CÁC BÀI SUY NIỆM LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG – NĂM C

Suy niệm LỄ HIỆN XUỐNG – Năm C
Lời Chúa: Cv 2,1-11; 1Cr 12,3b-7.12-13; Ga 20,19-23
MỤC LỤC
1. Người thổi hơi vào các ông 5
2. Hãy nhận lấy Thánh Thần 8
3. Nói được các thứ tiếng 11
4. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 14
5. Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến 19
6. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 23
7. Vị Thiên Chúa bị quên lãng 27
8. Xin đổi mới – ViKiNi 29
9. Ý nghĩa cuộc sống 33
10. Suy Niệm của Lm. Anthony Trung Thành 36
11. Suy niệm của Lm. John Nguyễn Tươi 41
12. Cuộc sáng tạo mới – Lm. Ignatiô Trần Ngà 45
13. Veni Creator, Spiritus 48
14. Đấng ban bình an 54
15. Ngọn lửa Thánh Linh soi chiếu 58
16. Chúa Thánh Thần là nguyên lý hợp nhất 61
17. Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống 73
18. Đâu là sức mạnh làm thay đổi? 82
19. Quà tặng Thần Khí – Peter Feldmeier 87
20. Chúa Thánh Thần – Tôn sư nội tâm 91
21. Ý nghĩa mỗi ơn trong bảy ơn Chúa Thánh Thần 95
22. Vô hình vô dạng – Lm Vũ Đình Tường 101
23. Ơn làm nghĩa tử – Lm. Vũ Đình Tường 104
24. Chung hình ảnh – Lm Vũ Đình Tường 107
25. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 109
26. Ngũ Tuần – Lm. Giuse Trần Việt Hùng 114
27. Chúa Thánh Thần. 119
28. Thần Linh nối kết trời đất 121
29. Lễ Hiện Xuống 124
30. Sống hiệp thông với Chúa Thánh Thần 127
31. Chúa Thánh Thần mở tung mọi cánh cửa khép kín 131
32. Sứ mạng truyền giáo – Lm. Minh Vận, CRM 136
33. Ngày sinh nhật của Giáo Hội 141
34. Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống 146
35. Đức Chúa Thánh Thần, nguồn suối nước sự sống 149
36. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 153
37. Ngọn gió 156
38. Chúa Thánh Thần – Nguồn Bình An 159
39. Đấng đổi mới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 161
40. Chúa Thánh Thần – Sự Sống mới 163
41. “Thánh Thần khấn xin ngự đến…” 167
42. Thánh Thần đổi mới – Cố Lm Hồng Phúc 172
43. Những người rao giảng Tin Mừng đầy Thánh Thần 174
44. Chúa Thánh Thần, Đấng Tác Sinh 178
45. Tất cả được tràn đầy Thánh Thần 182
46. Đấng ban sự sống 186
47. Lửa Thánh Thần 189
48. Ra đi – tha thứ 192
49. “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần…” 195
50. Chúa Thánh Thần – Hơi thở của Thiên Chúa 200
51. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống – R. Veritas 203
52. Bình an cho các con – R. Veritas 205
53. Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ Giáo Hội 208
54. Chân lý đòi hỏi rất nhiều – Achille Degeest 212
55. Hơi thở của Thiên Chúa 214
56. Thần Khí đổi mới 218
57. Vai trò của Thần Khí – McCarthy 222
58. Suy niệm của J.B Lê Đình Nam 226
59. Tác động của Chúa Thánh Thần 229
60. Hãy mở cửa ra! 232
61. Bình an 237
62. Lãng quên 241
63. Anh em biết Người, vì Người luôn ở trong anh em 245
64. Đổi mới 249
65. Hiện diện 253
66. Hiệp nhất 257
67. Tái tạo 259
68. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển 262
69. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển 266
70. Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý 271
71. Ngôn ngữ 277
72. Quyền năng 280
73. Thần Khí của Đấng Phục Sinh. 284
74. Ơn Chúa huấn luyện và thêm sức cho ta 287
75. Khai sinh Giáo Hội truyền giáo – Thiên Phúc. 290
76. Thánh Thần trong đời sống 293
77. Thánh Thần Thiên Chúa 297
78. Nhờ Chúa Thánh Thần 301
79. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 304
80. Thánh Thần tình yêu 307
81. Chúa Nhật Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 309
82. Những lời trịnh trọng sau hết 312
83. Thánh Thần sức mạnh tình yêu 315
84. Suy niệm của JKN 317
85. Chúa Thánh Thần, Đấng thông ban mọi sự 322
86. Suy niệm của Lm Lâm Thái Sơn 326
87. Nguồn sống 330
88. Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn 333
89. Suy niệm của Lm Cao Tấn Tĩnh 336
90. Ân huệ Chúa Thánh Thần 342
91. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An 346
92. Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng 354
93. Đón nhận sức mạnh của Thánh Thần 357
94. Tác động của Thần Khí – Fr Jude Siciliano 363
95. Hãy để cho Thánh Thần biến đổi 370
96. Thời kỳ ân điển của Thần Khí. 375
97. Suy niệm của Lm Đỗ Xuân Quế 380
98. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour 385
99. Chú giải của Noel Quesson 387
100. Chú giải của Fiches Dominicales 393
101. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 398
102. Chúa Kitô sai phái – William Barclay 404
103. Hãy nhận lấy Thánh Thần – Lm. Đan Vinh 406
104. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 412
105. Chúa Thánh Thần tuôn tràn trên mọi người 417
106. Thánh Thần đổi mới lòng ta – Huệ Minh 420

1. Người thổi hơi vào các ông
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Những vết chân trên cát cho ta biết có người đã đi qua.
Nhìn hàng cây xa lay động, ta biết có gió.
Đức Giêsu đã ví Thánh Thần như cơn gió: “Gió muốn thổi đâu thì thổi… Chẳng ai biết gió từ đâu đến và sẽ đi đâu” (Ga 3,8).
Chúng ta chỉ thấy những dấu vết hoạt động của Thánh Thần, nhưng không thấy được chính Ngài, cũng không nắm được đường đi nước bước của Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay đã mô tả Thánh Thần như hơi thở của Chúa Phục Sinh.
Hơi thở là dấu hiệu của Sự Sống.
Thiên Chúa đã thở hơi vào Ađam vă cho ông sống. Đức Giêsu Phục Sinh đã thở hơi trên các môn đệ, để họ nhận một sự sống mới hoàn toàn.
Đời sống Kitô hữu là đời sống trong Thánh Thần.
Ngay từ giây phút đầu tiên trong lòng mẹ, Đức Giêsu đã được đầy tràn Thánh Thần.
Khi lãnh nhận phép rửa của Gioan, Ngài đã được Thánh Thần ngự xuống và lưu lại.
Cũng chính Thánh Thần đưa Ngài vào sa mạc để cầu nguyện, ăn chay và định hướng cuộc đời.
Tại Galilê, Đức Giêsu đã bắt đầu sứ mạng trong quyền năng của Thánh Thần (Lc 4,14).
Ngài đã nhờ Thánh Thần mà đuổi quỷ (Mt 12,28), và khi được hân hoan trong Thánh Thần, Ngài đã thốt lên lời ca ngợi Cha (Lc 10,21).
Quả thật Đức Giêsu là con người sống trong Thánh Thần, Đấng mà Ngài đã nhận được một cách vô hạn (Ga 3,34).
Đôi khi chúng ta cảm thấy xa lạ với Ngôi Ba, dù thực sự Ngài là người Bạn, người Thầy quá ư gần gũi và cần như hơi thở.
Tôi gọi Thiên Chúa là Cha, cũng nhờ Ngài (Rm 8,15).
Nhờ Ngài tôi biết cầu nguyện, và nếm được sự ngọt ngào của Lời Chúa.
Nhờ Ngài Hội Thánh vẫn được canh tân liên tục bằng những luồng gió bất ngờ, những lôi cuốn mạnh mẽ không sao cưỡng lại.
Xin cho tôi can đảm để cho ngọn gió của Ngài thổi tung mọi sợ hãi, rụt rè, khép kín.
Xin cho tôi lưỡi lửa để tôi ra đi loan báo Tin Mừng với trái tim bừng cháy.
Xin cho tôi hơi thở của Ngài để tôi biết sống và yêu nồng nàn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Mọi sáng kiến canh tân đều có thể là do Thánh Thần thúc đẩy. Trong giáo xứ, gia đình, cộng đoàn hay nhóm của bạn, bạn có gặp thấy những người biết thao thức và dám đưa ra sáng kiến canh tân không?
Thánh Thần vẫn lên tiếng qua những người có trách nhiệm, qua bạn bè, qua hoàn cảnh mới cần thích nghi. Có lần nào bạn nghe được lời mời của Thánh Thần không? Bạn đáp lại ra sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ban sức sống cho chúng con.
Xin cho cuộc đời Kitô hữu chúng con đừng rơi vào sự đơn điệu nghèo nàn, vào những lối mòn quen thuộc, nhưng xin canh tân và tái tạo chúng con mỗi ngày.
Xin nuôi chúng con bằng những thức ăn mới, cho chúng con khám phá ra những chiều sâu khôn dò của Đức Kitô, và ý nghĩa thâm thúy của Tin Mừng.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống, thế giới hôm nay luôn bị đe dọa bởi bạo lực, khủng bố, chiến tranh; mạng sống con người bị coi rẻ.
Xin cho chúng con biết say mê sự sống, và gieo vãi sự sống khắp nơi.
Ước gì Chúa ban cho nhân loại một lễ Hiện Xuống mới, để con người có thể hiểu nhau hơn và đón nhận nhau trong yêu thương.

2. Hãy nhận lấy Thánh Thần
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Lúc đến Êphêsô, Phaolô hỏi một số môn đệ ở đó: “Khi vào đạo, các ông đã nhận lãnh Thánh Thần chưa?”. Họ trả lời: “Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói tới” (Cv 19,1-2).
Chúng ta đã được nghe nói và đã lãnh nhận Thánh Thần, nhưng có thể Ngài vẫn là Đấng xa lạ với ta.
Bí tích Thêm sức chỉ còn là một kỷ niệm đẹp, nhưng nó không làm ta ý thức về sự hiện diện của Thánh Thần, Đấng đang ở trong ta và sai ta đi làm chứng.
Khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, Ngài đã làm một việc quan trọng, đó là mời họ tiếp tục sứ mạng mà Ngài đã bắt đầu.
“Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19).
“Hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15).
Trong Tin Mừng hôm nay, Đấng phục sinh nói với các môn đệ: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21)
Đức Giêsu cho các môn đệ được tham dự vào sứ mạng của mình. Chỉ có một sứ mạng duy nhất là sứ mạng Chúa Giêsu nhận được từ Chúa Cha. Sứ mạng của các môn đệ nối dài sứ mạng duy nhất ấy.
Ai sẽ giúp các ông thực hiện sứ mạng này? Ai sẽ cho các ông sức sống để dám mở toang cánh cửa mà lên đường loan báo Tin Mừng phục sinh?
Sức sống ở nơi hơi thở.
Đức Giêsu phục sinh đã trao hơi thở của mình, hơi thở của sức sống thần linh cho các môn đệ.
Khi được trao ban Thánh Thần, họ trở thành con người mới, sẵn sàng lên đường.
Thánh Thần chẳng ở xa mỗi người chúng ta.
Ngài có mặt khi ta rung động trước một đoạn Lời Chúa, và muốn sống Lời Chúa trong đời thường.
Ngài có mặt khi ta gọi tên Chúa Giêsu trên môi (1Cr 12,3), và gọi Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ ái (Rm 8,15).
Ngài có mặt khi ta muốn tiến một bước mới trong đời sống cầu nguyện, trong đời sống thiêng liêng.
Thánh Thần chẳng ở xa Giáo Hội.
Ngài làm cho Giáo Hội được hiệp nhất bằng cách ban những đặc sủng khác nhau cho nhiều người để họ phục vụ lợi ích chung.
Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo Hội, nhưng Ngài cũng có mặt nơi các nhóm giáo dân.
Ngài hiện diện trong các bí tích, trong mỗi thánh lễ. Ngài thánh hóa bánh rượu để chúng trở nên Mình và Máu Đức Kitô.
Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội; không có Ngài, Giáo Hội chỉ là một cơ cấu đáng ngờ.
Nếu chúng ta mềm mại hơn để cho Ngài dẫn dắt, nếu chúng ta bớt cứng cỏi để cho Ngài canh tân, nếu chúng ta đừng dập tắt tiếng của Ngài, thì chúng ta sẽ thấy những biến đổi kỳ diệu.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Bạn có thấy Chúa Thánh Thần soi sáng và nâng đỡ bạn trong cuộc sống hàng ngày không? Ngài có hoạt động trong nhóm của bạn không?
2. Trong thế giới hôm nay, thế giới gồm cỏ lùng và luau, bạn có thấy hoạt động âm thầm nhưng hiệu quả của Chúa Thánh Thần không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần,
Xin Ngài hãy đến như cơn gió mát thổi vào đời con, thổi vào Giáo Hội, thổi vào thế giới, để đem lại cho chúng con sự tươi mới nhẹ nhàng, sự tự do thanh thoát.
Xin Ngài hãy đến như dòng nước trong chảy vào đời con, chảy vào Giáo Hội, chảy vào thế giới, để cuốn trôi đi mọi nhơ nhớp, khô cằn, cứng cỏi, và làm bật dậy những mầm xanh sự sống nơi chúng con.
Xin Ngài hãy đến như ngọn lửa hồng chiếu sáng đời con chiếu sáng Giáo Hội, chiếu sáng thế giới, để chúng con không còn đồng lõa với tối tăm, nhưng mang trong tim một ước mơ nóng bỏng, đó là làm cho vũ trụ này rực sáng Tình yêu.

3. Nói được các thứ tiếng
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Lễ Ngũ Tuần là một lễ lớn của người Do Thái.
Nhiều người Do Thái sùng đạo từ nước ngoài về Giêrusalem dự lễ.
Còn Nhóm Mười Hai và mấy phụ nữ, trong đó có Đức Maria, thì cầu nguyện tại lầu trên một căn nhà trong thành.
Chính trong bầu khí của một cộng đoàn cầu nguyện mà Thánh Thần, Đấng Cha hứa ban, đến với họ.
Thánh Thần chẳng có một khuôn mặt để ta ngắm nhìn nhưng ta vẫn nhận ra Ngài nhờ những dấu chỉ khả giác: một tiếng từ trời như tiếng gió thổi dữ dội, những lưỡi lửa tản ra và đậu xuống từng người.
Bổng chốc Thánh Thần đầy tràn mọi người hiện diện.
Có cái gì đó được mở tung, để tự do bay bổng. Có ngọn gió ùa đầy nhà làm căng buồng phổi. Có ngọn lửa ấm lan tỏa trong trái tim.
Có cái gì thôi thúc người ta mở cửa, đi ra và cất tiếng.
Phải kêu to cho mọi người, chẳng có gì phải sợ, về những kỳ công Thiên Chúa đã làm cho Thầy Giêsu.
Trước mặt mười hai ông đánh cá quê mùa ít học, người từ khắp nơi trên thế giới đổ về.
Họ là những người Do Thái sinh sống ở nước ngoài, nên họ đã kinh ngạc, sửng sốt, thán phục, khi họ nghe các ông nói được tiếng của vùng đất họ sống.
Ơn nói được nhiều thứ tiếng là ơn của Thánh Thần, nhằm giúp cho việc loan báo Tin Mừng nơi mọi dân tộc.
Tin Mừng bằng tiếng mẹ đẻ giúp người nghe cảm thấy gần gũi.
Rồi Tin Mừng ấy lại trở thành gạch nối liên kết mọi người, thuộc mọi ngôn ngữ, màu da, xã hội, văn hoá khác biệt.
Như thế Thánh Thần làm con người hiểu nhau, gần nhau, và giúp Hội Thánh trở thành Hội Thánh của mọi dân tộc.
Thánh Thần làm vết thương của tháp Babel được lành.
Đã có lúc những người nói cùng một thứ tiếng mà vẫn không hiểu nhau.
Lễ Hiện Xuống là lễ khai sinh một Hội Thánh truyền giáo.
Đức Giêsu đã chào đời tại Châu Á từ 2.000 năm. Làm sao để người Châu Á hiểu được Tin Mừng: đó là vấn đề mà tất cả chúng ta hết sức quan tâm.
Hiểu được là bước đầu để đón nhận và tin theo.
“Chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa” (c.11).
Làm sao chúng ta sử dụng nhuần nhuyễn các ngôn ngữ Á Châu để trình bày mặc khải của Đức Giêsu Con Thiên Chúa? Phong tục, văn hoá, tín ngưỡng, luân lý, truyền thống của họ cũng là những thứ ngôn ngữ mà ta cần trân trọng tìm hiểu.
Xin Thánh Thần giúp ta học được ngôn ngữ Việt Nam hôm nay, để nói cho người Việt hiểu và hiểu được điều họ nói.
Xin cho Hội Thánh biết khiêm tốn và can đảm học lại ngôn ngữ của những người mà Chúa sai ta đến.
Kinh Thánh đã được dịch ra 2,197 ngôn ngữ.
Chúng ta còn cần dịch ra một thứ ngôn ngữ ai cũng hiểu, đó là ngôn ngữ của phục vụ và yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nhờ sức mạnh Thánh Thần, những ông đánh cá đã mạnh dạn đứng lên loan báo Tin Mừng. Bạn đã nhận Thánh Thần khi được rửa tội và thêm sức; có khi nào bạn dám can đảm nói lên niềm tin của bạn không?
Gia đình, cuộc sống, nghề nghiệp của bạn cũng là những thứ ngôn ngữ. Bạn có thấy mình nói về Chúa qua những ngôn ngữ ấy không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa là Thần Khí Sự Sống và Tình Yêu, xin ban cho con một thời để yêu và một thời để sống; để con sống vì tình yêu Thiên Chúa, để con yêu vì cuộc sống muôn loài.
Xin dạy con biết yêu những điều tốt đẹp, cao quý và biết ghét những điều đê tiện, xấu xa.
Xin dạy con luôn sống vì những điều mình yêu, và dám chết vì những điều mình ghét.
Xin cho con biết đưa tình yêu vào cuộc sống để mỗi giây phút sống con đều cảm nhận được niềm hạnh phúc yêu thương.
Xin cho con biết đưa cuộc sống vào tình yêu để từng giây phút yêu, con đều làm cho cuộc sống thêm giá trị.
Cuối cùng, xin cho con biết hoà nhập cả hai nên một: để sống là yêu và yêu là sống, vì hiểu được rằng Thiên Chúa Hằng Sống cũng chính là Thiên Chúa Tình Yêu. Amen.

4. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
(Suy niệm của ĐHY Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng)
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, có thể nói đây là ngày khai nguyên Giáo Hội, ngày mà cộng đồng các tín hữu đầu tiên được thành lập và ra mắt thế giới. Trong bài này, tôi sẽ nói về vai trò của Chúa Thánh Thần trong cộng đồng các tín hữu Chúa Ki-tô.
Trong đời sống cộng đồng các tín hữu, Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng và cần thiết, tương tự như vai trò của linh hồn đối với các phần mình trong thân xác con người. Thân xác chúng ta có nhiều bộ phận, nhiều thành phần khác nhau: có đầu, mình, chân tay, mắt mũi, miệng. Các thành phần đó hòa hợp, thông cảm với nhau là nhờ có linh hồn bên trong. Khi linh hồn ra khỏi xác thì các phần thân xác tuy vẫn còn, nhưng không thông cảm với nhau nữa. Khi còn linh hồn bên trong nếu chân ta giẵm phải cái gai thì cả thân thể đều thông cảm và hiệp lực để giúp đỡ: mắt nhìn xem gai ở đâu, mình cúi xuống, tay rút gai ra, rửa vết thương và rịt lại cho cầm màu. Khi linh hồn lìa xác nếu ta có chặt cái chân đi thì cái tay cũng bất động và thân thể cũng không cảm thấy đau. Thế rồi, trong ít lâu, các tế bào tan rữa, thit xương trở nên tro bụi, tại sao thế? – Tại vì thiếu hồn sống bên trong, có hồn sống bên trong thì các phần thân thể mới hợp nhất và thông cảm với nhau. Không có hồn sống thì các phần thân thể sẽ bị phân hủy và tách lìa nhau. Vai trò của Chúa Thánh Thần trong cộng đồng các tín hữu cũng tương tự như vậy. Nghĩa là Chúa Thánh Thần là linh hồn sống bên trong làm cho các tín hữu thông cảm và hợp nhất với nhau thành Thân thể Mầu nhiệm của Chúa Ki-tô.
Theo sách Tông Đồ Công Vụ thuật lại thì ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần hiện xuống, có rất đông người thuộc nhiều dân tộc khác nhau, nhưng đều hiểu tiếng nói của Các Tông đồ như tiếng mẹ đẻ của mình. Thánh Phê-rô thay mặt các Tông đồ giảng về Đức Giê-su chính là Đấng Cứu thế đã chết và sống lại. Khi ấy họ hết sức cảm động, hỏi ông Phê-rô rằng: “Chúng tôi phải làm gì?” – Ông Phê-rô đáp: “Anh chị em hãy thồng hối và chịu phép Rửa tội nhân danh Chúa Ki-tô cho được khỏi tội sau đó anh chị em sẽ được lĩnh ơn Chúa Thánh Thần…”. Những người tin lời ông Phê-rô đã xin chịu phép Rửa tội, ngày đó có độ 3000 người xin theo Đạo. Các người này chăm chỉ nghe các Tông đồ giảng dạy, siêng năng cùng nhau dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện. Các tín hữu sống hiệp nhất và để mọi của cải làm của chung. Họ bán ruộng đất, gia sản lấy tiền phân chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu (Tđcv 2,37-44).
Đấy, vai trò của Chúa Thánh Thần trong cộng đồng các tín hữu cần thiết và quan trọng như vậy. Nếu không có Chúa Thánh Thần thì chúng ta không thể hiểu nhau, không thể tin nhau và không thể đoàn kết với nhau thực sự và lâu bền được, tại sao thế? – Tại vì mỗi người đều mang trong mình tính ích kỷ và lòng tự ái. Tính ích kỷ là chứng bệnh di truyền, nằm trong mình con người từ lúc sinh ra và nó còn lớn lên với tuổi đời. Một em bé con chưa làm ích gì cho ai đã biết ích kỷ rồi: khi cha mẹ chia quà cho các con, đứa nào cũng tranh phần hơn, khi cha mẹ chia công việc, đứa nào cũng muốn chọn việc nhẹ, đấy là ích kỷ. Lòng tự ái cũng là con sâu mọt đục khoét sự hợp nhất. Kinh nghiệm cho thấy có những người rất nhiệt tình trước công việc chung, nhưng chỉ nhiệt tình khi nào ý kiến của họ được nghe theo, bản thân họ cũng được đề cao, còn khi người khác phê bình hay bác bỏ ý kiến của họ thì họ bất mãn, phá ngang và bỏ dở công việc, tại đâu? – Thưa: Tại lòng tự ái. Ích kỷ là chứng bệnh di truyền, tự ái là con mọt phá hoại sự cảm thông và tình đoàn kết. Cũng một câu nói, một từ ngữ mà người hiểu thế này, người hiểu thế khác, như vậy thì đoàn kết thế nào được? Sống chung với nhau mà hiểu lầm nhau, chia rẽ nhau, thật là bất lợi và nguy hiểm. Không nói gì những đoàn thể lớn như quốc gia quốc tế, ngay một đoàn thể nhỏ như gia đình, vợ chồng mỗi người một ý kiến, mỗi người một tính tình, đời sống chung rất khó chiu, nói ra thì cãi nhau, không nói thì nặng nề, ai cũng thấy khổ nhưng không làm cách nào giải quyết. Nhưng nếu có Chúa Thánh Thần thì người ta sẽ tránh được bao nhiêu chuyện phức tạp gây chia rẽ và người ta sẽ cảm thông đoàn kết với nhau một cách dễ dàng.
Sau đây, ta rút ra mấy bài học thực hành:
1) Ta hãy năng cầu xin Chúa Thánh Thần đem lửa tình thương từ trời xuống, làm bùng cháy lên trong nhân loại, để phá tan những căm thù chia rẽ đang làm xáo trộn khắp nơi trên thế giới.
2) Khi có sự bất bình chia rẽ xẩy ra trong gia đình ta hoặc trong mối quan hệ giữa ta với người khác, ta đừng kêu ca phàn nàn, cũng đừng đổ lỗi cho ai, như vậy chẳng giải quyết được gì, mà càng đào sâu hố ngăn cách. Tốt hơn hết là ta hãy ngửa mặt cầu xin Chúa Thánh Thần, là Thần Hợp Nhất, ngự xuống trong tâm hồn mỗi người để phá tan sự hiểu lầm, hàn gắn mọi chia rẽ đang đe dọa đời sống cộng đồng của chúng ta.
Như vậy sẽ kết quả hơn bất cứ một giải pháp nào. Bởi vì nếu Chúa không xây nhà thì thợ xây cũng vô ích, nếu Chúa không canh thành thì lính canh cũng luống công. Kinh Thánh dạy như vậy.
Để kết luận, tôi kể lại đây câu chuyện biến ngôn của một nhà văn Thụy Điển đại ý như sau: Một hôm, vào một buổi sáng mùa hè, trời quang mây tạnh, các sinh vật, thực vật trong một khu rừng tranh luận với nhau về ý nghĩa đời sống. Một con họa mi mở đầu, lên tiếng nói: Đối với tôi, cuộc sống chỉ là ca hát, có thế thôi. Nói rồi nó ngẩng cao cổ, tung lên bầu trời một giọng hát trong trẻo tuyệt diệu.
Nghe thế, con chuột chũi liền lẩm bẩm: Cuộc sống không phải là ca hát, không, hoàn toàn không, nhưng cuộc sống là liên tục đấu tranh trong hầm tối.
Một chị bướm ngắt lời: Như vậy thì thật vô lý. Nhưng cuộc sống phải là thỏa thích vui chơi bay lượn.
Đến lượt con ong lên tiếng: Chị bướm ơi, chị lầm rồi. Đời sống không phải là vui chơi bay lượn, nhưng là chăm chỉ làm việc.
Một chú kiến vênh râu, tỏ ý tán thành quan điểm của con ong.
Bỗng một con phượng hoàng từ trời nói vọng xuống: Tất cả các chú không ai nói đúng cả. Theo ý tôi thì cuộc sống có ý nghĩa nhất là tự do bay bổng trên mây xanh.
Tới đây, các cây trong rừng cũng nhao nhao lên lên tiếng tham gia vào cuộc tranh luận: Một cây thông cao vút, cành lá reo vui trong gió, dưới ánh bình minh , lên tiếng khen ý kiến của con phượng hoàng là đúng: Đời sống là vươn mình lên không trung, coi thường những cái nhỏ nhen sà sà mặt đất. Cây bìm leo liền phản đối và đồng tình với chị kiến, chú ong: Đời sống là cần lao phấn đấu.
Cây hồng thắm và cây huệ trắng thì về phe với cô bướm, đồng thanh nói: Đời sống chỉ là vui chơi bay lượn.
Lúc ấy, một đám mây bay qua, buông rơi mấy hạt mưa xuống đám sinh vật, thực vật, đồng thời phát biểu: Đời sống chỉ là giọt lệ cay đắng và nước mắt.
Một dòng suối chảy ngang qua đó cũng xen vào một câu: Đời sống chỉ là mau qua biến chuyển không ngừng.
Trong lúc mà cuộc tranh luận về ý nghĩa đời sống giữa các sinh vật, thực vật và cả mây trời suối nước lên tới cao điểm, nhưng không đi tới kết thúc, thì chuông nhà thờ lên tiếng ngân vang báo hiệu mừng lễ Hiện Xuống làm cho cuộc tranh luận đang sôi nổi bỗng im bặt. Tất cả đều nhất trí rằng câu trả lời đúng nhất về ý nghĩa đời sống là sự bình an, vui mừng, sức mạnh và hòa hợp trong Chúa Thánh Thần.
Thưa anh chị em thân mến,
Trên đây chỉ là một câu chuyện biến ngôn, không có thực, nhưng nói lên sự thực này là Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng, vai trò chính yếu trong việc điều hòa vũ trụ vạn vật nói chung và loài người nói riêng. Không có Chúa Thánh Thần thì mọi sự sẽ hỗn độn, mọi loài sẽ bất đồng, loài người sẽ chia rẽ nhau. Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến tác tạo mọi sự và làm cho mặt đất này được đổi mới. Amen.

5. Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
SUY NIỆM THÁNH LỄ VỌNG (Ga 7,37-39)
Thánh lễ vọng chiều nay đưa chúng ta về với Chúa Giêsu và chiêm ngắm Người vào ngày cuối cùng và trọng đại của dịp lễ, nghe Chúa giảng: “Ai khát hãy đến cùng Ta và uống; ai tin nơi Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như dòng sông” (Ga 7, 37-38). Người muốn nói điều ấy về Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần là nguyên lý sự hiệp nhất
Nếu như tại Babel, sự ngạo mạn kiêu căng của con người nổi lên chống lại Thiên Chúa tự sức riêng của mình muốn “xây một thành với một cây tháp mà ngọn nó chạm tới trời” (x. St 11,4). Hậu quả của hành động đó là Thiên Chúa làm cho họ phân tán, bất đồng ngôn ngữ với nhau, khiến họ không thể hiểu nhau làm gì nữa. Thì Lễ Hiện Xuống, điều ngược lại đã xảy ra: nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ nói được ngôn ngữ mà tất cả mọi người thuộc các nền văn hóa nghe đều hiểu như tiếng thổ âm của mình (x. Cv 2,6). Mọi chia rẽ bất đồng được vượt thắng, không còn kiêu căng chống lại Thiên Chúa nữa, cũng không còn có sự khép kín đối với nhau, họ mở rộng lòng mình ra cho Thiên Chúa và tha nhân, giao thiệp với nhau bằng một ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của tình yêu thương mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng họ nhờ Chúa Thánh Thần (x. Rm 5,5). Chúa Thánh Thần thúc đẩy họ làm điều thiện, an ủi họ trong cảnh sầu khổ, hoán cải nội tâm và trao ban sức mạnh và khả năng mới, dẫn đưa họ tới chân lý vẹn toàn, yêu thương và hiệp nhất.
Chúa Thánh Thần là Đấng sáng tạo
Câu đầu tiên trong Thánh Thi Kinh Chiều của ngày lễ Ngũ Tuần có viết: “Xin hãy đến, Lạy Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo…” làm cho chúng ta nhớ lại công cuộc tạo dựng vũ trụ thủa ban đầu, Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước trong cảnh hỗn mang (x. St 1,2).
Phải khẳng định rằng, thế giới chúng ta đang sống là cộng cuộc của Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo. Nên Lễ Ngũ Tuần không chỉ là nguồn gốc của Giáo hội, là lễ của Giáo hội. Nhưng Lễ Ngũ Tuần còn là lễ của tạo vật. Thế giới không tự mình hiện hữu; nhưng đến từ Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa, đến từ Lời có sức sáng tạo của Thiên Chúa. Và vì vậy, thế giới phản chiếu sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự việc tay Ngài làm” (Tv 19,2). Đức nguyên Giáo hoàng Benedicto nói: “Sự khôn ngoan này hé mở cho chúng ta thấy được điều gì đó về Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta phải nhìn tạo vật như là hồng ân được trao ban cho chúng ta, không phải để bị hủy diệt, nhưng để trở thành ngôi vườn của Thiên Chúa” (Trích bài giáo lý về Chúa Thánh Thần).
Ðứng trước những hình thức khác nhau của việc lạm dụng trái đất, “mọi tạo vật đang rên siết trong cơn đau đớn như lúc sinh nở. Nhưng không phải chỉ tạo vật mà thôi đâu, mà cả chúng ta nữa, tức là những kẻ đã được hưởng của đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi mong Thánh Thần nhận làm nghĩa tử, và cứu chuộc thân xác chúng ta”. (Rm 8,22-24)
Chúng ta tự hỏi: Chúa Thánh Thần là ai hay là gì? Làm sao chúng ta có thể nhận ra Ngài? Bằng cách nào, chúng ta đến với Ngài và Ngài đến với chúng ta? Ngài tác động điều chi? Câu trả lời cho câu hỏi Chúa Thánh Thần là gì, Ngài làm điều chi và làm sao chúng ta có thể nhận biết Ngài. Chúa Thánh Thần là Ðấng Sáng Tạo, đến trợ giúp chúng ta. Ngài đã buớc vào trong lịch sử, và như thế, Ngài nói với chúng ta trong cách thức mới. Ngài đến gặp chúng ta qua tạo vật. Ngài là Tình Yêu, là sự hiệp nhất. Ngài mang đến cho chúng ta sự sống và sự tự do. Tất cả mọi tạo vật đều khao khát Chúa Thánh Thần.
Từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra
Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cuộc thần hiện trong đó gió và lửa nhắc nhở chúng ta về tính siêu việt của Thiên Chúa. Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, các môn đệ nói mà không sợ hãi. Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban xuống cho Giáo hội như là “nước hằng sống chảy ra như giòng sông” (Ga 7,38) vì nước ấy ở trong cung lòng của Thiên Chúa, cùng một lúc, chúng ta khám phá ra rằng, cũng trong Giáo hội, Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống thật. Thường chúng ta đề cập đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong phương diện cá nhân, tuy nhiên, Lời Chúa hôm nay hiển nhiên cho thấy tác động Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn Kitô hữu: “Thánh Thần mà những kẻ tin Người sẽ lãnh lấy” (Ga 7,39). Thánh Thần duy nhất biến cộng đoàn thành một thân thể duy nhất, thân thể Chúa Kitô. Hơn nữa, Ngài là suối bẩy nguồn đa dạng về các ơn: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết và ơn thông minh, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn đạo đức và ơn kính sợ Chúa và tài năng như: tông đồ, làm tiên tri, nói tiếng mới lạ… làm cho mỗi người chúng ta trở nên phong phú và đa dạng.
Sự duy nhất là dấu chỉ rõ ràng về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn tín hữu. Điều quan trọng nhất của Giáo hội chính là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần Đấng ban sự sống. Với con mắt loài người nhìn vào Giáo hội, chúng ta không thể nhận ra sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Trong lời nguyện mở đầu của Thánh lễ vọng chiều nay, chúng ta cầu xin Chúa tuôn đổ Thánh Thần để “các dân tộc chia tuy ngôn ngữ bất đồng, được hiệp nhất cùng nhau mà tuyên xưng danh Chúa.” (Lời nguyện nhập lễ)
“Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa!” Amen.

6. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên)
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến!
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: “Thưa thầy, con muốn gặp Chúa”. Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông.
Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần, vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: “Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?”. Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: “Thưa thầy, con cần có không khí để thở””.
Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: “Con cảm thấy cần gặp Chúa như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài”.
***
Chúa Thánh Thần là Đấng nào ?
Cùng với toàn thể Hội Thánh, hôm nay, chúng ta long trọng mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Khi nói đến Chúa Thánh Thần, có lẽ, chúng ta chỉ biết Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa mà thôi. Đối với không ít người Công Giáo, Chúa Thánh Thần như một Đấng xa lạ, thậm chí, Ngài chẳng có ảnh hưởng gì mấy tới đời sống của chúng ta. Nhưng thực ra, Chúa Thánh Thần có vai trò vô cùng quan trọng không chỉ trong đời sống của Giáo Hội, mà còn trong cả đời sống của mỗi người chúng ta nữa.
Vai trò của Chúa Thánh Thần trong hoạt động của Hội Thánh
Ngay từ những trang đầu của Thánh Kinh, chúng ta đã nhận thấy sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong công cuộc tạo dựng qua hình ảnh: “Thần Khí Chúa bay là là trên mặt nước”, làm tác sinh muôn loài muôn vật. Thần Khí Chúa được ban cho các ngôn sứ, các vua cũng như các vị thủ lãnh, để các ngài thi hành và chu toàn bổn phận của mình trước mặt Thiên Chúa.
Bước sang thời Tân Ước, Chúa Thánh Thần không ngừng hướng dẫn các hoạt động trong cuộc đời Chúa Giêsu, kể từ lúc Ngài thành hình trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria (Vì Chúa Giêsu thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần) cho tới tận đỉnh đồi Golgotha. Sau cùng, Thiên Chúa Cha đã dùng quyền năng Chúa Thánh Thần làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.
Kể từ sau khi Đức Giêsu về trời cho đến hôm nay, Chúa Thánh Thần hằng hoạt động để hướng dẫn Hội Thánh. Ngài làm cho Giáo Hội được hiệp nhất bằng cách ban những đặc sủng khác nhau cho nhiều người để họ phục vụ lợi ích chung. Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo Hội, Ngài cũng có mặt nơi các nhóm giáo dân. Ngài hiện diện trong các Bí Tích, trong mỗi thánh lễ. Ngài thánh hóa bánh rượu để trở nên Mình và Máu Đức Kitô. Thế nên, có thể nói rằng: Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội; không có Ngài, Giáo Hội chỉ là một cơ cấu giống như bất cứ một cơ cấu tổ chức xã hội nào khác.
Vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta
Kể từ khi lãnh Bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần hằng hướng dẫn cuộc đời mỗi người chúng ta. Đặc biệt, qua Bí Tích Thêm Sức, chúng ta nhận được một cách dồi dào bảy ơn Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta trở nên “chiến sĩ Chúa Kitô”, can đảm làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời. Chúa Thánh Thần còn có mặt khi ta rung động trước một đoạn Lời Chúa. Ngài có mặt khi ta muốn tiến một bước mới trong đời sống cầu nguyện, trong đời sống thiêng liêng…
Không những thế, Chúa Thánh Thần là nguyên lý của sự hiệp nhất các Kitô hữu. Câu chuyện tháp Baben xưa, loài người vì kiêu ngạo, muốn bằng Thiên Chúa nên đã bị chia rẽ và phân tán, thì nay, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ có thể nói mà nhiều người thuộc các ngôn ngữ khác nhau đều hiểu được; mọi người ở các quốc gia khác nhau cùng tuyên xưng một niềm tin vào Chúa.
***
Trong khi hiện ra với các môn đệ, cùng với việc thở hơi để trao ban Thần Khí, Chúa Giêsu còn ban bình an cho các môn đệ, đang khi các ông lo lắng, phiền muộn. Như vậy, Chúa Thánh Thần còn là nguồn bình an mà Chúa Giêsu trao tặng cho mỗi người chúng ta. Khi lãnh nhận món quà đó, chúng ta cũng được mời gọi trở nên bình an cho những người chúng ta gặp gỡ, nhất là những người đang sống trong cảnh khốn cùng; để chớ gì, bất cứ nơi đâu có dấu chân của chúng ta bước tới, nơi đó có sự bình an.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cơ hội nhắc nhở mọi người chúng ta suy nghĩ lại về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Chúa Thánh Thần, dù được cầu khấn mỗi khi chúng ta bắt đầu một công việc, nhưng dường như sự kêu cầu này đã trở nên máy móc, và chúng ta không còn ý thức đến sự hiện diện của Ngài trong đời sống của người Kitô hữu chúng ta. Chúng ta chưa lắng nghe và vâng theo sự chỉ dạy và hướng dẫn của Ngài. Làm sao để Chúa Thánh Thần có một chỗ đứng quan trọng trong cuộc đời chúng ta?
Thánh Phaolô tông đồ nói: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí” (1Cr 12,4). Như vậy, mỗi thành phần trong Giáo hội đều có những vai trò khác nhau, nhưng cùng một mục tiêu chung là xây dựng thân thể Hội Thánh. Mỗi người chúng ta hãy duyệt xét lại bản thân mình xem, tôi đã sử dụng những ơn huệ Chúa ban như thế nào? Tôi đã dùng để phục vụ và xây dựng Hội Thánh Chúa, hay sử dụng vào mục đích khác?
Chúa Thánh Thần đã, đang và vẫn còn hoạt động trong Hội Thánh, thế nhưng, đôi lúc, chúng ta chưa nhận ra Ngài là vì như câu chuyện kể trên, chúng ta chưa khao khát Ngài cho đủ, chưa mong muốn Ngài thực sự. Dâng thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ hướng dẫn chúng ta, như xưa, Mẹ đã hướng dẫn các môn đệ trong nhà Tiệc Ly, để chúng ta có thể mở lòng ra, đón nhận một cách dồi dào những nguồn ơn phúc vô biên của Chúa Thánh Thần. Amen.

7. Vị Thiên Chúa bị quên lãng
Sách Tông đồ Công vụ kể lại rằng, khi đến Êphêsô, thánh Phaolô đã gặp gỡ một số tín hữu tiên khởi, ngài hỏi họ về Chúa Thánh Thần, thì họ trả lời: Chúng tôi không hề nghe biết có Chúa Thánh Thần. Còn khi đến Athènes, ngài thấy ở một góc phố, có một bàn thờ với hàng chữ: kính thần vô danh.
Với chúng ta cũng vậy, Chúa Thánh Thần là vị Thiên Chúa vô danh, là vị Thiên Chúa thường bị chúng ta quên lãng hơn cả. Chúng ta nói và hiểu biết nhiều điều về Chúa Cha cũng như Chúa Con, nhưng về Chúa Thánh Thần thì chúng ta lại chẳng hiểu biết chi cả. Thế nhưng Chúa Thánh Thần lại nắm giữ một vai trò quan trọng, đặc biệt trong ngày hôm nay, ngày Ngài hiện xuống, khai mở một giai đoạn mới, giai đoạn của Giáo Hội.
Từ thuở ban đầu, khi tạo dựng vũ trụ thì Thánh Thần Chúa đã bay lượn trên nước. Tiếp đến, Ngài luôn hiện diện và hướng dẫn lịch sử nhân loại. Ngài đã thâm nhập vào các tổ phụ, các tiên tri, các vua chúa, các nhà lãnh đạo để xây dựng dân Chúa, mà cao điểm tuyệt vời nhất chính là Đức Kitô.
Thực vậy, Đức Kitô đã được cưu mang bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, trong cung lòng Trinh Nữ Maria, được Chúa Thánh Thần ngự xuống nơi bờ sông Giócđan. Và hơn thế nữa, luôn được Chúa Thánh Thần cùng bước đi trong mọi giai đoạn của cuộc đời cho đến ngày tử nạn khổ đau và phục sinh vinh quang. Lịch sử cứu rỗi đó còn được tiếp tục qua lịch sử nhân loại, và hôm nay là ngày khai mở một giai đoạn mới, giai đoạn của Giáo Hội, khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ để khai sinh ra Giáo Hội. Chúa Thánh Thần đã thánh hoá các ông bằng lửa, bằng gió và bằng lời.
Thực vậy lửa để soi sáng, gió để thúc đẩy và lời để cảm hoá và chinh phục. Trải qua dòng thời gian, nhìn vào lịch sử Giáo Hội, chúng ta sẽ nhìn thấy tác động của Chúa Thánh Thần. Chẳng hạn như khi Ngài soi sáng cho Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII quyết định khai mở Công đồng Vatican II, vào một thời điểm mà chính Đức Thánh Cha cũng không nghĩ tới. Và theo Đức Thánh Cha diễn tả, thì đó chính là một lễ Hiện Xuống mới.
Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần không phải chỉ tác động trên các nhà lãnh đạo Giáo Hội, mà hơn thế nữa, Ngài còn tác động tên mỗi người chúng ta, trên các phần tử của Giáo Hội.
Chuyến tàu khởi hành từ Calcutta bắt đầu lăn bánh trong đêm tối. Giữa đám hành khách đang lắc lư ngủ gật, có một người đàn bà âm thầm lần hạt, đó là Mẹ. Têrêsa. Mẹ kể lại rằng: như có một sức mạnh xâm nhập vào mẹ và thế là mẹ quyết định lập một dòng tu, hiến thân để phục vụ người nghèo. Mẹ khởi công với ba đồng bạc Ấn Độ, thế nhưng hôm nay, dòng Thừa sai bác ái của mẹ đã tràn lan khắp thế giới. Và như vậy Chúa Thánh Thần luôn hoạt động trong mọi thành phần của Giáo Hội.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới mọi sự trong ngoài chúng con.

8. Xin đổi mới – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Một người tội lỗi (Henri Ghéron) trong thế chiến thứ hai, đã kể lại lúc xưng tội của ông như sau: “Hai tay tôi ôm đầu, miệng bập bẹ run run, tôi đổ dòng tội tuôn ra như thác… Tôi cảm thấy một thứ cặn đắng, từng ngụm, từng ngụm trào ra khỏi các thớ thịt con tim tôi với tất cả khối nặng đó, với tất cả chất độc đó đã đè nén tôi suốt hai mươi năm nay. Tôi cố cựa quậy đổ dốc nó ra cho Linh mục giải tội. Và Thiên Chúa đã nghe lời tôi: “Hãy về bình an, Thánh Thần đã ngự trong con!”. Tôi trẻ lại hai mươi tuổi; hai mươi năm tội lỗi. Một niềm vui sướng mới lạ tràn ngập tâm hồn tôi: Tôi chạy, tôi nhảy, tôi bay, tôi không còn cảm thấy xác thịt nặng nề của tôi nữa”. Bởi đâu người xưng tội này được chan chứa niềm vui như vậy?
Thưa, bởi Đức Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ để tha tội cho ai xưng tội, như Người nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần anh em tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha”. Lần khác, trong một đêm gió mát trăng thanh, ông Nicôđêmô, một thủ lãnh Do Thái, đến gặp Đức Giêsu. Người cũng tỏ cho ông biết thế này: “Thật, tôi bảo thật ông: Không có ai có thể vào nước Thiên Chúa nếu không sinh bởi nước và Thánh Thần. Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra, thì là xác thịt; cái gì mà bởi Thánh Thần mà sinh ra, thì là linh thánh” (Ga. 3, 5-6).
Xác thịt sinh ra những cái gì? Thánh Phaolô cho giáo đoàn Galata biết: “Những việc do xác thịt gây ra thì ai cũng rõ: Đó là dâm bôn, ô uế, phóng đãng, phù phép, thờ quấy, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa, chè chén và những điều khác giống như vậy” (Galata 5, 19-21) Đó là những thứ làm cho con người ra ô uế, hư hỏng, hư thối.
Thánh Thần sinh ra những gì? Là “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Galata 5, 22-23) Đó là những hoa quả của Thần khí làm cho con người sống tươi mới, xinh đẹp, thanh khiết thánh thiện.
So sánh hai lối sống, ta thấy khác nhau như cũ với mới, như chết với sống: “Những ai sống theo xác thịt thì hướng về xác thịt. Những ai sống theo thần khí thì thuộc về thần khí. Hướng về xác thịt là sự chết, hướng về thần khí là sự sống và bình an” (Rm. 8, 5-6)
Các môn đệ từ trước đến giờ vẫn sống theo hướng xác thịt. Thánh Luca đã chứng tỏ cho ta thấy rõ điều đó: Sau khi Chúa sống lại: “Trong bốn mươi ngày, Người hiện ra nói chuyện với các ông về nước Thiên Chúa” và lúc Người sắp sửa lên trời, “bấy giờ những người đang tụ họp ở đó mới hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Phải chăng đã đến lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel?”. Người phải cực lòng trả lời: “Anh em không cần phải biết thời giờ và kỳ hẹn Chúa đã toàn quyền sắp đặt” (Cv. 1, 6-7). Lối sống hướng về xác thịt của các ông chỉ mong muốn được Thầy cai trị nước Israel, cai trị nước thế gian để các ông được làm Thủ tướng, bộ trưởng, đầy giầu sang, danh vọng, quyền quý.
Phải chờ đến Chúa Thánh Thần hiện xuống thổi một luồng gió mới vào tận tâm hồn các ông, biến đổi các ông nên mới, đốt một ngọn lửa mới soi sáng tâm trí các ông hướng về thần khí mà từ bỏ hướng xác thịt. Lúc đó: “Hết thảy các ông được tràn đầy ơn Thánh Thần và bắt đầu nói nhiều tiếng nước ngoài, tùy theo Thánh Thần ban cho”.
Ơn Thánh Thần ban xuống trên các tông đồ qua các tác động mạnh mẽ như: Tiếng gió ào ào, lưỡi lửa, và nhiều thứ tiếng nói.
1- Tác động của gió ào ào: Đây là sức sống thần khí, khi Thiên Chúa dựng nên con người, Thiên Chúa đã thổi hơi vào thằng người được nặn bằng bùn đất. Hơi thở thần khí đã biến bùn đất thành Adam sống động. Từ đó Adam trở thành người đầy sức sống tốt lành và tràn đầy sinh lực hạnh phúc. Luồng gió mới của thần khí nay cũng thổi vào khắp các cơ thể xác thịt của tông đồ biến đổi các ông thành chi thể mới của Đức Kitô chứa đầy những đặc sủng để các ông phục vụ nhiều việc khác nhau vì ích chung nhờ Thánh Thần đang hoạt động trong các ông.
2- Tác động của lưỡi lửa: Đấy là ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa làm thành hào quang trên đầu Môsê, để Môsê lãnh nhận mười điều răn trên núi Sinai, để ông soi sáng dậy dỗ dân Chúa sống trong đường lối công chính và thánh thiện của Ngài. Nay các môn đệ được hào quang đó, để đi rao giảng lời Chúa chiếu sáng khắp muôn dân từ Giêrusalem đến tận cùng thế giới. Các ông đã thực hiện lời Thầy dậy: “Các con là ánh sáng thế gian” mà “Thầy đã đem ánh sáng đó đến thế gian. Thầy mong muốn cho nó cháy sáng lên soi mọi người”.
3- Tác động của các thứ tiếng nói: Đây là đặc sủng riêng của các tông đồ, Thánh Thần ban cho các ông, từ trước tới nay chưa hề có, để các ông qui tụ muôn dân. Muôn dân đã bị chia rẽ, phân tán khi tổ tiên họ kiêu ngạo đòi xây cây tháp Babel chọc trời và đã bị Thiên Chúa phạt: mỗi người nói một thứ tiếng. Họ không còn hiểu nhau, mỗi người một phách, họ đoạn tuyệt với nhau và trở nên hận thù đàn áp xâm chiếm lẫn nhau. Nay Thánh Thần hiện xuống tái lập sự hợp nhất: Ban cho các tông đồ nói một thứ tiếng lạ cho muôn dân hiểu biết Thiên Chúa, hiểu biết nhau, đoàn kết nên một dân mới, tuyên xưng một đức tin, một phép rửa, một Thiên Chúa là Cha nhân ái và mọi người đều là anh em trong một thân thể của Đức Giêsu Kitô.
“Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến đổi mới chúng con, cho tâm hồn chúng con, dùlà Do Thái hay chư dân, tự do hay nô lệ, đều được nhuần thấm sức sống mạnh mẽ của Thánh Thần và cháy lửa yêu mến Ngài”.

9. Ý nghĩa cuộc sống
Chúa Thánh Thần đem lại gì cho chúng ta. Đó là câu hỏi chúng ta cùng nhau tìm hiểu. Và ơn huệ đầu tiên Ngài đem lại đó là đức tin. Chính đức tin sẽ tạo nên nơi chúng ta một cái nhìn mới.
Kể từ nay, chúng ta không còn cúi mặt nhìn xuống đất, mà còn có thể ngước mắt nhìn lên trời. Và qua những thực tại trần gian, chúng ta sẽ tìm thấy những giá trị siêu nhiên. Chúa Thánh Thần sẽ mở ra một chân trời mới, sẽ hướng dẫn chúng ta bước vào cõi sống đời đời. Hẳn rằng đã hơn một lần chúng ta băn khoăn và tự hỏi: Hỡi người, người là ai? Tại sao người lại sống trên mặt đất này. Rồi người sẽ đi về đâu? Mục đích cuộc sống của người là gì? Ý nghĩa cuộc sống của người là gì?
Có một nhà hiền triết nọ cũng đã suy tư như thế. Hôm đó, ông đi lang thang trong rừng, miệng không ngừng lặp lại câu hỏi: Đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Bỗng một con họa mi bay đến và nói: Ý nghĩa cuộc sống ư? Chỉ là tiếng hót véo von. Rồi nó bay đi nhưng vẫn còn vương lại những âm thanh dễ mến. Nghe vậy, chú chuột chù phản đối: Đời là một cuộc chiến đấu không ngừng với bóng tối.
Thế nhưng chị bướm lại lắc đầu không chịu: Cuộc sống chỉ là hưởng thụ và vui thú. Bấy giờ bác ong mật phát biểu: Cuộc sống không chỉ là vui thú, mà còn là lao động, lao động nhiều hơn vui chơi. Cô phượng hoàng thì vỗ cánh và nói: Chẳng ai có lý hết, đời sống chính là tự do, được tung bay trên khắp khoảng trời xanh. Cụ tùng bách thì lắc đầu và bảo: Đời sống là một cố gắng để vươn cao. Nhưng cô hồng nhung lại quả quyết: Cuộc đời chỉ là những tháng ngày trau chuốt cho vẻ đẹp được thêm duyên dáng. Còn chàng mây lang thang lại thở dài: Đời sống chỉ là những lần chia ly, khổ đau, cay đắng và nước mắt. Còn bà sóng thần thì bảo: Đời là một sự đổi thay không ngừng.
Nhà hiền triết hốt hoảng và chạy trốn khỏi khu rừng để không còn nghe tiếng nói của muôn loài trước một vấn nạn chưa được giải quyết.
Còn chúng ta thì sao? Rất có thể chúng ta cũng đã băn khoăn như nhà hiền triết, để rồi cảm thấy như bế tắc, không tìm ra đáp số cho bài toán.
Thế nhưng với biến cố Hiện xuống, các môn đệ đã nhìn rõ vấn đề, đã thấu suốt được những chân lý mà Chúa Giêsu đã truyền dạy. Với ơn Chúa Thánh Thần chúng ta cũng sẽ nếm thử được niềm an bình và nỗi mừng vui, bởi vì chúng ta xác tín rằng: quê hương chúng ta không phải ở mặt đất này, nhưng là ở chốn trời cao. Cuộc sống tạm bợ phù du này sẽ kết thúc để rồi mở ra một chân trời hạnh phúc, kéo dài tới vĩnh cửu. Nhờ đức tin lãnh nhận, chúng ta có được cái nhìn mới và biết đánh giá đúng mức những thực tại trần gian, biết xử dụng chúng để xây dựng cuộc sống siêu nhiên.
Thánh Cyrillo đã so sánh: Chúa Thánh Thần tác động trong chúng ta như ánh sáng mặt trời tác động trên con mắt. Nếu đi từ bóng tối ra ánh sáng, chúng ta sẽ nhìn thấy nhiều vật trước kia chúng ta không nhìn thấy. Cũng vậy, với Chúa Thánh Thần chúng ta sẽ nhìn xem tất cả bằng cặp mắt siêu nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra những giá trị thiêng liêng cho cuộc sống tạm gửi này, để rồi chúng ta sẽ không dừng lại, sẽ không đầu tư cho những vui thú chóng qua, nhưng sẽ tìm kiếm và đầu tư cho hạnh phúc vĩnh cửu.
Ngày xưa Chúa Thánh Thần bay lượn trên nước và đã biến cái đám hỗn mang thành một vũ trụ có trật tự thế nào, thì bây giờ Ngài cũng bay lượn, cũng hiện diện trong tâm hồn để biến con người tội lỗi, vô trật tự của chúng ta thành một Kytô hữu đích thực, Ngài sẽ cởi bỏ con người cũ của chúng ta, biến chúng ta trở nên một tạo vật mới, một con người mới. Vậy con người mới ấy là như thế nào? Chắc hẳn bề ngoài chúng ta vẫn như trước vẫn giống với mọi người, có đầu, có mắt, có trái tim, nhưng cách thức chúng ta nhìn ngắm, cách thức chúng ta suy nghĩ, cách thức chúng ta yêu mến thì lại hoàn toàn thay đổi, như lời tiên tri Êgiêkiel đã diễn tả: Ta sẽ rảy nước tinh tuyền trên các ngươi và các ngươi sẽ được trong sạch. Ta sẽ cất khỏi các ngươi trái tim bằng đá, nhưng sẽ ban cho các ngươi một trái tim bằng thịt. Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới và một thần khí mới.
Với Chúa Thánh Thần ngự trong tâm hồn, chúng ta sẽ nhìn cuộc sống, nhìn những người anh em, nhìn thế giới, nhìn dòng lịch sử một cách khác. Chúng ta sẽ nhìn những khổ đau, những thử thách và những đắng cay một cách khác. Chúng ta sẽ tìm thấy được những giá trị siêu nhiên của chúng.
Bởi đó, hãy mở cửa đón nhận Chúa Thánh Thần, hãy lắng nghe tiếng nói của Ngài, hãy bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài, hãy sống theo những gì Ngài chỉ bảo. Đừng dập tắt ngọn lửa của Ngài, để nhờ đó, Ngài sẽ hun đúc đức tin, để nhờ đó chúng ta biết đánh giá đúng mức những thực tại trần gian.

10. Suy Niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Thiên Chúa có Ba Ngôi: Ngôi Nhất là Cha, Ngôi Hai là Con, Ngôi Ba là Thánh Thần. Trong thực tế, chúng ta thường hay nói về Chúa Con, ít nói tới Chúa Cha, và rất hiếm khi nói về Chúa Thánh Thần.
Hôm nay, ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là dịp thuận tiện để chúng ta nói về Chúa Thánh Thần: Ngài là ai? Hoạt động của Ngài như thế nào? Bổn phận của mỗi người Kitô hữu chúng ta đối với Ngài?
1. Chúa Thánh Thần là ai?
Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Ngài là Thiên Chúa thật, cùng một bản tính và một quyền năng như Chúa Cha và Chúa Con. Ngài còn được gọi là “Đấng ban Sự Sống” (Ga 6, 63), “Đấng Bảo Trợ” (Ga 15,26 ) và “Thần Chân Lý” (Ga 16,13).
Kinh Thánh thường dùng những hình ảnh sau đây để chỉ về Chúa Thánh Thần: Nước, Lửa, Xức dầu, Áng mây và Ánh sáng, Dấu ấn, Bàn tay, Ngón tay và Chim bồ câu.
Mỗi hình ảnh đều mang một ý nghĩa biểu tượng: Nước: Tượng trưng cho sự tái sinh; Lửa: Tượng trưng cho năng lực biến đổi của các hành vi Chúa Thánh Thần; Xức dầu: Đồng nghĩa với danh xưng Chúa Thánh Thần; Áng mây và Ánh sáng: Vừa mạc khải Thiên Chúa vừa che khuất vinh quang siêu việt của Người; Dấu ấn: Đóng ấn ơn Chúa Thánh Thần vào người lãnh nhận bí tích Rửa tội, Thêm sức và Truyền chức thánh; Bàn tay: Tượng trưng cho sự chữa lành; Ngón tay: Tượng trưng cho quyền năng tác động; Chim bồ câu: Tượng trưng cho bình an, hoà bình.
2. Hoạt động của Chúa Thánh Thần
Thời Cựu Ước, Chúa Thánh Thần hiện diện trong mọi hoạt động quan trọng như: Khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, khi Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ, trong các cuộc thần hiện và trong niềm mong đợi Đấng Cứu Thế.
Sang Tân Ước, Chúa Thánh Thần hằng hướng dẫn đời sống và hoạt động của Chúa Kitô từ khi nhập thể cho đến phục sinh: Đức Trinh Nữ Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần (x. Lc 1, 35); Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu trên đầu Chúa Giêsu khi Ngài chịu phép rửa tại sông Giođan(x. Lc 3,22); Chúa Thánh Thần dẫn Chúa Giêsu vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ (Lc 4,1; Mt 4,1; Mc 1,12); Quyền năng của Chúa Thánh Thần đã toả ra trong các hành vi của Chúa Giêsu để chữa lành các bệnh tật và ban ơn cứu độ (x. Lc 6,19; 8,46); Chúa Thánh Thần cũng làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết (x. Rm 1,4).
Chúa Thánh Thần hoạt động cách mạnh mẽ nơi các môn đệ trong ngày lễ Ngũ Tuần (x. Ga 20, 22-23). Ngày lễ Ngũ Tuần cũng là ngày khai sinh của Giáo Hội. Chính trong ngày này, các môn đệ được biến đổi, nói được các thứ tiếng lạ, can đảm loan báo Tin mừng và sẵn sàng làm chứng cho Chúa Kitô. Trong việc xây dựng Hội Thánh và loan báo Tin Mừng, các Tông Đồ đều khẳng đinh rằng: “Thánh Thần và chúng tôi làm chứng” (Cv 5, 32).
Chúa Thánh Thần không những khai sinh nên Giáo Hội mà còn xây dựng và làm cho Giáo Hội được hình thành. Ngài cư ngụ trong Giáo Hội và trang bị cho Giáo Hội bằng Lời Chúa. Nhờ đó, Giáo Hội tin Lời Chúa, thực hành Lời Chúa và dùng Lời Chúa để giáo huấn. Thánh Thần còn trang bị cho Giáo hội bằng các Đặc Sủng, Ngài ban ơn cho các chi thể tuỳ theo ý muốn của Ngài. Thánh Syrilô nói: “Thánh Thần dùng miệng người này để giảng sự khôn ngoan, lấy lời ngôn sứ mà soi trí lòng người kia, ban cho kẻ này quyền xua trừ ma quỷ, cho kẻ kia ơn giải thích Thánh Kinh, thêm sức cho kẻ này sống tiết độ, dạy cho kẻ kia biết thương người, cho người này biết ăn chay và tập sống đời khổ hạnh, cho người kia biết khinh chê những thú vui thể xác, cho kẻ khác nữa ơn chuẩn bị tử đạo. Khác nơi những kẻ khác, còn Người không bao giờ khác với chính mình như có lời chép: Thánh Thần tỏ mình ra cho mỗi người một cách, là vì ích chung”.
Nơi các Kitô hữu, Chúa Thánh Thần là Thần khí Tái Sinh, Thánh Hoá và làm cho họ được Vinh Hiển.
Chúa Thánh Thần là Thần khí Tái Sinh: Vì Ađam, con người trở thành nô lệ tội lỗi, trở nên kẻ thù của Thiên Chúa, bất tuân Thiên Chúa dẫn đến sự hư mất đời đời. Tự con người không thể thay đổi được tình trạng đó. Thánh Thần Thiên Chúa đã can thiệp để thay đổi con người. Trước hết, bằng việc tái sinh qua Bí tích Rửa tội (x. Ga 3, 5-6). Sau đó, bằng việc tái sinh qua bí tích Giao Hoà. Nghĩa là, Chúa Thánh Thần soi sáng để người kitô hữu nhận ra mình là kẻ có tội, cần được thanh tẩy để hưởng ơn cứu độ. Chúa Thánh Thần còn giúp các kitô hữu biết hoán cải để lãnh nhận Bí tích Giao Hoà.
Chúa Thánh Thần là Thần Khí Thánh Hoá: Chúa Thánh Thần giúp chúng ta chiến thắng con người cũ, giết chết việc làm của xác thịt (Rm 8,13) để chúng ta xứng đáng là đền thờ của Ngài. Thánh Phaolô kê khai các việc của xác thịt như: “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (x. Gl 5, 19-21). Chúng ta không thể chiến thắng được, nếu không nhờ Thần Khí. Khi chúng ta nhờ Thần Khí mà chiến thắng các việc của xác thịt trên, thì chúng ta sẽ thu lượm được những hoa quả dồi dào của Thần Khí, đó là: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (x. Gl 5,11-23). Chúa Thánh Thần còn cho chúng ta biết sự thật, dạy chúng ta biết cầu nguyện, thúc đẩy chúng ta sống mến Chúa yêu người và làm chứng cho Chúa Kitô.
Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Kitô được phục sinh vinh hiển, thì Ngài cũng sẽ làm cho chúng ta được sống lại vinh quang. Con người và thân xác của chúng ta không còn nô lệ sự hư nát, nhưng sẽ sáng láng vinh hiển, thông phần sự sống bất diệt của Thiên Chúa Ba Ngôi (1Cr 15,42-45).
3. Bổn phận của chúng ta đối với Chúa Thánh Thần
Người Kitô hữu chúng ta cần xa tránh các tội phạm đến Chúa Thánh Thần, có bốn tội phạm đến Chúa Thánh Thần:
Thứ nhất, lộng ngôn chống lại Thánh Thần (Mt 12, 31-32). Đó là tội “Cứng tin”, không chấp nhận hoạt động của Chúa Thánh Thần trong công trình cứu độ của Đức Giêsu Kitô.
Thứ hai, dập tắt Thần Khí (1Tx 5,19-22) thường được giải thích theo nghĩa “không biết tôn trọng các đặc sủng” mà Thánh Thần ban cho để xây dựng Hội Thánh.
Thứ ba, đối đầu với Thần Khí. Đó là chiều theo xác thịt, để các khuynh hướng xấu đưa tới hành vi xấu, nghĩa là phạm tội thực sự. Mỗi lần để cho xác thịt làm động lực chi phối hay làm chủ cuộc sống là một lần đối đầu với Thánh Thần.
Thứ tư, làm phiền lòng Thánh Thần. Khi mọi hành vi và các cư xử không phù hợp với cương vị của người Kitô hữu đều làm mất lòng Thiên Chúa làm phiền lòng Thánh Thần (Ep 4,30).
Tóm lại, Thánh Thần là hồng ân vô giá mà Thiên Chúa ban cho những kẻ tin vào Đức Kitô. Mỗi người Kitô hữu chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đặc biệt là khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức. Vì vậy, chúng ta không những cần phải xa tránh các tội phạm đến Chúa Thánh Thần, mà còn cần phải tin kính, thờ phượng, năng cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng để chúng ta biết sống theo lương tâm ngay thẳng, cùng tôn trọng hồn xác ta là đền thờ của Người (x. 1Cr 6,19).
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến, xin tiếp tục đồng hành với chúng con trong bổn phận xây dựng Giáo Hội và loan báo Tin Mừng. Xin giúp chúng con biết xa tránh tội lỗi tôn trọng thân xác là đền thờ của Người. Amen.
———————
Tài liệu tham khảo:
1. Khái Quát về Chúa Thánh Thần trong Kinh Thánh, ĐGM Phaolô Bùi Văn Đọc
2. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 683-747

11. Suy niệm của Lm. John Nguyễn Tươi
VAI TRÒ CHÚA THÁNH THẦN TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
Trong sách giáo lý Công Giáo có ghi: “Chúa Cha là Đấng sáng tạo; Chúa Con là Đấng cứu chuộc; và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa chúng ta.” Chúng ta không thể sống nếu không có hoạt động của Chúa Thánh Thần. Vì Chúa Thánh Thần là Thấn Khí ban sự sống cho chúng ta. Ngài có vai trò rất quan trọng trong thế giới này và trong mỗi con người chúng ta. Hôm nay, chúng ta cùng nhau khám phá ra vai trò của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống của chúng ta. Ngay cả Chúa Giêsu,Ngài đã đón nhận ơn Chúa Thánh Thần khi chịu phép rửa tại sông Giođan. Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần ban cho các tông sức mạnh và ơn can đảm để đi rao giảng Tin Mừng, và Giáo Hội được khai sinh. Tuy nhiên, để hiểu được vai trò hoạt động của Chúa Thánh Thần trong thế giới này, chúng ta có thể thấy ba biểu tượng nổi bậc nói về Chúa Thánh Thần, đó là: Lửa, Nước và Khí.
Trước tiên là Lửa. Lửa mang lại cho chúng ta hơi ấm. Vào mùa đông người ta cần có lửa để sưởi ấm. Nếu mùa đông giá buốt mà không có lửa, thì chúng ta sẽ bị chết lạnh. Lửa rất cần thiết trong đời sống con người. Lửa dùng để nuôi sống con người. Mặc khác, Lửa không chỉ mang lại sự sống và giá trị vật chất mà là còn mang ý nghĩa giá trị tinh thần cho con người. Đó là ngọn lửa của Chúa Thánh Thần cho các tông đồ thuật lại trong tin Mừng hôm nay. Khi Chúa Giêsu chết, các tông đồ sợ hãi không dám ra ngoài, vì người Do-thái. Trong lúc hoang mang sợ hãi đó, Chúa Thánh Thần mang ngọn trên đầu các tông đồ, ngọn lửa Chúa Thánh Thần biến đổi các ông thành những con người mới. Sách Công vụ Tông Đồ thuật lại rằng: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào căn nhà nơi mọi người đang tụ họp. Họ thấy xuất hiện những hình lưỡi lửa tản ra đậu trên từng người. Ai nấy lòng tràn ngập ơn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói nhiều thứ tiếng lạ khác nhau và trên đầu các ông có hình lưỡi lửa.” Đó chính là Chúa Thánh Thần, Ngài đã ban cho các tông đồ ngọn lửa đức tin, ngọn lửa của niềm vui, và ngọn lửa bình an và hoan lạc để các ngài can đảm ra đi rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng khắp nơi trên thế giới.
Kế đến là Nước. Nước mang lại sự sống cho các sinh vật trên trái đất này. Nếu không có nước, con người và sinh vật không thể sống được trên trái đất này. Chúng ta có thể nhịn đói, nhưng không thể nhịn khát được. Cũng vậy trong đời sống thiêng liêng, chúng ta múc lấy nguồn nước ân thiêng từ nơi Chúa Thánh Thần khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức. Chính Gioan Tẩy giả dìm Chúa Giê-su xuống dòng sông Gio-dan. Ngài kêu gọi dân chúng rằng: ” Ai chịu phép rửa sẽ được ơn cứu độ.” Nếu nước là tượng của sư sống, thì tái sinh bắt nguồn từ nơi Đức Kitô. Tại giếng Gia-cóp, Chúa Giê-su nói với người phụ nữ: ” Nước tôi cho chị uống thì sẽ không bao giờ khác”, đó là Máu và Nước của Ngài chính là nguồn ơn cứu độ cho chúng ta. Thánh Phao-lô đã xác quyết rằng: “Chúng ta đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể.” Phép rửa là để thanh tẩy tội lỗi con người, và tái sinh làm con cái Chúa là nhờ lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần. Thánh Gioan nói:” Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em, anh em hãy lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần.”
Sau cùng là Khí. Mỗi ngày chúng ta sống được là nhờ hít thở không khí, mà Thánh Thần là Thần Khí ban sự sống cho chúng ta. Trong Kinh Thánh đã diễn tả. Khi Thiên Chúa tạo dựng con người, thì Ngài lấy đất nắn thành hình người, rồi Ngài hà hơi vào lỗ mũi và ban cho con người sự sống. Chúng ta sống được là nhờ hít thở không khí. Chúa Thánh Thần là thần khí dưỡng nuôi chúng ta. Do đó, chúng ta mới nói rằng sự sống hay chết là do Chúa.Một biểu tượng khác, chúng ta có thể cảm nhận được hoạt đông của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống, đó là gió. Con mắt thường chúng ta không nhìn thấy gió, nhưng chúng ta có thể cảm nhận được gió qua sự rung chuyển của cây, hoặc qua cảm giác mát lạnh của gió. Một bài hát chúng ta thường hát nói về Thần Khí Chúa Thánh Thần như sau:
“Thần khí Chúa đã sai tôi đi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng.
Thần khí Chúa đã thánh hiến tôi, sai tôi đi Ngài sai tôi đi.
Sai tôi đến với người nghèo khó, sai tôi đến với người lao tù, mang Tin Mừng giải thoát. Thiên Chúa đã cứu tôi”
Tóm lại, ba biểu tượng: Lửa, Nước và Khí, chúng ta có thể hiểu được vai trò hoạt động của Chúa Thánh Thần là rất quan trọng trong thế giới này và trong mỗi con người chúng ta. Ba biểu tượng này đã được khắc họa trong Kinh Thánh từ công cuộc tạo dựng vũ trụ. Sách Giáo lý Công Giáo đã dạy: Chúa Cha là Đấng tạo dựng, Chúa Con là Đấng cứu chuộc, và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa. Khi hiểu như thế thì chúng ta thấy rằng, Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta sự sống, thánh hóa và biến đổi chúng ta trong tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Như lời thánh Gioan viết, Giêsu đã thổi hơi và thần khí cho các tông đồ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
Như lời thánh Phaolô dạy: hoa quả của Chúa Thần Khí là bác ái, hoan lạc,bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Đó là cách ta sống theo Thần Khí. Còn tính xác thịt gây ra, đó là: dâm ô, phóng đãng, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén và những thứ khác giống như vậy.
Lời Nguyện:
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương.
Xin ban cho chúng con ngọn lửa Thánh Thần, để chúng con xóa tan bóng tối của hận thù, chia rẻ và bất công.
Xin ban cho chúng con nguồn nước Thánh Thần, để chúng con cho những ai đang khát về chân lý và tưới gội những tâm hồn khô khan.
Và xin cho chúng con Thần Khí, để chúng con mạnh dạn ra đi rao giảng Tin Mừng cho những ai đang thất vọng, họ sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong Chúa. Amen.

12. Cuộc sáng tạo mới – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Sau khi tạo dựng vũ trụ càn khôn cùng muôn vật diệu kỳ trong hoàn vũ, Thiên Chúa vẫn chưa hài lòng với tác phẩm của mình. Người muốn sáng tạo thêm một kiệt tác trổi vượt tất cả những gì Người đã dựng nên.
Thế là Ba Ngôi Thiên Chúa quyết định tạo dựng con người: “Chúng ta hãy sáng tạo con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để chúng làm chủ cá biển chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1, 26).
Thiên Chúa lấy bùn đất, nắn thành hình một con người, nhưng hình tượng nầy vẫn còn trơ trơ bất động, vô cảm, vô tri…
Thế rồi Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi của hình tượng nầy và điều kỳ diệu đã xảy ra: khối đất vô hồn mang hình dạng con người đang nằm im lìm bất động bỗng cựa mình đứng lên trở thành người sống: có tư duy, có tình cảm, có tự do, có óc sáng tạo… mang đậm dấu ấn và bản sắc của Thiên Chúa. Thế là Thiên Chúa đã hoàn thành kiệt tác Ađam là nguyên tổ của loài người.
* * *
Con người cũ bị băng hoại vì tội lỗi.
Nhưng tiếc thay, tội lỗi đã thấm nhập vào thế gian làm băng hoại con người. Kiệt tác của Thiên Chúa đã bị biến chất thảm hại nên Thiên Chúa phải theo đuổi một kế hoạch tạo dựng mới.
Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người khởi đầu công cuộc nầy. Người quy tụ những môn đệ đầu tiên, và dùng những vị nầy làm nhân tố phát sinh một dân mới.
Nhưng sau khi Chúa Giêsu sống lại và lên trời, các môn đệ cảm thấy lạc lõng bơ vơ như đoàn chiên không chủ, như rắn mất đầu. Các ngài sống âm thầm, im hơi lặng tiếng, co cụm trong phòng đóng kín vì sợ người Do-Thái, tựa như Ađam lúc chưa được hơi thở của Thiên Chúa thổi vào.
Con người mới được tác sinh
Thế rồi “vào chiều ngày hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái, Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”
Và như thuở ban đầu Thiên Chúa thổi hơi vào mũi A-đam để ban cho ông sự sống, thì nay Chúa Giêsu “thổi hơi vào các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”(Ga 20,19. 22)
Theo ngôn ngữ Kinh Thánh (bằng tiếng Hebrew), Chúa Thánh Thần được gọi là Ruah, nghĩa là Hơi Thở hay Thần Khí.
Thổi hơi vào các môn đệ có nghĩa là Chúa Giêsu truyền ban Thần Khí (= Chúa Thánh Thần) cho các ông.
Như hôm xưa Ađam vươn vai chỗi dậy sau khi đón nhận hơi thở của Thiên Chúa, các môn đệ một khi đã lãnh nhận Hơi Thở ban Thần Khí của Chúa Giêsu cũng được tái sinh, cựa mình chỗi dậy, thoát ra khỏi căn phòng đóng kín như mộ địa giam nhốt mình để đi đến với muôn dân, loan truyền Tin Mừng cứu độ cho toàn thế giới, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống vì Nước Trời…
Thế là nhân loại mới đã được tác sinh từ biến cố trọng đại nầy, khởi từ ngày hôm ấy.
* * *
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu không có làn hơi của Thiên Chúa thổi vào, A-đam chỉ là một khối đất vô tri bất động và không hề có sự sống.
Nếu không được Chúa Giêsu thổi hơi ban Thần Khí, các tông đồ xưa cũng chỉ là một nhóm người bạc nhược, ươn hèn.
Và hôm nay, nếu không được đón nhận Thần Khí Chúa ban, chúng con cũng chỉ là những kitô hữu nguội lạnh, thiếu nhiệt thành và luôn đứng bên lề Hội Thánh.
Nguyện xin Chúa thổi hơi ban Thần Khí cho chúng con như đã ban cho các môn đệ năm xưa, để chúng con được đón nhận Sự Sống Mới và kiên quyết lên đường thi hành sứ mạng loan Tin Mừng cho muôn dân.

13. Veni Creator, Spiritus
Xin Chúa Thánh Thần, Đấng sáng tạo ngự đến
(Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI – Bài giảng lễ Vọng đón Đức Chúa Thánh Thần, Roma 2006)
Hằng năm Giáo Hội mừng lễ kính Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống trọng thể. Trong đời sống, người Công giáo chúng ta vào lứa tuổi thanh thiếu niên, đều đã nhận lãnh Bí tích Thêm sức, đón nhận ân đức Đức Chúa Thánh Thần củng cố đức tin ngày chịu phép bí tích Rửa tội năm xưa.
Rồi mỗi khi làm dấu Thánh Gía, đều nhắc đến đức Chúa Thánh Thần: “…và Thánh Thần. Amen”. Nhất là người Công giáo Việtnam thường đọc lời kinh: “Chúng con lạy ơn đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng sáng vô cùng. Chúng con xin đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con…” mỗi khi đọc kinh lần hạt mân côi hay trước khi dâng thánh lễ.
Một tập tục thói quen đạo đức tốt lành ăn rễ sâu thấm nhuần trong cung cách sống đức tin! Nhưng càng ngày, nhiều người thắc mắc: Đức Chúa Thánh Thần là ai hay là gì? Làm thế nào chúng ta có thể nhận ra Ngài?
1. Dominum et vivicantem – Là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống.
Mỗi khi đọc kinh tin kính, chúng ta tuyên xưng Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Sự sống phát xuất từ Ngài và Ngài là sự sống. Trong chương khởi đầu sách Sáng Thế (1, 1-2, 4a) thuật lại công trình sáng tạo trời đất, Kinh Thánh diễn tả Thần linh Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước trong cảnh u minh hỗn mang. Thiên Chúa sau khi đã tạo dựng con người từ bụi đất hà hơi vào họ và họ liền có sự sống. Thần linh Thiên Chúa là hơi thở phát sinh ra sự sống.
1.1. Sự sống do đâu?
Nhiều cái, nhiều sự trong đời sống chúng ta có thể hay phải làm ra. Nhưng sự sống con người ngay từ khởi đầu là do được tiếp nhận, chứ không do làm hay chế tạo ra. Người mẹ không chế hay làm ra đứa con. Nhưng người mẹ đón nhận sự sống đứa con của mình. Người ta đã hay sẽ còn khảo nghiệm để khám phá ra mầm sự sống trong quá trình thụ thai sinh con nơi bà mẹ. Nhưng cho tới bây giờ cũng chỉ biết được những khía cạnh ngoại vi bên lề giữa tình yêu và sự sống, giữa sự sống và tình yêu, giữa sự hoà nhập của yếu tố sinh lý, yếu tố hoá học… còn chính sự sống trước sau vẫn là điều mầu nhiệm chưa khám phá ra. Sự sống không do tự phát xuất ra và cũng không do chúng ta làm ra. Sự sống là ân đức, là quà tặng đến với và cho chúng ta. Chúng ta được quyền đón nhận sự sống và là người đón nhận sự sống.
1.2. Kinh nghiệm trong đời sống.
Không ai làm ra sự sống, nhưng chúng ta có kinh nghiệm nhiều ít, thành công hay thất bại, buồn hay vui, sung sướng hay đau khổ trong đời sống. Kinh nghiệm chúng ta thu lượm được trong đời sống. Chúng ta cũng không thể chế ra kinh nghiệm được. Và mỗi người có kinh nghiệm về đời sống khác nhau, dù cùng cảnh ngộ, cùng điều kiện vật lý… Kinh nghiệm chúng ta trải qua trong đời sống cũng là ân đức từ trời ban cho. Một người kể cho tôi nghe ngày sinh nhật thứ hai trong đời ông (không phải sinh nhật lúc hai tuổi!). Tôi ngạc nhiên hỏi lại: tại sao lại có tới hai ngày sinh nhật? Ông hân hoan thuật lại biến cố đó. Số là cách đây hai năm, đang trong bữa tiệc mừng con trai út người bạn mới thi đậu ra trường, bỗng dưng ông ngã lăn đùng ra giữa nhà nằm bất tỉnh…
Người ta đưa ông vào nhà thương cấp cứu. Sau hai ngày ông sống tỉnh dậy và sống khoẻ mạnh trở lại. Ông cho là đã được tái sinh lại lần thứ hai. Vì thế ông có hai ngày sinh nhật: ngày mở mắt chào đời khi xưa cách đây hơn năm mươi lăm năm, và ngày sống trở lại sau hai ngày trong hôn mê bất tỉnh, như được tái sinh! Còn nỗi vui mừng nào lớn hơn niềm vui được sống trở lại khỏe mạnh với mọi người! Ông không chế ra sự sống ngày tái sinh này. Nhưng ông đã đón nhận nó như món quà tặng, như ân đức từ trời cao. Nhà nghệ thuật, nhà nghiên cứu sau năm tháng miệt mài suy nghĩ, bỗng dưng trong tâm trí bừng lên ý tưởng mới. Thế là họ cặm cụi ghi chép lại và phát triển ra những bức họa, những bản nhạc hoà tấu, những cuốn sách, những công trình phát minh sáng chế nổi tiếng để đời cho hậu thế.
Ý tưởng mới bừng lên trong tâm trí cũng không do họ tự chế tạo ra, nhưng do được gợi hứng ban cho.
1.3. Sự sống cho con người, nhưng…
Chúng ta đón nhận sự sống, thu lượm kinh nghiệm trong đời sống, hoạch định cách sống hôm nay và ngày mai. Nhưng chúng ta không thể thu ngắn, kéo dài hay bằng cách nào đó biến đổi sự sống theo ý muốn mình được. Chúng ta không là chủ sự sống và không thể nắm giữ sự sống lại được. Quá trình sinh lão bệnh tử nói cho chúng ta điều đó. Và nào đã có ai là con người thoát khỏi quá trình này đâu? Sự sống được ban cho và sự sống có ngày được thu hồi về bởi Đấng là chủ là nguồn sự sống. Đó đây ngườ ta thường nói: Đời sống mỗi ngày mỗi khó khăn. Cuộc sống không còn đơn giản như xưa nữa. Điều kiện sống càng ngày càng phức tạp và tạo ra nhiều vấn đề…!
Con người chúng ta đón nhận sự sống và có bổn phận duy trì, xây dựng phát triển sự sống cho mình, cho gia đình, cho xã hội đất nước. Đó là điều quan trọng, nhưng đó chưa phải là tất cả. Qua việc làm, qua hoạch định hay qua những công trình đã xây dựng, chúng ta mới chỉ đạt được điều kiện, cách thế khắc phục những khó khăn trở ngại trong đời sống, cách xây dựng sự sống. Còn chính sự sống chúng ta không thể làm chế ra được. Sự sống là ân đức, là quà tặng và có giá trị cao qúi tuyệt đối hơn mọi công trình việc làm của con người. Vì sự sống được ban cho, chứ không do chế tạo làm ra. Con người có bổn phận kính trọng, gìn giữ bảo vệ sự sống. Thần Linh Thiên Chúa là sự sống và là Đấng ban sự sống.
2. Creator, Spiritus – Thần linh sáng tạo
Ngày nay khắp mọi người ta nói đến bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái. Các quốc gia kỹ nghệ tân tiến đưa ra những chương trình bảo vệ rừng núi, bảo vệ nguồn nước dưới lòng đất, bảo vệ đất đai mặt bằng, bảo vệ không khí trong lành, bảo vệ khí trời không bị nóng làm cho khi hậu đảo lộn, bảo vệ súc vật côn trùng… vì con người càng ngày càng nhận ra mức quan trọng của thiên nhiên cho sự sống còn của họ. Đó là nguồn tài nguyên, tài sản cho mọi thời đại mọi thế hệ. Thắc mắc đặt ra: Thiên nhiên cho con người hay con người cho thiên nhiên?
Cả hai vế đều đúng, đều quan trọng như nhau. Không có thiên nhiên làm sao con người có thể sinh sống được. Và nếu con người không nhận ra giá trị của thiên nhiên, không bảo vệ thiên nhiên, thì cuộc sống của những thế hệ kế tiếp sẽ ra sao? Con người có thể sống trong một môi trường thiên nhiên khô chồi, trơ trụi bị ô nhiễm khí độc hại hay bị khói cháy rừng bao phủ ngày đêm khắp bầu trời được không? Sức khoẻ thể xác và tinh thần của họ sẽ như thế nào nếu nguồn nước dưới lòng đất hay ngoài sông ngòi là một vũng ao tù xình lầy chứa đầy rác rưởi, phân tro hay đầy chất hoá học độc hại?
Thiên nhiên cho con người và con người cũng phải cho thiên nhiên! Nhưng nếu chỉ nghĩ đến việc bảo vệ, gìn giữ thiên nhiên đã đủ chưa? Phải chăng thiên nhiên chỉ nguyên là môi trường sinh thái cho mọi loài? Phải chăng khi đưa ra chương trình cứu nguy bảo vệ môi trường sinh thái là đã cứu nguy được thiên nhiên, công trình sáng tạo rồi? Thiên nhiên đâu phải chỉ bao gồm dưới dạng tài nguyên không khí để thở, đất đai rừng núi nguồn nước cây cối, côn trùng sinh vật. Thiên nhiên hay thế giới chúng ta đang sống còn có chiều kích thánh thiêng tôn giáo nữa: Thiên nhiên, vũ trụ do Thiên Chúa tạo dựng cho con người (Sách Sáng thế 1, 1-2a).
Sự sống trong thiên nhiên là do Thần Linh Thiên Chúa tác dụng vào. Chính với sức sống này, con người tìm thấy ý nghĩa của đời sống. Nhận ra chỗ đứng của mình trong vũ trụ. Và vì thế con người sống trong đó, đâu phải chỉ nguyên có trách nhiệm với thiên nhiên không thôi đâu. Họ còn có bổn phận với Đấng là nguyên ủy của thiên nhiên. Môi trường sinh thái được trao vào tay con người. Họ được quyền xử dụng vào việc xây dựng cho phù hợp với hoàn cảnh sống; và môi trường sinh sống cũng có thể bị lợi dụng hay sử dụng vô trách nhiệm, khiến gây nên tình trạng phá huỷ ô nhiẽm môi sinh. Còn thiên nhiên là do Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá dựng nên ban cho như quê hương xứ sở, nơi sự sống Thần Linh của ngài tác dụng và đổi mới. Như thế con người không thể dùng thiên nhiên theo ý nghĩa xử dụng được.
Con người có bổn phận kính trọng thiên nhiên và họ luôn luôn khám phá ra những công trình sáng tạo mới trong đó. Những công trình này gây ngạc nhiên, mang lai hạnh phúc niềm vui, mang nguồn cảm hứng cho con người. Và vì thế phải biết cúi mình tạ ơn Đấng là chủ thiên nhiên, là chủ nguồn sự sống trong thiên nhiên. Thiên Chúa răn bảo con người: “Con không được phép giết hại!” (Sách xuất hành 20, 13; Đệ nhị luật 5,17). Ngài có ý nhắn nhủ con người:
Con chỉ là người quản lý thiên nhiên Cha trao cho. Nhưng không là chủ thiên nhiên.
Con phải kính trọng sự sống do Cha tạo dựng.
Con không được phá huỷ môi trường sinh thái của cây cối cùng súc vật trong đó.
Con không được coi trái đất này là sở hữu của riêng con.
Con không được vì quyền lợi riêng mình gây đau khổ cho các công trình sáng tạo của Cha trong thiên nhiên.
Khi kính trọng hay ngạc nhiên bỡ ngỡ những kỳ công, sự sống trong thiên nhiên, là nhận ra dâu vết Đấng là chủ, là nguồn sự sống, nguồn tình yêu của thiên nhiên: Đức Chúa Thánh thần. Bài thánh ca ngày lễ mừng kính Đức Chúa Thánh Thần mở đầu bằng câu: “Veni Creator, Spiritus – Xin Chúa Thánh Thần, Đấng sáng tạo, ngự xuống…” nói đến những hình ảnh về sáng tạo vũ trụ đã diễn tả trong Kinh thánh, nơi sách Sáng Thế ký.
Bài tường thuật về sự sáng tạo vũ trụ đã diễn tả, Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn trên khoảng không hỗn độn đen tối, trên biển nước bao la. Thế giới vũ trụ, nơi chúng ta sinh sống, là công trình của Thần linh sáng tạo. Lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống không chỉ là nguồn gốc khai sinh khởi đầu của Giáo Hội Chúa, nhưng còn là lễ của sự sáng tạo.
Thế giới vũ trụ không phải tự mình mà có. Nó có nguồn gốc khởi thủy từ Thánh Thần Thiên Chúa, do từ Lời sáng tạo của Thiên Chúa. Và như vậy, nó phản chiếu sự khôn ngoan của Ngài. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa, theo chiều trải rộng ra xa và bao gồm lý luận của những luật lệ, gợi hướng về Thần linh sáng tạo của Thiên Chúa. Nó nhắc nhở tới sự kính trọng, cho người tín hữu Chúa Giêsu Kitô tin vào Thần Linh sáng tạo. Nó nhắc nhớ họ nhận biết thế giới vũ trụ này, và những vật thể trong đó không phải là những vật dụng đơn giản của con người cùng ý muốn được phép sử dụng hay được phép lạm dụng. Chúng ta con người, không được phép nhìn công trình sáng tạo trong vũ trụ như một của riêng đã được ban cho để hủy hoại. Nhưng đó là khu vườn của Thiên Chúa cùng là khu vườn cho con người.

14. Đấng ban bình an
1. Nếu như được một điều ước duy nhất, có lẽ nhiều người sẽ phải đắn đo suy nghĩ, nhưng cũng không ít người sẽ nhanh chóng ước ngay rằng làm sao có được một cuộc sống bình an. Điều này cũng dễ hiểu, bởi lẽ trong cuộc sống, nhất là hiện thời, có nhiều lý do khiến cho ta có quá nhiều bất an. Các môn đệ của Đức Giêsu sau cuộc tử nạn của Thầy mình, đang trong tình trạng khép kín, bối rối… Trong lúc bất an như vậy; một luồng sinh khí mới đến với các ông, Đức Giêsu Phục Sinh hiện đến để ban Chúa Thánh Thần và những ơn của Người cho các ông, đặc biệt đó là ơn bình an.
2. Chúng ta dễ nhận ra qua các bài Kinh Thánh hôm nay có 2 tường thuật về việc trao ban Chúa Thánh Thần:
– Theo Thánh Gioan, ngay buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần (chính hôm lễ Phục Sinh), Đức Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ.
– Trong khi đó theo Luca, qua sách Tông Đồ Công Vụ (Bài đọc I) cho ta thấy Đức Giêsu ban tặng Chúa Thánh Thần hôm lễ Ngũ Tuần, tức 50 ngày sau khi Chúa sống lại (Cv 2,1 tt), và được tường thuật với nhiều chi tiết hơn.
Sự khác biệt này được giải thích như thế nào? Thưa Thánh Gioan gom góp vào một ngày những sự kiện mà Thánh Luca đã phân chia rải rác trong thời gian 50 ngày: Đức Giêsu sống lại (Ga 20,1tt ; Lc 25,1tt), lên trời (Ga 20,17; Cv 1,9) và ban tặng Thánh Thần (Ga 20,22 ; Cv 2,1tt).
Thực ra, Chúa Thánh Thần đã hoạt động ngay từ thời sáng thế: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng… và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước”(St 1,1-2) ; Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn các tổ phụ các tiên tri mà chúng ta vẫn thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính. Thời Tân Ước, Ngài vẫn luôn hoạt động: nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần mà Ngôi Hai nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria, và chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn hoạt động của Đức Giêsu nơi trần thế…
3. Giờ đây chính Đức Kitô Phục Sinh lại trao ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ, môn đệ như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, việc trao ban Chúa Thánh Thần như được hoà quyện với lời chúc bình an, quyền tha tội và lời sai đi rao giảng. Cho nên có thể nói đây là những ơn đặc biệt mà các tông đồ, môn đệ Đức Giêsu có được khi nhận lấy Chúa Thánh Thần của Đức Kitô Phục Sinh.
– Trong một cuộc gặp gỡ ngắn mà hai lần Đức Kitô nhắc tới “bình an”, cho nên có thể nói “bình an” là ơn cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần, rất cần thiết cho con người. Khi nói tới bình an thường được hiểu là bình an bên ngoài (như không có chiến tranh, không có hận thù giết chóc, bắt bớ…), nhưng có một thứ bình an cần thiết hơn, quan trọng hơn đó là bình an sâu thẳm trong tâm hồn. Nhờ việc nhận Thánh Thần, các tông đồ, môn đệ của Đức Giêsu đã có thứ bình an đó. Thật vậy, chúng ta thấy rõ dường như các ngài không có được sự bình an bên ngoài: bị tra tấn đánh đập vì Đức Giêsu, vì Tin Mừng, ngay cả phải thiệt thân… Nhưng nhờ có ơn bình an của Chúa Thánh Thần, thì những đau khổ vì danh Đức Kitô lại trở thành niềm vui, danh dự… như Phaolô đã nói: khốn cho thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng Đức Kitô (x. 1 Cr 9,16).
Ơn bình an của Chúa Thánh Thần vẫn luôn được trao ban trong Hội Thánh, điều này càng thấy rõ vào những thời, những nơi Giáo Hội gặp khó khăn: đã có hơn 70 triệu anh hùng trung kiên với Đức Kitô, qua 20 thế kỷ, các vị này không cho rằng việc đầu rơi máu chảy là bất hạnh, mà đó là niềm vui, tự hào… bởi các ngài có được sự bình an sâu thẳm.
– Khi h iểu rằng bình an thực là như thế, chúng ta mới có thể cảm nhận được một ý nghĩa khác của việc Đức Giêsu trao ban Thánh Thần: đó là bình an qua việc được tha thứ. Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta có được cảm nghiệm bình an trong tâm hồn khi đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa qua bí tích Giải Tội, nhất là khi ta lỗi phạm càng nặng. Vì thế Đức Giêsu muốn bình an của Chúa Thánh Thần được lan toả từ các tông đồ và những người kế vị các ngài trong chức linh mục, qua việc tha tội: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha…” (Ga 20,23). Không chỉ qua Bí Tích Giao Hoà, mà việc tha thứ cho nhau rất cần thiết trong đời sống của Kitô hữu, khi chúng ta tha thứ cho nhau là dấu hiệu Chúa Thánh Thần đang hoạt động nơi ta.
– Những ai được diễm phúc đón nhận sự bình an của Chúa Thánh Thần không phải để thụ hưởng mà phải ra đi, phải chia sẻ: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con “. Đức Giêsu đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, giờ đây đến nhiệm vụ của Giáo hội, của mọi người chúng ta. Sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại rằng sau khi nhận ơn Chúa Thánh Thần, các môn đệ nói được nhiều ngôn ngữ khác lạ của người nghe, tức Hội Thánh phải biết nói ngôn ngữ của mọi thời, mọi nơi ; nói cách khác Hội Thánh, tức chính chúng ta, phải rao giảng Tin Mừng mọi thời, mọi nơi. Có như vậy mới có thể đem bình an của Chúa đến cho mọi người, bởi nếu không có ai rao giảng thì làm sao tha nhân có thể nghe danh Chúa và tin vào Ngài được (x. Rm 10,14)?
4. Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là dịp tốt để mỗi chúng ta nhìn lại, như các tông đồ, môn đệ xưa đã lãnh nhận dồi dào ơn Chúa Thánh Thần, cũng thế qua bí tích Rửa Tội, nhất là qua bí tích Thêm Sức, Đức Kitô Phục Sinh đã đổ tràn Chúa Thánh Thần trên mỗi Kitô hữu, nhưng chúng ta đã cộng tác và làm cho ơn này phát triển như thế nào. Vì thế, mỗi người chúng ta hãy tự hỏi:
– Tôi có được sự bình an trong tâm hồn, một niềm vui sâu xa trong tâm tình phó thác nơi Thiên Chúa dù có những nghịch cảnh trong cuộc sống hay không?
– Tôi có là khí cụ bình an của Đức Kitô qua đời sống yêu thương, tha thứ đối với nhau hay không?
– Tôi có cảm nhận được niềm vui khi giới thiệu Đức Kitô cho người khác bằng lời rao giảng và nhất là bằng đời sống chứng nhân như: bác ái, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm… hay không (x. Gl 5,22-24)?
Nếu chúng ta có được những điều đó, hãy cảm tạ Thiên Chúa, đó là dấu chỉ có sự hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi ta, một cuộc Hiện Xuống mới đang tái diễn; nhờ đó đem lại cho chúng ta sự bình an thật đời này và sự sống đời đời: “Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an”(Rm 8,6).

15. Ngọn lửa Thánh Linh soi chiếu
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Vào năm 1976, ngay xóm tôi ở có em gái nghèo chừng mười lăm tuổi đi giúp việc nhà cho một gia đình giàu có. Gia đình nầy vừa mới tậu một bức tranh thêu rất đẹp nên bức hoành phi sơn son thếp vàng cũ kỹ có mấy chữ mạ vàng khá lớn, lâu nay được treo ở gian giữa ngôi nhà, giờ đây bị tháo xuống để nhường chỗ cho bức tranh thêu quý giá. Trong thâm tâm bà chủ nghĩ rằng bức hoành phi nầy có chữ mạ bằng thứ giấy vàng rẻ tiền nên giá trị chẳng là bao.
Bà chủ giao bức hoành cho cô gái giúp việc đem về nhà tuỳ nghi sử dụng. Cô gái đem về cho em chơi. Chơi chán rồi chúng xé vụn phần bằng giấy ra, xé luôn cả những chữ vàng, xả rác đầy nhà, khiến người mẹ phải mất công quét dọn và đổ ra hố rác.
Khi đốt rác vào lúc trời tối, bọn trẻ phát hiện những dòng chữ vàng trên bức hoành phi không bị thiêu rụi mà lại sáng ngời lên trong lửa và kết tụ lại thành những vụn nhỏ ngời sáng ánh vàng. Hoá ra những dòng chữ trên bức hoành là thứ chữ mạ bằng vàng thật chứ không phải là giấy mạ vàng!
Thế là người nhà hăm hở xăm xoi đào bới, sàng sảy đống tro tàn để tìm kiếm và cuối cùng thu lại được năm sáu chỉ vàng!
Cả gia đình vui mừng quá đỗi, vì vào thời đó, kiếm được chừng ấy vàng chẳng khác gì trúng lô độc đắc.
Như thế, nếu không nhờ ngọn lửa, những chữ vàng quý giá kia đã bị xé vụn, quẳng vào đống rác và hoá thành bụi tro. Nhưng may sao nhờ lửa cháy lên, người ta mới nhận ra những dòng chữ bằng vàng rất quý báu!
Hôm nay mỗi người chúng ta cũng được Chúa Giêsu trao tận tay một cuốn sách đáng giá ngàn vàng. Đó là một kho báu không hề vơi cạn, chứa đựng những điều khôn ngoan ngàn đời của Thiên Chúa được Chúa Giêsu từ trời mang xuống ban tặng cho thế gian, một cuốn sách chứa đựng những bí quyết đem lại bình an hạnh phúc cho muôn người, một kiệt tác được kết tinh bằng tình yêu, bằng trí tuệ, bằng tim óc của Chúa Giêsu và được hình thành trong suốt 33 năm dương thế của Ngài.
Nhưng tiếc thay, khi nhận được Tin Mừng trên tay, chúng ta xem đó là thứ quà rẻ mạt, như một cuốn sách tầm thường, như một mớ chữ không hồn. Thế nên số phận cuốn Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu cũng hẩm hiu không kém!
Sở dĩ Kho Tàng Tin Mừng của Chúa Giêsu không được xem là quan trọng và quý giá vì những dòng chữ nầy chưa được ngọn lửa của Chúa Thánh Linh soi chiếu.
Thượng Phụ Athénagoras nhận định rằng: “Nếu Hội Thánh vắng bóng Thánh Linh, thì Thiên Chúa trở nên nghìn trùng xa cách, Đức Giêsu trở thành một huyền thoại và Phúc Âm của Người trở thành một mớ chữ không hồn.”
Quả vậy, nếu không có lửa của Chúa Thánh Thần soi sáng thì lời dạy của Chúa Giêsu như: “những gì các ngươi làm cho các anh em bé mọn của Ta đây là làm cho chính Ta” (Mt 25,40) trở thành những dòng chữ chết, không thể lay động lòng người, nhưng đối với mẹ Tê-rê-xa Calcutta, nhờ ánh sáng Thánh Linh tác động, lời đó trở thành châm ngôn vàng ngọc thúc đẩy mẹ hiến cả đời mình yêu mến và phung sự Chúa Giêsu nơi những con người bất hạnh và đau thương.
Nếu không có lửa của Thánh Linh soi chiếu thì những lời nhắc nhở như: “được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì chẳng được ích gì” (Mt 16,26) là những lời vô nghĩa, nhưng đối với thánh Phanxicô Xavie, nhờ ngọn lửa của Thánh Linh soi sáng, lời đó trở thành sức mạnh vạn năng giúp ngài từ bỏ công danh địa vị để dấn thân vào những miền đất xa lạ, đem ơn cứu độ đến cho các dân tộc Á châu.
Không có Chúa Thánh Thần, không ai có thể nhận biết và yêu mến Chúa Giêsu.
Không có Chúa Thánh Thần, những trang Tin Mừng chỉ là những dòng chữ chết.
Không có Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa trở thành Đấng nghìn trùng xa cách.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Thánh Thần Chúa cho chúng con, để nhờ ánh sáng Thánh Linh soi dẫn, chúng con nhận biết, yêu mến Chúa và tìm được nơi kho tàng Tin Mừng những lời thần thiêng đem lại cho chúng con sức sống mới.

16. Chúa Thánh Thần là nguyên lý hợp nhất
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Lễ Hiện xuống hôm nay kết thúc mùa Phục sinh. Chúng ta hãy nhìn lại những bước mà Phụng vụ đã dẫn chúng ta đi qua: Ðức Giêsu đã nhập thế sống với loài người, Ngài đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, rồi Ngài chịu nạn chịu chết, nhưng Ngài đã sống lại và lên trời. Hôm nay Ngài sai Chúa Thánh Thần đến để thánh hóa loài người. Như thế, Chúa Thánh Thần là Ðấng hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Dâng Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa tuôn đổ đầy tràn Thánh Thần xuống trên chúng ta, để chúng ta hoàn thành sứ mạng cứu độ bản thân chúng ta và mọi người.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta có lỗi vì ít nghĩ đến Chúa Thánh Thần là Ðấng Thiên Chúa đã ban để hỗ trợ chúng ta.
Chúng ta thường làm việc theo suy nghĩ riêng chứ không theo sự soi sáng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần muốn mọi người hiệp nhất với nhau, nhưng chúng ta thường chia rẽ.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Cv 2,1-11
Tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm lễ Ngũ Tuần.
Vâng theo lời căn dặn của Ðức Giêsu phục sinh, các tông đồ tụ họp trong nhà Tiệc Ly để chờ đón nhận điều Ngài đã hứa.
Sáng ngày lễ Ngũ tuần, Ðức Giêsu thực hiện lời hứa ấy: Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Lửa tượng trưng tình yêu và lòng nhiệt thành. Nhờ Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Ðức Giêsu.
2. Ðáp ca: Tv 103
Tv này ca tụng những việc kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm do “sinh khí” của Ngài, tức là do Chúa Thánh Thần.
3. Bài đọc II: 1 Cr 12,3b-7.12-13
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu đoàn kết hiệp nhất nhau trong Chúa Thánh Thần:
Trong Giáo Hội sơ khai, Chúa Thánh Thần ban nhiều đặc sủng khác nhau cho các tín hữu. Nhưng mọi đặc sủng đều nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng đoàn.
Vì thế, một mặt các tín hữu phải tránh chia rẽ nhau, mặt khác phải tận dụng mọi ơn ban của Chúa Thánh Thần để xây dựng thân thể Giáo Hội.
4. Tin Mừng: Ga 20,19-23
Buổi chiều chính hôm lễ phục sinh, Ðức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các môn đệ (Theo quan điểm của Luca thì Thánh Thần được ban hôm lễ Ngũ tuần).
Chúa Thánh Thần được ban đồng thời với lời chúc bình an, quyền tha tội và lời sai các ông ra đi. Từ đó, ta có thể thấy được những ý nghĩa sau:
Ơn ban cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần là Bình an, đặc trưng của thời Messia.
Ơn cao trọng thứ hai của Chúa Thánh Thần là Tha tội: chính nhờ được tha tội mà con người được bình an thật.
Ơn ban Thánh Thần nhằm giúp Giáo Hội ra đi loan Tin Mừng cứu độ.
IV. Gợi ý giảng
1. Lưỡi lửa
Bài tường thuật của Sách Công vụ hôm nay là đối trọng của bài tường thuật tháp Babel thời Cựu Ước.
Ngày xưa, ở Babel, con cháu ông Nôe đang nói cùng một thứ tiếng, nghĩa là đang hiểu nhau và đoàn kết với nhau, bỗng dưng để cho tính kiêu ngạo xúi dục muốn xây một cái tháp cao hơn trời để tỏ ra mình cao hơn Thiên Chúa, nên đã bị phạt khiến họ nói nhiều thứ tiếng, người này không còn hiểu người kia nữa, và chia rẽ nhau. Chuyện tháp Babel ngụ ý rằng khi con người không quy tụ quanh Thiên Chúa thì sẽ chia rẽ nhau, không hiểu nhau và không thông cảm cho nhau.
Hôm lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần sửa lại sự hư hại đó: tất cả mọi người dù thuộc những dân tộc và những ngôn ngữ khác nhau nhưng đã hiểu nhau. Nhờ đâu? Nhờ chính Chúa Thánh Thần, nguyên lý đoàn kết và hiệp nhất.
2. Lưỡi lửa mà con người hôm nay cần
Nói là một sinh hoạt cần thiết trong cuộc sống chung: hằng ngày khi gặp người khác, chúng ta chào nhau, hỏi thăm nhau, trao đổi ý kiến với nhau, thảo luận, tranh luận v.v. Chính vì để phục vụ cho sinh hoạt cần thiết này mà khoa học kỹ thuật ngày nay đã phát minh ra máy khuếch âm, máy ghi âm, điện thoại v.v.
Nhưng nói với nhau là một chuyện, còn hiểu nhau là một chuyện khác. Hai chuyện này chưa hẳn luôn đi đôi với nhau. Nói với nhau thì nhiều nhưng hiểu nhau chắc không được bao nhiêu. Dịch một ngoại ngữ thì dễ hơn là hiểu được ý thật, lòng thật của người đang ở sát bên cạnh mình.
Có đặt mình trong bối cảnh như thế, chúng ta mới thấy được “lưỡi lửa” mà bài sách Cv hôm nay mô tả là cần thiết thế nào cho con người hôm nay. Ngày xưa, những người có mặt hôm lễ Ngũ tuần tuy nói nhiều ngôn ngữ khác nhau nhưng đều hiểu nhau. Ðó là hiệu quả bởi “lưỡi lửa” của Chúa Thánh Thần. Lưỡi hình lửa là tiếng nói của tình yêu. Tiếng nói chân thật nhất là tiếng xuất phát từ cõi lòng. Tiếng nói dễ hiểu nhất là tiếng của tình yêu.
Xin “lưỡi lửa” hiện xuống tràn đầy trong mỗi người chúng ta và trong cộng đoàn chúng ta.
3. Thổi hơi
Bài tường thuật tạo dựng loài người trong sách Sáng thế kể rằng sau khi Thiên Chúa đã lấy bùn đất nắn thành hình người, Ngài đã thổi hơi vào đó, và thế là con người đầu tiên xuất hiện. “Hơi thở” của Thiên Chúa chính là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là nguyên lý tạo dựng.
Nhưng con người đã phạm tội, bị đuổi khỏi vườn Ðịa đàng, hạnh phúc ban đầu đã bị đánh mất.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu lại thổi hơi trên các tông đồ. Phải chăng đây cũng là một đối ảnh của câu chuyện trong sách Sáng thế? Và nếu đúng là thế, thì hôm nay Thiên Chúa tái tạo lại con người, cũng bằng “hơi thở” là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần cũng là nguyên lý của sự tái tạo.
4. Hiệp nhất trong đa dạng
Giáo Hội ngày nay là một Giáo Hội đa dạng: đủ thứ linh đạo, đủ loại dòng tu, đủ cách làm tông đồ, quá nhiều hội nhóm, quá nhiều khuynh hướng, quá nhiều ý kiến… Có những kẻ bi quan đã cho rằng Giáo Hội đang trong thời kỳ khủng hoảng. Nhưng thực ra, sự đa dạng này thể hiện một sức sống phong phú.
Nhưng miễn là đa dạng đừng dẫn tới chia rẽ và chống đối phá hại nhau. Miễn sao đa dạng mà vẫn hiệp nhất.
Muốn được như vậy, chúng ta phải lưu ý tới những giáo huấn rất sâu sắc của Thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay:
Mỗi người, mỗi nhóm hãy ý thức rằng “đặc sủng” của mình là ơn ban của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là tài sản hay tài năng riêng của mình.
Ðừng khó chịu, trái lại hãy vui mừng khi thấy những người khác, nhóm khác cũng được ban cho những đặc sủng khác. Ðó là dấu Chúa Thánh Thần yêu thương Giáo Hội.
Tận dụng “đặc sủng” Chúa Thánh Thần ban để góp phần mình vào việc xây dựng Giáo Hội, đồng thời ý thức rằng đó chỉ là một phần nhỏ mình góp cho Giáo Hội nên vẫn tôn trọng phần góp của người khác và hy vọng Giáo Hội được nhiều người khác góp phần xây dựng hơn nữa.
5. Chúa Thánh Thần, Ðấng bị quên lãng
Chúa Thánh Thần là Ðấng bị quên lãng. Ðúng vậy, Thiên Chúa có 3 Ngôi là Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế nhưng thường chúng ta chỉ nhớ tới Chúa Giêsu và Chúa Cha thôi, ít khi nhớ tới Chúa Thánh Thần
Thế nhưng Chúa Thánh Thần lại là Ðấng rất kỳ diệu, Ngài mà hoạt động nơi ai thì làm phát sinh biết bao điều kỳ diệu nơi người đó. Ngài mà hoạt động nơi nào thì cũng làm phát sinh biết bao điều kỳ diệu ở nơi đó. Xin đan cử 2 bằng chứng.
– Bằng chứng thứ nhất là đoạn sách CvTđ mà chúng ta vừa nghe: Chúa Thánh Thần hoạt động nơi các tông đồ. Trước đó các tông đồ đã từng theo Chúa Giêsu 3 năm, đã từng nghe biết bao lời dạy dỗ của Chúa Giêsu, đã từng thấy biết bao phép lạ của Chúa Giêsu. Nhưng con người của các ông hầu như chẳng chịu ảnh hưởng tốt nào cả: vẫn lo tranh dành quyền lợi, vẫn sợ chết nên trốn kín trong nhà. Thế rồi Chúa Thánh Thần ngự đến trên các công và sau đó các ông được biến đổi hẳn: nhiệt thành với Tin Mừng, can đảm rao giảng Tin Mừng. Có ai ngờ một người như Phêrô đã từng run sợ chối Chúa bây bẩy trước những tên đầy tớ của vụ Thượng tế mà bây giờ lại đứng ra trước một đám đông rao giảng hùng hồn khiến cho liền ngay sa đó có 3 ngàn người xin theo đạo.
– Bằng chứng thứ hai là một bức thư rất đặc biệt. Bức thư này là của một cô gái nước ngoài gởi cho một LM. LM này trước đó có biên thư cho cô gái để trình bày những khó khăn trong bổn phận của mình. Cô gái biên thư khuyên vị LM ấy hãy can đảm, hãy cầu nguyện và mỗi ngày hãy dâng lễ sốt sắng. Cô gái còn cho biết nếp sống hằng ngày của cô: ngoài những giờ làm ăn, cô tranh thủ thời giờ đi dạy giáo lý cho 2 lớp tại một trường học, buổi tối cô tham gia cầu nguyện với một nhóm giáo dân từ 8 đến 10 giờ. Một cô gái giáo dân mới hơn 20 tuổi mà nhiệt thành làm việc tông đồ như vậy và còn nhiệt thành đến nỗi dám đưa ra những lời khuyên dạy đối với một LM! Do đâu mà cô nhiệt thành sốt sắng như vậy? Thưa vì cô đang sinh hoạt trong một nhóm giáo dân giúp nhau sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Nghe những bằng chứng trên, chắc chúng ta cũng mong muốn Chúa Thánh Thần hoạt động nơi chúng ta để làm những điều kỳ diệu nơi chúng ta. Nhưng làm sao để được như vậy? Xin đề nghị 2 điều:
– Một là chúng ta hãy cầu nguyện cùng với Chúa Thánh Thần. Chúng ta đã cầu nguyện rất nhiều. Nhưng khi cầu nguyện chúng ta chỉ nói cho Chúa biết mình đang sống như thế nào, mình đang cần những ơn gì và xin Chúa ban ơn đó cho ta. Cầu nguyện như vậy là sai lầm, vì đâu phải nhở chúng ta nói mà Chúa mới biết chúng ta cần gì. Chúa là Ðấng biết tất cả mọi sự kia mà. Ðiều quan trọng nhất không phải là ta nói cho Chúa biết ta muốn gì, mà là xin Chúa cho ta biết Chúa đang muốn gì nơi ta. Do đó ta phải cầu nguyện cùng với Chúa Thánh Thần, để Chúa Thánh Thần soi sáng cho ta biết ý Chúa và giúp ta sau đó làm theo ý Chúa. Có cầu nguyện như vậy thì sau đó cuộc đời ta mới biến đổi.
– Ðiều thứ hai có liên quan tới việc Xưng tội. Trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, có một điểm hơi lạ. Ðó là Chúa Giêsu vừa ban Chúa Thánh Thần vừa ban quyền tha tội cho các tông đồ: “Chúng con hãy nhận lãnh Thánh Thần, chúng con tha tội cho ai… ” Tại sao Chúa Giêsu ban Chúa Thánh Thần và ban ơn tha tội chung nhau? Thưa vì 2 điều đó liên hệ chặt chẽ với nhau. Nói cách khác, nếu chúng ta muốn lãnh Bí Tích Giải Tội cho có hiệu quả tốt thì chúng ta phải Xưng tội cùng với Chúa Thánh Thộn. Ta hãy nhìn lại cách xưng tội bấy lâu nay của chúng ta. Mỗi khi xưng tội chúng ta làm 5 việc: một là xét mình xem mình có những tội gì; 2 là sau đó đọc một kinh ăn năn tội; 3 là vào toà xưng tội, kể cho kỹ hết mọi tội đừng sót tội nào; 4 là nghe cho rõ Cha giải tội dạy đọc bao nhiêu kinh; 5 là trở ra đọc cho hết bấy nhiêu kinh đó. Rồi trở về. Kết quả như thế nào? Chúng ta thấy an tâm hơn đôi chút. Nhưng cũng sống bình thường như trước, cũng phạm lại bấy nhiêu tội ấy, lần sau đi xưng tội cũng xưng bấy nhiêu tội ấy. Nghĩa là hầu như không có gì thay đổi. Xưng tội cùng với Chúa Thánh Thần nghĩa là trong phần xét mình trước khi vào toà xưng tội, chúng ta hãy xét mình cùng với Chúa Thánh Thần, xin Ngài soi sáng cho ta chẳng những thấy được mình đã phạm những tội gì mà còn tại sao mình phạm những tội đó; xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho ta thấy những tội mà mình không thấy, Td nhiều người đâu có nghĩ rằng việc mình đang tính kế hại người là có tội, nhiều người đâu có nghĩ việc mình sống ích kỷ với nhà hàng xóm là có tội. Xưng tội cùng với Chúa Thánh Thần nghĩa là sau khi xưng tội chúng ta xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho ta biết từ nay mình phải sửa đổi như thế nào. Có như vậy mỗi lần chúng ta đi xưng tội xong, cuộc sống của mình mới thay đổi tốt đẹp hơn.
6. Chúa Thánh Thần, Ðấng biến đổi
Bài trích sách Tông đồ Công vụ thuật lại biến cố ngày Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ có nhiều điều rất phi thường: gió thổi ào ào như giông tố, những cục lửa có hình như cái lưỡi đậu trên đầu mỗi vị, sau đó các tông đồ nói tiếng lạ nghĩa là chỉ cần nói một thứ tiếng mà đủ mọi sắc dân khác nhau đều có thể hiểu. Những điều phi thường đó khiến cho đám đông dân chúng bở ngỡ kinh hoàng… Rồi hàng ngàn người đã xin lãnh phép Rửa Tội…
Nhưng điều quan trọng không phải là những biến cố phi thường ngoạn mục đó, mà chính là một cuộc biến đổi bên trong các tông đồ, rất âm thầm nhưng lại rất toàn diện: các ông là những người đã từng sát cánh ngày đêm với Chúa Giêsu , cùng ăn,, cùng đi, cùng làm với Chúa Giêsu suốt 3 năm trời, được Chúa Giêsu dạy dỗ rất nhiều, được chứng kiến biết bao việc làm của Chúa Giêsu … Nhưng vốn tầm thường các ông cũng vẫn còn là những kẻ tầm thường. Tầm thường đến nỗi Thầy vừa bị bắt là tất cả bỏ chạy tan hoang, trốn chui trốn nhủi trong phòng đóng kín cửa không ai dám ló đầu ra ngoài. Tại sao thế? Vì bấy lâu nay các ông đi theo Chúa với tính toán vụ lợi, các ông hiểu giáo lý của Chúa một cách phàm tục: Ði theo Chúa như đi theo một chính trị gia đang lên hương với hy vọng sau này tới ngày thành công sẽ được chia chác địa vị quyền lợi; Chúa dạy giáo lý về nước Trời mà các ông thỉ chỉ hiểu về một nước thế tục. Cái chết của Chúa Giêsu đã làn tiêu tan mọi tham vọng chính trị, những quyền lợi các ông mong chờ cũng thành mây khói luôn, và cả sự an toàn của bản thân các ông cũng đang bị đe doạ nữa. Vì thế các ông sợ sệt, ẩn trốn.
Khi người ta theo Chúa với đầu óc vụ lợi, thì người ta tầm thường
Chúa Thánh Thần đến làm một cuộc thay đổi toàn diện: thay đổi lối nghĩ, lối nhìn, lối hiểu, lối tính toán của các ông: Hiểu giáo lý của Chúa cách siêu nhiên hơn chứ không phàm tục như trước nữa; từ đó các ông quyết định vẫn theo Chúa nhưng không phải vì tính toán vụ lợi mà vì tình yêu hy sinh xả thân hoàn toàn. Cuộc thay đổi ấy đã giúp các ông hết tầm thường, biến các ông trở nên những kẻ trung thành, những cột trụ của Giáo Hội, đến nỗi dù đe doạ, dù tù đày, dù tra tấn, dù gươm giáo, các ông cũng vẫn can đảm và hăng say loan truyền niềm tin vào Chúa.
Ngày nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, điều chính yếu chúng ta mong ước cũng không phải là có những hiện tượng lạ gió thổi ào ào, lưỡi lửa trên đầu và nói tiếng lạ…. mà chúng ta mong chờ chính sự biến đổi sâu xa và toàn diện ấy trong tâm hồn chúng ta.
Ðó cũng chính là ý tưởng của ÐGH Phaolô VI trong bài huấn dụ của ngài hôm 29.11.1972. Ngài mô tả trong Giáo Hội có nhiều người theo đạo chỉ vì óc vụ lợi và hiểu giáo lý một cách phàm tục. Chính vì thế mà theo ngài, Giáo hội ngày nay cần có một lễ Hiện Xuống mới, để xin trích dẫn nguyên văn lời ngài “làm cho Giáo Hội được sống động, như có một luồng gió thiêng liêng làm căng buồm con thuyền Giáo Hội, là nguồn suối bên trong ban tràn đầy ánh sáng và sức mạnh cho Giáo Hội…”
Chắc chúng ta cũng ở trong tình trạng của các tông đồ trước ngày được Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Chúng ta cũng đã từng theo đạo mười mấy, hai ba chục năm trời, đã từng Rửa tội, đã bao nhiêu lần xưng tội rước lễ, đã từng lãnh bí tích thêm sức, đã bao nhiêu lần nghe giảng dạy đủ mọi điều giáo lý, Tin mừng.. nhưng con người của chúng ta vẫn cứ mãi tầm thường. Ðầu óc chúng ta còn đầy tính toán vụ lợi và tinh thần phàm tục: chúng ta theo đạo để xin Chúa ban ơn cho mình, được làm ăn thành công, được khỏi nỗi buồn khổ này, được đạt đến niềm mơ ước kia. Rồi khi nào cầu xin không được hay cứ gặp khốn khó thì ta chán muốn bỏ đạo, khi gặp nguy hiểm thì ta trốn chui trốn nhủi, không dám đến nhà thờ như các tông đồ xưa trốn kín trong phòng không dám ló đầu ra. Chúng ta cũng cắt nghĩa giáo lý theo kiểu cách phàm tục, không muốn tin những điều siêu nhiên, mầu nhiệm về Thiên Chúa, về linh hồn, về thiên đường hoả ngục, về bí tích; chúng ta đòi hỏi Giáo Hội có những giải pháp dễ dãi cho cuộc sống và chống đối những chỉ dẫn của Giáo Hội mà ta cho là khắt khe, chẳng hạn về việc vợ chồng ly dị, về các phương pháp ngừa thai v.v….Tóm lại, giữ đạo một cách vụ lợi và phàm tục như thế nên cuộc sống đạo của chúng ta nó thờ ơ, thụ động, dật dờ làm sao ấy. Ta sống đạo nhưng sống như một cái xác không hồn, không hứng khởi.
Muốn cho các xác lờ đờ này thực sự có sức sống sinh động, nghĩa là muốn cho cuộc sống đạo của chúng ta được hăng hái, tích cực, phấn khởi, thì cần phải có Chúa Thánh Thần hiện xuống trên chúng ta. Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi chúng ta toàn diện như các tông đồ ngày xưa: làm cho chúng ta hiểu giáo lý Chúa một cách siêu nhiên hơn chứ không phàm tục như trước làm cho chúng ta theo Chúa không phải vì vụ lợi muốn được điều này điều nọ mà chi vì chúng ta thực sự tin Chúa, yêu Chúa và sẵn sàng hy sinh tất cả vì niềm tin yêu đó.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thể theo lời Ðức Giêsu cầu xin, Chúa Cha đã ban Thánh Thần để quy tụ chúng ta thành Giáo Hội. Chúng ta cùng dâng lời cảm tạ và cầu xin.
1. Lễ Hiện xuống là ngày khai sinh Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin / Chúa Cha ban Thánh Thần để soi sáng / hướng dẫn / và nâng đỡ các vị mục tử / trong việc điều khiển con thuyền Hội Thánh / vượt qua mọi phong ba bão táp ở trần gian.
2. Nhiều nơi trên thế giới ngày nay vẫn còn đang sống trong cảnh chiến tranh loạn lạc / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha cử Thánh Thần đến / đem yêu thương vào nơi oán thù / đem niềm vui cho người đau khổ / đem hòa bình cho những vùng còn khói lửa chiến tranh.
3. Ngày hôm nay / bạo lực và hận thù vẫn còn đang làm cho biết bao gia đình phải tan nát / biết bao người phải lâm vào cảnh khốn khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha ban Thánh Thần là nguồn tình yêu / để đổi mới lòng trí con người trên khắp địa cầu.
4. Ðường lối Thiên Chúa thì nhiệm mầu / Lời Người thì cao siêu / nhiều khi chúng ta không thể hiểu tường tận được / Vì thế chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha / ban Thánh Thần cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / để Người chỉ bảo và nhắc nhở chúng ta / những điều Chúa Giêsu đã dạy lúc còn ở với các môn đệ.
CT: Lạy Chúa Cha nhân hậu, không bao giờ chúng con có thể khám phá được hết những kỳ diệu của tình yêu Chúa dành cho chúng con trong cuộc sống. Ước gì Thánh Thần Chúa thâm nhập lòng trí chúng con, và biến đổi cuộc đời chúng con nên một lời ca tụng tình thương của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ…
VI. Trong Thánh Lễ
Trước kinh Lạy Cha: Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta và cầu nguyện thay cho chúng ta bằng những tiếng than van khôn tả. Vậy chúng ta hãy cùng Chúa Thánh Thần dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha sau đây.
Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, cách riêng là sự chia rẻ nhau. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an, và được hiệp nhất với nhau trong Chúa Thánh Thần. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp…”
Trước lúc rước lễ: Chúng ta sắp được ăn cùng một tấm bánh là chính Ðức Giêsu. Xin Chúa giúp chúng ta hiệp nhất với nhau. “Ðây Chiên Thiên Chúa…”
VII. Giải tán
Anh chị em đã được soi sáng bởi Chúa Thánh Thần và được thêm sức bởi hơi thở tình yêu của Ngài. Giờ đây anh chị em hãy ra về như những sứ giả của Tin Mừng và Bình an đối với mọi người anh chị em sẽ gặp gỡ.

17. Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống
(Suy niệm và Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Sau triều đại của Chúa Cha trên dân Thiên Chúa mà Mùa Vọng nhắc nhớ, sau sự việc Chúa Con đến trần gian mà chúng ta tưởng niệm từ Mầu Nhiệm Nhập Thể đến lễ Thăng Thiên, Phụng Vụ hôm nay cử hành Chúa Thánh Thần, Đấng tỏ mình ra vào lễ Ngũ Tuần, chính Ngài làm cho Giáo Hội được tăng trưởng và Ơn Cứu Độ được sinh hoa kết trái.
Cv 2: 1-11
Trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca tường thuật Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông Đồ, Đức Trinh Nữ, vài người phụ nữ và vài anh em của Đức Giêsu, khi họ cùng nhau tề tựu trong phòng Tiệc Ly. Biến cố này rất gần với biến cố Xi-nai mà lễ Ngũ Tuần Do thái tưởng niệm vào đúng ngày này.
1Cr 12: 3b-7, 12-13
Trong thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng những đặc sủng khác nhau làm chứng sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Những ai đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, những người ấy đón nhận những ân ban Thánh Thần, vì chỉ có một Thánh Thần để hình thành nên một thân thể.
Ga 20: 19-23
Tin Mừng Gioan tường thuật việc Đức Giê-su trao ban Thánh Thần cho các môn đệ ngay khi Ngài sống lại. Vào buổi chiều Phục Sinh, Đức Giê-su hiện ra ở giữa các môn đệ của Ngài, thổi hơi trên họ và nói: “Anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Chắc chắn những ân ban Thánh Thần chỉ bày tỏ sau nầy; tuy nhiên, thánh Gioan nhấn mạnh rằng biến cố Vượt Qua là biến cố từ đó Giáo Hội được khai sinh. Thánh Thần ở với Giáo Hội ngay từ ngày đầu tiên của biến cố Phục Sinh.
BÀI ĐỌC I (Cv 2: 1-11):
Sau khi đã chứng kiến Chúa Giê-su về trời, các Tông Đồ quay trở về Giê-ru-sa-lem tuân theo lời dặn của Đức Giê-su trước khi Ngài từ giả các ông: “Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49).
Nơi họ tụ họp là “lầu trên” (Cv 1: 13). Đây là phòng Tiệc Ly, nơi Đức Giê-su đã tham dự Tiệc Ly với các ông, trong đó Ngài đã thiết lập bí tích Thánh Thể; đó cũng là nơi dù cửa đóng then cài, Đức Giê-su đã hiện ra với các ông vào buổi chiều Phục Sinh; và đó cũng là nơi Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên các ông. Như vậy, một cách nào đó, có một mối liên kết mật thiết giữa bàn tiệc Thánh Thể với biến cố Phục Sinh và biến cố Hiện Xuống.
1. Mọi người đang tề tựu một nơi:
Không nên hiểu “mọi người đang tề tựu” như “buổi họp mặt của một trăm hai mươi người” vài ngày trước đây để chọn ông Mát-thi-a làm Tông Đồ thay thế ông Giu-đa (Cv 1:15). Đúng hơn là một nhóm người hạn định hơn mà thánh Lu-ca mô tả ở 1: 13-14: các Tông Đồ, vài người phụ nữ, Đức Ma-ri-a thân mẫu của Đức Giê-su và anh em họ của Đức Giê-su.
Họ tề tựu một nơi mà cầu nguyện trong khi chờ đợi biến cố mà Đức Giê-su đã hứa: Chúa Thánh Thần ngự xuống. Ấy vậy, một sự trùng hợp đáng ngạc nhiên. Để tỏ mình ra, Chúa Thánh Thần chọn ngày đại lễ Do thái được gọi là “Lễ Ngũ Tuần”, ngày lễ dân Do thái tưởng niệm việc ký kết Giao Ước trên núi Xi-nai giữa Thiên Chúa và dân Ngài trong trận cuồng phong và dưới dấu chỉ của lửa. Biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ được bày tỏ kín đáo hơn, nhưng theo cùng một cảnh tượng tương tự: “Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một”.
2. Lễ Ngũ Tuần:
Lễ Ngũ Tuần được xác định vào ngày thứ năm mươi sau bảy tuần khởi đi từ lễ Vượt Qua, vì bảy tuần (7 x 7) là dấu chỉ của sự viên mãn. Vì thế, chữ “Tuần” được sử dụng ở đây không là một tuần lễ có bảy ngày mà là một tuần trăng có mười ngày gồm có thượng tuần, trung tuần và hạ tuần. Lễ Ngũ Tuần Do thái tự nguồn gốc là lễ Mùa, lễ kết thúc thời kỳ thu hoạch mùa màng được khai mạc qua việc dâng tiến bó lúa đầu tiên (Đnl 16: 9-10). Tuy nhiên, các lễ hội của dân Ít-ra-en đều đã trải qua một tiến trình tinh thần hóa: từ bình diện tự nhiên sang bình diện Lịch Sử Thánh, bởi vì Lịch Sử đối với dân Thiên Chúa cốt thiết là hành động của Thiên Chúa. Lễ Vượt Qua trở thành lễ tưởng niệm cuộc giải thoát khỏi Ai-cập, lễ Lều (lễ thu hoạch nho) ghi nhớ cuộc hành trình trong hoang địa; sau cùng, lễ Ngũ Tuần, dù tương đối muộn thời, được nối kết với những biến cố Xuất Hành. Khi Giao Ước được k‎ý kết trên núi Xi-nai, năm mươi ngày sau cuộc giải phóng khỏi Ai-cập, lễ Ngũ Tuần cử hành sinh nhật của cuộc giải phóng nầy. Vào thời kỳ tiếp cận với kỷ nguyên Kitô giáo, lễ Ngũ Tuần, còn hơn ngày lễ tưởng niệm, là dấu chỉ hằng năm làm mới lại Giao Ước. Vào ngày lễ này, Dân Chúa lập lại lời thề hứa trung thành với Đức Chúa.
3. Núi thánh Xi-nai và nhà Tiệc Ly:
Trên núi Xi-nai, lời hứa trung thành với Giao Ước và ân ban Lề Luật đã được cử hành đặc biệt long trọng, mà thánh ký miêu tả theo bút pháp gần với lối hành văn ngoa dụ. Những biểu tượng được mượn phần lớn trong các tôn giáo như cuồng phong kèm theo những cuộc thần hiển. Trong Do Thái giáo, có một ghi nhận đặc thù: Đức Chúa, Thiên Chúa duy nhất và siêu việt từ chối tất cả mọi hình ảnh về Ngài, chỉ chấp nhận sự hiện diện của Ngài dưới dấu chỉ lửa (hay ánh sáng, đám mây rực sáng) và gió (cuồng phong hay cơn gió thoảng) gần với hơi thở, đồng nghĩa với “thần khí”. Đây là những hình ảnh phi vật chất nhất.
Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ được mô tả theo những cuộc thần hiển Cựu Ước. Hơn nữa, những hình ảnh truyền thống nầy trở nên phong phú nhờ những đóng góp của văn chương khải huyền. Trận cuồng phong loan báo cuộc tụ họp muôn dân vào ngày Chung Thẩm. Những lưỡi lửa thuộc vào cũng một hình tượng của thời chung cuộc nầy. Cuối cùng, truyền thống kinh sư suy niệm biến cố Xi-nai đã khai triển những ẩn ý hàm chứa nơi biến cố nầy, như tiếng nói của ông Mô-sê được phân chia thành bảy mươi ngôn ngữ ngỏ hầu tất cả mọi dân tộc đều có thể nghe hiểu. Ngoài ra, làm thế nào không gợi ra lời nguyện ước của ông Mô-sê: “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ !” (Ds 11: 29). Thánh Lu-ca nối kết trực tiếp những hình ảnh này vào ân ban ngôn ngữ mà các Tông Đồ đón nhận. Rõ ràng kỷ nguyên Kitô giáo được loan báo bởi cùng những dấu chỉ với kỷ nguyên cánh chung.
Như vậy, có một sự liên tục từ Cựu Ước đến Tân Ước. Tân Ước đáp trả cho niềm mong chờ của Cựu Ước. Mười hai Tông Đồ có mặt ở phòng Tiệc Ly để tiếp tục sự nghiệp của Đức Kitô. Nhưng chúng ta cũng dễ dàng nhận ra có những khác biệt sâu xa giữa lễ Ngũ Tuần Do thái và lễ Ngũ Tuần Ki-tô giáo.
4. Phép rửa trong Thánh Thần:
Thánh Gioan Tẩy Giả đã loan báo trước: “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước… Còn Đấng đến sau tôi… Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3: 11). Tất cả các Tông Đồ đã không đón nhận phép rửa trong nước, nhưng đều lãnh nhận phép rửa trong Thánh Thần và lửa: “Và ai nấy đều được đầy ơn Thánh Thần”. Giáo Hội khởi đi từ ngày lễ Ngũ Tuần Kitô giáo. “Lửa” gợi lên biết bao ý nghĩa: thanh tẩy, thanh luyện, hun đúc lòng nhiệt thành… như câu thành ngữ: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”.
Biến cố Xi-nai thiết lập triều đại Lề Luật trong khi những biến cố Hiện Xuống khai mạc kỷ nguyên Thánh Thần. Xưa kia một dân duy nhất làm đối tượng của việc Thiên Chúa tuyển chọn. Từ nay, mọi dân tộc đều được mời gọi dự phần vào cùng một ơn cứu độ. Vì thế, ân ban Thánh Thần đầu tiên là ân ban ngôn ngữ, ân ban cho phép các Tông Đồ ngỏ lời với đám đông thính giả dù sinh trưởng ở đâu cũng đều nghe các Tông Đồ dùng tiếng nói của họ mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa: “Chúng ta đã nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2: 11). Khi liệt kê một danh sách dài về nguồn gốc khác nhau của họ, thánh Lu-ca nhấn mạnh chiều kích phổ quát của sứ điệp Tin Mừng. Như vậy, lễ Ngũ Tuần Ki-tô giáo đối lập với chuyện tích Tháp Ba-ben (St 11), theo đó việc bất đồng ngôn ngữ và việc muôn dân bị phân tán khắp nơi xem ra là một án phạt. Giờ đây, Giáo Hội của Đức Kitô dưới sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần dâng hiến cho nhân loại khả năng hiệp nhất.
Một ân ban Thánh Thần khác, có thể hiểu biết ngay tức khắc, đó là ân ban Sức Mạnh. Ngay khi được tràn đầy Thánh Thần, các Tông Đồ mở tung mọi cánh cửa của căn phòng đóng kín vì sợ, họ bước ra gặp gỡ mọi người, mạnh dạn phục hồi danh dự của Đấng chịu đóng đinh và công bố quyền tối thượng của Đấng Phục Sinh: “Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, đẻ Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy và đang nghe” (Cv 2: 33).
5. Sự hiện diện của Đức Ma-ri-a:
Như chúng ta đã ghi nhận trước đây, cách nói “mọi người đang tề tựu một nơi” bao gồm Đức Ma-ri-a và vài phụ nữ. Sự kiện Đức Ma-ri-a có mặt vào ngày Chúa Thánh Thần khai sinh Giáo Hội thật có ý nghĩa biết bao. Trước đây, trong biến cố Truyền Tin, qua việc Thánh Thần ngự xuống trên Mẹ trong căn phòng Na-da-rét thầm lặng kín đáo, Con Thiên Chúa lặng lẽ đến ở giữa nhân loại trong cung lòng của Mẹ. Giờ đây, trong biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, Đức Ma-ri-a đảm nhận tình mẫu tử khác, tình mẫu tử thân thể mầu nhiệm của Con Mẹ, tức Giáo Hội.
Vài phụ nữ khác, chắc hẳn có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, cũng đón nhận Thánh Thần. Những người phụ nữ nầy sẽ không phải dãi dầu sương gió rong ruổi dặm trường để làm chứng cho Đức Giê-su Phục Sinh. Họ sẽ không chịu cảnh bắt bớ tù đày như các Tông Đồ, nhưng họ làm chứng theo cách khác. Họ hoạt động nhiều đến nổi truyền thống gọi bà Ma-ri-a Mác-đa-la là “Tông Đồ của các Tông Đồ”, nghĩa là Tông Đồ tuyệt hảo.
BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 3b-7, 12-13)
Thánh Phao-lô viết từ Ê-phê-xô, có lẽ vào mùa xuân 55, gởi cộng đoàn Ki-tô hữu Cô-rin-tô, mà thánh nhân đã thiết lập vài năm trước đây, vào khoảng 50-52.
1. Cộng đoàn Ki-tô hữu Cô-rin-tô:
Đây là một cộng đoàn năng động và nhiệt thành, nhưng cũng gặp phải nhiều bất đồng nội bộ đã khiến cho thánh nhân bận lòng không ít. Đó là đối tượng của thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô nầy. Cộng đoàn Ki-tô hữu này sống giữa thế giới ngoại giáo và trong một thành phố rộng mở cho những ảnh hưởng bên ngoài, nhất là những thần bí Đông Phương vào lúc đó đang sôi động. Những trào lưu nầy không phải không gây nên vài nguy hiểm đối với đời sống đạo của các Kitô hữu.
Ngoài ra, và đây là nét chung chứ không riêng gì cho cộng đoàn Cô-rin-tô, trong những năm đầu đời, các cộng đoàn tín hữu thiếu cơ cấu, chưa có định chế, khuôn mẫu thì yếu và chưa đủ. Lòng đạo của các tín hữu thường ngẫu hứng tùy tiện. Ân ban Thánh Thần được bổ sung vào những kiếm khuyết ban đầu này. Quả thật, ơn đặc sủng thì nhiều, sau đó càng lúc càng hiếm. Các tín hữu Cô-rin-tô xem ra đã được ban cho muôn vàn đặc sủng, thường gây xôn xao dư luận hay phô trương. Vì thế, thánh nhân đòi hỏi họ trước tiên phải hiểu căn nguyên của những đặc sủng nầy.
2. Căn nguyên duy nhất của các đặc sủng: Thiên Chúa Ba Ngôi.
Phải lưu ‎ý rằng thánh Phao-lô đặt những đặc sủng và hoạt động Kitô hữu dưới dấu chỉ Thiên Chúa Ba Ngôi, khởi đầu là Chúa Thánh Thần:
-Những đặc sủng thì đa dạng, nhưng luôn luôn chỉ có một Thánh Thần.
-Nhiều thừa tác khác nhau trong Giáo Hội, nhưng luôn luôn chỉ có một Chúa (Đức Kitô).
-Nhiều họat động khác nhau, nhưng luôn luôn có một Thiên Chúa (Chúa Cha), Đấng hoạt động trong mọi người.
3. Mục đích duy nhất của các đặc sủng: vì lợi ích chung.
Thánh nhân đưa ra “luật vàng”: tiêu chuẩn của các đặc sủng phải là vì lợi ích của cộng đoàn. Nghĩa là, nếu không vì ích lợi của cộng đoàn thì những đặc sủng chỉ là giả hiệu. Tiếp theo, thánh nhân đưa ra một sự so sánh nổi tiếng về một thân thể duy nhất với nhiều bộ phận: một Đức Kitô, một Giáo Hội, bất chấp nhiều bộ phận khác nhau. Nguyên tắc của sự duy nhất chính là Thánh Thần, Đấng duy nhất và từ Ngài mà mọi đặc sủng được ban cho tất cả mọi tín hữu. Sự sống Thánh Thần trào dâng trong chúng ta như nguồn nước hằng sống: “Tất cả chúng ta đầy tràn một Thánh Thần duy nhất”.
TIN MỪNG (Ga 20: 19-23)
Phụng Vụ đề nghị cho chúng ta bản văn Ga 20: 19-23 trong viễn cảnh lễ Ngũ Tuần. Quả thật, đoạn văn nầy thường được gọi “lễ Ngũ Tuần theo Tin Mừng Gioan”: Đức Giê-su “thổi hơi trên các ông và bảo: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần’”. Chúng ta sẽ thấy biến cố được tường thuật trong Tin Mừng Gioan này không mâu thuẫn với biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống được tường thuật trong sách Công Vụ, nhưng là phần bổ túc thần học: “Giáo Hội được khai sinh kể từ biến cố Phục Sinh” ngay cả nếu những ân ban Thánh Thần sẽ được bày tỏ sau nầy. Vài nét đặc trưng của đoạn Tin Mừng hôm nay đáng được nhấn mạnh hay nhắc nhớ.
1. Giáo Hội được khai sinh dưới dấu hiệu Thiên Chúa Ba Ngôi:
Vào ngày này, cộng đoàn nhỏ bé nầy hình thành Giáo Hội của Đức Giê-su. Ngài ủy thác cho họ sứ mạng là tiếp tục sự nghiệp của Ngài: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”, và Ngài thổi hơi trên các ông: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Giáo Hội được khai sinh dưới dấu hiệu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là một trong những lời dạy cốt yếu của bản văn nầy.
2. Cuộc sáng tạo mới:
Đức Giê-su thổi hơi trên họ, lập lại cử chỉ của Đấng Sáng Tạo, Đấng làm sinh động con người bằng cách thổi hơi sự sống của chính mình vào con người. Động từ được thánh Gioan sử dụng dù chúng ta không gặp thấy ở bất cứ nơi nào khác trong Tân Ước, nhưng đích thật động từ của sách Sáng Thế để chỉ cử chỉ của Đấng Sáng Tạo trong việc tạo dựng con người đầu tiên (St 2: 7).
Đây cũng là động từ mô tả những bộ xương khô được hồi sinh trong một thị kiến nổi tiếng của ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Ngươi hãy nói với thần khí: Hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những vong nhân nầy cho chúng được hồi sinh.” (Ed 37: 9). Vì thế, động từ này cốt yếu là đánh dấu “một cuộc sáng tạo mới”, một thế giới mới được khai sinh. Đức Giê-su làm cho các môn đệ của Ngài trở thành nhân tố của nhân loại được tái sinh. Để làm như vậy, Ngài tái tạo họ và tăng cường họ bằng cách thổi Thần Khí của Ngài trên họ, Ngài ban cho họ quyền tha thứ tội lỗi anh em của mình… Ngài đã hứa với họ: máu của Ngài đổ ra để tha thứ tội lỗi. Đó là sự phong nhiêu của cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
3. Biến cố Ngũ Tuần và biến cố Phục Sinh:
Thánh Gioan luôn luôn nhắm đến việc tuôn đổ Thánh Thần như nối kết với biến cố Phục Sinh. Thánh ký đã diễn tả tư tưởng nầy ở nơi lời công bố của Đức Giê-su khi Ngài nói về chính mình là “dòng nước hằng sống” vào lễ Lều: “Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh.” (Ga 7: 39).
Lễ Ngũ Tuần kín đáo và thân tình nầy mà Tin Mừng Gioan giữ lại, chỉ là khúc dạo đầu của Lễ Ngũ Tuần ngoạn mục, ở đó tác động Thần Khí sẽ biến đổi ngay tức khắc các môn đệ. Tuy nhiên, khi đặt biến cố Vượt Qua và biến cố Ngũ Tuần một cách nào đó bên cạnh nhau, thánh Gioan nhấn mạnh sự duy nhất sâu xa của hai biến cố nầy. Hai ngày đại lễ được nối kết rồi trong Do thái giáo. Đến phiên mình, thánh Gioan khẳng định sự bền vững của chúng trong viễn cảnh mới.

18. Đâu là sức mạnh làm thay đổi?
(Suy niệm của Lm. Jos Đinh Công Phúc)
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Một cách nào đó, chúng ta cũng mừng sinh nhật của Giáo hội. Bởi lẽ, chính biến cố hiện xuống đã đánh dấu chính thức sự hiện diện của Kitô giáo. Biến cố này không chỉ biến đổi các thánh tông đồ thành những nhân chứng kiên dũng của Đức tin Kitô giáo, nó cũng biến đổi thái độ và niềm tin của những ai gặp gỡ họ. Nhờ thế, cộng đồng Kitô giáo đã xuất hiện và phát triển. Chính từ biến cố này, sứ điệp của Tin mừng đã từng bước thẩm thấu và làm thay đổi nền văn minh của nhân loại. Bộ mặt của thế giới đã dần dần được biến đổi (x. Cv 2: 4- 11). Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống thiết nghĩ chúng ta nên nhìn lại đâu là nguồn sức mạnh thực sự đã và đang làm thay đổi bộ mặt của nhân loại và bộ mặt của thế giới này? Làm sao chúng ta có thể sử dụng nguồn sức mạnh này để được thay đổi cũng như để thay đổi lối sống và hoàn cảnh của chúng ta hôm nay?
Đức thượng phụ Ignatius of Laodicea đã nói rằng: không có Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa thật xa lạ, Đức Giêsu chỉ đơn giản là nhân vật độc đáo của lịch sử, Tin mừng chỉ là một cuốn sách cổ, Giáo hội cũng chỉ là một tổ chức như bao tổ chức khác, quyền lực là để thống trị, truyền giáo chỉ là tuyên truyền, phụng vụ chỉ là một hoài cổ, công việc của người kitô hữu chỉ là nô lệ; nhưng với Chúa Thánh Thần, Đức Kitô đã phục sinh và đang hiện diện, Tin mừng là nguồn mạch của sự sống, Giáo hội là sự hiệp nhất trong đời sống của Chúa Ba Ngôi, quyền lực là để phục vụ và giúp con người đạt được sự tự do toàn vẹn nơi Thiên Chúa, sứ mạng truyền giáo được khơi nguồn sức sống nơi chính Chúa Thánh Thần, phụng vụ là tưởng nhớ và nếm thử đời sống sung mãn của ân sủng nơi Thiên Chúa, công việc của người kitô hữu thì được thánh hóa.
Như vậy, chính Chúa Thánh Thần đã thay đổi bộ mặt của nhân loại và bộ mặt của thế giới này. Nếu không có Ngài, công việc của chúng ta trở nên vô ích và chỉ phục vụ cho những mục đích thấp hèn của con người. Tôi nhớ lại cách đây mấy năm, khi mà chúng tôi đang cắp sách tới trường thần học. Khi đề cập đến Chúa Thánh Thần và đời sống của Giáo hội. Thật bất ngờ khi mà một cha bạn của tôi xin đặt một câu hỏi cho cha giáo sư: thưa cha, thế Chúa Thánh Thần đã ở đâu và đang ở đâu, khi mà có biết bao công việc đã đi ngược lại với những đòi hỏi của Tin mừng. Một câu hỏi trời giáng đã làm yên lặng cả lớp học. Mọi người cứ ngỡ rằng Cha sẽ bị đuổi ra khỏi lớp học. Thế nhưng, cha giáo đã trả lời: đây là một vấn đề mà tất cả chúng ta cần tìm hiểu trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Chỉ sau khoảng hai tháng chính ngài đã có một bài “đi tìm một câu trả lời cho câu hỏi: Chúa Thánh Thần ở đâu trong thời đại của chúng ta?” Có lẽ hôm nay chúng ta cũng cần một câu trả lời cho chính chúng ta.
Chúng ta không phủ nhận dù chúng ta có nhìn thấy những tia sáng của hy vọng, nhưng tối tăm, khó khăn và những thách thức của cuộc sống luôn bủa vây cuộc đời của chúng ta. Trong hoàn cảnh này, có lẽ biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống sẽ là bài học cần thiết cho chúng ta. Các tông đồ xưa cũng đã từng phải đối mặt với những khó khăn của chết chóc, hiểu lầm, hiểu khác, hiểu sai, hiểu ngược. Và rồi bách hại, chán nản, bỏ cuộc, etc. Thế nhưng, phải nói rằng họ có một niềm tin sâu sắc đủ vào lời hứa của Đức Kitô. Họ đã kiên trì cầu nguyện. Họ đã lãnh nhận chính Chúa Thánh Thần (x. Ga 20: 21- 22). Họ đã được biến đổi và họ đã làm thay đổi thế giới (x. Cv 2: 1- 11). Phải chăng chúng ta đang cần học lại kinh nghiệm này của các thánh tông đồ?
Chúng ta tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và đồng hành với Hội thánh. Ngài hướng dẫn và thánh hóa Giáo hội. Chính vì thế mà Chúa Giêsu dám mạnh mẽ khẳng định rằng: không có quyền lực nào có thể phá đổ Hội thánh. Sẽ luôn luôn có những con người được tuôn đổ đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần, để Giáo hội phát triển trong mọi mặt. Những chứng nhân nổi bật trong Giáo hội đã gây ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới trong những năm gần đây chúng ta có thể kể đến mẹ Teresa Calcuta và Đức giáo hoàng John Paul II. Có thể chúng ta chưa phát hiện ra còn nhiều những con người đang âm thầm góp sức biến đổi những tiêu cực trong xã hội của chúng ta. Rất có thể một số là chính anh em của chúng ta đây? Chúng ta có thể tin tưởng chắc chắn rằng, Giáo hội sẽ luôn đứng vững, phát triển và trao ban ơn cứu độ cho muôn dân.
Tôi nhớ một câu chuyện khá thú vị. Một ngày kia Napoleon Bonaparte, với đầy uy quyền, nói với một Đức hồng y rằng: Tôi có thể tiêu diệt Giáo hội nếu như các ngài không theo mệnh lệnh của tôi. Vị hồng y khiêm tốn trả lời: Xin chúc mừng ngài, ngài thật uy quyền! Chính chúng tôi, nhiều linh mục của Giáo hội đã cố gắng thực hiện điều đó qua nhiều thế kỷ. Thật đáng tiếc, họ đã thất bại. Giáo hội vẫn tồn tại đầy sức sống. Nhưng Napoleon Bonaparte đã thất bại, bị khổ sai, và chết trong sự nhục nhã! Chúa Thánh Thần có thể biến đổi mọi sự nên tốt đẹp, kể cả tội lỗi của chúng ta.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, tôi có vài câu hỏi muốn được đặt ra cho chúng ta. Đã bao nhiêu lễ hiện xuống tôi đã tham dự? Chúa Thánh Thần đã thực hiện những gì trong cuộc đời tôi? Làm sao để lễ Hiện xuống năm nay có những thay đổi thực sự trong cuộc đời tôi?
Chúng ta đã chìm sâu trong lời cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần từ lễ Chúa lên trời. Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa không ngừng tuôn đổ ơn Chúa Thánh Thần trên chúng ta. Câu trả lời rất có thể không phải là Chúa Thánh Thần ở một nơi nào đó và Ngài không hoạt động. Ngài luôn hiện diện và thực thi công việc của Ngài trong thế giới này. Vấn đề là ở chính chúng ta! Liệu tôi có nghe tiếng Ngài? Tôi có tìm kiếm Ngài không? Tôi có đón tiếp Ngài không? Tôi có sẵn sàng để Ngài thực hiện công việc thánh hóa của Ngài qua tôi không? Chúa Thánh Thần sẽ không thể thực hiện điều gì, nếu như chúng ta từ chối Ngài! Câu trả lời sẽ là của mỗi người chúng ta.
Để nhận ra Chúa Thánh Thần và để Ngài hoạt động trong cuộc đời chúng ta – chắc chắn chúng ta không thể hơn các thánh tông đồ xưa – chúng ta cần cầu nguyện. Chúng ta không cần nói dài, nhưng đối thoại thường xuyên hơn với Ngài. Chúng ta cũng không cần nói nhiều, nhưng hãy mở lòng ra để đón nhận. Max Handel chia sẻ: cầu nguyện giống như chúng ta bật công tắc điện lên. Chúng ta không là nguồn điện năng. Nhưng chúng ta mở đường cho nguồn điện tuôn chảy qua và trong chúng ta. Đây có phải là cách mà chúng ta thường cầu nguyện? Nếu ngược lại, ai đang hoạt động trong chúng ta?
Có Chúa Thánh Thần, không có gì là không có thể. Nếu chỉ cậy vào tài năng của chúng ta, rất nhiều chuyện sẽ không có thể. Như vậy, nếu chúng ta nghĩ rằng chuyện gì đó không thể, thì rất tiếc rằng chúng ta đang bắt Chúa Thánh Thần phục vụ cho chúng ta. Hãy tin tưởng vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần, như Đức Kitô đã và đang tin tưởng nơi chúng ta. Đây là kinh nghiệm của những người “liều” đã hiến dâng cuộc đời cho sứ điệp của Tin mừng. Chính họ đã làm thay đổi biết bao con người. Chính họ đã làm thay đổi bộ mặt của thế giới. Thật đơn giản, họ tin tưởng nơi Chúa. Họ biết Chúa có thể thực hiện những điều phi thường qua con người mỏng dòn của họ. Chính những con người đơn sơ, thậm chí không may mắn được cắp sách tới trường như hầu hết các môn đệ của Giêsu – mà một bài giảng có thể hoán cải từ 3 đến 5 ngàn người! Đâu là phép lạ? Đâu mới thực sự là sức mạnh? Khi họ chấp nhận để Chúa Thánh Thần hiện diện nơi mình. Khi họ chấp nhận để Chúa Thánh Thần nói qua con người và miệng lưỡi mình. Khi họ chấp nhận để cho “ngôn ngữ” của Chúa Thánh Thần được nói lên. Với “ngôn ngữ” của Chúa Thánh Thần, mọi sự có thể được biến đổi, lòng người có thể thay đổi, tội lỗi sẽ được tha. Chúng ta học được gì qua những kinh nghiệm này?
Có lẽ điều lo lắng lúc này không phải làm sao tôi có thể thay đổi chồng tôi, vợ tôi, bạn tôi, con tôi, kẻ thù tôi, người tội lỗi, etc? Làm sao tôi có thể dạy họ? Làm sao tôi có thể thuyết phục họ? Câu hỏi nào đang trong đầu ban? Không cần quan tâm bao nhiêu câu hỏi. Có một điều đơn giản hơn, chúng ta nên quan tâm – câu khẳng định của Đức Giêsu: Bình an cho anh em…Anh em hãy lấy Thánh Thần (Ga 20: 21- 22). Nếu chúng ta chấp nhân điều này – chính Thánh Thần sẽ là người thực hiện. Không ai trong chúng ta có thể làm phép lạ. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thực hiện. Đâu là sức mạnh có thể làm thay đổi? Hy vọng đây sẽ là thánh lễ Hiện xuống đặc biệt trong đời chúng ta.

19. Quà tặng Thần Khí – Peter Feldmeier
(Lm. GB. Văn Hào chuyển ngữ)
“Và họ được đầy Thánh Thần” (Cv 2,4)
Lễ Hiện xuống mang một ý nghĩa sâu xa đặc biệt đối với từng người chúng ta, cũng như đối với các tông đồ năm xưa. Chúng ta khởi đầu với lễ Hiện xuống nơi các tông đồ, rồi đến chúng ta ngày hôm nay. Các tông đồ quy tụ lại mừng lễ ngũ tuần của người Do Thái, tưởng nhớ việc Chúa ban bố lề luật cho dân trên núi Sinai. Biến cố gợi nhắc đến việc Thiên Chúa quyền năng đã đưa dân ra khỏi Ai Cập, dùng cột lửa soi sáng ban đêm trong hành trình sa mạc và đã tỏ lộ uy quyền của Ngài trên đỉnh núi Sinai. Lễ ngũ tuần ngày xưa là dịp tưởng niệm việc Thiên Chúa tặng ban lề luật, là quà tặng đặc thù Thiên Chúa gửi trao cho dân. “Chúa bày tỏ Lời Người cho nhà Gia cóp, chiếu chỉ luật điều cho Israel. Chúa không đối xử với dân nào như vậy, không cho họ biết những luật điều của Người” (Tv 147,19-20).
Chúng ta cũng gợi nhắc việc Gioan tẩy giả công bố phép rửa “Bằng lửa và Thần khí” (Lc 3,16). Trong lễ Hiện xuống đầu tiên, Thiên Chúa cũng thực hiện lời tiên báo của Thánh Gioan. Ngài cũng đem Thần khí và lửa từ trời xuống trên các tông đồ. Bài đọc trong sách Tông đồ công vụ của phụng vụ hôm nay đã mô tả: “Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho (Cv 2,1.4). Sự việc đó diễn ra, khiến mọi người hiện diện, kể cả các du khách đến từ mọi nơi, thuộc các nền văn hóa và các ngôn ngữ khác nhau, có thể nghe và hiểu những gì các tông đồ nói theo ngôn ngữ riêng của mình. Sự kiện đó biểu thị hành động uy quyền của Thiên Chúa. Chúng ta đừng nên nghĩ rằng các tông đồ lúc ấy đang cầu nguyện bằng tiếng lạ giống như một ơn xuất thần mà Thánh Phaolô đã nhắc tới trong thơ gửi giáo đoàn Côrinthô (1 Cor 14). Nhưng, lễ Hiện xuống đầu tiên là thời điểm Tin mừng được quảng bá rộng khắp cho mọi dân mọi nước. Qùa tặng Thần Khí là động thái cuối cùng của Mầu nhiệm Vượt qua. Cũng như Đức Kitô biến đổi tình trạng tội lỗi nơi Adam, Thần Khí cũng biến đổi tình trạng hủy diệt nơi sự kiện tháp Babel ngày xưa. Khi xây tháp Babel, con người đã tỏ ra kiêu ngạo và cố chấp, nên Thiên Chúa đã phân rẽ họ ra thành nhiều nhóm ngôn ngữ để họ không thể thông tri được với nhau. Ngược lại, khi Thần Khí được ban xuống, Ngài nối kết muôn người thuộc mọi sắc tộc và ngôn ngữ. Điều này cũng biểu thị sứ mạng của Hội thánh, đó là công bố Tin Mừng cho mọi dân mọi nước. Bởi lẽ, tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa được ban tặng cho tất cả mọi người.
Động thái cuối cùng của Mầu nhiệm Vượt qua, mà ngày hôm nay chúng ta mừng kính, là tột đỉnh và tóm kết lễ Phục Sinh. Thiên Chúa thực hiện việc chuẩn miễn thần thiêng sâu xa nhất: Đó là ban Thánh Thần để Thần khí giờ đây thuộc về chúng ta. Đây là điểm nhấn mà Thánh Phaolô nói tới trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay. Thánh Phaolô đã khuyến cáo tín hữu Galat hãy đón nhận tự do thực sự trong Đức Kitô, chứ không phải tự do qua việc tuân thủ luật Moise. Luật lệ cựu ước rất thánh thiêng. Nó giúp tôi luyện và rèn dũa con người đi vào khuôn phép. Nhưng khi Đức Kitô đến, thời đó đã qua (Gal 3,24). Bây giờ là thời của Thần Khí, thời mà chúng ta được thông dự vào chính sự sống của Đức Kitô trong Thánh Thần.
Với suy nghĩ như thế, Thánh Phaolô đưa ra sự đối kháng giữa hoa trái của Thần khí và những công việc của xác thịt. Từ ngữ “xác thịt” (sarx) ở đây không phải chỉ nói về thân xác (soma), nhưng nói về cả tổng thể con người khi sống dưới sự khống chế của những đam mê tội lỗi. Thánh Phaolô liệt kê một loạt những đam mê thuộc về “xác thịt”, từ việc dâm dật đến những hành vi tôn thờ ngẫu tượng đang xảy ra giữa dân. Cụ thể như tội dâm bôn, sự ô uế, phong đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa chè chén… Đối nghịch với những tội lỗi theo xác thịt là hoa trái của Thần khí: Tình yêu, niềm vui, bình an, kiên nhẫn, nhân hậu, quảng đại, trung tín, hiền lành, tiết độ (Gal 5,20-23). Đây là hai phạm trù tương phản và đối kháng nhau mà Thánh Phaolô nhấn mạnh. Thánh Phaolô không nhằm đến việc nêu ra những nhân đức để chúng ta thực thi hầu hoàn thiện chính mình. Ngài muốn nói rằng, nơi một tâm hồn có những phẩm tính cao đẹp này, chính là dấu chỉ có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần bên trong. Chúng là dấu chứng cụ thể biểu tỏ sự hiện lộ của Thần Khí.
Thánh Phaolô muốn nói cho chúng ta phương cách nhận ra sự hiện diện năng động của Thánh Thần nơi các tâm hồn. Mọi người đều biết rằng, một con người bề ngoài xem ra có vẻ nghiêm túc về mặt luân lý, nhưng đôi khi đầu óc lại rất u tối, đồng thời trái tim của họ lại quá chật hẹp và sơ cứng. Tôi sợ rằng khi đến trước cổng Thiên đàng, họ sẽ nghe tiếng Chúa nói: “Ta không biết các người là ai, hãy đi cho khuất mắt Ta” (Mt 7,23). Thánh Phaolô nhắc nhở: “Khi anh em được Thần khí hướng dẫn, anh em không còn sống dưới lề luật”. Luật bắt chúng ta phải tuân phục, còn Thần khí thì mời gọi đi vào tình yêu và sự hiệp thông. Những ai sống tràn ngập yêu thương trong Thần khí, đương nhiên sẽ hiển thị hoa trái của sự hiệp thông sâu xa này.
Mỗi lần chúng ta hát thánh thi Veni Sancte Spiritus, chúng ta khẩn nài xin Chúa Thánh Thần đến, nhưng thực sự Ngài đã đến và đã hiện hữu sẵn nơi ta. Tuy nhiên chúng ta cần phải làm hiện lộ sung mãn hoa trái của Ngài. Tất nhiên với tự do, con người có thể cản che hoặc làm suy yếu hoạt động của Thánh Thần nơi họ, nhưng chúng ta không thể chối từ một sự thật, đó là Thần khí đã được ban cho chúng ta và thuộc về chúng ta. Đó là món quà cao quý nhất mà Thiên Chúa đã hiến tặng. Thánh Thần chính là quà tặng được ân ban cách nhưng không, còn chúng ta, chúng ta phải khai mở món quà đó ra và để Thánh thần tác động. Ngay bây giờ và ngay tại nơi đây, chúng ta cần phải thực hiện công việc này.

20. Chúa Thánh Thần – Tôn sư nội tâm
(Suy niệm của Dã Quỳ)
Trong chương trình tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, Chúa Cha đã yêu thương đến nỗi ban chính Con Một là Chúa Giêsu đến ở cùng và cứu độ chúng ta. Sứ vụ của Chúa Giêsu kết thúc nhưng Người yêu thương các môn đệ và Giáo hội đến cùng. Thế nên Ngôi Ba là Chúa Thánh Thần được sai đến để tiếp nối sứ vụ huấn luyện các môn đệ. Người sẽ dạy dỗ, hướng dẫn, làm cho các môn đệ và tất cả chúng ta nhớ, hiểu, làm những gì Chúa Giêsu đã nói.
Sau biến cố Tử Nạn của Chúa Giêsu, các môn đệ quá sợ hãi! Sợ nên mới đóng kín cửa. Cái sợ tột cùng nhất là sợ mất mạng sống. Biết rõ tâm trạng của môn đệ, sau khi sống lại Chúa đã đến với họ. Chúa không chỉ trấn an mà còn ban cho họ chính bình an của Chúa. Tâm hồn có bình an thì sợ hãi sẽ rời xa. Khi các môn đệ đã tin, nhận ra Chúa thực sự sống lại và được bình an; Chúa tiếp tục trao ban Thánh Thần của Chúa cho môn sinh và sai các ông ra đi tiếp nối sứ mạng của Người nơi trần gian.
Chính Chúa Giêsu đã sai Chúa Thánh Thần đến với các môn đệ “nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em.” (Ga 16,7c) Thánh Gioan mô tả Chúa thổi hơi vào các môn đệ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” (Ga 20, 22) Vậy từ nay, Chúa Thánh Thần có một sứ vụ đặc biệt trong Giáo Hội, trong mỗi tâm hồn người môn đệ và Kitô hữu.
+ Chúa Thánh Thần là Đấng gợi hứng và hành động. Người hướng dẫn chúng ta cách rõ ràng, mạc khải cho chúng ta biết ý muốn của Thiên Chúa và tất cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa, vì Người là Thần Trí của Thiên Chúa và phát xuất từ Chúa Cha (x. Ga 15,26)
Chính vì thế, khi nói về Thiên Chúa hay Lời của Người, chúng ta không dùng lời lẽ từ trí khôn của mình nhưng là lời do Thánh Thần Chúa soi sáng linh hứng và là những gì ta đã học được từ Chúa.( x. 1Cr 2, 10-16) Thế nên, Thánh Phaolô đã nhắc nhở tín hữu hãy nhớ “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Chúa ngự trong anh em sao?”( 1Cr 3,16-17). Một khi xác tín chúng ta là Đền Thờ và Chúa Thánh Thần luôn ngự trị, là tôn sư hướng dẫn, chúng ta sẽ tín thác vào Chúa và lắng nghe Người chỉ dạy.
Ma quỉ làm chúng ta bối rối, lo lắng và đưa ta đến thất vọng. Còn Chúa Thánh Thần, Người sẽ hướng dẫn ta cách thực hiện thánh ý Thiên Chúa, biết hy sinh. Người khiển trách ta cách nghiêm nghị nhưng luôn nâng đỡ ta trong dịu êm như người cha, như thầy thuốc. Những tư tưởng tốt lành trong ta đều đến từ Chúa Thánh Thần. Người gợi hứng, chỉ dạy chúng ta mọi điều như lời Chúa Giêsu dặn “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều.”( Ga 14,26)
Khi ta biết bàn hỏi với Chúa Thánh Thần trong những công việc, những quyết định, ta sẽ nhận được ơn bình an và tinh thần sáng suốt. Chính vì thế, Thánh Phaolô đã dặn dò mỗi Kitô hữu chúng ta hãy sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và khi ấy ta sẽ được tràn đầy hoa trái của Người là: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ.” (Gl 5,22) Vậy ta hãy năng trò chuyện với Chúa Thánh Thần và lắng nghe Người.
+ Chúa Thánh Thần là Đấng dạy chúng ta yêu và cầu nguyện. Chúa Thánh Thần luôn ở giữa chúng ta và ở trong chúng ta. (x. Ga 14,17) Người dạy chúng ta biết yêu mến Thiên Chúa, yêu thương nhau và chúng ta yêu bằng tình yêu của chính Người ở trong tim ta. Người biến đổi con tim của chúng ta. Mọi sự thánh thiện, mọi nhân đức và mọi hành động tốt lành của ta đều do Người hình thành và hoàn thiện vì Người là Thánh Thần thánh hóa.
Người còn dạy chúng ta biết cầu nguyện, tôn vinh chúc tung Thiên Chúa thế nào cho phải vì lời lẽ của ta không xứng hợp và chính Người cầu thay nguyện giúp cho ta. (x. Rm 8,26-27) Hơn thế nữa, người biển đổi chúng ta thành con của Thiên Chúa, chứng thực chúng ta có quyền gọi Thiên Chúa là Cha và được quyền đồng thừa kế với Chúa Kitô. (x. Rm 8,15-17)
+ Chúa Thánh Thần là Đấng đào luyện. Người huấn luyện, làm cho chúng ta trở nên những Kitô hữu và là chứng nhân của Chúa Kitô “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” (Ga 20, 21-22) Khi có Chúa Thánh Thần, chúng ta trở nên con người mới và tràn đầy ân sủng.
Chính Chúa Thánh Thần đã biến đổi các môn đệ từ những con người nhút nhát nay dám mở toang cửa ra, vững tin và can đảm hăng say ra đi loan báo Tin Mừng. Chúa Thánh Thần là tác nhân chính trong Giáo Hội, là Đấng không ngừng hướng dẫn đoàn dân Chúa. Người luôn hiện diện và soi dẫn trong từng lời môn đệ rao giảng “Chúng tôi xin làm chứng cùng với Thánh Thần.” (Cv 5,32) hay trong những quyết định “Thánh Thần và chúng tôi quyết định.”(Cv 15,28) Hơn nữa, Người là Đấng luôn kiện toàn và hiệp nhất Giáo Hội, hiệp nhất chúng ta.
Hôm nay, Chúa Thánh Thần vẫn luôn đào luyện mỗi chúng ta trở nên Kitô hữu thực sự và là sứ giả Tin Mừng giữa lòng đời. Người giúp chúng ta biết nhìn thực tại thế giới này trong ánh sáng của Chúa và Người dạy ta biết phân định, nhận ra những dấu chỉ thời đại. Chúa Thánh Thần cũng không ngừng canh tân chúng ta và ban sức mạnh giúp ta vượt thắng được những khó khăn trong cuộc sống ơn gọi Kitô hữu. Nhưng quan trọng chúng ta cần kết hợp với Người và cộng tác với Người, cách cụ thể là cầu nguyện và thân thưa với Người. Hãy đặt mình dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và chúng ta sẽ biết phải làm gì, sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa.
Ngày Lễ Chúa Thánh Thần được gọi là ngày khai sinh Giáo Hội. Nguyện xin Chúa Thánh Thần ngự đến trong mỗi người chúng ta, trong Giáo Hội và trên toàn Thế giới, như một ngọn gió mới tái tạo trái đất và Giáo Hội Chúa. Để rồi nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta biết sống hiệp nhất, yêu thương và trở nên một thân thể duy nhất trong Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã yêu thương chúng con vô bờ bến nên đã gởi Chúa Thánh Thần đến. Xin Chúa Thánh Thần luôn là Tôn Sư ở trong chúng con, dạy dỗ và biến đổi chúng con mỗi ngày thành Kitô hữu đích thực và thành chứng nhân của Chúa Kitô. Amen.

21. Ý nghĩa mỗi ơn trong bảy ơn Chúa Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
“Xin ban cho họ thần trí khôn ngoan và thông hiểu, thần trí lo liệu và sức mạnh, thần trí suy biết và đạo đức – xin ban cho những người này đầy ơn kính sợ Chúa.” (Nghi thức Thêm Sức, lúc đặt tay)
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa mỗi ơn trong 7 ơn Chúa Thánh Thần.
Xin thú thật mãi cho tới những năm gần đây vẫn không sao phân biệt nổi những ơn này khác nhau làm sao. Nhất là mấy ơn đầu: 1) Khôn ngoan, 2) Hiểu biết 3) Thông minh. Ba ơn này chẳng là một hay sao, tuy mức độ có chênh nhau hơn kém… . Như khi người ta khen con cái mình rằng là nó nhỏ nhưng nó khôn lắm, nó thông minh lắm, nó hiểu nhanh lắm, ta thấy ba cái khen đó, nó “xêm xêm”: chẳng khác gì đầu đề một quyển sách châm biếm của nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ Azit Nêxin: “Con chúng ta giỏi thật !”
Sách “Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo” năm 1992 có nhắc tới 7 ơn này hai lần, một trong phần Nghi thức bí tích Thêm sức (số 1299) và một trong phần Hiệu quả bí tích (số 1303), nhưng chỉ liệt kê chứ không có một dòng giải thích.
Vậy muốn hiểu rõ 7 ơn Chúa Thánh Thần, ta phải coi lại bản gốc của nó: Isaia 11,2. Các nhà chuyên môn đã làm giúp ta, ta chỉ việc thu lấy kết quả của họ. Vì quả thật nếu dịch các ơn đó từ tiếng Hipri rồi Hy lạp qua Latinh, rồi mới từ Latinh chuyển qua tiếng Việt chúng ta đọc, thì thật khó lòng hiểu nổi các ơn đó muốn nói gì. Cần phải dịch lại mới sáng tỏ nội dung. Chúng ta sẽ không khởi đầu từ ơn khôn ngoan mà đi từ ơn thứ bảy, ơn dễ hiểu nhất để ngược lên tới ơn trên cùng là ơn khôn ngoan.
7- Ơn thứ bảy là ơn kính sợ Đức Chúa Trời. Đây là ơn mà đọc lên chúng ta hiểu ngay muốn nói gì. Kính sợ là úy kính, một tâm tình mà ở trần thế này con người cần có thì mới mong tránh loạn tặc. Khi một người nào đó ngang tàng, coi trời bằng vung, không biết sợ trời là gì, thì người ấy có thể làm mọi sự và thường là những điều tệ hại nhất.
6- Nhưng một ơn khác của Chúa Thánh Thần làm cho ơn kính sợ này trở nên tình yêu, đó là ơn đạo đức. Sáu là ơn đạo đức: nghe “đạo đức”, ta nghĩ ngay đạo đức là năng đi nhà thờ, năng đọc kinh lần hạt. Nhưng đó mới là những diễn tả. Đạo đức chính là Đạo làm con. Một người con năng đến với cha là người con có hiếu. Và nếu cần dịch lại thì sẽ là ơn sùng hiếu (pietas). Ơn thứ 7 cho ta kính sợ Chúa, nhưng không phải kính sợ Chúa như một ông vua đầy uy quyền sát khí, một lời nói là đầu rơi, một chau mày là người chết. Nhưng ơn kính sợ Chúa cộng với ơn sùng hiếu này khiến ta kính sợ Chúa như người Cha của chúng ta. Đây phải là một ơn riêng của Chúa Thánh Thần khiến ta mới có thể dám xem Chúa là Cha của mình (x. Ga 4,6 ; Rm 8,15).
5- Năm là ơn mạnh bạo hoặc ơn mạnh sức. Đây không phải là sức khoẻ phần xác thôi, nhưng là sự dũng cảm của một người con Chúa can trường và vui vẻ thực hiện ý của Cha mình. Do đó có thể dịch ơn mạnh bạo là ơn dũng cảm.
Thực vậy để thực hiện chứ không phải chỉ biết thôi –ý của Chúa- nhiều khi chẳng dễ nuốt ngon ăn. Phải dũng cảm lắm mới được. Chúa Giêsu đã nói: Từ ngày Gioan Tẩy Giả đến giờ, Nước Trời ở dưới sức cường bạo, và chỉ những ai mạnh bạo mới được vào Nước Trời (Mt 11,12). Một chỗ khác, Chúa Giêsu nói: Không phải cứ kêu ‘Lạy Chúa, lạy Chúa’ mà được vào Nước Trời, nhưng là thi hành ý của Cha Ta (Mt 7, 21). Móc nối 2 câu này ta thấy phải dũng cảm lắm mới thực thi được ý Chúa để có thể chiếm Nước Trời.
4- Bốn là ơn lo liệu. Ơn thứ năm mạnh bạo cho ta sự dũng cảm để làm theo ý Chúa, nhưng chính ơn lo liệu này, dịch rõ hơn phải là ơn chỉ giáo cho ta biết đâu là ý Chúa trong từng trường hợp cụ thể. Trong Tam Quốc Chí, Khổng Minh Gia Cát Lượng trao cho Triệu Tử Long trên đường sang Đông Ngô 3 túi gấm trong đó có sẵn những chỉ dẫn. Khi cần thì cứ mở cẩm nang (túi gấm) để biết phải làm gì, làm gì, làm gì. Tới bờ sông, mở túi gấm 1, gặp quả núi mở túi gấm 2…
Vì thế ơn lo liệu tức là ơn cẩm nang, ơn túi gấm, ơn chỉ giáo: (conseil) là ơn hiểu biết ý Chúa trong từng trường hợp cụ thể để ơn dũng cảm cho ta sức mạnh thi hành.
Ba ơn còn lại liên hệ đến chữ BIẾT. Nhưng mỗi ơn cho ta biết Chúa mỗi cách.
3- Ba là ơn thông minh. Dịch như trong lời nguyện của Bí tích Thêm sức sẽ dễ hiểu hơn: ơn suy biết. Là ơn mình suy từ thiên nhiên vạn vật mà biết có Chúa là Đấng Tạo Hoá. Cách biết Chúa bằng lối này Chúa Thánh Thần ban cho rất nhiều người. Nhìn chiếc đồng hồ có các bánh xe ăn khớp nhau, ta suy biết có người làm ra đồng hồ. Thì nhìn trời đất muôn vật với trật tự lạ lùng, ta suy ra có ông Trời là Tạo Hoá. Đây là cách biết Chúa sơ đẳng nhất: biết Chúa qua thiên nhiên, biết Tạo Hoá qua mọi thọ tạo. Trước đây dịch là ơn thông minh. Dịch là ơn suy biết thì có lẽ thông minh hơn !
2- Ơn suy biết là biết Chúa qua thọ tạo (Science). Cách biết Chúa cao hơn là biết Chúa qua mạc khải. Đây chính là ơn thứ hai: hai là ơn hiểu biết, hay dịch đúng hơn: ơn thấu hiểu, ơn thông hiểu. Không phải là hiểu biết thường qua thọ tạo, nhưng là hiểu biết thấu đến chính Tạo Hoá đó đã tỏ mình ra với con người. Tiếng chuyên môn gọi là mặc khải. Nói rõ hơn, ơn này đòi hỏi ta phải tin nữa. Tin Thiên Chúa là Lời – Lời nói với con người – cụ thể là tin Kinh Thánh là Lời ngỏ của Chúa cho nhân loại. Ơn này cũng còn có nghĩa là hiểu lời ngỏ của Chúa nữa: nói nôm na là hiểu và giải thích Kinh Thánh. Các nhà chú giải Thánh Kinh có lẽ nhận được ơn này nhiều. Tất cả thuộc phạm vi của ơn thấu hiểu.
1- Và cuối cùng là ơn khôn ngoan: một là ơn khôn ngoan. Chữ “khôn ngoan” chưa nói được gì cả về ơn thứ nhất trong 7 ơn Chúa Thánh Thần này. Phải móc nối với một câu trong sách Khôn Ngoan ta mới khôn ra được, mới sáng trí hơn: Xin rộng ban cho tôi, Đức Khôn Ngoan hằng ở bên toà Chúa (Kn 9,4). Hoặc trong sách Huấn ca: Khôn ngoan đều xuất phát bởi Chúa, và khôn ngoan ở với Người muôn đời (Hc 1, 1). Vậy ơn khôn ngoan dịch cách khôn ngoan hơn phải là ơn thượng trí, tức là ơn “biết” Chúa thật sự, biết theo nghĩa Kinh Thánh—có thể nói như thế: Adong biết Eva, sinh ra Cain. Ơn thượng trí cho ta biết Chúa thật sự bằng cách bay vút lên trời (thượng trí mà !) để sống thân mật, sống kết hợp, sống kề cận ở ngay bên Chúa, nếm được Chúa, cảm được Ngài: Đức khôn ngoan hằng ở bên toà Chúa.
Chúa Thánh Thần cũng ban ơn thượng trí này cho một số vị tuy còn trong thân xác trần gian, nhưng ngất trí, được đưa thấu tận trời xanh để cảm, để nếm Chúa, để -nói theo lối nói của kẻ đã được đưa lên tầng trời thứ ba: có trong thân xác hay ngoài thân xác, người ấy không biết- đưa lên để nghe những lời khôn tả mà loài người không được phép nói lại. “Về một người như thế, tôi sẽ tự hào.” Phaolo thuật như vậy trong 2Cr 12, 1-6.
Nhiều vị thánh khác, nhất là thánh nữ, được ơn thượng trí kết hợp với Chúa trong khi cầu nguyện. Toma Celano thì nói về Phanxicô Assisi như sau, “khi cầu nguyện, không phải là thánh nhân cầu nguyện mà Phanxicô là hiện thân của sự cầu nguyện” -một kiểu nói khác của sự kết hợp chiêm niệm, của ơn thượng trí. (Nếu các thánh khó khăn lắm mới được ơn này, thì hình như ta dễ dàng được ơn thượng trí, ngất trí này hơn, nhất là trong tuần phòng gặp những bài giảng khô và lâu, tức gặp những chuyên viên gây mê giỏi !). Thôi ta hãy khoan vội xin ơn thượng trí này, mà ta hãy cứ thấy Chúa bằng ơn suy biết khi đi dạo vườn hoa cây cối nơi TGM này. Xin Chúa Thánh Thần cho ta biết hô lên Eureka như Archimede ngày xưa khi ta khám phá được ý nghĩa hay ho của Lời Chúa qua ơn thấu hiểu. Ta hãy xin cho ta biết ý Chúa muốn ta làm gì hôm nay, chốn này, qua ơn chỉ giáo. Lại xin ơn dũng cảm để ta thực thi điều Chúa chỉ giáo. Và như thế ta là người con thật của Chúa là Cha qua ơn sùng hiếu và ơn kính sợ.
[Còn nếu ta xin thẳng ơn thượng trí để “biết” Chúa, kết hợp với Chúa ngay từ đầu tuần phòng, thì chẳng cần mấy bài giảng của đức cha, chẳng cần lân la đến nhà thờ lễ lạy, vì ta đã đắm chìm trong Ngài rồi, thì quả là “khôn ngoan,” mà dịch là ơn khôn ngoan cũng chẳng sai vậy !]
[Ghi chú: ta thấy các ơn đi từng cặp:
– ơn sùng hiếu làm cho ta kính sợ Chúa như con kính sợ Cha
– ơn dũng cảm làm cho ta dám thực hiện ý Chúa trong giây phút hiện tại mà ơn chỉ giáo cho ta biết đâu là ý của Ngài lúc này.
– ơn suy biết cho ta biết Chúa qua thọ tạo thiên nhiên để rồi nhờ ơn thấu hiểu giúp ta biết Ngài ngỏ lời với con người.
– cuối cùng, khi biết Chúa thì yêu Ngài (vô tri bất mộ): lúc đó biết theo nghĩa thông thường trở thành “biết” theo nghĩa Kinh thánh, tức là yêu, là kết hợp với Chúa qua ơn thượng trí.]
Bảy Ơn:
1. ơn Khôn ngoan (dịch lại là ơn Thượng trí, ơn kết hợp thân thiết với Chúa)
2. ơn Hiểu biết (dịch lại là ơn Thấu hiểu, hiểu biết Chúa qua mạc khải)
3. ơn Thông minh (dịch lại là ơn Suy biết, biết Chúa qua suy ra từ vạn vật)
4. ơn Lo liệu (dịch lại là ơn Chỉ giáo, chỉ cho ta biết đâu là ý Chúa trong từng trường hợp cụ thể)
5. ơn Mạnh bạo (dịch lại là ơn Dũng cảm, dám can đảm thực thi ý Chúa mà ơn Chỉ giáo cho biết)
6. ơn Đạo đức (dịch lại là ơn Sùng hiếu, ơn kính sợ Chúa trong tư cách là con của Cha, chứ không phải bề tôi của vua)
7. ơn Kính sợ (không cần dịch lại)

22. Vô hình vô dạng – Lm Vũ Đình Tường
Nó vung tay chụp trước, chụp sau, phải trái xoè bàn tay ra vẫn không có gì. Có người thắc mắc hỏi bắt gì vậy. Nó đáp tỉnh bơ: Bắt gió. Vô hình vô dạng hay thiên hình vạn dạng chính là thực tế của gió. Gió hình thù ra sao không xác định được, không có câu trả lời. Nhìn hàng cây uốn cong rạp ta biết có gió to. Thấy bông hoa lay động ta biết gió thoảng. Nghe tiếng thổi ào ào qua tai ta biết gió lớn. Sóng biển dâng cao ta biết gió lộng. Thấy mát quanh người ta biết có gió. Tất cả những hình ảnh đó không phải là gió mà là ảnh hưởng của gió. Không nhìn thấy, không sờ mó được, không hoạ được nhưng không thể chối cãi gió không có thật. Gió có thật và rất cần cho đời sống, ở bên ta, quanh ta, cảm được nhưng không sờ bắt được.
Lửa Cháy
Nó vẽ ngọn lửa nhưng lửa cháy bập bùng, liên tục hình này nhô lên ngọn kia phụp xuống. Cố vẽ trên hình vẽ thành một biển lửa, vẫn chưa xong còn nhiều hình mới để vẽ. Các hoạ sĩ diễn tả tượng trưng một lưỡi lửa cháy bập bùng thoáng nhìn qua biết là hình của lửa. Nhận biết vì được học như thế, thực tế lửa không mang hình nhất định. Cứ quan sát ngọn đèn cháy trước gió chúng ta thấy hình lửa cháy thay đổi liên tục từng chớp mắt. Mỗi một giây, một tích tắc lửa thay hình đổi dạng nhiều lần. Không lần nào giống lần nào như thế thì hình lưỡi lửa cháy bập bùng chỉ là hình tượng trưng được mọi người công nhận hình của lửa. Thực tế hình lửa cháy thay đổi liên tục, không ngớt cho đến khi tàn mới thôi. Lửa còn có một thực tế vô hình khác đó là khói. Khói thay đổi liên tục, cứ lan ra mãi, lan mãi cho đến khi chìm vào thinh không. Hình ảnh khói bay cũng vậy càng lan rộng càng thay đổi hình và không thể vẽ cho hết được. Có lẽ ngay cả khí nóng do lửa phát ra cũng liên tục thay đổi.
Mây
Nằm ngoài sân ngó lên trời xanh thẳm thấy đám mây hình con gấu, chớp mắt vài lần thấy hình con gấu biến mất. Thay hình đổi dạng liên tục là thực thể của mây. Mây không cánh mây vẫn bay. Mây trời dầy đặc nhưng cũng nhẹ nhàng treo gềnh núi. Mây dầy đặc lại dễ tan. Mỗi đám mây có mầu riêng. Mây thuộc dạng vô hình hay muôn hình vạn sắc.
Thần Khí
Gió, lửa và mây là ba hình ảnh tượng trưng cho ngày lễ chúng ta long trọng mừng kính trong ngày Chúa Nhật Chúa Thánh Thần. Ba hình đó là hình lưỡi lửa, gió thổi và cột mây.
Cả ba thực thể đều gần con người.
Cả ba thực thể đều vô hình hay muôn hình.
Cả ba thực thể đều cần thiết.
Cả ba thực thể đều không thể sờ mó, cầm bắt được.
Cả ba thực thể đều có thể cảm nghiệm.
Tinh thần mới
Sống tinh thần mới chính là cảm nhận Lời Chúa Jesu. Sau ngày Chúa về trời Kitô hữu không nhìn thấy Chúa, không nghe tiếng Chúa nhưng cảm nghiệm bằng mắt đức tin, lòng tin. Cảm thấy Chúa hiện diện, đồng hành, cùng sống, cùng hoạt động trong các sinh hoạt thường nhật. Sống dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần chính là những cảm nghiệm ấm áp, gần gũi đó. Cảm nghiệm đến từ trong, từ trong nội tâm và hành động vì lòng mến. Sống và thực hành Lời Chúa trong tâm tình mới, tâm tình yêu thương, phó thác.
Biết Thánh Thần qua Chúa Giêsu
Trước khi về trời Chúa Jêsu hứa ban Thánh Thần. Thánh Thần Chúa đến không mang điều mới mẻ nhưng làm mới lại những điều Chính Chúa Kitô đã giảng dậy, làm sống lại những điều Chúa Kitô đã rao giảng. Giúp các Kitô hữu thấu hiểu sự thật được Chúa giảng dậy, giúp các Kitô hữu nhớ lại điều Chúa đã dậy và sống Phúc Âm theo tinh thần mới trong hoàn cảnh mới.
Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em’ (Gn 14,26)
Nếu anh em yêu mến Thầy anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy và Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí Sự Thật. (Gn 14,15)
Thần Khí sự thật sẽ dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn, Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe Người sẽ nói lại và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến (Gn 16,13)
Thánh Thần
Trong các thực thể kể trên, gió, lửa và mây chúng ta đi vào chi tiết một thực thể là để nhận biết công việc của Thánh Thần.
Lửa, khói và nhiệt đều được liệt kê vào thực thể vô hình vô dạng hay thiên hình vạn dạng. Lửa biến ải khôn lường, sức nóng phát ra khủng khiếp, khói toả lan mọi góc kẽ và ánh sáng lửa đánh tan mọi tối tăm. Hình ảnh Thánh Thần Chúa hứa ban có sức mạnh hơn biển lửa. Sưởi ấm và ban sức mạnh cho mọi tâm hồn, liên kết mọi dân tộc, hiệp nhất người thiện tâm. Ban sức mạnh, sai rao giảng Tin Mừng, giúp thấu hiểu các mầu nhiệm, hướng dẫn đến chân lí, ban sự sống. Bài ca tiếp liên ghi Thánh Thần đổi mới mặt đất, cha kẻ cơ hàn, đấng an ủi tuyệt diệu, thượng khách của tâm hồn, là gió mát, là hào quang, rửa sạch mọi vết nhơ, tưới gội nơi khô cạn, chữa lành mọi vết thương, uốn thẳng lòng cứng cỏi, sưởi ấm chốn lạnh lùng, sửa sang cho ngay thẳng, ban niềm vui muôn thuở trong giờ phút lâm chung.

23. Ơn làm nghĩa tử – Lm. Vũ Đình Tường
Hàng năm vài ba tháng trước Giáng Sinh và Phục Sinh, giới thương mại trưng bày hàng hoá, kêu gọi, cổ võ và đếm giật lùi từng ngày cho đến đại lễ. Mục đích nhắc nhở, thúc dục chi tiêu, mua bán để họ thu lợi. Tuy nhiên giới thương mại dường như không biết nhiều về Đại lễ Chúa Thánh Thần. Có lẽ một là không thu được mấy lợi lộc. Hai là không có ngày nghỉ kèm theo dịp lễ trọng này. Đối với Kitô hữu, lễ Chúa Thánh Thần ban muôn ân như lời Đức Kitô hướng dẫn các môn đệ.
Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần, Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em 14,26
Ngài là Đấng bào chữa, trợ giúp, bênh vực, chỉ đường.
Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người Gn 14,16
Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật 15,26
Nghĩa tử
Dường như hai đại lễ Giáng Sinh và Phục Sinh là những lễ lớn chung cho toàn thế giới vui mừng chào đón. Riêng đại lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống dành ưu tiên, trước tiên cho các Tông Đồ và cho các Kitô hữu, những người tin vào Đức Kitô qua lời rao giảng của các Kitô hữu khác. Đây là ơn Chúa ban riêng giúp ta trở nên nghĩa tử Đức Kitô.
Chúng ta nhớ lại lời loan báo của sứ thần Thiên Chúa trong đại lễ Giáng Sinh cho các mục đồng.
Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân. Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em. Lc 2,10
Trước khi tự hiến, nộp mình, vâng lời Chúa Cha, chết trên thập giá, Đức Kitô loan báo Người sẽ chết cho toàn dân được ơn cứu độ.
Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi Gn 12,32
Khi nói về Thánh Thần Đức Kitô dường như nói món quà quí trọng này dành riêng cho những ai thuộc về Ngài.
Những kẻ Cha đã ban họ cho con, con đã cho họ biết danh Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha Gn 17,6
Con cầu nguyện cho họ, con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha. 17,10
Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần Gn 17,15
Kinh tiền tụng lễ Chúa Thánh Thần ca tụng Thiên Chúa đã ban Thánh Thần xuống trên con cái Chúa.
Để hoàn thành mầu nhiệm Vượt qua, hôm nay Cha rộng ban Chúa Thánh Thần cho những người đã được Cha nhận làm nghĩa tử, nhờ kết hợp với Con Một Cha.
Điều kiện cần thiết để nhận ơn Chúa Thánh Thần là nhận biết Đức Kitô Con Một Thiên Chúa. Kitô hữu nhận ơn Thánh Thần qua lời cầu xin của chính Đức Kitô. Nhờ lời Ngài cầu xin mà Chúa Cha ban Thánh Thần cho những ai tin vào Ngài, trở thành nghĩa tử. Chỉ những ai trở thành nghĩa tử mới được nhận ơn khôn ngoan của Thánh Thần Thiên Chúa. Nghĩa tử được Đức Kitô cầu cho trước mặt Chúa Cha. Nghĩa tử được kết hợp mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Biểu tượng
Đại lễ Chúa ThánhThần mừng kính 50 ngày sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết và 10 ngày sau khi Đức Kitô về cùng Chúa Cha. Trong ngày lễ Chúa Thánh Thần. Hình lưỡi lửa xuống trên đầu các thánh tông đồ. Các ngài bắt đầu rao giảng, làm chứng về Đức Kitô. Hôm nay cũng được coi là ngày Giáo Hội chính thức khai sinh. Cuộc rao giảng về Đức Kitô bắt đầu, trước khi về trời Ngài chính thức trao sứ mạng rao giảng lại cho các môn đệ.
Qua giòng lịch sử Giáo Hội, Lễ Chúa Thánh Thần mang nhiều biểu tượng, nói lên ý nghĩa linh hoạt khác nhau của Thánh Thần Chúa.
Trước hết là hình lưỡi lửa được sách Công Vụ Tông Đồ ghi nhận. Màu đỏ còn tượng trưng cho màu máu các thánh tử đạo đổ ra làm chứng cho đức tin, do sức mạnh của Thánh Thần thôi thúc.
Màu Trắng hay còn gọi là Chúa Nhật thanh tẩy tượng trưng cho áo màu trắng các tân tòng mang trên mình trong ngày gia nhập Giáo Hội. Màu trắng tượng trưng cho ơn khôn ngoan do Thánh Thần ban, hướng dẫn giúp các tân tòng nhận biết Thiên Chúa.
Thánh Thần Đấng làm thay đổi bộ mặt trái đất, sưởi ấm tâm hồn nguội lạnh, làm sống lại những con tim chai đá và làm cho đời sống Giáo Hội sinh mầm, nảy lộc. Trong ý nghĩa đó cành lá xanh tươi mang dấu chỉ của sự sống mới, tốt lành. Lịch sử Giáo Hội có thời người Kitô hữu thường trang hoàng các cành, lá non, xanh trong thánh đường và tư gia nhắc hở nhau canh tân cuộc sống.
Cầu chúc Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn các tín hữu.

24. Chung hình ảnh – Lm Vũ Đình Tường
Tương tự nhau không hẳn là giống nhau mà chỉ giống phần nào thôi. Cùng chung hình ảnh nói rõ điều muốn diễn tả. Hình ảnh gợi lên điểm giống nhau. Chúng ta hay nghe ví von hai người giống nhau như hai giọt nước. Ví von như thế diễn tả hình dáng bề ngoài nhiều hơn là nhấn mạnh đến phẩm chất bên trong của nước. Khi diễn tả con người được dựng nên theo hình ảnh Chúa dẫn chúng ta đến việc nhận biết chúng ta bề ngoài tuy nhìn khác nhau nhưng trong nội tâm cùng chung hình ảnh Thiên Chúa. Sách Sáng Thế Kí chương Sáng Tạo nói Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Người. Sau khi tạo dựng Thiên Chúa ban cho con người Thần Khí và con người có sự sống. Nhân loại được khai sinh trong trường hợp đó- mang hình ảnh của Thiên Chúa. Giáo Hội Chúa quy tụ những người tin vào Thiên Chúa vì thế Giáo Hội Chúa cũng mang hình ảnh Thiên Chúa. Hình ảnh này trở nên sống động trong ngày các tông đồ nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Đây chính là ngày khai sinh của Giáo Hội.
Giáo Hội và Kitô hữu cùng mang hình ảnh Chúa, nhận chung một Thánh Thần nên có chung một nguồn gốc và chung một sứ mạng rao giảng. Vì thế rao giảng, mang Tin Mừng đến cho muôn dân là sứ mạng chung của Giáo Hội và là sứ mạng riêng của mỗi Kitô hữu. Chúng ta có chung sứ vụ rao giảng, cùng làm chứng cho Tin Mừng nhưng không phải tất cả các Kitô hữu đều tích cực trong việc rao giảng. Kitô hữu nào trung thành trong việc vác thập giá hàng ngày bước theo Đức Kitô mới thực sự là môn đệ trung tín của Đức Kitô. Trong ngày lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy chúng ta được ghi dấu ấn tín đức tin. Ấn chứng đức tin này giúp chúng ta trở thành người mang Đức Kitô trong mình, mang tình yêu Chúa đến cho tha nhân, cho thế giới.
Hãy cảm tạ Chúa vì Ngài đặt tin tưởng nơi ta, trao phó việc rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Rao giảng là sứ mạng của mọi Kitô hữu. Đây không phải là sứ mạng mới mà là sứ mạng chính Đức Kitô làm và chúng ta được mời gọi nối tiếp công việc Đức Kitô bắt đầu. Vì thế chúng ta không rao giảng một mình hay bơ vơ nhưng có Đức Kitô cùng đồng hành trong việc rao giảng. Ngoài ra Ngài còn ban cho Đấng bảo trợ là Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta trong việc rao giảng và làm chứng nhân cho Ngài.
Thiên Chúa yêu thương thế gian nên ban Con một Ngài là Đức Kitô cho chúng ta. Đức Kitô yêu thương chúng ta nên hy sinh trên thập giá ban ơn cứu độ và ban Thánh Thần Chúa. Thánh Thần Chúa yêu thương nên đến ở cùng chúng ta, để trở nên tim óc, hướng dẫn chúng ta trong việc rao giảng và làm chứng về Tin Mừng. Thánh Thần là tình yêu nhưng mắt thường không thể nhìn thấy tình yêu mà chỉ nhìn thấy kết quả hay sản phẩm của tình yêu. Sản phẩm tình yêu thường không mang tâm tình của người tạo dựng nên nó. Chúng ta không phải là sản phẩm của tình yêu bởi trong chúng ta có ấn tínThánh Thần Thiên, có sự liên hệ thân thương giữa ta và Đấng tạo dựng vì thế Kitô hữu trở thành dân riêng của Thiên Chúa vì vừa mang hình ảnh Chúa vừa là nơi Chúa ngự, đền thờ Thánh Thần Chúa.
Như thế hình ảnh sau cùng là gì? Bắt đầu bằng hình ảnh tạo dựng con người tiến đến hình ảnh cứu chuộc con người và hình ảnh cuối cùng chính là hình ảnh trở nên giống hình ảnh lúc tạo dựng con người nguyên thuỷ, trong sáng và tràn đầy hạnh phúc. Tội lỗi làm cho hình ảnh chúng ta ra lu mờ. Thánh Thần Chúa đến đánh bóng giúp chúng ta lấy lại hình ảnh trong sáng của ngày sáng tạo vì thế chúng ta là tạo vật mới sinh ra trong tình yêu của Thánh Thần.

25. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Biến cố Thánh Thần hiện xuống là biến cố cực kỳ quan trọng đối với Giáo hội, xem như biến cố khai sinh Giáo hội.
Thánh Luca đặt biến cố này vào ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, đang lúc thánh Gioan xem việc trao ban Thánh Thần nằm ngày sau khi Chúa Giêsu sống lại.
Thánh Gioan muốn liên kết ơn Thánh Thần với sự phục sinh của Chúa chứ không là một biến cố riêng biệt. Trên thánh giá, lúc Chúa sắp tắt thở, các thánh sử khác chỉ nói Ngài trút linh hồn hay tắt thở, nhưng Gioan thì nói: “Ngài trao Thần Khí”, cố ý nói rằng Chúa Thánh Thần tiếp nối ngay công trình cứu chuộc của Ngài. Thời của Thánh Thần bắt đầu ngay khi Chúa Giêsu chết và tiếp tục cho đến tận thế. Chúng ta đang sống trong thời đại của Thánh Thần. Đối với Gioan, việc trao ban Thánh Thần không liên hệ với một biến cố nào mà chỉ tùy thuộc vào Chúa Giêsu mà thôi. Chính Ngài đã nói: “Nếu Thầy không ra đi thì Thánh Thần sẽ không đến”.
Đối với Luca, việc trao ban Thánh Thần là biến cố khởi đầu cho sứ vụ tông đồ của Giáo hội. Dù có sự khác biệt về quan điểm, hai thánh sử vẫn xem biến cố Thánh Thần hiện xuống là biến cố quyết định đối với Giáo hội.
Chính Chúa Giêsu đã căn dặn các tông đồ phải ở lại trong thành cho đến khi nhận lãnh “quyền năng từ trời ban xuống”.
Trong Kinh Thánh, Chúa Thánh Thần được nói đến từ trang đầu tiên đến trang cuối. Thánh Thần sáng tạo bay là trên cảnh hỗn man đầu tiên. Trong đoạn cuối của sách Khải Huyền, Thánh Thần và Tân Nương nói: “Xin Ngài ngự đến”. Điều này chứng tỏ rằng Ngài là đầu của cuộc sáng tạo vũ trụ và con người, Ngài cũng là cuối của mọi sự, và mọi sự sẽ kết thúc trong Ngài.
Chúng ta không thể nhìn thấy Ngài, nhưng Ngài luôn hoạt động trong mọi biến cố, trong lịch sử và trong mọi người. Tất cả những gì là thiện hảo, là chân thật và yêu thương đều phát xuất từ Ngài, ngay cả trong những người chưa bao giờ biết Ngài. Trong Cựu Ước, Ngài hoạt động rõ rệt nhất trong các tiên tri, những sứ giả của Ngài. Ngòi bút của các tác giả Kinh Thánh đã viết cho Ngài. Ngài thấm nhuần từng lời Kinh Thánh.
Ngài xuất hiện rõ rệt hơn trong mọi giai đoạn của đời sống Chúa Giêsu, từ ngày truyền tin cho đến kết cuộc là phục sinh. Ngài tiếp tục hoạt động trong Giáo hội như Đấng Bảo Trợ Thần Linh cho đến tận thế.
Thánh Thần đã được ban cho các Tông đồ, cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta để kiện toàn công cuộc cứu chuộc của Chúa Cha.
Nói đến Thánh Thần, nhiều người tưởng Ngài là một Đấng cao vời thánh thiện, cách biệt muôn trùng. Không, Ngài rất gần, Ngài tràn ngập mọi sự.
Cha Antôn de Mello bảo chúng ta phải hít thở Thánh Thần vì Ngài đang tràn ngập trong không khí. Ngài vô hình, nhưng chúng ta có thể khám phá ra Ngài khắp nơi, trong tâm hồn, trong cách ăn nói, hành động của chúng ta. Tất cả những gì phát xuất từ tình yêu chân thật đều mang một ánh sáng của Ngài. Ngài xuất hiện trong một lời tha thứ, trong một cử chỉ thân tình, trong ánh mắt cảm thông, trong một sự im lặng chịu đựng, trong một nụ cười thân thiện… Mỗi người chúng ta đều tràn ngập Thánh Thần nếu chúng ta không bị vẩn đục vì kiêu căng hay tội lỗi…
Thánh Thần được Chúa Giêsu trao ban như hơi thở của Ngài. Hơi thở là sự sống. Chúng ta có thể hiểu là Ngài gìn giữ sự sống thần linh trong chúng ta, sự sống mà chúng ta đã lãnh nhận trong phép Rửa Tội và Thêm Sức.
Thánh Thần cũng được ban cho Giáo hội để mang lại ơn tha thứ: “Anh em tha tội ai, người ấy được tha”.
Ngày lễ Ngũ Tuần, ngọn bão thần linh đã thổi vào các Tông đồ khiến các ngài như bị cuốn trôi theo chiều gió của Ngài. Các Tông đồ đã trở nên những con người mới, sáng suốt và can đảm.
Thánh Thần xuất hiện như một ngọn lửa, đã tinh luyện miệng lưỡi của tiên tri Isaia, hôm nay đã đốt cháy những gì là con người tự nhiên, biến các ngài thành những con người “thần thiêng” như thánh Phaolô đã nói. Con người vật chất đã được biến đổi. Họ không còn e ngại sợ sệt, đóng cửa mà hiên ngang làm chứng.
Miệng lưỡi của các ngài đã được thanh tẩy trong ngọn lửa Thánh Thần, và mọi người đều nghe các ngài nói trong chính tiếng bản xứ của mình.
Ngày nay, các phương tiện truyền thông càng ngày càng tinh vi, có thể thống nhất thế giới bằng làn sóng điện. Mọi sự trên thế giới thu gọn trong một chiếc máy nhỏ cầm tay. Nhưng buồn thay! Thay vì thống nhất, con người càng bị chia rẽ. Hố sâu giữa các dân tộc càng ngày càng sâu hơn. Thay vì truyền thông sự lành thì sự dữ càng thống trị nặng nề hơn. Trong một thế giới bị phân tán, chúng ta cảm thấy lạc lõng hơn, bềnh bồng theo triều sóng thông tin. Chúng ta cần lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần trong khối thông tin khổng lồ và ô hợp kia để tìm thấy những dấu hiệu thời đại, nỗ lực tìm những mối dây liên kết trong sự lành, biến đổi mọi sự thành cảm thông và yêu thương.
Sứ mệnh của chúng ta là “không rập theo thói thế gian”, không phải để thế gian chi phối mà gom góp những mãnh vụn tình yêu đang trôi giạt theo làn sóng hận thù, kết lại để phục vụ mọi người.
Trong Thánh Thần, chúng ta sẽ làm được nhiều việc mà chúng ta tưởng như không thể. Chỉ cần nỗ lực và tin tưởng. Thánh Thần luôn hỗ trợ những cố gắng của chúng ta.
Khí giới của chúng ta không phải là những hỏa tiển hạt nhân, tàu ngầm hay oanh tạc cơ mà là niềm tin đơn thành và mãnh liệt. Chúng ta sẽ không tan vỡ trong làn sóng hận thù, gian ác mà qua cơn sóng, chúng ta vẫn bền tâm tiến bước… Thế giới càng u tối, Thánh Thần sẽ giúp chúng ta thắp lên những ngọn lửa tin yêu nhỏ bé nhưng vẫn bền tâm tỏa sáng.
Sống yêu thương không mỏi mệt. Đó là sứ mệnh Chúa Giêsu trao cho chúng ta. Thế gian đang cần chúng ta, cần những con người dám sống cho sự thật và tình yêu.
Vũ trụ có qua đi, tình yêu vẫn tồn tại: “Anh em đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian”. Thắng bằng tình yêu. Chúng ta đang đi vào cuộc chiến thắng cuối cùng đó, trong tin yêu. Hy vọng của chúng ta vẫn cháy sáng miễn là chúng ta không “dập tắt Thánh Thần” trong ta.
Thánh Thần đã được ban để hỗ trợ sự yếu hèn của chúng ta, cầu nguyện trong chúng ta, nhưng chúng ta có cùng Ngài cầu nguyện không? Chúng ta đủ dung tích để chứa đựng kho tàng Thánh Thần không? Hãy tẩy sạch mọi chướng ngại để Thánh Thần Chúa thênh thang hoạt động trong chúng ta. Chúng ta nhỏ bé nhưng chính Thánh Thần chọn những gì là yếu kém, là không có gì, để thắng những gì là mạnh mẽ của thế gian. Tin tưởng là một ngọn lửa nhỏ, nhưng không biển cả nào dập tắt được, vì nó phát xuất từ Thánh Thần Tình Yêu.
Chúng ta có thể nói như Chúa Giêsu: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng cho người nghèo khó…” Chúng ta hãy căng buồm lên để Chúa Thánh Thần thổi gió của Ngài vào cánh buồm của chúng ta. Chúng ta dám ra khơi mà không sợ bị chìm.
Chúa Giêsu đang ngủ trong thuyền của chúng ta. Ngài đã đến trong chúng ta nhờ của ăn thần linh Ngài trao ban hằng ngày. Chúng ta còn e ngại gì mà không dám ra khơi, không dám sống cho tình yêu? không dám phục vụ hết mình? không dám làm chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu? Thời nay là thời của nhân chứng. Thế giới vẫn đang chờ đợi Tin Mừng Cứu Độ. Hãy cùng với Thánh Thần xông pha vào cuộc sống để làm men trong bột, làm muối cho đời.

26. Ngũ Tuần – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Hơi thở là nguồn sự sống. Thiên Chúa ban sự sống cho tất cả mọi loài thụ tạo. Riêng con người, Thiên Chúa trực tiếp thổi sinh khí ban cho sự sống: Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật (St 2,7). Bao lâu còn hơi thở, bấy lâu chúng ta còn đang sống. Tắt thở là chết. Mọi loài sinh vật cùng chung một nguyên lý sự sống. Tạo Hoá đã an bài một không gian bầu khí vô tận để mọi sinh vật cùng được hưởng nguồn sự sống. Chúa Thánh Thần chính là nguồn ban sự sống. Sách Tông đồ Công vụ diễn tả về ngày Lễ Ngũ Tuần của người Do thái: Khi đến ngày Lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp (Cv 2,1-2). Hôm nay, Giáo Hội mừng Lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sự hiện diện của Thần Linh qua làn gió mạnh bao phủ tất cả khoảng không gian mang lại nguồn sinh lực dồi dào cho các Tông đồ.
Chúng ta tuyên xưng: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần. Sách Giáo lý Đạo Công giáo dạy rằng: Tin vào Chúa Thánh Thần là tuyên xưng Ngài là Ngôi Thứ Ba của Ba Ngôi Cực Thánh. Ngài xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con. Ngài được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Trong Ba Ngôi, không thể phân chia. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần phân biệt với nhau, nhưng không tách rời. Chúa Thánh Thần là Đấng Vô Hình, nhưng chúng ta nhận ra Ngài qua tác động của Ngài. Ngài mạc khải Ngôi Lời cho chúng ta và Ngài hoạt động trong Hội Thánh. Chúa Thánh Thần xây dựng, linh hoạt và thánh hoá Hội Thánh. Là Thánh Thần tình yêu, Ngài làm cho những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa Tội nhận lại được ơn giống hình ảnh Thiên Chúa đã bị đánh mất vì tội lỗi. Nhờ các Bí tích, Chúa Kitô thông truyền Thánh Thần của Người và ân sủng của Thiên Chúa cho các chi thể trong thân thể Người. Ân sủng này mang lại hoa trái cho đời sống mới theo Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần là Thầy dạy cầu nguyện.
Chúng ta phải rất cẩn thận trong vấn đề tín lý và sống đức tin. Bảy nguồn ơn sủng của Chúa Thánh Thần, đặc biệt là các ơn Khôn Ngoan và ơn Hiểu Biết giúp chúng ta nhận ra chân lý. Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa. Chúng ta không nên cụ thể hóa tác động ân sủng của Chúa Thánh Thần. Đôi khi chúng ta bị chìm đắm mải mê tin tưởng qua một số hành động và nghi thức bên ngoài do con người tạo nên. Chúng ta nguyện xin Chúa Thánh Thần phải đến và phải hành động theo cách thế và ước muốn của chúng ta. Một số hiện tượng xảy ra hàng loạt đã được gắn kết cho tác động của Chúa Thánh Thần. Nhớ rằng trong Sách Giáo lý dạy: Đức Chúa Thánh Thần đã hiện ra trong hai dịp quan trọng: Một là khi Đức Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan và hai là trong ngày Lễ Ngũ Tuần, khi các thánh Tông đồ đang họp nhau cầu nguyện cùng với Đức Mẹ Maria.
Trong ngày Lễ Ngũ Tuần, các Tông đồ lãnh nhận ơn sủng của Chúa Thánh Thần tràn đổ xuống tâm hồn qua hình lưỡi lửa: Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một (Cv 2,3). Ân sủng của Chúa Thánh Thần tác động sâu thẳm và đổi mới tâm hồn một cách toàn diện: Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho (Cv 2,4). Ơn Chúa Thánh Thần là một ân sủng cao siêu tuyệt vời thấu tận tâm can. Chính Chúa Giêsu thổi hơi ban Thánh Thần cho các tông đồ cùng với sứ mệnh: Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và nói: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (Ga 20,22). Chúa ban ân sủng và quyền năng cho các tông đồ làm hành trang sứ vụ trong cuộc lữ hành của Giáo Hội trên trần thế: Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ (Ga 20,23).
Trong Giáo Hội hiện nay, có nhiều khuynh hướng hay phong trào muốn lôi kéo thị hiếu của người nhẹ tin vào những hiện tượng cảm tính và xúc động tâm linh như những cảnh người té ngã nằm đó ca hát, nói các thứ tiếng lạ, múa nhảy và ngủ lịm được nhiều người ưa thích. Chúng ta không dừng lại nơi những cảm tính nhất thời đó. Ân sủng của Chúa giúp chúng ta đổi đời, canh tân và sống đạo thực sự. Chúa mời gọi chúng ta ra đi làm nhân chứng cho sự thật. Sau khi Chúa Giêsu về trời, Đức Chúa Thánh Thần đã ban ơn soi sáng trí khôn, thêm sức mạnh và thánh hoá các Tông đồ để các ngài đi rao giảng Phúc Âm và làm chứng về Chúa Kitô. Dấu chỉ hoa trái của Chúa Thánh Thần chính là sự đổi đời, canh tân cuộc sống và làm nhân chứng cho tình yêu Chúa Kitô. Các Tông đồ trở thành những con người mới đầy lòng can đảm, thấu triệt lẽ khôn ngoan và anh dũng làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh và chịu hiến thân đổ máu đào minh chứng niềm tin.
Niềm tin của tất cả các Kitô hữu đều quy về một mối là Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa đã chịu đóng đinh, chịu chết và sống lại. Ngài là trung tâm điểm của mọi lời rao giảng. Chúa Kitô Phục Sinh là cốt lõi của mọi niềm tin và niềm hy vọng. Tuy khác biệt về các mối tương quan và cách thế duy trì niềm tin, các tín hữu đều chung kết trong một Chúa Thánh Thần: Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung (1 Cr 12,7). Mọi Kitô hữu cùng quay về một hướng và cùng chung một đích điểm. Thánh Thần ban cho mỗi người một đặc sủng riêng. Tuy các ân sủng khác nhau nhưng cùng phục vụ trong một thân thể. Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa (1 Cr 12,5-6).
Chúng ta thấy có nhiều tổ chức xã hội, đảng phái chính trị hay kinh tế thương mại luôn trong tư thế tranh đua và lập thành tích. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng nếu nhiều người quy họp lại trong cùng một băng nhóm hay một đoàn thể chính trị mà xoay lưng lại với nhau để mỗi người nhìn về một hướng thì dễ bề phân rẽ. Khi sự liên đới ràng buộc không còn, thì mỗi người sẽ bung ra chạy theo những khuynh hướng khác nhau. Những chính sách, luật lệ và nguyên tắc của mỗi chế độ chính trị và tổ chức xã hội có thể thay đổi theo tâm thức và thị hiếu của con người từng thời đại. Nhưng đối với các Kitô hữu, xưa cũng như nay, niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh không thay đổi. Chúng ta có thể thay đổi cách thế thực hành đạo, các phương tiện và cơ cấu tổ chức. Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi luôn hiện hữu.
Mỗi cộng đoàn giáo xứ bao gồm nhiều thành viên. Mỗi thành viên có những ân điển đặc thù về nhiều khía cạnh trong cuộc sống. Mỗi người khác nhau từ dòng dõi, gia cảnh, trình độ học vấn, kiến thức, sự hiểu biết và nơi môi trường văn hoá riêng biệt. Mỗi người có cá tính và bản sắc riêng nhưng chúng ta cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô: Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy (1 Cr 12,12). Chúng ta cùng sống chung trong một cộng đoàn giáo xứ. Cuộc sống đạo của mỗi thành viên cần được thấm nhuần vào các sinh hoạt chung. Nhưng điều quan trọng là mỗi người phải tự đứng trên đôi chân của mình. Đời sống đạo đức và nhân cách phải tự rèn luyện và vun xới. Chúng ta không thể vay mượn hành động sống đạo và hành đạo.
Khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các tông đồ, Chúa nói: Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em (Ga 20,21). Lạy Chúa, xin ban sự bình an đích thực cho tâm hồn chúng con, để chúng con sẵn sàng ra đi làm nhân chứng cho Chúa trên mọi nẻo đường.

27. Chúa Thánh Thần.
Có một phóng viên đã đặt câu hỏi với một chuyên viên Kinh Thánh như sau: Nếu nhờ khoa học tiến bộ, người ta sáng chế ra được một máy quay phim ngược thời gian. Máy này có thể thu lại tất cả hình ảnh và lời giảng dạy của Chúa Giêsu cách đây hơn 2000 năm. Vậy bộ phim ấy có khả năng thay thế được bốn sách Tin Mừng hay không? Nhà chuyên viên trả lời: Không thể được, bởi vì đức tin không phải do mắt thấy tai nghe, nhưng là do ơn Chúa Thánh Thần tác động.
Thực vậy bọn biệt phái ngày xưa đã từng nhìn thấy Chúa, nghe lời Chúa giảng, chứng kiến những việc Chúa làm thế mà họ không những không tin mà còn thù ghét và cuối cùng đã đóng đinh Chúa vào thập giá. Còn các tông đồ mặc dù đã theo Chúa, nhưng cũng chỉ thực sự có đức tin và dám sống chết cho Ngài sau biến cố tử nạn và phục sinh nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động trong ngày lễ Ngũ Tuần. Vậy Chúa Thánh Thần đã đổi mới các tông đồ, Giáo Hội và người tín hữu như thế nào?
Trước hết Chúa Thánh Thần đổi mới các tông đồ. Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu phục sinh hiện ra, thổi hơi trên các tông đồ và phán: Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu nhắc lại công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa được diễn tả bằng hình ảnh: sau khi nắn đất sét thành người, Ngài đã thở hơi ban sự sống để nó trở thành người sống. Qua việc thở hơi trên các tông đồ, Chúa Giêsu muốn làm một cuộc sáng tạo mới. Ngài ban Chúa Thánh Thần để biến đổi các ông nên những con người mới, có đủ khả năng chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Sách Tông đồ công vụ cho hay trong ngày lễ Ngũ Tuần, người ta thấy một cơn gió lốc ùa vào nhà các tông đồ đang ở và có cái gì giống hình lưỡi của lửa xuất hiện trên đầu mọi người và lập tức các ông được đổi mới. Trước kia các ông u mê dốt nát thì nay các ông được thống suốt giáo lý của Chúa. Trước kia các ông nhát đảm sợ hãi thì nay các ông được can đảm, sẵn sàng rao giảng Tin Mừng, tuyên xưng đức tin và chấp nhận chịu khổ cực và chịu chết vì danh Đức Kitô.
Tiếp đến Chúa Thánh Thần đổi mới Giáo Hội. Thực vậy, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và không ngừng tác động để canh tân Giáo Hội tuỳ theo nhu cầu thời đại, chẳng hạn như Augustinô, Đôminicô, Phanxicô, Ignatio, Têrêsa… nhờ các ngài Giáo Hội vượt qua được những giờ phút khủng hoảng và đen tối nhất. Và gần đây hơn, Công đồng Vatican II cũng được coi là một lễ Hiện Xuống mới vì Công đồng này mà Giáo Hội có dịp nhìn lại mình để lau sạch những tì vết và bụi bặm do lịch sử để lại, đồng thời đổi mới Giáo Hội về nhiều phương diện để nhờ đó đi sát với Tin Mừng mà vẫn thích nghi với một thế giới không ngừng biến động và tiến bộ hơn.
Sau cùng Chúa Thánh Thần đổi mới mỗi người chúng ta. Thực vậy ngày hôm nay Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục tác động nơi các tín hữu, tuy âm thầm, nhưng không kém phần hậu quả. Vậy chúng ta phải làm gì?
Việc thứ nhất là hãy tạo cho mình một bầu khí thinh lặng nội tâm, tránh đi những lo toan thái quá về vật chất đời thường như cơm áo gạo tiền. Hãy lo tìm Nước Thiên Chúa trước còn những sự khác, Ngài sẽ ban cho chúng ta sau. Việc thứ hai là phải chăm chỉ lắng nghe lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và tham dự nghi thức bẻ bánh, như hai môn đệ làng Emmaus ngày xưa. Việc thứ ba là phải đồng tâm nhất trí, chuyên tâm cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ trong đó có Đức Mẹ Chúa Giêsu và với những anh em của Ngài. Nhờ đó, mà cuộc đời và bản thân chúng ta mỗi ngày một đổi mới.

28. Thần Linh nối kết trời đất
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có ai đó nói rằng: “Nếu cuộc đời vắng bóng Thánh Linh, thì Thiên Chúa sẽ nghìn trùng xa cách”.
Nhưng nhờ Thánh Linh, Thiên Chúa đã ngỏ lời với con người. Ngài hiện diện giữa con người. Ngài trở nên gần gũi với con người. Nhờ Thánh Linh mà con người có thể tiếp xúc với Thiên Chúa một cách thân tình, gần gũi trong tình cha con.
Lần giở lại những trang đầu của Kinh Thánh, nhờ thần khí Chúa mà thế gian hết u minh. Bóng tối bị đẩy lùi. Thiên Chúa đã viếng thăm trái đất và ở lại cùng trái đất. Thần Linh Chúa đã làm nên sức sống cho địa cầu. Thần Linh Chúa bay lượn trong cõi u minh và nhờ đó mà mọi loài được đi vào trật tự, vào quy trình của sự sống, và Thiên Chúa đã và đang hoạt động trên mọi loài Ngài đã dựng nên nhờ Thần Linh là Ngôi Ba Thiên Chúa.
Qua Tân ước, cũng nhờ quyền năng của Thánh Linh mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã hiện diện trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Từ nay, Thiên Chúa trở nên con người giống như con người. Thiên Chúa lưu lại nơi con người qua thân xác con người. Thiên Chúa trở thành Emanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Thiên Chúa trở nên mọi sự cho mọi người, khi Ngài dấn thân phục vụ mọi người, khi Ngài ban phát ơn lành đến cho mọi người. Nhờ Thánh Linh mà con người nhận lãnh được biết bao ơn huệ của Thiên Chúa ban xuống cho con người. Cũng chính nhờ Thánh Linh đã phục sinh Đức Ky-tô từ cõi chết sống lại. Nhờ Thánh Linh mà Đức Ky-tô đã vinh thăng khải hoàn về trời.
Ở thời đại này, người ta tin ở tài năng của con người, ở kỹ thuật của con người, ở tiền vàng đô la hơn là tin ở quyền năng vô biên của Chúa Thánh Linh. Thế nhưng, Giáo hội vẫn tin rằng: sự hình thành và phát triển của mình là nhờ quyền năng của Chúa Thánh Linh. Thử hỏi, sau khi Đức Kitô về trời, Hội Thánh tiên khởi vỏn vẹn chỉ có 12 tông đồ, với hai bàn tay trắng và một số vốn kiến thức không đáng gì, nhưng các ông đã ra đi trong lòng tin vào Chúa Thánh Linh. Thế mà chưa đầy ba mươi năm sau, Tin Mừng đã đi đến tận cùng trái đất khởi đầu từ Giê-ru-sa-lem – dọc Địa Trung hải – lan tỏa khắp Châu Âu… Dù rằng nhân sự không được đào tạo như hôm nay, để trở thành một linh mục cũng mất hơn mười năm, Thế nhưng, ngày đó: “Trong mỗi Hội Thánh các ông chỉ định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn chay cầu nguyện, các ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin” (Cv 14,23), vì các tông đồ tin rằng chính Thiên Chúa đã mở cửa đức tin cho dân ngoại chứ không phải các ngài. Chính Chúa Thánh Linh đào tạo con người tông đồ và sai đi.
Là người ky-tô hữu chúng ta phải tin vào sự hiện diện của Thánh Linh đã làm nên Hội Thánh. Một Hội Thánh kiên vững giữa thế gian đầy gian ác luôn muốn loại trừ Hội Thánh. Một Hội thánh tinh tuyền dù rằng sống giữa thế gian đầy bóng tối của dâm ô, sa đọa. Chúa Thánh Linh đã được ban xuống cho các tông đồ qua Đức Giê-su. Chính Đức Giêsu Phục Sinh đã “thổi hơi trên các Tông Đồ, ban Thánh Thần và bình an”. Và nhờ Thánh Thần liên kết họ lại với nhau trong một Giáo hội Công giáo – Duy nhất – Thánh thiện và Tông truyền. Nhờ Chúa Thánh linh mà Giáo hội đã quy tụ muôn dân gồm đủ mọi sắc tộc, màu da thành một cộng đoàn những người tin theo Chúa Ky-tô và cùng nhau tôn vinh Thiên Chúa.
Như thế, sứ mạng của Chúa Thánh linh là nối kết con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Nhờ Thánh linh mà con người được dìm mình trong lòng thương xót của Chúa. Nhờ Thánh Linh mà con người được sống sung mãn trong nguồn ân thánh của Thiên Chúa. Cũng nhờ Thánh Linh mà con người trở nên một gia đình của Thiên Chúa, là anh chị em với nhau và cùng tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi. Bên cạnh đó, hoa trái của Thần Khí chính là: “yêu mến, vui mừng, bình an, quảng đại, tốt lành, lương thiện, tín trực…” Kitô hữu nào đón nhận Thánh Thần Chúa Kitô, thì có khả năng thông ban sự vui mừng, bình an của ơn cứu độ sang người khác. Vì thế, nơi nào có Thần Khí Chúa Kitô Phục Sinh, thì nơi đó có yêu mến, vui mừng và bình an. Nơi nào không có Thần Khí Đức Kitô, thì nơi đó chỉ có xôn xao, gay gắt, ganh tỵ, dè chừng lẫn nhau và mất bình an vô tận.
Thế nên, là người ky-tô hữu chúng ta phải được lãnh nhận Chúa Thánh Linh. Nhờ Thánh Linh mà ta có thể đón nhận Đức Ky-tô và trở nên sứ giả hòa bình của Đức Ky-tô. Ước gì chúng ta biết nhận ra hồng ân của Chúa Thánh Linh để luôn dâng lời tạ ơn Chúa, đồng thời biết sống theo sự dẫn dắt của Thánh Linh mà bước theo chân lý vẹn tuyền để trở thành một sứ giả của bình an, hoan lạc cho thế gian.
Nguyện xin Chúa Thánh Linh ngự đến tràn đầy trong tâm hồn chúng con. Xin ban cho chúng con thần trí của Chúa để chúng con luôn biết khôn ngoan chọn lựa những giá trị vĩnh cửu hơn là những vinh hoa phú quý trần gian mau qua. Xin cho chúng con luôn tràn đầy Chúa Thánh Linh để chúng con hân hoan ra đi gieo rắc niềm vui và bình an đến cho muôn người. Amen.

29. Lễ Hiện Xuống
Ngày nay, hơn bao giờ hết nhân loại đang mong muốn hoà bình. Nền hoà bình mang lại cho con người sự tự do đích thật, bình an đích thật. Có hoà bình, người ta an tâm học hành, làm việc và phát triển các chiều kích vật chất, tinh thần và tâm linh. Như thế, hoà bình hay bình an đích thật chính là nỗi khát mong tự bao đời của con người.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống là ngày lời hứa của Chúa Giêsu được thự hiện: “Thầy sẽ xin Cha và Cha sẽ ban cho chúng con một Đấng an ủi khác đến ở với các con mãi mãi”. Đấng ấy sẽ ban cho chúng ta sự bình an đích thật trong tâm hồn. Đấng ấy sẽ giúp cho chúng ta tìm kiếm và thi hành sự bình an đích thật.
Trong Tin Mừng, sự bình an, đặc biệt sự bình an trong tâm hồn, được coi là một giá trị hết sức quan trọng. Khi Đức Giê-su sinh ra, muôn vàn thiên thần đã hát mừng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14). Khi sai các môn đệ, Đức Giêsu khuyên: “Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy” (Mt 10,12; x. Lc 10,5). Rồi sau khi chữa lành bệnh, Đức Giêsu cũng chúc bình an cho người ấy (x. Mc 5,34; Lc 8,48). Đặc biệt, sau phục sinh, khi hiện ra cho các môn đệ, Đức Giêsu luôn nói: “Bình an cho các con!” (Lc 24, 36; Ga 20, 19; 20, 26).
Còn chính trong cuộc sống đời thường của mình, chúng ta thấy bình an là một điều kiện quan trọng để sống vui tươi hạnh phúc và để phát triển. Hơn hết, trong đời sống thiêng liêng, con người cần sự bình an biết mấy. Bởi vì sự bình an trong tâm hồn là điều kiện quan trọng để đời sống tâm linh được phát triển. Vì thế mà Đức Giêsu đã nói: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Ga 14,27). Thật vậy, trong ngày Lễ Ngũ Tuần, mà hôm nay chúng ta nghe Thánh Gioan thuật lại Đức Giêsu Đức Giêsu thổi hơi và ban Thánh Thần cho các tông đồ, Ngài đã nói “Bình an cho anh em!”. Như vậy, phải chăng để nhận lãnh Thánh Thần, thì điều kiện quan trọng là phải có tâm hồn bình an? Và đồng thời bình an cũng lại là kết quả của một tâm hồn tràn đầy Thánh Thần (x. Gl 5, 22).
Trong sách Tông đồ Công vụ, thánh Luca đã mô tả quang cảnh ngay lễ Hiện xuống: “Tất cả các tông đồ đều tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến lùa vào đầy nhà, nơi họ đang tu hợp lại, với những lưỡi như thể hình lửa xuất hiện và đậu trên từng người”. Chúa Thánh Thần như Lửa của tình yêu Thiên Chúa nung đốt chúng ta. Trong tình yêu của Chúa, tất cả chúng ta không còn khác biệt nhau nữa mà trở thành con của Chúa, sống trong tình yêu duy nhất của Người.
Do đó, có thể nói để nhận được ơn bình an, ơn Thánh Thần thì chúng ta phải có tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Nhờ sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa, ta sẽ có sự bình an trong tâm hồn
“Như Cha sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận những ơn lành của Chúa một cách nhưng không thì cũng hãy biết cho đi nhưng không. Hãy biết chia sẻ và mang bình an đến cho những người chúng ta gặp gỡ. Chúng ta hãy tự vấn lòng mình, để xem chúng ta có thật sự là “khí cụ bình an của Chúa” để đem đến cho những người mà chúng ta gặp gỡ chưa?
Ngày nay, hơn bao giờ hết, có lẽ con người thật sự cần thiết có được sự bình an. Chúng ta có thể sản xuất để cung ứng cho mình mọi thứ theo ý muốn. Nhưng nếu chúng ta không có bình an, chúng ta sẽ không có gì hết. Để tìm thấy được bình an đích thực, Thánh Phaolô chỉ cho ta: “Đức Giêsu Kitô, Ngài là bình an thật của chúng ta” (Ep 2, 14).
Do đó, để tìm thấy được sự bình an đích thực, chúng ta hãy tránh xa những dịp tội, đừng để mình kéo dài tình trạng sống trong tội, chúng ta hãy mau quay trở về với Chúa, sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa. Khi chúng ta có được sự bình an, thì chúng ta cũng hãy biết mang bình an đó lại cho những người mà chúng ta gặp gỡ.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con bình an, sự bình an đích thật chính là Chúa Thánh Thần. Có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, chúng con sẽ được bình an, phát triển đời sống vật chất, tinh thần và thiêng liêng. Có Chúa Thánh Thần, chúng con sẽ dễ dàng lắng nghe và thi hành điều ngay, lẽ phải, dám sống và làm chứng cho tình yêu Chúa và can đảm đem bình an, tình yêu và niềm hạnh phúc cho tha nhân. Amen.

30. Sống hiệp thông với Chúa Thánh Thần
(Suy niệm của Lm Jos Nguyễn Minh Chánh)
Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Nguồn Trợ Lực. Đời sống của chúng ta không thể thiếu bóng dáng Ngài. Vì thế, nhìn vào đời sống Đức Giêsu trong mối tương quan với Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu sẽ giúp ta hiểu rõ sự cần thiết của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta.
Đức Giêsu Kitô là Đấng tràn đầy Chúa Thánh Thần từ lúc ban đầu đến sau khi phục sinh và mãi mãi.
Thực vậy ngay từ lúc Đức Giêsu thụ thai trong cung lòng Mẹ Maria, chúng ta đã khám phá rất rõ về mối hiệp thông giữa Ngôi Lời nhập thể và Chúa Thánh Thần. Biến cố truyền tin đã dạy chúng ta rằng: Đức Maria cưu mang Đức Giêsu trong lòng là do Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần đã đến và bao phủ quyền năng của Ngài nơi bào thai của Đức Maria, nơi sự sống của Ngôi Hai Thiên Chúa là Đức Giêsu sẽ hình thành trong cung lòng của một con người.
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu khi Ngài chuẩn bị thi hành sứ mạng Messia. Vì sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan trước khi rao giảng Tin mừng, khi ” vừa lên khỏi nước, Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người” (Mt 3, 16)
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu trong những giờ phút sống thân tình với Chúa Cha. Chúa Thánh Thần đã tác động nơi Đức Giêsu để Đức Giêsu được hưởng những thời gian chìm đắm trong lời cầu nguyện với Chúa Cha. Tin mừng thánh Mátthêu thuật lại khi Đức Giêsu vào hoang địa ăn chay và cầu nguyện ròng rã bốn mươi đêm ngày, thì đó cũng là do tác đông của Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần đã dẫn Đức Giêsu vào tình yêu sâu thẳm với Chúa Cha trong thời gian này (x.Mt 4,12).
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu trong khi rao giảng tin mừng yêu thương và phục vụ cho mọi ngườ. Phúc âm thánh Luca thuật lai khi bắt đầu rao giảng thì Chúa Giêsu “được quyền năng Thần Khí thúc đẩy” (Lc 4,14). Sự tác động của Chúa Thánh Thần nơi Đức Giêsu như là sức mạnh, nhờ đó Đức Giêsu có thể hoàn thành sứ mạng mà Chúa Cha đã trao phó cho Ngài.
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu trong những lúc khó khăn nhất của cuộc đời Ngài. Khi Đức Giêsu hấp hối trong vườn cây dầu, mọi sự đối với Đức Giêsu trong lúc này hình như bị bế tắc, bị thất bại, bị tuyệt vọng. Một lần nữa, Chúa Thánh Thần là “Ngón Tay Thiên Chúa” là Sức Mạnh đã đến với Đức Giêsu, đã nâng đỡ bổ sức cho Đức Giêsu trong lúc Đức Giêsu đang bị cô đơn vì sự bỏ rơi của nhiều người, đang phải sắp hứng chịu với cái đau đớn của roi đòn trên thân xác. Thậy vậy, nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần nâng đỡ mà Chúa Giêsu đã chiến thắng được cám dỗ từ bỏ chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Ngài đã can đảm từ bỏ ý riêng để xin vâng theo ý Chúa Cha. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha khi đau khổ và còn xin vâng cho đến khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá.
Vai trò của Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong đời sống và sứ vụ của Đức Giêsu. Chúa Thánh Thần luôn đồng hành với Đức Giêsu trên mọi nẻo đường rao giảng Tin mừng. Ngài luôn tác động nơi Đức Giêsu trong mọi hoàn cảnh, nhờ vậy mà chương trình của Đức Giêsu luôn được hoàn thành tốt đẹp.
Từ kinh nghiệm sống hiệp thông với Chúa Thánh Thần, nên Đức Giêsu xem việc trao ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ phải là cần thiết. Vì việc ban Chúa Thánh Thần chính là điều kiện để các Tông đồ có khả năng hành động trong khi rao giảng tin mừng như Đức Giêsu. Vì vậy trước khi rời khỏi thế gian để về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu đã từng hứa ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ. Rồi sau khi sống lại, Đức Giêsu đã hiện ra cũng trao ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ, như trong trang Tin mừng hôm nay chúng ta vừa nghe. Đặc biêt sau khi Chúa Giêsu về trời, trong ngày lễ Ngũ tuần thì Chúa Thánh Thần đã được trao ban trên các Tông đồ trong bầu khí thật uy phong trong khi các Ngài đang cầu nguyện. Hình ảnh này chúng ta đã vừa cảm nhận trong bài đọc một hôm nay.
Khi khám phá mối hiệp thông giữa Đức Giêsu và Chúa Thánh Thần, cũng như hình ảnh Chúa Thánh Thần đã được ban cho các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ tuần thì đó cũng là bài học Chúa dạy chúng ta: Nếu cuộc sống con người vắng bóng Chúa Thánh Thần, thì cuộc sống đó sức sống tự nhiên và siêu nhiên sẽ không tăng trưởng, sẽ chết dần trong năm tháng, vì Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống. Và nếu cuộc sống con người vắng bóng Chúa Thánh Thần, thì đời sống ấy sẽ không biết yêu thương, vì Chúa Thánh Thần là Tình Yêu để nối kết con người với Thiên Chúa, và nối kết giữa con người với nhau. Hay khi cuộc sống con người vắng bóng Chúa Thánh Thần, thì đời sống ấy sẽ lạc lối, sẽ đi ngược lại với ý định của Thiên Chúa, vì Chúa Thánh Thần là sức mạnh để giúp con người can đảm từ bỏ ý riêng để khiêm tốn luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa. Nói chung nếu cuộc sống con người không có Chúa Thánh Thần thì cuộc sống ấy sẽ không giống Đức Giêsu.
Từ những cảm nghiệm trên, chúng ta hãy noi gương Mẹ Maria và các Tông đồ trong bài đọc một hôm nay. Hãy thường xuyên ở lại chung với nhau để cầu nguyện với Đức Giêsu Kitô, là Đấng sinh bởi Thánh Thần, là Đấng đầy tràn Thánh Thần. Xin Chúa Giêsu Kitô ban Chúa Thánh Thần là Hồng Ân của Ngài cho chúng ta, nhờ đó trong mọi hành động chúng ta sẽ trở nên giống Chúa hơn.
Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, xin ban đầy tràn Chúa Thánh Thần xuống tâm hồn chúng con. Amen.

31. Chúa Thánh Thần mở tung mọi cánh cửa khép kín
(Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy)
Không phải tất cả những gì Jean Paul Sartre (1905-1980), một trong những triết gia hiện sinh, viết đếu có thể chấp nhận được đối với những tín hữu đạo đức. Nhưng những gì nhà triết học người Pháp này tưởng tượng về hỏa ngục, rất đáng cho chúng ta lưu ý. Trong vở kịch «Phía sau những cánh cửa khép kín»của ông. Jean Paul Sartre đã nêu lên vấn nạn: Ðiều gì sẽ xảy ra, nếu con người sống hay chết đều gắn bó ràng buộc với nhau, và đều ý thức được rằng họ sẽ không bao giờ tách rời nhau được nữa? Ðiều gì sẽ xảy đến, nếu họ không được phép hay không muốn tiếp xúc với thế giới bên ngoài? Nếu họ không tùy thuộc vào bất cứ điều gì khác ngoài quá khứ, ngoài tội lỗi, ngoài sự cao ngạo, ngoài sự cố chấp, ngoài những điều nhảm nhí và ngoài những trách móc phàn nàn lẫn nhau của họ? Theo Sartre: Ðó chính là hỏa ngục!
Dĩ nhiên, các nhà thần học còn có thể nói cho chúng ta nhiều hơn nữa về những gì mà Thánh Kinh gọi là «hỏa ngục». Nhưng có một điều chắc chắn – và đó cũng là điều Jean Paul Sarte muốn nói tới – đó là: Ngay ở đời này, con người chúng ta đã có thể làm cho cuộc sống của nhau trở thành hỏa ngục.
Cũng thế, người ta có thể tưởng tượng được tình trạng của các môn đệ Ðức Giêsu sau ngày Thứ Sáu Chịu Nạn một cách tương tự như thế! Theo sự tường thuật của Thánh Kinh: Vì sợ người Do-thái, nên họ đã lẩn trốn sau những cánh cửa khép kín. Ðức Giêsu đã chết. Phải chăng họ đã chẳng đặt hết hy vọng vào Người, đã hy sinh tất cả cho Người, đã gắn bó hoàn toàn với Người?
Nhưng giờ đây Người đã chết: Bị đóng đinh nhục nhã vào thập giá, đã tắt thở và đã được an táng! Và Người đã để họ lại trong cảnh bơ vơ, thất vọng và chán nãn, lo âu sợ hãi và hoảng hốt. Họ trở nên bất đồng ý kiến với nhau và bị rơi vào một hoàn cảnh bất ổn, khiến họ không còn đủ khả năng để ngồi lại nói với nhau về sợi dây đầy tình nghĩa từng ràng buộc họ lại với nhau trong ba năm qua. Họ không còn đủ bình tỉnh để có thể tìm ra được câu giải đáp cho những vấn nạn quan trọng: Ðức Giêsu Na-da-rét thực sự là ai? Và chúng ta là ai, khi cùng với Người hay khi không có Người? Những gì thực sự còn nối kết chúng ta lại với nhau? Và trước hết, tình trạng cộng đoàn các Tông đồ xem ra rất bi quan và đang trên bờ của sự tan rã. Các bạn hãy nghĩ đến trường hợp hai môn đệ Em-mau hay trường hợp Thoma cứng lòng: Mỗi người đi mỗi ngã, ai nấy đều trở nên nghi ngờ, tất cả họ đều mất hết mọi hy vọng và tin tưởng!
Các bạn hãy tự xét đoán lấy, hãy tự chất vấn chính những kinh nghiệm sống của mình: Phải chăng tất cả những điều đó đã không quả quyết rằng, một đoàn thể khi phải đứng trước một tình trạng đen tối và tuyệt vọng như thế lại không bị tan rã hay sao?
Tuy nhiên, mọi chuyện lại đã xảy ra hoàn toàn khác hẳn. Các nhà tâm lý và phân tâm học sẽ phải bóp trán nghĩ ngợi nát óc, là: Làm thế nào hoàn cảnh các Tông đồ lại có thể xảy ra ngược lại như vậy được! Thánh Kinh đã trả lời cho vấn nạn đó: Chính Chúa Thánh Thần là Ðấng đã liên kết các Tông đồ lại với nhau, ngược lại với sự hợp lý và sự suy luận nhân loại. Vâng, Chúa Thánh Thần hiện diện giữa các Tông đồ như sợi dây nối kết họ lại với nhau và như động lực giúp cho họ có đủ khả năng để lại cùng nhau nói về chính mình và nói về Sư Phụ. Chính Chúa Thánh Thần là Ðấng ban cho họ có được sự xác tín rằng: Ðức Giêsu vẫn sống! Từ những câu chuyện đó, từ sự tưởng nhớ lại Ðức Giêsu như thế đã làm phát xuất ra điều mà ngày nay chúng ta gọi là Giáo Hội: Cộng đoàn của những người tin vào Ðức Giêsu! Thần Khí Thiên Chúa dẫn đưa và qui tụ họ lại từ bốn phương trời.
Vâng, Thần Khí Thiên Chúa, Thần Khí Ðức Giêsu, đã tác động, để một nhân loại đang trong cảnh chia rẽ và phân hóa lại trở về đoàn tụ với nhau. Và trước hết, điều đó đã được chứng mình nơi chính các Tông đồ: Các ngài đã tìm về với nhau, các ngài lại thông cảm nhau và các ngài lại hiểu được những gì đã xảy ra cho Ðức Giêsu. Nhất là bây giờ các ngài có thể làm cho người khác hiểu được Ðức Giêsu là ai và Người muốn gì nơi họ. Nhân loại thuộc mọi quốc gia, mọi ngôn ngữ, mọi màu da và mọi giai cấp trong xã hội đã tìm về với nhau và qui tụ thành một cộng đồng huynh đệ mới. Và đó là điều chúng ta cùng tưởng niệm lại trong ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay.
Thần Khí Thiên Chúa mở tung mọi cánh cửa của sự sợ hãi, của sự nhát đảm và của sự co rúm lại trong thế giới bản thân, một chỗ các Tông đồ dùng làm nơi ẩn trốn! Giờ đây, họ không còn sợ hãi lẩn trốn nữa, nhưng lòng đầy can đảm và phấn khởi đi đến với mọi người và loan báo cho họ biết rằng, cuộc đời Ðức Giêsu Na-da-rét tuy trước mắt người đời xem ra như đã thất bại và đổ vỡ, nhưng trong thực tế lại chính là một cuộc sống đầy hạnh phúc trong vinh thắng. Nó đã được Thiên Chúa chấp nhận và chúc phúc. Bởi vì cuộc sống Ðức Giêsu là một cuộc sống không còn bị ràng buộc bởi sự ích kỷ, nhưng đã được hoàn toàn hiến dâng cho Thiên Chúa và và cho hạnh phúc chân thật của nhân loại. Ðức Giêsu đã mở tung nhiều cánh cửa từng bị khóa kín.
Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều cánh cửa đang bị niêm phong khép kín trong cuộc sống xã hội. Qua kinh nghiệm trong cuộc sống cụ thể, nhiều khi chúng ta đã phải ngỡ ngàng và thất vọng đứng trước những cánh cửa bị đồng loại khóa kín để cản đường chúng ta. Nhưng chính chúng ta cũng không ít khi đã đóng chặt bao cánh cửa trong các tư duy và trong cuộc sống mình, tự cô lập mình khỏi đồng loại.
Vâng, còn có bao nhiêu người vẫn chưa có đủ can đảm để tìm cho hoàn cảnh của mình một lối thoát? Còn có biết bao nhiêu cặp vợ chồng đang sống một cuộc sống chồng vợ bất đắc dĩ? Còn có biết bao nhiêu gia đình đang phải sống trong cảnh bất hòa và mỗi người là một tiểu vũ trụ, chứ không ai muốn nói chuyện với ai nữa? Và trong một cộng đoàn giáo xứ cũng còn có bao cánh cửa đang bị khóa kỹ: Giữa các cá nhân với nhau, cũng như giữa gia đình này với gia đình khác? Vâng, đó là những cánh cửa chúng ta đã tự khép kín và khóa chặt đối với nhau: Những cánh cửa dẫn đưa người khác đến với chúng ta, nhưng đã bị chúng ta khóa chặn lại. Hoặc là những cánh cửa đã làm cho chúng ta không thể tự do tiếp xúc với thế giới bên ngoài.
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đã chứng minh cho thấy rằng người ta rất có thể mở tung mọi cánh cửa vốn bị đóng kín. Ðiển hình nhất là nơi các Tông đồ: Các ngài đã học được điều đó nơi chính bản thân mình. Các ngài đã có được kinh nghiệm là: Khi bản thân hay gia đình mình rơi vào cảnh khó khăn thử thách, thì tốt nhất là không nên vội đầu hàng bỏ cuộc. Các ngài đã học được là không một ai được phép nghi ngờ người khác, cả khi xem ra có người này kẻ nọ trong họ tỏ ra hoang mang và muốn bỏ cuộc. Các Tông đồ cũng đã cảm nhận được rằng:
Thái độ lẩn trốn và dấu mình sau các cánh cửa đóng kín càng làm tăng sự sợ hãi hoang mang.
Sự nghi ngờ nhau, sự đố kỵ mù quáng đối với thế giới bên ngoài, thường cũng chính là cái hố sâu ngăn cách con người với Thiên Chúa.
Các Tông đồ đã học được là chính Thần Khí Ðức Giêsu đã thúc bách và động viên họ:
Phải mở rộng các cánh cửa.
Phải loại bỏ sự bất động và bám bíu vào các thói quen cũ.
Phải can đảm đi đến với những người xa lạ chưa quen biết, hầu có thể: a) Hiểu biết và thông cảm với họ; b) Tin tưởng và chia sẻ với họ định mệnh khắt khe của họ; c) Giúp họ mở rộng mọi cánh cửa, nhất là cánh cửa dẫn họ tới nguồn hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu: Ðức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi!
Phải chăng đó không phài là điều kiện cho tình yêu to lớn đã được mặc khải trong cuộc đời Ðức Giêsu Na-da-rét?
Tôi luôn xác tín rằng: Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống không chỉ là một kỷ niệm biến cố trọng đại đã xảy ra trong buổi khai nguyên Giáo Hội, nhưng là một thực tại luôn sinh động! Bởi vì, Thần Khí Ðức Giêsu không hề chết. Người vẫn sống và vẫn tác động không ngừng trong Giáo Hội, trong vũ trụ và trong cuộc sống mỗi người. Chúng ta có thể mở rộng tâm hồn mình cho Người. Bên ngoài, những người đã từ xa gần đến và đang chờ đợi trước cửa nhà chúng ta. Họ chờ đợi Thần Khí Ðức Giêsu. Họ chờ đợi những người đã biết mở rộng tâm hồn cho Thần Khí đó! Amen.

32. Sứ mạng truyền giáo – Lm. Minh Vận, CRM
Báo “Le Figaro” đã đăng câu trả lời phỏng vấn của Tổng Thống Nga Putin, trong đó có mấy sâu đối đáp sau đây:
– Trong một cuộc phỏng vấn báo chí tại Nga, ông cho biết là ông đã đến cầu nguyện tại Mồ Thánh Chúa ở Jeruselem, trong tay cầm Thánh Giá. Nhưng ông lại là một cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?
– Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược nhau. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó đã có một lịch sử từ lâu đời. Thời kỳ còn là Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như những cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tự tồn tại.
Mẹ tôi là một phụ nữ theo Đạo Chúa, mặc dù đi tham dự Thánh Lễ tại Nhà Thờ không phải là không gặp nguy hiểm trong thời Liên Xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm nghi lễ Thánh tẩy cho tôi tại Nhà Thờ. Vậy tại sao các ông lai có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm Thánh Giá đến cầu nguyện tại Mồ Thánh Chúa Giêsu?
Tổng Thống Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng Niềm Tin, xưng mình là người theo Đạo Chúa, sống Đạo Chúa. Ông đã tuyên bố trước báo chí: “Tôi tự hào là Tín Hữu… Niềm Tin của tôi làm cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn!”
I. CẦN PHẢI CANH TÂN TRÁI ĐẤT
Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội hoàn vũ, long trọng mừng Lễ Chúa Thánh Linh hiện xuống, chúng ta thành tâm dâng lên Chúa lời nguyện cầu tha thiết: “Lậy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến và xin canh tân bộ mặt thế giới!”
Thế giới chúng ta đang sống, hiện nay có biết bao tệ đoan xuất hiện khắp đó đây làm lũng đoạn đời sống tâm linh, đầu độc trí lòng con người, khiến con người không còn phân biệt được đâu là phải đâu là trái, đâu là tội đâu là phúc, đâu là chân thật đây là giả trá! Các kẻ thù của Chúa đang vận dụng mọi cách để phá hoại những giá trị luân lý đạo đức, chối bỏ những thực tại của đời sống siêu nhiên, đời sống Đức Tin và hạnh phúc vĩnh cửu của đời sống mai hậu. Họ chủ trương chỉ có những thực tại của đời sống vật chất ở đời này. Vì thế, cần phải tận hưởng tất cả các tiện nghi, những phát minh của khoa học tân tiến, những tiền của giầu sang, để được thoải mái tối đa kẻo uổng phí. Tóm lại, họ mong gạt bỏ Thiên Chúa và Tôn giáo ra ngoài đời sống con người, để đời sống thoải mái dễ chịu, khỏi phải gò bó theo luật lệ. Do đó, họ sống buông thả theo thú tính, khiến con người thời đại mất dần ý thức tội lỗi!
II. SỨ MẠNG TUÂN GIỮ VÀ TRUYỀN BÁ TIN MỪNG
Là con cái Chúa, chúng ta có nghĩa vụ phải nỗ lực chống lại những tấn công của kẻ thù, duy trì những giá trị luân lý, những thuần phong mỹ tục, những nền văn minh Kitô Giáo, những truyền thống lành mạnh phù hợp với giáo huấn của Chúa và Giáo hội. Tuyệt đối trung thành với Đức Tin và tinh thần của Chúa Kitô theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha, đấng đại diện tối cao của Chúa nơi trần gian. Chính Chúa đã truyền dạy chúng ta: “Nếu các con yêu mến Thầy, hãy vâng giữ lời Thầy truyền dạy. Thầy sẽ nài xin Chúa Cha ban Đấng An Ủi khác đến ở cùng các con muôn đời, tức là Thần Chân Lý mà thế gian không thể nhận được, vì họ không thấy cũng chẳng biết Ngài, còn các con, các con sẽ nhận biết Ngài, vì Ngài sẽ ở cùng các con, lại ngự trong tâm hồn các con nữa” (Jn 14:15-17).
Hơn nữa, ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, trở nên con cái Chúa, mỗi người chúng ta đã lãnh sứ mạng truyền bá Đức Tin, rao giảng danh Chúa và Ơn Cứu Độ của Chúa đến cho mọi người. Trước khi Chúa về trời, lệnh Chúa truyền cho các Tông Đồ và các Tín Hữu thời Giáo Hội sơ khai, cũng là lệnh Chúa cho mỗi người chúng ta qua các thời đại là: “Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu Phép Rửa sẽ được cứu độ, ai không tin sẽ bị luận phạt” (Mc 16:15). Thánh Mathêu còn ghi lại minh bạch hơn nữa lệnh truyền đó: “Thầy được toàn quyền trên trời dưới đất: Vậy, các con hãy đi giảng dạy muôn dân, thanh tẩy họ nhân danh Cha và Con, và Thánh Thần. Hãy dạy họ vâng giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con; và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế!” (Mt 28:19-20).
III. THỰC THI SỨ MẠNG TÔNG ĐỒ BẰNG CÁCH NÀO
Công Đồng Vaticanô II nhấn mạnh đến nghĩa vụ của tất cả chúng ta, là phải trở nên chứng nhân cho Chúa giữa trần gian khi truyền dạy: “Tất cả con cái Giáo Hội phải tích cực ý thức trách nhiệm của mình đối với thế giới, phải hun nóng cho mình thực sự có tinh thần Công Giáo, và phải hy sinh góp sức vào công cuộc rao giảng Tin Mừng. Tuy nhiên, mỗi người phải biết rằng bổn phận đầu tiên và quan trọng nhất đối với việc truyền bá Đức Tin là sống sâu xa đời sống Kitô Hữu” (Ad Gentes # 36). Để đời sống chúng ta thực sự trở nên ánh sáng chiếu soi cho mọi người, để mọi người thấy các việc thiện chúng ta làm mà ngợi khen Chúa là Cha chúng ta ngự trên trời, và chúng ta là môn đệ đích thực của Người như Chúa đã truyền dạy.
Đó là lời rao giảng Tin Mừng cách hùng hồn và hữu hiệu nhất. Chúng ta có thể quả quyết chắc chắn rằng: Không có lời rao giảng nào có hiệu lực hơn bằng chính cuộc sống thánh thiện của người tông đồ, là sống trước chính lời mình rao giảng, như lời tiền nhân thường răn dạy: “Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi cuốn”.
Tuy nhiên, Công Đồng còn nhấn mạnh hơn nữa đến căn tính của sứ mạng cao cả này khi quả quyết với chúng ta: “Người Giáo Dân có bổn phận và quyền lợi làm tông đồ do chính việc kết hợp với Chúa Kitô là Đầu. Họ được Chúa chỉ định làm việc tông đồ, vì Phép Rửa tháp nhập họ vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, Phép Thêm Sức làm cho họ thêm mạnh mẽ nhờ quyền năng Chúa Thánh Linh. Họ được thánh hiến vào chức vụ Tư Tế Vương Giả và Dân Thánh Chúa, hầu trong mọi việc họ dâng những lễ vật thiêng liêng và làm chứng cho Chúa Kitô ở mọi nơi trên hoàn cầu” (Apostilicam Actuositatem # 3).
Người ta kể rằng: Một hôm, có một bác nông dân chở gạo lên thành phố Sài gòn bán. Tới giờ ăn trưa, ông vào tiệm gọi một tô phở. Sau khi cô chiêu đãi viên bưng ra cho ông một tô phở thơm phức, ông nghiêm trang làm dấu Thánh Giá trên mình và cúi đầu, miệng lâm râm cầu nguyện. Một tên cán bộ ngồi bàn bên cạnh, trông thấy cử chỉ đạo đức đó lấy làm bực rọc khó chịu, bèn lên tiếng khà khịa với ông: “Thời buổi xã hội chủ nghĩa này mà còn kinh với kệ, lỗi thời lắm rồi lão già kia ơi!” Ông già nghe thấy lời hỗn xược và xúc phạm đó khiến ông không thể nhịn được, nên đã mạnh dạn lên tiếng: “Chỉ có loài chó loài heo mới không biết cầu nguyện cám ơn Chúa trước khi ăn!”
Ngày nay, chúng ta thấy không thiếu những người không dám xưng mình là Kitô Hữu, không dám hãnh diện biểu lộ niềm tin của mình trước mặt tha nhân, không dám dấu Thánh Giá trước bữa ăn tại tiệm, sợ bạn bè chê cười đàm tiếu. Người ta còn kể: Có những tiệc cưới người Công Giáo được tổ chức rất trọng thể tại tiệm ăn, thế mà cũng không dám mời Linh Mục chủ sự lên trước công chúng, để cầu nguyện xin Chúa chúc lành cho các thực khách và thực phẩm trước khi khai mạc bữa tiệc!
Kết luận
Tổng Thống nước Nga Putin và ông nông dân trong hai mẩu truyện trên đây đã có những hành động tuyên xưng niềm tin của mình thật đáng chúng ta khâm phục và noi theo bắt chước. Khi chế độ Cộng Sản Liên Xô mới sụp đổ, theo sự khôn ngoan, hẳn ông cần phải khéo léo uyển chuyển để khỏi mích lòng những phe đối lập, thế nhưng ông đã can đảm tỏ mình là Kitô Hữu theo Đạo Chúa cách hãnh diện khi tuyên bố trước mặt mọi người: “Tôi tự hào là người Tín Hữu… Niềm Tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn!”
Còn ông nông dân của chúng ta cũng thật đáng mọi người phải cảm phục, mặc dầu lời ông nói có thể xảy đến cho ông những nguy hiểm bởi những kẻ có quyền thế, nhưng ông vốn can đảm nói lên sự thật, chứng tỏ Niềm Tin sâu xa của ông. Đó là một tấm gương sáng đáng chúng ta noi theo bắt chước.
Xin Mẹ Maria là Mẹ của Niềm Tin, ban cho chúng ta được can đảm sống Niềm Tin của chúng ta trong đời sống hằng ngày; nhờ việc tuyên xưng và sống Niềm Tin đó, sẽ thánh hóa chúng ta và giúp chúng ta chu toàn sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa trước mặt mọi người như Chúa đã truyền dạy.

33. Ngày sinh nhật của Giáo Hội
(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Ai là con người cũng có ngày mở mắt chào đời, ngày sinh nhật. Ngày đó được ghi lại trên tấm giấy khai sinh.
Hội đoàn tổ chức đời đạo nào trong xã hội cũng có ngày khai sinh thành lập. Ngày đó được ghi chép trên giấy tờ tài liệu lưu giữ của Hội đoàn tổ chức như bằng chứng.
Người Mẹ Giáo Hội Công giáo cũng có ngày sinh nhật, ngày khai sinh thành lập. Nhưng ngày này của Giáo Hội Công giáo lại không có ghi lại trên giấy tờ khai sinh hay chứng từ sổ sách ghi lại bằng chữ viết, bằng con số.
Như thế, làm sao có thể nói đến ngày sinh nhật của Giáo Hội công giáo được?
1. Tờ giấy khai sinh
Khi một em bé lọt lòng mẹ mở mắt chào đời, bệnh viện nơi em sinh ra ghi lại trên giấy tờ ngày giờ năm tháng, nơi chốn em sinh ra. Căn cứ vào chứng thư đó, sở hộ tịch làm giấy khai sinh trong sổ bộ đời sống xã hội cho em bé.
Không phải tờ giấy đó làm ra em. Nhưng sống trong cộng đồng xã hộị, em cần tờ giấy khai sinh đó. Tờ giấy khai sinh này gắn liền với đời sống em. Nó là tờ giấy căn bản hộ thân cho em, để sau này làm những giấy tờ cần thiết khác trong suốt đời sống.
Không chỉ khi làm những giấy tờ cần thiết khác ở ngoài công sở xã hội, mới cần đến giấy khai sinh. Nhưng cả khi cha mẹ em bé xin cho con mình nhận lãnh Bí tích Rửa tội gia nhập Giáo Hội Chúa Giêsu, ít là bên Giáo Hội nước Đức, cũng phải cần có kèm theo giấy khai sinh của em bé.
Tên em, ngày tháng năm sinh, nơi chốn quê quán em sinh ra là những dữ kiện quan trọng liên quan đến bản thân đời sống. Tờ giấy khai sinh giúp em giữ lại những dữ kiện đó, giữ lại chút kỉ niệm đầu đời ngày em bắt đầu đời sống trên trần gian.
Còn trong niềm tin đạo giáo có giấy tờ khai sinh không?
2. Dấu ấn giấy khai sinh
Dấu ấn Bí tích phép Rửa tội ghi khắc trong tâm hồn người được rửa tội là tờ khai sinh gia nhập đạo Công giáo. Nhưng để lưu trữ ghi nhớ sau này khi cần tra cứu, nơi nhà xứ nào cũng có sổ Rửa tội. Trong cuốn sổ đó, lần nữa ngày tháng năm sinh, nơi sinh cùng tên cha mẹ của em bé, ngày tháng năm rửa tội được ghi lại.
Nhiều người vì hoàn cảnh di chuyển, di cư nơi này sang nơi khác, mất hết giấy tờ, không còn nhớ dữ kiện ngày tháng bản thân của mình nữa. Lần tìm về nơi ngày xưa đã sinh ra, đã được Rửa tội, họ tìm lại thấy những dữ kiện đó.
Trong đạo Công giáo, khi xin cử hành bí tích hôn phối lập gia đình, người ta truy tìm lại sổ rửa tội, để biết xem có đúng là người Công giáo đã được rửa tội chưa, đã có chịu Bí tích hôn phối lập gia đình lần nào chưa. Vì sau hôn phối, có báo lại ghi thêm vào sổ đó: Đã chịu Bí tích Hôn phối.
Những người được chịu chức Thánh trong Giáo Hội, những ai khấn Dòng, những vị thẩm quyền trong Giáo Hội cũng lần dở tìm lại sổ Rửa tội để truy tìm nguồn gốc. Và sau khi người đó lãnh Chức Thánh hay Khấn Dòng báo ghi thêm vào sổ đó: đã chịu chức Thánh hay đã khấn Dòng.
Cuốn sổ Rửa tội trong Giáo Hội là giấy chứng minh để có thể tiếp tục tiếp nhận lãnh những Bí tích khác. Như thế sổ Rửa tội có khác gì giấy khai sinh đâu.
Sổ Rửa tội, một lọai giấy khai sinh trong đạo Công giáo, không chỉ cho nhu cầu đó. Nó còn là một chứng tích lịch sử nữa.
Một ai đó được Giáo Hội phong lên làm bậc Thánh, người ta truy tìm đền cuốn sổ Rửa tội nơi ngày xưa vị đó đã được Rửa tội. Lúc đó cuốn sổ Rửa tội nơi đó có tên vị đó trở nên thời danh, một chứng tích lịch sử.
Cuốn sổ Rửa tội ghi tên cùng ngày tháng Rửa tội của Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI. Joseph Ratzinger ở nhà xứ Marktl am Inn trở nên thời danh như một chứng tích lịch sử cho việc tra cứu.
Giáo Hội Công giáo của Chúa có gì giấy tờ gì chứng nhận như giấy khai sinh không?
3. Ngày sinh nhật của Giáo Hội
Giáo Hội Công giáo có ngày khai sinh khởi đầu. Nhưng ngày khởi đầu, ngày sinh nhật đó không có giấy tờ khai sinh cùng sổ sách ghi lưu lại.
Không có giấy khai sinh. Không có cuốn sổ Rửa tội. Nhưng Giáo Hội có sách Kinh Thánh ghi chép lại ngày giờ khai sinh của mình. Thánh sử Luca đã thuật lại ghi lại trong Sách Tông đồ công vụ chương hai, từ câu 1-11.
Căn cứ vào Thánh Kinh, đức Giáo Hoàng Benedicto XVI. đã diễn tả về ngày sinh nhật của Giáo Hội Chúa Giêsu:
Thánh sử Luca, người đã soạn viết công trình Kinh Thánh với những suy tư rất thận trọng. Ông trình bày quy dẫn hướng trở lại về sự nhập thể làm người của Chúa Giês. Khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên địa cầu mọi người cũng đón nhận Chúa Giêsu nữa. Thánh Thần Thiên Chúa ngự xuống đổi mới, và Giáo Hội “thân thể của Chúa Giêsu” khai sinh chào đời trong dòng thời gian lịch sử.
Điều này xảy đến qua những dấu hiệu làn gío thổi đến và ngọn lửa bùng sáng lên, nhất là qua dấu hiệu của sự lạ lùng phép lạ ngôn ngữ. Trong điều kiện đó, Giáo Hội đã loan truyền và được loan truyền đi khắp nơi, cùng được chấp nhận bằng những ngôn ngữ khác nhau. Điều này trái ngược với lịch sử xây tháp Babel ngày xưa.
Điều khác nữa, một cộng đoàn xã hội mới nảy sinh, mà Thiên Chúa qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần, qua ngọn lửa của Thiên Chúa, đã xây dựng nên từ trong tận trái tim tâm hồn con người.
… Nếu Thánh Thần Thiên Chúa được trình bày vẽ như hình một cái lưỡi, như ngọn lửa, điều này nói lên Ngài ngự xuống trên mỗi người cách cá nhân riêng biệt. Đây là những hình ảnh căn bản diễn tả cho chúng ta hiểu, sự cư ngụ ở lại, điều mầu nhiệm bí ẩn của Thánh Thần Thiên Chúa, sự khai sinh chào đời của Giáo Hội. Và cùng với sự lạ lùng phép lạ ngôn ngữ cũng nói lên tích cách công giáo phổ quát của Giáo Hội. (Papst Benedickt, Gott und die Welt, ein Gespräch mit Peter Seewald, Von der Kirche, Knaur Verlag, April 2005, S. 376.)
Như thế, Giáo Hội Công giáo của Chúa không phải là sản phẩm của một ai, hay của một trào lưu xu hướng thời đại nào, cùng không giới hạn trong một quãng thời gian nào. Nhưng do chính Chúa qua ân đức sức mạnh Chúa Thánh Thần thiết lập nên, cùng luôn đổi mới trong dòng lịch sử thời gian trên từ hơn hai nghìn năm qua, và còn kéo dài trong tương lai tiếp nữa.
Nếu hiểu Giáo Hội của Chúa như một “Bí tích” của sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong tình yêu của Chúa Thánh Thần, thì cơ cấu của Giáo Hội không chỉ là mặt tiền bên ngoài và như hàng thứ yếu. Nhưng là dấu chỉ ẩn chứa trình bày một nội dung thần học về hiệp thông trong đức tin, cùng về sự hợp nhất nên một.
“Những lời sỉ nhục bỉ báng đấng thay mặt Chúa cùng các đấng làm thầy”, như lời kinh đọc trong kinh đền tạ trái tim cực Thánh Đức Chúa Giêsu, là lời xét mình, ăn năn tạ lỗi, cùng nhắc nhở hãy có lòng yêu mến kính trọng Giáo Hội của Chúa. Đừng lạm dụng ngôn ngữ, nhân danh tự do mà coi khinh thường vô phép với Giáo Hội của Chúa, công trình của Chúa Thánh Thần.
Hàng giáo phẩm trong Giáo Hội của Chúa như Bí tích ở trần gian, là những người được Chúa tuyển chọn trao ban cho trách nhiệm gìn giữ cai quản Giáo Hội của Người. Phải, họ là những con người với những giới hạn yếu hèn, do Chúa dựng nên. Họ không phải, hay chưa là thánh. Nhưng họ có bổn phận cùng với mọi người trong Giáo Hội sống trở nên thánh thiện tốt lành như ý Chúa muốn.
Chúa Thánh Thần, Đấng khai sinh cùng nuôi dưỡng Giáo hội Chúa, hằng luôn đổi mới làm tươi trẻ trong dòng lịch sử thời gian công trình Ngài đã lập sáng tạo nên bằng bảy ân đức căn bản cho đời sống: Khôn ngoan, lo liệu, sức mạnh, thông hiểu, suy biết, đạo đức và kính sợ Chúa.

34. Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống
Trong phụng vụ của Giáo hội và trong các việc đạo đức hàng ngày, chúng ta thường nghe nhắc tới Chúa Thánh Thần rất nhiều. Khi làm dấu thánh giá, khi bắt đầu một việc đạo đức, khi cử hành các bí tích, chúng ta thường cầu xin Chúa Thánh Thần. Đặc biệt khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức là chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Vậy Chúa Thánh Thần có vai trò thế nào trong đời sống Giáo hội và trong cuộc đời của mỗi người chúng ta?
Khi học giáo lý chúng ta biết được Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ Ba bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, cùng một bản tính và một quyền năng như Hai Ngôi cực trọng ấy. Điều này chứng tỏ Chúa Thánh Thần đã có từ thuở đời đời. Ngay từ đầu lịch sử nhân loại, Chúa Thánh Thần đã có mặt trong công trình sáng tạo. Sách sáng thế nói “Lúc khởi đầu Thiên Chúa đã sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí của Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,1-2). Như vậy ngay từ giây phút đầu tiên Thánh Thần Thiên Chúa đã có mặt để thực hiện việc sáng tạo nên vũ trụ và con người.
Rồi trong thời Tân ước, cũng chính Thánh Thần đó đã có mặt ngay từ lúc Ngôi Hai nhập thể làm người cho đến ngày Giáo hội được khai sinh. Và Ngài tiếp tục hoạt động trong Giáo hội và trong tâm hồn của mỗi người chúng ta cho đến tận thế.
Nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, các môn đệ mới hiểu được phần nào về con người và sứ mạng của Chúa Giêsu. Mặc dù đã theo Thầy bao năm, nhưng nhiều lần Phúc Âm ghi lại, các tông đồ đã không hiểu những lời nói và việc làm của Thầy. Chẳng hạn, trước khi bước bước vào cuộc Thương khó, Chúa Giêsu đã 3 lần tiên báo “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta, họ sẽ giết chết Người nhưng ngày thứ 3 Người sẽ sống lại nhưng các ông không hiểu điều Người muốn nói”. Cho nên Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ, tự sức các ông sẽ không thể hiểu nổi nhưng phải đợi “Chúa Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, sẽ dạy cho các con mọi sự và nhắc nhở cho các con mọi điều Thầy đã nói cho các con” (Ga 14,26).
Trong ngày Lễ Hiện Xuống, các tông đồ đã lãnh nhận sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh ấy đã làm biến đổi toàn bộ cuộc sống các ông. Từ những con người nhát đảm, sợ sệt giờ đây các ông công khai rao giảng về một Đức Giêsu đã bị giết chết và đã sống lại. Từ những con người ít học, không biết ăn nói giờ đây lại nói năng đầy thuyết phục và khôn ngoan. Phêrô, một người ngư phủ, học hành không bao nhiêu vậy mà sau bài giảng đầu tiên của ông lại có hơn 3000 người xin chịu phép rửa. Người ta nghĩ rằng những con người tầm thường đó sẽ không làm nên trò trống gì, vậy mà các ông đã làm thay đổi thế giới. Rồi xuyên suốt hơn 2000 năm qua, Giáo hội Chúa đã trải qua biết bao chống đối bách hại thế nhưng con thuyền Giáo hội vẫn đứng vững. Tất cả đều do và nhờ Chúa Thánh Thần.
Ngày hôm nay Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động mạnh mẽ trong lòng Giáo hội và trong tâm hồn của mỗi người chúng ta. Sở dĩ chúng ta có thể tin Chúa, yêu mến Chúa là nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô nói “không ai có thể gọi Đức Giêsu là Chúa mà không do tác động của Thánh Thần”. Khi chúng ta phạm tội, Chúa Thánh Thần thúc giục lương tâm để chúng ta hoán cải để trở về với Chúa qua bí tích giải tội. Chính sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, biết bao người đã quảng đại hy sinh cuộc đời mình để phục vụ những người nghèo, những kẻ cô thế cô thân, các bậc cha mẹ chu toàn bổn phận săn sóc và làm gương cho con cái, các bạn trẻ can đảm chống lại những cám dỗ trong cuộc sống. Và nhờ Chúa Thánh Thần chúng ta mới có thể yêu thương và tha thứ cho những người xúc phạm đến mình. Bởi vì hoa trái của Thánh Thần đó là yêu thương, bình an, hiền hoà, quảng đại.
Cuộc sống hôm nay có quá nhiều tác động bởi những bon chen, tranh giành bởi hơn thua, còn mất. Những tác động đó có thể làm cho chúng ta không còn nghe được tiếng Chúa, trở nên vô cảm trước những đau khổ của đồng loại mình. Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời chúng ta. Bởi Ngài sẽ dạy chúng ta cầu nguyện, Ngài sẽ dạy chúng ta biết sống thế nào cho đẹp lòng Chúa. Và Ngài sẽ phù trợ để chúng ta kiên nhẫn trong lúc đau khổ và vui mừng trong các việc lành phúc đức.
Dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa Thánh Thần đổi mới tâm hồn của mỗi người chúng ta, để chúng ta luôn biết sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Biết kêu cầu Chúa Thánh Thần trong mọi công việc, nhờ đó chúng ta can đảm làm chứng cho Chúa phục sinh bằng một cuộc sống đầy hy vọng, yêu thương và phục vụ anh chị em mình.

35. Đức Chúa Thánh Thần, nguồn suối nước sự sống
(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Tin kính Đức Chúa Thánh Thần trong tâm hồn và tuyên xưng ra ngoài môi miệng. Nhưng không ai đã nhìn thấy Đức Chúa Thánh Thần như thế nào.
Đức Chúa Thánh Thần, vì thế, được diễn tả vẽ trình bày theo nhiều hình ảnh khía cạnh khác nhau. Một trong những hình ảnh đó là dòng nước.
1. Nước trong đời sống con người
Nước chảy thành dòng, và không thể nắm giữ lại được như một vật rắn chắc. Nếu muốn giữ nước lại, phải có ly tách, hay chậu… mới có thể quy tụ giữ nước lại được.
Nhà hiền triết Aristoteles người Hylạp, đã suy nghĩ theo lý luận triết học đi đến kết luận có bốn yếu tố quan trọng nền tảng trong thiên nhiên: đất, nước, lửa và khí. Nước là một trong bốn yếu tố nền tảng đó.
Cũng theo nhà hiền triết người Hylạp, Thales, nước là yều tố duy nhất làm nên thân thể.
Hai phần ba trái đất được bao phủ bằng nước. Không có nước, không có sự sống. Vì tất cả mọi con đường sự sống đều tùy thuộc cần đến nước.
Nước là thành phần chính yếu quan trọng của các cơ quan thân xác con người. Từ 55-60% nước chiếm trọng lượng trong thân thể con người.
Nước là viên gạch xây dựng các tế bào trong thân thể.
Nước đóng vai trò là dung dịch làm tan biến tiêu hóa những chất nặng đặc trong các cơ quan thân thể.
Nước cũng đóng vai trò vận chuyển những chất dinh dưỡng cho các cơ quan trong thân thể.
Nước điều hòa nhiệt độ nóng ấm trong thân thể con người.
Vì thế, nước là thành phần chính yếu cùng quan trọng cho cơ thể con người. Và cũng vì thế con người cần phải uống nước hằng ngày, để cho các cơ quan làm việc giúp cho sự sống phát triển và sức khoẻ được điều hòa.
2. Nước trong niềm tin các tôn giáo
Trong niềm tin các tôn giáo, nước là điều thánh thiêng cùng quan trọng.
Theo niềm tin Hồi giáo, nước là dấu hiệu khởi nguyên của sự sống, và là mối dây tương quan nối liền với Thần Thánh.
Theo Phật giáo, nước quan trọng. Vì nước là một trong bốn yếu tố trong vũ trụ. Dòng nước chảy trong sông là hình ảnh giáo lý Phật giáo, con đường chiêm niệm đời sống con người cho tới khi đạt được cứu độ nơi Niết Bàn.
Theo Ấn Độ giáo, nước là sức mạnh tẩy rửa thân thể cùng tinh thần con người.
Theo Kyto giáo, nước là khởi nguyên của mọi sự sống. Trong bài tường thuật về sáng tạo vũ trụ, Thần Linh Thiên Chúa bay là là trên nước, và Thiên Chúa sáng tạo trước tiên vũ trụ trái đất từ nước. Từ đó phát sinh nẩy nở sức sống mọi loài trong vũ trụ.
3. Nước, hình ảnh Chúa Thánh Thần
Thánh Gioan dùng hình ảnh làn nước sự sống diễn tả về Đức Chúa Thánh Thần (Ga 7,37-39).
Ai chúng ta cũng đều đã có kinh nghiệm cùng cảm nghiệm về sự phấn khởi tươi mát mang đến năng lực cho đời sống. Lúc khát nước hay khi gặp trời nóng nực mà nhận được ly nước uống vào, ngay tức thì cơn khát được hạ dịu bớt, sức sống phấn khởi bừng lên trong thân thể nơi làn da thớ thịt, cùng nơi tâm trí. Lúc đó ly nước mát quan trọng qúy gía biết chừng nào!
Vào mọi thời đại và ở nơi nơi, nước luôn là yếu tố căn bản cho phát triển về ruộng vườn, cây cối ngoài thiên nhiên; cho nhu cầu ăn uống,vệ sinh sạch sẽ của con người cùng thú động vật.
Dòng nước chảy trong dòng suối, khe lạch, nơi sông ngòi đến đâu mang chất phân bón phù sa cho cây cỏ, ruộng vườn được phát triển tươi tốt. Và dòng nước là vùng, là ngôi nhà chỗ ẩn thân sinh sống cho mọi loài cá tôm. Trong dòng nước chúng sinh sản lớn lên phát triển làm thức ăn dinh dưỡng nuôi sống con người từ ngàn xưa.
Đức Chúa Thánh Thần là sức mạnh của Thiên Chúa, tựa như làn nước làm cho sức sống sự xanh tươi chảy thông cuồn cuộn bừng lên.
Chúng ta nhìn thấy dòng nước. Nhưng Thiên Chúa, Đấng dựng nên nước, ký thác sự bí ẩn mầu nhiệm sức sống trong đó, khiến mắt ta không nhìn thấy sức mạnh ẩn dấu trong nước.
Bằng đôi mắt thường chúng ta quan sát dòng nước chảy. Nhưng tâm trí ta, dù có thể dùng phương pháp khoa học thực nghiệm phân tích chất chứa trong nước, cũng không hiểu được mầu nhiệm bí ẩn sức sống của nước do Trời cao tạo dựng nên. Sức sống ẩn chứa trong dòng nước mang lại không chỉ sự tươi mát cho da thịt, mà còn sức mạnh cho tâm hồn lẫn gân cốt bắp thịt, sự phấn khởi tỉnh táo cho tâm trí suy nghĩ biểu hiện qua nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt, trên ánh mắt con người.
Giống như mầu nhiệm sức sống ẩn chứa trong dòng nước, Đức Chúa Thánh Thần, Đấng là sức mạnh cho sự sống đức tin vào Chúa thể hiện theo nhiều phương cách, mà tâm trí ta không sao nhìn thấu cùng thông hiểu nổi, hay không như ta chờ đợi mong muốn.
Đức Chúa Thánh Thần, mà Chúa Giêsu hứa ban gửi đến cho Giáo Hội luôn hằng có mặt trong Giáo Hội. Ngài là Đấng vô hình, nhưng không phải là một „bóng ma thánh“.
Ngài là dòng nước mang sức sống đến cho đời sống thiên nhiên của Giáo Hội.
Dòng nước chảy mang đến sức sống cùng sự đổi mới. Dòng nước sức sống Đức Chúa Thánh Thần tác động âm thầm tiệm tiến trên sự đổi mới trong lòng sự sống Giáo Hội.
Chúng ta chỉ có thể tìm cách cắt nghĩa diễn tả Đức Chúa Thánh Thần bằng hình ảnh, như Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh dòng nước là nguồn sức sống nói về Thần linh Thiên Chúa, Đấng là mầu nhiệm ẩn dấu với tâm trí con người.
Đức Thánh Cha Phanxico trong bài giáo lý ngày 08.05. 2013 đã nói về đức Chúa Thánh Thần
* Con người của mọi thời đại và mọi nơi đều muốn có một cuộc sống sung mãn và tốt đẹp, công bằng và tốt lành, một cuộc sống không bị đe dọa bởi cái chết, nhưng có thể trưởng thành và phát triển một cách trọn vẹn.
Con người như một khách lữ hành, đang băng qua hoang địa cuộc đời, khát một nước hằng sống, vọt lên và tươi mát, có khả năng làm thỏa mãn ước vọng sâu thẳm tận đáy lòng về ánh sáng, tình yêu, vẻ đẹp và bình an của người ấy. Tất cả chúng ta đều cảm thấy ước vọng ấy!
Và Chúa Giêsu ban cho chúng ta nước hằng sống này: đó là Chúa Thánh Thần, Đấng phát sinh từ Chúa Cha, và là Đấng mà Chúa Giêsu đổ vào lòng chúng ta. Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10).

36. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Qua bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, thánh Gioan tông đồ tường thuật lại việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và sai các ông đi loan báo Tin Mừng Phục sinh cho muôn dân. Để các ông đủ khả năng để thi hành sứ vụ, thì liền sau đó, Chúa Giêsu đã trao ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ.
Hôm nay là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, với Lời Chúa chúng ta vừa nghe, nói cho chúng ta biết hai bài học quan trọng về Chúa Thánh Thần: Bài học thứ nhất: Làm cách nào để có được Chúa Thánh Thần hiện diện trong cuộc đời của mình? Bài học thứ hai: Khi đã có Chúa Thánh Thần hiện diện trong đời mình, chúng ta phải làm gì?
1. Bài học thứ nhất: Phải làm gì để được Chúa Thánh Thần hiện diện trong cuộc đời của mình?
Chúng ta vừa nghe bài Phúc âm. Xin được hỏi, trong khi các môn đệ họp với nhau ở phòng tiệc ly, với tâm trạng sợ hãi, thì bất ngờ điều già xảy ra? (Chúa Giêsu hiện ra) Khi Chúa Giêsu hiện đến, Ngài ban bình an cho các môn đệ, ngài sai các ông đi rao giảng, và Ngài còn làm một điều quan trọng nữa là gì? (Ban Chúa Thánh Thần cho các ông). Như vậy, đến đây chúng ta hiểu rằng để có được Chúa Thánh Thần thì cuộc đời chúng ta phải có Chúa Giêsu, Chúa Giêsu là Đấng giới thiệu Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Vậy để có Chúa Thánh Thần trong cuộc đời, chúng ta phải năng rước Chúa Giêsu vào lòng. Những ai chưa rước lễ hoặc những người gặp khó khăn trong đời sống đạo không thể rước Chúa được thì năng cầu nguyện với Chúa Giêsu mỗi ngày. Ngoài ra, để có Chúa Thánh Thần trong đời, chúng ta hãy tập thói quen sau khi ngủ một đêm, vừa thức dậy là đọc kinh sáng, dâng một ngày sống cho Chúa Thánh Thần. Bên cạnh đó, bất kỳ làm một điều gì đó cũng đều cầu nguyện với Chúa Thánh Thần để Ngài hướng dẫn. (Tóm lại cách để có Chúa Thánh Thần trong cuộc đời mình: 3 việc)
2. Bài học thứ hai: Khi đã có Chúa Thánh Thần hiện diện trong đời mình, các em phải làm gì?
Chúng ta hãy nhớ lại xem, khi thiên thần đến truyền tin cho Đức Mẹ thì nói rằng: Thánh Thần sẽ rọp bóng trên bà. Đức Mẹ được tràn đầy Chúa Thánh Thần sau khi nhận lời Thiên thần truyền tin. Sau đó, mẹ làm một việc bác ái được ghi trong Phúc âm là đi viếng thăm giúp đỡ bà chị họ là bà Isave. Còn Chúa Giêsu, khi chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần với hình chim Bồ câu đậu xuống trên người. Được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Chúa Giêsu làm nhiều việc bác ái cho mọi người: chữa bệnh, tha tội, cho người chết sống lại, và cao điểm là chết trên Thánh giá chuộc tội nhân loại. Trong bài Tin Mừng hôm nay, các tông đồ được sai đi rao giảng Tin Mừng, rao giảng tình thương cứu chuộc của Chúa cho mọi người. Liền sau đó, Chúa Giêsu trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ để đi thực hiện sứ vụ tình thương. Đến đây, chúng ta hiểu rõ rằng, có Chúa Thánh Thần hiện diện trong đời, thì điều Ngài hướng dẫn chúng ta là yêu thương người khác. Việc yêu thương đối với chúng ta không phải là gặp người đi xin ngoài đường cho họ vài trăm ngàn. Mà đối với các em, bác ái là là hiếu thảo, vâng lời cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ những công việc nhỏ nhặt trong nhà như quét nhà, rửa chén, nấu cơm, lau bà; bác ái là biết nhường nhịn, không dành ăn, không dành chơi với em út mình; bác ái là vô lớp giáo lý không chơi để cho các bạn khác học; bác ái là ra đường gặp người lớn, gặp thầy cô biết chào hỏi;… bác ái là biết quan tâm giúp đỡ bạn bè cùng trường, cùng lớp với mình.
Chúng ta biết, giới răn trọng nhất của người Kitô hữu là sống yêu thương mà Chúa Thánh Thần là Đấng xuất phát từ tình yêu Chúa Cha và Chúa con mà ra. Do vậy, sống giới luật yêu thương trong đời sống đạo thì không thể thiếu Chúa Thánh Thần. Từ nay, xin mọi người hãy cố gắng cầu nguyện nhiều với Chúa Thánh Thần để luôn có Ngài hiện diện trong cuộc đời mình. Ngài sẽ giúp chúng ta hoàn thành tốt bổn phận yêu thương trong đời sống đạo để mai này được về Thiên đàng hưởng phúc với Thiên Chúa Ba Ngôi.

37. Ngọn gió
Bấy giờ các môn đệ họp lại ở một nơi. Bỗng dưng có tiếng từ trời đến, ào ào như gió thổi khắp nhà các đấng đang ngồi. Lại thấy có hình lưỡi lửa tỏa ra, đổ trên đầu từng người một và tất cả đều được tràn đầy Thánh Linh. Qua vài dòng tường thuật ngắn ngủi trên, chúng ta cùng nhau chia sẻ về hình ảnh ngọn gió.
Hậu quả đầu tiên mà gió đem lại, đó là quét sạch bụi bặm và rác rưởi. Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô: Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng gió, nhưng lại không biết gió từ đâu mà đến và sẽ đi về đâu, những kẻ sinh bởi Thần Khí cũng thế. Thực vậy, gió thổi chỗ này, gió thổi chỗ khác. Không ai có thể vạch đường cho gió. Gió thổi theo những luật lệ riêng của gió. Cũng vậy, tình yêu chân thực sẽ vượt qua mọi thúc ép bên ngoài. Và khi tình yêu cao cả nhất là Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ, thì đó cũng là lúc những thái độ bên ngoài, những nghi lễ của Môisen, những quan niệm hẹp hòi của bọn biệt phái bị sụp đổ. Tin Mừng tràn lan như một ngọn gió. Và Tin Mừng ấy thổi đến đâu, thì sẽ lật đổ mọi tượng thần nhảm nhí, làm cho trong sạch và dịu mát bầu khí luân lý và đạo đức vốn đã bị ô nhiễm. Cùng với ngọn gió của ngày lễ Hiện Xuống, một con người mới được sinh ra với một lý tưởng mới và những khát vọng mới. Một thế giới được khởi đầu đó là thế giới Kitô giáo. Thế giới cũ không thể nào chống lại sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Như một bức tường xiêu vẹo và đổ nát, không thể nào cản được sức mạnh của cơn gió xoáy.
Giáo hội khởi đầu chỉ là một nhóm nhỏ gồm mười hai tông đồ. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần đã hoạt động trong các ông, thôi thúc các ông ra khơi và thả lưới, lên đường và chinh phục thế giới về cho Đức Kitô. Ý tưởng này làm cho chúng ta thêm phấn khởi và cảm thấy được an ủi. Dù hoàn cảnh có đen tối, dù số phận có thê thảm, dù giông tố có nổi lên, dù bắt bớ có xảy ra, nhưng có Chúa Thánh Thần hoạt động trong cộng đoàn tín hữu, thì không có một thế lực nào, không một gian nguy thử thách nào có thể chiến thắng nổi chúng ta. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng Chúa Thánh Thần sẽ chẳng qua đi bao giờ.
Trong thời gian khó khăn tại Liên Xô, chỉ có một chủng viện nhưng phải sinh hoạt âm thầm và lén lút. Ngày kia một ký giả may mắn gặp được một thanh niên hơn hai mươi bốn tuổi, với khuôn mặt sáng sủa và thân hình gầy còm vì đói. Anh cho biết mình là một đại chủng sinh, đang chuẩn bị lãnh nhận chức phó tế. Ban ngày anh phải đi làm như một người thợ, một công nhân. Ban đêm mới học. Học không sách vở, học không ánh sáng. Họ sống và cầu nguyện chung với nhau, nhưng luôn phải canh chừng. Phải chăng Kitô giáo đã tàn lụi trên đất nước Liên Xô? Không phải thế. Dù chỉ còn một nhóm nhỏ thì Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động. Để rồi cuối cùng, mọi sự sẽ qua đi, nhưng Chúa Thánh Thần sẽ chẳng qua đi bao giờ.
Biết bao lần chúng ta thất vọng khi nhìn thấy tội ác thắng thế và cất cao tiếng cười ngạo nghễ. Biết bao lần chúng ta hoài nghi vì thiện chí của chúng ta bị coi thường và xuyên tạc. Thế nhưng, nếu thực sự có Chúa Thánh Thần ngự trị, chúng ta sẽ không bao giờ ngờ vực, sẽ không bao giờ thất vọng. Vậy chúng ta phải có thái độ nào? Chúng ta hãy lắng nghe lời thánh Phaolô khuyên nhủ: Đừng làm buồn lòng Chúa Thánh Thần và đừng dập tắt ngọn lửa của Ngài. Nhưng thế nào là làm buồn lòng Chúa Thánh Thần, thế nào là dập tắt ngọn lửa của Ngài? Chúng ta sẽ làm buồn lòng Chúa Thánh Thần nếu chúng ta chống lại những hành động hướng dẫn, giáo huấn và thánh hóa của Ngài. Chúng ta hãy để cho Ngài thúc đẩy, để chúng ta chỉ suy nghĩ những tư tưởng của Chúa, chỉ lắng nghe những lời Chúa nói. Chúa Thánh Thần là người nghệ sĩ, còn tâm hồn chúng ta là cây đàn. Nếu chúng ta để cho Ngài gẩy, thì tâm hồn chúng ta sẽ vang lên những khúc nhạc tuyệt vời. Chúng ta có thể nói cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là như một con đường ngập ánh nắng mặt trời, dù họ phải đi qua bóng tối của gian nan và thử thách. Hơn nữa, cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là một khúc hoan ca, dù họ gặp phải những cay đắng chua xót. Ngoài ra, cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là một ngày hội lớn, một ngày khải hoàn chiến thắng, dù họ phải luôn chiến đấu không ngừng.
Ngọn gió của Chúa Thánh Thần có thể thổi đến với tôi bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu: trong giờ kinh nguyện, trên đường phố, bên giường bệnh nhân, trong cơn cám dỗ…sức mạnh của Chúa Thánh Thần sẽ truyền sang cho tôi. Và thật là diễm phúc, nếu tôi biết lắng nghe và tuân theo sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần, bởi vì tôi sẽ được Ngài hướng dẫn và ủi an.

38. Chúa Thánh Thần – Nguồn Bình An
Chúng ta đang sống trong một thế giới phát triển nhanh chóng về mọi mặt. Nhiều phương tiện hiện đại được phát minh hầu phục vụ cho sự sống con người. Nhiều căn bệnh hiểm nghèo ngày nay đã được chữa khỏi so với thời gian trước đây phải đành chịu. Cũng thế, ngày nay con người ngày càng ý thức hơn về quyền và phẩm giá của nhau.
Dầu vậy, con người ta dường như vẫn chưa thật sự cảm thấy bình an. Bởi lẽ, sự sống của con người vẫn còn là một cái gì đó hẩm hiu. Ngay cả nhiều người hầu như có tất cả những gì của thế gian này nhưng vẫn cảm thấy bất an. Phải chăng lòng họ chưa được Chúa Thánh Thần ngự trị.
Ðoạn Tin mừng được suy niệm lễ hôm nay nằm trong bối cảnh sau khi Chúa Giêsu sống lại. Người đã hiện ra cùng các Tông đồ đang khi các ông trốn trong căn phòng đóng kín cửa vì sợ người Do thái. Hiểu được tâm trạng lo sợ của các ông nên Chúa Giêsu Phục Sinh đã ban cho các ông chính Chúa Thánh Thần với quyền được tha tội cho người khác: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20, 22b – 23)
Từ khi được đón nhận Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã được biến đổi cách lạ thường. Những con người nhút nhát bấy giờ không còn nữa. Thay vào đó là những con người can đảm và gan dạ lạ thường.
Các Tông đồ đã biết tin và làm theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần nên dù gặp khó khăn thử thách nhưng các ông luôn luôn cảm thấy bình an. Người kitô hữu chúng ta cũng đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần ngày chịu phép Rửa tội và cách đặc biệt hơn ngày lãnh nhận Bí tích Thêm sức. Nhân ngày lễ hôm nay chúng ta hãy nhìn lại xem chúng ta có luôn cảm thấy được bình an thật sự không.
Tiếng nói của Chúa Thánh Thần chắc chắn đã và đang vang lên trong tâm hồn của chúng ta giúp chúng ta biết đâu là điều cần phải làm, đâu là điều cần phải giữ và đâu là điều cần phải tránh. Những điều ấy chúng ta soi sáng để giúp chúng ta sống trọn ơn gọi làm người và làm con Chúa ở trần gian này. Khi chúng ta biết lắng nghe và làm theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần chắc chắn chúng ta sẽ có được sự bình an đích thật trong tâm hồn.

39. Đấng đổi mới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG ĐỔI MỚI
(Cv 2,1-11)
Qua bài trích sách Công Vụ Tông Đồ, ta thấy Đức Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới.
Ngài đã đổi mới trí khôn các Tông đồ. Các Tông đồ là những người làm nghề chài lưới, ít học. Suốt 3 năm ở bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã được Chúa dạy dỗ nhiều điều. Nhưng các ngài không hiểu. Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, trí khôn các ngài như được mở ra. Không những các ngài hiểu biết về Chúa, hiểu biết giáo lý của Chúa, mà còn có thể đi giảng dạy cho người khác nữa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người thất học nên hiểu biết. Ngài đã đổi những tâm trí u mê thành sáng suốt.
Ngài đã đổi mới ý chí các Tông đồ. Từ khi Chúa Giêsu bị bắt và bị kết án, các Tông đồ sống trong sợ hãi. Các ngài đã trốn chạy. Các ngài đã chối Chúa. Các ngài đã ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, con người các ngài hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Bị đe doạ, các ngài vẫn không sợ. Bị đánh đòn, các ngài vẫn kiên cường. Không gì có thể ngăn cản các ngài rao giảng, làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh. Sau cùng tất cả các ngài đã chịu đổ máu, hiến mạng sống mình để làm chứng cho Chúa, ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người yếu đuối nên vững mạnh. Ngài đã biến những con người nhút nhát nên can đảm.
Ngài đã đổi mới trái tim các Tông đồ. Trước kia các ngài còn mang nặng những ước mơ trần tục. Theo Chúa để mong được chức trọng quyền cao. Mong được ngồi bên tả bên hữu Chúa. Tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp. Có thể nói, trước kia các ngài theo Chúa vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa yêu mến Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn Chúa Thánh Thần, trái tim của các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Từ nay các ngài dành trọn trái tim cho Chúa, yêu mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là sẵn sàng chết vì Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã biến đổi những trái tim chai đá thành những tái tim bằng thịt. Đã biến đổi những trái tim ích kỷ thành trái tim yêu thương.
Đời sống ta có quá nhiều yếu đuối. Trí khôn ta u mê không hiểu Lời Chúa, không nhận biết thánh ý Chúa. Ý chí ta bạc nhược không đủ sức làm việc lành, hèn nhát không dám làm chứng cho Chúa. Trái tim ta nhơ uế vì những ích kỷ nhỏ nhen, vì những ham muốn trần tục. Hôm nay ta hãy tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần đến đổi mới con người xưa cũ của ta. Để ta thấu hiểu Lời Chúa, thấu hiểu thánh ý Chúa muốn trong đời. Để ta mạnh mẽ can đảm làm chứng cho Chúa trong đời sống và để trái tim ta được thanh luyện luôn quảng đại cho đi, dâng hiến.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Đức Chúa Thánh Thần đã đổi mới các thánh Tông đồ như thế nào?
2. Trong tôi còn những gì xưa cũ cần đổi mới?
3. Ai cũng có nhu cầu đổi mới nhà cửa, đời sống vật chất. Bạn có thấy nhu cầu đổi mới tâm hồn không?

40. Chúa Thánh Thần – Sự Sống mới
(Suy niệm của Đức TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống. Tin Mừng hôm nay thuật lại: Chúa Giêsu thổi hơi vào các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Cử chỉ này nhắc ta nhớ lại việc Thiên Chúa tạo dựng con người. Sách Sáng thế 2,7 tường thuật: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật”. Hơi thở là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là sự sống. Không phải là một sự sống bình thường như sự sống của các sinh vật khác. Đây là sự sống của Thiên Chúa với tất cả những chiều kích cao sâu phong phú của nó. Trong khuôn khổ Lời Chúa hôm nay ta có thể thấy sự phong phú của sự sống Chúa Thánh Thần.
Đó là sự sống thiêng liêng. Sự sống là tất cả. Nên sự sống là món quà quí nhất Thiên Chúa tặng ban cho con người. Không có sự sống là không có gì hết. Còn hơn thế nữa. Chúa ban cho ta sự sống của chính Thiên Chúa. Cho ta giống hình ảnh cao đẹp của Chúa. Cho ta được chung hưởng sự sống hạnh phúc với Chúa.
Đó là cuộc sống trong bình an. Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa ra một định nghĩa mới về sức khoẻ. Khoẻ mạnh không phải chỉ là không có bệnh tật gì mà còn phải là cuộc sống bình an. Chúa Thánh Thần là sự sống bình an. Nên các môn đệ đang lo âu sợ hãi bỗng trở nên mạnh mẽ, can đảm. Dù cuộc sống còn nhiều khó khăn. Nhưng các ngài vẫn vui tươi và bình an.
Đó là cuộc sống hiệp thông. Con người không sống đơn độc, nhưng sống với người khác. Cuộc sống xã hội làm con người nên phong phú. Nhưng cuộc sống xã hội chỉ phát triển trong sự hiệp thông. Đó chính là ơn Chúa Thánh Thần. Ngày Lễ Ngũ Tuần, thế giới tràn ngập ơn hiệp thông. Nên người muôn dân muôn nước, dù khác biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ vẫn hiểu biết và sống chan hoà. Sách Công vụ Tông đồ đề cập đến người thuộc 17 địa phương khác nhau. Ta nghĩ đến 70 lần 7. Con số vô vàn vô số chủng tộc có thể sống với nhau trong tình hiệp thông chan hoà.
Đó là cuộc sống yêu thương. Chúa Thánh Thần là tình yêu muôn đời giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Là tình yêu nguyên thuỷ. Là tình yêu của mọi tình yêu. Giáo hội sơ khai được ơn Chúa Thánh Thần nên sống với nhau trong tình yêu thương. Mọi người đối xử với nhau như anh em ruột thịt. Bỏ của cải làm của chung. Nên không ai bị thiếu thốn.
Đó là cuộc sống hài hoà. Thánh Phaolô diễn tả cuộc sống theo ơn Chúa Thánh Thần khiến xã hội trở nên hài hòa như trong một thân thể. Mỗi người làm việc riêng theo chức năng của mình. Nhưng hài hoà với mọi người, như các chi thể trong một thân thể. Mỗi chi thể làm việc riêng nhưng đều hướng về lợi ích của toàn thân. Ta hãy xem một cầu thủ đá bóng. Khi thấy bóng, mắt phải quan sát. Trí óc phải phán đoán. Chân tay phải chuyển động. Và cả mắt nhìn, cả trí phán đoán, cả chân tay chuyển động là làm sao đưa bóng đến mục đích. Như thế mọi thành phần trong cơ thể đều kết hợp hài hoà để đạt được ích lợi chung.
Nhìn vào tình hình thế giới hôm nay, ta thấy cuộc sống do Thiên Chúa tạo dựng đang bị phá vỡ. Lực lượng sự dữ tàn phá hình ảnh Thiên Chúa nơi con người; xúi giục con người sống theo thú tính; khiến khuôn mặt con người trở nên méo mó; đánh mất vẻ đẹp của hình ảnh Thiên Chúa; tàn phá lương tâm khiến con người không còn phân biệt thiện ác; tàn phá thiên nhiên khiến thế giới trở nên khó sống. Thiên nhiên nổi giận. Khí hậu biến đổi đang tác hại đến sự sống của con người. Tệ hại hơn nữa, lực lượng sự dữ tàn phá chính sự sống. Và tồi tệ nhất là con người huỷ diệt chính sự sống khi giết hại thai nhi là chính con người, chính con cái của mình. Sự xấu làm cho cuộc sống mất bình an. Con người phải sống trong lo sợ. Sợ bị mất mạng. Sợ bị mất tiền của. Sợ bị mất danh dự. Sợ bị mất tự do. Sợ hãi làm cho con người sống mà như đang chết đi. Sự xấu làm mất tình hiệp thông. Người trong một nước nói cùng ngôn ngữ mà không hiểu nhau. Người trong một gia đình trở nên xa lạ vì mỗi người đều nghĩ đến quyền lợi riêng. Cuộc sống thiếu tình yêu thương. Đang có những tình anh em kiểu Cain và Abel. Rủ nhau ra đồng để giết hại nhau. Tình đồng chí kiểu môi hở răng lạnh. Nhưng răng cắn môi đau. Và cuộc sống thiếu sự hài hoà; khiến cho các tập thể trở nên rời rạc. Vì mỗi người không nhìn đến lợi ích chung của toàn thân. Chỉ biết vun quén cho riêng mình.
Chính trong tình hình này, ta cần ơn Chúa Thánh Thần hơn bao giờ hết. Chỉ có Chúa Thánh Thần Đấng Ban Sự Sống mới có thể thay đổi, phục hồi và phát triển sự sống cho thế giới. Vì thế, ta phải tha thiết kêu van xin Chúa Thánh Thần ngự đến.
Lạy Đấng Ban Sự Sống xin hãy đến. Xin hãy thổi hơi thần linh để con người được có lại sự sống của Thiên Chúa.
Lạy Đấng Bảo Trợ xin hãy đến. Chúa là nguồn mạch bình an. Xin hãy ban bình an cho chúng con.
Lạy Nguồn Ơn Hiệp Thông xin hãy đến. Ngài là sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Xin hãy ban ơn hiệp thông để thế giới ngày càng gần gũi hiểu biết nhau hơn chí người trong cùng một nhà mà cũng như xa lạ, không thể hiểu nhau.
Lạy Thánh Thần Tình Yêu xin hãy đến. Ngài là tình yêu của mọi tình yêu. Là tình yêu nguyên thủy giữa Chúa Cha và Chúa Con. Xin cho chúng con sống với nhau trong tình bác ái huynh đệ chân thực.
Lạy Thánh Thần Hài Hoà xin hãy đến. Ngài làm cho tất cả “dầu là Dothái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, nếu đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí đều trở nên một thân thể”. Và mọi chi thể trong thân thể đều kết hợp hài hoà nhịp nhàng ăn khớp để hoạt động vì cùng một mục đích là ích lợi cho toàn thân.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến và đổi mới mặt đất này. Nhưng mặt đất này do con người tàn phá. Nên xin hãy đổi mới tâm hồn con người. Xin đổi mới mọi sự trong ngoài chúng con. Để chúng con nên con người mới, xây dựng một thế giới mới chan hoà sự sống, chan hoà bình an, chan hoà tình yêu thương.
Lạy Mẹ Maria, xưa kia Mẹ đã cùng với các Tông đồ trong nhà Tiệc Ly cầu nguyện xin Chúa Thánh thần ngự đến; nay xin Mẹ cũng tiếp tục cầu nguyện để chúng con được đón nhận Chúa Thánh Thần.

41. “Thánh Thần khấn xin ngự đến…”
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Theo Sách Tông Đồ Công Vụ (cuốn sách ghi lại các hoạt động truyền giáo của các Thánh Tông Đồ vào thuở ban đầu của Giáo Hội), Chúa Giêsu sau khi sống lại, đã hiện ra với các Thánh Tông Đồ nhiều lần trong vòng “40 ngày” (Cv 1:3) Trong những lần hiện ra đó, Chúa Giêsu Phục Sinh đã “nói chuyện với các Ông về Nước Trời”, củng cố đức tin cho các Ông về việc Chúa thực sự đã sống lại, chuẩn bị tâm hồn các Ông để “đón nhận Chúa Thánh Thần” và trao cho các Ông nhiệm vụ truyền giáo “cho đến tận cùng trái đất”. Sau đó Chúa Giêsu đã “lên Trời trước mặt các Ông” (Cv 1:1-9).
“Chúa Giêsu Lên Trời” chỉ có nghĩa là Ngài không còn hiện ra với các Tông Đồ nữa; tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn ở cùng các Thánh Tông Đồ và Giáo Hội Chúa, như lời Chúa đã hứa “Thầy vẫn còn ở với chúng con mỗi ngày cho đến tận thế…” (Mat 28:20). Chúa Giêsu vẫn họat động truyền giáo với các Thánh Tông đồ: “Các Tông đồ ra đi rao giảng các nơi, có Chúa cùng họat động với các Ông…” (Matcô 16,20…). Chúa Giêsu vẫn là vị Chủ Chăn Chính của Giáo Hội. Các Đức Giáo Hòang chỉ là vị “Đại Diện” (Vicar) của Chúa Giêsu nơi trần gian; nhưng không “kế vị” Chúa Giêsu. Qua họat động của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu vẫn rao giãng, ban ơn Thánh hóa chúng ta qua các phép Bí Tích, ban ơn tha tội, Tế lễ trên Bàn Thờ, nuôi dưỡng chúng ta bằng Mình và Máu Thánh Chúa trong Bí Tích Thánh Thể…
Trước khi “Lên Trời”, Chúa Giêsu đã hứa với các Thánh Tông Đồ là Chúa Thánh Thần sẽ đến (Cv 1:8); (Gn 16:7…). Chúa Thánh Thần là “Đấng Bảo Trợ” (The Advocate), là “Đấng an ủi” (the “Paraclete”, “Comforter”).
Đúng như lời Chúa Giêsu đã hứa, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống dưới “hình lửa” trên từng Tông Đồ và các Tông Đồ “được tràn ngập ơn Chúa Thánh Thần” (Cv 2: 1-4). Ngày đó trùng vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Lễ Ngũ Tuần là Đại Lễ của Do Thái Giáo, vào đúng vào ngày thứ 50 sau ngày Chúa Giêsu sống lại (‘Pentecost’ ‘ngày thứ 50); vì thế chúng ta mừng Lễ Chúa Thánh Thần vào ngày thứ 10 sau Lễ Chúa lên Trời. Lễ Chúa Giêsu Lên Trời được mừng vào ngày Thứ Năm sau Chúa Nhật VI mùa Phục Sinh (đúng 40 ngày sau Chúa Nhật Phục Sinh), nhưng thường được chuyển vào Chúa Nhật VII mùa Phục Sinh. Như vậy Lễ Chúa Thánh Thần được mừng vào Chúa Nhật sau Chúa Nhật VII mùa Phục Sinh; sau đó chúng ta bước sang Mùa Thường Niên, chu kỳ II.
Ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là ngày khởi đầu của Giáo Hội, ngày “Sinh Nhật” của Giáo Hội, cũng là ngày khởi đầu công cuộc truyền giáo của Giáo Hội. Ơn Chúa Thánh Thần đã biến cải các Tông đồ trở nên những người can đảm, những người thông hiểu Kinh Thánh và nhớ lại các điều Chúa Giêsu đã giảng dạy. Các Ngài không còn “đóng kín cửa vì sợ người Do Thái” (Ga 20:19); nhưng bắt đầu rao giảng cho dân chúng đang tụ họp chung quanh nơi các Ngài ở (Cv 2:14…) và đã có nhiều người ăn năn sám hối và xin chịu Phép Rửa để gia nhập Giáo Hội Chúa (Cv 2:41).
Từ ngày đó, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, công cuộc truyền giáo của Giáo hội tiếp tục phát triển qua thời gian cho đến ngày nay, và Giáo hội được mở rộng đến các dân tộc (Luca 24:47) để đem Tin Mừng tình thương và ơn cứu rỗi đến cho mọi người, để “ai tin thì sẽ được cứu rỗi…” (Matcô 16:15…). Qua các thời gian, Chúa Thánh Thần vẫn che chở Giáo hội Chúa qua “mọi cơn gian nan khốn khó!”; qua bao cuộc “bách hại” khủng khiếp.
Ngay từ thuở ban đầu, Giáo hội đã bị “bách hại” mà vị tử đạo đầu tiên là Thánh Têphanô. Các Giáo hữu đầu tiên đã phải tản mát đi khắp nơi để bảo vệ đức tin và đi đến đâu lại rao truyền Đạo Thánh Chúa cho mọi người họ gặp gở hàng ngày; nhờ thế càng thêm nhiều người được rao giảng Tin Mừng và gia nhập Giáo Hội Chúa. Đó là phong trào “Diaspora” của người Kytô hữu thuở Giáo hội lúc ban đầu.
Khi Giáo hội tràn lan đi khắp nơi, tới Thủ đô Rôma thì cuộc bách hại trở nên dử dội hơn với Néron và nhiều Hòang Đế Rôma khác, suốt hai ba thế kỷ cho đến năm 313. Trong những cuộc bách hại đó, từ các vị Giáo Hòang (mà đầu tiên là Thánh Phêrô), các Giám Mục, và mọi Kytô hữu đều bị lùng bắt và bị hành hạ dã man cho đến chết, có người bị thiêu sống, có người bị ném cho thú dử ăn thịt nơi các hý trường tại Rôma. Thánh Phaolô và các Tông Đồ đều bị tử đạo. Thánh Gioan bị đày ra đảo Patmos . Lúc đó chẳng có một tổ chức “Nhân quyền” nào, hoặc một tổ chức nào có thể lên tiếng để bênh vực. Các vua chúa có toàn quyền bách đạo. Các Tin hữu không còn đường nào trốn chạy, phải vào các Nghĩa trang để đào các hầm mộ mà trú ẩn trong những điều kiện thật khổ sở; đó là các “Catacombes” đào sâu xuống đất và dài hằng cây số. Các “Hầm Mộ” hiện còn ở Rôma, mà khách hành hương có thể đến thăm viếng để thấy đức tin của các tín hữu lúc ban đầu mạnh mẽ như thế nào. Tất cả đều nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Cũng nhờ ơn Chúa Thánh Thần họat động trong Giáo hội mà dù bách hại tàn bạo như vậy, nhưng Giáo hội tại Rôma lúc đó không bị tiêu diệt, trái lại vẫn triển nở, vẫn lan tràn đi khắp nơi cho đến ngày nay. Trái lại các Hòang Đế Rôma cũng như đế quốc Rôma hùng vĩ như vậy đã tan biến đi, nay chỉ còn là “vang bóng một thời”.
Ngay tại quê hương Viêt Nam, Giáo hội lúc ban đầu cũng bị các vua chúa triều Nguyễn bách hại thật tàn bạo và bằng nhiều cách khôn khéo, như chủ trương “Gia Tô phân sáp…” Tất cả đều nhằm tiêu diệt Đạo Chúa, dù mới được chớm nở tại quê hương chúng ta. Dầu vậy Giáo Hội tại Việt Nam cũng đã không bị tiêu diệt, mà vẫn triển nở; còn các triều đại Nhà Nguyễn đều đã đi vào dỉ vãng.
Nếu không có Chúa Thánh Thần nâng đở che chở làm sao Giáo hội mới chớm nở ở Rôma, ở Việt Nam, và nhiều nơi khác trên thế giới không bị tiêu diệt dù bị đàn áp tàn bạo như vậy. Những người Cộng Sản vô thần cũng đã tìm đủ mọi cách để tiêu diệt đức tin của các tín hữu nơi các nước họ đã chiếm được. Với những tính tóan rất kỹ lưỡng họ đã tin tưởng mạnh mẻ là Giáo hội sẽ bị họ tiêu diệt mau chóng ở khắp nơi họ tràn đến; nhưng chế độ Công Sản đã bị sụp đổ ở hầu hết các nơi; nhưng Giáo hội ở các nơi đó vẫn không bị tiêu diệt mà vẫn phát triển nhờ Chúa Thánh Thần che chở, giữ gìn.
Đạo Thánh Chúa không phải chỉ bị bách hại ở một nơi nào đó, vào một thời kỳ nào đó; nhưng luôn bị bách hại ở mọi nơi và dưới thật nhiều hình thức khác nhau do mưu mô của “ma quỷ thế gian” bày đặt ra; vì “bóng tối thì luôn ghét ánh sáng…” Chúng ta hãy luôn cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến để canh tân thế giới chúng ta, để bảo vệ nhân quyền và tự do Tôn giáo, “hiệp nhất chúng ta nên một” trong cùng một gia dinh nhân loại và ban hòa bình cho các tâm hồn, các gia đình và thế giới chúng ta.
Xin Chúa Thánh thần ngự đến giúp chúng ta là các tín hữu của Chúa, luôn biết sống làm sao để “làm chứng cho Chúa” bằng chính đời sống lương thiện, công chính, và hòa hợp, yêu thương đối với mọi ngừơi. Xin Chúa Thánh thần ngự đến để giúp chúng ta biết đem Tin Mừng tình thương của Chúa đến cho mọi người chung sống với chúng ta trong cuộc sống hàng ngày: trong gia đình, trong khu xóm, nơi sở làm, trừơng học… Xin Chúa Thánh thần ngự đến để gìn giữ Gíao Hội qua mọi cuộc bách hại, và gìn giữ chúng ta luôn nắm vững Đức Tin tinh tuyền giữa bao chủ trương sai lạc của thế giới hôm nay.

42. Thánh Thần đổi mới – Cố Lm Hồng Phúc
Hôm nay Giáo hội long trọng mừng lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Trước khi chiệu chết, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy nói thật với các con, Thầy đi thì Thầy sẽ gởi Đấng hay an ủi đến và Ngài sẽ dạy cho chúng con hết mọi sự” (Ga 16, 7-13)
Họ vẫn nhớ những lời ấy, nhưng hôm nay Thầy đi rồi các ông run sợ, sách Công vụ Tông đồ viết: “Các ông lên một phòng cao, cửa đóng then cài vì sợ người Do-thái”. Họ vẫn nhớ lời thầy đã nói: “Ta đến đem lửa xuống trần gian” (Lc 12, 49). Hôm nay Thầy đem lửa thật, họ thấy những lưỡi lửa đổ xuống trên họ và trước đây họ không hiểu thì nay họ hiểu tất cả. Trước đây họ run sợ, đóng cửa then cài thì nay họ không còn sợ và mở toang cửa ra.
Họ lâng lâng như người say rượu, nhưng họ không say rượu mà họ say Chúa, họ tràn đầy Chúa Thánh Thần. Qua các bài đọc hôm nay, chúng ta có thể ghi nhận hai nhận định:
Thứ nhất, ngày Lễ Hiện Xuống là ngày khai sinh Giáo hội.
Giáo hội là gì? Giáo hội là tập đoàn dân Chúa gồm những vị chủ chiên và đoàn chiên, thì hôm nay Chúa Thánh Thần đã thánh hóa tất cả. Ngài thánh hóa chủ chiên bằng sức mạnh tương trùng, bằng lửa, bằng gió, bằng Lời. Lửa để soi sáng, để nung nấu; Gió để đẩy mạnh; Lời để cải hóa, để chinh phục. Và thật, Chúa Thánh Thần đã đến đổi mới các Tông đồ một cách lạ nhiệm. Từ những người mê muội trở nên những người rất thông minh, từ những người sợ sệt trở nên những vị anh hùng. Tất cả các ông đều chết vì đạo, khởi đầu là Phêrô và sau Phêrô, 39 vị Giáo hoàng tiên khởi đều chết vì đạo. Rồi như trong bài Phúc Âm, Chúa ban cho họ một quyền năng kinh khủng, quyền năng đóng mở cửa Nước Trời: “Các con tha tội cho ai thì kẻ ấy được tha, các con cầm buộc ai người ấy bị cầm buộc”. Nhưng Giáo hội không phải chỉ có chủ chăn mà còn có đoàn chiên, không phải chỉ có giáo sĩ, mà còn có giáo dân thì ngày Hiện Xuống là ngày khai sinh. Phêrô đầy Chúa Thánh Thần đứng ra giảng bài đầu tiên và 3 ngàn người đã trở lại chịu phép Rửa tội. Từ nhóm mười hai, nay 800 triệu, Giáo hội đã khai sinh bởi sức mạnh Thánh Thần.
Ý tưởng thứ hai, lễ Hiện Xuống không những là ngày khai sinh của Giáo hội mà lễ Hiện Xuống vẫn còn tiếp diễn, nghĩa là Chúa Thánh Thần vẫn còn hoạt động mạnh bên trong Giáo hội. Ví dụ Công đồng Vaticanô II là một lễ Hiện Xuống mới, Công đồng đã quyết định một cách bất ngờ và đã canh tân Giáo hội cho phù hợp bước tiến của thế giới ngày nay. Không có Chúa Thánh Thần hoạt động bên trong Giáo hội, chúng ta không khỏi theo định luật thời gian để chia ly, phân tán, tàn tạ từ lâu rồi. Không những Chúa Thánh Thần hoạt động một cách chung, mà Ngài còn hoạt động trong từng người, soi sáng, thúc đẩy mỗi người khi chúng ta cầu nguyện, khi chúng ta hành động.
Mỗi người chúng ta có một trái tim, trái tim là cơ quan đầu não, là một kỳ công bé nhỏ bằng nắm tay, nó có sức điều động cả con người, Tim còn đập chúng ta còn sống, tim hết đập chúng ta chết.

43. Những người rao giảng Tin Mừng đầy Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bốn mươi ngày sau Đại lễ Phục Sinh, Giáo hội long trọng cử hành mầu nhiệm cao cả Chúa về Trời, tiếp đến là cầu nguyện thiết tha: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến”.
Lời cầu nguyện trên được Giáo hội tha thiết dâng lên Thiên Chúa Cha cùng với Chúa Giêsu để Người đoái thương đổ tràn Thánh Thần xuống trên Giáo hội và trên mỗi người chúng ta.
Đúng 10 ngày sau khi Chúa về Trời, chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống với niềm vui khôn tả, Ngài là Đấng mà Đức Giêsu đã hứa với chúng ta (x. Ga 16, 7). Ngài “hiện diện” trong lịch sử Giáo hội, và hành động không biết mệt mỏi.
Hồi tưởng lại thời điểm “sau khi Chúa Giêsu lên trời, Các Tông đồ xuống khỏi núi … trở về Giêrusalem… các ông lên lầu gác… Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện, cùng với mấy người phụ nữ, và Bà Maria mẹ Chúa Giêsu, kiên trì cầu nguyện” (x. Cv 1, 12-14). Chuyện gì đã xãy ra khi họ đang cầu nguyện với nhau vậy? Chính lúc “tất cả các môn đệ đều tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp. Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần ban cho họ nói” (Cv 2, 4).
Ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống cách uy phong trên các Tông đồ; sứ mạng của Giáo Hội được khai sinh từ đó. Chính Chúa Giêsu đã truyền cho các Tông đồ ở lại chung với nhau trong kinh nguyện cùng với Mẹ Maria trong Phòng Tiệc Ly, để chuẩn bị lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần (x. CV 1,14). Họ đã làm như Chúa Giêsu truyền, và hết thảy được đầy Chúa Thánh Thần (x. Cv 2, 4).
Gioan Taulê (1300-1361), tu sĩ dòng Daminh ở Strasbour nói: “Nơi” mà sách Tông đồ Công vụ nói ở đây tượng trưng trước hết cho Hội Thánh, nơi Thiên Chúa ngự, nhưng cũng là biểu tượng của mỗi người chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Một ngôi nhà có nhiều tầng, nhiều phòng, nhiều công dụng, cũng như nơi con người có những khả năng, giác quan và nghị lực khác nhau, Chúa Thánh Thần viếng thăm tất cả cách đặc biệt. Khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và gợi ý nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn không ai giống ai. Mặc dù Chúa Thánh Thần là Đấng duy nhất hoạt động nơi con người. (Trích bài giảng số 26, 2 ngày lễ Ngũ Tuần)
Phải khẳng định rằng “Chúa Thánh Thần đến vì chúng ta. Ngài không chỉ đến “để ở với Giáo hội luôn mãi” (Ga 14, 16). Như lời Chúa Giêsu hứa: “Để Người ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Ngày hiện xuống, Chúa Thánh Thần còn đổ tràn đầy ân sủng và ơn đoàn sủng xuống trên Giáo hội thật phong phú dồi dào! Ðức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói: Đây là mầu nhiệm của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí con người, và qua việc soi sáng cho họ biết về Chúa Kitô chịu đóng đinh, chết và đã sống lại, Chúa Thánh Thần chỉ cho biết con đường để trở nên giống Chúa hơn, nghĩa là trở nên “sự biểu lộ và phương thế” của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. Deus Caritas Est, số 33).
Khi nói đến tác động của Chúa Thánh Thần trên người rao giảng Tin Mừng, Đức Phanxicô viết: “Những người rao giảng Tin Mừng đầy Thánh Thần có nghĩa là những nhà truyền giáo mở lòng ra với tác động của Chúa Thánh Thần mà không sợ hãi. Trong Ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã làm cho các Tông Ðồ ra khỏi chính mình và biến các ngài thành những người loan báo những việc cao cả của Thiên Chúa, mà mỗi thính giả bắt đầu hiểu theo ngôn ngữ riêng của mình. Chúa Thánh Thần cũng đổ vào chúng ta sức mạnh để loan báo sự mới mẻ của Tin Mừng với sự mạnh bạo lớn tiếng, ở mọi nơi và mọi lúc, ngay cả những lúc phải lội ngược dòng. Chúng ta hãy cầu khẩn Ngài hôm nay, để được thiết lập một cách vững chắc trên cầu nguyện, vì nếu không có cầu nguyện thì mọi hoạt động có nguy cơ trở thành trống rỗng và rốt cuộc lời rao giảng cũng trở nên không có hồn. Chúa Giêsu muốn chúng ta trở thành những nhà truyền giáo loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói, nhưng trên hết, bằng một cuộc sống được sự hiện diện của Thiên Chúa biến đổi”. (Trích Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 259)
Đức Phanxicô còn nhấn mạnh: Chúa Thánh Thần là linh hồn của việc truyền giáo ” Khi chúng ta nói rằng một điều gì có một “tinh thần”, thì thường ám chỉ một số động lực bên trong tạo ra một sự thúc đẩy, động cơ, khích lệ cùng làm cho các hành động cá nhân và cộng đồng có ý nghĩa. Một việc truyền giáo đầy Thánh Thần khác xa với một mớ những công tác bị coi như những nhiệm vụ nặng nề mà chúng ta chỉ đơn thuần phải làm, hoặc việc gì bị coi như mâu thuẫn với những xu hướng và ước muốn của chúng ta. Tôi rất ước ao tìm được những lời để cổ võ một mùa rao giảng Tin Mừng nhiệt thành, vui mừng, quảng đại, táo bạo, tràn đầy tình yêu cho đến cùng và một đời sống truyền cảm! Nhưng tôi biết rằng không có động lực nào có thể đủ nếu không có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần đốt cháy trong lòng chúng ta. Cuối cùng, truyền giáo với tinh thần là truyền giáo với Chúa Thánh Thần, vì Ngài là linh hồn của việc truyền giáo của Hội Thánh”. (Trích Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 261)
Cùng với Mẹ Maria và toàn thể các thánh trên Trời, chúng ta cùng cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin Ngài đến canh tân, lay động và thúc đẩy Hội Thánh mạnh dạn ra khỏi chính mình để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc. Xin Ngài đến đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa trong lòng họ!” Amen.

44. Chúa Thánh Thần, Đấng Tác Sinh
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Năm mươi ngày ngày sau Đại lễ Phục Sinh, giờ đây Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống với niềm vui khôn tả, Chúa Thánh Thần chính là Đấng mà Đức Giêsu đã hứa với chúng ta (x: Ga 16, 7). Ngài “xuất hiện” trong lịch sử của Giáo hội, và hành động không biết mệt mỏi. Đến muôn đời, Giáo hội sẽ tiếp tục nói các thứ tiếng, vì Giáo hội không chỉ giao tiếp với một quốc gia nhưng với hết mọi dân tộc trên toàn thế giới. Khắp mọi nơi, người ta sẽ nghe thấy Giáo hội diễn tả cùng một Đức tin trong ngôn ngữ của chính dân tộc ấy, và vì thế, phép lạ ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần sẽ luôn đồng hành với Giáo hội để Ngài tiếp tục làm nhiệm vụ đổi mới và canh tân. Thần Chân Lý đã “nhập thể” trong Hội Thánh. Lời ca nhập lễ: Thánh Thần Chúa tràn ngâp địa cầu, liên kết hết mọi người, thông thạo mọi ngôn ngữ. Hallêluia.
* Bài đọc Phụng vụ
– Tđcv 2, 1-11: Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ
– Tv 104, 1: Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến, để Ngài đổi mới mặt đất này!
– 1 Cr 12, 3-7; 12-13 hoặc Gal 5, 16-25: Thần Khí Đức Kitô làm cho hiệp nhất hoặc Hãy để Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta
– Ga 20, 19-23 hoặc Ga 15, 26-27; 16, 12-15: Đức Giêsu Phục Sinh trao ban Chúa Thánh Thần cho các Tông Đồ hoặc Thần Chân Lý sẽ hướng dẫn anh em
Sách Tông Đồ Công Vụ thuật lại: “Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói.” (Tđcv 2,4.11)
Đây là một kỷ niệm tuyệt đẹp về ngày Chúa Thánh Thần được sai phái xuống trên các Tông Đồ và tất cả những người qui tụ chung quanh họ, ngày mà chúng có lại được hồng ân vô giá mà mưu chước Quân Thù và sự yếu đuối của nhân loại đánh mất là phúc Thiên Đàng…
“Bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp”. (Tđcv 2,2)
Gioan Taulê (1300-1361), tu sĩ dòng Daminh ở Strasbour nói: Ngôi nhà Sách Tông Đồ Công Vụ nói ở đây tượng trưng trước hết cho Hội Thánh, nơi Thiên Chúa ngự, nhưng cũng là biểu tượng của mỗi người chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Một ngôi nhà có nhiều tầng, nhiều phòng, nhiều công dụng, cũng vậy nơi con người có những khả năng, giác quan và nghị lực khác nhau: Chúa Thánh Thần viếng thăm tất cả, cách đặc biệt. Khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và gợi ý nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn không ai giống ai. Mặc dù Chúa Thánh Thần là Đấng duy nhất hoạt động nơi con người. (Trích bài giảng số 26, 2 ngày lễ Ngũ Tuần)
Chúa Thánh Thần ở nơi những con người có lòng ngay thật, cũng như bất cứ ai muốn trở nên dễ uốn nắn bởi Chúa Thánh Thần… trong hòa bình và trật tự… người nào càng nhiệt tâm đón nhận, người ấy càng hiểu biết hơn về sự thể hiện nội tâm này và ngày càng gia tăng ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho con người ngay từ ban đầu.
Những “Hoa quả của Thần khí là: mến yêu, vui mừng, bình an, rộng rãi, tốt lành, lương thiện, tín trực,” (Gal 5, 22)
Phải khẳng định rằng “Chúa Thánh Thần đến vì chúng ta. Ngài không chỉ đến “để ở với Giáo hội luôn mãi” (Ga 14, 16). Như lời Chúa Giêsu hứa: “Để Người ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, Ngài còn đổ tràn đầy ân sủng và ơn đoàn sủng xuống trên Giáo hội thật phong phú dồi dào! Chúng ta đọc thấy trong sách Tông Đồ Công Vụ (…) Chúa Thánh Thần hiện xuống một cách hữu hình trên những người chịu phép rửa tội và làm cho họ ngập tràn niềm vui. Ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần hiện xuống một cách hữu hình trên các Tông Đồ; kể từ ngày hôm đó, Giáo hội lan rộng khắp địa cầu, Giáo hội là Vương Quốc của Đức Giêsu, chính Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Con điều khiển Giáo hội. Bằng sự thánh thiện, Ngài kiện toàn nơi tâm hồn con người ngay từ lúc khởi đầu Ơn Cứu Chuộc. Ngài ở trong Giáo hội, Ngài là linh hồn của thân thể nhiệm mầu là Giáo hội (…) Chúa Thánh Thần ngự trong Giáo hội cách thường ngày và vĩnh viễn, Ngài không ngừng trao ban sự sống và thánh hóa Giáo hội như lời Thánh Phaolô Tông Đồ nói: ” Vì Ngài lưu lại nơi các ngươi và ở trong các ngươi.” (Ga 14, 17). Vì là Thần khí Sự Thật, Đức Giêsu nói: khi nào Ngài đến, “Ngài sẽ hướng dẫn trong Chân Lý” (Ga 16, 13) Ngài sẽ đưa tất cả vào sự thật. Chính Ngài làm bừng lên trong Giáo hội sự phong phú siêu nhiêu: Ngài làm nảy sinh và triển nở những nhân đức anh hùng nơi tâm hồn cách thánh trinh nữ; các thánh tử đạo, các thánh hiển tu, ẩn tu, đó là một trong những dấu chỉ sự thánh thiện. Tóm lại, Chúa Thánh Thần hoạt động trong tâm hồn nhân thế; nhờ linh hứng trong Hội Thánh, nhờ máu châu báu của Đức Giêsu Kitô đổ ra, “tinh tuyền, không vết nhơ, không tì ố” (Ep 5, 27), ngõ hầu tất chúng ta xứng đáng trình diện trước tòa Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu trong ngày thẩm phán”.
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói: Đây là mầu nhiệm của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí con người, và qua việc soi sáng cho họ biết về Chúa Kitô chịu đóng đinh chết và đã sống lại, Chúa Thánh Thần chỉ cho biết con đường để trở nên giống Chúa hơn, nghĩa là trở nên “sự biểu lộ và phương thế” của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. Deus Caritas Est, số 33).
Cùng với Mẹ Maria và toàn thể các thánh trên Trời, chúng ta cùng cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa trong lòng họ!” Amen.

45. Tất cả được tràn đầy Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Trong suốt tuần chín ngày, chúng ta đã cầu xin tha thiết: Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin ngự đến.
Giáo hội xin Chúa Thánh Thần đến để làm gì? Thưa, Chúa Thánh Thần đến để rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích. Uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường… (Ca tiếp liên).
Hôm nay ngày lễ Ngũ Tuần, ngày mà lời Chúa Giêsu hứa với các tông đồ được hoàn tất. “Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Dothái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông… thổi hơi trên các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần” (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần đã xuống trên các ông và ban đầy đủ các ơn cùng với các sự kiện bên ngoài.
Vì thế, chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống với niềm vui khôn tả. Vui, vì có Chúa Thánh Thần, Giáo hội không bị mồ côi, có Chúa Thánh Thần, Giáo hội sẽ lĩnh hội được tất cả những gì Chúa Giêsu muốn, Chúa Thánh Thần là sức mạnh vô biên, là suối bẩy nguồn.
Giáo hội được Chúa Giêsu sai đến với mọi dân mọi nước và sẽ tiếp tục nói các thứ tiếng cho đến muôn đời, giao tiếp với hết mọi dân tộc trên toàn thế giới, và con người ở mọi nơi mọi thời sẽ còn tiếp tục sửng sốt và bỡ ngỡ, (x. Cv 2, 6), vì những người rao giảng Tin Mừng luôn đầy Thánh Thần. Khắp mọi nơi, người ta sẽ nghe thấy Giáo hội diễn tả cùng một Đức tin trong ngôn ngữ của chính dân tộc ấy (x. Cv 2, 6). Thế nên, phép lạ ngày lễ Ngũ Tuần, chứng tỏ Chúa Thánh Thần luôn đồng hành với Giáo hội để tiếp tục làm nhiệm vụ canh tân mặt đấy đổi mới lòng trí con người và đổi mới lòng trí con người hôm nay. “Thánh Thần Chúa tràn ngâp địa cầu, liên kết hết mọi người, thông thạo mọi ngôn ngữ. Hallêluia.” Lời ca nhập lễ chứng tỏ Chúa Thánh Thần đã “nhập thể” trong Hội Thánh.
Điều gì đã xảy ra trong ngày xa xưa ấy, lúc các Tông Ðồ đang tụ họp với nhau ở tầng trên của phòng Tiệc Ly vậy?
Thưa: dấu hiệu đầu tiên là ” Tiếng động từ trời phát ra tựa như gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp” (x. Cv 2,1). Tiếng động bất thình lình phát ra và các lưỡi lửa chia ra đậu trên đầu từng Tông Ðồ là các dấu chỉ cụ thể đụng chạm tới các Tông Ðồ, không chỉ bề ngoài, nhưng cả trong nội tâm; trong tâm trí nữa. Kết quả là “tất cả đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói” (Cv 2, 4).
Ngọn lửa đó là ngọn lửa tình thương đốt cháy mọi cứng cỏi; ngôn ngữ đó là thứ ngôn ngữ mới, ngôn ngữ đại đồng của tình thương mà Chúa Thánh Thần đổ vào lòng các tín hữu (x. Rm 5,5); một ngôn ngữ mà tất cả mọi người đều hiểu, và khi tiếp nhận có thể được diễn tả ra trong mọi cuộc sống và mọi nền văn hóa. Ngôn ngữ ấy là thứ ngôn ngữ của Tin Mừng vượt qua mọi ranh giới do con người đặt ra và đánh động tâm hồn nhiều người, không phân biệt ngôn ngữ, chủng tộc, màu da, tiếng nói hay quốc tịch.
Trong một Thánh Thần, tất cả được chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thẻ. Vì khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và khơi dậy nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn tùy theo lợi ích không ai giống ai. Có một Thánh Thần duy nhất hoạt động trong Hội Thánh, nên có nhiều chức vụ, công việc, những chỉ có một Thánh Thần điều khiển và hướng dẫn thể (x. 1 Cr 12, 3-7. 12-13).
Chúa Thánh Thần ở nơi những con người có lòng ngay thật, cũng như bất cứ ai muốn trở nên dễ uốn nắn bởi Chúa Thánh Thần trong hòa bình và trật tự. Người nào càng nhiệt tâm đón nhận, người ấy càng hiểu biết hơn về sự thể hiện nội tâm này và ngày càng gia tăng ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho con người ngay từ ban đầu.
Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý và tình thương nhắc nhớ chúng ta về tất cả những gì Chúa Kitô đã nói. Ngài dạy dỗ chúng ta và làm cho chúng ta nói với Thiên Chúa, gọi Chúa là Cha, là Abba (Xc Rm 8,15; Gl 4,4); đồng thời làm cho chúng ta đối thoại với nhau trong tình huynh đệ và ngôn sứ.
Chúa Thánh Thần là sức mạnh vô biên đã biển đổi các môn đệ từ những con người nhát đảm sợ sệt trở nên những nhà truyền giáo can đảm phi thường không sợ tù đày, tra tấn và cái chết, vì sức mạnh của Chúa Thánh Thần ở cùng họ. Có Chúa Thánh Thần, sự khép kín nhường chỗ cho sự loan báo và mọi nghi ngờ bị xua tan bằng niềm tin đầy tình thương mến. Bằng chứng là ngày lễ Ngũ Tuần, thánh Phêrô được tràn đầy Thánh Thần, đứng lên “cùng với mười một tông đồ … lớn tiếng” (Cv 2,14) và “thẳng thắn” (Cv 2, 29) loan báo tin vui của Chúa Giêsu, là Ðấng đã hiến mạng sống mình để cứu độ chúng ta và Thiên Chúa đã cho sống lại từ các kẻ chết.
Ngài là suối bẩy nguồn .Với vẻ bề ngoài, xem ra Chúa Thánh Thần tạo ra sự mất trật tự trong Giáo hội, bởi vì Ngài mang đến sự khác biệt các đặc sủng, các ơn; nhưng dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần là Thần Khí của hiệp nhất đã dẫn đưa tất cả tới sự hài hòa. Vì Chúa Thánh Thần “chính là sự hài hòa”.
Không có sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần, Giáo hội sẽ không thể sống và thực hiện nhiệm vụ mà Chúa Giêsu phục sinh đã giao phó, là ra đi và làm cho tất cả mọi dân tộc trở thành môn đệ.
Chúng ta hãy xin cùng Chúa Cha, nhờ qua Chúa Giêsu Kitô, trong ân sủng của Chúa Thánh Thần, ngõ hầu việc cử hành Lễ Trọng Kính Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, được trở nên như ngọn lửa sốt mến và như luồng gió mạnh cho đời sống kitô hữu và cho sứ mạng của toàn thể Giáo Hội. Amen.

46. Đấng ban sự sống
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG BAN SỰ SỐNG
(Ga 20,19-21)
Hơi thở tượng trưng cho sự sống. Còn thở là còn sống. Hết thở là hết sống. Hôm nay, Đức Giêsu thổi hơi ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Thổi hơi để chỉ rằng Đức Chúa Thánh Thần là hơi thở. Thở hơi để truyền sự sống. Ta vẫn thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống.
Đức Chúa Thánh Thần là Đấng ban Sự Sống. Điều này được diễn tả trong sách Sáng Thế. Thuở tạo thiên lập địa, cả vũ trụ chưa nên hình nên dạng, chưa có sự sống. Trời đất là một khối hỗn mang. Thánh Thần Chúa bay là là trên mặt nước (cf. St 1,1). Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước để vũ trụ được định hình. Thánh Thần Chúa ban cho trời đất một diện mạo. Và trên hết Thánh Thần Chúa ban sự sống cho muôn loài.
Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại. Ngôn sứ Êdêkien đã được thấy trong một thị kiến như sau: “Tay Đức Chúa đặt trên tôi. Đức Chúa dùng Thần Khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng; thung lũng đầy xương cốt. Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng. Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét. Người bảo tôi: “Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?”. Tôi thưa: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó”. Bấy giờ Người bảo tôi: “Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta sắp cho Thần Khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống… Ngươi hãy nói với Thần Khí: Từ bốn phương trời, hỡi Thần Khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh. Thần Khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên”” (Ed 37,1-10). Thánh Phaolô quả quyết: Đức Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Giêsu sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết.
Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống mới. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).
Từ khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ trở nên khác hẳn. Trước kia các ngài nhút nhát sợ hãi, nay các ngài mạnh dạn hăng hái. Trước kia các ngài chỉ là những ngư phủ thất học, không am hiểu giáo lý, nay các ngài cất tiếng rao giảng Tin Mừng cho mọi người thuộc đủ mọi tầng lớp, mọi chủng tộc. Trước kia các ngài còn nghĩ đến bản thân, tranh giành nhau chỗ cao chỗ thấp, nay các ngài chỉ nghĩ đến Nước Chúa, sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần đã đổi mới tâm hồn các ngài. Các ngài đã nhận được sự sống mới, sự sống của Chúa, để sống vì Chúa và sống cho Chúa.
Ngày chịu phép rửa tội, ta đã nhận được sự sống của Chúa. Tuy nhiên có nhiều chỗ trong linh hồn ta không có sự sống vì tội đã ngăn cản ơn thánh và làm chết đi nhiều phần trong linh hồn. Những dục vọng, đam mê, tham vọng, tinh thần thế tục giống như vi trùng len lỏi vào linh hồn làm cho sự sống của Chúa bị tổn thương. Linh hồn suy nhược không còn tha thiết làm việc lành. Hôm nay ta hãy xin Đức Chúa Thánh Thần xuống Phục Sinh những thành phần chết chóc trong tâm hồn ta. Và nhất là xin Người ban sự sống mới cho tâm hồn ta. Giúp ta biết tẩy bỏ lối sống, lối suy nghĩ, lối cư xử xưa cũ theo tinh thần thế tục, để sống một đời sống mới, sống nhiệt thành, sống bác ái, sống quên mình, sống dấn thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân hơn.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại và ban sự sống mới. Bạn có thấy linh hồn bạn cần những sự sống này không?
2. Sau khi nhận ơn Đức Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã thay đổi đời sống. Bạn cũng đã nhận ơn Chúa Thánh Thần, đời sống bạn có thay đổi gì không?
3. Đức Chúa Thánh Thần luôn sai đi. Hôm nay bạn cảm thấy Chúa Thánh Thần sai bạn đi làm gì?

47. Lửa Thánh Thần
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nhiều lần hứa sẽ gửi Thánh Thần đến an ủi các môn đệ. Quả thật, các ngài không phải chờ đợi lâu. Vào ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần xuống đầy tràn trên các ngài. Ơn Chúa Thánh Thần thật mãnh liệt. Chúa Thánh Thần đã đụng chạm đến các ngài. Chúa Thánh Thần như nguồn nhựa sống thấm tẩm vào từng chân tơ kẽ tóc làm cho các ngài thay đổi da thịt, trở thành con người mới. Các ngài đã cảm nghiệm được sự tác động ấy. Đó là cảm nghiệm về một ngọn lửa.
Chúa Thánh Thần là ngọn lửa thanh luyện.
Giống như ngọn lửa thanh luyện vàng và kim loại khỏi các tạp chất, ngọn lửa Thánh Thần tẩy sạch con người cũ của các tông đồ. Trước kia các tông đồ là những người nhỏ nhen ích kỉ, ham hố danh vọng, thường tranh nhau chỗ cao chỗ thấp. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài trở nên quảng đại, hy sinh quên mình, chỉ nghĩ đến phục vụ Nước Chúa. Trước kia các Tông đồ là những người nhút nhát, dễ thay đổi. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài đã trở nên cam đảm, trung thành làm cho Chúa đến nỗi dám hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Hơi ấm của Chúa Thánh Thần băng bó những vết thương làm cho tâm hồn các Ngài liền da liền thịt, sạch hết mặc cảm, trở nên những con người hoàn toàn mới.
Chúa Thánh Thần là ngọn lửa soi sáng.
Ai đã có lần đi trong hang động tối tăm mới hiểu được nỗi khổ của người mò mẫm lần từng bước dò đường đi. Những tảng đá lởm chởm, những thú vật độc ác, những vực sâu hiểm nghèo đang rình chờ cướp mạng sống của người mạo hiểm. Hạnh phúc biết bao khi có ánh sáng tới. Đường đi xuất hiện rõ ràng. Khách bộ hành an tâm mạnh dạn tiến bước.
Trước kia, các Tông đồ giống như người đi trong đêm tối, không biết đường biết hướng về đâu. Lửa Chúa Thánh Thần đến soi sáng trí khôn biến những bác ngư phủ quê mùa trở nên sáng suốt thông minh, hiểu biết Lời Chúa. Lửa Chúa Thánh Thần soi sáng đường đi, biến những môn đệ mất Thầy như bầy ong vỡ tổ trở nên những người lãnh đạo dẫn đường cho một đoàn dân mới tiến về Quê Trời.
Chúa Thánh Thần là ngọn lửa sự sống.
Sau ngày Chúa Giêsu chịu chết, các Tông đồ sợ hãi tản lạc tứ phía. Các ngài phải trốn chạy. Các ngài phải ẩn nấp, Các ngài sống trong sợ sệt lo âu. Các ngài phải đóng kín cửa nhà vì sợ người Do thái. Các ngài sống như tựa như đã chết. Các ngài giống như cái xác không hồn. Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các ngài nhận được nguồn sống. Các ngài bừng tỉnh như sau một giấc ngủ. Các ngài mạnh mẽ như người hồi phục sau cơn trọng bệnh. Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các ngài không còn có thể bó gối ngồi một chỗ, nhưng mạnh mẽ mở cửa ra đi rao giảng Lời Chúa. Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các cộng đoàn phát triển mau chóng. Ngọn lửa Chúa Thánh Thần đã đem lại sự sống, sự sống lại và là sự sống mới cho các Tông đồ, cho các tín hữu.
Ngày nay chúng ta cảm ơn Chúa Thánh Thần hơn bao giờ hết. Trong bản thân cũng như trong cộng đoàn chúng ta có nhiều tì tích hoen ố. Chỉ có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần mới có thể thanh luyện tâm hồn chúng ta. Thế giới hôm nay đầy những bóng tối. Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới có thể soi sáng cho chúng ta biết đường lối mà đi. Thế giới hôm nay chứa đầy văn minh sự chết, đưa con người tới huỷ diệt. Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới hồi phục, đưa ta vào sự sống mới trong Đức Kitô.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Ngọn lửa Thánh Thần có tác dụng gì trên các Tông đồ, làm cho các ngài thay đổi mãnh liệt?
2) Bạn có cảm nhận được Chúa Thánh Thần trong đời bạn không?
3) Để mình bị biến đổi, để mình bị thúc đẩy trên đường dấn thân làm việc phục vụ, dễ hay khó?

48. Ra đi – tha thứ
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Khi nói về Chúa Thánh Thần, ta thường nghĩ đến bảy ơn Người ban qua bí tích Thêm Sức. Ta như người lãnh nhận một cách thụ động. Và những ơn Người ban chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống ta. Đó thực là một quan niệm sai lầm tai hại. Thực ra, Đức Chúa Thánh Thần là nguồn sự sống mãnh liệt, là sự trẻ trung của Giáo Hội, là năng lực đổi mới thế giới. Hãy đọc lại bài đọc I, ta sẽ thấy sức mạnh đổi mới của Người mãnh liệt như thế nào. Người như luồng gió cường tráng. Người như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Đức Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động. Hôm nay, Chúa Giêsu tóm tắt sứ mạng hành động đó qua 2 nhiệm vụ: Ra đi và Tha thứ.
Nhiệm vụ thứ nhất mà Đức Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là RA ĐI: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nhận lãnh Chúa Thánh Thần là được sai đi. Chúa Thánh Thần là sức mạnh hành động. Người không thể bị giam hãm trong những căn phòng đóng kín cửa. Người không ưa thích những tâm hồn khép kín trong ủ rũ điêu tàn. Người đến đâu là mở tung cửa nhà ra đến đấy. Mở ra để đón lấy những luồn gió mới tươi mát. Mở ra để đón nhận mọi người đến với mình. Và nhất là mở ra để mình đến với mọi người. Một cuộc sống không giao tiếp sẽ trở nên nghèo nàn, tàn lụi. Một tâm hồn chỉ quy hướng về bản thân sẽ chẳng khác một vũng ao tù, ô nhiễm. Ra đi sẽ giúp ta nên phong phú, mạnh mẽ. Ra đi không phải là lang thang không mục đích, nhưng là đi đến những địa chỉ Thánh Thần muốn gửi ta đến. Những địa chỉ Thánh Thần muốn ta đến đó là “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19). Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Người sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Người sẽ củng cố những tâm hồn nhút nhát. Người sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Người sẽ đổ tràn vào hồn ta nguồn nhựa sống mới giúp ta hăng hái lên đường.
Nhiệm vụ thứ hai mà Đức Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là THA THỨ: “Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha”. Tha thứ, hoà giải luôn là một vấn đề lớn của thế giới. Trên thế giới, những cuộc chiến tranh, chia rẽ, xung khắc xảy ra hầu như hằng ngày. Con người là bất toàn, nên sống chung là có bất đồng, xung khắc. Nếu cứ mỗi lần có xung khắc, ta loại trừ đi một người bạn, thì có lẽ cuối cùng ta sẽ chẳng còn người bạn nào. Người ta không thể sống một mình. Mỗi người đều cần đến người khác. Sống chung với nhau là một nhu cầu. Vì thế, việc tha thứ, hoà giải là vô cùng cần thiết. Hoà giải hệ tại ở hai động tác: xin lỗi và tha lỗi. Hai việc đều khó làm. Vì con người đầy tự ái. Dù biết mình lỡ lầm, nhưng ít có ai đủ can đảm nhận lỗi và xin lỗi. Xin lỗi đã khó, tha lỗi còn khó hơn. Chính vì thế, việc hoà giải cần rất nhiều ơn Chúa Thánh Thần, ở đây, ta phải nhìn vào Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô như tấm gương sáng chói. Người là tấm gương sáng về sự ra đi. Cuộc đời Người là một cuộc ra đi không biết mệt mỏi. Dù tuổi cao sức yếu, nhưng Người vẫn lên đường đi đến với mọi dân tộc, mọi đất nước. Người tiếp xúc với tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, chính kiến, mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ. Người đi đến với cả những kẻ chống đối, bất hoà và thù nghịch với Người. Để chuẩn bị đón mừng Năm Thánh, Người đã làm một cử chỉ ngoạn mục chưa từng có trong lịch sử Giáo Hội. Đó là Người công khai nhìn nhận những lỗi lầm của Giáo Hội để xin mọi người tha thứ. Đây quả là một hoạt động của Chúa Thánh Thần để thanh tẩy Giáo Hội. Đức Thánh Cha đã được ơn Chúa Thánh Thần nên đã ra đi làm hoà với mọi người. Chính cử chỉ khiêm nhường ấy đã giúp đổi mới Giáo Hội, đem đến cho Giáo Hội một khuôn mặt mới trẻ trung hơn, một sức sống mới dồi dào hơn, một phong cách hiện diện mới dễ thương dễ mến hơn.
Ta hãy biết noi gương Đức Thánh Cha. Hãy biết ra đi, không chỉ là đi hành hương viếng nhà thờ để lãnh ơn toàn xá, nhưng còn là ra đi đến với những người bé nhỏ, nghèo hèn, những người bị bỏ rơi, những người kém may mắn ở đời, những người ta không ưa thích, những người chống đối ta, cả những người làm hại ta nữa. Nhất là hãy gieo rắc sự tha thứ. Tha thứ cho anh em để anh em cũng tha thứ cho ta, để chúng ta xứng đáng trở thành con Thiên Chúa. Đức Chúa Thánh Thần muốn đổi mới Giáo Hội. Nhưng việc đổi mới phải bắt đầu từ mỗi tâm hồn. Đức Chúa Thánh Thần sẽ canh tân bộ mặt thế giới, nhưng việc canh tân phải khởi đi từ mỗi con người. Ta hãy mở rộng tâm hồn đón nhân ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Người.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới tâm hồn con.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Đức Chúa Thánh Thần mời gọi bạn ra đi đến với người khác. Bạn có thường đi thăm viếng những người nghèo hèn, nhất là những người bạn không có cảm tình không?
2- Bạn có muốn tha thứ, làm hoà với người khác không? Bạn đã có cố gắng nào để làm hoà trong Năm Thánh?
3- Bạn nghĩ gì về việc Đức Thánh Cha xin lỗi?
4- Bạn có sẵn sàng để Đức Chúa Thánh Thần biến đổi bạn không?

49. “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần…”
(Suy niệm của ĐGM. Nguyễn Văn Khảm)
Trong những năm gần đây phong trào canh tân đoàn sủng phát triển mạnh trong Giáo Hội Tin Lành và trong giáo Hội Công Giáo, có người gọi đó là mùa xuân của Giáo Hội đang là sức sống mới. Nhưng cũng có ngừơi đang nhìn phong trào này với thái độ cảnh giác. Họ sợ rằng nó sẽ đi xa đường lối của Giáo Hội. Tôi không có ý phân tích phê phán, nhưng theo tôi phong trào có một điểm mà chúng ta có thể ghi nhận. Phong trào giúp cho ta ý thức hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời Kitô Hữu. Một vai trò mà nhiều khi chúng ta lãng quên. Có lẽ phần nào nó cũng giống như một nhà khoa học ở trong phòng thí nghiệm. Ông ra sức nghiên cứu về không khí như là một vật thể và mô tả không khí bằng những công thức khoa học có vẻ phức tạp mà ông quên rằng từng giây từng phút mình đang được ngủ lặng trong không khí mà đôi khi mình quên hít thở. Cho nên sự sống thân xác của mình mỗi lúc mỗi tàn tạ.
Tôi xin lấy một hình tượng quen thuộc trong Kinh Thánh để diễn tả về Chúa Thánh Thần. Thánh Luca mô tả: Vào ngày lễ ngũ tuần các môn đệ tề tựu cầu nguyện. Khi ấy có những lưỡi như lưỡi lửa rải rác đậu xuống trên mỗi người. Lửa là hình tượng Kinh Thánh dùng để diễn tả về Chúa Thánh Thần trong chúng ta.
Hôm nay tôi xin nhắc lại và đào sâu hơn hình tượng Thánh Gioan Thánh Giá sử dụng. Ngài là người có kinh nghiệm thần bí sâu sắc đồng thời là một nhà thơ cho nên ngài đã vận dụng ngôn ngữ thi ca để diễn tả kinh nghiệm thần bí đó. Đó là hình ảnh của lửa, của củi.
Chúng ta thử tưởng tượng cảnh mùa đông băng giá ở Châu Âu, ngoài vườn có một khúc củi nằm cô đơn giữa tiết trời băng giá. Cái lạnh làm cho làn da của nó xần xùi, xấu xí. Thế rồi nó được ông chủ nhà đem vào quăng vào lò sưởi. Hơi nóng làm khúc củi cảm thấy ấm áp, hạnh phúc. Nó cảm nhận được đầy sự an ủi không tả được.
Nhưng tiếc rằng sự sung sướng kéo dài chẳng được bao lâu. Trong khỏanh khắc ngọn lửa ôm chặt lấy nó. Sức nóng của lửa nung nấu khiến cho nhựa cây rỉ ra bên ngoài làm thành một lớp da sần sùi như da cóc. Nó tỏa ra một mùi thật khó chịu. Khúc củi quằn quại trong than hồng một thời gian. Cuối cùng nó trở nên một với lửa. Nó không còn là củi mà chỉ là lửa. Lửa đem ánh sáng, lửa đem hơi ấm cho những người trong phòng.
Gioan Thánh Giá dùng hình ảnh tuyệt vời ấy để diễn tả về tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Hình ảnh ấy giúp chúng ta thấy được đâu là cùng đích của đời sống trong Thánh Thần. Cái cùng đích ấy là Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được nên một với Thiên Chúa. Như Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: “Ta trở thành một giọt nước hoà trong đại dương”. Sự nên một ấy chỉ trở thành trong đời sống vĩnh cữu cho những người mà Chúa ban cho kinh nghiệm thần bí, những người cảm nghiệm được sự nên một hồng phúc với Thiên Chúa.
Chúng ta chưa có được kinh nghiệm huyền bí đó. Nhưng tôi nghĩ: Nếu chúng ta thực hiện đúng những bí tích mà Giáo Hội cử hành là chúng ta đã đi đúng mục đích của Giáo Hội, dẫn ta đến chỗ nên một với Thiên Chúa. Khi ta rước mình Thánh Chúa và để Máu Thánh Chúa hoà vào máu thịt ta để ta nên một với Ngài.
Sự nên một xét trên một bình diện mà người ta gọi là hữu thể học đó hoàn toàn có thật nhưng không ai thấy được. Sự nên một ấy phải diễn tả qua cuộc sống bên ngoài theo kiểu nói của thánh Phaolô. “Anh em hãy mang trong anh em những tâm tư như đã có trong Chúa Giêu Kitô”. Cho nên khi nào chúng ta nên một với Chúa thật thì ta sẽ suy nghĩ như Chúa Giêsu, phản ứng như Chúa Giêsu, cảm xúc, yêu thương như Chúa Giêsu. Đấy là dấu chỉ cụ thể. Đấy là cùng đích.
Nhưng để đạt được tới cùng đích nên một trong Thiên Chúa ấy thì chúng ta phải trải qua một hành trình thanh tẩy của Thánh Thần. Hành trình này khởi đầu bằng một niềm an ủi ngọt ngào. Có một số kinh nghiệm nói lên điều ấy. Có anh chị em dự tòng nói với tôi: “Thưa Cha, con xin gì Đức Mẹ cũng cho con hết”. Những tu sinh hoặc những nữ tu mới chập chững bước vào đời sống tận hiến: “Thưa Cha, con cảm thấy hạnh phúc vô cùng.”. Những lúc ấy ai cũng ca ngợi Chúa, cảm thấy rất ư là dễ thương. Chúa yêu ta vô cùng.
Thưa anh chị em. Đấy chỉ là giai đoạn đầu. Sớm hay muộn gì chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần dẫn vào giai đoạn thanh tẩy, giai đoạn đau đớn, giai đoạn này sẽ giúp chúng ta trưởng thành hơn. Vì nó đau đớn cho nên ta không muốn bước vào, không dễ chấp nhận.
Tôi nghĩ có hai lý do chính và cũng là hai giai đoạn chính.
Lý do thứ nhất: Thánh Thần giúp chúng ta chấp nhận con người thật của mình. Có lẽ nhiều người sẽ ngỡ ngàng khi nghe thế. Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu tha nhân như chính mình.” Nếu tôi không yêu chính mình thì tôi không thể yêu người khác được. Yêu chính mình là chấp nhận con người thật của mình. Chấp nhận hình hài mà Chúa đã ban cho mình. Anh chị em thử kiểm nghiệm lại đời sống của mình xem. Đã biết bao lần ta mơ ước những điều mà chúng ta không có. Ví dụ: Phải chi Chúa ban cho mình sóng mũi cao hơn tí nữa thì đẹp biết bao. Hay phải chi da mình được trắng như bạn mình nhỉ… Những mơ ước ấy biều lộ điều chúng ta không chấp nhận chính mình.
Những suy nghĩ ấy làm cho ta tự mình dằn vặt mình. Tự mình hành hạ mình, tự gây đau khổ cho mình bằng những tự ti mặc cảm. Phải đau đớn lắm, phải tự đấu tranh mới chấp nhận chính con người thật của mình. Chúng ta hãy kêu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta thực hiện để chúng ta tự nhủ rằng: Dù tôi thế nào đi nữa Chúa vẫn yêu tôi. Chúa tạo dựng tôi cho Chúa. Cảm nhận được như thế sẽ làm cho ta thấy bình an hạnh phúc hơn.
Lý do thứ hai: Chấp nhận được chính mình rồi thì đến giai đoạn hai của sự thanh tẩy. Đi từ chỗ “tôi đang là” đến chỗ “tôi được mời gọi để trở thành…” Ở đây đòi hỏi sự bỏ mình. Cuộc sống Thánh Augustinô là một điển hình. Lúc trẻ ông xa vào con đường ăn chơi, mê đắm trên con đường tình dục, biết là sai nhưng ông vẫn biện minh cho mình, không nhìn nhận sự thật của chính mình, ông bảo: “Sở dĩ tôi bê bối thế vì ông thần ác ở trong hoành hành”. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần Thánh Augutinô mới đủ can đảm nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Từ đấy ông đã bước vào giai đoạn hai. Ông trở thành một người sống như Chúa Giêsu, yêu thương, phục vụ, suy nghĩ như Giêsu. Một con người trong Chúa Thánh Thần.
Chúng ta phải trở thành cái mà Chúa mời gọi chúng ta. Đó là gì? Thưa là mỗi ngày tôi trở thành người hơn. Cho dù tôi sống bậc gia đình hay tu sĩ, cho dù tôi hành động gì nhưng vẫn hàm ẩn tất cả bên trong là cái tính người, là tính Kitô Hữu. Và hành trình đó đòi chúng ta phải tự bỏ mình mỗi ngày. Công việc ấy rất khó, một mình ta không thể làm được mà phải có tác động của Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần sống như không khí tràn ngập vũ trụ, vấn đề là tôi có hít thở không? Chúa Thánh Thần như dòng suối tràn lan mọi nơi. Vấn đề là tôi có múc mà uống không? Chúa Thánh Thần là ngọn lửa hừng hực, vấn đề là tôi có nhóm lên hay không? Cho nên cầu nguyện là tự tạo cho mình một nội tâm thích hợp. Mở lòng ra cho gió ùa vào, làm rỗng chính mình cho dòng nước chảy vào, và nhóm ngọn lửa lên cho đời mình.
Nếu chúng ta chấp nhận trở về với chính mình trong thinh lặng, nhìn lại đời mình, ta có thể khám phá ra những gì mà Lời Chúa hướng dẫn chúng ta hôm nay.
Tôi xin kết thúc suy niệm này bằng tâm tình của Thánh Augustinô. “Lạy Chúa là vẻ đẹp ngàn đời, vẻ đẹp cổ xưa nhưng vẫn luôn luôn mới mẻ. Con đã chạy tìm những cái đẹp bên ngoài vốn chỉ là phản ánh èo uột của vẻ đẹp vĩnh hằng. Chúa là vẻ đẹp vĩnh hằng ở trong con thì con lại không kiếm tìm. Vì thế, xin Chúa cho con biết trở về với chính lòng mình mỗi ngày, để ở đó con gặp được Chúa, hít thở Chúa. Con đón nhận dòng nước ân sủng và lòng con được đốt cháy ngọn lửa Thánh Thần. Amen.

50. Chúa Thánh Thần – Hơi thở của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Ga 20: 19-23: Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy sự sống của Thiên Chúa. Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy tinh thần của Thiên Chúa, vì Thánh Thần là Thần Khí, là Hơi Thở của Thiên Chúa.
Trong kho tàng văn chương Ấn Giáo ghi lại câu chuyện như sau: có một đệ tử kia đến thưa với sư phụ của mình: “thưa thầy, con muốn gặp Chúa”. Sư phụ chỉ đáp lại bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn như hôm trước. Sư phụ vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông. Rồi một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần ông túm lấy anh và dìm xuống nước một hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy để trồi lên mặt nước.
Lúc bấy giờ sư phụ mới hỏi anh: “khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?”.
Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: “thưa thầy, con cần có không khí để thở”.
Lúc bấy giờ sư phụ mới dẫn giải: “con cảm thấy cần gặp Chúa như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài”.
Anh chị em thân mến,
Sự sống của chúng ta là do Thiên Chúa ban tặng. Chính nhờ tham dự vào sự sống của Ngài mà chúng ta được sống. Bao lâu còn hơi thở là còn sống. Tắt thở là chết. Trong buổi đầu công trình tạo dựng. Thiên Chúa đã thổi hơi vào Ađam, con người đầu tiên, để Ađam có sự sống, để Ađam trở nên bạn hữu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh cũng đã lặp lại hành động ấy khi Ngài xuất hiện giữa các môn đệ là thổi hơi vào các ông và nói: “anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22).
Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy sự sống của Thiên Chúa. Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy tinh thần của Thiên Chúa, vì Thánh Thần là Thần Khí, là Hơi Thở của Thiên Chúa.
Ađam đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để sống vai trò nguyên tổ của loài người.
Các môn đệ đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để làm chứng về Chúa Giêsu Kitô.
Mỗi người chúng ta, cũng đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa khi chúng ta được dìm trong Nước Thánh Tẩy và được xức dầu trong bí tích Thêm Sức. Hơi thở, sức sống, tinh thần của Thiên Chúa được “hà hơi” vào trong ta. Vấn đề là chúng ta có biết sống bằng hơi thở Thần Linh ấy không.
Trong đời sống tự nhiên, chúng ta bắt đầu hít vào thở ra qua mũi. Chúng ta lưu tâm đến từng tác động hít vào và thở ra theo nhịp thở – hết thảy đi vào và hết thảy đi ra. Hít vào qua mũi, rồi để hơi thở đi ra. Cứ làm vậy mãi. Hít vào, thở ra. Hít vào thở ra; cho và nhận; sự sống và cái chết.
Một chu kỳ xoay chuyển không dứt giống như những đợt sóng ngoài biển. Chúng ta tập dứt bỏ qua thở ra nhiều lần, và qua cảm giác giải phóng và thư giãn theo từng nhịp thở ra.
Mỗi nhịp thở ra là chết đi một chút, buông lơi một chút. Thật là nhẹ nhõm.
Cứ thử đi rồi chúng ta sẽ cảm nhạn được điều thú vị đó. Hít sâu qua mũi, rồi thở ra. Hướng hơi thở đi ra, đi ra, đi ra, hòa vào không khí. Khi hơi thở hòa vào không gian mở rộng, các khái niệm và ràng buộc đều đi vào không gian vô tận.
Trút bỏ các ràng buộc theo từng nhịp thở ra. Tập dứt bỏ thêm một chút theo từng nhịp thở ra. Trút bỏ căng thẳng tinh thần và thể chất theo từng hơi thở. Bằng cách này, lèo lái các đợt sóng biển ào vào qua bạn và gột sạch mọi ưu tư phiền muộn.
Bắt đầu lại theo từng nhịp thở và cứ thế. Mỗi khoảnh khắc là một khoảnh khắc mới, giống như bình minh của sáng tạo. Khoảnh khắc này là khoảnh khắc duy nhất. Mỗi nhịp thở là một nhịp thở mới. Dứt bỏ cái cũ. Mở đường khởi đầu cho cái mới và chúng ta sẽ đổi mới không ngừng.
Chúa Thánh Thần là Thần Khí, là Hơi Thở của Thiên Chúa. Chính Ngài đem lại sự sống cho chúng ta. Trong đời sống tự nhiên, không còn thở có nghĩa là chết, thì trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, chính Chúa Thánh Thần là Hơi Thở, Hơi Thở mang lại sự sống thần linh cho chúng ta. Ngài đến với chúng ta, làm cho chúng ta sống, làm cho chúng ta lớn mạnh và mỗi ngày đổi mới chúng ta. Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến với chúng con. Amen.

51. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống – R. Veritas
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Các bài đọc thánh lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống xoay quanh hai chủ đề chính tường thuật biến cố lịch sử Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ như lời Chúa Giêsu đã hứa, biến đổi con người yếu đuối của các ngài thành những kẻ hiểu biết và phân biệt mầu nhiệm Thiên Chúa. Và ý nghĩa thứ hai là ý nghĩa thiêng liêng đi liền biến cố lịch sử của biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống. Chúa Thánh Thần là linh hồn của đời sống Kitô của mỗi tín hữu trong nhiệm thể duy nhất của Chúa. Biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ tuần của người Do Thái năm mươi ngày sau lễ vượt qua. Người Do Thái mừng lễ Giao Ước, nhắc nhở Giao Ước của Thiên Chúa đã ký kết với dân của Thiên Chúa đã chọn. Và mỗi thành phần của dân Chúa chọn cam kết sống trung thành với Giao Ước này, Chúa Giêsu đến để thiết lập Giao Ước mới bằng chính máu của Ngài trên cây thập giá, và qua việc chọn ngày lễ Ngũ tuần để thực hiện biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ. Chúa Giêsu muốn cho các ngài hiểu rằng từ nay, đây là ngày lễ của Giao Ước mới, từ Giao Ước mới này, Giáo Hội được khai sinh, và từ Giao Ước mới này, mỗi tín hữu được mời gọi sống đời sống mới, một cuộc sống làm chứng cho Chúa Kitô.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống mỗi người chúng ta được mời gọi nhớ lại và dấn thân thực hành Giao Ước mới đã được Chúa Giêsu Kitô thực hiện cho mỗi người chúng ta. Chúa Thánh Thần hiện diện trong Giáo Hội, hướng dẫn Giáo Hội và qua các thời đại, vẫn phát triển, vẫn trung thành, mặc dù, đôi khi có những sa ngã, những sai lầm, những tội lỗi làm cho một số người xa lìa Giao Ước mới.
Biến cố lịch sử Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ không những chỉ có chiều kích thiêng liêng canh tân cá nhân mà thôi, nhưng còn có chiều kích Giáo Hội nữa, liên kết mọi kẻ tin Chúa và lãnh nhận Thánh Thần trong cùng một cộng đoàn, một thân thể sống liên đới với nhau, như bài đọc thứ hai nhắc lại cho chúng ta. Nhưng đồng thời cũng là một cộng đoàn có tổ chức, có một lãnh đạo chịu trách nhiệm thừa hành quyền lãnh nhận từ Chúa, như được nhấn mạnh nơi bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đến ban bình an, đổi mới các tông đồ rồi trao quyền cho họ: “Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì người đó được tha. Các con cầm buộc ai thì người đó bị cầm buộc”. Các tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần vừa đồng thời chia sẻ quyền thần linh tha tội của Chúa, sống bên cạnh Chúa nhiều năm trước đã nhìn thấy Chúa thực hiện những phép lạ, để chứng minh quyền tha tội của các ngài, nên khi nghe lời Chúa phán, các tông đồ hiểu rõ hơn ai hết. Những lời này có nghĩa gì. Các ngài được biến đổi để trở thành người tiếp tục sứ mạng của Chúa: “Hãy ra đi rao giảng cho mọi dân nước những gì Thầy đã truyền cho các con, dạy họ tuân giữ những gì Thầy đã truyền và rửa tội cho họ”.
Mỗi thành phần trong Giáo Hội đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần nhưng trong những cấp bậc khác nhau, qua bí tích rửa tội và thêm sức qua bí tích chức thánh, trở thành tác viên thánh của Chúa. Mỗi người chúng ta đều đã được canh tân, được biến đổi để chu toàn những tác vụ khác nhau, nhưng cùng một Thánh Thần.
Ước cho ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống mời gọi mỗi người chúng ta trở về với ơn gọi nguyên thủy của mình, trở về với sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, canh tân đời sống cá nhân và chu toàn sứ mạng trong sự hiệp nhất và hiệp thông của cùng một nhiệm thể Chúa Kitô. Xin Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và hướng dẫn cuộc đời chúng ta thực hiện thánh ý Chúa.

52. Bình an cho các con – R. Veritas
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’)
Hôm nay chúng ta tưởng niệm và sống lại biến cố đã xảy ra cách đây hơn 2.000 năm. Nhân ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ, từ những con người nhát đảm, dốt nát, quê mùa, Thánh Thần đã biến đổi các ngài trở thành những con người can đảm và hiểu biết để loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người và Thánh Thần đó đã thành linh hồn của Giáo Hội.
Anh chị em thân mến!
Lịch sử của nhân loại hẳn phải là lịch sử của tìm kiếm và xây dựng sự thống nhất. Khát vọng thống nhất thể hiện qua sự phát sinh và bành trướng của không biết bao nhiêu đế quốc.
Thời xa xưa, chỉ có đế quốc Trung Hoa, đế quốc Babylon, đế quốc La Mã, đế quốc Pháp… Nhưng hợp rồi tan. Có thịnh vượng đến đâu, bành trướng đến đâu thì những đế quốc đó cũng đi đến sự sụp đổ vì họ đã cố gắng xây dựng sự thống nhất không phù hợp với lòng người. Bao lâu con người còn chối bỏ lẫn nhau, bao lâu con người còn khước từ Thiên Chúa thì bấy lâu những cố gắng thực hiện sự thống nhất ấy chỉ mang lại những thảm họa mà thôi.
Ngay từ những trang đầu tiên Kinh Thánh đã nói đến những thảm họa ấy qua câu chuyện xây tháp Babel sau nạn hồng thủy, con cái loài người muốn đoàn kết với nhau để chống lại Thiên Chúa bằng cách xây một ngọn tháp cao tận trời mây, thế nhưng công trình phải bỏ dở bởi vì con người không còn nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ chung nữa. Thống nhất, đoàn kết để khước từ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống thì con người cũng tự chia rẽ nhau, đó là chân lý mà Kinh Thánh muốn phơi bày qua câu chuyện xây tháp Babel.
Anh chị em thân mến!
Qua dòng lịch sử của nhân loại, đã có không biết bao nhiêu tháp Babel được dựng lên để rồi cũng tự ngã đổ. Nhân loại không thể tự mình đạt được sự thống nhất nếu sự thống nhất đó chỉ xây dựng để khước từ Thiên Chúa và chối bỏ lẫn nhau. Chỉ có Thiên Chúa mới mang lại sự thống nhất đích thực cho con người.
Sự thống nhất đích thực ấy đã được khai sinh trong ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, khi Thánh Thần ngự xuống trên các môn đệ của Chúa Kitô, Một trong những dấu chỉ của sự thống nhất ấy là sự kiện con người có thể hiểu nhau vượt lên trên những cá biệt của mình. Các môn đệ của Chúa Giêsu có lẽ đã không nói các tiếng lạ. Đúng hơn, những người ngoại quốc tại Giêrusalem trong ngày hôm đó hiểu được các ngài ngay trong những tiếng nói bản xứ của họ.
Quả thực, Thánh Thần đang thực hiện một sự thống nhất mới cho nhân loại, hay nói đúng hơn một nhân loại mới trong đó người người có thể hiểu nhau, cảm thông với nhau đang được khai sinh, một nhân loại mới trong đó mọi người đã có thể hiểu nhau và cảm thông vơi nhau trong cùng một ngôn ngữ mà chính Thiên Chúa đã ban cho con người và ngôn ngữ mới ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, Lời của Thiên Chúa ngỏ với con người. Chính nhờ Thánh Thần mà Thiên Chúa đã ngỏ với con người, đã trở thành con người.
Thánh Gioan tông đồ đã tóm gọn tất cả chân lý ấy trong một câu rất ngắn gọn: “Lời đã hóa thành nhục thể”. Lời của Thiên Chúa đã ngỏ cho con người và như thế không còn là một âm thanh xa lạ nhưng đã trở thành xương, thành thịt trong con người và đã hy sinh cho nhân loại bằng một cái chết đau thương nhục nhã nhất. Lời của Thiên Chúa ngỏ với con người do đó cũng là Tình Yêu. Từ nay chỉ có một thứ ngôn ngữ duy nhất để cho con người xích lại gần nhau, nói chung với nhau, cảm thông với nhau. Ngôn ngữ ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, là tình yêu của Thiên Chúa hóa thân làm người. Đó là ngôn ngữ mà Thánh Thần đã thông ban cho các môn đệ và đám đông dân chúng tại Giêrusalem trong ngày lễ Ngũ Tuần cách đây 2.000 năm. Nhờ Thánh Thần, Lời ấy lại tiếp tục trở thành ngôn ngữ tình yêu để nhờ đó con người có thể xích lại gần nhau, đối thoại với nhau, cảm thông với nhau.
Anh chị em thân mến!
Ngôn ngữ của tình yêu ấy qua Phép Rửa, Chúa Thánh Thần cũng thông ban cho mỗi người Kitô hữu chúng ta. Sự thể đã diễn ra trong ngày lễ Ngũ Tuần cách đây 2.000 năm, cũng đang tái diễn trong từng giây phút trên khắp thế giới. Thật thế, cái khát vọng cao cả nhất trong lòng người, đó là khát vọng hòa bình, ai ai cũng muốn được xích lại gần nhau, nói chuyện cảm thông với nhau và khát vọng ấy chỉ có thể được thỏa mãn khi con người biết nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ duy nhất, đó là ngôn ngữ của Tình Yêu mà thôi.
Bởi phép Chúa Thánh Thần, Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể. Ước gì các tín hữu Kitô cũng biết để cho Chúa Thánh Thần tràn ngập tâm hồn mình, để nhờ Lời của tình yêu Thiên Chúa cũng trở thành xương thịt nơi họ và cuộc sống của họ cũng trở thành ngôn ngữ của cảm thông, của yêu thương, của gặp gỡ và của hiệp nhất nên một vơí nhau trong tư tưởng và trong hành động.

53. Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ Giáo Hội
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Tạ Duy Tuyền)
Nhìn lại lịch sử với những thăng trầm, với những sóng gió, với những bóng tối của Giáo hội, đôi lúc người ta tưởng Giáo Hội đã tàn lụi. Người ta tưởng thế gian đã chiến thắng. Giáo hội của Chúa sẽ tan rã thê lương. Có những lúc kẻ cường quyền đã đè bẹp Giáo hội bằng những sắc chỉ cấm đạo, bằng những án tử hình ghê rợn, nhưng bạo chúa nào rồi cũng qua đi. Giáo hội vẫn tồn tại. Có những lúc Giáo hội đi vào những khúc quanh đen tối của dòng lịch sử khi mà thế quyền điều khiển Giáo hội, Giáo hội chỉ là con cờ trong tay chính quyền sai khiến, thế nhưng triều đại nào rồi cũng qua đi, bàn tay Thiên Chúa vẫn dẫn dắt Giáo hội đi theo thánh ý Chúa. Có những lúc Giáo hội tưởng như đã đổ xập xuống khi mà người điều hành Giáo hội lại sống thiếu bổn phận, thiếu trong sạch và đạo đức, nhưng Thiên Chúa vẫn giúp Giáo hội vượt qua những khủng hoảng, những mây mù đen tối để có thể tiếp tục bay cao, bay xa và đi đến tận cùng trái đất.
Giáo hội vẫn trường tồn qua mọi thời đại dầu có phải đương đầu với bao khó khăn, bất trắc và hiểm nguy vì linh hồn của Giáo hội chính là Thiên Chúa. Thiên Chúa mãi hằng sống. Thiên Chúa vẫn hiện hữu giữa lòng Giáo hội. Chúa Giêsu Ngài đã chiến thắng thế gian. Ngài hứa ở cùng Giáo hội mọi ngày cho đến tận thế. Ngài là sức mạnh của Giáo hội đến nỗi cửa hoả ngục cũng không thắng được. Ngài là thành luỹ chở che Giáo hội giữa những phong ba bão tố cuộc đời. Ngài còn ban cho Giáo hội Ngôi Ba Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần hằng hoạt động trong lòng Giáo Hội. Chính Chúa Thánh Thần sẽ bù đắp lại chỗ khiếm khuyết của Giáo Hội. Chính quyền năng Chúa Thánh Thần sẽ hiển trị nơi sự yếu hèn của những phần tử trong Giáo Hội. Chính Chúa Thánh Thần sẽ uốn nắn những tư tưởng, những đường lối lệch lạc, sai lầm của con người phải thuận theo thánh ý Thiên Chúa. Lịch sử cứu độ đã từng chứng minh cho thấy: con người từng toa rập với ma quỷ để phá đổ chương trình của Chúa, nhưng Thiên Chúa đã sửa sai và làm cho tốt hơn. Điển hình là tội của Adam đã phá vỡ những điều tốt đẹp trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã biến thành Tội Hồng Phúc để ban Đấng Cứu Thế cho nhân trần. Giuse đã từng bị các anh bán qua Ai Cập, nhưng đó lại là cơ hội để cứu giúp cho cả dòng tộc Giacop… Và còn, còn rất nhiều những lần Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử để đưa lịch sử trở về với chương trình của Thiên Chúa.
Hôm nay lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là dịp nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy tin vào quyền năng Chúa Thánh Thần. Hãy hân hoan bước đi trong lòng Giáo hội vì vẫn có bóng Thánh Thần che phủ trên hành trình Giáo hội. Giáo hội không thuộc về con người, nên cường quyền, thế quyền và thế lực của ma quỷ không thể làm cho Giáo hội biến chất hay hư hoại. Thế gian luôn thù ghét Giáo hội. Thế gian luôn tìm cách phân chia Giáo hội. Vì Giáo hội thuộc về Thiên Chúa nên thế gian tìm cách loại trừ. Chúa Giêsu Ngài đã biết trước những khó khăn sẽ tới với Giáo hội, Ngài đã ban Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ đến để gìn giữ, canh tân Giáo hội. Chúa Thánh Thần là Thầy dạy chân lý sẽ bảo vệ đức tin và hướng dẫn Giáo hội đi trong chân lý vẹn tuyền. Sự hiên diện của Chúa Thánh Thần trong lòng Giáo hội như muốn nói với chúng ta: Giáo hội không tồn tại bởi những con người cụ thể. Giáo hội càng không phát triển dựa vào tài trí một con người nào đó. Giáo hội luôn được lớn mạnh vì có sức sống thần linh của Ngôi Ba Thiên Chúa hoạt động trong Giáo hội.
Thực vậy, có ai nghĩ rằng chỉ vỏn vẹn 12 tông đồ yếu kém về trình độ học thức, về nghị lực lại có thể mang tin mừng Chúa trải rộng khắp Năm Châu? Có ai nghĩ rằng Phêrô vụng về năm nào lại có thể mang về cho Nước Chúa biết bao mẻ cá kỳ diệu là các tín hữu ky-tô? Có ai nghĩ rằng Giáo hội phát triển không nhờ tài trí con người, không nhờ những thoả hiệp với thế gian, những bổng lộc của vua quan mà Giáo hội phát triển, vươn lên mạnh mẽ qua những gian truân, những nước mắt và máu đổ, như lời Tertuniano đã từng nói: “Máu các thánh tử đạo sẽ làm trổ sinh các tín hữu”? Ở thế kỷ 20, có ai ngờ rằng biểu tượng sáng giá cho đời sống chứng nhân tin mừng lại nằm trong một con người nữ tu nhỏ bé thành Calcutta là Mẹ Têrêsa? Tất cả những điều kỳ diệu đó đều là hồng ân của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần có thể biến các tông đồ nhút nhát thành can trường. Chúa Thánh Thần có thể ban ơn khôn ngoan cho những con người yếu hèn để họ có thể làm việc của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần cũng có thể biến đổi kẻ từng bách hại đạo thành Chúa thành một tông đồ nhiệt thành ra đi mở mang Nước Chúa.
Vì thế, là người ky-tô hữu thiết tưởng chúng ta đừng nhìn Giáo hội với con mắt trần thế, chúng ta sẽ không thấy tương lai. Vì Giáo hội vẫn còn bất cập, vẫn còn những lập trường cá nhân hàm hồ, vẫn còn những khiếm khuyết nên có thể chúng ta sẽ thất vọng về những gì đang diễn ra trong Giáo hội. Hãy nhìn Giáo hội với con mắt của đức tin để dầu trong hoàn cảnh nào chúng ta vẫn trung thành với Giáo hội. Chúa sẽ có cách để gìn giữ Giáo Hội. Chương trình của Chúa chắc chắn sẽ cao hơn những gì chúng ta thấy, chúng ta nghĩ. Tư tưởng của Chúa luôn là sự kinh ngạc đến lạ thường mà con người mãi mãi không thể hiểu được! Hãy tín thác vào Chúa để dầu trong hoàn cảnh nào chúng ta vẫn đứng về phía Giáo hội để cầu nguyện, để bảo vệ, để giúp Giáo hội vượt qua những khó khăn trước mắt. Đừng ngồi đó để nguyền rửa nhau hay giận dỗi nhau, nhưng hãy cùng nắm tay nhau đi chung một con đường có tên Giêsu. Con đường của Giêsu là con đường âm thầm, mục nát để đem lại sự sống cho đời. Con đường của Giêsu đến để phục vụ chứ không tìm vinh quang cho mình. Con đường đó Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy trở nên như muối men giữa đời làm cho đời tốt hơn chứ không đảo lộn thế gian. Đừng bắt ai theo quan điểm của mình. Đừng lôi kéo ai theo phe nhóm mình. Hãy tìm lối sống hoà hợp giữa thế gian. Không hoà tan nhưng vẫn giữ được giá trị của phúc âm từ chính đời sống hiệp nhất yêu thương trong lòng Giáo hội.
Ngày 28 tháng 10 năm 1958, Đức hồng y Angelo Giuseppe Rollcali lên ngôi giáo hoàng lấy tước hiệu Gioan 23. Một ông lão không tiếng tăm lên lãnh đạo Giáo hội, nhiều người nghĩ rằng sẽ chẳng có gì mới với một ông lão gần đất xa trời. Thế nhưng, ông lão này đã làm nên một kỳ diệu được coi là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống lần thứ hai khi Ngài triệu tập công đồng Vaticano II để canh tân Giáo Hội. Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm những việc kỳ diệu cho dân Người. Chúng ta hãy hân hoan bước đi trong niềm tín thác vào Chúa. Và với lòng cậy trông chúng ta cùng thưa lên cùng Chúa Thánh Thần: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến thánh hoá chúng con trong chân lý và tình thương”. Amen.

54. Chân lý đòi hỏi rất nhiều – Achille Degeest
Chúa phán bảo các môn đệ: Hãy chịu lấy Thánh Thần. Chúng ta lưu ý mấy nét đặc biệt về Chúa Thánh Thần, nhất là cung cách thánh Gioan nói đến Chúa Ngôi Ba.
1) Người là Thần Khí sự thật.
Ta sẽ xin Cha và Cha sẽ ban cho các ngươi một Đấng Bầu Chữa khác để Người ở với các ngươi luôn mãi, là Thần Khí sự thật, thế gian không thể lĩnh nhận vì không thấy cũng không biết Người, còn các ngươi biết Người vì Người lưu lại với các ngươi và ở trong các ngươi (Ga 14,16-17). Đấng Bàu Chữa mà từ nơi Cha, Ta sẽ sai đến với các ngươi, Thần Khí sự thật từ Cha mà ra, chính Người sẽ làm chứng về Ta. Chúng ta nhớ lại, Đức Giêsu tuyên bố chính Người là Sự Thật. Tác động Chúa Thánh Thần là dẫn đưa chúng ta đến hiệp nhất với Đức Kitô. Ngôi Ba Thiên Chúa tác động trong chúng ta cách thích hợp, khiến chúng ta cảm ứng đối với Đức Kitô, với ngôi vị của người, với giáo huấn của Người. Bất cứ học thuyết, chủ thuyết, tư tưởng nào từ ngoài đến, nếu không phù hợp với sự cảm hoá tâm hồn đối với Đức Giêsu Kitô, chúng ta phải đặt nghi vấn. Chúa Thánh Thần làm chứng cho Đức Kitô trong chúng ta. Chúng ta phải làm chứng về Đức Kitô trong môi trường sinh hoạt của mình. Nếu chúng ta thật sự biết nghe lời Thần Khí sự thật, lời chứng của chúng ta sẽ phát xuất từ nguồn mạch thông thái thiêng liêng duy nhất của chúng ta là Đức Kitô. Sau này thánh Phaolô sẽ nói: Tôi chỉ muốn nơi anh em về Đức Kitô mà thôi. Có lẽ chúng ta nên cầu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta bảo tồn ý nghĩa chân truyền của Phúc Âm, đặc biệt trong thời buổi có nhan nhản những sự mập mờ đáng nghi trong việc sử dụng Phúc Âm.
2) Người là Thần Khí thánh thiện.
Sự thánh thiện của người Kitô hữu không có nghĩa là làm được những điều phi thường, mà phải khởi sự từ đức tin. Trong đức tin, người Kitô hữu cố gắng cách ngay thẳng nhất ở trong tình bằng hữu với Thiên Chúa. Muốn được thế, phải từ trong thâm tâm thiết tha gắn bó với sự thật – không chỉ có đức tính tri thức là thành thật ngay thẳng, đó là điều tối thiểu phải có, mà phải đón nhận cách mật thiết tác động của Chúa Thánh Thần. Như chúng ta biết, bất cứ sự thật nào cũng đòi hỏi phải tích cực, Thần Khí sự thật đòi hỏi rất nhiều nơi người Kitô hữu. Philatô bỏ chạy khi nghe Chúa đáp: Kẻ nào thuộc về sự thật thì nghe sự thật. Người ta có thể trốn tránh sự thật vì lẽ sự thật đòi hỏi rất nhiều. Trái lại, tâm trí kẻ nghe Lời Chúa Thánh Thần giống một bầu trời gió thổi càng mạnh càng vén sạch mây mù, nền trời càng trở nên quang sáng. Ở đây là một sự vâng lời thực tiễn, là thái độ không một giây phút chậm trễ sống những điều trí khôn hiểu được về chân lý. Thái độ ấy mệnh danh là cư xử theo chân lý, là “đi trong sự thật”. Thánh Gioan nhắn nhủ các tín hữu: tôi vui mừng quá đỗi vì đã gặp trong hàng con cái Bà có những kẻ đi trong sự thật (thư thứ 2,4). Được như vậy, trong con người Kitô hữu, lời nguyện của Đức Giêsu sẽ thực hiện: Xin Cha hãy thánh hoá chúng trong sự thật… (Ga 17,17).

55. Hơi thở của Thiên Chúa
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: “Thưa thầy, con muốn gặp Chúa”. Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông. Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: “Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?”. Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: “Thưa thầy, con cần có không khí để thở””.
Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: “Con cảm thấy cần gặp Chúa như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài”.
Anh chị em thân mến,
Sự sống của chúng ta là do Thiên Chúa ban tặng. Chính nhờ tham dự vào sự sống của Ngài mà chúng ta được sống. Bao lâu còn hơi thở là còn sống. Tắt thở là chết. Trong buổi đầu công trình tạo dựng. Thiên Chúa đã thổi hơi vào Ađam, con người đầu tiên, để Ađam có sự sống, để Ađam trở nên bạn hữu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh cũng đã lặp lại hành động ấy khi Ngài xuất hiện giữa các môn đệ và thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy sự sống của Thiên Chúa, là nhận lấy tinh thần của Thiên Chúa. vì Thánh Thần là Thần Khí, là Hơi Thở của Thiên Chúa.
Ađam đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để sống vai trò nguyên tổ của loài người. Các môn đệ cộng đoàn Phục Sinh đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để làm chứng về Chúa Giêsu Kitô. Mỗi người chúng ta, cũng đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa khi chúng ta được dìm trong Nước Thánh Tẩy và được xức dầu trong bí tích Thêm Sức. Hơi thở, sức sống, tinh thần của Thiên Chúa được “hà hơi” vào trong ta. Vấn đề là chúng ta có biết sống bằng hơi thở Thần Linh ấy không. Thánh Phaolô khi nói về các ơn sủng Thiên Chúa ban cho mọi chi thể thuộc thân thể Đức Kitô đã đề cao Đức Ái như một đặc ân của Thánh Thần.
“Đức Ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức Ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,4-7).
Sống đức Ái, sống yêu thương là sống bằng hơi thở của Thiên Chúa, là kết hợp với Thiên Chúa Tình Yêu, là sống trong Thánh Thần. Chỉ có yêu thương mới làm cho con người sống và phát triển thực sự. Chỉ có yêu thương mới làm cho con người thay đổi, canh tân, hoán cải. Ai yêu thương nhiều là người ấy thay đổi nhiều, vì tình yêu sẽ dẫn đưa chúng ta đến chốn vô cùng, vô tận của cuộc sống. Ai yêu thương nhiều và yêu thương thực tình sẽ không còn là mình nữa, mà là dụng cụ của Tình Yêu Thiên Chúa, sẽ nên giống như Thiên Chúa.
Thưa anh chị em,
Một cộng đoàn thiếu yêu thương thì không bao giờ có hợp nhất, không bao giờ có sức thuyết phục được những người chung quanh. Vì chỉ có yêu thương mới san bằng được những khoảng cách, mới lấp đầy những cách biệt, mới giúp bổ túc cho nhau giữa những cái chênh lệch, khác biệt nhau. Các tín hữu tiên khởi đã bán hết của cải ruộng đất để làm của chung, để sống giới răn yêu thương của Thầy. Đó phải là hình ảnh gợi ý cho những sáng kiến yêu thương của chúng ta. Chỉ khi nào mỗi thành viên của Hội Thánh đem hết tài năng, đặc sủng của mình đã nhận lãnh làm thành của chung của cộng đoàn, thì lúc ấy mới có sự hợp nhất thực sự của một thân thể nhiều chi thể là Hội Thánh Chúa Kitô.
Nhưng chúng ta chỉ biết sống yêu thương nếu như chúng ta biết đặt mình dưới sức tác động của Thánh Thần: Chẳng những Ngài là Đấng An Ủi, soi sáng mà Ngài còn là Đấng Thanh Tẩy chốn nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, chữa lành thương tích, uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng… (Ca tiếp liên). Chỉ có Thánh Thần mới làm cho các tổ chức của con người có sức sống, có tinh thần Tin Mừng… Đổi mới tư duy, đổi mới đời sống, đổi mới cơ chế xã hội đều cần đến sức mạnh và ân sủng của Thánh Thần Thiên Chúa, vì Ngài là hơi thở của Thiên Chúa, hơi thở không ngừng làm sống mọi tạo vật.
Anh chị em thân mến,
Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận những luồng gió mới mà Thánh Thần Chúa đang thổi trong lòng các dân tộc, trong lòng con người trước ngưỡng cửa Thiên Niên Kỷ Thứ Ba. Chớ gì Thánh Thần Thiên Chúa cũng thổi vào lòng chúng ta, vào cộng đoàn chúng ta một luồng gió đổi mới cũng mạnh liệt như thời các Tông đồ, để Hội Thánh luôn tươi trẻ và tràn đầy sức sống.
Xin hãy đến, lạy Chúa Thánh Thần và xin canh tân bộ mặt trái đất của chúng con.

56. Thần Khí đổi mới
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Tại một giáo xứ ở miền Sicilia, thuộc miền Nam nước Ý, có một tập tục khá ngộ nghĩnh và lý thú. Mỗi năm vào dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sau bài Tin Mừng, cha xứ ra lệnh thả ra trong nhà thờ một con chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần. Khi con chim câu nầy đậu xuống trên vai hay đầu ai thì người ấy không được tránh né hoặc đuổi đi, nhưng phải quyết tâm thực hiện một công tác cụ thể, to hoặc nhỏ tùy theo khả năng của mình, để chứng tỏ rằng mình làm công việc ấy là do sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
Lịch sử giáo xứ ấy có ghi lại một số sự kiện điển hình như sau:
– Một lần chim câu đã đậu xuống trên vai ông hiệu trưởng. Kết quả là ông đã quyết tâm thực hiện một cuốn sách giáo khoa rất có giá trị.
– Lần khác, chim câu đáp xuống trên đầu một công tước vùng ấy, khiến ông ta phải ra tay nghĩa hiệp, bỏ tiền xây một hệ thống dẫn nước được đặt tên là “hệ thống dẫn nước Chúa Thánh Thần”.
– Có một linh mục trẻ được chỉ định đến thay thế cho cha xứ già đã đến tuổi hưu. Dù không tán thành nhưng cũng chưa dứt khoát bỏ đi tập tục đã thành truyền thống kia. Vào dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đầu tiên của ngài ở xứ mới, vị linh mục trẻ vẫn cho giữ thông lệ thả chim câu, nhưng ra lệnh mở hết tất cả các cửa chính và cửa sổ với hy vọng là chú chim câu sẽ bay ra ngoài để tung cánh trong bầu trời cao rộng. Trớ trêu thay, sau khi bay lượn vài vòng từ đầu này đến đầu kia của nhà thờ, chim câu đã đáp xuống vai phải của cha xứ mới trong tiếng vỗ tay vang dội của giáo dân. Phải hứa làm gì cụ thể bây giờ đây? Cha xứ mới chỉ tuyên bố là ngài sẽ đầu tư mọi khả năng và thời giờ để phục vụ tốt cộng đoàn giáo xứ. Và ngài đã giữ lời hứa.
Thưa anh chị em,
Với mỗi người chúng ta hôm nay, Chúa Thánh Thần vẫn là Đấng thiêng liêng. Chúng ta không thể giới hạn cách thức tỏ hiện của Ngài trong hình thức của trận cuồng phong, lưỡi lửa, của chim bồ câu hay bất cứ một hình thức nào khác. Quả thực, Ngài không ngừng hiện diện và tác động nơi chúng ta cách tự do và rộng khắp. Ơn của Ngài nhằm thôi thúc chúng ta phải làm gì cụ thể trong việc đổi mới đời sống con cái đối với Thiên Chúa, góp phần phục vụ tha nhân, phục vụ cộng đoàn.
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể lại cho chúng ta những sự lạ đã xảy ra bên trong và bên ngoài ngôi nhà nơi các môn đệ đang hội họp, có Đức Maria ở giữa. Bên trong có tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào nhà. Có những lưỡi lửa xuất hiện trên mỗi người. Họ tràn đầy Thánh Thần. Bên ngoài dân chúng bỡ ngỡ kéo đến bao vây. Sự gì đã xảy ra? Phêrô, con người nhát đảm ấy, hôm nay mở tung cửa và bước ra, theo sau là các môn môn đệ khác. Họ lâng lâng như người say rượu, khiến dân chúng bàn tán, nhưng họ không say rượu mà say Chúa! Vì hôm nay, ứng nghiệm lời tiên tri Gioel đã tiên báo: “Ta sẽ đổ Thánh Thần xuống và chúng sẽ nói tiên tri”. Phêrô giảng bài đầu tiên làm cho 3.000 người trở lại. Các Tông đồ khác cũng bắt đầu sứ mạng rao giảng, với đặc ân Thánh Thần ban cho là nói được tiếng bản xứ của mỗi thính giả từ các nơi đổ về.
Giáo Hội sinh từ ngày Thánh Thần hiện xuống. Ngày nay Giáo Hội đã có một trang sử dài gần 20 thế kỷ. Giáo Hội cũng cần một luống gió mạnh thổi đến, lùa vào hầu có thể đổi mới mọi sự. Xưa Phêrô đã mở tung cửa đón nhận Thần Khí Thiên Chúa thì ngày nay các vị đại diện Phêrô cũng đã khai mở Công Đồng “như một lễ Hiện Xuống mới”, đem lại cho Giáo Hội một bộ mặt mới, một luồng gió mới.
Mỗi lễ Hiện Xuống là một ngày khai sinh mới của Giáo Hội, Thánh Thần là ai? – Thánh Phaolô, trong bài đọc II đã giải thích gồm tóm trong ý tưởng rằng, Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội. Thánh Thần ban cho mọi tín hữu nhận lãnh Phép Rửa một niềm tin duy nhất, là “Chúa Giêsu là Thiên Chúa đã sống lại”. Chúng ta phải tin, phải sống và phải loan báo. Tuy rằng đưcq tin là một, nhưng Thánh Thần sẽ ban cho mỗi người, mỗi thời đại, những đặc sủng riêng tư, thích hợp cho từng dịch vụ, từng sinh hoạt, từng nơi chốn. Thánh Thần như linh hồn của Giáo Hội, hằng huy động, hướng dẫn, thống nhất để xây dựng Giáo Hội.
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII là một điển hình. Khi mới được bầu làm Giáo Hoàng, Ngài là một cụ già đã 77 tuổi, cục mịch như một cha xứ nhà quê, ai cũng cho là “một Giáo Hoàng giao thời”. Nhưng ai ngờ con người ấy, trong triều đại chỉ 5 năm, trở thành dụng cụ của Chúa Thánh Thần để đổi mới, để thực hiện chính sách mà Ngài gọi là “ cập nhật hóa” (aggiomento), mở cửa để Giáo Hội bắt gặp đà tiến triển của thời đại văn minh. Ngày nay, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông thư “Tiến tới Thiên niên kỷ thứ ba” chuẩn bị cho toàn thể Giáo Hội mừng Đại Năm Thánh 2000 đã kêu gọi “trân trong đặc biệt tất caw những gì Chúa Thánh Thần đã nói với Giáo Hội và với Giáo Hội (Kh 2,7) cũng như những gì Thánh Thần nói với các cá nhân qua các đoàn sủng phục vụ cộng đoàn”. Đức Thánh Cha nói tiếp: “Tôi muốn nhấn mạnh những gì mà Chúa Thánh Thần gợi ý cho các cộng đoàn khác nhau, từ những cộng đoàn nhỏ nhất- như gia đình, đến những cộng đoàn lớn hơn – như các quốc gia, các tổ chức quốc tế, kể cả những nền văn hóa, văn minh và những truyền thống lành mạnh” (TMA. Số 23).
Nhiều người tín hữu ngày nay vẫn còn có thái độ như nhóm nhỏ Tông đồ ngày xưa. Họ sợ sệt, cửa đóng then cái, e rằng Thầy ra đi là đi mãi, tương lai mù mịt. Nhưng Thánh Gioan cho biết, ngay chiều Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện đến trấn an các ông: “Bình an cho các con”. Rồi Ngài thổi hơi trên các ông: “các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Ai lại không liên tưởng đến “ làn hơi Thiên Chúa” thổi đến trên mặt nước “trong ngày khai thiên lập địa” (St 1,2) đến làn sinh khí mà Thiên Chúa thổi vào con người trong ngày tạo dựng Ađam (St 2,7). Ngày nay, làn hơi ấy chính là Chúa Thánh Thần, là làn hơi ban sự sống (Ga 3, 5-6) và là sức mạnh tầy xóa mọi tội lỗi: “các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20,23). Qua làn hơi thở của Chúa, qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các Tông đồ cũng như chúng ta ngày nay phải trở nên những chứng nhân của Chúa cho đến tận cùng trái đất.
Anh chị em thân mến,
Ngày lễ Chúa Thánh Thần ngày khai sinh của Giáo Hội, là ngày nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội mở rộng vòng tay ôm cả thê1 giới. Chúa Thánh Thần thôi thúc bên trong để chúng ta hành động cụ thể, tỏ lộ ơn Ngài ra bên ngoài và chúng ta sẽ chỉ có thể vững tin rằng mình đang sống dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, khi mọi nỗ lực của chúng ta luôn theo sát với giáo huấn của Chúa Kitô và đều hướng đến việc kiến tạo tình yêu thương cảm thông nhau hơn. Chớ chi từ nay, chúng ta luôn biết mở mắt tâm hồn của mình để nhận diện ra bao cuộc hiện xuống của Chúa Thánh Thần trong đời mình và mở rộng tâm hồn sống theo ơn Ngài thôi thúc, hầu cuộc sống của chúng ta có thể đổi mới không ngừng trong tình yêu thương xây dựng.

57. Vai trò của Thần Khí – McCarthy
(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm 1. ƠN CỦA THẦN KHÍ
Chúng ta muốn bám chặt vào một người mà chúng ta yêu mến và phụ thuộc. Chúng ta không thể chịu nổi ý tưởng người ấy rời bỏ chúng ta. Khi Đức Giêsu nói với các Tông đồ rằng Người sắp rời bỏ họ, họ rơi vào sự u sầu. Nhưng Người nói với họ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em”.
Các Tông đồ khó mà hiểu được bằng cách nào Đức Giêsu ra đi thì có lợi cho họ. Những minh hoạ sau đây sẽ chiếu soi một số ánh sáng trên đề tài ấy.
Bạn hãy tưởng tượng bạn đang ngắm mặt trời lặn xuống. Và khi nó lặn, có vẻ như nó đem cả thế giới này theo nó.
Đồng thời, mặt trăng lên cao trong bầu trời. Nhưng mặt trăng mờ nhạt đến nỗi bạn phải nhìn kỹ mới thấy. Dường như mặt trăng không đóng góp điều gì cho trái đất.
Rồi bạn nhận thấy một điều đẹp đẽ và kỳ lạ. Mặt trời càng xuống thấp trong bầu trời, mặt trăng càng trở nên sáng hơn. Sau cùng, mặt trời rồi cũng biến mất khỏi quang cảnh, mặt trăng được biến đổi hoàn toàn. Và giờ đây, mặt trăng đương nhiên là vật sáng nhất trong bầu trời. Và khi bạn nhìn chung quanh, bạn ngạc nhiên và thích thú nhận thấy rằng thế giới cũ kỹ này không những đã được phục hồi hoàn toàn đối với bạn, nhưng còn được làm cho mới mẻ, sáng tươi và quyến rũ. Chỉ khi mặt trời rút lui, bạn mới có thể thấy sự đóng góp của mặt trăng.
Yêu thương đôi khi lúc có nghĩa phải sống xa cách người mình yêu. Điều này có nghĩa là người ta được tự do phát triển theo đường lối của riêng mình. Người được yêu thương cảm thấy mình đã góp phần xây dựng nên tình cảm đó và được tự do tiếp nhận từ một người khác.
Tuy nhiên, chúng ta thường bám chặt ánh đèn sân khấu. Chúng ta muốn lúc nào cũng có mặt ở đó. Chúng ta không biết nên rút lui khi nào hoặc bằng cách nào. Vì thế, bằng một thái độ vô tâm và vị kỷ, chúng ta làm chủ những người khác. Chúng ta bóp nghẹt sự phát triển của họ. Chúng ta đặt họ vào vị trí phụ thuộc, và kết quả là họ ở mãi trong tình trạng kém phát triển.
Điều này đem lại cho chúng ta một sự hiểu biết sâu sắc điều Đức Giêsu muốn nói khi Người cho rằng Người ra đi thì có lợi cho các Tông đồ, nếu không có Thần Khí sẽ không đến. Nếu Người cứ duy trì sự hiện diện thể chất với họ thì chính họ sẽ không bao giờ trưởng thành nổi.
“Tôi không có gì cho người khác; nhưng tôi có bổn phận hướng người ấy về với chính cuộc đời người ấy và chấp nhận người ấy là chính người ấy” (Michel Quoist).
Không bao giờ có người nào tỏ ra tín nhiệm và tôn trọng con người như Đức Giêsu. Người đã không thống trị họ. Người đã cho họ một cơ hội để toả sáng. Người chuyển giao toàn bộ công trình của Người cho họ. Người biết rằng họ vẫn cần được giúp đỡ. Đó là lý do Người sai Thần Khí đến với họ.
Điều mà Thần Khí đã làm là biểu lộ ra bên ngoài những sự việc đã có bên trong họ. Tình yêu của Thần Khí đánh thức những năng lực có bên trong họ mà họ không biết đã có đó, vì thế họ có thể làm được những việc mà họ không nghĩ rằng họ có khả năng làm. Sau ngày Hiện Xuống, tâm hồn họ như lửa đốt và có gió thổi mạnh vào sau lưng.
Chúng ta cũng cần có Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần Người giúp đỡ chúng ta thực hiện quyền bính và những ơn đã có trong chúng ta. Chúng ta cần Người khai thác quyền bính ấy và phát huy những ơn Người ban ngõ hầu chúng ta cũng có thể trở thành nhân chứng không sợ hãi cho Đức Kitô.
Suy Niệm 2. PHÉP LẠ CỦA SỰ ĐỔI THAY
Trước khi Chúa Thánh Thần đến, các Tông đồ gần như sống trốn tránh trong một phòng trên lầu. Đức Giêsu đã giao phó cho họ một nhiệm vụ cao cả. Tuy nhiên họ đã không có cả sức mạnh lẫn ý chí để bắt tay vào việc. Nhưng sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, họ là những người đã thay đổi.
Vậy Chúa Thánh Thần đã làm gì cho họ và phép lạ làm thay đổi chính xác như thế nào? Mặc dù chúng ta không biết một tí gì về điều đó.
Chúng ta phải nhận thức rằng các Tông đồ là những người bị tổn thương. Họ bị tổn thương bởi nghi ngờ và đau buồn, bởi sợ hãi và thất bại, và trên tất cả bởi ý thức về sự bất toàn.
Jean Vanier là một người biết rất nhiều về điều gì giúp đỡ những người bị tổn thương thay đổi. Ông đã thiết lập những cộng đoàn nhỏ khắp thế giới cho những người thiểu năng (tâm thần). Khi người thiểu năng bị nhốt trong những cơ chế, người ta đã gây ra cho tâm trí họ sự thiệt hại khủng khiếp. Một thân thể bị tổn thương sẽ lành lại một cách tự nhiên, nhưng một tâm hồn bị tổn thương thì không như thế. Một tâm hồn tổn thương sẽ chai cứng; chỉ để sống còn và vì thế đầy ắp sự tức giận và cay đắng.
Nhưng khi người thiểu năng được đưa ra khỏi những cơ chế ở đó họ cảm thấy chán ghét, và được đặt vào những cộng đoàn ở đó họ được yêu thương. Vanier đã nhiều lần chứng kiến phép lạ làm họ thay đổi.
Điều này giúp chúng ta hiểu được điều gì xảy ra cho các Tông đồ. Khi nói rằng các Tông đồ bị tổn thương, người ta không có ý nói họ bị tổn thương ở mức độ như những người thiểu năng. Nhưng dù sao họ cũng bị tổn thương. Tuy nhiên sau khi Chúa Thánh Thần đến, họ là những con người đã thay đổi. Họ rời bỏ nơi họ trốn tránh và bắt đầu rao giảng Tin Mừng.
Chúng ta không nên nghĩ rằng sự thay đổi chỉ thực hiện trong trong một lúc. Nó phải là một việc có cấp bậc và một quá trình phát triển. Sự phát triển có thể chậm chạp đau đớn. Chúng ta không dễ dàng gạt bỏ những tập quán và thái độ cũ.
Con người thay đổi khi có người mang lại cho họ niềm hy vọng; khi có người tin tưởng họ và cho họ một nhiệm vụ để hoàn thành. Nhất là, họ thay đổi khi họ được yêu thương. Họ bước ra khỏi vỏ ốc của mình và những năng lực giấu kín của họ được giải phóng từ bên trong họ. Phép lạ làm con người thay đổi là một phép lạ chân thật.
Mọi người chúng ta đều có khả năng làm điều tốt. Chúng ta có tay để có thể chăm sóc, có mắt để có thể nhìn, có tai để có thể nghe, có lưỡi để có thể nói, có chân để có thể đi và trên hết có một tấm lòng để có thể yêu thương.
Nhưng mỗi người chúng ta đều có một khuyết tật kềm hãm không cho chúng ta giải phóng bản thân chân thật và tràn đầy. Chúng ta cần có một ai đó đánh thức những gì ở bên trong chúng ta. Một ai đó kêu gọi chúng ra sống và giúp đỡ chúng ta trưởng thành.
Đối với chúng ta, những môn đệ của Đức Kitô, một ai đó chính là Chúa Thánh Thần. Quyền lực đã biến đổi các Tông đồ, quyền lực hiền hoà của Chúa Thánh Thần cũng có giá trị và hiệu lực đối với chúng ta. Thần Khí ấy đánh thức những năng lực trong chúng ta, kêu gọi chúng ta sống, giúp đỡ chúng ta trưởng thành. Nhà thơ Pablo Neruda đã nói: “Tôi muốn làm cho bạn điều mà mùa xuân làm cho cây anh đào”. Đó là điều mà Thần Khí đang thực hiện.

58. Suy niệm của J.B Lê Đình Nam
SỐNG CHỨNG NHÂN TIN MỪNG TRONG THÁNH THẦN TÌNH YÊU
Khi nhắc đến Chúa Thánh Thần, chúng ta thường nghĩ đến Bí tích Thêm sức. Vậy khi lãnh nhận Bí tích Thêm Sức chúng ta được những ơn nghĩa nào? Hay nói cách khác, sau khi lãnh nhận ấn tín Chúa Thánh Thần, chúng ta được mời gọi sống như thế nào?
Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy rằng: “… Việc tuôn tràn Thánh Thần giúp chúng ta tiến sâu hơn vào ơn làm con cái Thiên Chúa, kết hợp chúng ta chặt chẽ hơn với Ðức Kitô và với Hội thánh của Người. Bí tích này củng cố trong tâm hồn chúng ta các hồng ân của Chúa Thánh Thần và trao ban cho chúng ta một sức mạnh đặc biệt để làm chứng cho đức tin Kitô giáo.”
Tin Mừng Chúa nhật Hiện xuống hôm nay thuật lại: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 21-22).
Sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các môn đệ được đầy bình an, lòng tràn ngập hân hoan, các ông không còn run sợ, nhút nhát. Với sức mạnh của Thánh Thần, các ông mạnh dạn tung cửa ra ngoài, hiên ngang rao giảng về Đức Giêsu. Các ông đã tuyên xưng về Đức Kitô – Đấng đã bị người đời đóng đinh, giết chết nhưng đã sống lại.
Nhìn lại hành trình Đức tin của mỗi người, từ lúc lãnh nhận Bí tích Thêm sức, khi mà Thánh Thần ngự xuống mỗi chúng ta trong giây phút linh thiêng đó, chúng ta đã sống phẩm giá người Kitô hữu, đã làm chứng cho Đức Kitô như thế nào?
Chúng ta có dám tuyên xưng Đức tin của mình trước những người anh em? Và chúng ta có sống Đức tin đó một thật sự giữa đời thường để làm chứng cho Đức Kitô?
Lễ Hiện xuống một lần nữa nhắc nhở mỗi người tín hữu về một Thánh Thần Tình Yêu – Đấng đã và đang hoạt động trong mỗi chúng ta và trong Hội Thánh. Nhớ lại Bí tích Thêm sức mà chúng ta lãnh nhận, để ý thức lại thân phận Kitô hữu của mình trong hành trình Đức tin giữa dòng đời lắm thăng trầm hôm nay.
Thật không dễ để có thể trở thành những chứng nhân Tin Mừng giữa một cuộc sống đầy thử thách. Sẽ khó thực thi Lời Chúa cách triệt để giữa một xã hội đang đi ngược lại những giá trị đạo đức và luân lý. Sẽ gian nan để chiến đấu chống lại những đam mê giữa một thế giới luôn bị nhiều cám dỗ rình rập và mời mọc.
Tuy nhiên, với sức mạnh của Thần Khí, chúng ta vẫn có thể làm chứng cho Đức tin của mình bằng những bổn phận nhỏ bé nơi cuộc sống thường ngày.
Chúng ta hãy mở tâm hồn mình để Ngọn lửa Thánh Thần được ngự trị. Với sức mạnh đó ta không còn nhát sợ nhưng can đảm chiến đấu với thử thách, khổ đau của dòng đời. Luôn biết trông cậy vào Chúa và vượt thắng những khó khăn. Luôn biết tôn trọng và gìn giữ những giá trị luân lý, đạo đức của con người trong mọi hoàn cảnh.
Chúng ta hãy từ bỏ cái tôi ích kỷ và thờ ơ của mình để Thần Khí dẫn dắt chúng ta đến với người nghèo khổ, bất hạnh, những mảnh đời bị bỏ rơi, để tận tình yêu thương, giúp đỡ và kính trọng họ cho xứng với phẩm giá con người.
Chúng ta hãy trải lòng mình ra để nguồn ơn Thánh Thần thanh tẩy và biến đổi chúng ta trở thành những con người mới, thúc đẩy chúng ta sống môt đời sống yêu thương, hy sinh và phục vụ. Ngang qua đó mọi người nhìn nhận được Đức Kitô đang hiện hữu nơi mỗi người chúng ta.
Nếu mỗi chúng ta biết đón nhận Ngọn lửa Thánh Thần để canh tân, nếu mỗi chúng ta biết lắng đọng tâm hồn để vâng theo sự dìu dắt của Thần Khí, thì mỗi người sẽ trở nên những chứng nhân Tin Mừng đích thực và ánh sáng của Đức Kitô sẽ được lan tỏa đến những góc tối tăm của thế giới.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài hãy đến như ngọn gió mát, thổi vào cuộc đời chúng con luồng sinh khí mới, đốt nóng lên ngọn nến Đức tin để cả địa cầu này được “thay da đổi thịt” trong cùng một Thánh Thần Tình Yêu.

59. Tác động của Chúa Thánh Thần
Chúa Thánh Thần làm gì cho chúng ta? Đó là vấn đề chúng ta cùng nhau tìm hiểu và chia sẻ trong một vài phút ngắn ngủi này.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy các môn đệ, mặc dù đã bước theo Chúa, mặc dù đã được lắng nghe những lời khôn ngoan Chúa dạy, mặc dù đã được nhìn thấy những việc lạ lùng Chúa làm, thế nhưng các ông cũng chẳng lĩnh hội được bao nhiêu và đức tin cũng chưa bén thể rễ sâu trong cõi lòng các ông.
Sở dĩ như vậy vì đầu óc các ông còn u mê dốt nát và mang nặng tinh thần thế gian.
Thực vậy, cũng như phần đông những người Do Thái khác, các ông đang trông chờ, mong đợi một đấng cứu thế trong lãnh vực chính trị và xã hội.
Đấng ấy phải hùng mạnh như Đavít với kỵ binh và cbiến mã rợp trời. Đấng ấy phải khôn ngoan như Salômon, khiến cho muôn dân nước phải nể phục. Đấng ấy sẽ đến để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của đế quốc La Mã, dẫn đưa dân tộc họ bước vào một thời đại hoàng kim.
Và lúc bấy giờ các ông sẽ được làm lớn và giữ những chức vụ quan trọng trong vương quốc của Ngài, cùng với một cuộc sống nhiều đặc ân và bổng lộc, giàu sang và quyền thế, theo kiểu “vinh thân phì gia”.
Chính vì thế, các ông thường tranh cãi xem ai là người cao trọng nhất, đồng thời các ông không thể nào chấp nhận được những khổ đau và cái chết tủi nhục trên thập giá mà Chúa Giêsu đã tiên báo.
Thế nhưng, sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, các ông đã đổi đời, đã thoát xác, đã trở nên những con người mới, am hiều và thông suốt về giáo lý của Chúa Giêsu, nhất là về màu nhiệm thập giá, để rồi hôm nay, ngày lễ Ngũ tuần, Phêrô thay mặt cho nhóm mười hai đã lên tiếng rao giảng về chính những điều trước đây ông đã không hiểu cũng như không muốn hiểu.
Ngoài ra, Chúa Thánh Thần còn làm gì nữa?
Nhìn vào các tông đồ, chúng ta thấy các ông không phải chỉ là những kẻ u mê và dốt nát, mà còn là nhưng kẻ hèn nhát và sợ sệt. Phúc âm đã ghi lại như sau:
Khi thấy sóng gió nổi lên, các ông đã hoảng sợ đến cuống cuồng, khiến Chúa Giêsu phải lên tiếng trách:
– Hời những kẻ hèn tin, tạo sao các con sợ hãi.
Sự sợ hãi này còn được biểu lộ một cách rõ rệt hơn nữa trong cuộc thương khó. Giuđa đã bán Chúa với giá ba mươi đồng bạc, giá bán một tên nô lệ, và chỉ bằng một phần mười giá bán một chai thuốc thơm, Mađalêna đã dùng để xức vào chân Chúa Giêsu. Phêrô đã chối Chúa ba lần trong sân nhà thầy cả thượng phẩm chỉ vì một câu hỏi vu vơ. Còn các môn đệ khác đều đã bỏ Chúa mà chạy trốn, ngoại trừ Gioan là đã theo Chúa đến cùng và đã có mặt dưới chân cây thập giá. Ngay cả sau khi Chúa đã sống lại, các ông tụ họp với nhau trong phòng, mà cửa thì đóng kín vì sợ người Do Thái.
Thế nhưng, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, các ông đã hoàn toàn đổi mới: từ những kẻ hèn nhất và sợ sệt, các ông đã trở nên những con người can đảm và hăng say rao giảng Tin mừng.
Hơn thế nữa, các ông còn sẵn sàng chấp nhận cái chết, cũng như đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng để làm chứng cho tình yêu của Đức Kitô.
Thực vậy, trong số mười hai tông đồ, thì đã có tới mười một ông hy sinh mạng sống cho Tin mừng, chỉ trừ một mình Gioan là đã chết già tại cộng đoàn Êphêsô mà thôi.
Còn chúng ta thì sao?
Rất có thể lúc này chúng ta cũng đang là những kẻ mê muội và dốt nát, chẳng hiểu biết được bao nhiều về giáo lý của Chúa.
Rất có thể lúc này chúng ta cũng đang là những kẻ hèn nhát và sợ sệt, chúng ta sẵn sàng bán Chúa và chối bỏ Ngài bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào và bất cứ vì lý do gì.
Chính vì thế, chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trong tâm hồn, để biến đổi chúng ta trở thành những con người mới luôn hiểu và sống Tin mừng, cũng như luôn hăng say phục vụ Chúa nơi những người anh em bất hạnh và khổ đau.

60. Hãy mở cửa ra!
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Cùng Hội Thánh, chúng ta kính thờ mầu nhiệm Đức Chúa Trời Ngôi thứ Ba là Chúa Thánh Thần. Đã từng được nghe giảng dạy về vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần sau khi Chúa Kitô về trời, chúng ta cũng đã được học hỏi về Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ Ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Người là Thiên Chúa thật, cùng một bản tính và quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy. Chúng ta còn biết các hình ảnh chỉ về Người như là gió, mây, nước, lữa, chim bồ câu…, rồi Người có các danh xưng là “Đấng ban sự sống”, là “Thần Chân lý”, “Đấng bào chữa”…(x. GLCG chung số 683- 701). Có vị lại ví Chúa Thánh Thần như Đấng dấu mặt. Người ta chỉ thấy hiệu quả tác động của Người chứ nào đâu thấy Người như Đức Kitô vì đã nhập thể làm người.
Nói đến hoa quả của Chúa Thánh Thần thì thật khôn xiết. Người là Thần Chân lý nên Người dẫn chúng ta đến sự thật toàn vẹn. Người là nguồn tình yêu nên Người đưa chúng ta vào biển cả bác ái bao la. Người là nguyên lý của sự hiệp nhất nên Người làm cho chúng ta nên một trong Chúa Kitô. Người là ngọn lửa nên Người đổi mới chúng ta từ trong ra ngoài. Người là nguồn bình an nên Người đưa chúng ta vào sự an bình đích thức, một sự bình an không như thế gian ban tặng…
Chúa Thánh Thần đã được trao ban. Người đã được trao ban cho nhân loại từ Trái Tim cực thánh bị đâm thâu của Chúa Giêsu trên thập giá (x.Ga 19,31-37). Người được trao ban cho các Tông đồ, các môn đệ khi Chúa Kitô phục sinh hiện ra: “Các con hãy lãnh nhận Thánh Thần” (Ga 20,22). Người đã hiện xuống trên các Tông đồ và nhiểu người ngày Lễ Ngũ tuần dưới hình lưỡi lửa (Cv 2,1-11). Chúa Thánh Thần đã được trao ban, nhưng vấn đề đặt ra là chúng ta có nhận được Người chưa? Và bằng cách thế nào để ta đón nhận Chúa Thánh Thần?
Chúng ta đã nhận được hồng ân Thánh Thần chưa? Câu trả lời xem ra không dễ. Cứ xem quả thì biết cây. Mặc dù trong đức tin, chúng ta tin nhận khi ta chịu Bí tích Thánh tẩy là ta đã nhận được hồng ân Thánh Thần. Khi ta chịu Bí tích Thêm Sức, khi ta lãnh nhận các bí tích khác như Truyền Chức Thánh, Hôn phối…, là ta đã lãnh nhận hồn ân Thánh Thần. Thế nhưng hoa trái của Thánh Thần như Thánh Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Galata 5,22-23 là “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” đã thực sự có nơi đời sống chúng ta thế nào thì thật khó trả lời. Cũng thật khó trả lời rằng ta đã đến cùng chân lý vẹn toàn, đã hiệp nhất nên một, đã đổi mới từ trong ra ngoài…
Một sự thật không riêng gì ở các xứ mà tôi đang phụ trách, đó là nhiều em thiếu niên trước khi chịu Bí tích Thêm Sức thì rất chuyên chăm học giáo lý, tham dự Thánh Lễ, làm các việc tông đồ mà các anh chị giáo lý viên đề ra. Thế nhưng sau khi lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, một Bí tích mà qua đó các em lãnh nhận hồng ân Thánh Thần cách đặc biệt, thì dường như có phần đi xuống, nếu xét hình thức bên ngoài. Cũng có thể giải thích rằng do tâm lý tuổi mới lớn có nhiều cung cách hành xử không như ý những người có trách nhiệm. Tuy nhiên dưới con mắt nhân loại, để nhận ra những thay đổi nơi các em theo hướng tích cực thì quả là khó thấy và nhiều khi lại có phần theo hướng ngược lại. Dù vậy không ai dám to gan nói rằng các em là chưa nhận lãnh hồng ân Thánh Thần!
Chúa Thánh Thần đã được trao ban cho nhân loại. Xưa, thánh Phêrô đã từng kinh ngạc khi Thánh Thần cũng đã đổ xuống trên những người chưa chịu Bí Tích Thánh Tẩy. “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” (Cv 10,47). Vấn đề quan trọng là làm sao để có thể nhận lãnh hồng ân Thánh Thần. Xin được đề nghị một trong những cách thế để ta có thể đón nhận hồng ân Thánh Thần đó làhãy mở cửa ra.
Ngày Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với các Tông đồ, Người đã trao ban Thánh Thần cho các ngài thế mà dường như các ngài vẫn chưa nhận được. Có thể có nhiều lý do nhưng ta có thể chân nhận một trong những lý do, đó là “cửa vẫn đóng kín”. Cánh cửa vật chất của căn nhà là hình ảnh của cách cửa tâm hồn các ngài. Tâm hồn các tông đồ vẫn còn vương vẫn chuyện Thầy sẽ khôi phục nước Israel (x.Cv 1,6). Tâm hồn các ngài còn lo âu sợ hãi trước các thế lực bên ngoài. Đến ngày Lễ Ngũ tuần, gió đã ùa vào đầy cả căn nhà chứng tỏ các cánh cửa đã rộng mở (x. Cv 2,1-2). Cánh cửa tâm hồn các tông đồ và những người có mặt hôm ấy cũng đã mở rộng.
Người ta nhìn nhận Công đồng Vatican II như là một cuộc Hiện xuống lần thứ hai cho Hội Thánh Chúa. Khi được hỏi Công Đồng là gì? Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII đã mở cách cửa sổ căn phòng của Ngài và nói: Công Đồng là thế đó. Mở cửa để đón nhận hồng ân Thánh Thần. Hãy mở cửa ra ! Một đòi hỏi dường như mang tính tất yếu để có thể đón nhận hồn ân Thánh Thần.
Mở cửa ra để tha nhân, để thế giới nhận rõ, biết rõ con người ta, tập thể ta, Hội thánh ta. Mở cửa ra là một thái độ thẳng thắn chân thành trong sự khiêm hạ. Người có thể thấy được những mặt tốt và cả những mặt xấu xa tồi tệ của mình. Người ta có thể biết được sự thánh thiện và cả tôi lỗi của ta. Mở cửa ra là một động thái can đảm sống trong sự thật. Dù rằng không một ai có thể che dấu Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn tâm can, nhưng chúng ta lại có thể che mắt thiên hạ những gì chúng ta muốn che dấu bằng cách này bằng cách khác, với lý do này với lý do khác, có khi là rất hữu lý và hợp tình theo nghĩ suy nhân trần. Thế nhưng, đã không can đảm sống trong sự thật thì e rằng khó mà nhận được Đấng là Thần Chân Lý.
Mở cửa ra để hiệp thông với tha nhân, với nhân loại trên thế gian này, một thế gian mà Thiên Chúa đã yêu thương đến nỗi đa hiến ban chính Con Một (x. Ga 3,16), một thế gian mà Đức Kitô đã tự hiến dâng chính xác thịt mình để cho nó được sống (x.Ga 6,51). Có sự hiệp thông thì sẽ có sự liên đới, tương ái tương thân. Sự hiệp thông thúc giục ta sống liên đới với nhau, với thế gian này cả trong công nghiệp lẫn trong tội lỗi. Đức bác ái đang chớm nở. Và chúng ta sẽ nhận được Thánh Thần là nguồn tình yêu, nguồn hiệp nhất.
Mở cửa ra để đón nhận tha nhân, đón nhận thế giới cho dù là bất đồng chính kiến hay quan niệm, bất đồng về niềm tin hay cung cách hành xử. Thánh Thần đã được trao ban với Trái Tim mở ra của Chúa Giêsu. Trái Tim cực thánh của Người mở ra đón nhận Mẹ dấu yêu, người môn đệ yêu dấu… và cả những người lý hình đang sỉ nhục Người. Đón nhận không phải là chấp nhận tất cả bất kể tốt xấu, nhưng là để thánh hóa và thăng hoa. Thành quả của Công đồng Vatican II là một minh chứng cho sự mở cửa đón nhận này. Chính những vị trước đây đã bị loại trừ cách này cách khác như Yve Congar, Chenu…, đã được đón nhận cách chân thành. Và hoa trái Thánh Thần đã tỏ hiện.
Hãy mở cửa ra là hãy mở tâm hồn ra, mở vòng tay ra. Sống trong sự khiêm tốn chân thành, sẵn sàng đối diện với sự thật, sống trong sự hiệp thông liên đới với mọi người, sống trong tình thân ái, bao dung đón nhận nhau, chính là cách thế để đón nhận hồng ân Thánh Thần cách hữu hiệu. Tác giả sách Khải Huyền viết: Thánh Thần và Tân nương là Hội Thánh cầu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22,20). Có lẽ ta đừng xin: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến!”, nhưng hãy xin: “Xin cho con, cho chúng con, cho Hội Thánh biết mở cửa ra!”.

61. Bình an
Nhà sản xuất bộ phim có tựa đề là: “Tìm lửa” đã cố ý dựng nên một câu chuyện để ca tụng phát minh vĩ đại của con người cách đây 80.000 năm để nhân loại không bị họa diệt vong. Và theo nhà xuất bản bộ phim này, phát minh vĩ đại đó để con người khỏi họa diệt vong, đó là phát minh ra lửa. Từ đó, lửa đã chiếm một chỗ quan trọng trong đời sống con người, nhưng thử hỏi có ai trong chúng ta ý thức về một biến cố quan trọng khác, quan trọng nhất, vĩ đại nhất, đó là biến cố Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, không phải cách đây 80.000 năm mà ngay từ khởi đầu vũ trụ. Chúng ta không biết là bao nhiêu ngàn hay bao nhiêu triệu năm, nhưng vào ngay khởi đầu vũ trụ, Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ này và tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài. Và từ đó Ngài đã luôn gìn giữ con người khỏi họa diệt vong, mặc cho con người trong dòng thời gian đã không ngừng phản bội lại tình yêu thương, không sống tình yêu thương như Chúa muốn mà đã phạm biết bao tội ác.
Nhìn vào thế kỷ XX mà chúng ta đã kết thúc, chúng ta cũng đã nhận ra biết bao tội ác con người giết hại lẫn nhau và hiện tại trong giây phút này, khởi đầu của thế kỷ XXI chúng ta cũng biết được nhiều tin tức về những bạo lực, chiến tranh, chém giết, những hận thù vẫn còn xảy ra trên thế giới này. Nhưng Thiên Chúa, Ngài không bao giờ để cho con người bị họa diệt vong. Ngài đã thực hiện nhiều sáng kiến trong lịch sử và cách đây hơn 2000 năm, một sáng kiến vĩ đại khác Thiên Chúa đã thực hiện, đó là sáng kiến cho Con Một Ngài xuống thế làm người để cứu rỗi con người, để mang đến cho con người ơn tha thứ tội lỗi và dẫn con người trở về nhà Cha.
Vào lúc kết thúc cuộc đời của Con Thiên Chúa trên trần gian, Thiên Chúa thực hiện một biến cố vĩ đại khác là trao ban Chúa Thánh Thần, sức sống mới từ Thiên Chúa cho con người.
Trong bài Phúc âm hôm nay chúng ta vừa đọc lại, tác giả thánh Gioan đã dùng một từ ngữ để diễn tả biến cố Chúa Giêsu trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ, cho tất cả mọi đồ đệ của Ngài trong thời gian. Từ ngữ đó là “thổi hơi” và việc thổi hơi này nhắc lại một hành động mà Thiên Chúa đã thực hiện vào khởi đầu của lịch sử vũ trụ cũng như lịch sử của con người, đó là trong việc sáng tạo con người.
Thiên Chúa khi tạo dựng con người, Ngài đã thổi hơi sự sống vào con người đầu tiên là Ađam, cho con người đó được sống như hình ảnh của Thiên Chúa, và giờ đây Chúa Giêsu thổi hơi và ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Việc này nhắc lại cho mỗi người chúng ta một công cuộc tạo dựng mới, ban cho mỗi người chúng ta được trở nên tạo vật mới. Trong Chúa Thánh Thần, Ngài mời gọi chúng ta sống cuộc sống mới, đây là một phát minh vĩ đại khác để con người chúng ta, để nhân loại không phải bị họa diệt vong. Mỗi người chúng ta được mời gọi cộng tác vào công việc tái tạo này mỗi ngày, qua những hành động yêu thương như Chúa đã yêu thương và cho hình ảnh Thiên Chúa của tình thương được thực hiện nơi mỗi người chúng ta.
Chúa nhật 27/05/2001, khi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng cùng với các tín hữu tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhắc trước về biến cố Chúa Thánh Thần Hiện xuống được mừng trong Chúa nhật hôm nay như sau: “Thầy sẽ sai xuống trên chúng con Đấng mà Cha Thầy đã hứa”. Chúa Giêsu nói đây về Chúa Thánh Thần và cả chúng ta nữa cũng như những môn đệ ngày xưa, chúng ta chuẩn bị sẵn sàng đón nhận hồng ân này trong ngày lễ Hiện xuống. Chỉ có sức tác động huyền nhiệm của Chúa Thánh Thần mới có thể làm chúng ta trở thành những tạo vật mới, và chỉ có quyền năng mầu nhiệm của Ngài mới làm chúng ta có khả năng rao giảng những kỳ công của Thiên Chúa.
Vì thế, chúng ta đừng sợ, chúng ta đừng sống đóng kín nơi chính mình, nhưng tốt hơn chúng ta hãy sẵn sàng, hãy cộng tác với Chúa, ngõ hầu ơn cứu rỗi được Thiên Chúa cống hiến cho mỗi người chúng ta trong Chúa Kitô có thể hướng dẫn toàn thể nhân loại đến cùng Thiên Chúa Cha.
Chúng ta hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự xuống như các môn đệ xưa trong nhà Tiệc ly cùng với Mẹ Maria. Và hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống, chúng ta hãy hiệp với Mẹ Maria và xin Mẹ Maria hiện diện với chúng ta, cầu nguyện với chúng ta. Xin Chúa ban cho chúng ta được tràn đầy Chúa Thánh Thần, cho mỗi người chúng ta trở thành một tạo vật mới. Qua đó chúng ta biết cộng tác với Chúa để tái tạo vũ trụ này, tái tạo cuộc sống con người, cho chúng ta được trở thành những môn đệ xứng đáng của Chúa.
Xin Mẹ cầu cùng Chúa cho chúng ta được trở nên những chứng nhân can đảm cho Con Mẹ trên trần gian này, và xin Mẹ làm cho tất cả mọi tín hữu trên trần gian một khi đã chia sẻ sự sống mới, thông hiệp vào ơn ban Chúa Thánh Thần, được trở nên một gia đình hiệp nhất trong tình yêu thương và hòa bình.
Đó là những lời Đức Thánh Cha nhắn nhủ cho tất cả mọi người tín hữu trên thế giới sống ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Chúa nhật hôm nay chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trong đời sống mỗi người chúng ta, để làm cho chúng ta được trở thành tạo vật mới, thực hiện tình yêu thương, làm cho hình ảnh của Thiên Chúa được sáng chiếu trong chính chúng ta và trong đời sống của anh chị em. Xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng ta trong đức tin mà chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.

62. Lãng quên
Sách thánh kể rằng: khi thánh Phaolô đặt chân tới kinh thành Nhã Điển, thủ đô nước Hy Lạp, ngài đã rảo qua một vòng phố xá, ngài nhận thấy dân Nhã Điển thật sùng mộ các thần minh. Đường phố nào cũng có những bàn thờ, những chùa miếu. Nhưng ngài để ý thấy một bàn thờ, trên đó khắc ghi hàng chữ “Kính thần vô danh”. Và ngài bắt đầu bài giảng về Đức Kitô như thế này: “Vị thần vô danh mà quí vị thờ kính nhưng lại không biết đến, thì giờ đây tôi xin loan báo để quí vị được rõ: vị thần vô danh ấy chính là Đức Kitô”. Điều thánh Phaolô nói về Đức Kitô với người Nhã Điển, thì bây giờ chúng ta cũng có thể nói như vậy về Chúa Thánh Thần.
Phải, là người Kitô hữu, chúng ta biết rất nhiều về Chúa Cha cũng như về Chúa Con. Thế nhưng nếu có ai hỏi chúng ta về Chúa Thánh Thần, về những việc Ngài đã làm cũng như về vai trò của Ngài trong cuộc sống, thì rất có thể chúng ta sẽ trả lời không hơn gì những tín hữu Ephêsô thuở trước. Thực vậy, thánh Phaolô đã hỏi họ: “Các ngươi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần chưa?”. Và họ đã trả lời: “Chúng tôi chưa hề hay biết có một Chúa Thánh Thần”. Phải, Chúa Thánh Thần chính là vị Thiên Chúa vô danh, vị Thiên Chúa bị quên lãng nhiều nhất trong cuộc sống. Vậy Ngài là ai? Ngài có phải là vị Thiên Chúa chúng ta tôn thờ hay không?
Sách giáo lý đã cho biết: Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Thứ Ba, bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, cùng một bản tính, một quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy. Làm sao chúng ta biết được Thiên Chúa có ba ngôi và ngôi thứ ba lại là Chúa Thánh Thần? Sở dĩ chúng ta biết được là vì Chúa Giêsu đã tỏ lộ, đã dạy bảo.
Thực vậy, khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giorđan, thì Tin Mừng đã ghi nhận: bấy giờ trời mở ra, Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu mà ngự xuống, rồi từ trời có tiếng phán: “Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu cũng đã truyền cho các môn đệ: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, rửa tội cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Nếu không có Chúa Thánh Thần thì ba ngôi Thiên Chúa sẽ không hoàn toàn và niềm tin của chúng ta sẽ bị thiếu sót. Thực vậy, Chúa Giêsu đã thực hiện chương trình cứu độ, nhưng Chúa Thánh Thần mới là Đấng áp dụng công phúc cứu độ ấy cho chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ: “Thầy sẽ xin với Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng phù trợ mới. Ngài là chính chân lý sẽ luôn ở với các con. Các con hãy ở trong thành cho đến khi được mặc lấy sức mạnh từ trời cao”. Tất cả những điều này đã được thực hiện trong ngày hôm nay, ngày lễ Hiện xuống, ngày các môn đệ được đầy tràn Chúa Thánh Thần.
Các tín hữu sơ khai cũng đã xác tín Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Thực vậy, thánh Phaolô đã nhắn nhủ: “Tất cả những ai được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn sẽ là con Thiên Chúa. Ngài đã ban Thánh Thần xuống trong tâm hồn chúng ta.
Thánh Luca trong sách Công vụ Tông đồ kể lại câu chuyện hai vợ chồng Anania và Saphira bán ruộng, đã đồng tình xén bớt một phần tiền rồi mới đem nộp cho thánh Phêrô. Và thánh Phêrô đã nói với họ: “Hỡi Anania sao ma quỉ đã cám dỗ lòng ngươi dối trá Chúa Thánh Thần mà giữ lại một phần tiền. Làm như thế, ngươi không chỉ lừa gạt người ta mà còn lừa gạt cả Thiên Chúa nữa”. Còn thánh Gioan thì xác quyết: “Trên trời có Ba Đấng làm chứng, đó là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Bấy nhiêu mà thôi cũng đã đủ để chúng ta xác tín và tuyên xưng: “Chúa Thánh Thần chính là Thiên Chúa Ngôi thứ Ba, Đấng chúng ta phải tôn thờ.
Trong mạch sống Giáo Hội, tác động của Chúa Thánh Thần thật vô cùng quan trọng cho Giáo hội cũng như cho mỗi người chúng ta. Không những cần cho các thừa tác viên của Giáo hội để chu toàn phận sự mà còn cần cho mọi người để sống đức tin và bác ái. Mọi cố gắng của Giáo hội và của mỗi người đều cần có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, nếu không sẽ trở nên lố bịch và vô vọng, như Đức Thượng phụ Athênagôrat, Giáo chủ Contantinốp đã nói: “Nếu cuộc sống thiếu vắng Chúa Thánh Thần thì Thiên Chúa sẽ nghìn trùng xa cách. Đức Kitô chỉ là một nhân vật quá khứ. Tin Mừng chỉ là một mớ chữ không hồn. Giáo hội khác nào một cơ cấu cứng nhắc, biến quyền bính thành thống trị điêu ngoa, và giảng dạy chỉ là tuyên truyền láo khoét, việc thờ phượng chỉ là phù phép, và luân lý sẽ thành xiềng xích vong nô”.
Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng như vậy, thế mà chúng ta thật vô tâm, vô ý thức đến thờ ơ cũng như không biết có Chúa Thánh Thần ở trong lòng mình ngày đêm. Thử hỏi nếu ai có 10 lượng vàng trong túi, có lẽ nào họ thờ ơ đến nỗi để mất số vàng đó khi nào mà họ không hay biết không? Trái lại, phải chăng bất kỳ đi đâu hay làm gì họ cũng sờ tay vô túi coi vàng còn hay không? Và nếu mất rồi, tâm hồn họ bãi hoải, tâm trí rối loạn, buồn phiền, chán nản biết bao! Vậy sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn không có giá trị bằng 10 lượng vàng sao? Thế mà ngày này qua ngày khác chúng ta hầu như chẳng để ý đến một lần. Ý thức sự vô tâm và thiếu sót đó, cũng như hiểu biết được sự quan trọng và cần thiết của Chúa Thánh Thần trong đời sống, từ nay chúng ta hãy năng nhớ đến Chúa Thánh Thần hơn, bằng cách cầu xin Ngài hằng ngày, xin Ngài soi sáng, hướng dẫn và trợ giúp để chúng ta luôn sống tốt đẹp và làm mọi việc đúng thánh ý Chúa.
Lạy Chúa, giờ đây một lần nữa con muốn tuyên xưng tự đáy lòng con: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người cùng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy.

63. Anh em biết Người, vì Người luôn ở trong anh em
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Trước khi về với Chúa Cha, và trong quyền năng của Đấng Phục Sinh, Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ Thần Khí của Người, ‘Người thổi hơi vào các ông và bảo: “anh em hãy nhận lấy Thánh Thần!”; vậy thì Thánh Thần là ai mới được?
Phúc âm ghi lại hai từ vựng Đức Giêsu dùng để chỉ nhân vật này: ‘Thần Khí’ (Divine Spirit) có nguồn gốc Cựu Ước, và ‘Đấng Bảo Trợ’ (Paraclet) một danh xưng hoàn toàn mới.
Trong Cựu Ước thần khí Chúa có nghĩa là ‘sức mạnh của Đức Chúa’, tức đơn thuần là một thuộc tính của Thiên Chúa. Trong ngôn ngữ Tân Ước của Đức Giêsu, Thần Khí là một nhân vật biệt lập: Thánh Thần (Holy Spirit) xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con. Và còn hơn thế nữa, khi chuyển từ Cựu Ước qua Tân ước, chính nội dung của thuộc tính ‘sức mạnh’ cũng đã bị thay đổi hầu như hoàn toàn: từ sức mạnh của quyền uy biến thành sức mạnh của lòng thương xót, từ sức mạnh của phán quyết xét xử trở thành sức mạnh của cứu độ thứ tha. Chính vì lẽ đó mà một danh xưng mới cần được chế tác để biểu thị nhân vật này đó là: ‘Đấng Bảo Trợ’.
Đương nhiên là hiểu được nội dung của từ vựng mới này (nguyên ngữ Hy Lạp là parakletos) không phải chuyện đơn giản; đây đã từng là điều gây tranh cãi giữa các nhà chú giải và dịch thuật Thánh Kinh. Tác giả Gio-an đã sử dụng từ vựng này cả trong cuốn Phúc âm thứ tư lẫn trong lá thư thứ nhất của ngài (xem Ga 14:16.26, 15:26,16:7, 18:36; và 1 Ga 2:1). Danh xưng này được áp dụng cho chính Đức Giêsu trước hết, và cho nhân vật sẽ được Người phái đến sau này: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một ‘Parakletos’ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14:16). Parakletos có thể hiểu là người bênh vực, là trạng sư, là cố vấn, là người an ủi đỡ nâng, là người đứng về phe kẻ tin trước tòa án tối cáo để khỏi bị kết án… Trong 1 Ga 2:1 chính Đức Giêsu được gọi bằng danh xứng Parakletos: “Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha; đó là đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính”. Do đó, Thánh Thần chỉ là ‘Đấng Bảo Trợ khác’ (Allon Parakleton) được phái đến sau khi Đức Giêsu trở về nhà Cha.
Thánh Thần chính là: ‘khí lực cứu độ và thứ tha của Đức Kitô Giêsu’. Hiểu biết Thánh Thần trong nội dung đó quả là điều tối quan trọng. Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu, suốt cuộc sống và nhất là qua cái chết thập giá của Người, chỉ là biệu hiện và thực thi lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa là Cha; do đó chỉ trong Thần Khí, Kitô hữu mới thật sự thấu hiểu được một Thiên Chúa từ nhân, như Đức Giêsu muốn mạc khải cho biết: “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều” (Ga 14:26). Sau ngày Đức Giêsu về trời, điều kiện tối cần để trở thành môn đệ chính là nhận lãnh Đấng Bảo Trợ này, “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”; về điều này Đức Giêsu khảng định cách thẳng thắn: “Thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14:17). Như vậy, Thánh Thần không phải là một nhân vật xa lạ gì đối với các tín hữu: Người hòa nhập vào niềm tin của mỗi Kitô hữu đặt nơi Đức Giêsu – Parakletos. Thánh Phao-lô đã hiểu và diễn tả Thánh Thần như thế trong tất cả các thư của ngài (đặc biệt xem Rm 8:15 và Gl 4:6).
Đức Giêsu trước khi ra đi để về với Cha, đã hứa ban Đấng Bảo Trợ của Người cho các môn đệ; sau khi sống lại từ cõi chết Người đã thổi hơi Thánh Thần trên môn đệ; trong ngày lễ Ngũ Tuần, Parakletos – Thánh Thần đã bốc cháy dữ dội trên các tông đồ và mọi kẻ tin (với tâm điểm hiện diện là Đức Maria); và thế là niềm tin vào Giêsu – Paracletos bắt đầu bùng lên trên khắp mặt đất. Kể từ ngày đó, Hội thánh trở thành một tập thể những người được Thánh Thần tác động, để có thể tuyên xưng và loan truyền cho mọi người, mọi thế hệ biết: “Giêsu Kitô là Cứu Chúa”, là Thiên Chúa – Đấng từ nhân.
Rồi cũng trong tác động của cùng một Thánh Thần này, mà Đức Maria – đệ nhất tín hữu đã được các thế hệ Kitô hữu sau này cầu khẩn dưới danh xưng ‘trạng sư’ (advocata nostra); tước hiệu này quả xác đáng lắm thay! Nhưng không chỉ Đức Maria, mà toàn thể Hội Thánh và mỗi Kitô hữu chúng ta, đặc biệt các linh mục của Đức Kitô trong Thần Khí, cũng phải trở thành người bảo trợ – trạng sư (parakletos – advocatus) cho những người nghèo khổ và tội lỗi nhất, để minh chứng cách cụ thể rằng Thánh Thần Chúa vẫn còn tiếp tục hiện diện cách sinh động giữa lòng nhân thế. Don Bosco đã từng là như thế đối với các thanh thiếu niên nghèo và bị bỏ rơi; do đó ngài đòi các tu sĩ Sa-lê-diêng của mình chính xác điều này: ‘trở thành dấu chỉ và người mang tình yêu của Thiên Chúa đến cho các thanh thiếu niên’. Cũng vậy, rất nhiều vị thánh khác như cha sở họ Ars – thánh Jean Marie Vianney, hay Mẹ Tê-rê-xa Kơn-ka-ta đã đối sử với các tội nhân đớn hèn và những kẻ cùng khổ, thông qua việc trao ban bí tích giải tội và các việc bác ái phục vụ. Chính qua việc thể hiện mình là ‘parakletos’ mà chúng ta có thể đo lường được đức tin của mình và sức sống Thánh Thần trong ta!
Lạy Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, xin hãy ở lại trong con bằng sức mạnh yêu thương mà chính Người đã nhận được từ Đức Kitô Giêsu; xin Người nối kết con với Đức Giêsu Thập Giá, để con có thể đón nhận cách trọn vẹn sự bảo trợ thần linh của Người. Trong và nhờ sự dẫn dắt của Mẹ Maria, xin hãy biến đổi con, và mọi phẩm trật trong Hội Thánh Chúa, được trở thành các tác nhân mang lại niềm hy vọng và cậy trông cho hết thảy mọi người, đặc biệt những ai tội lỗi, yếu đuối và nghèo hèn nhất… trong tác động mãnh liệt của Người là Thánh Thần bảo trợ và là Đấng ủi an. Amen.

64. Đổi mới
Cách đây 50 ngày, chúng ta đã mừng lễ Chúa Giêsu Phục sinh và Chúa nhật trước, lễ Chúa Giêsu lên trời. Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống và cũng là lễ kết thúc mùa Phục sinh.
Chính hôm nay Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Hôm nay Chúa Giêsu Phục sinh thực hiện lời hứa và ban Thánh Thần cho chúng ta. Việc Thánh Thần đến vào ngày lễ Ngũ tuần là dấu chỉ Đức Kitô được tôn vinh, Ngài được ngồi bên hữu Chúa Cha, được đặt làm “Chúa”. Chúa Thánh Thần đã được hứa ban, Người tới, Người hiện diện đó và Người hoạt động để thực hiện một cuộc đổi mới, tạo dựng một nhân loại mới. Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cùng khám phá lại hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi các tông đồ, về sự hiện diện và hoạt động của Ngài nơi mỗi người chúng ta để rồi chúng ta biết sống theo sự hướng dẫn của Ngài.
Thời Cựu ước ngôn sứ Edêkien đã tiên báo là Thần khí sẽ đến và ban cho con người một tâm hồn mới, một trái tim mới.
Thật vậy, trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu cũng đã nhắc lại lời hứa đó và báo trước là Chúa Thánh Thần sẽ đến trong lòng các tín hữu để soi sáng họ, nhắc nhở họ những lời của Thiên Chúa, và thanh tẩy họ bằng cách tha thứ các tội lỗi.
Bài trích sách Công vụ Tông đồ thuật lại. Vào ngày lễ Ngũ tuần đang khi các tông đồ họp nhau cầu nguyện thì Thánh Thần đến như một cơn gió, bất ngờ và không thể cưỡng lại. Thánh Thần phủ trên cả nhóm tông đồ đang tụ họp nhưng cũng được ban phát cho từng người dưới hình lưỡi lửa.
Thánh Thần đã thực hiện một cuộc biến đổi ngoạn mục nơi các tông đồ: từ những người nhút nhát, sợ sệt, chậm hiểu họ đã được biến đổi thành những người can đảm, xác tín và dấn thân vào công cuộc rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại: Vào chiều ngày Phục sinh Đức Giêsu đã hiện ra, thổi hơi trên các tông đồ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Hình ảnh “thổi hơi” gợi lại tác động của Giavê Thiên Chúa, lúc tạo dựng đã thổi hơi trên Ađam để ban sự sống. Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy sự sống của Thiên Chúa. Vì Thánh Thần là Thần khí, là hơi thở của Thiên Chúa.
Sự sống mới mà hôm nay Đức Giêsu trao ban cho các tông đồ cũng là sự sống bởi Thánh Thần. Nhưng đây là Thánh Thần của Đấng Phục sinh, Thánh Thần của Đấng đã chiến thắng tử thần, và vì thế, sự sống đó chính là sự sống đời đời. Chính Thánh Thần của Đức Giêsu Phục sinh đang thực hiện một cuộc tạo dựng mới, tạo dựng một nhân loại mới.
Sau khi đã được giải thoát khỏi vòng nô lệ của tội lỗi và sự chết, nhân loại mới này đã đón nhận được sự sống mới, sự sống đời đời.
Sự sống mới này, ngày nay cũng được tiếp tục trao ban cho các Kitô hữu là những người tin vào Chúa Kitô.
Chúa Thánh Thần là hơi thở của Chúa Giêsu Phục sinh, hơi thở ấy Chúa Giêsu Phục sinh chuyển thông cho Giáo hội để Giáo hội sống chính đời sống của Người, đời sống làm con cái Thiên Chúa. Qua Bí tích Rửa tội các Kitô hữu nhận lãnh Chúa Thánh Thần, được tái sinh trong đời sống mới.
Chúa Thánh Thần tẩy rửa mỗi tâm hồn khỏi tội lỗi và làm cho trở nên chi thể của Chúa Kitô và là con cái của Chúa Cha, thánh Gioan nhấn mạnh tới vai trò của Chúa Thánh Thần trong mỗi tâm hồn. Sau khi ban Thánh Thần rồi Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Các con tha tội cho ai, tội người ấy được tha”. Ơn tha tội phát xuất từ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần mà Giáo hội thông ban qua Bí tích Rửa tội và Hòa giải. Chính qua hai bí tích ấy mà mỗi người được giao hòa với Thiên Chúa được trở thành một tạo vật mới để sống một đời sống mới.
Chúng ta còn có thể thấy rõ tác động của Chúa Thánh Thần nơi các Kitô hữu là sự hiệp nhất. Ngày xưa, tại tháp Babel tội lỗi chia rẽ loài người làm cho mỗi người nói một thứ tiếng. Nay Chúa Thánh Thần thiết lập lại sự hiệp nhất, Thánh Thần mà các Kitô hữu lãnh nhận qua Bí tích Rửa tội là Thánh Thần đem lại bình an: bình an của ơn tha thứ và hòa giải. Thật vậy, hiệu quả đầu tiên của Chúa Thánh Thần chính là làm cho mọi người tuy khác biệt về màu da chủng tộc, ngôn ngữ mà vẫn có thể hiểu nhau và hiệp nhất thành một cộng đoàn.
Lễ Hiện xuống mà chúng ta cử hành hàng năm không phải là một kỷ niệm trống rỗng: đây là một ngày lễ đổi mới chúng ta trong quyền năng và hoạt động của Thánh Thần, nếu chúng ta đón nhận Ngài. Những gì Chúa Thánh Thần đã làm nơi các tông đồ xưa kia, bây giờ Ngài cũng thực hiện nơi chúng ta.
Hôm nay khi tưởng niệm lại việc Đức Kitô Phục sinh đã ban Thánh Thần cho các tông đồ, chúng ta hãy ý thức là chúng ta cũng đã được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần nhờ Bí tích Thanh tẩy và Thêm sức. Nhờ ơn Thánh Thần, chúng ta chẳng những có sự sống tự nhiên, mà nhất là sự sống siêu nhiên tức là địa vị làm con cái Thiên Chúa như Đức Kitô vậy. Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Cũng như lý trí soi dẫn cuộc đời bình thường của con người thế nào, thì chúng ta cũng xin Chúa Thánh Thần, là khôn ngoan, là sức mạnh và là tình yêu của Thiên Chúa soi sáng, sưởi ấm và củng cố tâm hồn chúng ta.
Rồi trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cố gắng sống cho đẹp lòng Chúa Thánh Thần. Và vì Chúa Thánh Thần là Thần chân lý, là Thần tình yêu, nên sự cố chấp, sự gian dối, sự chia rẽ là những điều trực tiếp phản nghịch với Chúa Thánh Thần. Trái lại, nếu chúng ta cố gắng sống khiêm nhường, chân thành và bác ái thì Chúa Thánh Thần sẽ không ngừng ở với ta. Người sẽ soi sáng chúng ta, dẫn dắt chúng ta dần dần tiến sâu vào vương quốc của Thiên Chúa, là vương quốc của tình thương và bình an, bởi vì hoa trái của Chúa Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an. Nói cách khác, Nước Thiên Chúa là đời sống trong Chúa Thánh Thần với những hậu quả cụ thể là sự công chính, bình an và hoan lạc trong mỗi tâm hồn tín hữu cũng như trong các tương quan với nhau.
Một trong những dấu hiệu cụ thể và rõ ràng nhất về sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần là tinh thần bác ái và phục vụ cộng đoàn. Trong bài đọc thứ hai thánh Phaolô đã ví Giáo hội như là thân mình của Đức Kitô trong đó các chi thể yêu mến nhau và phục vụ lẫn nhau. Nếu chúng ta cố gắng thể hiện ra trong đời sống tinh thần yêu thương, tinh thần phục vụ, thì chúng ta có thể tin chắc là chúng ta đang để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta. Đó là dấu hiệu chúng ta là con cái của Thiên Chúa.

65. Hiện diện
Trước khi về trời, nhiều lần Chúa Giêsu đã nói và đã hứa với các môn đệ: Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần xuống. Lời hứa đó đã được hoàn tất trong ngày lễ Ngũ Tuần, tức là lễ ngày thứ 50 tính từ lễ Vượt Qua của người Do Thái, và từ khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, lễ này được gọi là lễ Hiện Xuống. Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa và biến đổi các ông thành những con người mới. Như vậy, Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá là điều kiện để ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội. Và khi được vinh quang bên hữu Chúa Cha. Chúa Giêsu đã sai Chúa Thánh Thần xuống và ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội như linh hồn của Giáo Hội.
Đối với Giáo Hội nói riêng và đối với toàn thể nhân loại nói chung, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống thật là quan trọng, vì đánh dấu một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần, kỷ nguyên áp dụng ơn cứu độ, thời kỳ cuối cùng, thời kỳ cánh chung, trước khi Chúa Kitô trở lại để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Nhưng tại sao chúng ta có thể nói hay dám nói Chúa Thánh Thần được ví như linh hồn của Giáo Hội? Bởi vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, cũng như linh hồn quan trọng đối với thân xác thế nào thì Chúa Thánh Thần cũng quan trọng đối với Giáo Hội như vậy. Bởi vì Giáo Hội được ví như một thân thể nhiệm mầu, mà Chúa Kitô là đầu và tất cả chúng ta là thân mình. Vậy nếu đã là một nhiệm thể thì cần phải có một linh hồn, linh hồn của Giáo Hội là Chúa Thánh Thần.
Thứ hai, cũng như linh hồn ở khắp thân thể và ở trong từng phần thân thể, thì Chúa Thánh Thần cũng ở trong toàn thể Giáo Hội và trong từng người. Linh hồn là nguyên lý, là căn bản của sự sống tự nhiên của thân thể, không có linh hồn thì chúng ta không sống được, không có linh hồn thì thân thể chúng ta là cái xác chết. Chúa Thánh Thần cũng là nguyên lý căn bản siêu nhiên nơi đầu là Chúa Kitô và nơi các chi thể là chúng ta, Ngài trực tiếp ban ơn thánh cho từng thành phần để sinh hoa quả là những việc lành.
Thứ ba, cũng như nơi con người, linh hồn hoạt động qua trí khôn, ý chí, tình cảm. Cũng vậy, Chúa Thánh Thần hoạt động qua những khả năng siêu nhiên là bảy ơn Chúa Thánh Thần, qua ba nhân đức đối thần là tin, cậy, mến. Chúa Thánh Thần gìn giữ, thánh hóa, biến đổi từng tâm hồn. Chẳng hạn: 12 tông đồ trước kia nhút nhát, sợ hãi, Chúa Thánh Thần đã làm cho họ mạnh bạo, can đảm. Rồi suốt hai mươi thế kỷ qua, biết bao gương anh dũng của các thánh đồng trinh, hiển tu, tử đạo… và hôm nay cả tỷ con cái Chúa đang được Chúa Thánh Thần thôi thúc bước mau về trời, Ngài hướng dẫn, trợ giúp chúng ta trên đường về trời.
Thứ tư, cũng như một linh hồn hiện diện nơi mỗi người làm cho người đó thành một người riêng biệt, khác với những người khác, thì Chúa Thánh Thần cũng hiện diện nơi mỗi tín hữu, để làm thành những tín hữu khác nhau: Chúa Giêsu, Đức Maria, các thánh, kẻ lành… và ơn Chúa Thánh Thần khác nhau, nên có những loại thánh khác nhau, rồi lại có những ơn sủng khác nhau, tùy theo chức bậc: người truyền giáo, người làm cha mẹ, người đi tu v.v…
Ngoài ra, ngày lễ Hiện xuống, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống dưới hình lưỡi lửa. Hình ảnh này thật đầy ý nghĩa: Giáo Hội của Chúa được ví như một đống củi, được lửa của Chúa Thánh Thần đốt cháy lên và sưởi ấm trần gian lạnh lẽo. Không có Chúa Thánh Thần, Giáo Hội chỉ là một tổ chức trần gian như bao hội khác trên đời này, nhưng suốt hai mươi thế kỷ qua, Chúa Thánh Thần luôn ở giữa Giáo Hội, hướng dẫn mọi hoạt động của Giáo Hội và Ngài vẫn tiếp tục hoạt động mãi cho đến tận thế.
Mỗi người chúng ta đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần ngày chúng ta chịu phép Rửa tội, và nhất là khi lãnh nhận phép Thêm sức, Ngài luôn ở cùng chúng ta, hướng dẫn và trợ giúp chúng ta. Vậy chúng ta chớ dập tắt Chúa Thánh Thần. Nếu dập tắt Chúa Thánh Thần thì chẳng khác gì chiếc tàu bỏ bánh lái, đoàn xe lửa bỏ đầu tàu, con người bỏ trái tim. Chúng ta có thể dập tắt Chúa Thánh Thần thế nào? Nhiều cách lắm, chẳng hạn: chúng ta không sử dụng tối đa những ân huệ Ngài ban, những khả năng, những tiền bạc Chúa ban để chúng ta làm lợi ích cho linh hồn, cho gia đình, chúng ta sử dụng vào những việc có hại cho mình và cho người khác. Chẳng hạn: Chúa cho chúng ta cơ hội để phục vụ Chúa và Giáo Hội, nhưng chúng ta không lợi dụng những cơ hội đó, bỏ dịp tốt qua đi đó là dập tắt Chúa Thánh Thần.
Đàng khác, Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ. Phù trợ chứ không phải là làm thay chúng ta. Chúng ta phải làm hết sức mình, hết khả năng mình, phải học hỏi, phải nghiên cứu, phải thực hiện hết sức của mình, Chúa Thánh Thần sẽ phù trợ thiện chí của chúng ta. Ngài không bao cấp làm thay chúng ta. Nếu chúng ta không cố gắng đổi mới chính mình, đổi mới môi trường của mình, nếu chỉ cậy trông suông, khoán trắng cho Chúa Thánh Thần, thì Chúa Thánh Thần sẽ không làm thay. Bởi vì trách nhiệm ấy thuộc về chúng ta, những người Chúa đã trao cho những khả năng để có thể làm được, không nhiều thì ít, không việc lớn thì việc nhỏ, ai cũng có khả năng làm việc tốt.
Xin Chúa Thánh Thần khơi dậy trong chúng ta những nguồn sinh lực mới, để chúng ta biết quyết tâm đổi mới chính mình, biết quyết tâm góp phần xây dựng thời đại chúng ta. Sự quyết tâm này chúng ta sẽ gửi gắm nơi Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ ban phép lành cho chúng ta, Ngài sẽ phù trợ cho chúng ta thực hiện. Mặc dầu hôm nay chúng ta không thấy kết quả nhưng hãy kiên trì nhẫn nại như những người gieo giống, mùa màng không thấy ngay, nhưng mùa màng nếu làm đúng, làm với cố gắng, với ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần, chắc chắn sẽ thành công và hiệu quả sẽ phong phú.

66. Hiệp nhất
Ai ai cũng thấy đoàn kết hiệp nhất là cần thiết, quan trọng và hữu ích:
– Ca dao có câu “Một cây làm chẳng nên non…”
– Và còn một câu khác: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.
– Còn sách Công Vụ thì kể rằng sở dĩ thuở ban đầu Giáo hội phát triển rộng là nhờ các tín hữu rất đoàn kết yêu thương nhau, người lương thấy cuộc sống hiệp nhất yêu thương ấy qúa tốt đẹp và đầm ấm nên thích và xin gia nhập Giáo hội.
Nhưng làm sao để có đoàn kết và hiệp nhất?
– Theo thiển ý, muốn có đoàn kết hiệp nhất thì trước hết phải biết tôn trọng sự dị biệt. Nhiều khi những người sống chung trong tập thể cứ hục hặc nhau hay buồn phiền nhau chỉ vì người này khó chịu vì người kia có tính tình khác mình, có cách suy nghĩ khác mình, có sở thích khác mình… Thấy người ta khác mình là mình bực bội, mình phê phán, mình ghét bỏ. Thực ra “bá nhân bá tánh”. Và khi Thiên Chúa dựng nên người ta, Người cũng dựng nên mỗi người có nét riêng của người đó. Nói theo từ ngữ triết học thì mỗi người là một hữu thể độc đáo. Ta phải tôn trọng sự dị biệt nơi người khác. Đừng ai bắt ai phải có cùng một cá tính, một cách suy nghĩ, một cách làm việc, một sở thích giống y như mình. Thấy người ta khác mình nhưng mình vẫn tôn trọng người ta, đó là cơ sở thứ nhất tạo sự đoàn kết hiệp nhất.
– Điều kiện thứ hai, khi ta đã tôn trọng sự dị biệt nơi người khác thì ta phải biết tương nhượng, nghĩa là nhường nhịn nhau. Vì bá nhân bá tánh nên có nhiều lúc trong cuộc sống chung, ý của người này và người kia khác nhau. Nếu hai bên cứ khăng khăng đòi người kia phải theo ý mình thì đương nhiên sẽ dẫn tới cãi cọ hoặc bất mãn không hợp tác. Cho nên mỗi bên phải nhường một chút. Quyết định chung là kết quả của sự dung hòa ý kiến của hai bên.
– Điều kiện thứ ba, nhưng là điều kiện quan trọng nhất, đó là mọi người đều ý thức rằng mình có chung một nguồn gốc, một tinh thần. Cũng như anh chị em trong gia đình dễ tương nhượng nhau, dễ tha thứ nhau, dễ đoàn kết hiệp nhất với nhau và nhờ mọi người ý thức mình là con của cùng một cha mẹ sống chung trong một mái nhà. Thì cũng thế chhúng ta ý thức rằng ai ai dù thế nào đi nữa thì cũng là con người, cũng là đồng bào với nhau thì sẽ dễ đoàn kết nhau hơn. Đối với chúng ta những người Kitô hữu, nếu chúng ta ý thức thêm rằng chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu là con Thiên Chúa thì chúng ta cũng dễ yêu thương nhường nhịn và đoàn kết với nhau hơn. Nhưng ai sẽ nhắc chúng ta ý thức điều đó và ai sẽ giúp chúng ta thực hiện đoàn kết hiệp nhất theo ý thức đó? Thưa Chúa Thánh Thần.
Hôm nay lễ Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy tha thiết cầu xin Ngài giúp chúng ta.
– Trước hết là biết tôn trọng sự dị biệt nơi những người sống chung với ta.
– Thứ hai xin Ngài giúp mỗi người chúng ta thêm khiêm tốn để có thể tương nhượng người khác khi có bất đồng.
– Và nhất là xin cho mọi người ý thức mình đều là con Chúa, đều là môn đệ Chúa cho nên đều phải yêu thương nhau.

67. Tái tạo
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện các môn đệ Chúa Giêsu tự nhốt mình trong một căn phòng đóng kín các cửa, lòng đầy sợ sệt. Nhưng sau đó Chúa Giêsu đến với họ và sai họ ra đi, khi đó lòng họ vui mừng và bình an..
Chuyện xảy ra với các môn đệ ngày xưa cũng là chuyện thường xuyên xảy ra cho chúng ta ngày nay. Vậy chúng ta hãy xem lại từng bước câu chuyện này.
Bước thứ nhất: các môn đệ nhốt mình trong phòng kín. Đây là tâm lý co cụm, khép kín. Một tâm lý thường xảy ra. Chắc nhiều người đã biết chuyện Lan và Điệp. Hai người yêu nhau tha thiết. Nhưng Điệp bị gài bẫy nên bị bó buộc phải cưới một người khác. Lan buồn quá. Rồi Lan làm gì? Lan co cụm lại bằng cách đi vào trốn trong chùa. Lan không muốn gặp gỡ ai cả nên trong chùa có một chiếc chuông để khi ai muốn gặp người nào trong chùa thì kéo chuông. Lan cắt đứt luôn sợi dây chuông ấy, nghĩa là cắt đứt hẳn mọi liên hệ với mọi người khác.
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta vì nhiều lý do nên cũng rơi vào tâm lý co cụm khép kín như thế. Lý do của Lan là thất tình. Có người khác co cụm vì thất vọng. Có người khác nữa vì mặc cảm tội lỗi. Còn lý do của các tông đồ trong tường thuật này là sợ: các ông coi ai cũng là kẻ thù có thể hại mình bất cứ lúc nào nên co rút vào trong phòng và đóng kín các cửa lại. Nhưng ta nên biết con người là một hữu thể mang tính xã hội. Làm người là phải sống với những người khác. Càng sống với chừng nào thì càng đúng là người chừng nấy. Khi ai đó co cụm lại, rút vào vỏ sò thì kể như người ấy không còn là người nữa, người ấy như đã chết.
Ta hãy trở lại câu chuyện Lan và Điệp. Vì Lan đã cắt đứt dây chuông nên Điệp không đến với Lan được. Hai người không bao giờ gặp nhau nữa và dần dần chết héo chết mòn. Chuyện tình của họ đi vào ngõ cụt không lối thoát. Còn câu chuyện trong bài Tin Mừng này thì khác hẳn. Các tông đồ đóng kín cửa không muốn gặp ai, nhưng Chúa Giêsu thì chủ động tìm gặp họ. Họ không có khả năng đến với Chúa thì Chúa chủ động đến với họ. Như thế là Ngài phá vỡ một chiều hướng của sự co cụm. Nói cách khác, Chúa Giêsu mở cho họ một cánh cửa, cánh cửa mở ra phía Chúa. Ngài còn mở cho họ cánh cửa thứ hai hướng về phía tha nhân bằng cách sai họ đi, đi ra khỏi thế co cụm của mình để đến với người khác. Con người là một hữu thể có tính xã hội, làm người là phải sống với người khác. Khi con người cắt đứt mọi liên hệ thì người đó kể như chết. Nay Chúa Giêsu đến với các tông đồ và còn sai họ đến với người khác tức là Ngài nối lại những mối dây liên hệ, tức là Ngài làm cho họ sống lại. Nói đúng hơn, Chúa Giêsu đã tác tạo các môn đệ.
Nhờ đâu mà Chúa Giêsu tái tạo được các môn đệ như thế. Thưa nhờ Chúa Thánh Thần. Bài Tin Mừng này có một chi tiết hàm chứa ý nghĩa rất sâu. Đó là Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ. Cũng như ngày xưa Ađam ban đầu chỉ là một tượng bằng bùn đất, nhưng ngay khi Thiên Chúa thổi hơi vào thì tượng bùn đất ấy trở thành người. Thì ngày nay cũng thế, Chúa Giêsu thổi hơi vào các tông đồ. Làn hơi ấy chính là Chúa Thánh Thần, nhờ Chúa Thánh Thần mà các môn đệ đã được tái tạo lại thành những con người mới.
Những con người mới này có những gì đặc biệt: thưa cái đặc biệt thứ nhất là niềm vui. Bài Tin Mừng nói “các tông đồ vui mừng vì thấy Chúa”; cái đặc biệt thứ hai là bình an: không còn sợ gì nữa cả nhưng lòng rất thanh thản. Bài Tin Mừng viết “Chúa Giêsu đứng giữa các ông và nói: bình an cho chúng con”; và cái đặc biệt thứ ba là mang ơn tha thứ đến cho những người khác, bài Tin Mừng nói “Chúng con hãy nhận lấy Thánh Thần. Chúng con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha”.
Nhiều khi chúng ta rơi vào tâm trạng sợ sệt, bất an, mặc cảm tội lỗi. Khi đó chúng ta co cụm lại, rút lui vào nỗi cô đơn của mình và không muốn gặp ai cả. Tình trạng này thật là buồn chán. Phải sống trong tình trạng này thì chẳng khác nào như đã chết. Do đó cần phải có ai đó giúp chúng ta thoát khỏi tâm trạng bất thường ấy. Người ấy là ai? Thưa chính là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là Đấng tái tạo những gì suy sụp và hư mất. Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng kính Chúa Thánh Thần. Nếu có gì đang khiến chúng ta buồn sầu co cụm khép kín, chúng ta hãy bày tỏ với Ngài và xin Ngài giải thoát chúng ta, tái tạo chúng ta thành con người mới, an bình, vui tươi, vui sống với mọi người.

68. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển
CHÚA THÁNH THẦN – QUÀ TẶNG CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT
Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4, 16). Thật vậy, từ lòng dạ thương xót của Thiên Chúa, Người yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người cho nhân loại. Đến lượt Đức Giêsu, qua việc nhập thể và nhập thế, cũng như những lời rao giảng và hành động của Ngài, Ngài đã mặc khải và diễn tả xuất sắc lòng thương xót của Thiên Chúa cho con người. Đường thương xót đó không dừng lại cũng như kết thúc qua việc Đức Giêsu về trời, mà còn tiếp diễn và tồn tại muôn đời. Bởi lẽ, Đức Giêsu đã chuyển trao lòng thương xót ấy nơi Chúa Thánh Thần.
Vì thế, Chúa Thánh Thần chính là quà tặng của lòng thương xót mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Nên từ ngày Người hiện xuống, lòng thương thương xót của Thiên Chúa như dòng sông không ngừng chảy đến với mọi người qua các chứng nhân dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
1. Chúa Thánh Thần công khai hóa Giáo Hội bằng lòng xót thương
Khi lần dở các trang Tin Mừng, chúng ta thấy trong suốt hành trình tại thế của Đức Giêsu, Ngài đã ấp ủ, cưu mang công cuộc thiết lập Giáo Hội qua việc dạy dỗ, hướng dẫn các Tông đồ cũng như dân chúng đi trong đường lối thương xót của Thiên Chúa để được cứu độ. Tuy nhiên, con đường đó đã trở nên xa lạ đối với các ông và dân chúng khi họ không hiểu được tâm tư của Thầy Giêsu, bởi vì mục đích của họ không nằm trong chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa, mà luôn bám vào những suy tính của trần gian.
Nhưng, đến ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần chính thức công khai hóa Giáo Hội qua ơn ban bình an và lửa mến tràn ngập nơi tâm hồn các Tông đồ, qua đó, các ông đã được biến đổi từ một con người ích kỷ, vụ lợi, kiêu ngạo, sợ hãi, nhát đảm, ham sống sợ chết…, trở nên chứng nhân của lòng thương xót.
Điều này đã được các Tông đồ chứng minh bằng thái độ can đảm, hân hoan, sẵn sàng mở tung cánh cửa đã đóng kín, để ra đi loan báo về lòng thương xót của Thiên Chúa ngang qua Đấng chịu đóng đinh cho mọi người, bất chấp mọi khó nguy, liên lụy và ngay cả cái chết.
Khi nói về mục đích của cuộc đời, thánh Phaolô đã diễn tả: “Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô” (Pl 3,8); “Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21)”; nên “Không có gì tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô”; và thánh Phêrô cũng biểu lộ tâm tình hân hoan khi: “được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5, 41).
Vì thế, các Tông đồ luôn coi việc loan báo Tin Mừng là một điều cấp thiết đến độ không thể không thi hành: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
2. Hoa trái lòng thương xót của Chúa Thánh Thần được triển nở trong đời sống Giáo Hội
Như vậy, kể từ ngày Giáo Hội công khai hóa, các Tông đồ đã cảm thấu và đón nhận lòng xót thương của Thiên Chúa thật dồi dào, nên tâm hồn các ông tràn đầy bình an và lửa sốt mến, khiến các ông đã không giữ lại cho riêng mình, nhưng đã chuyển trao cho mọi người, nhất là những người nghèo khó, bất hạnh, bị áp bức, bất công…
Cũng thế, trải qua dòng thời gian hơn 2.000 năm qua, Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng hiện diện và hoạt động cũng như làm cho kho tàng lòng thương xót của Thiên Chúa luôn được tỏa sáng như ngọn hải đăng trên con thuyền của Giáo Hội.
Những dấu ấn ghi đậm sự can thiệp của Chúa Thánh Thần như: Giáo Hội luôn gặp nhiều giông tố, bão bùng, nguy khốn; biết bao kẻ đe dọa, chống phá và muốn hủy diệt Giáo Hội ngay trong trứng nước, từ thời sơ khai và cho đến tận hôm nay! Nhưng Giáo Hội Chúa vẫn hiên ngang, đứng vững, lớn mạnh không ngừng và tồn tại muôn đời.
Sự can thiệp của Chúa Thánh Thần còn được thể hiện cụ thể qua việc biến đổi tâm hồn con người. Vì thế, biết bao người nguội lạnh, khô khan, cố chấp… Nhưng qua một biến cố hay sự kiện nào đó, họ được khai trí mở lòng, nên đã ngoan ngùy dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, nhất là cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa trên cuộc đời, lập tức họ đã trở nên những người yêu mến Giáo Hội hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn.
Hay có những người “dốt đặc cán mai”; “chân lấm tay bùn”; hoặc thuộc hạng “cùng đinh” trong xã hội, nhưng sau khi được Chúa Thánh Thần đổ đầy lòng xót thương trên cuộc đời họ, họ đã trở thành những người lỗi lạc, hàn lâm, uyên bác đến lạ thường khi nói và làm chứng về Chúa cho anh chị em…!
Lại có những kẻ trước đây thuộc về thế giới ma quỷ. Sẵn sàng làm đồ đệ cho chúng và ra tay tàn ác với anh chị em đồng loại, thậm chí ngược đãi, chống phá Giáo Hội… Nhưng sau khi được Chúa Thánh Thần thánh hóa và xót thương, nay lại trở thành những chứng nhân Tin Mừng ngay giữa lòng xã hội…
Đây chính là hoa trái lòng thương xót của Chúa Thánh Thần.
3. Hãy làm cho hoa trái xót thương của Chúa Thánh Thần triển nở
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, mỗi người được đón nhận Chúa Thánh Thần cách dồi dào và phong phú. Tuy nhiên, ơn thánh của Chúa Thánh Thần không chỉ dừng lại trên cá nhân, mà phải sinh hoa kết trái đến với người khác, để mọi người đều được chung chia niềm vui và hạnh phúc như chúng ta.
Vì thế, mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay, mỗi người hãy suy nghĩ và tự cật vấn bản thân xem: đã bao lần ta thờ ơ, khước từ ơn Chúa đến với mình; biết bao lần ta đã đóng chặt ơn Chúa cho riêng bản thân và đã vô cảm trước tiếng kêu gào thống thiết của người nghèo khổ, đói khát cơ bần nơi xó chợ, bãi rác, ngoài công viên, nơi bến xe, gầm cầu…?
Biết bao lần ta đã lựa chọn sự hời hợt, hình thức, tham lam, ích kỷ, vụ lợi, ghen tương, vu khống, kiêu ngạo, thù hận, thiếu niềm tin, lòng trông cậy và yêu mến Chúa trong đời sống đạo? Biết bao lần ta đã phớt lờ tiếng nói của Lương Tâm, để lựa chọn những hành vi tội lỗi không phù hợp với bản chất Công Giáo và giá trị Tin Mừng?
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy tha thiết xin Chúa Thánh Thần ban ơn bình an và lòng thương xót của Người cho chúng ta. Khi có được sự an bình thư thái và ngụp lặn trong tình thương của Thiên Chúa, mỗi người sẽ làm cho hoa trái của Chúa Thánh Thần được triển nở trong tâm hồn và đời sống của chúng ta ngang qua những lựa chọn đầy chất Kitô của mình.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến để biến đối tâm hồn chúng con cho phù hợp với tư cách người môn đệ của Chúa trong lòng xã hội hôm nay. Amen.

69. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển
CHÚA THÁNH THẦN – TIẾP NỐI CON ĐƯỜNG THƯƠNG XÓT
Tin Mừng Ga 20: 19-23: Chúa Thánh Thần sẽ tiếp nối con đường xót thương ấy qua việc bào chữa, an ủi và trong vai trò khai trí mở lòng.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay tiếp nối tuần trước trong bối cảnh bữa Tiệc Ly và nó nằm trong diễn từ ly biệt giữa Đức Giêsu và các môn đệ.
Trong diễn từ này, Đức Giêsu loan báo cuộc ra đi của Ngài bằng con đường thương xót theo ý Chúa Cha qua cái chết trên thập giá cho các môn đệ. Tuy nhiên, lời loan báo này đã làm cho các ông xao xuyến, hoang mang vì mất đi điểm tựa.
Nhưng, Đức Giêsu, nhân cơ hội này, đã giúp cho các ông hiểu rõ hơn về một cuộc hiện diện khác, cuộc hiện diện thần linh, nhiệm mầu.
Để cho sự hiện diện này được khăng khít, người môn đệ phải đi trên con đường của Thầy đã đi. Phải chung nhịp đập xót thương với Thầy. Chìa khóa để đi vào sự hiệp thông trọn vẹn ấy chính là yêu mến và tuân giữ Lời của Ngài.
Đây là con đường tình yêu của Thầy và trò. Đây cũng là đường thương xót để đến với tha nhân. Chúa Thánh Thần sẽ tiếp nối con đường xót thương ấy qua việc bào chữa, an ủi và trong vai trò khai trí mở lòng, nhằm giúp các ông hiểu tường tận những Lời Đức Giêsu đã dạy, để họ cũng thi hành cùng một hành vi xót thương đến với tha nhân như chính bản thân đã cảm nghiệm.
1. Tuân giữ Lời và thi hành là yêu mến cách trọn vẹn
Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan đã khéo léo trình bày tâm trạng hỗn độn, hoang mang, sợ hãi của các môn đệ khi nghe tin Thầy của họ sắp sửa ra đi để chịu chết. Họ lo sợ bởi tính háo thắng, ham danh, muốn được ưu đãi, trọng thị, mong được hưởng những đặc quyền, đặc lợi theo kiểu trần gian…. những lý tưởng đó sắp bị tan thành mây khói.
Đến đây, chúng ta hiểu thêm một điều nữa, đó là: vì những lựa chọn rất tầm thường đó chỉ đạo tâm tưởng của các môn đệ, nên những điều Thầy của họ giảng cũng như những việc Ngài làm… đã không ăn nhập gì với mục đích cũng như chẳng giúp các ông nhận ra sứ vụ Thiên Sai, đầy thương xót của Đấng Cứu Thế!
Thấu hiểu tâm trạng và diễn biến tâm lý nơi các học trò, nhất là nỗi hãi vì sự liên lụy đến cái chết của mình, nên Đức Giêsu đã trấn an: “Đừng xao xuyến và buồn sầu” (Ga 14,27). Ngay sau đó, Ngài đưa ra một chỉ dẫn để giữa các ông và Ngài có một mối thông hiệp cách chặt chẽ: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy tuân giữ các giới răn của Thầy” (Ga 14,5). Việc tuân giữ và thi hành Lời của Thầy, ấy là thước đo chính xác và cụ thể nhất lòng yêu mến của các ông đối với Ngài. Đồng thời, khi tuân giữ Lời của Thầy, các ông sẽ hướng đích cuộc đời mình dưới cái nhìn sứ vụ. Như thế, giữa trăm chiều thử thách trông gai, và ngay cả cái chết, các ông vẫn vui mừng và sẵn sàng thốt lên: “Không có gì tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô”; và:“Đối với tôi sống là sống cho Đức Kitô và chết là một mối lợi”. Hơn nữa, khi yêu mến và giữ lời của Thầy, họ sẽ được hưởng trọn vẹn lòng thương xót, đến độ không còn gì có thể so sánh bằng, bởi nơi tình yêu ấy, có sự hiện diện và xót thương của cả Ba Ngôi Thiên Chúa: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Chúng Ta sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,23).
2. Chúa Thánh Thần tiếp nối con đường thương xót
Để cuộc đời và sứ vụ của các môn đệ sang một trang mới, nên ngoài việc Đức Giêsu chỉ cho các ông tuân giữ Lời của Ngài, thì việc loan báo về Chúa Thánh Thần trong vai trò là Đấng An Ủi, Bào Chữa… là điều hết sức quan trọng.
Vì thế, Đức Giêsu đã nói với các ông: “Thầy ra đi thì có lợi cho các con. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với các con; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các con”(Ga 16,7).
Khi Chúa Thánh Thần đến, Người sẽ làm cho sự hiện diện của Thầy trò trong trạng thái “cách mặt, nhưng gần lòng”, bởi vì: “Đấng Bào Chữa là Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với các con” (Ga 14,26).
Thật vậy, như đã nói: nhiệm vụ của Chúa Thánh Thần là tiếp nối đường thương xót của Đức Giêsu trong vai trò dạy dỗ và nhắc lại những điều Đức Giêsu đã loan báo lúc tại thế. Khi nhắc cho các ông điều Đức Giêsu đã nói không phải chỉ là ôn lại, nhưng theo cách hiểu của Thánh Kinh là: khám phá ra ý nghĩa lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu dưới ánh sáng của biến cố phục sinh. Qua việc tiên báo này, Đức Giêsu sẽ hiện diện trong Lời của Ngài cách cụ thể qua vai trò Trung Gian của Chúa Thánh Thần. Vì thế, mặc dù ra đi, nhưng lòng lại gần lòng hơn bao giờ hết, và các môn đệ không bao giờ bị cảnh mồ côi đơn chiếc, vì: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (x. Ga 14,18).
Để đảm bảo lời hứa, nhất là giúp cho các môn đệ được can đảm, trung thành đi đến cùng con đường thương xót mà Đức Giêsu muốn các ông tiếp bước trong lòng mến, nên Đức Giêsu hứa ban cho các ông sự bình an riêng của Ngài. Đây là sự bình an đặc biệt, bình an nội tâm, một sự bình an tuyệt hảo mà chỉ Thiên Chúa mới có và mới ban tặng cho chúng ta: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng”(Ga 14,27).
Lời dạy và những ân ban của Đức Giêsu cho các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng là lời mời gọi và nhắc nhớ mỗi người chúng ta trong tư cách là người môn đệ của Đức Giêsu trong Giáo Hội của Ngài.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Sống trong một xã hội đang bị đe dọa đủ thứ, nhất là sự xáo trộn về giá trị đạo đức trong mọi lãnh vực…! Ơn bình an đích thực dường như vắng bóng trong xã hội. Có lẽ con người không còn đủ niềm tin vào thực tại cuộc sống, bởi lẽ, sự “tử tế” gần như là một cái gì đó xa xỉ nếu không muốn nói là người ta không thích nhắc đến, bởi khi nhắc đến, họ sợ cái “bụng” bị đói!
Trong một môi trường “ô nhiễm” do nạn thượng tôn “ông chủ bụng” mà trà đạp lên sự “tử tế” như vậy, nhiều người muốn sống đàng hoàng cũng khó, bởi vì: “Thật thà, thẳng thắn thì thường thua thiệt”; “Gian tham lọc lừa lại lên lương”. Người ta coi: “Chân Lý và chân giò bằng nhau”; “Lương Tâm, lương thực và lương tháng cùng giá trị”!
Từ thực trạng trên, người nghèo trở thành đối tượng nhắm đến cho những nhu cầu bất chính nơi một số “Chủ nhân ông”. Từ đó gây nên sự bất an trong xã hội.
Nguyên nhân chính yếu đó là: họ đã không có lòng thương xót, đã tách Lời Chúa ra khỏi cuộc sống. Quan điểm: “Kính nhi viễn tri”; hay: “Mũ ni che tai” đối với Lời Chúa là điều mà nhiều người trong chúng ta chọn lựa.
Vì thế, họ sợ phải sống theo Lời Chúa dạy. Không dám đối diện với sự thật và lòng xót thương. Khước từ cũng như trối bỏ chân lý, nên không dám sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy ngoan ngùy dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Luôn trung thành tuân giữ và yêu mến Lời Chúa. Đem Lời Chúa vào cuộc sống. Để Lời Chúa trở thành “khuôn vàng thước ngọc”; là “kim chỉ nam”, đem lại sự hợp nhất, yêu thương, tha thứ, biến đổi, nhất là sự bình an. Đây cũng là dấu chỉ của người đang đi trong đường lối thương xót của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến và làm cho tâm hồn chúng con nóng lên ngọn lửa yêu mến Chúa. Amen.

70. Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong lịch sử cứu độ của Dân Chúa, Chúa Thánh Thần đóng vai trò rất quan trọng trong nhiệm cục cứu độ từ khi sáng tạo cho đến ngày tận cùng của nhân loại. Chúa Thánh Thần chính là linh hồn của Giáo Hội. Người chính là Sinh Khí trong thân xác. Sự sống thiêng liêng của con người không thể sống nếu thiếu Sinh Khí là Chúa Thánh Thần.
Khi xuống trần gian, Chúa Giêsu đã mặc khải cách tiệm tiến về Chúa Thánh Thần. Cuối cùng, Ngài đã trao ban Chúa Thánh Thần cho nhân loại thông qua việc thổi hơi trên các Tông đồ. Khi Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các ông, Người đã biến đổi các ông. Ngài ban cho các ông sức mạnh, lòng cam đảm và sự trung thành để làm chứng cho Chân Lý là chính Đức Kitô.
1. Chúa Giêsu trao ban Chúa Thánh Thần để biến đổi các Tông đồ
Khi các Tông đồ phải đối diện với cái chết của Chúa Giêsu, các ông hoang mang, sợ hãi và tìm mọi cách để chạy trốn thoát thân. Hình ảnh Phêrô, một Phêrô chối Chúa, cho chúng ta thấy sự yếu đuối của con người đứng trước những thử thách. Rồi sau khi Chúa Giêsu chết, tất cả các ông đều sợ hãi, vì thế, họ đã đóng kín cửa. Các ông sợ vì Thầy mình mà họ ghét mình; họ đã giết Thầy thì họ cũng sẽ tìm cách giết môn đệ của Thầy để dẹp luôn những tư tưởng của Thầy đã gieo vào trong lòng của các ông. Nhưng điều quan trọng là các ông có thể cũng đang hoang mang về chính ơn cứu độ mà Chúa Giêsu đã rao giảng. Các ông cũng như những người đương thời, họ cho rằng Chúa Giêsu chết là hết. Thất vọng, chán trường và sợ hãi là tâm trạng của người thất bại. Đang lúc đó, Chúa Giêsu hiện đến, thổi hơi vào các ông và phán: “Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Chúa biết rõ các ông đang trong tình trạng tâm lý xáo trộn và bất ổn… Chúa trao ban bình an tức là trao ban chính Chúa. Những ngày các ông sống với Chúa lúc Ngài chưa chịu chết, các ông cảm thấy hạnh phúc như thế nào thì giờ đây, cũng chính Chúa Giêsu đó đem lại cho các ông sự bình an sau những ngày trốn chạy. Ngài trấn an các ông bằng chính sự hiện diện cụ thể của Ngài, qua đó, Ngài xoá đi mọi nỗi sợ sệt nơi các ông. Rồi ngay sau đó, Ngài đã trao phó sứ mạng loan báo Tin Mừng cho các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Hãy đi rao giảng, thì cũng sẽ chết như Thầy. Chết như Thầy thì mới được Phục sinh như Thầy. Qua đó, Ngài dạy cho các ông một quy luật tất yếu là: muốn vào vinh quang thì phải qua đau khổ, phải chịu chết thì mới có sự sống viên mãn. Nhưng để làm được điều đó quả thật không dễ chút nào. Chính vì vậy, Ngài đã ban Chúa Thánh Thần đến trên các ông, để Người đổi mới tinh thần, trái tim và ở cùng các ông cũng như những người đón nhận lời rao giảng của các ông mọi ngày cho đến tận thế. Người chính là Đấng làm cho các ông nhớ lại những lời Chúa Giêsu đã rao giảng và giúp các ông can đảm làm chứng về những điều mắt thấy tai nghe.
2. Chúa Giêsu trao ban cho các Tông đồ Thần Chân Lý
Chúa Thánh Thần, Người chính là Thần Chân Lý: “Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi: đó là Thần Khí sự thật”. Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý, Ngài sẽ giúp cho các môn đệ hiểu được những lời Chúa Giêsu đã rao giảng. Ngài sẽ bào chữa cho các ông khi phải ra trước mặt quan toà để làm chứng cho sự thật: “Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì, vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói” (Lc 12,11-12). Thật thế, nếu xét trên bình diện con người, các ông làm sao có thể thi hành một sứ mệnh cao cả và quan trọng đến như vậy. Bởi vì các môn đệ là những người rất bình thường trong những người bình thường nhất. Họ là những người quanh năm suốt tháng chỉ biết sống với nghề chài lưới, vật lộn với sóng nước biển khơi, học vấn thì kém cỏi, khả năng diễn thuyết trước công chúng thì quá xa vời đối với các ông. Thế nhưng, sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông đã hân hoan lên đường để làm chứng cho Chúa Giêsu, một Chúa Giêsu đã chết và sống lại. Quả thật, ngay sau Lễ Ngũ Tuần, Phêrô đã có bài giảng đầu tiên và ngay ngày hôm ấy, đã có khoảng 3.000 người tin theo (x. Cv 2,41). Như vậy, Chúa Thánh Thần chính là Đấng Bào Chữa, Đấng ban sức mạnh để các Tông đồ ra đi làm chứng cho sự thật. Một sự thật mang tính siêu việt để cứu độ qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu.
3. Chúa Thánh Thần và đời sống chứng nhân của người Kitô hữu
Ngày xưa, khi các Tông đồ chưa nhận được ơn Chúa Thánh Thần thì họ lo lắng, sợ hãi, thiếu tự tin… Nhưng khi các ông đã nhận được Chúa Thánh Thần, các ông đã hân hoan lên đường để trao truyền chân lý. Các ngài đã coi đó như là mối lợi tuyết đối mà Chúa dành cho mình. Còn chúng ta ngày nay thì sao?
Trước tiên, cần phải xác định thật rõ: rao giảng chân lý là rao giảng về một chân lý tuyệt đối, bởi vì không có chuyện nước đôi hay nửa vời. Đã tôn thờ Thiên Chúa thì chỉ tôn thờ mình Ngài mà thôi. “Phải tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, ngoài Người ra, không được có thần nào khác” (x. Đnl 6,4-7). Là người Công giáo, được lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, Thêm Sức, là chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần cách dồi dào. Chúng ta có trách nhiệm loan truyền Chúa Kitô và làm chứng về Ngài trong gia đình, làng xóm, xứ đạo và thế giới hôm nay bằng đời sống tôn thờ Thiên Chúa duy nhất và sống những giá trị Tin Mừng đòi hỏi.
Thế nhưng, thực tế thì khác nhiều lắm! Nếu được hỏi: “Ông bà, cô bác… có tin Chúa không?”, ngay lập tức ta sẽ nhận được câu trả lời là “có”, thậm chí còn bị mắng vốn là “hỏi thế mà cũng hỏi”; “hỏi ấm ớ…”. Nhưng thực tế, thử hỏi trong đời sống đức tin, chúng ta sống đạo hay chỉ giữ đạo? Hẳn nhiều người cũng đã chứng kiến những cảnh cãi vã nhau gay cấn ngay khi vừa ra khỏi nhà thờ sau thánh lễ và không nhân nhượng khi tuyên bố: “Tao mà không Rước lễ trong lễ vừa rồi thì hôm nay tao sẽ xé xác mày”; rồi những lần đi lễ “ôm”, những cảnh “đạo gốc” (đi lễ nhưng ngồi ở những gốc cây quanh nhà thờ). Khi buôn bán: 1kg ăn 800gr; bơm nhồi hoá chất độc hại vào những rau, củ, quả… mà mình sẽ bán, và còn biết bao nhiêu cách làm lợi bất chính khác nữa… Như vậy, trên lý thuyết: tin thì vẫn cứ tin, ít ai có khái niệm bỏ đạo, nhưng cách sống thì cứ bon chen quỷ quyệt… vẫn cứ ung dung hàng hai ta đi, không thiếu gì những khối “ung nhọt” nằm trong thân xác tráng kiện bên ngoài với cái mác hai chữ Công giáo. Lại nữa, chúng ta cũng thấy không ít người Công giáo sống đạo theo kiểu “lâm thời”. Khi gian nan thử thách đến là sẵn sàng khấn “ông nọ” vái “bà kia” thay Chúa ngay lập tức. Đây phải chăng là những căn bệnh trầm kha trong cách sống đạo của nhiều người Công giáo hiện nay.
Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã trao ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ, đồng thời Ngài cũng trao phó sứ vụ loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất cho những người kế vị các ông. Chúa Thánh Thần chính là Thần Chân Lý, Ngài được trao ban cho các Tông đồ để các ông nhớ lại những điều Chúa Giêsu loan báo. Ngài còn là Đấng Bào Chữa, Đấng An Ủi. Ngài đến để tăng sức mạnh cho các ông, khiến các ông sẵn sàng ra đi làm chứng cho Đức Kitô, làm chứng cho chân lý. Rồi đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải lên đường, bởi vì là người Công giáo, sứ mạng loan báo Tin Mừng thuộc về chúng ta. Chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm đó như là cứu cánh của mình. Có nhiều cách loan báo Tin Mừng như: rao giảng; gương sáng; thật thà; vui tươi… Dẫu có gặp phải gian nan thử thách, ngay cả tù tội và chết chóc, chúng ta vẫn cứ lên đường vì biết rằng: sau cơn mưa trời lại sáng. Mây đen không thể che mãi được mặt trời, sự giả dối hay tội lỗi không thể nào phủ lấp được chân lý.
Chỉ có chân lý mới giải thoát chúng ta cách toàn diện (x. Ga 8,32). Chỉ có chân lý mới dẫn đưa ta đến sự sống đời đời, bởi vì cuộc đời con người không chỉ có ở đời này mà còn cuộc sống mai hậu nữa.
Mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta cũng cầu xin Chúa cho các chứng nhân đang xả thân trên cánh đồng truyền giáo, luôn được ơn Chúa phù trợ, để kiên định trong đức tin, bền lòng trong đức cậy và nhiệt thành trong đức mến, để không ai và không có gì tách các ngài ra khỏi tình yêu Đức Kitô.
Để kết thúc, xin mượn lời của Thánh Amrôsiô khi nói về sứ mạng của người Kitô hữu khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần như sau: “Hãy nhớ, bạn đã lãnh nhận ấn tín thiêng liêng của Chúa Thánh Thần là Thần Trí khôn ngoan và thông hiểu, Thần Trí lo liệu và sức mạnh, Thần Trí suy biết và đạo đức, Thần Trí dạy cho biết kính sợ Thiên Chúa. Hãy gìn giữ những gì bạn đã lãnh nhận. Chúa Cha đã ghi ấn tín của Người nơi bạn. Chúa Kitô đã tăng sức cho bạn và đặt trong bạn bảo chứng của Chúa Thánh Thần”.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến để Người đổi mới mặt địa cầu; để Người dẫn chúng con đến sự thật toàn vẹn và xin ban sức mạnh; lòng cam đảm để chúng con sẵn sàng ra đi làm chứng cho sự thật là chính Đức Kitô và luôn sống những giá trị Tin Mừng trong cuộc sống hằng ngày. Amen.

71. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là phương cách thông tin, biểu lộ tâm tình cho nhau và dùng để liên lạc với nhau trong cuộc sống. Bất cứ dân tộc nào trên mặt đất cũng đều có ngôn ngữ cho mình. Trong niềm tin đạo giáo chúng ta dùng ngôn ngữ gì để bày tỏ tâm tư của mình với Chúa? Và Chúa dùng ngôn ngữ gì để thông tin nói với ta?
Nói với Chúa chúng ta dùng ngôn ngữ của ta, vì Ngài hiểu được hết. Còn khi Chúa nói với chúng ta. Ngài cũng dùng ngôn ngữ của chúng ta. Nhưng khi nói loan truyền lời Chúa cho các dân tộc khác nhau về ngôn ngữ, ngôn ngữ gì được sử dụng để mọi người có thể nghe hiểu được?
Kinh thánh thuật lại phép lạ ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống như sau: Gió thổi đến và lửa chiếu dọi ánh sáng cùng mang hơi nóng trên các tông đồ. Đó là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Người từ nay thay Chúa Giêsu cùng đồng hành với họ và trong Hội thánh Công giáo. Khi Chúa Thánh Thần xuống trên các tông đồ, Ngài mang đến cho các ông luồng gió mới. Luồng gió mới này làm các ông phấn khởi tung cửa đứng ra trước công chúng nói về Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã sinh ra, đi khắp nơi rao giảng tin mừng nước Thiên Chúa, chữa lành bệnh tật cho người đau ốm, mang niềm an ủi cho người bị bỏ rơi, bị đau khổ, sau cùng đã chết và đã sống lại. Các ông được ơn lạ nói những thứ ngôn ngữ của tất cả những người hôm đó hiện diện nghe các ông. Chúa Thánh Thần ban cho các tông đồ ân đức nói thứ ngôn ngữ mà tất cả mọi người cùng hiểu được, bất kể họ đến từ xứ sở nào…
Phép lạ này nói lên quyền năng của Thiên Chúa thực hiện nơi con người. Ngày xưa, con người cũng đã có lần toan tính xây cất tháp Babel chạm tới tầng trời, nhưng Thiên Chúa đã phá hủy toan tính kiêu ngạo của họ bằng các ngôn ngữ khác nhau. Vì ngôn ngữ bất đồng, họ không thể thông hiểu nhau, nên công trình đó đã tan hoang.
Máy vi tính ngày nay là phát minh mới lạ của con người. Máy cũng có một thứ ngôn ngữ riêng. Ngôn ngữ của máy vi tính xây dựng trên cơ sở lý luận toán học và sự chính xác. Ngôn ngữ máy vi tính giúp con người rất nhiều trong việc thông tin và trao đổi liên lạc với nhau nhanh chóng.
Trong đời sống, con người chúng ta dùng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ như Anh, Pháp, Việt Nam… cho nhu cầu thông tin liên lạc với nhau. Nhưng có một thứ ngôn ngữ ngay từ thuở sơ sinh ai chúng ta cũng có, cũng biết: ngôn ngữ tình yêu, ngôn ngữ vỗ về âu yếm, ngôn ngữ sưởi ấm tâm hồn. Khi ngôn ngữ này được nói ra bằng âm thanh hay biểu lộ qua nét mặt nụ cười của ông bà cha mẹ, anh chị em, tất cả mọi người đều hiểu được cả.
Ngôn ngữ tình yêu này phát xuất từ trái tim tâm hồn, nên gọn nhẹ trong sáng và truyền đi tín hiệu nhanh chóng nhậy cảm ngay từ những giây phút đầu tiên của sự sống một con người. Qua ngôn ngữ này mối liên lạc tình người được xây dựng từ cha mẹ tới con cái còn thơ bé, con người với nhau trong đời sống. Thiên Chúa với công trình sáng tạo của Ngài trong hoàn vũ và con người với Thiên Chúa.
Ngôn ngữ này không viết bằng mẫu tự A B C hay hình vẽ biểu tượng như chữ nho, chữ Thái lan, chữ Ả rập… cũng không bằng những dấu hiệu chương trình lý luận toán học như ngôn ngữ của máy vi tính. Nhưng ngôn ngữ này từ bẩm sinh nằm ẩn sâu trong trái tim tâm hồn mỗi người. Mỗi người đều có chương trình ngôn ngữ này và đều có thể sử dụng được chương trình này.
Dù là tiếng mẹ đẻ, ta cũng cần phải học, phải mài giũa, phải sửa đổi mới hoàn chỉnh trong sáng văn phạm cùng câu cú. Dù là ngôn ngữ đã được hệ thống và cài sẵn chương trình chạy trong máy vi tính, người sử dụng máy cũng vẫn phải học cách sử dụng điều khiển sao cho đúng không bị sai lầm.
Những sai lầm trong tiếng mẹ đẻ và trong ngôn ngữ máy vi tính là do con người sử dụng gây ra. Và chúng ta phải điều chỉnh lại cách sử dụng cho đúng. Trong ngôn ngữ tình yêu cũng thế, khi chương trình ngôn ngữ này chạy không đúng là do con người gây ra. Thiên Chúa ghi trong tâm hồn mỗi người chương trình ngôn ngữ này, nhưng khi sử dụng hoặc là con người không dùng đúng chương trình này hoặc là muốn sử dụng chương trình sai riêng của mình. Vì thế sinh ra sai lầm và không còn truyền đi tín hiệu thông tin, hiểu nhau được nữa.
Những sai lầm này là thiếu tình liên đới với nhau, khi chỉ chú ý đem quyền lợi riêng tư của mình. Ngôn ngữ tình yêu kêu gọi sự hiểu biết thông cảm với nhau, niềm vui, niềm hy vọng, sự tha thứ làm hòa và tình liên đới trong cuộc sống.
Ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống năm xưa, các thánh tông đồ đã tìm ra được ngôn ngữ chung cho hết mọi người. Ngôn ngữ này do Chúa mang đến và ghi khắc trong tâm hồn con người. Qua ngôn ngữ này ai cũng hiểu được tin mừng ơn cứu độ của Chúa và cùng nhau tìm về với Chúa, với nhau là anh em con một Chúa: ngôn ngữ tình yêu.
Chúa Thánh Thần mang từ trời cao đến cho con người ngôn ngữ của Chúa Cha, ngôn ngữ này khác gì là “tiếng mẹ đẻ” của con người: ngôn ngữ tình yêu – ngôn ngữ của toàn cầu.

72. Quyền năng
Trong một lần giáo huấn, Chúa Giêsu đã quả quyết với các tông đồ: “Sự gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc. Sự gì các con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. Và hôm nay, sau ngày Phục sinh, trong một lần hiện ra với họ, Chúa Giêsu đã phán: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại”. Khi nói lên lời đó, Ngài chính thức thiết lập Bí tích Giải tội, ủy thác cho Hội thánh quyền năng tha thứ và cầm buộc. Quyền năng này không chỉ được trao ban cho các tông đồ nhưng còn thông chuyển đến các đấng kế vị là các giám mục và những linh mục hiệp thông với các ngài. Qua lời tuyên bố thiết lập Bí tích Giao hòa Chúa Giêsu muốn nói với các vị thừa tác viên đầu tiên và những người kế nghiệp rằng: một khi dưới đất họ đọc lên lời tha tội “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” thì lập tức trên trời Ngài sẽ chuẩn y, và dù tội con người có thẫm như máu đào cũng sẽ được biến đổi tinh trắng như bông.
Trong Tông thư Reconciliation and Penance, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khẳng định: “Khơi dậy lòng sám hối và thay đổi tâm hồn nhân thế cùng trao ban cho con người tặng phẩm giao hòa chính là sứ mạng đặc thù của Hội thánh khi tiếp nối công trình cứu độ của Đấng sáng lập”. Có người đặt vấn đề: Tại sao lại phải đi xưng tội với một linh mục? Tới thẳng với Chúa không được sao? Lẽ dĩ nhiên Chúa Giêsu có trăm muôn ngàn cách tha thứ tội lỗi con người, nhưng phương cách Ngài “làm người” để cứu thế và “chọn con người” để thi hành quyền ý định của Thiên Chúa cũng có đó một số lý do khiến cho việc xưng tội với một linh mục trở nên cần thiết.
Catholicism and Life có chỉ ra những lý do như sau:
Thứ nhất, vì “có những tội được tha và có những tội bị cầm” nên hối nhân phải xưng tội mình ra thì linh mục mới có thể xác định được tội nào được tha và tội nào bị cầm.
Thứ hai, việc xưng tội với một linh mục sẽ giúp cho con người trở nên khiêm tốn. Người ta dễ chừa tội hơn khi biết rằng nếu mình phạm, mình sẽ phải xưng.
Thứ ba, chắc chắn hối nhân sẽ đón nhận được ơn thánh hóa từ Bí tích Hòa giải. Nhưng trước đó, họ sẽ nhận được những lời khuyên hữu ích từ vị linh mục, giúp họ thăng tiến hơn trên đường thiêng liêng. Thêm vào đó, có không ít khuynh hướng nhiệm nhặt hay buông thả khiến cho có người quá khắt khe, thấy điều chi cũng tội, hay có người quá lỏng lẻo đến nỗi bao tội tày trời cũng cho là chẳng có gì ghê gớm. Thậm chí có khi còn biện minh để lương tâm thấy tội nhẹ đi hay không còn tội lỗi gì nữa. Vì vậy, nếu không có sự trợ giúp của vị linh mục làm sao người ta có thể quân bình với chính mình và chân thành với Thiên Chúa được. Cuối cùng, khi ban ơn tha tội, vị linh mục thay mặt Chúa sẽ bảo đảm ơn tha thứ cho hối nhân. Đối với người đi “xưng thẳng” với Chúa, ai sẽ đoan quyết cho điều đó? Chắc chắn không ai hết.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cảnh cáo những người cho mình không cần Bí tích Giải tội như sau: “Thật là điên rồ và kiêu căng đối với những ai tự ý coi thường phương thế trao ban ơn sủng và cứu thoát mà chính Chúa Giêsu thiết lập, nhất là đối với những kẻ cho rằng không cần đến Bí tích Giải tội để được tha tội”.
Có nhiều người vì ý thức lệch lạc nên coi thường xưng tội, nhưng cũng có không ít người vì đánh mất cảm thức về tội nên không còn thấy cần đi xưng tội nữa. Thậm chí có người xấu hổ ngại ngùng khi phải thú nhận tội mình với kẻ khác. G. K. Chesterton, một nhà văn trở lại Công giáo đã viết: “Không việc gì phải xấu hổ về những dại dột của mình… Đã là con người không ai không có lỗi lầm, nhưng lỗi lầm kinh khủng nhất của con người là cho mình không có lỗi”. Thánh Gioan tông đồ viết thẳng thừng hơn: “Nếu ta nói: ta không có tội là ta tự lừa dối mình, và sự thật không có trong ta”. Trái lại, “Nếu ta xưng thú tội lỗi mình thì người trung tín và công chính đủ để tha thứ tội lỗi cho ta, và tẩy ta khỏi mọi bất chính”.
Một điều luôn gắn liền với Bí tích Giải tội là “ấn tòa” mà tất cả mọi linh mục phải tuân giữ. Không một điều gì nghe trong tòa mà cha giải tội lại được phép nói ra cho người thứ ba, dù tính mạng của mình bị đe dọa hay an ninh quốc gia được bảo toàn.
Lịch sử Giáo hội ghi nhận biết bao hình ảnh hào hùng của những con người dám lấy máu đào bảo vệ đức tin, trong đó cũng có hình ảnh của những linh mục dám lấy mạng sống bảo vệ “ấn tòa giải tội”.
Cha Gioan Nepomucene là mẫu gương tiêu biểu trong thế kỷ 14. Ngài là cha giải tội của hoàng hậu Jane, nước Bohemia. Vua Wenceslaus là người đa nghi và ghen tuông. Vì muốn biết hoàng hậu đã làm điều chi thầm lén nên vua yêu cầu cha Gioan thuật lại những gì nàng xưng ra với ngài.
Tưởng rằng quyền lực và uy thế của mình có thể khui được ít nhiều bí mật nơi miệng cha Gioan, nhưng vua đã lầm. Vị linh mục của Chúa nhất quyết không hé lộ bất cứ điều gì. Kết quả, ngài bị nhốt vào hầm tối, và một đêm kia, bị nhận nước cho đến chết.
Ba trăm năm sau, khi khai quật lăng mộ cha Gioan, những người hữu trách ngỡ ngàng chứng kiến thân thể ngài mục hoàn toàn, ngoại trừ chiếc lưỡi vẫn nguyên vẹn như lúc còn sống. Ngày nay, trên chỗ ngài bị giết người ta dựng lên một tượng đài, phía dưới chân có khắc dòng chữ: “Nơi đây vị chứng nhân của ấn tòa giải tội đã nằm xuống”.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao ban cho các tông đồ món quà vô giá là Chúa Thánh Thần và quyền năng tha tội. Sứ mạng của các ngài và những người kế vị sẽ là việc làm nảy sinh hoa trái cho toàn nhân loại. Biết khiêm tốn mở lòng đón nhận ơn tha thứ, con người sẽ tìm thấy bình an và sự sống đích thực, dù thần chết có đang hăm he rình chờ. Biết tìm đến cùng tòa cáo giải, tâm hồn sẽ được chữa lành và ngập tràn hân hoan.

73. Thần Khí của Đấng Phục Sinh.
(Phục sinh, 40 ngày sau Lên Trời, 10 ngày sau (Ngũ Tuần) Hiện xuống.) Là lịch của Lc
Ga.20, 22: Ngưòi thổi hơi vào các ông…
Thiên Chúa hành động bằng Lời + hơi thở- Thần khí – luôn luôn như vậy. Lời là ý định của Thiên Chúa đựoc công bố ra bên ngoài (ad extra). Nói và thở đi liền nhau. Nín thở không nói được. Thần khí đi liền theo lời để lời được thực hiện hay chính thần khí thực hiện lời nói làm cho lời là lời quyền năng của Thiên Chúa. Không có thần khí kèm theo thì lời không có quyền năng, không thực hiện đựoc ý định của Thiên Chúa.
Thiên Chúa là một và ba:
Chỉ một Thiên Chúa duy nhất(1)được biết qua hành động bằng lời (2) và khi nói lời thì Thiên Chúa cũng thở(3) Không có Chúa nào khác. Lời nói và hơi thở phát xuất từ một Thiên Chúa duy nhất và là của một mà thôi. Lời không là một Chúa khác, hơi thở cũng không là một Chúa khác.
Thiên Chúa thở hơi vào mủi của Adam không ban cho Adam một Chúa Thánh Thần (có lẽ Adam lầm tưởng vậy). Hơi thở là biểu tượng của sự sống, ý nói Thiên Chúa ban cho Adam một chút sự sống của mình (một chút thôi).
Từ ngữ làm khó người Việt Nam khi nói Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần (rỏ ràng là ba Chúa). Trong khi tiếng la tinh: Pater et Filius et Spiritus Sanctus. Tiếng Pháp: Le Père et le Fils et l’Esprit Saint. Rồi văn hoá Hy lạp và la tinh ưa thần thoại, thần vị hoá như thần chết,thần dử….
Vì Thiên Chúa thở hơi. Phải từ Thiên Chúa hơi thở mới phát xuất dược nên Chúa Giêsu phải về với Cha mới gởi (xin Cha, Cha đã hứa) hơi thở đến thế gian được. Lời và hơi thở phát xuất từ Thiên Chúa như từ một nguồn gốc chung. Nên không nói Cha, Con và Thánh Thần mà nói Cha và Con và Thánh Thần.
Ngày Phục Sinh Chúa Giêsu thở hơi và nói ‘hãy nhận lảnh thần khí’ nhưng chẳng thấy rụt rịt gì, êm ru.Nhưng không có nghĩa là không có gì mà là bắt đầu từ từ, tiệm tiến. Lc nói rỏ: Người ở lại 40 ngày, dạy dổ cho đủ điều rồi mới Thăng Thiên và 10 ngày sau- lễ Ngủ Tuần Thánh Thần mới xuống như làn gió mạnh’ào ào’, như lưởi lữa đốt đầu các tông đồ các ông không thể chịu nổi phải bùng nổ, phá cửa chạy ra , la lớn ai ai cũng nghe thấy. Thở hơi là dấu chỉ một bắt đầu mới, một tạo dựng mới. Hiện Xuống là thực hiện mới. Thở hơi lần thứ nhất không kết quả. Lần thứ hai là tái tạo, là cứu độ: kết quả ấn tượng.
Thời gian 40 ngày ở lại dạy dổ cho đủ điều và 50 ngày lễ Ngủ Tuần thời gian coi là đủ để sự hiện diện và tác động của Đấng Phục Sinh bằng thần khí thấm nhập và kết quả qua sự cảm nghiệm và tin chắc của các phần tử đựơc tuyển chọn. Hiện Xuống là đánh dấu sự biến đổi và bùng nổ không còn kềm chế được.
Thánh Thần là thần khí quyền năng của Thiên Chúa nhưng hành động cách vô hình như Đấng Bảo Trợ, nhiệm vụ là nhắc nhớ, giúp hiểu và biết áp dụng vào những thực tế khác nhau của cuộc sống. Cần có vai chính hành động là con ngưòi. Không có sự cộng tác của con người Thánh thần dù là chính quyền năng của Thiên Chúa đành cũng bó tay. Tội không tha được là tội chóng lại Thánh Thần. Dụng cụ càng tốt kết quả càng cao. Như chuyện người đốn cây mướn. Rất nhiệt tình. Làm không dám nghĩ tay để mài búa. Ngày đầu đốn được 50 cây, hôm sau còn 40, hôm sau còn 30, hôm sau còn 15. Ông chủ gọi lại bảo: anh lấy tiền rồi thôi khỏi đốn cây nữa. Anh lấy làm lạ nói: Tôi làm tận tình, không lúc nào ngơi tay, sao ông đuổi việc tôi? Tại vì anh không có búa bén. Có búa bén mới đốn được nhiều cây. Ông chủ cho anh cơ hội nhưng anh không biết làm tốt.
Hãy cộng tác với Thánh Thần.Hãy là công cụ tốt cho Thánh Thần xử dụng. Lưu ý đến những cách hiểu không đúng về Thánh Thần: Chỉ cầu xin, để Thánh Thần làm hết, ngoan ngoản vâng theo Thánh Thần mà không làm, không có sáng kiến…… hoặc cứ làm rồi đổ cho Thánh Thần, trói tay Thánh Thần, cầm tù Thánh Thần……Thánh Thần bó tay.

74. Ơn Chúa huấn luyện và thêm sức cho ta
(Suy niệm của Lm. Fx. Nguyễn Hùng Oánh)
Chúa Kitô ban ơn Thánh Thần cho các Tông đồ không phải ban một lần, nhưng ban nhiều lần.
Sống lại, Chúa hiện ra với các Tông đồ chiều hôm đó, Chúa chúc bình an, cho các Tông đồ thấy vết đinh để chứng tỏ Chúa là con người thực sống lại, chứ không phải là bóng ma hiện về, rồi Chúa chúc bình an và thổi hơi ban Thánh Thần với tất cả quyền bính do Thánh Thần tác động được diễn tả theo ngôn ngữ “cầm buộc hoặc tháo gỡ” (Ga 20,19-23)
Lúc về trời, Chúa căn dặn các Tông đồ, môn đệ chờ đợi Thánh Thần xuống. Thánh sử Luca diễn tả Chúa Thánh Thần hiện xuống dưới sức gió mạnh và hình lưỡi lửa trong ngày lễ Ngũ Tuần tức là 50 ngày sau khi Chúa sống lại. Như vậy, các Tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần nhiều lần.
Điều đó đúng với tâm lý con người, vì con người phải được nuôi dưỡng dần dần mới lớn lên; về mặt tâm linh, nhận ơn Chúa dần dần, nhiều lần mới trưởng thành. Đàng khác, Thánh Thần hoạt động luôn luôn và tự do, ban ơn cho ta có lúc mạnh, lúc nhẹ để làm sao không cưỡng ép ta, trái lại để cho ta được tự do lãnh nhận và cộng tác với ơn Chúa trong tự do và trưởng thành.
Điều quan trọng phải suy nghĩ hôm nay là Chúa Thánh Thần chỉ được ban phát do mầu nhiệm Vuơt qua của Chúa Kitô (chết, sống lại, lên trời vinh hiển). Thánh Thần là ơn huệ phục sinh của Chúa Kitô ban cho chúng ta. Thứ tự hành động của Chúa Kitô cho biết điều đó (hiện ra chúc bình an, chỉ vết đinh, thổi hơn ban Thánh Thần) và đời sống cứu chuộc nhân loại của Chúa Kitô cũng nói rằng hoa quả của ơn cứu độ là Thánh Thần.
Chúa ban Thánh Thần cho Hội Thánh thi hành sứ mệnh của Chúa Kitô trao phó, chứ không phải thụ hưởng, nhận lãnh Thánh Thần để làm việc theo ý Chúa chứ không phải để nhìn ngắm, nên Chúa Kitô thở hơi trao ban Thánh Thần với quyền bính “cầm buộc, thứ tha”, để Hội Thánh tiếp tục sứ mệnh của Chúa là cứu độ mọi người. Sách Tông đồ Công vụ cho biết sau khi lãnh nhận Thánh Thần diễn tả bằng sức mạnh của gió, sức nóng và sáng của lửa ngôn ngữ của hình lưỡi, các Tông đồ mở toang cửa ra, rao giảng Chúa Kitô cho mọi người. Ta thấy rõ vai trò cần thiết của Chúa Thánh Thần.
Hội Thánh hoạt động được là nhờ Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô nói ta tuyên xưng Chúa Kitô là Thiên Chúa là do Thánh Thần. Điều nầy dễ hiểu vì công nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa hết sức khó đối với người Israen (từ trước tới nay chỉ nhận có Đức Giavê là Thiên Chúa duy nhất mà thôi), nhưng cũng khó khăn đối với chúng ta nên cần Thánh Thần trợ giúp. Ngay cả việc xem ra dễ dàng nhất: kêu Thiên Chúa là Cha cũng cần Thánh Thần giúp, cần giúp vì nhận ra Thiên Chúa là Cha, ta là con cái Thiên Chúa là một mạc khải thâm sâu trong mầu nhiệm Ngôi Hai làm người là Con Một Chúa Cha.
Ta có thể nói Thánh Thần là linh hồn của Hội Thánh, Thánh Thần là ông chủ của chúng ta ở trong ta, ta là đền thờ của Thánh Thần.
Tuy Thánh Thần mạnh mẽ như vậy, nhưng nếu ta không đón tiếp Ngài, không cộng tác với ơn của Ngài thì Ngài trở thành bất lực trong ta. Ngài có thể là chủ tâm hồn ta hay chỉ là một người đứng ngoài, gõ cửa nói vào mà ta làm ngơ, ơn Ngài là sức mạnh giúp ta làm việc lành, đạt tới thành công hay ơn Ngài rơi rụng nơi ta, không sinh hoa kết quả gi. Tất cả do sự đáp ứng của ta vì Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của ta.
Mỗi tín hữu chúng ta đã nhận Chúa Thánh Thần khi chịu bí tích Rửa tội và Thêm sức, khi cầu nguyện và Chúa Thánh Thần luôn luôn trợ giúp chúng ta. Cám ơn,cởi mở cộng tác với ơn Chúa, nhớ mình là đền thờ Chúa Thánh Thần là điều luôn luôn phải ý thức.
(Phụ chú theo bản dịch ca Cha Nguyễn thế Thuấn: cửa đã đóng cài chặt chẽ vì sợ người Do-thái (tỏ ra thân xác không còn lệ thuộc không gian thời gian nữa) thì Giêsu đã đến (chứng tỏ Chúa Giêsu đã về với Chúa Cha rồi, bây giờ Người đến), bằng an cho anh em (lời cho chuẩn bị cho một sứ mệnh) nói thề rồi Ngài thổi hơi trên họ: “Hãy chịu lấy Thánh Thần” (sứ mệnh nầy bắt nguồn từ Phục sinh) những ai được các ngươi tha tội, thì tội họ được tha, nhũng ai các ngưoi cầm giữ lại, thì tội họ bị cầm giữ (ban ơn sủng một cách đặc biệt có sức thánh hóa trong bí tích rửa tội và giải tội}
——————–
Luôn thể xin kể câu chuyện mở đầu bài giảng: Cha Thông (hưu) kể chuyện một cha sở muốn mở đầu bài giảng trong lễ Chúa Thanh Thần hiện xuống cách sống động, Ngài dặn ông trùm giúp việc nhốt một chim bồ câu trong lồng để trên trần nhà thờ, khi ngài mở đầu bải giảng: Lạy Chúa Thánh Thần xin ngự xuống thì thả chim bồ câu cho chim bay xuống cung thánh. Cha lên tỏa giảng (thời xưa có tòa giảng ở gần cung thánh): Lạy Chúa Thánh Thần xin ngự xuống. Không thấy gì, ngài nói to hơn: Lạy Chúa Thánh Thần xin ngự xuống. Ông trùm hét to trả lời: Cha Thánh Thần mèo ăn rồi. Đức Tổng Giám mục Phaolo Nguyễn Văn Bình nghe vừa xong, đúng dậy nói: Đức Chúa Thánh Thần mèo chụp hụt rồi. Các linh mục ồ lên, vỗ tay quá sức …

75. Khai sinh Giáo Hội truyền giáo – Thiên Phúc.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Giải Nobel Hòa bình năm 2000 đã được trao cho Tổng Thống Hàn Quốc Kim Dae-Jung, một con người đã từ 30 năm nay đấu tranh không mệt mỏi cho công bằng, dân chủ và hòa hợp.
Tổng Thống Kim là một người Công giáo, được Đức cố TGM Seoul rửa tội vào năm 1956. Trong một đất nước chỉ có 10% dân số là Công giáo thì sự kiện này cũng đang nhắc nhở về sự dấn thân của Giáo Hội Công Giáo tại lục địa Á Châu này.
Phần thưởng này đã được các vị lả đạo và chức sắc tôn giáo ở Hàn Quốc hân hoan chúc mừng. Một vị Hòa thượng lãnh đạo một Tông phái Phật giáo lớn nhất ở Hàn Quốc nhận định như sau: “Tổng thống Kim Dae-Jung sẽ được ghi nhớ như một vị lãnh đạo nổi bật của thế giới”.
***
Lễ Hiện xuống là lễ khai sinh một Giáo hội truyền giáo. Và nỗ lực đấu tranh cho công bằng, dân chủ và hòa bình với danh nghĩa là người Công giáo như Tổng thống Kim Dae-Jung chính là một công cuộc truyền giáo.
“Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Rồi Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 21-22). Các Tông đồ đã nhận lãnh Thánh Thần để ra đi truyền giáo. Chính Thánh Thần đã làm cho các ngài hoàn toàn đổi mới.
Từ chỗ không hiểu gì cả, thì nay các ngài đã hiểu rõ tất cả.
Từ sự nhát đảm run sợ, cửa đóng then cài, thì nay các ngài mạnh dạn can đảm mở toang cửa ra.
Từ những dân chài ít họ, thì nay các ngài nói được nhiều thứ tiếng khác nhau.
Bằng chứng là Pherô, trước đây run sợ trước câu hỏi của một cô đầy tớ, thế mà nay dám đứng lên rao giảng giữa những người đã giết chết Thầy mình, khiến cho 3000 người gia nhập Giáo hội với chỉ một bài giảng duy nhất.
Không những các ngài can đảm rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, mà còn dám hy sinh cả tính mạng vì danh thánh ấy. Tất cả các ngài đều đã chịu tử vì đạo. Và sau Pherô, 39 vị Giáo hoàng tiên khởi đều anh dũng chết vì đạo thánh.
Người ta tưởng các ngài say rượu, nhưng thật sự thì các ngài đang say Chúa.
Ngưồi ta nghĩ các ngài điên dại, nhưng quả thật thì các ngài đang đầy tràn Thánh Thần.
Lễ Hiện xuống không chỉ là ngày khia sinh Giáo hội, mà Lễ Hiện Xuống vẫn còn tiếp diễn, nghĩa là Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động trong Giáo Hội. Người ta gọi Công đồng Vatican II là một Lễ Hiện Xuống mới, một luồng gió mới đã thổi vào Giáo Hội để canh tân cho thích hợp với độ chóng mặt của thế giới ngày nay. (năm nay 1963-2013 kỉ niệm 50 Công đồng Vatican II, năm Đức Tin của Giáo Hội Công giáo do Đức Thánh Cha Bênedictô XVI công bố)
Công đồng đã long trọng khẳng định: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo” (TG 2). Đức Gioan Phaolô II nhận định: “Đã đến lúc phải dốc toàn lực trong Giáo Hội vào một cuộc loan báo Tin Mừng mới và vào sứ vụ đến với muôn dân. Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” (Sứ vụ Đấng Cứu Độ, 3).
Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ sau khi tham dự Hội nghị toàn thể lần thứ bảy liên Hội đồng Giám mục Á Châu đã có cảm nhận rất sâu sắc này: “Giáo Hội tại Châu Á phải là một giáo hội truyền giáo”. Ngài giải thích: “Vì Chúa Giêsu là người châu Á, Giáo Hội Thiên Chúa đã được phát sinh tại châu Á, và ý định của Thiên Chúa là cứu độ hết mọi người , thế mà hôm nay lại rất ít người châu Á biết Chúa và tin theo Chúa” (CGDT số 1250). Quả thật, tại châu Á, đông dân nhất năm châu mà chỉ có 3% dân số tin theo Chúa. Đó là nỗi ray rứt của mỗi người chúng ta, mà cũng là thách thức từng ngày của mỗi tín hữu Kitô.
***
Lạy Chúa, xin hãy thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo, khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc, văn minh và an bình cho tha nhân, nhất là khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới; nhưng trước hết, là cho những người bên cạnh chúng con bằng đời sống phục vụ và yêu thương. Amen. Amen.

76. Thánh Thần trong đời sống
Ngày lễ ngũ tuần có nguồn gốc sâu xa, được cử hành hàng năm của người Do Thái xưa họ mừng 50 ngày sau lễ Vượt Qua, còn gọi là ngày lễ Ngũ Tuần. Lễ này, người ta ăn mừng mùa gặt mới, đồng thời nhớ lại biến cố Thiên Chúa ban hành lề luật qua Môsê trên núi Sinai. Y nghĩa này nói lên tuyển dân là dân giao ước, Thiên Chúa đã chọn và gọi giữa các dân tộc và trong thử thách sa mạc Sin.
Dĩ nhiên trên đây không phải là lịch sử chi tiết của ngày lễ, nhưng để chúng ta có chút khái niệm về nguồn gốc và ngộ ra nội dung súc tích của lễ này đối với tín hữu tiên khởi. Như vậy lễ Năm Nươi có liên hệ trực tiếp với lễ Vượt Qua, kỷ niệm khổ nạn, cái chết, phục sinh và lên trời của Chúa Giêsu. Nó cũng mừng mùa gặt mới. Bởi lẽ các môn đệ tụ họp nhau ở gian phòng trên lầu, nơi Chúa Giêsu ăn bữa tiệc ly cùng các môn đệ, để lãnh nhận “Thánh Thần”, nghĩa là mùa gặt mà Chúa Giêsu đã gieo trồng bằng cuộc đời, khổ nạn, cái chết, phục sinh và lên trời của Ngài. Chắc chắn mùa gặt này đầy nước mắt và đau khổ. Trong Công Vụ Tông Đồ có điễn tả những điềm lạ khi Chúa Thánh Thần xuất hiện “Khi đến ngày lễ ngũ tuần… Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào nhà… Và ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần, họ bắt đầu nói thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho…”. Và kết quả là: mọi người từ các nơi quy tụ về Gierusalem: Từ Pacthia, Mêđia, Pontô, Elam… để nghe các tông đồ rao giảng và chứng kiến các điềm thiêng dấu lạ. Nhưng để được điều này cac ong cần phải
1. Để Thánh Thần hướng dẫn.
Chúa Thánh Linh là dấu hiệu của sự hợp nhất Công Vụ khởi đầu bằng việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Hội Thánh non trẻ, chẳng mấy chốc sẽ “hành động” một cách rất tích cực, nhờ Thánh Linh, mà loan truyền danh Đức Kitô cho đến tận cùng hành tinh, bất chấp vất vả, khó khăn, bách hại và cái chết. Nhưng ngày nay, những nhà truyền giáo trong nhung lụa, tiện nghi, biện minh rằng để “tiện lợi” cho việc tông đồ. Người ta quen đặt tên cho Công vụ là Phúc Âm của Thánh Linh. Điều đó không hề sai, nếu chúng ta nghiền ngẫm hoạt động của Ngài trong Hội Thánh tiên khởi. Ngày xưa các tông đồ rao giảng bằng sự soi sáng của Thánh Thần. Còn chúng ta ngày nay rao giảng bằng ngôn ngữ gì? Có lẽ tiền bạc, chức quyền, khoái lạc, hứa hẹn? Toàn là mị dân, thảo nào, chẳng ai hiểu được! Vậy thì lễn Năm Mươi vẫn chính xác là lễ “mùa gặt mới”. Chúng ta góp công thế nào vào mùa gặt thiêng liêng này?
Chúa Kitô đã gởi Chúa Thánh Thần xuống và chúng ta đã lãnh nhận. Hãy bắt trước các tông đồ, ra đi khắp thế gian rao giảng Đấng phục sinh cho muôn dân, dạy dỗ họ hy vọng lớn lao: thân xác dầu phải chết, cũng sẽ sống lại. Còn sứ vụ nào cao quý và chân thật hơn? Đấu tranh giai cấp, thần học giải phóng, hiện sinh, tiến hoá, Freud, Jung, Karl không thể so sánh bằng. Đốt cháy cả bản thân bằng lửa nhiệt thành truyền giáo vẫn chẳng nhằm nhò gì! Quý vị có cảm nhận như vậy chưa? An hưởng sung sướng, tiện nghi không mang ích lợi cho sứ vụ Chúa trao trong thời gian “đợi chờ” này. Chúng ta là một cộng đồng “chờ đợi” với các môn đệ tiên khởi của Chúa Giêsu, hoặc xa hơn nữa với các tổ phụ Do Thái trong đức tin chân chính.
2. Để Thánh Thần biến đổi
Vì thế giới này chưa phải là thiên đàng để vui hưởng khoái lạc. Một cái nhìn nhang chóng vào tình hình địa cầu ắt sẽ hiểu rõ ràng như vậy: Nghèo khó, chiến tranh, chém giết, biết bai trận khủng bố. Chưa hết, còn trong những đoàn thể Công Giáo, xem ra như đoàn kết với những phương châm lý tưởng, nhưng cũng không ít chia rẽ giáo xứ, tu viện, đoàn thể, ly khai khỏi Giáo Hội hoàn vũ vẫn là vấn đề nhức nhối triền miên của các môn đệ Chúa Kitô. Đáng lý, những sự kiện này phải là nhắc nhớ sống động cho chúng ta, chứ không phải nhởn nhơ như chuyện của thiên hạ, ngày ngày chỉ lo thư giãn, dã ngoại, đình đám, kỷ niệm. Vì thế, điều trước mắt là chúng ta hãy đem ngọn lửa Thánh Thần đến những nơi này và cầu xin cho các đau khổ của thế giới chấm dứt, cho đổ vỡ của Giáo Hội được hàn gắn, cho gia đình và thiên nhiên khỏi bị phá hoại, cho ước mong của Chúa Giêsu mau trở thành hiện thực.
Vậy lễ Hiện Xuống phải nên như biến cố nhắc nhở môn đệ thực sự của Chúa Kitô: Thiên Chúa không hề bỏ rơi Hội Thánh. Chúa Giêsu tuy không còn hiện diện hữu hình nữa, nhưng như Ngài đã hứa không để tín hữu mồ côi, Ngài sẽ sai Thánh Linh xuống dạy dỗ, an ủi, thánh hoá họ. Hôm nay, lời hứa đó đã được thực hiện và Giáo Hội đã ra đời, một cuộc khai sinh đầy hứa hẹn. Các môn đệ quy tụ ở phòng tiệc ly đã trở nên một cộng đồng, có đầy đủ thân xác và linh hồn. Thân hình này khởi sự một sức sống mới, thở hơi thở của Thần khí vĩnh cửu và toàn năng. Ngoài ra, người ta rao giảng nhiều về hiệp nhất và tình yêu, nhưng chỉ là mông lung tưởng tượng chứ thực chất không hiểu chi về ý nghĩa của lưỡi lửa. Nó cụ thể, hữu hình và đốt cháy. Các môn đệ tiên khởi đã cảm nghiệm đúng thực tại ấy, các kẻ theo Chúa ngày nay thì sao? Nếu như họ được lưỡi lửa thiêu đốt thực thì không còn như hiện trạng, nguội lạnh và ươn lười. Thiên Chúa luôn sẵn sàng gửi Thánh Linh của Ngài xuống, để giúp đỡ họ giao lưu thân thiện với Đức Kitô, bất chấp những sự ác hiện tại: chiến tranh khốc liệt, nghèo đói cùng cực, khai thác tài nguyên cạn kiệt, bạo lực không phân biệt.
Lạy Chúa, xin cho con biết mở rộng lòng đón nhận tất cả dưới “lưỡi lửa” của tình yêu. Không còn chia rẽ, phân tán, thất vọng, bất đồng ý kiến, thương yêu giả hiệu, lừa dối trục lợi. Nhưng hiệp nhất trong mối dây tình yêu chân thành. Amen.

77. Thánh Thần Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ.)
Đức Giêsu đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các môn đệ khi Ngài từ cõi chết phục sinh: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga.20, 22-23). Khi Đức Giêsu còn ở dương thế, Ngài đã xin Thiên Chúa Cha để Cha ban Thánh Thần cho các môn đệ (Ga.14, 16); và khi Ngài sống lại từ cõi chết, Ngài đã ban Thánh Thần như Ngài đã hứa trước (Ga.15, 26). Khi tại dương thế, Ngài sống thân phận con người, nên Ngài tùy thuộc tất cả nơi Thiên Chúa. Trong mọi chuyện, Ngài phải xin Thiên Chúa. Ngài tùy thuộc ý Thiên Chúa như con người cần của ăn: “của ăn của thầy là làm theo ý Đấng đã sai thầy” (Ga.4, 34).
Đức Giêsu tùy thuộc Thiên Chúa trong mọi chuyện, đến độ “tất cả những gì con có đều là của Cha, tất cả những gì Cha có đều là của con” (Ga.17, 10). “Ta và Cha là một” (Ga.10, 30). Đức Giêsu đã đồng nhất với Thiên Chúa trong tất cả, nhưng Ngài vẫn là Ngài, khác với Cha. Ngài vẫn cầu nguyện (Mc.1, 35), vẫn luôn tìm ý Thiên Chúa Cha trong mọi lúc, đặc biệt nơi vườn dầu (Lc.22, 42), có lúc Ngài cũng có cảm tưởng Thiên Chúa bỏ rơi Ngài (Mc.15, 34) nhưng Ngài vẫn hoàn toàn phó thác tất cả cho Thiên Chúa (Lc.23, 46). Ngài tùy thuộc Thiên Chúa đến độ Ngài không còn là Ngài nữa, mà là Thiên Chúa hiện diện nơi Ngài (Ga.14, 10-11). Ngài tùy thuộc Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa: “Ông là người mà dám cho mình là Thiên Chúa” (Ga.10, 33).
Thánh Thần cũng tùy thuộc Thiên Chúa Cha, và là Đấng được sai bởi Thiên Chúa Cha (Ga.14, 16). Thánh Thần cũng được chính Đức Giêsu Phục Sinh ban tặng cho các tông đồ (Ga.20, 22). Thánh Thần sẽ nhận lấy những gì của Đức Giêsu mà loan báo cho các tông đồ, vì tất cả những gì Đức Giêsu có đều là của Cha (Ga.16, 13-15). Nơi Thánh Thần cùng Đức Giêsu Phục Sinh và Thiên Chúa Cha, tất cả đều là chung; tuy nhiên vẫn phân biệt Cha, Đức Giêsu Phục Sinh, và Thánh Thần. Đức Giêsu nói với Philíp: “anh không tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy sao?” (Ga.14, 9-10). Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha tuy là một nhưng vẫn là hai, là Thiên Chúa Cha và là Đức Giêsu. Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu Phục Sinh, và Thánh Thần tuy là ba nhưng vẫn là một trong mọi sự. Thánh Thần tùy thuộc Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu Phục Sinh, đến độ có thể nói Thánh Thần là Thiên Chúa.
Khi dùng cụm từ “đến độ có thể nói,” có thể làm cho người ta hiểu rằng Đức Giêsu Phục Sinh và Thánh Thần khác và kém Thiên Chúa Cha, nhưng thực ra không muốn nói như vậy. Cả ba là một trong tất cả, nên không có vấn đề hơn kém nhau ở đây. Thiên Chúa chỉ là một; không có Con thì không có Cha; có Con có Cha thì có Thánh Thần Tình Yêu.
Thánh Thần đã được ban cho con người, để ở mãi với con người (Ga.14, 16). Thánh Thần sẽ dạy con người những gì cần thiết (Ga.14, 26), Ngài sẽ giúp các môn đệ làm chứng cho Đức Giêsu, và chính Ngài cũng làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh qua những con người (Ga.15, 26). Thánh Thần dẫn con người vào sự thật trọn vẹn (Ga.16, 13). Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, mà không nhờ bởi Thánh Thần (1Cor.12, 3). Mười tông đồ và các chị phụ nữ loan báo tin mừng phục sinh cho một tông đồ Thomas trong suốt cả một tuần nhưng vẫn không thành công (Ga.20, 24-25) nhưng với ơn của Thánh Thần, các tông đồ đã được biến đổi, các tông đồ đã làm được những điều kỳ diệu.
Thánh Thần biến đổi con người. Là những người ít học, nhát đảm sợ sệt nhưng khi Thánh Thần tỏ hiện quyền năng trong ngày lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đã can đảm đứng ra rao giảng làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh. Chính Thánh Thần đã quy tụ dân chúng lại để cho các tông đồ rao giảng (Cv.2, 5-6), cũng chính Thánh Thần làm cho những người nghe được hiểu và tin nhận lời rao giảng của các tông đồ, giúp họ tin vào Đức Giêsu, và cho họ chịu phép rửa (Cv.2, 37.41). Điều con người không làm được, thì Thánh Thần đã làm một cách tuyệt vời (Ga.14, 12).
Trong suốt dòng lịch sử, Thánh Thần vẫn đã và đang tiếp tục làm những điều kỳ diệu. Bao nhiêu người đã tin vào lời rao giảng của các tông đồ và của những người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Bị bách hại, các tông đồ và các Kitô hữu tiên khởi đã không hề sợ hãi, sẵn sàng bỏ nhà cửa tài sản để sống niềm tin vào Chúa Phục Sinh. Chính đời sống tự do, hân hoan, và tràn đầy niềm tin sức sống của họ đã trở thành lời rao giảng và là bằng chứng của Chúa Phục Sinh và Thánh Thần của Người, đã làm nhiều người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Chính Thánh Thần đã làm tất cả những điều này trong dòng lịch sử.
Trong dòng lịch sử, bao nhiêu giáo đoàn của những nơi xa lạ đã được các nhà truyền giáo tới rao giảng. Những nhà truyền giáo là những người của Thánh Thần. Họ sẵn sàng bỏ tất cả để sống theo tác động của Thánh Thần. Họ bỏ cha mẹ, anh chị em họ hàng, bao nhiêu ước vọng của tuổi trẻ, để trở thành tình yêu của Thiên Chúa nơi đất khách quê người, nơi những dân tộc xa lạ. Chính Thánh Thần vẫn tiếp tục làm lời rao giảng của họ được tiếp nhận cho dù họ rao giảng với những giới hạn của ngôn ngữ nơi địa phương xa lạ. Và rồi với những bách hại do hiểu lầm, do những thế lực ác, Thánh Thần vẫn làm các nhà truyền giáo trung kiên sống giữa môi trường nguy hiểm đó, vẫn làm các ngài coi nhẹ cái chết để loan báo Tin Mừng, vẫn làm những tín hữu tiên khởi dám hy sinh mạng sống để trung thành với Thiên Chúa, giữ vững đức tin.
Ngày nay, Thánh Thần vẫn đang hoạt động trong lòng mỗi người, nơi những người sống đời dâng hiến cũng như những người đang sống trong những môi trường khác nhau. Để trở thành những người con ngoan của Thiên Chúa, con người vẫn cần Chúa Thánh Thần một cách đặc biệt, để sống trung thành và yêu mến, cả trong môi trường tu viện và trong môi trường đời. Thánh Thần vẫn đang hiện diện nơi những môi trường bị sự dữ thống trị, để đánh động, để nâng đỡ những người khốn khổ đang quằn quại dưới ách sự ác, để làm bao người tội lỗi ăn năn sám hối trở lại với Thiên Chúa, sống theo đường ngay nẻo chính. Thánh Thần quả là Đấng tuyệt vời, đang ở gần gũi mỗi người, để dạy dỗ, hướng dẫn, thêm sức, và giúp con người tự do hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có kinh nghiệm “bất lực” và cần Thiên Chúa giúp bạn làm điều tốt không?
2. Bạn có ý thức và cầu nguyện với Chúa Thánh Thần không? Theo kinh nghiệm của bạn, Thánh Thần là ai? Ngài có chỗ trong đời bạn không? Xin chia sẻ kinh nghiệm.

78. Nhờ Chúa Thánh Thần
“Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Có rất nhiều cách gọi về Chúa Thánh Thần và những tên gọi đó nói lên những công việc mà Chúa Thánh Thần chuyên làm. Ví dụ như Đấng Bảo Trợ, Thần Chân Lý, Đấng An Ủi, Thần Khí Lời Hứa, Thần Khí Đức Chúa, Thần Khí Vinh Hiển. Và chính nhờ những khả năng “bẩm sinh” đó mà Chúa Thánh Thần đã nâng đỡ cho con người trên mọi nẻo đường của cuộc sống cũng như giúp cho con người gắn kết với Thiên Chúa nhiều hơn.
Chính nhờ bàn tay đa tài của Chúa Thánh Thần mà chúng ta được tái sinh và được nhận biết Cha làm con Chúa qua phép rửa bởi Thánh Thần. Ta hãy nghe lời của Thánh Irênê: “Bí Tích Thánh Tẩy ban cho chúng ta ơn tái sinh trong Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Vì những ai mang trong lòng Thánh thần của Thiên Chúa, họ được dẫn đến Ngôi Lời, nghĩa là Ngôi Cha. Chúa Con dâng họ cho Chúa Cha và Chúa Cha ban cho họ sự sống bất diệt. Vậy không có Thánh Thần thì không thể thấy Thiên Chúa Cha, không có Chúa Con không ai đến gần Chúa Cha, vì chỉ có Chúa Con mới nhận biết Chúa Cha, và nhận biết Chúa Cha là nhờ Chúa Thánh Thần”. Vậy chính Thánh Thần là Đấng khởi sự niềm tin và khơi nguồn sự sống cho chúng ta. Nhờ Thánh Thần mà ta nhận biết Chúa Cha và Đấng Cha đã cử đến là Đức Giêsu Kitô (x. Ga 17,3). Thánh Phaolô đã nhấn mạnh lại điều này: “Nếu không được Thánh Thần giúp sức cho không ai có thể nói rằng: Giêsu là Đức Chúa” (1 Cr 12,3). Rồi cũng phải nói thêm rằng, nếu không có Thánh Thần chúng ta không thể giữ được niềm tin ấy. Đức Giêsu đã hứa cho chúng ta nghị lực của Thánh Thần để bên vực giúp ta “bước đi vững vàng theo thánh chỉ và thi hành những ước muốn của Người”, giúp chúng ta đối mặt với kẻ thù. “Anh em đừng sợ phải nói gì vì Thánh Thần sẽ nói trong anh em”. Đó là một lời hứa đã có từ trong Cựu Ước – thời mà Thánh Thần còn mù mờ trong con mắt của con người. “Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm” (Ge 3,1). Lời ấy được thực hiện trong ngày lễ Ngũ Tuần. Các tông đồ đầy tràn Thánh Thần, bắt đầu lên đường loan tin mừng Chúa phục sinh mà không sợ hãi bất cứ một thế lực nào. Nếu các ngài không có “lửa” của Thánh Thần thì các ngài không thể làm được việc gì. Như lời Phaolô khẳng định: “Thần Khí mà chúng ta lãnh nhận không phải là Thần Khí nhát sợ”.
Thánh Thần còn làm cho cuộc sống chúng ta nên mật thiết với Thiên Chúa hơn. “Nhờ Thánh Thần mà chúng ta sống chứ xác thịt nào có ích gì” (Ga 6, 63). Nhờ thánh Thần mà trong tâm tình nghĩa tử chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha và trờ nên đồng thừa tự. “Cha của Thầy cũng là Cha của Anh em”. “Vì đã chịu phép rửa trong cùng một Thánh Thần nên chúng ta đầy tràn một Thánh Thần duy nhất” (1 Cr 12,13). “Chính thánh Thần là nước trường sinh chảy ra từ cạnh sườn Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá và chảy thành sự sống đời đời cho chúng ta” (GLHTCG 694). Và trong tư cách là Đấng Bảo Trợ, Thánh Thần sẽ giúp đỡ cho chúng ta là những kẻ yếu hèn. “Chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp bằng những tiếng rên siết khôn tả” (Rm 8, 26). Cũng do Thánh Thần biết rõ chúng ta cần gì và điều gì thì đẹp ý Chúa hơn nên khi Thánh Thần cầu xin thì chúng ta được Chúa dễ dàng được nhậm lời.
Chúa Thánh Thần quan trọng trong cuộc đời chúng ta. Chính Đức Kitô đã phải chết để cho chúng ta nhận lãnh dồi dào Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, gần như chúng ta ít khi nghĩ về Chúa Thánh Thần và cầu xin cùng Ngài, nghe theo sự hướng dẫn của Ngài. Ngài chính là nội lực dẫn dắt chúng ta về với sự thật và tình yêu. Không nhờ Thánh Thần chúng ta không sinh được hoa trái nào tốt đẹp. Mất Chúa Thánh Thần đời chúng ta như cây không còn nước: khô khan, mệt mõi, lạnh lẽo và sẽ chết dần chết mòn. Vậy chúng ta hãy sám hối để được tha tội và anh em sẽ được ân huệ Thánh Thần (x. Cv 2, 38).
“Lạy Chúa Thánh Thần, xin sự thánh thiện của Người hoạt động trong con, để con có thể nghĩ về Thiên Chúa; đánh động con, để con có thể hành động cho Thiên Chúa; khích lệ con để con có thể yêu mến Người; tăng sức cho con, để con có thể trung tín với Người; xin giữ con để con không bao giờ lìa bỏ Người” (Thánh Augustinô. Trích từ bài giảng số 17 của Thánh Gioan Maria Vianney).

79. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Hiện Xuống, chúng ta kỷ niệm việc Chúa Thánh Thần Hiện Xuống trên các Thánh Tông Đồ. Mừng lễ hôm nay, chúng ta vui mừng và xác tín vì chúng ta có một chuyên viên toàn năng, thông biết mọi sự, sẵn sàng và có thể hướng dẫn chúng ta trong những nỗi khó khăn.
Bài Phúc Âm hôm nay (Ga 20, 19-23) diễn tả niềm vui và cảm nghiệm quí báu nhất của các Tông Đồ khi xem thấy Chúa, Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín. Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình anh cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” Rồi Người thổi hơi trên họ và nói: “Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần” (Ga 20,19-22). Các ông vui mừng vì mình được ơn Chúa Thánh Thần, họ cảm nghiệm được sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa Giêsu ở với họ. Một cảm nghiệm về tình yêu sâu xa của Chúa dành cho họ qua sự chết, và sống lại của Người. Nhờ Chúa Thánh Thần, họ gắn bó trọn vẹn cuộc đời của họ với Chúa Giêsu và trở nên những môn đệ trung thành dấn thân phục vụ Ngài trong việc rao giảng Tin mừng.
Là người Kitô hữu, trong bậc sống là cha mẹ trong gia đình, nếu chúng ta muốn con cái lớn lên trong tình yêu và sự tin tưởng nơi Thiên Chúa, nếu chúng ta muốn chúng yêu thương và tin tưởng nơi chúng ta, nếu chúng ta muốn chúng cũng yêu thương và tự tin nơi chính bản thân mình, điều trước hết là chúng ta phải làm là, thể hiện tình yêu thương thật sự, vì qua tình yêu, nó giúp con cái tự nhận ra được những cảm nghiệm yêu thương sống động này trong cuộc đời của chúng (2 Tx 3, 7). Chẳng hạn, khi cha mẹ dạy dỗ con cái, hãy nói với con cái rằng cha mẹ yêu thương con. Cha Mẹ yêu thương con không phải vì con được điểm cao, học giỏi hay tài năng, cũng không phải vì con đã làm tốt, nhưng yêu thương con chỉ vì con là con của Cha mẹ. Nên nhớ rằng, mặc dù điều này rất đơn giản, nhưng nó có một hiệu quả tốt hơn là những đòi hỏi phải vâng lời dựa trên sự sợ hãi và đe dọa. Con cái trẻ sẽ cảm nghiệm tuyệt vời rằng: “Mình được yêu bởi vì mình là mình” đây là tình cảm có tính cách chữa lành đối với con cái. Một cảm nghiệm về sự hiện diện yêu thương của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống của chúng.
Bằng tình yêu thương tha thiết, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, trong thân xác sống lại của Ngài, thân xác Vinh Quang của Thánh Thần để các môn đệ cảm ghiệm được niềm vui và sự an bình mới lạ trong đời sống của họ (Lc 24, 39). Điều quan trọng nhất trong công việc mục vụ của một Kitô hữu là trở nên “khí cụ bình an của Chúa” (Mt 10,12; Rm 12, 18), là cảm nghiệm được tình yêu thương của Thiên Chúa đang ở với chúng ta và chia sẻ tình yêu đó ra cho mọi người xung quanh (1Tx 2, 8; Pl 1, 8; ĐGH Phaolô VI – Evangelii Nuntiandi đoạn 79). Thiên Chúa cũng muốn chúng ta khám phá ra rằng chính chúng ta phải là những nhân chứng đã cảm nghiệmđược sự hiện diện của Đức Kitô qua ThánhThần để mang lại nguồn vui và sự bình an cho mọi người (1Ga 3,16-18). Chúa Giêsu cũng hứa ban Chúa Thánh Thần khi Ngài sai chúng ta đi vào thế giới đang cần đến chúng ta. Chúa Thánh Thần làm cho cuộc sống của chúng ta dường như trống rỗng được biến đổi trở nên đời sống mới trong Chúa Giêsu Kitô (2 Cr 4, 7). Ngài làm cho chúng ta vui tươi và bình an như Tin mừng công bố: “Bình an cho các con” (Ga 20,19) cuộc sống vẫn luôn luôn đẹp vì có Chúa Thánh Thần là món quà vô giá của Thiên Chúa ban cho chúng ta (1 Cr 1, 4-9). Thế giới vẫn luôn được Thánh Thần hướng dẫn và mang chúng ta đến để hoàn thành công trình sáng tạo và cứu rỗi của Người (Ep 1, 3-14; Gl 5, 22-23; Gaudium et Spes đoạn 11). Trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Thánh Thần là Đấng phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta cảm nghịêm được sự ngọt ngào của tình yêu Thiên Chúa (Ga 14, 16; Cv 7, 55; 1, 8;Ep 1, 14; 1Pr 1, 12).
Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta đứng trước sự lựa chọn: chọn một nghề để sống, chọn một người bạn đời, chọn một cách thức đối xử với nhau. Chúng ta có nhiều lựa chọn. Lựa chọn nào tốt nhất? Chúa Thánh Thần sẽ chỉ cho chúng ta, nếu chúng ta hướng về Ngài và xin Ngài chỉ dẫn. Có lúc chúng ta không có ý tưởng gì về điều chúng ta có thể làm: tình cảnh xem ra vô vọng, vô phương như trước cái chết của một người thân, trước sự thất bại của công việc chúng ta không biết phải làm gì. Hãy xin Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ chỉ dẫn cho bạn. Rẩt may mắn nếu tôi có một người bạn làm luật sư, một bác sỹ, một tâm lý gia, một cố vấn hôn nân, một chuyên viên về mọi lãnh vực, một người bạn biết mọi vấn đề, một người bạn rất thân thiết mà tôi có thể lui tới bất cứ lúc nào, ngày cũng như đêm và giả thiết người ấy sống trong nhà tôi. Đó là Chúa Thánh Thần, Ngài đang sống trong tôi. Ngoài việc chỉ cho chúng ta điều chúng ta phải làm, Chúa Thánh Thần còn giúp chúng ta thực hiện nữa vì Ngài là Thiên Chúa, là Đấng Toàn Năng cũng như thông biết mọi sự. Chúng ta kêu cầu người trong Ca tiếp liên trong thánh lễ hôm nay; ” Xin hãy đến, Lạy ánh sáng của tâm hồn’. Nhiều lần trong kinh nguyện Thánh Thể chúng ta cầu xin với Ngôi Ba Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã hứa “Người sẽ dạy chúng con tất cả sự thật”
Lạy Chúa Thánh Thần, xin xuống tràn ngập tâm hồn các tín hữu, và xin nhóm lửa tình yêu Chúa trong lòng chúng con. Amen.

80. Thánh Thần tình yêu
(Suy niệm của Lm Giuse Phạm Thanh Liêm)
Mùa Phục sinh kết thúc với Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Chúa Nhật sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là lễ Chúa Ba Ngôi, và Chúa Nhật sau lễ Chúa Ba Ngôi là lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu.
Các con hãy nhận lấy Thánh Thần
Buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu Phục Sinh đã hiện ra cho các tông đồ. Ngài thổi hơi trên các ông và bảo: “các con hãy nhận lãnh Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì người ấy được tha”.
Trong ca tiếp liên: “Nếu không có Chúa trợ phù, trong con người chẳng còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội. Xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa lành nơi thương tích”. Trong lời tha tội của bí tích xá giải, linh mục đọc: “Thiên Chúa là Cha nhân từ hay thương xót, Chúa đã dùng cái chết và sống lại của Con Chúa để giao hoà thế gian với Chúa, và đã ban Thánh Thần để tha tội…”
Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá, Đấng làm cho con người được giao hoà với Thiên Chúa, Đấng tha tội cho con người, Đấng làm cho con người trở thành con Thiên Chúa.
Thánh Thần – Đấng trợ phù
“Không ai có thể nói ‘Đức Giêsu là Chúa’ mà không nhờ bởi Thánh Thần”. Thánh Thần giúp con người tin vào Đức Giêsu. Không có ơn của Chúa Thánh Thần, không ai có thể tin vào Đức Giêsu được.
Có nhiều ân sủng, có nhiều đặc sủng, nhưng chỉ do một Thánh Thần. Thánh Thần ban cho người này ơn tiên tri, ban cho người kia ơn thông hiểu, ban cho người khác ơn lãnh đạo,… Có nhiều chức vụ, nhiều đặc sủng, nhưng tất cả đều do bởi một Thánh Thần. Cũng chính Thánh Thần liên kết chúng ta nên một, dù chúng ta thuộc thành phần nào, dân tộc nào, chúng ta vẫn làm nên một thân thể trong Đức Giêsu, cũng nhờ chỉ một Thánh Thần. Thánh Thần làm cho con người hiểu nhau, thông cảm lẫn nhau, thương yêu nhau, giúp đỡ lẫn nhau.
Thánh Thần giúp chúng ta cầu nguyện, giúp chúng ta sống đẹp lòng Chúa, làm chúng ta trở nên con người mới. Thánh Thần là Đấng làm mới tất cả.
Thánh Thần là Thiên Chúa
Nhờ Đức Giêsu phục sinh, và các tông đồ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói với các ngài khi Đức Giêsu còn sống đời dương thế, các tông đồ “với ơn của Thánh Thần” đã nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, và sau đó Thánh Thần là Thiên Chúa.
Thánh Thần có cùng nguồn gốc nơi Thiên Chúa, Ngài ở nơi Thiên Chúa “Khi Đấng bảo trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha” (Ga.15, 26), được Cha và Đức Giêsu sai gởi “Nhưng Đấng bảo trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga.14, 26).
Sứ mạng của Thánh Thần là ở với con người: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em Đấng bảo trợ khác, đến ở với anh em luôn mãi” (Ga.14, 16), dạy con người mọi sự (Ga.14, 26), làm chứng cho Đức Giêsu (Ga.15, 26), dẫn con người tới sự thật trọn vẹn (Ga.16, 13).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần luôn ở với bạn, và gần gũi với bạn không?
2. Thánh Thần có thể làm bạn trở thành “con người mới”. Bạn hiểu “con người mới”, là người như thế nào?
3. Lời kinh nào về Chúa Thánh Thần mà bạn thích nhất?

81. Chúa Nhật Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Anh chị em thân mến.
Trong cuộc sống đời thường, có những người giàu và người nghèo. Có những người nhờ cha mẹ ông bà tạo cho họ hoàn cảnh sống mà họ trở nên giàu có. Cũng có những người nhờ dịp may nào đó, họ biết tận dụng nên đời sống được cải thiện tốt hơn.
Cũng có những người biết tận dụng những gì mình có, như tài năng sức lực và trí thông minh để vương lên. Những người biết tận dụng hoàn cảnh sống để vương lên như thế, đời sống của họ không đến nỗi tệ. Nhưng cũng có những người được cha mẹ lo lắng, để lại của cải,sau một thời gian họ vẫn không vương lên được, đôi khi còn rơi vào cảnh bần hàn. Có những người có dịp may đến với mình, như trúng số, hay được người nào đó ủng hộ, bảo bọc, thế mà họ vẫn không vương lên được. Cũng có những người có đầy đủ sức khỏe, trí óc thông minh, nhưng họ vẫn đành chịu cảnh bần hàn, cơ cực. Đó là vì họ không biết xử dụng những hoàn cảnh, dịp may mà mình đã có, hay họ xử dụng không đúng cách để những gì mình có bị tiêu hao đi một cách vô lý.
Hoàn cảnh sống vẫn đầy đủ cho mọi người. Dịp may mỗi người cũng không phải thiếu. Nhưng điều quan trọng là mỗi người có biết xử dụng cho đúng những gì mình có để vương lên, hay phung phí nó một cách vô ý thức.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Biến cố mà chúng ta vừa nghe, vừa chứng kiến Chúa Giêsu đã thực hiện cho các môn đệ của Ngài. Các môn đệ được ban bình an, hơi thở của sức sống mới, sức sống của Đấng Phục Sinh. Ngài đã ban sức sống mới và trao trách nhiệm cho những môn đệ thân yêu. Ngài đã làm thay đỗi hoàn toàn cuộc sống của các ông, vì các ông biết nhận lãnh những gì Ngài ban, biết gìn giữ và biết xử dụng những gì mình đang có.
Từ một con người không có gì hết, các ông đã có tất cả. Từ một người nhát đảm sợ sệt, các ông đã trở thành can đảm lạ thường, ngay cả cái chết cũng không sợ. Từ một người ù lì dốt nát, các ông đã trở nên thông minh lanh lợi, khiến cho bao nhiêu người phải tức giận vì không thể tranh luận nỗi với các ông. Đó là vì các ông đã nhận lãnh Chúa Thánh Thần , và các ông không để cho những gì mình có trở nên vô ích. Các ông đã biết xử dụng ơn Chúa một cách tốt đẹp, nên Ơn Chúa sinh ích lợi cho các ông và cho những người nhờ các ông mà cũng nhận lãnh Ơn Chúa như các ông.
Ơn Chúa Thánh Thần cũng đã đến với từng người trong chúng ta, ngày lãnh bí tích rửa tội, thêm sức, và trong suốt những ngày sống trên trần gian, Ơn Chúa Thánh Thần luôn đầy tràn bao bọc lấy mỗi người. Ơn Chúa vẫn tràn đầy, nhưng con người thì một số đông vẫn còn thiếu, vì không biết xử dụng Ơn Chúa. Một số sống dường như không cần đến Ơn Chúa, họ chỉ sống theo ý riêng tư, thỏa mản dục vọng, đi tìm những thú vui trần thế, tìm những lợi lộc cho bản thân mà không cần biết đến người chung quanh.
Họ chỉ biết có bản thân mình, nên để tự ái lên quá cao, đường như chỉ có con người của họ là trên hết. Còn một số dường như phung phí Ơn Chúa, họ lạm dụng những gì Thiên Chúa ban để mưu tìm lợi ích riêng tư, dùng danh nghĩa Thiên Chúa để làm lợi cho bản thân mình bằng cách này hay cách khác. Cũng có những người lãnh nhận Ơn Chúa rồi để cho Ơn Chúa bị chết ngạt đi, vì tính lười biếng, nên Ơn Chúa không sinh lợi gì cho họ cũng như cho những người chung quanh. May mắn thay, Ơn Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động vững mạnh nơi những người trung thành như các môn đệ khi xưa. Trong bất cứ thời đại nào cũng có những người biết xử dụng Ơn Chúa, biết làm cho sinh lợi cho mình và cả cho những người chung quanh. Họ sinh lợi bằng đời sống tốt đẹp, bằng những hành động bác ái, những cử chỉ yêu thương. Họ biết làm giàu đời sống mình bằng những Ơn Thánh đã nhận được.
Chúng ta, những người ngồi trong nhà thờ này, đang là những người giàu hay người nghèo Ơn Chúa Thánh Thần. Mỗi người cứ nhìn vào đời sống chính mình, nhìn vào những việc làm đã qua, nhìn vào những gì mình đã được và mất, chúng ta sẽ biết mình như thế nào.
Xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho mỗi người chúng ta biết xử dụng Ơn Chúa cho chính đáng.

82. Những lời trịnh trọng sau hết
Vào một buổi sáng tinh sương, các khách hàng đang ngồi ăn và xì xèo với nhau trong một tiệm ăn sáng, thì đột nhiên một người chạy vào tiệm ăn và hét lớn, “Mọi người hãy bỏ chạy nhanh lên, Big Jake đang vô đây!” Khi mọi người đang quính quít lên bỏ chạy thì một gã đàn ông to lớn đạp cửa đi vào và nói với người chủ quán, “Cho tôi một gallon cà phê.” Người chủ quán liền cấp tốc pha một gallon cà phê cho Big Jake. Sau khi uống xong, người chủ quán hỏi tiếp, “Thưa ông, ông có muốn uống thêm 1 gallon nữa không?” “Không cần đâu,” Big Jake trả lời, “Tôi cần phải đi bởi vì tôi nghe nói rằng Big Mike đang đến.”
Bài Phúc Âm hôm nay tả lại cái cảnh buổi tối ngày Chúa Nhật Phục Sinh thứ nhất. Các tông đồ đang sợ hãi trốn tránh sau cánh cửa đóng kín và khóa chặt. Họ sợ bị bắt và sẽ bị giết như chính Thầy của họ. Họ sợ rằng họ sẽ là những người kế tiếp sẽ bị đóng đinh. Tuy thế, sự sợ hãi của họ đã làm cho họ lầm lạc. Chúa Giêsu đã phục sinh và đang đến với họ.
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín vì các ông sợ người Do thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!… Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em… hãy đón nhận lấy Thánh Thần” (Gn 20:19-22).
Vào ngày Lễ Hiện Xuống hôm nay, Chúa Giêsu đến với chúng ta. Ngài đang hiện diện ở đây và nói với mỗi người chúng ta rằng, “Bình an cho các con… như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con…” Hy vọng rằng chúng ta sẽ được giải thoát khỏi những mối bận tâm và lo lắng và chiếm đoạt được sự bình an trong tâm hồn.
Chúa Giêsu đến với con người và chứng tỏ quyền năng cao cả của Đấng Phục Sinh. Ngài đã phục sinh để qua đó chúng ta được ơn bình an trong tâm hồn, để đem đến cho chúng ta sự sung mãn, và làm cho chúng ta có thể chiếm được sự sống hoàn hảo và hoàn toàn mãi mãi.
Tất cả mọi người chúng ta đều đã cảm nghiệm được “Những Ánh Nắng của Thiên Chúa” ở ngoài bờ biển, trên núi cao, hoặc là những nơi khác. Điều đáng buồn đó là chúng ta cần những cái gì mà nó đập thẳng vào mắt của chúng ta. Cũng như thế, sự Phục Sinh của Chúa Kitô hiện diện ở khắp mọi nơi ở tạo vật, ở mọi người mà chúng ta gặp ở ngoài đường phố. Tất cả mọi sự chung quanh chúng ta đều được trang trí bằng sự hiện diện của sự thần linh của Thiên Chúa. Đó là điều mà Tân Uớc vẫn nói với chúng ta. Tuy nhiên đó chỉ là một sự bắt đầu.
Chuyện đã xảy ra cho các Kitô hữu thời sơ khai đó là Thiên Chúa đã đến và ngự giữa họ, và họ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa bằng một cách mới mẻ, mạnh mẽ, trào tràn, và đầy đủ, mà họ không thể nào giữ nổi trong mình. Họ phải đi để chia sẻ về Tin Mừng này.
Điều mà họ nhận thức được từ trong nội tâm của họ đó là sự yêu thương của Chúa Cha hiện diện ở trong Người Con của Ngài, Người Con đã đang hiện diện ở giữa họ như là một mẫu gương tuyệt hảo cho sự sống của mọi người.
Rất nhiều người nhìn thấy Chúa Giêsu, nhưng có bao nhiêu người nhận ra Ngài? Rất nhiều người nhìn thấy bóng của Ngài, dân của Ngài, và lời giáo huấn của Ngài, thế nhưng đếm ngón tay có được bao nhiêu người nhận ra Ngài? Chỉ có một số rất ít người đã nhìn thẳng vào Ngài và nói với Ngài, “Con tin rằng Ngài là Con Thiên Chúa… Ngài là nguyên nhân của sự vui mừng… Con vui mừng khi có sự hiện diện của Ngài ở giữa con.”
Trong cuốn sách trích lại những lời quí hóa cuối cùng của các vĩ nhân có ghi lại những lời của những người sau đây.
Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã trối, “Tôi thấy nhức đầu quá.”
Tác giả của tờ báo Washington Irving đã nói, “Thôi, tôi phải xếp gối để chuẩn bị cho một buổi tối mệt mỏi! Khi nào thì việc này mới kết thúc!”
Nhạc sĩ Beethoven đã nói, “Các bạn hãy vỗ tay, màn kịch đã chấm dứt!”
Thánh Gioan Tông Đồ đã ghi lại lời cuối cùng của Chúa Giêsu, “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.”
Trong khi chúng ta ra đi như lời Chúa Giêsu đã truyền dạy, chúng ta đừng ngại làm với bàn tay lấm lét. Nếu những người láng giềng hoặc cộng đoàn cần đến sự giúp đỡ, chúng ta hãy mau mắn đáp lại. Đừng để cho sự ích kỷ trà trộn vào trong tâm hồn chúng ta. Nếu một người nào đó đang cần sự tha thứ, chúng ta đừng để cho lòng thù hận che đậy sự công chính của mình. Nếu một anh chị em đang cần giảm đi sự cô đơn, chúng ta đừng để cho mình bị bám chặt vào cái tính thờ ơ lãnh đạm.
Thế giới của chúng ta đang sống tràn đầy những đau khổ. Nhiệm vụ của chúng ta đó là làm những gì mình có thể để giảm bớt đi những khổ đau đó. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho người khác được hạnh phúc để chúng ta cũng sẽ được hưởng sự hạnh phúc. Thiên Chúa sẽ rất hài lòng với chúng ta bởi vì chúng ta làm theo lệnh Ngài truyền.

83. Thánh Thần sức mạnh tình yêu
Niềm tin vào Chúa Giêsu Phục sinh không phải là điều dễ dàng với sức riêng con người. Hơn nữa, niềm tin ấy là cốt lõi của đạo chúng ta. Niềm tin ấy sẽ hướng dẫn cả cuộc đời của người tín hữu. Vì thế, chúng ta phải cần nhờ đến một sức mạnh thiêng liêng. Sức mạnh ấy do chính Thiên Chúa Cha ban cho. Đó là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta nhớ lại khi Chúa Giêsu bị bắt, thì các Tông đồ đã trở nên những người hoang mang. Các ông chỉ còn biết vào phòng đóng kín cửa. Thế rồi, tâm trạng sợ hãi của các ông không còn nữa khi Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến. Bởi vì khi đến cùng các ông, Chúa Giêsu đã trao ban bình an và Chúa Thánh Thần cho họ. Từ những người nhút nhát, bấy giờ các ông đã được biến đổi thành những người can đảm và mạnh dạn lạ thường.
Nhìn vào Giáo hội, chúng ta cũng sẽ thấy gần 2000 năm qua Giáo hội đã trải qua biết bao sóng gió. Có lúc tưởng chừng mất hết hy vọng, hết phương cứu chữa. Thế nhưng nhờ có sức mạnh của Chúa Thánh Thần nên Giáo hội vẫn còn đứng vững và lớn mạnh cho đến ngày nay.
Chúa Thánh Thần cũng đã ở với Chúa Giêsu từ giây phút được thụ thai cho đến dưới chân thập giá. Chúng ta đã được Giáo hội dạy tuyên xưng rằng: “Bởi phép Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã chịu thai trong lòng Đức Mẹ”. Đặc biệt, trong vườn Câu Dầu nếu không có sức mạnh của Chúa Thánh Thần thì có thể nói Người đã không thể hoàn thành được sứ mạng Chúa Cha trao phó.
Vậy Chúa Thánh Thần là Đấng nào?
Qua Giáo lý, Giáo hội dạy ta biết: “Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ Ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, cùng một bản tính và một quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy”. Nói cách khác, Chúa Thánh Thần chính là sức mạnh tình yêu xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con.
Chúa Thánh Thần được biểu tượng bằng gió, nước, lửa, khí,… Vì thế, Chúa Thánh Thần thật là cân thiết trong đời sống của mỗi người chúng ta.
Mỗi người chúng ta được Thiên Chúa qua Giáo hội trao ban Chúa Thánh Thần khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Cách đặc biệt, khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm sức. Nhờ có Chúa Thánh Thần mà chúng ta được soi sáng để biết cần phải làm gì mà đẹp lòng Thiên Chúa Cha. Hơn nữa, cũng chính Người sẽ dạy ta biết cầu nguyện.
Bằng cách nào ta có thể biết Chúa Thánh Thần còn ở trong ta. Thánh Phaolô chỉ cho trong thư gởi tín hữu Galata như sau: “Hoa quả của Thánh Thần là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5, 22-23a). Như vậy, khi ta sống ghen ghét, đố kỵ, ganh tỵ, hận thù, chia rẽ… là lúc ta không còn để cho sức mạnh tình yêu của Chúa Thánh Thần ngự trị trong tâm hồn ta. Những lúc ấy chúng ta hãy mau quay về xin Chúa Thánh Thần chữa lành và đổi mới cách sống của mình.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần là sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa ban cho chúng con biết để cho Người hướng dẫn đời con. Bởi vì tự sức mình, con không thể sống đẹp lòng Thiên Chúa Cha được.

84. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Ngày nay, tại sao Giáo Hội lại kém phát triển về số lượng, chưa nói tới chất lượng? Có phải vì cách loan báo Tin Mừng của chúng ta không phù hợp với thời đại? Người thời đại mong mỏi Giáo Hội làm gì cho xã hội, thế giới?
2. Con người thời đại, nhất là người nghèo, người bị áp bức, cần chúng ta thể hiện tình thương đối với họ qua sự chăm sóc, giúp đỡ, nâng họ lên, hay họ cần chúng ta rao giảng Đức Kitô cho họ? Họ cần chân lý hay tình thương?
Suy tư gợi ý:
1. Thánh Thần tạo biến đổi lạ lùng nơi các tông đồ
So sánh tâm lý của các tông đồ trong bài Tin Mừng và trong bài đọc I hôm nay, ta thấy có sự biến đổi hết sức lạ lùng trong một thời gian hết sức ngắn: chỉ hơn một tháng. Sau khi Thầy mình bị giết, các ông sợ hãi người Do Thái đến độ phải ở chung với nhau cho đỡ sợ, và phải đóng kín cửa. Thế mà ngay sau khi Thánh Thần hiện xuống, các ông trở nên hết sức dạn dĩ: dám công khai biểu lộ và làm chứng niềm tin của mình vào Đức Giêsu Kitô và sự sống lại của Ngài, bất chấp bị bắt bớ, tù đày và cả cái chết lúc nào cũng sẵn sàng đến với các ông. Bị tù nhiều lần, nhưng lần nào cũng như lần nấy, vừa ở tù ra là các ông lại tiếp tục rao giảng Đức Kitô một cách công khai, không lén lút. Chính vì thế, hầu hết các tông đồ đã bị giết một cách thê thảm vì danh Đức Giêsu.
Tâm lý con người ai cũng ham sống sợ chết, ham sướng sợ khổ, ham giàu sợ nghèo, ham vinh sợ nhục. Nhưng tình yêu đối với Thiên Chúa và nhân loại, cùng với ơn biến đổi của Thánh Thần, đã làm các tông đồ và rất nhiều Kitô hữu vượt lên những nỗi sợ đó, để dám làm những gì lý tưởng và lương tâm mình đòi buộc: «Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Cv 5,29).
2. Thánh Thần biến đổi là để thi hành sứ mạng
Bài Tin Mừng cho ta thấy lời chúc bình an, lời sai đi, và việc lãnh nhận Thánh Thần đi chung với nhau. Đức Giêsu nói: «Chúc anh em được bình an! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em». Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: «Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần». Như vậy, việc lãnh nhận Thánh Thần là để thực hiện sứ mạng mà Đức Giêsu sai chúng ta làm, với tâm hồn bình an, không sợ sệt lo lắng. Thánh Thần làm cho tâm hồn các tông đồ bình an, và có bình an trong tâm hồn, các ông mới đủ can đảm để công khai làm chứng cho Đức Giêsu. Do đó, để lãnh nhận Thánh Thần và ơn bình an, chúng ta phải có lý tưởng là sẵn sàng làm chứng cho Đức Giêsu Kitô, cho Thiên Chúa, cho chân lý, cho công lý, cho hòa bình giữa mọi người. Thánh Thần không ban ơn của Ngài cho những người không có lý tưởng, không có tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Vì giả như có được ơn Thánh Thần, họ cũng chẳng ích lợi gì cho ai, mà thậm chí gây hại, vì khi không có tình yêu và lý tưởng, họ sẽ lạm dụng những ơn ấy.
3. Sứ mạng của người Kitô hữu
Ngày nay, tỷ lệ Kitô hữu tại châu Âu bị suy giảm trầm trọng, và có vẻ như không tăng lên tại châu Á. Điều ấy khiến mọi Kitô hữu phải suy nghĩ và đặt lại vấn đề cách thức loan báo Tin Mừng của mình, có thể nó không hợp với nhu cầu hay đòi hỏi của thời đại. Con người thời đại này đã thay đổi rất nhiều so với cách đây 50 năm. Hoàn cảnh (văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, trình độ khoa học kỹ thuật, nhu cầu con người, v.v…) đã thay đổi, khiến não trạng, cách nhìn, cách suy nghĩ, lối sống của con người không còn như xưa. Vì thế, nếu chúng ta vẫn giữ cách thức loan báo Tin Mừng như thời tổ tiên ta, e rằng việc loan báo không còn hợp thời và hữu hiệu nữa.
Người thời nay chịu ảnh hưởng não trạng khoa học thực nghiệm rất nhiều. Họ không thể tin vào lời nói xuông như cha ông họ cách đây 50 hay 100 năm. Họ cần thực chứng, vì đầu óc của họ thực tế hơn xưa rất nhiều. Ngày nay, người ta không thể tin được một Kitô hữu miệng thì luôn luôn nói về tình thương, mà cách sống thì tỏ ra chẳng tình nghĩa với ai. Giới trẻ thời nay đã chán ngấy cái cảnh cha mẹ mình hằng ngày đi lễ, rước lễ, xin Chúa xót thương ban cho mình đủ thứ ơn lành, nhưng lại luôn luôn tỏ ra ích kỷ, bảo thủ quyền lợi, và lãnh đạm trước sự đau khổ hay nhu cầu cấp bách của người chung quanh. Não trạng thực tế khiến người thời đại nhìn thấy rất rõ sự tương phản giữa lời rao giảng và cách sống của những người chuyên loan báo Tin Mừng. Lời rao giảng dù có hay, hùng hồn, hấp dẫn, nhưng không được minh chứng bằng đời sống thực tế của người rao giảng, thì chẳng lôi cuốn được ai!
Ngày nay, khắp nơi trên thế giới, chỗ nào cũng có những bất công, đàn áp, người nghèo bị khinh miệt và càng ngày càng nghèo hơn, người bị gạt ra ngoài lề xã hội ngày càng nhiều, sự bóc lột giữa người với người ngày càng tinh vi, sự chênh lệch giữa người giầu và người nghèo, giữa nước giầu với nước nghèo ngày càng lớn, và biết bao thảm trạng khác. Nhưng thử hỏi: mỗi người Kitô hữu chúng ta đã làm gì trước tình trạng xấu ác đó? Biết bao Kitô hữu không hề quan tâm, đến nỗi không ý thức gì về tình trạng ấy! Biết bao Kitô hữu biết nhưng mặc kệ, ai ra sao thì ra, miễn đời sống mình bình an đầy đủ là được rồi! Biết bao Kitô hữu đã im lặng vì muốn an thân, không muốn bị liên lụy, cho dù sự lên tiếng của mình có thể cải thiện được tình trạng không nhiều thì ít! Biết bao Kitô hữu chẳng những không lên tiếng, mà còn thỏa hiệp hay hùa theo sự ác, chỉ vì quyền lợi của mình! Bất chấp và mặc kệ cho sự ác, sự khổ, bất công, nghèo đói hoành hoành, nhiều Kitô hữu vẫn an tâm rao giảng thứ Tin Mừng giải phóng, là «Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù được sáng mắt, cho kẻ bị áp bức được tự do, v.v…» (Mt 4,18). Làm sao người thời nay với não trạng khoa học thực nghiệm có thể tin vào lời của những ngôn sứ không hề có những hành động nào đích thực là ngôn sứ? Những người nghèo khổ, những người bị áp bức, những người bị bất công đang chờ đợi hay mong mỏi chúng ta làm gì? Họ mong chúng ta cứu họ thoát khổ, lên tiếng chống lại áp bức bất công, hay họ mong chúng ta rao giảng Đức Giêsu Kitô cho họ, hoặc cho họ biết rằng Ngài là Cứu Độ duy nhất? Họ cần chúng ta cụ thể hóa tình thương của ta đối với họ, hay họ cần chúng ta rao giảng chân lý? Chúng ta đã làm gì?
Đã từ lâu, chúng ta quá hăng say rao giảng chân lý, mà quên mất hoặc không để ý đến những nhu cầu cụ thể và thực tế của dân chúng. Họ cần tình thương, nhưng chúng ta chỉ cho họ chân lý! nói đúng hơn là cho họ một mớ lý thuyết về chân lý! Đạo của chúng ta mà như thế thì còn hấp dẫn được ai? Vì thế, đừng lấy làm lạ tự hỏi tại sao Kitô giáo lại bị giảm sút tại châu Âu và không phát triển được tại châu Á. Người Kitô hữu hãy yêu nhau và yêu tất cả mọi người trước đã, đừng quan tâm tới việc rao giảng vội! Chính đời sống yêu thương của người Kitô hữu mới là lời giảng hùng hồn và hữu hiệu nhất cho thời đại khoa học thực nghiệm hiện nay. Người Kitô hữu cứ sống yêu thương và thực hiện hay làm chứng cho công lý trước đã, toàn thế giới sẽ tự động trở nên Kitô hữu sau. Còn hăng say rao giảng mà không yêu thương, mà coi nhẹ công lý, thì mọi lời rao giảng đều «chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng» (1 Cr 13,1), hoàn toàn vô ích!
4. Cần có sự biến đổi
Giáo Hội hiện nay cần Thánh Thần biến đổi hơn bao giờ hết. Biến đổi trước hết là não trạng loan báo Tin Mừng. Chúng ta chỉ thích loan báo bằng lời nói, chứ không phải bằng đời sống, bằng việc làm cụ thể. Cần phải thay đổi não trạng đó nếu muốn Giáo Hội tồn tại và phát triển. Sứ mạng của Giáo Hội là sống và thực hành yêu thương hơn là rao giảng chân lý. Tôi không có ý coi nhẹ việc rao giảng chân lý, nhưng phải coi việc sống yêu thương là quan trọng hơn, và quan trọng hơn rất nhiều. Và chỉ có tình thương đích thực mới làm chúng ta mạnh dạn, can đảm như các tông đồ, dám coi thường tất cả (bắt bớ, tù đày, chết chóc) để nói lên tiếng nói ngôn sứ của mình. Cũng như chỉ có tình thương đối với con mình mới có thể thúc đẩy người cha hay người mẹ xông vào hiểm nguy để cứu lấy con mình. Ơn Thánh Thần mà Giáo Hội và mọi Kitô hữu rất cần hiện nay là tình yêu thương.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần, xin đổ ơn của Ngài xuống trên từng người chúng con, đặc biệt ơn biết yêu thương, biết hy sinh vì người khác, để chúng con loan báo Tin Mừng một cách hữu hiệu bằng chính đời sống yêu thương được biểu hiện bằng những hành động cụ thể như Đức Giêsu đã dạy, chứ không chỉ loan báo bằng lời nói xuông. Amen.

85. Chúa Thánh Thần, Đấng thông ban mọi sự
Chúa Giêsu khi chịu chết trên Thập Giá, Ngài đã bị tên lính lấy lưỡi đòng đâm thấu cạnh nương long để máu cùng nước chảy ra từ đó sinh ra nguồn sự sống cho nhân loại, khai sinh Giáo hội Chúa Kitô. Nhưng để Giáo hội ấy được giới thiệu với thế giới thì phải đợi đến 50 ngày sau tức vào ngày Lễ Ngũ Tuần, phải đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống thì dân Do Thái hay nói rộng hơn là thế giới mới nhận ra khuôn mặt của Giáo hội Chúa Kitô. Như thế, Chúa Thánh Thần đã làm một cuộc đổi mới nơi Giáo hội, đã hoàn tất những gì mà Chúa Giêsu đã thực hiện nơi đời sống dương thế của Ngài. Hôm nay mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống ta hãy suy niệm để thấy được vai trò của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội cũng như trong chính cuộc sống chúng ta.
Trước hết, Chúa Thánh Thần là Đấng hiệp nhất trong Giáo hội. Giáo hội được Chúa Kitô thiết lập mà các tông đồ là những tín hữu đầu tiên. Ngay trong cuộc thương khó của Chúa Kitô, các tông đồ, các môn đệ đã bỏ chạy tán loạn. Sau khi Chúa Phục sinh mặc dù các tông đồ có hội họp lại với nhau nhưng sự hiệp nhất này là vì sợ hơn là vì tin vào Chúa phục sinh, bằng chứng là Tôma đã có lần không cùng hiệp nhất với các môn đệ khác. Nhưng trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống các ông đã có mặt đông đủ và như trong bài đọc Tông Đồ Công Vụ 2,1-11 thuật lại rằng “Mọi người kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của họ”. Chính Chúa Thánh Thần đã biến đổi những con người tầm thường thành những con người truyền giáo, từ những người phường chài ít học trở nên người nói lời Thiên Chúa cách lưu loát và đặc biệt Chúa Thánh Thần biến đổi mọi người để họ cùng nghe và cùng hiểu Tin Mừng của Thiên Chúa được loan báo cho mọi dân tộc.
Nhìn vào Giáo hội ngày nay Chúa Thánh Thần đóng vai trò hiệp nhất trong Giáo hội cách đặc biệt. Ngài hiệp nhất muôn dân tộc, muôn người… để cùng tuyên xưng vào một Thiên Chúa duy nhất. Trong Chúa Thánh Thần không có khoảng cách, không có ranh giới. Dù có sự khác nhau về địa lý, và bản sắc văn hoá nhưng tất cả đều nên một trong Chúa Kitô.
Chúa Thánh Thần là nguồn động lực và phát kiến cho mọi hoạt động tông đồ. Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu và ngay cả khi Chúa Giêsu Phục Sinh thì các tông đồ luôn sống trong sợ hãi, luôn sống trong hoang mang bí lối… Nhưng với sự kiện Chúa Thánh Thần hiện xuống thì các ông đã biến đổi một cách rõ rệt. Một Phêrô nhút nhát chối Thầy nay mạnh dạn tuyên xưng: vị chịu chết trên Thập Giá là Thầy mình, là Thiên Chúa, và cùng với Gioan ông đã mạnh dạn tuyên bố “Nghe lời các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa điều ấy có phải lẽ không?” (Cv 4,19). Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần mà các tông đồ hăng say đi rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô Phục Sinh và với những con người tham sống sợ chết mà nay lại dám lấy mạng sống mình để minh chứng Đấng chịu chết trên Thập Giá là Thiên Chúa. Sự lớn mạnh của Giáo hội thời sơ khai chính là bằng chứng cho thấy rõ sự hoạt động của Chúa Thánh Thần như: Các tông đồ mạnh dạn đi loan báo Tin Mừng, thiết lập các phó tế, thành lập các giáo đoàn, Rửa tội cho dân ngoại.. Như thế chính Chúa Thánh Thần là nguồn động lực và phát kiến mọi hoạt động tông đồ.
Chúa Thánh Thần vẫn hằng hoạt động trong Giáo hội chúng ta ngày nay đơn cử như Giáo hội Việt Nam chúng ta. Năm 1553 Tin Mừng được loan báo đến nước Việt Nam chúng ta nhưng phải trải qua nhiều gian lao khó khăn. Và hàng vạn người đã lấy mạng sống mình để tuyên xưng niềm tin. Nhìn với khía cạnh con người đây qủa là một thất bại vì sự mất mát quá lớn. Nhưng dưới tác động của Chúa Thánh Thần thì những khó khăn, tù đày, nhục hình… được mặc cho một ý nghĩa lớn lao hơn, nó như là hạt giống ươm mầm cho ngày nay nước Việt Nam có hàng triệu con người Việt Nam tin vào Thiên Chúa. Và hiện nay Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động âm thầm qua những biến cố, những cảnh huống của cuộc sống để đưa dẫn mọi người vững bước trên con đường đi theo Chúa.
Còn nhiều, còn nhiều những tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống của Giáo hội nói chung và trong mỗi con người chúng ta nói riêng. Như thế chúng ta phải sống như thế nào để cộng tác với Chúa Thánh Thần Đấng vẫn hằng hoạt động trong chúng ta.
Chúa Thánh Thần là Đấng thiêng liêng, vô hình. Chẳng phải Chúa Thánh Thần chỉ được ví như là lửa, gió, nước… Nhưng phải nhớ rằng Ngài là Đấng thiêng liêng và hoạt động của Ngài là vô tận nên ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần để Ngài ban cho ta nhận được đâu là thánh ý Thiên Chúa muốn chúng ta hoàn thành trong đời sống của mình. Mặt khác, chúng ta đừng bó buộc Chúa Thánh Thần phải là như thế này như thế kia, nhưng Ngài là tất cả nên chúng ta phải suy ngắm để khám phá được Ngài.
Chúa Thánh Thần là Đấng hiệp nhất và Ngài muốn chúng ta là dụng cụ để Ngài thực hiện sự hiệp nhất đó trong gia đình, trong lối xóm, trong xã hội… Nên khi trong chúng ta có sự bất hoà là khi chúng ta đi ngược lại với sự tác động của Thần Khí.
Chúa Thánh Thần là nguồn và phát kiến mọi hoạt động tông đồ. Hãy để Chúa Thánh Thần hành động trong chúng ta. Hãy hoạt động hết khả năng của mình trong sự suy ngắm và cầu nguyện để rồi Chúa hoàn tất những gì Ngài muốn thực hiện.
Hôm nay mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần đổi mới mọi sự trong ngoài chúng ta để chúng ta được trở nên mềm mại trong lòng bàn tay Thiên Chúa từ đó Ngài sẽ làm nên những tác phẩm đẹp ý Ngài.

86. Suy niệm của Lm Lâm Thái Sơn
Mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần
Đối với một vài quốc gia thuộc Châu Âu, lễ «Chúa Thánh Thần Hiện Xuống» là lễ trọng, do đó ngày nghĩ lễ cũng được kéo dài, có nhiều xưởng hãng cho phép «nghỉ bác cầu» từ chiều thứ năm đến sáng thứ ba tuần sau. Và ta thấy từng đoàn xe nhôn nhao rời khỏi làng hoặc thành phố nơi mình trú ngụ để đi đây đi đó, lên núi hoặc xuống miền biển nắng ấm. Nếu những ngày đó có mặt trời và ta được dịp đi biển, hẳn nhiên ta sẽ chứng kiến những cánh buồm nho nhỏ hoặc ra khơi hoặc đùa giỡn với những làn sóng biển nhờ những luồng gió thổi mạnh. Con người chỉ cần lèo lái và ung dung đùa giỡn trên mặt biển, nhưng điều cần thiết là phải có gió.
Vậy thì bài đọc thứ nhất hôm nay cũng cho chúng ta nhận thấy tầm quan trọng của Gió, vì gió và lửa biểu tượng sự hiện diện của Thần Linh Thiên Chúa: «khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió thổi mạnh, lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện, và mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần» (Cv 2,1-11).
Khi đề cập đến «gió, lửa, mây mù, sấm chớp» như dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, ta cần nhớ lại một vài đoạn Kinh Thánh: Lúc khởi đầu sáng tạo trời đất, thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước (St 1,1-2); lúc giải thoát dân It-ra-en ra khỏi đất Aicập vượt qua Biển Đỏ: Thiên Chúa cho một cơn gió đông thổi mạnh dồn biển lui, nước rẽ ra và con cái It-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn (Xh 14,15-31); lúc ban mười điều luật: Cả núi Xi-nai nghi ngút khói, vì Thiên Chúa ngự trong đám lửa mà xuống và cả núi rung chuyển mạnh (Xh 19,16-24).
Gió không những biểu tượng sự hiện diện của Thiên Chúa, mà còn tượng trưng Thần Linh Thiên Chúa, vì Thần Khí là sự sống. Với lời văn bóng bẩy, tác giả sách Sáng Thế viết: Lúc tạo dựng, Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật (St 2,7); Trong sách Gióp, ông Êlihu nói: Sinh khí Thiên Chúa đã làm ra tôi, hơi thở của Đấng Toàn Năng đã cho tôi được sống (G 33,4). Lời văn tuy giản dị nhưng rất gợi hình và đầy ý nghĩa. Phải chăng khi đề cập đến người chết, ta cũng đã từng nói rằng (ông/bà) đó đã trút hơi thở cuối cùng. Vì hơi thở là sự sống, là Thần Khí, do đó sau khi Đức Giêsu Phục Sinh: Nơi các môn đệ ở, Ngài đến giữa các ông và nói «bình an cho anh em», đoạn Ngài thổi hơi cho các ông và bảo «anh em hãy nhận lấy Thánh Thần» (Ga 20,19-23). Từ lúc đó, các môn đệ lãnh nhận sức mạnh của Chúa Thánh Linh.
Và Giáo Hội cũng được khai sinh vào lúc Thần Linh Thiên Chúa ngự trên các môn đệ với những dấu chỉ gió và lưỡi lửa trong ngày lễ Ngũ Tuần. Lễ mừng kỷ niệm ngày khai sinh của dân Hy-bá tại núi Xi-nai đã trở thành ngày khai sinh của một Dân tộc mới, và từ nay Thần Khí đến thay thế Lề Luật. Ở núi Xi-nai, Lề Luật được ghi khắc bất động vào đá như một bảo chứng về lâu dài. Ngược lại, lửa và sinh khí của Thần Linh Thiên Chúa không bị chế ngự và giam kín, mà luôn soi sáng sứ điệp Tin Mừng cũng như thúc giục con người biết sống tự do không bị ràng buộc bởi tội lỗi, biết yêu thương như chính Thiên Chúa yêu thương.
Do đó, lễ Hiện Xuống được xem như biến cố phá tan những ranh giới văn hoá, sắc tộc, địa dư và tôn giáo tại Ít-ra-en. Từ nay nhân loại hoàn vũ với những khác biệt ngôn ngữ, văn hoá, não trạng và truyền thống được mời gọi làm công dân Nước Thiên Chúa, chứ không chỉ riêng một dân tộc Ít-ra-en nhỏ bé khép kín với những đặc ân thuở xưa; hơn nữa, dấu chỉ thuộc dân riêng không cần được ghi khắc vào da thịt (nghi thức cắt bì) mà khắc ghi vào tim trong hoán cải canh tân.
Sự đa dạng của các dân tộc được xem như điều phong phú cho nhân loại, tuy nhiên tính cách đó, trong bóng tối tội lỗi, có cơ nguy gây chia rẽ và thù hận giữa con người với nhau, thí dụ điển hình cho sự bất hạnh nhân loại đó là «tháp Ba-ben»: dự án xây dựng một thành phố với tháp có đỉnh cao chọc trời, một dự án ngạo mạn loại bỏ Thiên Chúa, tức nhiên chối từ tình yêu đưa đến sự xáo trộn tiếng nói và từ đó nhân loại bị phân tán khắp nơi trên mặt đất (St 11,1-9).
Vậy thì lễ Hiện Xuống được xem như một sự đối chọi vang lừng với tháp Ba-ben: Lúc đó, tại Giêrusalem vào lễ Ngũ Tuần, mọi người kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các Tông Đồ nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt, thán phục… (Cv 2, 1-11), bởi vì vượt trên các thổ ngữ, có một thế giới ngữ đó là tiếng nói của tình yêu và cũng chính là ngôn từ của Thiên Chúa.
Để đánh dấu điều mới mẻ căn bản của triều đại Thần Khí và các phẩm hạnh của vương quốc cần xây dựng tại trần thế, thánh Phaolô có viết trong bài đọc hai: Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa… Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa… Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: «Áp-ba! Cha ơi!» (Rm 8,8-17).
Tóm lại, nếu không có Thần Linh Thiên Chúa thì cũng không có Giáo Hội và chúng ta cũng không trở thành anh em. Nếu chúng ta được tràn đầy Thánh Thần, chúng ta sẽ nói những thứ tiếng hoàn toàn khác với những ngôn ngữ của thế giới ngày nay đang truyền đạt sự sùng bái các thần tượng, bao gồm những đam mê danh vọng, hận thù tranh chấp, ganh tị và chia rẽ. Nếu được tràn đầy Thánh Thần, mỗi người chúng ta sẽ phát biểu tuỳ theo ơn Chúa ban cho; lúc đó chúng ta sẽ là chứng tá của Đức Kitô, là sứ giả của Tin Mừng và Thần Khí chứng thực cho chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa.

87. Nguồn sống
“Chúa thổi hơi trên các ông và bảo: anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Ga 14,22.
Sự sống con người có hai điều rất cần thiết và rất gần gũi: đó là hơi thở và nhịp đập của trái tim. Dĩ nhiên còn nhiều cái khác cũng rất cần thiết, ở đây ta chỉ bàn về hai điều này thôi. Trước hết, hơi thở: đó là thứ vô cùng cần thiết. Không có nó không thể có sự sống và nó đồng nghĩa với cái chết. Để diễn tả sự chết, người ta nói: nó hết thở rồi (nghĩa là đã chết). Hơi thở quan trọng như thế, vậy mà bình thường không ai để ý nó, cũng không mấy người quan tâm gìn giữ nó cẩn thận. Đợi tới khi gần chết, thiếu hơi thở, lúc đó ta mới thấy nó cần thiết vô cùng…Rồi nói tới nhịp đập của con tim: hơi thở nhiều lúc ta còn chủ động, còn dễ thấy, nhưng nhịp đập của trái tim lại là một hoạt động tự phát của cơ thể; nhiều lúc ta không thấy cần nó, nhưng nó lại là thứ không thể thiếu cho sự sống…. Hơi thở, nhịp đập con tim cần cho sự sống thể xác thế nào, thì Chúa Thánh Thần cũng cần thiết cho sự sống linh hồn ta y như vậy. Đó chính là đề tài ta sẽ suy niệm ngày lễ Chúa Thánh Thần hôm nay.
a. Một vài danh từ chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa:
* thổi hơi: đây là một cử chỉ chúc phúc. Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ người là để chúc phúc cho họ, cũng để trao ban Thánh Thần và ơn sủng Người cho các ông.
* hãy nhận lấy Thánh Thần (Gn 20, 22): tiếng Hêbrơ dịch là: Ruah; Hi lạp dịch là: Pneuma; la tinh dịch là: spiritus: có nghĩa gió, hơi thở – khi dùng từ gió và hơi thở để chỉ về Chúa Thánh Thần, điều đó muốn nói: Chúa Thánh Thần là Đấng có năng lực kỳ diệu như gió, như hơi thở, Đấng trao ban sự sống. Dù Ngài thật thần thiêng, nhưng lại hoạt động mãnh liệt trong nội tâm mọi người cùng với chính Thiên Chúa.
b. Hoạt động của Chúa Thánh Thần trong vũ trụ và trong Hội Thánh:
Ngay từ chương đầu của sách Sáng thế ký,đã có nói về Chúa Thánh Thần. Chính Thánh Thần Thiên Chúa đã hoạt động và sáng tạo vũ trụ, sáng tạo con người cách tốt đẹp và lạ lùng… Đến khi Con Thiên Chúa, Đức Giêsu xuống trần gian, ta cũng thấy mọi công việc và hoạt động của Người đều có sự hướng dẫn và thúc đẩy của Chúa Thánh Thần…Rồi chính Hội thánh Chúa Giêsu đã lập ở trần gian, trước khi Chúa về trời, Người đã giao lại cho các tông đồ, chính Hội thánh đó đã đầy ơn sủng của Chúa Thánh Thần; nhất là từ ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần đã hiện diện sống động trong hội thánh trong các tông đồ từ hôm đó. Chính Người là nguyên lý, là động lực, là sức mạnh tác động trên các tông đồ, trong Hội thánh.
Người không tin Chúa Thánh Thần, họ nói: làm sao để chứng minh Chúa Thánh Thần đang hiện diện trong hội thánh? Cùng lắm Hội Thánh ở trần gian là một tổ chức hữu hình, có cơ cấu khéo léo hơn các tôn giáo khác!…Ta tin vào Chúa Thánh Thần không phải là không có căn cứ: 1. vì chính Chúa Giêsu trước khi về trời đã hứa ban Chúa Thánh Thần. 2. các tông đồ trước ngày lễ Ngũ tuần, rất nhút nhát, ít học; vậy mà sau khi được ơn Chúa Thánh Thần, họ sẵn sàng làm mọi chuyện, ngay cả hi sinh chính mạng sống mình. 3. Hội thánh qua 20 tk gặp biết bao sóng gió, tưởng có lúc tan tành rồi; vậy mà đến hôm nay vẫn đứng vững. Thực ra, nếu không có Thánh Thần, Hội thánh tự mình đứng vững được chăng?
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
* Hoạt động của Chúa Thánh Thần, dù không thầy rõ như hai cộng hai là bốn, nhưng rõ ràng có nhiều biến cố trong Hội thánh không thể cắt nghĩa được nếu không nói đến ơn sủng của Chúa Thánh Thần. là người kitô hữu, ta có tin không?
* Chúa Thánh Thần là sức sống, ngồn mạch mọi ơn sủng, là hơi thở, là nhịp đập của con tim, không thể thiếu cho mọi kitô hữu. Ta có tin, có năng chạy tới và cầu nguyện với Chúa Thánh Thần không? Bằng mọi cách, ta có cố gắng sống theo sự chỉ dẫn của Người không?

88. Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
THÁNH THẦN HIỆP NHẤT YÊU THƯƠNG
Đúng năm mươi ngày sau Lễ Chúa Giêsu Phục Sinh, Giáo hội long trọng mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống, Đấng đã đến để đốt lên lửa mến yêu và truyền ban lòng can đảm loan báo Tin Mừng cho các môn đệ.
Không hiểu sao tuy đã được chứng kiến tận mắt Chúa Phục Sinh, được đàm đạo và ăn uống với Ngài, được nghe tận tai lời sai bảo làm nhân chứng cho Nước trời, ấy thế mà các người theo Chúa vẫn lo sợ. Chỉ biết cửa đóng then cài. Mãi cho đến một hôm, đang lúc họ hội nhau đông đủ trên phòng kín, thì bỗng từ trời có cơn gió mạnh. Tiếng rào rào như thể cuồng phong. Và lập tức, một quang cảnh kỳ lạ diễn ra: những lưỡi lửa xuất hiện, đậu trên từng người. Kết quả là ai nấy đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Hiện tượng gió thổi trong ngày lễ Hiện xuống nhắc lại sự việc “khí thần bay là trên mặt nước” trong sách Sáng Thế Ký; bên cạnh đó, hình ảnh các tông đồ đầy tràn thần khí cũng gợi lên hình ảnh con người đầu tiên được thổi vào mình đầy hơi sự sống. Như thế, biến cố Hiện xuống đã trở nên một cuộc tạo thành mới, với Thánh Thần Thiên Chúa được thổi vào thế giới để khai sinh một nhiệm thể sống động là Giáo hội của Đức Kitô.
Bằng việc loan báo Tin Mừng, khởi đi từ các thánh tông đồ, một thời đại mới đã khởi đầu. Đó là thời đại mà Giáo hội được hướng dẫn và thánh hoá dưới tác động của Ngôi Ba Thiên Chúa.
Đặc sủng loan báo Tin Mừng được Chúa Thánh Thần ban xuống qua hình lưỡi lửa đậu trên đầu các tông đồ. Hình lửa này tượng trưng cho sự hiện diện đầy quyền năng của Thiên Chúa, như xưa kia Moisen đã tiếp cận sự hiện diện thần linh qua ngọn lửa cháy nơi bụi gai (Xh 3).
Ngay sau khi tiếp nhận ơn Chúa Thánh Thần, như lời tường thuật của Luca trong sách Tông Đồ Công Vụ, các môn đệ đã thay đổi thái độ sống. Họ mở tung cánh cửa của rụt rè nhát đảm. Họ mạnh bạo cất tiếng nói. Tiếng nói đã phát ra từ miệng lưỡi của những con người đánh cá quê mùa, thất học. Nhưng tiếng nói ấy đã được dân chúng từ 13 vùng đất–đại diện cho các dân tộc từ bắc chí nam, từ đông sang tây–nghe và hiểu. Tất cả đều là nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Ngày xưa, khi lòng dạ con người kiêu căng ngạo mạn với trời, đ¨°i xây tháp Baben để lên đương đầu với Thiên Chúa, tiếng nói của họ, tuy là anh em một nhà, đã trở nên bất đồng. Mầm mống rối loạn, mơ hồ, kình địch, và phân ly đã nảy sinh. Người ta không còn hiểu nhau. Kết quả là phân tán. Ngày nay, Thần Khí đã xuống để qui tụ con cái từ muôn nước về cùng một mối, giúp họ hiểu nhau trong cùng một thứ ngôn ngữ là tình yêu và vinh quang của Thiên Chúa.
Theo niềm tin Kitô giáo, Thánh Thần là sức mạnh của yêu thương mà qua đó Chúa Cha đã trao ban trọn vẹn chính mình cho Chúa Con. Chúa Con đón nhận trọn vẹn sự sống từ nơi Cha, và rồi trong tình yêu của Thánh Thần, Ngài đã dâng lại trọn vẹn cho Cha. Như thế, Chúa Thánh Thần chính là Tình Yêu Hiệp Thông trong Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài cũng chính là nguồn ơn thông hiệp mọi tâm hồn trong cùng một niềm tin vào Đức Giêsu.
Như lời Thánh Phaolô khẳng định: “Trong Thần Khí độc nhất, hết thảy chúng ta nhờ thanh tẩy mà được nhập vào Thân Mình độc nhất…, và hết thảy đều đã được cùng uống một Thần Khí độc nhất” (1 Cor 12:13). Như thế, những hành vi, thái độ hay lời nói gây nên phân rẽ, rối loạn trong lòng Giáo hội đều tương phản với đường lối của Thánh Thần.
Thần Khí độc nhất liên kết mọi thành phần Kitô hữu chính là Thần khí thương yêu. Vì chỉ có yêu thương mới có nên một. Có yêu thương mới có the đạt đến việc cùng nhau thông hiệp trọn vẹn trong Thiên Chúa. Thánh Gioan đã nhấn mạnh: “Nếu ta yêu mến nhau, thì Thiên Chúa mới lưu lại trong ta. Nơi điều này mà ta biết là mình lưu lại trong Người và Người ở trong ta, đó là Thánh Thần mà Người đã ban cho ta” (1 Ga 4:13-14).
Thánh Phaolô cũng cùng một niềm xác tín: “Lòng mến của Thiên Chúa đã được đổ xuống lòng ta nhờ bởi Thánh Thần Người đã ban cho ta” (Rm 5:5).
Như thế, nhờ Thánh Thần mà ta có thể cất bước trên lối đường thương yêu, đi vào sự nên một với tha nhân trong Đức Kitô. Lắm khi người ta hay than trách: “không thể nào yêu nổi con người ấy.” Có phải vì họ đã tận tâm tận lực nhưng không thành, hay vì chưa có Thần Khí Yêu Thương tác động và đỡ nâng?
Chỉ cần một luồng gió của ngày lễ Ngũ Tuần thổi qua, con người sẽ có dư can đảm mở tung cánh cửa tâm hồn để đến với anh chị em. Chỉ cần một đốm lửa của ơn Thánh Thần, bạn và tôi sẽ có đủ sức mạnh để công bố Tin Mừng Yêu Thương cho mọi người chung quanh.
Nhưng vấn đề là người ta có biết cùng nhau tề tựu để cầu nguyện như các tông đồ ngày xưa hay không. Thế nên để kiến tạo hiệp nhất và xây đắp tình yêu, con người cần phải cùng nhau ngồi xuống cầu nguyện.

89. Suy niệm của Lm Cao Tấn Tĩnh
Theo Phụng Niên của Giáo Hội, Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay đây là thời điểm mở màn cho Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, cũng như Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa mở màn cho Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh vậy. Riêng Phụng Vụ Lời Chúa cho Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay, nếu để ý chúng ta thấy có một một chi tiết hết sức kỳ lạ, giữa bài đọc thứ nhất theo Sách Tông Vụ của Thánh Luca, và bài Phúc Âm theo Thánh Gioan hôm nay, đó là, Chúa Thánh Thần được Chúa Kitô Phục Sinh thở hơi trên các tông đồ trong bài Phúc Âm, và Thánh Thần Hiện Xuống trên các tông đồ trong Ngày Lễ Ngũ Tuần theo Sách Tông Vụ, có khác nhau chăng? Nếu khác thì khác ở chỗ nào? Nếu chỉ là một Thánh Thần thì tại sao các tông đồ lại nhận được hai lần?
Trước hết, theo tôi, Thánh Thần được Chúa Kitô Phục Sinh thở hơi trên các tông đồ và Thánh Thần Hiện Xuống trong ngày Lễ Ngũ Tuần chỉ là một Thánh Thần duy nhất. Thế nhưng, nếu là một Thánh Thần duy nhất tại sao các tông đồ lại lãnh nhận hai lần, theo tôi, lý do của sự kiện này có thể được căn cứ vào thời điểm các vị lãnh nhận cũng như vào cứ điểm xuất phát của Đấng các vị lãnh nhận. Thật vậy, các tông đồ lãnh nhận cùng một Thánh Thần hai lần, lần thứ nhất vào thời điểm các vị đang sợ hãi ẩn nấp vì Thày của các vị đã chết, và lần thứ hai vào thời điểm các vị đang hân hoan thao thức chờ đợi Ngài đến; đó là về thời điểm các tông đồ lãnh nhận Thánh Thần, còn về cứ điểm xuất phát của Đấng các vị lãnh nhận, thì lần thứ nhất các vị đã lãnh nhận Thánh Thần qua thân xác phục sinh của Chúa Kitô, và lần thứ hai các vị đã lãnh nhận Thánh Thần từ trời hay từ Cha. Căn cứ vào hai yếu tố thời điểm các vị tông đồ lãnh nhận Thánh Thần và cứ điểm xuất phát của Đấng các vị lãnh nhận, như vừa nhận định và phân tách, theo tôi, các vị tông đồ lãnh nhận Thánh Thần lần thứ nhất là để Chúa Kitô Phục Sinh có thể sống trong các vị, và lần thứ hai là để các vị có thể làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh.
Đúng thế, các vị tông đồ đã lãnh nhận Thánh Thần lần thứ nhất “vào buổi tối Ngày Thứ Nhất trong tuần”, khi “cửa nhà của các vị còn đang đóng kín vì sợ người Do Thái” (Jn 20:19), qua hơi thở từ thân xác của Chúa Kitô Phục Sinh, là để Chúa Kitô Phục Sinh có thể sống trong các vị, đúng như lời Người tiên báo cho các vị trong Bữa Tiệc Ly, ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 14 câu 18 và 19: “Thày sẽ không để các con mồ côi đâu; Thày sẽ trở lại với các con. Chỉ còn một ít lâu nữa thôi thế gian không còn trông thấy Thày nữa, nhưng các con thì thấy, vì Thày sống và các con cũng sẽ sống. Vào ngày ấy các con sẽ biết rằng Thày ở trong Cha Thày, và các con ở trong Thày cũng như Thày ở trong các con”. Các tông đồ còn lãnh nhận Thánh Thần lần thứ hai nữa, là để các vị có thể làm chứng về Chúa Kitô Phục Sinh, như lời Người cũng đã nói cho các vị biết, sau khi các vị đã nhận lãnh Thánh Thần qua hơi thở từ thân xác của Người, tức sau khi các vị nhờ Thánh Thần lãnh nhận lần thứ nhất này để nhận ra Thày mình đã thực sự sống lại. Lời Chúa Kitô Phục Sinh tiên báo cho các tông đồ biết về việc các vị sẽ lãnh nhận Thánh Thần lần thứ hai này đã được ghi nhận trong Phúc Âm Thánh Luca đoạn 24 câu 45-49 như sau: “Bấy giờ Người mở tâm trí họ ra để họ hiểu các lời Thánh Kinh. Người nói cùng các vị: ‘Như đã ghi chép, Đấng Thiên Sai phải chịu khổ nạn và sống lại từ trong cõi chết vào ngày thứ ba. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho tất cả mọi dân nước về lòng thông hối để họ được ơn tha tội, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là những nhân chứng ve điều này. Thày sai đến với các con lời Cha hứa ban. Các con hãy ở đây trong thành này cho đến khi các con được mặc lấy quyền lực từ trên cao’”. Thánh Ký Luca còn lập lại lời Chúa Kitô Phục Sinh này một lần nữa trong Sách Tông Vụ đoạn 1 câu 8 như sau: “Các con sẽ nhận được quyền năng khi Thánh Thần xuống trên các con; đoạn các con phải là những nhân chứng của Thày, chẳng những ở Giêrusalem, khắp Giuđêa và Samaria, mà cho đến tận cùng thế giới nữa”.
Nếu vậy thì hình như có một tiến trình phát triển Thánh Thần nơi các vị tông đồ giữa hai lần các vị lãnh nhận Ngài thì phải, như thể Chúa Kitô Phục Sinh dần dần lớn lên trong các vị, từ lúc các vị nhận biết Thày đã sống lại, cho tới khi Thánh Thần Hiện Xuống trên các vị, làm cho các vị thực sự trưởng thành và có đầy đủ sức mạnh để làm chứng cho Chúa Kitô?
Đúng thế, một trong những dấu chứng tỏ tường cho thấy các tông đồ đang trưởng thành và thực sự trưởng thành cho tới tầm mức trọn vẹn giữa hai lần các vị lãnh nhận cùng một Thánh Thần, điển hình nhất là nỗi lòng của các vị tỏ ra sau khi Vị Tôn Sư vô cùng dấu ái của các vị hoàn toàn bỏ các vị mà về cùng Cha. Thánh Ký Luca đã ghi nhận rõ dấu hiệu trưởng thành này ở 4 câu kết Phúc Âm của mình trong đoạn 24, từ câu 50 đến câu 54, như sau: “Bấy giờ Người dẫn các vị đi đến gần Bêtania, rồi giơ tay lên chúc phúc cho các vị. Đang khi ban phép lành, Người rời các vị mà lên trời. Các vị phục xuống tôn kính Người, đoạn vui mừng hớn hở trở về Giêrusalem. Ở đó người ta thấy các vị liên lỉ ở trong đền thờ chúc tụng Thiên Chúa”. Sở dĩ các tông đồ không còn buồn thương và chán chường như thời gian Chúa Kitô bỏ các vị mà đi tử nạn nữa, trái lại, các vị còn “vui mừng hớn hở” và “chúc tụng Thiên Chúa” sau khi vĩnh viễn không còn được thấy Vị Thày vô cùng khả kính khả ái của mình trên trần gian này nữa, là nhờ có Thánh Thần các vị đã lãnh nhận lần nhất qua hơi thở của thân xác phục sinh của Thày. Ở vào thời điểm Chúa Kitô Phục Sinh Thăng Thiên về trời này, đời sống của các vị tông đồ trong Thánh Thần các vị lãnh nhận lần thứ nhất, có thể nói, đã đạt tới chỗ các vị trở thành “những kẻ thực sự tôn thờ Thiên Chúa”, thành phần, như Chúa Kitô nói cho người đàn bà Samaritanô biết ở bờ giếng Giacóp, được Phúc Âm Thánh Gioan ghi lại nơi đoạn 4 câu 23, đó là: “Những ai thực lòng tôn thờ Thiên Chúa sẽ tôn thờ Cha trong Thần Linh và chân lý. Thật vậy, Cha tìm kiếm những người tôn thờ chân chính này”.
Phải, các tông đồ sẽ không thể nào làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh, nếu trước hết các vị không trở thành “những kẻ thực sự tôn thờ Thiên Chúa”. Bởi vì, thành phần “tôn thờ chân chính mà Cha tìm kiếm này” là thành phần “tôn thờ Cha trong Thần Linh và chân lý”, tức là những người thực sự tin vào Thiên Chúa, Đấng thực sự hiện thân nơi Đấng Thiên Sai của Ngài, hay nói cách khác, họ là những người “tin rằng chính Cha là Đấng đã sai Con” (Jn 17:8, 25), và những người “tin rằng Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày” (Jn 14:11, 20) như thế chính là những người có “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô” (Jn 17:3). Thế nhưng, để nhận biết Thiên Chúa nơi Đấng Thiên Sai của Ngài là Đức Giêsu Kitô, tự mình các tông đồ không thể làm được, mà phải có Thánh Thần. Đó là lý do Thánh Phaolô khẳng định trong bài đọc hai hôm nay: “Không ai có thể nói: ‘Đức Giêsu là Chúa’ nếu không có Thánh Thần”. Như thế, Thánh Thần các tông đồ lãnh nhận lần thứ nhất qua hơi thở của thân xác Chúa Kitô Phục Sinh là để các vị nhận biết Thiên Chúa và Đấng Ngài sai, nhờ đó, sửa soạn các vị “được rửa trong Thánh Thần”, như bài đọc 1 hôm nay nói tới, tức sửa soạn cho các vị lãnh nhận Thánh Thần lần hai, “Vị Thánh Thần”, như Thánh Phêrô khẳng định trước Hội Đồng Do Thái trong Sách Tông Vụ đoạn 5 câu 32:”Thiên Chúa ban cho những ai thuận phục Ngài“.
Thật vậy, nếu Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, con người duy nhất được đầy Thánh Thần từ giây phút đầu thai trong lòng mẹ, sau khi thưa lời “xin vâng” với sứ thần Gabiên, đã được “Thánh Thần ngự xuống và quyền phép Đấng Tối Cao bao phủ” (Lk 1:35), để Mẹ có thể “thụ thai và hạ sinh… Con Đấng Tối Cao” (Lk 1:31, 32) thế nào, các tông đồ cũng vậy, vì đã “tin vào Thiên Chúa và tin vào Thày” (Jn 14:1), được thể hiện bằng việc “ở lại trong thành” như Thày dăn dò, mà các vị đã thực sự “mặc lấy quyền lực từ trên cao”, để có thể thụ thai và hạ sinh Chúa Kitô Phục Sinh trong lòng của 3 ngàn người lắng nghe chứng từ của các vị, qua bài giảng tiên khởi vị trưởng tông đồ Phêrô sau biến cố được Sách Tông Vụ trình thuật trong bài đọc thứ nhất hôm nay là: “Bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió thổi mạnh, lùa vào đầy nơi các vị đang tụ họp nhau. Cũng có lưỡi như lửa xuất hiện đậu trên từng vị. Hết thẩy mọi người đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu nói tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần khiến họ nói”.
Khía cạnh tu đức này được phản ảnh nơi khía cạnh phụng vụ. Thật vậy, nếu các tông đồ lãnh nhận cùng một Thánh Thần hai lần, lần đầu là để nhận biết Chúa Kitô Phục Sinh và lần hai là để có khả năng làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh, thì thành phần Kitô hữu tân tòng cũng thế, sở dĩ họ trở lại với Chúa Kitô là nhờ Thánh Thần soi động họ vào một lúc nào đó trong đời họ, để rồi, khi họ tuyên xưng đức tin qua việc lãnh nhận phép rửa, họ lại được lãnh nhận Thánh Thần nơi Bí Tích Thêm Sức ngay sau khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội để có thể làm chứng cho Chúa Kitô. Thế nhưng, vấn đề ở đây là, đã được lãnh nhận Thánh Thần qua Phép Rửa, Kitô hữu chúng ta đã tin Chúa Kitô ra sao, và được lãnh nhận Thánh Thần nơi Phép Thêm Sức rồi, chúng ta đã hiên ngang làm chứng cho Chúa Kitô chưa…?

90. Ân huệ Chúa Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Khi hai người quý mến nhau, hay thương yêu nhau, để biểu lộ tình yêu họ sẽ tặng cho nhau những món quà quý giá: một cánh hoa, một tấm thiệp, một món quà… Một tặng phẩm hay một ân huệ mà một người đem tặng cho người khác là do lòng quảng đại và nhân hậu. Quảng đại vì người tặng hoàn toàn tự nguyện. Nhân hậu vì tình thương được thể hiện qua tặng phẩm.
Sự sống, sức khoẻ, tài năng, bình an, của cải, con cái… là những ân ban của Thiên Chúa cho con người. Ân huệ lớn nhất, ơn trọng đại nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là Ân Ban lớn lao cho Giáo Hội và cho Đức Maria.
1. Ân huệ Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội
Đức Kitô là người đầu tiên đã quan niệm tình yêu một cách vị tha chưa ai từng nghe thấy: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng mình vì bận hữu” (Ga 15, 13). Vì yêu thương con người, Ngài đã chịu khổ nạn, đã phục sinh và trao ban sự sống mới cho nhân loại. Đó là sự sống thần linh, là Chúa Thánh Thần.
Hôm nay đây trong ngày Lễ Ngũ Tuần, các Tông Đồ đang họp nhau cầu nguyện trong nhà Tiêc Ly cùng với Đức Maria. Chúa Thánh Thần đã Hiện Xuống dưới hình lưỡi lửa đậu trên đầu mỗi người, ban tràn đầy sức sống mới. Quyền năng Chúa Thánh Thần đến trên Giáo hội với sức lay động và chuyển thông.
Sức lay động vì Chúa Thánh Thần đã đến như thể cuồng phong thổi vang dậy đầy nhà. Ghế bàn không bay bổng, tường – mái nhà vẫn nằm yên, nhưng lòng người đã được lay động. Quyền năng Chúa Thánh Thần như gió mạnh đã làm bật tung các ổ khoá, các cửa to cửa nhỏ của ngôi nhà các Tông Đồ đang ẩn náu. Quyền năng Thánh Thần tung họ ra khỏi pháo đài để với hai bàn tay không và một trái tim đầy nhiệt huyết họ đi vào thế giới rao giàng Tin Mừng Đức Giê-su Phục Sinh.
Được sức lay động và đầy lửa Thánh Thần, các Tông Đồ cùng lên tiếng cao rao những kỳ công của Thiên Chúa. Thánh Phê-rô, lòng đầy Thánh Thần, đã hùng hồn thuyết giảng vể Chúa Giê-su Thương Khó và Phục Sinh. Có 3,000 người xin được Rửa Tội. Giáo Hội được khai sinh từ đó vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Thánh Thần đến, Giáo Hội khai sinh.
Tác động của Chúa Thánh Thần trên Giáo Hội thật mãnh liệt. Chỉ một nhóm Tông Đồ nhỏ bé, sợ hãi, co cụm, hoang mang, lúc nào cũng cửa đóng then cài. Thế mà giờ đây khi được tràn đầy Thánh Thần họ đã trở nên mạnh mẽ phi thường, hiên ngang, can trường làm chứng và loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Các Ngài được trang bị bằng quyền năng Thánh Thần để bẻ gãy sức mạnh của sự dữ, tội lỗi.
Dù bị đe dọa đòn vọt, dù gông cùm tù tội, các ngài vẫn trung kiên một niềm tin vào Chúa. Các Ngài đã lấy máu đào minh chứng cho lời rao giảng. Dù bị đàn áp bách hại, Giáo Hội vẫn lớn mạnh không ngừng. Hai mươi thế kỷ qua, con thuyền Giáo Hội do người dân chài Ga-li-lê cầm lái vẫn lướt qua mọi thăng trầm của lịch sử với muôn vàn thử thách giông tố để luôn đi tới.
Vậy thì bí quyết ẩn tàng trong đó và lý do tồn tại vĩnh cửu của Giáo Hội là gì nếu không phải chính là sức mạnh là quyền năng Chúa Thánh Thần.
Ngày nay, Giáo Hội vẫn chỉ có một sức mạnh đặc biệt, đó là quyền năng Chúa Thánh Thần. Với quyền năng này Giáo Hội không bao giờ chịu đóng chặt cửa để an hưởng hay cố thủ. Nhưng luôn ra khỏi tháp ngà để rao truyền Tin Mừng, dấn thân vào cuộc sống muôn mặt của thời đại, đồng hành và thích ứng với nhân loại trong thế giới ngày nay.
Công Đồng Vatican II là một Lễ Hiện Xuống Mới của Giáo Hội. Chúa Thánh Thần vẫn luôn thổi sinh khí mới và ban cho Giáo Hội những ân huệ lớn lao. Mẹ Têrêxa Calcutta, Cha Thánh Piô, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI là những gương mặt vĩ đại đã và đang làm bừng lên sức sống tình thương, hoà bình của Chúa Thánh Thần trong thế giới sục sôi vì chiến tranh và hận thù này.
2. Ân huệ Thánh Thần cho Đức Ma-ri-a
Ngày Lễ Ngũ Tuần, Đức Ma-ri-a cũng tràn đầy Thánh Thần. Khi các Tông Đồ ra đi rao giảng tin mừng thì Đức Mẹ lại rút vào nơi thanh vắng, thinh lặng sống ẩn dấu với Đức Kitô trong Thiên Chúa (Col 3,3). Chính Đức Mẹ đã khai sáng trong Giáo Hội ơn gọi sống đời ẩn dật và cầu nguyện bên cạnh đời sống tông đồ hoạt động.
Điều đó cho chúng ta thấy, trong Giáo Hội hoạt động cho dù vì NướcTrời chưa phải là tất cả. Giáo hội còn cần đến những tâm hồn cầu nguyện để lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần trước khi dấn thân vào sứ vụ. Thư Mục Vụ năm 1999 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã xác định: “Người loan báo Tin mừng phải là một nhà chiêm niệm trong hoạt động” (Số 14). Giáo Hội cần lời cầu nguyện cũng như cần hoạt động cho công cuộc Truyền Giáo. Đức Mẹ là nguyên mẫu cho đời sống cầu nguyện này. Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su suốt đời sống trong Dòng Kín, thế mà Giáo Hội đã đặt Ngài làm Bổn Mạng các xứ Truyền Giáo.
Lễ Ngũ Tuần kết thúc chu kỳ Phụng Vụ mùa Phục sinh với Ân Huệ Chúa Thánh Thần ban cho Giáo Hội cầu nguyện và hoạt động. Mỗi người tín hữu được mời gọi sống hai chiều kích ấy mỗi ngày để hoa trái Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, hiền hoà, tiết độ… được trổ sinh trong tâm hồn và cuộc sống của mình (Gl 5, 23-23).

91. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Thánh Thần hiện xuống khai mở “những kênh truyền thông” mới
Chúa Nhật tuần trước Lễ Thăng Thiên cũng là Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội. Giáo Hội khuyến khích người Công Giáo ở các quốc gia trên toàn cầu sử dụng tốt hơn các phương tiện truyền thông và các hình thức thông tin khác để chia sẻ Tin Mừng cho tất cả mọi người nam nữ.
Sứ điệp Truyền thông năm nay nêu bật tầm quan trọng của các trang mạng xã hội như là “cổng thông tin của sự thật và đức tin”, và là “không gian mới cho việc loan báo Tin Mừng”.
Cuối năm ngoái, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã mở tài khoản Twitter Giáo hoàng đầu tiên. Ngài mời gọi mọi người công nhận tiềm năng của các mạng truyền thông xã hội và thúc giục các tín hữu trong Năm Đức Tin cân nhắc xem làm thế nào để sự hiện diện của mình trên các mạng có thể giúp truyền bá thông điệp Tin Mừng của tình yêu Thiên Chúa cho tất cả mọi người.
Kể từ bản tweet đầu tiên do Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI gởi vào ngày 12/12/2012, hơn 6 triệu người đã theo dõi.
Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp tục sáng kiến đó, sử dụng các mạng lưới xã hội. Hiện nay tài khoản @Pontifex đăng các bản tweet bằng tiếng Anh, Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha, Pháp, Đức, La Tinh, Ba Lan và Ả Rập. Con số bản tweet do Đức Giáo Hoàng Phanxicô gởi đi gia tăng rất nhanh.
Đức Hồng Y Carlo Martini từng nói: “Kinh nghiệm của Lễ Hiện Xuống (Cv 2,3-13) chính là Tin Mừng truyền thông”.
Truyền thông là làm cho con người có khả năng để nghe để hiểu, có khả năng để loan báo và có khả năng để chuyển thông một sứ điệp. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã khai thông mọi tương giao, phá vỡ bức tường đã bị đóng kín từ sự kiện tháp Babel. Truyền thông Tin Mừng chính là mang tin vui đến cho mọi người.
Năm Thánh 2000, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận giảng tuần tĩnh tâm cho Giáo Triều Rôma, trong bài giảng “Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần”, ngài kể về tác động của Chúa Thánh Thần như một ân ban chuyển thông ánh sáng và niềm tin cho anh chị em người Hmong.
“Chúa Thánh Thần sống và hoạt động trong trái tim những kẻ nghèo nàn và khiêm hạ, trong tâm hồn đạo đức bình dân, trong tình liên đới, trong đau khổ. Ngài ở đó như trạng sư và thông dịch các ứớc muốn và lời cầu xin của chúng ta.
Tôi còn nhớ câu chuyện này.
Một ngày nọ, một cha sở miền Bắc Việt Nam thấy có một nhóm người dân tộc thiểu số Hmong muốn đến gặp ngài. Cha hỏi họ:
– Anh chị em từ đâu đến?
– Chúng con từ Lai Châu, (nơi quân đội Pháp đã thua trận Điện Biên Phủ năm 1954). Chúng con đã vượt núi rừng đi bộ suốt 6 ngày nay.
– Lạy Chúa tôi! Để làm gì vậy?
– Chúng con muốn được rửa tội ngay bây giờ.
– Không thể được! Không có một linh mục hay giáo lý viên nào cả trong vùng của anh chị em, anh chị em không biết gì về đạo hay kinh nguyện, thì làm sao chịu phép Rửa tội được.
– Chúng con đã học tất cả từ một đài phát thanh phát đi từ Phi luật tân.
– Mà đài phát thanh nào? Đâu có đài phát thanh Công giáo nào có chương trình bằng thổ ngữ của anh chị em đâu!”
– Đó là đài phát thanh “Chân Lý”.
– Một đài phát thanh GH công Giáo, và bây giờ anh chị em lặn lội đến đây để xin trở thành Công giáo. Thật là điều lạ!
– Vị linh mục thật cảm kích bỗng thốt lên: Đây là một lễ Hiện Xuống mới. Đây chính là tác động của Chúa Thánh Thần! Chúa Thánh Thần!
Rồi cha lại hỏi nhóm người Hmong: Anh chị em có thể ở lại đây lâu hơn không?
– Thưa cha, không thể được. Chúng con chỉ đem theo 14 ngày cơm: 12 ngày đi đường và 2 ngày học hỏi và đọc kinh cầu nguyện.
Cả nhóm đã được rửa tội và chịu phép Thêm sức, rồi được dự Thánh lễ đầu tiên trong đời và được rước Mình Thánh Chúa.
– Anh chị em sẽ không có Thánh Lễ nào nữa, anh chị em không có nhà thờ. Anh chị em sẽ làm thế nào?
– Ban chiều tối, chúng con tụ họp nhau từng hai ba gia đình để nghe đài phát thanh và cầu nguyện chung và cùng nhau học hỏi về đạo. Ngày Chúa Nhật chúng con ra ruộng cày cấy, nhưng đúng 9 giờ 30,chúng con ngưng làm việc thả trâu tự do ăn cỏ và chúng con dự Thánh Lễ qua đài phát thanh Chân Lý phát từ Manila. Một Lễ Hiện Xuống mới của thế kỷ XX.” (Chứng Nhân Hy Vọng, trang 235-237).
Hiến chế Tín lý về Mạc khải của CĐ Vaticanô II có nói: “Mạc Khải là việc Thiên Chúa ‘Truyền Thông Chính Mình’ cho nhân loại” (DV 6). Với biến cố Hiện Xuống, việc truyền thông của Thiên Chúa được hoàn tất nơi Đức Kitô và tiếp tục được nối dài trong Giáo Hội nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Lễ Hiện Xuống khai mở những “kênh truyền thông” mới. Vì thế, “Giáo Hội Công Giáo nhận thấy mình có bổn phận dùng các phương tiện truyền thông xã hội để loan báo ơn cứu độ và dạy con người biết sử dụng chúng cho đúng đắn” (Inter Mirifica, số 3). Chúa Thánh Thần là linh hồn Giáo Hội. Ngài tác động và canh tân Giáo Hội thực thi sứ vụ loan Tin Mừng: “Giáo Hội canh tân và thanh tẩy chính mình không bao giờ ngừng dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần” (Vui mừng và Hy vọng, 21). Sách Công Vụ Tông Đồ đã minh chứng hùng hồn về điều ấy.
Suốt mùa Phục Sinh, các bài đọc 1 được trích trong sách Công Vụ Tông Đồ.
Một nhà chú giải Thánh Kinh đã gợi hứng đổi Công Vụ Tông Đồ thành Công Vụ của Chúa Thánh Thần. Bốn sách Tin Mừng là Phúc Âm của Chúa Giêsu, còn Công Vụ Tông Đồ chính là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần.
Sách Công Vụ Tông Đồ là một trong những tài liệu lịch sử quý giá nhất của Thánh Kinh. Đó là lịch sử hiện hữu duy nhất của Kitô giáo được viết ra trước thế kỷ thứ III. Nhờ đó chúng ta biết rõ sự lớn dậy của Kitô giáo ở Palestina hay về công cuộc Truyền Giáo tại Syria, Tiểu Á, Hylạp và Rôma. Bình minh của một kỷ nguyên mới bắt đầu ló dạng.
Giáo Hội đã sống tuổi thanh xuân của mình giữa lòng Đế quốc Rôma. Giáo Hội đối diện với ba thách đố lớn là Do thái giáo, chính trị Rôma và triết học Hy lạp. Giáo Hội phải bung ra khỏi Do thái giáo, hội nhập vào triết học Hy lạp để lan rộng trên toàn đế quốc Rôma. Chỉ với những người dân chài Galilê ít học, chỉ với một Phaolô nhiệt thành, thế mà Giáo Hội lớn mạnh không ngừng trước bao thử thách thời đại.
Chính Chúa Thánh Thần đã không ngừng dẫn dắt Giáo Hội. Đúng như lời Thánh Irênê đã nói: “Ở đâu có Thánh Linh của Đức Kitô ở đó có Hội Thánh. Ở đâu có Hội Thánh ở đó có Thánh linh và ân sủng”.
Sách Công Vụ Tông Đồ trình bày lịch sử dưới ánh sáng đức tin. Sau khi Phó tế Stêphanô bị ném đá thì khởi đầu cuộc bắt bớ rộng lớn chống Giáo Hội ở Giêrusalem. Cộng đoàn Kitô hữu ở đây bị phân tán, nhiều tín hữu thoát khỏi đô thị đi tìm nơi ẩn náu. Họ đi tới đâu là rao giảng Tin Mừng tại đó. Chính đây là lúc câu nói thời danh của văn hào Tertuliano được ứng nghiệm “Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống làm nảy sinh các Kitô hữu”.
Các cộng đoàn Diaspora được thành lập. Họ hội nhập vào văn hoá địa phương để rao giảng Tin Mừng.
Kinh nghiệm sống đức tin của cộng đoàn tín hữu sơ khai là bài học quý giá cho chúng ta. Họ bị nhận chìm trong gian truân thử thách, nhưng chính lúc ấy họ cảm nhận sự hiện diện và hoạt động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần. Như ngọn gió cuốn bay những hạt giống để rồi hạt giống lại gieo mầm sống mới ở nơi khác, ngọn gió Chúa Thánh Thần qua những cơn bách hại cũng mang lại những hiệu qủa lạ lùng. Càng bị bách hại Giáo Hội càng lớn mạnh không ngừng.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam; sau sắc dụ cấm đạo của vua Cảnh Thịnh, các cuộc bắt đạo gay gắt khiến cho những người tín hữu ở các vùng Quảng Trị, Cổ Vưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa chạy vào rừng núi La Vang để trốn tránh. Đức Mẹ đã hiện ra an ủi, trợ giúp. La Vang đã trở thành trung tâm hành hương của Giáo Hội Việt Nam. Các chỉ dụ cấm đạo dưới thời vua Minh Mạng, Tự Đức đã phân tán các cộng đoàn Kitô hữu. Họ xuôi vào Nam trốn tránh, đến vùng đất mới, rừng thiêng nước độc. Họ khai khẩn điền địa và lập nên những cộng đoàn mới. Nhờ đó, khi các vị Thừa Sai đến Truyền Giáo, hạt giống Đức Tin được nảy mầm và phát triển nhanh chóng.
Như hạt giống gieo xuống đất và chờ đợi, những cơn mưa đầu mùa tuôn đổ, hạt giống âm thầm đón nhận sức sống, nảy mầm, bén rễ, lớn nhanh. Những cộng đoàn tín hữu đang sống đức tin thầm lặng đã gặp được các chủ chăn nên lớn mạnh và nhiều giáo xứ đã được thành lập. Chỉ trong nhãn giới đức tin, chúng ta mới nhận ra sức tác động mãnh liệt Chúa Thánh Thần. Trong mọi thử thách, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Trong mọi biến cố đau thương, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần an ủi dẫn dắt. Mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời đều là lời mời gọi, lời nhắn nhũ, lời cảnh báo. Đi tìm Thánh Ý Chúa, con người cần biết giải mã các biến cố ấy trong ánh sáng đức tin.
Ngày nay, có lẽ không còn những cơn bắt bớ và bách hại như xưa. Thế nhưng, những gian nan, những thử thách vẫn không thiếu trong đời sống đức tin. Thời đại hôm nay là thời đại xẻ núi lấp sông, vượt trùng dương, chinh phục không gian, xa lộ thông tin, kỹ thuật số, toàn cầu hoá… Nhưng xã hội hôm nay đang bị tục hoá với muôn ngàn cám dỗ ngọt ngào tinh vi của ma quỹ. Xã hội đang đánh mất chiều kích siêu hình, không còn cảm thức về tội lỗi. Giáo Hội phải đối diện với một xã hội mà như triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre đã nói: “Thiên Chúa phải chết để cho con người được tự do”.
Người ta đang xây dựng một xã hội không có Thiên Chúa, tôn giáo bị tách ra khỏi xã hội. Con người mãi mê chạy theo lối sống hưởng thụ thực dụng, cá nhân chủ nghĩa.
Như thế người Kitô hữu phải sống và diễn tả niềm tin của mình như thế nào đây?
Lời Chúa chiếu ánh sáng soi đường. Chúa Giêsu đã loan báo: “Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con” (Ga 14, 26).
Khi được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn thiêng trong đời, chúng ta sẽ yêu mến Chúa, được Chúa Cha và Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn (Ga 14,21), được Chúa ban sự bình an tuyệt vời, bình an không như thế gian ban tặng (Ga 14,27). Chúa Thánh Thần chính là chìa khoá mở ra cuộc sống mới trong Đức Kitô. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta làm được mọi sự trong ân sủng Đức Kitô. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta sống Tin Mừng, vượt qua các thách đố thời đại như cộng đoàn tín hữu sơ khai đã vượt qua mọi trở ngại để loan báo và mở rộng Nước Chúa.
Chúa Thánh Thần luôn bảo đảm cho sự nguyên vẹn của mạc khải. Ngài dẫn dắt Giáo Hội ngay giữa những kênh truyền thông mới mẻ của thế giới kỹ thuật số hôm nay. Môi trường này mang nơi mình ngôn ngữ thời đại, vì một thông điệp được phát đi từ nơi đây thường kèm theo hình ảnh và âm thanh. Điều này rất thuận lợi cho truyền thống của Kitô giáo, vốn mang rất nhiều yếu tố biểu tượng từ trong phụng vụ, kiến trúc nghệ thuật nơi các thánh đường, ảnh tượng thờ kính…Hơn nữa, Kitô giáo còn đi tiên phong trong các lãnh vực nghệ thuật, âm nhạc với mục đích diễn tả chân lý đức tin.
Kitô hữu phải là con người biết lắng nghe, lắng nghe Thiên Chúa và lắng nghe con người để qua sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông, sứ điệp Tin mừng được lan xa. Các phương tiện truyền thông xã hội như sách báo, phim ảnh, thi ca, nghệ thuật, sân khấu, tuồng kịch, thánh nhạc, kiến trúc, hội họa, truyền thanh, truyền hình, internet…đều có tầm ảnh hưởng lớn đối với công cuộc truyền thông Tin Mừng trong thời đại hôm nay.
Giáo Hội luôn thao thức những vấn đề của thời đại mình đang sống. Chúa Thánh Thần là ngọn gió thổi các cánh buồm của Giáo Hội hướng đến đại dương của “nền văn hóa mới” này. Có Chúa Thánh Thần đồng hành và hướng dẫn, chúng ta trở nên những chứng nhân của Chúa Giêsu đem Tin Mừng đến khắp muôn nước muôn dân.
Ở đâu có Thần Khí, ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống. Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả “nhảy mừng trong lòng mẹ”. Đức Maria hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bêlem. CácTông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Và chúng ta cũng được trở nên con cái Thiên Chúa, sống chứng nhân cho tình yêu, can đảm loan báo Tin Mừng Phục Sinh trên mọi nẻo đường phục vụ.

92. Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng
Thống hối để nhận ơn Chúa Thánh thần
Trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu phán với các môn đệ: Thày ra đi, thì có ích lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thày không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thày đi, Thày sẽ sai Đấng ấy đến với anh em (Ga 16:7). Ta có thể tưởng tượng ra cái tâm trạng của các tông đồ sau khi Chúa về trời. Các ông phải cảm thấy cô dơn và lo sợ. Vì thế họ tụ họp nhau lại trong phòng đóng cửa kín mít, vì sợ người Do thái truy nã tố cáo. Và Mẹ Maria ở giữa họ và cầu nguyện với họ để xin Chúa Thánh thần hiện xuống.
Đọc Thánh kinh, ta thấy có một sự khác biệt nơi các tông đồ trước và sau ngày lễ Chúa Thánh thần hiện xuống. Trước lễ Chúa Thánh thần hiện xuống, người ta thấy cái tình trạng: một môn đệ bán thày, môn đệ khác chối Thày, số còn lại bỏ chạy trốn. Trong ngày lễ Chúa Thánh thần hiện xuống, các tông đồ đổi mới hẳn. Các ông hăng say rao giảng tin mừng cứu độ, làm chứng cho viêc Chúa sống lại, mà không còn sợ hãi. Ta tự hỏi có cái động lực nào đã khiến có sự thay đổi đó? Sách Tông đồ Công vụ ghi lại: Ai nấy đều được tràn đày ơn Thánh thần. Họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác lạ, tuỳ theo khả năng Thánh thần ban cho (Cv 2:4). Không những Chúa Thánh thần biến đổi đời sống các tông đồ mà còn biến đổi đời sống của những người nghe lời giảng dạy của họ.
Nếu có ai hỏi Chúa Thánh thần lài ai? Đa số ta sẽ được nghe câu trả lời là Ngôi Ba Thiên Chúa với hình chim bồ câu hoặc ngọn lửa. Ngưòi công giáo thường sao lãng việc tôn sùng Chúa Thánh thần. Ta có khuynh hướng lãng quên Ngôi Ba Thiên Chúa vì ta không ý thức được về quyền năng và hoạt động của Chúa Thánh thần. Các tông đồ đã nhận lấy ơn Chúa Thánh thần khi Chúa Giêsu hiện ra với các ông sau khi Người sống lại từ cõi chế. Còn trong ngày lễ Chúa Thánh thần hiện xuống các ông nhận lấy ơn Chúa Thánh thần cách đặc biệt hơn. Cũng một cách tương tự như vậy, người giáo hữu nhận lấy ơn Chúa Thánh thần trong khi chịu Phép rửa tội, nhưng trong ngày lễ Thêm sức, người giáo hữu nhận lấy ơn Chúa Thánh thần cách đặc biệt hơn. Sau khi chịu phép Thêm sức, nếu ta không biết khuấy động hoạt động của Chúa Thánh thần, ta sẽ không có kinh nghiệm về quyền năng của Người.
Có nhiều cách thế để làm cho ơn Chúa Thánh thần tác động trong đời sống. Đây là một cách để khơi động hoạt động của Chúa Thánh thần trong đời sống: đó là tâm tình ăn năn sám hối. Tâm tình ăn năn sám hối là điều kiện tiên quyết để mở lối cho ơn Chúa Thánh thần đến trong tâm hồn. Quan sát sơ, ta cũng thấy trong ly cà phê hay ly nước trái cây sinh tố, cái chất bổ béo thường đọng lại dưới đáy ly. Để có thể uống được chất bổ béo, ta phải khuấy lên. Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy. Sự hiện diện của Chúa Thánh thần được tiềm ẩn trong đáy lòng người tín hữu. Dùng tiếng bình dân ta có thể coi là Chúa Thánh thần ‘ngủ quên’ trong đời sống. Vì thế ta phải đánh thức Chúa Thánh thần dạy, nghĩa là phải khuấy động hoạt động của Chúa Thánh thần.
Trong ngày lễ Chúa Thánh thần hiện xuống, dân chúng hỏi các tông đồ: Chúng tôi phải làm gì? (Cv 2:37). Phêrô trả lời: Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh thần (Cv 2:38). Có những người đến bàn chuyện thiêng liêng với linh mục. Lúc đầu họ không coi những việc họ đã làm trong quá khứ là có tội. Khi họ nhận ra đó là tội, họ ăn năn khóc lóc thảm thiết với những giọt lệ sám hối. Sau khi họ nhận được ơn ăn năn hối cải, không ai bảo họ phải đi lễ thờ phượng, không ai phải thúc đẩy họ đọc kinh cầu nguyện, không ai bảo họ phải đọc Thánh kinh, không ai bảo họ phải làm việc từ thiện bác ái. Họ tự ý làm những việc ấy. Ước muốn của họ bây giời là muốn sống đời sống mới trong thánh thần với việc đ¨¢nh giá trị mới cho những giá trị trong đời sống, với việc họ khát khao cho nhu cầu thiêng liêng được toại nguyện, với việc họ xác tín về đức tin, với việc họ ước muốn phục vụ người khác. Cái bậc thang giá trị của họ trước kia là: giá trị vật chất, thứ đến là giá trị tinh thần rồi đến giá trị thiêng liêng. Bây giờ họ đổi ngược lại cái bậc thang giá trị. Họ đặt giá trị thiêng liêng lên hàng đầu, rồi đến giá trị tinh thần, và sau là giá trị vật chất.

93. Đón nhận sức mạnh của Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP – Anh Em HV Đaminh chuyển ngữ)
Tôi thực sự thắc mắc không hiểu nổi lần đầu tiên các môn đệ lãnh nhận Thánh Thần thì như thế nào? Và những bài đọc Sách thánh hôm nay dường như cũng không thể giải quyết cho thắc mắc này của tôi. Không biết có giống như thánh Luca mô tả trong sách Công vụ Tông đồ, khi các môn đệ “tề tựu ở một nơi” thì có tiếng động như tiếng gió mạnh ùa vào trong nhà và có hình giống như lưỡi lửa đậu xuống trên mỗi người? Hay việc đó xảy ra như thánh Gioan mô tả, đức Giêsu vào trong nhà dù các cửa đều đóng kín, và nói với các ông: “Bình an cho anh em,” nói rồi Người thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông? Tại sao một biến cố quan trọng như việc trao ban sự sống, ân huệ đức tin nền tảng của Thánh Thần lại được mô tả khác nhau vậy?
Việc Thánh Thần ngự xuống thì chẳng gây ngạc nhiên gì cho những ai đã quen với văn phong Kinh thánh. Từ “thần khí” trong tiếng Hippri là “ruah,” nghĩa là gió, hơi thở hay sự chuyển động của không khí, xuất hiện hơn 90 lần trong bản văn Kinh thánh bằng tiếng Hippri. Đó là nguyên lý của sự sống và sức mạnh và qua Thánh Thần, Thiên Chúa biểu lộ sức mạnh và ý chí của Ngài. Ngay phần đầu của sách Sáng thế, nhờ “Thần Khí của Chúa,” bao phủ trên cái hỗn mang và trên mặt nước, mà Thiên Chúa bắt đầu công cuộc sáng tạo.
Trong bản văn bằng tiếng Hippri, Thần Khí chỉ được ban cho trong một giai đoạn (Kn 15,16). Những ai được ban cho Thần Khí thì cũng được phú cho một ân huệ đặc biệt để hoàn thành những mục đích của Thiên Chúa. Chẳng hạn như, Salomôn được ban cho Thần Khí đức khôn ngoan (Kn7,7). Những nhà lãnh đạo Israen được Thần Khí của Thiên Chúa làm cho nên mạnh mẽ, và các ngôn sứ, được tràn đầy Thần Khí để nói nhân danh Thiên Chúa (Is 61,1 và Lc 4,18)
Tân Ước chỉ ra một sự liên tục của một Thần Khí đã hiển lộ trước đây. Từ Hylạp để chỉ Thần Khí là “pneuma” và có cùng nghĩa với từ “ruah” trong tiếng Hippri. Tin mừng Luca và Sách Công vụ Tông đồ chú trọng đến công việc của Thần Khí. Thần Khí là sợi chỉ dệt nên hai công trình của Ngài. Ở cuối Tin mừng, Đức Giêsu ra lệnh cho các Tông đồ và họ phải ở lại Giêrusalem cho đến khi nhận được “điều Cha đã hứa” (Lc 24,49).
Thánh Luca xác định rõ Lễ Hiện Xuống là ngày Thánh Thần được ban. Lúc ban đầu, đó là ngày lễ tạ ơn, rồi sau đó nó được liên hệ tới việc ban tặng lề luật tại núi Sinai (Đnl 16,9-21). Vào ngày Lễ Hiện Xuống, cộng đoàn sa mạc ở Qumran đón nhận thêm những thành viên mới, những người tuyên xưng lòng khao khát được trở thành một dân trong giao ước với Thiên Chúa. Thánh Luca đặt ân huệ của Thánh Thần vào ngày lễ tạ ơn truyền thống, hình thức luân lý, một sự dấn thân và hiến dâng mới mẻ.
Thánh Thần của Thiên Chúa đã ở với dân Israen khi họ vượt qua sa mạc và chiến đấu chống lại dân ngoại để tiến về đất hứa. Khởi đầu với phép rửa của Người, Thánh Thần đã ban sức mạnh và gìn giữ đức Giêsu qua cơn cám dỗ trong hoang địa, trong sứ vụ, sự khổ nạn, chết và phục sinh. Cũng chính Thánh Thần đó giờ đây được ban cho cộng đoàn. Hôm nay, chúng ta chứng kiến hoa trái đầu tiên của Thánh Thần khi các môn đệ bước ra khỏi nơi ẩn trốn để rao giảng cho đám đông với các thứ tiếng khác nhau. Sách Tông đồ Công Vụ sẽ cho thấy làm thế nào mà Giáo hội tiên khởi đã chuyển từ một cộng đoàn nhỏ những môn đệ người Do Thái đi theo Đức Giêsu trở thành một cộng đoàn Kitô hữu diễn tả tình yêu, bình an, tha thứ và chữa lành của Người cho thế giới.
Vì thế, nếu như tôi dẹp những khuynh hướng của mình qua một bên để sắp xếp và dành thời gian cho lễ Hiện Xuống này, lắng nghe những gì thánh Luca dạy bảo, thì tôi lắng nghe và học được những điều sau. Đức tin của chúng ta không giống như những kho tàng đem cất giấu và xem như một vật gia truyền dễ vỡ. Ngược lại, chúng ta có cuộc sống sinh động, tràn trề phấn khởi và bùng cháy của Thiên Chúa khi chúng ta họp nhau cầu nguyện và ý thức làm thế nào chúng ta là giáo hội trong thế giới này.
Chúng ta đối điện với một thế giới không niềm tin, yếm thế, mộng tưởng, và suy yếu đạo đức. Chúng ta vẫn bình thản và “giữ đức tin”, hoặc chúng ta có thể làm như những gì thánh Luca mô tả trong cộng đoàn tiên khởi: tự tin bước ra thế giới bên ngoài và nói với đám đông đang hoang mang mà chúng ta bắt gặp. Chúng ta biết những hạn chế của mình và có thể đoán xem, như chúng ta nghĩ, làm sao mà chúng ta có thế thất bại trong việc làm chứng cho niềm tin mà Thánh Thần mời gọi chúng ta. Chúng ta không biết chắc mình sẽ được sai đến nơi đâu, nhưng kết quả gặt hái này cho chúng ta xác tín rằng có sự sáng tạo và ân sủng tuôn trào của Thiên Chúa ở với chúng ta. Thánh Luca mô tả đó như là cơn gió mạnh và như ngọn lửa. Nếu chúng ta có thể tin tưởng thánh Luca, thì điều đó khiến chúng ta can đảm khi chúng ta bị chất vấn về niềm tin của mình, hay khi chúng ta được mời gọi để diễn tả lòng tin ra bên ngoài bằng hành động cụ thể.
Nếu chúng ta không thể gim chặt hay đóng hộp Thánh Thần được, thì làm sao chúng ta có thể mong có được sự mô tả ngắn gọn và thích hợp về ơn Thánh Thần mà đức Giêsu dành cho các môn đệ của Người. Giờ đây chúng ta nói đến sự biểu tỏ liên tục của ân sủng Chúa Thánh Thần.
Tin mừng Gioan bắt đầu với mạc khải cho Gioan Tẩy Giả về một đấng, “trên người ấy ngươi sẽ thấy Thánh Thần ngự xuống và ở lại…” (1,33). Đến cuối Tin mừng, vào đêm Phục Sinh, thánh Gioan nói cho chúng ta làm thế nào Đức Kitô phục sinh thổi hơi trên các môn đệ và ban cho họ Thần Khí. Những câu chuyện liên quan trong Tin mừng Gioan cũng hàm chứa rất nhiều ý nghĩa về Thánh Thần. Ví dụ, trong câu chuyện Đức Giêsu gặp gỡ người đàn bà Samaria, đức Giêsu mô tả Thánh Thần như “nước hằng sống” làm vọt lên trong mỗi người ân sủng của đời sống vĩnh cửu. Sau đó, trong suốt bữa Tiệc Ly, đức Giêsu hứa ban Thần Khí đến 4 lần. Người dùng từ Hylạp “parakletos” để mô tả Thần Khí, từ này mang nghĩa là an ủi và bào chữa.
Thánh Gioan nối kết sự đau khổ, cái chết và sự phục sinh của đức Giêsu trong một khoảnh khắc mà ngài gọi là “Giờ.” Vì thế, khi đức Giêsu thổi Thần Khí sáng tạo của Người trên các môn đệ vào chiều ngày Phục Sinh và chỉ thị họ đi giải tội cho tội nhân, biến cố này không bị tách khỏi “giờ”; vinh quang đi liền với đau khổ. Thông điệp tha thứ mãi mãi của cộng đoàn, được Thần Khí của chúa Giêsu hỗ trợ không phải là mất giá trong cộng đoàn – hy sinh cá nhân chỉ có thể đến vì một sự đối nghịch của một thế giới không thứ tha.
Khi ngừng thở là chúng ta chết. Thần Khí của đức Giêsu ở với cộng đoàn cùa Người như hơi thở của cộng đoàn. Người sẽ không hủy bỏ quà tặng của hơi thở trao ban sự sống của Người. Giống như Thiên Chúa đã thổi hơi vào Ađam để làm cho ông “sinh động”, vào Lễ Hiện Xuống cũng chính Thần Khí đó sinh ra một cộng đoàn sinh động và tha thứ. Giờ đây, nguồn mạch sự sống mới của Thần Khí giúp chúng ta tiếp tục sứ vụ yêu thương và tha thứ của đức Giêsu.
Nhiều năm sau khi Tin mừng này được viết, Giáo hội sử dụng bản văn này như một nguồn liệu nói về Bí tích Hòa giải. Nhưng những Kitô hữu tiên khởi có lẽ đã dùng đoạn văn này cho Bí tích Rửa tội: những người dự tòng chấp nhận thì được rửa tội. Những ai không đón nhận Tin mừng thì không được nhận phép Rửa tội.
Như chúng ta trân trọng đặc quyền của thánh Luca tường thuật biến cố Hiện Xuống trong Tin mừng của ngài và thông điệp mà ngài muốn chuyển cho giáo hội của ngài, chúng ta cũng để cho thánh Gioan kể lại câu chuyện này với cách của riêng ngài cho những nhu cầu cụ thể của cộng đoàn của ngài. Đức Giêsu không còn hiện diện thể lý với chúng ta, nhưng Người cũng không rút lên một ngọn núi xa xôi nào đó trong vũ trụ này để chờ ngày trở lại với chúng ta. Cả hai trình thuật nói với chúng ta rằng hôm nay đức Giêsu vẫn hiện diện với chúng ta cách tròn đầy vì Thần Khí của Người đang ở giữa chúng ta – như những cá nhân hay cộng đoàn Hội thánh.
Trong suốt những lần khủng hoảng trầm trọng đối với Giáo hội của chúng ta, chúng ta tin tưởng và hy vọng Thánh Thần sẽ hướng dẫn chúng ta trong sự thật và dạy chúng ta ý nghĩa của Giáo hội Chúa Kitô. Hôm nay, chúng ta xin Thánh Thần ban cho chúng ta ơn sủng của lòng tha thứ – không phải cho những người khác nhưng là cho chúng ta, cho Giáo hội và những nhà lãnh đạo của chúng ta.
Lễ Hiện Xuống này, chúng ta xin đức Giêsu thổi Thánh Thần của sự tha thứ trên chúng ta. Chúng ta nài xin Thánh Thần chữa lành cho những người vô tội đã bị xúc phạm. Chúng ta nài xin Thiên Chúa thực hiện những gì Ngài đã làm thuở ban đầu – tạo nên chúng ta từ đất sét dễ vỡ thành con người mới và sống động, hội thánh của Chúa Giêsu Kitô, thở bằng sức mạnh của Thần Khí của Người và, bằng chính hành động tha thứ của chúng ta, trao ban cũng một Thần Khí tha thứ đó trên những ai cần.
Chúng ta phải tin tưởng rằng trong ngày Lễ Ngũ Tuần đức Giêsu sẽ thổi trên chúng ta một sự đổi mới, vì những ngày này chúng ta giống như những vận động viên chạy đường dài đang thở hổn hển. Ai biết được chúng ta còn phải chạy bao xa nữa? Chúng ta cần Thần Khí để hoàn tất hành trình của mình.

94. Tác động của Thần Khí – Fr Jude Siciliano
Thưa quý vị,
Nếu không có Thần Khí hiện diện thì chẳng hiểu trái đất này sẽ ra sao? Câu trả lời là: không có Giáo Hội, không còn ký ức về Chúa Giêsu cứu thế, chẳng có ơn thánh cho các linh hồn, chẳng có truyền giáo, hậu quả của tội lỗi vẫn đè nặng trên số phận của nhân loại, tương lai không có hy vọng. Thật là khủng khiếp! Cho nên vai trò Chúa Thánh Linh không thể thiếu vắng. Trong các Phúc Âm, Đức Giêsu hứa ban Thánh Thần khi Ngài về trời. Lời hứa thật quan trọng và hôm nay Ngài thực hiện lời hứa đó. Nơi Hội Thánh luôn có một lòng khát khao Chúa Thánh Linh. Chúng ta thường hát cầu nguyện xin Ngài ngự đến. Veni, Creator Spiritus. Mentes tuorum visita…” (Lạy Chúa Thánh Linh, xin ngự đến, xin thăm viếng trí lòng các tín hữu của Ngài). Có lẽ trong các thánh đường đạo đức người ta vẫn còn thói quen hát bài này bằng tiếng Latinh. Một vị giám mục kể chuyện Ngài đã dạy nó cho một cán bộ cộng sản. Bởi vì anh thích nó nhất trong các bài Latinh Ngài hát cho anh nghe. Nói cách khác, tâm hồn người ta luôn cảm thấy thiếu thốn sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Chẳng riêng gì cá nhân, toàn thể cộng đồng Giáo Hội đều khát khao như vậy và từng cộng đoàn riêng lẻ cũng không ngoài thông lệ. Đúng như ý kiến của thánh Tôma: “Chúa Ngôi Ba là linh hồn của Giáo Hội”. Mặc dù chúng ta tin Thiên Chúa hằng ở với chúng ta nhưng nội dung bài hát nói lên nhu cầu của các tâm hồn về Chúa Thánh Thần. Danh sách những nhu cầu ấy thì thật là dài. Chúng ta chưa được hoàn toàn chữa lành, đổi mới và có nghị lực để làm chứng nhân như bí tích rửa tội đòi hỏi. Lạy Chúa Thánh Linh xin ngự đến, hoàn tất công trình cứu độ trong các tín hữu, ban cho chúng con sức sống mới, tác tạo chúng con thành cộng đoàn của Đức Kitô và canh tân bộ mặt của thế giới.
Đi nơi đâu cũng gặp thấy dấu chỉ cần thiết Chúa Thánh Linh. Trong bản thân mỗi người, trong cộng đoàn và thế giới tự nhiên chung quanh chúng ta. Mọi tạo vật đều rên siết, thở than chờ đợi Chúa Thánh Linh can thiệp. Được Thiên Chúa dựng nên và chỉ định làm quản lý vũ trụ này nhưng chúng ta thường tỏ ra vô trách nhiệm trong bổn phận, phá hoại chương trình tạo dựng của Thiên Chúa, làm cho nó băng hoại và kém hiệu quả. Cho nên cuộc đời này rất cần sự hiện diện của Chúa Thánh Thần để đổi mới mọi sự. Ngài sẽ tụ họp mọi dân tộc, quốc gia, mọi trí lòng để cùng nhau thăng tiến cuộc sống. Hoà bình chỉ có thể thực hiện nhờ Thánh Linh qua công lý và tình thương. Do đó, chúng ta đừng thu hẹp hoạt động của Chúa Thánh Thần vào khuôn khổ Hội Thánh, mà hãy để Ngài trải rộng khắp cõi địa cầu và trên toàn thể nhân loại.
Loài người luôn cần ơn Chúa Thánh Thần để khơi dậy các cố gắng thiết lập triều đại Thiên Chúa, nhất là giữa các dân tộc bị áp bức, những quốc gia nghèo đói, những người chưa biết chúc tụng thánh danh Thiên Chúa. Bài đọc 2 tuần trước là lời kết thúc sách Khải Huyền: “Đấng làm chứng về những điều đó phán rằng: Phải, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến” (Kh 22,20). Giáo Hội non trẻ bị bách hại nặng nề đã được Thiên Chúa mời gọi uống nước trường sinh mà không phải trả đồng nào và Chúa Giêsu hứa chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ viếng thăm. Nhưng thử hỏi: Cho đến bao giờ? Không có câu trả lời. Tuy nhiên để chúng ta vững bụng, xua đuổi mọi nghi ngờ, cám dỗ, thoả hiệp với thế gian, thì hôm nay Thần Khí Chúa được gởi đến. Đức tin các tín hữu nhờ đó mà bền vững, trẻ trung và nhiệt thành.
Ngài luôn ngự giữa chúng ta mỗi khi chúng ta làm việc thiện, xây dựng cộng đoàn, thi hành bác ái yêu thương, không phải bằng đầu môi chóp lưỡi, nhưng bằng nếp sống khó nghèo, thanh sạch và thánh thiện. Mọi người sẽ nhìn thấy hoa quả của Ngài, nơi những quyết định khôn ngoan, công bình và nhân ái, nơi những tiếng nói ngôn sứ, nghệ sĩ, nhạc gia, ca sĩ, văn nhân, những người bảo vệ hoà bình, rao giảng sự thật, những nhà lãnh đạo lương thiện. Chúng ta cũng nhìn thấy Chúa Thánh Thần hoạt động trong những cộng đoàn chiêm niệm, hăng say cầu nguyện, những cộng đoàn giáo dục, săn sóc bệnh nhân, người già cả, những cộng đoàn chia sẻ lao động, nhọc nhằn với công nhân, nông dân, những cộng đoàn sống vì người khác, không ích kỷ, nhưng cởi mở đón tiếp khách thập phương. Ngoài ra Chúa Thánh Thần còn hoạt động khi chúng ta cử hành thánh lễ sốt sắng, những giờ kinh phụng vụ nghiêm trang, những buổi giáo lý bổ ích, mở lòng khai trí cho người còn u mê tăm tối. Nói gọn lại, Thần Khí đã tác tạo Chúa Giêsu cho thế giới thì cũng làm cho Ngài luôn hiện diện nơi chúng ta với đầy đủ ơn phúc. Đúng như lời thánh Phaolô trong bài đọc 2 hôm nay: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí, có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì lợi ích chung”. Qua Thần Khí, Chúa Giêsu liên tục ở với chúng ta như Ngài đã hứa trước khi về trời: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Không có Thần Khí hoạt động trong Hội Thánh thì lời hứa này không thể thực hiện và nếp sống Kitô hữu chẳng tồn tại trên trái đất. Tuy nhiên chúng ta đã quen thuộc sự có mặt của Chúa Thánh Thần như sách Công Vụ tường thuật. Chúng ta gọi ngày Ngài ngự đến là sinh nhật của Giáo Hội. Cho nên lễ Ngũ Tuần nhắc nhớ chúng ta là ai trong kiến trúc Hội Thánh và đặc ân Thiên Chúa thương ban để nhân loại trở thành Giáo Hội Chúa Kitô. Lễ Ngũ Tuần đã có một lịch sử lâu đời trước khi là ngày lễ của đức tin công giáo.
Nó bắt nguồn từ truyền thống Do Thái và là một lễ hội mang nhiều sắc thái. Tên Ngũ Tuần lấy từ việc thu hoạch mùa Xuân. Sách Lêvi chỉ định phải mừng lễ năm mươi ngày sau tuần Vượt Qua. Đây là những ngày người Do Thái gặt hái mùa màng. Để cử hành lễ, các nông dân mang lúa thóc đầu mùa, hoa quả dâng vào đền thánh (2Sbn 8,13), những người nghèo khổ và khách ngoại kiều cũng được mừng lễ bằng cách tham gia vào bữa ăn chung. Sau này, lễ hội còn được nối kết với một tập tục khác. Đó là mừng Thiên Chúa ban lề luật trên núi Sinai. Lề luật cũng được coi như quà tặng Thiên Chúa ban cho dân Do Thái như hoa màu ruộng đất vậy. Tục truyền rằng Môsê đã làm cuộc hành trình với tuyển dân bảy tuần từ Ai Cập đến núi Sinai. Trên đường đi, Thiên Chúa đã thiết lập họ thành dân riêng qua những giáo huấn của Môsê. Cuối cùng ở Sinai Thiên Chúa ban lề luật cho họ. Như thế lễ Ngũ Tuần còn là dịp để Israel bày tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa và chấp nhận lề luật Ngài như con đường tinh thần phải theo.
Trong trình thuật Công Vụ, có ba hình thức thể hiện của Thần Khí. Ba thể hiện đều mang đặc trưng Kinh Thánh Cựu Ước: Tiếng gió mạnh, lửa và ơn ngôn ngữ. Tất cả đều không thể đóng khung hoặc giới hạn. Gió không phải hiu hiu nhưng ào ào thổi mạnh. Một quyền năng không chi ngăn cản nổi. Trong sách Sáng thế ký, Chúa thổi hơi vào bùn đất để tạo thành Ađam, nhưng ở đây không phải hơi thở mà là gió mạnh như trong sách tiên tri Êzêkiel (37,5). Gió ban sự sống, mạnh như bảo táp, đủ để đẩy các tông đồ ra khỏi căn phòng chật hẹp, bung đi khắp thế gian đang cần đến lời rao giảng của các ông. Hình ảnh thứ hai là lửa, trong Kinh Thánh Cựu ước, lửa tượng trưng cho sự phán xét: Thiên Chúa phán xét thế gian bằng lửa và trừng trị tội lỗi cũng bằng lửa. Lửa bởi trời thiêu đốt Sôđôma và Gômôra vì lối sống thác loạn của dân chúng hai thành đó. Nhưng cũng là lửa bốc lên từ núi Sinai làm dấu hiệu Thiên Chúa đang hiện diện ban lề luật. Tức giây phút Thiên Chúa ký kết giao ước với dân Ngài và lửa soi đường thực hiện giao ước đó. Hình ảnh thứ ba là ơn ngôn ngữ. Nó không phải là món quà đặc biệt dành riêng cho một số ít, còn các người khác không hiểu chi hết. Trái lại, qua ơn này các tông đồ chia sẻ với mọi dân tộc dưới gầm trời những kỳ công của Thiên Chúa. Ngài muốn cho Hội Thánh vươn ra khỏi biên giới của mình mà đi tới những nền văn hoá khác nhau, những màu da, ngôn ngữ để Nước Ngài được mở rộng. Ơn cứu độ ban cho hết mọi người. Ngày nay nếu chúng ta nhìn vào bản đồ thế giới thì quả thật Hội Thánh đúng là cộng đoàn của ngày lễ Ngũ Tuần và ơn ngôn ngữ cùng gió mạnh đã làm những điều kỳ diệu. Khác với tháp Babel, nó tập hợp hầu hết mọi dân tộc, nói cùng một thứ tiếng đức tin và cử hành cùng một phụng vụ mà ngợi khen Đức Chúa Trời.
Bảy tuần lễ vừa qua chúng ta đã được dạy dỗ về sự phục sinh của Chúa Giêsu và những hệ quả của nó trên đời sống các tín hữu. Chúng ta được mời gọi kết hiệp nên cộng đoàn dân Chúa, trung thành và thánh thiện. Hôm nay Thiên Chúa ban Thánh Thần của Ngài ngự xuống trên cộng đoàn đó. Chúa Thánh Thần sẽ dạy dỗ và thiết lập chúng ta thành dân riêng, để chúng ta mang lại những mùa màng tốt đẹp, tức công việc từ bi bác ái cho nhân loại. Giáo Hội không có tính loại trừ, tất cả đều được mời gọi đến bàn tiệc Thánh Thể và chia sẻ bánh hằng sống Thiên Chúa tặng ban. Cho nên đối với người tín hữu, hôm nay là ngày hội đoàn kết, ngày gặt hái mới, chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần và được sai đi khắp thế gian làm chứng nhân cho Đức Kitô. Giống như dân Do Thái xưa ở núi Sinai, chúng ta lập giao ước mới với Thiên Chúa, sống đời thiện hảo và thi hành hết mọi cam kết của bí tích Rửa tội và Thêm sức.
Trong Phúc Âm thánh Luca, Chúa Thánh Thần ngự đến trên Đức Maria và bà đã hạ sinh Chúa Giêsu cho thế giới. Vào ngày lễ Ngũ Tuần, Thần Khí Chúa cũng xuất hiện trên các tông đồ đang tụ họp trong phòng Tiệc Ly và Chúa Giêsu hiện diện trên các tông đồ bằng thể thức mới. Được đầy quyền năng Thánh Linh, chúng ta tiếp tục sứ vụ Chúa Giêsu: Rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh nhân và hoà giải loài người với Thiên Chúa. Chính Thần Khí Chúa đã thúc đẩy Giáo Hội thực hiện công tác này; đó là lý do chúng ta gọi hôm nay là ngày khai sinh của Hội Thánh. Ước chi mọi tín hữu ý thức được vị trí của mình trong thánh lễ này ngõ hầu làm chứng tá cho Chúa Giêsu, trong một thế giới luôn thiếu vắng hoà bình và yêu thương. Amen.
*******************
* Ý đẹp: Làm môn đệ Chúa Giêsu có nghĩa là bước đi theo vết chân Ngài, và trong quyền năng Thánh Thần tiếp tục sứ mệnh của Ngài ở hoàn cảnh và thời đại mới mà chúng ta đang sống. Cùng nhau như một cộng đồng Giáo Hội, các môn đồ của Chúa Giêsu được kêu gọi đặc biệt để làm khí cụ rao giảng Nước Trời trong lịch sử nhân loại. Và bởi vì hoà bình và công lý là hai dấu chỉ rõ nét nhất của Nước Thiên Chúa hiện diện giữa thế gian như lời thánh Phaolô: “Nước Trời không phải là chuyện ăn chuyện uống nhưng là công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Cho nên nhiệm vụ căn bản của Giáo Hội là làm cho những dấu chỉ này rõ nét trong một thế giới loạn lạc, áp bức, bất công và đe doạ huỷ diệt toàn bộ. Theo Chúa Giêsu trong sứ vụ đó có thể phải trả giá bằng tính mạng, vì tôi tớ chẳng thể trọng hơn Thầy. Nhưng cộng đoàn môn đệ Chúa Giêsu bắt buộc phải thi hành để nên chứng tá cho Ngài trong suốt dòng lịch sử đầy xáo trộn. Ký ức về Chúa Giêsu nâng đỡ Hội Thánh và Thần Khí của Ngài luôn hiện diện để trợ giúp. Hy vọng chiến thắng cuối cùng thuộc về Nước Thiên Chúa.
NB: Bài này là bài thứ tư của linh mục Siciliano suy niệm về lễ Hiện Xuống. Xin coi lại các bài trước để có ý tưởng trọn vẹn.

95. Hãy để cho Thánh Thần biến đổi
(Suy niệm của Lm Jude Siciliano OP – Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Vò Vấp)
Với lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta đã kết thúc 50 ngày mùa Phục sinh. Từ giây phút này trở đi, chúng ta sẽ làm chứng, như trong các bản văn Tân Ước, về đời sống mà Chúa Thánh Thần mang lại cho Giáo hội. Chúng ta gọi hôm nay là “sinh nhật của Giáo hội”. Rõ ràng từ chính thái độ mâu thuẫn của các tông đồ trong suốt hành trình sứ vụ của Đức Giêsu và sự phân tán khi Người bị bắt và bị giết chết, cho thấy rằng nếu không có sự can thiệp của Thiên Chúa, thì đã không có một Giáo hội đi loan báo Tin mừng của Đức Giêsu Kitô – đó là tầm quan trọng và sự cần thiết của Lễ Hiện Xuống.
Sau khi Đức Giêsu phục sinh và hiện ra nhiều lần với các tông đồ, Người biết rằng họ cần một sự biến đổi tinh thần để có thể trở thành nhân chứng cho Người. Vì thế, cuối Tin mừng Luca (24,47) và đầu sách Công vụ tông đồ (Cv 1,8), Đức Giêsu chỉ thị cho các tông đồ phải chờ đợi sức mạnh từ trên ban xuống cho các ông qua việc Thánh Thần hiện xuống.
Thánh Luca gắn khởi đầu của Giáo hội với Đại lễ Ngũ Tuần của người Dothái và cho biến cố này xảy ra ở Giêrusalem. Đó là năm mươi ngày (tiếng Hylạp – Pentecoste) sau biến cố Xuất hành và là cuối mùa thu hoạch lúa mì. Một số người cử hành lễ này như là thời gian nhớ lại việc Chúa ban Lề Luật trên núi Sinai. Vì thế, lễ này được xem như thời khắc để hoàn thành và cũng để khởi đầu một sự canh tân trong lịch sử Israel.
Với chuyện xảy ra vào Lễ Ngũ Tuần tại Giêrusalem, thánh Luca cho thấy sự liên tục của lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa đã khởi sự từ dân Dothái. Isaia (Is 2,2-4) đã hứa rằng tất cả các dân nước sẽ đến Giêrusalem nơi Đức Chúa sẽ thiết lập vương triều của Người trên trần gian. Vì thế, danh sách các dân nước được liệt kê trong bài đọc hôm nay (Cv 2,9-11). Giống như trong văn chương Kinh thánh, danh sách này mang ý nghĩa biểu tượng nói đến dân từ Đông sang Tây và khắp cả Rôma. Vào lễ Ngũ tuần tại Giêrusalem, là thời điểm và nơi chốn thích hợp để Thiên Chúa khởi sự một triều đại mới trải dài đến “tận cùng trái đất” – mà Rôma là biểu trưng. Như ngôn sứ đã hứa, triều đại này khởi sự với việc ban tặng Thánh Thần.
Lễ Hiện Xuống diễn ra hằng năm vào thời điểm này và tại một số giáo xứ, lễ được tổ chức với việc đọc sách thánh và hát thánh ca bằng những thứ ngôn ngữ khác nhau. Một vài giáo xứ thậm chí còn tổ chức lễ hội ẩm thực của dân bản địa, nhất là đối với những người mới nhập cư vào xứ này. Đây là những cử hành tuyệt vời về sự đa dạng của Giáo hội và cũng là sự nhắc nhở cụ thể về điều mà những người được nghe các Tông đồ tràn đầy Thánh Thần đang nói với họ: “Những người đang nói đó không phải là người Galilê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta?”
Chúng ta mới được nhắc nhở về một Giáo hội đa dạng thì mạnh mẽ thế nào. Trong những ngày tĩnh tâm giáo xứ gần đây, một người mới được rửa tội cho tôi biết về lý do mà anh cảm thấy mình được mời gọi gia nhập vào Giáo hội. Anh đã thăm giáo xứ vào một Thánh lễ Chúa Nhật. Một người Mỹ gốc Phi ngồi bên phải và một người di dân Việt Nam ngồi bên trái anh. Anh cho biết: “tôi quyết định gia nhập Giáo hội vì tôi đã thấy sự đa dạng của các thành phần trong Giáo hội, và cảm thấy Giáo hội cũng mở ra cho tôi một cơ hội nữa. Vì thế, tôi đã ghi danh vào lớp Khai Tâm Kitô giáo và đã được lãnh nhận Phép rửa cách đây hai năm”.
Trong một số môi trường như ở sở làm, trường học, chính trường, những khác biệt như thế có thể dựng nên những bức tường ngăn cách, chia rẽ người ta, đặc biệt là nhóm thiểu số. Nói thực lòng, những chia rẽ và định kiến như thế cũng đang tồn tại ngay trong các giáo xứ của chúng ta: những người cũ thường nắm khư khư thói quen, lịch trình và chống lại tất cả những gì mà những người tới sau đóng góp dựa trên quan điểm và lối thực hành niềm tin của họ. Chúng ta được nhắc nhở rằng lễ Hiện Xuống không chỉ là một sự bùng nổ của âm thanh và quang cảnh cách đây rất lâu; nhưng là không ngừng đòi chúng ta phải nhìn lại chính mình như Giáo hội và cách mà chúng ta cùng nhau thực hành niềm tin ấy.
Trong khi những cử hành lễ Hiện Xuống của giáo xứ đang cố gắng diễn tả sự đa dạng tuyệt vời mà Thánh Thần mang lại cho cộng đoàn, thì chính những kiểu cử hành ấy có thể cũng đã bị biến thành yếu tố địa phương và nhàm chán. Để rồi ai đó sẽ ngán ngẩm thốt lên “Lễ Hiện Xuống nào mà chẳng cử hành như thế”. Nhưng ngược lại, Thánh Thần không mang lại những gì đã định sẵn và thành ra thường lệ, nhưng Người đến trong hình lưỡi lửa và cơn gió. Nhiều người không muốn đối diện với những gì bất ngờ và hoang mang trong đời sống đức tin của mình. Họ phản kháng: “đời tôi đã quá đủ những báp bênh rồi. Tôi muốn đời sống đạo của mình nhẹ nhàng và dễ chịu – xin đừng có thêm lửa hay gió máy gì nữa!” Các cơ quan tổ chức thì có xu hướng chống lại những thay đổi và sự thích nghi. Thế giới thấy khó chịu với những người mộng mị hay những kẻ hoang tưởng. Chúng ta dễ xua đuổi họ hoặc kê toa thuốc để họ “bình tĩnh lại”.
Lễ Hiện Xuống nhắc nhở rằng không bao giờ ta có thể biết Thánh Thần sẽ hoạt động ra sao và nơi người nào. Đại Lễ nhắc ta phải mở to đôi mắt mở rộng đôi tai, nếu không chúng ta có thể đánh mất sức sống mới mà Thánh Thần thổi vào cuộc đời ta. Có thể Thánh Thần có điều muốn nói với ta qua: một thành viên hội đồng giáo xứ có ý kiến ngược với đa số; một người vô gia cư phàn nàn về cách anh bị đối xử trong nhà ăn giáo xứ; một bạn trẻ phàn nàn về thánh lễ Chúa Nhật dành cho giới trẻ thì chán ngắt; linh mục về hưu, tham dự ngày Chúa Nhật và không ngừng nhắc nhở “tinh thần của Vatican II”; một ca trưởng thúc giục ca đoàn phải chia bè ra mà hát; một mục sư Tin Lành mời chúng ta cùng nhau cộng tác trong việc tạo thêm chỗ ở cho những người không nhà; nhóm bảo vệ quyền sống muốn thúc đẩy để ngăn chặn nạn phá thai hay án tử…
Thánh Thần không chỉ đến với những người có quyền lực hay sức mạnh vì, “mọi người đang tề tựu ở một nơi”. Thánh Thần là một sự cân bằng, vì đó mà lối cân đong cũ nay không còn giá trị nữa; quý vị không thể biết được ai là người đang mang Thánh Thần hay nói thay Thánh Thần. Chúng ta thường cho rằng những người có học nhất sẽ đưa ra lời quyết định, vì dù sao họ cũng là “những người thông thái”. Mặc dù hôm nay chúng ta có thể đang cử hành lễ trọng này trong giáo xứ, để chứng tỏ sự phong phú của hội thánh, song Lễ Hiện Xuống vẫn đánh động chúng ta. Đó là việc chúng ta để cho làn gió phi thường tràn ngập con thuyền tâm linh của mình và để cho ngọn lửa thiêu rụi những chống đối dai dẳng trong ta.
Khi đi xem một trận bóng chày và đám đông xung quanh đang hò reo cổ vũ cho đội nhà, thì niềm phấn khởi đó có tính lây lan và chúng ta sẽ thấy mình chẳng mấy chốc đã tham gia vào đám đông đó. Đó là lý do tại sao chúng ta vui mừng cử hành lễ Hiện Xuống. Thánh Thần của Thiên Chúa được biểu lộ qua lòng thành kính và nhiệt tâm của những người xung quanh ta, có thể cũng lây lan. Thiên Chúa không ngừng thổi chính mình vào trong cộng đoàn đang quy tụ, truyền hứng khởi cho chúng ta, như Phêrô và các đồng bạn của ông khi họ nhận được Thánh Thần lần đầu tiên tại Giêrusalem.
Các ông không say rượu, như đám đông ngày ấy nghĩ về họ, nhưng các ông say ngất Thánh Thần. Chẳng lẽ không có gì ngạc nhiên khi một niềm tin mãnh liệt như thế đã lây lan ra toàn Giêrusalem và lôi kéo nhiều người vào trong cộng đoàn được Thánh Thần hình thành hay sao?

96. Thời kỳ ân điển của Thần Khí.
(Suy niệm của Lm. G.B. Trần Văn Hào)
Khi tổng thống Washington lên cầm quyền, vào thời điểm nước Mỹ mới được thành lập, ông và 55 nhà ái quốc đã nhóm họp tại Philadelphia để soạn thảo bản hiến pháp đầu tiên cho quốc gia này. Sau bốn tuần làm việc cật lực, họ vẫn không đạt được kết qủa nào vì có qúa nhiều ý kiến bất đồng, thậm chí đối kháng lẫn nhau. Mọi người toan tính bỏ cuộc. Một nghị viên tên là Benjamin Franklin đứng lên phát biểu: “Thưa Ngài Tổng thống và thưa toàn thể hội nghị, sức lực và trí tuệ của con người rất giới hạn và mong manh, cụ thể sau một tháng làm việc chúng ta vẫn chưa gặt hái được thành quả nào vì đầu óc chúng ta quá tăm tối. Vậy tôi đề nghị, chúng ta phải xin ơn trên soi sáng để có thể tiếp tục công việc”. Ý kiến trên được mọi người chấp nhận. Từ ngày hôm ấy trước mỗi phiên họp, các nghị viên đều đứng lên cung kính cầu nguyện để xin Chúa Thánh Thần soi dẫn. Chẳng bao lâu sau, nước Mỹ đã có được một bản hiến pháp lịch sử mà các sử gia vẫn xem đó là công trình vĩ đại nhất của nứớc Mỹ, được hoàn thành bởi ơn trên cùng với sự cộng tác của con người. Bản hiến pháp ấy đã trở thành quy chuẩn để nhiều quốc gia khác trên thế giới soi chiếu và noi theo. Người ta cho in hàng chữ ‘Chúng tôi tín thác vào Thiên Chúa’ (In God we trust) trên tờ Đôla Mỹ để ghi nhớ biến cố này. Qủa thật, nếu không mở lòng cho Thánh Thần tác động, chúng ta sẽ không làm được bất cứ công việc gì.
Chúa Thánh Thần là ai?
Trong kinh Tin kính chúng ta vẫn tuyên xưng: “Tôi tin Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy”. Đó là 4 tín điều căn bản của giáo lý Công giáo về Chúa Thánh Thần mà phụng vụ hôm nay gợi nhắc.
Tuy nhiên, khi chúng ta đặt câu hỏi Chúa Thánh Thần là ai, chúng ta dễ rơi vào tâm trạng giống như dân Ephêsô ngày xưa khi họ trả lời thánh Phaolô: “Thưa ông, ngay cả việc có Chúa Thánh Thần hay không, chúng tôi còn chưa biết đến”(Cv 19,2). Kinh thánh nói khá nhiều về Thần khí của Thiên Chúa với nhiều biểu tuợng, nhưng chúng ta không thể hình dung Chúa Thánh Thần qua một hình ảnh hay qua một danh xưng. Nhà thần học Simeon vẫn hướng về Chúa Thánh Thần với lời cầu nguyện: “Xin hãy đến, lạy Đấng mà chúng con không hiểu được, cũng không biết được”. Đấng mà chúng ta không hiểu, không biết, nhưng với cảm thức đức tin, chúng ta vẫn có thể trải nghiệm được sự hiện diện và tác động của Ngài tận thâm sâu trong cõi lòng mỗi người.
Vì thế, nói về Chúa Thánh Thần không phải là một điều giản đơn hay chúng ta có thể tự nghĩ ra. Chúa Giêsu đã từng nói với Nicôđêmô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi. Ông nghe tiếng gió nhưng không biết gió từ đâu đến và đi đâu (Ga 3,8)”. Thánh Thần là Đấng mà chúng ta không thể nhốt kín trong một phạm trù cứng ngắc, hoặc trình bày Ngài như một khái niệm xơ cứng. Chúng ta cảm nhận sự hiện diện của Ngài bằng đức tin, đồng thời chúng ta suy tư về Chúa Thánh Thần dựa trên Kinh thánh và những giáo huấn của Giáo hội. Tóm lại, để trả lời câu hỏi Chúa Thánh Thần là ai, chúng ta có thể trích mượn tư tưởng của thần học gia Jacques Guillet: “Người ta không thể thông hiểu về Chúa Thánh Thần như hiểu biết về Chúa Cha và Chúa con. Thánh Thần không có dung mạo cũng chẳng có danh xưng. Chúng ta không thể đặt mình trước Chúa Thánh Thần để cầu nguyện hay chiêm ngắm Ngài, theo dõi các hành động của Ngài. Nhưng chúng ta vẫn có thể cảm thấu sự hiện diện của Chúa Thánh Thần như Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ năm xưa: “Anh em sẽ nhận biết Ngài vì Ngài ở trong anh em” (Ga 14,17).
Những biểu tượng về Chúa Thánh Thần.
Biểu tượng mà Kinh thánh sử dụng nhiều nhất để nói về Thần Khí, là gió hay hơi thở, diễn tả qua hạn từ ‘Spiritus Sanctus’ trong tiếng Latinh, ‘Holy Spirit’ trong tiếng Anh, ‘Pneuma’ trong tiếng Hy Lạp, và tiếng Do Thái gọi là ‘Ruah’. Chính Chúa Giêsu cũng đã dùng biểu tượng này khi nói với Nicôđêmô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió và không biết gió từ đâu đến”. Trong sách Tông đồ công vụ, lễ Hiện xuống (Pentecost) được khởi đầu với một làn gió mạnh thổi vào căn nhà nơi các Tông Đồ đang tụ họp. Khi sống lại, Chúa Giêsu cũng thổi hơi trên các môn đệ, trao ban bình an và tuôn đổ Thần Khí trên các ông (Ga 20,22). Ngay từ đầu sách khởi nguyên, tác giả cũng đã trình thuật về công trình tạo dựng qua đó Đức Chúa Giavê thổi hơi ban sinh khí vào ‘nắm đất’ để dựng nên con người (St 2,7). Đó là những đặc nét và biểu tượng nói về Thần Khí, Đấng tác sinh và ban sự sống.
Biểu tượng thứ 2 nói về Chúa Thánhh Thần là mạch nước. Trong thị kiến của tiên tri Ezekiel, dòng nước chảy từ bên phải đền thờ phát sinh sự sống tiên báo về thời kỳ ân điển của Thần Khí (Ez 47). Cũng vậy, trong Tin mừng Gioan, Chúa nói với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp về nguồn nước sự sống phát nguyên từ nơi Ngài, là chính Thần Khí của đấng Phục sinh, đem lại cho con người ơn cứu rỗi (Ga 4,13). Rõ nét nhất, Tin mừng Gioan thuật lại cho chúng ta: “Vào cuối cuộc lễ, Đức Giêsu đứng dậy và hô lớn tiếng: “Ai khát hãy đến với tôi, ai tin vào Tôi hãy đến mà uống… Đức Giêsu muốn nói về Thần khí mà những kẻ tin vào Ngài sẽ lãnh nhận. (Ga 7,37-38).
Kế đến là biểu tượng ngọn lửa. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại bối cảnh lễ Hiện xuống đầu tiên với hình lưỡi lửa đậu xuống trên các tông đồ (Cv 2,3). Lửa có sức đốt cháy những vẩn đục và rác rưởi của tội lỗi để biến đổi tâm can con người. Chúa Giêsu cũng đã từng tuyên bố: “Thầy đem lửa từ trời đến thế gian, và Thầy ước mong cho ngọn lửa ấy bùng lên”. Thánh Phaolô cũng khuyến mời giáo đoàn Thesalonica: “Anh em đừng dập tắt Thánh Thần (1Th 5,14). Hai môn đệ trên đường về làng quê Emmaus khi nghe Chúa Giêsu cắt nghĩa Kinh thánh, đã cảm thấy như một ngọn lửa đang bừng cháy nơi tâm hồn mình (Lc 24,32). Đó là dấu chứng về sự tác động của Thần Khí.
Ngoài 3 biểu tượng nói trên, chúng ta còn thấy khá nhiều biểu tượng khác trong Kinh thánh ám chỉ về Chúa Thánh Thần, như chim bồ câu hoặc như việc xức dầu thánh hiến. Kinh thánh dùng những biểu tượng trên để nói về Ngôi Ba Thiên Chúa, là ngôi vị không có hình thể, không có danh xưng nhưng chắc chắn chúng ta có thể cảm nghiệm sự tác động nhiệm mầu của Ngài trong đời sống đức tin của chúng ta.
Kết luận
Tuần trước chúng ta mừng kính việc Chúa về trời, vừa hữu hình vừa vô hình. Tin mừng Gioan liên kết các sự kiện thành một mầu nhiệm duy nhất: Chúa sống lại đi vào trong vinh quang với Chúa Cha, và trao ban Thánh thần để Ngài tiếp tục hiện diện giữa Hội thánh. Cũng vậy, tuần này chúng ta cũng mừng kính việc Chúa Thánh Thần hiện xuống, vừa hữu hình vừa vô hình, là cao điểm của mầu nhiệm Phục sinh. Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Rôma đã viết: “Hướng đi của Thánh Thần là bình an và hoan lạc (Rm 8,6)”. Khi chúng ta có bình an và niềm vui thực sự trong tâm hồn, chúng ta thực sự đang sở đắc Chúa Thánh Thần. Ngài chính là nguyên lý của bình an và hạnh phúc. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần đến trong tâm hồn chúng ta mỗi ngày.

97. Suy niệm của Lm Đỗ Xuân Quế
CHÚA THÁNH THẦN TRONG HỘI THÁNH
Hội thánh được thành lập vào ngày lễ Ngũ Tuần, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống. Từ đây với một nhóm người nhỏ bé, dần dần Hội thánh trở nên lớn mạnh và lan rộng khắp nơi. Có thể nói hồn sống và động lực của Hội thánh là Chúa Thánh Thần, đúng như lời Chúa Giêsu đã hứa với các Tông đồ: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.”(Ga 16,13) Chính vì tin tưởng vào lời hứa ấy mà trải qua bao thăng trầm và biến động suốt mấy ngàn năm lịch sử, Hội thánh vẫn không tỏ ra nao núng. Nếu không có Chúa Thánh Thần và không được Người bảo trợ, Hội thánh đã biến mất từ lâu rồi. Về điểm này, một tác giả đã viết: “Không có Thánh Thần thì Thiên Chúa vẫn còn ở xa, Chúa Kitô vẫn thuộc về dĩ vãng, Tin Mừng là những hàng chữ chết, Hội thánh là một tổ chức đơn thuần, truyền giáo là tuyên truyền, thờ phượng là hồi tưởng, hành động Kitô giáo là một thứ luân lý nô lệ.”1
Nhưng may thay đã có Chúa Thánh Thần và Người vẫn đang hoạt động từ xưa cho đến nay. Thiết tưởng chúng ta nên đọc lại một vài đoạn về Người trong sách Công vụ Tông đồ để thấy được vị trí và ảnh hưởng của Người trong Hội thánh. Sở dĩ nói đến Công vụ Tông đồ vì đó là một cuốn sách trong các sách Tân Ước nói về Chúa Thánh Thần nhiều hơn cả.
Trong mấy câu trích dẫn trên đây, phần trước là lời ngôn sứ loan báo từ ngàn xưa (Ge 3,1-3), phần sau là điều đã được thực hiện thời các Tông đồ (Cv 2). Quả vậy ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống cũng là ngày ứng nghiệm lời loan báo của các ngôn sứ, đặc biệt là ngôn sứ Gio-en (3,1-2). Ơn Chúa Thánh Thần được ban cho mọi người, dù có lúc thánh Phê-rô và các thánh Tông đồ khác chiếm một vị trí riêng và đóng một vai trò nổi bật. Khi giải thích cho quần chúng sự việc đang xảy ra trước mắt họ, thánh Phê-rô loan báo Chúa đã sống lại và cho biết thành quả của cuộc thọ hình là tuôn đổ Thần Khí. Các Tông đồ đã được tràn đầy Thần Khí: “Họ cầu nguyện xong thì nơi họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa.” (Cv 4,31)
Thần Khí được tuôn đổ xuống trên các Tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần. Từ ngày ấy về sau, Thần Khí vẫn không rời khỏi các ông, nhưng mức độ cao thấp, mạnh yếu thì có thay đổi lên xuống tùy lúc tùy thời. Điều ấy giải thích được tại sao có phong trào Thánh Linh hiện nay. Tất cả những người đã chịu phép Rửa và phép Thêm sức đều đã nhận được ơn Chúa Thánh Thần, nhưng ơn ấy có thể hoạt động bất cứ lúc nào ở những mức độ khác nhau, theo như gió muốn thổi đâu thì thổi (Ga 3,8) nghĩa là theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
2. Công vụ 5,3
3″Ông Phê-rô mới nói: “Anh Kha-na-ni-a, sao anh lại để Xa-tan xâm chiếm lòng anh, khiến anh lừa dối Thánh Thần mà giữ một phần giá thửa đất.”
Trên đây là một câu nói về trường hợp ông Kha-na-ni-a bán đất đem nộp tiền cho các Tông đồ. Nhưng ông không nộp hết, còn giữ lại một phần. Hành động này bị coi như một lời nói dối. Nói dối người đại diện Hội thánh cũng là nói dối Chúa Thánh Thần. Hội thánh và Chúa Thánh Thần đồng hóa với nhau. Sự đồng hóa này cho thấy mối dây ràng buộc Hội thánh với Chúa Thánh Thần chặt chẽ như thế nào, khiến thánh I-rê-nê phải viết: “Ở đâu có Hội thánh, ở đấy có Thần Khí của Thiên Chúa. Ở đâu có Thần Khí của Thiên Chúa, ở đấy có Hội thánh và tất cả nguồn ân sủng của Người. Và Thần Khí chính là chân lý, là sự thật.”2 Nói dối ai là nói dối một người nào đó, ở đây nói dối Chúa Thánh Thần cũng là nói dối một người. Người đó là một Ngôi Vị, Ngôi Ba trong Ba Ngôi Thiên Chúa.
3. Công vụ 5,32 và 15,28
32 “Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng giữ Lời Người.”
28 “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này.”
Thánh Thần được trưng dẫn như người làm chứng và quyết định cùng với các Tông đồ. Như thế có nghĩa là Chúa Thánh Thần đóng một vai trò trọng yếu trong việc điều khiển Hội thánh và các Tông đồ là những người làm việc dưới quyền điều động và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Vai trò và ảnh hưởng của Người thật lớn lao.
4. Cv 8,29.39; 10,19; 13,2-4
29 “Thần Khí nói với ông Phi-líp-phê: “Tiến lên, đuổi kịp xe đó.” 39 Khi hai ông lên khỏi nước, Thần Khí Chúa đem ông Phi-líp-phê đi mất, và viên thái giám không còn thấy ông nữa. Nhưng ông tiếp tục cuộc hành trình, lòng đầy hoan hỉ.”
19 “Ông Phê-rô vẫn còn phân vân về thị kiến thì Thần Khí bảo ông: “Kìa có ba người đang tìm ngươi.”
2 “Một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay thì Thánh Thần phán bảo: “Hãy dành riêng Ba-na-ba và Sao-lô cho Ta,để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm. 3 Bấy giờ họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi. Vậy, được Thánh Thần sai đi, hai ông xuống Xê-lêu-ki-a, rồi từ đó đáp tàu đi đảo Sýp.”
Đọc những dòng trên đây, chúng ta thấy gì?
Trước hết là thấy Thánh Thần sai đi. Người sai ông
Phi-líp-phê đi gặp viên thái giám để làm phép Rửa cho ông ấy. Thứ đến là Người sai ông Phê-rô tới gặp đại đội trưởng Co-nê-li-ô, giảng dạy rồi làm phép Rửa cho ông này và cả gia đình ông. Cuối cùng, Người chọn riêng ông
Phao-lô sai đi giảng dạy các người ngoại giáo.
Như vậy đã rõ là ở đây Chúa Thánh Thần đóng vai trò kêu gọi và sai phái. Người kêu gọi và sai đi làm việc tông đồ. Đó là nhiệm vụ của Hội thánh trong buổi sơ khai và mãi mãi sau này. Nếu không có Chúa Thánh Thần khơi động và thúc đẩy, chắc chắn công việc không thể tiến triển như chúng ta thấy. Vì thế phải nói là Chúa Thánh Thần đóng một vai trò rất quan trọng trong mọi sinh hạot của Hội thánh, nhất là trong công cuộc truyền giáo lúc ban đầu.
5. Công vụ 9,31
3 “Hồi ấy trong khắp miền Giu-dê, Ga-li-lê và Sa-ma-ri, Hội thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông nhờ Thánh Thần nâng đỡ.”
Đây là một thời kỳ rất tốt đẹp: “Hội thánh được bình an và xây dựng vững chắc. Không còn hồ nghi gì nữa: cảnh tưởng đó là một ơn huệ lớn lao của Chúa Thánh Thần. Phải có bàn tay của Chúa Thánh Thần, Hội thánh mới được như vậy.
Còn nếu không được như thế thì sao? Đó cũng là do ý của Chúa Thánh Thần. Người muốn như thế để thanh luyện và làm cho Hội thánh ý thức rằng mình không có thành trì nào vững chắc ở trần gian. Có điều, dù vậy, Hội thánh vẫn không bị tan vỡ vì luôn luôn có Chúa Thánh Thần giữ gìn che chở. Người ta bảo rằng ít có khi nào Hội thánh được bằng yên năm mươi năm liền: được bằng yên ở chỗ này thì gặp rắc rối ở chỗ kia. Âu đó cũng là số phận thông thường của Hội thánh, và có như vậy Hội thánh mới tin vào sự nâng đỡ và sức hoạt động của Chúa Thánh Thần mà kiên trì tiến bước. Thông thường người ta dễ ru ngủ mình bằng những thành công và do đấy có thể bị sa lầy lúc nào chẳng hay. Có lẽ vì muốn cho Hội thánh phải luôn luôn cảnh giác mà Chúa Thánh Thần để cho Hội thánh sống trong tình trạng bấp bênh và an ninh tạm thời trong từng gian đoạn, để Hội thánh nhớ rằng mình vẫn phải cậy dựa vào Chúa Thánh Thần. Vả lại, Chúa Giêsu cũng đã nói: “Giả như anh em thuộc về thế gian thì thế gian yêu thương cái gì thuộc về nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em ra khỏi thế gian,nên thế gian ghét anh em.” (Ga 15,19)
Nếu từ trước đến nay, phần đông chúng ta quen nghĩ rằng Thánh Thần xa xôi và trừu tượng lắm, thì bây giờ qua mấy đoạn văn tiêu biểu trích dẫn trong sách Công vụ Tông đồ, chúng ta nên thay đổi lối nhìn và cách nghĩ về Người. Người ở trong chúng ta và giữa lòng Hội thánh. Người đã chỉ huy, điều khiển sinh hoạt của Hội thánh lúc ban đầu và luôn canh chừng Hội thánh trong suốt dòng lịch sử. Gần đây, Qua Công đồng Va-ti-ca-nô II, Người vẫn chứng tỏ sự hiện diện và gần gũi của Người bên cạnh Hội thánh. Nếu hiện nay, có những người thích cầu nguyện chung hay riêng một cách sâu sắc, thích trở về với sự chiêm niệm như xưa và nhấn mạnh đến việc ngợi khen Chúa, ước ao hiến mình trọn vẹn cho Chúa Kitô, luôn sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Thánh Thần, siêng năng đọc Kinh thánh nhiều hơn, tận tâm giúp đỡ anh em và sẵn sàng phục vụ Hội thánh thì chúng ta có thể coi đó là hoạt động kín đáo và mầu nhiệm của Thánh Thần, hồn sống của Hội thánh.3
Cuối cùng, nếu cố gắng mang Thánh Thần ở trong mình, chúng ta sẽ giống như những đồ vật sạch trong, khi được ánh mặt trời chiếu vào, sẽ trở nên rực rỡ và và phát ra một thứ ánh sáng mới. Những ai mang Thần Khí, được Thần Khí soi dẫn thì cũng thành những con người thiêng liêng chiếu giãi ân sủng lên những người khác như vậy.4

98. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
CHÚA HIỆN ĐẾN (20,19-20)
Cảnh tượng diễn ra có chiều ngày hôm ấy. Các tiểu đoạn trước xem chừng không thay đổi cách hành xử của các môn đệ (ta có thể nghĩ rằng các môn đệ ở đây ám chỉ nhóm Mười Một, dù rằng Lc 24,33 thêm “các bạn hữu” vào nhóm Mười Một này). Các ông sống trong lo âu sợ hãi và trốn tránh. Chính trong nơi cửa đóng then cài này mà Chúa Giêsu ngự đến. Sự hiện diện của Người không còn lệ thuộc vào luật lệ thể xác và những điều bó buộc tự nhiên như những sự bó buộc của con người với thể xác mình. Không thấy nói Chúa đi xuyên qua tường: đơn giản Người có thể hiện diện cách khác hơn loài người.
Chúa đến, như thuở sinh thời, là nguồn bình an. Người nói “Chúc anh em được bình an”, điều này không chỉ là một lời chúc xã giao, mà còn có nghĩa là món quà hữu hiệu của ơn cứu độ, của niềm vui và của sự bình an. Các dấu vết đóng đinh trên tay và cạnh sườn của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng, bất chấp các tình huống kỳ lạ về sự xuất hiện của Chúa Giêsu, thánh sử không muốn rằng độc giả xem Chúa như một bóng ma, nghĩa là ai đó khác với Đấng chịu đóng đinh. Hẳn thật sự hiện diện thể lý bình thường của Chúa Giêsu đã chấm dứt, tuy nhiên con người đang đứng ở giữa họ là Chúa Giêsu, nghĩa là cũng một con người như Đấng họ đã biết và y trong, nhưng mà từ nay sự Phục Sinh đã làm biến đổi. Sự lo âu sợ hãi tiêu tan, các môn đệ hân hoan vui mừng.
SỨ VỤ (20,21-23)
Những lần hiện ra tự nó không nhằm mục đích riêng. Chúng mở màn cho một sứ vụ. “Như”: đây không chỉ là một sự so sánh, đây là căn nguyên và nền móng. Các môn đệ được sai đi (theo từng chữ “làm Tông đồ”) để kéo dài hoạt động của Chúa Giêsu. Đây là lần đầu tiên trong Tin Mừng của mình, Gioan gán tước hiệu Tông đồ cho nhóm Mười Một. Chủ đề sai đi này đã được trình bày sâu rộng trong diễn từ tư tế (17,17-19). Như Thiên Chúa đã thổi sinh khí trên Ađam (St 2,7), như Thần Khí đã ngự xuống trên Chúa Giêsu (1,33-34), Chúa Giêsu mà Thiên Chúa đã tôn làm Chúa, thổi (cũng động từ Hy Lạp ở đây như trong St 2,7) quyền năng của Thần Khí trên các môn đệ (x. 14,26). Người là Đấng đến để có kinh nghiệm về cái chết, tự tỏ mình ở đây như là Chúa Tể sự sống. Còn các môn đệ, cho đến lúc ấy còn sợ hãi, bây giờ mặc lấy sức mạnh của Thiên Chúa. Như Thiên Chúa, rồi Đấng được sai đến là Chúa Giêsu, họ có thể tha tội, nghĩa là thanh tẩy tội lỗi trong quyền năng cái chết cảu Chúa Giêsu. Thần Khí kết buộc họ với Thiên Chúa chặt chẽ đến nỗi, khi họ được tha cho ai hoặc cầm giữ tội của ai, thì chính Thiên Chúa qua họ mà tha cũng như cầm giữ tội lỗi. Chúng ta có ở đây một dạng văn phạm gọi là “thì thụ động thần linh” nhằm tránh tên gọi Thiên Chúa qua thì thụ động. Ta có thể dịch như thế này: “Bất cứ người nào anh em tha… Thiên Chúa sẽ tha tội cho họ… Bất cứ người nào… Thiên Chúa sẽ cầm giữ tội họ”.
Chúa đến lần này, cũng như lần tiếp theo, đều diễn ra vào “ngày của Chúa’, nghĩa là vào lúc các Kitô hữu tiên khởi hội họp cử hành phụng vụ, thời điểm đặc biệt để Thiên Chúa hiện diện với cộng đoàn của Người và mỗi khi họ tập hợp để bẻ bánh cũng là mỗi lần hiện thực hóa một lần nữa việc sai họ đi khắp thế gian.

99. Chú giải của Noel Quesson
Chiều ngày thứ nhất trong tuần…
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, Thánh Thần được trao cho các tông đồ, ngay chiều Phục sinh, trong bước đầu của cuộc sống lại, và Giáo hội được khai sinh nhờ khí thế của Đức Giêsu. Trong trình thuật trên, so sánh với bản văn của Luca trong Công vụ Tông đồ, Đức Giêsu xem ra giữ ưu thế hơn Thánh Thần. Thánh Gioan giúp chúng ta quen nhận ra trong Tin Mừng của ông, một nội dung thần học phong phú, nhờ các biểu tượng Kinh Thánh.
“Ngày thứ nhất trong tuần”. Một thế giới mới khởi sự một cuộc tạo dựng mới. Đó là một Sáng Thế mới. Thiên Chúa lại cầm “con người” trong bàn tay, và nhào nắn nó lại trong một thứ “đất sét” hoàn toàn mới.
Và từ hôm đó, các Kitô hữu không ngừng tụ họp lại từ “ngày thứ nhất trong tuần” này đến ngày thứ nhất trong tuần khác…. từ Chúa nhật này đến Chúa nhật khác. Giáo hội phát sinh từ cuộc tập họp nhịp nhàng như thế, trong suốt dòng thời gian, ngày nay vẫn còn tiếp diễn. Cần phải tổ chức những Chúa nhật, để giúp mọi Kitô hữu dần dần… sống nhịp theo những lần “hiện đến” của Đức Giêsu. Chúng ta không thích “nghĩa vụ dự lễ Chúa nhật” một cách nhạt nhẽo, với vẻ bề ngoài quá vụ luật. Vì đó là một nhu cầu sống! “Cần phải thở hít mà”? Do đó, không phải một năm chỉ dự lễ một lần.
Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái.
Sợ hãi! Thế giới của chúng ta luôn được xây dựng trên sợ hãi. Ngăn ngừa nguyên tử, là vì nó “gây khiếp sợ”.
Trước khi đi sâu hơn vào cầu nguyện, tôi cần phải nhìn thẳng thắn vào đời sống riêng tư của mình, xem những nỗi sợ hãi của tôi là gì? Nơi “xảy ra biến cố Phục sinh”, là nơi mà các môn đệ đóng cửa, tự đề phòng, là nơi họ đang sợ sệt.
“Nơi” mà Thần Khí Thiên Chúa có thể xuất hiện trong tâm hồn tôi, đó là điểm gây thương tích nội tâm, là nơi dễ bị tổn thương, rủi ro, đau khổ.
Đối với tôi tình huống nào làm tôi dễ “đóng cửa then cài”?
Trường hợp, tội lỗi, băn khoăn nào thường đồng kín tôi? Thánh Phao lô đã ý thức về thực tại này, như một kiểu chết chóc: “Sự chết hoạt động nơi chúng tôi… Nhưng, chúng tôi không chán nản, bởi vì, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới… Thật vậy, một chút gian truân tạm thời: trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng tôi cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2 Cr 4, 12. 16. 17).
Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông
Không phải ngẫu nhiên mà Gioan liên kết biến cố Phục sinh của Đức Giêsu với việc trao ban Thần Khí. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta quả quyết rằng, Thánh Thần là “Thiên Chúa, là Đấng ban sự sống”. Việc trao ban sự sống này, trước hết chính Đức Giêsu đã đón nhận: khi lôi kéo Đức Giêsu ra khỏi quyền lực của tử thần, Thần Khí của Thiên Chúa đã đạt thành tích của bậc thầy!
Trong con người thụ tạo của ta, vì không phải là thần linh, nên mang tính hữu hạn, thì “tinh thần” và “thân xác” liên kết với nhau trong mọi tình huống. Nhưng dù mạnh đến đâu, tinh thần trong ta cũng nhận ra một suy sụp cuối cùng, không cho phép nó cầm giữ lại thân xác của mình: “con người” cũng có nghĩa là phải chết! Nhưng trước vũ trụ thụ tạo hay chết đó, Đức Ki tô không những được trang bị những năng lực hữu hạn của tinh thần con người, nhưng Người còn nhận được những năng lực vô biên dành riêng cho Thiên Chúa. Đức Kitô mang trong mình một Thần Khí hoàn toàn khác với tinh thần của con người, nên không sử dụng Thánh Thần, là Đức Chúa và là Đấng ban sự sống? Đức Giêsu phá bỏ mọi thứ rào cản sự kiện Ngài đột nhiên xuất hiện giữa các môn đệ đang bị nhốt kín, chứng tỏ rằng Người không để cho bất cứ một chướng ngại vật nào có khả năng cầm giữ được Người đến “đứng giữa các người thuộc về mình. Sáng nay, Người đã nhận một luồng sinh khí đặc biệt mới mẻ, biến Người trở thành một “thân thể thiêng liêng”, một thân thể được sống sự sống của Thánh Thần tác động (1 Cr 15, 44). Trước khi trực tiếp trao ban Thần Khí cho các bạn hữu của mình, Đức Giêsu
Phục sinh đã được Thiên Chúa Cha Người, ra tay uy quyền nâng lên cao và trao cho Người Thánh Thần đã hứa” (Cv 2,33). Chính Thánh Phêrô đã công bố mạc khải kỳ diệu trên, vào ngày Lễ Hiện Xuống.
Vâng, sự Phục sinh là một công trình, của Thánh Thần.
Người cho các ông xem tay và cạnh sườn
Bạn muốn tìm nơi xuất hiện biến cố Phục sinh: Bạn sẽ thấy khó phát hiện ra sự hiện diện của Thần Khí?
Do đó, hôm nay, bạn hãy cố khám phá ra những vết sẹo những thương tích đang ở đâu trong trái tim, trong đời sống bạn, cũng như trong thế giới hay trong Giáo hội.
Chúc anh em được bình an! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.
Từ sợ hãi đến vui mừng, nhờ lời chúc bình an.
Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.
Họ đang bị “nhốt kín”, giờ lại được “sai đi”.
Việc sai đi thi hành sứ vụ, không hẳn được nhìn theo quan điểm một tổ chức nào đó: không phải là một thứ “xí nghiệp” quảng cáo được trang bị đầy đủ đồ hàng. Và Đức Giêsu không thực dụng giúp Giáo hội bước vào con đường “thừa sai” Theo Người, chỉ có một điều quan trọng: đó là nguồn gốc phát sinh công cuộc thừa sai: “mối dây thân mật liên kết Đức Giêsu với Chúa Cha”. Thực vậy, chỉ có một sứ vụ: sứ vụ của Chúa Cha, cũng là sứ vụ của Đức Giêsu, và trở thành sứ vụ của Giáo hội.
Nói xong, Người thổi hơi vào các ông
Ở đây Gioan sử dụng một thứ ngôn ngữ Kinh Thánh, đặc biệt ám chỉ tới hai bản văn sáng giá sau đây:
Cuộc tạo dựng đầu tiên: “Thiên Chúa thổi vào mũi con người một sinh khí” (St 2,7).
Cuộc sáng tạo cuối cùng: “Hãy thổi vào các bộ xương chết khô này, để chúng được sống” (Ed 37,9).
Có một cuộc sáng tạo trong, quá khứ đó là sự phát sinh sức sống đầu tiên lúc khởi sự thời gian. Cũng sẽ có một cuộc sáng tạo trong tương lai, đó là sự sống lại sau cùng, vào ngày tận thế. Nhưng luôn có một cuộc sáng tạo hiện hành: đó là “Hơi thở” của Thiên Chúa đang hoạt động. Tôi tin Thánh Thần là Thiên Chúa, và là Đấng ban sự sống!
Đó là hơi thở mang sức sống! Tự nhiên bạn lại không thấy mình có khả năng để diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa và hoạt động của Người trong thế giới, nhờ vào sự kiện thông thường nhất nhưng cũng cốt thiết nhất: đó là hít thở hay sao? Mọi sinh vật, từ vi sinh vật cho đến những ác thú lớn lao, đều hít thở cùng một thứ ô-xy, được cống hiến cho tất cả chung quanh hành tinh chúng ta. Thế nên, chính tôi cũng hô hấp hơi thở của mọi sinh vật. Đó là hình ảnh cảm kích về Thiên Chúa duy nhất, Đấng làm cho tất cả chúng ta sống động! Khi đàm đạo với ông Nicôđêmô, Đức Giêsu đã dùng chính hình ảnh đơn sơ về gió trên đây: “Gió muốn thổi đâu thì thổi. Gió làm cho sống động” (Ga 3,6-8).
Anh em hãy nhận lấy
Tôi cầu nguyện theo lời mời gọi trên. Tâm trạng của người thời nay không thích “nhận”: người ta từ chối việc lệ thuộc kẻ khác. Đó là thứ tội nguy hiểm nhất: tự phụ mình “như thần thánh”. Nhưng điều đó đâu có thuộc quyền năng của con người. Dù muốn hay không, con người vẫn là một sinh vật phải lệ thuộc, hoàn toàn phải phụ thuộc: Con người cần đón nhận sự sống để sống. Tôi nhận lãnh sự sống từ cha mẹ. Tôi nhận lấy sự sống của mặt trời, giúp tôi có lương thực. Tôi tùy thuộc vào từng ngàn sự việc, từng ngàn con người, và rất nhiều điều kiện.
“Hãy nhận lấy mà ăn. Này là Mình Thầy”. Cần phải “nhận “lãnh” “Thân Thể”. Nên cũng cần phải “nhận lãnh” Thần Khí đó!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết tiếp nhận, biết đồng ý nhận lấy ân huệ mà Chúa trao ban.
Thánh Thần
Nhân loại cần đón nhận cộng đồng Thần Khí hiện hữu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Dù nhiều, nhưng chỉ là một! Như thế, chúng ta cũng khám phá ra rằng, trong sứ vụ của Giáo hội, không chỉ có Chúa Cha và Chúa Con mà Người sai gửi đến, nhưng là mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Giáo hội, như Công đồng Vatican II nói, là sự mở rộng tới mọi người, cộng đồng yêu thương luôn liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa.
Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.
Vai trò và sứ vụ của Giáo Hội là loan báo ơn tha thư và hồng phúc cứu độ! Diễn tiến của trang Tin Mừng theo thánh Gioan trên đây thật sống động:
Một cộng đồng những con người đã trải qua kinh nghiệm với Chúa Phục sinh.
– Việc sai gửi đi thi hành sứ vụ của cộng đồng này phát sinh từ kinh nghiệm ai đó.
– Việc thông ban Thánh Thần làm cho cộng đồng có khả năng thi hành sứ vụ.
Sứ vụ đó chính là thông truyền ơn cứu độ, sự tha thứ, sự Thánh thiện.
Như thế, vai trò của Giáo hội là giải phóng! Là cống hiến tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Kiểu nói đối chiếu, có tinh tiêu cực trên đây, hiển nhiên không có nghĩa là: Giáo hội có thể hành xử một thứ quyền phán quyết độc đoán. Đừng bao giờ nên hỏi: “Liệu Thiên Chúa có tha thứ cho tôi không? Thập giá của Đức Giêsu đã trả lời cho câu hỏi này. Nhưng quan trọng, vẫn là câu hỏi: Liệu tôi có “lãnh nhận” ơn tha thứ đó không?

100. Chú giải của Fiches Dominicales
NGÀY ĐẦU TIÊN CỦA TẠO THÀNH MỚI ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH THỔI HƠI VÀO CÁC MÔN ĐỆ VÀ BẢO ANH EM HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN
1/ Đấng Phục sinh chủ động đến.
Các môn đệ tụ họp trong một căn phòng đóng kín cửa. Họ sợ người Do Thái, đúng hơn, sợ các vị chức sắc trong giáo quyền Giêrusalem. Với chi tiết này, có lẽ tác giả muốn các độc giả Tin Mừng của mình liên tưởng đến các cuộc bách hại mà tới lúc này đã lan rộng. Bị trục xuất khỏi hội đường vì dám tin nhận Chúa Giêsu là Đức Kitô (người mù bẩm sinh bị đuổi khỏi hội đường: Ga 9,34). Họ như dần dần được chỉ dẫn đức tụ họp ở một nói riêng tránh sự dòm ngó của những kẻ bách hại họ.
Họ tụ tập. Đức Giêsu đến trước mặt họ. Lời đầu tiên Người nói là lời cầu chúc bình an: Bình an cho anh em (Shalom). Không chỉ là lời chào xã giao, nhưng là một xác nhận ân huệ phát sinh: vui mừng, bình an.
2/ Nhận ra Đức Giêsu đang sống sau khi biết rõ người đã chết.
Đức Giêsu chỉ cho họ thấy tay và cạnh sườn Ngươi (liên tưởng tới lưỡi giáo đâm: Ga 19,34). Alain Marchadour chú giải rằng: Dù thuật lại những lần hiện ra lạ lùng của Đức Giêsu, thì những vết đinh đóng và cạnh sườn bị đâm thủng chứng tỏ rằng thánh sử không muốn độc giả lầm tưởng đó là bóng ma, nghĩa là, một ai khác chứ không phải Đấng chịu đóng đinh. Đúng ra, sự hiện diện thể lý thông thường đã chấm dứt, nhưng Đấng đã hiện diện trước mặt họ đây, chính là Đức Giêsu họ biết là yêu mến, từ nay đã thăng hoa bởi sự phục sinh. Không sợ hãi nữa, các tông đồ trở nên vui mừng” (“L’evangile de Jean, Centurion”. trg 246).
3/ Tiếp nhận sứ mệnh Đấng Phục sinh trao.
Đấng Phục sinh hiện đến, không phải chỉ là một chuyến ngao du, nhưng còn để trao một sứ mệnh. Sai họ đi với sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Để đem Tin Mừng ơn Tha Thứ của Thiên Chúa đến cho mọi người.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một hơi thở nhẹ như làn gió thoảng.
Làm thế nào mà một hơi thở từ cửa miệng lại có thể trở thành cơn bão trong lịch sử? Người ta sẽ không bao giờ nói cho hết được về làn gió thoảng đổi mới vũ trụ này. Từ buổi bình minh của vũ trụ, nó đã lên tiếng ngợi ca làm bừng lên dòng nhựa sống đầu tiên. Ngôn sứ Êdêkiel đã trông thấy nó làm sống lại cả một cánh đồng đầy xương khô: đó là hình ảnh dân tộc bị lưu đày biệt xứ và bị hạ nhục vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Và giờ đây, Đức Giêsu đang mấp máy môi, dường như để ban cho các bạn hữu của Người đang hoảng sợ một linh hồn khác: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Chính Thần Khí này đã bay lượn trên làn nước nguyên sơ, đã vực các ngôn sứ đứng lên, đã đánh thức cả một dân tộc đang mê ngủ. Trong ngôn ngữ Hípri. từ Thần Khí thuộc giống cái. Dường như hơi thở của Thiên Chúa có chức năng từ mẫu là sinh sản một nhân loại tương lai, tương lai mà Người muốn cho họ được hưởng.
Hiệu quả của nó thật là khôn lường và ấm áp. Còn đâu nữa cánh cửa cài then vì sợ hãi. Nhưng bình an đang tỏa lan trên những khuôn mặt. Bình an vì không còn chinh chiến. Bình an của tâm hồn. Họ ra đi người này đến với người kia như những người được Thiên Chúa sai đi, giống như chàng thợ mộc thành Nadarét xưa đã chứng tỏ tình thương của Chúa Cha bằng những việc làm đầy tình thương xót. Họ sẽ mạnh hơn cả tội lỗi vốn làm méo mó, ti tiện và xuyên tạc hình ảnh con Người. Vì Thiên Chúa đã ban cho họ năng lực biến đổi của Người là ơn tha thứ, một sức mạnh lạ lùng nhất của vũ trụ, có thể biến đổi những con người lúc này và mãi mãi muôn đời.
Họ sẽ không quên những thương tích của Đấng Công chính bị tử hình vì dòng họ đi đôi khi sẽ là gian khổ. Họ sẽ không quên lời Người nói vì như lời Người, men của họ sẽ làm dậy các tâm hồn. Họ sẽ không quên các việc Người làm, vì nhờ đó, họ sẽ lay chuyển và luôn thúc đẩy mọi người, mọi nhóm, mọi xã hội lại cất bước lên đường. Không hoàn cảnh thực tế nào sẽ làm cho những hạt giống này chết đi và làm tiêu ma sự bảo đảm của Thiên Chúa. “Các môn đệ lòng đầy hân hoan”.
Liệu chúng ta có biết lắng nghe và cảm nhận luồng hơi thở nhẹ như gió thoảng kia là sự sống của Thiên Chúa chăng?
2. Người Canh tân bộ mặt địa cầu:
Thần Khí luôn luôn đi đôi với những gì là đổi mới, là tái tạo là cởi mở và giải thoát, là sai đi và qui tụ. Người là tác nhân không mệt mỏi luôn canh tân và hiện tại hóa mọi sự. Từ một đám đông gồm nhiều thành phần khác nhau, Người làm nẩy sinh và khơi dậy sự hiệp nhất và cả tình hiệp thông.
Là nguồn sự sống không bao giờ cạn kiệt, Thần Khí không ra khỏi thế giới sau hành động ban đầu còn ghi trong sách Sáng thế. Và cũng vậy, sự can thiệp “ồn ào” của Người nơi các môn đệ hoảng sợ đến tê liệt, không phải là lễ Hiện Xuống duy nhất và cuối cùng, chỉ gợi cho lòng ta luyến tiếc mỗi khi nhớ lại mà thôi Thiên Chúa không ngừng gởi hơi thở của Người đến và ta vẫn còn có thể nghe biết Người, tuy không biết hơi thở từ đâu đến và sẽ đi đâu. Thế nhưng, người ta có thể cảm nhận rõ sự hiện diện và hoạt động của Người đem lại hiệu quả thực sự. Thần Khí mở toang mọi cánh. Người làm cho người ta phải bung ra khỏi những bức tường khép kín và giã từ những tổ ấm được coi là an toàn, vững chắc và đạo đức phô trương.
Thần Khí đánh thức, chỉ trích và uốn nắn. Người dứt ta ra khỏi niềm luyến tiếc về quá khứ, khỏi nỗi nhớ nhung tìm lại “thiên đường đã đánh mất” để hòa nhập với hiện tại luôn biến chuyển như bãi phù sa, cho lòng ta tràn đầy hy vọng để chuẩn bị cho ngày mai. Thần Khí làm trẻ lại những con người trì trệ, khiến người bại liệt đứng dậy và chạy nhảy. Người ban cho những ai bị suy sụp tinh thần vì thứ tôn giáo sợ sệt, vì thứ lề luật cứng ngắc và mù quáng và vì những mớ giáo lý khô khan, tìm lại được can đảm, mạnh bạo về niềm vui. Thần Khí dẫn ta vào cốt lõi của Thiên Chúa, và của con người: tức là chân, thiện, mỹ, nghĩa là mối quan hệ hoàn hảo, sự truyền thông thành công, sự hiệp thông. Thần Khí không phải là Thiên Chúa tự hiến mình đó sao? Và hoa quả đầu tiên mà người đem đến cho kẻ tiếp nhận Người, không phải là đức ái đó sao?
Cũng phải kể là dấu chỉ của Thần Khí, khi tính đồng nhất nhường chỗ cho sự hiệp nhất, khi tính đa dạng được canh tân nhờ những ân huệ và đặc sủng, nhờ những chức năng và hoạt động, đẩy lui được những cám dỗ muốn thống trị và độc quyền, tính cạnh tranh là ghen tuông, tính tự tôn và những phán quyết không thể thay đổi. Thần Khí là sự dịu hiền và là sức mạnh, là nước và ánh sáng, là quyền năng và êm ái. Người là tiếng thì thầm và là gió bão, là lửa cháy. Người canh tân bộ mặt trái đất.
3. Chúa Thánh Thần hiện tại hóa sự hiện diện của Đấng Phục sinh trong đời sống Kitô hữu.
Đức Giêsu hứa sẽ gởi Chúa Thánh Thần đến cho các môn đệ, khi Người “vượt qua” trần thế để về cùng Cha, như vậy chắc hẳn ân huệ của Thánh Linh liên hệ rõ rệt với mầu nhiệm vượt qua. Tiếp nối sự hiện diện hữu hình của Đức Giêsu, giờ đây là một quan hệ khác với người, quan hệ trong Thánh Thần, Đấng được mô tả như là:
– “Paraclet”, Đấng bảo trợ, bênh vực nơi tòa án trong vụ kiện chống các nhân chứng, giống như Đức Giêsu.
– “Thầy chân lý”, giống như Đức Giêsu, chứng nhân của chân lý (18,37). Người được Chúa Cha ban “để ở với anh em luôn mãi” và ở với mọi người được sai đi. Thánh Linh như chính Đức Giêsu, hiện diện bên các môn đệ suốt thời kỳ của Hội Thánh.
Hoạt động của Người nơi các tín hữu được mô tả là:
– Người là tác nhân tạo nên sự trung thành với Lời của Đức Giêsu và Tình yêu của Người.
– Người là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện: “Chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy”.
– Người dần dần dẫn dắt họ tới sự hiểu biết đầy đủ sứ điệp của Đức Giêsu: “Người sẽ giúp anh em nhớ lại mọi điều”. Với tư cách Đấng Bảo Trợ, là Hiện diện, là Ký ức, Thần Khí hiện tại hóa sự có mặt của Đấng Phục sinh trong cuộc sống người Kitô hữu.

101. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
THẦN KHÍ CỦA ĐẤNG PHỤC SINH
1. Vào chiều phục sinh, Chúa Giêsu đã hai lần chúc cho các tông đồ đang hội họp (có lẽ tại nhà Tiệc ly): “Bình an cho các con”, và giữa hai lần chúc này, Ngài tỏ cho họ thấy dấu đinh nơi chân tay và vết đâm cạnh sườn Ngài. Lời cầu chúc trước và sau khi nhắc lại cuộc tử nạn xem ra rất phù hợp với một ý hướng đặc biệt của Chúa Giêsu. Thật vậy, việc lặp lại lời chúc này cho thấy đây không phải là một công thức chào hỏi thông thường, như là thứ bình an hòa lẫn với các dấu vết cuộc tử nạn, và như thế vượt quá bình an thông thường. Nỗi đau khổ biệt ly không thể biến thành một niềm vui chóng qua làm ta quên mất cuộc tử nạn. Nỗi khổ đau ấy phải trở nên một niềm vui hằng cửu, được chín mùi trong đau khổ; đó là niềm vui của Chúa Giêsu cũng như của các môn đệ, thứ niềm vui không ai có thể cướp mất được (16,20-22). Niềm vui này là niềm vui của mùa gặt, kết quả của sức cần lao và khổ cực của cuộc tử nạn (4,38; 17,13).
2. Nếu phải có thần khí trợ giúp, các môn đệ mới hiểu được “chân lý” huống hồ để làm cho người khác hiểu chân lý, các ông phải cần đến thần khí dường nào nữa. Cũng như Thiên Chúa đã thổi hơi sự sống cho con người đầu tiên (St 2,7; Kng 15,11). Cũng vậy, Chúa Giêsu hôm nay thổi Thánh thần, hơi thở Thần linh cho các môn đệ (ruah trong tiếng Hy bá, và pneuma trong tiếng Hy lạp đều có nghĩa: hơi thở, gió). Giờ đây, họ được tái tạo để thi hành sứ mệnh. Việc trao ban thần khí ở đây không chủ yếu nói lên việc tái sinh các môn đệ trong nước trời và trong sự sống siêu nhiên (3,3-8), nhưng nhằm đến sứ mệnh được trao cho họ: sứ mệnh thôi thúc kẻ khác đến cùng chính sự sống ấy.
3. Tại sao Thần khí đã được trao ban cho các môn đệ ngay từ ngày Chúa phục sinh, trong lúc đó Giáo hội sơ khai cho rằng Thần khí được tuôn tràn trong dịp lễ Ngũ tuần (Cv 2,1-4). Lc chỉ nói đến một lời hứa sẽ được thực hiện vào lễ ngũ tuần (Lc 24,49), nhưng ông đưa về tác phẩm thứ hai của ông là sách Cv, còn Gioan thì không. Như vậy thần khí phải chăng là một sản phẩm có điều kiện? hoặc thần khí được trao ban cách “nhỏ giọt”?
Đã có nhiều câu giải đáp. Sau đây là hai cách giải đáp khá hấp dẫn:
a. Theo một vài tác giả, thật là sai lầm khi muốn dung hòa Gioan và Cv, bằng cách giả thiết Gioan nói đến việc trao ban Thần khí lần thứ nhất, còn Lc nói đến việc trao ban Thần khí lần thứ nhì. Không có một dấu chỉ nào cho thấy hai tác giả của hai tác phẩm này biết tới hoặc để ý tới vấn đề mà tác giả kia bàn đến. Và như tế người ta có thể nói mỗi tác giả đều mô tả cùng một biến cố: chỉ có một thần khí được Đấng phục sinh và lên trời trao ban cho các môn đệ. Nhưng hai tác giả phúc âm đã diễn tả cách khác nhau tùy khuynh hướng, thần học riêng của mỗi người. Chúng ta không thấy hiện tượng các tác giả trình bày khác nhau cùng một biến cố thuộc sứ vụ Chúa Giêsu đó sao? Đặc biệt Gioan và Cv chỉ định hai thời gian khác nhau cho việc trao ban cùng chính một thần khí không phải là một chướng ngại bất khả vượt. Như nhiều kẻ đã lưu ý, ngày giờ mà Chúa Giêsu hiện ra lần đầu tiên cho các môn đệ, theo Gioan ghi chép, chỉ có tính cách giả tạo, vì hình như Galilê mới là nơi được hẹn để hiện ra lần đầu tiên hơn là Giêrusalem (x. Mc 16,7 và Mt 28,7), và nếu vậy thì đương nhiên loại bỏ việc xem ngày chúa nhật Phục sinh như là ngày Chúa hiện ra lần đầu tiên. Còn sách Cv lại mang nhiều yếu tố biểu tượng trong việc chọn ngày lễ Ngũ tuần, vì Lc dùng (như là hậu cảnh) chủ đề giao ước Sinai, chủ đề mà ông sẽ nối kết với lễ ngũ tuần khi diễn tả việc thần khí đến. Dù sao, có thể Lc đã giữ lại một kỷ niệm xác thực về việc Thần khí lần đầu tiên đã hiện xuống trên cộng đoàn tiên khởi vào một ngày lễ ngũ tuần nào đó. Điểm đáng chú ý là hai tác giả đều đặt việc trao ban thần khí sau khi Chúa Giêsu đã về với Chúa Cha, dù hai ông đã quan niệm việc về cùng Cha cách khác nhau. Vì thế, với một ít lý do xác đáng, ta có thể nói Ga 20,22 trình bày “lễ hiện xuống” theo nhãn quan Gioan (Pêntêcôte johannique).
b. Cách giải đáp thứ hai theo một đường khác, có tính cách thần học hơn là chú giải. Một số tác giả quan niệm việc trao ban thần khí được thực hiện cách tiệm tiến. Thần khí không phải là một chân lý tĩnh, để trong túi như một đồ vật quí giá. Đối với tín hữu, Thần khí là sự sống tuyệt hảo. Ngài được trao ban không ngừng không những vào dịp lễ ngũ tuần, mà sau đó nữa. Việc tuôn tràn thần khí dịp phục sinh, Hiện xuống và các dịp sau đó đều là những dấu chỉ của cùng một thực tại đã biến đổi thế giới (3,3-8), từ khi Chúa Giêsu được tôn vinh (7,37-39). Việc phân biệt hai lần trao ban thần khí và lễ phục sinh và lễ ngũ tuần chỉ là phụ tùy, nhất là đối với Gioan, vì theo ông, hai biến cố này phát xuất từ cùng một “giờ”. mọi cuộc tuôn đổ thần khí chỉ là một. Ngày phục sinh, các môn đệ nhận thần khí để thi hành sứ mệnh; Thần khí trở lại trên họ khi dân mới của Thiên Chúa được thiết lập (Cv 2,1-4) và sau đó Thần khí tiếp tục phù trợ họ.
Thật khó mà biết phải chọn lối giải thích nào. Dù sao đây là vấn đề phụ thuộc, vì những thế hệ Kitô hữu đầu tiên không mấy lưu tâm đến vấn đề, bởi lẽ họ thâu nhận vào trong kinh điển các sách linh ứng cả hai cách trình bày việc trao ban Thần khí.
4. Quyền tha tội và cầm tội trao ban ở đây cho các tông đồ và những người kế vị trong Giáo hội Đức Kitô, được diễn tả rõ ràng qua chính những lời của Chúa; mà truyền thống Kitô giáo luôn công nhận, chính những lời của Chúa; mà truyền thống Kitô giáo luôn luôn công nhận như là lời thiết lập bí tích cáo giải. Đó là điều đã được công đồng Tridentinô định tín (Ds 1670,1703) chống lại phái Luthêrô; những người này chỉ cho đó là quyền rao giảng sự tha tội cho các tín hữu hối cải ăn năn.
KẾT LUẬN
Cũng như đã được Cha sai, Chúa Giêsu sai các môn đệ vào trong thế gian để tiếp tục công việc của Ngài. Những lời nói của Ngài đây cũng chính là những lời Ngài đã dùng trong lời nguyện hiến tế ở chương 17 (c.8). Lần này nói cho các tông đồ, các lời ấy củng cố họ trong ơn gọi họ. Từ đây các ngài ra mắt với thế gian nhân danh Đức Kitô Phục sinh và trong quyền năng của thần khí.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Khi thông ban thần khí Ngài cho các tông đồ, Chúa Giêsu đã thổi hơi trên họ và phán: “Hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Cử chỉ của Chúa Giêsu tiếp nối một trong những đề tài được ưa chuộng nhất trong Thánh Kinh: Thánh Thần, hơi thở của Thiên Chúa. Và có lẽ đây là hình ảnh minh bạch nhất để nói về Thần Khí: Ngài giống như luồng gió thổi.
Người ta không thấy gió, không biết nó đi từ đâu và ngừng lại chỗ nào. Dĩ nhiên, nhà khí tượng học có thể đưa ra cho chúng ta nhiều lý thuyết về việc phát sinh và tàn lụi của các trận bão. Nhưng người đang bị gió bão cuốn đi thì chỉ có một ấn tượng mình bị bao bọc bởi một cái gì huyền bí và mãnh liệt. Thật vậy, gió rít gào và gầm thét. Gió bẻ gãy, uốn cong và bứt tung. Chính gió chở mây, mang bụi. Chính gió tàn phá và làm cho đất được hoa màu. Đó là chủ tể của sự sống. Khi thì tưới mát, lúc thì đốt thiêu. Chúng ta không thấy được gió, chỉ nhận ra nó qua bao hiệu quả muôn vàn.
Hơi thở của thần Thiên Chúa cũng vậy, Ngài hung hăng len lỏi khắp nơi. Ngài bẻ gãy, bứt tung, tàn phá những gì trong chúng ta đang chống lại tình yêu (dĩ nhiên với điều kiện chúng ta chiều theo hoạt động của Ngài, vì Ngài bất lực trước tự do của con người từ khước) và Ngài cũng làm tươi mát, biến đổi nên phì nhiêu những tâm hồn phó thác cho hoạt động của Ngài. Hơi thở của Thiên Chúa không ngừng thổi trong tâm hồn chúng ta: ngọn gió của Thiên Chúa sẽ đưa chúng ta đến nhà Cha hay không là tùy chúng ta.
2. “Các môn đô mừng rỡ”: nỗi vui mừng này là do việc thấy lại Chúa sau khi quá chán nản thất vọng. Họ đã hy vọng vào Chúa Giêsu, nhưng thập giá đã làm cho họ nản lòng, và này đây Ngài lại hiện ra sống động, niềm hy vọng lại được đảm bảo và củng cố. Nỗi vui mừng ngập tràn. Điều này nhắc lại cho chúng ta nhớ rằng Thánh Thần Chúa Giêsu ban là thần khí của niềm vui.
Tin mừng mở ra với một mầu nhiệm vui: Thánh Thần, ngay từ đầu cuộc hiện hữu nhân loại cùa Chúa Giêsu, đã tạo nên hai niềm vui lớn: Elizabet chị họ Đức Maria, nhảy mừng vì được Mẹ Đấng cứu thế viếng thăm; và Maria, dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần hát lên niềm vui của mình trong kinh Magnificat. Ít lâu sau đó, các thiên thần loan báo cho các mục đồng một cuộc đản sinh gây bao phấn khởi vui mừng cho cả toàn dân. Thánh Gioan cũng nói “Abraham cũng hân hoan khi nghĩ đến ngày xuất hiện hoa quả của thánh thần, ông đã được thấy và đã reo mừng (Ga 8,56). Chúng ta có vui được niềm vui của kinh Magnificat vì thánh Thần làm phát sinh trong ta niềm tin vào Đức Kitô không? Ngược lại hãy thử tưởng tượng: nếu không có đức tin vào Đức Kitô, đức tin do Chúa Thánh Thần phát sinh trong ta, thì chúng ta sẽ buồn bã biết chừng nào.
3. Chúa Giêsu nói cùng các môn đệ: “Hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Có nên giới hạn ý nghĩa lời Đức Kitô đây trong câu chuyện ghi lại các lần hiện ra không? Không! Chúa luôn nghĩ đến sự hiện diện thường xuyên của Ngài trong Giáo hội nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Thời gian của Giáo hội là thời gian Thánh Thần hiện diện trong thế giới. Chúng ta có vui mừng khi nghĩ rằng Thánh Thần làm cho Chúa Giêsu hiện diện trong đời sống chúng ta không?
4. Thiên Chúa ban cho chúng ta không những chỉ các hồng ân thụ tạo và đầy giới hạn của Ngài, nhưng còn ban chính mình Ngài, với tự do của tình yêu Ngài, với vinh phúc của cuộc sống Ba Ngôi. Ân huệ cao vời này, chúng ta gọi là Thánh Thần. Ngài thuộc về chúng ta. Ngài hiện diện trong mỗi tâm hồn kêu cầu Ngài với lòng khiêm nhường và tin cậy Ngài thuộc về chúng ta đến nỗi người ta không thể nói con người là gì mà không thêm yếu tố này là Thiên Chúa cũng đã là một thành phần trong sự hiện hữu của con người. Thiên Chúa đã trở thành Thiên Chúa của chúng ta. Đó là tất cả sứ điệp của lễ Thánh Thần hiện xuống.

102. Chúa Kitô sai phái – William Barclay
Có lẽ các môn đệ vẫn tiếp tục họp tại phòng cao, nơi đã tổ chức Bữa Tiệc Ly. Nhưng họ đã họp mặt trong bầu khí đầy sợ hãi. Họ kinh hoàng vì đã biết sự cay cú độc ác của dân Do Thái vừa giết Chúa, và các môn đệ sợ rằng tiếp theo sẽ tới phiên họ. Họ đã họp lại trong sợ hãi, sợ từng tiếng chân đi ngoài hành lang, từng tiếng gõ cửa, e có tay sai của Tòa Công Luận đến bắt họ. Đang lúc đó, thình lình Chúa Giêsu hiện ra giữa họ, Ngài chào họ bằng lời chào thông thường của người Phương Đông: “Chúc anh em được bình an”. Câu ấy mang ý nghĩa nhiều hơn là: “Cầu mong cho anh em khỏi lo lắng bối rối”. Nó có nghĩa: “Nguyện Thiên Chúa ban cho anh em mọi điều tốt lành”. Sau đó Chúa Giêsu ban cho môn đệ một mệnh lệnh, sự sai phái mà Hội Thánh chẳng bao giờ được quên.
1. Ngài phán rằng Chúa Cha đã sai Ngài thế nào, Ngài cũng sai phái họ y như vậy. Đây là điều mà Westcott đã gọi: “hiến chương của Hội Thánh”. Nó có ba nghĩa.
a. Chúa Giêsu cần Hội Thánh. Đúng như thánh Phaolô muốn nói khi ông gọi Hội Thánh là “thân thể của Chúa Kitô” (Ep 1,23; 1Cr 12,12). Chúa Giêsu đã đến với một sứ điệp cho mọi người, bây giờ Ngài trở về cùng Chúa Cha. Sứ điệp ấy sẽ chẳng bao giờ đến được với mọi người nếu Hội Thánh không loan truyền. Hội Thánh phải là cái miệng nói thay cho Chúa, là đôi chân đi những nơi Ngài cần đến, là đôi tay để làm công việc của Ngài. Sứ điệp của Chúa Kitô được đặt vào tay Hội Thánh. Vậy ý nghĩa nhất trong câu chuyện này là Chúa Giêsu tùy thuộc vào Hội Thánh.
b. Hội Thánh cần Chúa Giêsu. Một sứ giả cần có người phái mình đi, cần có sứ điệp để mang đi, cần một thế lực, một thẩm quyền để hậu thuẫn cho sứ điệp mình mang đi, người ấy cần có người để nhờ cậy khi nghi ngờ và gặp khó khăn. Vì thế, Hội Thánh cần Chúa Giêsu. Nếu không có Ngài, Hội Thánh sẽ không có sứ điệp, không có năng lực, không có ai để nương cậy khi bị chống đối, không có gì để soi sáng cho tâm trí, thêm sức cho đôi tay, khích lệ cho tâm hồn. Vậy, câu này có nghĩa là Hội Thánh lệ thuộc vào Chúa Giêsu.
c. Nhưng ở đây vẫn còn một điểm khác nữa. Việc Hội Thánh được Chúa Giêsu sai phái song song với việc Ngài được Chúa Cha sai phái. Không ai đọc tường thuật của sách Gioan mà không thấy tương quan giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha luôn luôn dựa trên sự vâng phục trọn vẹn và tình yêu trọn vẹn của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu làm sứ giả của Chúa Cha, chỉ vì Ngài vâng phục và yêu mến Chúa Cha cách trọn vẹn. Do đó Hội Thánh cũng chỉ làm sứ giả, công cụ cho Chúa Giêsu khi Hội Thánh yêu mến và vâng phục lời Ngài thật sự trọn vẹn. Hội Thánh không thể ra đi với các chính sách nhân tạo của mình mà phải theo ý của Chúa Giêsu. Bất cứ lúc nào cố ý dựa vào sự khôn ngoan và năng lực riêng để giải quyết vấn đề mà không tìm ý muốn và hướng dẫn từ nơi Chúa Giêsu, Hội Thánh sẽ thất bại.
2. Chúa Giêsu hà hơi trên các môn đệ để ban Thánh Thần. Khi nói như vậy chắc chắn Gioan đang nhớ lại câu chuyện sáng tạo con người. Tác giả xưa đã viết: “Thiên Chúa bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sinh khí vào lỗ mũi, thì con người trở nên một loài sinh linh” (St 2,7). Đó cũng chính là bức tranh mà Êdêkiên đã thấy trong thung lũng đầy hài cốt khô, ông nghe Chúa phán với gió: “Hỡi hơi thở, hãy đến từ gió bốn phương, thở trên những người bị giết, để cho chúng được sống” (37,9). Khi Thánh Thần đến, có sáng tạo mới, như đánh thức sự sống từ trong cái chết. Khi Thánh Thần xuống trên Hội Thánh, Hội Thánh được đánh thức và tái tạo để thi hành nhiệm vụ của mình.

103. Hãy nhận lấy Thánh Thần – Lm. Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: “Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ tội ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).
2. CÂU CHUYỆN: Thánh Thần tác động.
Trên một toa tàu chợ phát xuất từ thành phố Can-quýt-ta Ấn Độ, giữa đám hành khách nghèo khổ đang ngồi la liệt trên sàn tàu, có một phụ nữ tay cầm tràng hạt, mắt nhắm lại và miệng đang lẩm bẩm đọc kinh. Người phụ nữ đó không ai khác hơn là bà Tê-rê-sa. Về sau người đời đã gọi bà bằng một cái tên thân thương: “Mẹ Tê-rê-sa thành Can-quýt-ta”. Bà là người đã sáng lập dòng Thừa sai Bác ái, với sứ mệnh chuyên lo tìm kiếm những bệnh nhân nghèo khổ đang bị bỏ rơi và bị hấp hối trên các hè phố tại thành phố Can-quýt-ta. Họ thuộc giai cấp cùng đinh trong xã hội nước Ấn. Sứ vụ của chị em nữ tu này là mang những người đó về tu viện chăm sóc và giúp họ chết trong bình an. Về sau mẹ Tê-rê-sa đã kể lại ơn gọi ấy như sau: “Khi nhìn thấy đám người nghèo khổ kia đang nằm ngồi ngổn ngang trên sàn tàu, đột nhiên có một sức mạnh đã đổ ập xuống trên tôi, làm cho tôi tự nhiên cảm thấy họ chính là những Chúa Giê-su đang bị bỏ rơi. Tôi sẽ phải làm gì để giúp đỡ họ đây?”. Sau đó bà đã quyết định lập một dòng nữ với sứ vụ chuyên lo phục vụ những người nghèo khổ này. Rồi bà bắt tay vào công việc đầu tiên là đi tìm mướn nhà để có nơi phục vụ họ, đang khi trong túi chỉ còn đúng ba đồng bạc Ấn! Nhưng nhờ ơn Chúa giúp mà ngày nay dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã lan đi khắp thế giới. Quả thực, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và họat động nơi mọi thành phần dân Chúa trong Hội thánh.
3. SUY NIỆM:
1) Thánh Thần tác động thế nào trong cuộc đời Đức Giêsu?:
Về việc đầu thai của Đức Giê-su, Hội thánh đã tuyên xưng đức tin như sau: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (x. Lc 1,35). Nghĩa là chính nhờ quyền năng Thánh Thần, Đức Ma-ri-a đã thụ thai Hài Nhi Giê-su mà vẫn còn trinh khiết vẹn toàn. Rồi khi Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng, Người đã đến xin Gio-an làm phép rửa bằng nước tại sông Gio-đan. Vừa chịu phép Rửa xong, Thánh Thần như chim bồ câu từ trời ngự xuống và lưu lại trên Người (x. Mt 3,16b). Sau đó, Thánh Thần đã hướng dẫn Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày và chịu ma quỉ thử thách cám dỗ. Chính nhờ sức mạnh của Thánh Thần mà Đức Giê-su đã chiến thắng ba cơn cám dỗ của ma quỷ (x. Mt 4,1-10). Rồi trong quyền năng của Thánh Thần, Người đi rao giảng Tin mừng Nước Trời bắt đầu từ Ga-li-lê (x. Lc 4,14-15). Cũng nhờ Thánh Thần mà Người đã xua trừ ma quỷ (x. Mt 12,28) và chữa lành các bệnh họan tật nguyền trong dân (x. Mt 4,23). Khi được Thánh Thần tác động, Ngừơi đã hớn hở vui mừng thốt lên lời ngợi khen Chúa Cha (x. Lc 10,21). Rồi sau khi phục sinh và được đầy Thánh Thần, Người đã hiện ra chúc bình an (x. Ga 20,19), rồi sai các ông đi rao giảng Tin mừng (x. Ga 20,21), tiếp tục sứ vụ của Ngừơi (x. Mt 28,19-20). Người thổi hơi ban Thánh Thần để giúp các ông chu toàn sứ vụ ấy (x. Ga 20,22). Cuối cùng, Người còn ban cho các ông quyền tha tội hay cầm buộc tội người ta nữa (x. Ga 20,23).
2) Thánh Thần tác động thế nào trong Hội Thánh?: Thời Hội thánh sơ khai, Thánh Thần đã tác động biến đổi các Tông đồ (x. 1 Cr 12,4-11): Từ tình trạng nhút nhát sợ hãi trở nên can đảm công khai làm chứng cho Chúa Giê-su trước mặt đám đông (x. Cv 2,14-36); Từ tình trạng kém hiểu biết Lời Chúa, trở nên khôn ngoan, hiểu thấu mọi điều Chúa đã dạy trước đó (x. Ga 16,12-13); Từ tình trạng buồn chán thất vọng muốn thối lui, trở nên nhiệt thành yêu mến Chúa, tràn đầy niềm vui và hy vọng (x. Lc 24,32-35). Nhờ Thánh Thần mà các Tông đồ đã thâu nạp được nhiều người có lòng sám hối đến xin chịu phép Rửa nhân danh Đức Giê-su (x. Cv 2,41). Cũng nhờ ơn Thánh Thần mà cộng đoàn tín hữu đầu tiên luôn sống hiệp thông, siêng năng tham dự lễ Bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Nhờ đó số tín hữu gia nhập Hội thánh ngày một gia tăng (x. Cv 2,42-47). Ngày nay Chúa Thánh Thần tiếp tục giúp Hội thánh chu toàn sứ vụ cứu độ của Chúa Giê-su. Đặc biệt Thánh thần soi sáng cho các vị chủ chăn để có khả năng chu toàn ba sứ vụ do Đức Giê-su trao: Một là sứ vụ Ngôn sứ để công bố Tin mừng Nước Trời. Hai là sứ vụ Tư tế để thánh hóa các tín hữu bằng các phép bí tích do Chúa Giê-su thiết lập. Ba là sứ vụ Vương đế để chăn dắt và phục vụ đòan chiên Hội thánh. Do đó, khi Đức Giáo hòang triệu tập Công Đồng mà công bố điều gì về đức tin và luân lý thì được ơn bất khả ngộ không thể sai lầm, vì luôn được Chúa Thánh Thần soi sáng, như Công đồng Giê-ru-sa-lem vào năm 49 đã ra quyết nghị với câu mở đầu khẳng định như sau: “Thánh Thần và chúng tôi quyết định” (Cv 15,28).
3) Thánh Thần tác động thế nào nơi các tín hữu hôm nay:
Khi lãnh nhận phép Rửa Tội, và nhất là khi chịu phép Thêm Sức, Chúa Thánh Thần sẽ tác động nơi các tín hữu như sau.
+ Thánh Thần ban 7 ơn để soi sáng, hướng dẫn và giúp các tín hữu nên tốt lành thánh thiện giống như Chúa Giê-su. Thánh Phao-lô đã kể ra bảy ơn Thánh Thần ban như sau: khôn ngoan, hiểu biết, thông minh, biết lo liệu, sức mạnh, đạo đức và kính sợ Thiên Chúa (x. 1 Cr 12,8-11).
+ Thánh Thần sẽ ban sự sống của Thiên Chúa, biến các tín hữu nên trưởng thành về đức tin, thể hiện qua việc kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su và can đảm làm chứng cho Người (x Ga 6,63). Thực vậy, nhờ ơn Thánh Thần, các tín hữu chúng ta sẽ có thể hiểu biết đầy đủ về đức tin và thực hành theo lời Chúa Giê-su day, như Người đã hứa với các môn đệ: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,25).
+ Thánh Thần sẽ cho các tín hữu chúng ta tham phần vào ba sứ vụ cứu độ của Chúa Giê-su là ngôn sứ, tư tế và vương đế để rao giảng Tin Mừng, thánh hóa và phục vụ dân Chúa. Chúng ta sẽ được tham phần vào sứ vụ làm chứng cho Chúa Ki-tô bằng lời nói việc làm và bằng lối sống bác ái quên mình, quảng đại chia sẻ cụ thể và khiêm nhường phục vụ tha nhân vô vụ lợi… nhờ những việc lành đó, anh em lương dân sẽ dễ dàng nhận biết, tin thờ Thiên Chúa như lời Đức Giê-su đã dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
4) Cần cộng tác với ơn Thánh Thần:
Sở dĩ nhiều tín hữu tuy đã chịu phép rửa tội và thêm sức, nhưng vẫn sống theo tính xác thịt là do mới chịu phép rửa bằng nước mà chưa được tái sinh bời Thánh Thần. Điều chúng ta cần phải làm là tránh xúc phạn đến Thánh Thần và mở lòng để Ngài tác động thánh hóa:
+ Tránh tội xúc phạm đến Thánh Thần: Cần tránh kiêu ngạo cứng lòng tin như các kinh sư Do thái xưa (x Mc 3,30). Đây cũng là tội của ma quỷ chống lại ơn cứu độ của Thiên Chúa như Đức Giê-su đã nặng lời quở trách dân Do thái qua miệng ngôn sứ I-sai-a như sau: “Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành” (Mt 13,14-15; Is 6,9-10). Do cố tình từ chối ơn cứu độ của Thiên Chúa do Chúa Giê-su ban nên tội này cũng xúc phạm đến Thánh Thần và sẽ không bao giờ được tha (x Mc 3,29).
+ Cần mở lòng đón nhận ơn Thánh Thần thánh hóa: không ai có thể nắm bắt được Thần Khí, cũng không ai có thể mua chuộc được Thánh Thần. Tin Mừng Gioan viết “Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu tới và thổi đi đâu” (Ga 3,8). Muốn nhận được ơn Thánh Thần, các tín hữu cần noi gương các Tông đồ như sau: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su” (Cv 1,14). Mỗi ngày chúng ta hãy năng cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến thánh hóa bản thân bằng lời cầu xin: “Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy ngự đến canh tân lòng trí con”.
Hoặc năng nhẩm bài hát sau:
ĐK: Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến canh tân đổi mới, đời sống chúng con. Tăng sức linh hồn bồi thêm lửa mến, soi sáng trí khôn, hiệp nhất muôn lòng.
1- Chúa hỡi, khấn xin ngự đến đổ tuôn muôn ơn, phù giúp chúng con. Xin thương soi dẫn nhân tâm nương theo Thần Khí bước trong bình an.
2- Hãy đến Thánh Linh từ ái suối ơn mát trong là Đấng ủi an. Xin thương nâng đở ủi an con chiên lạc hướng khổ đau lầm than.
4. THẢO LUẬN:
1) Phân biệt Thánh Thần và thiên thần giống và khác nhau thế nào?
2) Ngày nay các tín hữu nhận được ơn Thánh Thần khi nào?
3) Mỗi tín hữu chúng ta phải làm gì để được ơn Thánh Thần tác động noi gương các Tông đồ trong lễ Ngũ Tuần?
5. NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Nhiều khi chúng con cảm thấy Thánh Thần xa lạ, đang khi Ngài thật là Bạn, là Thầy của chúng con. Ngài luôn ở bên và ở trong chúng con. Ngài cần cho đức tin của chúng con, giống như hơi thở cần cho sự sống. Chúng con chỉ có thể gọi Thiên Chúa: “Áp-ba! Ba ơi!” nhờ Thánh Thần, Đấng làm cho chúng con trở nên nghĩa tử (x. Rm 8,15). Chúng con chỉ có thể gọi Đức Giê-su là “Chúa” khi chúng con ở trong Thánh Thần (x. 1 Cr 12,3). Chính nhờ có Thánh Thần hướng dẫn, chúng con mới dám cầu nguyện và mới cảm nghiệm được sự ngọt ngào của Lời Chúa. Cũng chính nhờ Thánh Thần mà Hội thánh không ngừng canh tân đổi mới.
– Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban Thánh Thần như cơn gió mạnh, thổi đi mọi nỗi lo âu sợ hãi cùng những rụt rè khép kín trong tâm hồn chúng con. Xin thắp sáng ngọn lửa tin yêu của Thánh Thần trong lòng chúng con, để chúng con có thể chu toàn sứ vụ được sai đi, với một trái tim bừng cháy lửa mến yêu. Xin ban cho chúng con sự sống của Thánh Thần để chúng con luôn mến Chúa và yêu tha nhân. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ trở thành khí cụ bình an của Chúa và tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin mừng cứu độ của Hội Thánh.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

104. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
(Suy niệm của Lm Augustine, SJ)
Một thiếu nữ mới từ thành phố Paris của nước Pháp trở về. Cả thân xác và tinh thần của Ma-đa-len đã bị hao mòn tột độ. Cha mẹ cô lấy làm ghê sợ trước những lời nói phạm thượng và thô tục thường xuyên phát ra từ miệng lưỡi của đứa con hư hỏng.
Một người thuộc làng bên cạnh chỉ quen biết với gia đình Ma-đa-len sơ qua mà thôi, đó là chị Mônica. Mônica cảm thấy không thể dửng dưng trước hiện tượng nói trên. Một hôm, Mônica đến gần căn nhà bi thảm ấy, thì nghe thấy Mađalen đang gào théo một bản nhạc thô tục và chán đời với những điệp khúc gợi cảm nhớp nhúa và khiêu khích. Chị Mônica tự nhiên muốn rút lui nhưng bất ngờ nghe thấy chính tiếng của người mẹ của Mađalen gào thét:
Mày là đồ gái điếm trơ trẽn
– Mày là đồ gái điếm trơ trẽn… có im cái mồm mày đi không?
Mađalen càng giận dữ hét lên:
Bà đừng la lối làm chi mất công! Tôi sẽ tự tử ngay bây giờ đây. Như thế cho tiện. Chẳng phiền hà gì đến ai, cả bà lẫn tôi.
Chị Mônica đứng sững sờ. Nghe những tiếng la hét loại đó, chị không thể không rợn tóc gáy. Chị cảm thấy có bổn phận phải can thiệp. Trước khi gõ cửa, chị hắng giọng để báo trước. Rồi chị bước qua cánh cửa đã bị mọt ăn một cách thê thảm.
Khi ấy Mađalen đang ngồi gần lò sưởi với vẻ giận dữ ghê gớm. Cô đang lồng lộn sẵn sàng tuôn ra những lời thô tục. Nhưng ánh sáng từ cặp mắt của người mới bước vào bao trùm và ngăn cản Mađalen. Mônica tiến lại bên Mađalen với tất cả sự trìu mến như chưa bao giờ người thiếu nữ này đã nhận được từ nơi gia đình mình. Mônica nhẹ nhàng lên tiếng:
– Chị đi ngang qua đây… Em có thể cho chị xin một ly nước được không?
Mađalen đứng dậy lấy nước cho khách. Khách lặng lẽ uống thứ nước táo rữa ấy rồi nói:
– Em vui lòng đan cho chị mấy búp len này. Việc này, bình thường chắc chẳng thích thú gì đối với em. Nhưng chị rất lấy làm quí được có tương quan với em.
Chị Mônica vừa nói vừa tiến lại ngồi trên chiếc ghế thấp bên cạnh Mađalen. Đột nhiên chị ấp ủ đôi bàn tay của Mađalen trong bàn tay của chị và nói:
– Mađalen ơi, em đã đau khổ quá nhiều. Nếu em muốn, em có thể coi chị như một người bạn.
Một sức mạnh tinh thần tỏa ra từ Mônica. Mađalen nghiệm thấy sức mạnh đó nên chấp nhận để yên đôi bàn tay đã trở nên ngoan ngoãn của cô trong bàn tay chị Mônica. Mađalen muốn trả lời nhưng cô nghẹn ngào chỉ còn biết khóc. Những giọt nước mắt lặng lẽ nhỏ dài trên đôi má cằn cỗi của cô. Cô bắt đầu thổn thức:
– Đã ba năm nay, em không thể khóc được!
Đứa con bà giờ đây có thể được cứu
Bà mẹ của Mađalen cũng nức nở. Bà biết rằng đứa con của bà giờ đây có thể được cứu thoát.
Nhân vật Mônica trong câu chuyện nói trên thực tỏ ra là một con người có sức thu hút phi thường. Chỉ xuất hiện trong chốc lát, con người ấy đã hoàn toàn làm chủ được tình hình.
Từ đâu phát sinh ra một ơn biến đổi lạ lùng đến như vậy, cả nơi người con, lẫn người mẹ? Phải chăng đó chính là biến cố của Chúa Thánh Thần Hiện Xuống vẫn còn nối dài trong lịch sử? Chính lúc tội giết chết là lúc Thiên Chúa biểu dương quyền lực để mang lại sự sống cho kẻ tuyệt vọng.
Họ đau đớn hỏi: Chúng tôi phải làm gì?
Xưa tông đồ Phêrô đã đặt người Do Thái vào đúng bối cảnh của tội ác là họ đã giết chết Đấng Kitô của Thiên Chúa nên họ đã đau đớn trong lòng và hỏi ông Phêrô và các tông đồ rằng: “Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?” Rồi Phêrô đã cho họ biết rằng họ phải sám hối và mỗi người phải chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội. Và hôm đó đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo (Cv 2,36-41). Nay trong giây phút cực kỳ giận dữ với người mẹ, Mađalen chỉ còn thấy tự sát là con đường duy nhất ở trước mặt. Đó là lúc chị Mônica cảm thấy có sức mạnh nội tâm đòi chị phải can thiệp để cứu sống một linh hồn. Chị là hiện thân của tình yêu và lòng quí chuộng đối với những giá trị cao quí nhất còn thức tỉnh nơi cõi lòng Mađalen. Cuối cùng Mađalen đã chọn tình yêu và sự sống thay vì chọn hận thù và sự chết. Mađalen đã ngoan ngoãn để bàn tay mình ở yên trong lòng bàn tay chị Mônica. Và Mađalen đã khóc trong khi mẹ cô cũng nức nở với hai hàng lệ sám hối. Quả thật, đúng như lời thánh tông đồ Phaolô nói là: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rom 5,20). Tất cả biến cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đều được tóm gọn trong câu nói đó.
Riêng bài Tin Mừng hôm nay về Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ gồm hai phần. Trước hết Đức Giêsu cho các môn đệ thấy tay và cạnh sườn Người để các ông thâm tín rằng đó là chính Thầy các ông: Đấng đã chịu khổ hình thập giá nhưng nay đã sống lại (cc.19-20). Kế đến Đức Giêsu ban cho các ông Thánh Thần và sai các ông đi với sứ mạng tháo gỡ tội khỏi loài người để họ được tự do (cc.21-23).
Đấng Toàn năng và Toàn mến
cc.19-20 cho thấy một Đức Giêsu không những là Đấng toàn năng mà còn là Đấng toàn mến. Hãy đặt mình vào bối cảnh các môn đệ còn trong tình trạng lo âu sợ hãi. Nguồn gốc của lo âu ấy chính là Thầy các ông: Nếu Thầy các ông mà bị người ta đấu tố, bị lên án và bị giết trên khổ hình thập giá, thì số phận riêng của các ông thật là chao đảo. Nhưng toàn bộ nỗi lo âu sợ hãi đó đã được tháo gỡ nơi Đức Giêsu toàn năng, Đấng đã toàn thắng mọi gian nan thử thách và tử thần! Tùy ở mức độ các môn đệ tin vào quyền năng của Thầy các ông mà các ông được tự do và bình an. Nhưng Thầy các ông nay sống lại còn là Đấng toàn mến. Hãy coi các dấu đinh trên tay, nhất là hãy coi cạnh sườn Thầy bị đâm thâu qua: Tất cả đều cho thấy Thầy các ông là Đấng toàn mến. Không có dấu vết nào nơi hiện hữu của Thầy mà lại không phải là để ban tặng cho các môn đệ: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế, bởi phép Đức Chúa Thánh Thần Người đã chịu thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và đã làm người. Người đã chịu chết thời Phongxiô Philatô…” Đó là lời tuyên tín về Đấng toàn mến như các tông đồ đã để lại.
c. 21 Không chỉ cho các môn đệ thấy Đức Giêsu phục sinh sai phái các ông, mà còn cho thấy việc sai phái đó tiếp nối chính việc Chúa Cha sai phái Chúa Giêsu. Các ông được sai đi để tham dự vào chính công trình cứu nhân độ thế do Chúa phục sinh thực hiện.
Một cuộc tạo dựng mới
c. 22 Chúa Giêsu phục sinh “thổi hơi vào các môn đệ.” Ở đây điều được hiểu về một cuộc tạo dựng mới vượt trên cuộc tạo dưng về sự sống tự nhiên (St 2,7; Kn 15,11). Chúa Giêsu ban cho các môn đệ Thánh Thần là nguyên ủy của sự sống mới. Hồng ân Thánh Linh gắn liền với việc các ông được sai phái. Vì lời Đức Giêsu nói là thần khí và là sự sống mới (Ga 3,34; 6,63).
Các môn đệ được sai đi là để rao giảng Lời Đức Giêsu hầu làm cho người nghe trở nên Con Thiên Chúa (x. Ga 13,20).
c. 23 Đức Giêsu đã được ông Gioan Tẩy Giả giới thiệu là Chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội trần gian (Ga 1,29). Các môn đệ của Đức Giêsu sẽ tiếp tục sứ mạng của Đức Giêsu là ban ơn tha tội. Quyền năng được ban cho các ông để tha tội gắn liền với Chúa Thánh Linh là Đấng thanh luyện và ban sự sống cho loài người (Ed 36, 25-27; 37, 3-6).
Như vậy việc cô Mađalen ra mềm lòng đã là một ơn lạ lùng. Nhưng ơn đó cần được tiếp nối bằng quá trình gặp gỡ Chúa Giêsu là Đấng toàn năng và toàn mến. Người mới có những lời mang lại sự sống đời đời (Ga 6,68). Chính do Người mà ơn tha tội được ban ngang qua những thừa tác viên được Người sai phái.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Điều gì nơi cách hành xử của chị Mônica đã khiến cô Mađalen ra mềm lòng: Cái nhìn trìu mến đầu tiên? Một số hành vi nhờ cậy trong tầm tay của Mađalen như xin một ly nước, yêu cầu đan mấy búp len? Lời đề nghị đáp ứng đúng nhu cầu nơi Mađalen là “Em đã đau khổ quá nhiều. Nếu em muốn, em có thể coi chị như một người bạn”? Hay bạn nghĩ tới những điều khác?
2. Theo tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay điều gì cần được tiếp nối cuộc biến đổi đầu tiên nơi Mađalen? Gặp gỡ Đức Kitô trong cầu nguyện hàng ngày? Trở nên người môn đệ của Chúa Giêsu qua việc hấp thụ lời Người giảng dạy? Chịu phép rửa tội? Lãnh nhận bí tích hoà giải? v.v…

105. Chúa Thánh Thần tuôn tràn trên mọi người
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Khi mừng lễ Ngũ Tuần, chắc chắn mỗi Kitô hữu đều có những cảm nghiệm khác nhau về Chúa Thánh Thần.Thực tế, Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, nhưng nhiều khi Ngài bị lãng quên.Dù rằng, chính Ngài đã được Thiên Chúa Cha sai đến trần gian sau khi Chúa phục sinh về Trời. Bởi vì theo Đức Thánh Cha Phanxicô nói:” Mùa Phục Sinh mà chúng ta đang sống với niềm vui, được hướng dẫn bởi phụng vụ của Hội Thánh, là thời gian tuyệt vời của Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu, chịu đóng đinh và phục sinh, ban cho chúng ta” một cách vô hạn ” (Ga 3, 34).Thời gian ân sủng này được kết thúc bằng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, khi Hội Thánh sống lại sự tuôn đổ Thánh Thần trên Đức Mẹ Maria và các Tông Đồ đang tụ họp trong cầu nguyện nơi nhà Tiệc Ly.
Chúa Phục Sinh đã ở với các Tông Đồ bốn mươi ngày, bốn mươi đêm để củng có niềm tin cho các Ngài. Chúa sống lại đã dặn dò, nhắn nhủ, động viên, khích lệ các Tông Đồ. Tuy nhiên, các Ngài vẫn không hiểu gì về lời của Thầy mình. Nói một cách khác, các Tông Đồ chưa được ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần. Do đó, các Ngài còn u tối chưa nhận ra những điều Chúa Giêsu đã nói và những việc sắp xẩy ra.Tuy nhiên, chỉ sau đó mười ngày khi Chúa về Trời, Chúa Thánh Thần đã đến khi Mẹ Maria và các Tông Đồ đang cầu nguyện trong nhà Tiệc Ly để đón chờ Chúa Thánh Thần như lời Chúa Phục Sinh đã hứa. Chúa Thánh Thần đã xuống. Và lời Chúa Phục Sinh đã thành hiện thực. “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Chúa sống lại đã thổi hơi vào các Tông Đồ và nói:” Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 21-22). Các Tông Đồ đã nhận lấy Chúa Thánh Thần. Các Ngài đã hoàn toàn được thay đổi. Đây là cuộc đổi đời hoàn toàn.Các Ngài đang là những con người nhát đảm, ham sống, sợ chết thì hôm nay các Ngài đã trở thành những người hiên ngang. Trước kia, các Ngài ở trong phòng đóng kín cửa vì sợ người Do Thái, nay các Ngài mở toang cửa không sợ sệt bất cứ ai. Xưa kia, các Ngài chỉ biết nói tiếng mẹ đẻ, nay các Ngài biết nói rất nhiều thứ tiếng, ai nghe các Ngài nói cũng hiểu được ngôn ngữ của mình.Thánh Phêrô trước đây, sợ đến nỗi chối Thầy khi đứa tớ gái nhận ra Ngài, nay Phêrô đã can đảm đứng giảng trước mặt những người đã giết Thầy mình và đã thu hút hơn 3.000 người trở lại theo Chúa, lãnh nhận phép rửa.
Tất cả các Tông Đồ đều hiên ngang, không sợ bất cứ thế lực nào, các Ngài đã dám hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Chúa Phục Sinh. Chúa Thánh Thần xuống đã hoàn toàn đổi mới các Tông Đồ. Người ta tưởng các Ngài say rượu, thực tế các Ngài đang say Chúa. Người ta tưởng các Ngài điên rồ, lãng trí, thực ra các Ngài đang đầy tràn Chúa Thánh Thần. Đức Thánh Cha Phanxicô nói:” Chúa Giêsu đã hứa với người phụ nữ Samaria rằng Người sẽ luôn luôn ban một ” nước hằng sống” cách dồi dào cho tất cả những ai nhìn nhận Người là Chúa Con được Chúa Cha sai đến để cứu chúng ta (Ga 4, 5-26; 3, 17).Chúa Giêsu đến để ban cho chúng ta ” nước hằng sống” này là Chúa Thánh Thần, để cuộc sống của chúng ta được hướng dẫn bởi Thiên Chúa, được sinh động hóa bởi Thiên Chúa và được nuôi dưỡng bởi Thiên Chúa.Đó là điều chúng ta muốn nói khi nói rằng một Kitô hữu là một con người tinh thần: một Kitô hữu là một người suy nghĩ và hành động theo Thiên Chúa, trong Chúa Thánh Thần. Nhưng tôi xin đưa ra một câu hỏi: còn chúng ta, chúng ta có nghĩ theo Thiên Chúa không? Chúng ta hành động theo Thiên Chúa không? Hoặc chúng ta để cho mình bị hướng dẫn bởi rất nhiều những điều khác mà không thực sự là Thiên Chúa? Mỗi người chúng ta phải trả lời câu hỏi này trong tận đáy lòng mình”.
Vâng, Chúa Thánh Thần đến không chỉ là ngày khai sinh Giáo Hội, nhưng lễ Hiện Xuống vẫn còn tiếp diễn, nghĩa là Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động trong Giáo Hội. Chẳng hạn, Công Đồng Vaticanô II do Chân Phước Gioan XXIII triệu tập là ngày lễ Ngũ Tuần mới. Công Đồng Vaticanô II vẫn đang tiếp tục thổi một luồng gió mới trong Giáo Hội. Và thực tế, Giáo Hội đang tiếp tục sứ mạng truyền giáo của Đức Giêsu Kitô Phục Sinh.Chúa Thánh Thần luôn là tác nhân chính yếu trong công cuộc truyền giáo. Đức Thánh Cha Phanxicô nói:” Chúa Thánh Thần dạy chúng ta nhìn bằng đôi mắt của Đức Kitô, sống cuộc sống của mình như Đức Kitô đã sống cuộc sống của Người, hiểu cuộc đời như Đức Kitô đã hiểu “.
Cách đây 2013 năm, Thánh Thần của Chúa Phục Sinh đã ngự vào tâm hồn các Tông Đồ một cách đầy quyền năng. Ngày nay, chúng ta đang mừng lễ Hiện Xuống như thời các Tông Đồ. Xin được mượn lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô để kết luận bài chia sẻ này: “…Hãy để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta, hãy để cho Ngài nói với tâm hồn chúng ta và cho chúng ta biết điều này: Thiên Chúa là tình yêu, Thiên Chúa đang chờ đợi chúng ta, Thiên Chúa là Cha. Ngài yêu thương chúng ta như một người Cha thật, Ngài thật sự yêu thương chúng ta và chỉ một mình Chúa Thánh Thần nói điều này với tâm hồn chúng ta. Chúng ta hãy nghe Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy lắng nghe Chúa Thánh Thần, và chúng ta tiến bước trên con đường này của tình yêu, lòng thương xót và tha thứ “.

106. Thánh Thần đổi mới lòng ta – Huệ Minh
Cao điểm kết thúc cho mùa mừng lễ Vượt Qua là ngày lễ tạ ơn vì Thiên Chúa đã cho mùa màng tốt tươi. Mừng ngày này cũng để kỷ hiệm ngày Chúa công bố lề luật qua Môsê trên đỉnh núi Sinai. Trở về với Cựu Ước, ta thấy Lễ hiện xuống chính là ngày lễ 50 của Cựu Ước.
Hôm nay, cử hành Lễ Hiện Xuống là ta cũng cử hành cao điểm kết thúc cho mầu nhiệm Phục sinh. Hẳn ta còn nhớ ngày Lễ Hiển Linh đối với ngày Giáng Sinh thế nào thì ngày lễ Hiện Xuống cũng vậy đối với lễ Phục Sinh như vậy.
Trở về với Cựu Ước, ta thấy vài hình ảnh thật mù mờ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Khi Đức Kitô, người Con duy nhất của Thiên Chúa đến và mạc khải, chúng ta mới thấy được cái đặc tính cốt yếu của Thiên Chúa đó là một Thiên Chúa của tình yêu.
Chúa Thánh Thần mà ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính là Ngôi Ba Thiên Chúa cũng là Đấng ban sự sống. Chúa Thánh Thần là kết quả của tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Ngài cũng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, Ngài đã dùng các tiên tri mà phán dạy.
Thiên Chúa Cha đã tỏ lộ tình yêu của Ngài cho chúng qua chính người con duy nhất của Ngài là Chúa Con. Thánh Gioan đã xác quyết: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin nơi Con Một Ngài thì sẽ có sự sống vĩnh cửu. Ngay từ thuở đời đời, Chúa Cha đã sinh ra Chúa Con và sợi dây liên kệ thắm thiết và đầy yêu thương ấy chính là Chúa Thánh Thần.
Qua thật, Chúa Thánh Thần chính là sợi dây yêu thương nối kết Chúa Cha và Chúa Con, chi phối nhịp điệu của đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa, cũng như toả lan cho tất cả chúng ta. Như thế, qua Chúa Thánh Thần chúng ta hiểu được bản chất tình yêu của Thiên Chúa. Đồng thời Chúa Thánh Thần cũng đã trực tiếp cộng tác vào công trình cứu độ, một công trình của tình thương yêu mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn thuở trước.
Đức Kitô vâng theo thánh ý của Chúa Cha và với sự cộng tác của Chúa Thánh Thần đã chết đi để đem lại sự sống cho trần gian. Kể từ khi được diễm phúc làm con cái Thiên Chúa, chúng ta đã được Ngài yêu thương như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Nhờ Chúa Thánh Thần mà tình yêu Thiên Chúa được toả lan trong tâm hồn chúng ta. Chính vì lẽ đó, tất cả những tình yêu trong lành nhất của chúng ta đều là một tia sáng, một phản ánh trung thực cho tình yêu của Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu và chúng ta chỉ có thể yêu thương một cách đúng nghĩa khi liên kết với Ngài.
Qua bài trích sách Công Vụ Tông Đồ, ta lại thấy Đức Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới.
Ngài đã đổi mới lòng trí các Tông đồ. Các Tông đồ là những người làm nghề chài lưới, ít học hay còn nữa là quê mùa.
Ròng rã 3 năm dài ở bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã được Chúa dạy rất nhiều điều nhưng rồi các ngài không hiểu. Thế nhưng, có điều lạ là sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, trí hiểu của các ngài như được mở ra. Không những các ngài hiểu biết về Chúa, hiểu biết giáo lý của Chúa, mà còn có thể đi giảng dạy cho người khác nữa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người thất học nên hiểu biết. Ngài đã đổi những tâm trí u mê thành sáng suốt.
Thánh Thần là Đấng tiếp tục công trình của Đức Giêsu trong thế giới và Giáo Hội. Ngài luôn luôn thúc đẩy sự đổi mới trong Giáo Hội, để Giáo Hội ảnh hưởng tốt đến thế giới. Nhưng để được làm điều ấy, Thánh Thần luôn luôn phải hoạt động trong mỗi cá nhân. Cá nhân có thay đổi thì Giáo Hội mới thay đổi, cá nhân có nên thánh thì Giáo Hội mới thánh thiện. Tất cả mọi đều bắt đầu từ những cá nhân, và lan truyền từ cá nhân này sang cá nhân khác.
Kế hoạch của Thiên Chúa để xây dựng Nước Trời là chiến lược “men trong bột” (Mt 13, 33), “muối ướp đời” (Mt 5, 13) hay “đèn sáng cho trần gian” (Mt 5, 14).
Men là một chất có hoạt tính, có khả năng biến đổi chất bột tiếp xúc với mình trở nên giống như mình. Mất hoạt tính này, men không còn là men nữa, nó trở thành một thứ bột vô dụng. Muối hay đèn cũng có hoạt tính tương tự. Một hình ảnh khác là lửa, nhưng lửa có tác dụng lan truyền mạnh mẽ và nhanh chóng. Chính vì thế, Thánh Thần khi hiện xuống trên các tông đồ đã lấy hình lưỡi lửa làm biểu trưng cho mình.
Ngài đã đổi mới tâm trí các Tông đồ. Các Tông đồ sống trong sợ hãi từ khi Chúa Giêsu bị bắt và bị kết án. Các ngài đã trốn chạy và có ngài còn chối Chúa. Các ngài đã ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa vì sợ người Do Thái. Thế nhưng từ khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, con người các ngài hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Dẫu rằng mạng sống bị đe doạ nhưng các ngài vẫn không sợ. Bị đánh đòn, các ngài vẫn kiên cường. Không gì có thể ngăn cản các ngài rao giảng, làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh. Sau cùng tất cả các ngài đã chịu đổ máu, hiến mạng sống mình để làm chứng cho Chúa, ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người yếu đuối nên vững mạnh. Ngài đã biến những con người nhút nhát nên can đảm.
Chúa Thánh Thần đã đổi mới con tim các Tông đồ. Trước kia các ngài còn mang nặng những ước mơ trần tục. Theo Chúa để mong được chức trọng quyền cao. Mong được ngồi bên tả bên hữu Chúa. Tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp. Có thể nói, trước kia các ngài theo Chúa vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa yêu mến Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn Chúa Thánh Thần, trái tim của các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Từ nay các ngài dành trọn trái tim cho Chúa, yêu mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là sẵn sàng chết vì Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã biến đổi những trái tim chai đá thành những tái tim bằng thịt. Đã biến đổi những trái tim ích kỷ thành trái tim yêu thương.
Khi nói về Chúa Thánh Thần, ta thường nghĩ đến bảy ơn Người ban qua bí tích Thêm Sức. Ta như người lãnh nhận một cách thụ động. Và những ơn Người ban chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống ta. Đó thực là một quan niệm sai lầm tai hại. Thực ra, Đức Chúa Thánh Thần là nguồn sự sống mãnh liệt, là sự trẻ trung của Giáo Hội, là năng lực đổi mới thế giới. Hãy đọc lại bài đọc I, ta sẽ thấy sức mạnh đổi mới của Người mãnh liệt như thế nào. Người như luồng gió cường tráng. Người như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Đức Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động.
Trong ngày lễ Hiện Xuống, Giáo Hội mừng kính Chúa Thánh Thần, Giáo Hội mừng kính tình yêu của Thiên Chúa, được tượng trưng qua hình lưỡi lửa trên đầu các tông đồ. Giáo Hội cũng muốn chúng ta thành khẩn kêu xin: Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến, xin hãy ngập tràn tâm hồn các tín hữu Chúa và xin thắp lên trong chúng con ngọn lửa tình yêu Chúa. Ngài không phải là một vị Thiên Chúa vô danh và bị quên lãng. Trái lại Ngài luôn ở giữa chúng ta và hoạt động.
Hàng năm, Giáo Hội cử hành Lễ Hiện xuống không phải là để nhớ một ký ức, nhớ một kỷ niệm trống rỗng nhưng để nhắc nhớ ta rằng đây là một ngày lễ đổi mới chúng ta trong quyền năng và hoạt động của Thánh Thần. Và rồi, lòng ta có mở ra để đón nhận Ngài hay không ? Những gì Chúa Thánh Thần đã làm nơi các tông đồ xưa kia, bây giờ Ngài cũng thực hiện nơi chúng ta.
Chúa Thánh Thần đem lại đức tin và tình yêu. Chính đức tin và tình yêu sẽ tạo nên nơi chúng ta một cái nhìn mới.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy cộng tác với Ngài bằng cách thắp lên một ngọn lửa yêu thương, bởi vì chỉ có tình yêu mới có thể làm tiêu tan thù hận, thất vọng và tăm tối.