tình yêu, thì ta sẽ không bao giờ kể ra để được mọi người khen ngợi, kể cả việc kể ra với Thiên Chúa. Khi kể ra để được khen ngợi, thì việc kể ra đó chứng tỏ ta làm những việc ấy không phải do tình yêu, mà do ý muốn được khen ngợi là đạo đức, là có tình yêu, là giỏi giang, là tuyệt hảo. Và như thế thì ta «đã được phần thưởng rồi» (Mt 5,2.5), nên Thiên Chúa không còn phải thưởng cho ta nữa.
Nếu ta kể công với Thiên Chúa, thì hóa ra ta làm những việc ấy chỉ để Ngài trả công như thể ta là người làm công. Họ làm việc để được trả lương hơn là làm vì tình yêu, khác với con cái trong nhà làm vì yêu thương cha mẹ chứ không để được cha mẹ trả công. Trường hợp này, Thiên Chúa, Đấng vô cùng công bằng, luôn trả công cho ta xứng đáng bằng một phần thưởng nào đó có thể ngay ở đời này; nhưng Ngài không thể kể ta là người công chính đáng được hưởng thứ phần thưởng vốn chỉ dành cho những người có tình yêu đích thực. Cũng như ông chủ có thể trả lương sòng phẳng cho những người làm công, nhưng không bao giờ chia gia tài cho họ, mà chỉ chia gia tài cho con cái, cho dẫu con cái làm được ít việc cho ông hơn người làm công. Cũng vậy, trước con mắt Thiên Chúa, giá trị của một công việc dù nhỏ bé nhưng được làm vì tình yêu thì vẫn vô cùng lớn hơn giá trị của một công việc dù to tát nhưng lại làm vì một động lực khác.
3. Trường hợp hai người cầu nguyện trong dụ ngôn
Trong dụ ngôn của bài Tin Mừng trên, người Pharisêu tưởng rằng ông có thể cậy vào việc giữ lề luật và những việc đạo đức của mình để tự hào là công chính trước mặt Thiên Chúa. Nhưng thánh Phaolô cho biết, «Trước nhan Chúa, không người phàm nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy» (Rm 3,20; Gl 2,16); «Dân Ítraen tìm một luật làm cho họ nên công chính thì lại không đạt tới Luật đó. Tại sao thế? Vì họ không tìm cách nên công chính nhờ đức tin, nhưng nhờ việc làm» (Rm 9,31-32). Sự công chính không đến từ việc làm hay việc tuân giữ lề luật, mà đến từ việc tin vào ân sủng của Thiên Chúa và sống phù hợp với niềm tin ấy.
Do đó, càng cậy vào việc giữ luật và những việc mình làm để tự hào về sự công chính của mình thì càng trở nên bất chính trước mặt Thiên Chúa. Vì «Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường» (Gc 4,6; Pl 5,5). Do đó, ta đừng bao giờ tự hào về sự thánh thiện hay những việc làm tốt đẹp của mình. Thánh Phaolô viết: «Người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin sẽ làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính» (Rm 4,5). Trước khi sa ngã, chắc chắn thiên thần Lucifer còn thánh thiện hơn ta bây giờ rất nhiều. Nhưng ‘ông’ đã trở nên xấu xa tội lỗi vì tính kiêu ngạo và niềm tự hào về sự thánh thiện của ‘ông’. Do đó, kiêu ngạo là đầu mối mọi tội lỗi, nó xấu xa và tác hại hơn bất kỳ tội ác nào.
Còn người thu thuế, tuy rằng ông tội lỗi thật, ông đã từng phạm nhiều tội ác, nhưng ông đã hối hận và thành thật nhận chân tình trạng tội lỗi của mình. Qua sự đánh giá của Đức Giêsu, ta thấy đối với Thiên Chúa, tuy tội lỗi làm mất lòng Thiên Chúa nặng nề, nhưng tình yêu được thể hiện bằng tâm hồn khiêm nhượng lại làm đẹp lòng Ngài nhiều hơn. Thật vậy, thánh Phêrô nói: «Lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi» (1Pr 4,8; x. Tb 12,9). Kẻ thánh thiện nhất trên đời cũng vẫn có tội, vì trước mặt Thiên Chúa, «không ai là người công chính, dẫu một người cũng không» (Rm 3,10). Vấn đề không phải là mình tội lỗi nhiều hay ít, mà là mình có được Thiên Chúa tha thứ hay không: «Hạnh phúc thay kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung! Hạnh phúc thay người Chúa không kể là có tội!» (Rm 4,7-8). Chính tình yêu và lòng khiêm nhường thống hối khiến Chúa tha thứ tất cả và «không kể là có tội». Do đó, một người vô cùng tội lỗi nhưng một khi đã thật lòng thống hối, thì trước mặt Thiên Chúa, người ấy công chính hơn một người ít phạm tội, làm được nhiều việc phúc đức, nhưng lúc nào cũng tự hào về sự vô tội hay đạo đức của mình.
Bài Tin Mừng hôm nay mặc khải cho chúng ta biết điều ấy. Đó là tin vui cho những người tội lỗi, vì họ chỉ cần thật lòng thống hối là được nên công chính; nhưng lại là tin buồn cho những người kiêu ngạo, thích tự hào về sự đạo đức hay thánh thiện của mình.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, có thể nói: trước mặt Cha, tính ích kỷ và kiêu ngạo của một người che lấp tất cả mọi sự tốt đẹp của người ấy, khiến người ấy trở thành bất chính. Và tình yêu thương và lòng khiêm nhượng của một người co thể che lấp được những tội lỗi xấu xa của người ấy. Vậy, xin Cha giúp con biết sống yêu thương, khiêm nhượng và trừ tuyệt tính ích kỷ và kiêu ngạo trong con.
48. Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy
TỰ CÔNG CHÍNH HÓA CHÍNH MÌNH, MỘT THÁI ĐỘ SAI LẦM
Chắc hẳn dụ ngôn người «Pha-ri-sêu và người thu thuế» – mà bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu – đối với tất cả chúng ta đã quá quen thuộc, và có lẽ vì quá quen thuộc nên chúng ta cũng khó nhận ra được ý nghĩa trọng yếu của câu chuyện nữa. Vâng, bình thường chúng ta hay tự đồng hóa mình với người thu thuế từ tốn trong dụ ngôn, bởi vì đối với chúng ta hình ảnh người Pha-ri-sêu quá đậm nét kiêu kỳ và tiêu cực. Nhưng nếu chúng ta tự thành thật với chính mình, chúng ta sẽ nhận thấy rằng cả hai hình ảnh đó – người Pha-ri-sêu và người thu thuế – đều ít nhiều có mặt trong chính bản chất con người chúng ta.
Thực ra, những người Pha-ri-sêu thường là những thành phần tốt và đàng hoàng của xã hội lúc bấy giờ, chứ không xấu như người ta ngày nay thường có ấn tượng về họ. Những ý kiến cho rằng tất cả những người Pha-ri-sêu đều là những kẻ giả hình giả bộ, gian trá, tham lam và chỉ chú trọng đến việc sống đạo theo văn tự và theo hình thức bên ngoài, chứ tinh thần và sự xác tín nội tâm thì hoàn toàn thiếu hẳn, là những ý kiến hoàn toàn không phản ảnh đúng với thực tại cụ thể.
Đúng vậy, vào thời Đức Giêsu, những người Pha-ri-sêu nói chung là những người có tâm hồn tôn giáo, luôn rất coi trọng luật Môsê. Sự cầu nguyện và việc cử hành các lễ nghi phụng tự luôn giữ một vai trọng quan trọng trong cuộc sống của họ. Tuy nhiên, quan niệm và cách thức sống đạo của một số lớn trong họ đã trở nên quá khích và lệch lạc, cần phải được sửa sai. Dẫn chứng cụ thể là hình ảnh người Pha-ri-sêu đã được Đức Giêsu nêu lên trong câu chuyện dụ ngôn.
Vâng, người Pha-ri-sêu được nói đến trong câu chuyện dụ ngôn tự cho rằng ông ta có thể tồn tại được trước Thiên Chúa. Trong khi cầu nguyện, ông ta chỉ nêu lên những tội lỗi mà ông ta không hề sa phạm bao giờ. Ông ta cảm tạ Chúa vì ông sống hoàn hảo và tử tế hơn tất cả những người khác. Trong khi cầu nguyện, người Pha-ri-sêu chỉ nói lên lòng cảm tạ biết ơn của mình đối với Thiên Chúa, chứ không hề khẩn cầu kêu xin cùng Người bất cứ điều gì cả. Ông ta cũng nói đến những công trạng của mình. Và thực ra, những điều ông ta đã làm không phải là ít: Mỗi tuần ông ta ăn chay hai lần và dâng cúng một phần mười hoa lợi của mình cho Đền Thờ.
Thử hỏi ai trong chúng ta có thể dám tự coi mình ngang hàng với một người đạo đức như thế? Bởi vì, nhiều người hễ khi nghe nói động đến vấn đề bớt ăn nhịn uống cũng như vấn đề dâng cúng của cải tiền bạc, là tự nhiên mất hết hứng thú, mất hết vui vẻ và tâm tình đạo đức tôn giáo cũng biến đâu mất. Trong khi đó người Pha-ri-sêu này hoàn toàn ngược lại. Vì để tôn vinh Thiên Chúa, ông ta đã ăn chay, đã hy sinh nhịn ăn nhịn uống mỗi tuần đến hai lần và cắt giảm mức sống bình thường của mình lại để dâng cúng cho đền thờ Thiên Chúa. Đối với ông, Thiên Chúa cũng cụ thể như những đồng tiền nằm lẻ kẻng trong túi tiền của ông. Như vậy, chúng ta không có quyền coi mình cao thượng hơn người Pha-ri-sêu này. Trái lại, ông ta có cuộc sống vượt trội hơn chúng ta.
Nhưng sự ngạc nhiên ở đây, trong câu chuyện dụ ngôn này, là theo nhận xét của Đức Giêsu, thì người Pha-ri-sêu này, một người Do-thái có thể được coi là đạo đức kiểu mẫu, sau khi cầu nguyện ở Đền thờ trở về nhà, sẽ không được công chính!
Tại sao lại vậy, khi mà ông ta đã trưng dẫn cho thấy là ông ta đã thực thi được bao điều tích cực, bao việc lành phúc đức? Vâng, đức Giêsu đã có lý khi đưa ra sự nhận xét như thế. Bởi vì, sự sai lầm và tiêu cực đáng trách nơi người Pha-ri-sêu này là ông đã tự công chính hóa chính mình, đã tự cho mình là đúng và thánh thiện hơn người khác. Nhất là ông đã quá ỷ lại vào chính mình, vào các khả năng và công cán cá nhân của ông ta, chứ không dựa vào Thiên Chúa và ơn trợ giúp của Người. Ông ta đã quên đi rằng, tự bản chất con người nói chúng và bản thân ông ta nói riêng hoàn toàn yếu hèn, bất toàn và khốn cùng trước mặt Thiên Chúa Tạo Hóa, và mọi khả năng, tài lực và của cải ông ta có được đều là hồng ân của Người ban cho.
Do đó, ông ta đã tự vô hiệu hóa các công sức, các việc lành phúc đức của mình, và qua đó ông ta đã vô tình tự hạ mình xuống thấp. Vâng, người Pha-ri-sêu đã đánh giá các việc lành nhân đức của mình bằng các phạm trù, bằng các tiêu chuẩn và cách thế trần gian, khi ông ta muốn dựa vào công sức của mình để khẳng định địa vị và chỗ đứng trước mặt Thiên Chúa. Tiếp đến ông ta ra mặt khinh thường những người mà ông ta cho là còn thấp kém và còn đầy khiếm khuyết hơn ông ta. Cái chuẩn độ mà ông ta đưa ra để đo lường nhân đức và sự thánh thiện hoàn toàn không phải là Thiên Chúa. Vì thế, tất cà những gì ông ta làm, đều mất hết giá trị.
Đức Giêsu đã đưa ra câu chuyện dụ ngôn này là có ý muốn nhắn gửi đến những người đã luôn tự phụ cho mình là công chính thánh thiện và coi khinh những người khác. Người đã thẳng thắn nói cho những người vốn có quan niệm sai lầm như thế rằng Thiên Chúa, Đấng mà Người loan báo, hoàn toàn kết án việc tự công chính hóa chính mình, việc tự cho mình là lành thánh vô tội. Trong khi đó, chỉ có một mình Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể công chính hóa con người và các hành động của họ bằng sự phán quyết tuyệt đối công minh và đúng đắn của Người mà thôi.
Còn những người thu thế vào thời Đức Giêsu không được đại chúng kính trọng, vì nghề thu thuế của họ là một nghề lem nhem đáng khinh, một nghề không hoàn toàn dựa trên pháp lý và sự công bằng. Họ bị dư luận quần chúng cho là những người tội lỗi, bởi vì họ cộng tác với quân ngoại xâm Roma và trong vấn đề thu thuế má họ đã lợi dụng để làm giàu cho chính mình trên sự đau khổ của đồng bào. Dó đó, đời xưa những người thu thuế bị xếp vào hàng ngũ những kẻ trộm cướp. Họ mất hết phẩm giá của một công dân Do-thái và người ta tránh tiếp xúc giao lưu với họ.
Nhưng cũng chính vì lý do đó mà câu chuyện dụ ngôn lại làm cho chúng ta ngạc nhiên một lần thứ hai nữa. Đó là việc Đức Giêsu đã quả quyết rằng người thu thuế, một kẻ đã sai phạm không biết bao nhiêu là tội lỗi và bất công, sẽ rời Đền Thờ ra về trong an bình vui sướng với Thiên Chúa và với chính mình, sẽ trở về nhà như một người công chính!
Tại sao?
Điều tích cực nơi người thu thuế là chính việc anh đã thành tâm đến cầu nguyện cùng Thiên Chúa thực sự. Trước tòa Chúa anh đã nhận ra mình chỉ là một kẻ tội lỗi bất xứng và anh biết rằng với một lương tâm u uẩn, đầy tội lỗi nặng nề như thế, chắc chắn anh sẽ không thể tồn tại được trước mặt Thiên Chúa. Như thế, người thu thuế đã đánh giá cuộc sống và các việc mình làm theo các tiêu chuẩn trên cao, theo luật lệ Thiên Chúa. Vâng, Thiên Chúa là mẫu mực, là mô phạm và là tiêu chuẩn của anh. Do đó, trước mặt Chúa anh đã xưng nhận tội lỗi của mình và chân thành khẩn cầu Người tha thứ cho anh.
Qua đó chúng ta thấy rằng người thu thuế tội lỗi – với một tâm hồn khiêm tốn chân thành – được ở gần kề bên Thiên Chúa hơn là người Pha-ri-sêu đạo đức – với một tâm hồn đầy tự phụ, kiêu căng và khinh người.
Nói tóm lại, người Pha-ri-sêu bị chê trách không phải vì lý do sự công bằng và những việc phúc đức ông đã làm. Điều gì tốt thì luôn luôn vẫn là điều tốt. Nhưng vào giai đoạn kết thúc câu chuyện, người Pha-ri-sêu lại không còn được coi là một người tốt, đó là do ông đã quá tự đề cao mình khi so sánh với những người khác và rồi coi khinh họ.
Trong khi đó người thu thuế được khen ngợi không phải vì những tội lỗi anh đã sa phạm. Điều gì xấu thì vẫn luôn luôn là điều xấu. Nhưng anh ta được khen ngợi, bởi vì:
• anh ta thành tâm đến với Chúa trong tinh thần khiêm tốn;
• anh ta đã can đảm biết nhìn thẳng vào chính đời mình;
• anh ta đã không đâm ra thất vọng, chán nản và buông xuôi trước các tội lỗi của mình;
• anh ta chấp nhận sự yếu đuối và sự bất toàn của mình, v.v…!
Chính sự thành tâm đó là khởi đầu cho công cuộc thay đổi và canh tân cuộc sống.
Vậy, qua dụ ngôn «Người Pha-ri-sêu và người thu thuế», Đức Giêsu muốn nói cho chúng ta biết điều gì thực sự là thánh thiện và hoàn hảo trước mặt Thiên Chúa: Không phải là việc chỉ nhắm giữ đúng các luật lệ và các đòi hỏi luân lý, nhưng là sự xác tín rằng mình hoàn toàn bất toàn trước mặt Thiên Chúa, nên cần đến lòng thương xót của Người và nhất thiết phải canh tân cải thiện cuộc sống của mình.
49. Món vật cao quý nhất trước mặt Chúa
Có một chuyện cổ tích thời Trung cổ. Câu chuyện này kể lại một người đã về bên kia thế giới. Cuộc đời trên thế gian của cô thì thật là tầm thường. Khi đến cửa thiên đàng, cô được cho biết là nếu muốn vào thiên đàng thì phải trở về thế gian và tìm cho được món vật gì mà giá trị nhiều nhất trước mặt Chúa. Cô đã trở về thế gian để tìm kiếm.
Một ngày nọ, cô gặp một người bị tử đạo vì danh Chúa Kitô. Cô nghĩ: “Máu tử đạo chắc là món quà mà Thiên Chúa đánh giá cao trọng nhất.” Thế rồi, cô liền lấy một giọt máu tử đạo và đem về thiên đàng. Khi dâng lên, cô được biết là món vật đó chưa phải là cao trọng nhất. Cô lại trở về thế gian và tìm kiếm.
Rồi một ngày nọ, cô gặp một nhà truyền giáo đang rao giảng Lời Chúa giữa những người nghèo khổ. Cô nghĩ rằng, “Đây rồi, ta tìm được món vật quí nhất rồi, đó là giọt mồ hôi của người rao giảng Tin Mừng.” Khi đem về thiên đàng, cô lại được cho biết là món vật ấy chưa phải là quí nhất trước mặt Chúa. Cứ như vậy nhiều lần, cô đã tìm đủ mọi vật để đem về thiên đàng, nhưng vẫn không được gọi là vật quí giá nhất trước mặt Chúa.
Bất chợt, cô thấy một người đàn ông cưỡi ngựa đến cạnh hồ nước của thành phố. Ông xuống ngựa và định tâm uống nước. Khi người đàn ông nhìn thấy đứa bé đang chơi gần đấy, ông chợt nhớ lại tuổi thơ ấu của ông. Khi ông cúi xuống nước thì bỗng ông nhìn thấy dung nhan phản chiếu của ông trên mặt nước. Đó là một khuôn mắt xấu xí và dày dạn. Nhìn chòng chọc vào khuôn mặt của mình, ông nhận ra rằng ông đã uổng phí cuộc đời mà Thiên Chúa đã ban cho ông. Bất chợt, những giọt lệ bắt đầu lăn xuống trên má ông. Cô đã vội hứng lấh một giọt nước mắt thống hối đó và đem về thiên đàng. Khi cô dâng hạt nước mắt ấy lên thì cả thiên đàng vui mừng hớn hở. Thì ra món quà mà Thiên Chúa đánh giá trị cao nhất là giọt nước mắt thống hối của tội nhân.
Câu chuyện cổ tích trên rất phù hợp với bài Phúc Âm hôm nay. Bài Phúc âm cho chúng ta biết lời cầu nguyện được Chúa coi là cao trọng nhất, là lời cầu nguyện của một kẻ tội lỗi thống hối. Chúa Giêsu đã phán: “Cả thiên đàng sẽ vui mừng khi một tội nhân trở lại còn hơn là chín mươi chín người công chính không cần trở lại.” (Lc 15,7)
Lòng thống hối thường được hiểu là ăn năn vì đã trót phạm tội. Thật ra lòng thống hối còn phải hiểu rộng rãi hơn nữa. Đó là chúng ta dốc lòng muốn cải sửa những gì đã làm sai.
Cách đây nhiều năm, nhóm “Broadway” đã trình diễn một vở kịch nói về một người con trai mới lớn đã bỏ học, bỏ gia đình và trở thành con mồi ngon cho ma túy. Những thứ đó đã đưa câu đến chán chường. Cậu đã nhìn trời và thầm thĩ rằng: “Tôi ước ao cuộc đời nầy như là một cuốn vở để tôi có thể xé bỏ đi những trang nào mà tôi đã lầm lỗi.”
Tạ ơn Chúa Giêsu, chúng ta có thể xé đi bất cứ phần nào mà chúng ta đã làm sai và liệng đi. Chúa Giêsu nhân từ đã lập nên Bí tích Xá giải. Qua Bí tích này, chúng ta có thể bỏ đi những gì là xấu xa và làm lại từ đầu.
Đó là sứ điệp Tin Mừng hôm nay. Tin vui đó là chúng ta biết được món quà cao quí nhất trước mặt Chúa là những giọt lệ thống hối.
50. Người thu thuế ra về được khỏi tội
(Suy niệm của Br. JB. Đức Hiền)
Bài Phúc âm hôm nay, Thánh Luca thuật lại việc Chúa Giêsu dùng dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái và một người thu thuế, để dạy chúng ta là những người tin theo Chúa, chúng ta cần phải có thái độ và tâm tình nào khi cầu nguyện.
Có phải từ chỗ tự cao, tự mãn của tính kiêu ngạo như của người biệt phái khi ông ra trước mặt Chúa, không nói một lời cầu xin, trái lại ông còn coi Chúa như người mắc nợ để nghe ông say sưa kể công về những thành tích đạo đức của ý riêng; mà ông đã làm trong quá khứ, hoặc tuân giữ một vài điều luật để khỏi lỗi luật bên ngoài, rồi đem mình ra so sánh với những người khác và tự cho mình là công chính mà khinh bỉ kẻ khác? Hoặc từ chỗ thẳm sâu (Tv 130:1) của một tâm hồn tan nát khiêm cung (Tv 50:19) của người thu thuế: ông không dám đến gần Chúa, không dám ngước mắt lên trời, mà chỉ đấm ngực mình để bày tỏ lòng ăn năn thống hối mà nâng lòng mình lên chúng Thiên Chúa ở trên trời cùng với lời cầu nguyện chân thành vắn tắt như một kẻ ăn xin, khẩn nài lòng thương xót Chúa tha thứ cho mình là kẻ tội lỗi?
Chính sự kiêu hãnh, tự tán dương và nhìn về mình một cách tự mãn qua việc bày tỏ vẻ công chính trước mặt người đời của người biệt phái khi cầu nguyện, để rồi khinh thị kẻ khác mà không cần đến lòng thương xót của Chúa…một cách nào đó ông đã phỉnh gạt chính mình và ăn cướp vinh quang của Thiên Chúa (Mk 2:9) vì ông có gì mà lại đã không chịu lấy từ nơi Thiên Chúa? Mà nếu đã chịu lấy, sao lại vinh vang không chịu lấy? (1Cr 4:7). Chính lòng kiêu ngạo này đã khiến cho Thiên Chúa nhờn tởm (Lc 16:15) bởi Ngài biết rõ lòng con người suy tính (Gr 17:9-10) và người ta ai cũng ghét (Hc 10:7). Do đó Chúa chống lại người kiêu ngạo (Gc 4:6) và khiến ông không được công chính hóa.
Còn người thu thuế với lòng khiêm nhượng thống hối nhìn nhận những yếu đuối của mình, không xấu hổ khi nghe người khác tố cáo tội trạng mình (Hc 4:26; Tv32:5) để rồi tín thc cho tình thương nhân hậu của Chúa và kết quả ông đã đạt được sự tha thứ của Thiên Chúa (Cn 28:13), khiến ông được công chính hóa và ra về được khỏi tội. Bởi thú tội ra thì còn đâu trách móc nữa (Hc 20:3). Thật vậy, lòng khiêm nhường quả là nền tảng của việc cầu nguyện và còn là tâm trạng để nhận được hồng ân của việc cầu nguyện (Gc 4:6).
Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy những người Kitô hữu chúng ta không những phải sống trung thành trong việc tuân giữ lề luật tôn giáo, mà còn phải ý thức về sự yếu đuối khốn cùng của mình và biết phó thác tin cậy vào lòng nhân hậu của Chúa nữa. Ngoài ra, chúng ta không nên có thái độ tự kiêu lầm tưởng như người biệt phái nghĩ; bởi vì sự công chính của chúng ta không nguyên chỉ cần liên hệ với Thiên Chúa mà thôi, nhưng sự công chính của chúng ta còn có liên đới với những người xung quanh nữa. Do đó chúng ta cần phải có tinh thần trách nhiêm xây dựng, tiếp nhận nâng đỡ nhau trong cuộc sống (Rm 14:1; 15:7; Cl 3:13) không nên tỏ thái độ khước từ và khinh bỉ những người hèn kém xấu số sống chung quanh mình, vì Thánh Phaolô nói: “Chúng ta phải vác gánh nặng của nhau, và như thế chúng ta sẽ làm trọn luật của Đức Kitô. Vì nếu ai tưởng mình là gì, mà kỳ thực là không, thì chỉ lừa gạt chính mình đó thôi. Vậy ai nấy hãy hạch sách lấy mình, và bấy giờ sẽ có lý mà vinh vang, mình đọ với mình, chứ không đọ với ai khác; vì mỗi người phải mang gánh nặng riêng mình” (Gl 6:3-5)
51. Cầu nguyện: chiếc cầu hiệp thông
(Suy niệm của Lm. Bùi Quang Tuấn)
Dụ ngôn “Người Biệt Phái và Người Thu Thuế” Chúa Giêsu đưa ra cho thấy sự tương phản giữa 2 thái độ của con người đứng trước tình yêu thương bao la của Thiên Chúa.
Người Biệt phái là nhân vật được xã hội đương thời kính trọng, vì thuộc thành phần nhiệt tâm giữ luật, thực thi đạo đức bác ái hơn hẳn người ta. Riêng anh thu thuế, kẻ bị xã hội mạt sát khinh chê, vì là hạng “cõng rắn cắn gà nhà,” tước đoạt tài sản “nhân dân,” làm lợi cho ngoại bang. Hai mẫu người đối lập cùng bước vào đền thờ và cùng làm một công việc: cầu nguyện. Nhưng tại đây sự tương phản giữa hai con người trở nên rõ nét, khi tâm tình và thái độ sâu kín được bộc bạch trước Nhan Giavê.
Người Biệt phái ung dung tự tại, đứng thẳng và cầu nguyện: “Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không giống các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi.” Khách quan thì người này không bịa chuyện. Ông chỉ nói điều ông làm. Và những gì ông làm thì không chê trách vào đâu được: không gian tham, không chiếm đoạt, không rối vợ rối chồng, không đam mê tội lỗi. Thậm chí về phần đạo đức bác ái, ông còn làm quá điều luật dạy. Thường thì người ta chỉ phải ăn chay một ngày trong năm vào dịp lễ Sám hối, đàng này ông thi hành chuyện đó mỗi tuần hai lần. Luật buộc các nông dân phải nộp một phần mười sản phẩm cho việc phụng tự, ông lại nộp thuế thập phân trên tất cả mọi thứ hàng hoá mua về.
Hành động của ông thật đáng tuyên dương nhưng thái độ của ông đã làm mất toi công phúc. Tạ ơn Chúa là điều cần thiết, nhưng kể lể công đức như ngầm bảo Chúa đang mắc nợ với tôi là điều chẳng đúng tí nào. Tệ hại hơn là khi ông dùng công nghiệp hay lòng đạo của mình để đè bẹp tâm hồn kẻ khác.
Đáng lẽ cầu nguyện là để gia tăng sự gắn bó giữa mình với Giavê, thì đây, người biệt phái lại làm lung lay nhịp cầu tiến đến với Ngài.
Không những đã không làm chắc thêm nhịp cầu đến với Thiên Chúa, người biệt phái còn làm tan tành nhịp cầu đến với tha nhân. Anh hăng hái lên án phường tham lam, bất chính, ngoại tình, thu thuế. Anh nhất quyết không thoả hiệp với tội lỗi, điều này rất đáng khâm phục. Nhưng anh thiếu cảm thương những người có tội và điều này đã làm cho anh khác xa Thiên Chúa.
Vì không làm vững nhịp cầu đến với Chúa và tha nhân mà lời cầu nguyện của người biệt phái đã rơi vào giòng sông hư không. Anh ra về chẳng nên công chính, cũng chẳng được sạch tội.
Trong khi đó, người thu thuế đi cầu nguyện nhưng lại “không dám ngước mặt lên trời,” anh “đứng xa xa,” đâu đó phía cuối đền thờ, lại còn “đấm ngực” và nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ có tội.” Anh nhìn rõ chính mình trong tình thương của Thiên Chúa. Trước tấm gương của tình thương, anh thấy mình là kẻ tội lỗi. Có lẽ anh đã bao lần cố gắng vươn lên nhưng vẫn cứ bị ngã xuống đau thương. Thế nên lời cầu nguyện của anh chất chứa tâm tình thống hối, khiêm nhu, khẩn thiết, cậy trông, chân thành: “Lạy Chúa, xin thương tôi….” Không dám ngước mắt lên trời nhưng lại thấy được tình Chúa bao la vẫn còn hơn đứng thẳng ngước cao mà chẳng khám phá sự yêu thương đâu cả.
Nhìn vào tha nhân để tự mãn là thất sách. Nhưng nhìn vào Chúa để khẩn nài và bước theo là lối đường tôi được mời gọi đi tới. Bao người thu thuế đã nhìn vào Đức Kitô, gặp gỡ được tình thương, sau đó “ra về và được nên công chính,” như Mathêu và Giakêu. Họ đã làm chắc nhịp cầu với Thiên Chúa khi bước theo Đức Kitô và nối kết nhịp cầu với tha nhân khi “xin bố thí cho kẻ khó nửa phần của cải, và đền bù gấp bốn cho kẻ bị thiệt oan” (Lc 19:8).
Cầu nguyện để tiến sâu hơn vào tình thương và mối hiệp thông với Thiên Chúa và con người chính là bài học mà Đức Kitô muốn trao ban cho nhân loại hôm nay.
52. Biệt phái và thu thuế
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau dừng lại ở hình ảnh người Biệt phái và kẻ thu thuế.
Cứ bề ngoài người Biệt phái đầy vẻ đạo đức và công chính, đồng thời được mọi người kính nể, vì ông là người cầm cân nảy mực mọi nghi lễ và lề luật. Hằng ngày ông cặm cụi vào từng chi tiết của lề luật. Ông tuân giữ ngày Sabbat, rửa tay chân trước khi ăn uống. Ông đeo thẻ kinh, đứng cầu nguyện và ăn chay nghiệm ngặt. Ông đóng mọi thứ thuế… Đời sống của ông được dệt bằng trăm ngàn khoản luật, và ông cho đó là phương tiện để nên thánh.
Thế nhưng trước mắt Chúa, ông chỉ là một con số không mà thôi. Tại sao thế?
Lý do thứ nhất vì ông cho mình là kẻ vô tội và thánh thiện. Còn những kẻ khác chỉ là những kẻ xấu xa tội lỗi đáng sa hỏa ngục. Từ niềm xác tín ấy, ông trở thành người kiêu ngạo, cố chấp và cứng lòng.
Lý do thứ hai vì ông không hề cầu nguyện. Nếu có thì cũng chỉ là khoe khoang và cầu danh mà thôi. Bên ngoài ông tỏ ra cám ơn Chúa, nhưng cái lõi bên trong nhằm mục đích chứng tỏ ông xứng đáng là một người biệt phái có khả năng, có đạo đức.
Nếu ông thực sự cầu nguyện thì tại sao ông không tạ ơn về những điều đã có, đã làm và đã thất bại. Ông không thể cầu xin vì ông tự mãn, cho mình đầy đủ quá rồi. Cách cầu nguyện của ông chỉ là một hình thức đóng kịch, lấy vải thưa mà che mắt thánh. Đáng lý ra cầu nguyện phải là hơi thở của linh hồn, thì linh hồn của ông đã chết từ lâu.
Và như thế chúng ta thấy cầu nguyện chính là thước đo sự sống. Không cầu nguyện, linh hồn trở nên yếu đuối và có thể chết đi, nghĩa là sa vào vòng tội lỗi. Cầu nguyện không phải chỉ là kể lể, van xin nhưng còn là ca ngợi, ăn năn và sống theo ý Chúa. Cầu nguyện không phải là độc thoại giữa ta và Chúa nhưng là đối thoại giữa Chúa và ta. Cầu nguyện như thế thì hậu quả gấp trăm lần hoạt động vì chúng ta kéo Chúa về phe mình, để Chúa giải quyết những khó khăn và hành động qua đời sống chúng ta.
Rất nhiều người đã cầu nguyện nhưng lòng không đi theo hay tệ hơn nữa còn đi ngược chiều. Có khi chúng ta cầu nguyện chỉ để đánh lạc hướng một dư luận, để ru ngủ mình trong chốc lát, để chửi xéo hay tâng bốc người khác, để khoe khoang công đức của mình. Xét cho cùng, lối cầu nguyện không quan trọng cho bằng đối tượng cầu nguyện. Chúng ta nói chuyện với ai trong khi cầu nguyện, đó mới là vấn đề. Có thể chúng ta đã nói với chính mình hay với một tạo vật nào khác trong lúc cầu nguyện và như vậy lời cầu nguyện của chúng ta chẳng ích lợi gì,
Trái lại, cầu nguyện phải là nói chuyện với Thiên Chúa Đấng ngập tràn quyền năng và yêu thương. Và chúng ta có thể tìm thấy mẫu gương của sự cầu nguyện qua hình ảnh người thu thuế.
Trước mặt mọi người ông chỉ là một kẻ tội lỗi, liên hệ với ngoại bang để bóc lột đồng bào. Chính vì nhận biết thân phận tội lỗi của mình mà ông chỉ dám đứng ở đằng xa, gục đầu xuống và đấm ngực ăn năn.
Với tâm tình khiêm nhu ông đã kêu cầu Chúa: Lạy Chúa xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi. Ông ý thức tội lỗi ông nặng nề mà chỉ mình Thiên Chúa mới có thể thứ tha. Ông tin vào uy quyền của Thiên Chúa khả dĩ làm ông đổi mới. Ông là người đáng khen hơn đáng khinh. Chính vì thế mà ông đã được tha thứ và lời van xin của ông được Thiên Chúa chấp nhận.
Biết cầu nguyện là biết sống và lời cầu nguyện đích thực có thể biến đổi được cả tâm hồn.
53. Chúa Nhật 30 TN
(Suy niệm của Lm. Gioan Baotixita Nguyễn Kim Ngân)
Có thể nói một trong những hoạt động chính của người có niềm tin là cầu nguyện. Cầu nguyện là hình thức giúp người tín hữu gắn kết với Đấng mình đang tôn thờ. Cho nên, không riêng gì những tôn giáo khác, người Công giáo chúng ta cũng được mời gọi cầu nguyện với Chúa một cách kiên trì và liên lỉ, như Tin Mừng Chúa Nhật 29 Thường Niên C nói tới. Hơn nữa, với Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện một cách chân thành khiêm tốn. Đó là cách thức cầu nguyện đẹp lòng Chúa bởi vì những ai chân thành nhận ra mình mỏng dòn tội lỗi trước mặt Chúa, mong được Chúa đoái thương, thì Chúa là Đấng Nhân Từ không ngoảnh mặt làm ngơ trước tâm hồn như thế.
Trong bài đọc I, sách Huấn Ca nói rằng “ lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây, … và nó chẳng rút lui cho đến khi Đấng Tối Cao đoái nhìn.” (Hc 35,21). Thiên Chúa không nhìn đến vinh quang trần thế của con người nhưng Ngài nhìn đến nỗi nhục nhằn của người nghèo khó, kẻ bị áp bức, kẻ khốn cùng. Lời cầu nguyện của họ được Chúa nhận lời bởi họ biết nhìn lên Chúa là Đấng hay thương xót. Họ biết dâng chính con người của họ cũng những gì họ có để tôn thờ Thiên Chúa là Chúa của mình. Vì thế, những ai khoe khoang về thành quả của mình, vinh quang mà mình đang hưởng thì không được Chúa ghé mắt nhìn xem, họ đã được trả công rồi.
Với bài đọc II, thánh Phaolô đã tin tưởng Thiên Chúa là Đấng phán xét chí công sẽ ban cho ngài phần thưởng Nước Trời. Bởi lẽ, thánh nhân đã hoàn toàn dùng chính cuộc đời của mình để rao giảng về Chúa Giêsu, Đấng khiêm nhường đến cứu chuộc nhân loại trong thân phận người phàm, ngoại trừ tội lỗi. Thánh nhân đã khiêm nhường nhận ra mình chỉ là rơm rác vậy mà được Chúa mời gọi làm việc lớn lao là loan báo Tin Mừng cứu độ – khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng. Và ngài đã khẳng định rằng mối lợi tuyệt vời là được biết Chúa Giêsu, Đấng cứu độ. Nếu không phải có lòng khiêm nhường thì Phaolô cũng vẫn còn ở trong tình trạng Pharisêu tự cao tự đại về sự công chính của mình. Quả thật, với ơn Chúa, thánh Phaolô đã để Thiên Chúa chiếm trọn con tim; với lòng khiêm nhường, thánh nhân trở nên khí cụ mang lại ơn cứu độ cho nhân loại.
Con đường khiêm nhường được khẳng định một cách chắc chắn trong Tin Mừng hôm nay. Hai người lên đền thờ cầu nguyện, nhưng một người được Chúa nhận lời còn người kia thì không. Người biệt phái vào đền thờ với thái độ tự mãn vì ông tự cho mình công chính hơn người khác: đạo đức hơn, thánh thiện hơn, giữ luật Chúa tốt hơn, không phạm tội gì. Vì thế, ông chỉ muốn khoe với Chúa nhiều hơn là tạ ơn Ngài về những gì mình đã làm. Cho nên, tâm tình tạ ơn của ông không được Thiên Chúa chấp nhận. Người thu thuế vào đền thờ với thái độ mong được thứ tha, được đón nhận. Ông không dám ngước lên vì mình quá tội lỗi. Ông không dám ngước lên vì mình quá bất xứng. Ông không dám ngước lên trước những lời khinh chê của thế gian. Ông chẳng biết thưa gì với Chúa cho phù hợp, chỉ biết đấm ngực xin Chúa tha thứ cho những tội lỗi của mình. Chắc ông cũng không ngờ rằng tâm tình thống hối của ông lại được Thiên Chúa tỏ lòng khoan dung. Tuy tác giả Tin Mừng không nói tới khi ông về thì lòng ông như thế nào, nhưng chúng ta cũng có thể tưởng nghĩ rằng hẳn ông sẽ thấy tâm hồn mình tràn ngập niềm vui. Quả thật, một người tự mãn khi nâng mình lên để rồi quên rằng mình chỉ là thụ tạo của Chúa, thì họ đã tự đánh mất lòng thương xót của Chúa. Còn người khiêm nhường nhận ra mình chỉ là thụ tạo, xác đất vật hèn, chỉ biết tựa nương vào lòng thương xót của Chúa, thì họ lại được Chúa dủ lòng thương mà tha thứ mọi lỗi lầm.
Lời Chúa hôm nay cũng soi sáng vào tận đáy lòng chúng ta, giúp chúng ta nhìn lại nơi chính bản thân mình trong đời sống đạo. Có thể, đôi khi, chúng ta là người biệt phái vì mình đọc kinh sớm hôm đầy đủ, tham dự thánh lễ không bỏ bữa nào, giữ chay vào ngày thứ sáu hằng tuần, nhưng chúng ta lại khoe khoang so đo với người khác, lắm lúc còn khinh chê họ. Tệ hơn nữa, đọc kinh cầu nguyện, tham dự thánh lễ chỉ vì để người ta biết mình là người đạo đức thánh thiện chứ không phải thờ phượng Chúa thực sự. Khi đến nhà thờ chúng ta hiện diện bằng thân xác nhưng lòng trí thì bận lo toan công những việc khác. Và như thế, Thiên Chúa trở thành Đấng để trang trí cho đời sống chúng ta đối với mọi người. Tâm tình sống đạo như thế quả là giả hình, giả hình đến mức không còn nhận ra mình là gì trước mặt Chúa. Để rồi từ đó, chúng ta lại vênh vang cho người này khô đạo, người kia tội lỗi. Với tâm tình như thế, cho dù ta có đọc kinh nhiều đi nữa, một ngày hai ba thánh lễ, công đức đầy dẫy cũng chẳng là gì đối với Chúa. Nếu không kịp thức tỉnh ắt chúng ta khó lòng đón nhận tình thương của Chúa.
Vậy chúng ta thức tỉnh bằng cách nào? Thưa, chúng ta thức tỉnh bằng cách mặc lấy tâm tình của người thu thuế trong Tin Mừng hôm nay: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Với thân phận yếu hèn, chúng ta dễ vấp phạm. Với bản tính yếu đuối, chúng ta dễ sa ngã. Vì thế, tâm tình đến với Chúa là khiêm nhường nhận ra những lỗi lầm thiếu sót của thân phận con người; đến với Chúa bằng sự thống hối chân thành cần đến ơn tha thứ của Chúa. Chúng ta gặp gỡ Chúa bằng lời cầu nguyện đượm lòng tin tưởng Chúa là Cha và là Đấng khoan dung. Chúng ta hiệp dâng thánh lễ với ước mong được kết hợp một cách sâu xa với Chúa Giêsu Thánh Thể là Đấng xóa bỏ tội trần gian. Nhất là chúng ta luôn biết cảm tạ vì mình chỉ là không không trước mặt Chúa, nhưng lại được Chúa dựng nên để hưởng hạnh phúc với Người.
Hơn nữa, trong đời sống đức tin, chúng ta đừng nhìn sang người khác mà so sánh, hãy nhìn lên Chúa để xem mình đã xứng đáng với ơn Chúa tuôn đổ xuống trên ta mỗi ngày. Hãy nhận ra trong từng giây phút sống, chúng ta được Chúa tỏ tình thương và không chấp nhất những lỗi lầm thiếu sót của ta, nhưng lại yêu thương dắt dìu ta trở về bên Chúa. Có như thế, những giây phút cầu nguyện của ta với Chúa là những giây phút ta được ấp ủ trong vòng tay yêu thương của Cha và chúng ta là người con thảo.
Đặc biệt trong đời sống đức cậy, chúng ta không còn phải ngã lòng vì Thiên Chúa thánh thiện nhưng không ngoảnh mặt với tội nhân. Nếu chúng ta vững lòng trông cậy vào Người, Người sẽ đỡ nâng ta khi ta ngã quị vì sa ngã. Người khiêm tốn đến với ta bằng bí tích để ta có thể hòa giải với Người. Và cũng với lòng khiêm tốn chúng ta chân thành gặp gỡ Chúa Giêsu để được chữa lành.
Ước gì với ánh sáng Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta nhận ra mình cần phải làm gì để đời sống đạo thực sự là thờ phượng, yêu mến Chúa. Đồng thời, chúng ta không còn mặc cảm vì tội lỗi mà không dám đến giao hòa với Chúa và tha nhân. Chúng ta tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa luôn che phủ cho những ai khiêm nhường nhận ra chính mình cần phải lệ thuộc vào Chúa, hầu chúng ta can đảm đấm ngực thưa với Chúa: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội.” Amen.
54. Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Hai mẫu người
Theo cái nhìn bên ngoài, hai nhân vật của dụ ngôn đều bắt đầu từ một khởi điểm. Nhưng…
Người biệt phái bước đi chững chạc, hiên ngang. Ông đang ở trong Đền Thờ nhưng ông cảm thấy thoải mái dễ chịu như đang ở nhà mình: đầu ngẩng cao, mắt nhìn đầy vẻ tự tin. Bản kết toán của ông đầy nét tích cực: ông biết điều đó và ông nói lên. Ông kể ra những con số. Tất cả đều tốt đẹp. Ông tự xếp mình vào số những người suy nghĩ tốt, làm tốt, và có đạo đức: Ông tự nhận mình là người công chính.
Nơi ông không có một kẽ hở, không một sự chờ đợi, không một khoảng cách. Ông chiếm trọn cả lớp kịch: vừa là diễn viên, vừa là khán giả. Trên nguyên tắc, ông thưa với Chúa, nhưng trong thực tế, “ông cầu nguyện nơi chính mình”. Ông chiêm ngắm chính mình, ông nói với chính mình. Thiên Chúa chỉ là công chúng nghe ông nói và vị Thiên Chúa đó được đổng hoá với lương tâm của ông, một lương tâm hoàn toàn tin chắc vào chính mình.
Chỉ có một khoảng cách được thú nhận: ông đứng xa người có tội… tức là những người khác, những người bị ông coi thường.
Đó là một con người đã đạt tới đích. Ông còn có thể làm gì hơn được nữa? Chẳng còn một khoảng trống nào để ông băng qua. Ông chỉ còn đợi lãnh triều thiên. Đó là một con người đã hoàn thành. Làm sao ông có thể tái sinh được?
Trong khi đó, người thu thuế đứng xa xa, phía cuối đền thờ. Trước mắt xã hội, hình ảnh của anh không phải là một hình ảnh dễ thương. Anh không được công nhận là công chính vì đã vi phạm quá nhiều, đã thoả hiệp với tiền tài, với quyền lực. Giờ đây, anh dứng im, không dám ngẩng mặt lên. Anh sẵn sàng chui xuống đất, nếu có thể được. Anh biết rằng mình chưa được sinh ra. Và khi ấy, tất cả đều trở thành có thể.
Anh cầu nguyện, anh thưa với Thiên Chúa: “Xin thương xót con.” Anh nhận thức trọn vẹn khoảng cách giữa tình trạng con người của anh và sự cao cả của Thiên Chúa, khoảng cách giữa sự “công chính” của anh và sự công chính của Thiên Chúa. Anh tìm kiếm sự liên lạc, tìm kiếm sự gần gũi với Thiên Chúa, một sự hiệp thông mặc dù từ căn bản, có một sự khác biệt: “Con không phải như Thiên Chúa! Con chỉ là một kẻ tội lỗi! Chúa có nghe lời con chăng?” Và khi ấy, tất cả đều có thể.
Khi bước vào đền thờ, mỗi người đều quay trở về với chính mình. Nhưng…
Một người thì vênh vang với lương tâm tốt lành của mình, tự hào vì những xác tín của mình. Ông hiện diện trước Thiên Chúa dựa trên nền tảng là cái có: lối sống của ông, Thiên Chúa của ông, quyền lợi của ông.
Còn người kia trở về với sự khốn cùng bên trong của mình. Anh đứng trước nhan Chúa với nền tảng là sự thiếu thốn: bước vào đền thờ, anh đã bỏ lại thế giới tiền bạc, để đi tìm một điều gì khác.
Với hai con người như thế, Thiên Chúa sẽ giải quyết cách nào?
Một kẽ hở cho Thiên Chúa
Người biệt phát trình bày dài lê thê. Ông cám ơn Thiên Chúa, mà ông nghĩ rằng mình biết rõ, vì đã nâng đỡ, trợ giúp ông, để ông “không như bao kẻ khác”. Trong mối tương giao của ông với Thiên Chúa, ông chối bỏ người khác: ông tự loại mình ra khỏi môi trường hoạt động của tình yêu. Đôi tay ông đã đầy những công phúc, đầu óc ông đầy những xác tín của riêng mình. Đó chính là thái độ của niềm tin mù quáng. Mọi cánh cửa đều đóng kín: Thiên Chúa không thể vào được.
Người thu thuế thì kêu cầu. Bị xã hội chê bỏ, anh nhẫn nại chịu đựng: biết mình xa cách Thiên Chúa, anh chờ đợi. Anh chẳng còn biết bày tỏ với ai nữa, và anh xin Thiên Chúa can thiệp. Đôi tay anh trống không, anh đợi chờ: đó chính là thái độ của lòng tin. Mọi cánh cửa đều mở toang: Thiên Chúa có thể vào được.
Trước hai con người này, Thiên Chúa không chút do dự. Người làm bạn với chàng thu thuế, cùng với anh rời khỏi đền thờ, và bỏ mặc người Biệt phái với các việc lành của ông, để ông ra về một mình.
Tại sao thế?
Người biệt phái đã làm những việc đạo đức tốt lành, lại không phải là người công chính; đang khi đó người thu thuế là kẻ tội lỗi thì được nên công chính. Thiên Chúa có bất công quá không?
Một khi đôi tay đã đầy, lòng trí đã thoả mãn, thì Thiên Chúa sẽ không thể chen vào được. Làm sao Người có thể đến được khi không có chỗ cho Người? Bởi đó, Thiên Chúa yêu chuộng kẻ khó nghèo không phải chỉ tại họ nghèo, nhưng hơn thế, vì họ cảm thấy mình luôn thiếu thốn và họ chờ đợi. Như vậy, con người luôn phải nhận ra mình nghèo khó trước Thiên Chúa, luôn cần đến sự trợ giúp, cần sự hiện diện của Người. Và quan trọng hơn, điều thiết yếu là con người không được tự nhốt kín sự nghèo khó của mình, nhưng là sống trong thái độ rộng mở. Người nghèo khó, vì nhu cầu cần thiết, luôn biết trông chờ sự giúp đỡ của người khác. Đó chính là thái độ căn bản của Kitô giáo.
Dĩ nhiên, đây không phải là sự nghèo khó vật chất, nhưng là thái độ nghèo khó trong tinh thần. Vẫn có những người túng thiếu cùng cực, nhưng vẫn là một đời sống khép kín. Vẫn có những người có nhiều tài sản vật chất, nhưng lại biết đón chờ, biết mở rộng tâm hổn. Và quan trọng hơn nữa, đó là một thái độ nghèo khó trong đời sống thiêng liêng. Con người không được quyền cậy dựa vào bất cứ hành vi nào để cho rằng mình là người đạo đức, là người đã đạt tới sự thánh thiện. Con người không thể nghĩ rằng mình đã được nên công chính do các việc mình làm. Một khi có quan niệm cho rằng mình đã đạo đức, đã thánh thiện, tức là không cần đến sự trợ giúp, sự can thiệp của Thiên Chúa. Đó là một thái độ đóng kín, thái độ của con người chỉ biết hướng về mình, chứ không phải về người khác, và nhất là về Thiên Chúa. Con người đó không biết thế nào là sám hối, thế nào là trở về, và như vậy, trong tâm hổn của họ, không có chỗ cho Thiên Chúa.
Dù thế nào, dù đạt tới mức độ nào, vẫn phải là người nghèo trước Thiên Chúa, vẫn phải là người cần trợ giúp. Thiên Chúa cần có những cửa ngõ để đi vào, cho dù đôi khi chỉ là một kẽ hở.
Cả hai đều cần
Như tác giả xác định, Đức Giêsu đã nói dụ ngôn này với những người tự cho rằng mình là người công chính và khinh miệt người khác. Vào thời Đức Giêsu, đó là những người biệt phái, những người chấp hành luật pháp cách nghiêm ngặt.
Thực ra, các hành vi của người biệt phái thật đáng khen. Có mấy người trong chúng ta thực hành được như ông ta? Thế nhưng, ông thiếu mất một điều, và đó là điều quan trọng nhất: đó chính là thái độ khiêm tốn, biết trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa. Chính sự thiếu sót này đã phá tan tất cả cố gắng, tất cả mọi hành động của ông.
Ngày nay, trong chúng ta, vẫn có những người nghĩ rằng mình đã đạo đức, đã thánh thiện nhờ những việc tốt của mình, nhờ việc giữ đạo của mình. Tất nhiên, những điều đó rất tốt. Nhưng nếu dựa vào đó để lấy làm thoả mãn, để coi thường người khác thì thật là tai hại. Phải hiểu rằng người Kitô hữu được mời gọi đạt tới sự thánh thiện của Thiên Chúa, và đó là một hành trình dài, hành trình chưa chấm dứt. Một khi tự cho rằng mình đã tới đích, tức là đã ngưng lại, và nguy hiểm hơn nữa, là đã lạc đường, đã mất phương hướng. Mỗi người chúng ta vẫn có thể nhận ra mình, ít là một phần nào đó, qua lời cầu nguyện đầy vẻ tự mãn của người biệt phái.
Tuy vậy, không có nghĩa là Đức Giêsu dạy chúng ta chỉ cần thưa với Thiên Chúa như người thu thuế. Điểm nhấn mạnh của Đức Giêsu là thái độ trước Thiên Chúa, nhưng không vì thế mà có quyền bỏ những hành vi đạo đức. Không phải người ta cứ sống theo ý thích của mình, để rổi chỉ cần thưa với Thiên Chúa một câu ngắn gọn là được tha thứ, được nên công chính. Thái độ tin tưởng, trông chờ sự trợ giúp của Thiên Chúa không loại bỏ những nỗ lực của con người.
Như thế, chúng ta có thể nhìn thấy một mẫu người Kitô hữu đích thực, dựa trên hai nhân vật của bài Tin Mừng. Đó là một con người luôn cố gắng chu toàn những lời giáo huấn của Thiên Chúa, một con người thi hành trọn vẹn những gì luật pháp quy định, đổng thời cũng là người biết tin tưởng và phó thác cho tình thương của Thiên Chúa. Càng tiến triển, lại càng phải khiêm tốn. Và người khiêm tốn thì được Thiên Chúa yêu thương, được Thiên Chúa làm cho nên công chính.
Lạy Chúa,
Chúa biết rõ nỗi khốn cùng của con,
Chúa thấu hiểu nỗi cô đơn đang vây bọc quanh con,
Chúa nhìn thấy tình cảnh yếu đuối và bệnh tật của con,
ôi Chúa là Đấng dựng nên con.
Chúa biết tất cả.
Xin nhìn đến con đang hết lòng khiêm nhường và thống hối.
Xin nhìn đến con đang tìm đến bên Chúa.
Ôi Chúa là Đấng thương xót,
xin đừng nghoảnh mặt làm ngơ.
xin đừng quên kẻ đang khao khát tìm Chúa.
…
Trong trái tim Chúa, con tìm được chỗ ẩn thân,
trong lòng thương xót Chúa, con tìm được nơi an nghỉ.
Con kêu lên Chúa cậy nhờ vào tình yêu Chúa dành cho nhân loại.
theo Syméon le Nouveau Théologien.
55. Cầu nguyện
Đâu là sự khác biệt trong lời cầu nguyện của ông biệt phái và của anh thu thuế?
Lời cầu nguyện của ông biệt phái trước hết là một lời tạ ơn, cùng với những thói hư tật xấu mà ông không hề phạm, và những việc đạo đức ông thường làm. Chẳng những ông đã làm các việc đạo đức do luật buộc, như ăn chay mỗi năm vào dịp lễ xá tội, nộp 1/10 lợi tức cho đền thờ, mà hơn thế nữa, ông còn tự nguyện làm những việc đó ở một mức độ cao. Chúng ta không thấy ông xin gì cho bản thân, mà chỉ luôn tạ ơn. Điều đáng tiếc là lời cầu nguyện của ông đầy vẻ tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân. Chính vì thế mà chúng ta có thể nghi ngờ về tâm tình tạ ơn của ông, bởi vì tâm tình tạ ơn thực sự bao giời cũng gắn liền với sự khiêm tốn.
Trong khi đó, anh thu thuế lên đền thờ để thú tội. Anh ý thức mình là kẻ tội lỗi. Anh đặt mình trước tôn nhan Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin: Lạy Chúa, xin thương xót con vì con chỉ là kẻ tội lỗi. Điều anh khao khát là được Chúa tha thứ và được hoà giải với anh em. Anh chỉ dám đứng xa xa vì thấy mình bất xứng.
Từ hai hình ảnh trên chúng ta thấy: Ông biệt phái đi gặp Chúa vì ông cảm thấy mình có thế giá nhiều hơn những người khác. Ông đã sống một đời sống đạo đức và nghiệm nhặt. Ông đi gặp Chúa với một kho tàng công nghiệp to lớn của riêng ông. Thế nhưng cái kho tàng đó quá lớn đến độ đã ngăn cách ông với Chúa, nó không cho ông thấy được Ngài nữa, mà chỉ còn thấy có chính mình ông. Có quá nhiều chữ tôi trong lời cầu nguyện của ông: Tôi thế này, tôi thế nọ, tôi không như người này người khác… Rốt cuộc, ông lại là người quay vào mình, khép lại trên chính mình, mặc dù môi miệng ông đã kêu lên: Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa.
Tạ ơn thực sự là nhìn nhận mọi sự mình làm được là do bởi ơn Chúa ban. Tạ ơn thật sự là quay về với Chúa, nhìn nhận Ngài là nguồn mạch, là trung tâm, là sức sống của đời mình, của những việc tốt mình làm được.
Như thế, ông biệt phái đã không thực tâm tạ ơn, vì ông quay vào mình, coi mình là trung tâm, là tác giả mọi điều tốt đẹp, còn Thiên Chúa chỉ là một người thừa, hay cùng lắm chỉ là một người mà ông đến gặp để kể công và đòi nợ. Thiên Chúa phải trả cho ông Nước Trời vì ông đã có công. Ông không xin vì ông không thiếu và Chúa cũng sẽ không cho vì ông đã đầy ắp.
Trong khi đó, anh thu thuế, mặc dù lắm tiền nhiều của, nhưng thật ra lại là một người nghèo trước mặt Chúa. Anh chẳng có công trạng gì để cậy dựa. Anh ý thức về tình trạng nhơ nhớp của mình, nên chỉ còn một lối thoát duy nhất là tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa.
Và như vậy thật là oái oăm, chính sự đạo đức của ông biệt phái lại trở nên chướng ngại vật khiến ông không gặp được Chúa, không lãnh nhận được ơn huệ của Ngài, còn sự tội lỗi của anh thu thuế lại đưa anh đến chỗ mở rộng cõi lòng để đón nhận Chúa và ơn tha thứ của Ngài.
56. Lời cầu nguyện khiêm nhường
LỜI CẦU NGUYỆN KHIÊM NHƯỜNG XUYÊN QUA NHỮNG ĐÁM MÂY
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Trong Phúc Âm theo Thánh Luca, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta về cầu nguyện. Đầu tiên chúng ta học cầu nguyện với Chúa Giêsu là cầu nguyện với Cha trong lời kinh mà chúng ta gọi là “lời cầu nguyện của Chúa” hoặc đơn giản là “Kinh Lạy Cha”. Chúng ta học, chúng ta phải nhớ dâng lời tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa, chúng ta phải kiên trì với những lời nài xin dâng lên Thiên Chúa.
Ngày hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về chân lý, đã được tiên báo trong sách Khôn ngoan: “Lời cầu nguyện khiêm nhu xuyên qua những đám mây nó không nghỉ ngơi cho đến khi nó đạt được mục đích”. Thiên Chúa thương đến những lời cầu nguyện khiêm nhường, đó là một bài học bên trong của dụ ngôn có hai người lên Đền Thờ cầu nguyện. Thiên Chúa không hài lòng với tất cả những lời cầu nguyện của người Pharisiêu kiêu căng. Thật sự, đó không phải là một lời cầu nguyện nhưng đó chỉ là một bản danh sách những lời tự ca tụng. Nhưng Thiên Chúa hài lòng với lời cầu nguyện của người thu thuế tội lỗi. lời cầu nguyện chân thành của ông đã được thương xót.
Chúa Giêsu lấy làm sung sướng khi chú ý đến việc chấp nhận người anh hùng của câu chuyện (hãy nhớ đến người Samaria nhân hậu đã giúp đỡ một người ngoại quốc bị nạn và trở thành một vị anh hùng trong dụ ngôn này). Mọi người khinh bỉ người thu thuế, đặc biệt dị ứng đối với người thu thuế và sở thu thuế. Nhưng người đàn ông này biết mình tội lỗi và đã cầu xin nơi Thiên Chúa sự xót thương.
Chúa Giêsu chọn người thu thuế oán ghét này để làm người anh hùng bởi vì Người muốn ám chỉ tới dụ ngôn là: “Những người đã tin vào sự công chính của họ trong lúc nhìn mọi người với cặp mắt khinh bỉ”. Người Pharisiêu trong dụ ngôn đã được giới thiệu như những người này, ông là một hình thức xấu nhất của cái tôi phiền phức. Ông ta có thể chỉ biết chính mình trong con đường thuận lợi.
Mặc dầu ông đã cảm tạ Thiên Chúa không làm cho ông giống như người đàn ông tội lỗi kia, ông là một kẻ giả hình. Điều ông ta nói chẳng có ý nghĩa gì. Thật sự ông chỉ thấy chính mình như là người đã tạo ra con người hoàn hảo mà không cần bất cứ ai, không cần ngay cả Thiên Chúa. Đó là sự sai lầm làm nền tảng, là tội nguyên tổ mà tổ tiên chúng ta đã nghĩ đến khi đặt chính mình thay thế Thiên Chúa. Cái tôi làm cho chúng ta giống như những chiếc xe hơi mà chúng ta gọi vô dụng. Chúng có những hiệu quả nghiêm trọng bởi vì chúng ta được chế tạo với những sai sót và số phận là lập lại những thất bại.
Người thu thuế thì không phải là một kẻ vô dụng, nhưng ông ta giống như một chiếc xe hơi đã chịu đựng những tay lái không cẩn thận và không biết bảo quản xe. Chỉ có một quyết định duy nhất là mang xe hơi trở lại cho người buôn bán để họ tân trang lại. Người thu thuế đã làm một chọn lựa đúng, ông ta đã đi tới với người công chính để sửa chữa lại những gì mình cần. Ông đã làm một lời xin thứ lỗi. Ông không nhận biết những vấn đề của mình nhưng cầu xin Thiên Chúa ban ơn cho những gì ông cần trong lời cầu nguyện đơn giản: “Ôi Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ tội lỗi”.
Lời cầu nguyện của người thu thuế là một lời nài xin, một lời van xin giúp đỡ, một kiểu cầu nguyện mà chúng ta thường dâng lên Thiên Chúa. Sự nài xin đích thực diễn tả trong sự khiêm nhường đã được Chúa Giêsu chuẩn nhận. Chúng ta yêu cầu Thiên Chúa ban ơn, bởi vì chúng ta biết rằng Ngài là Đấng sẽ xoay chuyển được mọi sự, Người là Đấng quyền năng có thể giúp đỡ chúng ta. Một nửa của sự khiêm nhường để nhận biết quyền năng của Thiên Chúa thì lớn lao hơn bất cứ sức mạnh nào trong vũ trụ này. Một nửa kia của sự khiêm nhường này là chấp nhận rằng chúng ta cần Thiên Chúa, chúng ta không thể đi đâu, làm gì một mình được và chúng ta tùy thuộc vào tình yêu của Ngài cũng như quyền năng của Ngài. Lời cầu nguyện khiêm nhường diễn tả sức mạnh của Thiên Chúa và nhu cầu của chúng ta.
Lời cầu nguyện khiêm nhường của chúng ta bay thẳng lên trời vì lời cầu nguyện khiêm tốn sẽ xuyên qua các đám mây và sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi nó đạt đến mục đích của nó.
57. Cầu nguyện là thông hiệp với Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Bùi Mạnh Tín)
Chúng ta thường nghe câu định nghĩa quen thuộc: “Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Chúa”. Định nghĩa này tuy ngắn gọn nhưng nói lên bản chất và cách thức cầu nguyện.
Dĩ nhiên ở đây, việc “nâng tâm hồn lên” cần được hiểu sâu xa. “Nâng lên” có nghĩa là ý thức mình chỉ là một thụ tạo kém cỏi, thấp hèn, luôn sống trong trần thế, dễ bị ràng buộc vào những truyện “dưới đất”. Và như vậy, khi cầu nguyện, chúng ta cố gắng vươn cao tâm hồn lên, vượt ra khỏi những gì thuộc hạ giới, tạm thời tách rời những liên quan nhân loại, để thiết lâp một liên quan có tính cách hướng thượng, cao hơn, xa hơn, thanh thoát hơn. Cũng chính vì thế, Chúa Giêsu thường tìm nơi vắng vẻ thanh tịnh để có những giờ phút hiệp thông với Cha Ngài. Thánh lễ, cùng với việc rước lễ, là một hiệp thông hoàn hảo nhất, nên trước khi bước vào phần phụng vụ Thánh Thể, chủ tế nói với ngững người dự lễ: “Anh chị em hãy nâng tâm hồn lên”.
Ở đây, yếu tố được nhấn mạnh không phải là những cử chỉ của thân thể, những âm thanh trong lời đọc hay tiếng hát, nhưng chính là trạng thái của tâm hồn. Hiểu như thế, nhiều khi chúng ta đọc kinh lớn tiếng, dang tay cao, mà vẫn không phải là cầu nguyện, vì lòng trí chúng ta chưa thực sự thoát khỏi những ràng buộc của lo toan trần thế. Do đó, lời cầu của chúng ta vẫn chưa tới Chúa, tâm hồn chúng ta vẫn chưa gặp được Ngài.
Trong cuốn “150 More Stories”, Jack Mac Ardle kể một câu truyện:
Một người chìm vào giấc mơ, thấy mình được nâng lên trời và gặp Chúa Giêsu. Chúa đưa anh đi nhiều chỗ khác nhau và sau cùng hai người dừng chân tại một thánh đường giữa lúc đang cử hành thánh lễ. Chàng thanh niên nhìn thấy các ca viên đang mở sách hát, nhưng không nghe thấy tiếng hát; thấy một người đang lướt các ngón tay trêm phím đàn nhưng không nghe thấy tiếng nhạc; thấy mọi ngượi đang mở miệng đọc kinh, nhưng cũng không nghe thấy âm thanh phát ra từ miệng họ. Ngạc nhiên, anh ta hỏi Chúa Giêsu: tại sao chỉ thấy im lặng. Chúa trả lời: “Chúng ta chỉ có thể nghe được tiếng của họ, nếu họ thực sự cầu nguyện với tất cả tâm hồn mà thôi”
“Với tất cả tâm hồn” không chỉ được hiểu là hết sức lực, hết tâm trí, nhưng còn hiểu là cầu nguyện với niềm tin tưởng phó thác vào Chúa, với lòng khiêm nhượng và tình bác ái.
Qua dụ ngôn hôm nay, chính Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy: dù có đến nhà thờ, dù có giơ cao đôi tay hay lớn tiếng đọc kinh, nhưng không ý thức thân phận yếu đuối và tội lỗi của mình, trái lại, tự cao tự đại, coi thường anh chị em mình, thì hành động và lời nói của chúng ta chỉ trở thành vô ích, không bao giờ được Chúa lắng nghe và chấp nhận. Người thu thuế, vì ý thức mình tội lỗi, yếu hèn, cần đến ơn tha thứ, nên trong khi cầu nguyện, anh đã được Chúa nhận lời và thứ tha. Anh đã cầu nguyện với tất cả tâm hồn.
Lạy Chúa, mỗi lần trước khi đến với Chúa, trước khi mở miệng cầu nguyện, chúng con xin Chúa hãy thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi các ý nghĩ kiêu căng, ghen ghét, giận hờn và giúp chúng con thoát khỏi những ràng buộc bận tâm trần thế.
58. Nhận thức – Trầm Thiên Thu
Nhận thức là một quá trình bao gồm sự nhận biết (mức độ thấp) và sự hiểu biết (mức độ cao). Có nhận thức thức đúng đắn thì mới khả dĩ ý thức.
Có nhiều thứ cần nhận biết, nhưng khó nhất vẫn là nhận biết chính mình. Muốn nhận biết chính mình thì phải can đảm đối diện với chính mình. Nhưng cần nhận biết điều gì về bản thân? Cũng có nhiều thứ: sức mạnh, sức khỏe, điểm yếu (nhược điểm, sở đoản), điểm mạnh (yếu điểm, sở trường), tài năng, kiến thức, quan điểm, niềm tin, ước vọng, cảm xúc, bản năng, thói quen, tâm lý,…
Theo cách nhận thức riêng về cuộc đời, Allan Rufus ví von thú vị: “Cuộc đời như ổ bánh mì kẹp. Sinh ra là một lát bánh, và chết đi là lát bánh còn lại. Điều bạn kẹp vào giữa là tùy bạn. Ổ bánh mì của bạn thơm ngon hay chua cay?”. Đừng tự lừa dối, kẻ lừa bịp đáng sợ nhất là chính mình.
Và rồi chính Albert Einstein cũng đã từng thắc mắc: “A question that sometimes drives me hazy: am I or are the others crazy? – Có một câu hỏi đôi khi khiến tôi cảm thấy mơ hồ: Tôi điên hay người khác điên?”. Cuộc đời luôn là một ẩn số, không có cách lý giải chuẩn xác. Nội tại luôn quan trọng hơn ngoại tại, đúng như Agatha Christie nhận xét: “Chính điều bên trong con người của bạn làm cho bạn hạnh phúc hay bất hạnh”.
Thật chí lý khi người ta nói “đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”. Từ ánh mắt của ai đó, người khác có thể nhận thấy người đó có sức mạnh, uy tín, đáng tin hay khả nghi,… Người ta sợ nhau từ ánh mắt. Thật vậy, khi hai người nhìn nhau, ai yếu bóng vía sẽ tự cảm thấy mình “lép vế” ngay. Dám nhìn thẳng vấn đề là một thế mạnh của người quân tử.
Cuộc đời vốn dĩ là bể khổ, tất nhiên liên quan nước mắt. Nước mắt của nhà giàu và nhà nghèo giống nhau về vị mặn, nhưng khác nhau xa về tính chất và nguyên nhân. Kinh Thánh đặt vấn đề: “Nước mắt quả phụ lại không giàn giụa trên gò má, và tiếng bà kêu lại chẳng cáo tội kẻ làm bà phải khóc sao? Kẻ phục vụ Đức Chúa theo ý Người sẽ được Người chấp nhận, lời họ kêu xin sẽ vọng tới các tầng mây. Lời nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm. Lời nguyện chưa tới đích, họ chưa an lòng” (Hc 35:15b-17).
Trước mặt người đời đời, người nghèo là cái gai cần phải đập gãy, nhưng với Thiên Chúa thì không như vậy. Ngài là Thiên Chúa giàu lòng thương xót thì không thể làm ngơ trước lời van xin tha thiết của những con người hèn mọn, khốn khổ.
Điều gì chưa xảy ra, ngay cả công lý, là vì Thiên Chúa chưa cho phép xảy ra, chưa đến lúc theo sự quan phòng và tiền định của Ngài. Cứ tin tưởng, an tâm để Ngài dắt đi và bước theo Ngài thì chúng ta sẽ thanh thản. Đừng sợ loài người, chỉ sợ Thiên Chúa mà thôi. Và điều gì đến sẽ phải đến: “Sẽ đến lúc Người đập gãy lưng bọn tàn ác, và báo oán chư dân. Sẽ đến lúc Người tiễu trừ lũ ngạo ngược, đập tan vương trượng bọn ác nhân. Sẽ đến lúc Người trả cho ai nấy theo việc họ làm, và xét xử hành động của người ta theo ý hướng của họ” (Hc 35:20-22a). Tất cả đều đúng thời, đúng lúc, không gì có thể xảy ra ngoài Thánh Ý Chúa. Chắc chắn như vậy!
Thật vậy, Thánh Phaolô tha thiết nhắn nhủ: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4:6-7).
Tác giả Thánh Vịnh cũng chân thành bày tỏ: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” (Tv 34:2-3). Dù sướng hay khổ, dù buồn hay vui, cứ trò chuyện với Chúa thì chẳng có gì phải lo, phó thác hết cho Ngài, cứ để Ngài hành động.
Là những con người đầy tội lỗi và nhiều sai lầm, thế mà không cha mẹ nào nỡ lòng muốn điều xấu cho con cái, những đôi lứa yêu nhau cũng luôn muốn điều tốt cho nhau, thậm chí cọp dữ còn chưa nỡ ăn thịt con kia mà. Chắc chắn Thiên Chúa còn hơn như vậy: “Chúa để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu. Họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:17-18).
Và còn hơn thế nữa, tác giả Thánh Vịnh dẫn chứng cụ thể: “Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề” (Tv 34:19). Đúng vậy, ngôn sứ Isaia còn nói rõ ràng và chi tiết hơn: “Cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gẫy; tim đèn leo lét, Ngài chẳng nỡ tắt đi” (Is 42:3). Văn hào Victor Hugo (1802-11885, Pháp) đã nói: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa; ai chết vì yêu là sống trong tình yêu”. Thật là chí lý! Nhưng có lẽ chúng ta không thể hiểu nổi lòng thương xót của Thiên Chúa. Tình yêu tuyệt đối của Ngài viên mãn tới mức đôi khi chúng ta nghi ngờ, không dám tin. Và cũng đã có những người coi tình yêu ấy là tình yêu điên rồ. Vâng, điên thật!
Cũng nhớ “khối tình điên” ấy mà chúng ta mới hiện hữu và sống tới hôm nay. Nhận thức như vậy để có thể hoàn toàn tín thác vào Ngài: “Chúa cứu mạng các người tôi tớ, ai ẩn thân bên Chúa không bị phạt bao giờ” (Tv 34:23).
Cuối đời, Thánh Phaolô nhắn nhủ Timôthê: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện” (2 Tm 4:6-8). Dù là một “tân tòng”, nhưng ông Phaolô đã nhận thức sâu sắc về ơn gọi của mình, đồng thời biết mình sống thế nào nên ông tin tưởng mình sẽ được cứu độ. Thật hạnh phúc! Ước gì mỗi chúng ta cũng biết Chúa và biết mình như vậy!
Thánh Phaolô dẫn chứng cụ thể và rạch ròi: “Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. Amen” (2 Tm 4:16-18).
Ông được đặc ân nhưng không tự mãn, ông chấp nhận sự vô cảm của người khác và còn xin Thiên Chúa tha thứ cho những người đã đối xử tệ với mình. Thật cao thượng!
Ai cũng biết đức khiêm nhường là nhân đức cần thiết, nhưng lại khó thể hiện, vì “cái tôi” luôn to lớn (nhưng không hề vĩ đại). Trình thuật Lc 18:9-14 nói về dụ ngôn “Người Pharisêu và Người Thu Thuế” – một người khiêm nhường, một người kiêu ngạo. Hai thái cực đối lập, hai động thái trái ngược. Người Việt có câu: “Thùng rỗng kêu to”. Thùng càng rỗng càng kêu to. Người ta cũng thế, càng dốt càng chảnh, càng “nổ”. Kheo khoang vì muốn chứng tỏ “bản lĩnh” của mình, không muốn người khác biết “thùng mình rỗng”. Nhưng càng “nổ” mạnh thì càng văng miểng nhiều, khiến người ta “sợ” dính miểng nên phải xa lánh.
Người Pharisêu mệnh danh là nhóm Biệt Phái, tức là những người được tách khỏi dân thường và có nhiệm vụ riêng biệt. Vì được coi trọng nên họ kiêu hãnh, luôn ra vẻ ta đây. Nhưng đó chỉ là động thái giả hình, coi trọng bề ngoài, coi trọng hình thức, coi trọng nghi thức, nhưng bên trong rỗng tuếch. Chúa Giêsu đã từng gọi họ là “mồ mả tô vôi” (x. Mt 23:27), bên ngoài sơn son thếp vàng nhưng bên trong đầy giòi bọ hôi thối.
Để đánh động những người tự nhận mình công chính mà khinh chê người khác, Chúa Giêsu kể dụ ngôn thế này…
Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng thẳng và nguyện thầm: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Còn người thu thuế đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Theo mặc định của xã hội Do Thái, người biệt phái là công chính, người thu thuế là tội lỗi (vì làm việc cho ngoại bang mà đàn áp dân lành, và có thể lóm lém tiền bạc). Chúng ta thấy có những động thái đối nghịch: ngẩng đầu – cúi đầu, dang tay – khép tay, chê người – thú nhận, tự mãn – khiêm nhường. Chúa Giêsu xác định: người thu thuế khi trở xuống mà về nhà thì đã được nên công chính, còn người biệt phái thì không. Xã hội luôn có những kẻ có “máu” Pharisêu, ngay trong các dòng tu, các giáo xứ và các hội đoàn cũng không thiếu. Thật đấy!
Kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu kết luận: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Liên quan vấn đề nhận thức, đại nhân Khổng Tử xác định: “Đừng lo mình không có chức vị, chỉ lo không đủ tài mà nhận lãnh chức vị mà thôi”. Đó là cách nhận thức giản dị mà thâm thúy, khả dĩ giúp người ta sống thanh thản, không ảo tưởng, dù là ai và ở cương vị nào. Ca dao Việt Nam cũng nói:
Người trồng cây Hạnh người chơi
Ta trồng cây Đức để đời về sau
Hãy cứ bình thường khi gặp người khác, dù người đó là ai. Người có như vậy có thể sẽ bị coi là lạnh lùng, dửng dưng, khinh người,… nhưng không phải vậy. Bắt chước là hèn nhát, nịnh bợ là nhục nhã. Hãy cứ là chính mình. Không sợ hãi trước kẻ quyền thế, không hống hách với người yếu thế, không luồn cúi hoặc nịnh bợ người khác để có lợi cho mình, đó chính là phong cách của quân tử. Thật là đê tiện với những ai có cái kiểu “cáo mượn oai hổ”.
Biết mình và biết người là điều cần thiết trong cuộc sống, cao cấp nhất là nhận biết Thiên Chúa – dạng nhận thức tâm linh. Thánh Augustinô phân tích: “Nhận biết Thiên Chúa là làm cho con người nhận biết mình; cũng vậy, nhận biết mình cũng là khiến cho người ta nhận biết Thiên Chúa”. Rất hay, rất lô-gích!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận thức đúng đắn, khả dĩ biết Chúa, biết người, và biết chính con, để con không ảo tưởng mà kiêu ngạo, và để con biết sống khiêm nhường theo đúng Tôn ý Ngài.
Lạy Đấng giàu lòng thương xót, cơn bão Sakira (số 7) đang làm cho miền Trung ngập trong biển nước, hơn 30.000 gia đình không có chỗ trú thân, trong khi đại họa Formosa chưa nguôi, khổ chồng lên khổ. Xin Chúa chúc lành và che chở họ, xin thêm đức tin cho họ trong cảnh khốn khó này.
Lạy Đức Mẹ La Vang, xin Mẹ choàng Chuỗi Mân Côi quanh miền Trung để bảo vệ họ khỏi thiên tai và nhân tai, xin cho những người hữu trách có được nhận thức theo Tháy Ý Chúa, và xin ban bình an cho Việt Nam bé nhỏ của dân tộc chúng con. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
59. Lời cầu nguyện đích thực
(Suy niệm của Lm Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin Mừng Lc 18: 9-14 Hình ảnh của hai nhân vật trong dụ ngôn hôm nay đã giúp chúng ta khám phá lại hai sự thật căn bản: sự thật về Thiên Chúa tình thương và sự thật về con người tội lỗi.
Một vị linh sư nọ đang cầu nguyện. Các môn đệ đến xin ông dạy họ cách cầu nguyện. Vị linh sư liền dạy các môn đệ cầu nguyện bằng một câu chuyện như sau:
Cả hai người dẫn nhau đi qua một cách đồng, bỗng một con bò mộng giận dữ không hiểu từ đâu chạy tới. Hai người bèn chạy đến hàng rào gần nhất để ẩn núp; những đã quá trễ, họ không thể lẩn trốn được con bò mộng hung dữ kia đang chạy tới để hút vào người họ. Trong cơn hốt hoảng, không còn biết làm gì được nữa, một trong hai người đề nghị: chỉ còn có sự cầu nguyện may ra giúp chúng ta thoát được. Thế nhưng người kia lắc đầu tuyệt vọng:
– Cả đời tôi, có bao giờ tôi cầu nguyện đâu!
Người bạn quả quyết:
– Anh hãy đọc bất cứ kinh nào anh nhớ.
Một chút hy vọng bỗng lóe lên, anh ta nói:
– Vậy thì tôi sẽ đọc lời kinh duy nhất mà tôi còn nhớ, đó là lời cầu nguyện cha tôi thường đọc trước bữa ăn như sau:
“Lạy Cha, xin cho chúng con luôn biết tạ ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng con đã nhận được”.
Anh chị em thân mến,
Cầu nguyện là sinh hoạt căn bản và là nhu cầu cấp thiết của lòng tin. Cầu nguyện còn là biểu hiện của một lòng tin sống động. Người Kitô hữu nào cũng phải cầu nguyện. Nhưng lời cầu nguyện của chúng ta chỉ có ý nghĩa thực khi nó diễn tả mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa. Và đó là lời cầu nguyện đẹp nhất mà Thiên Chúa mong đợi nơi những kẻ tin Ngài.
Chúng ta thường cầu nguyện như thế nào?
Hôm nay chúng ta hãy nghe lời cầu nguyện của người Pharisêu và của người thu thuế trong dụ ngôn Chúa Giêsu đã kể cho chúng ta. Qua lời cầu nguyện của hai người nầy, chúng ta thấy được phần nào nội tâm của từng người.
Lời nguyện của người Pharisêu trước hết là một lời tạ ơn, tiếp theo là bản liệt kê những thói hư tật xấu mà ông không hề phạm, cuối cùng là những việc đạo đức ông quen làm. Đây là một lời cầu nguyện hết sức thành thực, người Pharisêu chỉ nói lên những điều ông đã sống. Chẳng những ông đã làm các việc đạo đức do luật buộc như ăn chay mỗi năm vào dịp lễ Xá tội, nộp một phần mười lợi tức cho đền thờ, mà ông còn tự nguyện làm những việc đó ở mức độ cao hơn, như ăn chay một tuần hai lần, nộp cho đền thờ một phần mười lợi tức chẳng những về gia súc, ngũ cốc, rượu và dầu mà còn cả về rau, đậu và thảo mộc nữa. Chúng ta không thấy ông xin gì cho bản thân, nhưng chỉ là “tạ ơn”. Điều đáng tiếc là lời tạ ơn của ông đầy nét tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân: “Tạ ơn Chúa vì con không như bao người khác…”, “con không như tên thu thuế kia”. Chính vì thế chúng ta có thể nghi ngờ về tâm tình “tạ ơn” của người Pharisêu nầy. Tạ ơn thực sự bao giờ cũng gắn liền với thái độ khiêm tốn thẳm sâu.
Còn người thu thuế đến đền thờ để thú tội. Anh ý thức mình là một tội nhân, bị kể ngang hàng với bọn đĩ điếm (x. Mt 21,31-32). Có lẽ anh đã nghe thấy lời cầu nguyện lớn tiếng của người Pharisêu “con không như tên thu thuế kia”, nên anh thấy khỏi cần thú tội mình. Anh chỉ đặt mình trước Thiên Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Điều anh khao khát là được Thiên Chúa tha thứ và được làm hòa với anh em, nhưng anh chỉ dám đứng xa vì thấy mình hoàn toàn bất xứng.
Thưa anh chị em,
Qua lời cầu nguyện của hai người trên đây, chúng ta thấy: Người Pharisêu ra gặp Thiên Chúa và ông cảm thấy mình có thế giá hơn nhiều người khác. Ông đã sống một đời sống đạo đức, nhiệm nhặt. Ông ra gặp Chúa với một kho những công trạng to lớn của riêng ông. Nhưng than ôi, cái kho đó lớn quá đến độ nó ngăn cách ông với Chúa, nó không cho ông thấy được Ngài nữa mà chỉ còn thấy chính mình. Có nhiều chữ “tôi” trong lời cầu nguyện của ông. Tôi tôi thế nầy, tôi thế nọ, tôi không như người nầy, không như người khác… Rốt cuộc ông Pharisêu lại là người quay vào mình, ông ngắm chính mình, dù chúng ta tưởng ông đã mở ra khi nói: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa”. Tạ ơn là quay về với Thiên Chúa, nhìn nhận Ngài là nguồn mạch, là trung tâm, là sức sống của cả đời mình, của những việc tốt mình làm được. Ông Pharisêu đã không tạ ơn thực tâm vì ông quay vào mình, coi mình là trung tâm, là tác giả mọi điều tốt đẹp ông đã làm. Như thế Thiên Chúa là một người thừa, hay cùng lắm chỉ là một người mà ông đến gặp để kể công và đòi nợ. Thiên Chúa phải trả cho ông Nước Trời vì ông đã có công. Người Pharisêu không xin Thiên Chúa cũng chẳng thể cho điều gì, vì ông đã đầy ắp. Vì tự mãn, nên ông mất đi một khả năng quan trọng, đó là mở ra để đón nhận Thiên Chúa vào đời mình.
Nếu người Pharisêu là một ông nhà giàu, chẳng có gì phải xin Thiên Chúa, thì ngược lại, anh thu thuế, tuy là là người có lắm tiền nhiều của, nhưng thực ra anh là người nghèo trước mặt Thiên Chúa. Anh chẳng có công trạng gì để cậy dựa. Anh ý thức về sự nhơ nhớp của mình và thấy gần như không thể làm lại cuộc đời. Nếu hoán cải, anh phải bỏ nghề, và nhất là phải bồi thường toàn bộ những gì anh đã thu quá mức, cộng thêm một phần năm số tiền trên. Tình cảnh của anh thật là tuyệt vọng. Anh chỉ còn biết cậy dựa vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
Như thế, thật là oái oăm, chính sự đạo đức của người Pharisêu đã trở thành một chướng ngại khiến ông ta không gặp được Thiên Chúa, không lãnh nhận được ơn của Ngài. Còn sự tội lỗi của người thu thuế lại đưa anh đến chỗ mở lòng ra để đón nhận Thiên Chúa, Đấng yêu thương tha thứ. Chúa Giêsu đã long trọng tuyên bố: “Tôi nói cho các ông biết:người nầy, khi trở về nhà, thì đã được nên công chính; còn người kia thì không”.
Như thế, thưa anh chị em, những ai tự cho mình là công chính thì không được Thiên Chúa nhìn nhận, còn kẻ tội lỗi biết cậy trông, lại được Thiên Chúa làm cho nên công chính. Chúng ta không thể tự tạo cho mình sự công chính thánh thiện nhờ làm những việc lành phúc đức. Trở nên công chính là một ơn Chúa ban cách nhưng không, nhờ lòng tin và lòng mến của ta đối với Chúa Giêsu Kitô. Chắc chắn chúng ta phải làm nhiều việc lành phúc đức, nhưng đừng tưởng mình có thể mua được Nước Trời bằng những công phúc của mình. Chúng ta được cứu độ nhờ công trạng của Đức Kitô. Dù sống đạo đức hay trót mang thân phận tội lỗi, chúng ta phải tránh thái độ khép kín trước Thiên Chúa và tha nhân. Đừng vì mình đạo đức mà khép kín trong tự kiêu, cũng đừng vì mình tội lỗi mà khép kín trong tự mãn, cũng đừng bì mình tội mà khép kín trong tuyệt vọng. Ơn Chúa chỉ đến với người biết mở ra để đón nhận.
Anh chị em thân mến,
Hình ảnh của hai nhân vật trong dụ ngôn hôm nay đã giúp chúng ta khám phá lại hai sự thật căn bản: sự thật về Thiên Chúa tình thương và sự thật về con người tội lỗi. Vì thế lời cầu nguyện của người thu thuế về con người tội lỗi. Vì thế lời cầu nguyện của người thu thuế lại chính là mẫu mực cho đời sống đức tin của chúng ta: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Nếu dụ ngôn giúp chúng ta khám phá hai sự thật căn bản đó thì để kết thúc, không có gì tốt hơn là lặp lại thật sâu và thật trọn vẹn lời cầu nguyện của Thánh Âutinh: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con”.
60. Tội lỗi chống lại sự có tội – McCarthy
Người Pharisêu hoàn toàn không biết đến sự có tội của mình. Ông ta không nghĩ mình có tội gì cả. Ông ta không phải là một người tội lỗi như phần còn lại của nhân loại. Không. Ông ta khác hẳn. Tuy nhiên, thay vì xem xét lương tâm của mình và xưng thú tội lỗi của mình, ông xem xét lương tâm của những người khác và xưng thú tội lỗi của họ –tham lam, bất công, ngoại tình vân vân…
Tuy nhiên, ông ta có tội. Thật vậy, tội rất nghiêm trọng. Tội chính của ông là lòng kiêu ngạo. Nhưng ông ta cũng phù phiếm và tự cho mình đúng lại còn khinh khi những người khác. Những tội lỗi của ông ta không phải vì những việc làm xấu mà là những thái độ xấu. Ông ta tỏ một thái độ có vấn đề như người ta thường nói như thế ở Mỹ.
Người thu thuế nếu muốn cũng có thể cáo tội người Pharisêu. Nhưng ông không làm thế. Ông tập trung vào chính mình, và để tội lỗi của những người khác ở giữa họ và Thiên Chúa. Với sự lương thiện triệt để, ông bóc trần tâm hồn trước mặt Thiên Chúa. Ông không cố tình giấu giếm điều gì. Ông đứng trước mặt Thiên Chúa và với tất cả sự khiêm tốn, ông nói: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Kết quả là khi ông trở về nhà, ông đã được nên công chính. “Lời cầu xin của người khiêm tốn sẽ vọng tới các tầng mây” (Bài đọc 1).
Chúng ta có thể học hỏi cả hai người ấy. Trước hết người Pharisêu. Thật vậy, có một người Pharisêu ẩn núp trong mỗi người chúng ta. Giống như họ, chúng ta có thể nhận thức rõ những tội lỗi của các người khác nhưng lại không nhìn thấy tội lỗi của mình. Người ta dễ có thói quen cáo tội người khác. Nhưng điều nguy hiểm bởi vì nó ngăn cản chúng ta nhìn vào chính tội của mình. Ngoài ra, không thể định tội những người khác mà không để cho sự chủ quan của mình, làm cho thiên lệch.
Và chúng ta có thể học hỏi với người thu thuế. Ông này chỉ cho chúng ta biết phải xưng thú tội lỗi của chúng ta như thế nào. Dù chúng ta chưa nhận thức hết mọi tội mình làm, mỗi người trong chúng ta vẫn có thể nói với tất cả sự thật: “Con là kẻ tội lỗi”.
Nhiều người đến với Bí tích hoà giải với một danh sách các tội đã được chuẩn bị trước. Phần lớn những điều ghi trong danh sách ấy thì tầm thường, không đáng kể và không thay đổi bao nhiêu từ lần xưng tội này đến lần xưng tội sau. Người ta không nỗ lực đi sâu vào căn nguyên của mối tương giao của họ với Thiên Chúa và với người khác. Người ta quá nhấn mạnh đến các tội mà không nhấn mạnh đúng mức trên sự kiện là một người tội lỗi.
Người thu thuế hẳn sẽ dễ dàng lập ra danh sách các tội. Nhưng ông đã không làm thế; ông làm một điều tốt hơn, và cũng khó khăn hơn. Ông nói: “Con là kẻ tội lỗi”.
Chúng ta cũng phải chuẩn bị đứng trước Thiên Chúa như những kẻ tội lỗi cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa như đất hạn cần mưa. Chúng ta cần phải đối diện không phải với sự thật chúng ta phạm tôi mà với sự thật chúng ta là những kẻ tội lỗi. Chúng ta là một dân có tội, sa đoạ – đây là một thực tế. Tội lỗi không phải là một hành động hay một hoạt động các hành động, nhưng là một điều kiện trong đó chúng ta sống. Đó là một chân lý cao cả mà người thu thuế đã lĩnh hội.
Một vấn đề lớn của thời đại chúng ta là con người không biết được chính mình, nhận ra điều xấu và giải quyết nó nơi bản thân mình. Những người trong các nhóm hỗ trợ nói rằng khúc quanh lớn làm họ chuyển biến là khi họ có thể nói lên sự yếu đuối của mình.
Người Pharisêu đầy sự tự mãn, là tâm điểm của thế giới ông ta. Ông đã tự tán dương mình. Từ vị trí tự tâng bốc ấy, ông nhìn xuống những người khác, trong đó có những người mà ông khinh bỉ. Người thu thuế, trái lại, hạ mình trước mặt Thiên Chúa. Ông này đặt hy vọng của ông vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta làm tốt khi theo gương ông. Thiên Chúa yêu thích tâm hồn tan vỡ và sầu khổ biết rõ những thất bại của mình hơn tâm hồn tự mãn và kiêu căng không bao giờ nhận rằng mình đã phạm tội.
“Một kẻ tội lỗi biết rằng mình là kẻ tội lỗi tốt hơn một ông thành biết mình là thánh nhân” (Châm ngôn Yiđít).
61. Suy niệm của William Barclay
Ở Palestine, người ngoan đạo giữ ba giờ cầu nguyện mỗi ngày, lúc chính giờ sáng, mười hai giờ trưa và ba giờ chiều. Lời cầu nguyện được kể là linh nghiệm đặc biết nếu cầu nguyện trong Đền Thờ, và vì thế vào những giờ đó nhiều người đến Đền Thờ để cầu nguyện. Chúa Giêsu nói về hai người lên Đền Thờ để cầu nguyện.
1. Có một đạo sĩ Do thái, ông lên Đền Thờ cầu nguyện.
Ông đứng giữa Đền Thờ nói với Thiên Chúa, nhưng thực ra không phải là lời cầu nguyện thật. Ông bắt đầu bằng “tôi tạ ơn Chúa”, nhưng thực ra ông không nói với Chúa mà là nói với chính mình. Lời cầu nguyện đích thực bao giờ cũng phải được dâng lên cho Chúa và chỉ một mình Chúa mà thôi. Ông đang trình bày chính mình như một bằng chứng trước mặt Thiên Chúa. Ông vui mừng vì so sánh với kẻ khác thì ông thuộc một giai cấp riêng, mọi người khác đều “tham lam, bất chính, ngoại tình, và điển hình cho bọn tội nhân ấy là bọn thâu thuế khốn nạn. Thay vì nhìn vào Thiên Chúa, ông đã nhìn vào người thâu thuế, ông đã khoe rằng chẳng những đã giữ mình thoát khỏi tội lỗi của kẻ khác, lại còn làm nhiều việc lành hơn. Luật Do thái chỉ buộc ăn chay một ngày trong năm, đó là ngày lễ chuộc tội, những kẻ muốn lập công đặc biệt cũng kiêng ăn các ngày thứ hai và thứ năm nữa. Luôn nhớ đó là ngày phiên chợ và Giêrusalem đầy dẫn dây từ các làng đổ về. Những kẻ ăn chay làm cho sắc mặt mình tái đi, bước đi trong bộ áo nhàu nát, những ngày đó tuyên truyền mạnh mẽ cho cái vẻ đạo đức vì có nhiều người ngắm nhìn họ. Luật buộc dâng một phần mười lợi tức cho các thầy Lê vi, vị đạo sĩ này dâng một phần mười tất cả các thứ, kể cả các thứ không buộc phải dâng. Nói khác đi, ông tỏ ra tốt hơn điều Thiên Chúa đòi hỏi, ông làm như Thiên Chúa cần biết ơn ông, tất cả thái độ trên tiêu biểu cho một điều tệ hại nhất của chủ thuyết Pharisi. Có một bài cầu nguyện của một rabi còn được ghi lại như sau: “Lạy Đức Chúa Giavê, tôi cảm tạ Ngài vì đã đặt tôi dự phần với những viện sĩ Hàn lâm viện chứ không phải ngồi chung với những kẻ đầu đường xó chợ. Vì tôi dậy sớm thì chúng cũng dậy sớm, tôi dậy sớm để học luật pháp Chúa, chúng dậy sớm vì những sự hư không. Tôi làm việc chúng cũng làm việc; tôi làm việc vì lãnh phần thưởng, còn chúng làm việc và không được lãnh phần thưởng. Tôi chạy và chúng cũng chạy, tôi chạy tới sự sống đời sau, còn chúng chạy tới hố diệt vong”. Rabi Ben Jocai được ghi nhận là đã có lần nói: “Nếu chỉ có hai người công chính trên thế gian thì đó là tôi và con trai tôi; nếu chỉ có một người thì đó là tôi”. Người biệt phái này thực ra không lên Đền Thờ để cầu nguyện, ông ta đến để nói cho Thiên Chúa biết ông ta tốt như thế nào. Một con người như thế đâu có hiểu biết gì về sự thánh thiện của Thiên Chúa, về tinh túy của luật Chúa là tình yêu!
2. Có người thâu thuế.
Người này cung kính đứng cách xa con người có vẻ thánh thiện, vì công đức của người ấy được mọi người nhận biết, cảm phục. Cũng không dám ngước nhìn lên trời, đấm ngực tỏ dấu ăn năn miệng kêu khấn: “Lạy Chúa, xin thường xót con là kẻ có tội”. Những chữ dùng ở đây không những chỉ tội nhân mà còn là tội nhân rất khốn nạn nữa. Và Chúa Giêsu cho biết chính lời cầu nguyện khiêm tốn và tấm lòng tan nát này khiến Thiên Chúa đóai thương ta.
– Người kiêu ngạo không thể cầu nguyện. Cửa lên trời rất thấp nên chỉ những ai biết quỳ gối mới có thể vào được.
– Người nào khinh dể anh chị em mình thì không thể cầu nguyện được. Trong khi cầu nguyện chúng ta không được nâng mình lên trên kẻ khác. Cần nhớ rằng chúng ta là một phần của nhân loại đang phạm tội, đang đau khổ, đang âu sầu, tất cả đang quỳ gối trước ngai thương xót của Thiên Chúa.
– Chỉ có sự cầu nguyện thật khi biết được đời sống mình bên cạnh đời sống của Thiên Chúa. Chúng ta không hề hồ nghi điều người biệt phái này nói, tất cả đều đúng. Ông đã ăn chay, ông đã kỹ lưỡng dâng một phần mười, ông ta đã không giống người khác, lại càng đã không giống người thu thuế này. Nhưng vấn đề không là: “Tôi có tốt như kẻ khác chăng?” nhưng “tôi có tốt như Thiên Chúa không?” Tất cả tùy ở chúng ta so sánh mình với đối tượng nào. Khi chúng ta đặt đời sống mình bên cạnh đời sống diệu kỳ của Chúa Giêsu, bên cạnh sự thánh thiện của Thiên Chúa, thì chúng ta chỉ có thể nói: “Lạy Chúa, xin xót thương con là kẻ tội lỗi.”
Dụ ngôn này không phải chỉ dạy về lòng khiêm nhường khi đi cầu nguyện mà cả trong mọi cách đánh giá bản thân và trong mọi lúc đến cùng Thiên Chúa. Nó đối chiếu sự tương phản giữa tôn giáo của hình thức và tôn giáo của tâm hồn. Nó minh định rằng chỉ có ăn năn là con đường duy nhất đưa đến sự tha tội và bình an.
Dụ ngôn này không phải Chúa kể cho người Pharisêu, dầu nó vạch trần bộ mặt giả tạo và tự lừa dối của mọi thứ chủ nghĩa biệt phái. Hình như khi kể, Chúa đã nghĩ đến mấy người trong số đã theo Ngài, nhưng dầu là thuộc giai cấp hay nghề nghiệp nào, ở thời đại nào hay nơi chốn nào, tinh thần biệt phái này cũng có đại diện. Đó là hạng người cho mình là đạo đức và coi kẻ khác không ra gì.
Nhận thấy mình tội lỗi, tìm cầu ơn tha tội và kêu xin lòng thương xót của Thiên Chúa, đó chính là khởi điểm của cuộc sống mới. Rồi muốn tiến bộ trên đường thánh thiện đến mức nào đi nữa, cũng vẫn cần lòng khiêm tốn như vậy. Càng gần ánh sáng càng nhận ra mình nhơ bẩn, càng gần Chúa càng thấy mình tội lỗi và càng không thể khoe khoang về thành tích đạo đức của mình. Hễ càng biết mình không ra gì, thì càng xứng đáng để phục vụ Chúa và đồng loại. Đứng trên phương diện quốc gia cũng như trong đời sống cá nhân, sự kiêu ngạo của chủ nghĩa Pharisêu ngăn trở tính cách đắc lực, tình huynh đệ và ân huệ của Thiên Chúa, điều cần thiết là chúng ta sám hối, sống khiêm cung: “Ai tự nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
62. Người biệt phái và người thu thuế
(Suy niệm của Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
1. Trong phúc âm Lc, dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế được tiếp đón sau dụ ngôn vị thẩm phán bạo ngược. Không có gì chứng minh hai dụ ngôn này được đưa ra trong cùng một hoàn cảnh. Có lẽ chúng được liên kết với nhau vì có cùng chủ đề tương tự. Mỗi dụ ngôn đều có phần nhập đề đặc biệt. Mạch văn ghi lại những giai thoại cuối cùng trong hành trình tiến về Giêrusalem. Lc giống Mt và Mc ở điểm này. Dụ ngôn xem ra được đưa ra tại Perée hoặc Giuđêa ít lâu trước khi Chúa Giêsu đi tới Giericô lần cuối cùng. Bản văn đã giúp xác quyết các dữ kiện đó. Dụ ngôn chạm trán, không chút vị nể, sự công chính giả hiệu của người biệt phái. Chúa Giêsu đã không đợi đến ngày cuối cùng mới làm việc đó, nhưng đúng hơn ngay khi bắt đầu cuộc sống công khai, tuy nhiên Ngài tránh dịp đả kích.
2. Nhiều nhà chú giải nghĩ rằng Chúa Giêsu muốn dùng dụ ngôn này để dạy về sự cầu nguyện, hoặc bề sự khiêm tốn, hoặc về sự cầu nguyện khiêm tốn, đó là những điểm nhấn mạnh trong những lời chú giải. Họ xây dựng ý kiến đó trên sự kiện dụ ngôn được bao gồm trong một cơ cấu về việc cầu nguyện, theo sau vị thẩm phán bạo ngược và nhất là dựa trên những nét chính dụ ngôn: dụ ngôn không được xây dựng do những lời cầu nguyện của người biệt phái và người thu thuế sao? Cách chung, các tác giả này xem câu châm ngôn: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” như là câu kết thúc trình thuật dụ ngôn.
Đa số các nhà chú giải cho rằng Chúa Giêsu có lý khác. Khi mô tả người biệt phái cầu nguyện. Ngài không muốn dạy về sự cầu nguyện cho bằng phơi trần hai đời sống nội tâm. Phải chăng lúc cầu nguyện là lúc người ta được coi là chân thành hơn hết đó sao? Vậy dụ ngôn có mục đích dạy về các giá trị của hai trạng thái tâm hồn, hai thái độ nội tâm, hai mặc cảm tinh thần: mặc cảm của người biệt phái tự mãn về chính mình, về sự thánh thiện của mình và mặc cảm của người thu thuế, tuy là tội nhân, nhưng biết tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
Tất cả đều làm nổi bật quan niệm đó: thể văn dụ ngôn đưa ra hai khuôn mặt đối nghịch, chỉ mình Chúa Giêsu mới xét đoán ai công chính, ai không. Câu nhập đề cũng nghiêng theo quan điểm đó: “Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những ai thường tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác”. Dụ ngôn dạy những người tự phụ, bằng cách cho họ thấy rõ ràng tính tự kiêu và vẻ hợm hĩnh họ bày tỏ trước mặt Thiên Chúa, trong khi những người bị họ khinh chê, nhờ ăn năn hoán cải, đã được ơn tha thứ và ơn công chính hóa.
3. Thông thường, các dụ ngôn trình bày những sự vật hay con người để dùng bản chất hay việc làm của họ để dạy về các thực thể thuộc bình diện cao hơn. Ngược lại, dụ ngôn hôm nay chỉ là một ví dụ.
Chúa Giêsu đã vắn tắt phác họa hai khuôn mặt nổi tiếng. Không nên có tiên kiến khi phân tích hai khuôn mặt đó. Từ nhiều thế kỷ, người biệt phái đã thành một loại chiên hy sinh (bouc émissaire); một số nhà chú giải còn muốn tô đậm hơn các nét mà Chúa Giêsu đã sơ họa. Chớ làm thế. Một khuôn mặt luôn ngụ một ý nào đó; nếu quá nhấn mạnh nó sẽ thành hài hước và cuối cùng không gây được một cảm tưởng nào.
Ví dụ, khi người biệt phái cảm tạ Chúa vì mình không như những kẻ khác, thật là ép nghĩa khi xem người biệt phái đó muốn đối chiếu bản thân ông là người công chính; bên kia là tất cả mọi người khác, họ đều là người hư hỏng. Nhiều nhà chú giải nghĩ phải hiểu ngầm có thêm câu “như những người khác không phải là biệt phái”: cách nói này có thể chấp nhận. Ngoài ra, người biệt phái không xem tất cả các người khác không phải là biệt phái đều là những quái vật. Đừng hiểu cách vô hạn định thành ngữ hoi loipoi tôn ânthrôpôn. Nếu dịch thành ngữ này là “các người còn lại” thì quá mạnh nghĩa; có lẽ nên dịch là “các người khác”, hay “quần chúng nói chung”. Hoặc nếu muốn hiểu thành ngữ đó theo nghĩa mạnh thì phải xem người biệt phái đã cố ý khoa trương như tác giả Tv (Tv 14,2-3). Việc đối chiếu người đạo đức với các kẻ gian ác là một chủ đề thường gặp trong các Tv (Tv 1,14; 16,17…). Việc người biệt phái có khuynh hướng gán ghép điều ác cho kẻ khác và điều thiện cho bản thân mình là một việc có thể có. Ông sai lầm ở chỗ là tạo nên ảo tưởng đó ngay trước mặt Thiên Chúa. Ông hơi hợm hĩnh, buồn cười, nhưng sự kiêu ngạo của ông không lạ lùng gì, vì thường ai cũng thế.
Và vì hình ảnh người biệt phái có vẻ có như trong thực tế, và vì lời ông cầu nguyện xem ra chính đáng, nên dụ ngôn đã làm cử tọa kinh ngạc và khó hiểu. Sách Tamud ghi lại một lời nguyện ở thế kỷ I khá tương tự với lời nguyện của người biệt phái: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con cảm tạ Chúa vì đã cho con nhập bọn với các người đầu đường xó chợ, con đã lên đường sớm như họ: nhưng con sớm đi theo Lời của Lề luật còn họ sớm theo phù vân giả dối. Con từng vất vả như họ: con chịu vất vả để trọng thưởng, còn họ chịu vất vả mà chẳng gì. Con chạy họ cũng chạy: con chạy về sự sống của thế giới mai sau, còn họ chạy về hố thẳm diệt vong (b Ber 28b).
Lời nguyện của người Biệt phái do đó là một lời nguyện rút từ cuộc sống cụ thể, và b Ber 28b là lời chú giải chính xác về thành ngữ “con cảm tạ Chúa” của câu 11. Người biệt phái chân thành cảm tạ Chúa đã hướng dẫn đời sống ông. Ông biết rằng chính Thiên Chúa đã cho ông sống khác biệt và tốt hơn người khác, rằng chính Ngài đã cho ông gia nhập nhóm những người biết nghiêm túc tuân giữ các bổn phận tôn giáo. Ông không muốn hoán đổi cuộc sống ông với suộc sống của kẻ khác dù họ có một đời tốt đẹp hơn, vì ông hứa rằng: đường ông đang đi, dù gặp bao khó khăn gian khổ, cuối cùng cũng sẽ đưa đến “sự sống của thế giới mai sau”. Đó chẳng phải là những lý do để cảm tạ hay sao (c.12 cũng là lời cảm tạ). Hãy lưu ý thêm điều này: lời nguyện của người biệt phái không chứa đựng một lời van xin gì cả, mà chỉ là một lời cảm tạ, tri ân. Thật là điều tuyệt hảo, không ai mà lại không ao ước như thế. Đó chính là tiền nếm sự sống vĩnh cửu. Cầu nguyện như thế, có gì cần phải sửa đổi?
4. Chúng ta cũng phải khảo sát lời cầu nguyện của người thu thuế với cái nhìn của người đương thời. Bản văn nói là ông ta không dám nhìn lên và hơn nữa – đây là điều hiểu ngầm – không dám đưa tay lên trời như ông vẫn thường làm khi cần nguyện. Ông cúi đầu và đấm ngực: đây là một cử chỉ hoàn toàn lạ thường biểu lộ một nỗi thất vọng sâu xa. Ông ăn năn đấm ngực, không để ý gì đến nơi đang đứng; ông đau khổ vì thấy mình quá xa Thiên Chúa; hoàn cảnh của ông cũng như gia đình của ông, thật vô vọng, bởi vì để ăn năn hối cải, không phải chỉ từ bỏ đời sống tội lỗi, nghĩa là từ bỏ nghề nghiệp của ông, nhưng còn phải hoàn trả và bồi thường thêm một phần năm những số tiền mà ông đã tham nhũng. Làm sao biết ông đã biển thủ ai! hoàn cảnh của ông, cũng như lời cầu nguyện của ông, thật là vô vọng.
Chính lúc đó, câu 14a kết luận: “Ta bảo các ngươi, người này ra về khỏi tội, còn người kia thì không! Thiên Chúa đã tha thứ cho người này mà không tha thứ những kia. Đó chính là câu kết luận khiến thính giả Chúa Giêsu bỡ ngỡ; chắc chắn không ai trong họ ngờ điều đó. Vậy người biệt phái đã có thể làm gì ? Và người thu thuế sẽ phải sửa đổi làm sao ? Nếu bỏ câu 14b (có lẽ là câu kết luận tổng quát Lc thêm vào), Chúa Giêsu không thèm đưa ra một giải pháp nào. Ngài chỉ nói cách đơn giản: đó là cách Thiên Chúa xét xử. Nhưng một cách gián tiếp, Ngài cho thấy lý do tại sao Thiên Chúa xem ra bất công. Trong tiếng kêu đầy thất vọng, người thu thuế đọc lại những câu đầu của Tv 51 (Miserere) và chỉ thêm: “thương xót tôi là kẻ có tội” (một nghĩa đối nghịch): “Lạy Chúa, xin thương xót tôi dù tôi là kẻ tội lỗi” (c.13). Nhưng trong chính Tv 51 này cũng có nói: “Của lễ Thiên Chúa ưa chuộng chính là tâm hồn tan nát khiêm cung” (Tv 51,19). Chúa Giêsu nói Thiên Chúa xử sự như Tv đã viết. Ngài nhận lời những tội lỗi thất vọng và từ chối người chỉ để ý đến sự “công chính” của riêng mình. Ngài là Thiên Chúa của những người thất vọng và lòng thương xót của Ngài vô biên đối với những ai có tâm hồn tan nát. Thiên Chúa thế đó! và bây giờ, bắt chước Ngài, tôi cũng hành động như vậy.
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu đánh đổ niềm tự tin của những kẻ tự xưng là “đạo đức”. Họ tự công chính hóa bản thân mình, trong khi đúng ra phải để Chúa công chính bản thân họ, vì chỉ Ngài có thể làm công việc đó.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Qua dụ ngôn này, Chúa đề nghị chúng ta chọn giữa hai thái độ tinh thần, hai cách thức nhận ra tương quan chúng ta với Ngài.
Thái độ của người biệt phái chứng tỏ ông có ý thức về các cố gắng đã chu toàn, các tiến bộ bản thân ông đã thực hiện, khoảng cách giữa tình trạng hiện thời lành thánh và tình trạng khả thể tội lỗi của mình. Ông rất quan tâm đến điều đó và đặt tin tưởng vào những thành tích tinh thần của mình (ăn chay, dâng 1/10 …) Ông có một cái gì đó để làm chứng trước tòa Thiên Chúa; ông còn thấy mình “chắc ăn” hơn khi sánh mình với những người có thành tích thua mình.
Người thu thuế đo lường khoảng cách giữa tình trạng hiện thời tội lỗi và tình trạng phải trở nên lành thánh của mình; khoảng cách này đối với ông không có gì là rõ ràng cả. Tuy nhiên ông không trì trệ đối với điều đó. Ông kêu van lòng thương xót, ông không tìm cách được công chính hóa bằng một thành tích tốt lành… Xin Chúa hãy hành động.
Người thứ nhất nhìn sau lưng ông và tự mãn bằng sự quảng đại và hiệu quả của những cố gắng riêng mình. Người thứ hai nhìn trước mặt mình và xin Thiên Chúa giúp. Người thứ nhất nhìn chính mình, người thứ hai nhìn Thiên Chúa – và đó là điều cứu vớt ông.
2. Thiên Chúa chúc phúc cho lòng khiêm cung tín thác. Lòng khiêm cung cốt ở chỗ phơi bày tâm tư trước mặt Thiên Chúa. Nó được tạo nên do sự sáng suốt và sự tín thác. Sự sáng suốt soi sáng tâm trí về trạng thức của lương tâm. Nó khám phá ra những bất hạnh lớn lao và xem ra bị vây hãm trong sự thất vọng, chán chường. Thế nhưng sự tín thác đến để nâng đỡ tâm hồn. Khám phá ra sự bất hạnh của mình dưới cái nhìn của Thiên Chúa để biết rằng Thiên Chúa là tình yêu, chính là kêu xin sự tha thứ và lòng xót thương một cách rất bảo đảm. Nếu thành thực, nghĩa là quyết tâm thực hành việc ra khỏi bất hạnh của mình, ta sẽ được tha thứ.
Ngược lại, sự tự túc tự mãn làm mếch lòng Thiên Chúa khi đem ra khoe khoang trước mặt Ngài hoặc người bên cạnh. Ai trong chúng ta lại không bị cám dỗ tự “công chính hóa” trước người bên cạnh, trước mặt những người khác ? Có thực sự chấp nhận đường lối khiêm nhu làm hài lòng Thiên Chúa ? Chúng ta rất dễ bị cám dỗ nâng mình lên. Thử xem chúng ta phản ứng thế nào khi bị người khác đánh giá quá thấp. Cũng như lòng khiêm như tín thác làm hài lòng Thiên Chúa, sự nhún nhường thành thật khiến chúng ta làm vừa lòng người khác. Trong cả hai trường hợp, tâm hồn cảm thấy dễ dàng đón nhận, trao đổi, vui mừng.
3. Đừng kiêu ngạo hoặc tự đắc về việc đạo đức của chúng ta. Khi tham dự thánh lễ, chúng ta chỉ chu toàn bổn phận tối thiểu của người Kitô hữu. Chúng ta đừng bằng lòng về một sự hiện diện duy hình thức, không hiến dâng thân mình làm hòa với lời nguyện tôn thờ, van xin của phụng vụ, nhưng hãy làm hòa lẫn mọi ý hướng và thái độ nội tâm với mọi nghi lễ, kinh nguyện phụng vụ. Đừng bắt chước kiểu công chính biệt phái: đứng trên cao nhìn xuống phê phán người ta, dù họ có mặt hay vắng mặt. Chỉ mình Thiên Chúa mới thấu triệt các lý do họ hành động, các tâm ý cũng như các khó khăn họ gặp phải. Chúng ta đừng xuất hiện trước mặt Thiên Chúa như những quan tòa phê phán tha nhân, nhưng như những người thờ lạy thống hối, khiêm cung.
63. Cầu nguyện và khiêm nhường
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)
Tin Mừng Lc 18: 9-14 Hôm nay khi nói về đức khiêm nhường, Đức Giêsu đã kể cho dân chúng và các Tông đồ nghe dụ ngôn người Biệt Phái và người Thu Thuế lên đền thờ cầu nguyện.
Trong thư thứ nhất của thánh Phêrô, ngài đã khẳng định thật mạnh mẽ khi nói: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5, 5). Thật vậy, kiêu ngạo là kẻ thù số một của Thiên Chúa, bởi vì nó là con đẻ của Ma Quỷ. Ngược lại, khiêm nhường là trở nên giống Con Thiên Chúa làm người.
Hôm nay khi nói về đức khiêm nhường, Đức Giêsu đã kể cho dân chúng và các Tông đồ nghe dụ ngôn người Biệt Phái và người Thu Thuế lên đền thờ cầu nguyện.
1. Hai hình ảnh và hai thái độ đối lập nhau khi cầu nguyện
Dụ ngôn được khởi đi từ việc Đức Giêsu nhận định về một tầng lớp trí thức trong dân tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác (x. Lc 18, 9). Họ là những người Biệt Phái, luôn miệng khoe khoang mình là người người đạo đức, chuyên cần suy gẫm Lời Chúa, tuân giữ cách tỉ mỉ từng dấu chấm, dấu phết, rồi thông luật, nắm bắt được mọi vấn đề và, có lòng quảng đại vượt trội. Điều này được thể hiện rất rõ qua hình ảnh của người Biệt Phái hôm nay. Ông ta cùng lên cầu nguyện một trật với người Thu Thuế. Khi ông ta cầu nguyện, thay vì tạ ơn Thiên Chúa vì những ân huệ mà họ đã nhận được, thì họ lại kể lể, liệt kê thành tích của mình; đồng thời tố cáo anh em đồng loại. Nào là: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18, 12). Quả thật, những thành tích đó, đã gắn liền với cái tôi ích kỷ của ông, nên cũng từ cái tôi đó mà ông trở nên rỗng tuếch. Đúng là: “cái thùng kêu to là cái thùng rỗng”. Ông đâu biết rằng mọi sự là của Chúa, nếu Chúa không ban cho ông thì ông đâu có của cải để mà làm như vậy… Sự khoe khoang của nhà Biệt Phái đã làm cho ông ta mất phần phúc Nước Trời. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu cũng đã dạy: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng” (Mt 6, 1). Sự khiên nhường của ông chính là một sự khiêm nhường giả tạo. “Khiêm nhường như vậy thì bằng bốn lần kiêu ngạo”.
Hình ảnh người Thu Thuế thì trái ngược hẳn. Ông ý thức mình là người tội lỗi trước mặt Chúa, nên ông chẳng có gì để khoe cả, ông chỉ có con người tội lỗi, tấm lòng thành và tâm tình sám hối của mình mà thôi. Vì vậy, ông Thu Thuế này đã hết lòng tin tưởng và cậy trông vào sự nhân từ của Thiên Chúa. Ông khiêm tốn không dám ngẩng đầu lên vì coi mình không xứng đáng tiến đến gần Chúa. Vì vậy, từ đàng xa, ông này đã thốt lên: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Tấm chân thành của ông đã đụng tới trái tim, lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, nên ông đã được Chúa thương nhận lời. Nói về sự khiêm nhường, Gióp đã phải thốt lên: “Chúa triệt hạ kẻ ăn nói kiêu căng và cứu vớt ai khiêm nhường cúi mặt” (G 22, 29). Người Thu Thuế hôm nay quả là một người khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa. Ông đã nhận ra con người thật của mình để tự hào một cách khiêm tốn, và tự trọng đúng với giá trị của mình (x. Hc 10, 28).
Kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu đã kết luận bằng lời xá tội và tuyên án “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” bởi vì “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 52). Hình ảnh và thái độ của người Thu Thuế hôm nay đáng để cho mỗi người chúng ta noi theo.
2. Sống Sứ Điệp Lời Chúa hôm nay
Muốn khiêm nhường thực sự, chúng ta phải sám hối thật lòng, phải nhìn lại quá khứ lịch sử cuộc đời chúng ta để thấy được Thiên Chúa là Đấng yêu thương, tha thứ, trung thành; còn chúng ta thì vô ơn, bội bạc, bất trung… Khi nhìn lại quá khứ của chúng ta như thế, và chúng ta đặt mình trước mặt Chúa để thấy Chúa lớn lao, thấy Chúa là Chúa Tể, ta chẳng có gì, mà nếu có thì cũng là do ơn Chúa. Vì thế, tâm tình sám hối và tạ ơn là dấu chỉ của kẻ khôn ngoan. Thậy vậy, muốn đón nhận được ơn Chúa, ta phải trở nên người bé nhỏ, đơn sơ và khiêm tốn.
Nói về đức khiêm nhường, hẳn chúng ta vẫn còn nhớ Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Khi ngài còn là Khâm sứ Toà Thánh kiêm Đại diện Tông Toà quản trị các giáo phận ở Bungari và Thổ. Lúc đó có một linh mục bất mãn với ngài, nên viết thư tố cáo ngài nhiều chuyện. Tuy nhiên, thay vì giận dữ, Đức Giáo Hoàng đã trân trọng kẹp thư đó vào trong cuốn Kinh Thánh, để hằng ngày suy gẫm, để sửa sai và để nhớ đến vị linh mục đó và cầu nguyện cho vị linh mục đã tố cáo và ngài coi là đại ân nhân của mình. Khi gặp lại vị linh mục đó ở Vaticăng, trong một buổi triều yết riêng, vị linh mục này rất sợ, vì biết những việc sai lỗi của mình, nhưng khi gặp, Đức Giáo Hoàng đã chủ động tiến lại, ôm trầm lấy vị linh mục đó và ôn tồn trong khiêm tốn, ngài nói: “Con đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người, cũng yếu đuối, cha ngăn bức thơ con viết vào Kinh Thánh để hằng ngày đọc vào đó mà xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại hoặc xa tránh những lầm lỡ có thể xảy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con” (x. Đường Hy Vọng).
Mong thay, mỗi chúng ta hãy có được tâm tình sám hối như người Thu Thuế và thái độ khiêm nhường như Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Được như thế, chúng ta sẽ gặp được bình an, hạnh phúc, và được trở nên giống Thiên Chúa. Thật vậy: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30).
“Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” phải là lời cầu nguyện của chúng ta hằng ngày, mọi nơi, mọi lúc. Khi lời cầu nguyện đó được thốt lên thì cũng là lúc ta nhìn lại chính mình, để cần đến ơn tha thứ của Thiên Chúa nhiều hơn; yêu thương anh chị em và không bao giờ dám tố cáo lỗi lầm của người khác như người Biệt Phái khi xưa. Có lẽ nhiều lúc trong mắt chúng ta vẫn có cái xà thì làm sao trông rõ để lấy cái rác trong mắt anh chị em mình. Ý thức được điều đó, ta phải đấm ngực ăn năm vì đó là lỗi của ta chứ không đấm ngực người khác và bảo lỗi tại ông, tại bà, tại anh, tại chị chứ không phải tại tôi.
Lạy Chúa, xin cho con biết phó thác, tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa. Biết sám hối để nhận ra lỗi lầm của mình và khiêm nhường xin ơn tha thứ của Thiên Chúa; đồng thời biết yêu thương anh chị em mình thực lòng chứ không nhân danh đạo đức để tố cáo anh chị em chúng ta như người Biệt Phái khi xưa. Amen.
64. Khiêm nhường trong cầu nguyện và đời sống
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Nhằm dạy bài học khiêm nhường, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn về hai người lên đền thờ cầu nguyện. Trong đó người Pha-ri-sêu đã kiêu ngạo khi cầu nguyện chỉ trích tha nhân và tự đề cao bản thân. Đang khi người thu thuế khiêm tốn xin Chúa tha tội và chỉ biết cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Cuối cùng Đức Giêsu kết luận: người Pha-ri-sêu kiêu căng sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống, còn người thu thuế khiêm hạ sẽ được Thiên Chúa tôn vinh.
CHÚ THÍCH:
– C 9-10: + Có hai người lên đền thờ cầu nguyện: Đền thờ là nơi người Do thái cầu nguyện. Người ta tụ tập ở Đền thờ vào các ngày Sa-bát, ngày Lễ, ngày Chay… để nghe đọc Thánh kinh, hát Thánh vịnh và cầu nguyện chung. Tuy nhiên mọi người đều có thể vào Đền Thờ cầu nguyện riêng khi mở cửa. +Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu: Đây là nhóm người tự tách mình ra khỏi quần chúng. Họ giữ Luật cặn kẽ chi tiết và thường tự hào cho mình là công chính. Tuy nhiên họ làm mọi điều tốt nhằm tìm tiếng khen hơn là vì lòng mến Chúa thực sự. Vì thế họ cố tình đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được chào hỏi ở nơi công cộng và muốn được dân chúng xưng hô là “Thầy” (Ráp-bi) (x. Mt 23,5-7). +Còn người kia làm nghề thu thuế: Đây là hạng người bị dân chúng đồng hóa với những kẻ tội lỗi và bị khinh dể xa lánh, vì đã cộng tác với chính quyền Rô-ma. Đồng thời còn tham lam, thường ăn chặn tiền thu thuế của người dân đóng góp để làm giàu cách bất chính.
– C 11-12: + Người Pha-ri-sêu đứng riêng một mình…: Pha-ri-sêu có nghĩa là tách biệt. Ở đây người Pha-ri-sêu đã tự tách ra khỏi những người Do thái khác khi đến cầu nguyện tại Đền thờ. + Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia…: Người Pha-ri-sêu này đã cầu nguyện phê phán người khác về các tội cụ thể như tham lam, bất công, ngoại tình hay tội làm đầy tớ cho ngoại bang như người thu thuế đang đứng cuối Đền thờ. + Con ăn chay mỗi tuần hai lần: Luật chỉ buộc người Do thái ăn chay vào lễ Xá Tội tức là ngày 10 tháng 7 hàng năm (x. Lv 16,29). Tuy nhiên, mỗi tuần những người Pha-ri-sêu còn tự nguyện ăn chay thêm hai ngày khác là thứ Hai và thứ Năm, và họ hãnh diện nghĩ mình đạo đức hơn người khác về việc này (x. Lc 5,33). + Con dâng cho Chúa một phần mưới thu nhập của con: Người Do thái công nhận Thiên Chúa đã ban lương thực cho mình, nên họ bày tỏ lòng biết ơn bằng việc dâng lên Chúa những hoa quả đầu mùa. Luật qui định phải nộp thuế “thập phân” (một phần mười), đánh trên các hoa màu như lúa mì, rượu mới, dầu tươi và cả những con vật đầu lòng trong đàn bò và chiên dê (x. Đnl 14,22-23). Ngoài ra họ còn tình nguyện nộp thêm phần thuế về các thứ rau quả khác nữa (x. Lc 11,42). Tóm lại, người Pha-ri-sêu này lên Đền thờ không phải để xin Chúa tha tội mà để khoe với Chúa về những điều tốt ông ta đã làm được hơn người khác để đòi Chúa phải trả công cho mình.
– C 13-14): + Còn người thu thuế thì đứng đàng xa…: Người thu thuế chỉ biết thú nhận những tội lỗi đã phạm. Ông cảm thấy xấu hổ nên không dám đến gần gian thánh, đứng cúi mình trước bàn thờ không dám đứng thẳng như người Pha-ri-sêu. + Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi: Ong ta chỉ biết đấm ngực ăn năn về các tội lỗi đã phạm và xin Chúa tha thứ tội lỗi như lời Thánh vịnh 50 của vua Đa-vít. Chính nhờ thái độ khiêm tốn ấy mà ông đã được Chúa ban ơn cứu độ. + Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên: Câu này đã có ở Lc 14,11 và được Lu-ca thêm vào đây để kêu gọi người ta sống khiêm tốn dựa vào ân sủng của Thiên Chúa. Vì trong lịch sử Ít-ra-en, Đức Chúa thường hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhu (x. Lc 1,25).
CÂU HỎI: 1) Phân biệt lối sống của người Pha-ri-sêu (Biệt phái) và người thu thuế thời Đức Giêsu giống và khác nhau thế nào? 2) Lời người Pha-ri-sêu cầu nguyện trong Tin Mừng hôm nay có đẹp lòng Chúa không? Tại sao? 3) Lý do khiến Đức Giêsu tỏ lòng khoan dung nhân hậu với người thu thuế tội lỗi, và nghiêm khắc với người Pha-ri-sêu là gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13).
2. CÂU CHUYỆN: TẠI SAO MA QUỶ KHÔNG ĐƯỢC CHÚA THỨ THA?
Một hôm có một tên quỷ kia chạy đến trước mặt Thiên Chúa mà thưa rằng: “Tôi thấy Chúa đối xử không công bằng chút nào!”. Chúa liền hỏi nó: “Tại sao ngươi lại dám bảo Ta đối xử không công bằng?” Bấy giờ tên quỷ kia mới đáp: “Chúa thấy đó, loài người phạm rất nhiều tội lỗi lớn lao, và chúng đều phạm đi phạm lại nhiều lần. Thế mà lần nào Chúa cũng tha thứ cho chúng và còn ban cho chúng hạnh phúc thiên đang đời đời. Còn chúng tôi chỉ phạm tội một lần duy nhất. Thế mà Chúa không những không tha mà còn phạt chúng tôi phải sa hỏa ngục muôn đời. Như vậy chẳng phải là Chúa đã thiên vị và bất công lắm sao?” Bấy giờ Chúa mới ôn tồn nói với tên quỷ rằng: “Loài người có phạm tội không vâng lời Ta thật, và vì yếu đuối mà chúng đã sai phạm nhiều lần thật. Nhưng sau mỗi lần phạm tội, chúng đều hồi tâm sám hối và khiêm tốn chạy đến xin Ta tha cho. Còn lũ quỷ các ngươi, có bao giờ các ngươi chịu hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội hay chưa?” Nghe thấy Chúa đòi hỏi phải ăn năn sám hối và cầu xin tha tội, tên quỷ liền thét lên rằng: “Lòai quỷ chúng ta không đời nào lại hèn hạ ăn năn sám hối và cũng không cần phải xin ai tha tội cả”. Nói thế rồi quỷ liền cong đuôi chạy mất.
3. SUY NIỆM:
Khi nghe Đức Giêsu kết luận người thu thuế tội lỗi ra về được nên công chính, còn người biệt phái nhiều công đức thì không, chắc hẳn nhiều người hiện diện phải ngạc nhiên. Vì người biệt phái xem ra là người mẫu mực trong việc tuân giữ Lề Luật và không phạm phải các tội xấu xa. Ông ta còn làm nhiều hơn Luật dạy khi tự nguyện ăn chay và bố thí. Vậy tại sao Đức Giêsu lại không chấp nhận lời cầu của ông ta? Tại sao Chúa lại ưu ái người thu thuế tội lỗi, ngay khi anh ta chưa từ bỏ cái nghề tồi tệ đó, và không đả động đến việc đền bù các thiệt hại đã gây ra cho tha nhân? Chúng ta cân làm gì để diệt trừ thói kiêu ngạo tự ái cao và thực tập khiêm nhường phục vụ?
1. Nguyên nhân lời cầu của người biệt phái không được chấp nhận:
– Chúng ta phải thừa nhận rằng: Người biệt phái đây là một người tốt, một tín hữu trung thành với Lề Luật. Chỉ tiếc một điều là do tính tự mãn mà bao nhiêu việc tốt anh làm đươc đã bị trôi ra sông ra biển hết. Do cái tôi quá to, nên anh chỉ thấy con người của mình mà không thấy Chúa. Anh coi thành quả đạt được là do tài đức cá nhân, chứ không do ơn Chúa giúp. Giá như anh biết đối chiếu với cuộc đời Đức Giêsu, thì có lẽ anh đã nhận ra sự thiếu sót lớn lao của mình, để không dam khinh thường người khác, và sẽ biết cầu xin lòng khoan dung tha thứ của Chúa.
– Lời cầu nguyện của người biệt phái không được chấp nhận là do anh ta đã “đứng riêng một mình” và cầu nguyện to tiếng với nội dung khinh thường người khác và đề cao bản thân để xin Thiên Chúa trả công cho anh: “Con xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần. Con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc, 8,11).
– Tuy nhiên, con người “nhân vô thập toàn”: Người biệt phái cũng có các tội như: tự mãn, kiêu căng, khinh thường người khác… Nhưng anh ta lại không ý thức về các tội đó. Anh ta không nhận ra mình cũng là tội nhân như người thu thuế mà anh khinh thường. Anh đã không nhận ra sự công chính là do ơn Chúa ban như thánh Phao-lô dạy: “Tôi được như vậy không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do Luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Ki-tô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Pl 3,9). Chính do tự mãn kiêu ngạo mà anh bị mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
2. Nguyên nhân người thu thuế được Chúa xót thương:
– Người thu thuế cảm thấy xấu hổ về tội lỗi của mình, nên chỉ dám đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mặt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa với Chúa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Anh ta cảm thấy bất lực hoàn toàn, chỉ biết phó thác cho lòng Chúa thương xót. Chính nhờ tâm tình ấy mà Chúa đã đoái thương nhìn đến anh và ban ơn thánh giúp anh hoán cải nên công chính.
– Thái độ khiêm cung và lời cầu nguyện sám hối của anh thu thuế cho thấy anh đã mở cửa lòng đón Chúa. Chúa đã vào nhà linh hồn anh ban ơn tha thứ và biến đổi anh nên công chính đẹp lòng Thiên Chúa. Người thu thuế đã ý thức về tình trạng tội lỗi của mình, nên không dám ngước mắt nhìn lên Chúa, chỉ biết cúi đầu đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót của Chúa. Nhờ đó, anh đã nên công chính như lời Đức Giêsu: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi”.
3. Chúng ta phải làm gì?
– Cần tránh lối cầu nguyện biệt phái: Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng có thái độ tự mãn như người biệt phái xưa đã thưa với Chúa rằng: “Xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác”. Nhiều lần chúng ta đã đổ tội cho người khác hơn là khiêm tốn nhận tội như lời kinh cáo mình: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Nhiều lần trong tòa xá giải chúng ta đã dài dòng kể tội của người thân trong gia đình hay tội của người hàng xóm đã phạm đến mình, đang khi lẽ ra phải khiêm nhường xưng thú tội lỗi mình đã phạm để cầu xin Chúa tha thứ.
– Cần tập cầu nguyện khiêm hạ như người thu thuê: Người thu thuế trong Tin Mừng hôm nay đã bày tỏ thiện chí và muốn được ơn thứ tha bằng việc lên Đền thờ cầu nguyện. Tuy nhiên, anh cũng ý thức các tội lỗi của mình khó được Chúa tha, vì theo Luật Mô-sê: một người lỗi phép công bình muốn được tha thì trước hết phải thanh toán hết số nợ. Ngoài ra còn phải bồi thường thiệt hại cho chủ nợ thêm 1/5 nữa. Anh thu thuế này không có khả năng làm như thế. Dù vậy, anh đã không tuyệt vọng, mà đã biết cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Noi gương tác giả Thánh vịnh 50, anh đã nài xin Chúa như sau: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Vì vậy anh đã nhận được ơn tha thứ để nên công chính (x. Lc 18,14).
– Cần tránh thói kiêu căng tự mãn: Kiêu ngạo là thói xấu đứng đầu và hầu như mọi người chúng ta đều ít nhiều mắc phải. Đây là thói xấu nguy hiểm nhất và là mẹ phát sinh ra các thói hư khác. Người kiêu ngạo xem mình là trung tâm điểm thay thế Thiên Chúa. Anh muốn mọi người phải quan tâm phục vụ mình và luôn tạo ra hàng rào tách biệt với tha nhân… Kiêu ngạo phát sinh ra tự ái tự cao và dễ nổi giận khi có ai dám chê trách nói chạm đến mình. Đây cũng là thói xấu thâm căn khó chừa cải nhât. Tuy nhiên kinh “Cải tội bảy mối” cũng cho chúng ta một phương thế hữu hiệu để diệt trừ được thói hư này như sau: “thứ nhất khiêm nhường chớ kiêu ngạo”. Như vậy muốn loại trừ thói kiêu ngạo thì cần xin Chúa giúp thực tập đức khiêm nhường.
– Cần thực tập đức tính khiêm nhương phục vụ: Ai trong chúng ta cũng đều yêu thích người khiêm tốn, nhưng rất ít người có được nhân đức này. Thực ra khiêm nhường là can đảm nhìn thẳng vào con người thật của mình. Khổng Tử đã nói: “Cái gì biết thì nói biết, cái gì không biết thì nói không biết, đó mới thật là biết vậy”. Khiêm nhường tự hạ, quên mình phục vụ luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện. Tất cả những tài năng, nhân đức sẽ gia tăng giá trị lên gấp bội nếu kèm theo đức khiêm nhường. Cũng như những số 0 (số không) dù nhiều tới đâu cũng chẳng có giá trị gì. Nhưng nếu chúng được dẫn đầu bằng một con số như số 1 chẳng hạn, thì lập tức những số 0 kia sẽ tăng giá trị gấp 10 lần. Cần tập khiêm nhường băng cách tránh khoe khoang các ưu điểm thành tích của mình và rộng rãi nói lời động viên khen ngợi tha nhân. Cần luôn ý thức mình là người phục vụ và hay nói với người khác: “Tôi có thể giúp gì được cho bạn?” rồi sau đó phục vụ họ cách chân thành và vô vụ lợi.
4. THẢO LUẬN: 1) Khi được người khác khen một ưu điểm có thật, bạn thường phản ứng thế nào để thực hành nhân đức khiêm nhường noi gương Chúa Giêsu và Đức Ma-ri-a trong Tin Mừng (x. Lc 1,45-49)? 2) Bạn đã bao giờ khen người dưới khi thấy họ làm được việc tốt chưa? 3) Khi biết một người phạm một tội có hại cho tập thể, bạn sẽ làm gì: Giữ im lặng để tránh rắc rối hay lên tiếng để giúp họ sửa lỗi?
5. NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA CHA TỪ ÁI. Trước Thánh Nhan Cha, chúng con chỉ còn biết noi gương người thu thuế mà thưa với Cha rằng: “Lạy Cha, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Thật vậy, đối với Cha, chúng con chỉ là hư không. Những việc tốt chúng con làm được cho Cha, xét cho cùng đều nhờ ơn Cha ban, và đòi chúng con phải dâng lời tạ ơn Cha.
– LẠY CHA. Xin giúp chúng con ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Xin giúp chúng con tránh thói kiêu căng tự mãn của người biệt phái. Xin cho chúng con biết tôn trọng mọi người và không bao giờ dám tự mãn khoe khoang thành tích đã làm. Xin cho chúng con biết luôn cảm tạ Cha về những ơn lành của Cha. Xin cho cuộc sống của chúng con trở thành bài ca tạ ơn: khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi khỏe mạnh cũng như lúc đau ốm… Vì chúng con biết rằng mọi sự Cha để xảy đến cho chúng con đều là hồng ân của Cha và đều đem lại ích lợi cho phần rỗi đời đời của chúng con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
65. Xét rồi chỉ đoán – Nguyễn Thảo Nam
Tiếng Việt có một cụm từ rất hay: xét đoán. Tôi thích dùng hai chữ này theo lối hài hước, đó là xét một vấn đề cho thật kỹ, rồi cuối cùng, cũng chỉ đoán mà thôi. Nếu kết luận chỉ là đoán, thì thường không chính xác. Biết không chính xác nhưng nhiều người vẫn thích dùng. Vì nghề này không cần bằng cấp, không cần giấy phép nên người ta có thể hành nghề khắp nơi. Trong khi cụm từ “xét nghiệm,” cần công thức hóa học, và phải có bằng cấp, nên chỉ có thể được thực hành ở những nơi được phép.
Tiếng Việt còn có cụm từ “xét nét,” ám chỉ về người quá khó tính, người hay “vạch lá tìm sâu” nơi người khác. Người có tính xét nét thì cũng có khuynh hướng xét đoán một cách chủ quan. Vì không có công thức như làm xét nghiệm, nên dễ kết luận sai lầm. Bài toán xét rồi cũng chỉ đoán này dễ sai, nên tôi cần cẩn thận.
Chợ Và Đền Thờ
Phúc Âm có câu chuyện tương tự. Người thu thuế và người biệt phái cả hai cùng lên đền thờ. Người biệt phái kể công, người thu thuế sám hối. Người biệt phái chỉ trích, người thu thuế thinh lặng. Người thu thuế xét mình dùm cho người khác, còn người thu thuế xét mình cho riêng ông. Vì lo xét cho người khác nên ông quên xét lòng ông. Điều buồn, là cuối cùng người biệt phái đoán sai.
Ông đoán người thu thuế là người khó được Chúa chấp nhận, vì có tội lỗi công khai, và dân chúng loại trừ. Thế nhưng, phúc âm kể thật hay. Trong chính giây phút mà người biệt phái chỉ trích người thu thuế, thì ở cuối đền thờ, và ngay trong tâm hồn của người thu thuế đang diễn ra một mùa sám hối trọn vẹn, và ơn Chúa đang tuôn đổ trên ông. Không chờ đến ngày mai, không chờ cho ánh mặt trời lên, ơn thánh đến ngay lúc đó.
Ơn hoán cải của một con người diễn ra như một huyền nhiệm và không ai, dù là giới lãnh đạo tôn giáo, cũng không thể nắm bắt được điều gì đang diễn ra trong lòng của một con người. Do đó tôi cần cẩn thận khi đánh giá một con người qua hình thức và ngay cả qua những hành vi bên ngoài của họ.
Một chi tiết thật hay khác của câu chuỵện đó là sự có mặt của người thu thuế nơi đền thờ. Lẽ ra người biệt phái phải thắc mắc tại sao người thu thuế lại có mặt ở đây? Thông thường, mấy người thu thuế đâu có vào đền thờ cầu nguyện. Họ lo bận rộn đi thu tiền ngoài chợ. Vì đa số người dân không có học, thiếu tính toán, nên mấy người thu thuế hay thêm bớt con số để kiếm tiền thêm bỏ túi, chứ lên đền thờ đâu có chút lợi nhuận nào.
Hôm nay người thu thuế có can đảm bước chân đến đền thờ, có nghĩa là lòng sám hối của anh đã trải dài từ những ngày tháng trong cuộc sống rồi. Những đêm dài thao thức của lòng sám hối nơi anh không có phát thanh trên đài, nên không ai nhận ra, và người biệt phái không nghe được tin vui này. Không biết được tin vui sâu thẳm của lòng sám hối, nên ông vẫn nghĩ rằng chỉ có thái độ công chính mới làm cho đời vui.
Ông sai hai bài toán về cuộc sống: 1) xét sai về tâm hồn người khác; 2) sống niềm vui giả tạo trong thái độ công chính. Cả hai bài toán, hôm nay tôi cần tránh.
66. Cầu nguyện và khiêm nhượng
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tin Mừng Lc 18: 9-14 Hôm nay khi nói về đức khiêm nhường, Đức Giêsu đã kể cho dân chúng và các Tông đồ nghe dụ ngôn người Biệt Phái và người Thu Thuế lên đền thờ cầu nguyện.
Trong thư thứ nhất của thánh Phêrô, ngài đã khẳng định thật mạnh mẽ khi nói: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5, 5). Thật vậy, kiêu ngạo là kẻ thù số một của Thiên Chúa, bởi vì nó là con đẻ của Ma Quỷ. Ngược lại, khiêm nhường là trở nên giống Con Thiên Chúa làm người.
Hôm nay khi nói về đức khiêm nhường, Đức Giêsu đã kể cho dân chúng và các Tông đồ nghe dụ ngôn người Biệt Phái và người Thu Thuế lên đền thờ cầu nguyện.
1. Hai hình ảnh và hai thái độ đối lập nhau khi cầu nguyện
Dụ ngôn được khởi đi từ việc Đức Giêsu nhận định về một tầng lớp trí thức trong dân tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác (x. Lc 18, 9). Họ là những người Biệt Phái, luôn miệng khoe khoang mình là người người đạo đức, chuyên cần suy gẫm Lời Chúa, tuân giữ cách tỉ mỉ từng dấu chấm, dấu phết, rồi thông luật, nắm bắt được mọi vấn đề và, có lòng quảng đại vượt trội. Điều này được thể hiện rất rõ qua hình ảnh của người Biệt Phái hôm nay. Ông ta cùng lên cầu nguyện một trật với người Thu Thuế. Khi ông ta cầu nguyện, thay vì tạ ơn Thiên Chúa vì những ân huệ mà họ đã nhận được, thì họ lại kể lể, liệt kê thành tích của mình; đồng thời tố cáo anh em đồng loại. Nào là: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18, 12). Quả thật, những thành tích đó, đã gắn liền với cái tôi ích kỷ của ông, nên cũng từ cái tôi đó mà ông trở nên rỗng tuếch. Đúng là: “cái thùng kêu to là cái thùng rỗng”. Ông đâu biết rằng mọi sự là của Chúa, nếu Chúa không ban cho ông thì ông đâu có của cải để mà làm như vậy… Sự khoe khoang của nhà Biệt Phái đã làm cho ông ta mất phần phúc Nước Trời. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu cũng đã dạy: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng” (Mt 6, 1). Sự khiên nhường của ông chính là một sự khiêm nhường giả tạo. “Khiêm nhường như vậy thì bằng bốn lần kiêu ngạo”.
Hình ảnh người Thu Thuế thì trái ngược hẳn. Ông ý thức mình là người tội lỗi trước mặt Chúa, nên ông chẳng có gì để khoe cả, ông chỉ có con người tội lỗi, tấm lòng thành và tâm tình sám hối của mình mà thôi. Vì vậy, ông Thu Thuế này đã hết lòng tin tưởng và cậy trông vào sự nhân từ của Thiên Chúa. Ông khiêm tốn không dám ngẩng đầu lên vì coi mình không xứng đáng tiến đến gần Chúa. Vì vậy, từ đàng xa, ông này đã thốt lên: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Tấm chân thành của ông đã đụng tới trái tim, lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, nên ông đã được Chúa thương nhận lời. Nói về sự khiêm nhường, Gióp đã phải thốt lên: “Chúa triệt hạ kẻ ăn nói kiêu căng và cứu vớt ai khiêm nhường cúi mặt” (G 22, 29). Người Thu Thuế hôm nay quả là một người khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa. Ông đã nhận ra con người thật của mình để tự hào một cách khiêm tốn, và tự trọng đúng với giá trị của mình (x. Hc 10, 28).
Kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu đã kết luận bằng lời xá tội và tuyên án “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” bởi vì “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 52).
Hình ảnh và thái độ của người Thu Thuế hôm nay đáng để cho mỗi người chúng ta noi theo.
2. Sống Sứ Điệp Lời Chúa hôm nay
Muốn khiêm nhường thực sự, chúng ta phải sám hối thật lòng, phải nhìn lại quá khứ lịch sử cuộc đời chúng ta để thấy được Thiên Chúa là Đấng yêu thương, tha thứ, trung thành; còn chúng ta thì vô ơn, bội bạc, bất trung… Khi nhìn lại quá khứ của chúng ta như thế, và chúng ta đặt mình trước mặt Chúa để thấy Chúa lớn lao, thấy Chúa là Chúa Tể, ta chẳng có gì, mà nếu có thì cũng là do ơn Chúa. Vì thế, tâm tình sám hối và tạ ơn là dấu chỉ của kẻ khôn ngoan. Thậy vậy, muốn đón nhận được ơn Chúa, ta phải trở nên người bé nhỏ, đơn sơ và khiêm tốn.
Nói về đức khiêm nhường, hẳn chúng ta vẫn còn nhớ Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Khi ngài còn là Khâm sứ Toà Thánh kiêm Đại diện Tông Toà quản trị các giáo phận ở Bungari và Thổ. Lúc đó có một linh mục bất mãn với ngài, nên viết thư tố cáo ngài nhiều chuyện. Tuy nhiên, thay vì giận dữ, Đức Giáo Hoàng đã trân trọng kẹp thư đó vào trong cuốn Kinh Thánh, để hằng ngày suy gẫm, để sửa sai và để nhớ đến vị linh mục đó và cầu nguyện cho vị linh mục đã tố cáo và ngài coi là đại ân nhân của mình. Khi gặp lại vị linh mục đó ở Vaticăng, trong một buổi triều yết riêng, vị linh mục này rất sợ, vì biết những việc sai lỗi của mình, nhưng khi gặp, Đức Giáo Hoàng đã chủ động tiến lại, ôm trầm lấy vị linh mục đó và ôn tồn trong khiêm tốn, ngài nói: “Con đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người, cũng yếu đuối, cha ngăn bức thơ con viết vào Kinh Thánh để hằng ngày đọc vào đó mà xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại hoặc xa tránh những lầm lỡ có thể xảy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con” (x. Đường Hy Vọng).
Mong thay, mỗi chúng ta hãy có được tâm tình sám hối như người Thu Thuế và thái độ khiêm nhường như Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Được như thế, chúng ta sẽ gặp được bình an, hạnh phúc, và được trở nên giống Thiên Chúa. Thật vậy: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30).
“Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” phải là lời cầu nguyện của chúng ta hằng ngày, mọi nơi, mọi lúc. Khi lời cầu nguyện đó được thốt lên thì cũng là lúc ta nhìn lại chính mình, để cần đến ơn tha thứ của Thiên Chúa nhiều hơn; yêu thương anh chị em và không bao giờ dám tố cáo lỗi lầm của người khác như người Biệt Phái khi xưa. Có lẽ nhiều lúc trong mắt chúng ta vẫn có cái xà thì làm sao trông rõ để lấy cái rác trong mắt anh chị em mình. Ý thức được điều đó, ta phải đấm ngực ăn năm vì đó là lỗi của ta chứ không đấm ngực người khác và bảo lỗi tại ông, tại bà, tại anh, tại chị chứ không phải tại tôi.
Lạy Chúa, xin cho con biết phó thác, tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa. Biết sám hối để nhận ra lỗi lầm của mình và khiêm nhường xin ơn tha thứ của Thiên Chúa; đồng thời biết yêu thương anh chị em mình thực lòng chứ không nhân danh đạo đức để tố cáo anh chị em chúng ta như người Biệt Phái khi xưa. Amen.
67. Tự trọng – Như Hạ
Cầu nguyện là đặc điểm của con người. Cầu nguyện là hơi thở của các tín hữu. Nhưng đâu là bản chất và hình thức cầu nguyện đích thực. Hôm nay, Đức Giêsu trình bày những điều kiện sâu xa cần thiết cho việc cầu nguyện.
HAI LỜI CẦU NGUYỆN.
Cầu nguyện là một hành vi đạo đức. Nhưng việc đạo đức đó cũng có thể trở thành vô đạo đức, nếu con người không biết tự trọng. Lời cầu nguyện hão huyền chỉ dựa trên những điều hư không. Hư không đích thực và lớn nhất trên trần gian này chính là cái tôi. “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện.” (Lc 18:10) Cả hai người đều thờ một Chúa, đều ở trong một đền thờ, đều đang làm một hành vi đạo đức cao cả nhất. Một trong hai người cầu nguyện trong đền thờ là ông Pharisêu. Từ tâm tình, cung cách đến lời nói đều không thích hợp với việc cầu nguyện. “Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao người khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia.” (Lc 18:11) Ông xác định thế đứng của minh trong tương quan với người thu thuế. Khi so sánh, ông mới thấy mình cao vượt hơn mọi người về mặt đạo đức. Trong khi mọi người sống ích kỷ, xa hoa, trác táng, ông chỉ lo việc đạo đức. Trong việc đạo đức, ông là người rất kỷ luật và sốt sắng. Ông cầu nguyện thường xuyên và giữ Luật Thiên Chúa. Ôn vượt trên cả những đòi hỏi của lề luật. Trong khi luật chỉ đòi ăn chay mội năm một lần vào Ngày Xá Tội Vong Ân, ông ăn chay một tuần hai lần vào thứ hai và thứ năm. Ông kể lể với Chúa: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.” (Lc 18:12) Thái độ tự mãn đã không cho ông nhìn thấy sự thật về mình và người khác nữa. Như vậy ông còn cần gì đến Chúa nữa không? Vậy tại sao ông lại vào đền thờ? Thực ra ông quan niệm cầu nguyện chỉ là việc đổi chác theo lẽ công bình, chứ không phải là một ân sủng.
Trong khi đó, người thu thuế hoàn toàn ý thức tự bản chất cầu nguyện chỉ là xin Chúa thương xót. Ông cảm thấy phải tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Nhìn cung cách ông cầu nguyện cũng có thể thấy được tất cả tâm tình của ông. “Người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời.” (Lc 18:13) Cung cách đó cho thấy một khoảng cách giữa Thiên Chúa cực thánh và con người tội lỗi. Nếu Chúa không thương xót, khoảng cách đó không bao giờ lấp đầy được. Ông thành tâm cầu nguyện, “vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18:13) Ông nhận sự thật về mình, chứ không dám so sánh với ai. Ông chỉ biết tương quan giữa Thiên Chúa và mình là một tương quan bất tương xứng. Nhưng ông tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh của lòng Chúa xót thương sẽ xóa nhòa biên giới giữa cõi thánh thiêng và trần tục.
Dụ ngôn hôm nay mạc khải một lúc hai tương quan. Tương quan giữa Thiên Chúa và con người không thể ổn định nếu tương quan giữa con người với nhau không tốt đẹp. Trong dụ ngôn này, rõ ràng ông Pharisêu tập trung hoàn toàn vào cái tôi của mình. Không thông cảm với người khác, làm sao ông có thể đòi Thiên Chúa cảm thông với mình? Đó là lý do tại sao ông thất bại trong việc cầu nguyện. Ông không làm đẹp lòng Chúa như mình tưởng. Thật là công dã tràng bao nhiêu khó nhọc trong việc giữ luật và đóng góp vào đền thờ. Trái lại, dù không có những việc đạo đức như ông, người thu thuế “đã được nên công chính” (Lc 18:14) vì đã hết lòng cầu khẩn Chúa xót thương đến thân phận mình. Ông không có công trạng gì để tự hào. Khi nhìn lại mình, ông chỉ thấy một vực thẳm tội lỗi. Nhìn lên Thiên Chúa, ông lại thấy vực thẳm đầy ân sủng, “ân sủng tự bản chất đầy lòng thương xót và tha thứ.” (NIB 1995:343) Trái lại, ông Pharisêu không hề cầu xin Chúa tha thứ hay thương xót, nên tình trạng ông trước sau như một. Ông coi mình hoàn hảo về mọi phương diện, nên cầu nguyện đối với ông là đòi nợ. Thiên Chúa chẳng nợ ai cả, tại sao ông lại biến Thiên Chúa thành con nợ? Lời cầu của ông hoàn toàn dựa trên công trạng riêng, chứ không trên tình yêu Thiên Chúa. Ông nói bằng một ngôn ngữ lạ hoắc. Thiên Chúa không hiểu ông muốn nói gì. Ông tin Chúa. Nhưng ông tin mình hơn.
Thế mới biết tại sao Đức Giêsu lại nói có “một số người tự hào cho mình là người công chính mà khinh chê người khác.” (Lc 18:9) Những hạng công chính như thế không bao giờ là đối tượng của sứ mệnh cứu độ. Nói khác, ơn cứu độ không dành cho những người kiêu ngạo. Bởi đấy Chúa mới nói: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5: 32) Chỉ những người tội lỗi mới hiểu được Chúa. Ngược lại, chỉ Chúa mới thông cảm với người tội lỗi, vì chính Chúa đã từng đi sát với họ, đến nỗi bị mang tiếng là “bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” (Lc 7:34) Người tội lỗi hoàn toàn tay trắng trước nhan Chúa. Họ cũng là một hạng người nghèo về tinh thần. Họ không có gì để kể lể. Lời cầu nguyện của họ thật là vắn tắt và đơn sơ, nhưng đầy ý nghĩa đối với Chúa. “Ông đã chẳng cho đi cái gì, nhưng đã nhận được tất cả.” (Faley 1994:696)
PHARISÊU THỜI ĐẠI.
Thánh Phaolô cũng đã từng là Pharisêu hạng gộc. Nhưng thánh nhân đã trải qua một kinh nghiệm đau thương và đã thấy được tất cả bộ mặt thật của những hạng “người tự hào cho mình là công chính.” Nhưng giờ đây Người không tự cho mình là công chính, nhưng hi vọng được vinh dự ấy: “Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính.” (2 Tm 4:8) Thánh nhân cũng cảm thấy tự hào khi nói: “Nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng.” (2 Tm 4:17) Thế nhưng, khác với đồng môn xưa, Người qui hướng tất cả về Thiên Chúa, Đấng “đã ban sức mạnh cho tôi.” (2 Tm 4:17) Đó là lý do tại sao Người đầy hứng khởi khi “chúc tụng Chúa vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. Amen ” (2 Tm 4:18) Khác với thái độ ngông nghênh của ông Pharisêu, thánh nhân thú nhận: “Tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa.” (1 Cr 15:9-10) Ơn Chúa vô cùng sung mãn đã bù đắp được tất cả những thiếu sót quá khứ và đưa thánh nhân vào một tương quan hoàn toàn mới với Thiên Chúa và tha nhân.
Tương quan giữa con người với Thiên Chúa và với anh em đang đổ vỡ. Khủng bố và chiến tranh là bằng chứng cho thấy vẫn còn nhiều Pharisêu trong cộng đồng nhân loại. Thượng phụ Igace IV Hazim đã vạch mặt chỉ tên: “Chính phủ Hoa Kỳ vô tình cho người ta cảm tưởng họ đang tìm cách thống trị thế giới,”(CWNews 22/10/2001) trong khi họ vẫn tỏ ra nhân đạo qua chính sách viện trợ. Nhân đạo chỉ là phấn son che đậy những nét cao ngạo trên gương mặt Âu Mỹ. Giống như Pharisêu, họ xuất hiện trước nhan Chúa với một tay đầy ắp công đức, một tay ngổn ngang bom đạn. Thử hỏi có thể lập tương quan với Thiên Chúa trong khi tương quan con người bị gẫy đổ không? Tương quan nhân loại hôm nay cần phải được điều chỉnh lại. Nếu không, nhân loại sẽ trở về thời ăn lông ở lỗ, xây dựng cuộc sống trên luật báo thù. Theo phái đoàn Vatican tại Liên Hiệp Quốc, cuộc không kích vào Afghanistan là “những hành động bào thù, không loại trừ được các nguyên nhân gây nên khủng bố.” (CWNews 23/10/2001) Đức Tổng Giám mục Martino cho biết cần phải “loại bỏ các yếu tố hiển nhiên tạo nên những điều kiện dễ dàng sinh ra thù hận và bạo lực. Việc phủ nhận nhân phẩm, thiếu tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản, việc loại trừ một số người khỏi đặc quyền xã hội, những nơi tị nạn không thể chịu đựng nổi, và sự đàn áp về thân thể cũng như tâm lý là những mảnh đất mầu mỡ sẵn sàng cho bọn khủng bố khai thác. Bởi đấy, bất cứ chiến dịch chống khủng bố nào cũng cần đưa ra các hoàn cảnh xã hội, kinh tế, và chính trị nuôi dưỡng mầm mống khủng bố, bạo lực, và xung đột.” (CWNews 23/10/2001)
68. Khiêm nhường cầu nguyện
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Mỗi khi cầu nguyện, chúng ta tin tưởng và mong ước dẫn tới hiệu quả tốt. Sự thường là như thế, nhưng thực sự nhiều khi lại không phải như thế, bằng chứng là có lần chúng ta cầu nguyện thì được như ý, nhưng cũng không thiếu những lần chúng ta cầu nguyện hoài mà chưa được hay không được. Cũng vậy, có người cầu nguyện thì được Chúa nhận lời, có người thì không. Tại sao vậy? Có phải chúng ta thiếu điều kiện nào chăng? Đúng vậy, một trong những yếu tố hay điều kiện quan trọng, đó là thái độ và tâm tình thích hợp. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết thái độ và tâm tình thích hợp cần có, đó là khiêm tốn, khiêm nhường.
Để hiểu biết sức mạnh của khiêm nhường, chúng ta hãy tưởng tượng hay hình dung hai cỗ xe: một cỗ xe được kéo bởi hai con ngựa là nhân đức và kiêu ngạo, còn cỗ xe kia được kéo bởi hai con ngựa là tội lỗi và khiêm nhường. Cả hai xe cùng chạy, nhưng chẳng bao lâu cỗ xe tội lỗi vượt trước cỗ xe nhân đức. Tại sao vậy? Chắc chắn không phải do khả năng của chính nó, tức là tội lỗi, nhưng bởi sức mạnh của đức khiêm nhường cùng đi chung với nó. Còn cỗ xe kia bị qua mặt, chẳng phải vì nhân đức yếu đuối mà vì sự kiêu ngạo quá nặng nề và to lớn. Điều ấy bảo cho chúng ta biết: đức khiêm nhường, nhờ cố gắng vươn lên, đã thắng được sức cản của tội lỗi, và lên đến trời trước nhất, còn kiêu ngạo, vì nặng nề và to lớn, nên át cả sự nhanh nhẹn của nhân đức, và dễ dàng kéo nó xuống sâu.
Về hai cỗ xe này, chúng ta đem áp dụng vào hai người Pha-ri-sêu và thu thuế lên đền thờ cầu nguyện chúng ta sẽ thấy rõ: người Pha-ri-sêu đã cột chung nhân đức với kiêu ngạo: ông đứng thẳng một cách hiên ngang, tự đắc, ngực ưỡn, đầu ngẩng cao, và mắt có lẽ liếc nhìn người thu thuế một cách khinh bỉ và hãnh diện trước mặt Thiên Chúa. Ông cầu nguyện gì? Ông không cầu gì cả, ông kể công với Chúa, ông tự mãn về những gì ông đã làm, ông lên đền thờ để khoe mình chứ không phải để cầu xin với Chúa, nên lời cầu nguyện của ông chẳng những không đưa ông tới gần Chúa mà còn làm cho ông xa Chúa hơn và làm cho Chúa buồn hơn.
Trái lại, người thu thuế đã cột chung tội lỗi với khiêm nhường: ông khép nép, khúm núm, đứng mãi đàng xa, không dám đến gần bàn thờ, cũng chẳng dám ngước mắt lên trời, tức là ông tự nhận mình bất xứng, chỉ biết cúi đầu, đấm ngực tỏ lòng ăn năn sám hối. Còn về lời cầu nguyện, ông nói với Chúa chứ không nói về mình, ông chẳng có gì hay để kể cho Chúa nghe, chẳng có công gì để khoe với Chúa và cũng chẳng dám xin gì khác ngoài lòng thương xót của Chúa.
Qua đó, chúng ta thấy tại sao cả hai người cùng cầu nguyện, nhưng chỉ có một người đẹp lòng Chúa, được Chúa tha thứ ban ơn, chỉ vì người ấy khiêm nhường, tin tưởng, cậy trông vào tình thương của Chúa, còn người kia tự mãn về những gì ông làm thì ông trở về với những gì ông đã làm, Chúa không ban gì cho ông. Nói rõ hơn, người thu thuế về nhà được công chính hóa, còn người Pha-ri-sêu thì không, đó là kết quả tất yếu: người Pha-ri-sêu đâu có cần đến Chúa, đâu cần Chúa công chính hóa, ông tưởng rằng tự ông có thể mua được sự công chính bằng công trạng của mình, ông đã lầm to, vì được trở nên công chính hay không là một quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho người biết khiêm nhường như người thu thuế đã làm, là ý thức rõ cái tôi tội lỗi, hèn kém, bất lực của mình, thái độ đó Thiên Chúa rất vui lòng, rất đẹp lòng Thiên Chúa.
Từ hai nhân vật tiêu biểu về khiêm nhường và kiêu ngạo, được xác định bằng thái độ của họ trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh em, Chúa Giêsu đưa ra một nguyên tắc tổng quát: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ đựơc tôn lên”. Ai hạ xuống? ai tôn lên? Thưa chính Thiên Chúa. Kẻ tự tôn mình lên thì Thiên Chúa hạ xuống, kẻ tự hạ mình xuống thì Thiên Chúa tôn lên. Đó là lối hành động của Thiên Chúa, đó là cách Thiên Chúa trả lời cho kẻ tự đắc, kẻ cho mình là công chính và khinh chê những người khác. Bởi vì chẳng ai có thể tự đắc trước mặt Thiên Chúa, chẳng ai có gì để kể công với Người. Tình thương của Thiên Chúa là tình thương nhưng không, ai xin thì được, còn ai tự cho mình là có quyền đòi thì Thiên Chúa không cho. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, tất cả đều nghèo hèn, cần đến lòng thương xót của Người.
Chúng ta là người Pha-ri-sêu hay người thu thuế? Chắc chắn không ai nhận mình là người Pha-ri-sêu, nhưng chưa chắc đã nhận mình là người thu thuế. Đúng, chúng ta không tự nhận là người Pha-ri-sêu, dù có khi chúng ta còn tệ hơn người Pha-ri-sêu, nhưng chúng ta có dám bắt chước người thu thuế không?
Chúng ta có thể sánh ví việc cầu nguyện của chúng ta cũng giống như chiếc cầu mong manh dẫn chúng ta tới Chúa. Khi đi qua một chiếc cầu nhỏ, bắt ngang bằng những tấm ván hay những khúc cây mong manh, chúng ta phải hết sức cầm trí và ý tứ cẩn thận thế nào, thì khi cầu nguyện chúng ta cũng phải cầm trí và cẩn thận như vậy, tức là chúng ta phải có thái độ khiêm tốn, tin tưởng, cậy trông.
69. Thành thật với chính mình – Huệ Minh
Trang Tin Mừng hôm nay gợi ý để ta suy nghĩ về điều mà chúng ta có thể gọi là sự thành thật của người Kitô. Thành thật với chính mình, thành thật với kẻ khác và thành thật với Thiên Chúa.
Con người thành thật là con người nhìn nhận thực thể của mình và cảm nhận thực thể đó một cách trung thực. Thành thật trước tiên không có nghĩa là nói thẳng ra điều mình nghĩ hay điều mình cảm nhận. Nói thẳng điều mình nghĩ, điều mình cảm nhận được không đủ để sống thành đạt. Trước hết, yếu tố quan trọng phải là chân thành nhìn nhận thực thể mình, nhìn nhận chính điều mình nghĩ về mình, và khi ta nhận thực thể mình và ý thức những giới hạn của nó, ta sẽ không còn hứng thú để xét đoán kẻ khác.
Người thành thật ý tứ để đừng lừa gạt chính mình và cũng không lừa gạt kẻ khác. Người thành thật không thích người giả hình, không thích mánh mung, nói láo. Đây không phải là điều dễ, cần phải kiên trì quan sát mình, phải xét mình hằng ngày dựa theo lời Chúa và trong sự khiêm tốn vâng phục ơn soi sáng nội tâm của Chúa. Lời cầu nguyện của chúng ta cần dâng lên Chúa hằng ngày phải là: “Lạy Chúa, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Lạy Chúa xin thương xót con vì con là kẻ có tội.
Lời cầu nguyện của ông biệt phái trước hết là một lời tạ ơn, cùng với những thói hư tật xấu mà ông không hề phạm, và những việc đạo đức ông thường làm. Chẳng những ông đã làm các việc đạo đức do luật buộc, như ăn chay mỗi năm vào dịp lễ xá tội, nộp 1/10 lợi tức cho đền thờ, mà hơn thế nữa, ông còn tự nguyện làm những việc đó ở một mức độ cao. Chúng ta không thấy ông xin gì cho bản thân, mà chỉ luôn tạ ơn. Điều đáng tiếc là lời cầu nguyện của ông đầy vẻ tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân. Chính vì thế mà chúng ta có thể nghi ngờ về tâm tình tạ ơn của ông, bởi vì tâm tình tạ ơn thực sự bao giời cũng gắn liền với sự khiêm tốn.
Người biệt phái cầu nguyện đứng thẳng, chi tiết này nói lên tinh thần tự kiêu, ỉ lại trước nhan Thiên Chúa, và nội dung lời cầu nguyện của ông chỉ là những lời khoe khoang với Chúa và gây chia rẽ: “Con không phải như người thu thuế, tôi lỗi kia, con không giống như những kẻ khác: tham lam, bất công, ngoại tình…” Đó là những lời kết tội anh em, lỗi đức ái, không có chút gì tích cực xây dựng cộng đoàn và tôn vinh lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ngược lại, người thu thuế đã ý thức được thân phận tội lỗi của mình, nên khiêm tốn cúi mình xin Chúa thương xót, hướng dẫn mình trở về với tình thương của Chúa, trở về với anh em mà mình đã xúc phạm.
Người Pharisêu đến đền thánh, không phải để cầu nguyện nhưng để khoe khoang, để cho Chúa biết ông ta tốt chừng nào, để cổ võ chính hình ảnh của ông. Lời cầu nguyện của ông đầy những chữ “tôi”, “tôi” và “tôi”. Đó là “tự kỷ trung tâm” (tự cho mình là trung tâm điểm của vũ trụ), thay vì đặt để Thiên Chúa làm trung tâm điểm.
Người biệt phái rất tự phụ, vênh vang phô trương công đức của mình. Ông tự cho mình thánh thiện, đạo đức và tự đặt mình lên trên những người khác: “Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác, không tham lam, không bất chính, không ngoại tình, không như tên thu thuế kia!”
Rồi ông phô trương thành tích đạo đức của mình: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”.
Lời cầu nguyện của người Pharisêu nhằm đề cao “cái tôi”, trong khi lời cầu nguyện của người thu thuế nhắm đến “Thiên Chúa”. Người Pharisêu nói: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình…” (Lc 18, 11). “Tôi!” Còn người thu thuế chỉ nói: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18, 13). “Chúa!”
Trong khi đó, anh thu thuế lên đền thờ để thú tội. Anh ý thức mình là kẻ tội lỗi. Anh đặt mình trước tôn nhan Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin: Lạy Chúa, xin thương xót con vì con chỉ là kẻ tội lỗi. Điều anh khao khát là được Chúa tha thứ và được hoà giải với anh em. Anh chỉ dám đứng xa xa vì thấy mình bất xứng.
Người thu thuế, dẫu không cầu nguyện dài lời cũng cho thấy ông là người đã tới mức tin vào Thiên Chúa và phó thác hoàn toàn cho Ngài. Bởi thấy mình quá lem luốc theo mắt nhìn thành kiến của người đương thời, nên ông chỉ có thể đợi chờ một sự gột rửa trong mắt nhìn của Thiên Chúa; bởi thấy mình đã bất chính trong vòng quay nghiệt ngã của nghề nghiệp, nên con người ông nếu có cái gì phải tiến dâng thì đó chính là cuộc đời tội lụy của tấm lòng tan nát khiêm cung cúi đầu đấm ngực xin ơn tha thứ. Và bởi thấy mình chỉ đáng tội nên Thiên Chúa lại thấy ông chỉ đáng thương, nên bằng tình thương, Ngài đã ban ơn cho ông theo như ông tin vào Ngài.
Người thu thuế vốn biết thân biết phận tội lỗi của mình nên chỉ đứng ở đằng xa, thậm chí không dám ngước mặt lên, chỉ biết đấm ngực mà nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Anh nầy đến với Chúa như một chiếc bình trống rỗng, nghĩa là với lòng thống hối khiêm cung và khao khát được Chúa tuôn đổ ơn tha thứ nên anh đã được Thiên Chúa thứ tha.
Rõ ràng là tình thương Thiên Chúa ban cho con người như nước chảy về chỗ trũng, chỉ khi gặp tâm hồn khiêm tốn khai hoang, tình thương ấy mới có thể đổ vào tràn đầy chan chứa. Hay nói cách khác, tình thương Thiên Chúa là một “tình cho không biếu không”, nhưng chỉ những ai đã gạt bỏ ảo tưởng về mình để nhìn nhận mình là không, người ấy mới có thể nhận được tình thương của Thiên Chúa.
Từ hai hình ảnh trên chúng ta thấy: Ông biệt phái đi gặp Chúa vì ông cảm thấy mình có thế giá nhiều hơn những người khác. Ông đã sống một đời sống đạo đức và nghiệm nhặt. Ông đi gặp Chúa với một kho tàng công nghiệp to lớn của riêng ông. Thế nhưng cái kho tàng đó quá lớn đến độ đã ngăn cách ông với Chúa, nó không cho ông thấy được Ngài nữa, mà chỉ còn thấy có chính mình ông. Có quá nhiều chữ tôi trong lời cầu nguyện của ông: Tôi thế này, tôi thế nọ, tôi không như người này người khác… Rốt cuộc, ông lại là người quay vào mình, khép lại trên chính mình, mặc dù môi miệng ông đã kêu lên: Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa.
Dụ ngôn ngày hôm nay cũng như nhiều dụ ngôn khác mà thánh Luca ghi lại cho thấy rằng: Đức Giêsu luôn đứng về phía những người tội lỗi để bênh vực, giúp đỡ họ và Ngài luôn lên án những người biệt phái. Thế nhưng chúng ta hãy coi chừng có thể mình sẽ kết án người biệt phái ở những khía cạnh không chính đáng. Thực vậy, khi so sánh người biệt phái: đứng, còn người thu thuế: quì gối khi họ cầu nguyện mà có người cho đó là kiêu ngạo và khiêm nhường. Thực ra đứng khi cầu nguyện là một thái độ rất thường làm của người Do thái. Người khác nữa khi nghe lời cầu nguyện của người biệt phái chỉ thấy anh ta cảm tạ, tri ân mà không van xin gì thì cho đó là kiêu ngạo. Chúng ta phải công nhận đó là lời cầu nguyện hết sức tuyệt hảo. Cầu nguyện không chỉ để xin mà còn để tạ ơn nữa. Vậy, Đức Giêsu không căn cứ vào bên ngoài để kết án anh biệt phái.
Điều Thiên Chúa cần nơi con người là lòng thống hối để được Người làm cho nên công chính. Việc tuân giữ lề luật không làm cho con người nên công chính khi không nhận biết Đấng Công Chính và nhận sự thánh hoá từ nơi Người. Không dừng lại ở lề luật và cho mình là công chính vì đã tuân giữ chúng.
70. Cuộc trần ai, ai dễ hơn ai? – Đỗ Lực
Sáng nay, lên mạng, tôi say sưa với câu chuyện đầy ý nghĩa “Nắng chiều dọi lên hiên nhà bà Thảo, con Phúc buồn buồn nằm tắm nắng. Những vết thương lở loét trên khắp thân thể nó như đang lành, ngứa ngáy khó chịu nhưng nó không buồn đưa chân lên gãi. Giờ này mấy đứa con nó đều đang lẩn quẩn trong nhà, không dám ra ngoài này vì sợ thằng Bạo nên chẳng ai quấy phá nó. Nó nằm lim dim không ngủ, hồi tưởng về tất cả những gì xảy ra trong đời nó.
Cuộc đời nó, lẽ ra cũng êm ả, hạnh phúc như bao nhiêu con chó khác vì nó may mắn có được bà chủ tốt bụng. Bà Thảo thương nó lắm. Ngày nó còn trẻ, sạch sẽ, bà dẫn nó đi nhiều nơi lắm. Bà thương nó như những đứa con của bà. Câu chuyện chỉ bắt đầu từ khi cái gã chủ quán thịt cầy dọn tới ở sát bên nhà.”(1)
Đọc xong, tôi nghĩ ngay tới thân phận người thu thuế trong xã hội đạo đời Do thái ngày xưa. Dưới mắt ông Pharisêu, người thu thuế có khác gì con Phúc? Nhưng cuộc đời cứ nhìn nhau như vậy, liệu có giải quyết được vấn đề gì không? Xã hội và Giáo hội đi tới đâu?
KHÚC CA LÊN ĐỀN
Tất cả những khó khăn trong cuộc sống đều bắt nguồn từ sự vô minh về bản thân. Hôm nay, Chúa đưa ra hình ảnh hai người đang cầu nguyện trong đền thờ, để mọi người thấy ngay cả đạo đức cũng cần xét lại. Ngay cả trong việc cầu nguyện, chưa chắc đã tìm được sự công chính cần thiết cho Nước Trời. Chính trong tương quan với Thiên Chúa tha nhân, con người có thể xác định bản chất và những công việc của mình.
Cầu nguyện với Thiên Chúa trong Đền thánh không phải là một việc ngoài chợ. Thế mà con người vẫn còn bị những thứ tiếng động quấy phá. Tiếng động không phát xuất từ bên ngoài, nhưng từ chính nội khảm của cái tôi. Không có lời cầu nguyện nào ồn ào như lời nguyện phát xuất từ miệng lưỡi người Pharisêu hôm nay. Ông thấy mình đứng giữa một tương quan hai chiều, với Thiên Chúa và đồng loại. Nhưng cả hai tương quan đều cho thấy ông đang đánh mất chính mình. Trước nhan Chúa, ông khoe khoang mọi việc đạo đức của mình. Làm như Thiên Chúa cũng cần ông mách nước mới khám phá những kỳ công đạo đức trong cuộc đời! Đối với tha nhân, tương quan của ông cũng chẳng êm thắm chút nào. Cái tôi của ông phì nộn tới mức báo động. Ông thấy mình vượt xa đồng loại, nhất là người thu thuế đang cầu nguyện với ông trong đền thờ. Tóm lại, ông muốn Thiên Chúa phải khâm phục trước những việc phi thường ông đã thực hiện.
Ngay cả sự công chính của con người cũng phải xét lại. Mù quáng và kiêu ngạo chi phối vào tận lời cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao người khác: trộm cướp, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia.” (Lc 18:11) Những việc đạo đức đã làm ông lóa mắt đến nỗi không nhìn thấy Thiên Chúa và tha nhân nữa. Đúng hơn, ông muốn biến Thiên Chúa thành một con nợ. Có một khoảng cách giữa niềm tin Thiên Chúa và công việc đạo đức. Dựa trên những việc đó, ông nghĩ mình có thể tự cứu lấy mình.
Trái lại, người thu thuế cảm thấy mình hoàn toàn bất lực vì tội lỗi. Ông cảm thấy không thể tự cứu và không xứng đáng xuất hiện trước Thiên Chúa. Tất cả tùy thuộc lòng quảng đại của Thiên Chúa. Bởi đó, ông kêu lên: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18:13) Nhìn lại mình, ông thấy toàn những công việc bất chính, nhất là đã cộng tác với đế quốc đàn áp dân tộc bằng chính sách sưu cao thuế nặng. Cái nhìn của dân chúng về ông và nhóm người như ông quả không sai. Cùng với những bọn đĩ điếm và ngoại giáo, ông bị xếp vào hạng những người tội lỗi. Nhưng Chúa Giêsu lại thích giao du và ăn uống với hạng người này. Chúa không đến kêu gọi người công chính, nhưng những người tội lỗi (Mt 9:13 và 11:19). Chúa qủa quyết những người thu thuế và bọn đĩ điếm vào Nước Thiên Chúa trước những tư tế và trưởng lão trong dân (Mt 21:31).
Chúa biết có những người thu thuế đáng kính, những người trở lại như Lêvi (Mt 10:3), Giakêu (Lc 19:2), hay như người đã gợi hứng cho Chúa nói dụ ngôn này. Chính sự khiêm tốn trong lời cầu nguyện đã làm cho người tội lỗi trở thành người công chính. Lý do vì chỉ có tâm hồn như thế mới thấy và đón nhận được tất cả hồng ân cứu độ của Thiên Chúa. Khi nhìn nhận mình yếu đuối, người thu thuế ngấm ngầm nhìn nhận mình cần một “đấng cứu độ.” Ông nhận biết mình không thể đơn thương độc mã thoát khỏi tình trạng tội lỗi. Ông nói lên sự thiếu thốn của mình và thú nhận mình cần đến Chúa để học cách yêu thương. Còn Pharisêu tự tin mình hoàn hảo, tự mãn và tự cao. Đây là một bi kịch: ông tin mình có thể sống mà không cần đến Thiên Chúa. Tự thâm tâm, ông luôn ca bài: “Không! Không! Tôi không cần yêu ai nữa!” Ông không cần ai, kể cả Thiên Chúa.
Thực tế, chỉ những ai nhìn nhận mình “mỏng giòn,” yếu ớt, thiếu thốn mới có thể đọc lên lời kinh thấu đến tận con tim Đấng Cứu Độ. “Lời nguyện của người nghèo vươt ngàn mây thẳm.” (Hc 35:17) Triết gia Emmanuel Levinas cũng nói: “Chỉ khi bị tổn thương, bản thân mới có thể yêu thương tha nhân.” Điều đó đúng từ trong sách vở đến ngoài thực tế. Tra tự điển Anh Pháp, chúng ta sẽ thấy chữ “prayer” (prière, cầu nguyện) và “precarious” (précaire, mỏng giòn) đều có cùng gốc La tinh (precarius). Thật là thú vị.
Trong mỗi người đều có người thu thuế như thưa lên: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Con biết sự công chính của con không do chính con, nhưng do Chúa, nhờ niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô!” (Rm 3:22) Dụ ngôn không ngừng dạy chúng ta một bài học đơn giản: Chúa cực kỳ thánh thiện, còn chúng ta là những tội nhân. Đó là điều làm chúng ta xa cách Chúa nhất, nhưng cũng là điều làm chúng ta hướng về Chúa nhất. Thay vì tìm những việc tốt để khoe khoang, nêu cao những công trình, biện minh cho chính mình, chúng ta cần noi gương người thu thuế, nhận thực về mình: “Chính khi ta nói với Thiên Chúa: con hư vô, thì Chúa nói: Ta làm cho con hiện hữu. Chính khi ta nói với Thiên Chúa: con tội lỗi, thì Chúa nói: Ta tha thứ và yêu thương con. Khi tự đặt mình vào số phận chân thật nhất, chúng ta có thể có tất cả, không chỉ cho mình, nhưng còn cho tha nhân. Trái lại, nếu tự phụ, chúng ta sẽ đánh mất tất cả và chẳng làm ích gì cho ai, dù chúng ta có là gì và quyền lực tới đâu.
BIẾT MÌNH BIẾT NGƯỜI
Vì không biết mình, Pharisêu không thể trở nên công chính. Cá nhân bất chính, xã hội tắc loạn. Nhiều lần Chúa Giêsu khiển trách họ sống công chính theo mã bề ngoài, trong khi bên trong “đầy những chuyện cướp bóc, gian tà.” (Lc 11:39) Lúc nào miệng cũng hô hào phải tuân giữ lề luật. Nhưng thực tế, họ “xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa.” (Lc 11:42) Không những cá nhân mà cả tập thể tôn giáo và xã hội đều xây dựng trên sự thật ảo.
Về phương diện thiêng liêng, những con người giả hình không có khả năng hướng dẫn ai. Suốt đời họ nỗ lực “khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào!” và “làm cho (thiên hạ) đáng xuống hỏa ngục gấp đôi.” (Mt 23:13.15) Về phương diện xã hội, không những họ không bao giờ phục vụ ai, mà còn ra sức bóc lột người nghèo. Bằng chứng, họ “nuốt hết tài sản của các bà góa” (Mt 23:14) để vinh thân phì da. Tôn giáo của họ là một rừng nghi lễ. Một đoàn người theo họ đang lạc lõng bơ vơ như mất định hướng, vì chính họ đã dẹp “bỏ diều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín.” (Mt 23:23) Bởi thế, họ không ngần ngại nhúng tay vào những tội ác như sát hại các ngôn sứ (x. Mt 23:34).
Niềm tin Pharisêu là một niềm tin cứng ngắc và đầy hình thức. Niềm tin đó không đem lại sự giải thoát cho nhân loại. Cũng không thể tìm thấy công lý nơi lối sống đạo thiếu chiều sâu đó. “Quả thực, công lý không phải là một khê ước thuần túy nhân loại, vì điều ‘công chính’ trước tiên không phát xuất từ lề luật, nhưng từ căn tính sâu xa của con người quy định.” (2) Nếu không bắt nguồn từ căn tính sâu xa đó, tôn giáo sẽ bất lực trong việc giải quyết mọi vấn đề của con người và xã hội. Công lý cũng không hiện diện trong các tổ chức tôn giáo đó. Dĩ nhiên, “tự bản chất, công lý không đủ. Thực thế, nếu không mở ra đón nhận quyền năng sâu xa hơn, tức tình yêu, công lý có thể phản bội chính mình. Thực vậy, Học Thuyết Xã Hội của Giáo hội đặt giá trị tình liên đới bên cạnh giá trị công lý, mở ra con đường độc đáo dẫn tới hòa bình.” (3) Nhìn lại lời nói và hành động của Pharisêu, chúng ta thấy ông vừa thiếu công lý vừa phá tan mối dây liên đới với đồng loại. Làm cách nào có thể hòa giải hòa hợp hai lối sống và nếp nghĩ khác nhau như thế?
Thiếu sự hiểu biết về Thiên Chúa và tha nhân, Pharisêu đã hoàn toàn thu gọn tầm nhìn vào những công trình cá nhân. Nhưng “không thể yêu thương tha nhân như chính mình, và kiên trì trong hành động này nếu không quả quyết mạnh mẽ và kiên nhẫn hành động mưu ích cho tất cả và mỗi người, vì tất cả chúng ta đều thực sự có trách nhiệm với mọi người. Theo giáo huấn Công đồng, chúng ta phải tôn trọng và yêu thương những người suy nghĩ và hành động khác chúng ta về những vấn đề xã hội, chính trị, và tôn giáo. Thực vậy, càng suy nghĩ sâu xa về những cách suy nghĩ cách êm ái, càng có thể dễ dàng đối thoại với họ.” (4) Thực tế, cuộc đối thoại không dễ dàng thực hiện, vì còn tùy thuộc quan niệm và cách xử sự của đối tác nữa.
Làm sao đối thoại với Pharisêu khi ông tự nâng mình lên chín tầng mây xanh? Muốn bắt đầu đối thoại, cần phải có bình đẳng và công lý. Công lý đòi mọi người phải tôn trọng nhau như những nhân vị. Cuộc đối thoại chỉ có thể thành công, khi mọi người đều nhắm đến công ích. “Nguyên tắc hướng dẫn công ích có liên quan tới mọi mặt đời sống xã hội, nếu đạt đến ý nghĩa trọn vẹn, phát xuất từ phẩm giá, sự hiệp nhất và bình đẳng của mọi người.” (5) Rõ ràng Pharisêu đã không theo đúng nguyên tắc đối thoại. Ông không có khả năng đối thoại, vì ông chỉ biết có mình. Ông mở đầu lời nguyện rất “ngon lành.” Nhưng kết thúc thật tệ hại vì dẫn đến kết quả trái ngược. Uổng cả một đời nỗ lực nên công chính! Chỉ vì khinh thế ngạo vật, mọi sự tan ra mây khói.
ĐỐI THOẠI?
Nhìn vào xã hội Việt nam hôm nay, ai dám nói đang có một cuộc đối thoại thực sự để giải quyết những vấn đề xã hội? Cả trong đạo ngoài đời, những người cầm quyền có dám nhìn thẳng vào thực tế không? Họ có thực sự nhắm đến lợi ích quần chúng không? Làm sao đối thoại hữu hiệu với Nhà Nước, trong khi Giáo Hội không được nhìn nhận là một thực thể pháp nhân? Đó chính là lý do tại sao Giáo hội không được phép tham gia sinh hoạt trong các ngành giáo dục, y tế và không được hợp tác trong nhiều lãnh vực để hướng dẫn và phục vụ quần chúng, nhất là giới trẻ.
Trong dịp viếng mộ thánh Phêrô năm 2002, các Giám mục Việt Nam đã được ĐGH Gioan Phaolô II mở ra một định hướng mục vụ tích cực: “Đối thoại chân thành và hợp tác lành mạnh.” Nhưng nhìn lại, “phải chăng trong mấy thập niên vừa qua, Hội Đồng Giám mục Việt Nam đã cố gắng thể hiện định hướng đó bằng những hình thức và cách thế riêng? Nhưng có bao nhiêu cơ hội để thể hiện nó?” (6) Trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, không phải chỉ có kinh tế thị trường, nhưng cả tôn giáo cũng phải đi vào định hướng xã hội chủ nghĩa, do đảng tự do tung hoành lãnh đạo về mọi mặt. Chỉ có một thực tại duy nhất tồn tại là đảng mà thôi. Trong tình thế đó, có đối thoại cả trăm năm cũng không cải tiến được xã hội. Nếu không có đối thoại, mọi việc hợp tác đều giả hiệu và vô hiệu. Thực vậy, làm sao phục vụ, nếu không có công lý? Làm sao có công lý, nếu không có sự thật? Làm sao tìm được sự thật, nếu không đối thoại? Thánh Augustinô quả quyết: “Bất cứ những gì trái với sự thật đều không thể có công lý.”
Làm sao có thể đối thoại khi Đảng chỉ công nhận “tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân” (7)? Khi không công nhận Giáo hội, họ cũng chẳng cần biết “mục đích của Giáo Hội và Nhà Nước thuộc hai lãnh vực khác nhau, có những phương tiện riêng, và độc lập trong những lãnh vực hoạt động liên hệ.” (8) Nếu thực tình phục vụ con người, ai chẳng cần đến những cái nhìn và nỗ lực từ nhiều phía? Thật vậy, “công việc phục vụ phúc lợi quần chúng và cộng đồng nhân loại chỉ có thể hữu hiệu khi có cuộc đối thoại theo cơ chế giữa Giáo hội và chính quyền. Mục đích nhằm góp phần vào công cuộc tiến bộ mỗi dân tộc và toàn thể nhân loại trong công lý và hòa bình.”(9) Đối thoại là con đường duy nhất để nhìn ra vấn đề và phục vụ hữu hiệu. Thực vậy, muốn có công lý để hành động, cần phải vận dụng tư tưởng và lời nói để đối thoại. Nếu không, sẽ lãng phí nhiều tài nguyên quốc gia và Giáo hội và chẳng bao giờ có thể đáp ứng những nhu cầu lớn lao của quần chúng.
Trước cảnh đau thương của dân tộc, Giáo hội đành bó tay khi nhìn các nạn nhân đang quằn quại trong các bệnh viện hay bị bưng bít trong nền giáo dục một chiều. Thật vậy, “ngành y tế chúng ta cũng đang gặp khủng hoảng, cả về chất lượng lẫn số lượng. Tại Tp HCM chẳng hạn, để thực hiện công tác điều trị bình thường, mỗi ngày cần khoảng 14.000 giường cho bệnh nhân. Thế nhưng, tất cả bệnh viện công và tư ở thành phố mới có khoảng 8000 giường, nghĩa là chỉ mới đạt tới hơn một nửa nhu cầu. Vì thế tình trạng 2 bệnh nhân một giường sẽ còn tiếp diễn trong những năm tới. Nếu Tp HCM là đầu tàu kinh tế của cả nước mà còn xảy ra tình trạng thiếu hụt ở trên, thì những vùng sâu, xa và cao của đất nước sẽ sao? Trong quá khứ giới Công giáo đã đóng góp nhiều cho lãnh vực y tế. Bao giờ mới được tái nhập cuộc để xoa dịu nỗi đau và nỗi khổ của đồng bào?”(10)
Trong ngành giáo dục, vấn đề trầm trọng không kém. Dù việc phục vụ tương lai dân tộc đang bị bỏ bê và xuống cấp vì thiếu thốn cơ sở cũng như nhân sự trầm trọng, nhưng giáo dục vẫn là lãnh vực độc quyền của Nhà Nước. Giáo hội làm được gì khi bị đặt ra ngoài cơ chế giáo dục, dù mình có rất nhiều nhân sự sẵn sàng nhập cuộc? “Nhiều người vẫn băn khoăn thắc mắc: Tại sao vẫn chưa cho phép các tôn giáo trong nước, những người cùng chung một giòng máu và một tình tự dân tộc được trực tiếp tham gia vào lãnh vực giáo dục? Tại sao chưa để cho các tu sĩ có cơ hội đóng góp tim – óc của mình cho tương lai dân tộc?” (11) Thật là tiếng kêu bức xúc và thất thanh giữa sa mạc!
Biết thế, HĐGMVN năm 2007 vẫn bàn về một lãnh vực mà mình chẳng có ảnh hưởng gì, ngoài trường mẫu giáo? Thư Chung 2007 nói về quá khứ như một điều đáng tiếc, nhưng vẫn quyết tâm và tin tưởng kêu gọi giáo hội Việt NAM Tham gia vào lãnh vựa giáo dục trong kế hoạch ba năm. Hy vọng với sự quyết tâm ấy, giáo hội sẽ tìm ra cơ hội để cống hiến cho thế hệ trẻ tương lai.
Tóm lại, cùng trong một đền thờ, cùng tôn thờ một Thiên Chúa, và cùng nhìn vào bản thân, nhưng ông Pharisêu và người thu thuế theo những đường hướng khác nhau. Vì kiêu ngạo, Pharisêu đã không nhận ra sự thật về Thiên Chúa, bản thân và tha nhân. Ông đánh mất tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Lời cầu nguyện trở thành độc thoại. Ông tự tách mình khỏi Thiên Chúa và anh em. Trái lại, trong khiêm cung, người thu thuế đã được nâng lên hàng công chính, vì “kẻ phục vụ Đức Chúa theo ý Người sẽ được Người chấp nhận, lời họ kêu xin sẽ vọng tới các tầng mây.” (Hc 35:16)
Cùng lên đền thờ Thiên Chúa, nhưng mỗi người ca một khúc khác nhau. Tiếng ca của người Pharisêu chói tai cả Thiên Chúa lẫn con người. Có lẽ giờ đây, không ai muốn đồng hội đồng thuyền với Pharisêu. Ai cũng tự xếp mình vào hàng ngũ người thu thuế. Như vậy, phải chăng mình cũng đang muốn mình hơn người Pharisêu?! Coi chừng khúc ca cũng chói tai không kém đâu nhé!
Lạy Chúa, tất cả cuộc đời và sứ mệnh con đều tùy thuộc vào lòng thương xót của Chúa. Xin cho con được gặp gỡ Chúa và đồng loại hôm nay để có thể phục vụ theo đúng thánh ý Chúa. Amen.
đỗ lực 28.10.2007
——————————
1. Đoàn Kiếm,
http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=4046
2. Toát yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 202.
3. ibid., 203.
4. ibid., 43.
5. ibid., 164.
6. Nguyễn Thái Hợp, http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=2577
7. http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=2577
8. Toát yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 445.
9. Ibid.
10. Nguyễn Thái Hợp, http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=2577
11. Ibid.
12 HĐGMVN, Thư Chung 2007, số 19, http://www.conggiaovietnam.net/tulieugiaohoi/thuchungHDGMVN2007.htm