TƯ LIỆU HỌC TẬP CỦA HIỆP HỘI THÁNH MẪU
LƯU HÀNH NỘI BỘ
NỘI DUNG
TẬP SAN HIỆP SỐNG THÁNG 11/2021
I. THƯ LM GH TH 11/21: SỐNG MẦU NHIỆM CÁC THÁNH CÙNG THÔNG CÔNG.
II. HỌC SỐNG NHÂN BẢN TH 11/21: THỂ HIỆN LÒNG HIẾU KÍNH ĐỐI VỚI ÔNG BÀ CHA MẸ.
III. XÂY DỰNG HẠNH PHÚC TH 11/21: VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH.
IV.TƯ LIỆU HIỆP SỐNG TH 11/21: HSTM LỄ CÁC THÁNH – LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN.- CN 32 TN B.- CN 33 TN B. LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VN.- CN 34 TN B. LỄ CHÚA KI-TÔ VUA .
V. HUẤN LUYỆN H.TR TH 11/21: HỘI VIÊN HHTM SỐNG THÁNH GIỮA ĐỜI.
VI. THƯ GIÃN TH 11/21: BÉ TÊN GÌ ?
VII. NHỎ TO HỮU ÍCH TH 11/21: THÍCH ỨNG ĐỂ KIỂM SOÁT ĐẠI DỊCH COVID-19
VIII. SINH HOẠT HIỆP SỐNG THÁNG 11/21:
A. THÔNG TIN LIÊN HỘI HHTM TH 11
B. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN BÁC ÁI HHTM TH 11
C. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIA ĐÌNH HHTM TH 11
D. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIỚI TRẺ HHTM TH 11
I. LÁ THƯ LM GIÁM HUẤN THÁNG 11/2021
SỐNG MẦU NHIỆM CÁC THÁNH CÙNG THÔNG CÔNG
Anh chị em Hội viên HHTM thân mến.
Nhiều người nghĩ rằng: không nói đến sự chết thì mình sẽ không phải chết. Nhà tỷ phú Mỹ WILLIAM RANDOPH HEARST, chủ nhân của nhiều tờ báo và phim trường ở Holywood hồi trước thế chiến thứ hai, đã ra lệnh cấm các nhân viên của mình nhắc đến từ ngữ “chết” trước mặt ông. Những ai lỡ miệng nói ra liền bị đuổi việc. Ông là người thông minh, tài giỏi, thành công, nhưng lại không dám đối diện với sự thật phũ phàng là sự chết! Rồi cuối cùng Hearst cũng bị chết bất đắc kỳ tử, để lại một toà lâu đài rộng lớn, hiện nay trở thành một điểm du lịch nổi tiếng ở bang California Hoa Kỳ.
1. Sinh ký tử quy – Sống gửi thác về:
Nhiều người khi lớn tuổi liền nghĩ đến việc hậu sự và lo chuẩn bị cho cái chết của mình, bằng việc mua đất nghĩa trang, chọn nhà quàn, mua sẵn ván làm hòm để trong nhà. Họ còn viết chúc thư về những điều con cháu phải làm để lo việc ma chay cho họ: Khi chết phải cho họ chiếc áo này, đeo vòng ngọc kia, cầm cái quạt nọ. Lại còn dặn dò phải bỏ vào quan tài dụng cụ này hay vòng vàng kia để sử dụng ở thế giới bên kia, giống như chuẩn bị hành lý cho một chuyến đi xa để về với ông bà tổ tiên.
2. Chết là bắt đầu một cuộc sống mới:
Đối với những kẻ không tin có Thiên Chúa và đời sau thì chết đi là hết! Nếu quả thực như thế thì cái chết thật đáng sợ ! Vì nó là đặt dấu chấm hết tất cả những ước mơ của đời người: “Con người là bụi cát lại trở về với cát bụi!” Nhưng đức tin Ki-tô giáo dạy cho biết: chết không phải là hết. Nó chỉ là khởi đầu của một cuộc sống mới vĩnh hằng. Sau cái chết mỗi người sẽ phải trả lẽ những gì đã làm khi còn sống trước tòa Chúa phán xét. Nếu chúng ta đã sống trong ân nghĩa của Chúa thì giờ chết sẽ là sự trở về ngôi nhà của mình. “Sinh ký tử quy”: Chúng ta sẽ được trở về nhà của Thiên Chúa Cha, Đấng đã dựng nên loài người chúng ta. Ở đây không còn nước mắt đau khổ, nhưng chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn như sách Khải Huyền đã viết: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, khóc than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (x. Kh 21,4).
3. Đền tội khi sống và lúc chết:
Dầu vậy trong cuộc sống, ít nhiều lần chúng ta cũng đã để cho những dục vọng làm chủ bản thân mình, khiến chúng ta không vâng lời Chúa và không làm theo thánh ý Thiên Chúa. Đó là ta đã phạm tội hay đã mắc phải các thói hư. Phạm tội thì sẽ bị phạt. Khi còn sống thì các tai nạn, bệnh tật và các điều trái ý cực lòng gặp phải là các hình phạt để chúng ta đền tội đã phạm. Rồi sau khi qua đời chúng ta sẽ tiếp tục được thanh luyện trong chốn luyện hình.
4. Lời cầu:
Lạy Chúa Giê-su. Mỗi lần đối diện với cái chết gần kề, con cảm thấy run sợ vì con chưa sẵn sàng trình diện với Chúa. Trong suốt cuộc đời, con đã lo toan tìm kiếm tiền tài, danh vọng, chức quyền trần gian… Còn điều quan trọng là chuẩn bị cho giờ chết thì con lại lơ là không quan tâm !
Xin ban cho con ơn khôn ngoan của Thánh Thần để con sống trọn vẹn từng giây phút hiện tại trong ơn nghĩa Chúa, để khi giờ chết đến, con sẽ ra trình diện trước mặt Chúa không phải như hai người xa lạ, nhưng như người rất thân quen. Khi ấy Chúa sẽ gọi con bằng một cái tên trìu mến và giang rộng vòng tay đón con vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời như sau: “Hỡi kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng ‘Vương Quốc’ dọn sẵn cho các con từ thuở tạo thiên lập địa” (x. Mt 25,34).- Amen.
LINH MỤC GIÁM HUẤN HIỆP HỘI THÁNH MẪU
Đaminh ĐINH VĂN VÃNG
II. THỰC TẬP NẾP SỐNG NHÂN BẢN THÁNG 11/2021 :
THỂ HIỆN LÒNG HIẾU KÍNH ĐỐI VỚI ÔNG BÀ CHA MẸ
1. LỜI CHÚA : “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ” (Mt 15,4).
2. CÂU CHUYỆN :
Ngày nay người ta thường hay phàn nàn về tư cách của lớp người trẻ, nhất là thái độ vô ơn đối với cha mẹ và những người đã làm ơn cho mình. Sau đây là một câu chuyện cho thấy công ơn trời bể của cha mẹ mà những người làm con có bổn phận phải hiếu thảo đáp đền,
Buổi tối hôm đó một bé gái khỏang 12 tuổi đã to tiếng cãi lại với mẹ khi bà cấm cô không được tiếp tục đi chơi về nhà quá khuya. Cô cảm thấy mẹ thật quá đáng khi cấm cô đi chơi như vậy. Trong lúc giận dỗi, cô quyết định bỏ nhà ra đi mà không biết mình sẽ phải đi đâu. Trong lúc lang thang trên hè phố, cô mới sực nhớ ra là mình chẳng có một đồng bạc dính túi, thậm chí không đủ tiền để gọi điện thọai về nhà. Rồi cô đi ngang qua một quán bán mì hòanh thánh. Mùi thơm từ nồi sáo bốc lên ào vào mũi khiến cô cảm thấy đói. Cô ước gì được ăn một tô mì hòanh thánh thơm ngon kia, nhưng kẹt một nỗi là cô không có tiền ! Người bán mì thấy cô bé đứng tần ngần trước quầy liền lên tiếng hỏi : “Này bé kia, cháu có muốn ăn một tô mì không ?”. Cô thẹn thùng và ấp úng trả lời :“Nhưng… thưa ông, cháu không có mang tiền theo…” Người chủ quán liền nói : “Chắc là bỏ nhà đi hoang rồi phải không ?” Thấy cô im lặng, ông nói tiếp : “Thôi, cháu cứ vào đây. Ta sẽ làm cho cháu một tô mì đặc biệt”. Một phút sau, ông đã mang ra đặt trước mặt cô một tô mì lớn đang bốc khói thơm nức mùi hòanh thánh. Cô vội vàng ăn ngấu nghiến cho đỡ cơn đói đang cồn cào ruột gan. Một lúc sau, cô ngồi thừ ra và hai dòng nước mắt tự nhiên tuôn trào. Ông chủ quán thấy vậy liền lại ngồi bên và hỏi : “Sao , có chuyện gì buồn hả cô bé ?”. Cô sụt sùi đưa tay lên dụi mắt đáp : “Thưa bác không có gì đâu ạ. Chỉ tại cháu cảm động trước lòng tốt của bác đấy thôi !” Bấy giờ ông chủ quán liền nói : “Này cô bé, sao cháu lại nghĩ vậy ? Cháu hãy nghĩ kỹ lại đi : Bác mới đãi cháu có một tô mì chỉ đáng mấy đồng mà cháu đã cảm động như thế. Còn cha mẹ cháu đã nuôi nấng chăm sóc cháu từ khi nhỏ xíu cho tới bây giờ, sao cháu lại không cảm động trước tình thương bao la trời bể đó mà lại dám bỏ nhà ra đi hả cháu ?” Cô bé giật mình khi nghe lời bác chủ quán vừa phân giải. Cô tự nhủ : “Đúng rồi ! Tại sao mình lại không nghĩ ra như vậy nhỉ ? Một tô mì của người lạ chẳng đáng là bao mà mình cảm động và thấy cần phải tỏ lòng biết ơn, còn cha mẹ đã sinh ra mình, nuôi mình ăn học suốt bao năm qua, thế mà chưa bao giờ mình nghĩ đến phải đáp đền công ơn các ngài, dù chỉ một chút thôi. Rồi khi bị mẹ trách mắng một câu mà mình lại dám cự cãi rồi còn bỏ nhà ra đi nữa chứ !…” Trên đường về nhà, cô thầm nghĩ những điều sẽ thưa với mẹ: “Mẹ ơi, con xin lỗi mẹ. Con biết con thật có lỗi với mẹ. Xin mẹ hãy tha thứ cho con…” Khi bước lên thềm cửa, cô thấy mẹ đang ngồi thẫn thờ với nét mặt âu sầu lo lắng vì chờ mãi không thấy con về ăn cơm. Vừa thấy con, mẹ cô như bừng tỉnh lại. Bà vui vẻ chạy lại ôm chầm lấy con và âu yếm nói: “Mau vào trong nhà đi con. Chắc con gái của mẹ đang bị đói bụng lắm đây. Cơm tối mẹ đã nấu xong từ nãy đến giờ và đang lo không biết con đã giận mẹ và bỏ đi đâu ? Thôi con ngồi vào bàn ăn ngay đi cho nóng nhé…” Không thể kềm lòng được nữa, cô đã òa lên khóc trong vòng tay âu yếm của mẹ. Cô nói trong nước mắt : “Mẹ ơi, cho con xin lỗi…”
Nhưng không để cô nói hết câu, mẹ cô đã dỗ dành động viên: “Thôi, con không cần phải nói thêm nữa. Mẹ biết con gái của mẹ thế nào cũng sẽ về nhà với mẹ mà !”. Cô thầm quyết tâm từ nay không bao giờ dám bỏ nhà đi hoang nữa, và sẽ cố chu tòan bổn phận làm con hiếu thảo để mẹ vui lòng.
3. SUY NIỆM :
Tháng 11 là thời gian thuận tiện để con cái cháu chắt biểu lộ lòng hiếu kính đối với tiền nhân là ông bà cha mẹ, khi các ngài còn sống cũng như lúc đã qua đời.
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta dễ cảm động trước một hành động nhỏ bé của người chung quanh đã làm cho mình, nhưng trước những việc làm lớn lao mà cha mẹ đã làm cho ta thì ta lại coi như là một điều đương nhiên… Tình yêu và sự săn sóc dưỡng nuôi của cha mẹ chính là món quà quý giá nhất mà Thiên Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta từ khi ta chào đời. Cha mẹ chăm lo nuôi nấng chúng ta vô điều kiện, và không mong chúng ta báo đền. Bổn phận làm con cháu đòi chúng ta phải biểu lộ lòng hiếu kính biết ơn đối với những đấng bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng ta. Hiếu kính bằng sự hiếu thảo, vâng lời và quan tâm phụng dưỡng, khiến các ngài được vui trong tuổi già đang khi còn sống, cùng năng tưởng nhớ dâng lễ cầu nguyện và làm các việc lành phúc đức cầu nguyện sau khi các ngài qua đời, để báo đáp phần nào công ơn trời bể mà các ngài đã làm cho con cháu là chúng ta.
4. SINH HỌAT : 1) Đã có khi nào bạn nghĩ tới công ơn mà cha mẹ bạn đã làm cho bạn để bày tỏ lòng hiếu thảo biết ơn đối với các ngài chưa ? 2) Lòng hiếu thảo biết ơn của con cái đối với cha mẹ thường được biểu lộ qua những thái độ lời nói và hành động cụ thể nào ? 3) Cộng đòan cùng hát bài : “Xin Chúa í a chúc lành cho đời cha mẹ của con…” để cầu nguyện cho đấng sinh thành đã làm ơn cho mình.
LM ĐAN VINH – HHTM
III. MỤC VỤ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH THÁNG 11/2021
VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH
1. LỜI CHÚA : Thánh Phao-lô dạy các tín hữu Ê-phê-sô như sau : “Vì lòng kính sợ Đức Ki-tô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau. Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa. Vì chồng là đầu của vợ, cũng như Đức Ki-tô là Đầu của Hội Thánh., chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Ki-tô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh…. Chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể của mình. Yêu vợ là yêu mình. Quả vậy, có ai ghét thân các mình bao giờ. Trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Ki-tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh” (Ep 5,21-19).
2. SUY NIỆM :
Ngày nay một vấn đề nhức nhối đang được đặt ra cho xã hội là: Khi con người càng văn minh và địa vị của người phụ nữ trong xã hội càng được nâng cao, thì nguy cơ đổ vỡ hạnh phúc gia đình lại càng gia tăng. Mới đây một đôi vợ chồng đã đưa nhau ra tòa xin ly hôn. Khi tòa khuyên chị vợ phải chịu đựng chồng để bảo vệ hạnh phúc gia đình, thì chị tỏ vẻ bức xúc phát biểu trước Tòa như sau: ”Luật pháp đã khẳng định: trong gia đình, vợ chồng đều có quyền bình đẳng, mà tại sao ai cũng khuyên tôi phải nhẫn nhịn chồng ? Từ cha mẹ anh chị em trong nhà, đến các bạn đồng nghiệp ở cơ quan, rồi bây giờ ngay cả tòa án của nhà nước cũng lại yêu cầu tôi phải nhường nhịn chồng nghĩa là làm sao ?” Sau nhiều lần hòa giải không thành, cuối cùng Tòa đành phải giải quyết cho hai vợ chồng ly hôn. Nguyên nhân chính trong câu chuyện trên là do chị vợ đã hiểu sai quyền bình đẳng giới, bình đẳng vợ chồng. Nếu chị hiểu đúng khái niệm bình đẳng giới theo luật pháp quy định, có lẽ hạnh phúc gia đình của chị đã không bị đổ vỡ như vậy.
Trong thực tế không phải ai cũng hiểu đúng phạm trù “bình đẳng giới”, nhất là khi đặt nó trong những mối quan hệ truyền thống Nho giáo mang tính thứ bậc trong gia đình, vốn đã tồn tại hàng nghìn năm ở Việt nam. Với kinh nghiệm xét xử nhiều vụ án ly hôn, một thẩm phán TAND Quận nội thành đã đưa ra nhận định như sau : Trong quá trình hòa giải giữa hai vợ chồng xin ly hôn, thì người cố chấp không nhìn nhận sai lầm của mình thường là những bà vợ có học thức cao, có địa vị xã hội ổn định. Với họ, khi đã đem nhau ra tòa thì bao giờ phần lỗi cũng thuộc về người chồng. Các bà vợ này thường so đo tính tóan mọi thứ với ông chồng khi nói : Trong gia đình, tôi đã làm hết sức mình, chu toàn bổn phận của một người vợ và người mẹ. Chỉ có các ông chồng là luôn vi phạm quyền bình đẳng với vợ. Bình đẳng theo các bà vợ này nghĩa là phải cân bằng bổn phận và quyền lợi, nhất là về phạm vi tiền bạc và các việc nhà… !
Khi tâm sự về chuyện xây dựng hạnh phúc gia đình, bác sĩ một bệnh viện lớn trong thành phố đã nêu ra kinh nghiệm của mình như sau: ”Về mặt lý thuyết, sự bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình là biểu hiệu của một xã hội tiến bộ, văn minh. Nhưng trong mỗi tế bào bao giờ cũng chỉ có một hạt nhân. Do vậy, gia đình nhất thiết phải có người đứng mũi chịu sào và có quyền quyết định cuối cùng. Nếu trong gia đình mà vợ chồng đều ngang nhau về mọi phương diện, thì sẽ dẫn đến tình trạng “quân hồi vô phèng”, “cá mè một lứa” chẳng ai chịu ai, và chắc chắn sự đổ vỡ hạnh phúc gia đình là điều khó tránh khỏi”.
Như vậy : Phục vụ chồng con cách chu đáo chính là bổn phận hàng đầu của một người phụ nữ có hiểu biết. Bình đẳng giới trong gia đình cần được hiểu là phải nâng cao tầm hiểu biết của chị em phụ nữ về đời sống hôn nhân gia đình. Đồng thời làm thế nào để các người chồng cũng phải thay đổi nhận thức về quyền bình đẳng của phụ nữ. Hiện nay quan niệm gia trưởng cần phải thay đổi theo chiều hướng tiến bộ và chỉ nhằm phục vụ hạnh phúc cho mọi thành viên gia đình, khác hẳn với thói gia trưởng độc đóan chủ trương “chồng chúa vợ tôi”, bắt vợ con phải hòan tòan lụy phục chồng như thời phong kiến xa xưa.
Điều quan trọng là làm sao để mọi người đều có chung quan điểm :
Quan hệ giữa hai vợ chồng vừa phải mang tính hiện đại, tiến bộ và bình đẳng, nhưng lại vừa mang tính truyền thống nữa. Nghĩa là trong gia đình, người chồng vẫn luôn phải là trụ cột, ít nhất về mặt tinh thần.
Người vợ dù học thức có cao đến đâu, dù đang giữ chức vụ nào trong xã hội, cũng cần ý thức rằng: Trong gia đình người chồng bao giờ cũng là tấm lá chắn, là đầu tàu trong việc lo cho hạnh phúc gia đình, nên cần phải được vợ con kính trọng và phải có quyền quyết định tối hậu về mọi việc trong gia đình. Có như thế hạnh phúc gia đình mới được đảm bảo.
3. SINH HOẠT: Trong gia đình người chồng bao giờ cũng là tấm lá chắn, là đầu tàu trong việc lo cho hạnh phúc gia đình, nên cần phải được vợ con kính trọng và phải có quyền quyết định tối hậu về mọi việc trong gia đình.
Bạn có đổng ý với lời nhận định nói trên không? Tại sao ?
4. LỜI CẦU: Hát “Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời”…
LM ĐAN VINH-HHTM
IV. TƯ LIỆU HỌC SỐNG LỜI CHÚA THÁNG 11/2021
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ (01/11)
Kh7,2-4.9-14; 1 Ga 3,1-3; Mt 5,1-12a.
NGÀY MAI BẮT ĐẦU TỪ HÔM NAY
1.LỜI CHÚA: Tám mối Phúc (Mt 5,1-12)
1 Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên.2 Người mở miệng dạy họ rằng: 3 “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. 4 Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. 5 Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. 6 Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng. 7 Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. 8 Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. 9 Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. 10 Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. 11 Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. 12 Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.
2. THẢO LUẬN:
1) Mỗi người chúng ta có thể trở thành một vị thánh không ? Tại sao ?
2) Ngày nay muốn được nên thánh, chúng ta phải làm gì ?
3. SUY NIỆM:
Hầu như mọi người sông trên trần gian đều mong và đi tìm cho mình một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Nhưng thế nào là hạnh phúc thật sự thì người ta lại không đồng quan điểm với nhau: Phải chăng giàu có phú quý sẽ mang lại hạnh phúc ? Nhưng thực tế lại cho thấy không hẳn như vậy như trong phim ảnh cũng có bộ phim tựa đề là: “Người giàu cũng khóc”. Phải chăng quyền cao chức trọng sẽ mang lại hạnh phúc ? Nhưng thực tế đã chứng minh ngược lại như câu ca dao Việt Nam: “Càng cao càng cả gió lay. Càng cao danh vọng càng dày gian truân”… Tin mừng ngày lễ Các Thánh Nam Nữ hôm nay đã dạy chúng ta bài học của Đức Giê-su về Tám Mối Phúc Thật. Các thánh là những đấng đã lắng nghe Lời Chúa và sống theo các mối phúc nên đã được Hội Thánh đặt lên bàn thờ làm gương mẫu cho chúng ta noi theo.
1) Hiến Chương Nước Trời:
Có lẽ không người Công giáo đạo đức nào lại không thuộc kinh “Phúc Thật Tám Mối” hay Hiến Chương Nước Trời do Đức Giê-su rao giảng. Nếu đối với người tín hữu chúng ta: Tám Mối Phúc Thật là một bản liệt kê lối sống cao thượng vị tha, thì đối với một số người khác: Tám Mối Phúc Thật chỉ là các tính nết của loài vật như triết gia Nietzsche. Theo ông này, chỉ có loài vật mới nhẫn nhịn chịu đựng sự chà đạp của những kẻ quyền thế bóc lột. Đối với một số người khác như triết gia Karl Marx: Tám Mối Phúc Thật chỉ là những lời đường mật và hứa hẹn về một thiên đàng xa xôi không tưởng, là thuốc phiện ru ngủ giai cấp công nhân hãy im lặng chịu đựng những sự áp bức bất công do giai cấp thống trị gây ra ! Vậy đâu là ý nghĩa và giá trị đích thực của Tám Mối Phúc Thật trong Tin Mừng hôm nay ?
2) Ý nghĩa tích cực của Tám Mối Phúc:
Đức Giê-su chỉ công bố một Hiến Chương Nước Trời là Tám Mối Phúc Thật, nhưng lại được hai Tin Mừng của Mát-thêu và Lu-ca thuật lại dưới hai góc độ, tuy hai khác nhau nhưng lại bổ túc cho nhau.
+ Về sự đói khát: Tin Mừng Lu-ca nói đến những nạn nhân của các bất công xã hội là những người đói cơm ăn thiếu áo mặc. Họ sẽ được Thiên Chúa bù đắp sự thiệt thòi như lời Chúa Giê-su: “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng” (Lc 6,21),. Còn Tin mừng Mát-thêu nhấn mạnh đến sự đói khát công lý và sự khao khát muốn muốn nên hoàn thiện: “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng” (Mt 5,6).
+ Sứ vụ cứu thế của Đức Giê-su không những là để cứu rỗi linh hồn người ta ở đời sau, mà còn cứu giúp bênh vực những người nghèo khổ vật chất ngay đời này khi ưu tiên cho người nghèo đói được gia nhập vào Nước Thiên Chúa: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó. Vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20). Thực tế cho thấy Hội Thánh sơ khai gồm đại đa số là những người nghèo khó vì thiếu cơm ăn áo mặc và bị bệnh tật không tiền thuốc thang chữa trị. Họ được vào Hội Thánh để được cộng đoàn chia sẻ tình thương và không còn bị nghèo khổ như trước. Còn Tin Mừng Mát-thêu nhấn mạnh đến khía cạnh luân lý là tinh thần nghèo khó hay sự nghèo khó trong tâm hồn: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Qua đó cho thấy: Không phải mọi người đang bị nghèo đói đều có phúc và đều được gia nhập vào trong Nước Trời, nhưng phải là những người nghèo ya thức về tội lỗi của mình để “ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”, để từ nay không còn tham lam ích kỷ và sống siêu thoát, thẻ hiện qua việc chọn lối sống đơn giản về nhà ở, vật dụng, xe cộ, ăn xài… để dùng tiền bạc để chia sẻ và phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi noi gương Đức Giê-su.
3) Thực hành Tám Mối Phúc ngay từ hôm nay:
+ Một trong những nguyên nhân khiến người tín hữu bị người đời bách hại là bởi vì người đời không hiểu không chấp nhận tin vào Đức Giê-su và Tin Mừng Nước Trời của Người như Đức Giê-su đã nói: “Nếu thế gian ghết anh em, anh em biết rằng nó đã ghét Thầy trước” (Ga 15,18). Ðây cũng chính là số phận của các tín hữu trong các thời đại. Nhưng dù có bị cấm cách bách hại nhưng chúng ta vẫn phải kiên trì tin yêu Chúa, qua thái độ yêu thương tha thứ cho những kẻ thù ghét làm hại mình nói gương Đức Giê-su: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34), hay như phó tế Tê-pha-nô khi bị người Do thái ném đá đã nhìn lên trời và nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa”… Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin: “Lạy Chúa Giê-su, xin nhận lấy hồn con. Rồi ông quỳ xuống, kêu lớn: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Nói thế rồi ông an nghỉ (Cv 7,55-56.59-60).
+ Nước Trời hay Nước Thiên Chúa không chỉ là nước thiên đàng đời sau, nhưng đã bắt đầu hình thành ngay trong cuộc sống hiện tại của người tín hữu, qua lối sống công bình vị tha bác ái, thái độ cảm thông huynh đệ, biết quan tâm chia sẻ cơm áo vật chất và đáp ứng các nhu cầu của những người nghéo bất hạnh ở bên cạnh. Người tín hữu chúng ta là những người “sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về trần gian” (x. Ga 17,14-16), vì “Quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta sẽ gặp Đấng Cứu Chuộc là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (x. Pl 3,20). Tuy nhiên, niềm tin về một cuộc sống hạnh phúc mai hậu ấy không làm cho chúng ta xao lãng những bổn phận ở trần gian. Cần xác tín rằng: Chính qua những sự việc trần thế, chúng ta mới gặp được Nước Trời và mới đạt được hạnh phúc thiên đàng sau này.
4) Sống thánh giữa đời:
+ Khi phong thánh cho ai là Hội Thánh xác nhận người đó đã có một cuộc sống hoàn thiện ở trần gian noi gương Thiên Chúa Cha trên trời như lời Đức Giê-su: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48); Hoặc các ngài đã sống “hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29), đã sống hiếu thảo với Thiên Chúa như Đức Giê-su đã được Cha xác nhận sau khi chịu phép rửa tại sông Gio-đan: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Hội Thánh đã tôn vinh một số tín hữu lên bậc hiển thánh nghĩa là chính thức công bố danh tánh của các ngài trong lễ tuyên phong để công nhận các ngài đang được hưởng hạnh phúc trên Thiên Đàng vì ở trần gian các ngài đã sống theo Tám Mối Phúc Thật của Đức Giê-su. Từ đây các ngài được các tín hữu chúng ta tôn kính, noi gương bắt chước và cầu xin các ngài chuyển cầu cùng Chúa cho chúng ta. Ngoài một số ít vị hiển thánh, còn rất nhiều tín hữu cũng đã được Thiên Chúa ban thưởng hạnh phúc trên trời, nhưng qua đông nên không được nêu danh tính, trong đó nhiều người là thân nhân ông bà cha mẹ của chúng ta. Hội thánh mừng kính chung các ngài trong ngày lễ 1/11 và gọi là lễ Các Thánh Nam Nữ.
+ Ngày nay, nếu muốn được hưởng hạnh phúc Nước Trời trên Thiên đàng đời sau, các tín hữu chúng ta cần vững tin vào Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, và biết thể hiện đức tin bằng việc thực hành đức cậy và đức mến. Mỗi ngày các tín hữu chúng ta hãy xét mình và ăn năn sám hối tội lỗi và tình nguyện sống theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su, đồng thời tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng cho anh chị em lương dân chưa biết Chúa. Để nên thánh, chúng ta cần năng cầu xin ơn Chúa Thánh Thần thánh hóa mỗi khi tham dự thánh lễ, năng xưng tội rước lễ. Hằng ngày còn phải năng học sống Lời Chúa chung tại nhà thờ hoặc năng đọc Lời Chúa và suy niêm Lời Chúa trong giờ Kinh Tối Gia Đình, chu toàn việc bổn phận và năng thực hành các việc bác ái chia sẻ phục vụ tha nhân kèm theo lời nguyện tắt.
4. LỜI CẦU:
“Lạy Chúa Giê-su, xin dạy con yêu mến Chúa”- “Lạy Chúa Giê-su, con làm việc này để xin cho một tội nhân sớm trở về với Chúa; Xin cho một người bạn hay một gia đình ngoại giáo sớm tin yêu Chúa để sau này cùng được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời với con”.
LM ĐAN VINH – HHTM
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN (02/11)
MẦU NHIỆM CÁC THÁNH CÙNG THÔNG CÔNG
1. NGUỒN GỐC LỄ CẦU CHO CÁC LINH HỒN
– Theo lịch sử Hội thánh: Thánh ODILO (962- 1048) là viện phụ của đan viện Cluny trong đế quốc Germany, là một tu sĩ rất có lòng đạo đức. Ngài luôn tưởng nhớ cầu nguyện kèm ăn chay hãm mình và dâng lễ cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời. Một hôm, một đan sĩ Dòng của ngài đi hành hương Đất thánh. Trên đường trở về, tàu chở vị đan sĩ đã bị bão đánh giạt vào một hòn đảo, và tại đây đan sĩ đã gặp gỡ và trao đổi với một vị ẩn sĩ. Trong buổi trò chuyện, ẩn sĩ cho biết: “Trên đảo này có nhiều hang lửa, trong hang có nhiều linh hồn người chết thường bị hành hạ, đánh đập đau đớn. Có lần tôi nghe được mấy tên quỉ phàn nàn với nhau về Viện phụ Odilo và các đan sĩ Dòng Cluny mỗi ngày đều giải thoát được một số linh hồn được ra khỏi hang lửa nói trên. Vì thế, xin thầy hãy về nói với cha Odilo và các anh em trong Dòng tiếp tục cứu giúp các linh hồn đang chịu đau khổ. Việc này làm cho các thánh trên trời vui mừng và cũng làm cho ma quỷ trong hỏa ngục phải buồn sầu tức giận”. Sau khi nghe tu sĩ kể lại sự việc, cha Odilo đã chọn ngày 2 tháng 11 hằng năm để cử hành lễ cầu hồn trong đan viện Cluny của ngài. Về sau lễ cầu hồn này đã truyền sang nước Pháp, và Đức Giáo hoàng Gio-an 14 đã thiết lập lễ Cầu cho các linh hồn trong Hội Thánh Công Giáo Rô-ma từ giữa thế kỷ 11.
– Giáo lý Hội Thánh Công giáo do Đức Thánh cha Gio-an Phao-lô 2 ban hành năm 1992 có 3 số nói về luyện ngục như sau:
Số 1030: Cần có Luyện ngục: “Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh tẩy cách trọn vẹn, thì tuy được bảo đảm về ơn cứu độ muôn đời của mình, vẫn phải chịu một sự thanh luyện sau khi chết, hòng đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui thiên đàng”.
Số 1031: Luyện ngục để thanh tẩy: “Giáo Hội gọi là luyện ngục là sự thanh luyện sau cùng này của các người được chọn, hoàn toàn khác với hình phạt của những kẻ bị án phạt. Giáo Hội đã trình bày giáo lý của đức tin về Luyện ngục, nhất là tại các Công đồng Florentia (xem DS 1304) và Trentô (xem DS 1820; 1580). Dựa vào một số bản văn của Thánh Kinh (Chẳng hạn 1 Cr 3,15; 1 Pr 1,7), truyền thống của Giáo Hội nói đến một thứ lửa thanh luyện: “Đối với một số những lỗi lầm nhẹ, ta phải tin có một thứ lửa thanh tẩy trước ngày Phán xét, theo như những gì mà Đấng là Chân lý đã dạy khi Ngài nói rằng nếu ai nói lời phạm thánh chống lại Chúa Thánh Thần, thì sẽ không được tha cả đời này lẫn ở đời sau” (Mt 12,31). Theo lời quyết đoán này, chúng ta có thể hiểu rằng một số lỗi lầm có thể được tha ở đời này, nhưng một số lỗi khác thì được tha ở đời sau” (Th. Gregoriô Cả, Dial. 4,39).
Số 1032: Người sống cứu người chết: Giáo huấn này cũng dựa vào cách cầu nguyện cho kẻ chết, như được nói đến trong Thánh Kinh: “Đó là lý do tại sao ông Giuđa Macabê đã truyền phải dâng hy lễ đền tội này cho các người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi của mình” (x. 2 Mcb 12,46).
– Ngày 10 tháng 8 năm 1915: Trong một Tông hiến, Tòa thánh cho các linh mục được dâng 3 lễ vào ngày lễ Cầu hồn: 1 cầu như ý người xin, được lấy bổng lễ, 1 cầu theo ý ĐTC (không bổng) và 1 cầu cho các linh hồn (không bổng). Giáo hội cũng xác định dành trọn tháng 11 dành để cầu cho các linh hồn Luyện ngục.
– Ngày 1 tháng 11 năm 1967, ĐTC Phaolô 6, trong Tông huấn Ân xá đã ban một đại xá với điều kiện thường lệ (xưng tội, rước lễ, cầu theo ý ĐGH) cho những ai “viếng nhà thờ vào Chúa nhật trước hoặc sau, hoặc chính lễ Các Thánh (số 67), và những ai viếng nghĩa địa trong 8 ngày đầu tháng 11 để cầu cho các linh hồn (số 13).
2. GIÁO LÝ VỀ MỘT HỘI THÁNH BA TÌNH TRẠNG:
Chúa Giê-su thiết lập Nước Trời là Hội Thánh. Hội Thánh ấy hiện nay gồm có ba tình trạng: Một là Hội Thánh “Lữ Hành”, hai là Hội Thánh “Vinh Thắng”, ba là Hội Thánh “Đau Khổ” như sau:
– Hội Thánh “Lữ Hành” trần gian: Gồm các tín hữu đang còn sống, đang bước đi trên con đường của Chúa Giê-su. Như Dân Ítraen xưa, Hội thánh sẽ phải vượt qua sa mạc trần gian tiến về Đất Hứa Nước Trời là Thiên Đàng đời sau. Các tín hữu trong Hội thánh lữ hành trần gian còn phải chiến đấu với ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt của mình. Họ được Chúa ban cho 2 thứ bánh thiêng liêng là Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Nhờ đó họ sẽ đủ sức vượt qua sa mạc trần gian để tiến về miền Đất Hứa là Thiên Đàng đời sau.
– Hội Thánh “Vinh Thắng” trên trời: Gồm các tín hữu đã qua đời trong niềm tin cậy vào Chúa. Khi còn sống ở trần gian, các ngài đã thực hành Hiến Chương Nước Trời là Tám Mối Phúc Thật của Chúa Giê-su, nên ngày nay các ngài đang được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng với Chúa.
– Hội Thánh “Đau Khổ” thanh luyện: Gồm các tín hữu tuy đi theo con đường của Chúa Giê-su, nhưng khi chết vẫn đang ở trong tình trạng còn nhiều sai lỗi, chưa xứng đáng được vào Nước Trời. Họ cần tiếp tục chịu đau khổ trong ngọn lửa tin yêu để được thanh luyện sạch mọi vết nhơ. Rồi khi hoàn toàn trở nên thánh thiện, họ sẽ được về hưởng hạnh phúc Thiên Đàng.
3. TÍN ĐIỀU CÁC THÁNH THÔNG CÔNG:
Ngọai trừ các người theo ma quỷ phải sa hỏa ngục để chịu hình phạt lìa xa Chúa đời đời, còn các tín hữu tin vào Chúa Giê-su dù còn sống hay đã qua đời, dù đã được lên trời hay đang được thanh luyện cũng đều được thông hiệp với ơn cứu độ của Chúa Giê-su và cầu nguyện cho nhau. Đó là mầu nhiệm các thánh cùng thông công:
Các tín hữu còn sống có thể giúp các linh hồn đã qua đời bằng việc viếng nhà thờ hay Đất Thánh và đọc kinh cầu nguyện, xưng tội rước lễ và cầu nguyện hiệp thông với Đức Giáo Hòang để được nhận các ân xá trong dịp đầu tháng 11; Nhất là có thể xin lễ và hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho các linh hồn, làm các việc lành phúc đức như chia sẻ bác ái phục vụ với ý chỉ cầu nguyện đền tội thay cho các linh hồn ông bà cha mẹ đang ở trong chốn luyện hình. Nhờ đó các linh hồn sẽ được ơn Chúa chiếu soi, được thêm lòng yêu mến Chúa để được tha thứ tội lỗi như lời Chúa: “Yêu nhiều sẽ được tha nhiều”. Khi các linh hồn được nên thanh sạch thánh thiện hòan tòan thì sẽ được Chúa đưa vào hưởng hạnh phúc Thiên Đàng. Bấy giờ các ngài sẽ không quên cầu bầu cùng Chúa xuống muôn ơn lành cho con cháu là chúng ta trên trần gian.
RIÊNG KHÁI NIỆM VỀ LÂM-BÔ:
Lâm bô là khái niệm của thánh Albertô Cả (1200-1280), nói về một nơi dành cho các linh hồn trẻ em chết khi chưa được lãnh bí tích Rửa tội. Tuy chúng không bị phạt nhưng cũng không được lên thiên đàng vì chưa được rửa tội. Về sau khái niệm này ít được đề cập đến. Gần đây Ủy ban thần học quốc tế thuộc bộ Giáo Lý Đức Tin đã công bố một tài liệu mang tên “Niềm hy vọng ơn cứu rỗi dành cho các trẻ em chết mà không được rửa tội”. Trong đó Ủy Ban cho rằng: “Giả thuyết về Lâm-bô” không có nền tảng rõ ràng trong Mặc Khải. Theo ủy ban, có nhiều lý do rút ra từ thần học và phụng vụ cho phép chúng ta tin tưởng và hy vọng rằng các em chết trước khi được rửa tội cũng được hưởng nhan thánh Chúa, vì “Thiên Chúa muốn cho hết mọi người đều được hưởng ơn cứu độ”. Tuy vậy, Ủy ban cũng khẳng định bí tích rửa tội vẫn là điều kiện cần thiết để được hưởng ơn cứu rỗi của Đức Giê-su như lời Chúa phán: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,5). Tóm lại: Hội Thánh tín thác các em chết khi chưa chịu phép rửa tội cho lòng thương xót của Chúa, và hy vọng nhờ đức tin của Hội Thánh, các em cũng được hưởng ơn cứu độ (x. GLHTCG số 1261).
4. PHẢI “BIẾT CHẾT” ĐỂ “BIẾT SỐNG”:
– Không thích nói đến cái chết: Nhiều người nghĩ rằng: không nói đến sự chết thì mình sẽ không phải chết. Nhà tỷ phú Mỹ WILLIAM RANDOPH HEARST, chủ nhân của nhiều tờ báo và phim trường ở Holywood hồi trước thế chiến thứ hai, đã ra lệnh cấm các nhân viên của mình nhắc đến từ ngữ “chết” trước mặt ông. Những ai lỡ miệng nói ra liền bị đuổi việc. Ông là người thông minh, tài giỏi, thành công, nhưng lại không dám đối diện với sự thật phũ phàng là sự chết! Rồi cuối cùng Hearst cũng bị chết bất đắc kỳ tử, để lại một toà lâu đài rộng lớn, hiện nay trở thành một điểm du lịch nổi tiếng ở bang California Hoa Kỳ.
– “Sinh ký tử quy” (Sống gửi thác về): Nhiều người khi lớn tuổi liền nghĩ đến việc hậu sự và lo chuẩn bị cho cái chết của mình, bằng việc mua đất nghĩa trang, chọn nhà quàn, mua sẵn ván làm hòm để trong nhà. Họ còn viết chúc thư về những điều con cháu phải làm để lo việc ma chay cho họ: Khi chết phải cho họ chiếc áo này, đeo vòng ngọc kia, cầm cái quạt nọ. Lại còn dặn dò phải bỏ vào quan tài dụng cụ này hay vòng vàng kia để sử dụng ở thế giới bên kia, giống như chuẩn bị hành lý cho một chuyến đi xa để về với ông bà tổ tiên.
– Chết là bắt đầu một cuộc sống mới: Đối với những kẻ không tin có Thiên Chúa và đời sau thì chết đi là hết! Nếu quả thực như thế thì cái chết thật đáng sợ ! Vì nó là đặt dấu chấm hết tất cả những ước mơ của đời người: “Con người là bụi cát lại trở về với cát bụi!” Nhưng đức tin Ki-tô giáo dạy cho biết: chết không phải là hết. Nó chỉ là khởi đầu của một cuộc sống mới vĩnh hằng. Sau cái chết mỗi người sẽ phải trả lẽ những gì đã làm khi còn sống trước tòa Chúa phán xét. Nếu chúng ta đã sống trong ân nghĩa của Chúa thì giờ chết sẽ là sự trở về ngôi nhà của mình. “Sinh ký tử quy”: Chúng ta sẽ được trở về thiên đàng, là nhà của Thiên Chúa Cha, Đấng đã dựng nên loài người chúng ta. Ở đây không còn nước mắt đau khổ, nhưng chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn như sách Khải Huyền đã viết: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, khóc than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (x. Kh 21,4).
– Đền tội khi sống lúc chết: Dầu vậy trong cuộc sống, ít nhiều lần các tín hữu chúng ta cũng đã để cho những dục vọng làm chủ bản thân mình, khiến chúng ta không vâng lời Chúa không làm theo thánh ý Thiên Chúa. Đó là ta đã phạm tội hay mắc phải các thói hư. Khi chúng ta còn sống thì các tai nạn, bệnh tật và các điều trái ý cực lòng gặp phải sẽ giúp chúng ta đền tội đã phạm. Rồi sau khi qua đời chúng ta còn tiếp tục được thanh luyện trong lửa tin yêu gọi là tình trạng luyện hình.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Xin ban cho con ơn khôn ngoan của Thánh Thần để con sống trọn vẹn từng giây phút hiện tại Chúa ban trong ơn nghĩa Chúa, để ngày nào đó khi giờ chết đến, con sẽ ra trình diện trước mặt Chúa không phải như hai người xa lạ, nhưng như người rất thân quen. Khi ấy Chúa sẽ gọi con bằng một cái tên trìu mến và giang rộng vòng tay đón con vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời: “Hỡi kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng ‘Vương Quốc’ dọn sẵn cho các con từ thuở tạo thiên lập địa” (x. Mt 25,34).- Amen.
LM ĐAN VINH – HHTM
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN B
1 V 17,10-16 ; Dt 9,24-28 ; Mc 12,38-44
ĐỂ “CỦA CHO” NÊN LỄ DÂNG ĐẸP LÒNG CHÚA
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Mc 12,38-44
(38) Trong lúc giảng dạy, Đức Giê-su nói rằng: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. (39) Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. (40) Họ nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn”. (41) Đức Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào hòm đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. (42) Cũng có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma. (43) Đức Giê-su liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. (44) Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó. Còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống.
2.Ý CHÍNH: Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần tương ứng với hai hạng người tiêu biểu trong đạo Do thái là giới kinh sư và giới bà góa nghèo như sau: Trước hết, Đức Giê-su khiển trách thói đạo đức giả của các kinh sư Do thái, biểu lộ qua 4 thói xấu như: ăn mặc đài các, tìm kiếm hư danh, tranh giành địa vị, đạo đức vụ lợi. Sau đó, Người đề cao lòng đạo đức của một bà góa nghèo, biểu lộ qua việc dâng cúng tiền bạc vào Đền Thờ. Tuy số tiền bà dâng không bao nhiêu, nhưng nhờ có lòng hy sinh, nên bà đã được Đức Giê-su đánh giá là đã bỏ vào thùng nhiều hơn mọi người.
3.CHÚ THÍCH:
– C 38: + “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư”: Đức Giê-su cảnh giác dân chúng coi chừng kẻo bị lây nhiễm các thói xấu của các kinh sư hay luật sĩ. + xúng xính trong bộ áo thụng: Áo thụng là loại áo choàng dài chấm đất mà các tư tế thường xử dụng khi làm việc tế tự. Người Do thái thường tỏ lòng tôn kính đối với các tư tế. Các kinh sư cũng thích mặc loại áo này để tỏ ra mình có lòng đạo đức và cũng mong được dân chúng kính trọng như vậy. Đây là thói xấu kiêu ngạo, tự cao tự đại (x. Mt 23,5). + thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng: Người Do thái hay chào hỏi các kinh sư, là những người giải thích Kinh Thánh tại các hội đường vào ngày Sa-bát. Danh hiệu “ráp-bi” có nghĩa là “đại nhân của tôi”, được dùng để xưng hô khi nói chuyện với các kinh sư. Vì muốn được chào hỏi tôn kính, nên các ông thích đi đi lại lại ở nơi có nhiều người để được thiên hạ bái chào. Đây là thói xấu ham mê danh vọng.
– C 39-40: + chiếm ghế danh dự trong hội đường: Tại mỗi hội đường Do thái đều có một chiếc ghế danh dự đặt trước tủ đựng kinh sách. Đối diện với cộng đoàn là chỗ dành cho những bậc vị vọng. Ai ngồi ở đây thì không bị che khuất và mọi người trong hội đường có thể nhìn thấy họ. Các kinh sư vốn tự cao nên thích ngồi ở hàng ghế danh dự này. Đây là thói xấu ham mê chức quyền. + thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc: Tại đám tiệc của người Do thái, vị trí chỗ ngồi được xếp đặt rõ ràng. Chỗ danh dự nhất là ở bên phải gia chủ. Chỗ thứ hai là bên trái, và tiếp tục như vậy từ phải sang trái chung quanh bàn ăn. Người ta dễ dàng nhận ra thứ bậc của người khách, căn cứ vào chỗ ngồi được gia chủ sắp xếp cho họ trong bữa tiệc. + nuốt hết tài sản của các bà góa: Các bà góa thường thiếu hiểu biết, nhẹ dạ nên được xếp vào hạng người cần được quan tâm giúp đỡ (x. Đnl 24,17.19). Mỗi khi bị bắt nạt chèn ép, các bà góa thường cậy nhờ các kinh sư bênh vực. Đây là cơ hội thuận tiện để một số phần tử xấu trong hàng ngũ kinh sư lợi dụng làm tiền, bằng cách chỉ vẽ Lề luật và hứa cầu nguyện cho. + làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ: Việc các kinh sư và người biệt phái hay cầu nguyện dài dòng thì ai cũng rõ. Người ta bảo rằng: Những bài cầu nguyện ấy không nhằm dâng lên Thiên Chúa tâm tình yêu mến mà chỉ nhằm phô trương công đức trước mặt người đời. Do đó, họ cố tình cầu nguyện tại ngã ba đường, nơi mà người ta dễ thấy mà ca tụng lòng đạo đức của họ. + họ sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn: Luật Môsê coi việc xử tệ với các người cô thế cô thân, trong đó có các bà góa là một trọng tội và sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc (x. Xh 22,21-23). Đức Giê-su cho biết: Những hành vi này của các kinh sư chỉ là hình thức đạo đức giả và vụ lợi, nên họ sẽ bị kết án nghiêm khắc trong ngày tận thế.
– C 41-42: + Đức Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao: Giữa sân dành cho dân ngoại và sân dành cho phụ nữ là cửa Đẹp. Đức Giê-su đã đến ngồi tại đó sau khi đã tranh luận trong sân dành cho dân ngoại và tại hành lang Đền Thờ. Trong sân dành cho phụ nữ có đặt mười ba thùng đựng tiền của dân chúng tự nguyện đóng góp, dùng để làm bánh tế lễ, mua dầu đèn và các chi phí khác.+ bà góa nghèo: Một thân phận đáng thương vì bị cô thế cô thân không nơi nương tựa, nhất là còn nghèo tiền bạc vật chất. + hai đồng tiền kẽm trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma: Đây là đơn vị tiền tệ nhỏ nhất, ám chỉ sự nghèo khó cùng cực của bà này. Sở dĩ tác giả chú thích hai đồng tiền kẽm trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma là nhằm giúp các độc giả La-Hy thời bấy giờ dễ hiểu hơn. Ở đây Mác-cô muốn nhấn mạnh đến sự tương phản giữa hai số tiền dâng cúng của hạng người giàu và kẻ nghèo hèn.
– C 43-44: + Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết: Nhiều hơn ai hết là theo cách đánh giá của Đức Giê-su khi xét theo tỷ lệ giữa số tiền bà dâng cúng với tài sản của bà. Bà đã dâng ngay cả những cái cần cho cuợc sống hằng ngày, giống như lời Đức Chúa nói với ngôn sứ Sa-mu-en khi ra lệnh cho ông xức dầu phong Đa-vít lên làm vua thay thế vua Sa-un: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1 Sm 15,7). + mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa: Của dư thừa ám chỉ sự dâng cúng kém giá trị, vì “của nhiều lòng ít”. + còn bà này thì rút từ cái túng thiếu của mình: Bà “của ít lòng nhiều”: Tuy tiền dâng ít nhưng kèm hy sinh bản thân nên đã tăng giá trị lên nhiều lần.
4. CÂU HỎI:
1) Đức Giê-su đã quở trách bọn kinh sư và biệt phái về các thói xấu nào?
2) Người đánh giá thế nào về hai đồng tiền kẽm mà bà góa nghèo đã dâng trong Đền thờ? Tại sao?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Thầy bảo thật anh em: “Bà góa nghèo đã bỏ thùng nhiều hơn ai hết”(Mc 12,43).
2. CÂU CHUYỆN:
1) LÀM VIỆC BÁC ÁI ĐỂ TÌM HƯ DANH:
Một bà nọ là thành viên của một hội đoàn đạo đức chuyên đi làm công tác bác ái xã hội. Một hôm, bà nhận được giấy mời đến dự buổi họp mặt bất thường để quyên góp giúp đồng bào bị thiên tai lũ lụt vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Bà dự tính kỳ họp này sẽ tình nguyện đóng góp số tiền một triệu đồng. Nhưng trong buổi họp, khi thấy có nhiều Hội viên khác cũng đóng góp số tiền một triệu ngang bằng với mình, bà muốn tỏ ra quảng đại hơn người, nên khi tới phiên, bà đã ghi vào sổ vàng cứu trợ số tiền hai triệu đồng. Rồi thay vì rút bao thư chứa hai triệu, thì bà lại rút nhầm bao thư trong đó có số tiền hai trăm USD tương đương năm triệu đồng mà bà định mang đi mừng đám cưới con trai của bà bạn thân đã từng giúp đỡ bà rất nhiều vào sau buổi họp mặt hôm đó. Khi phát hiện ra đã đưa lộn phong bì, bà muốn đến bàn thu ngân xin lại số tiền đã góp dư kia, nhưng lại sợ bị mất thể diện trước mặt người khác. Cuối cùng bà đành chịu vậy, nhưng tự trách mình đã bất cẩn không kiểm tra phong bì trước khi nộp cho thủ quỹ. Nhiều ngày sau đó bà vẫn luôn cảm thấy tiếc về số tiền đã lỡ ủng hộ thêm ngoài dự tính kia.
2) GÃ BÁN THỊT VÀ LÃO ĂN MÀY:
Kho tàng cổ tích Ả-rập có câu chuyện vui như sau: Một gã bán thịt nướng kia rất keo kiệt và khó tính. Một hôm một lão ăn mày từ nơi khác đến ngồi ăn xin bên cạnh quán thịt nướng của gã. Lão ăn mày đói bụng nhìn những miếng thịt nướng trên vỉ sắt đang bốc khói, chỉ biết hít thật sâu để đón nhận mùi thịt thơm bay vào mũi và liên tục nuốt nước miếng vì không có tiền mua thịt. Cuối cùng lão nghĩ ra một kế hay: lão ta móc trong bị ra một miếng bánh mì khô mua từ ban sáng, lẳng lặng đến gần lò than hơ miếng bánh trên vỉ thịt, với hy vọng khói thịt bốc lên sẽ ám vào miếng bánh. Sau đó, lão ta vui vẻ ăn hết miếng bánh đã được ám khói. Còn gã bán thịt đang ngồi trong quán thấy vậy liền chạy ra túm lấy áo lão ăn mày đòi trả tiền. Bấy giờ lão ăn mày liền nói: “Lão đâu có lấy thịt nướng nào của anh. Khói thịt bay lên đâu phải là thịt”. Gã bán thịt hét lớn: “Khói từ thịt đang nướng bay ra là thuộc về miếng thịt, nên lão ăn bánh có ám khói thịt bay lên cũng phải trả tiền”. Hai người cự cãi không ai nhường ai. Cuối cùng họ đưa nhau ra toà yêu cầu quan tòa cứu xét. Quan tòa liền truyền cho lão ăn mày lấy ra một đồng tiền cắc ném mạnh xuống nền nhà phát ra một tiếng “keng”. Rồi quan toà phán quyết cho hai người như sau: “Lão ăn mày được quyền hưởng khói bay ra từ miếng thịt, còn anh bán thịt sẽ hưởng tiếng “keng” phát ra từ đồng tiền của lão ăn mày”.
3. THẢO LUẬN: Trong những ngày này mỗi người chúng ta có thể chia sẻ những gì cụ thể trong tầm tay của mình cho những người nghèo đói bất hạnh và bị bỏ rơi để làm vui lòng Chúa?
4. SUY NIỆM:
1) Quảng đại dâng cho Chúa mọi sự thuộc về mình:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã lên ái thái độ giả dối của Pha-ri-sêu và Người đã dạy các môn đệ phải quảng đại cho đi, noi gương một bà góa nghèo đã dâng hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc Rô-ma, là số tiền nhỏ bé bà dùng để nuôi bản thân mình trong ngày một ngày. Bà đã được Đức Giê-su đánh giá cao việc dâng cúng quảng đại này: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó. Còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống” (Mc 12,43b-44).
Câu chuyện cổ tích Ả rập về anh hàng thịt nướng keo kiệt đói xử không tốt đối với kẻ nghèo nói trên cũng vẫn hay xảy ra trong xã hội hôm nay: Nhiều lần chúng ta đã cư xử với người khác cách keo kiệt tương tự. Việt Nam chúng ta có một câu chuyện vui về một ông bố keo kiệt và tham ăn như sau: Một hôm sau một đêm thức trắng đánh dậm bắt được một giỏ mươi con cá, anh ta về ngồi bên bếp than nướng cá để làm mồi nhậu lai rai một mình. Đứa con trai nhỏ 4 tuổi ngửi thấy mùi thơm của cá liền khóc lóc đòi được ăn cá. Bà mẹ liền dỗ dành cậu con yêu: “Con hãy nín đi để mẹ coi xem có con cá nào nhỏ, mẹ sẽ xin bố cho con ăn nhé!”. Ông bố nghe vậy liền đáp: “Cho cái gì? Không có con cá nào nhỏ cả, con nào cũng to bằng nhau hết !”. Cũng vậy, nhiều lần chúng ta thường né tránh để khỏi giúp đỡ tha nhân bằng câu nói: “Hãy đợi đấy! Khi nào làm ăn khá hơn, tôi sẽ chia sẻ giúp đỡ cho anh”. Nhưng sự chờ đợi ấy sẽ kéo dài mòn mỏi không biết phải chờ đến bao giờ. Người ta có thể nêu ra cả ngàn lý do để biện minh cho thái độ vô cảm, thiếu yêu thương, không muốn giúp đỡ tha nhân của mình.
2) Giá trị của một hành động bác ái từ thiện hệ tại chỗ nào ?
Một việc lành của chúng ta chỉ thực sự tốt khi nó được thực hiện với lòng yêu thương. Câu chuyện về người đàn bà ủng hộ đồng bào bị lũ lụt nói trên: Ban đầu bà đã có quyết định tốt khi dự định bỏ thùng ủng hộ một triệu đồng. Nhưng khi thấy nhiều người khác cũng bỏ vào thùng một triệu như vậy, thì bà liền đã tăng số tiền ủng hộ lên gấp đôi để tỏ ra mình quảng đại hơn người khác. Sau đó việc lỡ rút nhầm bao thơ 200 đôla Mỹ tương đương năm triệu đồng bỏ vào thùng là việc ngoài ý muốn của bà, thể hiện qua việc bà tiếc nuối muốn đòi lại số tiền dư ra kia, nhưng rồi cũng do thói sĩ diện hão, cuối cùng bà đành phải chấp nhận số tiền bỏ thùng lớn gấp nhiều lần. Số tiền bà góp này cũng không có giá trị bao nhiêu về thiêng liêng khi ra trước tòa Chúa phán xét sau này vì không phát xuất từ tình yêu tha nhân.
3) Về ba loại người cho và giá trị của ba cách cho:
+ Một là người cho cách bất đắc dĩ: Do muốn tránh bị quấy rầy, nên dù có cho mà trong lòng người cho vẫn thấy bực bội. Loại người này thường phân trần với bạn bè: “Mình ghét hắn ta, nhưng đành phải “thí” cho hắn ít tiền còm cho xong, để hắn mau biến đi khuất mắt!”.
+ Hai là người cho để xong việc bổn phận: Loại người cho này dù đã cho đi mà vẫn không thấy vui. Họ thường nói với bạn bè: “Mình bị rơi vào hoàn cảnh “tiến thoái lưỡng nan” : “Bỏ thì thương mà vương thì tội!” Thôi thì đành giúp đỡ hắn cho xong của nợ ! ”.
+ Ba là cho vì yêu thương: Do tự nguyện cho người nghèo nên trong lòng người cho sẽ cảm thấy vui vẻ. Trường hợp người được cho vì một lý do nào đó không nhận, thì người cho sẽ thấy buồn trong lòng. Loại người cho này thường hay nói với những người đau khổ bất hạnh: “Tôi có thể giúp gì được cho bạn?” hoặc: “Tôi sẵn sàng chia sẻ những khó khăn bạn đang gặp phải”. Cách cho thứ ba do này mới đẹp lòng Chúa và chúng ta cần thực hiện mỗi ngày, để của lễ chúng ta dâng sẽ bay lên trước tôn nhan Thiên Chúa và mang lại hạnh phúc cho chúng ta.
4) Thực tập quảng đại cho đi mọi sự vì yêu thương noi gương Chúa Cha:
Thiên Chúa là Cha chúng ta đã biểu lộ tình yêu quảng đại để nêu gương cho chúng ta:
+ Chúng ta chỉ cần một bông hoa, mà Người lại ban cho cả cánh rừng.
+ Chúng ta chỉ xin vài ngụm nước, mà Người lại ban cả dòng suối.
+ Chúng ta chỉ cần vài hạt cát, mà Người lại cho cả bãi biển rộng dài.
+ Chúng ta chỉ xin ban lương thực hàng ngày, mà Người còn cho cả Thân Mình Bửu Huyết của Người.
Chúa Giê-su phán: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Mỗi ngày chúng ta nên thực hiện một số việc quảng đại như PHĂNG-SÍT BAN-PHUA (Francis Balfour) đã liệt kê một số việc cụ thể người tín hữu chúng ta nên thực hiện như sau:
+ “Món quà đẹp nhất tặng cho kẻ thù ghét ta là lòng khoan dung tha thứ,
+ Quà tặng cho bạn bè là thái độ luôn trung tín và chân thành,
+ Quà cho các em nhỏ là gương sáng bác ái và khiêm nhường phục vụ,
+ Quà tặng cho người cha trong gia đình là thái độ tôn kính vâng lời người dạy,
+ Quà cho bà mẹ là trái tim cháy lửa yêu thương và sẵn sàng chia sẻ các việc nội trợ,
+ Và cuối cùng, quà cho mọi người chung quanh là nụ cười thân thiện kèm theo cái bắt tay thân ái, một lời khen thành thật, cùng thái độ quan tâm lắng nghe và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của họ noi gương Đức Giê-su”.
5. NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Giê-su. Cách đánh giá của Chúa trong Tin Mừng hôm nay khác hẳn cách nhìn nhận sự việc của chúng con. Vì “Loài người thì nhìn mặt, còn Chúa lại nhìn lòng!” (1 Sm 16,7). Chúa khen bà góa nghèo đã bỏ tiền dâng cúng nhiều hơn ai hết. Dù số tiền của bà nhỏ bé, nhưng bà “đã dâng tất cả những gì mình có để nuôi sống mình” do lòng mến Chúa thôi thúc, nên hành động ấy đã được Chúa đánh giá cao hơn người khác: “Bà đã bỏ thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12,43). Về phần chúng con: Nhiều khi chúng con dễ nản lòng không muốn làm việc tốt, khi việc chúng con làm không được mấy người biết đến và khen ngợi… Xin Chúa thanh luyện ý hướng các việc lành của chúng con. Chúng con tin rằng: “Hữu xạ tự nhiên hương” (x. Mt 6,1-4), nếu công việc chúng con làm thực sự tốt thì sớm muộn cũng sẽ được người đời nhận biết và ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa là Cha chúng con (x. Mt 5,14-16).
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. –Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CN 33 TN B – KÍNH TRỌNG THỂ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VN
Dn 12,1-3; Dt 10,11-14.18; Mc 13,24-32.
DŨNG CẢM LÀM CHỨNG CHO CHÚA HÔM NAY
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32-33).
2. CÂU CHUYỆN: CUỘC TỬ ĐẠO CỦA THÁNH AN-RÊ TRẦN AN DŨNG LẠC
TRẦN AN DŨNG LẠC sinh năm 1795, gia đình ngoại giáo nghèo khó ở Bắc Ninh. Lớn lên, cậu theo cha mẹ đến xứ Kẻ Chợ sinh sống. Tại đây, cậu được một Thầy giảng nhận làm con nuôi và cho ăn học. Cậu được chịu phép rửa tội và nhận tên thánh là AN-RÊ. Sau đó cậu đáp lại ơn gọi dâng mình cho Chúa và theo học tại chủng viện Vĩnh Trị. Thầy AN-RÊ Dũng được thụ phong linh mục vào năm 1823 khi mới có 28 tuổi. Từ khi thụ phong linh mục, cha AN-RÊ được sai đi giúp xứ. Ở đâu cha cũng nêu gương sáng đạo đức qua cuộc sống khổ hạnh. Ngoài những ngày ăn chay theo luật định, Cha còn tự nguyện giữ chay thêm suốt cả Mùa Chay và các ngày thứ Sáu thứ Bảy hàng tuần. Nhờ đời sống đơn sơ khiêm hạ và khắc khổ như vậy, nên cha đã gây được thiện cảm của những người chung quanh và thành công trên bước đường tông đồ: Qua cha, nhiều tội nhân đã được ơn giao hòa với Chúa và nhiều người lương đã tin theo Chúa và xin gia nhập đạo Công giáo.
Trong thời gian đạo Công giáo bị bách hại gắt gao thời vua Minh Mạng, cha AN-RÊ Dũng đã phải trốn lánh nhiều nơi. Một lần kia ở Kẻ Roi, khi vừa dâng lễ xong thì bị quan quân vây bắt và được giáo dân chuộc về. Sau đó cha đã đổi tên Trần An Dũng thành Trần An Lạc. Lần thứ hai cha bị bắt ở xứ Kẻ Sông khi đang xưng tội với cha Phêrô Thi. Hai cha bị quan quân đòi tiền chuộc tới 200 quan tiền. Nhưng giáo dân chỉ quyên góp được một nửa số tiền nói trên, nên chỉ mình cha Lạc được thả. Rồi sau đó cha lại bị đám quân lính khác bắt mang về huyện giam chung với cha Phêrô Thi và cả hai được áp giải về Hà Nội.
Hôm sau, quan án cho điệu hai cha ra công đường tra xét và bắt phải bước qua Thánh Giá để bày tỏ ý định bỏ đạo. Nhưng thay vì làm theo lệnh quan, hai cha lại cùng quì xuống hôn kính Thánh Giá và nói: “Không bao giờ chúng tôi chối Chúa và bỏ đạo cả. Chúng tôi đã suốt đời hy sinh vất vả đem Chúa đến cho người khác, thì lẽ nào bây giờ lại hèn nhát chối bỏ Chúa!”. Trước sự bất tuân của hai cha, quan tức giận sai lính đem nhốt các ngài vào ngục thất và làm thành án gửi về Kinh. Suốt thời gian ở trong tù, hai cha luôn cầu nguyện và ăn chay hãm mình, xin Chúa cho được ơn bền đỗ đến cùng. Tuy giáo dân được phép thăm nuôi hằng ngày, nhưng hai cha yêu cầu họ đừng đem đồ ăn ngon đến, và nếu bữa nào có thịt cá thì các ngài lại cho các bạn tù hoặc lính canh.
Ngày 21 tháng 12 năm 1839, hai cha đã chính thức nghe án lệnh xử trảm của nhà vua. Rồi các ngài bị điệu ra pháp trường Cầu Giấy ở Hà Nội. Đến nơi, các ngài cầu nguyện ít phút, rồi cúi đầu cho lý hình dễ dàng thi hành phận sự. Đức Thánh Cha Lêô 13 đã tôn phong các ngài lên hàng Chân Phước tử đạo vào ngày 27 tháng 05 năm 1900. Và ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Thánh Cha Gio-an Phaolô II đã suy tôn hai ngài lên bậc hiển thánh.
3. THẢO LUẬN:
1) Tại sao đạo Công giáo thường hay bị người đời thù ghét bách hại?
2) Tử đạo là sẵn sàng hy sinh chịu chết để làm chứng cho Chúa (x. Cv 1,8). Vậy các tín hữu chúng ta sẽ phải dũng cảm làm chứng cho Chúa thế nào trong xã hội Việt Nam hôm nay ?
4. SUY NIỆM:
1) SỐ LIỆU CÁC ANH HÙNG TỬ ĐẠO VIỆT NAM: Ngay từ thời Giáo Hội Sơ Khai, các tín hữu đã phải chịu chung số phận với Thầy Giê-su là bị cấm cách, bắt bớ và giết hại. Thời nào và nơi nào đạo được truyền tới cũng đều có các vị anh hùng tử đạo. Tại Việt Nam, theo sử liệu, đạo Chúa đã được truyền giảng từ thế kỷ thứ 16. Và suốt thời gian gần 300 năm sau đó, luôn bị đàn áp bách hại với những cảnh đầu rơi máu chảy! Sau Hội Thánh Rô-ma thì có lẽ Hội Thánh Việt Nam đã dâng cho Chúa được nhiều thánh tử đạo hơn cả! Người ta ước tính có tới hằng trăm ngàn người Công giáo đã bị giết hại vì đức tin dưới các triều đại nhà Nguyễn: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và bị các phong trào Cần Vương Văn Thân đàn áp bách hại. Trong số đó, 117 vị đã được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn phong lên bậc hiển thánh và được mừng chung trong niên lịch toàn thể Hội Thánh. Trong số này có: 8 Giám mục, 50 Linh mục, 16 Thầy giảng, 1 Chủng sinh và 42 Giáo dân. Các ngài đã chịu nhiều cực hình như: 79 vị bị trảm quyết (chém đầu): 16 vị bị xử giảo (treo cổ); 8 vị bị chết rũ rù do đói khát bệnh tật khi bị giam trong ngục; 6 vị bị thiêu sinh (chết thiêu trong hỏa lò).
2) LÝ DO CÁC NGÀI BỊ VUA QUAN BÁCH HẠI:
Các thánh Tử Đạo bị vua quan và dân chúng thời đó thù ghét đàn áp giết hại không phải vì các ngài là những kẻ xấu làm điều gian ác, nhưng chỉ vì các ngài đã tin vào danh Đức Giê-su và đã dũng cảm tuyên xưng đức tin ấy, thể hiện qua thái độ bất khuất, không chịu bước qua thập giá theo lệnh vua quan, hầu ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã tiên báo: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thóat” (Mt 10,22).
Đàng khác, vua quan và dân chúng thù ghét và ra tay bách hại các tín hữu là do hiểu lầm về giáo lý của đạo khi cho rằng theo đạo là vọng ngọai, là bất hiếu vì phải bỏ việc thờ cúng ông bà tổ tiên, đang khi thực ra không phải như vậy: điều răn thứ tư trong mười điều răn của đạo Chúa đã truyền dạy: con cái phải “thảo kính cha mẹ” và người tín hữu vừa phải chu tòan bổn phận thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất lại vừa phải tôn kính và tưởng nhớ cầu nguyện và tỏ lòng biết ơn ông bà cha mẹ khi các ngài còn sống cũng như khi đã qua đời.
Nhưng lý do chính yếu khiến vua quan và các phong trào Cần Vương Văn Thân thời đó thù ghét bách hại các tín hữu là do tự ái dân tộc và hiểu lầm về lòng yêu nước của các tín hữu: Họ sợ người theo đạo sẽ bị các thừa sai ngọai quốc xúi giục làm lọan, trong khi các vị thừa sai ngọai quốc đã dám bỏ quê hương và từ giã người thân đến vùng đất xa xôi và chấp nhận hy sinh ngay cả mạng sống là do đức tin và lòng mến Chúa thôi thúc. Các ngài chỉ muốn chu tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng của Đức Giê-su: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28,19-20); “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b). Và quả thật, lịch sử đã ghi nhận: các thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị vua quan kết án chỉ vì đức tin mà thôi chứ không do tội phản lọan theo giặc làm loạn chống phá triều đình.
3) CHỨNG NHÂN GIỮA ĐỜI THƯỜNG:
– Bí quyết khiến các anh hùng Tử Đạo vượt qua gian nan thử thách là do các ngài biết “sống sự sống của Chúa Giê-su trong thân xác yếu hèn của mình”. Đức Giê-su đã hứa sẽ ban Thánh Thần giúp các môn đệ phải nói gì và nói thế nào khi bị điệu ra trước quan quyền (x Mt 10,19-20). Để được như vậy, các ngải đã phải mỗi ngày “chết đi cho bản thân”, và sống trong ơn nghĩa của Đức Giê-su.
– Ngày nay có lẽ chúng ta không có cơ hội làm chứng cho Chúa như các thánh Tử Đạo cha ông, nhưng chúng ta vẫn có thể trở thành chứng nhân của Chúa ngay giữa cuộc sống đời thường hằng ngày trong gia đình và ngoài xã hội:
+ Để có thể sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đức tin khi cần, ngay từ bây giờ chúng ta đã phải quyết tâm sống đức công bình bác ái trong các giao tiếp với hàng xóm và làm ăn buôn bán nơi phố chợ.
+ Để có thể dũng cảm làm chứng cho Chúa trước mặt người đời khi có dịp, ngay từ bây giờ chúng ta đã phải là những người chồng người vợ tốt lành, luôn chu tòan trách nhiệm lo cho gia đình, là những người con cháu có lòng hiếu thảo đối với các bậc tiền nhân ông bà;
+ Để sau này có thể trở thành công dân của Nước Trời, thì ngay từ bây giờ chúng ta đã phải là những người công dân tốt, sẵn sàng chu tòan nghĩa vụ đối với quê hương và trở thành khí cụ bình an của Chúa bằng cách sống theo tinh thần của Kinh Hòa Bình… Nhờ đó chúng ta sẽ gây được thiện cảm đối với đồng bào lương dân cùng khu xóm với chúng ta.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa, xưa Chúa đã dạy các môn đệ rằng: “Anh em sống giữa thế gian, nhưng không được theo thói thế gian”. Xin cho chúng con đừng bao giờ bỏ Chúa để chạy theo cám dỗ của thế gian, ma quỉ và chiều theo các đam mê xác thịt. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: “Con nhà tông không giống lông, cũng giống cánh”, để chúng con luôn xứng đáng là con cháu của các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam. Xin cho chúng con luôn chiếu ánh sáng tin yêu trước mặt người đời: Biết nở nụ cười khi tiếp xúc, sẵn sàng cởi mở đi bước trước để làm quen với những người mới gặp, mở miệng an ủi những ai đang gặp tai nạn rủi ro; biết khiêm hạ phục vụ tha nhân, đặc biệt phục vụ những người đau khổ bất hạnh đang cần được cảm thông trợ giúp.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CN 34 TN B- LỄ CHÚA KI-TÔ VUA VŨ TRỤ
Đn 7,13-14 ; Kh 1,5-8 ; Ga 18,33b-37
ĐỂ NÊN THÀNH VIÊN TRONG VƯƠNG QUỐC CỦA VUA GIÊ-SU
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 18,33-37
(33) Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người: “Ông có phải là Vua dân Do thái không?” (34) Đức Giê-su đáp: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về Tôi?”. (35) Ông Phi-la-tô trả lời: “Tôi là người Do thái sao? Chính dân của ông và các thương tế đã nộp ông cho tôi. ông đã làm gì?” (36) Đức Giê-su trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho dân Do thái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này”. (37) Ông Phi-la-tô liền hỏi: “Vậy ông là Vua sao?” Đức Giê-su đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là Vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: Đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
2. Ý CHÍNH: Trước tòa án của quan Tổng Trấn Phi-la-tô, Đức Giê-su đã cho ông biết về Vương Quốc của Người. Vương Quốc ấy thiêng liêng và không thuộc về thế gian, không có quân đội và không biên giới. Đức Giê-su cũng khẳng định Người là Vua, nhưng là vị Vua Thiên Sai, đến để làm chứng cho sự thật. Thần dân của Người là những ai sẵn sàng tin theo sự thật của Người.
3. CHÚ THÍCH:
– C 33-34: + Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su: Đức Giê-su đã bị dân quân Đền thờ bắt tại vườn Cây Dầu vào đêm thứ Năm sau bữa tiệc ly Vượt Qua mừng trước. Sau khi bị bắt Đức Giê-su đã bị tòa án tôn giáo xét xử và bị thương tế Cai-pha kết án tử hình(x Ga 18,19-24). Tuy nhiên vì các đầu mục Do thái đã bị người Rô-ma truất quyền kết án tử hình (x. Ga 18,31), nên sáng hôm sau, họ đã giải Đức Giê-su đến dinh quan Phi-la-tô để yêu cầu ông này kết án tử hình cho Đức Giê-su. Họ đứng ngòai sân chứ không vào trong nhà để tránh bị ô uế theo Luật, mà ai vi phạm sẽ không được ăn mừng lễ Vượt Qua (x Ga 18,28b). Quan Phi-la-tô đã phải ra ngòai hành lang để gặp họ. Sau khi biết rõ ý họ muốn, Phi-la-tô đã vào trong phòng và thẩm vấn Đức Giê-su + “Ông có phải là Vua dân Do thái không?”: Người Do thái đã tố cáo gian cho Đức Giê-su tội phạm chính trị là xưng mình là Vua dân Do thái, để yêu cầu quan Phi-la-tô qui tội phản loạn và kết án tử hình cho Người. Do đó Phi-la-tô đã tra vấn Người về việc này. + “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”: Đức Giê-su không trực tiếp trả lời câu hỏi của Phi-la-tô, nhưng Người gợi ý để ông tự xét lời tố cáo đó có cơ sở không hay chỉ là sự vu cáo bịa đặt?
– C 35: + Tôi là người Do thái sao?: Phi-la-tô cho biết ông không quan tâm đến những vấn đề tôn giáo, vì ông không phải là người Do thái! + Chính dân của ông và các thương tế đã nộp ông cho tôi. ông đã làm gì?: Phi-la-tô cho biết dân chúng và các đầu mục Do thái đã tố cáo như thế để yêu cầu ông xét xử. Ông hỏi Đức Giê-su đã làm gì đến nỗi bị họ tố cáo như vậy?
– C 36: + “Nước tôi không thuộc về thế gian này”: Đức Giê-su không chối điều họ tố cáo, nhưng Người xác định mình không phải là một ông vua trần tục. Vì Nước của Người không thuộc về thế gian này. + “Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho dân Do thái”: Lời này cho thấy sự khác biệt giữa vương quốc thế gian và Vương Quốc của Thiên Chúa. Khác về tinh thần cai trị (x. Mt 20,24-28), về hiến pháp (x. Mt 5,1-12), về điều kiện gia nhập (x. Mt 7,21), về sự vững bền (x. Mt 25,46), về tương quan giữa vua với dân (x Ga 13,12-15).
– C 37: + “Vậy ông là vua ư?”: Đặt câu hỏi này, Phi-la-tô chỉ tò mò muốn biết thêm về chức vị vua thiêng liêng trong Nước Trời của Đức Giê-su, chứ ông không nghĩ Người là một ông vua thế tục. Phi-la-tô biết rõ Đức Giê-su không làm loạn, vì Người không có quân đội để tự vệ khi bị người Do thái vây bắt. + “Chính ngài nói: tôi là vua”: Đức Giê-su xác nhận Người là Vua. nhưng là Vua Tình Yêu, Vua Mục Tử: Người hiểu biết từng con chiên (x. Ga 10,14), nuôi dưỡng đàn chiên (x. Ga 10,3), đi tìm chiên lạc (x. Ga 10,16), bảo vệ đàn chiên và sẵn sàng hy sinh tính mạng cho đàn chiên (x. Ga 10,11.15). Tóm lại, Người đến “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10,10). + “Tôi đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật”: Sứ mệnh của Đức Giê-su là đến để làm chứng cho sự thật. ** làm chứng theo tiếng Hy Lạp nghĩa là tử đạo. Đức Giê-su làm chứng cho sự thật bằng việc đổ máu ra vì yêu nhân loại đến cùng ** Sự thật không có nghĩa là không gian dối, nhưng chính là Tin Mừng Nước Trời mà Người loan báo. Sự Thật ấy cũng là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa, đã được biểu lộ qua cuộc đời, lời rao giảng và nhất là trong biến cố Tử nạn và Phục sinh của Đức Giê-su. + Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”: Đức Giê-su đến không những để cứu độ dân Do thái là dân được Thiên Chúa ưu tuyển, mà Người còn đến cứu mọi dân nước tin vào Tin Mừng của Người và gia nhập vào Nước Trời là Hội Thánh hôm nay và cũng là Thiên Đàng mai sau.
4. CÂU HỎI:
1)Tại sao các đầu mục Do Thái giải Đức Giê-su đến tòa án của quan Phi-la-tô?
2) Tại sao người Do thái không vào trong nhà, khiến quan Phi-la-tô phải ra ngòai hành lang để tiếp họ ở dưới sân?
3) Đức Giê-su cho Phi-la-tô biết Nước Trời do Người thiết lập có những đặc tính nào khác với nước thế gian?
4) Khi hỏi Đức Giê-su: “Ông là Vua ư?”, Phi-la-tô có tin những lời các đầu mục Do thái tố cáo Đức Giê-su không?
5) Đức Giê-su nhận mình là Vua nhưng chức vị này có những phẩm chất nào?
6) Đức Giê-su đến để “Làm chứng cho Sự Thật” là sự thật nào và làm chứng bằng cách nào?
7) Ngòai dân Do thái ra, Đức Giê-su còn đến cứu độ những ai?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Tôi là Vua” (Ga 18,37):
2. CÂU CHUYỆN:
1) THẺ CĂN CƯỚC TRONG VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU CỦA VUA GIÊ-SU:
Ngày 11/11/1951 trong một bài diễn từ, Đức Thánh Cha Pi-ô 12 đã kể lại một giai thoại. Có một phụ nữ kia rất đạo đức, nhưng sức khỏe quá yếu ớt. Cô ta bị chứng sưng màng phổi và rất khó thở. Lâu lâu căn bệnh tái phát làm cô rất đau đớn. Nhưng cuối cùng cô cũng lập gia đình, mang thai và chờ ngày sinh nở. Bất hạnh bất ngờ ập đến. Căn bệnh năm xưa tái phát trầm trọng. Các bác sĩ đề nghị phải hủy bỏ bào thai để cứu tính mạng cho bà mẹ. Người chồng cũng đồng ý như thế. Cô đã cầu nguyện trong nhiều ngày và kiên quyết từ chối lời đề nghị của bác sĩ. Cô nói trong nước mắt: “ Tôi không thể giết con của tôi. Con tôi phải sống, cho dù tính mạng tôi có ra sao đi nữa”. Cô ta chấp nhận tình huống xấu nhất có thể xảy ra và phó thác hoàn toàn cho Chúa quan phòng. Cuối cùng cô đã sinh được một bé gái kháu khỉnh, nhưng sau đó sức khỏe của cô ngày càng suy kiệt. Hai tháng sau, người phụ nữ đã tắt thở, trên tay vẫn ôm chặt lấy đứa con cô đã hết lòng thương mến.
Hơn hai mươi năm trôi qua, người ta thấy một nữ tu trẻ rất xinh đẹp đang ân cần chăm sóc cho các cháu bé mô côi trong một trại tế bần. Vòng tay thân thương và cặp mắt long lanh của vị nữ tu sáng rực lên nét yêu thương mà chị đã được truyền thụ lại từ chính người mẹ của mình. Đó là người mẹ trẻ năm xưa đã chấp nhận hy sinh tính mạng để cho con bà được sống. Người mẹ can đảm này đã được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 tôn phong lên bậc Chân Phước, bởi vì bà đã thực sự đi vào Vương quốc tình yêu tiếp bước theo chân Đức Giê-su. Chính Đức Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô 2 đã nói: “ Một đất nước nào, một chế độ nào cho phép con người sát hại lẫn nhau, thì đất nước đó, chế độ đó đang đi tới hủy diệt”. Đó là một đất nước đi ngược lại hiến pháp của Vương quốc Giê-su. Sống trong Vương quốc này, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta phải sống với một nền văn minh mới, đó là ‘nền văn minh của tình thương’. Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta cũng đã từng nói: “ Một người mẹ nhẫn tâm giết chết con của mình, thì không còn một thứ tội ác nào mà họ không dám làm”. Biết bao tội ác nhan nhản đang xảy ra trong xã hội hôm nay vì người ta đang dần đánh mất đi thẻ ID (identity card) là thẻ chứng minh mình là công dân Nước Trời.
2) ĐỨC GIÊ-SU LÀ VUA TRÊN HẾT CÁC VUA, LÀ CHÚA TRÊN HẾT CÁC CHÚA:
Lịch sử nước Anh có câu chuyện về một ông vua có lòng khiêm nhường và đạo đức tên là KÊ-NẮT Đệ Tam (CANUT III). Là vua của một cường quốc, nên chung quanh ông ta lúc nào cũng có những nịnh thần nói lời ca tụng, tâng bốc. Một hôm, trong một buổi triều yết, các nịnh thần đã nịnh hót nhà vua như sau: “Muôn tâu thánh thượng! Thánh thượng là vua trên hết các vua, là chúa trên hết các chúa”.-“Thánh thượng có toàn quyền cả trong đất liền cũng như ngòai biển cả bao la!”
Nghe vậy, nhà vua muốn dạy cho quần thần một bài học, nên đã mời tất cả quan chức triều đình cùng đi du lịch đến một bãi biển dành riêng cho hoàng gia. Khi mọi người đều theo sau nhà vua xuống bãi tắm đang có các cơn sóng vỗ rì rào, nhà vua liền tuyên bố: “Hỡi biển cả kia. Nhiều người nói ta là vua trên hết các vua, là chúa trên hết các chúa, có quyền trên đất liền và trên biển khơi. Vậy hỡi biển cả hãy nghe đây: Ta truyền cho sóng biển không được tràn tới nữa!”. Nhưng dù nhà vua đã ra lệnh, mà nước biển vẫn cứ từng đợt thi nhau đổ tới tấp lên bãi cát làm ướt cả áo cẩm bào của nhà vua cùng quần áo quan chức triều đình! Sau đó nhà vua dẫn quần thần đến một nhà nguyện gần đó. Vua quì gối trước tượng Thánh giá Chúa Giê-su, lấy ra chiếc vương miện bằng vàng đội lên đầu Chúa và cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Giê-su. Chỉ có Chúa mới là “Vua trên hết các vua”, là “Chúa trên hết các chúa”. Chỉ có Chúa mới “có quyền trên cả đất liền cũng như biển khơi” Con xin ngợi khen Chúa. AL-LÊ-LU-IA!”.
3. THẢO LUẬN:
1) Mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì để Chúa Giê-su làm Vua gia đình mình?
2) Cần làm gì để có thẻ căn cước trong Vương Quốc của Vua Giê-su?
4. SUY NIỆM:
Ngày nay quân chủ hầu như đã trở nên xa lạ đối với nhân loại. Trên thế giới hiện nay chỉ còn một ít nước Âu Á như: Anh quốc, Tây Ban Nha, Bỉ, Hòa Lan, Thụy Điển, Nhật Bản, Thái Lan, Cam-pu-chia… vẫn duy trì chiếc ghế của vua chúa hay nữ hoàng, nhưng chỉ mang tính tượng trưng theo truyền thống chứ không có thực quyền. Thay vào đó, chế đọ dân chủ đã được hầu hết các quốc gia áp dụng. Con người càng văn minh lại càng muốn sống bình đẳng và không muốn kẻ khác đè đầu đè cổ mình. Như vậy Hội Thánh mừng lễ Chúa Ki-tô làm Vua liệu có gây ra dị ứng nơi tâm thức của con người ngày nay, đặc biệt nơi giới trẻ hay không? Đức Giê-su có thực sự là Vua không và ta phải làm gì để được vào Nước Trời của Vua Giê-su?
1) Đức Giê-su thực sự là Vua Mục Tử:
Qua bài Tin mừng hôm nay, Phi-la-tô đã đặt ra nhiều câu hỏi về điều mà các người đầu mục Do thái tố cáo: “Ông có phải là Vua dân Do thái không?”. Người đã trả lời ông ta: “ Chính ông nói tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về sự thật thì nghe tiếng tôi”. Qua đó, Đức Giê-su đã khẳng định Người chính là Vua, và đến thế gian để thiết lập một Vương quốc sự thật. Phi-la-tô không hiểu nên hỏi lại: “Sự thật là gì?” . Sở dĩ ông không hiểu sự thật của Chúa vì ông không phải là thần dân của vương quốc Sự Thật mà Người thiết lập (x. Ga 18, 33-38).
2) Vương quốc của Đức Giê-su là “Vương quốc Sự thật”:
Tin mừng Gio-an, Chúa Giê-su đã nói khá nhiều về Vương quốc Sự Thật mà chính Người sẽ khai mở. Khi nói chuyện với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp, Đức Giê-su đã vén mở một phần về Vương quốc sự thật ấy: “ Thiên Chúa là Thần khí và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần khí và sự thật” (Ga 4, 24). Cũng vậy trong bữa tiệc ly để giã từ các môn đệ, Đức Giê-su đã khẳng định: “ Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6). Người đến để chúng ta là thần dân của Người “được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Người cũng cho Phi-la-tô biết về nước Trời của Người: “Nước tôi không thuộc thế gian này”(c 36). Tuy nhiên, chính Phi-la-tô sau đó đã cho treo một tấm bảng gắn trên đầu cây Thập giá với hàng chữ: “Giê-su Na-gia-rét, vua dân Do thái”. Qua đó ông đã chính thức công bố sự thật này là: Đức Giê-su là Vua của dân Do Thái và là Vua của toàn thể Vũ trụ.
3) Điều kiện để được vào Nước Trời là sống giới răn yêu thương cụ thể:
Vua Giê-su đã đảo lộn mọi bậc thang giá trị của con người khi cho biết trong Nước Trời: “Ai muốn làm lớn nhất thì phải trở nên người bé nhất” noi gương Người, Đấng “đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban sự sống cho nhiều người” (Mc 10,45).
Vương quốc mà Chúa Giê-su thiết lập là Vương quốc của tình yêu, và chỉ những ai sống tình yêu thương mới đủ điều kiện gia nhập vào Nước ấy như Người sẽ nói với người lành trong ngày phán xét: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm” (Mt 25,34-36). “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giê-su đã cho biết tình yêu đích thực là thái độ sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình: “Không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15, 13). Tình yêu của Chúa còn là khiêm hạ phục vụ tha nhân, noi gương Đức Giê-su đã quì xuống rửa chân cho môn đồ. Sau đó Người dạy họ: “ Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14). Đức Giê-su cũng đề ra Hiến Pháp của Nước Trời là Bản Hiến chương Nước Trời hay Tám Mối Phúc Thật, trong đó, Người đòi hỏi điều kiện để được gia nhập Nước Trời như sau: Phải sống khiêm hạ và đơn giản, ứng xử hiền lành, chịu đau khổ bệnh tật, ước ao nên trọn lành, có lòng thương xót người khác, có tâm hồn thanh sạch, luôn ăn ở thuận hòa với tha nhân, sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin…
4) Sứ vụ làm chứng cho Sự Thật và sống yêu thương phục vụ tha nhân:
Ki-tô hữu là những người chọn bước theo chân Đức Giê-su Ki-tô, đi trên con đường của Ngài, là con đường sự thật. Vậy chúng ta phải làm gì để làm chứng cho sự thật, nhất là trong bối cảnh hôm nay, khi sự giả dối ngày càng chiếm ưu thế. Trước hết, phải sống đúng sự thật, theo sự mách bảo của Chúa Thánh Thần qua tiếng lương tâm. Vì có lẽ chưa bao giờ sự tha hóa trong cung cách làm ăn buôn bán của người Việt nam chúng ta lại bị xuống cấp như hôm nay. Chưa bao giờ vì mưu sinh, muốn làm giàu mau lẹ mà người ta đã dùng mọi thủ đoạn, bỏ qua lòng đạo đức, tiếng lương tâm, để buôn bán hàng gian hàng giả gây nguy hại cho sức khỏe của đồng bào của mình: Ra đường thì dễ bị cán phải đinh do “đinh tặc” rải có thể bị té ngã chết người, dắt xe đi vá thì bị “chặt” với giá “cắt cổ”. Khi đổ xăng thì không chỉ bị gian lận số lượng mà còn gặp phải nạn xăng dổm gây cháy xe. Ra chợ thì mua phải thực phẩm pha chế các thuốc có thể gây ung thư; không ít quán ăn làm ra thực phẩm thiếu vệ sinh để bán cho thực khách, nhiều người chết vì uống nhầm rượu dỏm hay áo ngực của phụ nữ nhập từ Trung Quốc có chứa chất độc nguy hại gây ung thư da cho người tiêu dùng…
Ngoài ra chúng ta phải biết dùng lời nói chân thật, khiêm tốn và khoan dung nhân hậu để đem lại sự an vui thuận hòa, để yêu thương và tha thứ, để bênh vực và che chở, để quan tâm nâng đỡ và khích lệ, đồng thời sẵn sàng để cho người khác trổi vượt hơn mình thì tâm hồn chúng ta mới thực sự nên cao đẹp và an bình. Hãy năng đọc hay hát bài Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô, rồi quyết tâm thực hành để nên chứng nhân hữu hiệu cho Chúa hôm nay.
5. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU: Xin giúp chúng con biết noi gương Chúa là Vua của sự thật. Xin cho chúng con biết yêu sự thật và nói thật để mưu ích cho tha nhân, (nhưng không phải mọi sự thật đều nên nói ra). Xin cho chúng con tránh những lời dối trá lừa đảo. Trong giao tiếp xã hội, xin cho chúng con tránh thái độ đạo đức giả của các người Pha-ri-sêu và kinh sư đã bị Chúa nặng lời quở trách (x. Mt 23,13-36). Trong quan hệ làm ăn buôn bán, xin giúp chúng con biết buôn ngay bán thật, không nói rước nói thách, không làm hàng gian hàng giả, không cư xử bất công lường gạt người nhẹ dạ dễ tin. Xin Chúa giúp chúng con luôn trung thực trong lời nói việc làm, để xứng đáng là công dân trong Nước Trời của Vua Giê-su, Đấng “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Xin cho chúng con trở thành khí cụ bình an của Chúa để đưa nhiều người về làm con Chúa trong đại gia đình Hội Thánh.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM
V. TƯ LIỆU HUẤN LUYỆN HUYNH TRƯỞNG HHTM TH 11/2021
HỘI VIÊN HHTM NÊN THÁNH THEO LINH ĐẠO HHTM
1. LỜI CHÚA: “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” (Mt 5,20) – Hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình (Mt 5,24).
2. CÂU CHUYỆN: THẾ NÀO LÀ MỘT NGƯỜI THÁNH THIỆN THỰC SỰ:
Tại một viện bài phung giữa rừng già miền Amazone, có một người đàn bà mới nhìn qua ai cũng thấy rất tội nghiệp đáng thương. Từ nhiều năm qua, vì bị phong cùi, bà bị chồng con bỏ rơi, bà sống đơn độc trong một túp lều gỗ, mặt mũi đã bị đục khoét đến độ không còn hình tượng con người nữa.
Mang đến cho bà vài món quà, chân phước Marchello hỏi bà rằng:
– Bà làm gì trong suốt một ngày dài? Có ai đến thăm bà không?
Người đàn bà trả lời:
– Tôi sống một mình. Tôi không còn làm được gì nữa: tay chân bại liệt, mắt lại không thể nhìn thấy gì nữa.
Marchello tỏ ra cảm thông trước nỗi bất hạnh của bà, ngài hỏi:
– Vậy chắc bà thấy cô đơn buồn chán lắm phải không?
Người đàn bà liền nói:
– Thưa ngài, không. Tôi cô độc thì có, nhưng tôi không hề cảm thấy buồn hoặc bị bỏ rơi, bởi vì tôi cầu nguyện suốt ngày và tôi cảm thấy có Chúa luôn ở bên và ở trong tôi.
Ngạc nhiên về lòng tin của người đàn bà, chân phước Marchello hỏi tiếp:
– Thế bà cầu nguyện cho ai?
Người đàn bà như mở to đôi mắt mù lòa, bà nói:
– Tôi cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ. Tôi cầu nguyện cho những người bệnh phong cùi bị bỏ rơi, cho các trẻ mồ côi, cho hết những ai đã ủng hộ tiền cho trung tâm bài phung này.
Chân phước Marchello ngắt lời bà:
– Thế bà không cầu nguyện cho bản thân của bà hay sao?
Với một nụ cười rạng rỡ trên môi, người đàn bà quả quyết:
– Tôi chỉ cầu nguyện cho những người khác mà thôi, bởi vì khi người khác được hạnh phúc, thì chính tôi cũng sẽ hạnh phúc.
3. SUY NIỆM:
1) LỐI SỐNG THÁNH THIỆN CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊ-SU:
Lối sống của người đàn bà phong cùi trong câu chuyện trên cho thấy thế nào là sự thánh thiện đích thực. Người thánh thiện thực sự là gười có đức tin, nhìn thấy Chúa đang bị khinh dể và bị bỏ rơi nơi những người nghèo khổ, bệnh tật, đói rách, để luôn sống vì và sống cho người khác, lấy hạnh phúc của người khác làm hạnh phúc của mình.
Ðể có được thái độ vị tha như thế, đòi hội viên chúng ta phải có đức tin sâu xa, nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong tha nhân để yêu thương và phục vụ họ như phục vụ Chúa Giê-su. Như vậy, có thể nói: thánh thiện đồng nghĩa với bác ái, sống tình mến Chúa yêu người. Sự đạo đức thánh thiện mà thiếu bác ái chỉ là sự giả hình và trở thành phản chứng trước mặt người đời.
2) CÁC TÍN HỮU CÓ BỔN PHẬN PHẢI NÊN THÁNH:
– Ngày nay một số tín hữu ở các nước Âu Mỹ đã bị tác động khi đối diện với các gương mù một số giáo sĩ và mục tử cao cấp trong Hội Thánh, bị báo chí phanh phui bêu riếu về các tội lỗi mấy chục năm trước, bị bọn người tham lam muốn làm tiền hoặc bọn tay sai ma quỷ đang thù ghét và tìm mọi cách chống phá Hội Thánh. Các tín hữu chúng ta cần cầu nguyện nhiều hơn nữa cho các vị chủ chăn.
– Hãy ý thức rằng: ngoài Đức Giê-su là Đấng thánh thiện tuyệt đối ra, còn mọi người đều tội lỗi “nhân vô thập toàn”. Ngay trong hàng ngũ các tông đồ của Đức Giê-su cũng có quá khứ không tốt: Mat-thê-ô đã từng làm nghề thu thuế tội lỗi trước khi theo Chúa, nhưng khi gặp Chúa đã dần trở nên tông đồ hăng say phục vụ Nước Trời và viết sách Tin Mừng; Ma-ri-a Ma-đa-le-na đã từng làm nghề gái đứng đường, nhưng đã nên thánh khi đi theo làm môn đệ Chúa; Phê-rô đã từng bị Thầy mắng là Xa-tan, từng phạm tội hèn nhát chối Thầy ba lần, nhưng đã được Chúa tha thứ và trao quyền chăn dắt đàn chiên Hội Thánh nhờ có lòng yêu mến Chúa. Gia-cô-bê và Gio-an đã từng phạm tội nóng tính muốn hủy diệt làng Sa-ma-ri không đón tiếp thầy trò. Các tông đồ nói chung đều có các thói hư như: tranh nhau vị trí cao hơn khi Thầy lên làm vua. Nhưng về sau các ngài đã nhờ ơn Thánh Thần tác động thánh hóa nên đạo đức thánh thiện thực sự…
– Ngày nay chúng ta cũng không dựa vào một vài lỗi lầm quá khứ của một số vị chủ chăn để vào hùa với bọn truyền thông xấu xa gian ác, tay sai của ma quỷ để kết án các ngài, giống như chúng ta không thể dựa vào các tội lỗi khuyết điểm của các tông đồ để phê phán Hội Thánh.
– Điều quan trọng phải làm là mỗi người “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15); Vâng lời Chúa Giê-su như Mẹ Ma-ri-a dạy: “Người bảo gì thì hãy làm theo” (Ga 2, 5); Hội Viên HHTM hãy noi gương các tín hữu thời sơ khai: “Chuyên cần nghe giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng… Họ Đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42.46-47).
3) HỘI VIÊN NÊN THÁNH NHỜ LINH ĐẠO HHTM:
Để thánh hóa bản thân, Hội viên cần chu toàn việc bổn phận đạo đức hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, hàng năm theo Luật Sống HHTM như sau:
– HÀNG NGÀY: Hội Viên phải sống đức Tin Cậy Mến theo gương Chúa làm và lời Chúa dạy noi gương Thánh Mẫu Maria. Cần tập thành thói quen dâng ngày mỗi sáng khi vừa thức dậy, làm Giờ Kinh Tối Gia Đình và xét mình sám hối trước khi đi ngủ, năng dự lễ và rước lễ hằng ngày, mỗi ngày làm ít nhất một việc bác ái kèm theo một chục kinh Mân Côi để kết hiệp cùng Mẹ nên giống Chúa Giêsu, hầu làm “sáng danh Thiên Chúa và góp phần cứu rỗi nhân lọai”. Hiến Sinh TM mỗi ngày sẽ đọc kinh Hòa Bình để nhắc nhở sứ mệnh làm chứng cho Chúa.
– HÀNG TUẦN: Hội Viên tham dự buổi sinh hoạt Hiệp Sống Tin Mừng hay đọc kinh luân phiên theo từng Gia Đình Sống Đời Kitô HHTM, làm công tác quét dọn Nhà Chúa, thi hành công tác bác ái thăm viếng theo sự phân công của cấp trên.
– HÀNG THÁNG: Tham dự các sinh hoạt đạo đức của Hiệp Hội như dự Giờ Thánh “Cùng Mẹ Thờ Chúa”, Cùng Mẹ dự lễ và rước lễ trong thánh lễ của HHTM đầu tháng để cầu nguyện cho nhau.
– HÀNG NĂM: Chuẩn bị mừng Đại lễ Truyền Tin là ngày Quốc Tế Các Cộng Đòan Sống Đời Kitô (25/03), tham dự các buổi tĩnh huấn để chuẩn bị mừng lễ Bổn Mạng Xứ Đòan; Đóng góp quỹ để thực hiện các công tác bác ái truyền giáo, truyền thông phát triển HHTM v.v… Khuyến khích tham dự các khóa tĩnh huấn linh thao theo phương pháp của thánh I-nha-xi-ô.
4. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giêsu. Xin thánh hóa con, biến đổi con ngày một nên giống Chúa. Xin cho con biết ứng xử “hiền hòa và khiêm tốn” với tha nhân với một trái tim từ bi nhân hậu. Xin giúp chúng con ý thức rằng: Chúa muốn chúng con sống tình “mến Chúa yêu người” hơn là chỉ làm các việc đạo đức thường ngày theo thói quen. Xin giúp chúng con nên thánh bằng việc chuyên cần học sống Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn xin vâng noi gương Chúa như Mẹ Ma-ri-a.- Amen.
LM ĐAN VINH – HHTM
VI. THƯ GIÃN THÁNG 11/2021
1.- BÉ TÊN GÌ ?
Trong lúc bố mẹ đang cãi lộn nhau, bé Tân 4 tuổi chạy lại hỏi bố: ”Bố ơi, con tên là gì vậy ?” Ong đang giận liền buột miệng chửi: ”Con mẹ mày !” Thằng bé liện chạy đến với mẹ hỏi tiếp: ”Mẹ ơi, con tên là gì ?” Bà mẹ đang bực mình liền la to: ”Thằng cha mày !”. Bé Tân lại đến hỏi chị. Cô chị em đang nghe nhạc nước ngoài bằng máy nghe, liền nói với bé bằng giọng ca :”OK, OK, Yes !” Bé Tân đến gần hỏi anh bé lúc đó đang dán mắt vào màn hình xem trận đá banh: ”Anh hai, em tên gì ?” Thằng anh liền trả lời ngay: ”Đe-vít Béc-kham !”.
Hôm sau khi bé đến trường mầm non, cô giáo hỏi em: ”Bé tên là gì ?”, nó liền trả lời giống ba nó hôm trước: ”Con mẹ mày !”.
Cô giáo đỏ mặt lên hỏi tiếp: ”Bé vừa nói gì đó ? Nói lại cho cô nghe”. Nó liền la hét giống mẹ hôm qua: ”Thằng bố mày !”
Cô giáo tức giận nói: ”Cô sẽ đuổi không nhận bé vào lớp học của cô đó nghe”. Nó liền nói theo giọng vui vẻ của cô chị : ”OK, OK, Yes !”.
Cô giáo nói với bé: ”Bé nghĩ bé là con ai mà dám nói hỗn với cô như thế ?” Bé Tân liền trả lời giống như anh nó: ”Đe-vít Béc-Kham !”.
2. BẮT ĐƯỢC RẤT NHIỀU TÙ BINH
Tại một cửa hàng bán thuốc trừ sâu, khi trao gói thuốc trừ gián cho khách hàng, ông chủ tiệm nói với đầy vẻ tự tin như sau :”Khi ông xịt thuốc này vào phòng của ông, chắc chắc lũ gián nhà ông sẽ sang chiến đấu với gián nhà hàng xóm”.
Mấy hôm sau khi thấy vị khách kia quay trở lại, chủ tiệm đon đả chạy ra vồn vã hòi thăm: ”Sao ? Thuốc tôi bán cho ông hôm trước phát huy tác dụng tốt chứ ?”
Ông khách liền trả lời: ”Vâng, lũ gián nhà tôi đã sang chiến đấu rất hăng và đã bắt được về nhà tôi không biết bao nhiêu là tù binh”.
3.-ĂN NÓI HỚ HÊNH
Một huấn luyện viên bơi lội tính tình vui vẻ hài hước, một hôm đang đi mua sắm trong một cửa hàng bách hóa nổi tiếng, thì gặp một cô học trò cũng đi mua sắm. Cô nhận ra ông thầy dạy bơi lội của mình và vui vẻ chào hỏi. Huấn luyện viên lấy làm bối rối vì không nhận ra cô này là ai mà lại chào hỏi mình vui vẻ như vậy. Sau mấy giây, ông chợt nhận ra gương mặt quen thuộc của cô học trò mà ông đã từng dạy học bơi lội cách đây vài tháng. Ông cúi đầu đáp lễ và nói: ”Ồ ! Thì ra là cô ! Xin lỗi cô nhé. Hôm nay cô mặc quần áo nên lúc đầu tôi đã không nhận ra cô ngay !”
SƯU TẦM
VII. NHỎ TO HỮU ÍCH THÁNG 11/2021
THÍCH ỨNG THẾ NÀO ĐỂ KIỂM SOÁT ĐẠI DỊCH COVID-19 ?
COVID-19 là một bệnh truyền nhiễm gây viêm đường hô hấp cấp tính với tác nhân là virus SARS- CoV-2. Triệu chứng của COVID-19 chủ yếu là sốt, ho và khó thở: diễn biến từ nhẹ như một cảm cúm thông thường, đến nặng như suy hô hấp và có nguy cơ dẫn đến tử vong. Cho đến nay, bệnh này đã trở thành một trong những đại dịch có sức mạnh biến đổi cả thế giới.
CHUẨN HÓA ‘COVID KÉO DÀI’ TẠO THUẬN LỢI CHO CHẨN ĐOÁN, ĐIỀU TRỊ
Hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, vấn đề phòng bệnh là chủ yếu, nó được xem như là một chiến lược mang tính toàn cầu với sự tham gia của toàn dân, với mục đích là khống chế và đẩy lùi dịch bệnh. Chiến lược này đã được cụ thể hóa ở từng quốc gia, vùng miền và được phổ biến rộng rãi trên hầu hết các phương tiện truyền thông đại chúng.
CON NGƯỜI CẦN SỐNG THẾ NÀO KHI DỊCH BỆNH VẪN CÒN HOÀNH HÀNH?
Đại dịch COVID-19 sẽ còn tiếp tục gây nhiều khó khăn cho cuộc sống của chúng ta và những nỗ lực phòng tránh vẫn phải được tiếp tục.
Nhưng tiếp tục đến bao giờ? Tương lai của con người sẽ như thế nào khi dịch bệnh vẫn còn hoành hành, cuộc sống của mọi người rồi sẽ xoay sở ra sao?
Câu hỏi này được đặt ra ở hầu hết các quốc gia, trong đó có Việt Nam, đi theo đó là hàng loạt các biện pháp phòng chống mang tính quyết liệt với hy vọng loại trừ dịch bệnh một cách triệt để nhất.
Tuy nhiên, đến giờ này thế giới của chúng ta đã trải qua năm thứ 3 của đại dịch COVID-19 với nhiều cuộc “tổng tấn công” quyết liệt và thần tốc. Nhưng mối nguy cơ vẫn còn hiện hữu, số người nhiễm trên toàn thế giới vẫn còn cao, virus thì liên tục biến đổi …
CẦN THAY ĐỔI QUAN ĐIỂM VỀ COVID-19
Nếu còn quan điểm quá lo sợ trước COVID-19 thì bao giờ mới hết lo? Thế giới này hơn 7 tỷ người, chỉ cần 1 người bị nhiễm thì nỗi lo vẫn còn đó.
Chúng ta phải thay đổi quan điểm về đại dịch này. Trong bối cảnh mà việc loại trừ virus SARS-CoV-2 có thể là bất khả thi, thì phải xem nó như là một “hiện tượng” hay một “phần tất yếu” của thế giới hiện đại, và phương án phải sống chung với đại dịch này đang dần được các nước chấp nhận.
Như vậy, trong cuộc chiến cam go này, thay vì theo đuổi mục tiêu “xóa sổ virus”, chúng ta chuyển sang mục tiêu “vừa đánh vừa đàm”, có nghĩa là phải học cách sống chung với dịch. Để làm được như vậy, trước hết phải thay đổi từ nhận thức về đại dịch, từ đó mới thay đổi hành động ứng phó.
1. Về nhận thức: Chúng ta phải hiểu biết cặn kẽ về căn bệnh cũng như đại dịch này, hiểu rõ các khả năng lây nhiễm của nó để : không hoang mang lo lắng, không sợ hãi thái quá. Thay vào đó phải có thái độ bình tĩnh, tự tin, hiểu biết và có trách nhiệm.
2. Về hành động cụ thể: Chúng ta phải thực hiện nghiêm túc và có trách nhiệm nguyên tắc và các kỹ năng để sống chung với dịch bệnh như:
Thực hiện 5K một cách nghiêm túc, đầy đủ, hiệu quả, có trách nhiệm và đồng bộ: mỗi một “K” đều phải thực thi đúng chuẩn, không qua loa, đối phó. Bên cạnh đó chúng ta còn phải vận động mọi người xung quanh cùng hưởng ứng thực hiện 5K.
3. Tiêm chủng vaccine ngừa COVID-19: Đừng chần chừ vì đây là ưu tiên quan trọng cùng với thông điệp 5K, chúng ta phải hiểu rõ nguyên tắc “vaccine tốt nhất là vaccine được tiêm sớm nhất”
4. Về vấn đề chăm sóc sức khỏe: Chúng ta cần phải được tư vấn đầy đủ và kịp thời các thông tin cần thiết liên quan đến sức khỏe nói chung và nghi ngờ COVID nói riêng, chúng ta phải chọn một cơ sở y tế mà mình cảm thấy thuận tiện, từ đó thiết lập nên một kênh liên lạc để nhận được tư vấn từ bác sĩ chuyên khoa. Bên cạnh đó, việc cài đặt các ứng dụng được khuyến cáo nhằm cảnh báo nguy cơ tiếp xúc gần rất cần thiết như ứng dụng PC-COVID.
5. Nâng cao thể trạng: Hơn lúc nào hết, chúng ta phải quan tâm đến việc giữ gìn sức khỏe, nâng cao sức đề kháng của cơ thể bản thân mình bằng cách ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, tăng cường rau quả. Cần từ bỏ hoặc giảm tối đa các yếu tố gây hại (nếu có) như rượu bia, thuốc lá… thay vào đó là sự rèn luyện, bồi bổ về thể chất lẫn tinh thần một cách khoa học và hợp lý. Khoa học ở đây có nghĩa là làm đúng theo hướng dẫn, còn hợp lý ở đây là tùy thuộc theo điều kiện hiện tại của bản thân mình.
6. Vệ sinh nhà và nơi làm việc bằng việc sử dụng chất sát khuẩn: Đây là việc nên làm thường xuyên, vừa ngừa được COVID-19, vừa ngừa được nhiều bệnh nhiễm khuẩn khác.
7. Thay đổi thói quen sinh hoạt: Đây có thể xem như một cơ hội để chúng ta “ghi điểm” đối với người thân của mình khi thực hiện “1 cung đường, 2 điểm đến” hay nói cách khác “đi đến nơi, về đến chốn”. Có nghĩa là từ nay chúng ta sẽ không còn “la cà” như xưa nữa, mà mỗi khi tan ca, ta lại trở về nhà và thực hiện trách nhiệm đối với gia đình.
8. Đối với những người có bệnh nền: Với người có các bệnh nền như đái tháo đường, tăng huyết áp, suy tim, suy thận, bệnh phổi mạn tính… cần tuân thủ quy trình điều trị một cách tuyệt đối, phải kiểm soát được bệnh của mình, phải cùng với bác sĩ đặt ra các tình huống có thể xảy ra trong thời dịch bệnh và các phương án ứng phó để không bị động, bất ngờ.
SƯU TẦM TRÊN INTERRNET
VIII. THÔNG TIN THÁNG 11/2021
A. THÔNG TIN CỦA LIÊN HỘI HHTM– TGP SG THÁNG 11
1. THÔNG BÁO
Trích Yếu: V/V TỔ CHỨC MỪNG LỄ MẸ VÔ NHIỄM – BỔN MẠNG
LIÊN HỘI HHTM VÀ NHÀ NGUYỆN THÁNH MẪU.
Kính gửi: Hội Đồng Quản Trị các cấp và Hội Viên HHTM thuộc 3 Liên Đoàn: Bác Ái HHTM, Gia Đình HHTM, và Giới Trẻ HHTM/TGP.
Năm nay Ban Chấp Hành Liên Hội HHTM sẽ tổ chức Thánh Lễ Mừng Mẹ Vô Nhiễm, là Bổn Mạng của Nhà Thờ Thánh Mẫu và của Liên Hội HHTM tại Nhà Nguyện Thánh Mẫu, vào hồi 16g00 Thứ Hai 06/12/2021 (hai ngày trước lễ chính thức 08/12).
Hội viên cần chuẩn bị tâm hồn và tham dự thánh lễ mừng lễ Bổn Mạng như sau:
1.1) THỰC HIỆN BÓ HOA THIÊNG:
Hội viên mỗi Xứ Đoàn sẽ làm một Bó Hoa Thiêng, bắt đầu từ ngày nhận được Thông Báo này đến ngày đại lễ. Nội dung Bó Hoa Thiêng “Nhờ Mẹ Dâng Chúa” gồm một số việc lành cụ thể như sau:
– Ghi số lần dự lễ và rước lễ của mỗi Hội Viên với sĩ số Hội Viên mỗi Xứ Đoàn.
– Lần chuỗi Mân Côi Sống: Mỗi người mỗi ngày sẽ suy niệm một mầu nhiệm (Vui, Sáng, Thương, Mừng) và đọc một chục kinh Mân Côi liên kết với nhau làm thành tràng chuỗi Mân Côi của Xứ Đoàn. Sẽ ghi số Hội Viên lần chuỗi Mân Côi Sống của mỗi Xứ Đoàn.
– Công tác thăm viếng: Trong thời phòng chống dịch bệnh, do phải hạn chế đến thăm nhà người khác. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể quyên góp tiền bạc hay thực phẩm để chia sẻ với các hộ nghèo trong khu vực của mình. Ghi số tiền đã quyên góp để thực hiện công việc bác ái chia sẻ.
Các việc nói trên sẽ được Ban Chấp Hành Xứ Đoàn cộng chung và ghi vào một tờ giấy “Bó Hoa Thiêng Nhờ Mẹ Dâng Chúa” làm lễ vật tiến dâng trong thánh lễ mừng Bổn Mạng Mẹ Vô Nhiễm chiều 06/12/21.
2.2) VỀ SĨ SỐ THAM DỰ:
Mỗi Xứ Đoàn nên động viên Hội Viên HHTM về NT Thánh Mẫu tham dự thánh lễ mừng Bổn Mạng nói trên. Trong hoàn cảnh hạn chế do dịch bệnh, năm nay Ban Chấp Hành Liên Hội sẽ không tổ chức liên hoan sau thánh lễ như mọi năm.
2.3) CHƯƠNG TRÌNH
1.- DIỄN TIẾN:
-15g00: Tập trung trong Nhà Thờ để sinh hoạt.
-16g20: Đọc Dẫn Lễ.
-16g30: Thánh lễ Đồng Tế Mừng kính Mẹ Vô Nhiễm Bổn Mạng.
2.- PHÂN CÔNG:
– Dẫn chương trình: Đại Diện BCH Liên Hội.
– Tập hát trước giờ lễ
– Đọc Dẫn Lễ: Đại diện BCH Liên Hội.
– Bài Đọc I: Đạị Diên BCH LH.
– Bài Đọc II: Đại diện Ban Phục Vụ NT Thánh Mẫu.
– Lời nguyện Cộng Đoàn: 4 Đại Diện (BCH LH; LĐBA; LĐGĐ; LĐGT).
– Dâng lễ vật: Liên Đoàn Gia Đình.
– Tâm tình Hiệp Lễ: BCH Liên Hội.
– Chụp hình quay phim: Ông Đoàn và Cô Hương (BCH/LH).
– Xin tiền thau NT: Thủ Quỹ BCH/LH.
– Giữ xe và phục vụ nước uống: Ban Phục Vụ NT TM.
– Hát lễ: Ca đoàn NT Thánh Mẫu (Chị Thuỷ).
– Soạn Lời nguyện Cộng Đoàn: Chị Nhiễu (BCH/LH).
– Soạn Dẫn Lễ và Tâm Tình sau rước lễ: BCH/LH.
3.- THỨ TỰ ĐOÀN RƯỚC:
– Lễ Sinh.
– Đoàn Đồng Tế: LM TGH HHTM- LM Phụ tá HHTM;- Các LM Đồng tế.
Trong tinh thần Hiệp Sống Xin Vâng Phục Vụ, BCH Liên Hội mời các Huynh Trưởng và Hội Viên HHTM về tham dự đông đủ để mừng Bổn Mạng của Liên Hội và của Nhà Thờ Thánh Mẫu Trung ương.
Làm tại Nhà Thờ Thánh Mẫu ngày 04 tháng 11 năm 2021.
DUYỆT TM BCH LH HHTM TGP
LM TỔNG GIÁM HUẤN HHTM LIÊN HỘI TRƯỞNG
Đa-minh ĐINH VĂN VÃNG GB. NGUYỄN QUANG MINH
2.TIN BUỒN
Được tin Ông Đa minh Lê văn Giang là nguyên Liên Hội Trưởng Liên Hội Hiệp Hội Thánh Mẫu Tổng Giáo Phận Saigon mới qua đời vào ngày 01/11/2021, hưởng thọ 80 tuổi.
Cha Tổng Giám Huấn và đại diện Ban Chấp Hành Liên Hội HHTM đã đến tang gia phân ưu và đọc kinh cầu nguyện cho Ông Đa minh vào hồi 9g30 ngày 03/11/21.
Thánh lễ an táng cử hành hồi 06g00 sáng ngày 04/11/2021 tại nhà thờ giáo xứ Bùi Phát.
Xin báo tin cho các Hội Viên HHTM các Xứ Đoàn thuộc 3 Liên Đoàn là LĐ Bác Ái HHTM, LĐ Gia Đình HHTM, LĐ Giới Trẻ HHTM. Đề nghị mỗi Hội Viên HHTM tham dự một thánh lễ và đọc 50 kinh Mân Côi để cầu nguyện cho linh hồn Đa minh sớm được về hưởng tôn nhan Thiên Chúa.
Đại Diện BCH Liên Hội HHTM
GIOAN BAOTIXITA NGUYỄN QUANG MINH
B. THÔNG TIN CỦA LIÊN ĐOÀN BÁC ÁI HHTM/ TGP SG TH 11/2021
I. MỪNG BỔN MẠNG THÁNG 11/2021:
1) Ngày 3/11 Lễ kính Thánh Martino: Bổn mạng quý ông
– Ông Martino Trần Minh Cương – Đoàn trưởng Xứ đoàn Bác Ái Bùi Phát.
– Ông Martino Nguyễn Văn Hùng – Đoàn phó Liên Đoàn Bác Ái HHTM kiêm Đoàn phó Bác Ái Bùi Phát.
2) Ngày 21/11 : Lễ Mẹ dâng mình
Bổn mạng Xứ đoàn Bác Ái HHTM Châu Bình (Thủ Đức).
BCH LĐBA-TGP xin chúc mừng Xứ đoàn Bác Ái HHTM Châu Bình và quý ông đón nhận dồi dào hồng ân Thiên Chúa trong ngày lễ bổn mạng.
II. VỀ CÁC CÔNG TÁC CỦA BCH LĐBA-HHTM
-Các Xứ đoàn tuỳ hoàn cảnh dịch bệnh, sẽ tổ chức sinh hoạt hội họp trở lại như trước.
-Gửi giấy báo cáo các công tác của Xứ Đoàn trong tháng qua về Ban Chấp Hành LĐ.
-Nếu hoàn cảnh cho phép, sẽ phân công tác thăm hỏi các bệnh nhân đau liệt và các hội viên đã ngưng đến sinh hoạt với Xứ Đoàn trong thời gian qua.
-Xứ đoàn nên tổ chức đọc kinh luân phiên gia đình hay kinh giỗ khi hết bị giãn cách.
*Tháng 11: Cầu cho các linh hồn
– Các hội viên tham dự thánh lễ hàng ngày
– Dâng hy sinh hãm mình
– Lần chuỗi Mân Côi kính Mẹ
– Thực hiện công tác bác ái, thăm hỏi bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn và neo đơn.
– Tất cả những việc lành đạo đức dâng lên Thiên Chúa để cầu nguyện cho các linh hồn.
– Tiếp tục thực hiện công tác thường lệ như: phục vụ về sinh khu vực Nhà Chúa, phụ nấu ăn sáng cho các em thiếu nhi, nấu cơm cho người nghèo.
– Quyên góp để thực hiện các công tác bác ái từ thiện.
IV . THƯ MỜI HỌP :
Mời các anh chị Xứ Đoàn trưởng và thành viên BCH các Xứ đoàn thuộc LĐBA/HHTM đến tham dự buổi sinh hoạt tháng 11/2021 tại Nhà thờ Thánh Mẫu Trung Ương: Số 3-5 Chữ Đồng Tử, Ph 7, Q.Tân Bình , vào lúc 15g00 Thứ Hai, ngày 22/11/2021 sắp tới.
Đề nghị các anh chị em đến tham dự đầy đủ và đúng giờ.
C. THÔNG TIN CỦA LIÊN ĐOÀN GIA ĐÌNH HHHTM TGP SG TH 11/2021
I. MỪNG BỔN MẠNG THÁNG 11/2021:
1)Ngày 3/11 Lễ kính Thánh Martino: Bổn mạng Cha Martino Chu Quang Định- Chính xứ Giáo xứ Mẫu Tâm.
Kính Chúc Cha nhận được tràn đầy hồng ân Thiên Chúa qua lời cầu bầu của thánh Bổn Mạng Martinô.
2) Ngày 21/11: Lễ Mẹ dâng mình:
Bổn mạng HHTM chung của 3 ngành Xứ đoàn Châu Bình (Thủ Đức) gồm XĐ Bác ái HHTM- XĐ Gia đình HHTM và XĐ Giới trẻ HHTM.
BCH/LĐ Gia đình HHTM TGP xin chúc mừng Bổn Mạng của Cha Martino và Bổn Mạng của 3 ngành HHTM của Giáo Xứ Châu Bình. Cầu chúc dồi dào hồng ân Thiên Chúa.
III. KẾ HOẠCH THÁNG 11/2021 CỦA LIÊN ĐOÀN GĐ HHTM GP :
– Hướng về các đẳng linh hồn: Cầu nguyện cho các linh hồn sớm được lên Thiên đàng, và xin các linh hồn cũng cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta.
– Phát động Hội Viên HHTM cầu nguyện cho các đẳng linh hồn: Đề nghị mỗi Hội viên hy sinh một bữa ăn sáng (khúc bánh mì, tô bún) để góp phần xin lễ cầu cho các linh hồn: Quý Cha cố, Ân nhân, thân nhân và Hội Viên HHTM đã qua đời.
D. THÔNG TIN LIÊN ĐOÀN GIỚI TRẺ HHTM TGP:
TÌNH HÌNH CỦA LIÊN ĐOÀN GIỚI TRẺ HHTM:
Liên Đoàn Giới Trẻ HHTM TGP Saigon gồm 6 Xứ Đoàn đang hoạt động như sau:
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Sao Mai
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Thạch Đà
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Châu Bình
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Thái Bình
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Bình Thái
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Bình An
TRUYỀN THÔNG HHTM