Các bài suy niệm
* CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Is 53,10-11; Dt 4,14-16; Mc 10,35-45
* CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO
Lời Chúa: Is. 2, 1-5; 1Tm. 2,1-8; Mt. 28,16-20
MỤC LỤC
* CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN 5
1. Làm đầy tớ 5
2. Uống chén Thầy 9
3. Bài học về sự phục vụ 13
4. Phục vụ 16
5. Làm lớn 18
6. Phục vụ vì lợi ích của tha nhân 20
7. Hầu hạ và hiến mạng sống – ViKiNi 24
8. Tôi tớ của mọi người 28
9. Phục vụ 39
10. Phục vụ làm nên quyền bính 41
11. Chúa Nhật 29 TN – Chúa Nhật Truyền Giáo 46
12. Ý nghĩa của sự đau khổ – Lm Hồng Phúc 53
13. Phục vụ và hạnh phúc 55
14. Phục vụ 58
15. Chạy ghế 61
16. Thủ lãnh làm nô bộc 64
17. Quyền hành để phục vụ 70
18. Khánh Nhật Truyền Giáo 74
19. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB 77
20. Con đường vương giả – Lm Phạm Quốc Hưng 80
21. Hy tế – Lm. Giuse Trần Việt Hùng 85
22. Mù sương 90
23. Chuyện phục vụ 93
24. Đau khổ và Đức tin 101
25. Ai là người lớn nhất? 108
26. Thưa được – Lm Trịnh Ngọc Danh 111
27. Phục vụ 116
28. Hơn thua – Lm. Anmai 129
29. Phục vụ – Jean-Yves Garneau. 133
30. Lật ngược xuống là đúng chiều rồi. 136
31. Đầy tớ và nô lệ. 139
32. Thế giới đảo ngược – Achille Degeest. 142
33. Về ba tuyến nhân vật 144
34. Ra lệnh và truyền lệnh – Gm Arthur Tonne. 149
35. Hy sinh phục vụ theo gương Chúa Giêsu 151
36. Ngông cuồng liều lĩnh…! 155
37. Con Người đến để phục vụ – Noel Quesson. 164
38. Phục vụ. 166
39. Khôn ngoan. 168
40. Gus và Ruth. 170
41. Ai là người lớn nhất? 173
42. Làm lớn. 176
43. Khiêm nhường phục vụ. 179
44. Phục vụ. 182
45. Đảo ngược. 184
46. Đắng cay. 186
47. Khiêm tốn phục vụ – Lm Jude Siciliano. 188
48. Bánh và nước – Lm Mark Link. 194
49. Chết vì người khác – Lm Nguyễn Ngọc Long 198
50. Muốn làm lớn, phải phục vụ như đầy tớ 202
51. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux. 206
52. Chú giải của Noel Quesson. 213
53. Chú giải của Fiches Dominicales. 219
54. Gợi ý của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 225
55. Chú giải mục vụ của William Barclay. 227
56. Muốn làm đầu phải hầu thiên hạ 234
* LỄ TRUYỀN GIÁO 241
1. Sứ Điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2021 241
2. Giá chuộc muôn người 249
3. Giáo dân truyền giáo 254
4. Đã là Kitô hữu phải truyền giáo 259
5. Say mê Tin Mừng của Đức Kitô 263
6. Ngày Khánh Nhật Truyền Giáo 269
7. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành 281
8. Tinh thần nhiệt tình tông đồ 287
9. Chủ nghĩa “Ma-kê-nô” trong đời sống Đức Tin 292
10. Tôi đang làm chứng hay phản chứng về đạo? 296
11. Truyền Giáo hay Rao Giảng Tin Mừng! 300
12. Sứ Điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo 304
13. Xin hãy sai con – Lm. Ignatiô Trần Ngà 310
14. Hãy thả lưới bên phải thuyền 313
15. Nhân chứng Phúc Âm 316
16. Khánh nhật truyền giáo – Lm Trần Ngà 319
17. Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền 321
18. Lễ Khánh Nhật Truyền Giáo 325
19. Cách thức truyền giáo 329
20. Khánh Nhật Truyền Giáo 332
21. Truyền giáo bằng cách sống 338
22. Nối bước các Thừa Sai 341
23. Suy niệm của Lm. Jos. Nguyễn Thành Long 345
24. Truyền giáo. 349
25. Sứ điệp Truyền giáo năm 2012. 351
26. Hãy đi khắp thế gian. 359
27. Hãy loan báo Tin Mừng – Mc 16,15-20. 362
28. Ưu tiên bốn hạng người 366
29. Tinh thần truyền giáo 376
30. Truyền giáo theo gương Mẹ Têrêsa. 383
31. Khánh Nhật Truyền Giáo 386
32. Tinh thần truyền giáo (Lc 18, 1-8) 391
33. Sứ mạng truyền giáo 396
34. Lửa truyền giáo – ĐGM. GB. Bùi Tuần 400
35. Đức Maria, mẫu gương truyền giáo. 404
36. Thầy Ở Cùng Anh Em. 409
37. Truyền giáo. 412
38. Chứng tá. 416
39. Truyền giáo. 419
40. Đời sống chứng nhân. 422
41. Khiêm nhường trong truyền giáo. 425
42. Linh đạo truyền giáo 429
43. Tin Mừng cho người ngoại biên. 447
44. Kitô hữu, chứng nhân truyền giáo 452
45. Quyền năng từ trên cao 456
46. Anh em là chứng nhân 459
47. Chúa sai tôi đi 462
48. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 465
49. Cánh cửa truyền giáo 470
50. Đưa anh em lưu lạc về nhà 474
51. Sứ mạng truyền giáo là một hồng ân 477
52. Lễ Truyền Giáo – Lc 24, 46-53 481
53. Loan báo Tin Mừng trong xã hội hôm nay 484
54. Truyền Giáo: Chuyện không của riêng ai 496
* CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN
1. Làm đầy tớ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Đọc Tin Mừng, ta thấy dường như duy chỉ có trường hợp hai anh em nhà Giêbêđê (hay chính người mẹ của hai ông này) đến xin Chúa Giêsu cho xí phần tả hữu khi Chúa được vinh quang nghĩa là khi Chúa làm vua, theo mộng tưởng của hai vị. Dù rằng mười vị còn lại có biết chuyện này, vì các vị đã tức tối ra mặt, nhưng không thấy vị nào mon men đến xin xỏ Thầy một chức vị nào đó cho sau này. Có lẽ lý do là đây: Điều xin thì chưa chắc được nhưng điều không xin thì lại phải bị gánh chịu. “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống, phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”(Mc 10,39-40).
Phen này đúng là thua to, hai vị nhà Giêbêđê im hơi lặng tiếng đủ nói lên tâm trạng của các vị. Thực ra không phải hai vị mà cả nhóm Mười Hai đã lầm. Cái lầm căn bản của cả nhóm đó là mong sẽ được có chức vị cao trọng ngoài xã hội, và dĩ nhiên sẽ được hưởng vinh hoa phú quý khi đi theo Thầy Giêsu. Vị tôn sư người Nagiarét đủ đầy quyền năng trong lời nói lẫn hành động hẳn phải là Đấng Thiên Sai, nếu không thì cũng là một đại ngôn sứ. Với uy quyền cả thể như thế, chắc chắn Người sẽ giải phóng dân tộc mình khỏi ách nô lệ ngoại bang và sẽ được phong làm vua. Ngay cả trước khi Chúa về trời thì các ngài cũng còn hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quóc Israel không?” (Cvtđ 1,6).
Cả nhóm Mười Hai lầm thì cũng dễ hiểu vì các ngài chưa được nghe lời khẳng định của Thầy trước mặt Philatô rằng Người là vua nhưng nước Người không thuộc về thế gian này (x.Ga 18,33-38). Tuy nhiên cần khẳng định với nhau điều này: nơi con người, song hành với tính xã hội thì còn có bản năng thống trị. Ở giữa một tập thể, người ta có khuynh hướng tìm cách làm đầu kẻ khác. Dẫu sao đi nữa, làm dầu con tôm cũng hơn là làm đuôi con rồng. Dù lớn hay bé, khi đã được làm đầu thì không chỉ sẽ được kính trọng mà còn được cung phụng. Vì thế, chúng ta không mấy ngạc nhiên khi thấy đây là một chủ đề thường xuyên trở thành nguyên cớ tranh luận giữa tập thể nhóm Mười Hai.
“Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10,44). Lời khẳng định của Chúa Giêsu là một mệnh lệnh. Cả nhóm Mười Hai hôm ấy và cả chúng ta hôm nay, chẳng ai chối cãi hay biện bạch. Thế nhưng, thực tế minh chứng cho thấy chúng ta vẫn còn để mệnh lệnh ấy trên giấy cách nào đó. Không riêng gì người theo Chúa, quý vị nắm trọng trách ngoài xã hội cũng khẳng định rằng chính quyền là đầy tớ nhân dân. Thế mà chuyện đầy tớ ăn trên ngồi trước, còn các ông chủ thì khép nép tìm các hạt cơm thừa; đầy tớ thì chễm chệ ghế salon nệm dày, sở hữu nhà cao cửa rộng còn ông chủ lại vất vưởng trong các căn chòi ọp ẹp…đã trở thành “chuyện tử tế” của một thời và hình như là của mọi thời, nhiều nơi.
Có thể có nhiều lý do để biện minh về việc các ngài đầy tớ sở hữu cũng như sử dụng các phương tiện sang trọng. Các vị ấy cần có phương tiện thích ứng để làm đầy tớ tốt hơn, hữu hiệu hơn. Các vị ấy không chỉ cần có tác phong tương xứng, mà còn cần có những cái bên ngoài như y phục, đồ dùng, phương tiện đi lại…cách nào đó cho phù hợp với vai vế hay chức vụ đảm nhận mà thôi (noblesse oblige). Đây không phải là lời biện minh, nhưng là lời giải thích khá hữu lý và hợp tình. Thế thì đâu là dấu chỉ một người làm đầu đang thực sự làm đầy tớ?
Chúa Giêsu đã minh nhiên cho chúng ta một dấu chỉ bằng chính cuộc sống, cung cách hành động của Người: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Có thể nói việc hiến dâng mạng sống làm giá chuộc cho muôn người là bằng chứng của việc làm đầy tớ. Tác giả thư Do Thái triển khai việc làm đầy tớ qua hình ảnh vị Thượng Tế biết “cảm thương” nỗi yếu hèn của nhân loại (x. Dt 4,13). Ngôn sứ Isaia lại tiên báo việc làm đầy tớ bằng hình ảnh người tôi tớ trung thành chịu đau khổ để gánh lấy hậu quả tội lỗi con người (x. Is 53,10-11).
Số người được làm đầu con rồng trong Giáo Hội hay ngoài xã hội quả là không nhiều, nhưng số người làm đầu con tôm, tôm to, tôm vừa, tôm bé hay các loại tép thì đếm không xuể. Có một hoặc hai người thuộc quyền của chúng ta, dưới quyền của chúng ta, trong trách vụ của chúng ta thì chúng ta đang được đặt làm đầu. Đó là đàn chiên chúng ta đang chăn dắt, đó là con cái mà ta đã sinh thành, đó là nhóm học sinh ta đang dạy dỗ, đó là những người cô thân, bé phận ngoài xã hội hay trong Giáo Hội, đó là những người yếu đuối, tội lỗi đang cần chúng ta nâng đỡ, dìu dắt, chỉ lối, dẫn đường… Như thế, có thể nói hầu hết chúng ta đã được đặt làm đầu. Đã làm đầu thì phải làm đầy tớ.
Lịch sử cho thấy rằng những người “làm đầu” ngoài xã hội cũng như trong giáo hội, nếu xuất thân từ hoàn cảnh khó khăn hay đã từng kinh qua nhiều gian khổ thì thường dễ “làm đầy tớ” cách thực sự và đúng nghĩa hơn. Quả thật, để thực sự làm đầy tớ, tiên vàn cần phải có sự đồng cảm, đồng thân, chung phận một cách nào đó. Chúa Kitô đã nêu gương cho chúng ta khi “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế…” (Pl 2,6-11).
Xã hội có ngày càng công bằng, văn minh, thinh vượng hay không, giáo hội có ngày càng tinh tuyền, thánh thiện hay không chắc hẳn phụ thuộc rất nhiều vào việc những người đứng đầu có thực sự sống tôn chỉ “làm đầy tớ nhân dân”, “làm tôi tớ của đàn chiên” hay không. Mong sao tôn chỉ ấy không dừng lại ở khẩu hiệu hay ở các bài phát biểu hùng hồn, nhưng được hiện thực hóa bằng việc làm và thái độ sống của những người làm đầu. Ngoài việc các đầy tớ phải hiến dâng mạng sống vì chủ, thì có thể nói một trong những tiêu chí để thẩm định các vai vế chủ – tớ có chính hiệu không, thì hãy xem các ông chủ tức là người dân, các con chiên, có được phép và được quyền mạnh dạn mở miệng nói lên suy nghĩ, nhận định của mình hay trình bày các nhu cầu chính đáng của mình trước các vị “đầy tớ” hay không, và dĩ nhiên không thể thiếu sự chân thành lắng nghe của các vị này.
2. Uống chén Thầy
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Sách Giáo Lý Thêm Sức cho các em cấp 2, bài 12 có câu hỏi thưa số 31:
H. Vì sao con Thiên Chúa xuống thế làm người?
T. Con Thiên Chúa xuống thế làm người vì bốn lẽ này:
– Một là để cứu chuộc ta khỏi tội lỗi,
– Hai là để tỏ cho ta biết tình yêu của Thiên Chúa,
– Ba là để làm mẫu mực cho ta sống thánh thiện,
– Bốn là để ta được kết hợp với người mà trở nên con cái Thiên Chúa.
Sau khi các em đọc câu hỏi thưa 3 lần, cô Giáo Lý Viên hỏi: “Có em nào biết chữ “chuộc” nghĩa là gì không?” Một em nhanh nhẹn giơ tay xin trả lời: “Thưa cô, chuộc là xin lại. Ví dụ như mình mất cái điện thoại, biết người lượm được, tới xin lại”. “Đúng chưa các em”. “Thưa cô chưa đúng. Tới xin không chắc gì người ta cho lại. Phải đưa tiền chuộc cô ạ!”
…Con người sa ngã phạm tội phản nghịch Thiên Chúa, con người thuộc về Satan, sự dữ, bị Satan làm chủ, thống trị. Thiên Chúa Cha “chuộc tội” cho thiên hạ, tức là, cho con người tái thuộc về Thiên Chúa, thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa, trở lại làm con Thiên Chúa không bằng tiền, không bằng vàng, không bằng ngai tòa Thiên Chúa cao sang quyền quí, nhưng bằng chính Con Một Mình, Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô. Ngài đến để yêu thương và phục vụ cho đến chết.
Cảm ơn cô Giáo Lý Viên.
Vâng, bài đọc 1 hôm nay, Ngôn Sứ Isaia loan báo về Đức Giêsu: “Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định của Chúa sẽ thành tựu” (Is 53, 10 – 11).
Chúa Giêsu là Lễ Vật Đền Tội đẹp lòng Thiên Chúa Cha nhất, nhờ lễ vật ấy, mà Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha mở ra, đón nhận lại con người tội lỗi đã được rửa sạch nhờ máu Con Của Ngài.
Chúng ta, những Kitô hữu, được ghi danh vào “dòng dõi trường tồn” nhờ ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô. Và khi đã được ghi tên mình vào danh sách ấy, hẳn phải cộng tác vào Ơn Cứu Chuộc bằng việc noi gương yêu thương phục vụ của Chúa. Đó là đức tin của chúng ta. Hơn nữa phải “giữ vững việc tuyên xưng Đức Tin của chúng ta”, nhờ đức trông cậy, vì lòng khiêm tốn nhận biết mình mỏng dòn yếu đuối (x. Dt 4, 14 – 16).
Ai dám nói mình không hèn mọn yếu đuối trước những cám dỗ của lòng kiêu ngạo về quyền bính, để được phục vụ hơn là phục vụ? Người càng chiều theo những khát khao phù du của lòng kiêu ngạo, càng chứng tỏ sự yếu đuối về Đức Tin về Đức Cậy và cả về Đức Kính Mến Thiên Chúa.
Chuyện hai anh em nhà Dêbêđê: “Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy” là chuyện thường tình rất con người của chúng ta.
Chúng ta có khác gì? Đôi khi còn tệ hơn nữa. Tệ hơn ở chỗ, không xin nhưng dùng mọi thủ đoạn hạ bệ người khác mà đưa mình lên cao. Chuyện ở đời, người ta thanh trừng nhau để kiếm một địa vị xã hội đã đành, trong Giáo Hội, tâm trạng khắc khoải bồn chồn vì sợ ảnh hưởng của người khác hơn mình vẫn cứ đeo bám.
Giáo Sĩ phải được trọng vọng, được kính nể hơn Giáo Dân, bất kể cuộc sống của ngài như thế nào đi nữa. Linh Mục phải là người lãnh đạo, là người quyết định tối hậu mọi chuyện trong Giáo Xứ, không phải Giáo Dân. Giáo dân biết gì? Bởi vậy có Linh Mục đã từng tuyên bố không cần Hội Đồng Giáo Dân cho đông người, chỉ cần hai người biết nghe gì làm nấy là đủ.
Cái ảo tưởng quyền bính thế gian đã xâm nhập vào Giáo Hội từ lâu rồi, đến mức Giáo Dân phải mang lấy những cái ách nặng nề không đáng có, rồi dù có thấp cổ bé miệng cách mấy cũng phải la toáng lên: Chúa ơi, đây là thời kỳ thống trị của Giáo Sĩ, thời kỳ Giáo Sĩ trị. Thời kỳ ấy có vẻ như vẫn còn kéo dài tới hôm nay!
Không dừng lại ở các Giáo Sĩ, mà bệnh quyền bính còn lây lan sang những Giáo Dân cộng tác, gần gũi với Giáo Sĩ, học đòi cách ăn cách nói cách ứng xử quyền bính mà xem thường kẻ khác cách quá đáng.
Một ông mới được cha sở chỉ định làm Trùm một họ lẻ, đã có thể đập bàn quát tháo với anh em rằng: “Tôi đã bảo không thể là không thể”, hoặc hù dọa bà con rằng: “Sao? Có muốn chôn trong Đất Thánh không đấy?”
Tội nghiệp cho ai bây giờ?
Theo tôi thì thật là tội nghiệp, thật là đáng thương cho những người tưởng mình có quyền bính và dùng quyền bính ấy khiến cho mọi người phải vâng dạ cả những chuyện sai trái, mọi người phải phục vụ mình xứng đáng.
Chúa Giêsu nào muốn cho các môn đệ của Ngài có lối hành xử như vậy? Có Chủng viện nào có đường lối đào tạo linh mục như vậy? Chẳng là vì con người ấy chỉ tu thân cho đến lúc đạt được chức linh mục thôi sao? Đạt được rồi, không cần tu thân nữa sao?
Chúa Giêsu trả lời cho người xin địa vị, quyền bính mà không xin hiến mình phục vụ rằng: “Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?”
“Uống chén Thầy sắp uống” hẳn không phải uống chén quyền bính, nhưng là uống chén yêu thương, phục vụ, và yêu thương, phục vụ cho đến chết.
Năm Đức Tin mở ra, để mọi người nhìn lại mà sám hối cải thiện cách sống đức tin của mình. Tin vào Chúa Giêsu là phải sống như Chúa Giêsu đã sống. Nếu không sống như Chúa Giêsu đã sống yêu thương phục vụ, thì việc chúng ta rao giảng Ơn Cứu Chuộc của Thiên Chúa trở nên mất tác dụng, đôi khi còn phản tác dụng và trở nên trò cười hổ danh Thiên Chúa của chúng ta.
Tin Mừng hôm nay thiết thực mời gọi cách sống Đức Tin của những người có trách nhiệm trong Giáo Hội, kể cả những Giáo Dân được tham dự vào những công việc của Giáo Hội:
“Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10, 42 – 45).
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc chúng con bằng lòng yêu thương phục vụ cho đến chết. Xin cho chúng con biết cộng tác vào ơn cứu chuộc bằng lòng yêu thương phục vụ hết mọi người. Amen.
3. Bài học về sự phục vụ
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chạy đua tranh giành quyền lực, địa vị là điều thường thấy trong thế gian ở mọi nơi mọi thời. Đó đây luôn có người tìm mọi cách để có được địa vị hay nắm được quyền hành trong xã hội, từ nhà nước, đến quyền lực của quân vương, lãnh chúa phong kiến, tới quyền lực của quốc hội, các đảng phái và của các tổ chức khác. Để đạt được mục tiêu, người ta sẵn sàng dùng mọi phương tiện, kể cả những phương tiện xấu nhất. Các môn đệ Chúa cũng không nằm ngoại cái đời thường ấy. Họ ước muốn ngồi trong hàng lãnh đạo cao nhất trong vương quốc vinh quang của Chúa Giêsu nghĩa là, khi Chúa Giêsu chiến thắng quân La mã, tái lập Vương quốc Israel. Lời họ cầu xin với đầy vẻ tự tin cho thấy họ theo đuổi cái hoàn toàn trần thế về đấng Messia.
Sau khi Chúa Giêsu loan báo cuộc Khổ nạn lần thứ nhất (x. Mc 8, 31-33) rồi lần thứ hai (x. Mc 9, 30-32), bài học về tư cách của người đứng đầu Chúa dành cho các môn đệ (x. Mc 9, 35-37), cách sử dụng danh Chúa trong cộng đoàn tín hữu dù là môn đệ hay không (x. Mc 9, 38-40); phần thưởng dành cho những ai sống xứng với danh Kitô hữu của mình (x. Mc 9,41); và đương nhiên kẻ làm cớ vấp phạm cho người khác, nhất là trẻ em sẽ bị trừng phạt thích đáng (9,42), Chúa Giêsu loan báo tiếp cuộc thương khó lần thứ ba (x. Mc 10,32-34). Hôm nay, Chúa Giêsu cho các ông một bài học dài về tư cách của người làm lớn, người có quyền và nhấn mạnh đến sự phục vụ cần phải có đối với các môn đệ Chúa.
Chúng ta tiếp tục cùng với các môn đệ đi theo Chúa Giêsu lên Giêrusalem, và chuyện “ai là người lớn nhất” trong họ vẫn đang được bàn tán, cho dù Chúa Giêsu nói cho họ biết là trong số họ, người lớn nhất là người sẵn sàng làm “tôi tớ cho anh em”. Bài học đắt giá như thế, các ông chưa thuộc lòng, tâm trí các ông vẫn không thay đổi là bao, chính vì lẽ ấy mà dọc đàng các ông vẫn còn tham danh vọng, quyền hành và địa vị dẫn đến cuộc cãi vã dọc đường (x. Mc 9, 34), tệ hơn nữa Giacôbê và Gioan đến xin Chúa Giêsu cho được một ngồi bên tả, một ngồi bên hữu Thầy (x. Mc 10, 35). Thầy vừa loan báo cuộc thương khó lần thứ ba xong thì Giacôbê và ông Gioan lại nghĩ đến ánh vinh quang đang đợi chờ Giêrusalem với Chúa Giêsu. Hai ông hẳn đã thống nhất với nhau giữ lại cho mình những vị thế quyền cao chức trọng, là sẽ được ngồi chỗ danh dự sau này.
Câu trả lời của Chúa Giêsu thật mạnh mẽ: “Ai trong các con muốn làm lớn nhất thì hãy tự làm đầy tớ anh em” (Mc 10,44); Và Người nói tiếp: “Cũng vậy, Con Người đến không phải để được người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống cho nhiều người” (Mc 10, 45). Chúng ta không trách hai ông, bởi trên đường đi với Chúa Giêsu, hai ông đã thấy tận mắt Chúa làm nhiều phép lạ và lôi cuốn dân chúng. Hai ông nghĩ rằng khi lên Giêrusalem, Chúa Giêsu sẽ được tôn vinh là vua, việc ngồi bên hữu bên tả trên ngai vinh quang, quyền thế là có thể. Chắc các ông không nghĩ đến một quền lực nào có thể lật đổ được Chúa Giêsu và đưa Người đến cái chết. Điều Giacôbê và Gioan nài van làm Chúa Giêsu có dịp một lần nữa nhấn mạnh: ai muốn theo Người thì sẽ làm “nô lệ cho tất cả” (Mc 10,44). Hình ảnh Chúa Giêsu dùng để minh hoạ cho giáo huấn của Người thật rõ ràng. Cũng như Con Người tự nguyện làm nô lệ cho mọi người, như khi quì xuống rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1-17), và chết bằng khổ hình thập giá dành cho các nô lệ, người kitô hữu bắt chước Chúa Giêsu cũng phải trở nên người phục vụ anh em.
Lời Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rằng, Nước Thiên Chúa không thuộc về thế gian này, chỉ gồm những người tranh giành quyền lực bằng bất cứ phương tiện nào, hay những kẻ tìm mọi cơ hội để lợi dụng. Trái lại, trong Giáo hội, quyền hành là để phục vụ. Chính Người nói với chúng ta: “Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban sự sống làm giá cứu chuộc cho mọi người” (Mc 10,45).
Hôm nay, chúng ta nhớ đến tất cả các linh mục, nam nữ tu sĩ và những người dấn thân loan báo Tin Mừng. Nhiều người đang phải đối đầu với đau khổ, bao lực, bách hại, diệt chủng, đói kém. Tất cả chúng ta làm nên một Giáo hội. Trong chính thân thể Chúa Kitô, khi một chi thể đau đớn thì toàn thân đều mang lấy hậu quả. Sứ mạng của Giáo Hội trước tiên là phục vụ, vì thế Giáo hội mời gọi mỗi người chúng ta hãy dấn thân hơn nữa trong việc cầu nguyện, chia sẻ và loan báo Đức Giêsu Kitô. Amen.
4. Phục vụ
Khi mới đi theo Chúa Giêsu, các môn đệ còn rất mơ hồ về sứ mạng của Ngài, cũng như về ơn gọi của mình. Các ông mơ ước một cuộc sống giàu sang và quyền thế. Các ông tin chắc Chúa Giêsu sẽ tạo cho các ông cơ hội thực hiện giấc mơ trái mùa ấy. Thực ra ngồi bên tả hay bên hữu Chúa không phải chỉ là ước muốn riêng của hai anh em Giacôbê và Gioan, mà còn là điều thèm khát chung của tất cả các môn đệ khác. Chỉ có điều là những người này đã không dám công khai thú nhận mà thôi.
Nhưng họ đã lầm. Giàu sang và thế lực trần gian không phải là con đường được Thiên Chúa chọn để cứu thế. Xoá bỏ tội lỗi của loài người, hoán cải thế giới này để đưa về với Chúa Cha, chỉ cho mọi người thấy được phần nào lòng yêu thương của Chúa Cha. Chắc chắn không phải là con đường bằng phẳng êm ái. Để hoàn thành sứ mạng được trao phó, Chúa Giêsu đã chọn con đường đau khổ và hiến tế của Người tôi tớ. Ngài đã nhận lấy chén đắng và chịu thanh tẩy trong sự chết. Chắc chắn Đấng Cứu Thế là Vua cao cả, nhưng sự cao cả đó được thể hiện trong chính tình trạng tự hạ để phục vụ theo đúng quy luật mà Ngài đã đặt ra: ai muốn làm lớn thì hãy tự làm đầy tớ cho anh em mình. Ai muốn thành người cầm đầu thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người.
Quy luật này Ngài đã thực hành một cách trọn vẹn và gương mẫu trong chính cuộc sống của Ngài. Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu cho thấy: Cứu thế là phục vụ. Mà đã phục vụ thì làm sao tránh khỏi cảnh “uống chén đắng” và “chịu thanh tẩy”. Hy sinh, chấp nhận những thiệt thòi cho bản thân là điều không thể thiếu được của ơn cứu độ. Và chúng luôn có giá trị siêu nhiên to lớn. Bắt đầu các môn đệ còn ngây thơ chưa hiểu thế nào là cứu độ và cứu độ đòi hỏi phải trả giá nào. Nhưng qua cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã từng bước chỉ cho các ông thấy con đường chính Ngài sẽ phải đi và rồi chính các ông cũng phải bước theo. Dần dần các ông không còn quan tâm đến chỗi ngồi bên tả và bên hữu nữa, nhưng đã bước theo Chúa lên tận đỉnh cao thập giá để cùng uống chén đắng và cùng chịu thanh tẩy.
Lời Chúa nói với các con ông Giêbêđê xưa nay đã được thực hiện. Cuộc khám phá và hành trình của các môn đệ ngày xưa phải chăng cũng vẫn còn là điều mà chúng ta hôm nay phải thực hiện cho chính bản thân mình. Thực vậy, bằng phục vụ Chúa Giêsu đã cứu độ nhân loại, còn chúng ta, chúng ta đã đi con đường nào để lãnh nhận ơn cứu độ cho bản thân và cho những người chung quanh?
5. Làm lớn
Qua đoạn Tin Mừng nay, chúng ta thấy rõ được cái tham vọng của Giacôbê và Gioan, đó là cái tham vọng xôi thịt, muốn được chia chác chức vụ nọ chức vụ kia, một khi Chúa Giêsu thành công trong việc giải phóng dân Israel khỏi sự kìm kẹp của đế quốc Lamã, dẫn đưa quê hương này tới một thời đại hoàng kim. Cái nhìn của các ông là một cái nhìn trần tục và ước mơ của các ông là ước mơ được làm lớn trong địa hạt chính trị. Nhân cơ hội này Chúa muốn dạy cho các tông đồ và tất cả những ai muốn làm chính trị một bài học. Người bảo: Trong các nước, những người làm lớn thường sai khiến dân chúng như ông chủ, họ lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con, không được như thế, ai trong các con muốn làm lớn thì hãy tự làm đầy tớ anh em và ai muốn cầm đầu giữa các con, thì hãy trở nên tôi tớ cho mọi người. Vì chính Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng đến để phục vụ và ban mạng sống làm gái cứu chuộc cho nhiều người.
Quan niệm của Chúa Giêsu thật gần với quan niệm của Nho giáo và hai quan niệm này thì lại khác xa tâm địa của nhiều người, coi làm chính trị là một kế sinh nhai, ăn trên ngồi trốc. Đúng thế, theo quan niệm của Nho giáo thì người cầm quyền chính trị là vua. Vua là người thay Trời để cai trị dân, nên được gọi là thiên tử, hay con của trời. Thế nhưng ông vua phải hành quyền như thế nào? Chữ Vương theo Hán tự, có ba nét ngang và một nét dọc. Ba nét ngang là chữ Tam, hay quẻ Càn, tượng trưng cho tam tài hay ba đạo, đó là thiên đạo, địa đạo và nhân đạo. Sổ dọc đứng giữa ngụ ý rằng vua là người thụ mệnh trời, đứng ra dung hoà ba đạo: trời đất và người, thành một mối duy nhất. Vì thế Khổng Tử đã nói: Nhất quán tam vi vương là thế.
Còn những người ra giúp vua trị an thiên hạ thì được coi như là con của nhà vua, vì vậy được gọi là quân tử. Người quân tử phải lấy sự học đạo của thánh hiền, tức là lấy sự tu thân làm căn bản. Muốn tu thân cho thành người đức hạnh, trước hết phải giữ tâm mình cho chính. Tâm đã chính rồi thì tự nhiên cái minh đức, hay là lương năng của mình sẽ thành ra mẫn nhuệ, lúc bấy giờ việc làm, cách xử sự sẽ điều hoà, hợp với đạo lý, thuận với thiên lý, tức là theo đúng lẽ trung dung vậy.
Trung dung được thì chính. Chữ chính cũng là chữ vương biến thể. Một bên ngang một bên dọc. Kẻ làm vua quan mà chính thì thiên hạ sẽ được thái bình trị. Cho nên mới gọi là chính trị. Vậy người làm chính trị phải ở cho chính. Nếu họ mà không chính, thì bên dưới sẽ loạn: Thượng bất chính hạ tất loạn. Bởi đó người xưa cũng đã bảo: Dục tri kỳ quốc, tiên tề kỳ gia. Dục tề kỳ gia, tiên tu kỳ thân. Có nghĩa là muốn trị quốc thì phải tề gia. Muốn tề gia thì phải tu thân. Hay nói một cách vắn gọn hơn, đó là: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Có nghĩa là phải tu thân, tề gia trước đã, rồi sau đó mới trị quốc và bình thiên hạ.
6. Phục vụ vì lợi ích của tha nhân
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Theo Chúa lâu năm, nhưng các Tông đồ vẫn đang còn nuôi mộng làm lớn. Tin mừng hôm nay cho biết, hai ông Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê đến gần Chúa Giêsu và thưa Người rằng: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”(Mc 10,37). Mười môn đệ kia, mặc dầu không công khai nói lên điều đó, nhưng khi nghe hai ông lên tiếng, họ đã tỏ thái độ“bực tức”. Chứng tỏ họ cũng không hơn gì hai ông, thích tranh dành quyền lực.
Chúa Giêsu giải thích về sứ mạng của Ngài và mời gọi các ông thông phần: “Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định”(Mc 10,39-40). Nhân dịp này, Chúa cũng dạy cho các ông bài học về việc phục vụ: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”(Mc 10, 43-44). Qua lời Chúa dạy hôm nay, chúng ta tìm hiểu về tinh thần phục vụ nơi Chúa Giêsu và tinh thần phục vụ của con người qua mọi thời đại.
1. Tinh thần phục vụ nơi Chúa Giêsu
Trong Kinh tin kính chúng ta đọc rằng: “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”. Thật vậy, cả cuộc đời của Chúa Giêsu từ khi sinh ra cho đến lúc chịu chết trên thập giá, là một chuỗi thời gian phục vụ: Sinh ra trong hang đá nghèo nàn. Lớn lên trong gia đình Nazareth đơn sơ. Trong ba mươi năm sống ẩn dật, Ngài làm nghề thợ mộc kiếm sống. Ngài làm nhiều việc như những người khác (ngoại trừ tội lỗi) để giúp đỡ Thánh Giuse và Mẹ Maria. Đặc biệt, Ngài hằng vâng phục hai ông bà. Trong ba năm hoạt động công khai, tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện một cách rõ nét hơn.
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua việc chọn lựa và huấn luyện các tông đồ. Từ những người quê mùa, dốt nát, ham danh tranh lợi, Chúa đã kiên nhẫn huấn luyện họ trở thành những tông đồ chân chính.
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua việc kiên trì giảng dạy. Mặc dầu “Lời giảng của Ngài có uy quyền” làm cho nhiều người thán phục, nhưng cũng không ít người phản đối, lên án, thậm chí bỏ Ngài mà đi. Dầu vậy, Ngài vẫn tiếp tục giảng dạy, khuyên nhủ trong tinh thần kiên trì, nhẫn nại và yêu thương.
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua những phép lạ Ngài làm. Cho kẻ què được đi. Kẻ câm nói được. Kẻ điếc nghe được. Kẻ mù được thấy. Kẻ chết sống lại. Ngài chữa bệnh cho những người bị bệnh phong cùi, người đàn bà bị bệnh loạn huyết mười hai năm. Ngài cho ông Lazarô đã chết bốn ngày được sống lại… Ngài cảm thông những nỗi yếu hèn của loài người vì chính bản thân Ngài cũng từng trải qua đau khổ(x. Bài đọc II).
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua sự lưu tâm đến những người tội lỗi: Những người thu thuế và các cô gái điếm. Ngài cho họ cơ hội cải tà quy chính, trở thành người tốt.
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện qua việc quan tâm đến những người không có chỗ đứng trong xã hội thời bấy giờ, đó là các trẻ em và các phụ nữ. Ngài nói với các tông đồ: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như chúng”(Mt 19,14).
Tinh thần phục vụ của Ngài được thể hiện một cách cụ thể nhất khi Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Đỉnh cao của việc phục vụ là Ngài tự nguyện bước vào cuộc khổ nạn, hy sinh tính mạng của mình vì người mình phục vụ như lời Ngài nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”(Mc 10,45). Ngài chính là Người Tôi Tớ Giavê bị nghiền nát vì đau khổ để hiến thân làm lễ vật đền tội và làm cho muôn người nên công chính (x. Bài đọc I).
2. Tinh thần phục vụ nơi con người qua mọi thời đại.
Nhà tu đức Jean Vanier, người sáng lập dòng Arche, phân biệt hai loại quyền bính: Một loại quyền bính từ trên áp xuống. Người nắm loại quyền bính này tự coi mình là kẻ ở trên và những kẻ thuộc quyền mình là những người ở dưới. Người này bắt những kẻ dưới phải làm theo ý mình, nếu không theo thì phạt. Loại quyền bính này được dùng để cai trị, hay nói chính xác hơn là thống trị. Loại quyền bính thứ hai không từ trên áp xuống mà đứng bên cạnh để giúp đỡ. Người nắm quyền bính này không coi mình là ở trên cũng không coi kẻ thuộc quyền mình là ở dưới. Người này không nhắm cho ý mình được người ta thực hiện, nhưng nhắm đến ích lợi chung và ích lợi của kẻ mình muốn giúp đỡ. Loại quyền bính này được dùng để phục vụ(x. SCĐ CHÚA NHẬT XXIX TN.B).
Thật vậy, nhìn vào Giáo hội và xã hội hôm nay, chúng ta vẫn thấy tồn tại hai thứ quyền bính trên.
May mắn cho Giáo hội và xã hội vì có rất nhiều những con người phục vụ vô vị lợi theo gương Chúa Giêsu. Đó là tinh thần phục vụ của các tông đồ sau ngày lễ Ngũ Tuần. Đó là tinh thần phục vụ của Giáo hội qua mọi thời đại. Đó là tinh thần phục vụ của Mẹ Têrêxa Cacutta. Tinh thần phục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô. Tinh thần phục vụ của những người cha người mẹ trong gia đình tận tuỵ hy sinh vì con cái. Tinh thần phục vụ của những người thầy cô giáo vì các học sinh thân yêu. Tinh thần phục vụ của các bác sĩ, y sĩ vì các bệnh nhân. Tinh thần phục vụ vì người nghèo, vì những người thấp cổ bé miệng. Họ phục vụ vì lợi ích chung và vì lợi ích người mình phục vụ.
Nhưng vẫn còn đó rất nhiều người trong đạo ngoài đời dùng quyền để “Sai khiến dân chúng như ông chủ, họ lấy uy quyền mà trị dân”(x. Mc 10,42). Họ phục vụ vì mình, vì tiền, vì lợi ích phe nhóm: Thích đến với người giàu, người có chức quyền, ngại gặp người nghèo, người thấp cổ bé miệng. Vì vậy, đối tượng ưu tiên để họ phục vụ là người giàu, người có chức quyền. Người có quyền, có tiền sẽ được phục vụ chu đáo. Người nghèo luôn bị bỏ rơi. Cho nên, vẫn còn đó những bệnh nhân không được phục vụ chu đáo và thậm chí còn bị chết oan trong bệnh viện vì không có tiền “Phong bì”. Có những người dân bị đánh đập dã man và chết oan tại các cơ quan công quyền. Có rất nhiều người nghèo đói, ốm đau bệnh tật không được ai quan tâm. Có thể họ là thành viên trong các cộng đoàn giáo xứ, thậm chí họ ở ngay trong gia đình của chúng ta.
Là người kitô hữu, chúng ta được mời gọi phục vụ kẻ khác theo địa vị và khả năng của mình. Là linh mục, tu sĩ, ban hành giáo, giáo lý viên, thành viên các hội đoàn, cha mẹ, vợ chồng, con cái… Chúng ta đang phục vụ với thái độ nào? Thống trị hay giúp đỡ? Phục vụ vì mình hay vì lợi ích của tha nhân?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có tinh thần phục vụ của Chúa, phục vụ vì lợi ích chung và vì lợi ích của người mình phục vụ. Amen.
7. Hầu hạ và hiến mạng sống – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Ở Việt Nam thời đệ nhị Cộng Hòa, 11 liên danh tranh cử làm Tổng thống, 480 người tranh nhau 60 ghế Thượng Viện và 1650 ông bà tranh giành những chiếc ghế Hạ Viện.
Thời nào và ở đâu đâu cũng có những người tranh nhau làm lớn để “lấy quyền hành áp chế dân, bắt dân phục vụ mình”. Đó là lý do người đời tranh nhau địa vị. Nhưng khi họ gặp nguy khốn, họ bỏ chạy trốn trước nhất. Họ thật là hèn nhát!
Còn những chức vụ cần phải hy sinh gian khổ, như bầu Ban Hành Giáo các xứ đạo, các đoàn thể từ thiện, đạo đức thì chẳng thấy ai tranh cử. Ai được bầu thì tìm hết cách từ chối.
Từ hai ngàn năm trước, Đức Giêsu cho ta thấy: Những thủ lãnh các nước lấy quyền sai khiến dân như ông chủ. Ông chủ thời xưa là người đầy quyền lực muốn bắt đầy tớ làm gì, đầy tớ phải làm theo, dù cực nhọc, khốn khổ đến đâu cũng không được từ chối. Nhiều nơi, đầy tớ như nô lệ, chủ cho sống thì sống, muốn giết thì giết. Thật kinh khủng! Đặc quyền đặc lợi như thế, ai chẳng ham. Đang tuổi đầy tham vọng và lợi dụng là anh em chú bác với Đức Giêsu, hai anh em thanh niên Giacôbê và Gioan tưởng Thầy mình lên thủ đô Giêrusalem với quyền phép lạ lùng thế này, chắc sẽ lên ngai vua dễ dàng, nên hai anh đã đến xin cho mình được ngồi hai bên tả hữu của Thầy trong vinh quang nước Thầy. Đức Giêsu đã tức khắc sửa sai thói tham danh tham lợi trần tục đó và bảo: “Các anh không biết điều các anh xin! Các anh có uống nổi chén đắng Thầy sắp uống hay có chịu nổi phép rửa Thầy sắp chịu không?”.
Các anh thưa được. Các anh thưa đại đi, chứ các anh đâu có biết chén đắng đó là gì, phép rửa đó là gì. Mãi đến khi Người bị bắt, bị đánh đòn, bị vác thập giá, bị đóng đinh, bị đâm thấu tim, máu cùng nước chảy ra, lúc đó, các anh mới hiểu chén đắng là hy sinh chịu xỉ nhục chua xót, chịu đau khổ cay đắng. Chịu phép rửa là đổ máu và nước trong trái tim ra để yêu thương hiến mạng sống làm giá cứu độ muôn người. Thấy thế, các anh trốn mất, chẳng còn thấy các anh đâu nữa.
Thật đắng cay, chua xót đến chừng nào! Nhưng Đức Giêsu đã hết sức bình tĩnh chỉ dẫn thêm cho mấy anh: “Ai muốn làm lớn, phải làm kẻ hầu hạ, ai muốn làm đầu, phải làm đầy tớ mọi người, vì Con Người đến không để được người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người”. Con Người đây chính là Đức Giêsu. Lời đó chính là Hiến Chương Nước Trời, là Hiến Pháp của Đức Kitô tuyên bố cho Giáo Hội, cho các cộng đồng Kitô giáo, cho các môn đệ: Mỗi người đều phải là đầy tớ mọi người. Không phải bô bô ngoài môi, ngoài miệng mình là đầy tớ, nhưng là sống đầy tớ, phục vụ mọi người thực sự mới phản chiếu rõ nét hình ảnh của Đức Giêsu. Trong Giáo Hội cần nhấn mạnh đến nguyên lý đó, để từ bỏ những đầu óc vụ lợi, vụ những danh hiệu, chức vị, danh dự, huy chương, phong thần, phong tước.
Chỉ có một nguyên tắc độc nhất là tôi tớ khiêm tốn hèn mọn. Những chức vụ có vai trò đặc biệt chỉ nên gọi là thừa tác, trợ tá, theo đúng nghĩa chữ La tinh minister là tôi tớ, chứ không phải bộ trưởng, thủ trưởng theo lối dịch tôn ty phong thần của người đời, không phải của đạo Đức Kitô.
Trong Giáo Hội Đức Kitô chỉ có kẻ thừa sai, thừa tác, trợ tá, tôi tá, nhân viên phục vụ hay mục tử, là đầy tớ chăm lo, săn sóc chiên như Đức Giêsu. Đức Kitô dầu là Con Thiên Chúa quyền phép vô cùng, Người không đến để ngự trị, nhưng để hầu hạ, không đóng vai trò ông chúa, ông chủ, ông Seigneur, nhưng phục vụ như nô bộc, như nội trợ, như người mẹ đích thực, làm tất cả, phục vụ tất cả, hầu hạ tất cả vì yêu thương con cái. Hầu hạ con từ trong trứng nước tới khi sinh ra, cho đến khôn lớn: Hầu hạ từ những việc đê tiện nhất như hót phân, lót tã, lau nhà, giặt giũ mọi đồ dơ, tắm rửa, nấu nướng, nuôi dưỡng, bú mớm đến những việc cao quý nhất như dạy dỗ con cái thành nhân, thành thánh, thành con Chúa. Người yêu thương hy sinh không còn nghĩ đến mình, sẵn sàng chịu mọi thiệt thòi, vất vả, đau khổ đến hiến cả mạng sống vì hầu hạ con. Hầu hạ như thế còn cao chót vót hơn cả thái sơn, mạnh mẽ tuôn trào hơn cả nước nguồn chảy ra. Đó là tình yêu hy sinh tuyệt hảo xứng đáng là hình ảnh Đức Giêsu.
Hình ảnh của Người đã được thể hiện qua các vị thánh nhân như: Maximiên Kolbê xin xung phong chết thay cho một gia trưởng còn một đàn con dại; như cha Trương bửu Diệp xin chịu bắn thay cho cả đoàn người ẩn náu trong nhà thờ; như thánh Martinô Porres xin bán mình đi làm nô lệ để nhà dòng lấy tiền trả nợ …
Hầu hạ và hiến dâng mạng sống, không phải là thứ phục vụ vì trách nhiệm hay bổn phận bó buộc hay tệ hơn nữa, hầu hạ vì sợ sệt như nô lệ. Cũng chưa phải là hầu hạ và hiến dâng mạng sống khi người ta phục vụ vì thích hy sinh, thích dấn thân, hay hy sinh cầm chừng hoặc hiến dâng có tính toán.
Chỉ khi nào hầu hạ vì yêu thương sẵn sàng hy sinh hiến dâng mạng sống mình cứu giúp người mới đích thực nên giống Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Người đã uống chén đắng, đã chịu phép rửa trên Thánh giá, trở nên người tôi tớ phải tan nát vì đau khổ để thông cảm với mọi nỗi yếu hèn của chúng con, để hiến thân làm lễ vật đền tội chúng con, cho chúng con được ơn cứu sống. Xin cho chúng con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.
8. Tôi tớ của mọi người
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Theo tâm lý chung của loài người, ai cũng muốn được giầu sang phú quí, muốn có địa vị cao, thích ăn trên ngồi trước, muốn được người ta hầu hạ… Nhưng những tiêu chuẩn đó không nhất thiết là của Chúa. Tham vọng lo liệu của những con trai ông Giêbêđê là Giacôbê và Gioan đã là dịp để Đức Giêsu nói rõ: sự cao trong đích thực ở tại cái gì?
Đức Giêsu không đáp ứng lời cầu xin của hai anh em Giacôbê và Gioan vì nó không thích hợp với đường lối của Ngài. Nhân dịp này Ngài dạy cho các ông là môn đệ đặc biệt của Ngài, và cũng là cho chúng ta một bài học: Sự cao trọng không cốt ở danh dự, giầu có, chức quyền danh vọng hay sức mạnh… nhưng ở tại sự phục vụ tha nhân. Chính vì vậy, Ngài mới nói:Ai muốn làm lớn phải làm tôi tớ mọi người”. Lời giáo huấn này đi ngược lại với lối hành xử của người đời, buộc chúng ta phải động não!
Đức Giêsu là vị Thượng Tế có thế giá, luôn chuyển cầu cho chúng ta trước tòa Thiên Chúa. Ngài cũng đã trải qua những đau khổ trong đời sống trần thế, đồng thời cũng hé mở cho chúng ta thấy được vinh quang của Ngài sau này khi đã sống lại. Mọi Kitô hữu đều có chức năng tư tế phổ quát, nên cũng phải sống và làm chứng bằng đời sống phục vụ. Và nếu cần, họ cũng phải sẵn sàng hiến mạng sống để chứng tỏ sự trung thực của đời sống phục vụ của mình. Yêu thương là phục vụ, càng phục vụ, tình yêu càng dồi dào thắm thiết.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Is 53,10-11
Hai câu trong bài đọc 1 là một trích đoạn của Bài Ca thứ tư về Người Tôi Trung của Isaia. Cho mãi đến thời Giêrêmia, tư tưởng tôn giáo Do thái mới nhận biết một mối liên hệ giữa việc đền tội với những đau khổ của người công chính bị bách hại. Người công chính đây là Người Tôi Trung hiến mạng sống của mình để chuộc tội cho dân Người. Cái chết của Người sẽ là khởi điểm của vinh quang Người và là suối nguồn của mọi ơn phúc cho những người khác.
Khi suy tư về những đoạn văn như đoạn văn này, các Kitô hữu tiên khởi đã đi đến một sự hiểu biết về những đau khổ và cái chết của Đức Giêsu.
+ Bài đọc 2: Dt 4,14-16
Đức Giêsu là vị Linh mục Thượng phẩm tuyệt hảo của chúng ta. Thánh Phaolô kêu mời chúng ta hãy vững tâm đến với Ngài để được tiến đến cùng Chúa Cha. Ngài về trời để làm trung gian cho chúng ta. Chính Ngài đã có kinh nghiệm bản thân về những thử thách, những đau khổ mà chúng ta đang phải chịu. Do đó, Ngài dễ dàng thông cảm với những yếu đuối của chúng ta, Ngài nâng đỡ chúng ta và cầu bầu cho chúng ta trước tòa Chúa Cha.
+ Bài Tin mừng: Mc 10,35-46
Lần thứ ba Đức Giêsu loan báo cuộc Thương Khó sắp tới của Ngài cho các môn đệ, nhưng xem ra các ông chẳng hiểu gì. Họ vẫn còn giữ nguyên quan niệm của người Do thái là chờ đợi một nước vinh quang trần thế theo nghĩa chính trị.
Họ chỉ nghĩ đến địa vị trong nước mà Đức Giêsu sắp lập. Họ lo bàn cãi và tranh luận với nhau, lo chiếm cho mình một chỗ cao hơn trong vương quốc tương lai. Nhưng Đức Giêsu đã dạy cho các ông một bài học: ở trong vương quốc của Ngài sự cao trọng thực sự không cốt ở trong uy thế và danh dự, nhưng ở trong sự phục vụ tha nhân đến tột cùng, nếu cần:Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Những lời nói này của Đức Giêsu có liên quan đến tất cả chúng ta. Nó làm xẹp đi những tham vọng, tính kiêu căng và những mơ ước quyền thế của chúng ta. Phục vụ là đòi hỏi của tình yêu. Phục vụ là con đường duy nhất của sự cao trọng đích thực.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Trở nên tôi tớ mọi người
I. AI CŨNG THÍCH QUYỀN CAO CHỨC TRỌNG
1. Tâm lý người đời.
Ngày nay trên khắp thế giới, hầu hết các nước đều có cuộc bầu cử vào quốc hội, bầu Tổng thống hay một chức vụ tại một địa phương nào đó. Bất cứ ai ra tranh cử cũng tỏ ra mình có tài năng, xứng đáng lãnh nhận chức vụ, càng lên cao càng tốt. Thời nào và ở đâu cũng có những người tranh nhau làm lớn để lấy quyền hành áp chế dân, bắt dân phục vụ mình. Đó là lý do người đời tranh nhau địa vị trong xã hội.
Người ta tìm kiếm quyền bính vì những lý do khác nhau. Một số người thích có quyền lực đi chung với quyền bính: nó làm cho người ta cảm thấy quan trọng. Những người khác thích uy thế mà nó đem lại. Những người khác nữa thích được trả lương cao. Tất cả những lý do ấy đều có một điểm chung – quyền bính được xem như cơ hội để thăng tiến bản thân.
2. Tâm lý các môn đệ Chúa.
Mặc dầu đã đi theo Chúa gần ba năm, nhưng các môn đệ cũng chưa lãnh hội giáo lý của Ngài được bao nhiêu. Ngay sau lần thứ ba Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ sự Thương Khó của Ngài: “Nào chúng ta lên Giêrusalem… Con Người sẽ bị nộp cho các Thượng tế. Họ sẽ lên án tử Người. Họ sẽ nhạo báng Người, sẽ khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết Người”(10,32-34), các ông cũng không quan tâm đến lời loan báo ấy, có lẽ chẳng hiểu gì, hơn nữa đầu óc các ông còn đang mơ tưởng đến vương quốc Đức Giêsu sắp lập. Như vậy có nghĩa là vào lúc Đức Giêsu “chọn chỗ chót” thì các ông lại cố “đua nhau” chiếm chỗ tốt hơn: Họ vẫn còn mơ mộng về Đấng Cứu Thế vinh quang của dân tộc. Đấng Cứu Thế đối với họ, đó là Đấng chiến thắng hiển hách, sẽ dùng quyền lực của mình điều khiển mọi sự.
Riêng trường hợp đối với Giacôbê và Gioan, theo tục lệ tự nhiên trong nhiều nền văn minh phương Đông, họ cho là tự nhiên khi sử dụng đặc quyền của người trong họ: vì là anh em bà con với Đức Giêsu, họ đến xin người bà con “dòng họ” được tham dự vào vào sự thành công của một thành viên trong gia tộc như người ta thường nói:Một người làm quan, cả họ được nhờ”(Tục ngữ).
Có lẽ vì vậy mà hai anh em Giacôbê và Gioan đã lợi dụng người anh em bà con để được thăng tiến, được hưởng đặc quyền đặc lợi, được tiến cử. Các ông đã xin:Khi Thầy ngự trên ngai vinh hiển, xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy”{Mc 10,37).
Lời thỉnh nguyện này đã nói lên tham vọng của hai ông là muốn tham dự vào quyền điều hành trong vinh quang của Đức Giêsu. Thứ “vinh quang” mà các ông xin là vinh quang theo kiểu trần thế vì các ông tin Đức Giêsu sẽ lập nước Israel ở trần gian, chứ không phải vinh quang của Đức Giêsu sau khi tử nạn và phục sinh.
Đức Giêsu trả lời ngay:Các con không biết điều các con xin”. Khi nói câu này, Đức Giêsu mốn tỏ ra cho các ông biết lời thỉnh cầu của các ông thật là ngây ngô vì các ông chưa hiểu gì về việc tử nạn và phục sinh mà Ngài đã loan báo đến lần thứ ba này. Cho nên Ngài hỏi tiếp:”Các con có thể uống chén đắng Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không”? Nói như vậy có nghĩa là chấp nhận đau khổ và sự chết. Chúa có ý nói đến cuộc tử nạn của Ngài trên Thập giá. Chẳng hiểu gì, các ông thưa đại đi:Thưa được”.
Chúng ta cũng nên tìm hiểu thêm hai từ “chén đắng” và “phép rửa”.
Trong Cựu ước, “Chén” đôi khi người ta nói đến chén chúc tụng, nhưng thường là nói về chén đắng để diễn tả những đau đớn trước khi chết. Lúc hấp hối, Đức Giêsu đã xin Chúa Cha cất chén đắng cho Người, nhưng cũng nói tiếp:Nhưng đừng theo ý Con, cứ theo ý Cha”.
Còn “phép rửa” trong bí tích rửa tội, toàn thân được dìm xuống nước, tượng trưng cho việc “chìm đắm” trong cái chết trước khi “chỗi dậy” trong đời sống mới. Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu sẽ trải qua một phép rửa thật sự. Người sẽ bị dìm xuống làn nước chết, trước khi chỗi dậy vào ngày thứ ba (Fiches dominicales, tr 304).
Câu “Thưa được” đã đưa Giacôbê và Gioan đến cái chết. Sự việc xẩy ra: ông Giacôbê đã bị vua Hêrôđê Agrippa giết năm 44, Gioan chết trong tuổi già cuối thế kỷ I. Nhưng ông đã bị bỏ vào vạc dầu sôi ở cửa Latinh. Ông thoát chết được do phép lạ Chúa làm. Sau đó bị phát lưu ở đảo Patmos trong cảnh “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”, sống cũng như chết. Như vậy lời Chúa đã được thực hiện đúng.
II. BÀI HỌC CỦA ĐỨC GIÊSU
1. Khát vọng của người đời
Từ 2000 năm trước, Đức Giêsu đã cho thấy: những thủ lãnh các nước lấy quyền sai khiến dân như ông chủ. Ông chủ thời xưa là người đầy quyền lực muốn bắt đầy tớ làm gì, đầy tớ phải làm theo, dù cực nhọc, khốn khổ đến đâu cũng không được từ chối. Nhiều nơi, đầy tớ bị coi như nô lệ, chủ cho sống thì sống, muốn giết thì giết. Vì thế, Đức Giêsu nói:Các con biết: những người được coi là thủ lãnh thì cai trị dân như những bạo chúa, những người làm lớn thì lấy quyền mà áp chế dân”(Mc 10,42).
Tuy thế, có những loại quyền bính khác nhau. Jean Vanier phân biệt hai loại quyền bính: một quyền bình áp đặt, thống trị và điều khiển; và một quyền bính đồng hành, lắng nghe, giải phóng, phân quyền làm cho người dân tự tin và kêu gọi họ ý thức về những trách nhiệm của mình.
Còn có một loại quyền bính thứ ba thinh lặng, yêu thương và ẩn giấu – quyền bính yêu thương nhưng không dùng quyền lực, xây dựng lòng tín thác và đôi khi chờ đợi đêm ngày trong nỗi lo âu. Cha mẹ đôi khi phải chờ đợi suốt đêm trường mong sao đứa con mình lầm đường lạc lối trở về…
2. Tiêu chuẩn của công dân Nước Trời
Giáo huấn mới của Đức Giêsu là sự đảo nghịch của Tin mừng. Khi nói với các tông đồ, cũng như với những người chịu trách nhiệm về các cộng đoàn Kitô hữu có mặt lúc đó hay trong tương lai. Đức Giêsu nêu lên một luật đối trọng với cách thế mà các xã hội dân sự chủ trương về quyền hành:Những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai trị dân”. Điều luật này chống lại lòng ham muốn thống trị, như Giacôbê và Gioan và mười tông đồ còn lại. Điều luật này không chỉ là một điều luật bình thường, mà Đức Giêsu coi nó là Hiến chế cho các cộng đồng môn đệ Người: mỗi người là đầy tớ mọi người (J. Delorme).
Đây là một đảo lộn tận gốc, một lý thuyết cách mạng bắt đầu một mối tương quan mới giữa người với người:Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em”.
Đối với Đức Giêsu, chức quyền là để phục vụ. Chức quyền cũng như tiền bạc, tự nó không xấu. Bất cứ nhóm nào cũng cần có một người phụ trách. Nhưng theo ý Chúa, phụ trách trước hết không phải là một địa vị thống trị hưởng lợi, hưởng uy thế, mà là một địa vị để phục vụ nhiều hơn:Con Người đến không phải được phục vụ, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”(Mc 10,45).
Người lãnh đạo trong Hội thánh là “đầy tớ”. Trong các văn kiện, Đức Giáo hoàng thường dùng danh hiệu “Servus servorum”: đầy tớ của các đầy tớ. Những chức vụ có vai trò đặc biệt chỉ nên gọi là thừa tác hay trợ tá theo đúng nghĩa của chữ Latinh “Minister” là tôi tớ, hoặc tiếng Hy lạp “Diakonos”: đầy tớ và “Doulos” là nô lệ.
Trong các vị lãnh đạo trong Hội thánh cũng phải có phẩm trật như người ta nói:Kim chỉ phải có đầu”(tục ngữ), cần phải có một người đứng đầu điều khiển một cộng đoàn, chứ không thể có cảnh “cá đối bằng đầu”(tục ngữ) mà mọi việc được xuôi lọt, vì sẽ không ai muốn phục tùng ai. Điều quan trọng mà Đức Giêsu muốn nhấn mạnh: không phải là hủy bỏ chức vụ của những người đứng đầu, chức vụ của những người lãnh đạo, nhưng đừng dùng địa vị và quyền bính của mình để áp bức người khác.
Truyện: Đức Hồng y Roncalli
Một hôm Đức Hồng y Roncalli vừa trên xe bước xuống. Ngài mới đi xa về. Phái đoàn tòa giám mục ra đón. Mọi người ngạc nhiên trên vai áo Hồng y có vướng mấy cộng rơm đồng quê. Ai hỏi ngài cũng cười xòa vui vẻ, nhưng mấy nhân viên phụ tá trên xe đều hiểu chuyện. Chiếc xe của Đức Hồng y đang từ hướng Bắc xuống miền Nam qua vùng đồng ruộng. Giữa đường một chiếc xe bò chở rơm sa hố. Người đánh xe gắng sức đẩy phụ nhưng xe không nhúc nhích. Đức Hồng y cho xe dừng lại, xắn tay áo hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm sa lầy lại chuyển bánh tiếp tục lên đường.
Những cọng rơm trên vai Đức Hồng y đối với ngài chỉ cười xòa cho qua. Nhưng thực sự tỏ rõ cho chúng ta một Hồng y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.
Sau này lên ngôi Giáo hoàng, Đức Gioan 23 vẫn tiếp tục nếp sống bình dị phục vụ.
III. QUYẾT TÂM CỦA CHÚNG TA
Chúng ta có quyền tự do chấp nhận hay từ chối lời dạy của Chúa là trở nên tôi tớ của mọi người, nhưng chúng ta phải chịu trách nhiệm về quyết định đó vì hậu qủa của nó sẽ khôn lường. Hãy chọn con đường đúng mà đi.
1. Hai hướng đi trước mắt
Con người chúng ta, trong mọi hoàn cảnh, cứ bị dẫn đến những ngã ba đường: nghĩa là trước mắt ta luôn có hai ngả mà ta phải chọn một. Hai ngả đó thường dẫn đến hai chiều khác nhau; một hướng vị kỷ và một hướng vị tha.
Hướng vị kỷ có một sức mạnh tự nhiên lôi cuốn ta vào, nó khiến ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, hạnh phúc hay đau khổ của mình, quyền lợi hay trách nhiệm của mình. Nói chung, nó thu hút ta vào chính bản thân ta. Hầu hết mọi người, trong hầu hết mọi trường hợp, đều bị lôi cuốn vào ngả này.
Còn hướng vị tha rất ít khi lôi cuốn ta, nhưng lương tâm ta lại thúc đẩy ta, đôi khi còn ép buộc ta bước vào. Nó đòi hỏi ta phải quên bản thân, quên những gì liên quan tới bản thân, để nghĩ đến người khác, đến đám đông bên ngoài ta, đến hạnh phúc hay đau khổ của họ. Dù đi vào hướng nào, thì sau khi đi một đoạn đường nữa, ta sẽ lại đến một ngã ba khác, cũng với hai hướng vị kỷ và vị tha trước mặt. Mỗi lần gặp ngã ba đó là mỗi lần ta phải lựa chọn hướng đi cho mình (JKN).
2. Phải chọn một hướng đi
Đối với những người theo Chúa, hai hướng ấy vẫn luôn luôn mở ra đòi buộc họ chọn lựa mỗi lần họ phải quyết định để hành động.
* Chọn hướng vị kỷ: hướng vị kỷ sẽ cám dỗ họ lợi dụng con đường theo Chúa như một phương tiện để tiến thân, để bước vào vinh quang trần thế, với quyền lực, danh vọng, tiền bạc trong tay, là những thứ mà Giáo hội cũng như xã hội cống hiến cho họ, mong họ dùng chúng để phục vụ Thiên Chúa, Giáo hội và mọi người. Nhưng họ lại dùng chúng cho mục đích vị kỷ của mình, mặc dù trên danh nghĩa vẫn là để phục vụ Thiên Chúa, Giáo hội và tha nhân.
Truyện: Hòn đá vấp ngã
Một hôm, khách qua đường gặp một triết gia nổi tiếng người Hy lạp. Ông ta đứng ở góc đường và cười nắc nẻ một cách đắc chí. Ai cũng tưởng ông là người điên nên không thèm để ý.
Sau cùng, có một người đánh bạo đến gần và hỏi:
– Vì lý do gì ông cười như vậy?
Ông ta trả lời:
– Ông có thấy cục đá nằm giữa đường kia không? Từ sáng tới giờ không biết bao nhiêu người đã vấp ngã vì hòn đá đó, và họ bực mình chửi bới. Thế nhưng, không có một ai cúi xuống nhặt hòn đá vứt khỏi lối đi để người khác khỏi bị vấp ngã.
* Chọn hướng vị tha: Còn hướng vị tha sẽ khiến người theo Chúa coi việc theo Chúa như một phương cách hữu hiệu nhất để phụng sự Thiên Chúa, nhân loại, quê hương và tha nhân. Họ không quan tâm hay mong muốn chuyện thăng tiến bản thân, không bao giờ coi đó như một mục đích phải đạt tới trong cuộc đời. Nếu họ được giao địa vị, trách nhiệm, với những phương tiện hữu hiệu trong tay, họ sẽ lợi dụng tất cả những thứ ấy để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Điều họ quan tâm là: con người được hạnh phúc, và qua đó Thiên Chúa được vinh danh.
Chúng ta không bao giờ quên được những gương phục vụ một cách xả kỷ vô vị lợi như thánh Đamien tông đồ người hủi, thánh Maximilianô Kolbê xin chết thay cho một vị trung úy trẻ trong trại tập trung Đức quốc xã, các vị khác như Ozanam, chân phước Têrêsa Calcutta…
3. Xem lại con đường đang đi
Đức Giêsu không nài ép chúng ta làm môn đệ Ngài, Ngài chỉ kêu mời chúng ta với tinh thần tự nguyện. Ngày nay chúng ta còn mang cái tâm trạng của các tông đồ ngày xưa khi Đức Giêsu chưa đi vào cuộc tử nạn và phục sinh không? Lời mời gọi của Đức Kitô hôm nay có giá trị đặc biệt để chúng ta xét lại thái độ của mình. Chúng ta lượng định thế nào về các thành công và tầm vóc quan trọng trong nội bộ Hội thánh, và ngoài xã hội? Chúng ta trân trọng những ai và khinh miệt kẻ nào? Cứ như cái nhìn của Tin mừng hôm nay, thì kẻ “vĩ đại” là người phục vụ kẻ khác. Nó mở mắt cho chúng ta thấy được tấm lòng “vĩ đại” trong nếp sống thường nhật chung quanh mình như người cha hy sinh, các bà mẹ chung thủy, dịu dàng, những người hiền lành khiêm nhường chất phác phục vụ không cần tiếng khen, không cần phần thưởng, cũng không cần lời cám ơn…
Phục vụ là một nhân đức gần gũi với đức bác ái. Nhân đức phục vụ bắt nguồn từ lòng yêu mến tha nhân. Như vậy quyền thế và phục vụ không xung khắc nhau, vì ai có nhiều quyền và quyền lớn thì có khả năng phục vụ nhiều hơn. Phục phụ phải là cái dấu chỉ của người môn đệ đích thực của Chúa Kitô. Hơn nữa, chính khi phục vụ tha nhân là lúc người ta tìm lại được chính mình vì “chính khi hiến thân, là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình, là lúc gặp lại bản thân”. Chính khi phục vụ tha nhân là lúc chúng ta tìm được hạnh phúc nhự thi sĩ Tagore người An độ đã viết:
Nằm ngủ, tôi mơ thấy đời sống toàn là Niềm vui và Hạnh phúc.
Tỉnh dậy tôi nhận ra sống là Phục vụ.
Tôi dấn thân Phục vụ và tôi khám phá ra rằng Phục vụ là Hạnh phúc.
9. Phục vụ
Nhìn vào cuộc đời của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy nổi bật lên tinh thần phục vụ.
Thực vậy, vì yêu thương nhân loại, Ngài đã xuống thế làm người và ở giữa chúng ta. Suốt quãng đời công khai, Ngài đã làm biết bao nhiêu phép lạ, cho kẻ què được đi, kẻ mù được sáng, kẻ phong cùi được lành sạch, hầu xoa dịu phần nào những đớn đau và bất hạnh. Chúng ta có thể nói về Ngài như sau: Đi tới đâu, Ngài liền thi ân giáng phúc tới đó.
Và sau cùng để cứu độ chúng ta, Ngài đã phải chịu chết trên thập giá, như lời Ngài đã xác quyết: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Chính Ngài cũng đã đúc kết về cuộc đời của mình: Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Đồng thời, Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài đi vào con đường dấn thân để phục vụ. Trong bữa tiệc ly vào buổi tối ngày thứ năm Tuần thánh, Ngài đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và nói: Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm. Nhưng nếu ta là Thầy và là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Vậy chúng ta cần phải phục vụ và giúp đỡ người khác như thế nào?
Bác sĩ Tom Dolly, người đã từng hy sinh cả cuộc đời của mình giữa chốn rừng thiêng nước độc ở bên Lào, để giúp đỡ cho những người thiếu may mắn vào khoảng đầu thế kỷ này, đã nói như sau: Không ai quá nghèo đến độ không có một cái gì đó để trao tặng cho người khác.
Cũng vậy, dầu bất tài, xấu xí hay bệnh tật đến đâu chăng nữa, thì chẳng ai là một kẻ vô dụng cho người khác và cho xã hội. Như thế có nghĩa là ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng ta đều có thể thực hiện được những hành động bác ái yêu thương, phục vụ và giúp đỡ người khác.
Đúng thế, một người ăn xin ư? Họ có thể cho chúng ta một dịp để sống quảng đại và chia sẻ. Một kẻ tàn tật và đau ốm ư? Họ có thể mời gọi chúng ta sống cảm thông và nâng đỡ, đồng thời còn đặt ra cho chúng ta những câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời, của đau khổ và của sự chết. Một kẻ thù của chúng ta ư? Họ có thể đem lại cho chúng ta một cơ may để sống kiên nhẫn, chịu đựng và tha thứ.
Phải, bất kỳ ai cũng có thể ban tặng cho chúng ta một cái gì đó. Vấn đề là chúng ta có biết mở rộng cõi lòng để đón nhận hay không? Đồng thời chúng ta cũng phải tự vấn lương tâm xem chúng ta đã làm được những gì để phục vụ và giúp đỡ những người chung quanh? Chẳng hạn như một nụ cười, một ánh mắt, một sự lắng nghe, một lời nói cảm thông, an ủi và khích lệ.
Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ, mỗi việc làm của tình bác ái yêu thương sẽ là như một quà tặng mà từng giây từng phút, chúng ta có thể và phải đem đến cho người khác.
Giữa đám đông dân chúng đang dâng cúng tiền bạc tại đền thờ, đôi mắt Chúa Giêsu đã dừng lại nơi một bà goá nghèo hèn. Bà chỉ bỏ vào hòm tiền có một đồng xu, thế nhưng Ngài đã nhìn thấy giá trị to lớn của hành vi và đồng xu nhỏ bé ấy. Bởi vì dưới cái nhìn của Chúa, mọi sự dù nhỏ bé đến đâu chăng nữa cũng vẫn có giá trị của nó.
10. Phục vụ làm nên quyền bính
(Suy niệm của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Mc 10: 35-45: Tin mừng hôm nay cho thấy các môn đệ, và có lẽ là tuyệt đại đa số nhân loại luôn mơ ước và nhào nắn một mẫu người lãnh đạo lý tưởng là người có quyền thống trị, chi phối người khác và được người khác phục vụ…
Trong một cộng đoàn, đăc biệt là Giáo hội luôn cần một cơ chế, một thể chế lãnh đạo. Vì thế, vai trò của người lãnh đạo rất cần thiết, tuy nhiên, lãnh đạo theo tinh thần của Chúa Giêsu không phải theo cách hiểu và sự hành xử quyền bính của thế gian. Lãnh đạo trong Giáo hội là một thừa tác vụ, một chức vụ để phục vụ làm phát triển con người và cộng đồng.
I. Khám Phá Sứ Điệp Tin Mừng: Mc 10,35-45
Ngay sau lời loan báo về cuộc Thương khó, xem ra các môn đệ chưa hiểu và chưa lãnh hội được mạc khải của Chúa Giêsu, các ông đã vội vàng cầu xin một địa vị, một chỗ tốt trong vinh quang Nước Chúa. Nhân đấy, Chúa Giêsu dạy một bài học về tinh thần phục vụ của người lãnh đạo.
1. Lời thỉnh cầu của anh em Giacôbê: Sau lời Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn, Thánh Máccô tường thuật tiếp câu chuyện hai anh em Giacôbê và Gioan đến xin được ngồi bên hữu và bên tả Chúa trong vinh quang. Rõ ràng lời thỉnh cầu của hai ông thật phi lý và ngây ngô trong bối cảnh này. Chúa Giêsu đã trách cứ các ông: không biết điều các ông xin. Điều các ông xin là quá lớn, không thuộc quyền Chúa Giêsu ban mà thuộc quyền Chúa Cha. Điều các ông xin quả là vô tâm và vô ích, trong khi Thầy đang nói đến cuộc khổ nạn, các ông chưa hiểu, chưa cảm thông, chưa can đảm theo Thầy mà đã vội đòi hỏi vinh quang, đòi chỗ tốt.
2. Lời mời gọi của Chúa Giêsu: Trước yêu cầu của hai anh em Giacôbê, Chúa Giêsu mời gọi họ uống chén Người sắp uống và chịu cùng phép Rửa Người sắp chịu. Hai hình ảnh Chúa Giêsu dùng “chén và phép Rửa” có nghĩa là chấp nhận đau khổ, chấp nhận tử đạo. Do đó, vinh quang chỉ có thể có, nếu biết can đảm đi vào con đường thập giá với Thầy mình.
3. Con Người đến để phục vụ, chứ không phải để được người ta phục vụ: Lời thỉnh cầu của hai anh em Giacôbê đã tạo nên sự khó chịu nơi các môn đệ khác và cũng lộ ra tính ham địa vị, sự tranh dành địa vị giữa các ông. Chính các ông khi đi đường cũng đã từng tranh luận xem ai là người lớn nhất trong số họ. Với giáo huấn của Chúa Giêsu, mọi chức tước, quyền bính, địa vị đều nhằm mục đích duy nhất là phục vụ. Các thủ lãnh trong cộng đoàn Giáo hội của Chúa phải hiểu chức vụ của mình là một sự phục vụ. Làm lớn là làm đầy tớ của anh chị em, của mọi người. Như Chúa Giêsu, Người đến để phục vụ và thí mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người chứ không phải để thống trị, để bắt người khác phục vụ mình.
II. Chiêm Ngắm Chúa Giêsu:
Tin mừng hôm nay cho thấy các môn đệ, và có lẽ là tuyệt đại đa số nhân loại luôn mơ ước và nhào nắn một mẫu người lãnh đạo lý tưởng là người có quyền thống trị, chi phối người khác và được người khác phục vụ. Nhưng Chúa Giêsu lại phác họa và đòi hỏi các môn đệ của mình một khuôn mẫu ngược lại. Người lãnh đạo phải là người tôi tớ, người phục vụ. Chính Chúa Giêsu khi nói lên điều ấy, Người đã đi trước, đã thực hiện trọn vẹn điều Người giảng dạy. Người đã hiến mạng, đã phục vụ sự sống nhân loại. Chúa Giêsu là con người phục vụ.
III. Gợi ý bài giảng:
1. Quyền bính trong Giáo hội đến từ sự phục vụ:
Các môn đệ xin Chúa được ngồi bên hữu và tả Người trong vinh quang, nghĩa là xin có một địa vị cao trọng, quyền thế trong Nước Chúa, trong cộng đoàn. Các ông cũng đã từng tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong số họ. Sự kiện này phản ánh não trạng tham chức, ham quyền, hám lợi danh của con người. Chỉ muốn mình được ở trên người khác, được người khác cung phụng, phục vụ. Lời dạy của Chúa Giêsu chỉ ra cách thế để có địa vị, để được làm lớn, làm lãnh đạo đó là hạ mình xuống làm đầy tớ phục vụ mọi người. Một lời dạy, một cách thế nghịch lý, nếu không muốn nói là phi lý. Đối với Chúa, điều làm nên môn đệ của Người không phải là quyền bính, chức tước mà là sự phục vụ. Quyền bính chỉ có thể đến với những ai biết phục vụ và chân thành phục vụ anh chị em mình. Ai càng biết hạ mình phục vụ, càng có uy thế trước cộng đoàn, trước Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã đi trước thực hiện trọn hảo điều Người dạy. Người đến để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhân loại. Môn đệ Đức Kitô cũng phải đi vào con đường khiêm hạ phục vụ của Thầy mình. Ngày nay, là Kitô hữu, môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta đã và đang hạ mình phục vụ như thế nào? Hay đang là những người mơ ước và tìm mọi cách ngay cả cách bất chính, bất công để tìm kiếm danh vọng địa vị trần thế.
2. Để trở nên đầy tớ mọi người:
Chức quyền danh vọng, địa vị, tự thân nó không xấu. Trong một cộng đoàn, một xã hội luôn cần có người đứng đầu để điều hành, lèo lái thì cộng đoàn ấy, xã hội ấy mới có thể vận hành tốt và tiến tới. Việc làm hết sức mình vì lợi ích chung, vì mọi người của người lãnh đạo là thái độ phục vụ chân thành. Ngày nay, người ta cũng đã nhận thức được lãnh đạo là phục vụ: nào là “đầy tớ của nhân dân”; quan chức là “nô bộc của dân”… Nhưng để sống tinh thần hạ mình làm đầy tớ phục vụ mọi người theo tinh thần của Chúa Giêsu không phải là chuyện dễ dàng. Theo tinh thần của Lời Chúa dạy, sự phục vụ có nghĩa là làm cho cộng đoàn được chăm sóc, mọi người được chăm lo, được lớn lên. Do đó, Kitô hữu trở nên người đầy tớ phục vụ anh chị em mình là làm cho họ được yêu thương, được quan tâm, được khơi dậy những tiềm năng phát triển đời sống toàn diện. Ngai vàng, quyền bính mà Chúa Giêsu hứa và mời gọi mọi người là hãy yêu mến như Người, hãy thí mạng sống vì tha nhân như Người. q
IV. Lời cầu chung:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đến trần gian để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhân loại chúng ta. Trong tâm tình tri ân, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1. Mọi quyền bính, phẩm trật trong Giáo hội đều là các thừa tác viên của Chúa, nghĩa là nhằm để phục vụ Giáo hội, con người và thế giới. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám mục và Linh mục luôn thấm nhuần và sống đúng tinh thần hạ mình làm đầy tớ phục vụ mọi người như Chúa Giêsu đã sống và dạy dỗ.
2. Ai muốn làm lớn thì hãy tự làm đầy tớ anh chị em. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia được tràn đầy ơn thánh, luôn ý thức trách nhiệm phục vụ của mình để hết lòng tận tụy phục vụ, làm cho dân nước ngày càng phát triển, được thịnh vượng, tự do và hạnh phúc.
3. Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết yêu thương phục vụ lẫn nhau trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ bằng sự hy sinh và sự giúp đỡ nhau chân thành.
Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến để phục vụ nhân loại chúng con bằng việc hy sinh chết trên thập giá để cho chúng con được sống và sống dồi dào. Xin cho mỗi người chúng con đây luôn biết mang lấy tinh thần phục vụ của Chúa để sống và đối xử chân thành với nhau trong cuộc sống hằng ngày. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
11. Chúa Nhật 29 TN – Chúa Nhật Truyền Giáo
(Suy niệm chú giải Lời Chúa CN 29 TN B. Chúa Nhật truyền giáo – Lm. Inhaxio Hồ Thông)
Mỗi người Ki-tô hữu phải là nhà truyền giáo, vì đó là bản chất của Giáo Hội. Khi nói về công việc truyền giáo, chúng ta thường nghĩ ngay đến việc loan báo Tin Mừng. Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay xác định cho chúng ta nội dung của việc loan báo Tin Mừng được cô động ở nơi lời phát biểu của Đức Giê-su: “Con Người không đến để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Nếu công việc truyền giáo được định nghĩa theo truyền thống Đông Phương “kể cho nhau nghe cuộc đời của Đức Ki-tô”, thì mỗi người Ki tô hữu phải kể về cuộc đời của Đức Giê-su cho anh chị em mình không chỉ bằng lời nói mà bằng chính cuộc sống của mình, nghĩa là, tự đặt mình vào trong tình liên đới với những anh chị em chung quanh mình, biến cuộc đời mình thành cuộc đời phục vụ và những đau khổ của mình thành giá cứu chuộc muôn người. Đó là lời loan báo Tin Mừng cụ thể nhất, sống động nhất và hữu hiệu nhất.
Trong tuyến phát triển của Tin Mừng Mác-cô, chúng ta theo Đức Giê-su trên đường lên Giê-ru-sa-lem, ở đó cái chết đang chờ đợi Ngài. Viễn cảnh Thương Khó ở trung tâm của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay; hai trong số ba bài đọc: Bài Đọc I và Bài Đọc II, được mượn từ Phụng Vụ Lời Chúa Thứ Sáu Tuần Thánh.
Is 53: 10-11
Trong Bài Đọc I trích từ bài ca Người Tôi Trung chịu đau khổ, những khốn khổ và cái chết của Người Tôi Trung đã được Thiên Chúa chấp thuận như hiến lễ xóa tội, nhờ đó muôn người nên công chính.
Dt 4: 14-16
Trong Bài Đọc II trích từ thư gởi tín hữu Do thái, tác giả minh chứng Đức Giê-su là vị Thượng Tế đầy lòng cảm thương, Ngài đã tự đặt mình liên đới với nhân loại, cho đến mức chịu đau khổ và chịu chết để đưa con người đến bên lờng Chúa xót thương.
Mc 10: 35-45
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su trả lời cho những tham vọng của hai anh em nhà Dê-bê-đê và cho tất các môn đệ của Ngài nữa, bằng cách phác họa chân dung người tôi tớ lý tưởng, biến cuộc đời mình thành đời phục vụ và những đau khổ của mình thành giá chuộc cho muôn người.
BÀI ĐỌC I (Is 53: 10-11)
Đoạn văn này được trích từ bài ca thứ tư về Người Tôi Trung đau khổ trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (ch. 40-55). Bài ca nầy mô tả số phận Người Tôi Trung mầu nhiệm của Đức Chúa: chịu đau khổ và bị giết chết, đoạn được tôn vinh, số phận tương tự với số phận của Đức Giê-su. Thân phận Người Tôi Trung này loan báo thân phận của Chúa Giê-su.
1. Hy lễ của cuộc đời đau khổ (Is 53: 10)
Người thuật chuyện, chắc chắn chính là vị ngôn sứ, hoàn tất những suy niệm của mình về số phận đau thương của Người Tôi Trung qua lời nguyện mà ông ngỏ lời với Đức Chúa:
“Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ.
Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội,
người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn,
và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu” (Is 53: 10).
“Kẻ nối dõi” chắc chắn có cùng một ý nghĩa như trong nhiều đoạn văn Cựu Ước, tức là hậu duệ của tổ phụ Áp-ra-ham, chính xác hơn, đông đảo những người tín hữu được hưởng nhờ việc Người Tôi Trung hiến thân mình làm của lễ đền tội. Người “sẽ được trường tồn” (cũng như: “Người sẽ nhìn thấy ánh sáng”) có thể ám chỉ đến “sự sống lại”.
2. Câu trả lời của Đức Chúa (Is 53: 11):
Lúc đó, Đức Chúa trả lời cho vị ngôn sứ bằng cách hứa ban một số phận vinh quang cho Người Tôi Trung của Ngài, vì những đau khổ mà ông đã phải hứng chịu, và nhờ ông gánh lấy tội lỗi của muôn dân mà họ được nên công chính và thánh thiện. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su sẽ tự đồng hóa mình với “người tôi tớ”, “Ngài đến để phục vụ” và Ngài sẽ lập lại bằng những từ ngữ tương tự: “hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
BÀI ĐỌC II (Dt 4: 14-16)
Bài Đọc II tiếp tục trích thư gởi tín hữu Do thái. Trong đoạn trích trước, tác giả nhân cách hóa Lời Chúa: Lời Chúa thấu suốt lòng trí của chúng ta, xét xử tận cõi thâm sâu qua tiếng lương tâm mỗi người. Trong đoạn trích hôm nay, tác giả đem đến một viễn cảnh trấn an: Đức Ki-tô là Đấng chuyển cầu lý tưởng của chúng ta, vì Ngài “thông cảm được những nỗi yếu hèn của chúng ta; vì Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như chúng ta, nhưng không phạm tội”. Ngài là vị Thượng Tế tuyệt vời; Ngài đã không đơn giản băng qua Đền Thờ Giê-ru-sa-lem để đi vào nơi Cực Thánh – như vị Thượng Tế Cựu Ước – nhưng đã băng qua các tầng trời để tiến đến ngai Thiên Chúa và dẫn đưa chúng ta theo Ngài đến tận nơi Thiên Chúa ngự. Vì thế, chính nhờ Ngài mà chúng ta nhận được muôn vàn ân sủng.
Lời chuyển cầu đầy quyền năng của Đức Ki-tô bắt nguồn từ những đau khổ mà Ngài đã chấp nhận hứng chịu khi mặc lấy thân phận con người. Bản văn âm vang Bài Đọc I và loan báo bài học mà Đức Giê-su sẽ đưa ra cho các môn đệ Ngài trong Tin Mừng hôm nay.
TIN MỪNG (Mc 10: 35-45)
Cuộc vận động của hai anh em nhà Dê-bê-đê, Gia-cô-bê và Gioan, được thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu thuật lại (thánh Mát-thêu quy cuộc vận động nầy cho bà mẹ của họ). Cả hai thánh ký đều đặt tình tiết nầy ngay liền sau lời loan báo thứ ba của Đức Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Lời loan báo thứ ba nầy có nhiều chi tiết chính xác hơn hai lần loan báo trước; Đức Giê-su kể ra: Ngài sẽ phải chịu những lời nhạo báng, nhục mạ, đánh đòn và bị giết chết. Thánh ký đã không ghi nhận bất kỳ phản ứng nào của các môn đệ, ngoài việc họ im lặng, vì không hiểu và chắc chắn cũng sợ hãi nữa. Quả thật, trước khi thuật lại Chúa Giê-su loan báo lần thứ ba cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, thánh Mác-cô viết: “Đức Giê-su và các môn đệ đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi” (Mc 10: 32).
1. Phản ứng của các môn đệ:
Cứ mỗi lần Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp đến của mình, các môn đệ của Ngài luôn luôn tìm cách xua đuổi khỏi tâm trí của mình những hình ảnh đau thương mà chỉ nghĩ đến quyền hành, chức tước, bổng lộc. Sau lời loan báo thứ nhất, ông Phê-rô tìm cách ngăn cản Ngài và Chúa Giê-su yêu cầu các bạn hữu Ngài hãy từ bỏ chính mình để theo Ngài (8: 31-9: 1). Sau lời loan báo thứ hai, họ bày tỏ một thái độ dững dưng vô cảm đối với những lời bi thảm của Thầy mà chỉ tranh nhau về những đặc quyền đặc lợi giữa họ; lúc đó, Chúa Giê-su đòi hỏi họ phải tự hạ mình “làm người phục vụ mọi người” (9: 30-37). Sau lời loan báo thứ ba nầy, sự tương phản cũng không kém dữ dội: hai trong số họ có tham vọng riêng của mình.
2. Hai anh em nhà Dê-bê-đê:
Hai ông Gia-cô-bê và Gioan là những người thợ được gọi vào giờ thứ nhất: hai ông đã là đối tượng được Đức Giê-su ưu ái một cách đặc biệt: Ngài cho hai ông cùng với ông Phê-rô chứng kiến cuộc phục sinh bé gái ông Gia-ia; Ngài cho hai ông cùng với thánh Phê-rô chiêm ngưỡng cuộc Biến Hình của Ngài trên núi cao; chỉ hai ông cùng thánh Phê-rô và thánh An-rê, hỏi riêng Ngài khi nào thì Đền Thờ Giê-ru-sa-lem bị tàn phá và những điềm báo nào về thời chung cuộc (Mc 13: 3); cuối cùng, chỉ hai anh em nầy cùng với thánh Phê-rô sẽ chứng kiến cơn xao xuyến tận mức của Chúa Giê-su trong vườn Ghết-sê-ma-ni.
Chắc chắn hai người con của ông Dê-bê-đê đã được hưởng mối thân tình gần gũi với Đức Giê-su hơn các môn đệ khác; họ mong muốn được tiếp tục tình thân nầy trong Nước Chúa và chiếm những chỗ ưu tiên bên cạnh Thầy mình. Quả thật, đầy tham vọng, họ sẵn sàng chịu đựng tất cả để đạt cho bằng được những chỗ ưu tiên nầy; nhưng dù thế nào, lòng yêu mến của họ và sự ngây thơ của họ khiến chúng ta cảm động. Giả như họ biết rằng hai chỗ mà họ cầu xin sẽ là hai chỗ của hai tên cướp bị đóng đinh bên cạnh Thầy mình, liệu họ có thỉnh cầu không?
3. Được chia sẻ cùng số phận với Ngài:
Đức Giê-su hứa với hai anh em ông Gia-cô-bê và ông Gioan, họ sẽ được dự phần vào vận mệnh đau khổ của Ngài: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu”. “Chén” để uống là hình ảnh Kinh Thánh được dùng để tượng trưng những đau khổ phải chịu (Tv 75: 9; Is 51: 17-22; vân vân). Diễn ngữ “uống cạn chén” đồng nghĩa với việc phải chịu thử thách cho đến tận cùng. Vào những giờ phút xao xuyến tận mức trong vườn Ghết-xê-ma-ni, chính Đức Giê-su sẽ nài xin Cha Ngài: “Xin cất chén nầy xa con” (14: 36).
Còn về phép rửa mà Ngài sắp chịu, đó là những giờ phút cam go, những giờ phút Ngài sắp phải bị dìm mình vào trong những cơn sóng đau khổ và cái chết bi thảm. Ngài sẽ chuẩn bị cho hai anh em những bách hại và phúc tử đạo; nhưng Ngài từ chối lời thỉnh nguyện của họ là được ngồi bên hữu bên tả của Ngài, bởi vì đó không thuộc thẩm quyền của Ngài; vai trò của Ngài thì khác: “Con Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con Người, mà được cứu độ” (Ga 3: 17). Các môn đệ chỉ có một cách hành xử phải theo: phó thác vào bàn tay của Chúa Cha.
4. Lý tưởng phục vụ:
Lời thỉnh cầu của hai anh em nhà Dê-bê-đê đã dấy lên một làn sóng tranh dành quyền cao chức trọng giữa các môn đệ, vốn đã tiềm tàng từ lâu trong lòng họ, nhưng chưa có cơ hội để bộc phát. Đức Giê-su đã hiểu rõ rằng các ông còn nghĩ đến một vương quốc trần thế mà họ tin triều đại nầy sắp đến gần. Với một sự kiên nhẫn vô tận để không gây thất vọng cho họ, Ngài lấy lại giáo huấn của Ngài về việc thay đổi tận căn những giá trị theo quan niệm trần thế. Giáo Hội của Ngài không được bắt chước những xã hội trần thế. Nếu những kẻ quyền cao chức trọng trong xã hội trần thế được hưởng những đặc quyền đặc lợi, được ăn trên ngồi trước, được kẻ hầu người hạ, thì trong Giáo Hội của Ngài “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em”.
Để làm cho rõ nghĩa lý tưởng “phục vụ” nầy, Đức Giê-su còn bổ túc thêm: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”. Trong bất kỳ xã hội nào, đầy tớ là hạng người thấp kém nhất và ai cũng biết người đầy tớ phải làm những gì rồi. Hơn nữa, việc phục vụ không chỉ dừng lại trong vòng anh em của mình, hay cho một tiểu số nào, mà phải trải rộng cho hết “mọi người”.
Như vậy, bài học thật sống động cụ thể, nhưng còn trở nên sống động và cụ thể hơn nữa khi được rút ra từ chính cuộc đời của Đức Giê-su: “Con Người không đến để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Những từ ngữ nầy được mượn ở nơi cuộc đời của Người Tôi Trung chịu đau khổ mà ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã phác họa trong Bài Đọc I. Chúa Giê-su sẽ trao ban mạng sống mình “làm giá cứu chuộc”, nghĩa là Ngài sẽ phải trả giá rất đắt cho tội lỗi của nhân loại, không trừ một ai hết.
12. Ý nghĩa của sự đau khổ – Lm Hồng Phúc
“Vì Ngài trải qua thử thách”
Các bài phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu ý nghĩa sự đau khổ trong chương trình cứu chuộc. Bốn câu thi văn của Isaia về người Tôi tớ đau khổ là chóp đỉnh của Cựu ước, là mạc khải ý nghĩa của sự đau khổ. Trước đây, người ta quan niệm sự đau khổ là hình phạt do tội lỗi. Đành rằng người phạm đến Thiên Chúa thì đáng lãnh nhận một hình phạt, nhưng rồi cả những ngươì trong trắng, các trẻ em vô tội và người công chính, các vị tử đạo cũng phải đau khổ. Người ta đi đến quan niệm rằng người công chính đau khổ có thể chuộc thay tội lỗi của người khác. Người Tôi tớ của Thiên Chúa chính là Chúa Giêsu đến, dùng sự đau khổ để cứu chuộc nhân loại.
Thánh Thư Hêbrêô gọi Chúa Giêsu là vị Thượng tế, “vì Ngài trải qua thử thách bằng đau khổ, thì Ngài có thể đáp ứng những ai chịu chử thách” (Hêb. 2,17). Ngài cũng là người anh em của chúng ta, vì Ngài cũng chia sẻ sự yếu hèn của chúng ta, khi nhận lãnh sự cám dỗ trên núi, khi lo buồn hấp hối trong vườn Cây Dầu: “Xác thịt thì yếu đuối” (Mt 26,41); “Nhưng nếu chén này không thể qua đi được mà con phải uống thì xin theo ý Cha” (c. 42). Với lời Fiat của Chúa Kitô, chúng ta có thể hiệp thông sự đau khổ của chúng ta làm giá cứu chuộc với Chúa vậy.
Phúc âm kể lại việc can thiệp của hai con của ông Giêbêđê, muốn được ngồi bên hữu và bên tả Thầy trong vinh quang. Việc đó đã gây bất bình cho các Tông đồ khác. Chúa Giêsu dùng dịp này để giải thích điều kiện làm lớn trong Nước Trời. Không có vấn đề nào lớn lao cho bằng vấn đề đau khổ. Vì sao đau khổ? Đây là câu trả lời của Chúa: Đau khổ là để phục vụ, một việc phục vụ công hiệu hơn cả. Cha Maximilien Kolbe đã hy sinh để cứu một người bạn tù khỏi chết phần xác thì Chúa Giêsu đã chết cho mọi người để họ được sống đời đời. Ngài nói: “Con người đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”. Phục vụ là cứu thoát, là dấn thân. Vì thế, trước ngày đi chịu nạn, Chúa đã quì dưới dân các Môn đệ, rửa chân cho họ và phán: “Chúng con hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu chúng con. Thầy ở giữa chúng con như một người tôi tớ”.
Như vậy, chúng ta mới hiểu vai trò của quyền bính trong Giáo Hội. Quyền bính được trao cho ai là để người đó giúp đỡ anh em có phương tiện phát triển, là để phục vụ kẻ khác chứ không phải để cho mình tiến thân. Người nắm quyền bính tối thượng trong Giáo hội là người “đầy tớ trên mọi đầy tớ”, servus servorum. Ngày này, không ai lại không biết Mẹ Têrêxa, thành Calcutta, một nữ tu Bác ái, áo trắng viền xanh, lặn lội với các chị em cùng dòng, để cứu giúp những người hấp hối nằm la liệt bên vỉa hè thành phố Calcutta, Ấn độ, để “cho họ được hưởng những giây phút hấp hối cuối đời xứng là một con người, trước khi chết”. Trước đây, có một vị Sư Phật Giáo nói với Mẹ: “Tôi biết và yêu mến Đức Kitô lắm. Nhưng tôi ghét Hội thánh của Ngài. Nếu các chị làm điều các chị nói, có lẽ chúng tôi có thể gặp gỡ Hội thánh của Đức Kitô”. Sau một năm làm việc với Mẹ, vị sư phát biểu: “Tôi đã quan sát. Bây giờ tôi thực sự tin các chị chỉ làm việc để phục vụ người nghèo và xấu số nhất. Chúng tôi sẽ dâng cho các chị một ngôi nhà trong khuôn viên Chùa chúng tôi để làm bệnh xá miễn phí”.
Phục vụ người nghèo là phương cách làm cho kẻ khác biết Chúa và thương mến Giáo hội.
13. Phục vụ và hạnh phúc
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Có chức quyền phải chăng là điều tốt nhất?
Dường như hầu hết mọi người đều nghĩ: giầu sang chức quyền, được người khác phục vụ, là điều đáng ao ước và làm người ta hạnh phúc! Thái độ của các tông đồ trong Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy như vậy. Gioan và Yacôbê mong ước được ngồi bên phải bên trái khi Đức Giêsu “lên ngôi”, còn các tông đồ khác tức tối khi biết Gioan và Giacôbê “chơi gác” mình. Nếu các tông đồ khác không tham muốn như hai anh em Gioan và Giacôbê, chắc các ngài không đến nỗi phải tức bực như vậy.
Đức Giêsu không cho Gioan và Giacôbê điều các ông mong muốn, vì đó không là điều tốt cho hai ông: “các anh không biết điều các anh xin”! Và Đức Giêsu đã cho hai tông đồ Gioan và Giacôbê điều tốt hơn: “Chén thày uống các anh sẽ được uống”, còn chuyện ngồi bên phải hay bên trái (không cần thiết cho hai anh) thì tùy Thiên Chúa Cha xếp đặt. Ngài sẽ xếp đặt cho ai Ngài thấy tốt nhất, tốt nhất cho người đó và tốt nhất cho cả Hội Thánh nữa.
Có nhiều điều chúng ta xin mà không được, vì điều đó không tốt cho chúng ta.
Phục vụ là hạnh phúc
Đứng trước thái độ của các tông đồ, Đức Giêsu đã gọi họ lại, dạy cho họ biết rằng người đời thì tìm được phục vụ, còn trong vương quốc của Ngài thì không như vậy: “ai muốn làm đầu thì phải làm tôi tớ phục vụ người khác”.
Cảm nghiệm hạnh phúc khi phục vụ người khác, đó là một ơn mà ngay cả các tông đồ trong thời gian đầu tiên cũng chưa cảm nghiệm được. Ước gì con người hiểu rằng chính khi mình phục vụ, chính khi mình giúp người khác hạnh phúc, thì chính mình cũng được hạnh phúc.
Yêu thì hạnh phúc hơn là được yêu. Phục vụ thì hạnh phúc hơn là được phục vụ. Ai cảm nghiệm được điều này, thì không ai tước được hạnh phúc nơi họ. Đây là một ơn mà chúng ta cần xin cho nhau.
Phục vụ theo gương Đức Giêsu
Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người. Ngài đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng làm giá chuộc con người. Ngài trở nên giống con người mọi đàng, Ngài chia sẻ những giới hạn của con người. Có thể nói: ai bị cám dỗ thử thách như thế nào thì Đức Giêsu ít nhất cũng bị cám dỗ và thử thách như vậy.
Ngài trở thành tôi tớ phục vụ con người! Tại sao Ngài phải sinh trong chuồng chiên cừu nghèo hèn như vậy? Tại sao Ngài phải lang thang rong ruổi hết nơi này nơi kia để rao giảng Tin Mừng? Tại sao Ngài phải bữa đói bữa no? Tại sao Ngài phải ngủ bờ ngủ bụi “chồn cáo có hang chim trời có tổ nhưng con người không có chỗ tựa đầu”? Tại sao Ngài phải nói sự thật để phải chết? Tại sao bây giờ Ngài vẫn tự hủy nơi bí tích Thánh Thể? Tất cả là để phục vụ con người, để con người biết sự thật về Thiên Chúa, về tình yêu Thiên Chúa đối với con người đến độ nào. Và Ngài sẵn sàng chấp nhận tất cả, miễn là con người nhận ra sự thật, được giải phóng và hạnh phúc.
Phục vụ là thái độ của người tôi tớ. Tôi tớ không ra lệnh cho chủ, không đòi chủ làm theo ý mình, không đòi chủ phải tôn trọng mình, nhưng sẵn sàng làm tất cả để thực hiện ý chủ. Người tôi tớ là người sau khi phục vụ xong, phải luôn luôn coi mình là tôi tớ vô dụng (Lc.17, 10). Ai muốn làm lớn thì phải là người phục vụ người khác. Đức Giáo Hoàng vâng theo lời Đức Giêsu, nên coi mình là “tôi tớ của các tôi tớ”. Tuy vậy, các môn đệ của Chúa phải phục vụ lẫn nhau: “Thầy đã rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga.13, 14). Không ai được đòi người khác phục vụ mình, cũng như không ai được từ chối phục vụ. Thái độ đòi người khác phục vụ mình, cũng như từ chối người khác “rửa chân” cho mình, đều là thái độ của người kiêu ngạo, không phải là thái độ của môn đệ Đức Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn được đánh động bởi gương phục vụ của ai nhất? Về điểm nào?
2. Theo bạn, thái độ phục vụ đích thực đòi hỏi điều gì?
3. Bạn có cảm nghiệm hạnh phúc khi phục vụ người khác bao giờ chưa? Làm sao để bạn hoặc người khác cảm nghiệm hạnh phúc khi phục vụ?
14. Phục vụ
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ của Thiên Phúc)
Một lần Ðức Hồng Y Roncalli vừa từ trên xe bước xuống. Ngài mới đi xa về. Phái đoàn tòa Giám mục ra đón. Mọi người ngạc nhiên trên vai áo Hồng Y có vương mấy cọng rơm đồng quê. Ai hỏi ngài cũng cười xoà vui vẻ, nhưng mấy nhân viên phụ tá trên xe đều hiểu chuyện. Chiếc xe của Ðức hồng Y đang từ hướng Bắc xuống miền Nam qua vòng đồng ruộng. Giữa đường một chiếc xe bò chở rơm sa hố. Người đánh xe gắng sức đẩy phụ nhưng xe không nhúc nhích. Ðức Hồng Y cho xe dừng lại, xắn tay áo hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm sa lầy lại chuyển bánh tiếp tục lên đường.
Những cọng rơm trên vai áo Hồng Y đối với ngài chỉ cười xoà cho qua. Nhưng thực sự tỏ rõ cho chúng ta một Hồng Y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.
Sau này lên ngôi Giáo hoàng, Ðức Gioan 23 vẫn tiếp tục sống nếp sống bình dị phục vụ.
Lần khác, cả giáo triều Rôma báo động: “Ðức Giáo hoàng mất tích”. Nhân viên an ninh đổ xô đi tìm. Cuối cùng người ta gặp ngài đang chuyện trò thân mật với các tù nhân trong khám đường Rôma.
****
“Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc.10,45).
Ðó là Hiến chương Nước Trời, là Hiếp Pháp Ðức Kitô đã tuyên bố cho Giáo hội. Từ đây, mỗi tín hữu Kitô phải là đầy tớ của mọi người.
Người lãnh đạo trong Giáo hội chính là “Ðầy tớ của các đầy tớ” (Sevrus Servorum). Chữ Latin “Minister” có nghĩa là đầy tớ. Vì thế, trong Giáo hội chỉ có kẻ thừa sai, người thừa tác, nữ tì, tôi tá, hay mục tử chăm lo cho đoàn chiên.
Mẹ của Giacôbê và Gioan xin Ðức Giêsu cho hai con bà được làm tể tướng trong nước của Người. Nhưng họ đã không hiểu rằng Ðức Giêsu không bước lên ngai vàng để thống trị, mà Người chỉ leo lên thập giá để hiến dâng mạng sống, để yêu thương và “yêu cho đến cùng”. (Ga.13,1).
Hôm nay, Chúa cũng mời gọi các tín hữu Kitô hãy noi gương Người: Phục vụ và hiến dâng mạng sống cho tha nhân. Trước nhất là yêu thương phục vụ những người trong gia đình: “Charity begin at home” (Bác ái bắt đầu từ gia đình), sau đó mới lan tỏa sang những người chung quanh, nhất là những người nghèo hèn, yếu đuối.
Nếu chúng ta chưa nên giống được như Cha Maximilien Kolbe xin chết thay cho bạn tù, như thánh Martino Porres bán mình làm nô lệ, hoặc như cha Damien tông đồ người hủi, thì ít là mỗi ngày chúng ta hãy âm thầm phục vụ hết mình những người thân yêu, những người Chúa giao phó trong gia đình mình, trong cộng đoàn mình.
Báo chí Pháp đăng hình của Cha Damien sau mấy chục năm phục vụ trong trại cùi, ghép cạnh hình cha hồi còn tẻ. Tấm hình gây xúc động cho biết bao con người. Khi nhìn vào tấm hình, mẹ Ngài không thể tin được con mình đã thay hình đổi dạng đến thế. Chính thái độ tận tụy phục vụ đã tiêu hao sức lực và tàn phá hình hài con người. Vì thế, chúng ta không thể phục vụ nếu không có sẵn một tấm lòng dấn thân quảng đại.
Người thành công nhất là người phục vụ cho đồng loại nhiều nhất. Albett Shweitzer đã nói: “Người hạnh phúc thật là người biết tìm cách sống thiện ích cho người khác”. Martin Luther King nói: “Chúng ta học bay như chim trên trời, học bơi như cá dưới nước, nhưng lại chưa học sống với nhau như anh em”. Ở giây phút định mệnh của mỗi con người chỉ có cường độ tình yêu và tinh thần phục vụ là có giá trị.
***
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng có một chút ham mê địa vị, chức quyền. Nếu Chúa xếp đặt cho chúng con một chức vụ nào đó, xin cũng ban chúng con một ơn này, là chức vụ càng cao, chúng con càng biết khiêm tốn phục vụ anh em nhiều hơn. Amen.
15. Chạy ghế
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Ngày 12.10.2012, để vận đông tranh cử vào Nhà Trắng, Phó Tổng Thống Joe Biden đã không ngần ngại dối trá về Sắc Lệnh của HHS: “Về vấn đề có liên quan đến Giáo Hội Công Giáo tôi xin nói tuyệt đối rõ ràng là không cơ sở tôn giáo nào, Công Giáo hay các tôn giáo khác, bao gồm các cơ sở xã hội Công Giáo, bệnh viện Geogetown, Mercy hay bất kỳ một nơi nào khác bị bắt buộc phải cung cấp phương tiện ngừa thai, phải trả tiền phá thai. Không ai phải thi hành các tiến hành ngừa thai trong chính sách bảo hiểm cho nhân viên. Đây chính là sự thật. Đây chính là sự thật.”
(Xin xem: http://www.usccb.org/news/2012/12-163.cfm)
Trong nhiều tháng qua, Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ đã phát động một chiến dịch rộng lớn chống lại Sắc Lệnh HHS vì nó xâm phạm trầm trọng đến sứ mạng Bảo Vệ Sự Sống của Giáo Hội. Theo Sắc Lệnh HHS thì các cơ sở xã hội và bệnh viện Công Giáo phải cung cấp các phương tiện ngừa thai và phá thai cho nhân viên. Chính quyền Obama không hề chùn bước khi cương quyết áp dụng Sắc Lệnh. Nhưng trước mắt để đừng mất thêm phiếu của khối cử tri Công Giáo vốn xem nhẹ việc Bảo Vệ Sự Sống, thì ông phó tổng thống cũng là một người Công Giáo cứ phát biểu sai lạc như vậy. Sau đó, nếu ông Obama được làm thêm một nhiệm kỳ nữa thì sẽ thẳng tay áp dụng.(Theo Ephata, NguyễnTrung, Một trò lường gạt của chính quyền Obama)
Như thế, để đạt được chiếc ghế thủ lãnh quốc gia người ta không chút ngượng miệng, công khai nói điều dối trá với toàn thể dân chúng Hoa kỳ.
Trong trích thuật Tin Mừng hôm nay, hai anh em ông Giacôbê và Gioan cũng mong được hai cái ghế bên tả và bên hữu Chúa Giêsu, khi Người “được vinh quang,” cùng sẵn sàng chấp nhận mọi sự khó trong tương lại.
Quyền bính từ Thiên Chúa
Khi nghe lời khẩn cầu, Chúa Giêsu hỏi lại các ông Giacôbê và Gioan: “Các ông có uống nổi chén thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” Các ông đáp: “Thưa được.” Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống, phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.” (Mc 10, 38-40)
Như thế, Chúa Giêsu khẳng định quyền bính đều phát xuất từ Thiên Chúa trao ban, chứ không phải do thế lực tranh đấu, kế thừa, tài năng, hay may mắn tạo nên, như thiên hạ vẫn thường ngộ nhận.
Quyền bính để phục vụ
Nhân tiện, nói về quyền bính, Chúa Giêsu phân biệt rõ rệt hai loại quyền lực: Thế quyền và giáo quyền. Với thế quyền trong xã hội, thì dùng uy lực để cai trị dân chúng, dùng quyền hành đem lại phúc lợi cho dân, hoặc tệ hại thì đàn áp, bóc lộc dân.
Còn với giáo quyền của Hội Thánh, thì tính cách hoàn toàn trái nghịch, đó là sử dụng quyền hành để phục vụ tận tình mọi người. “Anh em biết, những người được coi là thủ lãnh các dân, thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.” (Mc 10, 43-44)
Thế quyền bao giờ cũng đi đôi với quyền bính, sức mạnh, danh lợi, vinh hoa phú quý, vinh thân phì gia. Còn giáo quyền trong Hội Thánh thì luôn kết hợp nhuần nhuyễn với bác ái, yêu thương, bất vụ lợi, hy sinh, dấn thân, chân chínhlàm người đầy tớ mọi người.
Chúa Giêsu đã làm gương sáng, quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ ngay trước bữa Tiệc Ly, rồi tiếp theo đỉnh điểm phục vụ, là cuộc Khổ Nạn vô cùng thảm khốc. Chính vì vậy, Đức Giáo Hoàng, người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo, nắm giữ một địa vị quan trọng nhất trên thế giới, thế mà ngài vẫn tự nhận cho mình là “Servus servorum,”tôi tớ của các tôi tớ. Đáng tiếc, vẫn còn những người lãnh đạo, cố tình quên đi điều rất căn bản và dị biệt này.
Tận hiến để phục vụ.
Nhân tiện, Chúa Giêsu đề cập đến sứ vụ cao quý, mà Người lãnh nhận. Đó là phục vụ nhân loại hết sức tận tình, cho đến hơi thở cuối cùng: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10, 45) Người mong mỏi người Kitô hữu thấm nhuần tinh thần phục vụ, và hiệp thông vào Ơn Cứu Độ, để được sống viên mãn.
“Lãnh đạo là phục vụ: phụng sự Thiên Chúa, phục vụ người mình điều khiển, phục vụ công ích. Lãnh đạo là nô bộc tình nguyện.” (ĐHV, 835)
Lạy Chúa Giêsu, xin ban con lòng can đảm, dũng mãnh theo chân Chúa, dù phải chịu nhiều cay đắng, ngược đãi, chống báng của thế gian, vẫn một lòng một dạ phục vụ tha nhân và Hội Thánh.
Lạy Mẹ Maria Sầu Bi, Mẹ đã đau khổ biết bao dưới chân Thánh Giá, vì Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, xin dạy cho con biết chấp nhận những thử thách cuộc đời, như phần nào được hiệp thông vào cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Amen.
16. Thủ lãnh làm nô bộc
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Ngay mấy tháng đầu nhận chức vụ, Đức Cha Angelo Giuseppe Roncalli đã âm thầm rảo khắp nước Bảo Gia Lợi (Bulgarie). Từ Sofia Ngài đi Burgas, gần Hắc Hải rồi về Yamboli. Trong chuyến hành trình thứ hai, Ngài viếng thăm những địa điểm sát biên giới Hy lạp và Thổ Nhĩ Kỳ như Svilengrad Adrianopoli, Pakrovan, miền núi non hiểm trở, tuy phong cảnh rất ngoạn mục nhưng xa xôi và hay gặp cướp bóc. Những cuộc viếng thăm của Đức Kinh lược Tông Tòa Roncalli chẳng long trọng, tưng bừng như thường thấy, mà tựa như hành trình rao giảng gian lao của Chúa Giêsu trong Phúc âm.
Lúc đi Pakrovan vừa được nửa đường thì cảnh sát phải chận xe Ngài và cho một toán cảnh binh hộ vệ cho khỏi hiểm nghèo. Sau lúc đi được 50 cây số như thế Ngài qua đò. Bên kia sông đã có một con ngựa chực sẵn để đưa Ngài. Ngài ở lại trong một nhà xứ chật hẹp làm bằng đá, không sơn quét gì cả. Nhà tối đen và phải cần đến đường nứt ở vách soi sáng. Trong một góc nhà chỉ có hai cái giường, mà Cha xứ và Cha phó nhường cho Đức Kinh lược và vị thư ký…
Ngài lại ra đi giữa mưa gió. Lẽ ra có xe hơi đợi Ngài ở bờ sông, rủi thay tài xế sợ quân cướp, nên không đến như đã hẹn. Bây giờ chỉ còn một nước lên ngựa. Đến sườn núi Ngài gặp lính canh biên giới họ đưa Ngài về trại. Đêm ấy đồn trưởng cho Ngài một cái giường xếp, các người khác phải nằm dưới đất, hai hôm sau họ đã thuê được một chiếc xe có hai bò kéo để đưa Ngài đi. Lúc ra đi viên đồn trưởng có lòng lo lắng, yêu cầu Ngài giấu Thánh Giá, nhẫn và những tua ở mũ vì sợ quân cướp để ý. Chúa đã gìn giữ Ngài đi bằng an vô sự. Ngày hôm trước bọn cướp đánh phá xe phát thư và để lại ông tài xế nằm mê man giữa đường.
Ngài còn muốn thăm giáo dân ở Malko Ternovo vì đây là pháo đài Công Giáo của nước Bảo. Nhưng phần ở gần biên giới Thổ và Bắc Hải, phần đường sá xa xôi hiểm trở, nên mọi người khuyên Đức Cha rút lui. Nhưng không cầm lòng đậu, cùng với cha Don Stefano Kartev, Đức Kinh lược lên đường lần thứ ba. Ở đây Ngài đã làm êm dịu sự căng thẳng giữa Chính Thống và Công Giáo, Ngài vui vẻ tiếp xúc với mọi người, và để cho dân chúng tiếp đón cho thỏa lòng, họ xin hôn nhẫn, mời chụp hình, họ sắp hàng rước Ngài, trẻ con tung hô mừng Ngài. Đến đâu Đức Cha Roncalli cũng giảng. Đức Kinh lược trình bày ba ý kiến vắn tắt, cha thư ký dịch ra tiếng Bảo, tiếp theo ba ý kiến vắn tắt khác, cha thư ký lại dịch nữa, cứ thế độ nửa giờ, và thính giả chăm chú cảm động vì những lời lẽ thành thực và sự cố gắng của Đức Kinh lược.
Đến đâu Ngài cũng đánh tan ngờ vực, bầu không khí trở nên thành thực, thân mật. Tuy công việc của Ngài thầm lặng, nhưng cả nước Bảo đều chú ý. Báo “La Bulgaria” ở Sofia ngày 7-8-1925, đăng một bài tường thuật rất đầy đủ, kết luận “Dân Bảo đầy thiện cảm với Đức Kinh lược, và chúng tôi khen ngợi đức hy sinh và tính thành thực của Ngài trong công việc nặng nhọc và cao cả hằng ngày.” (Linh mục Fx Nguyễn Văn Thuận, Đức Thánh Cha Gioan XXIII)
Năm 1960, qua cuốn sách Đức Thánh Cha Gioan XXIII, Linh mục Fx Nguyễn Văn Thuận tường thuật lại thời kỳ Thánh Giáo Hoàng Gioam XXIII còn bôn ba, vất vả làm Kinh lược tại Bulgarie và Thổ Nhĩ Kỳ. Một khoảng thời gian khá dài ít được biết và nhắc đến sau này. Những hình ảnh chân thật của Đức Giám Mục Roncalli phản ảnh khá chính xác Lời Chúa hôm nay: “Ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người.“ Đức Kinh lược Roncalli đã không quản ngại khó khăn, nguy hiểm, đến thăm mục vụ, cùng tận tình phục vụ con chiên xa xôi hẻo lánh.
Nhưng đâu phải chỉ khi có chức cao quyền trọng mới phải phục vụ tha nhân, mà bất kỳ ai ở địa vị nào cũng cần phục vụ người khác. Một người cha, người mẹ, người anh, người em, con cháu, đều cần sống cho nhau, phục vụ lẫn nhau, thì gia đình đó mới yên vui tràn đầy yêu thương và hạnh phúc. Nhất là người gia trưởng cần thiết làm gương sáng phục vụ, để mọi thành viên trong gia đình noi theo. Nếu mỗi người chỉ biết sống ích kỷ, vị kỷ, bất cần quan tâm đến ai, thì tổ ấm gia đình chẳng sớm thì chày trở nên giá lạnh, dần nảy mầm nguy cơ tan vỡ, tan đàn xẻ nghé.
Yêu thương phục vụ
Phục vụ trước hết phát xuất từ con tim mới có ý nghĩa cao trọng. Nếu không chỉ là hành động đơn thuần, tẻ nhạt, tầm thường của kẻ hầu bị bó buộc phục dịch, dĩ nhiên chẳng có chút giá trị cao quý. Yêu thương phục vụ xả kỷ vị tha, hoàn toàn tự nguyện, vô tư, bất vụ lợi, chẳng màng báo đáp, cũng chẳng mảy may cầu cạnh lợi danh. Nhân ái phục vụ, cảm thương phục vụ tha nhân, vì những người nghèo nàn, đói rách, cô quả, cơ nhỡ, đau yếu chính là hiện thân cụ thể của Đức Giêsu Kitô đang chịu đau khổ. “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 25, 34- 36)
Thấm nhuần Lời Chúa, Thánh Phaolô ân cần khuyên nhủ, mời gọi tín hữu vùng Galát, cũng như tất cả tín hữu Kitô ở mọi thời đại và mọi nơi:”Hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau!” (Gl 5, 13)
“Hãy yêu thương nhau không bằng lời nói, mà bằng việc làm. Hãy yêu thương nhau bằng tay mặt, mà tay trái không biết. “Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con.”(Đường Hy Vọng, số 755)
Khiêm tốn phục vụ
Phục vụ không phải là trịch thượng ban phát ơn huệ, thương hại gia ân, đua nhau làm công quả, mà cần thiết âm thầm, khiêm tốn, tự hạ mình xuống ngang tầm, ngang vai, đồng cảm, chia sẻ với người được giúp đỡ, phục vụ. Kín đáo, lặng lẽ phục vụ, chia sẻ làm sao tay phải đừng cho tay trái biết, như Đức Giêsu từng dặn dò, nhắn nhủ rất thấu đáo.
Khiêm nhường, chân tình, thân mật, chan chứa yêu thương phục vụ, noi gương Đức Giêsu đích thân lấy khăn thắt vào lưng, đổ nước vào chậu, rửa chân cho từng môn đệ, lấy khăn thắt lưng mà lau. Chẳng thể nào có ai khiêm hạ phục vụ hơn thế nữa!“Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13, 13-15)
Hân hoan phục vụ
Đức Kinh lược Roancalli luôn lạc quan, hân hoan, vui vẻ đi thăm mục vụ các địa phận trong nước Bảo Gia Lợi và Thổ Nhĩ Kỳ, mặc dù ngài gặp biết bao gian truân, hiểm nguy thách thức trên đường. Hẳn ngài đã rất đồng cảm với các Tông Đồ bước đầu đi rao giảng: “Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu.” (Cv 2, 41)
Thánh Phaolô đã không quên khuyên nhủ các tín hữu Kitô luôn trung thành, nhiệt thành và vui vẻ phục vụ trong bất kỳ công việc nào được trao phó: “Được ơn phục vụ, thì phải phục vụ. Ai dạy bảo, thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn, thì cứ khuyên răn. Ai phân phát, thì phải chân thành. Ai chủ tọa, thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái, thì hãy vui vẻ.” (Rm 12, 7-8)
“Nếu con làm vì Chúa, tại sao con nản lòng? Càng gian truân con càng vui tươi, như Gioan và Phêrô bị đánh đập ở hội đường “ra về vui vẻ vì được xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa”, như Phaolô: “Tôi tràn đầy vui tươi giữa những thử thách của tôi.” (Đường Hy Vọng, số 536)
Hy vọng phục vụ
Dấn thân phục vụ không chút ngần ngại, nửa vời với niềm hy vọng sâu xa là phục vụ chính Chúa Giêsu hiện diện ngay trong những người khốn khổ, đói rách, nghèo nàn, tàn tật, cô đơn,..
Chức vị càng cao càng cần hăng say phục vụ, vì có nhiều khả năng, phương tiện và nhân sự hỗ trợ, nếu dám xả kỷ vị tha, nếu dám hy sinh và dâng hiến cuộc đời cho Chúa và tha nhân.“Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.”(Ga 12, 25-26)
Chớ gì từng Kitô hữu đều thấm nhuần lời tuyên bố lẫy lừng của Đức Giêsu, để làm kim chỉ nam cho cuộc đời: “Con Người không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và trao mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người.”
Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường mê muội cái bả danh lợi, quyền hành, chức tước, địa vị, không thua kém hai ông con Dêbêđê. Xin Chúa soi sáng và ban chúng con can đảm tránh xa và dứt khoát đoạn tuyệt với thói ăn trên ngồi trốc, để chúng con dám xả thân phục vụ Tin Mừng, cũng như tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ luôn yêu thương, khiêm nhường, gần gũi với những người khốn khó nghèo nàn, như các mục đồng, đến đôi tân hôn khó khăn, để ân cần chia sẻ và giúp đỡ. Xin Mẹ dạy chúng con noi gương Mẹ, luôn sẵn sàng phục vụ tha nhân. Amen.
17. Quyền hành để phục vụ
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Có chức có quyền là điều nhiều người mong ước, vì người có chức có quyền thường thống trị người khác và bắt người khác phục vụ mình; tuy nhiên theo Đức Giêsu, người lớn nhất phải là người phục vụ người khác, phải là người “nô lệ” người khác.
I. Chức quyền: điều nhiều người mong ước
Tiền của địa vị, giầu sang chức quyền, là những điều người đời vẫn tìm kiếm. Người có tiền của, có thể dùng tiền của để mua gần như được tất cả; người có chức quyền được người khác phục vụ, vì những người này có thể cho người ta điều họ mong muốn. Có những người có chức có quyền được hối lộ để họ cho người ta được quyền này quyền nọ, phép này phép kia, hầu những người này có thể làm được nhiều tiền hơn. Người có chức quyền thường được người ta trọng vọng, ăn trên ngồi trước. Có lẽ đó là những lý do nhiều người thích có chức vị quyền hành.
Các tông đồ khi theo Đức Giêsu cũng còn có tham vọng tương tự. Họ có ao ước lớn muốn giải phóng Israel khỏi ách thống trị của người Roma, nhưng cũng ao ước có chức có quyền. Điều này được thấy khi hai anh em Giacôbê và Gioan xin cho được ngồi bên tả bên hữu thầy khi thầy được vinh quang. Các tông đồ khác tức giận khi biết hai ông xin điều đó; sở dĩ vậy vì các ông cũng ao ước cùng một điều. Gioan và Giacôbê quá khôn nên muốn “qua mặt” các ông.
Đức Giêsu sẵn sàng cho hai môn đệ thân yêu được chia sẻ chén đắng và phép rửa của Ngài, nhưng còn việc ngồi bên tả bên hữu thì lại không thuộc quyền Ngài. Cái nhìn của Đức Giêsu về quyền hành chức vị khác người đời quan niệm rất nhiều. Với người đời, những người có chức có quyền được người khác phục vụ; còn đối với Đức Giêsu và cả những người theo Đức Giêsu, những người muốn làm lớn nhất giữa anh em mình, thì phải làm người phục vụ anh em, phải là tôi tớ anh em, phải là người “tùy thuộc” anh em để mưu lợi ích cho anh em mình.
II. Ai muốn làm lớn nhất phải là nô lệ của tất cả
Quyền hành đối với những người theo Đức Giêsu, không được dùng để trục lợi riêng cho mình như người đời thường làm, nhưng phải dùng để xây dựng, để làm tốt cho cộng đoàn. Với những thẩm quyền trong Giáo Hội, chẳng hạn như các cha xứ hoặc nơi những bề trên của các hội dòng, quyền bính là để phục vụ những thành viên trong giáo xứ hoặc cộng đoàn. Ai dùng quyền hành để bắt người khác phục vụ mình, là không sống theo lời dạy của Đức Giêsu, là không sống theo Đức Giêsu, và không là môn đệ đích thực của Ngài.
Trong Giáo Hội, có nhiều giáo xứ mà các tín hữu trong giáo xứ không phục tùng cha xứ, cũng có tu sĩ không phục tùng bề trên vì cho rằng bề trên không cai quản như người đại diện Thiên Chúa mà xử sự theo ý riêng của mình. Một người sống theo Đức Giêsu có lẽ cũng không buộc người khác phải vâng phục mình. Con người chỉ phải vâng phục Thiên Chúa thôi, và chỉ không vâng phục Thiên Chúa mới là tội thôi, còn con người với nhau, mình có khá gì hơn người khác mà đòi người ta tùng phục mình! Thiên Chúa đâu phải của riêng ai. Thiên Chúa đâu có thiên tư tây vị. Đâu phải chỉ mình có Thánh Thần còn người khác không có Thánh Thần! Đâu phải chỉ có những người có địa vị hoặc chức thánh mới có Thánh Thần! Đâu phải các tín hữu không có Thánh Thần! Kéo Thánh Thần về mình và “không cho” Thánh Thần hiện diện với người khác, là tội “ngăn cản” Thiên Chúa (mà đâu có ngăn cản được Thiên Chúa!).
“Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga.20, 23). Quyền này được ban để tha tội; còn nếu người đó không có tội thì quyền này đâu được ban để buộc tội người ta. “Ai nghe các con, là nghe Ta” (), nhưng điều này đâu có nghĩa: ai không nghe các con là không nghe Ta. Khi những người có trách nhiệm ở trên tòa giảng dạy dỗ nhân danh Thiên Chúa, thì phải vâng phục họ, nhưng đừng bắt chước việc họ làm (Mt.23, 2-3). Tuy nhiên, nếu có một vị nào đã không dùng quyền hành để phục vụ dân Chúa, thì cũng không vì vậy mà phải liên minh chống lại họ. Hơn nữa, có chắc là họ dùng quyền hành để phục vụ họ không? Sao mình dám làm quan tòa mà phán xét họ. Thiên Chúa là Đấng thông biết tất cả, biết cả những gì kín ẩn, sẽ là Đấng phán xét chí công. Còn con người, có chắc gì những điều tôi biết về người đó là đúng, có chắc gì những gì tôi biết về người đó không nằm trong một “âm mưu” của một con người nào đó?
III. Phục vụ giúp người ta triển nở và hạnh phúc
Có lẽ những ai bận tâm về quyền hành nhiều, cũng là người thích quyền hành. Phải chăng nên là đừng bận tâm về quyền hành, hoặc nên tự do với quyền hành? Hãy phục vụ theo gương Đức Giêsu, phục vụ những con người cụ thể, làm tất cả những gì mình có thể làm được. Ai muốn có quyền để phục vụ, cứ để họ dùng quyền mà phục vụ. Những người không có quyền, cứ phục vụ như những người không có quyền. Cứ vâng phục lẽ phải, sẵn sàng vâng phục tất cả mọi người, cứ coi mình như nhỏ bé nhất để phục vụ, như vậy là theo gương Đức Giêsu. Bận tâm về những điều thuộc quyền bính làm gì! Đòi hỏi người khác phải làm điều này điều kia để làm gì! Tại sao họ lại phải làm theo ý tôi? Đâu phải chỉ những điều tôi cho là đúng mới là đúng!
Quyền hành không quan trọng bằng phục vụ. Nếu chọn giữa chức quyền địa vị và việc phục vụ, thiết tưởng tôi sẽ chọn việc phục vụ, vì phục vụ làm mình lại gần con người, làm mình có “trọng lượng thật” hơn, làm mình có công phúc hơn, làm mình triển nở và hạnh phúc hơn. Quyền hành địa vị so với việc phục vụ, là như tiếng thanh la vang dội, như phù vân giả tạo, như hình bóng so với cái thực. “Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và làm giá cứu chuộc nhiều người”.
Tạ ơn Đức Giêsu, Ngài đã dạy con đường hạnh phúc đích thực cho con người. Phục vụ, là điều làm cho con người triển nở và hạnh phúc. Không có con đường nào tuyệt vời hơn con đường Đức Giêsu đã đi. Đức Giêsu đã tự hủy để phục vụ, để dạy con người bước đi theo Ngài; và một khi theo Ngài, con người sẽ tìm được bình an, triển nở, và hạnh phúc đích thực.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Địa vị chức quyền đem lại gì cho bạn? Nó có giúp bạn triển nở hơn không? Tại sao?
2. Bạn có nghĩ: phục vụ làm bạn triển nở và hạnh phúc hơn không? Tại sao?
3. Làm sao để một người hiểu rằng: phục vụ làm cho người phục vụ triển nở và hạnh phúc thật sự?
18. Khánh Nhật Truyền Giáo
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin mừng Mt 28: 16-20: “Đừng bao giờ nghĩ rằng các con không có gì để cho, hoặc nghĩ rằng không ai cần các con. Mỗi người trong các con hãy tự nhủ trong lòng: nhiều người cần tôi”.
Suy niệm
Hôm nay, Giáo hội cử hành Khánh nhật Truyền giáo. Một số người không thích dùng từ truyền giáo, vì nghe có vẻ tuyên truyền, quảng bá, áp đặt. Dùng từ truyền giáo thì rất khó đối thoại với người thuộc các tôn giáo khác hoặc lương dân, vì người ta thường quan niệm tất cả các tôn giáo đều tốt như nhau, đều dạy con người ăn ngay ở lành, tạo phước tránh nghiệp. Đồng ý rằng có nhiều người Công Giáo sống tốt và noi gương cho người lương dân, nhưng cũng không thiếu người ngoại sống tốt hơn một số Kitô hữu. Thế nhưng, vì sao Giáo hội Công giáo dành Chúa nhật tuần trước Chúa nhật cuối tháng Mười để cử hành Khánh nhật truyền giáo?
“Khánh nhật” là một từ Hán Việt, mang ý nghĩa mở ra một ngày trọng đại để nhắc nhớ một sự kiện. Khánh nhật Truyền giáo là ngày Giáo hội mời gọi tín hữu trên toàn thế giới một cách đặc biệt cầu nguyện và góp phần vào công cuộc loan báo Tin Mừng theo lệnh truyền của Chúa Giêsu.
Tin Mừng theo thánh Matthêu hôm nay mở ra cho chúng ta về lệnh truyền của Chúa Giêsu dành cho các tông đồ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Đây cũng là lệnh truyền trực tiếp của Chúa Giêsu mời gọi mọi người nam nữ, già trẻ không riêng gì một ai. Nếu như chỉ đi lễ, đọc kinh, cầu nguyện, tuân giữ các Giới Răn của Chúa thì chúng ta mới giữ đạo cho khỏi mai một. Để sống đạo cách tích cực, chúng ta cần ý thức trở nên chứng nhân cho Chúa Kitô. Đây là bổn phận của mọi Kitô hữu, những ai đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm Sức đều có quyền loan báo Tin Mừng. Chính điều này làm nên bản chất của người Kitô hữu.
Trong Sứ điệp nhân Khánh nhật Truyền Giáo 2018, Đức Thánh cha Phanxicô mời gọi Kitô hữu suy tư về sự kiện này: “Bản thân mỗi người có một sứ mạng trên trần gian này; đó là lý do tại sao tôi có mặt ở đây, trong thế giới này” (Evangelli Gaudium, số 273). Vâng, tâm điểm sứ mạng của Hội thánh là loan truyền đức tin, diễn ra nhờ sự lan tỏa của tình yêu, ở đó với “niềm vui” và “sự phấn khởi”, chúng ta công bố về những ơn lành mình đã được Thiên Chúa trao ban cách nhưng không, nghĩa là cho miễn phí mà không tính toán đang diễn ra hàng ngày. Mà hồng ân lớn lao nhất đó là Chúa Giêsu Kitô đã chết và sống lại vì chúng ta. Vì thế, tự đáy lòng mình, chúng ta nợ Thiên Chúa.
“Nợ tiền nếu trả thì vơi, nợ tình nếu trả ai ơi càng đầy”
Chúng ta nợ Thiên Chúa tình yêu. Nhưng không thể đặt giới hạn cho tình yêu, vì tình yêu còn mạnh như sự chết (x. Diễm Ca 8,6). Cho nên việc loan truyền đức tin “bằng sức lôi cuốn” đòi hỏi phải có những tâm hồn được mở rộng bởi tình yêu. Và sự lan tỏa tình yêu ấy phát sinh sự gặp gỡ, làm chứng.
Người Kitô hữu luôn tôn trọng tự do tôn giáo của người khác, vì tôn giáo là quyền căn bản của con người đã được Công đồng Vaticanô II nhìn nhận. Nhưng Kitô hữu cũng thực thi sứ vụ truyền giáo là việc rao giảng Tin Mừng từ chính điều mình cảm nhận được là một Tin Mừng thật sự, từ hồng ân đức tin mình đã nhận lãnh, được cảm hóa. Kitô hữu sẵn sàng trao gởi món quà quý giá mà mình trân trọng đến cho những người mình yêu thương nhất. Còn gì hạnh phúc hơn khi nhìn thấy người mình yêu thương cũng đón nhận cách trân trọng món quà mình trao tặng. Cho nên, khi người mình yêu thương cũng tin và bước theo một cách tự do, thì sự chia sẻ ấy sẽ trở nên niềm hạnh phúc được vỡ òa.
Thế nên, Chúa luôn mời gọi chúng ta trở nên môn đệ Chúa để thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng, hãy trao món quà đức tin vào Chúa cho anh chị em mình. Và vì là món quà, nên Chúa không đòi hỏi nơi người môn đệ khả năng, bằng cấp, học vấn, địa vị… và chúng ta không phải ái ngại rằng mình không thể đóng góp phần mình. Chúa chỉ cần người có lòng nhiệt huyết thực thi sứ vụ tông đồ.
Chúng ta đang sống trong thời công nghệ 4.0 giúp cho việc truyền thông được dễ dàng. Nhờ các mạng xã hội rộng khắp khiến khoảng cách và dị biệt dần được thu hẹp và thế giới trở nên thế giới phẳng. Đó là một cơ hội thuận tiện để chúng ta mạnh dạn diễn đạt niềm hạnh phúc từ hồng ân đức tin của mình, cũng như chia sẻ đức tin ấy cho anh chị em. Chỉ khi chúng ta dám đặt câu hỏi: “Nếu Đức Kitô ở trong hoàn cảnh của tôi, Người sẽ làm gì?”, chúng ta sẽ biết phải làm thế nào. Vị cha chung của chúng ta trong buổi gặp gỡ giới trẻ tại điện Maipu, Chilê ngày 17/1/2018 đã khích lệ: “Đừng bao giờ nghĩ rằng các con không có gì để cho, hoặc nghĩ rằng không ai cần các con. Mỗi người trong các con hãy tự nhủ trong lòng: nhiều người cần tôi”.
19. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
ƯỚC MƠ THIÊN ĐÀNG HAY CHIÊM NGẮM ĐỨC KITÔ THẬP GIÁ!
“Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”; thiết tưởng theo tư duy tự nhiên, thì lời khẩn cầu của hai anh em nhà Dê-bê-dê rất chính đáng. Phải chăng rất nhiều người chúng ta cũng đã từng có những ước muốn ‘chính đáng’ tương tự; chúng ta đã chẳng mơ ước được một chỗ cao sang trên thiên đàng, được giầu công nghiệp trước mặt Chúa, được phần thưởng trọng hậu là gì? Các môn đệ khác, chứ không cứ gì hai anh em, cũng đã không ít lần bàn cãi về chuyện đó, xem: “ai sẽ là người lớn nhất trong nước trời”. Trước thao thức của các ông, hình như Đức Giêsu muốn nhắc nhở rằng: công nghiệp hay chỗ cao trên thiên đàng là việc dành riêng cho Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”, môn đệ chân chính không nên quan tâm tới. Nếu hiểu đúng ý Đức Giêsu, thì điều duy nhất cần quan tâm trong việc sống Tin Mừng sẽ chỉ là theo sát Đức Kitô Thập Giá, và theo cho tới cùng, là “Uống chén thầy sắp uống, chịu phép rửa thầy sắp chịu”.
Trước hết, Kitô hữu chúng ta cần biết rõ: ‘chén của Thầy, phép rửa của Thầy’ là gì; trên đường tiến về Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đã nhiều lần cảnh báo các môn đệ về cuộc thương khó và phục sinh sắp xảy ra (xem Mc 10:32-34), tuy nhiên bài học này lúc đó hình như các ông không kham nổi, đơn giản là vì các ông không thể hình dung nó sẽ ra sao? Kitô hữu chúng ta ngày nay thì không lạ lẫm gì về diễn biến Thập Giá, khi Đức Giêsu (Lời Thiên Chúa) tự hiến để phục vụ lợi ích thiết thực của con người nhân loại tội lỗi. Thập Giá là bằng chứng thuyết phục rằng: Người đến không phải để luận phạt theo lẽ công bình, mà để hiến mình cứu độ, qua đó chỉ cho mọi người thấy một Chúa Cha vô cùng nhân ái; chính vì vậy mà, trước cuộc thương khó, Người đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, một biểu tượng của hạ mình phục vụ để thanh tẩy và tha thứ (xem Ga 13). Qua hành động này, Đức Giêsu chắc hẳn không nhằm dạy các môn đệ mình một ‘chiến thuật’ để chinh phục và cai trị thiên hạ, như Lão tử – nhà hiền triết Trung Hoa đã từng vịnh rằng: “Sông, biển để làm gì, để cai trị trăm ngàn thung lũng? Nó đặt mình nằm dưới tất cả và vì thế nó cai trị hàng trăm thung lũng. Nếu thánh hiền muốn làm đầu dân tộc hãy học nói năng cho khiêm tốn. Nếu muốn lãnh đạo dân hãy đặt mình vào chỗ rốt hết”; Những lời khôn ngoan thật đấy, nhưng đâu phải là Tin Mừng!
Môn đệ là những người ‘theo Đức Kitô’, vì thế họ có thể tự hào: “Thầy coi, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo thầy” (Mc 10:28). Nhưng họ cũng cần hiểu rằng: từ bỏ là để đi con đường Thầy đi, và đó là con đường phục vụ, phục vụ tới độ tự hủy, tới độ hiến cả mạng sống mình; “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Điều khó chấp nhận nhất chính là: sự vĩ đại của Thiên Chúa mà lại đồng hóa với việc cúi xuống phục vụ người thấp hèn. Thầy Giêsu đã làm gương và dạy môn đệ làm theo: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”.Phải mất một thời gian dài nữa, các ông mới hiểu được điều này; phải đợi tới khi được Thấn Khí tác động, các ông mới dứt khoát “trở nên mọi sự cho hết mọi người…”
Kitô hữu chúng ta cũng vậy thôi! Quyết định theo Chúa đấy, nhưng bài học quên mình phục vụ thì mãi vẫn chưa thuộc. Lý do là vì, chúng ta mơ ước quá nhiều về thiên đàng, còn chiêm ngắm Thập Giá thì lại quá ít. Duy nhất Thầy Giêsu mới là đường, là chân lý, và là sự sống! Do đó thiên đàng không phải là cùng đích, nhất là cái thứ thiên đàng mà ta vẫn thường vẽ ra trong đầu. Nếu Thiên Chúa là Đấng nhân ái và xót thương, thì thiên đàng phải là nơi chan hòa nhân ái; bên hữu hay bên tả của Thiên Chúa nhân ái trên thiên đàng đó sẽ chỉ dành cho những ai có lòng thương xót mà thôi; “Phúc thay những ai xót thương, vì họ sẽ đươc Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7).
Nếu vậy, lạy Cha nhân ái, xin cho con được ngồi bên hữu Cha; không phải vì con đạo đức thánh thiện hơn người, nhưng chỉ vì con nhận biết Cha hằng xót thương những con người yếu hèn, nên sẽ yếu mến sự hèn kém của con. Đặc biệt, thể theo lời mời gọi của Cha, con sẽ quyết tâm chia sẻ lòng thương xót đó cho mọi người, đặc biệt cho các tội nhân thấp kém. Amen.
20. Con đường vương giả – Lm Phạm Quốc Hưng
Ước muốn làm lớn hay ước muốn được trở nên cao trọng luôn được ấp ủ trong nơi sâu kín của tâm hồn mỗi người chúng ta. Ai lại chẳng muốn làm lớn? Ai lại chẳng muốn trở nên cao trọng? Điều này là một thực tại phù hợp với bản tính con người, vì chúng ta là thụ tạo “linh ư vạn vật”, được Thiên Chúa cao cả yêu thương tạo dựng theo giống hình ảnh của chính Người mà!
Điểm đáng lưu ý ở đây là điều gì làm cho chúng ta trở nên cao trọng thực sự? Đây chính là một trong những chủ đề được nhận thấy trong Phụng Vụ hôm nay.
Trong đời sống xã hội, người ta thường quan niệm việc làm lớn hay trở nên cao trọng luôn gắn liền với quyền bính, chức tước, danh vọng. Như vậy, làm lớn đồng nghĩa với việc được phục vụ, được ca tụng, được ngưỡng mộ. Biết bao người đã xử dụng mọi thời giờ, vận dụng mọi tài sức, chấp nhận mọi hy sinh và lắm khi không từ nan mọi thủ đoạn đê hèn để thực hiện ước muốn đạt được danh vọng, chức tước, quyền bính trong nhiều lãnh vực khác nhau: chính trị, kinh tế, văn nghệ, thể thao…và cả tôn giáo nữa!
Các môn đệ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu vì vốn nghĩ Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, Đấng Kitô, Đấng Thiên Sai và Đấng Thiên Sai đầy quyền bính trong lời nói và hành động. Như thế, chắc hẳn sẽ có ngày Người đạt tới một thứ vinh quang cao trọng nào đó, như Thánh Vương Đavít năm xưa chẳng hạn. Và chắc chắn họ sẽ được chia sẻ vinh quang với Người. Như để nắm chắc được phần thưởng tương lai, hai anh em con Ông Giêbêđê trong Tin Mừng hôm nay đã mạnh dạn đến bày tỏ với Chúa Giêsu ước muốn thầm kín xưa nay của họ: “Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy” (Mc10:37). Chúa Giêsu không trách mắng các ông vì sự mê muội của các ông, nhưng Người nhẹ nhàng hướng các ông về mầu nhiệm Thập Giá khi nói các ông: “Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10: 38).
Vốn có cùng ước muốn làm lớn theo lối thế gian như hai anh em con Ông Giêbêđê, mười môn đệ còn lại trong Nhóm Mười Hai nghe chuyện đó liền bực tức với hai ông. Chúa Giêsu nhân cơ hội này đã dạy các ông một bài học để đời, một bài học về con đường vương giả dẫn đến vinh quang đích thực, giúp người ta đạt được ước muốn làm lớn thực, trở nên cao trọng thực.
Đó là con đường Thánh Giá, con đường yêu thương được thể hiện qua tinh thần khiêm nhường phục vụ, xả kỷ vị tha. Đó là con đường mà chính Chúa Giêsu đã khai mở và bước đi đến cùng để cứu độ nhân loại, để trở thành Vua lòng mọi người, để trở thành gương mẫu tuyệt hảo cho mọi người bước theo. Người nói: “Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10:42-45).
Hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu-Đấng Mêsia-được ngôn sứ Isaia đã diễn tả như Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa nơi bài đọc một: “Chúa đã muốn hành hạ Người trong đau khổ. Nếu Người hiến thân làm lễ vật đền tội, Người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ Người, ý định của Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của Người, Người sẽ thấy và sẽ được thỏa mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hóa nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ” (Is 53:10-11).
Tác giả Thư Gửi Tín Hữu Do Thái trong bài đọc hai cũng nhắc lại việc Đấng Cứu Thế đã vì yêu thương loài người mà gánh lấy mọi đau khổ thử thách để cứu chuộc chúng ta. Chính vì thế mà Người đã trở thành Vị Thượng Tế đem lại ơn cứu độ cho chúng ta: “Vì chưng, không phải chúng ta có vị Thượng Tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi” (Dt 4:15).
Theo cùng một tinh thần ấy, tác giả sách Gương Chúa Giêsu nhận ra rằng Thiên Chúa chính là Đấng phụng sự con người hơn là Đấng để cho người ta phụng sự khi viết: “Mọi của con có, mọi cái con dùng để phụng thờ Chúa thảy đều là của Chúa! Mà xét lại, chính Chúa đã phụng sự con nhiều hơn là con phụng sự Chúa. Kìa, trời và đất Chúa đã tạo nên để mưu ích cho người đời; chúng sẵn sàng luôn và ngày ngày thi thành mệnh lệnh Chúa. Hơn nữa, Chúa đã tổ chức nên sứ bộ thiên thần cũng vì nhân loại. Nhưng cái trỗi vượt hơn cả chính là Chúa đã tự hạ để phụng sự người đời, và Chúa đã tự đoan sẽ ban cả mình Chúa cho người đời nữa” (Q. III, Ch. #10).
Bàn về sự cao trọng của con người, Mẹ Terêsa Calcutta nói: “Bạn được dựng nên cho những điều cao cả hơn: để yêu và được yêu”. Và Mẹ luôn tâm niệm: “Hoa trái của yêu thương là phục vụ” và “Yêu thương là trao ban đến đớn đau”. Đó là lý do khiến Mẹ từ giả đời sống êm đềm của một nữ tu dạy học để tìm đến phục vụ những người cùng khổ bị bỏ rơi trên những khu ổ chuột ở Calcutta và lập nên Dòng Thừa Sai Bác Ai. Đó cũng là lý do khiến Thánh Đamien đang là một linh mục Dòng Thánh Tâm tráng kiện tình nguyện đến sống và phục vụ những người phong cùi ở đảo Molokai, và chia sẻ cả bệnh phong cùi với họ, chết giữa họ. Đó cũng là lý do biết bao tín hữu Chúa Kitô tiếp tục dấn thân âm thầm phục vụ tha nhân đến hy sinh chính mình, trong mọi môi trường trong mọi nơi mọi thời mà chỉ có Chúa mới có thể thẩm định đúng mức sự cao cả của tình yêu trong trái tim họ.
Trong tác phẩm Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy vọng, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận kể về chứng từ của cô Sophie Berdanska. Vì túng nghèo, cô phải đi làm thuê cho một gia đình Do Thái tên là Merston. Công việc của cô là chăm sóc mấy đứa con của ông chủ. Biết Sophie là người Công giáo, ông chủ đặt điều kiện là cô “không được giảng đạo” cho con cái ông. Tối hôm ấy, Sophie lấy một miếng giấy nhỏ ghi ít chữ vào đó rồi bỏ vào huy chương ba cô trối lại và đeo vào cổ. Các con ông chủ nhiều lần đòi coi huy chương ấy, nhưng cô không cho. Nhờ sự chăm sóc tận tâm của Sophie, các con ông Merston càng ngày càng ngoan ngoãn giỏi giang. Ít năm sau, các con ông lần lượt đau nặng. Cô Sophie tận tình lo lắng phục vụ lũ trẻ, và chúng lần lượt được bình phục. Nhưng vì quá tận tâm lo cho chúng, Sophie kiệt sức và qua đời. Ít lâu sau, ông Merston tình cờ mở chiếc huy chương nàng để lại và đọc được hàng chữ trong mảnh giấy trong đó: “Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo trước mặt họ như một chứng tích hùng hồn”. Chợt hiểu ra tất cả và cảm phục Sophie, cả gia đình Merston sau đó đã xin theo đạo! Sophie là người đã hiểu và bước theo con đường vương giả của Chúa Giêsu, đường yêu thương phục vụ, đường xả kỷ vị tha!
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ của tình yêu mỹ diệu. Xin Mẹ dạy con biết trung thành và vui tiến trên con đường vương giả của Chúa Giêsu, đường yêu thương phục vụ, đường xả kỷ vị tha, để đạt được vinh quang đích thực là được nên giống Chúa Giêsu, nên một với Người, và cảm hóa mọi người thiết tha yêu mến Chúa và Mẹ. Amen.
21. Hy tế – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Khi bước vào trong nhà thờ Công giáo, chúng ta sẽ nhìn thấy hình ảnh đau thương của Chúa Giêsu Kitô chết treo trên Thánh giá nơi cung thánh. Thân mình Chúa trần trụi, đầu đội mạo gai, hai chân hai tay bị đóng đinh vào thánh giá, cạnh sườn bị đâm thủng, mình mẩy dính đầy máu và chết trong tư thế gục đầu xuống. Cái chết của Chúa thật bi thương. Những người tin vào Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế đã kính thờ bái lạy và ghi dấu thánh giá trên mình. Chúa đã hiến thân mình làm hy tế để giao hòa nhân loại với Chúa Cha. Của lễ hiến tế là chính thân xác của Chúa Giêsu. Chúa Kitô đã chết trên Thánh giá và đã sống lại vinh hiển đang ngự bên hữu Chúa Cha. Nhiều người không biết và không tin vào Chúa Kitô, họ không thể hiểu tại sao người Công giáo lại tôn thờ một Đấng, bị xem như là tội nhân của đế quốc Rôma đã phải xử tội tử hình.
Tiên tri Isaia đã tiên báo về Đấng sẽ đến, người tôi tớ trung tín và công chính sẽ chịu khổ hình để gánh tội: “Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53,11). Làm người ai cũng muốn sống an vui và hạnh phúc, chẳng mấy ai muốn đời mình bị đau khổ. Thực ra, chỉ có đau khổ mới hoá giải được khổ đau. Nếu chúng ta không gặp đau khổ, chúng ta không biết thế nào là vui sướng hạnh phúc. Nếu chúng ta không có đau đớn bệnh hoạn, chúng ta không biết mình đang an khang khoẻ mạnh. Người tôi tớ công chính đã lãnh chịu mọi thống khổ ở đời để biến đổi nó thành hoa trái tốt lành của ơn cứu độ.
Người Tôi Trung của Tiên tri Isaia là hình ảnh của Đấng Được Xức Dầu, Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã chấp nhận thân phận con người yếu đuối, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chọn con đường thánh giá để giao hoà. Thư gửi tín hữu Dothái đã viết: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 14,15). Con đường Chúa đi là con đường ngược chiều, có nhiều đau thương và chông gai. Thư Dothái gọi Ngài là Thượng Tế để gắn kết với hy tế mà chính Ngài đã hiến dâng. Hy lễ đền tội cho nhân loại hiến dâng lên Thiên Chúa Cha một lần là đủ.
Câu truyện trong bài Phúc Âm rất tuyệt vời. Thánh Marcô rằng hai anh em ông Giacôbê và Gioan đến gần Chúa và thưa: “Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy”. Sự khẩn cầu của hai ông cũng giống như sự cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Mở lời cầu xin, nếu nhận được ơn ngay, thì dễ dàng quá. Ai cũng có thể cầu xin được. Chúa Giêsu vạch rõ con đường mà mỗi Kitô hữu phải đi qua: Đức Giêsu nói: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”(Mc 10,38). Không trải qua đắng cay thử thách, chúng ta không thể đạt được triều thiên vinh quang. Chúa Giêsu đã thẳng thắn trả lời cho hai ông và các Tông đồ về cách sống đạo. Muốn được hưởng vinh quang, các ngài phải uống chén đắng mà Chúa sắp uống. Có nghĩa là phải sống, phải tu luyện, phải phấn đấu trường kỳ và phải chịu mọi thử thách gian nan trong niềm tin.
Ngày nay, có những phong trào đưa dẫn nhiều người đi qua con đường tắt. Họ mở ra cho thấy hào quang thánh thiện hiện diện ngay trong đời sống mà không cần phải trải qua tu luyện và thử thách. Cứ đến mà xin, xin gì được nấy. Không phải tốn phí tiền bạc, thuốc thang, thời gian trị liệu hay phải hy sinh từ bỏ điều gì. Kiểu hành đạo quá nhẹ nhàng, dễ dãi và thoải mái, ai mà không mến chuộng. Có nhiều người quan niệm rằng chúng ta cứ tụ nhóm đọc kinh cầu nguyện và xin ơn chữa lành, Chúa sẽ ban cho tất cả. Trong khi đó chúng ta chối từ chén đắng của sự hy sinh, từ bỏ, sám hối, tránh tội, kiêng cữ và hãm mình. Chúng ta chỉ muốn thực hành đạo tại chỗ nơi hội họp và xin đừng nhắc đến đời sống riêng tư lầm lỗi. 2.000 năm trước, Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh các Tông đồ về hành trình theo Chúa. Các ngài phải qua thánh giá và đau khổ để bước vào vinh quang.
Chúa Giêsu rất hài lòng với câu trả lời của hai ông: Các ông đáp: “Thưa được”. Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu”(Mc 10,39). Chúa Giêsu đã uống chén đắng qua tất cả những khổ đau mà Ngài phải chịu. Chúa bị người đời ruồng bỏ, chống đối, tẩy chay, khinh dể, nhạo báng, đánh đập, xô đẩy, khạc nhổ, la hét, phản bội, chối từ, đóng đinh và chết trên thập giá. Chúa chấp nhận tất cả như người tôi tớ trung tín để cảm thông mọi nỗi cơ cực của con người. Hai Tông đồ Gioan và Giacôbê đã đi trọn con đường theo Chúa. Tông đồ Giacobê là người đầu tiên trong mười hai tông đồ đã đổ máu đào làm nhân chứng cho Chúa Giêsu đã chết và sống lại. Thánh Gioan đã một đời rao giảng về tình yêu của Chúa và tín trung cho đến giây phút cuối cùng.
Tin vào Chúa là bước theo con đường Chúa đã đi. Chúng ta không thể đi theo con đường tắt để đạt vinh quang. Con đường vắn gọn, thư thái nhẹ nhàng chỉ là bánh vẽ và ảo tưởng. Muốn hành đạo tốt, chúng ta phải bước xuống: “Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em”(Mc 10,43). Sống đạo phải khởi đi từ trái tim yêu thương. Chúa Giêsu đã trải nghiệm kiếp người trong khiêm hạ phục vụ. Chúa là Thầy và là Chúa đã quỳ xuống, lấy nước rửa và lau chân cho các môn đệ. Chúa đã không loại trừ một ai, cho dù Chúa biết có những đôi bàn chân không xứng đáng. Chúa đã hạ mình xuống tận cùng để lãnh nhận công việc của người tôi tớ. Từ đáy vực thẳm thấp hèn, Chúa đã nâng con người lên làm bạn hữu và được đồng thừa tự vinh quang trong Nước Chúa.
“Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”(Mc 10,44). Lấy tinh thần phục vụ để làm thước đo giá trị đời mình. Phục vụ trên môi miệng thì rất dễ dàng nhưng phục vụ qua hành động mới mang giá trị. Đôi khi thực hành một việc rất nhỏ nhưng có giá trị lớn. Tự hỏi: Ai là người tôi tớ phục vụ trong mái ấm đời sống gia đình? Phải chăng là người mẹ. Mẹ không than van hay quản ngại việc gì, dù bề bộn khó khăn, bẩn thỉu và dơ dáy. Hằng ngày mẹ lau chùi nhà vệ sinh, quét dọn nhà cửa, rửa ráy từng cái ly, cái chén mà chồng con đã vô ý chất chồng trong bồn rửa. Có khi người bố và các con nghĩ rằng đã có người làm việc trong nhà, nên cứ việc bừa bãi. Người mẹ cứ phải nai lưng chịu đựng (after you). Trong đời sống chung, chúng ta đừng quá ỷ lại vào người khác. Mỗi người có thể góp phần phục vụ lẫn nhau, có đi có lại mới toại lòng nhau.
Chúa Giêsu mở con đường phục vụ trong khiêm hạ: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”(Mc 10,45). Một lời mời gọi phục vụ chân tình đối với tất cả các phẩm trật trong Giáo Hội. Đặc biệt trong các giờ phụng vụ thánh lễ và các nghi lễ, linh mục và các thừa tác viên có những trách nhiệm và bổn phận riêng phải chu toàn. Chúng ta hãy ý thức tôn trọng lẫn nhau, đừng dẫm chân lên nhau, đừng lớn tiếng phàn nàn, đừng tỏ thái độ cau có và xúc phạm danh dự của nhau. Chúng ta cùng đến để phục vụ cộng đoàn, chứ không phải được phục vụ.
Lạy Chúa, con đường Chúa đã đi xưa là con đường khổ giá, khiêm tốn và phục vụ, xin cho chúng con biết dõi theo lối gót của Chúa để cùng xả thân hy sinh phục vụ tha nhân.
22. Mù sương
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Ai đi sáng tinh sương cũng có kinh nghiệm đi trong sương. Cái mát lạnh buổi tinh sương làm con người tỉnh ngủ. Cảnh vật tươi mát, đầy sức sống mang lại niềm hy vọng ngày mới phá tan màn đêm. Ánh bình minh chan hoà sự sáng mang lại nhựa sống cho thảo vật, sinh vật. Sương sáng mang tươi mát, sự sống, niềm hy vọng nhưng sương sáng thường che đường, mờ lối người đi khiến không nhìn thấu suốt và cản trở tầm nhìn xa.
Đi đường mờ sương có nguy cơ sa hố. Sa hố ít nhiều gì cũng cản trở việc tiến tới, hay ít ra tinh thần hăng hái lúc đầu bị chùn lại, không còn mạnh chân tiến bước như lúc mới ra đi. Hơn nữa đường dài tiêu hao sinh lực nên người đi thường hoặc mong cho chóng đến nơi, hoặc mong được dừng chân lấy sức. Trường hợp của anh em Giacôbê và Gioan không mong sớm đến nơi mà mong tột đỉnh danh vọng. Không phải thích thú được ngồi bên phải, bên trái Thầy mà thích được liệt vào hàng ăn trên, ngồi trước. Đây không phải là ước mơ của riêng hai ông mà là ước mơ của các môn đệ theo Thầy. Nhìn thái độ ganh tị, không hài lòng của mười ông khác để biết rõ các ông không hài lòng. Rõ ràng điều các ông mong ước, dù nói ra hay thầm kín trong lòng đều bị một làn sương mù bao phủ khiến các ông không nhìn rõ điều các ông mong.
Có quá nhiều làn sương mù che phủ trong việc theo Thầy.
Thứ nhất các ông tin là Thầy sẽ lập vương quốc trần gian, giải thoát dân tộc khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Xin ngồi bên phải, bên trái lãnh tụ là xin ghế lãnh đạo.
Thứ hai các ông không dự đoán phản ứng của các môn đệ khác khi các ông xin được ngồi ghế lãnh đạo.
Thứ ba các ông không hiểu về chén Thầy sẽ uống và phép rửa Thầy sẽ chịu vì thế các ông mạnh dạn thưa có.
Thứ tư các ông lờ mờ trong việc làm chứng nhân cho Thầy chính là phục vụ chứ không phải để được phục vụ.
Thứ năm các ông muốn lãnh đạo theo kiểu dân ngoại để hưởng tài lộc và danh tiếng.
Thứ sáu các ông cũng không hiểu giá cứu chuộc Thầy nhắc đến là gì. Bao nhiêu, nhiều ít và trả cho ai?
Điều chúng ta biết rõ là phục vụ đòi rộng lượng và hi sinh. Thiếu rộng lượng và hi sinh thì không thể phục vụ. Giá mà Đức Kitô nói đến không phải là trả cho Chúa Cha, cũng không phải là trả cho ma quỉ, cũng không phải trả cho chính mình cũng không phải trả cho nhân loại. Giá đó chính là giá của yêu mến chân thành, phục vụ thiết tha. Tình yêu chân chính luôn kèm theo hi sinh. Trong khi bản chất thật của hi sinh là từ bỏ. Từ bỏ có thể là từ bỏ thời gian hay ý riêng. Từ bỏ lợi danh hay tư lợi. Từ bỏ thiệt thòi và đau khổ là từ bỏ í riêng. Từ bỏ khó nhất, đau nhất và cao cả nhất là từ bỏ chính mình. Đức Kitô đã chọn từ bỏ cao cả nhất và cũng là giá cao nhất, cao đến độ không còn giá nào cao hơn nên đôi khi người ta nói đến hi sinh của Ngài là hi sinh vô giá. Nghĩa là không còn giá nào có thể vượt qua, thắng nổi giá đó nên trở thành vô giá. Ngài tự nguyện hi sinh để mang lại sự sống cho muôn người. Hi sinh đó được các tiên tri tiên đoán và loan báo nhiều ngàn năm trước.
Người phải bị nghiền nát vì đau khổ, nếu Người hiến thân làm lễ vật đền tội.
Vì nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính. Is 53,10.
Nhờ cái chết và sự phục sinh của Người đánh tan làn sương mù mà các tông đồ sau này trở thành những tôi trung không ngại đau khổ.
23. Chuyện phục vụ
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Phục vụ là giúp đỡ người khác, có thể đó là việc phải làm theo bổn phận, theo trách nhiệm, hoặc có thể là việc muốn làm vì tự nguyện. Tinh thần phục vụ làm cho chúng ta nên cao quí, vì phục vụ là dâng hiến chính con người bé nhỏ của chúng ta cho Thiên Chúa, Đấng tối cao tuyệt đối.
Hàng ngày, các công ty, các cửa hàng, các quán ăn hoặc giải khát,… luôn có những đợt tuyển nhân viên phục vụ. Công việc của người phục vụ rất bình thường, đôi khi bị coi làm tầm thường, nhưng thực ra lại rất cần thiết. Có thể nói rằng không có họ thì các sinh hoạt xã hội khó tồn tại. Không có các công nhân thì giám đốc chỉ bó tay, và xã hội sẽ không có sản phẩm để tiêu thụ. Cách phân biệt “cao – thấp” là do quan niệm của những người thiển cận, nông cạn – cũng là một dạng “thiểu não” đấy. Chỉ có người xấu chứ không có nghề xấu, cũng không có nghề nào hơn nghề nào. Tiền nhân nói: “Nhất sĩ, nhì nông; hết gạo chạy rông… nhất nông, nhì sĩ”. Ảnh hưởng “” là do quan niệm xưa: Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh. Kẻ sĩ được coi là “dân ngon”. Nhưng hết gạo ăn thì “ngon” cái nỗi gì? Ai hơn ai đây?
Ai cũng phục vụ lẫn nhau, dù là trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc bằng cách nào đó. Đừng tưởng tôi tớ mới phải phục vụ chủ nhân, mà chính chủ nhân cũng phải phục vụ tôi tớ bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có nhân viên mới phải phục vụ giám đốc, mà chính giám đốc cũng phải phục vụ nhân viên bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có đệ tử mới phải phục vụ sư phụ, mà chính sư phụ cũng phải phục vụ đệ tử bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có giáo dân mới phải phục vụ linh mục quản xứ, mà chính linh mục cũng phải phục vụ giáo dân bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có bề dưới mới phải phục vụ bề trên, mà chính bề trên cũng phải phục vụ bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có người nhỏ mới phải phục vụ người lớn, mà chính người lớn cũng phải phục vụ người nhỏ bằng cách nào đó;… Rất nhiều mối quan hệ trong xã hội, mọi mối quan hệ đều liên đới với nhau. Vợ chồng đối với nhau, cha mẹ và con cái đối với nhau, anh chị em đối với nhau, bạn bè đối với nhau,… nói chung là con người đối với con người. Chúa Giêsu đã có quy luật sống: “Ai làm đầu phải hầu thiên hạ” (x. Mt 20:25-28; Mc 10:40-45).
Sau khi được Chúa Giêsu chữa khỏi chứng sốt nặng, nhạc mẫu của ông Phêrô liền chỗi dậy phục vụ Người (x. Mc 1:29-31; Lc 4:38-39). Và rồi chính Chúa Giêsu đã minh định: “Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22:27). Quả thật, ngay tại Bữa Tiệc Ly, trước khi Chúa Giêsu bị bắt, chính Ngài đã đích thân hạ mình bằng cách quỳ xuống mà rửa chân cho các môn đệ, Ngài muốn làm gương và dạy chúng ta về tầm quan trọng của sự phục vụ (x. Ga 13:3-20).
Chuyện phục vụ cũng liên quan thái độ “chảnh”. Người ta thường thích “sai” người ta làm cái này, việc nọ, và cứ tưởng thế là oai lắm. Ảo tưởng quá, dại dột quá, vì đi ngược lại đường lối của Chúa mà lại dám “hãnh diện”, thế mới chết chứ! Phục vụ là việc bình thường mà lại nhiêu khê. Phục vụ là dấn thân, cũng rất cần phải khiêm nhường mới có thể phục vụ. Không dễ chút nào!
Phục vụ còn liên quan nịnh bợ, tâng bốc, ranh mãnh. Cứ thấy “ông to, bà lớn” thì họ tìm mọi cách để “đưa đón” và “đẩy đưa”, đãi bôi, tâng bốc,… cốt để tỏ ra mình “oai”, tìm mọi cách “nịnh trên, đạp dưới”. Thật ra họ chỉ là “cáo mượn oai hổ”, chứng tỏ đầu óc kém cỏi, ngu dốt với cái đầu rỗng tuếch. Họ tự thú với người khác rằng “ông ơi, tôi ở bụi này”, ngu dại mà cứ tưởng mình giỏi giang. Kinh khủng thật! Tục ngữ Đức có câu nói thú vị: “Người ta bắt thỏ rừng bằng chó săn, bắt đàn bà bằng bạc tiền, và bắt kẻ ngu si bằng lời khen dối trá”.
Ngôn sứ Isaia cho biết: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu“” (Is 53:10). Nghe chừng rất lạ, vì có vẻ rất… “ngược đời”, bình dân gọi là “trái khoáy”. Thế nhưng như vậy mà lại không phải như thế. Nghịch mà thuận, gọi là nghịch-lý-thuận.
Lý do vừa mặc nhiên vừa minh nhiên: “Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53:11). Ai chân thành theo Chúa sẽ được tha thứ tội lỗi, được “trắng án” và được công chính hóa – tức là được “giải án, tuyên công”, vì chính Thiên Chúa “bù lỗ” cho họ. Thật hạnh phúc biết bao!
Thiên Chúa công minh và chính trực. Ngài giàu lòng thương xót (Ep 2:4), nhưng Ngài lại thẳng thắn, không thiên vị bất cứ ai (1 Pr 1:17; Gl 2:6; Cv 10:34). Mọi lời Ngài nói đều nên trọn: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:4-5).
Thiên Chúa nhất định là Đấng chân thật, còn mọi người đều giả dối (Rm 3:4). Thiên Chúa tốt lành tuyệt đối, Ngài “không thể bị cám dỗ làm điều xấu và chính Ngài cũng không cám dỗ ai” (Gc 1:13). Tác giả Thánh Vịnh đã minh chứng: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn. Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì” (Tv 33:18-20).
Thiên Chúa là Tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), là lòng thương xót, là lòng trắc ẩn. Chúng ta có biết yêu thương thì cũng là nhờ Ngài, bắt nguồn từ Nguồn Yêu Thương của Ngài. Thiếu tình yêu, chắc chắn con người sẽ chết sớm. Vì thế, chúng ta phải biết không ngừng cầu xin Ngài: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22).
Yêu thương là phục vụ, không yêu thương thì người ta không muốn phục vụ – dù có thể họ vẫn biết cách phục vụ. Nhưng để có thể phục vụ, người ta phải biết yêu thương; để có thể yêu thương, người ta phải biết lắng nghe nhau, đặc biệt là lắng nghe Thiên Chúa. Ước gì mọi người đều biết sẵn sàng và mau mắn như cậu Samuel ngày xưa: “Lạy Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:9).
Chúa Giêsu là vị Thượng Tế biết cảm thương, luôn chạnh lòng thương xót người khác, luôn động lòng trắc ẩn trước những con người khốn khổ. Thánh Phaolô cho biết: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin” (Dt 4:14). Tuyên tín là điều cần thiết, nhưng lại không đơn giản, vì đơn giản như việc làm Dấu Thánh Giá mà nhiều người vẫn “e ngại”, nhất là khi có người khác tôn giáo hoặc ở nơi công cộng. Họ lý luận bằng cách phát âm là “làm dấu” nhưng thực ra là “làm giấu” đó mà!
Thánh Phaolô nói rõ ràng, dùng phủ định cách để làm nổi bật sự xác định: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Không đến với Lòng Chúa Thương Xót không chỉ là dại dột mà phải nói là ngu xuẩn. Tuy nhiên, nếu ảo tưởng thì chúng ta chỉ “lợi dụng” Lòng Chúa Thương Xót mà thôi. TIN mình được Chúa thương thì không là kiêu ngạo, nhưng TƯỞNG mình được Chúa thương thì lại là kiêu ngạo!
Kiêu ngạo là ảo tưởng. Vì ảo tưởng mà không yêu thương – mà yêu thương thì rất thực tế, vì cần hành động cụ thể. Do đó, không yêu thương thì không thể phục vụ. Phục vụ đối lập với quyền hành, địa vị, chức tước, vì người có chức quyền không muốn phục vụ, chỉ muốn “chỉ dạy” và muốn được phục vụ. Tại sao chúng ta khó phục vụ? Bởi vì chúng ta ích kỷ, ỷ lại, ngại khó, sợ hèn, quen “chảnh”. Thánh nữ Têrêsa Avila (1515-1582), Tiến sĩ Thần bí, nhận xét: “Chúng ta quá tự ái, quá vận dụng tài trí trần gian để khoe khoang mình, đó là sự dối trá to lớn và ngông cuồng, các thánh nhân không như thế”.
Chuyện phục vụ có “dính líu” tới chức quyền. Trình thuật Mc 10:35-45 là câu chuyện đầy kịch tính về vấn đề này, hầu như lúc nào cũng là vấn đề “thời sự nóng”.
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và “lấy lòng” Ngài bằng cách rào trước đón sau: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Ngài hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?”. Họ không ngần ngại vào thẳng vấn đề: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”.
Đức Giêsu trách mắng họ và Ngài cũng nói thẳng: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”. Họ có vẻ “vô tư” khi trả lời Ngài: “Thưa được”. Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”. Nghe lời này, có lẽ họ cảm thấy… “ngại” lắm đấy. Và đó cũng là “tâm trạng” của chúng ta ngày nay!
Sau khi nghe hai anh em nhà Dêbêđê nói vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Bản tính ghen tỵ trong con người luôn muốn trỗi dậy, sẵn sàng vùng lên bất cứ lúc nào, nhất là khi cảm thấy mình “lép vế” hơn người khác. Ghen tỵ vì tự ái. Tính ghen tỵ có ở mọi nơi và trong mọi người. Tính ghen tỵ dễ thấy trong các cộng động – cả xã hội và tôn giáo. Trong các giáo xứ, đoàn thể, cộng đoàn tu trì, nhóm từ thiện, thậm chí ngay trong gia đình, chúng ta vẫn thấy có tính ghen tỵ – với các mức độ khác nhau. Con gà còn tức nhau vì tiếng gáy kia mà! Tự ái và ghen tỵ là “chướng ngại vật” khiến chúng ta khó “từ bỏ mình” theo ý của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu biết các đệ tử đang hậm hực với nhau vì muốn tranh giành quyền hành, Ngài gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”. Rõ ràng quá, không có gì khó hiểu, nói ngắn gọn là “ai muốn làm đầu phải hầu người khác”.
Tại sao lại “ngược đời” vậy chứ? Chúa Giêsu đã minh chứng cụ thể: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45). Chúng ta không thể viện cớ với bất cứ lý do gì để tự biện hộ nữa. Thật vậy, cứ “xem quả thì biết cây” (Mt 12:33; Lc 6:44).
Trong dịp viếng thăm đất nước Hoa Kỳ (cuối tháng 9-2015), ĐGH Phanxicô đã vấp bậc cầu thang và lảo đảo khi lên máy bay (*). Trong lúc đó, gió còn thổi khăn choàng vai phủ lên đầu, và không có ai đi kế bên ngài. Khi ngài lên tới cửa máy bay, có người muốn xách cặp giùm nhưng ngài từ chối. Gương khiêm nhường và phục vụ rốt rõ nét. Đúng như Chúa Giêsu đã nói: “Con Người đến KHÔNG phải để ĐƯỢC người ta phục vụ, nhưng là để PHỤC VỤ và HIẾN DÂNG mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45). Khi ăn uống, ĐGH Phanxicô hòa mình vào với mọi người, thân thiện và gần gũi, không thích ngồi “chỗ danh dự”, không muốn đi ăn với người sang trọng mà thích đi ăn với người vô gia cư.
Còn chúng ta, nhất là những “người lớn”? Thực tế, có nhiều người chưa “lớn” đã chảnh lắm! Trả lời với Chúa Giêsu thế nào đây? Ai “dám” noi gương ĐGH Phanxicô? Có lẽ người ta gãi đầu, ậm ừ, lần lữa, và… hậu xét!
Hôm nay, ngay bây giờ, và hơn bao giờ hết, có lẽ chúng ta phải suy tư nhiều và cố gắng chân thành cầu nguyện theo gương Thánh Phanxicô Assisi: “Lạy Chúa, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”. Lời cầu này mệnh danh là Kinh Hòa Bình vì đậm chất phục vụ theo Ý Chúa – phụng sự Chúa TRONG mọi người. Quả thật, đúng như lời Chúa Giêsu đã xác định khi “phân loại” Chiên và Dê: “Mỗi lần các ngươi LÀM [giúp đỡ] cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã LÀM cho chính Ta, mỗi lần các ngươi KHÔNG LÀM [giúp đỡ] cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta là các ngươi đã KHÔNG LÀM cho chính Ta” (x. Mt 25:31-46).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết nhận diện chính mình để đủ sức triệt hạ “cái tôi” trong con. Hạt-bụi-con không đáng gì mà đã làm bận mắt Ngài, con chỉ là kẻ vô dụng vì bất tài, nhưng vì Tôn Danh Ngài, xin biến con thành khí cụ bình an và yêu thương, để bất cứ ai gặp con cũng gặp được Ngài, và xin cho con cũng gặp Ngài nơi những người con gặp. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
24. Đau khổ và Đức tin
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Không ai muốn “chạm trán” đau khổ, nghĩa là ai cũng tìm mọi cách và bằng mọi giá để tránh đau khổ, thế nhưng hầu như ngày nào chúng ta cũng phải đối mặt với đau khổ, dù ít hay nhiều, với các dạng và mức độ khác nhau.
Chính Chúa Giêsu đã từng tỏ cho các môn đệ biết rõ rằng “Ngài phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16:21). Một câu ngắn mà có tới 2 từ PHẢI và 1 từ BỊ, cả hai đều ở thể thụ động. Não lòng quá! Đau khổ có hệ lụy gần gũi với nước mắt, loại nước đặc biệt mang vị mặn đặc trưng.
Thế nhưng đau khổ như một phần tất yếu của cuộc sống, như “phần cứng” được cài đặt mặc định trong mỗi con người. Một đứa trẻ chưa hề nếm mùi đau khổ, thế mà vừa sinh ra đã bật tiếng khóc để chào đời. Vui sao lại khóc? Đứa trẻ nào không khóc là có vấn đề, cha mẹ lo sốt vó. Như vậy, mặc nhiên người ta đã chấp nhận sự đau khổ là phần tất yếu. Đúng vậy, Chúa Giêsu đã xác định: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34).
ĐAU KHỔ CÓ VỊ ĐẮNG HAY NGỌT?
Bài đọc I hôm nay là một phần của bài thứ tư trong số các Bài Ca Người Tôi Trung: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu” (Is 53:10). “Bị nghiền nát vì đau khổ” là để “được trường tồn”. Ngược đời quá! Với con người, như thế thật là chua chát, cay đắng, có thể không còn nước mắt để khóc nữa. Người Tôi Trung đó chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Ngôn sứ Isaia giải thích: “Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53:11).
Đau khổ nào cũng cay đắng, đắng đến tê lòng, nhưng đau khổ vẫn có vị ngọt bùi kỳ lạ. Trong thực tế cuộc sống, khi chịu đau khổ vì tình yêu, có người gọi nỗi đau khổ đó là “thú đau thương”, là “nỗi đau dịu êm”. Vậy đó, đau thương mà vẫn thú vị, đau khổ mà vẫn dịu êm. Còn nước mắt lại được ví von là “giọt nước mắt ngà”. Thế mới lạ, thế mới cao thượng. Người đời con khả dĩ nhận thức như vậy huống chi những người tin nhận Đức Kitô là Thiên Chúa! Ai có thể cảm nhận được như vậy chính là người ta đã vượt lên trên nỗi đau khổ. Chắc chắn không ai có thể tránh đau khổ, nhưng muốn tránh đau khổ thì chỉ còn cách đi xuyên qua đau khổ. Đó là cách độc đáo để tự “vượt qua số phận”.
Người can đảm chấp nhận đau khổ mà không than thân trách phận, không so đo với những người may mắn khác, chắc hẳn người đó phải có chiều sâu tâm linh, sống trong niềm phó thác nơi Thiên Chúa quan phòng. Thật vậy, tác giả Thánh vịnh bày tỏ: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin” (Tv 33:4). Nói được như vậy là biết rõ Chúa là người thế nào: “Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:9). Chúng ta không thể nào hiểu hết tình yêu Chúa, cũng không thể cân-đo-đong-đếm Lòng Chúa Thương Xót, vì tình yêu thương ấy hoặc lòng trắc ẩn ấy vẫn triền miên hết ngày dài lại đêm thâu, suốt từ thuở hồng hoang trải dài từ đời nọ tới đời kia (x. Lc 1:50).
Tác giả Thánh vịnh tiếp tục minh định: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” (Tv 33:18-20). Ngay cả khi chúng ta quên Ngài mà Ngài vẫn luôn nhớ đến chúng ta, thậm chí cả khi chúng ta hoàn toàn đối nghịch với Ngài mà Ngài vẫn miệt mài tìm chúng ta để đưa về hưởng an bình nơi “đồng cỏ xanh rì bên suối ngọt lành” [x. Tv 22 (23)]. Vô tri bất mộ. Nhưng đã nếm thử Chúa ngọt ngào thế nào rồi thì không thể giữ riêng cho mình, mà tự lòng mình sẽ thôi thúc chia sẻ với người khác về Chúa: “Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Ngài luôn che chở phù trì” (Tv 33:20), đồng thời tin tưởng và vui mừng cầu nguyện liên lỉ: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22).
Và tới lúc này thì sự đau khổ không còn vị đắng nữa mà lại hóa vị ngọt ngào và êm dịu. Nghĩa là người ta có thể cảm nhận sâu sắc thế nào là “thú đau thương”, là “nỗi đau dịu êm” hoặc “giọt nước mắt ngà”.
Thánh Phaolô cho biết: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin” (Dt 4:14). Niềm tin luôn quan trọng trong cuộc sống đời thường, đức tin càng quan trọng gấp bội trong đời sống Kitô hữu, nhất là chúng ta đang sống trong Năm Đức Tin (*), đồng thời còn phải lưu ý việc tân Phúc Âm hóa.
Thánh Phaolô vừa giải thích vừa khuyến khích: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina: “Lòng Thương Xót của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi của cả nhân loại”. Quả thật, nếu Lòng Chúa Thương Xót không lớn lao hơn mọi thứ xấu xa tồi tệ nhất trên đời này thì chúng ta chết ngay lập tức. Tại sao? Không khí là bằng chứng sống động về Lòng Chúa Thương Xót: Nếu không khí loãng hơn một chút hoặc đậm đặc hơn một chút, chúng ta đủ chết ngắc rồi chứ đừng nói chi đến thiếu không khí. Đơn giản về không khí thôi thì chúng ta cũng phải không ngừng tạ ơn Chúa rồi, đừng nói chi đến những thứ khác!
ĐAU KHỔ CÓ ĐÁNG MƠ ƯỚC?
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây” (Mc 10:35). Rào trước đón sau, thậm chí như “ra điều kiện” với Chúa vậy. Và chúng ta cũng thường xuyên có cách cầu nguyện như vậy. Chúa Giêsu hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” (Mc 10:36). Các ông thưa ngay, không hề ngại ngùng: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (Mc 10:37). Rất thẳng thắn, rất thực tế, rất rõ ràng. Đây là cách cầu nguyện vị kỷ và tìm tư lợi. Hai con trai ông Dêbêđê chắc mẩm Sư phụ mình rất “ngon”, nổi tiếng như cồn, quyền phép vô song, uy tín vô cùng, chắc chắn Sư phụ sẽ lên ngôi báu trị vì thiên hạ, làm cận thần của Thầy mình thì còn gì oai hơn chứ? Trên cả tuyệt vời! Nếu là chúng ta, có thể chúng ta không muốn làm cận thần như họ, vì như vậy vẫn “bèo” lắm, mà có thể chúng ta muốn làm phó nguyên soái hoặc thủ tướng, chí ít cũng phải xin làm bộ trưởng.
Tuy nhiên, Đức Giêsu bảo ngay: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10:38). Chén này không phải là chén mật hoặc chén sữa, cũng chẳng phải là chén cà-phê, càng không phải là chén mật ngọt, mà là chén mật đắng; phép rửa này không rửa bằng nước mà rửa bằng máu tươi. Có lẽ các ông không hiểu ý Chúa nên mạnh dạn đáp: “Thưa được” (Mc 10:39a). Quá ngon!
Đức Giêsu thản nhiên: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được” (Mc 10:39b-40). Vế thứ hai trong câu nói của Chúa Giêsu thật đáng lưu ý. Nghe Thầy trò họ đối thoại, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với anh em Giacôbê và Gioan. Đó cũng chính là động thái của chúng ta ngày nay, cũng ghen ăn tức ở chứ chẳng hơn gì ai!
Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết rằng những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em;ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10:42-44). Và Ngài dẫn chứng: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45).
Vấn đề phục vụ là chuyện rất tế nhị, dễ “chạm” vào “phần mềm nhạy cảm” của bất kỳ ai – dù đời hay đạo. Nhưng Lời Chúa quá rõ ràng, không bóng gió, không “nói khéo”, không tránh né. Tuy nhiên, trong sinh hoạt thường nhật, cái mà người ta nói là phục vụ người khác nhưng thực chất có thể lại chỉ là cung cách “phục vụ có điều kiện”.
Phục vụ cũng liên quan đau khổ. Hầu như mọi thứ đều liên đới với nhau, nối kết như mạng nhện vậy, nối kết không trực tiếp thì gián tiếp. Trên một tấm bảng đồng, người ta khắc những dòng chữ này:
Lạy Chúa, con cầu xin được Mạnh Mẽ để thành đạt trong cuộc đời, Chúa lại làm cho con ra yếu đuối để biết vâng lời và khiêm hạ.
Con cầu xin có Sức Khỏe để mong thực hiện những công trình lớn lao, Chúa lại cho con chịu tàn tật để chỉ làm những việc nhỏ tốt lành.
Con cầu xin được Giàu Sang để sống sung sướng thoải mái, Chúa lại cho con nghèo nàn để học biết thế nào là khôn ngoan.
Con cầu xin có Uy Quyền để mọi người phải kính nể ca ngợi, Chúa lại cho con sự thấp hèn để con biết cần Chúa.
Con cầu xin cho Có Tất Cả để tận hưởng cuộc đời, Chúa lại cho con cả cuộc đời để tận hưởng mọi sự.
Con xin gì cũng chẳng được theo ý con muốn. Nhưng những điều con đáng phải mơ ước mà con không hề biết cầu xin, thế mà Chúa vẫn ban cho con thật dư đầy từ lâu.
Lạy Chúa, hóa ra con lại là người hơn hết trên đời này, bởi con đã nhận được vô vàn ân phúc của Chúa.Toàn những thứ trái ngược nhau. Tuy nhiên, chúng ta khả dĩ nhận thấy rằng đau khổ không là điều đáng nguyền rủa, mà ngược lại, đau khổ là điều đáng mơ ước: Thánh giá Chúa trao – như người ta thường nói với người gặp đau khổ. Vui chịu đau khổ là sống đức tin, là bước qua cửa hẹp (Mt 7:13-14; Lc 13:24), là vác thập giá theo Chúa (Mt 10:38; Lc 14:27), là từ bỏ mình (Mt 10:39; Lc 14:33).
Năm Đức Tin đã khởi đầu, nhắc nhở chúng ta phải nghiêm túc xem lại đức tin của chính mình: “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10:32-33).
Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin ban cho chúng con lòng can đảm và khôn ngoan để chúng con tuyên xưng Danh Chúa mọi nơi và mọi lúc, đồng thời biết dùng ánh mắt đức tin để nhân biết Thánh Ý Ngài trong từng nỗi đau khổ của cuộc đời. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
————-
(*) ĐGH Biển Đức XVI đã ban hành Tông thư Porta Fidei (Cổng Đức Tin) hồi tháng 10-2011, nói về việc mở Năm Đức Tin để kỷ niệm 50 năm Công đồng Vatican II (Chân phước GH Gioan XXIII) và 20 năm xuất bản sách Giáo lý Công giáo (Chân phước GH Gioan Phaolô II). Năm Đức Tin đã chính thức khai mạc tại Rôma ngày 11-10-2012, và sẽ kết thúc ngày 24-11-2013 (lễ Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ). Chủ đề của Năm Đức Tin là Tân Phúc Âm hóa.
Giáo hội Công giáo Việt Nam chính thức khai mạc Năm Đức Tin ngày 18-10-2012 tại GP Thanh Hóa, nơi diễn ra Hội nghị thường niên các Giám mục Việt Nam, và các giáo xứ khai mạc Năm Đức Tin ngày 21-10-2012, Chúa nhật Khánh nhật Truyền giáo.
25. Ai là người lớn nhất?
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng)
Như chúng ta đã biết, vào thời điểm hiện nay tại Hoa Kỳ, người dân của cường quốc này đang chú ý đến cuộc bầu cử tổng thống. Để lấy điểm dân chúng, các chiến dịch vận động tranh cử được các ứng cử tổ chức rầm rộ và quy mô, nhiều điều hứa hẹn được nêu ra qua các cuộc tranh luận…Tuy nhiên nói và làm là hai điều khác nhau. Đôi khi người ta không thực hiện được lời hứa. Có muôn ngàn lý do được nêu ra để thanh minh, nào là những khó khăn khách quan, nào là những hoàn cảnh ngoại cảnh tác động. Điều đáng nói ở đây vẫn là sự thiếu tinh thần trách nhiệm và thiếu tâm. Người ta vẫn nói rằng khoảng cách xa nhất vẫn là từ miệng lưỡi đến trái tim.
Nhân lời đề nghị của hai anh em trai Giacôbê và Gioan nhà Zêbêđê về chỗ ngồi trong nước vinh quang, Đức Giêsu đã cho các môn đệ của mình bài học về tinh thần trách nhiệm phục vụ trong bất kể chỗ đứng nào của mình: “Ai muốn làm lớn thì trở nên người phục vụ. Ai muốn làm đầu thì hầu tất cả mọi người” (Mc10, 43-44).
Đức Giêsu đã thực sự sống điều này trước khi nói ra cho các môn đệ mình. Hành động của Người luôn luôn phù hợp với những gì Người chỉ dạy. Nơi Người không hề có khoảng cách giữa lời nói và thực hành, “vì chưng Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người” (Mc10, 45). Đức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài đã tự hạ mình xuống tận đáy của nhân loại để chia sẻ kiếp phàm nhân với chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, nhằm nâng chúng ta lên địa vị làm con cái yêu dấu của Thiên Chúa.
Với Lời Chúa hôm nay, chúng ta được mời gọi đặt trọng tâm đến ý nghĩa của sự phục vụ hơn là tìm cho mình một chỗ đứng. Đó là điều căn bản để tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Đây cũng là cách thức nhìn nhận sự việc bằng con tim để tránh đi cái nhìn phiến diện bề ngoài.
Mỗi người đều có một chỗ đứng khác nhau để cùng xây dựng một kế hoạch chung trong tổng thể của việc cộng tác vào công trình sáng tạo. Tất cả công sức riêng của mỗi cá thể đều góp vào phần vào thành quả tốt đẹp chung. Cha Mẹ yêu thương con cái và làm hết bổn phận của mình để chúng được lớn lên về mọi phương diện. Người vợ và người mẹ được mời gọi trao hiến đời mình để phục vụ chồng và con. Cũng vậy, người chồng cần dấn thân để trở nên chỗ dựa cho vợ và con mình. Về phần mình, bậc làm con cần phải tôn trọng và vâng phục cha mẹ. Trong gia đình, mỗi thành viên thấy được chỗ đứng của mình để phục vụ người khác. Đó chính là bí quyết của hạnh phúc gia đình.
Trong khi suy niệm Lời Chúa của Chúa Nhật tuần 29 này, chúng ta nhớ đến thánh Phanxicô Khó Khăn, người đã muốn trở nên giống Đức Giêsu và sống sát với tinh thần Tin Mừng của Người. Chúng ta cũng được mời gọi trở nên sứ giả của tình thương và hòa bình:
“Lạy Chúa từ nhân
Xin cho con biết mến yêu
Và phụng sự Chúa trong mọi người
Lạy Chúa xin hãy dùng con
Như khí cụ bình an của Chúa
Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù
Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục
Ðem an hòa vào nơi tranh chấp
Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm
Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan
Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng
Ðể con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm
Ðem niềm vui đến chốn u sầu
Lạy Chúa xin hãy dậy con
Tìm an ủi người hơn được người ủi an
Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết
Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu
Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh
Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân
Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời
Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con
Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí
Ơn an bình”.
26. Thưa được – Lm Trịnh Ngọc Danh
Cách đây vài tuần, chúng ta đã nghe Chúa tiên báo lần thứ hai về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải trải qua; và qua lần tiên báo ấy, Ngài cũng đã hứa với các môn đệ là Ngài sẽ cho họ được ngồi trên ngai để xét xử mười hai chi tộc Israen; và các ông vẫn cứ đinh ninh rằng Chúa sẽ làm vua thống trị và họ sẽ được một chức vụ nào đó, nên dọc đường, các ông đã tranh cãi với nhau xem ai là người lớn hơn cả.
Trên đường lên Giêrusalem lần này, hai con ông Giêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Chúa và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Ngài hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”.
Việc hai anh em con ông Giêbêđê xin được ngồi bên tả bên hữu Chúa, một lần nữa, lại gây ghen tức giữa các môn đệ, lại tranh giành địa vị xã hội vào ngày mà họ nghĩ Thầy sẽ lập vương quốc ở trần thế!
Đúng như lời Thầy khiển trách: ““Các anh không biết các anh xin gì!”
Gián tiếp Chúa cũng cho các ông biết: anh em lấy tư cách gì để xin ngồi bên tả, bên hữu Thiên Chúa! Ngồi bên tả hay bên hữu là việc Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được; “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”
Đây cũng là lần tiên báo thứ ba về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải chịu.
Hai ông dám công khai xin cho được ngồi bên hữu, bên tả Chúa kể ra cũng là một lời xin lộ liễu trước mặt các môn đệ khác, và tuy chẳng hiểu chén mà Thầy sắp uống, phép rửa mà Thầy sắp chịu là gì, nhưng hai ông vẫn quả quyết: “Thưa được”.
Có lẽ lúc bấy giờ hai ông “Thưa được” là để cho qua chuyện, nhưng về sau, lời quả quyết ấy đã trở nên sự thật. Hai ông đã uống chén đắng như Thầy đã uống và đã chịu phép rửa như Thầy đã chịu: Vào năm 44, thánh Giacôbê đã chịu tử đạo dưới thời vua Agrippa đệ nhất. Còn thánh Gioan bị bỏ vào vạc dầu sôi, nhưng được cứu thoát nhờ phép lạ; và cuối cùng ngài cũng chết anh hùng sau những tháng ngày sống lưu đày trên đảo Patmô.
Giacôbê và Gioan xin cho họ được ở vị trí cao nhất trong vương quốc của Chúa. Họ chỉ nghĩ đến mình nên gây bực tức cho người khác. Hai ông là biểu tượng cho những khát vọng trần thế: điạ vị xã hội, danh lợi, quyền thế, vinh quang, thống trị; đó là khát vọng của người đời.
Thực ra “ai ước mơ được làm thủ lãnh, là mơ ước một điều tốt lành” (1Tm. 3,1); Trong bất cứ tổ chức, tập thể nào cũng cần có người lãnh đạo. Chúa cũng không hủy bỏ vai trò của người đứng đầu, người thủ lãnh; nhưng làm thủ lãnh, làm đầu để phục vụ người khác thì khác với tinh thần làm lớn để người khác phục vụ mình.
Chúa Giêsu đưa ra hai mẫu người làm lớn, người cầm đầu thiên hạ, người thủ lãnh: mẫu người thứ nhất dùng uy quyền để thống trị và cai quản dân, mẫu người thứ hai đối nghịch với mẫu người thứ nhất là phục vụ và là đầy tớ của mọi người:“Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Mẫu người làm thủ lãnh theo yêu cầu của Chúa Giêsu là phục vụ và làm đầy tớ người khác.
Có ông vua nào trên trần thế này quì xuống mà rửa chân cho các gia nhân trong triều không?
Có người nào giàu nhất thế giới mà chịu sống cảnh không cửa, không nhà, không có gối đầu để tìm đến những người nghèo khổ không?
Có vị thủ lãnh nào dám hy sinh mạng sống mình để cứu muôn người không?
Có vị thủ lãnh nào, bị nghiền nát, chịu kiếp sống lao đao, bị liệt vào hàng ngỗ nghịch vì hạnh phúc của con người không?
Thưa có. Vị vua ấy, vị thủ lãnh ấy là Vua Giêsu Kitô.
Thánh Paulinô, Giám mục thành Nôla (353-431), sau khi thu xếp xong việc gia đình, từ bỏ chức lãnh sự ở Rôma, đã sống một cuộc đời tu đức khổ hạnh và làm đến chức Giám mục. Khi quân Goths chiếm đóng xứ ngài và bắt nhiều người làm nô lệ, ngài đã bán tất cả gia sản để nuôi người nghèo và chuộc nhiều kẻ nô lệ trong số đó. Tới lúc quân Vandales tiến đến, ngài không còn gì để bán nữa nên đã hy sinh chính bản thân mình, đi làm nô lệ thay cho con trai của bà góa và bị điệu sang Phi châu. Mãi lâu sau, ngài được trả tự do và trở về lại giáo phận Nôla của ngài trước niềm hân hoan cảm phục của mọi giáo hữu.
Ngoài ra, nhân dịp này Chúa còn dạy các môn đệ một bài học sâu xa về lòng khiêm nhường phục vụ mà người thủ lãnh, người cầm đầu cần phải có.
Bất cứ ở địa vị nào, chúng ta cũng có thế phục vụ người khác; nhưng người ở địa vị có quyền lực cao là người có nhiều điều kiện và cơ hội để phục vụ người khác hơn. Quyền bính phải đi đôi với phục vụ và làm đầy tớ mọi người. Người đứng đầu lại là người rốt hết. Người có quyền lực lại là người phục vụ kẻ khác, người tôi tớ của mọi người. Vị trí vai trò đảo ngược trong Vương quốc của Thiên Chúa! Chúa đời hỏi người làm lớn, người có địa vị, quyền lực phải chấp nhận uống chén Thầy đã uống, chịu phép rửa Ngài đã chịu khác với quan niệm của thế nhân là người có quyền lực áp bức người yếu thế, người giàu sang cai trị, bắt nạt người nghèo khó.
Câu hỏi Chúa Giêsu nêu lên cho hai môn đệ Giacôbê và Gioan cũng là câu hỏi Chúa đặt ra cho mỗi người chúng ta: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”
Chén mà Thầy sắp uống là chén đau khổ trong vườn cây dầu: “ Lạy Cha, nếu có thể, thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng không theo ý Con một theo ý Cha mà thôi”; và phép rửa Thầy sẻ chịu là phép rửa bằng máu, là cái chết đau thương trên Thập gía. Tóm lại, chúng ta có sẵn sàng chịu đau khổ với Chúa không?
Có lẽ chúng ta cũng “Thưa được” với Chúa, nhưng lại sống khác đi. Miệng chúng ta quả quyết mạnh mẽ là sẽ uống chén Chúa đã uống, sẽ sẵn sàng chịu phép rửa Chúa đã chịu, nghiã là vác lấy Thập gía theo Chúa, nhưng có thể trong thâm tâm chúng ta lại mong muốn có một cây Thập giá nhẹ nhàng, tiện lợi theo ý riêng của mình hơn là vác lấy Thập giá theo thánh ý của Chúa gởi đến cho mình.
Có lẽ chúng ta cũng đã “Thưa được” với Chúa, nhưng vẫn còn e dè tránh né chén và phép rửa Chúa đã đi qua. Chúng ta nói tới chứ chưa dám dấn thân thực sự vào, dầu Chúa đã tạo cho chúng ta nhiều cơ hội trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
Làm đầu hay làm người hèn mọn trong Nước trới đều là môn đệ của Chúa, đều được mời gọi phục vụ tha nhân đến quên mình, đến hy sinh mình. Không biết chúng ta đã đổ được bao nhiêu giọt mồ hôi cho Chúa, nói chi đến uống chén của Chúa, chấp nhận cuộc thanh tẩy của Chúa!
Chúa cho tôi một chỗ đứng trong Giáo hội, trong cộng đoàn, dầu chỗ đứng ấy lớn hay nhỏ, hãy lợi dụng nó để phục vụ anh em.
Chén đời sống của chúng ta có chén cay đắng, chén ngọt bùi, chén khó khăn trong việc đi theo Chúa là hy sinh và phục vụ người khác. Ai chia sẻ với Chúa chén cay đắng của Thập giá thì cũng sẽ chia sẻ với Ngài sự vinh quang Phục sinh.
27. Phục vụ
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Ðức Giêsu dạy chúng ta nhiều điều rất ngược đời: đối với người đời, làm lớn thì có quyền sai khiến và được cung phụng, còn làm nhỏ thì phải hầu hạ người lớn. Ðức Giêsu dạy khác hẳn: “Ai muốn làm lớn thì phải làm người phục vụ, ai muốn làm đầu thì phải làm đầy tớ”.
Thực ra giáo huấn của Ðức Giêsu rất khôn ngoan. Nếu những người làm lớn đều biết phục vụ những kẻ dưới quyền mình thì xã hội sẽ rất bình an, và mọi người đều hạnh phúc.
Xin Chúa giúp chúng ta thấm nhuần bài học quý báu này.
II. Gợi ý sám hối
Khi được làm lớn, chúng con không lo phục vụ những kẻ dưới quyền mình, trái lại thường hống hách bắt họ phục vụ chúng con.
Chúng con hay đòi hỏi người khác phục vụ chúng con mà không nhiệt tình phục vụ người khác.
Chúng con coi thường những công việc nhỏ nhặt ít người để ý tới.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 53,10-11)
Người Tôi Tớ Giavê bị nghiền nát vì đau khổ để hiến thân làm lễ vật đền tội và làm cho muôn người nên công chính.
2. Ðáp ca (Tv 32)
Thiên Chúa cũng phục vụ loài người: Ngài để mắt trông nom người kính sợ Chúa, cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống họ trong buổi cơ hàn.
3. Tin Mừng (Mc 10,35-45)
Chuyện xảy ra ngay sau khi Ðức Giêsu loan báo (đây đã là lần thứ ba) rằng Ngài sắp chịu nạn, chịu chết và sống lại.
– Hai môn đệ Giacôbê và Gioan lại xin hai địa vị ưu tiên trong “nước” mà họ nghĩ Ðức Giêsu sắp thành lập. 10 môn đệ kia bực tức. Không phải vì cho rằng hai môn đệ này sai mà vì nghĩ họ đã muốn “chơi trội” hơn mình trong cuộc chạy đua tranh dành địa vị.
Trong bối cảnh đó, Ðức Giêsu dạy về Nước Thiên Chúa và nước trần gian, về cách cư xử của những người lớn trong hai nước đó:
Trong nước trần gian, kẻ làm lớn thì lấy quyền mà trị dân, bắt dân phục vụ mình.
Trong Nước Thiên Chúa, làm lớn là làm đầy tớ, càng làm lớn thì càng phải phục vụ.
4. Bài đọc II (Dt 4,14-16) (Chủ đề phụ)
Ðức Giêsu là Vị Thượng Tế siêu phàm: (1) Ngài chính là Con Thiên Chúa; (2) Ngài cảm thông những nỗi yếu hèn của loài người vì chính bản thân Ngài cũng từng trải qua đau khổ. Bởi vậy chúng ta hãy mạnh dạn tiến đến gần Ngài để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp.
IV. Gợi ý giảng
1. Quyền bính để phục vụ
a. Một nhà tu đức tên là Jean Vanier, người sáng lập dòng Arche, phân biệt hai loại quyền bính:
Một loại quyền bính từ trên áp xuống. Người nắm loại quyền bính này tự coi mình là kẻ ở trên và những kẻ thuộc quyền mình là những người ở dưới. Người này bắt những kẻ dưới phải làm theo ý mình, nếu không theo thì phạt. Loại quyền bính này được dùng để cai trị, hay nói chính xác hơn là thống trị.
Loại quyền bính thứ hai không từ trên áp xuống mà đứng bên cạnh để giúp đỡ. Người nắm quyền bính này không coi mình là ở trên cũng không coi kẻ thuộc quyền mình là ở dưới. Người này không nhắm cho ý mình được người ta thực hiện, nhưng nhắm đến ích lợi chung và ích lợi của kẻ mình muốn giúp đỡ. Loại quyền bính này được dùng để phục vụ.
b. Khi hai người con ông Dêbêđê, tức là Gioan và Giacôbê đến xin Ðức Giêsu cho mình được hai chỗ bên tả và bên hữu Chúa là họ muốn loại quyền bính nào? Thưa là quyền thống trị.
Nhưng Ðức Giêsu đã từ chối. Lý do thứ nhất là Ngài thấy trong các tổ chức chính trị, hành chánh và xã hội, những người lãnh đạo đều thích loại quyền thống trị đó. Nhưng các tổ chức mà họ lãnh đạo người ta không được hạnh phúc gì cả, trái lại còn phải đau khổ. Lý do thứ hai là trong tổ chức mà Ngài thành lập, tức Giáo Hội, không có người trên kẻ dưới, không có người lớn kẻ nhỏ, mà tất cả đều bình đẳng với nhau vì tất cả đều là anh em với nhau, cùng là con của một Cha trên trời. Cho nên không có chuyện người này bắt người kia làm theo ý mình, nhưng mọi người đều giúp nhau để làm theo ý Cha trên trời. Bởi vậy trong Giáo Hội, quyền bính được trao không phải cho kẻ ham muốn kiếm tìm nó, mà trao cho những người nào có thiện chí và khả năng phục vụ.
c. Khi 10 môn đệ kia bực tức với hai người con ông Dêbêđê, thì họ cũng có quan niệm giống như hai ông này về quyền bính. Vì cùng ham quyền thống trị như nhau cho nên họ ganh tị nhau, bực tức nhau và tranh dành nhau.
Có một câu chuyện ngụ ngôn như sau: một chiếc đồng hồ đeo tay một hôm đi dạo ở công trường trước một nhà thờ. Nó nhìn lên tháp nhà thờ thấy một chiếc đồng hồ rất lớn nên thấy ghét. Nó nói: Anh tưởng là anh ngon lắm hả. Thực ra cái mặt anh to quá khổ chẳng đẹp chút nào, hai cánh tay thì dài thượt coi chẳng đẹp gì cả. Giọng nói thì khàn khàn. Chiếc đồng hồ lớn chỉ mỉm cười và nói “Hãy lên đây”. Chiếc đồng hồ nhỏ leo lên. Khi đứng bên chiếc đồng hồ lớn nhìn xuống thì nó mới hoảng sợ. Thì ra ở trên cao này nguy hiểm quá té xuống tan xác như chơi. Rồi lúc nào cũng bị bao nhiêu cắp mắt nhìn lên, và lại còn cô đơn nữa. Khi đó chiếc đồng hồ lớn khều nó nói “Ở dưới có người muốn biết giờ kìa. Em đưa mặt ra cho họ xem đi”. Chiếc đồng hồ nhỏ đáp: “Không được, từ đây xuống dưới xa quá mà mặt em nhỏ quá ở dưới xem không thấy đâu”. “Vậy thì em nói giờ cho họ nghe đi”. “Cũng không được, vì tiếng em nhỏ quá”. Khi đó chiếc đồng hồ lớn mới ôn tồn giải thích: “Ðó em thấy chưa. Em cũng không thể làm việc của anh, mà anh cũng không thể làm việc của em. Mỗi người chúng ta ai làm việc nấy, chỉ để phục vụ cho người ta thôi. Từ này về sau mình đừng chỉ trích nhau nữa nhé”.
Câu chuyện rất ý nhị: mỗi người có một nhiệm vụ để phục vụ người khác. Kẻ ở địa vị cao thì phải phục vụ nhiều hơn. Và ở địa vị cao thì càng gặp khó khăn nhiều hơn, có khi còn cô đơn hơn nữa.
d. Bởi vậy, khi hai người con ông Dêbêđê xin địa vị, Ðức Giêsu đã hỏi: “Chúng con có uống nổi chén đắng không?” Ðịa vị và quyền bính trong Giáo Hội luôn đi kèm với chén đắng, tức là những hy sinh, đau khổ.
2. “Các anh không biết các anh xin gì”
Chuyện hai người con nhà Dêbêđê xin được hai địa vị trong Nước Ðức Giêsu không có gì lạ. Có lạ chăng là họ đã xin điều đó liền ngay sau khi Ðức Giêsu loan báo Ngài sẽ chịu nạn chịu chết.
Ai mà không thích địa vị. Nhiều người cũng giống hai môn đệ kia thôi, chỉ khác là không dám nói ra như họ.
Vả lại Ðức Giêsu cũng không muốn lập một Giáo Hội không có phẩm trật. Giáo Hội, như bất cứ tổ chức nào khác, cũng cần có phẩm trật, kẻ trên người dưới chứ.
Cái đáng nói là hai môn đệ ấy đã xin một điều mà họ không hiểu:
Họ không hiểu rằng trong Nước Chúa, địa vị rất khác với nước trần gian, vì địa vị là để phục vụ chứ không phải để được người ta phục vụ mình.
Họ không hiểu rằng có địa vị trong Nước Chúa thì họ sẽ phải uống chén đắng chứ không phải sẽ ngồi đó mà hưởng thụ.
Tóm lại, họ không đáng trách vì đã ham muốn địa vị, nhưng đáng trách vì chưa hiểu mục đích và điều kiện của địa vị trong Nước Chúa, thế mà đã nhanh nhẫu xin cho bằng được.
3. Phục vụ
Một lần Ðức Hồng Y Roncalli vừa từ trên xe bước xuống. Ngài mới đi xa về. Phái đoàn tòa Giám mục ra đón. Mọi người ngạc nhiên trên vai áo Hồng Y có vương mấy cọng rơm đồng quê. Ai hỏi ngài cũng cười xoà vui vẻ, nhưng mấy nhân viên phụ tá trên xe đều hiểu chuyện. Chiếc xe của Ðức hồng Y đang từ hướng Bắc xuống miền Nam qua vòng đồng ruộng. Giữa đường một chiếc xe bò chở rơm sa hố. Người đánh xe gắng sức đẩy phụ nhưng xe không nhúc nhích. Ðức Hồng Y cho xe dừng lại, xắn tay áo hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm sa lầy lại chuyển bánh tiếp tục lên đường.
Những cọng rơm trên vai áo Hồng Y đối với ngài chỉ cười xoà cho qua. Nhưng thực sự tỏ rõ cho chúng ta một Hồng Y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.
Sau này lên ngôi Giáo hoàng, Ðức Gioan 23 vẫn tiếp tục sống nếp sống bình dị phục vụ.
Lần khác, cả giáo triều Rôma báo động: “Ðức Giáo hoàng mất tích”. Nhân viên an ninh đổ xô đi tìm. Cuối cùng người ta gặp ngài đang chuyện trò thân mật với các tù nhân trong khám đường Rôma.
“Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc.10,45).
Ðó là Hiến chương Nước Trời, là Hiếp Pháp Ðức Kitô đã tuyên bố cho Giáo hội. Từ đây, mỗi tín hữu Kitô phải là đầy tớ của mọi người.
Người lãnh đạo trong Giáo hội chính là “Ðầy tớ của các đầy tớ” (Sevrus Servorum). Chữ Latin “Minister” có nghĩa là đầy tớ. Vì thế, trong Giáo hội chỉ có kẻ thừa sai, người thừa tác, nữ tì, tôi tá, hay mục tử chăm lo cho đoàn chiên.
Mẹ của Giacôbê và Gioan xin Ðức Giêsu cho hai con bà được làm tể tướng trong nước của Người. Nhưng họ đã không hiểu rằng Ðức Giêsu không bước lên ngai vàng để thống trị, mà Người chỉ leo lên thập giá để hiến dâng mạng sống, để yêu thương và “yêu cho đến cùng”. (Ga.13,1).
Hôm nay, Chúa cũng mời gọi các tín hữu Kitô hãy noi gương Người: Phục vụ và hiến dâng mạng sống cho tha nhân. Trước nhất là yêu thương phục vụ những người trong gia đình: “Charity begin at home” (Bác ái bắt đầu từ gia đình), sau đó mới lan tỏa sang những người chung quanh, nhất là những người nghèo hèn, yếu đuối.
Nếu chúng ta chưa nên giống được như Cha Maximilien Kolbe xin chết thay cho bạn tù, như thánh Martino Porres bán mình làm nô lệ, hoặc như cha Damien tông đồ người hủi, thì ít là mỗi ngày chúng ta hãy âm thầm phục vụ hết mình những người thân yêu, những người Chúa giao phó trong gia đình mình, trong cộng đoàn mình.
Báo chí Pháp đăng hình của Cha Damien sau mấy chục năm phục vụ trong trại cùi, ghép cạnh hình cha hồi còn tẻ. Tấm hình gây xúc động cho biết bao con người. Khi nhìn vào tấm hình, mẹ Ngài không thể tin được con mình đã thay hình đổi dạng đến thế. Chính thái độ tận tụy phục vụ đã tiêu hao sức lực và tàn phá hình hài con người. Vì thế, chúng ta không thể phục vụ nếu không có sẵn một tấm lòng dấn thân quảng đại.
Người thành công nhất là người phục vụ cho đồng loại nhiều nhất. Albett Shweitzer đã nói: “Người hạnh phúc thật là người biết tìm cách sống thiện ích cho người khác”. Martin Luther King nói: “Chúng ta học bay như chim trên trời, học bơi như cá dưới nước, nhưng lại chưa học sống với nhau như anh em”. Ở giây phút định mệnh của mỗi con người chỉ có cường độ tình yêu và tinh thần phục vụ là có giá trị.
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng có một chút ham mê địa vị, chức quyền. Nếu Chúa xếp đặt cho chúng con một chức vụ nào đó, xin cũng ban chúng con một ơn này, là chức vụ càng cao, chúng con càng biết khiêm tốn phục vụ anh em nhiều hơn. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
4. Hiến thân phục vụ
Thiên Chúa đã gọi Cha Kỷ bước ra khỏi vực thẳm của nghèo khó
Một cậu bé nhà nghèo bị bố bỏ rơi, 4 tuổi đã phải đi ăn xin. Xong tiểu học ở tuổi 13, Giuse Lê Ðình Kỷ (Joseph Wresinski) học được nghề làm bánh ngọt để sống tới tuổi 19. Qua trung gian phong trào Thanh Sinh Công, cậu được hướng dẫn theo ơn gọi linh mục.
Năm 1937 cậu nhập ngũ theo tuổi quân dịch. Hai năm sau, chiến tranh bùng nổ ở Pháp, cậu bị bắt làm tù binh nhưng trốn được và về học ở chủng viện Sinh Ðông (Soissons), nơi Thầy Giuse thụ phong linh mục năm 1946. Kế đó là 4 năm làm cha phó và 6 năm làm cha sở.
Năm 1956 Cha Kỷ được giao nhiệm vụ mở ra một giai đoạn hoàn toàn mới không riêng cho cha. Cha ghi lại như sau:
Ðức Giám Mục đã phái tôi đến trại tiếp cư khẩn cấp vùng ngoại ô Noisy-le-Grand của Thủ đô Paris. Ngày đầu tôi tới đó là 14 tháng 7, 1956. Tôi được gặp những gia đình gợi nhớ tình cảnh túng quẫn của mẹ tôi. Trẻ con tới tấp tới quấy phá tôi, tôi kể đó là những người em trong gia đình tôi.
Ðó là hình ảnh của chính tôi, bốn mươi năm trước đây trên đường Gia-cô-bê của thành phố Aùnh Dương (Angers). Từ ngày tôi đặt chân tới trại, chính những gia đình ấy đã khởi hứng cho tôi về tất cả những gì tôi thực hiện nhằm giải phóng họ. Họ ôm chầm lấy tôi, ám ảnh tôi, thúc bách tôi, đưa đẩy tôi cùng với họ thiết lập một phong trào. Chính họ rèn luyện nên căn tính riêng và tự xưng là “Thế giới thứ Bốn”.
Ðể cha hiến thân phục vụ người nghèo
Tại sao gọi là “Thế giới thứ Bốn”? Cha Kỷ muốn người ta nhìn nhận phẩm giá của những gia đình đó. Ngài muốn nói lên thái độ của họ muốn từ khước túng quẫn. Chính vì muốn chấm dứt cảnh túng quẫn của họ nên Cha Kỷ đã khởi xướng kế hoạch phát triển cộng đồng cùng với họ. Cùng với những gia đình đó, cha Kỷ đã thiết lập phong trào Trợ Giúp người lâm bất cứ cảnh túng quẫn nào (Aide à Toute Détress (ATD), tức International Movement ATD Fourth World).
Nhật ký của Cha Kỷ ghi tiếp:
“Ngày đó, tôi nguyền làm cho thế giới biết đến những gia đình đó. Tôi đoan thề sẽ tìm cho họ nơi ở xứng đáng, thanh niên có việc làm, người trẻ được dạy nghề, trẻ con có trường để học hành. Hôm đó tôi chọn cho tôi con đường nhắm tới mục tiêu là làm cho người nghèo có chỗ đứng và chỗ đứng ấy được thế giới nhìn nhận và tôn trọng. Tôi sẽ phải làm thế nào để họ có cơ hội trèo lên những bậc thang của Liên Hiệp Quốc, của cơ quan Giáo Dục UNESCO, của Tổ Chức Lao Ðộng thế giới (ILO), của Hội Ðồng các nước Âu Châu và của Vatican, để tiếng nói của họ được nghe thấy.
Năm 1961 Cha Kỷ thiết lập Viện nghiên cứu đầu tiên để nghiên cứu về cảnh cùng cực (Research Institute on extreme poverty), lôi cuốn các chuyên gia đến từ các nước và các ngành khoa học. Qua những chuyến công du và những bài thuyết trình, nhiều dự án nghiên cứu của phong trào lan rộng đến nhiều nước Âu Châu và Hoa Kỳ.
Ðược thúc đẩy do thâm tín rằng túng quẫn phải được chấm dứt khỏi đời sống con người, những người thiện nguyện đầu tiên đến cộng tác với cha Kỷ từ năm 1960. Họ đến từ nước, thuộc nhiều quốc tịch, nhiều tín ngưỡng và nghề nghiệp. Một số có gia đình, một số độc thân. Con số những thành viên chí nguyện này hiện là 350 tại 20 quốc gia, trong số đó 200 người đã phụcvụ trên 5 năm và 35 người đã phục vụ trên 20 năm. Họ sống trong những cộng đoàn nơi họ phục vụ bằng cách cổ võ giao lưu giữa những gia đình nghèo và dân chúng nói chung.
Cuộc viếng Ấn Ðộ năm 1965 khiến Cha Kỷ có thêm phong trào Tapori, trong đó các em thiếu nhi từ nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội trở nên bạn thân với nhau. Song song nữa là phong trào thanh niên cũng nhằm mục tiêu là gây tình bạn vượt mọi rào cản.
Hai biến cố đánh dấu năm 1987 là năm chót đời cha Kỷ. Năm ấy cha đệ lên Hội Ðồng Kinh Tế và Xã Hội của Pháp Quốc một đề nghị tổng hợp nhằm diệt tận căn bệnh nghèo trường kỳ. Tài liệu của cha Kỷ nhan đề là “nghèo cùng cực và sự bấp bênh Kinh Tế và Xã Hội” khiến chó nước Pháp đã làm luật để bảo đảm đồng lương tối thiểu. Ðiều này đã gây hứng khởi cho những nước khác của Âu Châu và lôi kéo sự chú ý trên toàn cầu.
Cũng năm ấy, vào ngày 17 tháng 10, trước sự có mặt của trên 100,000 người từ khắp nơi trên thế giới, cha Kỷ đã đặt viên đá kỷ niệm nhằm tán dương những khổ đau và lòng can đảm của người nghèo. Viên đá kỷ niệm được đặt tại Công Trường Các Quyền Con Người tại Paris, đối diện tháp Eiffel. Bảng viết ghi rõ: “Bất cứ khi nào người nam hay nữ phải sống trong nghèo khổ thì quyền làm người của họ bị chà đạp (condemned). Ta có bổn phận cùng nhau bảo đảm cho những quyền đó được tôn trọng.”
Trong lễ an táng cha Kỷ tại nhà thờ chính toà Paris, Ðức Hồng Y Lustiger nói: “Thiên Chúa đã gọi cha Giuse Kỷ bước ra khỏi vực thẳm của nghèo khó để cha hiến thân trở nên sức hút nhằm loại bỏ tận căn tệ nạn người loại bỏ người. Ðiều dễ phát sinh ra căm hờn đã trở nên dấu chỉ của tình thương. Ðiều dễ phát sinh ra tàn phá đã mở lối vào để con người được triển nở, được nhận ra mình và khám phá ra phẩm giá của mình.
Lý tưởng cao đẹp nhất của người môn đệ Ðức Giêsu
Câu chuyện Cha Kỷ hiến thân phục vụ người nghèo được kể để giúp lãnh hội ý nghĩa bài Tin Mừng hôm nay. Ý nghĩa ấy quả thật ngược lại với xu hướng tự nhiên của Nhóm Mười Hai. Khởi sự là hai anh em trong nhóm, tức Giacôbê và Gioan, đã xin để được ngồi bên hữu bên tả Ðức Giêsu khi người thiết lập Vương quốc, nhưng Người đã giao cho hai ông vác thập giá theo Người. Lời hai anh em này yêu cầu cũng dễ hiểu vì cả nhóm đã từng: “cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả” (Mc 9,34). Tin Mừng Mátthêu còn cho thấy chính bà mẹ của hai ông nói lên lời thỉnh cầu của gia đình (Mt 20,20). Nhưng Ðức Giêsu đã phản ứng với lời thách đố: “các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10,38). Ðức Giêsu có ý nói tới cơn hấp hối và cái chết mà Người sẽ chịu. Hai anh em được thách đố để theo Ðức Giêsu đến cùng. Ðức Giêsu kết thúc đối thoại bằng cách đặt hai anh em trước một câu trả lời đòi họ phải được hoán cải để theo ý muốn của Thiên Chúa. Người nói: “Có thể Chúa Cha sẽ dành địa vị cho các anh, nhưng các anh phải sẵn sàng vác thập giá tôi vác, uống chén đắng tôi uống và chịu phép rửa tôi chịu.” Nghĩa là hai anh em phải bước theo Ðức Giêsu cho tới cái chết trên thập tự.
Không riêng hai anh em là Giacôbê và Gioan, mười người còn lại trong nhóm Mười Hai, đều bị chỉnh khi họ tỏ ra tức tối với hai anh em liên quan tới việc tranh giành ảnh hưởng giữa nhau. Ðể bước theo Ðức Giêsu cần phải dứt khoát loại bỏ thái độ “hống hách đối với người khác” (c.42). Là Kitô hữu có nghĩa là trở nên kẻ phục vụ tha nhân như Ðức Giêsu đã phục vụ (c.45). Ai ở địa vị cao nhất và uy thế nhất, người đó nhận lấy trách nhiệm đáp ứng nhu cầu của mọi người theo gương Ðức Giêsu (c.44). Ðó là con đường đưa người môn đệ vào vinh quang của Ðức Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay liên quan trước hết tới hai môn đệ thân cận nhất của Ðức Giêsu là ông Giacôbê và Gioan (cùng với Simon-Phêrô, hai ông này được Ðức Giêsu chọn để tháp tùng Ngài lên núi biến hình (9,2-9) và có mặt trong cơn hấp hối tại Vườn Dầu (14,32-42)). Sứ điệp mà Tin Mừng Máccô có ý truyền đạt liên quan tới địa vị lãnh đạo trong Giáo Hội, họ phải là người đầu tiên “uống chén đắng” bằng cách phục vụ nhu cầu của anh chị em, bất cứ là nhu cầu nào họ nhận thấy và bất cứ trong hoàn cảnh nào họ nhận ra. Ðó quả là một đòi hỏi tận căn, hầu như không bao giờ người được giao trách nhiệm cảm thấy mình đã chu toàn được nhiệm vụ.
Nơi Cha Kỷ, ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay được sáng tỏ. Thiên Chúa đã an bài để Cha sinh ra trong khó nghèo hầu cả đời hiến thân phục vụ người nghèo. Cha không căm hờn người giàu nhưng đòi họ bằng mọi giá phải hoán cải bản thân. Bằng mọi giá họ phải trả lại cho người nghèo quyền lợi và phẩm giá thuộc về họ. Lý tưởng cao đẹp nhất được nêu cho người môn đệ Ðức Giêsu là họ phải cúi mình phục vụ người nghèo theo gương chính Ðức Giêsu. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu đã tuyên bố: “Con Người đến để được người ta hầu, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa thương chúng ta và dâng lời cầu xin:
1. Ðức Giêsu đã nói với các tông đồ rằng: đối với anh em, ai muốn làm lớn thì phải làm bé hầu hạ / ai muốn làm đầu thì phải làm đầy tớ mọi người / Xin Chúa cho các người lãnh đạo trong Hội thánh biết ứng xử đúng theo lời dạy của Chúa / để luôn sẵn sàng phục vụ mọi người.
2. Ðức Giêsu cũng cho biết rằng / những người được coi là thủ lãnh các nước thì cai trị dân như những bạo chúa / và những người làm lớn thì lấy quyền mà áp chế dân / Xin Chúa cho các nhà cầm quyền ngày nay biết từ bỏ cách cai trị độc tài chuyên chế / để tôn trọng nhân phẩm và nhân quyền của mọi người.
3. Khắp nơi trên thế giới vẫn còn rất nhiều người đang cần được giúp đỡ và phục vụ / Xin Chúa cho họ được nhiều người trong Hội thánh và trong xã hội / biết quan tâm và lo lắng cho họ.
4. Ðức Giêsu đến trần gian để cứu độ bằng phục vụ, và Chúa phục vụ để cứu độ / Xin Chúa cho mọi người trong xứ đạo chúng ta biết noi gương Chúa / luôn sẵn sàng phục vụ để truyền giáo cho những người chung quanh.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, khi bắt đầu theo Chúa, các tông đồ còn mơ ước một cuộc sống giàu sang và quyền lực, nhưng sau các ngài đã hiểu và tự nguyện bước theo đường Chúa đã đi; Xin giúp mỗi người chúng con biết noi gương các ngài, chấp nhận hy sinh thiệt thòi, để phục vụ cho việc truyền giáo. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
– Trước khi rước lễ: Ðức Giêsu đã hiến thân làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta sau khi rước Chúa vào lòng cũng biết hiến thân phục vụ anh chị em chúng ta.
VII. Giải tán
Hôm nay chúng ta đã học được bài học phục vụ: người lớn phải phục vụ người nhỏ, càng làm lớn thì càng phải phục vụ. Chúng ta hãy ra về và cố gắng thực hành bài học này.
28. Hơn thua – Lm. Anmai
Sống không hơn thua, không tranh giành chắc không thú vị hay sao đó?
Hôm nay, chúng ta lại bắt gặp câu chuyện tranh giành và những người tranh giành không ai khác đó chính lại là những người thân cận, những môn đệ thân tín của mình.
Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê đến gần Chúa Giêsu và thưa với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con muốn Thầy ban cho chúng con điều chúng con sắp xin Thầy”. Nghe xong, Chúa Giêsu hỏi luôn: “Các con muốn Thầy làm gì cho các con?” Các ông nghe thế cũng thưa lại ngay: “Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy”.
Chúa Giêsu hết sức bình thản và từ tốn nới với các ông: “Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?” Nghe như thế, tưởng sẽ được Chúa ban cho điều mình xin nên đáp ngay: “Thưa được”. Chúa Giêsu bảo: “Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định”.
Các ông có lẽ buồn thiu trước lời của thầy mình. Tưởng chừng với hai tiếng thưa được đó các ông cũng được điều mà các ông xin.
Sau đó, Chúa Giêsu gọi các ông lại gần mà bảo: “Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”.
Chúa Giêsu, có lẽ nhân cơ hội này muốn mời gọi các ông nhìn lại con đường của các ông theo Chúa. Con đường theo Chúa không phải là con đường vinh quang mà là con đường thập giá.
Trang sách ngôn sứ Isaia cho chúng ta hình ảnh của người tôi tớ đau khổ. Hình ảnh người ngôn sứ đó là Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định của Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của người, người sẽ thấy và sẽ được thoả mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ.
Chắc có lẽ không cần phải nói nhiều, chúng ta phần nào thấy được cuộc đời của các ngôn sứ và cách riêng với ngôn sứ Isaia. Phải nói là quá đau khổ chứ không phải là đau khổ bình thường nữa. Thế nhưng mà, qua đau khổ đó, Chúa Giêsu cứu độ con người.
Trong thư Do Thái chúng ta vừa nghe, chúng ta lại bắt gặp một lần nữa hình ảnh, thân phận của Chúa Giêsu: Anh em thân mến, chúng ta có một Thượng tế cao cả đã đi qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, nên chúng ta hãy giữ vững việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Vì chưng, không phải chúng ta có vị Thượng tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Vậy chúng ta hãy cậy trông vững vàng mà tiến đến trước toà ân sủng, ngõ hầu lãnh nhận lòng từ bi và tìm kiếm ân sủng để gặp được ơn phù trợ kịp thời.
Đây là chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian! Thánh Gioan đã hơn một lần giới thiệu với mọi người, giới thiệu với chúng ta về Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đến trong thân phận con người, Ngài đồng thân đồng phận để thông cảm sự yếu đuối của con người và thậm chí Ngài còn chịu những thử thách hết sức nghiệt ngã ngoại trừ tội lỗi để cứu con người tội lỗi của chúng ta.
Hành trình lịch sử, dòng lịch sử cứu độ đã để lại cho chúng ta bài học hết sức rõ ràng về vị ngôn sứ thời đại là Chúa Giêsu.
Quá nhiều lần, chúng ta đã than trách Chúa đủ thứ điều này điều kia hết. Và rồi, khi không được như điều mà ta xin thì ta lại quay quắt với Chúa.
Ngày hôm nay, nếu có mặt ở đây với ta, Chúa Giêsu cũng sẽ hỏi ta là ta có uống được chén đắng mà Chúa đã uống hay không? Có đi qua con đường thập giá như Chúa đã đi không?
Bao nhiêu lần chúng ta đau khổ với Chúa, bao nhiêu lần chúng ta cũng đã hát thật to rằng con xin theo Chúa đến giây phút cuối cuả cuộc đời nhưng rồi ta có theo thật hay không? Hay là chúng ta cũng chỉ hát ngoài môi ngoài miệng thôi.
Con đường đau khổ mà Chúa đang gửi đến cho chúng ta, chúng ta bình tâm nhìn lại thử xem? Chúng ta hạnh phúc hơn quá nhiều người nhưng chúng ta đâu có cảm nhận ra cái hạnh phúc đó để rồi chúng ta càm ràm thế này thế nọ. Và, có những đau khổ do chính chúng ta gây ra nhưng chúng ta không biết đó thôi.
Nhìn lại từ gia đình, từ bản thân chúng ta, Chúa ban cho qua nhiều nhưng rồi chúng ta không nhận ra để rồi cứ mãi ganh tỵ với anh chị em đồng loại thôi. Cũng chỉ vì ganh tỵ mà ngay trong chính gia đình của chúng ta mới xáo trộn.
Chúa Giêsu đã đến trong trần gian này để gánh tội cho chúng ta rồi, xin đừng chất thêm tội trên cuộc đời của Ngài nữa. Hãy bớt đi những lầm lỗi của chúng ta để Ngài bớt đi gánh nặng của chúng ta.
Nhiều lúc, do vô tình hay cố ý, chúng ta lại chất thêm gánh nặng cho anh chị em đồng loại của chúng ta.
Xin cho chúng ta trong sâu lắng của lòng mình, bớt đi những tôi lỗi, bớt đi những yếu đuối để làm bớt đau khổ cho Chúa. Và nếu có, xin Chúa thêm ơn cho chúng ta để chúng ta vác thập giá mà Chúa gửi cho đến hơi thở cuối cùng.
29. Phục vụ – Jean-Yves Garneau.
Chỗ nhất.
Giacôbê và Gioan không ngần ngại xin Chúa Giêsu điều mà các ông mơ ước có lẽ đã từ lâu. Trong vương quốc của Ngài, các ông muốn được những chỗ nhất, bên tả và bên hữu Ngài. Mười môn đệ kia nghe các ông xin như vậy thì lấy làm chướng tai… Điều đó cho thấy rõ rằng chính các ông này nữa muốn những chỗ nhất ấy.
Chúng ta đừng nói đó là chuyện trẻ con, là nhẹ dạ. Tự bản chất, con người muốn làm lớn, muốn ở trên kẻ khác, muốn thống trị, thích tìm ngồi chỗ nhất. Xã hội chúng ta lại khuyến khích và khơi dậy ước muốn đó, một ước muốn mà mọi con người bình thường đều có. Xã hội sùng bái những người đứng đầu, chiều chuộng những kẻ giàu nhất, mạnh nhất, thông minh nhất, đẹp nhất, táo bạo nhất. Chỗ nhất! Đôi khi chẳng có gì mà người ta không làm để đạt tới đó. Không phải ai cũng đều thành công, nhưng ai cũng ao ước, ai cũng mơ ước được như vậy.
Phục vụ chứ không phải được phục vụ.
Ta hãy lưu ý rằng Chúa Giêsu không trách hai môn đệ của Ngài vì muốn được gần Ngài trong vinh quang Thiên quốc. Ngài cũng không bảo các ông rằng ước muốn của các ông sẽ không thành đâu. Ngài không biết được. Không phải Ngài quyết định về việc này. “Về việc ở bên hữu hoặc ở bên tả Thầy thì không phải Thầy ban cho được”. Tuy nhiên Ngài lợi dụng dịp này để nhắc lại một giáo huấn cơ bản mà các môn đệ của Ngài khó hiểu.
Giáo huấn đã được lặp lại bao nhiêu lần rồi là: Những kẻ cao trọng trước mặt Thiên Chúa không phải là những kẻ để cho người ta phục vụ mình, nhưng là những kẻ phục vụ; những kẻ xứng đáng chỗ tốt trong Nước Trời, không phải là những kẻ chỉ biết ước mơ xin xỏ, nhưng là những kẻ bắt chước Chúa Kitô, uống chén đắng mà Ngài đã uống, làm đầy tớ như Ngài, chịu thanh tẩy bằng đau khổ như Ngài.
Uống chén đắng, được thanh tẩy bằng cuộc thanh tẩy bằng cuộc thanh tẩy của Chúa Kitô: làm đầy tớ, làm nô lệ mọi người, phục vụ chứ không mong người ta phục vụ mình, hiến mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người, gặp thử thách, bị đau khổ nghiền nát, làm cho cuộc sống của mình trở thành một của lễ hy sinh đền tội… Đó là những từ ta gặp thấy trong các bài đọc hôm nay. Những từ ngày bổ túc cho nhau và diễn tả những gì làm cho chúng ta trở nên cao trọng trước mặt Thiên Chúa và những gì cho phép đạt đến những chỗ nhất bên cạnh Chúa Kitô. Ta có thể tóm tắt giáo huấn này bằng công thức sau đây: Phục vụ chứ không phải được phục vụ.
Một công việc khó nhọc.
Dĩ nhiên chúng ta có ý muốn bước theo Chúa Kitô và thực hành lời giáo huấn của Ngài. Nhưng chúng ta biết rằng điều này không dễ. Phục vụ, phục vụ cách vô vị lợi, phục vụ trong sự quên mình và xả thân, phục vụ cho đến nỗi phải đau khổ, không thể trong vòng một ngày mà chúng ta làm được và cứ phải làm lại mãi.
Bao nhiêu người muốn và tự nhủ phục vụ kẻ khác nhưng không phục vụ hoặc chỉ làm nửa chừng thôi. Người bán hàng nói với khách hàng “Xin phục vụ quý vị!”. Các nhà chính trị tuyên bố: “Hãy bỏ phiếu cho tôi để tôi có thể phục vụ quý vị!”. Các công đoàn tự nhủ sẽ phục vụ công nhân, các công ty lớn khẳng định là đưa tài sản phục vụ sự tiến bộ của xã hội, các bác sĩ muốn phục vụ bệnh nhân, các giáo sư phục vụ sinh viên. Các phụ huynh phục vụ con cái, các cha sở phục vụ con chiên và Giáo Hội phục vụ hết thảy mọi người bắt đầu từ những người nghèo nhất…
Có nguy cơ lạm dụng hai từ phục vụ. Bao nhiêu dịch vụ vẫn chẳng có gì là vô vị lợi cả! Nhiều tham vọng, có thể trà trộn vào ý muốn chân thành phục vụ.
Dù ở địa vị nào trong xã hội của chúng ta, bất chấp dù mức sống cao hay thấp, dù tài năng ra sao, dù làm công việc gì, chúng ta có quan tâm đến phục vụ kẻ khác không? Chúng ta có thực sự phục vụ họ không? Đó là những câu hỏi được đặt ra cho chúng ta hôm nay.
30. Lật ngược xuống là đúng chiều rồi.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Món Bánh táo đảo ngược là món ưa thích đối với nhiều người. Trong lúc nướng nó có vẻ giống như là bình thường và bằng phẳng, nhưng khi được phục vụ với đường, nước sốt và mứt trên đỉnh. Chúng ta có thể tin rằng Mẹ Maria đã không bao giờ nướng bánh táo lật ngược cho Chúa Giêsu (vì Giuđêa thời gian đó chưa nhập khẩu của Hawai), nhưng nếu Mẹ đã làm bánh táo này thì đó là món ưa thích đối với Chúa Giêsu. Lý do là khi bánh đảo ngược xuống giới thiệu những giá trị của Chúa Giêsu vì chúng xuất hiện trên bề mặt úp xuống.
Xã hội thế tục nói rằng: “Hãy tiến lên phía trước, hãy cạnh tranh. Đừng để bất cứ ai vượt qua mặt bạn. Hãy trình bày cho mọi người biết ông chủ là ai. Hãy làm cho mọi người nghĩ rằng bạn là quan trọng. Hãy tự chăm sóc như là số một. Hãy làm điều đó”. Ngay những tông đồ mặc dù không sống trong kỷ nguyên của chúng ta “nơi cái bánh ngọt lật ngược” họ đã nếm, đã thưởng thức với những loại tham vọng mà xã hội của chúng ta ngày nay đang tiến cử và Chúa Giêsu thì chống lại nó.
Tham vọng nơi lòng của Giacôbê và Gioan thì mạnh mẽ khiến cho họ bạo gan đòi hỏi Chúa Giêsu cho họ được ngồi ở chỗ quan trọng, bên phải hoặc bên trái Người khi Ngài tiến vào trong vinh quang của Người. Họ nhấn mạnh: “Hãy xem”. Chúng ta không chắc là những tông đồ đã tranh luận điều đó với Chúa Giêsu trong bao lâu, nhưng Giacôbê và Gioan đã không hiểu cả hai: Giáo huấn và gương mẫu của Chúa Giêsu.
Giáo huấn chắc chắn của Chúa Giêsu là khiêm nhường không được kiêu ngạo, đó là chúng ta phải sẵn lòng phục vụ người khác, không thống trị người khác. Từ khi Giacôbê, Gioan và những tông đồ khác đã thất bại trong việc nắm bắt giáo huấn của Chúa Giêsu, Người đã trở thành rõ ràng bao nhiêu có thể. Ngài nói: “Bất cứ ai trong các ngươi muốn làm lớn thì phải phục vụ như người hầu hạ, bất cứ ai muốn ngồi chỗ nhất thì phải phục vụ tất cả những người có nhu cầu”. Đó là tóm tắt tất cả giáo huấn của Người.
Gương mẫu của Chúa Giêsu còn quan trọng hơn giáo huấn của Ngài nữa, Chúa Giêsu là người Con đời đời của Thiên Chúa, đã rời bỏ ngai tòa trên trời mà trở nên một với chúng ta. Ngài đã từ bỏ tất cả những xa hoa của xã hội thế tục, Chúa Giêsu đã khiêm tốn, Ngài khiêm tốn trong suy nghĩ, không phải cho chính Ngài nhưng cho chúng ta, Ngài đã trở thành con người, Người trở thành tư tế, trở thành Đấng Cứu độ chúng ta, Đấng mà chúng ta có thể tin tưởng và nhận được lòng thương xót và giúp đỡ trong những giây phút cần. Đó là gương mẫu của Người mà Người đã trình bày trong khi tuyên bố: “Này Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng phục vụ và hiến trao mạng sống để cứu chuộc muôn dân”.
Khi chúng ta tham dự Thánh Lễ, chúng ta vẫn còn tiếp tục là nhân chứng cho sự khiêm nhường của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến với chúng ta trong bí tích Thánh Thể không phải để đặt bẫy cho sự trung thành hoặc là ở giữa những tiếng xập xình của các tín hữu hoặc là ở giữa những tiếng kèn trumbét của các thiên thần trên trời. Ngài đã đến trong sự khiêm tốn, Ngài đã sẵn lòng trở nên tầm thường, một tấm bánh đơn giản trở nên thân thể của Người, và Người đã thay đổi rượu nho rẻ tiền trở thành Máu Người, Người đã làm như thế để phục vụ chúng ta và không có điều gì hơn là để cho chúng ta có thức ăn và thức uống, nhưng chính Người là của nuôi sống thiêng liêng cho chúng ta. Thiên Chúa có thể nghĩ được điều gì hơn, gương mẫu nào hơn, trong sự khiêm nhường và phục vụ để cạnh tranh hơn không? Hãy để cho những người khác ước ao cố gắng làm Chúa trên những người khác thấy điều này, tất cả chúng ta có gương mẫu và giáo huấn của Chúa Giêsu. Một số người đã cố gắng làm ra vẻ quan trọng, Chúa Giêsu nói: “Đừng làm như thế”.
Thật là tồi tệ khi các tông đồ đã không bao giờ ăn một cái bánh đảo ngược, điều đó thì có thể cho họ nhưng điều đo cũng sẽ là cho chúng ta, một dấu hiệu mà Chúa Giêsu đã đảo ngược lại thành đúng chiều.
31. Đầy tớ và nô lệ.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Ghế tượng trưng cho địa vị, quyền lực và quyền lợi, nên ghế là nỗi ám ảnh của nhiều người.
Ghế trưởng phòng, ghế giám đốc, ghế đại biểu… Tất cả nỗ lực dồn vào việc có một ghế, sau đó là giữ ghế, hay tìm cách lên ghế cao hơn. Ngay cả những người đã bỏ mọi sự để theo Chúa cũng bị ám ảnh bởi những chiếc ghế danh dự.
Chính lúc Đức Giêsu nói đến cái chết gần kề của mình, thì Gioan và Giacôbê lại xin được ngồi hai bên tả hữu. Có vẻ họ không bắt được tần số của Thầy!
Thanh tẩy mình khỏi tội lỗi không khó lắm. Nhưng thanh tẩy mình khỏi nhân đức và công trạng của mình thì khó hơn bội phần.
Hai môn đệ đã từ bỏ những điều rất cao quý, nhưng bây giờ lại muốn kiếm chút lợi lộc từ chính sự từ bỏ và phục vụ của mình.
Họ dám lên tiếng đòi hỏi Đức Giêsu: “Chúng con muốn Thầy làm cho chúng con điều chúng con xin.” Thái độ bực tức của mười môn đệ còn lại có thể bắt nguồn từ một sự ganh tỵ ngấm ngầm. Nhiều môn đệ cũng ước mơ hai ghế tả hữu.
Đức Giêsu kéo hai ông ra khỏi tham vọng và đam mê để đưa họ trở về với thực tại gai góc sắp đến. Họ muốn được chung phần với Ngài trong vinh quang, nhưng liệu họ có dám chia phần với Ngài trong đau khổ? Uống chung chén đắng Thầy sắp uống, chịu chung phép Rửa Thầy sắp chịu là chấp nhận bị dìm sâu xuống dòng nước khổ đau.
Thật ra được ngồi hai bên tả hữu Thầy trong vinh quang đâu phải là phần thưởng để trả công cho người bền chí. Trung tín theo Chúa đến cùng đã là phần thưởng rồi.
Chúng ta không giữ đạo để đòi một chỗ thật cao, nhưng mong được ban một chỗ thật gần bên Chúa.
Người đứng đầu, người làm lớn, người có quyền thường dễ có thái độ thống trị, áp đặt, hống hách. Chức vụ và quyền lực trở thành phương tiện phục vụ bản thân. Đó là lối lãnh đạo dễ thấy nơi người đời.
Đức Giêsu không chấp nhận chuyện đó nơi Hội Thánh: “Nơi anh em thì không như vậy.” Ngài đề xướng một lối lãnh đạo mới. Ai muốn làm lớn, làm đầu trong Hội Thánh phải trở nên đầy tớ và nô lệ cho mọi người.
Đức Giêsu mời chúng ta làm một cuộc cách mạng lớn, không phải chỉ là đổi ngôi, mà là đổi lòng. Tận diệt trong tim những tham vọng ăn trên ngồi trước. Đức Giêsu không ủng hộ một xã hội hay Giáo Hội vô tổ chức. Nhưng Ngài coi lãnh đạo là khiêm nhường phục vụ.
Phục vụ là động từ tóm kết toàn bộ đời Đức Giêsu.
Ngài đến trần gian để phục vụ, sống như người phục vụ, và chết như dấu chứng lớn nhất của phục vụ trong yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Giêsu chết để chuộc ta khỏi cảnh nô lệ. Ngài tự nguyện trở nên nô lệ để giải phóng ta. Theo bạn, con người hôm nay vẫn nô lệ cho những điều gì? Đâu là những hình thức nô lệ mới của thế kỷ 21?
“Lãnh đạo là phục vụ”. Câu này khá quen thuộc với chúng ta. Bạn nghĩ sống khẩu hiệu này có khó không? Tại sao?
Cầu Nguyện
Lạy Thầy Giêsu, Thầy không gọi chúng con là tôi tớ, Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ. Thầy còn coi chúng con như bạn hữu của Thầy, vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con những điều riêng tư thầm kín nhất trong tương quan giữa Thầy với Cha. Hơn nữa, sau phục sinh, Thầy đã gọi các môn đệ là anh em. Mặc nhiên Thầy tự nhận mình là Anh Trưởng đứng đầu một đoàn em đông đúc. Xin cho chúng con luôn thi hành ý muốn của Cha để trở nên những người em cùng huyết nhục với Thầy.
Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng chúng con lên làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy. Còn Thầy lại hạ mình xuống phục vụ chúng con như người tôi tớ rửa chân cho chúng con như một nô lệ và chết thay cho chúng con trên thập giá. Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng của Thầy và sống yêu thương mọi người như anh em. Amen.
32. Thế giới đảo ngược – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’).
Vài ghi nhận chi tiết trước khi đi vào một khía cạnh sâu sắc của bài Phúc Âm Giacôbê và Gioan là con ông Zêbêđê và bà Salômê, bà này có họ xa với Chúa Giêsu. Theo một tục lệ phương đông và đặc quyền huyết tộc, hai anh em có lẽ cho việc cầu cạnh những chỗ trên trước là thường tình vì tất cả tộc họ đều được dự phần vào sự làm nên người trong họ. Mặt khác, ta ghi lại câu đáp của hai anh em trả lời Chúa: Thưa được. Tầm mức của câu đáp đi tới đâu? Có thể họ nghĩ tới sự thiết lập vương quốc mà toàn dân mong đợi, sẽ không tránh được khó khăn và hai anh em tuyên bố sẵn lòng đương đầu. Dường như họ không ý thức được thực tại sau này của Thập Giá. Trong Kinh Thánh, có những đoạn lấy chén uống làm biểu tượng cho niềm vui, trong những đoạn khác làm biểu tượng cho cay đắng, ở đây Chúa theo nghĩa chén uống chỉ sự cay đắng, và phép rửa Người nói đến trong đoạn này có nghĩa tương tự với câu chúng ta thường nói ngày này: ‘Bị dìm sâu trong thống khổ’.
1) Chén Ta phải uống… thanh tẩy ta chịu. Chúa dùng những từ ngữ mà mãi sau cuộc Khổ nạn và Phục sinh các môn đệ mới hiểu, để loan báo rằng số mệnh dưới thế của người không phù hợp với khái niệm của các môn đệ. Họ bám chắc lấy phương án trù hoạch, một vương quốc thế gian mà Chúa sẽ là Vua. Khó khăn lắm Chúa mới đảo ngược não trạng đó và chuyển đổi hy vọng của các môn đệ từ tầm mức tham vọng trần tục, đến thực tại công cuộc cứu rỗi. Cũng giống nhiều đoạn Phúc Âm khác, câu hỏi của Chúa chất vấn chúng ta ngày nay. Cuộc phấn đấu nói trong Phúc Âm, chúng ta quan niệm nó như thế nào? Mục tiêu chúng ta là gì? Giả sử nhân danh lý tưởng quảng đại của một nhân loại tốt đang sống, chúng ta phấn đấu cho một ý thức hệ trong đó Phúc Âm chỉ là một sự đóng góp trong giả thuyết ấy, chúng ta sẽ chỉ mưu tìm chiến thắng cho những tư tưởng của chúng ta. Trên hình diện này, ở ngoài Phúc Âm cũng có những chủ nghĩa độ thế có độ lượng nhưng là thứ độ lượng cuồng tín. Lời kêu gọi trước tiên và đặc thù của Phúc Âm thuộc một trật tự khác, Phúc Âm mời chúng ta tham dự thanh tẩy và chén đắng của Chúa Giêsu.
2) Ai muốn làm lớn trong các ngươi, thì hãy hầu hạ các ngươi. Chúa cố tháo gỡ một thứ xác tín theo bản năng ra khỏi đầu óc các môn đệ, thứ xác tín này khiến người ta nghĩ rằng điều quan trọng là tổ chức thế giới hiện đại theo những lời phán hứa của Thiên Chúa, được họ hiểu theo hướng nghĩ vật chất. Trong thế giới ấy, dịch vụ ‘tốt’ là chiếm lấy những chỗ tốt nhất. Vậy mà Nước Trời có những quy luật khác. Trước khi chính mình làm gương phục vụ hoàn toàn, Chúa cố giác ngộ các môn đệ cho họ ý thức được sự đòi hỏi đó. Chúa làm họ ngẩn ngơ, họ không hiểu Chúa muốn nói gì, nhưng sau này, họ sẽ hiểu và không quên bài học đó. Sau cuộc khổ nạn và Phục Sinh, họ sẽ phát hiện rằng: Tâm điểm của sự đòi hỏi phục vụ chính là tình yêu. Chúa tự hiến, vì tình yêu cho Cha Người, từ Chúa Cha phát xuất tình yêu của Chúa đối với loài người. Tình yêu thương của chúng ta đối với anh em nhân loại có đích thật vững vàng, bền bỉ, độ lượng, rộng lớn, sẵn sàng phục vụ là tùy thuộc ở mức độ chúng ta bị thâu tóm bởi tình yêu của Đức Kitô.
33. Về ba tuyến nhân vật
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm – theo gợi ý của cha Ngọc Hàm)
Đây là câu chuyện vạch rõ cho chúng ta thấy được nhiều điều hay, về 3 tuyến nhân vật: (1) về Matcô, người thuật chuyện; (2) về hai anh em kia, nhân vật phản diện; và (3) về Chúa Giêsu, nhân vật chính diện
1. Câu chuyện cho chúng ta biết đôi điều về Maccô
Matthêu cũng kể câu chuyện này (Mt 20, 20-23) nhưng lời yêu cầu không do Giacôbê và Gioan đích thân nêu ra, nhưng do mẹ của hai ông là bà Salômê. Có lẽ Matthêu cảm thấy rằng một lời yêu cầu như thế là không xứng đáng cho một tông đồ, nên nhằm cứu vãn tiếng tăm cho Giacôbê và Gioan, ông đã gán lời yêu cầu đó cho tham vọng tự nhiên của bà mẹ. Còn Matco nói rõ: chính 2 ông đến xin. Câu chuyện này cho chúng ta thấy sự thành thực của Maccô.
Người ta kể rằng có một họa sĩ trong triều đình vẽ chân dung cho Oliver Cromwell là người đầy mụn cóc. Nghĩ là để làm vui lòng Oliver, họa sĩ không vẽ những mụn cóc đó trong bức họa. Khi Cromwell thấy như vậy ông nói “dẹp bức chân dung này đi, vẽ cho ta một bức đầy đủ các mụn cóc”.
Mục đích của Maccô là muốn chúng ta thấy đầy đủ mụn cóc của các tông đồ. Khi mười người môn đệ kia nghe biết thì đâm ra tức tối với hai ông. Không phải vì họ khiêm tốn nhưng vì họ cũng muốn những điều tương tự như hai ông. Và Maccô đã có lý, vì mười hai tông đồ vốn không phải là tập thể các vị thánh. Họ chỉ là những con người bình thường, đầy mụn cóc.
Chúa Giêsu đã dùng những con người tầm thường thế đó để thay đổi thế giới. Điều này đã thành hiện thực.
2. Câu chuyện cho chúng ta biết vài điều về Giacôbê và Gioan.
– Hai ông vốn có nhiều tham vọng. Họ nhắm những chức vụ cao nhất trong vương quốc của Chúa Giêsu khi cuộc chiến đã thắng và sự khải hoàn đã trọn vẹn. Có thể tham vọng đó đã manh nha, vì nhiều lần Chúa Giêsu từng biệt riêng họ ra trong số ba người chọn lọc tin cẩn. Hiển dung, chữa lành em bé chết sống lại, Lc 8, 51, vườn cây dầu. Có thể họ đã có một chỗ đứng khá hơn những tông đồ khác, dám xin lửa từ trời xuống thiêu đốt làng không cho thầy trò đi qua.
Thân phụ họ vốn khá giả đủ để thuê người giúp việc nên họ tưởng rằng ưu thế và địa vị xã hội có thể giúp họ chiếm được địa vị hàng đầu. Họ lại quen thượng tế: đâu phải dễ. “Môn đệ kia vì quen thượng tế, nên cùng với Chúa Giêsu vào sân trong tư dinh thượng tế” (Ga 18,15). Cho nên với câu chuyện xin xỏ nầy, để lộ cho thấy họ là những con người từ nơi sâu kín của lòng, có tham vọng chiếm giữ vị trí hàng đầu trong vương quốc trần gian.
– Nó cho chúng ta thấy hai ông hoàn toàn không hiểu Chúa Giêsu. Điều lạ lùng đối với chúng ta không phải là sự kiện ấy đã xảy ra, nhưng là thời gian mà sự việc ấy đã xảy ra. Lời yêu cầu này khiến chúng ta phải bàng hoàng vì nó được đưa ra hầu như trùng hợp với lúc Chúa Giêsu tuyên bố dứt khoát và báo trước chi tiết về cái chết của Ngài. Chứng tỏ họ đã hiểu quá ít ỏi những gì Chúa Giêsu nói. Lời lẽ của Ngài đã không gột rửa được ý niệm về Đấng Messia với quyền thế và vinh hiển thế gian, vốn ăn sâu trong tâm trí hai ông. [Chỉ có thập giá mới làm nổi việc ấy mà thôi.]
– Nhưng sau khi đã nói tất cả những gì có thể nói chống lại Giacôbê và Gioan thì câu chuyện này cho chúng ta thấy một điểm sáng chói về hai ông là: dù họ đang bàng hoàng, bối rối, họ vẫn tin vào Chúa Giêsu.
Điều đáng ngạc nhiên là họ vẫn còn gắn liền vinh quang với một người thợ mộc dân Galilê, người đã bị các cấp lãnh đạo chính thống giáo thù ghét, chống đối kịch liệt và rõ ràng đang tiến đến chỗ nhận lấy thập giá. Đây là một lòng tin cậy tập trung đáng cho chúng ta phải kinh ngạc. Họ vẫn đánh cuộc, vẫn “bắt” Giêsu (như trong cá cược bóng đá, biết một đội đủ mặt yếu, mà vẫn nhìn thấy được tương lai, tin mãnh liệt, để “bắt” đội đó thắng !). Dù Giacôbê và Gioan đã phạm sai lầm, tấm lòng của họ vẫn nằm đúng vị trí đáng phải có. Họ chẳng hề hoài nghi gì về chiến thắng khải hoàn tối hậu của Chúa Giêsu.
3. Câu chuyện cho chúng ta biết đôi điều về tiêu chuẩn vĩ đại của Chúa Giêsu.
Chúa nói: ai muốn làm lớn (vĩ đại), phải trở nên người nhỏ nhất. Ai muốn làm đầu, phải hầu thiên hạ.
Câu nói xem ra nghịch lý nhưng sự đời lại thường như vậy, kiểu như câu nói cán bộ lớn đi xe con, cán bộ nhỏ đi xe lớn.
Nhà chiến lược kinh doanh Bruce Barton chỉ cho thấy rằng căn bản là một hãng ôtô dựa vào để lưu tâm của khách hàng là họ sẵn sàng chui xuống gầm xe bạn thường hơn, chịu dơ bẩn bất cứ lúc nào. Nói cách khác, họ sẵn sàng phục vụ nhiều hơn, thì hãng xe của họ lớn mạnh hơn.
Barton cũng chỉ cho thấy rằng trong khi người thư ký bình thường có thể đi về nhà từ 5 giờ 30 chiều, thì ánh đèn trong văn phòng giám đốc điều hành vẫn còn sáng đến tối. Vì sẵn sàng phục vụ thêm giờ mà người ấy đứng đầu xí nghiệp.
Mẹ Têrêxa Calcutta phục vụ những người hèn mọn nhất, những người hấp hối không một chút tiện nghi tối thiểu, những trẻ em bị bỏ rơi, mà rồi trở nên vĩ đại, đến nỗi khi chết, Ấn Độ, một nước Ấn giáo là quốc giáo, cử quốc tang với 21 phát súng tiễn mẹ.
Hôm nay cũng là lễ cầu nguyện cho truyền giáo. Sứ điệp truyền giáo năm nay của ĐGH có chủ đề: “Cùng với người trẻ, chúng ta mang Tin Mừng cho tất cả mọi người” nhân Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới đang họp tại Roma về chủ đề người trẻ.
Có 1 ông đã kể lại lý do và động lực thúc đẩy ông theo đạo như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đưa tôi vào bệnh viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá còn trẻ, chị tỏ ra rất tốt và tận tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: ‘Chị quỳ làm gì thế ?’. Chị trả lời: ‘Tôi cầu nguyện cho ông’. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu không biết Chúa, bây giờ được biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy. Giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy gương sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, vì họ có đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu lộ tình thương với họ hay với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo Chúa. Khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những người bạn tốt của nhau.
Việc xin ngồi bên hữu bên tả của Thầy rút ra bài học hay này: Chúng ta không giữ đạo để đòi một chỗ thật cao, nhưng mong được ban một chỗ thật gần bên Chúa. Bên phải bên trái là sát bên Thầy. Mà Chúa đồng hóa mình với người tôi tớ, người bé nhỏ, người hèn mọn, cho nên càng là người tôi tớ, càng phục vụ, càng được ở gần Thầy.
34. Ra lệnh và truyền lệnh – Gm Arthur Tonne.
Francis Joseph, hoàng đế nước Áo và vua nước Hungari từ 1848 đến 1916, một triều đại dài nhất trong lịch sử, cũng là triều đại tiến bộ nhất. Francis Joseph là người nghiêm khắc nhưng ông trị vì rất khoan dung. Khởi đầu triều đại ông, bệnh dịch tả lan tràn khắp Châu Âu. Người ta xin Francis rời Vienna để lánh nạn sang Salzburg cho tới khi tai nạn qua đi.
Hoàng đế hỏi: “Ở Salzbugr có đủ phòng cho các con ta không?” Quan cố vấn trả lời: “Chắc chắn, tâu Hòang Thượng, có nhiều phòng cho tất cả hoàng gia”.
“Có thực sự đủ phòng cho các con ta?” Vừa chỉ tay qua cửa sổ lâu đài, về phía đám đông dưới, hoàng đế vừa nhắc lại: “Hãy nhìn đám dân này. Chúng là con của ta. Cha của chúng bỏ mặc chúng trong nguy hiểm sao? Không, những người thành Viena yêu quí luôn chia sẻ vui buồn với ta. Ta sẽ không bỏ họ trong giờ lo âu”.
Chúng ta vừa nghe: Hai môn đệ Đức Kitô. Giacôbê và Gioan muốn được địa vị vinh dự và uy quyền trong Nước Chúa, Chúa Giêsu nhắc họ rằng: “Những người cai trị thế gian thì sai khiến con dân mình. Nhưng đó không phải là đường lối của Nước Chúa. Trong Nước Chúa ai có quyền bính phải là đầy tớ của người dưới quyền mình”. Francis Joseph là một tấm gương về điều ấy.
Ngày nay, người ta tranh luận nhiều về quyền bính và tự do. Một chân lý nền tảng cho cuộc tranh luận này là: Trong mọi xã hội, loài người đều phải có người nắm quyền bính, một người có quyền và có bổn phận ra lệnh, một người có quyết định tối hậu. Bạn không thể có một quốc gia không người thủ lĩnh. Bạn không thể có một đội banh không huấn luyện viên, một chiếc tàu không có thuyền trưởng, một quân đội không tướng, một bộ lạc không tù trưởng, một xí nghiệp không giám đốc. Mỗi tập thể loài người đều phải có “ông Bầu” hoặc chỉ định hoặc bầu lên.
Chúa Giêsu biết cần phải có quyền bính. Người chỉ than phiền là nhiều người lạm quyền, lạm dụng quyền bính. Người ta ích kỷ, bất công, có khi còn tàn bạo nữa. Trong Nước Chúa Kitô, người lãnh đạo phải là đầy tớ của mọi người.
Bây giờ chúng ta tìm câu trả lời cho vấn đề quyền bính và tự do. Người chỉ huy phải dự tính và hành động vì lợi ích của tập thế. Cùng lúc người dưới phải được tự do góp ý, có khi còn phải phê bình nữa. Tóm lại, mọi người phải hành động theo quyết định của người có trách nhiệm với đoàn thể. Cũng vậy trong một thể chế dân chủ, người lãnh đạo được bầu lên có bổn phận phải quyết định.
Đây cũng là đường lối trong đơn vị xã hội nhỏ bé nhất và quan trọng nhất: gia đình. Nhiều gia đình bàn luận về mọi vấn đề và quyết định như một tập thể. Rất nhiều gia đình không có ai chịu trách nhiệm tối hậu. Đó cũng là tình trạng của nhiều tổ chức như trường học và xứ đạo. Do đó chúng ta thường thấy: đáng lý những người phải vâng lời lại ra lệnh cho người có trách nhiệm.
Việc phượng tự chung của gia đình Chúa là một điển hình tập thể nghĩ tưởng và hành động với nhau. Thánh lễ có thể dạy chúng ta ra lệnh thế nào và tuân lệnh làm sao.
Xin Chúa chúc lành bạn.
35. Hy sinh phục vụ theo gương Chúa Giêsu
CHUYỆN MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Hy sinh phục vụ
Đức Hồng Y Roncalli đi xa về, phái đoàn tòa giám mục ra đón. Ngài vừa bước xuống xe, mọi người ngạc nhiên thấy trên áo còn mấy cọng rơm. Có người hỏi thì ngài cười xòa vui vẻ, nhưng các kẻ đi theo ngài thì biết rõ căn do. Trên đường về, ngài thấy chiếc xe bò chở rơm sa hố. Ngài bảo dừng xe lại, xuống phụ đẩy với anh nông dân, nên áo dòng của ngài dính rơm như thế.
Và sau khi lên ngôi Giáo hoàng, ngài lấy tên là Gioan XXIII, ngài vẫn sống giản dị và hy sinh phục vụ như thế. Chẳng hạn một hôm giáo triều báo động “Đức Giáo hoàng mất tích.” Nhân viên an ninh đổ xô đi tìm. Cuối cùng người ta gặp ngài đang chuyện trò thân mật với các tù nhân ở khám đường Rôma.
2. Hy sinh phục vụ là niềm vui
Vị sáng lập Cộng đoàn Emmaus là cha Pierre, chuyên lo phục vụ người nghèo. Cha kể một trong những cộng sự viên đắc lực nhất của cha là một cựu tù nhân lang thang không nhà không cửa. Người đàn ông này thất vọng chán đời đến nỗi dùng dao cắt mạch máu trên tay mình để tự vẫn. Thấy vậy có người điện thoại cho cha hay. Cha lập tức đến nơi, thấy người đàn ông với cánh tay máu chảy đầm đìa. Cha không an ủi mà nói như ra lệnh.
– Anh không được tự vẫn. Còn rất nhiều người kém may mắn hơn anh. Họ đang cần sự giúp đỡ của anh. Và chính tôi cũng đang bệnh và tôi cần đến anh…
Nghe những lời đó, người đàn ông với đôi mắt lờ đờ bỗng sáng lên. Anh để cho người ta băng lại vết thương, và từ đó trở thành cộng sự viên đắc lực của cha Pierre, tận tụy hy sinh phục vụ người nghèo khổ bất hạnh.
3. Hy sinh phục vụ trong gia đình trước
Cậu bé nọ đi học về trễ mãi mà không có lý do. Cha mẹ cậu hết lời khuyên bảo, nhưng cậu cứ chứng nào tật nấy. Quá thất vọng, cha cậu gọi cậu và nói, “Lần sau nếu con còn về trễ nữa, con chỉ được ăn tối với bánh mì và nước lã thôi, ngoài ra con không được ăn thứ gì khác. Con nghe rõ chưa?” Cậu bé nhìn cha nó và gật đầu.
Nhưng vài ngày sau, cậu lại đi về trễ hơn mấy ngày trước nữa. Tối hôm đó, khi mọi người vào bàn ăn, cậu bé thấy trên đĩa của cha cậu đầy dẫy thức ăn, trên đĩa của mẹ cậu cũng thế. Còn đĩa của cậu chỉ có ổ bánh mì, bên cạnh là một ly nước lã. Nhìn thấy đĩa thức ăn của mình, cậu bé buồn tủi đến nỗi chảy nước mắt. Phần vì bụng đói, phần vì biết chắc không thể nuốt trôi. Đây chính là hình phạt cha mẹ cậu đã nói trước.
Nhưng khi ngồi vào bàn ăn, cha cậu lặng lẽ cầm lấy đĩa thức ăn của cậu đặt trước mặt ông, rồi lấy đĩa thức ăn của ông đặt xuống trước mặt cậu. Cậu bé hiểu ngay việc cha cậu làm. Vì thương cậu, cha cậu hy sinh nhận lấy hình phạt thế cho cậu.
4. Nếu trả lời có
Bác sĩ Lloyd Judd hành nghề ở vùng quê Oklahoma. Nhiều bệnh nhân của ông nghèo và không có phương tiện di chuyển. Vì thế ông thường phải lái xe đến nhà họ và chữa trị cho họ. Một ngày nọ, bác sĩ đau nặng, phải nhập viện và khám phá mình mắc căn bệnh ung thư ở giai đoạn cuối. Ông nghĩ đến các con nhỏ của ông. Ông có nhiều điều muốn nói với chúng, nhưng chúng còn quá nhỏ chưa thể hiểu được. Do đó, ông ghi điều ông muốn nói vào một số cuốn băng. Ông nói với các con:
– Các con có sẵn sàng ra khỏi nệm ấm, xông vào đêm tăm tối giá lạnh, và lái xe suốt 20 dặm để thăm bệnh nhân, dù biết rằng họ không có tiền trả, và họ có thể chờ đến sáng chỉ để được chữa trị không? Nếu các con có thể trả lời “có,” tức là các con có thể theo học y khoa được.
5. Vua phục vụ
Vào thời thập tự chinh, hoàng đế Philippe Auguste có làm cử chỉ đặc biệt. Trước mỗi lần lên đường ra trận, ông tháo gỡ triều thiên đang đội trên đầu xuống đặt nó trên bàn rồi ghi dòng chữ, “Dành cho người nào xứng đáng nhất.” Sau đó ông quy tụ quan quân lại và yêu cầu họ hãy quên ông là vua mà chỉ coi ông là người chỉ huy của họ thôi. Ông nói, “Chiếc vương triều này được dành cho người nào xứng đáng nhất trong cuộc chiến đấu.”
Cuộc viễn chinh đã hoàn tất tốt đẹp. Mọi người hát khúc khải hoàn ca trở về quê hương. Họ tụ hợp lại xung quanh vương triều, một viên cận thần tiến đến cầm lấy chiếc vương triều trước mặt vua và nói, “Tâu bệ hạ, bệ hạ là người xứng đáng nhất!”
6. Hòn đá vấp ngã.
Một hôm, khách qua đường gặp một triết gia nổi tiếng người Hy lạp. Ông ta đứng ở góc đường và cười nắc nẻ một cách đắc chí. Ai cũng tưởng ông là người điên nên không thèm để ý.
Sau cùng, có một người đánh bạo đến gần và hỏi:
– Vì lý do gì ông cười như vậy?
Ông ta trả lời:
– Ông có thấy cục đá nằm giữa đường kia không? Từ sáng tới giờ không biết bao nhiêu người đã vấp ngã vì hòn đá đó, và họ bực mình chửi bới. Thế nhưng, không có một ai cúi xuống nhặt hòn đá vứt khỏi lối đi để người khác khỏi bị vấp ngã.
36. Ngông cuồng liều lĩnh…!
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Đọc bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, hình như ai cũng đều thông cảm với phản ứng tự nhiên của các vị tông đồ về thái độ có vẻ vừa ham danh vừa ngông cuồng liều lĩnh của hai anh em Gioan và Giacôbê, khi cặp anh em tông đồ này công khai xin Chúa Giêsu cho một người ngồi bên phải và một người ngồi bên trái của Người khi Người được vinh quang. Như thế, qua mối cảm thông này, độc giả đọc bài Phúc Âm đây còn cho thấy họ cũng có cùng ý nghĩ như các tông đồ, nghĩa là họ cũng cho rằng hai anh em tông đồ này ham danh và ngông cuồng liều lĩnh. Tuy nhiên, thực tế có đúng như vậy hay chăng, hay các tông đồ bấy giờ và chúng ta hiện nay đã hiểu lầm cặp anh em tông đồ vốn được Chúa Giêsu dẫn theo cùng với tông đồ Phêrô đến một số nơi đặc biệt, điển hình nhất là cuộc biến hình trên núi cao của Người (x Mk 9:2), hay trường hợp Người hồi sinh đứa con gái của ông Giairô (x Mk 5:37)?
Nếu để ý kỹ chúng ta thấy Chúa Giêsu chỉ lên tiếng dạy các tông đồ làm đầu là phục vụ sau khi 10 vị tông đồ cảm thấy ghen tức với hai anh em tông đồ Gioan và Giacôbê mà thôi. Chứ trước đó, Người không hề nói gì, mà còn tỏ ra vui vẻ (dù nghiêm nghị) đối đáp với lời yêu cầu có vẻ điên cuồng của anh em họ. Hình như Người đã thấy được lòng thành của cặp anh em này trong việc họ muốn cương quyết theo Người cho đến cùng, dù có phải uống chén đắng đau thương với Người, vì khi được vinh dự chịu đau khổ với Người là hưởng vinh quang với Người rồi vậy. Lịch sử đã cho thấy, quả thực, sau đó, hai anh em tông đồ này, một người đã được ngồi bên hữu của Chúa Kitô, đó là tông đồ Gioan, người tông đồ duy nhất đã cùng với Mẹ Maria đứng bên thập giá của Người để chứng kiến và cảm thông (uống) với cảnh vô cùng đau thương của Thày mình, và một người bên tả, đó là tông đồ Giacôbê, vị đã là giám mục đầu tiên ở Giêrusalem cũng là vị tông đồ tử đạo (x. Acts 12:2) trước hết trong các tông đồ, vị tông đồ bởi thế là vị đầu tiên được Chúa Kitô cho uống chén tử nạn với Người và như Người.
Sau đây chúng ta hãy đọc lại chương 9: “Tham lam Liều Lĩnh như Trẻ Nhỏ” của người viết trong cuốn “Trở Nên Như Trẻ Nhỏ” (Cao-Bùi 1994, trang 133-148)
Trong câu chuyện xin được ngồi hai bên Chúa Giêsu trong vương quốc của Người (xem Mathêu 20:20-28), không biết ai là người đã nghĩ đến tư tưởng nay đầu tiên.
Một là chính từ ba mẹ của hai anh em Giacôbê và Gioan, vì bà đã lên tiếng xin điều hết sức quan trọng này một cách trịnh trọng và thẳng thắn. Trịnh trọng ở chỗ, thứ nhất, bà đến xin Chúa “cùng với hai con của bà” (Mathêu 20:20), thứ hai, bà “phục lạy Người mà xin” (Mathêu 20:20), thứ ba, chỉ sau khi Chúa Giêsu lên tiếng hỏi “Bà muốn điều gì đây?” (Mathêu 20:21), bà mới dám nói (xem Mathêu 20-21). Thẳng thắn ở chỗ, sau khi đã làm đủ các lễ nghi tương xứng theo như bà nghĩ, và sau khi được Chúa Giêsu ban phép, bà đã không úp mở gì cả:
“Xin hứa với tôi là hai đứa con của tôi đây, một đứa sẽ được ngồi bên phải và một đứa sẽ được ngồi bên trái của Thày trong vương quốc của Thày” (Mathêu 20:21).
Phần Chúa Giêsu, có ít nhất hai điều chắc chắn ở đây là, thứ nhất, trước khi ba mẹ của hai anh em Giacôbê va Gioan mở miệng xin Người điều này, thì Chúa Giêsu đã biết bà muốn gì rồi; thứ hai, Người cũng thừa biết trước phản ứng “bất mãn khó chịu của mười người kia đối với hai anh em này” (Mathêu 20:24). Thế mà Người vẫn gợi ý để cho bà ấy phát biểu ra trước mặt tất cả các tông đồ.
Hành sử như thế, có thể Chúa Giêsu muốn lợi dụng dịp này để dạy cho các thánh tông đồ biết về tinh thần va đường lối làm đầu là làm tôi như gương sống động của Người. Bởi thế, sau khi thấy phản ứng của mười tông đồ đối với hai anh em Giacôbê và Gioan, phản ứng có tính cách người lớn, tỏ ra tranh giành, ghen tương đố kị theo kiểu trần tục, Chúa Giêsu mới “gọi họ lại mà nói:
“Các con biết những kẻ cầm quyền trong dân ngoại thì làm chúa cai trị nhau, tỏ ra ta đây. Nhưng các con không được như vậy. Ai trong cac con muốn làm lớn thì phải phục vụ những người còn lại. Ai muốn lãnh đạo trong các con thì phải phục vụ nhu cầu của tất cả mọi người. Đó là cách thức mà Con Người đã đến không phải để được người khác phục dịch, nhưng là để phục vụ, để hiến mình làm giá chuộc cho nhiều người” (Mathêu 20:25-28).
Ngoài ra, Chúa Giêsu cố ý lên tiếng hỏi trước để cho ba mẹ của hai anh em Giacôbê và Gioan dễ dàng mở lời xin một điều ngoại lệ như thế, chứng tỏ điều yêu cầu có vẻ tham quyền cố vị phàm tục này của ba chẳng những không làm phật lòng Người là Đấng “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mathêu 11:29), mà còn làm cho Người có vẻ hài lòng nữa là đàng khác, bằng không, Người đã không mất giờ mặc cả với hai người con của bà làm gì!
Phần Giacôbê và Gioan, cũng có thể một trong hai người đã nghĩ đến điều yêu cầu này, song không dám trực tiếp xin cùng Thày mình, nên đã khôn khéo xúi mẹ mình đứng mũi chịu sào. Có thể kinh nghiệm sống với Thày đã gợi lên cho Giacôbê và Gioan chính điều yêu cầu này cũng như cho hai anh em cách chiếm được điều mình muốn xin với Thày.
Về chính điều yêu cầu được ngồi hai bên Chúa Giêsu trong vương quốc của Người có thể đã nẩy sinh từ kinh nghiệm nhiều lần hai anh em là bộ ba, (cùng với tông đồ trưởng Phêrô), dẫn đi sát với Người hơn các vị tông đồ khác nói riêng và các môn đệ của Người nói chung. Chẳng hạn như lần đến hồi sinh cho bé gái (xem Marcô 5:37) và lần được chứng kiến Chúa biến hình trên núi cao (xem Mathêu 17:1).
Theo tự nhiên, có thể vì thấy rằng hai anh em mình được Chúa Giêsu thương đặc biệt như thế, qua một số lần được Người ưu đãi cách riêng, (chưa kể còn một lần sau này cả hai còn được vao vườn cầu nguyện với Người trước khi Người nộp mình), mà cả hai đã nghĩ mình có giá, cần được Chúa Giêsu xác nhận vị thế của mình chăng?
Về cách thức nhờ đến bà mẹ để xin Chúa Giêsu điều yêu cầu của mình, chứ không dám đứng ra xin lấy, kinh nghiệm cũng dạy cho hai anh em Giacôbê và Gioan biết phán đoán của hai đấng cho dù tốt lành mấy cũng chưa chắc đã hợp với với ý của Thày Chí Thanh. Chẳng hạn lần hai vị bị Người “quở trách” (Luca 9:55) vì các vị tỏ ra mình là người lớn, bực tức khi thấy Thày Chí Thánh của mình bị dân Samaria không chịu tiếp rước, đã trở nên nóng nảy đến nỗi: “Thưa Thày, Thày có muốn chúng con gọi lửa trời xuống hủy diệt họ đi không?” (Luca 9:54).
Phải chăng vì bản chất trực tính nóng nẩy sốt sắng này của hai anh em Giacôbê và Gioan mà Chúa Giêsu, qua Phúc Âm thánh Marcô đã viết, “Người đặt cho hai anh em này cái tên là “những đứa con của sấm sét'” (Marcô 3:17).
Thật ra, Phúc Âm thánh Marcô lại tiết lộ cho chúng ta biết rằng chính hai anh em Giacôbê và Gioan trực tiếp đứng ra xin Thày điều này, chứ không phải là bà mẹ của hai vị. Cách thức của “những đứa con của sấm sét” này tuy thẳng thắn nhưng không tế nhị như của bà mẹ. Hai anh em đã chẳng những không tế nhị về chính lời lẽ yêu cầu mà còn về cả cách thức yêu cầu, khi bất kể Chúa Giêsu có cho phép hay không hai vị cũng cứ “như con trẻ” nhắm mắt nhào vô: “Thưa Thày, chúng con muốn Thày ban cho chúng con điều chúng con xin?” (Marcô 10:35)
Kết quả chúng ta thấy xem ra Chúa Giêsu đã chịu thua hai anh em “như trẻ nhỏ” này. Với những lý do có thể suy diễn sau đây.
Lý do thứ nhất, là vì Chúa Giêsu biết được hai anh em Giacôbê và Gioan hết lòng yêu mến Người. Bởi đó, ngay sau lần cuối cùng Người tiết lộ cho các tông đồ biết về cuộc tử nạn của Người, thì chỉ có hai anh em Giacôbê và Gioan đã có phản ứng qua lời yêu cầu của họ.
Lời yêu cầu này chứng tỏ hai vị đã hiểu và thông cảm được với Chúa Giêsu hơn ai hết. Chẳng lẽ hai vị ngớ ngẩn đến nỗi rõ ràng nghe thấy Chúa Giêsu nói về thân phận vô cùng bất hạnh và đen tối của Người như thế mà còn xin ngồi hai bên tả hữu của Người?
Chính vì thế mà khi Chúa Giêsu vừa hạch lại hai vị, (làm như Người muốn các vị tông đồ khác đang tức bực với hai vị biết rõ hơn chủ ý của hai vị), vừa tỏ ra thách thức hai vị: “Các con có biết được điều các con xin không. Các con có uống được chén mà Ta sẽ uống hay chịu được phép rửa trong cùng một cuộc khổ đau như Ta không?” (Marcô 10:38), “Họ thưa Người: ‘Vâng, được'” (Marcô 10:39).
Lý do thứ hai Chúa Giêsu tỏ ra chịu thua hai anh em Giacôbê và Gioan là ở chỗ này, ở chỗ, cả hai nhất định theo Người cho đến cùng, dù hai vị biết Người đi đâu và con đường Người đi như thế nào, chứ không phải như tông đồ Tôma cho đến giây phút Thày trò gần biệt ly mà còn đặt vấn đề: “Thưa Thày, chúng con không biết Thày sẽ đi đâu thì làm sao chúng con biết được đường lối” (Gioan 14:5).
Cuối cùng, Chúa Giêsu đã tỏ ra như chịu thua trước lòng trung kiên theo Người bất chấp mọi sự của hai anh em Giacôbê và Gioan, bằng câu nói hứa hẹn là “Thày ở đâu các con cũng sẽ được ở đó với Thày” (Gioan 14:3), bao gồm ở cả trong đau thương cũng như vinh hiển, như thế này: “Các con sẽ uống chén Ta uống’ các con sẽ thông phần phép rửa Ta chịu. Nhưng về việc ngồi bên hữu hay bên tả của Ta, thì không phải do Ta, mà là cho những ai đã được chỉ định trước” (Marcô 10:39-40).
Thực tế cho thấy, trong bữa tiệc ly, Gioan chẳng những được ngồi bên cạnh Chúa Giêsu mà còn được dịp ngả đầu vào ngực Người để nghe tâm sự thầm kín của Người (xem Gioan 13:23). Nhất là trên đỉnh núi sọ, dưới chân thập giá Chúa Giêsu, chỉ một mình Gioan đứng để nhận lời trăn trối cuối cùng của Người: “Này là Mẹ con” (Gioan 19:27), và cũng để “từ giờ ấy, vị môn đệ nhận Người làm mẹ của mình” (Gioan 19:27).
Theo Thày cho đến khi đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu như Mẹ Maria, thánh Gioan đã chúng tỏ lòng ngài yêu mến Chúa Giêsu là dường nào. Cũng chính vì tình yêu mãnh liệt này của ngài, (có thể vì thế mà sau này ở bờ biển Tibêria, ngài không cần phải trả lời với Thày ba lần như thánh Phêrô là “Thày biết con yêu Thày” – Gioan 21:15-17), mà phải nói là ngài đã cùng với Mẹ Maria chịu tử nạn với Chúa Giêsu.
(Phải chăng thánh Gioan bấy giờ đã “cùng chịu một phép rửa với Thày”, chịu đóng đanh với Thày, mà ngài đã là vị tử đạo đầu tiên, tử đạo bằng lửa, tử đạo trong tinh thần, thay vì tử đạo bằng máu, tử đạo ở ngoài thân xác như các tông đồ khác sau này. Thật ra, theo hạnh tích của ngài, có lần ngài đã bị bắt bỏ vào vạc dầu sôi, nhưng ngài đã được thiên thần cứu sống, rồi cuối cùng ngài đã chết già tại gò Patmô).
Thánh Gioan, bởi thế, đã không phải là “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu” (Gioan 20:2’21:7,20) hay sao, tức người môn đệ được gần Chúa Giêsu nhất, thương Chúa Giêsu nhất và hiểu Chúa Giêsu nhất. Do đó, không lạ gì, với mối thâm tình với Chúa Giêsu như thế, ngài la môn đệ đầu tiên, (sau thanh nữ Mađalena là người được Chúa dùng để đem Tin Mừng Phục Sinh cho chính các môn đệ), tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại (xem Gioan 20:8), và cũng là người môn đệ đầu tiên nhận ra Thày mình trên biển hồ Tibêria (xem Gioan 21:7).
Bằng chứng hiển nhiên hơn nữa về mối thân tình sâu nhiệm Thày trò này là cuốn Khải Huyền, nhất là cuốn Phúc Âm của “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu”. Cuốn Phúc Âm như “phượng hoàng bay bổng” (Khải Huyền 4:7) này, (so với bộ Phúc Âm Nhất Lãm đặt trọng tâm ở nhân tính của Chúa Kitô), là nguồn tài liệu Thanh Kinh duy nhất mạc khải trọn vẹn Thiên Tính của Chúa Kitô:
“Lời ở nơi Thiên Chúa ngay từ ban đầu” (Gioan 1:1),
“nhờ Người mà mọi sự được thành nên” (Gioan 1:3),
“trong Người chúng được sự sống, sự sống soi sáng cho con người” (Gioan 1:4).
“Ánh Sáng chiếu trong tăm tối (Gioan 1:5),
“Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta… đầy ân sủng và chân lý” (Gioan 1:14).
Tóm lại, qua câu chuyện hai anh em Giacôbê và Gioan xin ngồi bên phải và bên trái Chúa Giêsu, “Trở nên như trẻ nhỏ” là trở nên đồng lao cộng khổ với Chúa Giêsu, bằng cách chấp nhận tất cả mọi đau khổ mà kiên trung theo Người cho đến cùng. Chúng ta hãy nghe Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu Chúa Giêsu
“Linh hồn phải chịu hủy diệt dưới những đòn vọt của Cha. Bấy giờ Cha mới đưa nó vào con đường thánh thiện và Cha kết hợp mọi năng lực của nó vào quyền năng của Cha”. (Một trong những lời khai mở của Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu Chúa Giêsu trước tháng 8/1965).
“Những ai hiến thân cho tình yêu thì nhận chịu những đòi hỏi của tình yêu. Họ ôm lấy thánh giá Cha với lòng sùng mộ. Âu yếm chấp nhận sự đau khổ, hỡi con, ấy là con đường vương giả mau chóng dẫn đến đỉnh trọn lành. Chịu đau khổ là con giống Cha. Con đang đau khổ đó, hỡi con nhỏ đáng thương của Cha. Nhưng Cha, Cha còn đau khổ hơn con. Con chỉ còn sống cho tình yêu. Những gì không phải là tình yêu thì chỉ là đau khổ cho con”. (21/6/1966)
“Tất cả những gì làm nên giá trị một vị thánh, đó là tuân theo thánh ý của Cha. Đó là tình yêu đem ra đón nhận thánh gia. Đó còn là khát vọng đón nhận thánh giá. Muốn tìm bình an cho linh hồn phải vào trường học “tình yêu”, chứ không phải ở hưởng thụ tình yêu đâu con… Cha không thể miễn cho con vì yêu Cha mà khỏi chịu đau khổ. (19/4/1973)
“Người mạnh thì có thánh giá nặng, người yếu lại có thánh giá nhẹ hơn. Nhưng nếu được đón nhận với tình yêu, thì thánh giá nào cũng có giá trị như nhau để cứu rỗi các linh hồn. Ơn cứu chuộc đã được thực hiện bằng thánh giá. Thế giới sẽ được cứu rỗi bằng thánh giá. Cha dìu dắt các linh hồn đã được tuyển chọn, qua những con đường bí nhiệm mà tất cả đều gặp nhau ở chóp đỉnh. Nhiều linh hồn ẩn dật mà tạo được những kỳ công ân sủng và khoan hậu cho tha nhân”. (31/5/1967)
“Hỡi con nhỏ, con hãy hiểu cho kỹ tình yêu của Cha thì điên dại, Thiên Chúa là sức sống của hồn con vì tình yêu được đổ đầy tràn trong nó. Tình yêu hoạt động không ngừng: kích thích hồn nhỏ, làm nó khổ đau, nâng nó lên, xoa dịu nó, làm nó vui cười cũng như sa lệ… Con đừng sợ chi, Cha là sức mạnh của con, và cũng là sự yếu đuối của con. Là sức mạnh để chiến thắng, là sự yếu đuối để yêu thương” (28/10/1974)
Chúa Nhật tuần này, 19/10/2003, cũng là Ngày Chúa Nhật Truyền Giáo của Giáo Hội, bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này dù không phải là bài Phúc Âm về việc truyền giáo, nhưng vì chính Lời Chúa tự bản chất là truyền thông, là Tin Mừng Sự Sống mà ở bất cứ câu nào hay đoạn nào của Phúc Âm chúng ta vẫn có thể áp dụng vào việc truyền giáo hoặc có tính cách truyền giáo. Chẳng hạn bài Phúc Âm Chúa Nhật 29 Thường Niên Năm B tuần này có tính cách hay ý nghĩa truyền giáo ở chỗ ai gieo trong đau thương sẽ gặt trong vui sướng, tức là muốn được ngồi bên tả bên hữu Thày là Đấng đến để phục vụ, để hiến mạng sống mình, thì thành phần môn đệ chứng nhân đích thực của Người cũng phải cùng Người uống cạn chén khổ nạn, và cũng chỉ có ai dám uống chén khổ nạn với Người mới được.
37. Con Người đến để phục vụ – Noel Quesson.
Martin Caphu là người Bangla thuộc Cameroun Phi Châu. Cha anh là quốc vương Bangla. Từ thiếu niên, anh đã quen với phong trào Tổ Ấm, một tổ chức Công giáo làm việc xã hội ở Phi châu. Thấy các thành viên Tổ Ấm xả thân giúp đỡ người đồng loại, anh Caphu rất cảm phục, và tới năm 1963, vào lúc mười bảy tuổi, anh xin trở lại Công giáo. Sau khi tốt nghiệp Trung học, anh được Gia đình gởi về Rôma học ngành điện tử. Đậu tiến sĩ điện tử xong, anh Caphu gia nhập phong trào Tổ Ấm.
Năm 1980, cha anh qua đời, và theo chúc thư, ông đã chọn Caphu kế vị ngai vàng. Caphu vội vã trở về Bangla, anh họp cả sắc tộc lại và xin mọi người đề cử người khác làm vua. Còn anh, anh muốn dành cả cuộc sống làm việc xã hội theo tinh thần Kitô giáo. Và mọi người đã đồng ý.
Trong cuộc sống trần gian, ai cũng muốn có danh vọng, và người ta thường xếp tiền tài danh vọng như một cặp bài trùng. Caphu đã từ chối ngai vàng để phục vụ Chúa đắc lực hơn. Còn Giacôbê và Gioan, hai ông lại tới xin Chúa cho một địa vị trong Nước Chúa, các ông hiểu đây là nước trần gian mà các ông nghĩ Chúa sắp thiết lập.
Nhân dịp này Chúa Giêsu cắt nghĩa cho các ông hiểu thêm về công việc của Người. Người là Chúa Cứu Thế, Đấng Cứu chuộc trần gian bằng đau khổ, bằng thập giá chứ không phải bằng một hoạt động chính trị, Chúa buồn rầu trách nhẹ các ông. Các con chẳng biết mình xin cái gì! Nhưng Chúa thấy các ông chân tình và nồng nhiệt, nên Chúa cũng hé mở cho các ông một vài nét về tương lai: Các con sẽ uống chén đắng Ta uống, và đắm mình trong phép rửa bằng máu như Ta. Còn việc ngồi bền tả hay bên hữu Ta thì lại là chuyện khác. Những lời này làm hai tông đồ hoang mang, nhưng về sau các ông sẽ hiểu và coi đó là một động cơ cho niềm tin trong hoạt động rao giảng Tin Mừng.
Đọc lại câu chuyện hai tông đồ, có lẽ chúng ta mỉm cười. Nhưng trong cuộc đời Kitô hữu, nhiều khi chúng ta cũng chỉ nhằm lợi ích, địa vị cho mình, chúng ta nghĩ tới một bảo đảm cho cuộc sống hiện tại và mai sau. Đáng lẽ chúng ta phải đặt Chúa làm trung tâm đời sống, chúng ta muốn thực thi lòng tôn sùng, muốn dâng lời cảm tạ ngợi khen và phó thác tin tưởng vào Chúa. Còn tương lai của ta hoàn toàn do Chúa xếp định. Đó mới là tâm tình của người con thảo sống bên Cha hiền.
Lời thỉnh cầu của Giacôbê và Gioan đã làm các tông đồ khác khó chịu, vì tất cả các ông đều cùng tâm trạng như nhau, dù chưa dám xin Chúa. Cho tới lúc đó chưa ai hiểu được tư tưởng của Chúa. Chúa đã nói về cuộc khổ nạn của Người tới ba lần (Mc 10, 32-34) với những lời lẽ rõ rệt: Con Người sẽ bị bắt nộp, sẽ bị xử tử, bị chế giễu, ngừơi ta khạc nhổ vào mặt, đánh đòn và giết chết… Trong lúc Chúa Giêsu tự chọn chỗ rốt hết, thì các môn đệ lại mơ màng danh vọng, lại nghĩ tới địa vị cao sang. Một lần nữa Chúa nói lại chủ trương của Chúa trong tổ chức Người. Khác hẳn mọi tổ chức trần gian, ở đây người nào muốn lãnh đạo phải là tôi tớ, ai muốn đứng đầu phải trở thành nô lệ cho mọi người. “Vì Con Người không đến để cho người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn dân”. Đó là căn bản Hiến pháp của Giáo hội Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết noi gương Chúa, không màng tới địa vị cho mình, nhưng luôn dấn thân phục vụ anh em, như Chúa đã đến phục vụ và hy sinh cả mạng sống làm giá cứu chuộc chúng con.
38. Phục vụ.
Con Người đến để phục vụ.
Nhìn vào cuộc đời Chúa Giêsu, chúng ta thấy chính Ngài đã thực hiện lời giảng dạy của mình.
Thực vậy, với tinh thần phục vụ, Ngài đã xuống thế làm người, để giải thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ của tội lỗi. Với tinh thần phục vụ, Ngài đã thực hiện những phép lạ để xoa dịu nỗi đớn đau của những người mà Ngài có dịp tiếp xúc. Với tinh thần phục vụ, Ngài đã chấp nhận cái chết trên thập giá để cứu độ chúng ta khỏi án phạt đời đời.
Đồng thời, Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài thực hiện tinh thần phục vụ trong đời sống thường ngày. Ngài phán:
– Ai muốn làm lớn thì hãy trở nên rốt hết và làm tôi tớ cho mọi người.
Trong bữa tiệc ly vào buổi chiều ngày thứ năm tuần thánh, Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ để dạy cho các ông bài học khiêm nhường và phục vụ:
– Nếu Ta là Thày và là Chúa của các con, mà còn quỳ xuống rửa chân cho các con, thì các con cũng phải quỳ xuống mà rửa chân cho nhau.
Trải qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người đã thực hiện lời khuyên trên đây của Chúa Giêsu.
Phanxicô d’Assie, mặc dù thuộc về gia đình quyền quý và giàu sang, nhưng đã từ bỏ tất cả, để sống khó nghèo, trở nên một người anh em hèn mọn để phục vụ những người khổ đau.
Gần đây, một Kitô hữu Nhật Bản nổi tiếng, tên là Kagawa, cũng đã từ bỏ căn nhà tiện nghi, đến sống trong những khu tồi tàn vùng Tokyo, để chia sẻ chính bản thân và của cải mình cho những ai đang cần đến một sự giúp đỡ. Một tác giả đã viết về ông như sau:
– Ông đã cho đi tất cả quần áo của mình và chỉ mặc trên người chiếc áo thụng đã cũ. Lần kia, mặc dù đang ốm, ông vẫn tiếp tục đi dạy giáo lý dưới cơn mưa, ông lặp đi lặp lại không ngừng: Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có tình yêu thì ở đó có Thiên Chúa. Trong một bức thư, chính ông đã viết như sau: Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất. Ngài hiện diện giữa những kẻ ăn xin, Ngài nằm chung với những bệnh tật. Ngài đứng về phe những người thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp Chúa thì hãy đến thăm nhà tù trước khi đến nhà thờ, đến thăm bệnh viện trước khi tham dự thánh lễ. Hãy giúp đỡ người nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta phải làm gì để sống tinh thần phục vụ một cách thiết thực hơn? Chúng ta phải làm gì để trở thành những Kitô hữu đích thực trong chính gia đình và môi trường làm việc của mình?
Tất cả chúng ta đều có thể làm một điều gì đó, dù rất nhỏ bé và vô nghĩa, khởi đầu là cho những người thân yêu trong gia đình, rồi từ đó mở rộng việc phục vụ ra môi trường rộng lớn hơn. Còn nếu không khởi sự từ gia đình thì chúng ta cũng sẽ chẳng bao giờ khởi sự được ở bất cứ nơi nào khác.
Và để kết luận, chúng ta nên nhớ:
– Mỗi khi chúng ta phục vụ anh em, cho dù bằng những việc làm nhỏ bé và tầm thường nhất, thì đó cũng là chúng ta phục vụ cho chính Chúa vậy.
39. Khôn ngoan.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc hai ông Gioan và Giacôbê muốn ngồi hai bên tả hữu của Chúa Giêsu Kitô. Họ đang nghĩ đến chuyện thăng quan tiến chức. Họ cũng nghĩ rằng mình có khả năng và xứng đáng ngồi ở địa vị cao. Phản ứng của Chúa Giêsu là: “Các con không biết các con xin gì”. Thay vì nói đến vinh quang và sung sướng. Chúa Giêsu nói với họ về việc chia sẻ “chén đắng” và “phép rửa” với Chúa. Chén trong Kinh Thánh là hình ảnh tượng trưng cho những đau khổ lớn lao. Còn phép rửa tượng trưng cho những lo âu, buồn sầu, đau đớn. Đây là những điều đang chờ đón người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.
Khi người môn đệ kia nghe biết thì đâm ra tức tối với hai ông, không phải vì họ khiêm tốn nhưng vì họ cũng muốn những điều tương tự như hai ông. Họ tức giận vì nghĩ rằng họ có đủ tư cách hơn hai ông Gioan và Giacôbê.
Có lẽ mỗi người trong chúng ta cũng bực mình với hai ông Giacôbê và Gioan, vì họ đầy tham vọng và ích kỷ. Nếu chúng ta có thái độ đó, là do chúng ta quên rằng mình cũng đang khiển trách y như họ. Chúng ta cũng đang làm những điều tương tự đối với những bạn đồng nghiệp của mình. Chúng ta cũng muốn vượt lên trên họ, bước lên họ mà đi, dùng họ như bàn đạp để thăng tiến bản thân mình. Chúng ta cũng muốn phục vụ, cũng muốn cho đi thời giờ, cống hiến tài năng và tiền bạc, bao lâu chúng ta có thể thu lại được một điều gì đó.
Rất ít người tự nguyện làm việc cho Giáo hội, bởi vì không được trả lương. Người làm việc phụ thuộc vào sự từ tâm của các giáo dân trong giáo xứ. Nhưng tạ ơn Chúa, vì cũng còn những người muốn chia sẻ tài năng ít ỏi của mình, thời giờ và tiền bạc cho công việc của Giáo hội. Đó là những bậc làm cha mẹ muốn giáo dục con cái theo các giá trị Kitô giáo, những giáo viên khơi dậy nơi học trò của mình lòng khao khát sống cho một lý tưởng cao đẹp, những y tá chăm sóc cho các bệnh nhân, và những người tình nguyện thăm viếng những người tản cư.
Lạy Chúa, xin cho con nhớ Chúa là Thầy, là Chúa nhưng Chúa đã hạ mình xuống để phục vụ tất cả mọi người.
40. Gus và Ruth.
Một người đàn bà tên là Ruth đang đi ra khỏi nhà thờ sau Lễ Chúa Nhật. Bà nhìn thấy một người đàn ông lụ khụ đang gắng sức để mặc chiếc áo lạnh. Bà liền đi lại gần ông già, mỉm cười và giúp ông một tay.
Sau đó, Ruth lại gặp ông già ấy một lần nữa và hai người bắt đầu nói chuyện với nhau. Sau khi hỏi han, Ruth mới biết tên ông già là Gus và nhà ông già ở tiện đường về nhà Ruth nên bà cho ông già quá giang. Lần quá giang đó đã trở nên hằng tuần cho tới hai năm.
Vào một buổi sáng Chúa nhật, Ruth không nhìn thấy Gus đâu hết nên mới vào nhà ông xem. Khi vô thì Ruth thấy ông già Gus đang nằm bệnh gần chết. Ông được đem vô nhà thương ngay.
Một vài ngày sau, Ruth được nhà thương gọi và báo là Gus chỉ còn có thể sống thêm một ngày nữa. Ruth liền hỏi cô y tá: “Vậy cô có gọi cho họ hàng của ông ấy chưa?”
Cô y tá trả lời: “Ông ấy không có họ hàng gì cả. Ông ấy chỉ bảo cô là người thân duy nhất để liên lạc trong trường hợp khẩn cấp.” Nghe như thế, Ruth hết sức ngạc nhiên. “Chẳng lẽ Gus chỉ có một mình?”
Ruth liền đến nhà thương và đến bên cạnh giường ông già gần chết. Gus thở từng hơi rất mạnh và không thể nói được gì hết. Tuy vậy, Gus xem ra vẫn nhận ra Ruth. Gus chỉ biết dùng ánh mắt để đáp lại những lời an ủi và yêu thương của Ruth. Sau đó một vài phút, Gus đã ra đi trong bình an.
Câu truyện trên diễn tả một cách sống động hai chủ đề trong các bài đọc hôm nay, nhất là bài Phúc Âm. Hai chủ đề đó là đau khổ và phục vụ. Đau khổ và phục vụ giống như hai đường sắt của đường rầy xe lửa. Nếu bạn tìm thấy một ở đâu, thì đó bạn cũng tìm thấy cái kia. Hai cái luôn đi song đôi với nhau.
Thứ nhất, sự phục vụ người khác luôn đi với đau khổ. Bạn không thể nào giúp một người khác mà không phải hy sinh một cái gì đó. Chúng ta nhìn thấy điểm này trong câu truyện của Ruth và Gus. Trải qua hai năm, Ruth đã hy sinh để chở Gus về nhà sau lễ. Cho dù đây không phải là hy sinh lớn lao gì, nhưng đó cũng là hy sinh.
Thứ hai, đau khổ và phục vụ đi với nhau, bởi vì một trong những cách đơn giản nhất là chúng ta có thể giúp người khác làm cho gánh nặng đau khổ của họ nhẹ đi.
Chính Chúa Giêsu đã cứu giúp các anh chị em đau khổ của Ngài. Chúng ta hãy nhìn sâu xa hơn làm sao để chúng ta có thể phục vụ những người xung quanh chúng ta, nhất là những người thân trong gia đình, bằng cách là làm cho gánh nặng của họ được nhẹ đi.
Có lẽ điều cản trở lớn nhất để thực thi điều nói trên là tính lãnh đạm với những đau khổ của những người sống chung quanh chúng ta. Chúng ta bắt đầu dùng khả năng để ý tập trung đến những sự cần thiết của người khác hơn là những khó khăn của bản thân.
Trong thời gian ‘Great Depression’ (Đại Tình Thế Suy Nhược) vào năm 1930, các nhân viên chính phủ thường hay đi rảo qua các vùng núi tiểu bang Tennessee để phân phát tiền của cho một số nông phu nghèo để mua thức ăn và những thứ cần thiết.
Khi một nhân viên chính phủ đến một căn nhà lụp xụp nhỏ của một người đàn bà nọ, ông hỏi bà ấy rằng: “Nếu tôi cho bà $200 thì bà sẽ làm gì?” Sau một lúc, bà trả lời: “Tôi sẽ giúp cho những người nghèo ở chung quanh đây.”
Người đàn bà ấy đã tập được cái tính biết để ý quan tâm đến những sự cần thiết của kẻ khác hơn là của chính mình.
“Lạy Chúa từ nhân! Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.”
41. Ai là người lớn nhất?
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng)
Như chúng ta đã biết, vào thời điểm hiện nay tại Hoa Kỳ, người dân của cường quốc này đang chú ý đến cuộc bầu cử tổng thống. Để lấy điểm dân chúng, các chiến dịch vận động tranh cử được các ứng cử tổ chức rầm rộ và quy mô, nhiều điều hứa hẹn được nêu ra qua các cuộc tranh luận…Tuy nhiên nói và làm là hai điều khác nhau. Đôi khi người ta không thực hiện được lời hứa. Có muôn ngàn lý do được nêu ra để thanh minh, nào là những khó khăn khách quan, nào là những hoàn cảnh ngoại cảnh tác động. Điều đáng nói ở đây vẫn là sự thiếu tinh thần trách nhiệm và thiếu tâm. Người ta vẫn nói rằng khoảng cách xa nhất vẫn là từ miệng lưỡi đến trái tim.
Nhân lời đề nghị của hai anh em trai Giacôbê và Gioan nhà Zêbêđê về chỗ ngồi trong nước vinh quang, Đức Giêsu đã cho các môn đệ của mình bài học về tinh thần trách nhiệm phục vụ trong bất kể chỗ đứng nào của mình: “Ai muốn làm lớn thì trở nên người phục vụ. Ai muốn làm đầu thì hầu tất cả mọi người” (Mc10, 43-44).
Đức Giêsu đã thực sự sống điều này trước khi nói ra cho các môn đệ mình. Hành động của Người luôn luôn phù hợp với những gì Người chỉ dạy. Nơi Người không hề có khoảng cách giữa lời nói và thực hành, “vì chưng Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người” (Mc10, 45). Đức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài đã tự hạ mình xuống tận đáy của nhân loại để chia sẻ kiếp phàm nhân với chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, nhằm nâng chúng ta lên địa vị làm con cái yêu dấu của Thiên Chúa.
Với Lời Chúa hôm nay, chúng ta được mời gọi đặt trọng tâm đến ý nghĩa của sự phục vụ hơn là tìm cho mình một chỗ đứng. Đó là điều căn bản để tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Đây cũng là cách thức nhìn nhận sự việc bằng con tim để tránh đi cái nhìn phiến diện bề ngoài.
Mỗi người đều có một chỗ đứng khác nhau để cùng xây dựng một kế hoạch chung trong tổng thể của việc cộng tác vào công trình sáng tạo. Tất cả công sức riêng của mỗi cá thể đều góp vào phần vào thành quả tốt đẹp chung. Cha Mẹ yêu thương con cái và làm hết bổn phận của mình để chúng được lớn lên về mọi phương diện. Người vợ và người mẹ được mời gọi trao hiến đời mình để phục vụ chồng và con. Cũng vậy, người chồng cần dấn thân để trở nên chỗ dựa cho vợ và con mình. Về phần mình, bậc làm con cần phải tôn trọng và vâng phục cha mẹ. Trong gia đình, mỗi thành viên thấy được chỗ đứng của mình để phục vụ người khác. Đó chính là bí quyết của hạnh phúc gia đình.
Trong khi suy niệm Lời Chúa của Chúa Nhật tuần 29 này, chúng ta nhớ đến thánh Phanxicô Khó Khăn, người đã muốn trở nên giống Đức Giêsu và sống sát với tinh thần Tin Mừng của Người. Chúng ta cũng được mời gọi trở nên sứ giả của tình thương và hòa bình:
“Lạy Chúa từ nhân
Xin cho con biết mến yêu
Và phụng sự Chúa trong mọi người
Lạy Chúa xin hãy dùng con
Như khí cụ bình an của Chúa
Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù
Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục
Ðem an hòa vào nơi tranh chấp
Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm
Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan
Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng
Ðể con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm
Ðem niềm vui đến chốn u sầu
Lạy Chúa xin hãy dậy con
Tìm an ủi người hơn được người ủi an
Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết
Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu
Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh
Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân
Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời
Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con
Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí
Ơn an bình”.
42. Làm lớn.
Lắng nghe đoạn Tin Mừng hôm nay, tôi bỗng nhớ tới một vài câu đố, thoạt xem ra thì có vẻ vô lý, nhưng ngẫm nghĩ lời giải đáp thì lại thấy có lý.
Câu đố thứ nhất: cái gì càng kéo thì lại càng ngắn. Tôi xin thưa đó là điếu thuốc lá. Câu đố thứ hai: cái gì càng to lại càng bé. Tôi xin thưa đó là con cua.
Từ câu đố thứ hai này, tôi muốn đi vào tinh thần của lời Chúa:
– Ai muốn làm lớn thì phải trở nên kẻ hầu hạ. Còn ai muốn làm đầu, thì phải trở nên đầy tớ.
Như vậy có nghĩa là càng làm to thì càng phải sống bé nhỏ khiên tốn trong tinh thần phục vụ.
Suy đi nghĩ lại, tôi thấy lời Chúa hôm nay quả thật rất đúng cho mọi mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thời buổi nào cũng vậy, ngày xưa cũng như ngày nay. Thực vậy, bất kỳ chế độ nào cũng hô hào lấy dân làm gốc. Người công an cảnh sát là bạn của dân. Còn công chức cán bộ là nô bộc, là đày tớ của dân. Nhưng đó mới chỉ là những khẩu hiệu, việc thực hiện mới chỉ được phần nào, nếu không muốn nói là nhiều khi đã đi ngược lại với những lời hô hào kể trên.
Ngày xưa, ông vua làm đầu trong một nước. Vua phải tôn trọng dân, vì ý dân là ý trời, như người đời vốn thường bảo:
– Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Nghĩa là dân đáng quí nhất, tiếp đến là đất nước, rồi sau mới tới nhà vua.
Thế nhưng, nhiều ông vua đã không tôn trọng nguyên tắc ấy, cai trị dân như tên hôn quân bạo chúa, dùng pháp luật và quyền lực để áp chế dân, đúng như Chúa đã nói.
Còn ngày nay, những cán bộ và công nhân viên cấp lớn, cũng vốn tự xưng mình là bạn dân, là đầy tớ của dân, thế nhưng lại quan liêu hống hách, khiến cho người dân thấp cổ bé miệng phải khốn đốn khổ sở.
Nhiều kẻ vơ vét về cho đầy túi bằng tham nhũng hối lộ, theo kiểu làm quan để được vinh thân phì gia. Nhiều kẻ lợi dụng chức quyền để bênh vực hay đề bạt đàn em, gương cao ô dù theo kiểu: một người làm quan cả họ được nhờ.
Vì thế, trong những ngày gần đây báo Tuổi Trẻ cũng như nhiều báo khác đã có những bức biếm họa, những bài phiếm luận đượm mùi cay đắng, nói lên tình trạng trộn đảo lộn khác thường: đầy tớ thì đi xe con còn ông chủ thì đi xe lớn, đầy tớ thì quát tháo còn ông chủ thì đứng mà run…
Vì thế, cần phải đổi mới cách nghĩ và cách sống, nhất là cần phải bám sát vào tinh thần của lời Chúa. Càng làm lớn thì càng phải tỏ ra khiêm nhường và bé nhỏ trong tinh thần phục vụ. Chúa Giêsu đã nói và đã làm như vậy. Là Thiên Chúa, Ngài đã trở nên một người như mọi người và hơn thế nữa, Ngài còn vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta.
Trong ngày thứ năm tuần thánh, để nêu gương khiêm nhường và phục vụ, Ngài đã quì xồng rửa chân cho các môn đệ, như lời Ngài đã phán:
– Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người… Các con gọi Ta là Thày và là Chúa thì phải lắm. Nếu Ta là Thày và là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Trải qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người đã thực thi lời Chúa, đã sống khiêm nhường và phục vụ anh em. Ngay cả đến Đức Thánh Cha, trong mọi văn thư chính thức, bao giờ cũng tự xưng là “Servus servorum” nghĩa là đầy tớ của các đầy tớ.
Chúng ta cũng vậy, dù nắm giữ chức vụ nào trong xã hội cũng như trong tôn giáo, phần đạo cũng như phần đời, chúng ta hãy sống khiêm nhường và phục vụ. Bởi vì như lời Chúa đã xác quyết:
– Ai muốn làm lớn thì phải trở nên kẻ hầu hạ. Còn ai muốn làm đầu thì phải trở nên đầy tớ.
Nghĩa là càng to, thì lại càng phải nhỏ.
43. Khiêm nhường phục vụ.
Trên đường đi lên Giêrusalem, một lần nữa, đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu lại loan báo cho các môn đệ về những đau khổ và cái chết Ngài phải chịu ở Giêrusalem. Lần này thánh Marcô không kể lại phản ứng của các môn đệ như thế nào, nhưng câu chuyện kể ra liền sau đó đã nói lên một cách sâu sắc rằng các ông vẫn chưa hiểu gì. Trái lại, các ông tưởng đâu Chúa sẽ ra đi làm vua thống trị, thì họ sẽ được những ghế cao trong nước Chúa, bởi vì trước đây vài tuần Chúa đã hứa là họ sẽ được ngồi trên ngai xét xử mười hai chi tộc Ítraen. Nhân câu chuyện này, Chúa Giêsu lại giảng thêm về ý nghĩa cái chết của Ngài và về cách thức làm môn đệ của Ngài.
Khởi đầu câu chuyện là việc hai anh ruột Giacôbê và Gioan đến xin Chúa Giêsu cho họ được ngồi hai bên tả hữu Chúa trong nước Chúa. Tức là hai ông muốn xin được địa vị cao trong nước Chúa khi Ngài được làm vua dân Do thái. Theo bài Tin Mừng thánh Marcô hôm nay thì chính hai môn đệ Giacôbê và Gioan xin Chúa Giêsu. Còn Tin Mừng thánh Matthêu lại cho biết: không phải hai môn đệ thỉnh nguyện mà là bà mẹ của hai ông đã đến thỉnh cầu cho hai con bà. Bà mẹ nào chẳng thế! Ai lại chẳng muốn cho con mình được chỗ tốt nhất, được vinh dự. Chúa Giêsu quá biết tâm lý tự nhiên của mỗi người: muốn được làm lớn, được vinh dự, được làm thủ lãnh sai bảo người khác. Chúa đã sửa bảo họ một cách tế nhị.
Trước hết, Chúa hỏi họ: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” Hai ông vui vẻ và mau mắn trả lời ngay: “Thưa được”. Chắc chắn lúc ấy hai ông chưa ý thức và chưa hiểu rõ thế nào là uống chén và thế nào là chịu phép rửa. Bởi vì ngay những tư tưởng về nước trời và vinh quang nước trời hai ông cũng chưa hiểu đúng, nên mới xin Chúa một cách đơn sơ được ngồi hai bên tả hữu Chúa.
Vậy “chén” và “phép rửa” Chúa Giêsu nói ở đây là gì? Trong Cựu ước, “chén” đôi khi cũng dùng để chỉ phúc thái ơn lộc, nhưng qua thời các ngôn sứ, “chén” thường được dùng để chỉ đau khổ, bất hạnh. Trong vườn cây dầu, Chúa Giêsu đã cầu nguyện: xin Chúa Cha cất chén đau khổ, nhưng đừng theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi. Còn “phép rửa” ở đây là cái chết đau thương của Ngài, đây là phép rửa bằng máu, cũng có nghĩa là đau khổ. Nói chung, điều kiện mà Chúa đòi hỏi hai anh em Giacôbê và Gioan là có sẵn sàng chịu đau khổ với Ngài không? Lúc ấy hai ông thưa được dù chưa hiểu, nhưng sự thật sau này hai ông đã uống chén và chịu phép rửa như đã cam kết với Chúa. Vào năm 44, thánh Giacôbê đã chịu tử đạo dưới thời vua A-gờ-ríp-pa đệ nhất, và là thánh tông đồ chịu tử đạo đầu tiên. Còn thánh Gioan, nếu không có một phép lạ thì cũng đã chết tử đạo khi bị bỏ vào vạc dầu sôi. Nhưng dù sao ngài cũng chết anh hùng sau chuỗi ngày bị lưu đày ở đảo Pát-mô.
Ngoài ra, nhân dịp này Chúa còn dạy các môn đệ một bài học sâu xa về lòng khiêm nhường phục vụ và thắng vượt lòng ghen tị. Sở dĩ các môn đệ khác bực mình với Giacôbê và Gioan bởi vì họ cũng có lòng ghen tị không muốn cho hai anh em kia được phần hơn. Các môn đệ suy nghĩ về nước Chúa Giêsu ở trần gian này. Nhưng Chúa lại suy nghĩ một cách khác. Nước Ngài không thuộc về thế gian, nơi đó người có quyền áp bức người yếu thế, người giàu sang cai trị người nghèo đói. Nước Trời ngay trong lòng mỗi người, là Giáo Hội của Chúa, nơi đó không dựa trên quyền bính nhưng dựa trên tình thương. Đó là nơi không có hận thù, ghen tị, tranh chấp.
Trong Giáo Hội cũng như trong bất cứ một tập thể nào, thường có một người đứng đầu để điều khiển những người khác và tổ chức sinh hoạt, không thể nào có cảnh “cá đối bằng đầu” mà mọi việc được xuôi lọt, vì sẽ không ai muốn tùng phục ai. Điều quan trọng mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh: không phải là hủy bỏ chức vụ của những người đứng đầu, chức vụ của những người lãnh đạo, nhưng đừng dùng địa vị và quyền bính của mình để áp bức người khác, lên mặt ta đây tự cao tự đại. Trái lại, phải biết phục vụ. Lòng kiêu ngạo muốn tranh đấu để làm đầu mọi người vốn là điều không tốt, nhưng lòng ghen tị cũng không tốt đẹp gì. Hai tật xấu này vốn là những khuyết điểm đã từng làm cản trở sự phát triển đời sống con người về mọi phương diện. Nên Chúa Giêsu bảo chúng ta phải loại bỏ hai tật xấu ấy.
Xin Chúa cho chúng ta luôn có tham vọng tốt để phát triển khả năng của chúng ta và sử dụng khả năng đó để phục vụ mọi người. Đồng thời xin Chúa cho chúng ta luôn vui vẻ với mọi người, không ghen tị, để chúng ta luôn được mọi người yêu mến, và nhất là Chúa Giêsu cũng sẽ hài lòng về chúng ta.
44. Phục vụ.
Bài Tin Mừng bàn về một chủ đề quan trọng – sự thực thi quyền bính. Nó liên can đến tất cả chúng ta. Nhiều người đã có kinh nghiệm xấu về quyền bính.
Người ta tìm kiếm quyền bính vì những lý do khác nhau. Một số người thích có quyền lực đi chung với quyền bính: nó làm cho người ta cảm thấy quan trọng. Những người khác thích uy thế mà nó đem lại. Những người khác nữa thích được trả lương cao. Tất cả những lý do ấy đều có một điểm chung – quyền bính được xem như một cơ hội để thăng tiến bản thân.
Jean Vanier phân biệt hai loại quyền bính: một quyền bính áp đặt, thống trị và điều khiển; và một quyền bính đồng hành, lắng nghe, giải phóng, phân quyền, làm cho người dân tự tin và kêu gọi họ ý thức về những trách nhiệm của mình.
Còn có một loại quyền bính thứ ba thinh lặng, yêu thương và ẩn giấu – quyền bính yêu thương nhưng không dùng quyền lực, xây dựng lòng tín thác và đôi khi chờ đợi đêm ngày trong nỗi lo âu. Cha mẹ đôi khi phải chờ đợi suốt đêm trường mong sao đứa con mình lầm đường lạc lối trở về.
Một vài người có tham vọng quyền lực, và sử dụng quyền bính của họ để thống trị những người khác. Đó là một sự lạm dụng quyền bính. Tham vọng quyền lực không mọc rễ trong sức mạnh nhưng trong sự yếu đuối. Chỉ có kẻ yếu mới đo lường giá trị của mình bằng những con người mà họ có thể thống trị. Thực hành quyền bính theo cách này sẽ làm cho người có quyền bị cô lập và lúc đó quyền bính chỉ đem lại điều xấu nhất cho mọi người.
Khi Giacôbê và Gioan xin Đức Giêsu cho họ có chỗ cao nhất trong vương quốc của Người thì họ chỉ nghĩ về mình. Họ không nghĩ đến lòng ganh tị và sự bực bội to lớn mà họ gây ra cho các bạn mình. Rõ ràng họ đã nghĩ đến vương quốc của Người theo kiểu mẫu của các nước ở trần gian trong đó những người ở địa vị cao phải được hưởng danh dự, vinh quang và quyền lực. Nhưng Đức Giêsu nói với họ điều ngược lại. Trong vương quốc của Người, ai lớn nhất phải sẵn sàng phục vụ người khác thay vì chính bản thân mình.
Trước tiên, Đức Giêsu phác họa tiêu chuẩn mà người ta chấp nhận về chính quyền dân sự: sự thống trị với quyền lực của các thủ lãnh trên những thần dân của họ. Nhưng trong cộng đoàn của Người thì không phải như thế. Người coi quyền bính như một cơ hội để phục vụ. Và lúc nào cũng thế, Người lấy chính mình làm gương. Người không làm một chúa tể hống hách trên dân. Người kêu gọi, mời gọi để họ đáp lại. Người muốn hướng dẫn nhưng không muốn điều khiển. Quyền bính của Người phản ánh quyền bính của Thiên Chúa. Thiên Chúa dùng quyền lực của Người không phải để điều khiển mà để cho phép.
Đó là cách thi hành quyền bính mà Người muốn có trong cộng đoàn của Người. Quyền bính không nên ban cho những người tìm kiếm nó, nhưng chỉ ban cho những người đã chứng tỏ mình sẵn sàng để phục vụ. Những người được giao cho quyền bính trên anh em mình phải cẩn trọng, công bằng, nhân hậu, khôn ngoan, khoan dung và quảng đại.
Để phục vụ, người ta phải sẵn sàng uống chén mà Đức Giêsu đã uống – chén hy sinh và đau khổ. Người ta có thể phục vụ ở bất cứ địa vị nào. Tuy nhiên, những người ở địa vị có quyền bính có vị trí tốt nhất để phục vụ. Chúng ta đang khám phá lại tinh thần này trong Giáo Hội và đây là một điều rất tốt. Quyền bính được sử dụng để phục vụ của người Kitô hữu có thể trở thành một sức mạnh kỳ diệu cho điều thiện hảo.
45. Đảo ngược.
Trong bữa Tiệc ly, Đức Giêsu đã rửa chân cho các tông đồ. Người bắt các tông đồ phải nhớ lại một bài học mà Người đã dạy họ trước đó, tức là bài học quyền bính đối với họ là một hình thức của sự phục vụ. Thế nên trong tâm trí các tông đồ không còn chút mơ hồ, nghi hoặc về những lời Đức Giêsu muốn nói: “Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”.
Ngày nay, thường có một hố sâu ngăn cách giữa những người cai trị và những người bị cai trị. Đặc biệt một số tổn hại là do những điều sau đây. Những người ở địa vị thấp cảm thấy không được những người ở địa vị cao đánh giá đúng. Họ thấy những người này xa cách và coi thường họ. Những người đã cố sức leo lên địa vị cao rất dễ quên lúc mình còn dưới “đất đen” thì sự việc ra sao. Nhớ lại chính là hiểu biết. Cha mẹ tốt nhớ lại sự việc như thế nào khi mình còn nhỏ như con mình bây giờ.
Giá mà những người quyền cao chức trọng theo được tấm gương của Đức Giêsu đã đưa ra trong Bữa Tiệc Ly. Hãy để cho anh cảnh sát bị bắt; linh mục xuống ngồi ở hàng ghế dành cho giáo dân; ông thầy giáo xuống ngồi ở bàn học trò, đốc công xuống con mương; cai ngục bị nhốt vào xà lim; bác sĩ bị bệnh nặng; quan tòa ngồi vào ghế bị cáo; ông tướng phải ra tiền tuyến; người có công việc ổn định phải đứng xếp hàng nhận trợ cấp… hẳn chúng ta sẽ có sự quan tâm và nhạy cảm nhiều hơn trong việc thực thi quyền bính?
Dĩ nhiên trường hợp ngược lại cũng xảy ra – những người cấp trên không được người cấp dưới hiểu, và những lời phê phán khó nghe đôi khi được truyền cho nhau nghe.
Một ngày nọ một đồng hồ đeo tay đi ngang qua quảng trường tháp đúng lúc đồng hồ lớn trên tháp chuông gõ mười hai giờ trưa. Chiếc đồng hồ đeo tay nhìn lên đồng hồ lớn và nói: “Có phải ông tưởng rằng mình tốt hơn chúng tôi sao? Ông hãy nhìn lại chính mình xem. Khuôn mặt ông thì thường quá, tay ông thì vụng về, lóng ngóng, còn giọng nói của ông thì thô lỗ?”
Nhưng đồng hồ lớn bình tĩnh đáp lại: “Chú em nhỏ của tôi hãy lên đây và anh sẽ chỉ cho chú em cái này”.
Đồng hồ đeo tay leo lên những cầu thang dài và sau cùng đứng bên cạnh đồng hồ lớn. Phong cảnh nhìn từ nơi này đẹp làm sao! Nhưng chẳng mấy chốc, nó nhận thấy ngất ngưởng trên này thật nguy hiểm và cũng luôn cô độc.
“Này chú em, có một người ở dưới kia muốn biết giờ. Tại sao chú em không nói cho người đó biết?”
“Ôi, tôi không thể nào làm cho người đó nghe và thấy tôi từ chỗ này. Đồng hồ đeo tay đáp.
“Thế thì chú em không thể nói cho người đó biết”, đồng hồ lớn đáp: “Nhưng tôi có thể làm được. Mỗi người chúng ta có một việc phải làm. Việc tôi làm được thì chú em không thể, việc chú em làm được thì tôi không làm được. Vì thế, chúng ta không nên phê phán lẫn nhau. Trái lại, mỗi người hãy theo cách của mình và từ vị trí của mình để nói cho người ta biết thời giờ. Bằng cách đó, chúng ta không những bình đẳng mà còn là anh em của nhau”.
Đức Giêsu phá bỏ khoảng cách giữa ông chủ và tôi tớ. Trong Người hai bên đã trở nên một.
46. Đắng cay.
Một trong những hình ảnh mà Kinh Thánh dùng để chỉ đời sống là cái chén. Cũng giống như một cái chén có thể đựng một thứ đồ uống vừa đắng vừa ngọt, cuộc đời của mỗi người chúng ta có thể nói được là sự pha trộn giữa ngọt ngào và đắng cay. Đây là một hình ảnh phong phú và mạnh mẽ.
Nếu chén có thể hiểu như cả một cuộc đời thì nó cũng có thể hiểu như một phần cuộc đời. Vậy thì, có những lúc chén đời sống đầy những điều đắng cay, đắng cay đến nỗi chúng ta không muốn uống hoặc cảm thấy không thể nào uống được. Nhưng có những lúc khác, chén ấy tràn đầy sự ngọt ngào. Có lúc chúng ta không có đủ. Và còn những lúc khác, chén ấy có thể nhạt nhẽo và vô vị. Sau cùng, có những lúc, chén của đời mình trống rỗng.
Giacôbê và Gioan đến cùng Đức Giêsu với một đòi hỏi rất ích kỷ. Họ đòi được một người ngồi bên tay phải và người kia ngồi bên tay trái Đức Giêsu trong nước trời. Rõ ràng họ nghĩ vương quốc của Đức Giêsu cũng theo kiểu mẫu của các nước ở trần gian. Người ở địa vị cao sẽ được hưởng danh dự, vinh quang và quyền lực.
Đức Giêsu đáp lại bằng một câu hỏi: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” Họ liền đáp lại: “Thưa được”. Bởi vì họ nghĩ rằng đó là một chén rất ngọt ngào.
Nhưng điều mà Đức Giêsu thật sự muốn hỏi hai môn đệ là: “Các anh có sẵn sàng đi qua những đau khổ mà Thầy sắp trải qua không?”
Uống chén đau khổ và hy sinh không phải là việc dễ dàng. Dĩ nhiên khi giờ đã đến để Đức Giêsu phải uống chén đó, Người đã chùn bước. Ba lần Người xin Chúa Cha cất chén ấy khỏi tay Người: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”, và Người đã uống chén đó.
Các tông đồ lúc đó không biết chén của Chúa sẽ là chén rất đắng cay. Họ cũng không biết sự yếu đuối của mình. Thế nên khi giờ của Chúa đến, họ không cùng uống chén ấy với Người mà để Người uống chén đắng cay ấy một mình.
Chúng ta không biết trước chén đời sống nào được đưa cho chúng ta. Chúng ta khám phá dần dần khi chúng ta tiến bước. Đức Giêsu, Đấng vô tội đã chọn uống chén rất đắng cay. Nhưng như chúng ta đã thấy. Người không thấy việc đó dễ dàng. Thế nhưng Người đã uống cạn chén đó và làm thế vì yêu thương chúng ta (sự cần thiết bi thảm cũng thế – hãy nghĩ đến những viên thuốc đắng mà người ta phải uống)
Dù Đức Giêsu vô tội, Người đã cảm nghiệm sự yếu đuối và cám dỗ mà chúng ta cảm nghiệm. Người biết sự yếu đuối của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải đến gần Người với lòng trông cậy, vì biết rằng Người có thể và sẽ giúp đỡ chúng ta.
Nếu chúng ta thấy chén đời sống cay đắng lạ lùng, thì chúng ta không cần phải cho rằng nó ngọt ngào hoặc nghĩ rằng chúng ta uống nó bởi sức mạnh của riêng mình. Không giống như hai môn đệ Giacôbê và Gioan, chúng ta không nên sợ hãi hay xấu hổ mà nói rằng: “Không, Lạy Chúa, con không thể uống và không muốn uống. Nhưng nếu con phải uống thì với sự giúp đỡ của Chúa con sẽ uống được”.
Uống chén đời sống, đặc biệt chén khó khăn được làm bởi một cuộc đời hy sinh và phục vụ người khác, chính là đi theo Đức Kitô. Nhưng những ai chia sẻ với Người chén đắng cay của thập giá Người thì cũng sẽ chia sẻ với Người vinh quang phục sinh của Người.
47. Khiêm tốn phục vụ – Lm Jude Siciliano.
Tôi viết bài suy niệm này, khi đang rao giảng ở vịnh San Francisco, bang California. Hồi này là cuối tháng Chín. Tiểu bang đang vào mùa tranh cử. Không khí hùng biện thật sôi nổi. Người ta vận động truất phế thống đốc đương nhiệm và tranh nhau cái ghế của ông. Địa vị chỉ có một mà người tranh cử lại quá nhiều, cho nên cuộc ganh đua thật ráo riết. Thêm vào đó, chức vị thống đốc tiểu bang là cơ hội tốt để hướng tới những tham vọng chính trị khác, kể cả chức tổng thống hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Ngoài ra, bây giờ cũng là cuối mùa bóng chày (Baseball). Các đội mạnh cũng đang quyết tâm đoạt giải vô địch, thực tế đội San Francisco hay Oakland đang thư hùng những trận đấu cuối cùng, thành thử chỗ nào cũng nhan nhản các động viên, chính trị và thể thao. Đầu mùa đội San Francisco Forty Niners đã chịu một vài thất bại. Nếu như không thắng phen này thì quả là đại hoạ! Chỉ có mưu kế chui xuống đất để tránh xấu hổ cùng bàn dân thiên hạ! Mọi người đều muốn đội “ruột” của mình thắng, bởi lúc ấy chúng ta cùng “thắng” với họ. Chẳng ai dại liên kết với kẻ thất bại. Ông bầu Vince Lombardi một lần đã nói: “thắng là điều duy nhất chúng tôi nhắm tới.”
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hai mươi chín này, các môn đệ Chúa Giêsu cũng khao khát là kẻ chiến thắng, bởi trong quá trình rao giảng họ đã kỳ mục sở thị danh tiếng và quyền năng của Ngài. Họ đã nếm trước vinh quang khi Chúa thực hiện các phép lạ, loại trừ các đối thủ một cách vẻ vang. Nhưng thực ra họ đã nhầm. Bài Phúc Âm cho thấy quan điểm của họ hoàn toàn trái ngược với mạc khải của Chúa về những đau khổ Ngài sắp phải chịu: “Các anh chẳng hiểu biết điều các anh xin! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” Thực tế, bài Tin Mừng nối tiếp ngay sau lời tiên báo thứ ba về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu (Mc 10,32). Nếu để ý, chúng ta thấy Chúa huấn luyện các môn đệ đang trong hành trình lên Giêrusalem. Ngài dạy bảo họ nhiều điều và ngày càng hết thời gian. Các Ngài đã đến ngoại ô thành phố. Vậy mà các môn đệ chẳng tiếp thu được bao nhiêu, vẫn cái não trạng xôi thịt. Nếu như Chúa làm một cuộc kiểm tra cuối học kỳ, chắc chắn họ sẽ thất bại, ăn điểm loại. Có đúng là họ đã trốn học trong những ngày Chúa dạy về từ bỏ mình để có thể theo Ngài. (Mc 8,34). Hoặc những điều kiện để lắng nghe lời Thiên Chúa? Hay những kẻ giàu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao? Hoặc phải trở nên trẻ nhỏ để vào được Nước Hằng Sống?… Khi lắng nghe hai anh em Giacôbê và Gioan yêu cầu, hẳn Chúa Giêsu phải thất vọng ghê gớm! Họ chẳng thấm được chi hết! Tuy nhiên, phần chúng ta thế nào? Suốt đời nghe Chúa rao giảng, mời gọi, có học được gì không? Lương tâm và nếp sống mỗi người trả lời cho câu hỏi!
Cứ như tiến trình bình thường thì tham vọng của cuộc sống là như thế. Các ông Gioan và Giacôbê không thể ra ngoài thông lệ. Họ nhìn về phía trước, lượng định cho mai sau. Khi cho con đi học, vừa bước chân vào cổng trường là chúng ta đã hy vọng tương lai: bằng cấp, công ăn việc làm, địa vị, lương bổng,… Chúng ta muốn chúng thành công trong học hành, để có thể đạt tới các mục tiêu. Chúng phải cắt ngắn các ngày nghỉ hè, cắp sách đi học thêm, bỏ bớt các hoạt động ngoại khoá, các vui chơi giải trí, mùa hè xanh, lửa trại. Phải “cày” ngay từ buổi đầu năm học, thuê mướn gia sư phụ đạo, chạy chọt trường điểm, trường chuyên để đảm bảo việc học hành cho con cái và thoả mãn ước vọng tương lai. Như vậy, chúng ta hiểu được những hy sinh, gian khổ gắn liền với mục tiêu đề ra, khác hẳn các đệ tử ham chơi của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, dễ dãi mà tính đạt danh vọng cao!
Nhưng cũng không thể quá nghiêm khắc với họ được, bởi lẽ trong cuộc sống xã hội cũng như riêng tư của các Ngài, toàn bị các phù phiếm tấn công (như chúng ta phải chịu đựng ngày nay): khao khát quyền lực, giàu sang phú quý, danh vọng, giai cấp. Họ mong đợi một Đấng Messiah, quyền uy mạnh mẽ, lật đổ ách thống trị ngoại bang, thiết lập vương quyền như thời David và dĩ nhiên, họ được chia phần, không khanh tướng thì cũng bộ trưởng nọ kia. Họ sẽ được ăn trên ngồi chốc, sai bảo, cắt cử, trị vì. Giấc mộng thật là đẹp. Hai tông đồ Gioan và Giacôbê chẳng qua can đảm hơn, nói lên được suy nghĩ của mình. Vì thế, họ mới phát ghen khi hai ông dự định dành chỗ nhất, và thẳng thừng nhờ mẹ (chỗ thân thích với Thầy Giêsu) yêu cầu giùm. Đúng là Giacôbê và Gioan ranh mãnh. Chiếc vé vinh quang hai bên tả hữu Chúa Giêsu hai ông tính chiếm đoạt! Trong lúc các môn đệ khác đều ước ao quyền bính, tiếng thơm và địa vị.
Sự thật là chiến thắng cuối cùng sẽ được Thiên Chúa ban cho Đức Kitô và các môn đệ. Nhưng phải thông qua đau khổ và cái chết. Đức Kitô đã mạc khải rõ như vậy. Thầy trò phải trở nên “tôi tớ” phục vụ nhân loại trong ý nghĩa “thí mạng sống để cứu chuộc loài người”. Chắc chắn ý nghĩa này không phải là tham vọng trần tục của các tông đồ, và cũng không nằm trong ý đồ của chúng ta, khi vỗ ngực tự xưng là kẻ theo Chúa. Đức Kitô chẳng muốn xỉ nhục và đau khổ cho chính mình và các môn đệ. Nhưng đó là con đường không thể tránh khỏi khi tuân theo thiên ý Đức Chúa Trời. Đường lối Thiên Chúa trái ngược với những yêu thích xác thịt. Đau khổ của Đức Kitô là hậu quả tất yếu của việc Ngài lựa chọn con đường Thiên Chúa, đồng hoá với những kẻ nghèo hèn, tối tăm và bị loại. Ngài vươn tới những tội nhân, kết bạn với phường bị xã hội và tôn giáo nguyền rủa, tẩy chay. Bởi Ngài luôn đau nỗi đau của những số phận ngoài lề, cho nên bị loài người và dường như cả Thiên Chúa trừng phạt. Cuộc đời của Ngài nhằm mục tiêu duy nhất là phục vụ những ai bị khinh bỉ, dày xéo hoặc bỏ qua. Lòng của Ngài đối với những kẻ nghèo hèn thúc đẩy đến cái chết nhục nhã. Ngài đâu có dấu vết gì là thuộc thành phần thượng lưu, thống trị. Vậy mà luôn luôn đối đầu với giai cấp giàu sang, quyền quý cả đạo lẫn đời. Họ căm phẫn, cay đắng về cách hành xử và rao giảng của Ngài, đến độ nhất trí triệt hạ Ngài. Vậy thì không chi lạ lẫm nếu như hơn hai ngàn năm nay, những kẻ thực sự nhận Ngài làm tôn sư đều bị thế gian, ma quỷ và xác thịt truy lùng và giết hại. Bởi họ cũng như Ngài là cái gai gây nhức nhối thiên hạ: “Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian yêu thích cái gì thuộc về nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian, nên thế gian ghét bỏ anh em.” (Ga 15,19) Đó là những gì Chúa Giêsu tiên báo về số phận của Ngài và của tông đồ, khi các Ngài đang trong hành trình tiến về Giêrusalem.
Nhưng xin nhớ Chúa Giêsu không cưỡng ép ai làm môn đệ Ngài. Ngài chỉ kêu mời và chúng ta hoàn toàn tự nguyện. Tuy nhiên vào giai đoạn này của Phúc Âm Marcô, Chúa có một lời mời gọi khác, quyết liệt hơn nhiều cho những kẻ sẵn sàng bước theo Ngài: “Các anh có uống nổi chén đắng Thầy sắp uống không?” Chả là vì lúc này theo Ngài có nghĩa là hy sinh triệt để cùng Ngài. Ẵm lấy thánh giá, chịu treo lên và chết nhục nhã. Cái chết của một tử tội, mọi người ghê sợ và xa tránh. Khi mới theo, có lẽ các môn đệ chưa nhận ra nội dung này, nhưng bây giờ thì họ được mời gọi chấp nhận, và họ vẫn còn tự do theo hoặc không theo. Đây là thực tế của ơn Ngài kêu gọi, các môn đệ chưa thể nhận ra lúc ban đầu, tuy nhiên điều phải đến đã đến. Hậu quả là đa số chạy trốn, ngoại trừ Gioan và các phụ nữ! Chúng ta cũng đã nói “vâng” với tiếng Chúa mời gọi, liệu có ý thức được đau khổ và hy sinh là một phần của thửa ruộng đã mua? Liệu có bằng lòng đi theo Ngài lên Giêrusalem để chịu chết? Liệu còn sẵn sàng chấp nhận số phận của Ngài trên thập giá? Xem chừng câu trả lời rất khó. Không kể các linh hồn thật sự can đảm. Con số này xưa nay hiếm!
Bởi lẽ, đa phần nhân loại đều tìm kiếm vẻ vang. Là con cháu dòng giống xây tháp Babel, luôn luôn có khuynh hướng nhìn lên cao, ngưỡng mộ những thành công rực rỡ, những công trình “vĩ đại”. Nhanh hơn, cao hơn và xa hơn, là khẩu hiệu của các cuộc đua Olympic, phần nào nó nói lên tâm lý Babel này. Bất hạnh thay, các đệ tử của Chúa Giêsu trong Giáo Hội cũng mắc phải cùng một tâm trạng, ganh đua nhà thờ, tranh giành ảnh hưởng, địa vị cao sang, là nhân vật quan trọng trong địa phận, địa giới, âm mưu hạ bệ bạn bè, vươn lên chiếm ghế chủ toạ. Nói gọn lại, đủ mọi mánh khoé như con cháu Giacóp. Do đó, lời mời gọi của Chúa Giêsu hôm nay có giá trị đặc biệt để chúng ta xét lại thái độ của mình. Chúng ta lượng định thế nào về các thành công và tầm vóc quan trọng trong nội bộ Hội Thánh, và ngoài xã hội? Chúng ta trân trọng những ai và khinh miệt kẻ nào? Cứ như cái nhìn của Tin Mừng hôm nay, thì kẻ “vĩ đại” là người phục vụ kẻ khác, tinh thần và vật chất. Nó mở mắt cho chúng ta thấy được tấm lòng “vĩ đại” trong nếp sống thường nhật chung quanh mình. Những người cha hy sinh, các người mẹ chung thuỷ, dịu dàng, các con cái vâng lời, cần mẫn, những nông dân, công nhân vất vả làm ra của cải cho xã hội. Chúng ta cũng cần nhìn vào những con người hiền lành khiêm nhường chất phác phục vụ không cần tiếng khen, phần thưởng. Những giúp đỡ không cần lời tạ ơn. Những lòng trung thành với bổn phận không cần biểu dương ầm ĩ.
Trong giáo xứ tôi đang rao giảng có một nhóm ông bà lớn tuổi. Họ là những thành viên tích cực của hội từ thiện thánh Vinhsơn đệ Phaolô. Nhờ họ mà hội này sống được và hoạt động. Họ nuôi dưỡng những gia đình nghèo khổ trong giáo xứ. Họ đi xin lương thực, quần áo, chăn mùng rồi tập trung phân phát cho các gia đình thiếu thốn, nhập cư. Một giáo dân cho tôi hay, không có những người này thì hội đã tan rã từ lâu. Vậy mà xem dáng vẻ bên ngoài, họ toàn là những người quê kệch, lôi thôi, chẳng ai muốn nhìn, mặc dù công việc của họ là then chốt cho việc từ thiện trong giáo xứ. Ai mà biết được sự “vĩ đại” của họ nằm ở đâu? Họ thực thi sứ vụ và ơn gọi của mình khiêm tốn và lặng lẽ. Mục tiêu duy nhất của họ là người đói nghèo có cơm ăn áo mặc. Phải chăng họ đang nhắm đến nếp sống “vĩ đại” mà Phúc âm hôm nay chỉ bảo? Xin Chúa cho chúng ta cũng được trở nên các linh hồn sáng giá như họ. Amen
*** Ai đó hỏi linh mục John Wesley tại sao nhiều người vất vả vượt quãng đường xa để đến nghe ông giảng. Linh mục trả lời: “Tôi tự thiêu đốt mình và người ta đến xem tôi bốc cháy.” Câu nói đáng chúng ta suy nghĩ. Tuy nhiên nó ngầm ý hy sinh và khổ hạnh.
48. Bánh và nước – Lm Mark Link.
“Chúng ta phải bắt chước Chúa Giêsu, Đấng đã đến để phục vụ người khác chứ không phải để được người khác phục vụ”
Câu cuối cùng trong bài Phúc Âm ngày hôm nay là một trong những câu hỏi nổi bật nhất trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta hãy nghe lại câu ấy: “CON NGƯỜI không đến để được phục vụ, nhưng để Phục vụ và hiến thân cứu chuộc nhiều người”. Ít câu nào trong Kinh Thánh tóm tắt được cuộc đời Chúa Giêsu một cách hoàn hảo như thế.
Lần đầu tiên nghe nói về cuộc đời Chúa Giêsu, một Kitô hữu Nhật Bản nổi tiếng tên là Kagawa kêu lên: “Lạy Chúa, xin cho con nên giống Đức Kitô của Ngài”. Và để nên giống Đức Kitô hơn, Kagawa đã từ bỏ căn nhà tiện nghi để đến sống trong những khu tồi tàn vùng Tokyo. Ở đó, ông chia sẻ chính bản thân và của cải mình cho bất cứ ai cần sự giúp đỡ. Trong cuốn sách nhan đề “Quyết Định Nổi tiếng Về Cuộc Đời” (Famous Life Decision), Cecil North Cott viết: Kagawa đã cho đi hết áo quần của mình, và chỉ mặc trên người chiếc áo thụng rách nát tả tơi; vào một dịp khác, dù lâm bệnh rất nặng, ông vẫn tiếp tục thuyết giáo dưới cơn mưa, miệng lập đi lập lại không ngừng, “Thiên Chúa là Tình yêu, Thiên Chúa là Tình yêu. Ở đâu có tình yêu ở đấy có Thiên Chúa”.
William Barclay cho chúng ta thấy tâm hồn và trí tuệ của Kagawa qua những lời của Kagawa mà ông trích dẫn như: “Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất, Ngài hiện diện giữa những kẻ ăn xin, Ngài nằm chung với những người bệnh hoạn, Ngài đứng về phía những người thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp Thiên Chúa thì hãy đến thăm tù ngục trước khi đi tới đền thờ, hãy đến thăm tù ngục trước khi đi tới đền thờ, hãy đến thăm bệnh viện trước khi đi dự lễ, hãy giúp đỡ kẻ nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh.
Khi đọc về một người như Kagawa, chúng ta nên tự vấn chính mình; chúng ta phải làm sao để có thể sống Phúc Âm một cách nghiêm chỉnh hơn trong đời sống mình? Phải làm sao để bắt chước đời sống phục vụ của Chúa Giêsu một cách thiết thực hơn? Phải làm sao để trở thành Kitô hữu đích thực hơn trong chính gia đình và trong môi trường làm việc của mình?
Dĩ nhiên không ai có thể trả lời dùm chúng ta, vì đây là những câu hỏi mà chúng ta phải tự trả lời lấy, nghĩa là mỗi người đang hiện diện ở đây sẽ phải trả lời những câu hỏi ấy theo cách thức của mình. Tuy nhiên, đừng bao giờ vịn cớ rằng: “Tôi không thể đến những khu tồi tàn ở Tokyo để sống giống như Kagawa đã làm”, để rồi chúng ta chẳng làm gì nữa cả; vì nếu chúng ta không thể làm được một điều thật can đảm, thật anh hùng, thì điều đó không có nghĩa là chúng ta không còn có thể làm được bất cứ việc gì khác.
Tất cả chúng ta đều có thể làm một điều gì đó dù rất là nhỏ bé và xem ra vô nghĩa, khởi đầu là cho chính những người thân trong gia đình chúng ta, rồi từ đó chúng ta sẽ có những may mắn mở rộng việc phụng sự ra môi trường xa hơn, còn nếu chúng ta không khởi sự ngay từ gia đình mình thì chúng ta cũng sẽ không bao giờ khởi sự được ở bất cứ nơi nào khác.
Sau đây là một trong những ví dụ hấp dẫn nhất nói về việc phục vụ tha nhân khởi sự từ chính gia đình mình. Đó là câu chuyện được đăng trong tạp chí Leadership (Giới lãnh đạo) cách đây ít lâu:
Một cậu bé nọ cứ cố tình đi học về trễ hoài mà chẳng có lý do gì chính đáng cả, dù đã có biết bao lời khuyên nhủ răn bảo cậu. Cuối cùng, vì quá thất vọng, bố cậu bảo cậu ngồi xuống và nói; “Lần sau con còn về trễ nữa là con chỉ được ăn tối bằng bánh mì với nước lã thôi, ngoài ra không được ăn thứ gì khác nữa nhé. Con nghe rõ chưa?” Cậu bé nhìn thẳng vào mắt cha và gật đầu. Cậu đã hoàn toàn hiểu ý bố cậu.
Vài ngày sau, cậu bé về nhà còn trễ hơn bình thường nữa, Mẹ cậu gặp cậu ở cửa song chẳng nói một lời. Cha cậu gặp cậu trong phòng khách nhưng cũng vẫn chẳng nói lời nào với cậu. Tuy nhiên, tối hôm ấy, khi mọi người quây quần bên bàn ăn, trái tim cậu bé như muốn thót lại khi thấy đĩa cha cậu chất đầy thức ăn, đĩa của mẹ cũng thế, còn đĩa của cậu thì chỉ có một khúc bánh mì, bên cạnh có một ly nước lã, trông hiu quạnh làm sao! Đầu tiên cậu liếc nhìn miếng bánh, sau đó lại nhìn qua ly nước lã. Đây chính là hình phạt bố mẹ cậu đã nói trước với cậu, đáng buồn hơn nữa là tối nay cậu lại cảm thấy đói quá chừng.
J. Allan Peterson, tác giả câu chuyện đã mô tả diễn tiến sự việc như sau: “Người bố chờ cho bầu khí căng thẳng lắng xuống đoạn lặng lẽ cầm chiếc đĩa của cậu đặt trước mặt ông, rồi cầm chiếc đĩa của ông đặt trước mặt cậu bé…” Cậu bé chợt hiểu ngay điều bố cậu đang làm. Bố cậu đã nhận hình phạt mà lẽ ra chính cậu phải chịu vì hành vi bê bối của riêng cậu…. Mãi nhiều năm về sau, chính cậu bé ấy vẫn nhớ đến biến cố và nói: “Chính nhờ hành vi bố tôi đã làm tối hôm ấy, mà suốt cả đời, tôi đã hiểu được Thiên Chúa tốt lành biết bao!”.
Câu chuyện trên giúp ta hiểu thật dễ dàng điều Chúa Giêsu muốn ám chỉ qua lời Ngài nói trong Phúc Âm hôm nay; “Con Người…. đến… để hiến mạng cứu chuộc nhiều người”. Đức Giêsu đã đến trong thế gian để làm cho chúng ta điều mà bố cậu bé đã làm cho cậu. Ngài đến để đền tội lỗi chúng ta bằng chính cái chết của Ngài trên thập giá.
Vậy, để kết thúc, chúng ta hãy nhớ rằng bài Phúc Âm hôm nay đưa ra cho chúng ta một thách thức; Đó là chúng ta phải hiến mạng sống mình để phụng sự tha nhân như Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta và nơi chốn tốt nhất để khởi sự việc này là chính gia đình ta và môi trường làm vịêc của ta. Nếu chúng ta khởi đầu từ những môi trường này, chúng ta sẽ mở rộng được lòng yêu thương phục vụ của chúng ta sang những môi trường khác nữa.
Biết đâu vào một thời gian nào đó, chúng ta sẽ có dịp phục vụ kẻ khác cũng quảng đại như Kagawa đã làm nơi những căn nhà tồi tàn vùng Tokyo. Chúng ta sẽ có thể có dịp phục vụ tha nhân cũng quảng đại như người bố trong câu chuyện đối với đứa con hư của mình. Tuy nhiên, trước khi chúng ta hy vọng có thể bay được thì chúng ta phải tập đi bộ đã. Và bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta bắt đầu tập đi bộ, mời gọi chúng ta bắt đầu phục vụ lẫn nhau, ngay từ trong gia đình và môi trường làm việc của chúng ta; Đó chính là lời mời gọi chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu là Đấng đã phán”
“Con Người đến không phải để được phục vụ, mà để phục vụ và hiến mạng sống cứu chuộc nhiều người”.
49. Chết vì người khác – Lm Nguyễn Ngọc Long
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.” Người hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?”. Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.”
Đức Giêsu bảo: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không? “. Các ông đáp: “Thưa được.” Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.”
Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.”
Các con thiếu nhi thương,
Thời Thế chiến, một tù nhân đã vượt ngục trốn khỏi trại tập trung Auschwitz, một nhà tù khét tiếng tàn ác của Đức Quốc Xã tại Ba Lan. Để cảnh cáo những tù nhân còn lại, bọn cai ngục đã bắt mười tù nhân khác phải chịu tử hình để thế mạng. Chúng chỉ ra mười tù nhân, trong đó có một người là bố trong một gia đình. Khi mười nạn nhân bước ra khỏi hàng, thì một người tù khác, cha Maximilianô Kolbê, một linh mục dòng Phanxicô, đã tiến ra và tình nguyện chết thay cho người cha gia đình kia.
Viên sĩ quan cai tù sửng sốt, nhưng cũng chấp nhận lời đề nghị kia. Và Cha Maximilianô đã chết (ngày 14/08/1941). Trong nghi thức phong hiển thánh cho vị tử đạo được cử hành 41 năm sau, người ta đã chứng kiến gương mặt giàn dụa nước mắt của người cựu tù năm xưa đã được thánh nhân thế mạng được truyền hình trên khắp thế giới (10/10/1982).
Ông ấy đã gặp được một con người thực sự có lòng yêu thương: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu mình.” (Ga 15, 13).
Các con thiếu nhi thương,
Câu chuyện của cha Maximilianô Kolbê mà các con vừa nghe có vẻ đi ngược lại với khuynh hướng tự nhiên của Nhóm Mười hai Tông đồ trong thời gian đầu đi theo Chúa Giêsu. Các ông muốn nắm hai chức vụ lớn nhất trong Vương quốc mà các ông tưởng rằng Chúa Giêsu sắp thiết lập, điển hình là hai anh em nhà Dêbêđê là ông Giacôbê và ông Gioan.
Hai ông đã xin gì, các con biết không? Thưa, hai ông đã xin rằng: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời, như thách thức hai ông cũng như các Tông đồ còn lại: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”.
Đức Giêsu cố ý nói đến cơn hấp hối và cái chết mà Người phải chịu. Hai anh em được thách đố để theo Đức Giêsu đến cùng.
Đức Giêsu kết thúc cuộc trao đổi bằng cách đặt hai anh em trước một câu trả lời đòi họ phải được hoán cải để theo ý muốn của Thiên Chúa. Người nói: “Có thể Chúa Cha sẽ dành địa vị cho các anh, nhưng các anh phải sẵn sàng vác thập giá tôi vác, uống chén đắng tôi uống và chịu phép rửa tôi chịu”. Nghĩa là hai anh em phải bước theo Đức Giêsu cho tới cái chết trên thập tự.
Các con thương,
Sau này, khi Chúa Giêsu về trời, các vị Tông đồ Giacôbê và Gioan cùng với các Tông đồ khác đã hiểu được lời của Chúa Giêsu: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”. Và các Tông đồ đã đem ra áp dụng trong đời sống của mình, khi hầu hết các ông đã chịu chết vì Danh Chúa trong khi các ông phục vụ công việc rao giảng Tin mừng. Làm như thế, các ông đã bắt chước Thầy của mình là: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Các con thương,
Thầy Giêsu, các Tông đồ, Cha thánh Maximilianô đã “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”, trong số đó có cha, có các con và nhiều người khác nữa. Ngày nay, noi gương Thầy Giêsu, các Tông đồ và thánh Maximilianô Kolbê, thiếu nhi có thể làm gì để phục vụ và hiến mạng vì người khác? Cha nghĩ rằng, các con có thể làm những việc nhỏ cụ thể sau đây:
– Phục vụ và hiến thân vì người khác khi các con biết nghĩ tốt cho bạn bè, không ghen tị, nói xấu hay chửi tục;
– Phục vụ và hiến thân vì người khác khi các con bớt tiền ăn sáng để đóng góp cùng với nhiều người để cứu giúp những người nghèo khổ, già cả, bệnh tật…
– Phục vụ và hiến thân vì người khác là các con học biết yêu mến Chúa Giêsu và bắt chước thánh Maximilianô Kolbê lòng yêu mến Đức Maria qua tràng chuỗi mân côi trong tháng Mân côi này và đặc biệt trong tháng Mân côi.
Thực hành:
1. Biết sống vì mọi người bằng cách sẻ chia vật chất với ai nghèo khó.
2. Noi gương Chúa Giêsu, tập sống đời phục vụ.
Tâm niệm: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Đi tìm kho báu: Mời các con cùng suy nghĩ và trả lời các câu hỏi sau
1. Hai tông đồ Giacôbê và Gioan đã xin với Chúa Giêsu điều gì?
2. Câu trả lời của Chúa Giêsu đã dạy họ bài học gì?
3. Để được ở bên Thiên Chúa, các con cần phải trở nên như thế nào?
50. Muốn làm lớn, phải phục vụ như đầy tớ
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Tham vọng chung của loài người là có được một chỗ đứng trong bậc thang xã hội. Vì thế mà hai tông đồ Giacôbê và Gioan toan ngỏ ý xin Thầy mình một ân huệ là được ngồi: một người bên tả và một người bên hữu trong vinh quang của nước Chúa. Nghe lỏm được ý đồ của họ, các môn đệ khác bèn tức tối với hai ông này (Mc 10:41). Xét theo công trạng, thì hai ông Giacôbê và Gioan chưa có làm được gì đáng kể. Nói kiểu bình dân, các ông chưa có điểm với Chúa Giêsu và với các tông đồ khác, nên việc xin ngồi bên tả và bên hữu chi là việc muốn ăn mảnh.
Đến đây, Chúa liền thách thức hai ông: Các con có uống nổi chén mà Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không? (Mc 10:38). Thời cổ xưa tại đất Do thái, việc uống cùng một chén với ai, có nghĩa là muốn tham phần vào vận mệnh của người đó: hoặc may hay rủi. Vậy thì vận mệnh của Chúa cứu thế là gì? Vận mệnh của Chúa là việc tự nguyện chấp nhận khổ hình thập giá để làm giá cứu chuộc nhân loại. Như vậy lời Chúa có nghĩa là lời thách đố xem hai ông có muốn trả giá cả để được ngồi bên tả và bên hữu Chúa không, nghĩa là xem các ông có muốn chịu khổ hình với Chúa và vì Chúa không? Chúa nhận lời quả quyết chấp nhận bách hại và chịu đau khổ của hai ông. Tuy nhiên ghế danh dự mà hai ông xin là tuỳ thuộc vào sự quyết định của Chúa Cha.
Trong những lần giảng dạy, Chúa Giêsu hứa sẽ thiết lập một vương quốc vĩnh cửu, nhưng Người sẽ phải chịu đau khổ và chịu chết trước khi hoàn thành theo như lời tiên báo trong sách Isaia: Thiên Chúa đã muốn người tôi trung phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn (Is 53:10). Và như vậy thì Chúa Giêsu đồng hoá với người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê trong lời tiên tri Isaia. Nỗi đau khổ mang lại sự cứu độ còn được Thánh Phaolô đề cập đến trong thư gửi tín hữu Do thái (Dt 4:16).
Phúc âm hôm nay ghi lại Chúa Giêsu chặn đứng tham vọng cá nhân của ông Giacôbê và Gioan bằng cách dạy họ: Ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ mọi người (Mc 10:44), nghĩa là phục vụ mọi người. Các tông đồ muốn phần thưởng cho những cố gắng của họ. Chúa bảo họ trong Nước Chúa thì có sự khác biệt. Nước Chúa không phải là nơi để người ta tâng bốc cái tôi. Trong Nước Chúa, tất cả những ai muốn có ảnh hưởng, địa vị thì phải làm đầy tớ người khác, nghĩa là phục vụ người khác. Nếu để các ông nuôi tham vọng cá nhân, có thể trở nên mối nguy hại cho Giáo hội mà Chúa sẽ thiết lập sau này.
Chúa dạy các tông đồ như vậy để cho những người kế vị và những người cộng sự hiểu biết đường lối Phúc âm hầu tránh việc lạm dụng chức tước mà gây ảnh hưởng cá nhân, thay vì tìm kiếm vinh danh Chúa và xây dựng Giáo hội. Như vậy khi hiểu được bản chất của Nước Chúa, các tông đồ sẽ là người cuối cùng tìm kiếm địa vị và danh dự. Các tông đồ nhận thức được rằng, họ sẽ có địa vị trong Nước Chúa, cũng như trong Giáo hội của Chúa. Tuy nhiên Chúa bảo họ không được dùng quyền để bá chủ và áp đặt, mà phải dùng quyền để phục vụ như Chúa đã phục vụ: Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người (Mc 45).
Có nhiều việc phục vụ khác nhau. Trong quá khứ, có những việc phục vụ do đầy tớ và nô lệ thực hiện. Vào thời cổ xưa tại đất Do thái, khi khách vào nhà ai, thì việc của đầy tớ là đem nước để rửa chân cho khách. Chân đi dép trên đất cát giữa trời nóng nực mà được dội nước vào thì cảm thấy khoan khoái biết bao. Trong bữa Tiệc ly Chúa Giêsu đã làm công việc của người nô lệ, lấy nước rửa chân cho các tông đồ vì yêu thương. Và Chúa dặn các ông phải rửa chân lẫn cho nhau, nghĩa là phục vụ lẫn nhau. Phục vụ cũng được thực hiện do người làm công hay tình nguyện. Việc phục vụ được coi là việc nhân đạo nếu được phát xuất tự chủ nghĩa nhân bản. Việc phục vụ được coi là việc bác ái nếu được làm vì yêu mến. Việc phục vụ có đượm tình yêu mến là điểm thiết yếu của đạo Kitô giáo. Phục vụ người khác vì yêu mến là một nhân đức mà mỗi người Kitô hữu cần thực hành. Khi phục vụ vì tình yêu mến Chúa thúc đẩy, công việc phục vụ sẽ trở nên nhẹ nhàng và người làm việc phục vụ mới cảm thấy vui được. Có những người khi không có việc gì làm, thì buồn chán, sinh bệnh; khi làm việc phục vụ giúp đỡ tha nhân, họ tìm được ý nghĩa của cuộc sống, lại lên tinh thần, rồi được khỏi bệnh. Và đó là ý nghĩa của tình yêu biến đổi. Thánh Âu-tinh cũng nhận định: đâu có yêu, đấy không còn khổ, mà giả như có khổ đi nữa, người ta sẽ chấp nhận cái khổ vì yêu.
Nếu muốn sống tinh thần phục vụ, người ta sẽ tìm thấy rất nhiều việc để làm trong nhà thờ như quét dọn nhà thờ, hốt lá khô, nhặt rác rưởi xung quanh nhà thờ; và nhiều việc để làm trong làng xóm, phố phường như tình nguyện giúp việc từ thiện, bác ái, việc xã hội và việc nhân đạo.
Là người công dân và người Kitô hữu, người tín hữu cần học để coi việc phục vụ trong gia đình, trong giáo xứ và trong xã hội như là phương thế để hoàn thành ơn gọi làm người Kitô giáo.
Lời cầu nguyện xin cho được biết sống tinh thần phục vụ:
Lạy Chúa Giêsu!
Chúa đến thế gian dạy các môn đệ
bài học phục vụ trong yêu thương.
Xin dạy con biết làm việc phục vụ vì yêu mến Chúa
và nhận ra hình ảnh của Chúa
nơi nguời anh chị em mà con phục vụ
nhất là những người nghèo đói, bệnh tật
đau khổ và bất hạnh. Amen.
51. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
LẦN THỨ BA LOAN BÁO VỀ CUỘC KHỔ NẠN (10,32-34)
Sau chuỗi huấn dụ chúng ta vừa đọc (9,33-10,31) quả là thích hợp khi Maccô nhắc lại cho chúng ta nhớ Chúa Giêsu đang cùng các môn đệ trên đừơng tiến về Giêrusalem, trung tâm của dân riêng Chúa (c. 32a). Dù không có ghi lại những chỉ dẫn địa lý chính xác người ta cũng biết rằng Đấng Mêsia đang tiến đến gần các biến cố trọng yếu của định mệnh Ngài. Ngài đã băng ngang vùng Galilê từ bắc tới nam (9,30). Ngay từ trước, ngài đã cố gắng dạy dỗ các môn đệ chuẩn bị cho những gì đang chờ đón Ngài.
Maccô đã nhấn mạnh “hành trình lên Giêrusalem này qua ba lần loan báo về cuộc khổ nạn. Con số “ba” mang tính cách tượng trưng muốn nói lên rằng điều đó được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại trong suốt cuộc hành trình. Và đây là lần thứ ba và cũng là lần cuối Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về cái chết sắp tới và cuộc phục sinh của Ngài. Người ta nhớ lại lần loan báo đầu tiên (8,31-33) đã làm các môn đệ thất vọng sâu xa. Nhân danh họ, Phêrô vừa mới nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, nhưng viễn cảnh về một Đấng Mêsia khổ đau và chết chóc đã làm cho Phêrô kịch liệt chống đối (8,32). Người Do Thái chỉ có thể mường tượng đặc sứ của Thiên Chúa mang ơn cứu độ cho họ qua lăng kính một vị anh hùng vinh thắng. Lần loan báo thứ hai về cuộc khổ nạn (9,32-33) được Chúa Giêsu nói với môn đệ trong khi băng ngang qua vùng Galilê. Ngài phải không ngừng đạt tâm trí bạn hữu mình hướng tới những khổ đau Ngài sẽ phải chịu. Ngài nói: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta” (9,31). Một lần nữa, sứ điệp này cũng không được tiếp nhận: Tin rằng vị đặc sứ của Thiên Chúa phải nếm mùi thất bại thì quả thật khó khăn biết bao!
Hiện giờ, đang khi Chúa Giêsu càng dấn bước đi tới thì bầu không khí càng lúc càng trở nên bi ai. Maccô nêu bật lên điều này. Ông viết: “Người dẫn đầu các ông” trong khi nhất quyết dẫn họ đi trên con đường đưa Ngài đến cái chết (c. 32b). Nỗi sợ hãi của đám bạn hữu Chúa Giêsu cũng ảnh hưởng lây đến tất cả mọi kẻ đang bước theo Ngài. Các Kitô hữu Rôma của Maccô cũng có thể nhận ra mình ở trong số những kẻ này. Tuy nhiên trong những kẻ đi theo Ngài, Chúa Giêsu cảm tâh1y cần phải huấn luyện và đào tạo đặc biệt hơn những ai mà sau này sẽ trở thành những nhà lãnh đạo dân chúng: “Lần nữa Ngài tách riêng nhóm Mười Hai ra và bắt đầu nói cho họ về những gì sắp xảy đến cho Ngài” (c. 32c). Lần loan báo tối hậu này quả thực còn chính xác hơn hai lần trước. Trách nhiệm của nhà cầm quyền Do Thái rõ ràng được nêu bật đúng như những gì liên quan tới vụ án của Chúa Giêsu (c. 33-34). Việc chuyển giao bị cáo cho Philatô (biểu trưng cho dân ngoại) cũng như các nhục hình gây ra cho Chúa đều là các chi tiết Chúa Giêsu không thể biết trước. Ngài không biết Ngài sẽ chết như thế nào. Maccô đã rút ra những xác định này từ trình thuật về cuộc khổ nạn.
Cần phải hiểu rõ tại sao Maccô ghi nhận những chi tiết này. Sở dĩ thế là vì các Kitô hữu sơ khai vẫn còn hoang mang về số phận dành cho Chúa Giêsu. Vụ án của Ngài được các chức sắc Do Thái xét xử sơ sài, rồi tiếp đó Ngài bị trao vào tay dân ngoại rồi chịu đóng đinh bi đát: tất cả những điều này đối với họ là một “nghịch chướng” không thể chấp nhận nổi (x. 1Cr 1,23a). bằng cách đặt vào miệng Chúa Giêsu lời loan báo, về số phận mà Chúa biết đến tận những chi tiết nhỏ nhặt nhất, Maccô muốn giúp đỡ các độc giả vượt qua “nghịch chướng” này. Giữa lòng đức tin Kitô giáo, mầu nhiệm CON NGƯỜI chịu đóng đinh vẫn luôn là một yếu tố khó chấp nhận. Cuối cùng nói về cuộc chiến thắng trên cái chết: “Ba ngày sau Người sẽ sống lại” (c. 34b) chỉ được thực sự lưu tâm một khi việc phục sinh của Chúa Giêsu đã hoàn tất.
Cũng như suốt Phúc Âm của mình, ở đây Maccô lặp lại bài học thâm thúy Chúa Giêsu sẽ ban cho các lữ khách trên đường Emmau: “Há Đức Kitô không phải chịu đau khổ rồi mới bước vào vinh quang của Ngài sao?” (Lc 24,26). Giáo Hội sơ khai sẽ phải suy nghĩ sâu xa về ý định của Thiên Chúa “trong toàn bộ Kinh Thánh” để có thể tháp nhập vào đức tin mình sứ điệp về một Đấng Mêsia chịu đóng đinh (Lc 24,27).
LỜI YÊU CẦU CỦA CÁC CON ÔNG GIÊBÊĐÊ (10,35-45)
Ở đây Maccô cũng sử dụng lược đồ quen thuộc của ông. Sau mỗi lần loan báo về cuộc khổ nạn, Maccô đều đặt một cảnh miên tả chậm hiểu của cá môn đệ, từ đó kéo theo lời giảng dạy của Chúa Giêsu về cách thức họ phải cư xử để có thể trung thành với Thầy của mình.
Lần đầu tiên, khi Chúa Giêsu nói với nhóm Mười Hai về các đau khổ Ngài sẽ phải chịu, người ta đã thấy Phêrô “sừng sộ” lên và Chúa Giêsu đã yêu cầu các bạn hữu Ngài hãy từ bỏ chính mình để theo Ngài “cần” phải đón nhận cái chết, thì người ta thấy các môn đệ vẫn chả quan tâm gì tới sứ điệp mà chỉ lo tranh giành nhau quyền hành. Lúc đó Chúa Giêsu đã mạnh mẽ đòi hỏi phải tự hạ mình “làm tôi tớ mọi người” (9,30-35).
Và lần thứ ba này khi Chúa đặt ra trước mắt các bạn hữu Ngài số phận không tránh khỏi đang chờ đón Ngài thì họ lại cũng vẫn không biểu lộ khá hơn khả năng tiếp nhận sứ điệp (10,32-34). Này đây hai người trong đám họ (c. 35a) do không ý thức, đã tạo cho Chúa Giêsu cơ hội mới để chỉnh đốn lại cách cư xử xứng hợp của những kẻ muốn theo Ngài. Tuy là những kẻ theo Chúa Giêsu từ thuở ban đầu, những kẻ dám đưa ra lời yêu cầu quá táo bạo (c. 37). Họ muốn tự trấn an về một tình cảnh tương lai. Tham vọng của họ không chỉ nhắm đến một chỗ danh dự bên cạnh vị Vua – Mêsia trong Vương Quốc Ngài, mà còn phải nắm được uy quyền cai trị thực sự nữa. Thật là một giấc mơ ngu ngốc biết bao! Thay vào đó, sự khôi hài của số mệnh sẽ sắp xếp cho hai gã ăn cướp một đứa bên hữu, một đứa bên tả Chúa Giêsu… trên thập giá (15,27).
Lập tức Chúa Giêsu tố cáo ngay kỳ vọng phù phiếm của hai người bạn thân thiết nhất của Ngài. Ngài đặt họ đối diện với những gì sắp xảy ra. Liệu họ có chắc chắn chia sẻ với Ngài số phận đẫm máu đang chờ đợi Ngài không (c.38). Ngài nói với họ về cái chết bằng những hình ảnh mạnh mẽ. Trong Thánh Kinh “chén” để uống rất thường dùng để tượng trưng các đau khổ phải chịu (x. Tv 75,9; Is 51,17-22 v.v…). Người ta há không thường ám chỉ các thử thách phải chịu bằng câu nói: “Uống cạn chén” đó sao? Vào giờ hấp hối, chính Chúa Giêsu nài xin Cha Ngài: “Xin cất xa con chén này” (14,36), còn hình ảnh “phép rửa” xem ra xa lạ với sự đau khổ xét theo lối diễn dịch. Tuy nhiên không phải thế đâu, việc dìm toàn thân vào trong nước, kể cả đầu, làm cho người chịu phép rửa trải qua một giây phút cam go: anh ta bị dìm trong cái chết. Trong cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu sẽ cảm nếm một “phép rửa” thực sự. Ngài sẽ bị các cơn sóng của tử thần dìm ngập. Liệu các môn đệ có thể theo Ngài đến đó không? Giacôbê và Gioan đoan chắc với Ngài điều này mà chẳng phiền hà gia cả (c. 39a). Tuy nhiên chắc chắn họ đã trả lời mà chẳng hề thực sự nhận biết những gì chờ đón họ. Lúc đó, Chúa Giêsu xác nhận với họ rằng họ sẽ chịu một số phận giống như Ngài (c. 39). Thực thế, tông đồ Giacôbê sẽ chịu tử đạo vào khoảng năm 44 sau Chúa Giêsu (Cv 12,1-2). Còn phần tông đồ Gioan, tùy theo truyền thống cho biết, ông đã chết một cách bình thường, nhưng thực ra trước đó ông cũng phải trải qua những thử thách kinh sợ.
Dù sao, Chúa Giêsu cũng khước từ quyền hành mà Ngài có thể vay mượn để cung cấp cho các môn đệ yêu quý của Ngài những vị trí béo bở trong vinh quang của Ngài. Xét về mặt nhân loại, Chúa Giêsu ý thức rằng quyền hành ấy không nằm trong tầm tay Ngài. Vì thế Ngài dùng công thức ở thể thụ động (những vị trí này đã được chuẩn bị) mà người Do Thái ưa thích dùng để xác định Thiên Chúa là tác giả mà khỏi cần nêu danh Người (c. 40b). Rõ ràng Đấng Mêsia không dành cho mình những quyền hành xuất phát từ quyền hành duy nhất của Thiên Chúa.
Sự tức giận của các môn đệ khác chẳng phải là tấm gương đáng noi theo (c. 40b). Không biết là do sự táo bạo quá mức của Giacôbê và Gioan hay do một sự ghen tuông thầm kín nào đó đối với hai ông này mà các môn đệ kia nổi giận? Hẳn không phải là lần đầu tiên Maccô vạch ra sự tranh giành địa vị thường thấy trong các cuộc tranh luận của nhóm tông đồ (x. 9,33-34). Dù thế nào đi nữa, Chúa Giêsu cũng phải nhóm họp Mười Hai ông lại để dạy cho các ông một bài học súc tích. Ngài bảo các ông (tức các vị hữu trách tương lai của cộng đoàn Kitô giáo) hãy ý thức về quan niệm quyền hành thường thấy nơi Đế quốc Rôma cũng như các xã hội dân sự khác. Theo các thể chế này, quyền hành đồng nghĩa với cai trị, thường mang tính cách độc tài. Các tập tích cực nơi những thể chế dân ngoại đối nghịch với những gì Chúa Giêsu muốn thấy nơi việc cai quản Giáo Hội Ngài (c. 42-43a). Và Chúa Giêsu nhấn mạnh đặc tính hoàn toàn độc đáo trong quan niẹm của Ngài về quyền hành trong Giáo Hội. Từ ngữ “tôi tớ” Ngài dùng ở câu 43b lại được bổ sung bằng từ “nô lệ” để làm gương trong việc phục vụ tha nhân (c. 44). Vào thời đó, những kẻ nô lệ thuộc hạng cùng đinh trong xã hội. Hình ảnh đưa ra thật sống động. Nhóm Mười Hai thì mơ ước quyền cao chức trọng, nhưng Chúa Giêsu lại muốn họ phải từ bỏ ảo vọng này và phải biết chấp nhận “phục vụ” kẻ khác trong bất cứ điều kiện thấp hèn nào.
Đây là lúc Chúa Giêsu chọn để xác định vị thế của Ngài bằng cách đưa chính bản thân Ngài ra làm gương: Ngài đã đến “không phải để được phục vụ, mà là để phục vụ”, đồng thời còn dâng hiến cả mạng sống mình “để làm giá chuộc cho nhiều người” (c. 45). Ở đây Chúa Giêsu vén mở cho thấy ý nghĩa cuối cùng cuộc đòi và sứ mệnh của Ngài. Lẽ ra Ngài có thể tự cho mình là vị thủ lãnh độc tài của đám môn đệ và đám dân Chúa mà Ngài đã đến quy tụ lại, nhưng Ngài không làm thế, Ngài lại đóng vai trò đầy tớ khiêm tốn phục vụ tất cả mọi người (x. 9,35-37). Sự phục vụ này sẽ không dừng lại ở một vài lần Ngài tự hại mình vì lợi ích của đám bạn hữu Ngài mà còn đi xa đến độ dám hiến dâng mạng sống mình để cứu độ mọi người. Điều này được diễn tả bằng những hình ảnh của thời bấy giờ. Chúa Giêsu sẽ ban mạng sống mình “làm giá chuộc”, nghĩa là Ngài sẽ phải trả giá cho tội lỗi của nhân loại. Ngài sẽ trao dâng mạng sống mình “vì đám đông” nghĩa là “vì tất cả mọi người” không trừ ai.
Các thành ngữ này được mượn từ bản văn trình bày khuôn mặt mầu nhiệm của “Người Tôi Tớ đau khổ” mà tiên tri Isaia đã phác họa: “Nếu người dâng mạng sống mình làm hy tế chuộc tội (vì tội lỗi loài người) thì người sẽ thấy miêu duệ (…) Bởi vì người đã chịu đau khổ (Chúa nói) nên Đấng Công Chính, tôi tớ Ta sẽ công chính hóa nhiều người” (Is 53,10-11).
Nhằm tạo hòa điệu thân ái trong cộng đồng Giáo Hội sơ khai, Maccô đã rút tỉa từ Thánh Kinh hình ảnh “Người Tôi Tớ đau khổ” để cắt nghĩa cho các Kitô hữu đôi chút về mầu nhiệm Chúa Kitô. Đấng đã dâng hiến mạng sống mình, tự hạ đến chết đẫm máu trên thập giá để cứu rỗi nhân loại. Bắt nguồn từ hy sinh của Chúa Giêsu, cộng đoàn Kitô hữu phải luôn luôn kiểm chứng xem cách hành xử của mình có phù hợp với cách hành xử của Đấng sáng lập không: nghĩa là mình có phục vụ và dâng hiến toàn vẹn bản thân mình không?
52. Chú giải của Noel Quesson.
Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.”
Đây là hai chàng thanh niên con trai của ông Dêbêđê, làm nghề chài lưới, ở Bết-sai-đa một cảng nhỏ trên bờ hồ Ti-bê-ri-át. Mẹ của họ có lẽ là bà Xalômê, chị em với Đức Maria mẹ Đức Giêsu (Mc 15,10 – 16,l). Theo tục lệ tự nhiên trong nhiều nền văn minh phương Đông, họ cho là tự nhiên khi sử dụng các quyền của người trong dòng họ: Vì là anh em bà con với Đức Giêsu, họ đến xin người bà con cho “dòng họ” được tham dự vào sự thành công của một thành viên trong gia tộc.
Vả lại Đức Giêsu đã chẳng nói như thế sao: “Các ngươi hãy xin, thì sẽ nhận được”. Vậy họ đưa ra một lời xin: “Thưa Thầy, chúng tôi muốn Thầy ban cho điều mà chúng tôi xin”. Đây là một dịp mà chúng ta cần phải nắm vững, vì đôi khi chúng ta cũng ngạc nhiên về một số lời cầu xin của mình không được chấp nhận, ‘như’ chúng ta mong muốn.
Người hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?”
Lời cầu xin của họ quá mơ hồ. Đức Giêsu bảo họ hãy nói rõ lời yêu cầu đó.
Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy.
Lần thứ ba, Đức Giêsu vừa loan báo cho các môn đệ sự thương khó của Người (Mc 10,32-34) “Nào chúng ta lên Giê-ru-sa-lem; Con Người sẽ bị giao nộp cho các Thượng tế. Họ sẽ lên án tử hình Người. Họ sẽ nhạo báng Người, sẽ khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết Người”. Vào lúc Đức Giêsu “chọn chỗ chót” thì các ông lại cố “đua nhau” chiếm chỗ tốt hơn: Họ vẫn còn mơ mộng về Đấng Cứu Thế vinh quang của dân tộc. Đấng Cứu Thế đối với họ (và đối với chúng ta?), đó là Đấng chiến thắng hiển hách, sẽ dùng quyền lực của mình điều khiển mọi sự. Vậy tại sao lại không lợi dụng người anh em bà con để được thăng tiến, được hưởng đặc quyền, được tiến cử? Chúng ta chớ nên xét đoán các ông một cách khắt khe.
Chính chúng ta đã không làm như thế, khi chúng ta có dịp hay sao? Đó là chuyện thường tình của con người! Khi chúng ta quen lớn, thì tự nhiên chúng ta không muốn nhờ vả để trục lợi sao? Nhưng chúng ta hãy đi xa hơn: Đời sống Kitô hữu của chúng ta có phải là một cuộc sống phụng sự Thiên Chúa hay không? Hay đó là một cuộc sống mà chúng ta chỉ muốn Thiên Chúa phục vụ chúng ta? Việc hành đạo của chúng ta có phải là một sự thờ phượng, ca ngợi và vâng phục hướng về Thiên Chúa không? Hay đó chỉ là một thứ “bảo hiểm cho đời sau”? Lạy Thầy, xin dành cho con một chỗ phụ chắc chắn ở trên trời.
“Các anh không biết các anh xin gì!”
Thực vậy, họ đâu có biết “ai” sẽ ở “bên phải và bên trái” của Đức Giêsu, khi Người ở trong “vinh quang” của Người trên thập giá? Họ đang xin mà không biết chỗ của hai tên cướp bị đóng đinh cùng với Người trên đời. Họ vẫn chưa hiểu gì cả về định mệnh đích thực của Chúa Giêsu. Bằng những câu hỏi, Đức Giêsu đang cố chuyển biến tư tưởng của họ từ “vinh quang của Đấng Mêsisa” sang “con đường dẫn đến vinh quang” đó. Chúng ta cũng vậy thường chúng ta không biết điều mà chúng ta xin: Đó là lý do tại sao những lời cầu xin của chúng ta không được chấp nhận.
Chúng ta hãy để cho Thiên Chúa dời chúng ta đi, cho Người sửa đổi lời xin của chúng ta. Thiên Chúa nói: “Các con không biết các con xin những gì, các con hãy tin Ta hơn”. “Sự vinh quang” mà các ông xin, hỡi Giacôbê và Gioan, các ông sẽ nhận được vào một ngày nào đó! ước mộng tuổi trẻ của các ông sẽ được thực hiện trong tuổi chín muồi của các ông.
Thực vậy, Giacôbê sẽ là vị tử đạo đầu tiên ở Giêrusalem (Cv 12,2) và Gioan sẽ phải chịu bắt bớ thời hoàng đế Nêrông, bị khổ sai tại đảo Patmos (Kh 1,9).
Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Đức Giêsu dùng hai hình ảnh cổ truyền của Kinh Thánh để giúp họ sửa đổi lời yêu cầu và ý muốn của họ: Đó là chén đắng và phép rửa. “Chén” trong Kinh Thánh là “chén đắng”, thức uống ghê tởm, khó nuốt. “Chúa cầm chén trong tay”. Người rót một thứ rượu thuốc đã lên men: Họ sẽ uống rượu này, họ nốc đến cạn (Tv 75,9). ‘Phép rửa’ có một ý nghĩa tương tự: Đó là hình ảnh sự nhào nặn, chìm nghỉm; “Hết thảy nước đó sóng tràn ngập lút trên tôi” (Tv 42,9). Đức Giêsu biết rõ những gì sẽ xảy đến cho Người. Và Người hỏi hai môn đệ: “Các con có thể uống được chén đắng của sự thương khó Thầy không? Và chịu dìm vào phép rửa bằng máu của Thầy không? Như Thầy và cùng với Thầy, các con có chấp nhận vùi sâu dưới dòng nước chết đuối bi thảm này nghĩa là chia sẻ cái chết của Thầy không?
Các ông đáp: “Thưa được”
Họ tỏ ra quảng đại trong sự hăng say của tuổi trẻ.
Họ sẵn sàng trả giá bằng chính bản thân của mình, để ‘uống’ chén đắng và bị dìm sâu trong phép rửa. Chúng ta đừng quên rằng khi Máccô viết Tin Mừng của ông, thì đã có 2 bí tích đang được các Kitô hữu thể nghiệm, như chúng ta ngày nay. Chúng ta gán cho Phép rửa tội và Thánh Thể mà ta lãnh nhận ý nghĩa nào? “chén mà chúng ta hiệp thông có thông hiệp với sự hy sinh của Đấng đã hiến ban mạng sống của Người không? Đức tin ngày chịu phép rửa có làm cho chúng ta “Theo Đức Giêsu không? và theo tới đâu?
Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu.
Khi Máccô ghi lại lời tiên tri này của Đức Giêsu, thì nó đã được thực hiện một phần rồi. Vào năm 44, Giacôbê đã tử đạo. Vào thời đó Vua Hêrôđê đã bách hại một số thành viên của Giáo Hội. ông ấy đã cho chém đầu Giacôbê, người “anh em” của Gioan. Và khi nhận thấy người Do Thái hài lòng về việc làm đó, ông lại cho tiến hành cuộc bắt giữ khác (Cv 12,2-3). Kitô hữu là theo Đức Giêsu!
Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.
Một lần nữa Đức Giêsu nói lên những lời khiêm nhường lạ lùng, trước Cha của Người: Người nói Người “không có quyền”. Người tỏ ra vâng phục. Qua lời này Người mời gọi chúng ta đến lượt mình, cũng để Thiên Chúa tùy nghi định đoạt về chúng ta. “Vinh quang” đó, Giacôbê và Gioan sẽ nhận được, nhưng không phải là thứ vinh quang mà hai ông ước vọng: Đó sẽ là vinh quang của Đức Giêsu cho. Do đó Chúa đã chấp nhận lời cầu xin của hai ông. Còn chúng ta thì sao? Khi lời cầu nguyện của chúng ta xem ra không được chấp nhận, chúng ta có luôn phó thác nơi Chúa, để Chúa chấp nhận, lời xin đó theo ý của Người hay không? Chính Đức Giêsu cũng đưa dẫn các bạn hữu của Người tới mầu nhiệm không thể dò thấu được của ý định Thiên Chúa.
Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan
Các ông bực mình vì các ông cũng có tham vọng như thế!
Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân
Một lần Đức Giêsu nói về “chính trị” thì Người lại mô tả quá mạnh và khá mù tối. Ta không thể nói, Đức Giêsu muốn thiết lập một thế giới không có hệ thống hành chánh hay san bằng cấp bậc.
Nhưng, một lần nữa như đối với cách sử dụng (tiền bạc hay vấn đề tính dục), Người bác bỏ những lạm dụng: Quyền thế không được áp dụng như một cách để thống trị và hà hiếp, hay như một “tương quan lực lượng” mạnh được yếu thua. Đức Giêsu nói: “Không được như vậy”.
Nhưng giữa anh em thì không được như vậy
Đức Giêsu dứt khoát loại bỏ trong Giáo Hội, trong cộng đoàn Kitô hữu, kiểu quyền bính vẫn được thực thi trên thế giới.
Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.
Đây không phải là một điều luật trong những điều luật khác nhưng đó là “hiến chương” của Giáo Hội, của cộng đoàn các môn đệ: Mỗi người phải trở nên đầy tớ của mọi người.
Hình ảnh mà Đức Giêsu đưa ra ở đây lại càng rõ nét. Ý mà chủ “đầy tớ” không nói ra ở đây, thì từ “nô lệ” lại nói lên một cách mạnh mẽ, bằng cách thêm ý “tùy thuộc” vào người mà ta phục vụ. Trong Giáo Hội, phải triệt để từ bỏ nguyên tắc thăng thưởng, quân hàm, công nghiệp, tước vị huy chương và chỗ danh dự. Chỉ có một nguyên tắc mà thôi: Đó là sự phục vụ, khiêm tốn. Cần nói về những vị có một vai trò đặc biệt, ta sẽ dùng kiểu nói “thừa tác viên” chữ này trong tiếng La tinh có nghĩa là “đầy tớ”. Không có lãnh tụ theo nghĩa thế gian trong Giáo Hội. Chỉ có những “thừa tác viên”, những “người phục vụ”.
Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.
Lý do căn bản của “hiến chương” nguyên thủy này của Giáo Hội, là Giáo Hội đương nhiên phải bắt chước Đức Giêsu. Cần lưu ý về ý nghĩa tích cực mà Đức Giêsu đã gán cho cái chết của Người. Trong ý thức của Người, Người không nghĩ về cái chết này một cách đau khổ; con đường thập giá đối với Người không phải là “chịu đau khổ” mà là “phục vụ”. Mặc dù Người có quyền hạn đầy đủ vì là con Thiên Chúa, thế mà Đức Giêsu đã không hành xử như một vị thống trị, nhưng như “một người đầy tớ”. Người đã không đóng vai “lãnh chúa” mà là “gia nhân” (Ga 13,13) bằng cách hầu bàn chiều Thứ Năm Thánh. Các bác cha mẹ Kitô hữu cũng phải hành xử như thế, đối với những kẻ dưới quyền của mình. Các người có trách nhiệm cũng phải hành xử như thế, đối với thuộc cấp của mình. Chúng ta có đón nhận lời mời gọi của Đức Giêsu một cách nghiêm chỉnh không? Chúng ta chớ nên xét lương tâm kẻ khác. Tôi đang có khuynh hướng “thống trị” ai? Tôi phải “thương yêu” ai? Tôi phải “phục vụ”ai?
53. Chú giải của Fiches Dominicales.
CON NGƯỜI ĐẾN KHÔNG PHẢI ĐỂ ĐƯỢC PHỤC VỤ, NHƯNG ĐỂ PHỤC VỤ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Sau khi loan báo cuộc thụ khổ lần thứ ba
Trên đường lên Giêrusalem, lúc này đã gần tới nơi, bầu không khí càng lúc càng thêm bi thảm. “Người dẫn đầu các ông”, những người đi theo “kinh hoàng” và “sợ hãi”, tiến trên đường dẫn đến cái chết.
Đây là lần thứ ba Chúa loan báo cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Người. Loan báo mà Đức Giêsu gởi tới nhóm Mười Hai, là tế bào đầu tiên và cũng là những người phụ trách cộng đoàn môn đệ của Người. Một lời loan báo rõ rệt hơn hai lần trước (8, 31-33 và 9,32-33), vì đã phác họa trước những gì sẽ xảy ra bị nhà cầm quyền Do thái kết án (xem 14,64), trao nộp cho quan Philatô, kẻ “ngoại giáo” (xem 1 5,1), bị phỉ báng và chịu cực hình: “chúng sẽ nhạo báng người” (xem 15,30-31) “chúng sẽ khạc nhổ vào Người” (xem 14,65 và 15,9), “chúng sẽ đánh đòn Người” (15, 15) “chúng sẽ giết Người” (xem 15, 37) “và ba ngày sau sẽ sống lại”. Cũng như các lần loan báo trước, lần loan báo thứ ba này gây ra những phản ứng; chứng tỏ các môn đệ không hiểu, nên Đức Giêsu phải giải thích cho họ.
2. Thái độ không hiểu tái diễn nơi các môn đệ
Rõ ràng lời xin của Giacôbê và Gioan chẳng thích đáng chút nào trong bối cảnh đó (Đức Giêsu vừa mới loan báo về cuộc khổ nạn của Người). Hai ông đã từng là những người được gọi ngay thời kỳ đầu sứ vụ rao giảng (1,19-20), lúc Chúa hồi sinh con gái ông Giairô, hai ông đã có thể xác minh quyền năng của Người trên sự chết (5,37); hai ông đã cùng với Phêrô là những người duy nhất được chứng kiến Chúa hiển dung trên núi (9,28); và sau này cũng cùng với Phêrô chứng kiến Chúa hấp hối trong vườn Ghêtsêmani (14,33).
Khi Đức Giêsu vừa mới loan báo cuộc khổ nạn lần thứ ba, thì hai ông nóng lòng muốn bảo đảm chiếm cho được chỗ tốt, được một tương lai sáng lạn trong vương quốc. Các ông tiến lại thưa Chúa: “Xin cho hai anh em chúng con được ngồi một người bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”. Số phận mỉa mai thật! khi sau này Chúa hấp hối trên thập giá, hai người được đặt ở bên tả bên hữu Chúa là hai người trộm cướp (15,37) đang cùng chia sẻ cực hình với Người!
– Đức Giêsu cố gắng tỏ cho hai ông biết: đặc ân họ xin là quá lớn và họ thật quả vô tâm, nhưng vô ích. “Các anh không biết các anh xin gì”. Rồi dùng hình ảnh mạnh mẽ, như ‘chén phải uống’; “phép rửa phải chịu” để cho các ông thấy trước những gì sắp xảy ra: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa thầy sắp chịu không?”.
+ Trong Cựu ước, “Chén” đôi khi người ta nói chén chúc tụng, nhưng thường là nói về chén đắng để diễn tả những đau đớn trước lúc chết. Lúc hấp hối, Đức Giêsu đã xin Chúa Cha cất chén đắng cho Người, nhưng cũng nói tiếp: “Nhưng đừng theo ý con, chỉ xin theo ý Cha mà thôi” (14,36).
+ Trong “Bí tích rửa tội”, toàn thân được dìm xuống nước, tượng trưng cho việc “chìm đắm” trong cái chết trước khi chỗi dậy trong đời sống mới. Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu sẽ trải qua một phép rửa thật sự, Người sẽ bị dìm xuống làn nước chết, và chỗi dậy vào ngày thứ ba.
Xin được vinh dự bên cạnh Chúa trong Nước Người, tức là thuận theo cùng một con đường Người đã đi.
Hai môn đệ có dám theo Chúa tới đó không? “Thưa được” ông đáp không hề do dự, không đếm xỉa gì đến những điều Chúa đã cảnh báo.
Mười ông kia đã nghe rõ câu chuyện. Nếu họ “tức tối” thì hẳn không phải vì chê trách mưu đồ của Giacôbê và Gioan, mà vì sợ hai anh em ông này dành được chỗ nhất.
3. Giáo huấn mới của Đức Giêsu: Sự đảo ngịch của Tin Mừng.
Đức Giêsu qui tụ nhóm Mười Hai lại và long trọng giảng giải cho các tông đồ về sự đảo nghịch của Phúc âm.
Khi nói với các tông đồ, cũng như với những người chịu trách nhiệm về các cộng đoàn Kitô hữu có mặt lúc đó hay trong tương lai, Đức Giêsu nêu lên một luật đối trọng với cách thế mà xã hội dân sự chủ trương về quyền hành: “Những người được là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người lớn thì lấy quyền mà cai trị dân”. Điều luật này chống lại lòng ham muốn thống trị và lòng khao khát quyền lực ta mang trong mình, như Giacôbê và Gioan và mười tông đồ còn lại. Điều luật này không chỉ là một điều luật bình thường, mà Đức Giêsu coi nó hiến chế cho các cộng đồng môn đệ Người: mỗi người là đầy tớ người (J. Delorme).
Đây là một đảo lộn tận gốc, một lý thuyết cách mạng bắt đầu cho một mối tương quan mới giữa người với người: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em (người phục vụ, tiếng hy lạp là diakonos, còn có nghĩa là thầy phó tế).
Lý do và gương mẫu cho nguyên lý cách mạng này chính là cách đối xử của Đức Giêsu, Người kết luận: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Câu này nhắc lại lời ngôn sứ nói về Người Tôi Tớ đau khổ (Bài đọc l), nhờ lời này soi sáng, Đức Giêsu nhận biết số phận của Đấng Mêsia-tôi tớ; Lời đó còn nói lên ý nghĩa sự sống và cái chết của Người và loan báo lời mà Chúa sẽ tuyên bố về “chén” vào thứ năm, trước khi Người bị bắt: “Này là máu Thầy, máu Giao ước sẽ đổ ra cho nhiều người”. Để có thể sống như một Kitô hữu chân chính, cộng đoàn môn đệ hôm nay, hôm qua cũng như ngày mai, cần phải xét xem lối hoạt động của mình có hợp với ý và gương mẫu của Đấng Sáng lập, Đấng đã đưa tinh thần phục vụ đến tột đỉnh không.
BÀI ĐỌC THÊM.
1. Vinh quang đầy mâu thuẫn của Con Người
Cuộc chuyện trò cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ (10,38-43) là cuộc thảo luận lần nữa về ngôi thứ trong cộng đoàn, như vậy, nó nối kết với ý tưởng của phần đầu chương này. Lời xin của hai anh em Giacôbê và Gioan đưa đến cuộc chuyện trò này, đồng thời cũng biểu lộ ước muốn chỗ cao nhất: ngồi bên tả bên hữu Chúa trong vinh quang.
Diễn tiến của ước muốn này mang dấu ấn của Máccô. Trước hết, khi hai tông đồ vừa tỏ lộ ước muốn của mình, Đức Giêsu hỏi ngay: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?”. Đức Giêsu thăm dò, tìm hiểu hết mọi khát vọng của ta, đôi khi những ước muốn mà chính ta cũng không hiểu rõ (“Các anh không biết các anh xin gì”). Con đường mà ước muốn phải đi qua để tới đích không gì khác hơn là thập giá, ở đây được diễn tả bằng hai hình ảnh: chén và phép rửa. Cách nói lặp lại nhiều lần (ở đây lặp lại bốn lần) là đặc điểm của Máccô. Đối với ông, điều không thể tránh được trong cuộc sống Kitô hữu chính là thập giá. Còn vinh quang là một ơn hoàn toàn nhưng không, ta không thể biết trước, chỉ một mình Thiên Chúa biết mà thôi. “Cho những lời mà Thiên Chúa đã chuẩn bị”. Đối với những người xin nhiều, xin cả đến vinh quang Thiên Chúa, thì Máccô đề nghị họ sống theo tấm gương của Con Người, một tấm gương đi ngược lại cách sống của người đời: đến để phục vụ, và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người (10,45).
Sống theo gương Đức Giêsu là đề tài rất phổ biến, nhất là khi cuốn sách “Gương Chúa Giêsu” xuất bản ở thời Trung cổ, trở thành nền tảng cho toàn bộ “luân lý” và chính thánh sử Maccô đãtrình bày cho chúng ta điều đó. Ngài đã nói lên mối hệ gần gũi giữa đời sống của Đức Giêsu (nhất là cuộc khổ của Người) và đời sống của người Kitô hữu. Mối quan hệ gần gũi đó luôn là ví dụ điển hình cho mọi nỗ lực tìm hiểu cuộc sống người Kitô hữu. Máccô mời gọi ta suy nghĩ lại những thói quen giữ đạo: những hoạt động, bi kịch, và khát vọng của ta dưới ánh sáng của tấn thảm kịch duy nhất của Đức Giêsu: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (9,31).
2. Đối với Đức Giêsu, chức quyền là để phục vụ
Chức quyền cũng như tiền bạc, tự nó không xấu. Bất cứ nào cũng cần có một người phụ trách. Nhưng theo ý Chúa, phụ trách trước hết không phải một địa vị thống trị, hưởng lợi, hưởng uy thế, mà là một địa vị để phục vụ nhiều hơn. Trong Hội Thánh nói riêng, người cầm quyền là những thừa tác viên trong tiếng Latinh từ này có nghĩa là “đầy tớ” – Bản Hy lạp của Tin Mừng Máccô dùng hai từ diakonos = đầy tớ và doulos = nô lệ. Điều đáng buồn là ngày nay đôi khi còn có những người tranh giành quyền lực trong Hội Thánh. Đức Giáo Hoàng cũng tự xưng mình là “Tôi tớ các tôi tớ” của Thiên Chúa.
Thật vậy, cần phải đạt tới cách sống như thế. Người lãnh đạo giỏi là người biết làm cho người dưới cùng chịu trách nhiệm. Giáo sư giỏi là người biết khơi dậy sáng kiến của môn sinh. Chủ doanh nghiệp giỏi là người biết hỏi ý kiến của công nhân và cán bộ của mình. Cha mẹ tốt là người biết nghệ thuật làm triển nở con cái một cách tích cực. Những giáo xứ mạnh là nơi mà các tín hữu biết tham gia cộng tác với mọi tầng lớp và trong mọi việc.
Có lẽ người ta đã quên rằng từ “quyền thế”‘ trong tiếng Latinh: ‘auctoritas’ bởi gốc “augere” = làm cho lớn lên, thêm lên. Đối với Đức Giêsu, chính là như vậy: quyền hành là sự phục vụ trong một nhóm, nhằm giúp các thành viên lớn lên, dám tự mình chịu trách nhiệm. Người lãnh đạo chân chính là người biết nghe, hiểu, đánh giá, tôn trọng người khác, chứ không phải là người thống trị, hạ nhục, lợi dụng người khác, và để người khác thụ động vô trách nhiệm.
54. Gợi ý của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Đây là một bản văn mà các anh em phản chứng thường nhắc nhở và chú giải cách nhiệt thành: Chúa Kitô đã không bao giờ tán dương người trên, linh mục hoặc thủ lãnh. Đối với Người, điều làm nên môn đồ, chẳng phải là quyền bính, sự thông thái, nhưng là sự phục vụ. Chính Người đã từ chối dứt khoát cám dỗ của Satan là thống trị các dân tộc với các phép lạ lẫy lừng. Thầy ở giữa các con như một người phục vụ.
2. Thế nhưng ta đều bị cám dỗ sử dụng những phương tiện điều hành, bởi vì đối với ta chúng có vẻ hữu hiệu để hướng dẫn con người hơn là sự thuyết phục, sự tự do và lòng yêu thương. Giacôbê và Gioan đã mong ước thực thi việc tông đồ ở trên ngai, và Chúa Giêsu đã cho hai ông biết sẽ thực thi việc đó ở trên thập giá.
3. Chúa Kitô là thủ lãnh và là Thầy tuyệt hảo; muốn biết quyền bính trong Hội Thánh phải được thực thi như thế nào, hãy xem Chúa Giêsu dã sử dụng quyền năng Người ra sao. Đối với Chúa Giêsu, Vương quốc Thiên Chúa là một xã hội hoàn toàn khác với các quốc gia trần thế; nó không tự áp đặt cho con người do chính bản chất của mình, nhưng hằng tự do lương tâm. Lời mời gọi của Chúa luôn luôn là tự do: “nếu anh muốn làm tông đồ Ta… Nếu anh muốn trở nên hoàn hảo… hạnh phúc cho các anh nếu các anh làm như vậy…”. Quyền bính Kitô giáo phải được thực thi bằng thuyết phục, bằng cảm hóa, soi sáng, dạy dỗ.
4. Nhưng những thí dụ và lời giáo huấn của Chúa Giêsu quá trái nghịch với những tham vọng tự nhiên của các môn đồ, nên khó mà không gặp phản ứng thái độ ngây ngô của Giacôbê và Gioan vẫn còn là thái độ của nhiều người trong Giáo Hội. Ngày nay, người ta khám phá rằng quyền bính trong Hội Thánh không phải là quyền áp đặt những quyết định của thủ lãnh cho các cấp dưới, nhưng là khả năng khơi dậy sự hiệp thông. Vấn đề không phải là truyền lệnh hay là thanh trừng, nhưng là kêu gọi lương tâm và xác tín. Vị thủ lãnh không phải là người ra lệnh nhưng là người tạo nên một bầu khí tin tưởng, thương yêu, tôn trọng, một cộng đoàn cùng chung những quan điểm và khát vọng đến nỗi giải đáp của các vấn đề sẽ được thể hiện bằng một sự nhất trí luân lý.
5. Chúa Giêsu đã không nói đến nguy hiểm và trật tự trọng Hội Thánh Người, nhưng Người đã nói nhiều đến nguy hiểm của một quyền bính tôn giáo được thực thi như một quyền bính trần thế. Chúa Giêsu đã không nói rằng các thủ lãnh phải cai trị bằng sự công bình và lòng nhân từ; Người đã nói rõ ràng rằng các thủ lãnh không được cai trị, nhưng hãy sống như các nô lệ và tôi tớ; người nào phục vụ nhất, người đó là thủ lãnh đích thực.
6. Chỉ có một tinh thần Tin Mừng, chỉ có Thánh Thần của Chúa Giêsu mời có thể linh ứng cho các người có trách nhiệm phương thức thi hành sứ mạng tôn giáo. Để thực thi tốt quyền bính, cũng như để sử dụng tốt của cải, cần phải nói như Chúa Kitô: “Đối với con người là điều không thể, nhưng đối với Thiên Chúa thì tất cả đều làm được”.
7. Ngai vàng duy nhất, uy quyền duy nhất, quyền bính duy nhất mà Chúa Kitô đã hứa cho Giacôbê và Gioan, là hãy yêu mến như Người, uống chén đắng, thí mạng sống và yêu anh em như Người.
55. Chú giải mục vụ của William Barclay.
ĐÒI HỎI THAM VỌNG (10,35-40)
Đây là một câu chuyện cho chúng ta thấy nhiều điều hay:
1/ Nó cho chúng ta biết đôi điều về Maccô.
Matthêu cũng kể lại câu chuyện này (Mt 20,20-23) nhưng trong tường thuật của ông thì trước hết, lời yêu cầu không do Giacôbê và Gioan đích thân nêu ra, nhưng do mẹ của hai ông là bà Salômê. Có lẽ theo Matthêu thì một yêu cầu như thế là không xứng đáng cho một tông đồ, nhưng nhằm cứu vãn tiếng tăm cho hai anh em, ông đã gán lời yêu cầu đó cho tham vọng tự nhiên của bà mẹ. Câu chuyện này cho chúng ta thấy sự thành thật của Maccô. Người ta kể rằng có một họa sĩ trong triều đình vẽ chân dung cho Oliver Cromwell. Mặt Cromwell đầy mun cóc. Nghĩ để vui lòng ông, họa sĩ không vẽ những mụn cóc đó trong bức họa. Khi Cromwell thấy như vậy, ông nói “Dẹp bức chân dung này đi, vẽ cho ta một bức với đầy đủ mụn cóc”. Mục đích của Maccô là muốn chúng ta thấy đầy đủ mụn cóc của các tông đồ. Và Maccô đã có lý, vì mười hai tông đồ vốn không phải là tập thể các vị thánh. Họ chỉ là những con người giống như chúng ta để thay đổi thế giới. Điều này đã thành hiện thực.
2/ Nó cho chúng ta biết vài điều về Giacôbê và Gioan.
(a) Hai ông vốn có nhiều tham vọng. Họ nhắm vào những chức vị cao nhất trong vương quốc của Chúa Giêsu khi chiến thắng và khải hoàn trọn vẹn. Có thể tham vọng đó đã manh nha, vì nhiều lần Chúa Giêsu từng tách riêng họ ra trong số ba người chọn lọc tin cẩn. Có thể họ đã có một chỗ đứng khá hơn những người khác. Thân phụ họ vốn khá giả đủ để thuê người giúp việc (Mc 1,20) nên họ tưởng rằng ưu thế về địa vị xã hội có thể giúp họ chiếm được địa vị hàng đầu. Dù sao họ cũng để lộ cho thấy họ là những con người, từ nơi sâu kín của lòng họ, có tham vọng chiếm giữ vị trí hàng đầu trong vương quốc trần gian.
(b) Nó cho chúng ta thấy hai ông hoàn toàn không hiểu Chúa Giêsu. Điều lạ lùng đối với chúng ta không phải là sự kiện ấy đã xảy ra, nhưng là thời gian mà sự việc ấy đã xảy ra. Lời yêu cầu này khiến chúng ta phải bàng hoàng vì nó được đưa ra hầu như trùng hợp với lúc Chúa Giêsu tuyên bố dứt khoát và báo trước chi tiết cái chết của Ngài. Ngoài chuyện này, không có việc nào khác có thể bày tỏ cho chúng ta thấy họ đã hiểu quá ít những gì Chúa Giêsu nói. Lời lẽ của Ngài đã không gột rửa nổi ý niệm về Đấng Mêsia, với quyền thế và vinh hiển thế gian,vốn ăn sâu trong tâm trí hai ông. Chỉ có thập giá mới làm nổi việc ấy mà thôi.
(c) Nhưng sau khi chúng ta đã nói tất cả những gì có thể nói chống lại Giacôbê và Gioan, thì câu chuyện này cho chúng ta thấy một điểm sáng chói về hai ông là dù họ đang bàng hoàng, bối rối, họ vẫn còn tin vào Chúa Giêsu. Điều đáng ngạc nhiên là họ vẫn còn gắn liền vinh quang với một người thợ mộc dân Galilê, người đã bị các cấp lãnh đạo Do Thái giáo thù ghét, chống đối kịch liệt và rõ ràng Ngài đang tiến đến chỗ nhận lấy thập giá. Đây là một lòng tin cậy, tận trung đáng cho chúng ta phải kinh ngạc. (Giacôbê và Gioan đã phạm sai lầm nhưng tấm lòng của họ vẫn nằm đúng vị trí đáng phải có, họ chẳng hề hoài nghi chút gì về chiến thắng tối hậu của Chúa Giêsu).
3/ Nó cho chúng ta biết đôi điều về tiêu chuẩn của Chúa Giêsu.
Bản dịch của chúng ta đã dịch nguyên văn theo nghĩa đen câu hỏi của Chúa Giêsu “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”. Ở đây Chúa Giêsu đã dùng hai lối nói bóng theo người Do Thái. Theo tập tục, trong các dạ hội hoàng gia khoản đãi, nhà vua sẽ tự tay trao chén cho khách được mời. Do đó, chén muốn nói về đời sống và kinh nghiệm phúc lộc mà Thiên Chúa trao cho loài người? Tác giả Kinh Thánh cũng nói “Chén tôi đầy tràn” (Tv 23,5), khi ông đề cập đời sống và kinh nghiệm sống mà Thiên Chúa đã ban cho ông. Tác giả Kinh Thánh cũng nói “Trong tay Chúa có cái chén” (Tv 75,8) khi ông nghĩ đến số phận dành cho kẻ ác và không vâng lời. Khi nghĩ về những tai họa giáng trên Israel, Isaia mô tả dường như họ đã uống say “chén thịnh nộ từ tay Thiên Chúa” (Is 51,17). Vậy chén ám chỉ về kinh nghiệm sống mà Thiên Chúa dành cho loài người. Câu thứ hai Chúa Giêsu phán cũng dễ gây hiểu lầm. Ngài muốn đề cập đến phép rửa Ngài đã chịu. Động từ Hy văn baptizein có nghĩa là nhúng. Quá khứ phân từ của nó là bebatismenos, có nghĩa là bị chìm ngập và thường được dùng để chỉ một việc bị chìm ngập trong một kinh nghiệm nào đó. Chẳng hạn như chúng ta nói người hoang phí bị nợ ngập đầu. Người uống rượu được bảo là uống như hũ chìm. Người gặp đau khổ quá nhiều được gọi là chìm trong đau thương. Từ này thường được dùng để chỉ chiếc tàu bị đắm và chìm dưới nuớc. Cách nói bóng ở đây rất giống với lối nói bóng mà tác giả Kinh Thánh thường dùng. Tv 42,7. Chúng ta đọc thấy “Các lượn sóng và nước lớn của Chúa đã ngập tôi” Tv 124,4 “nước đánh chìm chúng ta, dòng nước tràn qua ngập linh hồn chúng ta”. Thành ngữ Chúa Giêsu dùng ở đây không liên hệ gì với thuật ngữ phép rửa. Điều Ngài ngụ ý muốn nói là “các ngươi có bằng lòng trải qua phần kinh nghiệm từng trải khủng khiếp mà ta sắp phải trải qua không? Các ngươi có dám đương đầu với thù ghét, đau khổ và cái chết sắp nhận chìm, như ta sắp phải chịu không?” Chúa Giêsu đang muốn dạy hai người môn đệ này rằng nếu không có thập giá thì sẽ chẳng bao giờ có được triều thiên. Tiêu chuẩn về sự cao trọng vĩ đại trong Nước Thiên Chúa là thập giá. Thật vậy, những tháng ngày sau đó, trải qua kinh nghiệm của Thầy mình, vì Giacôbê đã bị vua Ácríppa chém đầu (Cv 22,2) còn Gioan tuy không tử đạo nhưng ông đã chịu nhiều khổ nạn vì Chúa Giêsu. Họ đã chấp nhận lời thách thức trên đây của thầy mình, dẫu chưa hề hay biết gì.
4/ Chúa Giêsu bảo với họ rằng kết quả tối hậu của mọi việc là thuộc về Thiên Chúa.
Số phận tối hậu dành cho một người là do quyền của Chúa định đoạt. Chúa Giêsu không bao giờ lạm quyền của Thiên Chúa. Cả đời sống Ngài, chính là một hành động tuân phục ý Thiên Chúa cách trường kỳ, và Ngài biết rằng đến cuối cùng, thì ý của Thiên Chúa tối cao, tuyệt đối.
GIÁ CỦA CÔNG CUỘC CỨU RỖI LOÀI NGƯỜI (10,41-45)
Điều không thể tránh được là chuyện của Giacôbê và Gioan khiến mười tông đồ kia tức giận. Theo họ hai anh em cố giành bước trước, đã chơi xấu, muốn chiếm ưu thế đối với họ. Lập tức, vấn đề tranh cãi xem ai sẽ là người lớn hơn hết bắt đầu nổi lên dữ dội hơn bao giờ. Tình hình bỗng trở nên nghiêm trọng, thông điệp giữa các tông đồ bị sứt mẻ nếu Chúa Giêsu không hành động ngay. Ngài vạch rõ các tiêu chuẩn khác nhau về sự cao trọng trong Nước Thiên Chúa với các nước trên thế gian. Trong các vương quốc trần gian, tiêu chuẩn về cao trọng là quyền thế. Cách thử nghiệm là: một người cai trị được bao nhiêu người khác? Khi một người truyền lệnh, thì được bao nhiêu kẻ bị buộc phải răm rắp tuân theo? Người ấy có thể áp đặt ý của mình trên bao nhiêu người? Chẳng bao lâu sau đó, Galba đã tóm tắt quan niệm ngoại đạo về vương quyền và tính cách cao trọng khi ông ta bảo bây giờ ông ta đã là hoàng đế, ông muốn làm gì thì làm, ông có quyền thực hiện bất cứ việc gì cho bất kỳ ai. Trong vương quốc của Chúa Giêsu, tiêu chuẩn lại là phục vụ. Sự cao trọng không bao gồm việc bắt người khác phục vụ mình, nhưng là đặt chính mình vào việc phục vụ tha nhân. Cách thử nghiệm không phải là: tôi được thiên hạ phục vụ tới mức độ nào, nhưng là: tôi có thể phục vụ tới mức độ nào.
Chúng ta có khuynh hướng nghĩ đây là một tình trạng lý tưởng ở đời. Thật ra, đây chỉ là một lẽ thường hợp lý, là nguyên tắc đầu tiên của cách sống. Bruce Barton chỉ cho thấy rằng căn bản mà một hãng ô tô dựa vào để kêu gọi sự lưu tâm các khách hàng của mình là họ sẵn sàng chui xuống gầm xe của bạn thường hơn, chịu dơ bẩn hơn bất cứ một hãng cạnh tranh nào. Nói cách khác, họ sẵn sàng phục vụ nhiều hơn. Ông ta cũng chỉ cho thấy rằng trong khi người thư ký văn phòng bình thường có thể đi về nhà từ 5g30 chiều, thì ánh đèn trong văn phòng giám đốc điều hành vẫn còn sáng đến khuya. Vì sẵn sàng phục vụ thêm giờ, mà người ấy đứng đầu xí nghiệp. Chỗ rắc rối trong tâm trạng của con người, là ai cũng muốn làm ít nhất, nhưng lại được hưởng lợi nhiều nhất. Chỉ khi nào người ta muốn đầu tư vào cuộc sống nhiều mà lấy ra ít, thì đời sống mới phong phú và hạnh phúc cho chính họ và cho tha nhân. Thế giới này đang cần những con người có lý tưởng phục vụ, là những con người nhận thức được ý nghĩa sâu xa của câu mà Chúa Giêsu phán dạy ở đây.
Nhằm nhấn mạnh vào lời phán dạy của Ngài, Chúa Giêsu đã chỉ vào chính gương của Ngài. Với quyền năng sẵn có, Ngài có thể sắp xếp cuộc sống hoàn toàn phù hợp với chính Ngài, nhưng Ngài đã sử dụng bản thân và tất cả để phục vụ người khác. Ngài phán rằng, Ngài đã đến để phó mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người. Đây là một trong những câu quan trọng nhất trong Phúc Âm, thế nhưng lại thường bị hiểu sai và bị xuyên tạc một cách đáng buồn. Nhiều người nỗ lực dùng câu nói đầy yêu thương đó để dựng nên một lý thuyết về chuộc tội. Chẳng bao lâu sau đó, người ta đã đặt vấn đề là giá chuộc của Chúa Giêsu được trả cho ai? Origen đưa ra câu hỏi “Ngài đã phó mạng sống trả giá cho ai để cứu chuộc nhiều người? Giá ấy không phải để trả cho Thiên Chúa vậy trả cho ma quỷ chăng? Vì ma quỷ vẫn muốn nắm chặt lấy chúng ta cho đến khi một giá chuộc phải được trả cho hắn, và đó chính là sinh mạng của Chúa Giêsu, vì nó đã bị lừa gạt bở tưởng rằng nó có thể cầm quyền trên sự sống ấy mà lại không thấy rằng nó không thể nào chịu nổi sự hành hạ trên quan điểm việc cầm giữ sự sống ấy”. Đó là một quan niệm xưa cũ chủ trương rằng sự sống của Chúa Giêsu đã được trả cho ma quỷ như một giá chuộc để giải thoát cho loài người khỏi xiềng xích nô lệ mà nó đã dùng trói buộc họ, nhưng ma quỷ đã thấy khi đòi hỏi và nhận được giá chuộc đó, nó đã cắn nhằm miếng mồi khó nuốt như ta thường nói là khạc chẳng ra, nuốt chẳng vào.
Gregory ở Nyssa đã nhìn thấy vết rạn trong lý thuyết ấy, thuyết ấy đã đặt ma quỷ ngang hàng với Chúa, mặc cả với Ngài trên tiêu chuẩn bình đẳng. Vì vậy Gregory ở Nyssa lại cưu mang một ý tưởng khác thường về việc Chúa đánh lừa ma quỷ. Ma quỷ đã bị lừa phỉnh với sự dường như yếu đuối của nhập thể. Nó lầm tưởng rằng Chúa Giêsu chỉ là một con người bình thường. Nó cố gắng thực thi quyền lực của nó trên Chúa Giêsu và khi làm vậy, nó bị mất đi phần quyền lực ấy. Đây cũng lại là một quan niệm kỳ quái, chủ trương rằng Thiên Chúa phải chinh phục ma quỷ bằng một mưu lược lừa phỉnh. Hai trăm năm nữa trôi qua và Gregory lại trở về với quan niệm ấy. Ông ta dùng một dụ ngôn kỳ dị. Sự nhập thể của Chúa Giêsu là một mưu lược của Thiên Chúa nhằm cài bẫy để bắt con Lêviathan khổng lồ. Thần tính của Chúa Kitô là cái lưỡi câu, còn xác thịt Ngài là miếng mồi. Khi miếng mồi được nhử trước mặt Lêviathan là ma quỷ, thì nó đã nuốt miếng mồi, đồng thời cũng muốn nuốt luôn cả lưỡi câu vì vậy nó đã bị chinh phục vĩnh viễn. Cuối cùng, Phêrô người Lombard đã đưa quan niệm ấy tới chỗ lố bịch và đáng ghê tởm nhất, ông ta nói “Thập giá là chiếc bẫy chuột để bắt ma quỷ mà máu của Chúa Cứu Thế đã được dùng làm mồi”. Tất cả những gì vừa trình bày cho thấy điều gì xảy ra khi con người lấy một bức tranh quý báu đáng yêu để tạo ra một lý thuyết thần học lạnh giá.
Khi chúng ta nói “Đau khổ là giá trả cho tình yêu” chúng ta ngụ ý rằng tình yêu không thể tồn tại mà không có đau khổ cặp theo, nhưng chúng ta không bao giờ nghĩ đến việc giải thích xem giá phải trả cho ai. Khi chúng ta nói tự do phải được trả giá bằng máu lao lực mồ hôi và nước mắt, chúng ta chẳng bao giờ tra vấn xem cái giá trả cho ai. Câu nói trên đây của Chúa Giêsu chỉ là một cách nói gợi hình, ngụ ý rằng Chúa Giêsu phải trả giá bằng chính mạng sống Ngài để đưa loài người đang đắm chìm trong tội lỗi, trở về với tình yêu thương của Chúa. Nó có nghĩa rằng cái giá phải trả để chúng ta được cứu rỗi chính là thập giá. Chúng ta không thể và cũng không cần vượt xa hơn điều đó, chúng ta chỉ cần biết đã có một việc gì đó đã xảy ra trên thập giá, và con đường đến cùng Thiên Chúa đã được mở rộng cho chúng ta.
56. Muốn làm đầu phải hầu thiên hạ
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Sau khi Đức Giê-su loan báo lần thứ ba về cuộc Thương Khó Người sắp trải qua, các môn đệ xem ra vẫn không hiểu và không muốn chấp nhận con đường đó. Các ông vẫn đinh ninh rằng Thầy các ông sắp lên Giê-ru-sa-lem để làm Vua Mê-si-a và các ông đã tranh giành nhau vị trí quan trọng trong Nước Thiên Chúa mà Người sắp thiết lập (Mc 9,33-34; 10,35-40); Đức Giê-su đã nhắc nhở các môn đệ về bổn phận của người làm đầu là phải hầu thiên hạ và nên tôi tớ phục vụ mọi người (9,33; 10,41-45).
CHÚ THÍCH:
– C 35-38: + Hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an: Gia-cô-bê và Gio-an là con ông Giêbêđê và bà Salomê và là anh em bà con của Đức Giê-su.. Hai ông thuộc Nhòm 12 Tông đồ, được Đức Giê-su kêu gọi đầu tiên và đã mau mắn bỏ thuyền và từ giã cha già mà đi theo Người (x Mt 4,21-22). Hai ông nhiệt thành bảo vệ Đức Giê-su và được Người gọi là “con cái của sấm chớp”. + Chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin: Tin Mừng Mát-thêu thay lời xin của hai anh em bằng lời xin của bà mẹ. Có người cho rằng Mát-thêu muốn làm giảm tính tiêu cực của hai anh em qua việc đổ lỗi cho bà mẹ!
– C 37-38: + Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang: Hai ông nghĩ Thầy sắp vào trong vinh quang là lên làm Vua Thiên Sai, nên xin hai chỗ vinh dự nhất là được ngồi hai bên tả hữu. + Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?: Hai ông đã không hiểu được ý nghĩa thực sự và kết cục là cái chết đau thương đang chờ đón Thầy tại Giê-ru-sa-lem, nên Đức Giê-su đã nhắc cho các ông về điều ấy.
– C 39-40: + “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu: Đức Giê-su hứa cho các ông được chia sẻ trọn vẹn thân phận của Người. “Chén Thầy sắp uống” tượng trưng cho những đau khổ, “phép rửa Thầy sắp chịu” ám chỉ việc Người sẽ bị dìm trong lòng đất khi chết và được an táng trong mồ. Nhưng ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Lời tiên báo này đã được ứng nghiệm khi Gia-cô-bê là vị Tông đồ đầu tiên chịu tử vì đạo vào n ăm 42 do vua Hêrôđê An-ti-pa, như sách Tông Ðồ Công Vụ đã cho biết như sau: “Cùng thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay bắt bớ và làm khổ mấy người trong Giáo Hội, vua đã truyền chém ông Gia-cô-bê, anh của ông Gio-an” (Cv 12,2). Còn Tông đồ Gio-an thì bị đi đày một thời gian trên đảo Pát-mốt thời hòang đế Do-mi-ti-en. Người đã bị bỏ vào vạc dầu sôi nhưng được Chúa cứu thóat. Ngài qua đời tại Ephêsô (Tiểu Á) dưới thời hòang đế Tra-jan sau năm 98. + Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được: “Chuẩn bị cho ai” ám chỉ là do ý muốn của Chúa Cha, chứ không phải sự tiền định.
– C 41-42: + Mười môn đệ kia đâm ra tức tối: Các ông tức tối vì chính các ông cũng muốn được ngồi chỗ nhất trong Nước Thầy sắp thiết lập. + Những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân: Đức Giê-su giáo huấn môn đệ về quyền lãnh đạo: Quyền bính xã hội thường mang tính áp chế do tham vọng ca nhân muốn được ăn trên ngồi trước.
– C 43-45: + Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em: Đức Giê-su phân biệt quyền bính trong Nước Trời hay Cộng đòan Hội Thánh mà Người sắp thiết lập. + Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người: Người đòi môn đệ và các mục tử lãnh đạo Cộng đòan phải noi gương Người để sống khiêm hạ và sẵn sàng phục vụ người dưới. + Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ: Đức Giê-su thường tự xưng mình là Con Người. Người luôn nêu gương khiêm hạ phục vụ và đòi môn đệ cũng phải học tập sống như vậy. + và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người: Giá chuộc ở đây thường là số tiền bỏ ra để mua sự giải thoát cho một tù nhân, hoặc để chuộc lại một người đang làm nô lệ. Tuy Đức Giê-su không bỏ tiền ra chuộc ai cả, nhưng Người chấp nhận trải qua cuộc tử nạn và phục sinh theo thánh ý Chúa Cha giống như giá chuộc để đền tội thay và giải thóat mọi người khỏi án chết muôn đời.
CÂU HỎI:
1) Hai môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an là ai?
2) Hai môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an xin Đức Giê-su điều gì?
3) Chén Thầy sắp uống và phép rửa Thầy sắp chịu ám chỉ biến cố gì? 3)Bạn biết gì về cuộc tử đạo của Tông đồ Gia-cô-bê?
4) Tông đồ Gio-an đã uống chén khổ nạn do Chúa trao cho thế nào?
5) Chúa Cha “chuẩn bị cho ai” nghĩa là gì?
6)Tại sao mười môn đệ kia lại tức tối với hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an?
7) Đức Giê-su giáo huấn các ông về quyền lãnh đạo trong Nước Thiên Chúa thế nào?
8) Người muốn các môn đệ và các mục tử sau này phải noi gương Người ra sao? 9)”Giá chuộc muôn người” nghĩa là gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45).
2. CÂU CHUYỆN: Gương hy sinh phục vụ của đôi tân hôn:
Một câu chuyện phục vụ Mẹ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA hay kể lại như sau:
“Vào năm 1982, một hôm có đôi thanh niên nan nữ tới nhà chúng tôi tại Can-quýt-ta đến trao tặng một món tiền lớn giúp bữa ăn cho người nghèo. Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi: “Do đâu mà hai con có món tiền lớn vậy?” Họ trả lời: “Chúng con vừa tổ chức lễ cưới được hai ngày nay. Trước lễ cưới, chúng con bàn nhau sẽ thuê áo cưới thay vì đi may, cũng không liên hoan linh đình, mà dùng khoản tiền ấy trao tặng cho những người kém may mắn. Vì chúng con yêu nhau và muốn có một kỷ niệm đẹp nhân ngày cưới nhau”.
Ðể biết rõ thêm, mẹ Têrêsa hỏi: “Tại sao chúng con quyết định táo bạo như thế? Chúng con không sợ việc làm như vậy sẽ làm cha mẹ và họ hàng buồn lòng hay sao?” Hai bạn trẻ ấy trả lời: “Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống bằng một sự hy sinh mà cả hai đều cùng nhau thực hiện”.
Mẹ Tê-rê-sa kết luận: “Thật là tuyệt vời khi nghĩ đến một tình yêu cao quí như vậy. Tôi luôn cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho những người trẻ ơn thánh và sức mạnh, để trong ngày thành hôn, họ có thể trao cho nhau trái tim trong sạch, trái tim trinh khiết, thân xác trong trắng… là món quà lớn lao của tình yêu nhau”.
3. SUY NIỆM:
1) Con người ai cũng muốn được ngồi vào chỗ nhất:
Hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đã không ngần ngại xin Đức Giê-su cho ngồi hai bên tả hữu Thầy, là hai chỗ tốt nhất khi Thầy lên làm Vua Mê-si-a. Mười môn đệ kia nghe vậy rất bực mình. Điều này cho thấy họ cũng muốn ngồi chỗ ấy.
Thực ra, tự bản chất, mỗi chúng ta đều muốn được “ăn trên ngồi trước”. Xã hội cũng tôn vinh những người địa vị cao, khuyến khích những ngừơi đoạt giải nhất trong các cuộc thi, hoan hô các nhà vô địch “khỏe nhất, nhanh nhất, xa nhất” như trong các Đại Hội Thể Thao Ô-lym-pic…
2) Đức Giê-su “đến để phục vụ hơn là được phục vụ”:
Khi đi giảng đạo, Đức Giê-su luôn nêu gương khiêm hạ phục vụ tha nhân: Người đã làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế như: “Cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Lc 7,22; Is 35,5-6; 42,7). Để cứu độ chúng ta, Người chấp nhận hy sinh chịu chết trên thập giá, hầu chứng tỏ một tình yêu tột đỉnh (x Ga 15,13). Người cũng nói với các môn đệ rằng: “Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”(Mc 10.45). Trong bữa tiệc ly Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và sau đó đã dạy các ông bài học yêu thương phục vụ lẫn nhau như sau: “Anh em gọi Thầy là “Thầy” là “Chúa”. Điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là “Thầy” là “Chúa”. Vậy nếu Thầy là “Chúa” là “Thầy”, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,13-15).
3) Chúng ta phải làm gì?
– Bác sĩ TOM DOLLY đã nói như sau: “Không ai quá nghèo đến độ không có một cái gì đó để trao tặng cho người khác”. Dù là người bất tài, xấu xí hay bệnh tật đến đâu, không ai trong họ là người hòan tòan vô dụng”.
– Ở bất cứ đâu và trong bất cứ hòan cảnh nào mỗi người chúng ta đều có thể yêu thương và phục vụ tha nhân: Là người bán hàng: chúng ta có thể nói với khách hàng rằmg: “Tôi có thể giúp gì được cho bạn?”. Là bác sĩ hay y tá bệnh viện, chúng ta có thể ân cần phục vụ bệnh nhân; Là linh mục, tu sĩ hay giáo dân, chúng ta có thể phục vụ người nghèo, bệnh tật và bị bỏ rơi noi gương Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta. Vấn đề là chúng ta có sẵn sàng mở rộng con tim để đón nhận và yêu thương phục vụ tha nhân như chính Đức Giê-su hay không?
– Buổi tối mỗi người hãy dành một phút xét mình trong giờ kinh tối gia đình: “Hôm nay tôi đã làm gì để phục vụ tha nhân? Như: Nở nụ cười thân thiện với người mới gặp; Trao cái nhìn yêu thương cho một người ăn xin; Lắng nghe cảm thông với một người đang lo âu; Nói một lời an ủi người chán nản …Mỗi lời nói, cử chỉ, việc làm kèm theo tình thương sẽ là món quà quý phục vụ tha nhân.
4. THẢO LUẬN:
1) Bạn cần làm gì để tránh thói ham mê danh vọng chức quyền thế gian?
2) Tuần này bạn sẽ làm gì để thực tập khiêm hạ phục vụ?
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hạ mình như đầy tớ phục vụ môn đệ và tình nguyện chịu chết đền tội thay cho chúng con. Xin giúp chúng con hiểu được tình yêu vô biên của Chúa và noi gương Chúa yêu thương phục vụ mọi người. Xin cho chúng con biết năng nghĩ đến người bên cạnh và phục vụ họ như phục vụ chính Chúa để xứng đáng thành môn đệ thực sự của Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
* LỄ TRUYỀN GIÁO
1. Sứ Điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2021
SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
CHO NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN GIÁO 2021
“Chúng tôi không thể không nói về những điều
chúng tôi đã thấy và đã nghe” (Cv 4:20)
Anh chị em thân mến,
Một khi đã được trải nghiệm sức mạnh tình thương của Thiên Chúa và nhận ra sự hiện diện từ phụ của Người trong đời sống cá nhân và cộng đoàn của chúng ta, chúng ta không thể không công bố và chia sẻ điều chúng ta đã thấy và đã nghe. Mối quan hệ của Đức Giêsu với các môn đệ của Người và với toàn thể nhân loại, như được mặc khải cho chúng ta trong mầu nhiệm Nhập Thể của Người, trong Tin Mừng và Mầu Nhiệm Vượt Qua, chỉ ra cho chúng ta thấy Thiên Chúa yêu thương loài người đến mức nào và Người cũng lấy làm của mình những niềm vui và nỗi khổ của chúng ta, những hy vọng và lo âu của chúng ta (x. Gaudium et Spes, 22). Mọi sự nơi Đức Kitô đều nhắc nhớ chúng ta rằng Người biết rõ thế giới của chúng ta và nhu cầu cứu rỗi của thế giới ấy, và Người mời gọi chúng ta tích cực dấn thân cho sứ mạng này: “Vậy các ngươi hãy ra các nẻo đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” (Mt 22:9). Không một ai bị loại trừ, không một ai phải cảm thấy xa lạ hay bị gạt ra ngoài tình thương yêu trắc ẩn này.
Trải nghiệm của các Tông Đồ
Lịch sử rao giảng Tin Mừng bắt đầu với ước muốn cháy bỏng của Chúa Giêsu là kêu gọi và đối thoại thân tình với mọi người, bất kể họ như thế nào (x. Ga 15:12-17). Các Tông Đồ là những người đầu tiên kể lại cho chúng ta điều này; họ thậm chí còn nhớ cả ngày và giờ họ được gặp Người lần đầu: “Lúc ấy là khoảng bốn giờ chiều” (Ga 1:39). Được trải nghiệm tình bạn của Chúa, được chứng kiến Người chữa lành các bệnh nhân, ngồi ăn với những người tội lỗi, cho người đói ăn, lại gần những người bị ruồng bỏ, chạm vào những người ô uế, tự đồng hoá mình với những người nghèo khó, đề nghị các mối phúc thật, và giảng dạy một cách mới mẻ và đầy thẩm quyền, để lại dấu ấn không thể xoá nhoà nơi họ, khơi dậy sự ngạc nhiên, niềm vui lan toả và một tâm tình biết ơn sâu xa. Ngôn sứ Giêrêmia mô tả kinh nghiệm này như là trải nghiệm một ý thức nồng cháy về sự hiện diện chủ động của Đức Giêsu trong trái tim chúng ta, thúc đẩy chúng ta thi hành sứ mạng mà không sợ hy sinh và bị hiểu lầm (x. 20:7-9). Tình yêu luôn luôn tiến tới, nó truyền cảm hứng để chúng ta chia sẻ một sứ điệp kỳ diệu và tràn trề hy vọng: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (Ga 1:41).
Với Đức Giêsu, chúng ta cũng đã thấy, đã nghe và trải nghiệm rằng các sự việc có thể được biến đổi. Ngay cả bây giờ, Người đã khai mào thời đại tương lai, đồng thời nhắc nhớ chúng ta về một chiều kích thường bị lãng quên của nhân tính chúng ta, đó là “chúng ta đã được tạo dựng để hoàn thành điều chỉ có thể tìm thấy trong tình yêu” (Fratelli Tutti, 68). Một tương lai làm thức tỉnh một đức tin có khả năng khơi dậy những sáng kiến mới và hình thành những cộng đồng gồm những người nam và người nữ cổ vũ cho tình huynh đệ và tình bạn xã hội, nhờ biết chấp nhận sự mỏng dòn của chính mình và của người khác (x. ibid., 67). Cộng đoàn Hội Thánh biểu lộ vẻ diễm lệ của mình khi Hội Thánh nhắc nhớ lại với tấm lòng biết ơn rằng Chúa đã yêu chúng ta trước (x. 1 Ga 4:19). “Lòng ưu ái của Thiên Chúa khiến chúng ta ngạc nhiên, và tự bản chất của nó, sự ngạc nhiên không phải là cái chúng ta sở hữu hay có thể áp đặt… Chỉ bằng cách này, phép lạ của sự cho không, món quà cho không bản thân mình, mới có thể nảy nở. Sống “trong tình trạng truyền giáo” là một phản ánh của lòng biết ơn” (Sứ điệp cho các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo, 21-5-2020).
Mặc dù vậy, các sự việc không luôn luôn dễ dàng. Các Kitô hữu sơ thời bắt đầu cuộc sống đức tin của họ giữa sự thù nghịch và khó khăn. Các kinh nghiệm về tình trạng bị loại trừ và giam cầm, cộng với các cuộc đấu tranh bên trong và bên ngoài, có vẻ như nói ngược lại và thậm chí phủ nhận những điều họ đã thấy và đã nghe. Nhưng, những trải nghiệm ấy, thay vì là một khó khăn hay một trở ngại khiến họ lui bước hay khép kín trong nội bộ, trái lại, chúng thúc đẩy họ biến những vấn đề, những mâu thuẫn và những khó khăn thành những cơ hội cho sứ mạng. Những giới hạn và những trở ngại trở thành một cơ hội ưu việt để xức dầu Thần Khí Chúa cho mọi sự và mọi người. Không một sự gì và không một ai phải bị loại trừ khỏi sứ điệp giải phóng.
Chúng ta có một chứng từ sống động cho tất cả điều này trong sách Công Vụ các Tông Đồ, một cuốn sách luôn luôn ở trong tầm tay của các môn đệ truyền giáo. Trong cuốn sách ấy, chúng ta đọc thấy hương thơm Tin Mừng khi được rao giảng đã lan toả như thế nào, đánh thức niềm vui mà chỉ một mình Thần Khí có thể ban cho. Sách Công Vụ dạy chúng ta chịu đựng những khổ cực bằng cách bám chặt vào Đức Kitô, để lớn lên trong “niềm xác tín rằng Thiên Chúa có thể hành động trong mọi hoàn cảnh, thậm chí cả giữa những cái có vẻ là thất bại” và chắc chắn rằng “tất cả những ai phó thác mình cho Thiên Chúa thì sẽ sinh hoa kết quả dồi dào” (Evangelii Gaudium, 279).
Cũng đúng như thế cho chúng ta hôm nay: những thời khắc chúng ta đang sống không dễ chút nào. Cơn đại dịch đã cho thấy rõ hơn và nặng nề hơn những nỗi đau đớn, cô đơn, nghèo khổ và bất công mà biết bao nhiêu người phải trải qua. Nó đã vạch mặt cái cảm giác an toàn giả tạo của chúng ta và bộc lộ sự đổ vỡ và đa cực đang âm thầm gia tăng nơi chúng ta. Những người yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất càng cảm nhận một cách nặng nề hơn nữa. Chúng ta đã cảm nghiệm sự chán nản, thất vọng và mệt mỏi; và chúng ta cũng đã không tránh được cảm giác tiêu cực ngày càng tăng, nó bóp nghẹt niềm hy vọng. Tuy nhiên, về phần mình, “chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Kitô Giêsu là Chúa; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giêsu” (2 Cr 4:5). Vì thế, trong các cộng đoàn và các gia đình của chúng ta, chúng ta có thể nghe thấy Lời sự sống vang lên mạnh mẽ trong lòng chúng ta và nói với chúng ta: “Người không có ở đây, nhưng đã sống lại rồi (Lc 24:6)! Thông điệp hy vọng này xua tan mọi hình thức của chủ nghĩa định mệnh, và đối với những ai sẵn sàng để cho thông điệp ấy chạm vào, nó cho họ tự do và sự mạnh dạn cần thiết để đứng dậy và tìm mọi cách có thể để tỏ lộ lòng thương xót, cũng là “phụ tích” của việc Thiên Chúa gần gũi chúng ta, một sự gần gũi không bỏ lại ai bên lề đường.
Trong những ngày đại dịch này, khi sự cám dỗ xuất hiện dưới danh nghĩa của việc giãn cách xã hội lành mạnh để ngụy trang và biện minh cho thói thờ ơ và vô cảm, thì sứ mạng của lòng thương xót là một nhu cầu cấp bách, để sự giãn cách cần thiết ấy biến thành một cơ hội để gặp gỡ, chăm sóc và thăng tiến. “Những gì chúng ta đã thấy và đã nghe” (Cv 4:20), lòng thương xót mà chúng ta đã trải nghiệm, có thể trở thành một điểm tham chiếu và một nguồn mạch của sự khả tín, giúp chúng ta phục hồi một niềm đam mê chung đối với việc xây dựng “một cộng đồng của những người thuộc về nhau và liên đới với nhau, xứng với thời gian, nghị lực và các tài nguyên của chúng ta (Fratelli Tutti, 36). Lời Chúa mỗi ngày cứu chữa chúng ta khỏi những kiểu chữa lỗi có thể dìm chúng ta vào sâu trong một loại thuyết hoài nghi tệ hại nhất: “Chẳng có gì thay đổi, trước sau gì vẫn thế thôi”. Với những người thắc mắc tại sao họ phải từ bỏ sự an toàn, tiện nghi và thú vui của họ nếu họ không thể thấy có kết quả gì, câu trả lời của chúng ta sẽ vẫn là một như thế này: “Đức Giêsu Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự chết và bây giờ là Đấng toàn năng. Đức Giêsu Kitô đang sống thực sự” (Evangelii Gaudium, 275) và muốn chúng ta sống, đầy tình huynh đệ, và có khả năng yêu quí và chia sẻ thông điệp hy vọng này. Trong các hoàn cảnh hiện nay của chúng ta, nhu cầu cấp bách là phải có những người thừa sai của niềm hy vọng, những người được Chúa xức dầu để có thể cống hiến một lời nhắc nhở tiên tri rằng không ai được cứu rỗi một mình.
Như các Tông Đồ và các Kitô hữu sơ thời, chúng ta cũng có thể nói với tất cả niềm xác tín của mình: “Chúng tôi không thể không nói về những gì chúng tôi đã thấy và đã nghe” (Cv 4:20). Mọi sự chúng ta nhận được từ Chúa là để chúng ta đem ra sử dụng một cách có ích và tự nguyện chia sẻ với người khác. Giống như các Tông Đồ đã thấy, nghe và chạm vào sức mạng cứu rỗi của Đức Giêsu (x. 1 Ga 1:1-4), chúng ta cũng có thể hằng ngày chạm vào da thịt đau thương và vinh hiển của Đức Kitô. Ở đó chúng ta có thể tìm được sự can đảm để chia sẻ với mọi người một số phận chung của niềm hy vọng, niềm tin chắc rằng Chúa luôn luôn ở bên chúng ta. Là Kitô hữu, chúng ta không thể giữ lấy Chúa cho riêng mình: sứ mạng Phúc Âm hoá của Hội Thánh được thể hiện qua việc biến đổi thế giới của chúng ta và việc chăm sóc công trình tạo dựng.
Một lời mời gọi mỗi người chúng ta
Chủ đề của Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm nay—“Chúng tôi không thể không nói về những gì chúng tôi đã thấy và đã nghe” (Cv 4:20)—là một lời kêu gọi mỗi người chúng ta “sở hữu” và đem đến cho người khác những gì chúng ta mang trong tim mình. Sứ mạng này đã luôn luôn là dấu chứng nhận của Hội Thánh, vì “Hội Thánh hiện hữu là để loan báo Tin Mừng” (Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, 14). Đời sống đức tin của chúng ta yếu đi, mất sức mạnh tiên tri và khả năng đánh thức sự ngạc nhiên và lòng biết ơn, khi chúng ta trở nên cô lập và rút vào thành những nhóm nhỏ. Tự bản chất của nó, đời sống đức tin kêu gọi một sự mở rộng ngày càng nhiều hơn để bao gồm mọi người, mọi nơi. Các Kitô hữu đầu tiên, thay vì chiều theo cám dỗ trở thành một nhóm tinh hoa, họ được Chúa soi sáng và được Người đề nghị một cuộc sống mới là ra đi để đến với các dân tộc và làm chứng về những gì họ đã thấy và đã nghe: tin mừng rằng Nước Thiên Chúa đã ở gần. Họ đã làm như thế với lòng quảng đại, biết ơn và tính cách cao thượng tiêu biểu của những người gieo giống luôn biết rằng những người khác sẽ vui hưởng hoa trái của các cố gắng và hy sinh của họ. Tôi thích nghĩ rằng “ngay cả những người yếu đuối nhất, giới hạn nhất và gặp rắc tối nhất cũng có thể là những người truyền giáo theo cách riêng của họ, vì sự tốt lành có thể được chia sẻ, cả khi nó đi kèm với nhiều giới hạn” (Christus Vivit, 239).
Vào Ngày Thế Giới Truyền Giáo mà chúng ta mừng hằng năm vào ngày Chúa Nhật áp chót của Tháng Mười, chúng ta nhớ lại với lòng biết ơn tất cả những người nam và người nữ mà nhờ chứng tá đời sống của họ, họ giúp chúng ta canh tân cam kết rửa tội của chúng ta để là những tông đồ quảng đại và vui tươi của Tin Mừng. Chúng ta hãy đặc biệt nhớ đến tất cả những người đã kiên quyết ra đi, rời bỏ nhà cửa và gia đình mình, để đem Tin Mừng đến cho mọi nơi và mọi người đang khao khát sứ điệp cứu rỗi.
Khi chiêm ngắm chứng tá truyền giáo của họ, chúng ta được truyền cảm hứng để cũng trở nên can đảm như họ và cầu xin “chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10:2). Chúng ta biết ơn gọi truyền giáo không phải là một chuyện của quá khứ hay một cái gì lãng mạn còn sót lại của những thời xa xưa. Hôm nay, Đức Giêsu cũng cần những trái tim có khả năng trải nghiệm ơn gọi như là một câu truyện tình thực sự thúc đẩy họ ra đi tới những vùng ngoại biên của thế giới chúng ta, trong tư cách là những sứ giả và những tác nhân của lòng thương xót. Chúa ngỏ lời mời này đến mọi người, bằng những cách thức khác nhau. Chúng ta có thể nghĩ đến những vùng ngoại vi xung quanh chúng ta, trong trung tâm của các đô thị hay trong chính các gia đình của chúng ta. Sự mở rộng toàn cầu cho tình yêu mang một chiều kích hiện sinh chứ không phải là địa lý. Luôn luôn, nhưng đặc biệt trong thời kỳ đại dịch này, điều quan trọng là chúng ta hằng ngày gia tăng khả năng mở rộng vòng quan hệ của mình, để đến với những người khác, những người tuy ở gần chúng ta về thể lý, nhưng không là thành phần trực tiếp thuộc “giới lợi ích” của chúng ta” (x. Fratelli Tutti, 97). Sống trong tình trạng truyền giáo là muốn suy nghĩ như Đức Giêsu suy nghĩ, cùng tin với Người rằng những người xung quanh chúng ta cũng là những anh chị em của chúng ta. Xin tình yêu thương xót của Người chạm đến trái tim chúng ta và làm cho tất cả chúng ta là những môn đệ truyền giáo đích thực.
Nguyện xin Đức Maria, người môn đệ truyền giáo đầu tiên, gia tăng nơi mọi người đã rửa tội ước muốn là muối và ánh sáng trên đất nước của chúng ta (x. Mt 4:13-14).
Rôma, Đền Thánh Gioan Lateranô, ngày 6 tháng 1, 2021, Đại lễ Chúa Hiển Linh.
PHANXICÔ
Bản dịch tiếng Việt
Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên
UBLBTM/HĐGMVN
2. Giá chuộc muôn người
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Đọc đoạn Tin Mừng thánh Maccô hôm nay, chúng ta nhận ra bầu khí giữa các môn đệ Chúa Giêsu. Cùng sống với Thầy, đi theo Thầy trên khắp mọi nẻo đường, nhưng đường ai nấy đi, mỗi người nuôi tham vọng riêng, tranh đua nhau giành chỗ nhất trong khi Thầy báo trước: “Con Người sẽ bị nộp vào tay kẻ dữ. Họ sẽ hành hạ Ngài và giết Ngài…” Và đây là lần thứ ba họ nghe những lời tiên báo như thế.
Những lời trang trọng và bi đát như thế bị rơi vào lãng quên, không ai chú ý. Họ đang theo đuổi những giấc mộng riêng, họ không thể chú ý đến điều gì khác. Tham vọng cá nhân đã chiếm hết khoảng không trong tâm hồn họ. Có lúc chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu tỏ ra bực bội: “Thầy phải chịu đựng chúng con đến bao giờ nữa?”
Đối với Phêrô Ngài chặt ngang: “Satan, hãy lui ra đàng sau!”
Hôm nay, trong giờ phút này, chúng ta có chú ý đến những gì Chúa nói không? Hay chúng ta đang bực bội vì thánh lễ kéo dài?
Vài phút nữa, Chúa Giêsu sẽ có mặt nơi bàn thờ, chúng ta sẽ chú ý đến Ngài thực sự hay chỉ nhìn mà lòng trí bay xa về nhà với những công việc đang chờ đợi, với con cái, với những chuyện vặt vãnh hằng ngày?
Chúng ta có giống các môn đệ kia không?
Những gì Chúa làm cho chúng ta, chúng ta không thấy. Tình thương của Ngài, chúng ta biến thành chán buồn, ngao ngán! Chúng ta chỉ cần “ngồi bên hữu bên tả Thầy thôi” Chúng ta thật ích kỷ và dại khờ, chạy theo ảo ảnh mà không nhận ra những gì quý báu hơn.
Chúa Giêsu bình thản đặt lại vấn đề. Không phải chỉ lo chiếc ghế tương lai mà phải sống giây phút hiện tại.
Không phải chỉ “ngồi bên hữu bên tả Thầy” mà phải uống chén với Thầy, chịu cùng một phép rửa như Thầy: “Các anh không biết các anh xin gì”.
Chúng ta ngớ ngẩng như thế đấy. Xin những gì theo sở thích mình, không cần biết đến ai khác. Chúng ta tưởng mình khôn ngoan, lanh lợi. Lấn át anh em mình là khôn ngoan. Chúng ta chỉ biết đòi hỏi cho mình. Hãy kiểm tra lại những gì chúng ta cầu xin. Mấy khi chúng ta thực sự cầu “cho danh Cha cả sáng?” Quyền lợi cá nhân, gia đình là trên hết. Chúng ta đòi ưu tiên. Thế gian là như thế. Chúa Giêsu hoàn toàn khác, Ngài chọn chỗ rốt hết.
Ngài cho hai môn đệ đầy tham vọng kia biết những gì Ngài sắp làm: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống và chịu phép rửa Thầy sắp chịu không?” Các ông đáp: “Thưa Thầy được”.
Chắc chắn các ông không hiểu những gì Thầy nói, và nếu có hiểu đi nữa thì cũng chỉ mập mờ. Có lẽ họ cũng hiểu rằng uống chén với Thầy là cùng chịu một số phận với Thầy, đau khổ với Thầy nhưng số phận đó như thế nào? Làm sao họ có thể hình dung được? Chịu phép rửa với Thầy, chắc họ cũng hiểu mù mờ đó thôi. Đầu óc họ chỉ nghĩ đến cái ghế bên hữu bên tả Thầy thì dù gì đi nữa, mộng ước của họ cũng “thành”. Họ đồng ý. Nhưng nếu chúng ta đọc kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng câu hỏi của Thầy cũng cho họ biết rằng điều Thầy nói cũng không đơn giản như họ nghĩ. Ngài nói: “Các anh có uống nổi không, có chịu được không?” Nghĩa là các anh có đủ sức uống chén và chịu phép rửa với Thầy không? Họ đồng ý. Thật là liều lĩnh! Nhưng họ vẫn tin chắc rằng Thầy sẽ chiến thắng, Thầy sẽ vinh quang, Thầy không thể thất bại.
Mặc dù biết các môn đệ không hiểu rõ lắm nhưng Chúa Giêsu vẫn chấp nhận: “Được, chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống, phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho…”
Câu trả lời của Ngài là một sự từ chối. Ngài cho thấy vinh quang mai sau là do Cha trên trời chứ không do Ngài.
Các môn đệ khác tức tối. Điều này không lạ gì. Các ông vẫn tranh nhau chỗ đứng, địa vị. Mỗi lần như thế, Chúa Giêsu dạy họ một bài học mới.
Lần này, Ngài dạy họ bài học phục vụ. Ngài so sánh quyền bính của các lãnh đạo thế gian và quyền bính trong nhóm anh em.
Ở đời ai có quyền thì dùng quyền và sai khiến hay đè bẹp người khác. Giữa anh em, kẻ có quyền lại là người phục vụ. Ngài cho họ thấy sứ mệnh của Ngài: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20,28)
Từ phục vụ đã bị người đời làm hoen ố. Chỉ có người nghèo, người thấp bé mới phục vụ người trên, và đối với thế gian, phục vụ là để được thù lao, được ngồi bên hữu bên tả. Người giàu có tung tiền ra để được phục vụ như vua, kể cả phục vụ tình dục. Những người quyền thế luôn có nô lệ phục vụ đêm ngày.
Chúa Giêsu dùng từ phục vụ với ý nghĩa trong sáng nhất, ý nghĩa đích thực của nó. Nơi môi miệng Ngài, từ phục vụ mang một màu sắc mới, mang một tầm vóc mà loài người không thể hiểu được.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. “Tất cả mọi dân tộc phải phủ phục trước mặt Người”, nhưng Ngài đã trở thành một người hèn mọn nhất: “Ở giữa anh em, Thầy là người tôi tớ”. “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20,28)
Ngài đến để phục vụ vì Ngài là Tình Yêu. Điều đó giải thích tất cả mọi hành động của Ngài. Tình yêu đích thực là tình yêu phục vụ. Không biết yêu thương, không thể phục vụ được.
Nhiều gia đình tan vỡ chỉ vì người ta không biết yêu, không biết phục vụ.
Nhiều cộng đoàn giáo xứ hay tu trì trở thành một bãi chiến trường của lòng ích kỷ, không còn niềm vui, chỉ vì tranh giành nhau chỗ đứng trong mặt trời, không biết phục vụ.
Phục vụ chính là khuôn mặt khả ái của Chúa Giêsu. Chúa chúng ta, “Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa… Ngài mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế, Người còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…”
Trong một thế giới mà con người không còn biết phục vụ là gì, việc phục vụ của chúng ta trở thành một ánh sáng, một Tin Mừng cho mọi người.
Trong một thế giới con tim bị khô cằn, chúng ta hãy bền bỉ phục vụ, chúng ta tin rằng chúng ta không cày trên mặt biển. Chúng ta có một môi trường rộng lớn để phục vụ, mỗi người một công việc.
Chúa Giêsu, Chúa chúng ta đã trở thành người tôi tớ của mọi người để cứu vớt mọi người, chúng ta không thể đi con đường nào khác nếu chúng ta muốn tự cứu mình và cứu anh em chúng ta.
Nhìn lâu giờ khuôn mặt “phục vụ” của Ngài, chúng ta vẫn muốn ăn trên ngồi trước hay sao? Vẫn muốn làm cha thiên hạ sao?
Hãy nhìn nơi bàn thờ. Chúa Giêsu vẫn còn đây. Ngài đến để tiếp tục công việc phục vụ của Ngài cho đến tận thế, không những ban mạng sống mà ban cả Thịt Máu mình để nuôi chúng ta trên con đường lữ hành. Hình thức phục vụ này phải được tiếp nối qua cuộc sống của mỗi người. Chúa Giêsu chỉ ước mong bao nhiêu đó.
3. Giáo dân truyền giáo
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Lệnh Chúa Giêsu truyền: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19-20).
Kinh Tân Phúc Âm Hóa có đoạn:
“Xin đổ Thần Trí của Cha, nhờ đó con được tăng thêm sức mạnh để ra đi và làm chứng nhân cho Tin Mừng mọi ngày trong đời sống của con, bằng lời nói và việc làm.
Trong những lúc hoang mang, xin nhắc con:
Nếu không là con, thì ai sẽ rao truyền Phúc Âm?
Nếu không phải là lúc này, thì khi nào Phúc Âm sẽ được loan truyền?
Nếu không phải là chân lý Phúc Âm, thì điều gì con sẽ công bố?”
“Nếu không là con, thì ai sẽ rao truyền Phúc Âm”. Lời kinh mời gọi mỗi chúng ta khẳng định lại sứ vụ truyền giáo mà mỗi Kitô Hữu Công Giáo đã được nhận lãnh ngay trong Bí Tích Thánh Tẩy và phải thi hành sứ vụ ấy như một bổn phận.
Như thế là: không phải ai khác, nhưng chính tôi là người truyền giáo. Không phải lúc nào khác nhưng ngay bây giờ là lúc phải truyền giáo. Không điều kiện nào khác, nhưng chính trong điều kiện này là điều kiện mà tôi phải truyền giáo.
Thiết tưởng cần xóa ngay đi não trạng xưa cũ của một thời mà Giáo Dân và cả các Giáo Sĩ cũng xem việc truyền giáo là chuyện dành riêng của Giáo sĩ mà thôi, và Giáo Dân tự xem hoặc bị xem quá thấp kém, quá tầm thường, có khi là quá tội lỗi nữa, biết gì mà truyền giáo!?! Đúng là một não trạng tệ hại vô cùng!
Và còn tệ hơn nữa khi có Giáo Dân nào đó nhiệt thành quá một chút là có thể bị Giáo Sĩ kết án ngay là “phá hoại” Giáo Hội. Người phá hoại Giáo Hội là người sống không đúng ơn gọi của mình. Người sống đúng ơn gọi của mình không thể kể họ vào loại phá hoại được. Ơn gọi truyền giáo là ơn gọi của tất cả mọi người Kitô hữu Công Giáo, không phân biệt Giáo Sĩ hay Giáo Dân.
Trong điều kiện hết sức khó khăn của những Giáo Dân sống trong thời đại con người ta chỉ lo cơm áo gạo tiền, tôi đã thấy những gương chứng nhân Đức Tin thật đáng kể. Họ là những người Công Giáo tốt từ lúc ăn gạo chợ uống nước sông đến ngày có cơ ngơi vững chãi.
Có người truyền giáo bằng xe hơi vì họ đã có được chiếc xe 7 chỗ hẳn hoi, và họ gọi đó là chiếc xe “7 Hồng Ân”. Mừng cho họ là họ có ý thức tạ ơn và đã dùng xe hơi cho việc truyền giáo. Lại có anh hội viên Legio có xe đạp, truyền giáo bằng xe đạp. Mừng cho anh, tạ ơn Chúa với anh vì anh không chần chừ, không chờ đợi ước mong có xe hơi mới truyền giáo được. Có người có nhà cao cửa rộng họ sử dụng cái giàu có của họ cho việc truyền giáo, còn chị Lòng Chúa Thương Xót, chỉ có mỗi căn nhà lá, trống trước trống sau, làm chỗ học Giáo Lý cho đôi ba người dân tộc. Cảnh thiên đường đẹp quá!
Nhìn lại, những lần Đại Hội Loan Báo Tin Mừng với việc học hỏi các Văn Kiện lớn lao về Truyền Giáo, thành phần được mời tham dự toàn là những người có chức, có quyền, có bằng cấp, có ăn có học, được coi là bậc vị vọng, hoặc ít ra cũng là những người đang có chức vụ trong Giáo Hội. Có ai lại đi mời bà bán cháo lòng, bán bánh canh, bán đậu hủ, bán vé số, người xa quê, kẻ làm thuê, người khuyết tật, kẻ hành khất, hạng nghèo hèn trong xã hội… tham dự đâu? Có phải vì họ là cấp thấp bé trong Giáo Hội thì biết gì mà loan báo Tin Mừng chăng? Thiết tưởng, bao lâu người Giáo Dân còn bị đánh giá là thành phần thấp bé hèn mọn dưới con mắt của Giáo Hội Địa Phương, thì bấy lâu, Giáo Hội tiếp tục phạm phải một sai lầm đáng kể.
Này nhé, tưởng là họ đi Lễ họ không chú ý nghe giảng sao? Không phải thế đâu! Họ đã lắng nghe, nghe rất rõ, nghe rất kỹ đấy. Lại tội nghiệp cho người cố gắng lắng nghe mà nghe không được, bởi Nhà Thờ thì to đùng, xây dựng đủ thứ hạng mục công trình, sắm sửa đủ thứ xa xỉ mà âm thanh lại chẳng nghe được gì, đúng là chỉ để… xem lễ chứ có nghe được gì đâu? Đáng tiếc mà cũng đáng trách!
Đừng lầm tưởng, hãy biết những Giáo Dân thấp bé kia, không chỉ nghe mà còn muốn nghe thật kỹ, thật rõ, và còn hơn thế nữa, nghe và đối chiếu điều người đã giảng với điều người đã sống. Cuối cùng, may quá, cách thể hiện đạo đức nhất của họ là làm theo những điều đã nghe, chứ không làm theo những điều đã thấy.
Tôi tin rằng Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động và hoạt động cách mạnh mẽ nhất, hữu hiệu nhất, ấn tượng nhất trong chính những con người thấp bé ấy. Nhờ ơn Thánh Thần, họ được sức mạnh can trường trong đau thương, họ được niềm vui sống công chính ngay trong “cái túi” của số phận, họ được vinh dự làm chứng cho một Đạo Công Giáo luôn có niềm tin mãnh liệt vào hạnh phúc đời sau, họ được diễm phúc có một hoàn cảnh thấp bé mà sứ vụ truyền giáo thì ngược lại, không nhỏ bé chút nào. Họ sống Tin Mừng cách thiết thực nhất ngay trong điều kiện kém cỏi và hoàn cảnh khó khăn của chính họ. Thật đáng quí công cuộc truyền giáo không tên tuổi, không ai quan tâm của những Giáo Dân mạt hạng, kém trình độ, nghèo khổ, thấp hèn!
Cộng tác vào công cuộc truyền giáo của Chúa Giêsu ngày ấy, nào có phải là những thầy Kinh Sư và thầy Thông Luật đâu, chỉ toàn là những người đánh cá nhiều phần là mù chữ, là mấy tên thu thuế được xếp vào phường tội lỗi, là chị kia năm đời chồng đi kín nước, là cô kia làm nghề buôn son bán phấn, là người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang cần phải lãnh án ném đá cho đến chết, là tên trộm bị trói trên giá ngay bên hữu Chúa, là một người Samari nhân hậu, là người đàn bà bị băng huyết kinh niên, là chú què được nhảy như nai, là cậu mù được sáng mắt, là anh phung cùi được sạch…
Thời nay không còn là thời điểm truyền giáo của những Giáo Dân mạt hạng ấy sao? Hẳn không phải là thời buổi truyền giáo của những thầy Thông Luật mà lại chẳng giữ luật đấy chứ?
Hãy đến “xem nơi Người ở, và ở lại với Người”, những con người thấp bé nhất trong xã hội, trong Giáo Hội, họ đang sống rất anh hùng giữa những đau thương của cuộc đời xoàng thường nhất trong thiên hạ, nhưng lại là những chứng nhân sống động nhất của Tin Mừng.
Để kết, xin mượn truyện rất ngắn của tác giả Ba Chuông có tựa đề “Truyền Giáo” tôi vừa mới đọc được trên baicamoi.com:
“Xóm trên, Cậu Út ở với cha mẹ già, đi làm thuê về, xe tông, gãy chân, gãy sườn. Có mấy người hàng xóm đến thăm.
Chị Tám bán bánh canh xóm dưới cũng lên thăm. Thấy chạnh lòng, chị rút tờ hai trăm ngàn dúi vào tay vợ cậu Út. Có người nhìn thấy. Người ấy không ai khác là bà Tư, chủ nợ của chị Tám. Bà Tư không phải người Công Giáo.
Chị Tám bán bánh canh, mượn đầu heo nấu cháo, vay bà Tư 3 triệu, hằng tháng trả lãi 7 phân.Cuối tháng, chị Tám đến bà Tư trả tiền lãi. Bà Tư lấy một nửa, cho lại chị một nửa. Còn khen: “Tui không ngờ chị lại có lòng thương người như vậy. Ít thấy được người Công Giáo như chị. Biết sẻ chia lúc hoạn nạn mới là người Công Giáo tốt”.
Lạy Chúa, xin cho mọi việc chúng con làm đều vì danh Cha cả sáng. Amen.”
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì đã và đang có những giáo dân thấp bé nhất nhiệt thành sống đức tin giữa hoàn cảnh bi thương nhất trong cuộc đời. Xin cho mỗi ngày một nhiều hơn những giáo dân biết tạ ơn Chúa vì ơn gọi truyền giáo và kiên trung sống đời sống Công Giáo công chính theo Tin Mừng, cho danh Chúa được cả sáng. Amen.
4. Đã là Kitô hữu phải truyền giáo
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tháng 10, tháng truyền giáo
Hàng năm, cứ mỗi khi tháng 10 về, Giáo hội lại cùng với con cái mình sốt sáng lẫn chuỗi Mân Côi và khám phá lại vẻ đẹp của lời Kinh này để cầu cho thế giới được hoà bình. Tháng 10 còn là tháng truyền giáo, Giáo hội cũng kêu gọi con cái mình dấn thân cho việc truyền giáo, nên Đức Thánh Cha đã gửi sứ điệp cho mọi thành phần dân Chúa, khuyến khích họ bước theo Chúa Giêsu “Người rao giảng Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất” (Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, 7), và “lấy nguồn cảm hứng từ Đức Maria, Mẹ của công cuộc Phúc âm hoá” (Sứ điệp Truyền giáo 2017, số 10) để lên đường truyền giáo.
Nhưng truyền giáo để làm gì?
Để nhắc lại rằng bản chất của Giáo hội là truyền giáo; mục đích đầu tiên của Giáo hội khi được Chúa Giêsu thiết lập là truyền giáo.
Ai phải truyền giáo?
Là chi thể của Hội Thánh, tất cả những người đã chịu phép rửa tội phải thi hành nhiệm vụ truyền giáo. Điều này không có ý nói họ phải đi thật xa. Những nơi nào có họ, họ phải truyền giáo. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô nói: “Không ai được ngưng nghỉ việc này, vì là bổn phẩn khẩn thiết của ngày hôm nay”. Với lại, chính Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân ” (Mt 28, 19). Thánh Phaolô kêu lên: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9, 16).
Giáo hội tự bản chất là truyền giáo.
Nếu như Isaia con trai Amót được thị kiến: “Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa… trong ngày sau hết” (x. Is 2, 1-5). Thánh Phaolô cho người con tình thần của mình biết: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (x.1 Tm 2, 4 – 6). Cả bốn sách Tin Mừng đều nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo, nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội, chứng tỏ bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20, 21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Ðây là sứ điệp duy nhất phát xuất từ Thiên Chúa gửi đến hết mọi người ngõ hầu họ được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.
Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là “bổn phận của toàn thể Giáo hội”, vốn “tự bản chất là thừa sai” (Ad gentes, 2). Trích dẫn lời Đức Phaolô VI, ngài tiếp: “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”
Ðức Bác Ái là linh hồn của sứ mạng truyền giáo.
Thánh Phaolô viết: “Tình Yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi” (2 Cr 5, 14). Đức Kitô thúc bách những người đã chịu phép Rửa tội nam phụ cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu lẫn người nghèo, khi đã đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng và mang tình yêu cho hết mọi người, bằng lời nói và chứng tá cụ thể của Đức Ái. Truyền giáo là gì nếu không phải là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Người không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người, Người còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó.
Nhân dịp Đại Năm Thánh 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình…nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em”. Ngài cũng khuyến khích mọi thành phần trong Giáo hội can đảm khởi hành “mùa truyền giáo mới”, vì “Giáo hội cần đến với con người, với sự tế nhị và tôn trọng của một người phục vụ. Và Giáo hội tin tưởng rằng công việc phục vụ trước tiên và cao cả nhất là công việc rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô”, ngài kêu gọi: “Anh chị em đừng sợ: hãy mở toang mọi cửa để tiếp đón Chúa Kitô” (Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).
Cử hành ngày Thế giới Truyền giáo năm nay với chủ đề: “Việc Truyền Giáo ở tâm điểm của Đức Tin Kitô giáo”. Trong lời mở đầu, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo; nếu không, Hội Thánh không còn là Hội Thánh của Đức Kitô nữa” (Trích Sứ điệp truyền giáo 2017). Ngài gợi lên một số vấn nạn cốt yếu để chúng ta suy nghĩ và hành động như: “Nền tảng việc truyền giáo của chúng ta là gì? Tâm điểm việc truyền giáo của chúng ta là gì? Chúng ta phải có cách tiếp cận cơ bản nào để thi hành công việc truyền giáo?” Ngài trích lời của thánh Iréné: “Vinh quang của Thiên Chúa là chính con người sống” (Irênê, Adversus Haereses IV, 20, 7). Chúa Giêsu đến để cho con người không những được sống mà còn sống dồi dào. Vì thế, “việc truyền giáo của Hội Thánh không thể là quảng bá một ý thức hệ tôn giáo, càng không thể là đề nghị một học thuyết đạo đức cao siêu… Truyền giáo là trình bày cho con người thời nay biết Chúa Giêsu phục sinh đang sống giữa chúng ta, những ai đón nhận Người thì với đức tin và đức mến có thể trải nghiệm sức mạnh biến đổi của Thần Khí Người” (số 3). Ngài viết tiếp: “Thế giới vô cùng cần Tin Mừng Đức Giêsu Kitô” (số 5); Ngài nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa “đừng bao giờ quên rằng, là Kitô hữu không phải là kết quả của một chọn lựa đạo đức hay một ý tưởng cao siêu, nhưng là gặp gỡ với một biến cố, một Người, sự gặp gỡ ấy tạo cho cuộc đời một chân trời mới và một hướng đi quyết định”(Bênêđictô XVI, Deus Caritas Est, 1). Ngài thêm: “Truyền giáo nhắc nhở Hội Thánh rằng mình không phải là một mục đích tự tại, nhưng là một dụng cụ và trung gian khiêm tốn của Nước Trời” (số 7), và Đức Giáo hoàng nhấn mạnh đến người trẻ, ngài viết: “Giới trẻ là hy vọng của truyền giáo. Con người Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng Người công bố tiếp tục thu hút nhiều người trẻ” (số 8). Cuối cùng ngài khuyên: “Chúng ta hãy lấy nguồn cảm hứng từ Đức Maria, Mẹ của công cuộc Phúc âm hoá. Được Thần Khí thúc đẩy, Mẹ đã đón nhận Lời sự sống trong đức tin khiêm cung thâm sâu của Mẹ”.
Xin Đức Trinh Nữ giúp chúng ta nói lên lời “xin vâng” của mình, khi ý thức nhu cầu cấp bách phải làm cho Tin Mừng của Đức Giêsu vang dội trong thời đại chúng ta. Amen.
5. Say mê Tin Mừng của Đức Kitô
(Suy niệm của Lm. Giuse Trực)
Càng ngày, Đức Thánh Cha Phanxicô càng trở nên hấp dẫn, nhất là với những người nghèo khổ. Mới đây, Tòa Thánh đã cho xây một khu nhà trọ với tên gọi: “Quà tặng của Lòng Thương Xót” cho những người vô gia cư. Nhà trọ này chỉ cách quãng trường Thánh Phêrô có vài bước chân. Năm ngoái, Đức Giáo Hoàng cũng đã cho xây dựng những phòng tắm và phòng vệ sinh dọc theo những hàng cột tại Quảng trường Thánh Phêrô. Người vô gia cư cũng được cung cấp thêm dịch vụ cắt tóc miễn phí đảm bảo hợp vệ sinh và theo ý thích của họ. Hay mới tháng trước đây, xe y tế của Tòa Thánh chỉ dành riêng cho các sự kiện có sự hiện diện của Đức Thánh Cha cũng đã được huy động để hỗ trợ y tế cho người nhập cư.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã mở rộng vòng tay của Giáo hội để đón tiếp nhiều người, nhất là những người nghèo khổ. Sở dĩ Đức Thánh Cha muốn mở rộng cánh cửa tòa thánh, muốn đến những vùng “ngoại vi” là vì “Tình yêu Đức Kitô thúc bách” Ngài, là vì di chúc của Đức Kitô: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28, 19); để rồi người khác đến với Ngài, đến với Giáo Hội là cũng vì cảm nhận được tình yêu của Đức Kitô.
Khi chúng ta cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta “nói” cho người khác bằng chính đời sống của mình là chúng ta truyền giáo. Và người khác cũng chỉ có thể “bước vào ngôi nhà của Giáo Hội” khi họ cảm nhận tình yêu của Thiên Chúa qua chính đời sống chúng ta. Đó chính là nội dung của các bài đọc lời Chúa hôm nay.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
1. Bài Đoc I: Gn 3, 10 – 4, 11
Thiên Chúa không muốn thành Ninivê bị tiêu diệt vì những tội lỗi của họ nên đã sai tiên tri Giôna đến rao giảng để họ ăn năn sám hối. Tiên tri Giôna đã miễn cưỡng để làm điều đó, nhưng dân thành Ninivê cũng được cứu vì họ đã “vô tình” nghe được lời rao giảng miễn cưỡng của Giôna.
Sau khi thành Ninivê được cứu, “Ông Giôna bực mình, bực lắm và ông nổi giận” (Gn 4, 1). Thiên Chúa đã dùng hình ảnh cây thầu dầu che mát làm cho ông Giôna vui tươi thoải mái, bỗng nhiên bị con sâu cắn đứt và khô héo khiến ông Giôna bị nắng giội xuống phải ngất xỉu. Khi tỉnh lại ông xin Thiên Chúa cho ông chết đi cho rồi vì không còn cây thầu dầu để che mát nữa. Thiên Chúa lấy hình ảnh đó làm bài học cho ông Giôna: “Ngươi thương hại cây thầu dầu mà ngươi đã không vất vả vì nó, và không làm cho nó lớn lên… Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương hại Ninivê, thành phố lớn, trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải với bên trái.” (Gn 4, 10-11)
Truyền giáo là cho người khác biết được Thiên Chúa yêu thương và muốn cứu độ con người. Tuy nhiên nhiều khi cán bộ truyền giáo không muốn rao giảng chương trình của Chúa, chỉ muốn làm theo ý mình, nhưng Thiên Chúa sẽ làm mọi cách để “cho con người được ơn cứu độ”.
2. Bài Đọc 2: 1Tm 2, 1-8
Thánh Phaolô mặc khải cho chúng ta biết ý định của Thiên Chúa là “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm 2, 4). Chính vì điều đó mà ông đã được đặt lên để rao giảng Tin Mừng, một cách đặc biệt là cho lương dân. Để rồi ông dùng hết khả năng, sức lực của mình cùng với ơn Chúa để làm cho mọi người được biết tình yêu cứu độ của Đức Kitô, đến nỗi ông đã xác quyết: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.”
3. Tin Mừng: Ga 17, 11b.17-23
Trong lời cầu nguyện hiến tế của Đức Kitô, Ngài đã cầu nguyện cho các môn đệ là những kẻ đã tin và bước theo Ngài: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta.” (Ga 17, 11b). Ngài còn cầu nguyện cho đối tượng mà các môn đệ của Ngài sẽ rao giảng: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha.” (Ga 17, 20)
II. YÊU AI YÊU CẢ ĐƯỜNG ĐI
Ca dao Việt Nam có câu: “Yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng”. Khi chúng ta đam mê Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng chung thao thức với Ngài là đem tình yêu và ơn cứu độ đến cho người khác.
1. Đam mê Đức Kitô
Đam mê là một khái niệm mà đôi khi bị nhầm lẫn với ước mơ, hoài bão, khát vọng. Có người định nghĩa đam mê là ham thích thái quá, đến mức không còn biết gì khác nữa. Trong thần học, đam mê liên quan đến sự giận dữ, nhiệt tâm, tìm kiếm, tình yêu và ước muốn. Ở đây tôi chỉ nhìn ở khía cạnh đam mê là động lực để chúng ta hành động. Vì vậy mọi hành động tốt xấu của chúng ta đều xuất phát bởi đam mê tốt hay đam mê xấu.
Thánh Augustinô nói “đam mê xấu khi tình yêu xấu, đam mê tốt khi tình yêu tốt”.
Như vậy nếu chúng ta yêu mến những sự xấu thì sẽ dẫn đến những hành động xấu. Những sự xấu này nằm trong 7 mối tội đầu: Kiêu ngạo, hà tiện, mê dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét, lười biếng. Nếu thực tâm nhìn lại, chúng ta sẽ thấy mình bị chi phối bởi những đam mê xấu này. Có người cứ ganh ghét với người khác dẫn đến hiềm thù, thậm chí giết người chỉ vì ghen ghét. Có người cứ mê nhậu, rãnh giờ nào nhậu giờ đó, mà chính vì mê nhậu nên không có giờ nào rãnh hết. Sáng sớm: nhậu, trưa: nhậu, chiều: nhậu, tối: nhậu… Có người cứ bị lôi cuốn vào những tư tưởng, những hình ảnh, những chuyện dâm ô. Chính vì vậy họ mất giờ, mất sức, mất sự tập trung… vì họ dành tất cả cho đam mê dục vọng của mình…
Bấy nhiêu đó đủ để chúng ta (nhất là các bạn trẻ) thấy được khi có những tình cảm xấu, nó sẽ hướng dẫn để trở thành những đam mê xấu. Chính những đam mê xấu này sẽ hủy hoại nhân cách, tâm hồn và cả cuộc đời chúng ta.
Ngược lại khi chúng ta có những tình cảm tốt, sẽ dẫn đến những đam mê tốt. Những tình cảm này là việc quan tâm đến gia đình, đến Giáo hội, đến xã hội, đến những người nghèo khổ, đến các em học sinh, đến ơn gọi tu trì… Chính những tình cảm tốt này sẽ trở thành những đam mê tốt để chúng ta dồn hết sức lưc, thời giờ và khả năng để lo cho gia đình, cho Giáo Hội, cho xã hội, cho những người nghèo khổ, cho các em học sinh, cho ơn gọi tu trì…
Tuy nhiên mọi sự tốt lành đều bởi Chúa. Vì vậy tình cảm vững bền nhất phải xuất phát từ Thiên Chúa. Cho nên chỉ có đam mê Thiên Chúa mới là đam mê đúng đắn nhất, tốt đẹp nhất, theo như lời thánh vịnh: “Cả tấm thân con cùng là tấc dạ, những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng” (Tv 84,3); và “chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61, 2). Mà Thiên Chúa hiện thân rõ ràng nhất nơi Đức Giêsu Kitô. Vì vậy đam mê Đức Kitô phải là lẽ sống cho cuộc đời chúng ta, theo như lời của thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, còn chết là một mối lợi” (Pl 1, 21).
2. Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi
Chính vì đam mê Đức Kitô nên chúng ta cùng chung thao thức với Ngài. Mà thao thức của Ngài là để cho mọi người được cứu độ, được sống trong Tình yêu của Chúa. Vì vậy hằng ngày trong mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta phải thể hiện được khuôn mặt của Đức Kitô.
Trong sứ điệp truyền giáo năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô hướng một cách đặc biệt đến những người sống đời thánh hiến, vì họ đã đam mê Đức Kitô đến mức đã tận hiến cuộc sống cho Ngài. Dĩ nhiên mọi bậc sống đều cao quý, nhưng đời sống thánh hiến cao quý hơn vì họ không bận tâm gì khác, ngoài việc “miễn là Đức Kitô được rao giảng”. Chúng ta hãy cầu nguyện cho có nhiều người dám từ bỏ tất cả mọi đam mê khác để đam mê Đức Kitô và sống đời thánh hiện để bước vào cánh đồng truyền giáo của Giáo hội.
Kế đến, mọi người khi đam mê Đức Kitô, họ cũng sẽ lo sống theo Tin Mừng của Ngài, mà Tin Mừng của Ngài là sám hối và cải thiện cuộc sống. Vì vậy người ta sẽ sửa đổi những sai lỗi của mình bấy lâu nay và chứng minh bằng một cuộc sống tốt lành, thánh thiện hơn. Sự tốt lành, thánh thiện đó sẽ phát xuất hoa trái là tình yêu thương dành cho mọi người xung quanh, muốn làm tất cả để mọi người được hạnh phúc hơn. Chính lúc đó chúng ta đang truyền giáo.
Tóm lại, trong ngày cầu nguyện cho việc truyền giáo năm nay, chúng ta hãy quay về với chính con người của mình để xem chúng ta đang đam mê điều gì. Nếu chúng ta thực sự đam mê Đức Kitô, thì chắc chắn chúng ta sẽ cùng chung thao thức với Ngài để làm cho nhiều người được cứu độ.
Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ những đam mê xấu để chỉ đam mê Đức Kitô và con đường của Ngài. Chính con đường đó sẽ giúp một số người dám mạnh dạn sống đời thánh hiến để dễ dàng thực hiện công cuộc Truyền giáo của Đức Kitô hơn. Cũng chính con đường đó sẽ giúp chúng con sửa đổi cuộc sống mỗi ngày để biết sống thánh thiện và yêu thương. Đó là Truyền giáo.
6. Ngày Khánh Nhật Truyền Giáo
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mc 10: 35-45: Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong sứ điệp ngày Thế Giới Truyền Giáo năm nay nói với chúng ta rằng: Các con đừng sợ Đức Kitô và Giáo Hội của Ngài! Vì ở đó chúng ta tìm thấy kho tàng vốn lấp đầy cuộc sống bằng niềm vui….
1. Niềm Tin trong đời sống Kitô hữu
Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong sứ điệp ngày Thế Giới Truyền Giáo năm nay nói với chúng ta rằng: Các con đừng sợ Đức Kitô và Giáo Hội của Ngài! Vì ở đó chúng ta tìm thấy kho tàng vốn lấp đầy cuộc sống bằng niềm vui. Cha có thể nói với các con từ kinh nghiệm riêng của Cha: nhờ Niềm Tin, Cha đã tìm thấy một nền tảng chắc chắn cho những giấc mơ của Cha và sức mạnh để thực tại hoá chúng. Niềm Tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết trên thập giá và đã sống lại vì chúng ta. Sự thật này mời gọi sự tự do của chúng ta và thách đố chúng ta hãy tìm kiếm, khám phá và loan báo. Cha muốn suy tư với các con về sứ mạng mà chúng ta đã nhận lãnh từ Đức Kitô. Trong khi nói với các con, Cha cũng nói với hết mọi Kitô hữu đang sống hành trình đời mình trong Giáo Hội với vai trò là con cái của Thiên Chúa. Điều dẫn Cha đến việc nói với mọi người qua cuộc trò chuyện này với các con là là sự chắc chắn rằng Niềm Tin Kitô Giáo vẫn hằng luôn trẻ khi nó mở ra cho việc truyền giáo mà Đức Kitô ủy thác cho chúng ta:“Truyền Giáo làm sống động Niềm Tin”,[1] nghĩa là “loan truyền Đức Tin chính là tái tạo sinh lực mới cho Đức Tin”[2]
1.1.Vậy Niềm Tin đó như thế nào
1.1.1.Niềm Tin trong đời thường
Trong cuộc sống, không ít lần ta gặp khó khăn, khiến bản thân ta cảm thấy vô cùng tuyệt vọng, mất phương hướng và không còn tin tưởng vào ai cũng như vào bất cứ điều gì. “Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất Niềm Tin”. Khi gặp khó khăn, trắc trở, chúng ta cần phải đối mặt, cần phải tin rằng ngày mai tươi đẹp sẽ đến. Đó chính là phương pháp giúp ta thoát khỏi những khó khăn, hụt hẫng hoặc thực tại quá cay đắng, phũ phàng. Chúng ta phải tìm lại Niềm Tin vì Niềm Tin giúp cuộc sống trở nên ý nghĩa hơn.
Niềm Tin chính là nguồn năng lực mạnh mẽ nhất trong việc tạo ra những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Niềm Tin giúp cho chúng ta khơi nguồn những năng lực vốn có, ẩn sâu trong mỗi con người. Vì thế trong cuộc sống, chúng ta cần phải tin tưởng nhau và Niềm Tin giúp cuộc sống trở nên ý nghĩa hơn. Vì ta tin tưởng vào một người nào đó, tức là ta thấy được giá trị đích thực của họ, cho dù giá trị đó đã bộc lộ ra bên ngoài hay vẫn đang tiềm ẩn bên trong. Từ Niềm Tin tự nhiên, chúng ta tiến tới Niềm Tin tôn giáo.
1.1.2.Niềm Tin Tôn Giáo
– Niềm Tin tôn giáo là một dạng nhận thức đặc biệt, dựa trên trực giác, tạo cho con người một Niềm Tin có tính thiêng liêng, giúp người ta có thể nhận thức được những sự vật mà người thường không thấy được, cho ta một sức mạnh đặc biệt mang tính “thăng hoa” để tác động đến cuộc sống trần tục.
– Niềm Tin tôn giáo phải là một niềm tin siêu lý, không dựa vào lý tính, thực nghiệm, một Niềm Tin được cảm nhận hoặc theo truyền thống kinh nghiệm, hoặc do tu luyện dần để khẳng định vững chắc. Đó là một Niềm Tin không cần chứng minh. Người ta tin để rồi tin. Tin vào những điều vĩnh hằng, tuyệt đối, một cuộc sống như ý muốn, cuộc sống bất diệt. Vì lý do đó mà nội dung Niềm Tin tôn giáo phụ thuộc vào những tín điều, giáo lý của từng tôn giáo khác nhau.
1.2.Sự khác biệt giữa Niềm Tin và Đức Tin
Sống trên đời ai ai cũng có Niềm Tin. Nếu không có Niềm Tin, con người chúng ta dễ rơi vào tình trạng lập dị và có khi đi đến chỗ tuyệt vọng, không còn tin tưởng vào ai cũng như bất cứ điều gì. Là người Kitô hữu, chúng ta lại còn có Đức Tin, tin vào một Thiên Chúa cao cả và quyền năng. Nhưng nhiều khi chúng ta lẫn lộn hai từ Niềm Tin
(la confiance – confidence) và Đức Tin (la Foi – Belef).
1.2.1.Niềm Tin (la confiance – confidence)
Ở đây, Niềm Tin là lòng tin, sự tin tưởng vào một người, một sự việc nào đó. Mất Niềm Tin là mất hết tin tưởng, không còn tín nhiệm nữa. Một lần bất tín, vạn lần không tin. Con người lỡ một lần không trung thực, bội tín, sẽ dễ làm cho người khác không còn tin mình nữa.
1.2.2.Đức Tin (La Foi – Belef)
Đức Tin là Niềm Tin vào một tôn giáo, vào một Đấng Siêu Việt và toàn Năng, thậm chí còn dám hy sinh mạng sống vì Đức Tin, vì Đấng họ yêu mến. Cho nên Đức Tin là chấp nhận chân lý của Thiên Chúa theo lệnh của ý chí được Thiên Chúa tác động nhờ ân sủng.[3] Chính vì vậy, Đức Tin là hồng ân của Thiên Chúa, là một nhân đức siêu nhiên do Thiên Chúa ban tặng.[4]
2. “Được lôi cuốn và được sai đi”[5]
Mỗi người nam nữ là một sứ mạng; đó là lý do cho cuộc sống của chúng ta trên mặt đất này. Sứ mạng này gồm “được lôi cuốn và được sai đi”. Đây là hai chuyển động được người trẻ cảm nhận như tình yêu trong tâm hồn họ. Hai chuyển động này còn mang lại cho người trẻ một tương lai đầy hứa hẹn và giúp họ định hướng cuộc đời.
2.1. “Được lôi cuốn và được sai đi” qua vụ nổ trái bom nguyên tử
Ngày 9 tháng 8 năm 1945, lúc 11 giơ 02 phứt.
Một tia chóp lóa mắt lóe lên. Nhiệt độ: 9000 độ bách phân. Dưới một luồng gió với vận tốc 2km/giây, Urakami, khu phố phía tây bắc của Nagasaki bị hủy diệt và bốc cháy. Cơ thể của những người đi đường nằm rạp trên đường và hóa thành than. Những cư dân khác bị biến thành tro bên dưới căn nhà bị thiêu rụi. 30.000 người chết, 100.000 người bị thương. Trong số 10.000 người Công Giáo ở Urakami, có 8.500 người đã chết. Tại ngôi trường có 1.800 em học sinh, thì chỉ còn lại 200 em sống sót.
Đại Học y khoa nằm cách trung tâm vụ nổ 700 mét và được xây dựng bằng bê tông cốt thép đã thoát khỏi cuộc tàn phá lúc ban đầu sớm bị hỏa hoạn. Nagai đang sắp xếp các phim chụp tia X vào lúc diễn ra vụ nổ, ông bị ném xuống nền nhà, bên phải bị mảnh vỡ cửa kính đâm thủng lỗ chỗ. Máu chảy xối xả từ bên thái dương phải của ông. Ông lần mò thoát ra khỏi đống kính vỡ vụn và đi xuống cầu thang. Từ phòng khám và hành lang nơi các bệnh nhân đang ngồi chờ, người ta nghe vọng lên tiếng kêu cứu. “Được, chúng tôi đến đây!” Nagai hét to và đưa bàn tay ép mạnh vào thái dương chảy máu.
Việc săn sóc bắt đầu. Những chiếc áo sơ mi rách nát được sử dụng làm băng quấn. Bác sĩ Nagai, tay phải siết chặt thái dương phải làm việc bằng tay trái. Đôi khi mải mê săn sóc người bị thương, ông bỏ tay ra và máu lại phun ra nhuộm đồ trang phục của cô y tá đứng bên cạnh.
“Vì những mạch máu ở thái dương hẹp, nên tôi có thế cầm cự trong ba tiếng đồng hồ. Điều đó cũng đủ để tiến hành công cuộc sơ cứu,” ông nhận xét. Ông vừa làm việc vừa thỉnh thoảng bắt mạch để xem mình còn đủ sức lực hay không.
Thung lũng Urakami nhanh chóng biến thành biển lửa. Ở cửa bệnh viện, những dòng người bị thương chạy đến không dứt: những bóng dáng đẫm máu, áo quần tơi tả, tóc cháy xém. Trẻ con kéo lê các tử thi của cha mẹ chúng, những bà mẹ trẻ ẵm thi thể mất đầu của những đứa bé còn bú. Một cảnh tượng như hỏa ngục.
Phần lớn các loại thuốc men không còn sử dụng được nữa. Chỉ còn một chút ít dụng cụ để sơ cứu…và hàng ngàn người bị thương đang chờ đợi. Nagai chỉ có một vài người phụ tá. “Mặc kệ! Chúng ta sẽ săn sóc cho đến khi sức cùng lực kiệt!”[6]
Takashi Nagai là người chứng kiến và cũng là nạn nhân của trái bom nguyên tử. Còn Leonard Cheschire người ném trái bom nguyên tử thì như thế nào?
2.2.“Được lôi cuốn và được sai đi” qua nhân vật Léonard Cheshire
Léonard Cheshire là viên đại úy trẻ tuổi nhất của nhóm R.A.F… Lúc này anh là vị sĩ quan trẻ nhất nhận được đặc ân hiếm có này, huân chương thập giá Victoria.
Một ngày đẹp trời tháng 8/1945, hai pháo đài bay của Mỹ bay về phía Nagasaki trên bầu trời Thái Bình Dương xanh thăm thẳm, ở khoang lái của một trong hai chiếc phi cơ B.29 có đại úy Cheshire. Anh vừa được thủ tướng Winston Churchill bổ nhiệm làm sĩ quan liên lạc bên cạnh không lực Mỹ ở Viễn Đông.
Một chiếc B. 29 khác vừa bay đến mục tiêu. Khoang hầm phi cơ được mở ra, một quả bom nguyên tử đang đâm bổ xuống thành phố. Một vài giây sau, toàn bộ hải cảng Nagasaki bị hủy diệt.
Báo chí Anh đã hết lời ca ngợi Cheshire. Họ nói về “con người có sức hủy diệt nhất của chiến tranh”, “viên sĩ quan được tuyên dương nhất trong chiến tranh”, “một trong số những nhà chiến lược hàng không tài giỏi nhất”. Cảnh tượng hủy diệt Nagasaki cũng vừa khiến cho người đàn ông này quay lưng lại hoàn toàn. Lúc quay về từ cuộc không tập, Cheshire liền xin từ nhiệm chức vụ sĩ quan của R.A.F.
Sau khi rời khỏi hỏa ngục này, anh quay về với Thiên Chúa xa lạ để cầu xin sự giúp đỡ của Người. Khi trở về Anh quốc, anh luôn nghĩ về việc thực hiện bi thảm của ngành kỹ thuật nhân loại, vấn đề căn bản ám ảnh anh hơn bao giờ hết: vai trò của Thiên Chúa trong cuộc sống của nhân loại là gì? Anh ý thức rằng không những bản thân anh nhưng còn tất cả mọi người phải hướng đến một điều gì cao trọng hơn là một nền vật lý nguyên tử thuần túy.[7]
Ngày lễ Giáng Sinh năm 1948, đại úy Cheshire gia nhập Giáo Hội Công Giáo.
Ngay sau đó, anh xây dựng ba ngôi nhà dành để săn sóc cho những bệnh nhân bị bỏ rơi không thể chữa trị. Vào lúc này, anh là người trở lại Công Giáo nổi tiếng nhất của nước Anh và hơn thế nữa, một vị tông đồ đáng chú ý.
Từ thập giá Victoria, anh đã đến với thập giá đích thực của Đức Kitô.[8]
2.3. “Được lôi cuốn và được sai đi” qua nhân vật bác sĩ Takashi Nagai
2.3.1.Tín đồ của chủ nghĩa duy vật
Takashi Nagai sinh năm 1908 tại Izumo, mãnh đất huyền thoại của Nhật Bản. Chẳng biết chút gì về đạo Công Giáo và đến 1928 anh bị ảnh hưởng chủ nghĩa duy vật khoa học rất thịnh hành tại Nhật Bản lúc bấy giờ. Sau đây là những gì bác sĩ Nagai viết khi nhớ lại những năm tháng này:
“Từ những năm tháng tràn đầy lòng nhân đạo, tôi đã trở thành tù nhân của chủ nghĩa duy vật. Vừa chân ướt chân ráo bước vào ngành y, tôi buộc phải mổ xẻ các tử thi. Theo người ta cho tôi biết, đó là tất cả những gì tồn tại trong con người. Tôi dễ dàng kết luận là con người không là gì khác ngoài vật chất.
Cơ cấu tuyệt vời của toàn bộ cơ thế, tổ chức tỷ mỷ của những phần nhỏ nhất của nó, tất cả làm cho tôi thán phục. Nhưng cái thứ mà tôi đang sử dụng ở đây, đó không chỉ là vật chất đơn thuần.”
Các cơ quan phức tạp của cơ thể con người, các chức năng tương ứng, mọi thứ đều được giải thích. Vì cớ gì anh có thể chấp nhận sự hiện hữu của một thực tại lờ mờ như “linh hồn” kia chứ! Không phải cơ thể chỉ là sự tổng hợp của những vật đơn giản như ôxy, azốt, canxi… hay sao? Linh hồn ư? Một hồn ma do những kẻ lừa bịp nghĩ ra để đánh lừa những người đơn sơ thôi!
Tuy nhiên, vấn đề cuộc sống con người luôn luôn dầy vò anh. Đôi khi anh cũng quyết tâm tìm kiếm chân lý trong khoa học thực nghiệm. Anh tuyệt đối tách ra khỏi tâm trí bất cứ ý tưởng nào về tâm linh hoặc tôn giáo.
Cái chết bất ngờ của mẹ anh vào năm 1930 đã bứt anh ra khỏi những ảo tưởng đó.[9]
Tháng 6/1934, anh chịu Phép Rửa Tội với tên thánh Phaolô.
2.3.2.Những vinh dự sau cùng
Năm 1949, bộ trưởng “bộ phúc lợi xã hội” trao tặng bằng khen cho Nagai về quyển sách “để lại cho các trẻ em”. Cùng năm đó, ông đề nghị với hội đồng chính phủ tuyên dương bác sĩ theo chương trình nghị sự quốc gia.
Ngày 28/6/1949, hoàng đế Nhật đến thăm ông. Cuộc gặp gỡ rất đơn giản đã để lại trong lòng ông đầy sự thán phục đối với tính cách minh bạch khoa học của hoàng đế, với tư cách là một nhà sinh vật học nổi tiếng.
Ngày 30/6, đến lượt Đức Hồng Y Gilroy, đại diện của Đức Giáo Hòang, đến thăm ông nhân dịp lễ kỷ niệm 400 năm ngày thánh Phanxicô Xaviê đến nước Nhật truyền giáo.
Ngày 1/6/1950, qua sự biểu quyết của Quốc Hội, hoàng đế trao tặng cho ông một chiếc cúp bằng bạc, trong khi thủ tướng gửi đến ông một bức thư có nội dung như sau:
Gửi bác sĩ Nagai,
Khen tặng theo chương trình nghị sự
“Giữa muôn vàn nguy hiểm triền miền, ngài đã cống hiến bằng cả tâm hồn và thể xác cho việc nghiên cứu khoa y học quang tuyến X. Rốt cuộc ngài mắc bệnh bạch cầu. Luôn luôn miệt mài hăng say trong công việc, ngài đã góp phần vào sự tiến bộ của khoa học và được xem như tấm gương cho tất cả mọi người. Bị tổn thương vì bom nguyên tử và bắt buộc phải nằm liệt giường, ngài đã cống hiến toàn bộ sức lực cho việc biên soạn nhiều tác phẩm, nổi bật nhất là tác phẩm “những quả chuông ở Nagasaki” và “để lại cho các trẻ em”. Ngài đã đóng góp tích cực vào việc giáo dục xã hội cho những người đồng hương. Trong niềm tin đó, chúng tôi khen ngợi ngài.”
Thủ tướng
Shigeru Yoshida
Và sau đây là bức thư phúc đáp của bác sĩ Nagai:
“Chiếc cúp và bức thư mà ngài gửi đến cho tôi là một niềm vui dành cho Thiên Chúa, những người thân và các con của tôi. Mặc dù bản thân tôi không xứng đáng, tôi cũng xin vui mừng đón nhận.
Nếu như công việc của tôi có góp phần vào việc tái thiết nước Nhật, điều đó có được là nhờ sự hướng dẫn của Thiên Chúa, nhờ sự giúp đỡ của những người đồng loại và nhờ lòng hiếu thảo của các con tôi. Tôi chỉ là một tôi tớ vô dụng, mọi vinh quang đều thuộc về Thiên Chúa.
Về niềm vinh dự dành cho tôi, tôi nghĩ đúng hơn nó nên dành cho những người đồng hương của tôi ở Nagasaki. Trên cánh hoang tàn đổ nát do bom nguyên tử để lại, chính họ là những người xây dựng một trung tâm của nền văn minh có ánh hưởng sâu rộng trên thế giới.
Sự khích lệ mà ngài ban cho tôi đồng thời cũng ban cho tôi sức mạnh mới để làm việc với tất cả khả năng của tôi trong việc xây dựng hòa bình đế đáp lại lòng mong đợi của ngài.”
Takashi Nagai.
Biết được quyết định của hội đồng chinh phủ, Đức Thánh Cha Piô XII cũng san sẻ niềm vui với bác sĩ và gửi đến ông Phép Lành Tòa Thánh.[10]
2.3.3. Những giờ phút sau cùng
Tháng 3/1951, tình trạng sức khỏe của bác sĩ Nagai trở nên nghiêm trọng. Ngoài sự suy nhược cực độ, lá lách sưng to làm bụng phình to đến mức không cho phép ông trở mình trên giường, nếu không có sự giúp đỡ. Bạch cầu với số lượng 7.000 nơi người bình thường, đã đạt đên 330.000. Nagai, người đã nghiên cứu kỹ sự phát triển của căn bệnh trên chính cơ thể của mình, không thể không cảm thấy giờ ra đi của ông sắp đến.
Điều đó không ngăn cấm ông tha hồ biểu lộ óc khôi hài quen thuộc, đến mức những người đến thăm ông khó mà hình dung họ đang đứng trước một người đang hấp hối.
Tháng 4, ông viết quyển sách cuối cùng. Sau khi quyển sách vừa hoàn tất, một cơn xuất huyết lại bộc phát làm tê liệt toàn bộ cánh tay.
Ngày 28/4, lại xảy ra đợt xuất huyết lần thứ hai. Bị dằn vặt đau đớn, bác sĩ đề nghị chích một mũi móc phin. Mũi đầu tiên cho đến giờ phút này.
Người ta quyết định cho ông nhập viện. Buổi sáng vào bệnh viện, ngày 30, ông lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Dù rất khát, suốt cả đêm, ông không muốn uống gì, mặc dù ông được phép uống vì là bệnh nhân.
Ở bệnh viện, cơn đau của ông càng trầm trọng thêm, rồi Nagai đi vào hôn mê. Lúc tỉnh lại, ông kêu lên thật to:
“Giêsu, Maria, Giuse”, rồi với giọng nói khe khẽ “con xin phó dâng linh hồn con trong tay các Ngài”. Một nữ y tá đưa một cây Thánh Giá cho Makoto để anh trao lại cho cha. Vừa đưa bàn tay trái còn cử động cầm lấy Thánh Giá, Nagai vừa thì thào: “con hãy cầu nguyện… ” ông tắt thở.
Ông cầm trong tay tràng chuỗi Mân Côi được kết bằng những hạt ngọc đen do Đức Thánh Cha trao tặng và cây Thánh Giá Makoto vừa trao.
Trên gương mặt người chết còn phảng phất một nụ cười nhẹ nhàng. Ông hưởng dương 43 tuổi. Nguyên nhân trực tiếp của cái chết: suy tim do bệnh bạch cầu. Trái tim mà Nagai đã bắt nó dâng hiến cho đến hơi thở cuối cùng đã ngừng đập.[11]
3. Lời khích lệ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhân ngày Khánh Nhật Truyền Giáo
Cha cám ơn tất cả các nhóm trong Hội Thánh giúp cho các con có thể gặp gỡ Đức Kitô sống động trong Hội Thánh: các giáo xứ, các hiệp hội, các phong trào, các dòng tu, và nhiều hình thức phục vụ truyền giáo khác nhau.
Có biết bao nhiêu người trẻ coi hoạt động truyền giáo tự nguyện là một cách để phục vụ những anh chị em “bé mọn nhất” của chúng ta (xem Mt 25,40), thăng tiến phẩm giá con người và làm chứng cho niềm vui của tình yêu và của tư cách là Kitô hữu! Các kinh nghiệm này của Hội Thánh không chỉ giáo dục và đào tạo những người trẻ để họ thành công trong nghề nghiệp, mà còn để họ phát triển và nuôi dưỡng những ân huệ Chúa ban hầu phục vụ tha nhân tốt hơn. Các hình thức rất đáng khen ngợi của việc phục vụ truyền giáo nhất thời này là một sự khởi đầu hiệu quả, và nhờ việc phân định ơn gọi, chúng có thể giúp các con quyết định hiến mình hoàn toàn cho công việc truyền giáo.[12]
—————–
[1] Sứ điệp ngày Thế Giới Truyền Giáo lần thứ 92 năm 2018
[2] Redemptoris Missio, 2
[3] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số155
[4] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 153
[5] Sứ điệp ngày Thế Giới Truyền Giáo lần thứ 92 năm 2018
[6] Nguyễn Thành Thống, Những người trở lại Công Giáo 1, trg.132-133
[7] Nguyễn Thành Thống, Những người trở lại Công Giáo 3, trg.181-183
[8] Nguyễn Thành Thống, Những người trở lại Công Giáo 3, trg.175-177
[9] Nguyễn Thành Thống, Những người trở lại Công Giáo, tập I, trg.124-125
[10] Nguyễn Thành Thống, Những người trở lại Công Giáo, tập I, trg.143-144
[11] .Yakichi Kataoka
[12] Sứ điệp ngày Thế Giới Truyền Giáo lần thứ 92 năm 2018
7. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
TRUYỀN GIÁO BẰNG CẦU NGUYỆN VÀ CHỨNG TÁ ĐỜI SỐNG
Thánh giáo hoàng Piô V đã dày công thuyết phục một vị “Tai mắt” Tin Lành đến với Giáo Hội Công Giáo. Trong khi vị này đang còn tìm hiểu Đạo, ngày nọ ông bước vào một nhà thờ để tham dự thánh lễ. Rủi thay, hôm đó những người hiện diện không có vẻ tôn kính trang nghiêm, trừ một số rất ít, số còn lại thì chia trí nói chuyện to nhỏ và nhìn ngó loanh quanh. Con người có ý định trở lại đạo này sinh ra bất bình, ông từ chối trở lại đạo bằng cách viện dẫn lý do trên. Ông nói: “Các người Công giáo không tin ở thánh lễ. Họ không tin vào sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu Thánh Thể”.
Câu chuyện trên đây đã để lại cho mọi người kitô hữu chúng ta một bài học hết sức thâm thuý, đặc biệt trong ngày cử hành lễ truyền giáo hôm nay. Nhiều khi vì những việc làm, lời nói vô tình hay cố ý của chúng ta làm rào cản, ngăn người khác đến với Chúa và Giáo hội. Vấn đề này đã được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đề cập đến trong tông thư Tiến tới thiên niên kỷ thú ba rằng: “Sở dĩ thế giới không nhận ra Đức Kitô nơi Giáo Hội và nơi mọi người Kitô hữu vì hai lý do: Một là vì Giáo Hội không biểu lộ được Đức Kitô ở trong mình ra cho thế giới; hai là vì Giáo Hội chưa sống với Đức Kitô như là một người của Thiên Chúa để làm cho thế giới cảm nghiệm được sự sống dồi dào của Chúa Giêsu, sức thánh hoá mãnh liệt của Chúa Thánh Thần và nhất là tình yêu vĩnh cửu của Chúa Cha, qua Giáo Hội”.
Ngài nói tiếp: “Thái độ lãnh đạm tôn giáo, một thái độ khiến nhiều người sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu hay sống một cuộc sống mờ nhạt không đẩy được họ tới đối diện với vấn đề chân lý cũng như nghĩa vụ liên đới”.
Chúng ta phải thành thật thú nhận rằng: Nhìn vào thực tiễn các xứ đạo, các gia đình, nhìn vào chính mình mỗi chúng ta đây, ta thấy rằng con số sống đạo cho đúng nghĩa rất ít. Trong khi đó, rất nhiều người giữ đạo hình thức, ở cách ăn mặc, hát xướng, tưng bừng bên ngoài, nhiều gia đình bất hoà bất thuận, những cá nhân sống như không có luật lệ, trộm cắp gian tham, lỗi công bằng bác ái…
Là Kitô hữu thì phải làm chứng, không làm chứng là phản chứng, làm chứng là một trong những cách thế truyền giáo hữu hiệu nhất, đặc biệt trong thời đại chúng ta hôm nay. Trước khi rao giảng bằng lời nói hãy rao giảng bằng đời sống. Người tín hữu giáo dân hãy nỗ lực cùng với đồng bào hãy xây dựng một nếp sống lành mạnh trong khu phố xóm làng, loại trừ mọi tệ đoan tật xấu. Đặc biệt hãy nêu gương tôn trọng sự sống, tôn trọng phẩm giá con người, sống theo lương tâm ngay thẳng làm chứng về sự hiện diện của nước Thiên Chúa, Nước đầy tràn sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương, công lý và bình an. Người tín hữu cũng nêu gương về đời sống hiệp nhất yêu thương. Không có lời rao giảng nào có sức thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình, xóm làng, trong giáo xứ, trong giáo phận, như lời Chúa nói: Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy: Ấy là nếu anh em thương yêu nhau(x. Thư mục năm 2003 của HĐGMVN).
Trong Tông huấn loan báo Tin Mừng của Đức Phaolô VI khi đề cập đến vấn đề những đường lối và những phương thế Phúc Âm hoá, tông huấn đề ra những đường lối quan trọng nhất: việc rao giảng, phục vụ Lời Chúa, huấn giáo, sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội, truyền đạt kinh nghiệm về đức tin bằng sự tiếp xúc cá nhân, vai trò của các Bí tích trong mối tương giao của chúng với Lời Chúa, những giá trị tích cực của nền đạo đức bình dân. Tuy vậy, trước danh sách của những đường lối đó, tông huấn có một đoạn dành riêng cho chứng tá đời sống được coi như phương thế Phúc âm hoá đầu tiên (EN 41): “Nhờ lối sống mình mà Hội Thánh trước tiên sẽ Phúc Âm hoá thế giới, nghĩa là nhờ chứng tá đời sống của mình về lòng trung tín với Chúa Giêsu, về sự khó nghèo và từ bỏ, về sự tự do trước quyền bính của thế gian này, tắt một lời về sự thánh thiện”.
Và Ngài kết luận rằng: “Con người thời đại này thích nghe những chứng nhân hơn là những nhà giảng thuyết, và nếu họ có nghe những nhà giảng thuyết là chỉ vì những nhà giảng thuyết là những chứng nhân”.
Chính vì thế mà những bài giảng đơn sơ của thánh Gioan Vianney có nhiều sức mạnh truyền giáo hơn là những bài giảng hùng hồn của các nhà giảng thuyết lừng danh chứa đựng nhiều sự thông thái và nhiều nghệ thuật, nhưng lại không được nung nấu bằng một lòng mến Chúa. Việc ban bí tích Hoà giải của cha Gioan Vianney không có giá trị hơn của các linh mục khác, nhưng sự thánh thiện của ngài tự nó đã là một lời kêu gọi mạnh mẽ thúc đẩy các tín hữu muốn xưng tội và hoán cải. Và sở dĩ vị thánh làm được điều đó là vì người liên lỉ sống đối diện với Mầu nhiệm, sống tâm giao với Thiên Chúa.
Vào thời đại của chúng ta, ai mà chẳng biết tiếng tăm lừng lẫy của Mẹ Têrêxa Calcutta, người đã sáng lập dòng Bác ái truyền giáo, và nhờ những việc làm cụ thể của các nữ tu mà bao người đã trở lại đạo. Câu chuyện sau đây là một trong vô vàn những chứng từ được Mẹ kể lại: Một người đàn ông sau khi đã quan sát rất kỹ lưỡng chị nữ tu băng bó cho người hấp hối một cách trìu mến và vui vẻ, đã nói với tôi: “Ngày hôm nay khi đến đây, tôi không có chút lòng tin vào Chúa, trái lại tâm hồn tôi đầy căm ghét Người. Nhưng bây giờ khi sắp rời khỏi nơi đây, tôi đã là người tin Chúa. Tôi đã thấy tình thương của Chúa được biểu lộ bằng những hành động như thế nào. Qua đôi bàn tay của chị nữ tu kia, qua bộ điệu của chị, qua sự trìu mến của chị với người hấp hối cùng cực, tôi đã thấy tình yêu của Thiên Chúa bao phủ người khốn cực này như thế nào, và bây giờ tôi tin”.
Tại sao thánh Gioan Vianney đã hoán cải được nhiều tội nhân như vậy? Tại sao Mẹ Têrexa Calcutta chinh phục được nhiều con tim đến thế? Chính là nhờ đời sống chứng nhân phát xuất từ lòng mến Chúa và luôn sống kết hợp mật thiết với Người. Một phóng viên đã hỏi Mẹ Têrêxa: “Thưa Mẹ, Mẹ yêu thương đám quần chúng mà người khác nhìn họ như những đống hoang phế của nhân loại. Đâu là bí quyết của Mẹ?” Mẹ Têrêxa từ tốn trả lời: “Bí quyết của tôi thật đơn giản: Tôi cầu nguyện”.
Như vậy, linh hồn hoạt động cho công cuộc bác ái của Mẹ Têrêxa chính là cầu nguyện. Sức mạnh phát xuất từ đó. Phép lạ chuyển hoá con người cũng khởi hành từ đó.
Vì vậy, chúng ta không lạ gì khi Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh nhiều đến việc cầu nguyện trong Giáo Hội. Vì đây là phương thế kết hợp với Thiên Chúa, để gắn bó với Đức Kitô, từ đó người tín hữu mới có thể biểu lộ Chúa ra cho thế giới. Vì người không có đời sống cầu nguyện sẽ không bao giờ thực hiện được trên các linh hồn một việc phong nhiêu kết quả. Chúng ta có thể ban tặng cho tha nhân cái dư tràn của chính đời sống thiêng liêng của chúng ta, cái dư dật của những xác tín tôn giáo chúng ta đã nghiền ngẫm trong kinh nguyện, theo kiểu nói tuyệt vời của Thánh Tôma: “Tặng người khác những gì mình đã chiêm ngắm”. Đời sống cầu nguyện là công việc nạp bình, còn hoạt động Tông Đồ chỉ sử dụng dựa vào sức điện nạp ấy. Bởi thế, càng hoạt động thì càng phải cầu nguyện. Cầu nguyện như người ta nghĩ là “Hồn sống của mọi hoạt động tông đồ”. Hay nói như Mẹ Têrêxa: “Hoạt động chỉ là kết quả của cầu nguyện”. Vì vậy, chúng ta hãy cầu nguyện cho có nhiều trái tim quảng đại biết cảm thương những cảnh đời bơ vơ không người chăn dắt; có nhiều tâm hồn thiện chí hăng hái dấn thân ra đi loan báo Tin Mừng(x. Thư mục vụ năm 2003 của HĐGMVN).
Suốt hai ngàn năm qua, Giáo Hội luôn nỗ lực truyền giáo, từ con số Mười Hai lớn dần tới hơn một tỉ người. Tuy nhiên, so với số dân thế giới thì con số đó chưa thấm vào đâu, chỉ chiếm khoảng 17%. Đặc biệt ở Việt Nam chúng ta con số đó lại càng ít, số giáo dân chỉ chiếm gần 8% dân số toàn quốc. Thế mà số người trở lại hàng năm thật ít ỏi. Theo niên giám Giáo hội Công giáo Việt Nam năm 2015 cho biết: Năm 2013 cả Giáo hội Viêt Nam với 6 606 495 giáo dân, với 29 152 Giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh mà chỉ có 41 395 người lớn trở lại đạo. Như vậy, mỗi giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh bình quân một năm chỉ lôi kéo được hơn một người theo Đức Kitô. Đó là chưa nói đến những người bỏ đạo hay từ Công giáo theo các tôn giáo khác. Hơn nữa, hầu hết những người trở lại đạo ấy chỉ để lấy vợ lấy chồng. Tại sao? Có phải như một số ý kiến cho rằng: “Người Công giáo Việt Nam mới chỉ giữ đạo chứ chưa ý thức truyền đạo?”. Đó là vấn đề mà mọi người kitô hữu Việt Nam chúng ta cần nghiêm túc suy nghĩ để không phải chỉ giữ đạo mà còn cần phải sống đạo và ra sức đóng góp phần mình cho công cuộc mở mang nước Chúa.
Truyền giáo luôn là nỗi thao thức của Giáo hội. Vì tự bản chất Giáo Hội là truyền giáo. Giáo Hội mang bản chất li tâm tức là trao ban chính mình cho người khác. Việc truyền giáo là lí do tồn tại của Giáo Hội. Thời gian của Giáo Hội là thời gian giữa hai lần Chúa đến, là thời gian truyền giáo, nếu không truyền giáo thì Giáo Hội mất hết ý nghĩa thời gian của mình. Xin cho mỗi người chúng ta biết góp phần mình cho công cuộc truyền giáo, nhất là bằng lời cầu nguyện và đời sống chứng nhân. Amen.
8. Tinh thần nhiệt tình tông đồ
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Trong một trận giao tranh ác liệt giữa quân của Napoléon và quân địch, trận chiến càng về khuya càng ác liệt và phần thắng dần dần nghiêng hẳn về phía địch. Quân của Napoléon chết rất nhiều, hàng ngũ rối loạn mặc dầu cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp tục nhưng rời rạc. Nhìn rõ thế trận, Napoléon biết phải làm gì, vua gọi tên lính thổi kèn lại gần và ra lệnh: “Hãy thổi kèn lui binh vì quân ta chết quá nhiều.”
Tên lính trẻ được lệnh, nhảy thót lên ngựa, phi nhanh ra giữa trận, và đưa kèn lên thổi hồi kèn thúc trận một cách mạnh mẽ. Quân của Napoléon đang mệt mỏi và thất vọng, nghe tiếng kèn thúc quân, tưởng là có viện binh tới giúp, chồm dậy phản công kịch liệt. Kèn cứ thổi, đám tàn quân vươn mình lên vừa đánh vừa la hét. Kết quả thế trận thay đổi: quân của Napoléon toàn thắng cách bất ngờ.
Câu chuyện trên đây làm tôi liên tưởng tới tinh thần nhiệt tâm truyền giáo cần phải có nơi mỗi người kitô hữu chúng ta. Thiết tưởng việc truyền giáo cũng cần có những người “Thổi kèn thúc quân?” Chính trong thư mục vụ năm 2003, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng đã mời gọi: “Hãy lên đường với nhiệt tình tông đồ, là sự hăng hái được thúc đẩy bởi sức mạnh của Chúa Thánh Thần, là lòng nhiệt thành được nung đốt bởi lửa của Chúa Thánh Thần, là những sáng kiến do ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần”.
Thứ nhất, tinh thần của Chúa Giêsu: Ngài chính là nhà Truyền Giáo vĩ đại nhất. Sứ mệnh truyền giáo của Ngài đón nhận từ Chúa Cha(x. Lc 4,18). Sau ba mươi năm sống ẩn dật tại vùng quê Nazarét, Ngài bắt đầu lên đường đi tới mọi nơi: Từ thành thị tới đồng quê. Từ vùng biển lên miền núi. Từ Giêrusalem lên Núi Sọ. Ngài gặp gỡ, tiếp xúc với mọi hạng người: giàu – nghèo, tri thức – dân thường, công chính – tội lỗi, khoẻ mạnh – ốm đau. Chính nhờ những cuộc gặp gỡ đó, Ngài đã hoán cải được nhiều người: Mathêu, Giakêu, Maria Mađalêna. Và chữa lành nhiều bệnh hoạn tật nguyền: Người què đi được; kẻ điếc được nghe; người câm nói được; người mù được thấy; người phong cùi được sạch; kẻ chết sống lại.
Tinh thần nhiệt tâm truyền giáo của Ngài còn được thể hiện qua sự chọn lựa và huấn luyện các Tông đồ. Trước khi về trời, Ngài đã ra lệnh cho các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”(Mc 16,15).
Thứ hai, tinh thần của các Tông đồ và các kitô hữu tiên khởi: Vâng lệnh Chúa Giêsu, sau ngày lễ Ngũ Tuần, các Tông đồ mở toang cửa ra đi đến với mọi người, tới mọi chân trời để làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh(x. Cv 2). Bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô đã thu hút khoảng ba ngàn người xin rửa tội (x. Cv 2,41). Con số xin gia nhập Giáo hội ngày càng gia tăng. Họ họp nhau lại, chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng(x. Cv 2,42). Các Tông đồ tiếp tục rao giảng Tin Mừng, khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện. Khi bị điệu ra trước thượng hội đồng(x. Cv 4). Lúc bị tống vào ngục, được giải thoát ra, lại tiếp tục rao giảng (x. Cv 5,17). Đi liền với lời rao giảng là những phép lạ kèm theo (x. Cv 5,12-16). Các Tông đồ thiết lập nhóm Bảy người, tức là Bảy phó tế đầu tiên. Trong số đó, có Thánh Stêphanô vị tử đạo tiên khởi. Sau biến cố Đamát, Phaolô trở lại. Trước đây nhiệt tình bắt bớ các kitô hữu bao nhiêu thì giờ đây Phaolô lại nhiệt tình rao giảng Tin Mừng bấy nhiêu. Khi xác tin được niềm tin và hiểu được sứ mạng Chúa giao phó, Ngài sống trọn vẹn cho Chúa và cho các linh hồn. Ngài nói: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rơm rác để được Đức Kitô và được kết hợp với Ngài” (Pl 3,8-14). “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”(1Cr 9,16). Ngài đã miệt mài rao giảng Tin Mừng cho dân Do Thái và dân ngoại. Đi đến đâu, Ngài cũng thiết lập các cộng đoàn mới, chăm sóc, dạy dỗ bằng những cuộc viếng thăm hoặc qua thư từ.
Tinh thần nhiệt tình tông đồ của các Tông đồ, các kitô hữu tiên khởi và đặc biệt là của Thánh Phaolô đáng cho mỗi người chúng ta học tập.
Thứ ba, tinh thần của các nhà thừa sai: Đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu Kitô, từ nhiều thế kỷ nay biết bao thế hệ môn đồ của Chúa đã hăng hái lên đường. Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người đã bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau ra đi đem Tin Mừng đến tận cùng thế giới. Thật vậy, nhờ các vị thừa sai tràn đầy nhiệt huyết, quê hương Việt Nam đã được đón nhận Tin Mừng. Nhờ đời sống đức tin anh dũng của các bậc tiền nhân, đức tin đã không ngừng phát triển, để truyền lại cho chúng ta ngày nay một gia sản quí giá (x. Thư chung năm 2003 của HĐGMVN).
Để làm được điều đó, thiết tưởng các ngài phải có một tâm hồn nhiệt tình tông đồ: Yêu mến Chúa hết lòng và khao khát phần rỗi các linh hồn. Chúng ta hãy lắng nghe những lời tâm huyết của một số vị thánh sau đây:
Cha Đa-miêng, vị tông đồ của những người hủi đã nói: “Phần tôi, tôi muốn hủi với những người hủi để chinh phục họ cho Chúa Giêsu”.
Thánh Phanxicô Xaviê đã dấn thân không mệt mỏi cho công cuộc truyền giáo, khi viết từ Viễn Đông cho thánh Ignatiô, Ngài nói: “Ở xứ này, rất nhiều người không phải là kitô hữu chỉ vì hiện nay không có ai để làm cho họ trở thành kitô hữu. Nhiều khi tôi có ý tưởng rong ruổi qua mọi đại học ở Châu Âu. Bắt đầu từ đại học ở Paris để kêu gọi những kẻ có nhiều học thức hơn là lòng bác ái và làm cho họ biết trách nhiệm về phần rỗi của kẻ khác”.
Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu thì nói: “Con cảm thấy lòng con khao khát phần rỗi linh hồn người ta lắm; con muốn dùng hết tài, xuất hết lực, hy sinh mọi lẽ để cứu kẻ tội lỗi cho khỏi lửa hoả ngục”. Trong những lá thư gửi cho hai cha truyền giáo, Ngài đã bộc lộ được tâm hồn khao khát truyền giáo của Ngài: “Cái điều mà con đêm mong ngày đợi là chinh phục nhân loại cho tình ái Chúa, con thú thật rằng: Nếu ở trên thiên đàng con không thể tiếp tục mạnh mẽ việc đó, con thích ở lại nơi lưu đày này hơn là về chốn vui vẻ đời sau”.
Còn mẹ Têrêxa Calcutta thì sao? Ngài nói: “Nhiệt tâm đối với các linh hồn là kết quả và chứng tá của tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa. Nếu ta yêu mến Thiên Chúa thực lòng, ta không thể không rạo rực ước muốn cứu vớt các linh hồn; đó chính là điều Chúa Giêsu quan tâm hơn và yêu quí hơn. Vì thế, nhiệt tình là bằng chứng của tình yêu, và bằng chứng nhiệt tình là tận hiến cho việc nghĩa này: Tiêu hao sức lực và cuộc đời ta để cứu vớt các linh hồn”.
Tóm lại, để loan báo Tin Mừng có hiệu quả, trên hết và trước hết cần phải có một tinh thần nhiệt tình tông đồ: Tinh thần của Chúa Giêsu. Tinh thần của các Tông đồ và các kitô hữu tiên khởi. Tinh thần của các nhà truyền giáo. Khi đã có tinh thần nhiệt tình tông đồ, chắc chắn sẽ tìm ra phương cách để truyền giáo. Hãy ra chỗ nước sâu. Hãy tới các vùng ngoại biên. Hãy mạnh dạn “Thổi những hồi kèn thúc quân”, đó là lòng nhiệt tình tông đồ bằng những hành động cụ thể chứ không phải lý thuyết suông. Hãy quan tâm đến những người bệnh tật ốm đau, những người bị bỏ rơi bên lề xã hội, những người bị áp bức bóc lột. Hãy quan tâm đặc biệt đến những người nghèo: “Có một mối giây không thể tách rời giữa đức tin của chúng ta và người nghèo. Xin cho chúng ta đừng bao giờ bỏ rơi họ” (Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 48). Làm như thế, mới hy vọng có được một mùa gặt bội thu trên cánh đồng truyền giáo tại quê hương Việt Nam chúng ta. Amen.
9. Chủ nghĩa “Ma-kê-nô” trong đời sống Đức Tin
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Ma-kê-nô, một cách nói khôi hài và mỉa mai, rút ra từ cụm từ “mặc kệ nó, sống chết mặc bay”, ám chỉ thái độ sống vô cảm, vô tâm, không hề quan tâm đến phúc lợi của những người chung quanh.
Bệnh vô cảm hay chủ nghĩa ma-kê-nô tràn lan trong xã hội
Vô cảm là một đề tài được đề cập khá nhiều trên các trang báo Việt Nam hiện nay và được xem như một thứ bệnh dịch đáng sợ gây ra những tác hại to lớn cho đồng bào, cho quê hương, đất nước.
Cảnh một đám học sinh dửng dưng vô cảm chứng kiến bạn học này đánh đập cách tàn nhẫn và dã man một bạn khác ngay trước mặt mình mà không hề có một lời can gián; cảnh một tài xế xe đầu kéo chở bia bị lật xe giữa chỗ đông người, thay vì được giúp đỡ thì lại thấy đông đảo người tuôn đến hôi của sạch trơn; cảnh nạn nhân cần được cấp cứu tức thời, bị bỏ lơ ngoài hành lang bệnh viện, không được đoái hoài, vì chưa nộp viện phí… và rất nhiều chuyện đau lòng tương tự đã không còn là điều hiếm thấy trên quê hương chúng ta…
Báo chí gọi đó là bệnh vô cảm, là chủ nghĩa “ma-kê-nô” đang tràn lan trong xã hội. Vô cảm đã trở thành một căn bệnh trầm kha rất khó chữa.
Điều đau lòng là vô cảm không chỉ là một căn bệnh đáng sợ của xã hội mà còn là một thứ bệnh tâm linh của người con cái Chúa. Người đời thì vô cảm với nỗi đau buồn của đồng bào trong nước, còn ki-tô hữu thì vô cảm trước những bất hạnh tinh thần của đông đảo anh chị em chung quanh mình.
Vô cảm với nỗi đau của Thiên Chúa Cha
Thiên Chúa là Người Cha rất mực tốt lành, ngày đêm ưu phiền khắc khoải vì đông đảo con cái yêu dấu của Ngài không nhận biết Ngài là Cha rất tốt lành và giàu lòng yêu thương; vì thế, họ ngoảnh mặt quay lưng lại với Cha, xem Cha là nhân vật hoang đường do những người mê tín dựng lên và cần phải xoá bỏ, hoặc tự nghĩ rằng mình là con không Cha… nên phải sống trong cô đơn khắc khoải trọn kiếp người. Trước tình trạng đó, Thiên Chúa đau khổ biết chừng nào!
Biết thế, nhưng nhiều người con trong nhà Cha, kể cả chúng ta, vẫn thờ ơ vô cảm trước nỗi lòng thổn thức đau khổ của Cha, miễn là hiện nay mình được an vui hạnh phúc trong Nhà Cha là được rồi.
Vô cảm với cảnh bơ vơ lạc lối của anh chị em mình
Là những người con trong nhà Cha, chúng ta được diễm phúc sống kề cận bên Cha, được Cha ấp ủ bằng tình phụ tử ngọt ngào, được Cha dưỡng nuôi bằng những lời khôn ngoan do Chúa Giê-su mang từ trời xuống, được Chúa Thánh Thần là Thầy khôn ngoan soi đường dẫn lối, được Đức Maria là Mẹ hiền bao bọc chở che bằng tình mẫu tử thiêng liêng trìu mến, được đón nhận vô vàn ân sủng qua các Bí Tích… Chúng ta cũng giống như những phú hộ sung túc trong đời sống thiêng liêng, nhưng lại tỏ ra dửng dưng vô cảm với vô số anh chị em ruột thịt con cùng một Cha trên trời, không được diễm phúc như mình.
Vì vô cảm, chúng ta không nói cho anh chị em lương dân biết họ có một Người Cha giàu lòng yêu thương. Vì vô cảm, chúng ta không ra tay dẫn đưa những anh chị em lưu lạc về với Cha để cùng chung hưởng hạnh phúc với mình. Vì vô cảm, chúng ta cứ vui hưởng hạnh phúc của người con trong nhà, còn anh chị em chúng ta có lưu lạc, có đói khát lầm than thì “ma-kê-nô”, có liên quan gì đến chúng ta!
Vô cảm trước lời thôi thúc mời gọi của Cha
Rất nhiều lần, lời Cha qua miệng Chúa Giê-su vang dội trong tâm hồn chúng ta: “Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá (Lc 5,4)”; “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần… Mt 28,19)”; “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. Anh em hãy ra đi. (Lc 10,2)…” Nhưng những lời thôi thúc mời gọi đó không gây được âm vang để lay động con tim vô cảm của chúng ta, không đủ mạnh để nhen lửa truyền giáo trong tâm hồn chúng ta, mà chỉ như làn gió thoảng qua rồi im bặt.
Chủ nghĩa “ma-kê-nô”
Hôm xưa, sau khi Ca-in thanh toán đứa em vô tội của mình, có tiếng Chúa từ trời vọng xuống hạch tội Ca-in. Ngài phán: “Ca-in, em ngươi đâu?”
Ca-in vô cảm trả lời: “Tôi đâu phải là người canh giữ em tôi!” (St 4,9) Ma-kê-nô!
Dường như câu đáp: “Tôi đâu phải là người canh giữ em tôi” hoặc “Ma-kê-nô”… cũng là châm ngôn sống và hành động của nhiều người trong Hội Thánh Chúa đối với đông đảo anh chị em lương dân quanh mình.
Nếu hôm nay Chúa hỏi mỗi người chúng ta:
– “Con có biết lòng Cha ray rứt đau khổ ngày đêm vì có hơn nửa dân số địa cầu chưa hề biết Ta là Cha thật sự của họ không?” Câu đáp sẽ là: “Ma-kê-nô!”
– “Con có biết hiện nay có hơn 80 triệu đồng bào Việt Nam, là anh chị em ruột thịt của con, đang cần con nói cho họ biết họ có Cha trên trời hết lòng yêu thương họ và họ đang cần được con dẫn về đoàn tụ trong nhà Cha không?” Câu đáp cũng sẽ là: “Ma-kê-nô!”
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cứu chúng con khỏi bệnh dịch vô cảm hay chủ nghĩa “ma-kê-nô” đang lây lan và gây nhiều tác hại đau thương cho đất nước và đặc biệt, xin cứu đoàn con trong gia đình Hội Thánh Chúa, khỏi căn bệnh vô cảm tâm linh hoặc chủ nghĩa “ma-kê-nô” độc hại, đang gây nhiều đau khổ cho Thiên Chúa và thiệt hại lớn lao cho rất nhiều người.
10. Tôi đang làm chứng hay phản chứng về đạo?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Một linh mục làm công tác truyền giáo lâu năm đã nhận định rằng Giáo Hội Công giáo Việt Nam chỉ thành công trong việc truyền giáo qua con đường hôn nhân mà thôi. Quả là không sai. Không cần phải nói đâu xa, ngay trong các xứ đạo, ta thấy tuyệt đại đa số những người theo đạo chủ yếu là để lấy vợ lấy chồng, còn những người theo đạo vì yêu mến đạo, yêu mến những người có đạo là rất ít. Vì thế số người Công giáo hằng năm tăng lên là không nhiều. Vậy đâu là nguyên nhân? Thiết nghĩ có hai nguyên nhân chính.
– Nguyên nhân thứ nhất là vì người Công giáo chưa ý thức việc truyền giáo và cầu nguyện cho việc truyền giáo.
Một số người Việt ở hải ngoại có nhận xét rất chí lý: “Người Công Giáo Việt Nam mới chỉ giữ đạo, chứ chưa ý thức truyền đạo?” Thực tế cho thấy điều này. Nhiều người Công giáo vẫn coi việc truyền giáo là việc của người khác, của các linh mục, các tu sĩ, hoặc các tác viên loan báo Tin Mừng, chứ không phải là việc của mình; truyền giáo là việc của các tổ chức này, đoàn hội kia, chứ không phải việc của gia đình mình. Bởi đó, họ không quan tâm đến việc nói cho người khác biết về Chúa, về đạo.
Bằng chứng là trong các cuộc gặp gỡ, trò chuyện với anh chị em lương dân, người Công giáo chúng ta thường rất ít nói, hoặc không bao giờ nói về Chúa, về đạo giáo của mình. Nội dung của các cuộc trò chuyện hầu như chỉ xoay quanh chuyện cơm áo gạo tiền, xe cộ, đất đai nhà cửa, công việc làm ăn buôn bán, chuyện học hành của con cái, chuyện bệnh tật hay tai nạn của người này người nọ, hoặc chuyện vợ chồng con cái của người nọ người kia, có khi là những câu chuyện trên phim ảnh (chuyện phim Cô Dâu Tám Tuổi chẳng hạn…). Anh chị em thử nghĩ coi có đúng không? Quá đúng luôn! Có người tám hết giờ này qua giờ khác với đủ thứ chuyện trên dưới đất, trừ chuyện Chúa, chuyện đạo. Dường như nhiều người vẫn bị “á khẩu” mỗi khi nghĩ đến việc nói về Chúa hay về đạo.
Nếu ta không nói về đạo về Chúa cho họ thì làm sao họ biết Chúa biết đạo, mà không biết thì làm sao họ yêu mến Chúa, yêu mến đạo. Không yêu mến Chúa, không yêu mến đạo thì làm sao họ theo đạo được. Dĩ nhiên, truyền đạo không nhất thiết nhắm đến việc lôi kéo người khác vào đạo. Điều quan trọng là giúp người ta nhận ra sự hiện diện của Chúa, để người ta không còn sống như người vô thần, hoặc không còn “tin vơ thờ quấy” lung tung nữa.
– Nguyên nhân thứ hai là do nhiều người Công giáo sống phản chứng với Tin Mừng, tức là sống nghịch lại với những gì đạo dạy.
Ta vẫn thường nghe nhiều anh chị em lương dân ca thán rằng người có đạo mà sống như người vô đạo, thậm chí còn tệ hơn. Gia đình Công giáo mà thường xuyên sống bất hoà bất thuận, anh em xâu xé nhau, vợ chồng lăng nhăng, phá thai, ly dị, … Người Công giáo mà sống bất công, trộm cắp tham lam, buôn gian bán dối. Người Công giáo mà cho vay ăn lời cắt cổ, hoặc chính mình vay mà quỵt nợ không chịu trả. Người Công giáo mà rượu chè say sưa triền miên, cờ bạc số đề số đóm tối ngày… Người Công giáo mà sống ích kỷ hẹp hòi, sẵn sàng tranh chấp kiện tụng nhau chỉ vì một mét đất, hay chỉ vì một chút lợi lộc trong việc làm ăn.
Người Công giáo mà sống cố chấp, hận thù, ganh ghét. Đụng một tí là chửi lộn đánh lộn, là ăn thua đủ điều với người khác. Miệng thì rêu rao phải sống “bao dung”, nhưng khi đụng chuyện thì sẵn sàng “bung dao” với người khác. Lòng thì tỏ ra “thương xót”, nhưng hành vi cử chỉ thì làm cho người khác đau đến “thót xương”.
Tất cả những điều này vẫn đập vào mắt những người lương dân mỗi ngày, thử hỏi làm sao người ta có thiện cảm với đạo, và với người có đạo được. Cũng vì thấy nhiều người Công giáo sống phản chứng, sống không ra gì, thậm chí còn bết bát hơn là những người vô thần, nên một số anh chị em tân tòng và cả cựu tòng cũng bỏ đạo.
Đã có những người chồng tân tòng bỏ Chúa, bỏ Giáo hội vì người vợ và gia đình vợ sống quá tệ, tệ hơn cái kệ ocan gặp nước. Đã có những người vợ bổn đạo mới bỏ đạo vì chồng và gia đình chồng sống đạo không ra gì. Rồi cũng những cô con dâu mất đức tin chỉ vì bà mẹ chồng hà bá quá sức tưởng tượng: chì chiết đay nghiến chửi bới cô con dâu suốt ngày, v.v… Những chuyện đau lòng này vẫn diễn ra ngay trong các xứ đạo Công giáo đó thôi.
Vậy trong ngày Chúa Nhật truyền giáo của Năm Tân Phúc Âm Hóa Giáo Xứ, chúng ta được mời gọi nghiêm túc nhìn lại đời sống của mình, xem chúng ta có ý thức truyền giáo và cầu nguyện cho việc truyền giáo hay không? Trong các cuộc gặp gỡ chuyện trò hằng ngày với những người lương dân, chúng ta có nói được tí nào về Chúa, hay về đạo không? Chúa và Giáo hội có chỗ đứng thế nào trong những bận tâm thường nhật của chúng ta? Chúng ta đang làm chứng tá tốt lành cho Chúa và Đạo thánh của Người, hay chúng ta đang sống phản chứng “hạng nặng”, khiến cho những người chung quanh có ác cảm với đạo và xa lánh đạo?
Nếu câu trả lời nghiêng về tiêu cực thì chúng ta được mời gọi thay đổi lối nghĩ và lối sống của mình, để Chúa và Giáo hội không còn bị hàm oan dưới cái nhìn của những người lương dân đang sống bên cạnh chúng ta, và để cho công cuộc truyền giáo của Giáo hội có thể gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp.
11. Truyền Giáo hay Rao Giảng Tin Mừng!
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Dầu đã được trực tiếp tham gia vào công tác ‘truyền giáo’ trong thời gian 02 năm tại Mongolia, nhưng khi được nhiều bạn gửi ‘mail’ khuyến khích viết bài suy niệm nhân Khánh Nhật Truyền Giáo, tôi vẫn cảm thấy ngại ngùng. Lý do là vì suy nghĩ của tôi sau thời gian ‘truyền giáo’ trở về đã bị thay đổi nhiều quá; tôi cảm thấy lạc lõng và cô đơn trong suy tư, cũng như hụt hẫng trong truyền đạt về đề tài này. Cuối cùng thì sáng nay trong thánh lễ, sau khi lắng nghe lời chia sẻ của các tập sinh, tôi đã quyết định viết, nhưng không phải cho ai khác mà là viết cho chính mình đấy thôi.
Tôi nhớ là: năm 2003, sau khi kết thúc nhiệm kỳ giám tỉnh cuối cùng, tôi vẫn chưa có một định hướng rõ rệt nào cho tương lai phục vụ của mình. Vì Bề Trên trung ương rộng phép cho tôi được hưởng một năm bồi dưỡng tại bất cứ đâu…, nên tôi đã quyết định xin có một năm trau dồi thêm kiến thức về tu đức, và học hỏi về các tôn giáo thế giới tại đại học Berkeley – California (Hoa Kỳ); chính trong thời gian này mà tôi đã đi tới quyết định xin bề trên cho phép đi truyền giáo tại Mongolia (Mông Cổ), nơi mà tôi đã lui tới nhiều lần trong thời gian, với tư cách giám tỉnh, thành lập các cơ sở truyền giáo cho anh em tỉnh dòng Don Bosco Việt Nam. Hơn nữa, trước khi lên đường đi Mongolia, tôi còn được tham dự một khóa học ba tháng chuyên đề về truyền giáo học tại đại học Universitá Pontificia Salesiana – Roma; ấy thế mà khi thực sự tới và làm việc trực tiếp tại một nơi truyền giáo ‘Ad Gentes’ thứ thiệt như Mongolia, cái kinh nghiệm ‘truyền giáo’ tuy còn rất nông cạn và bé nhỏ mà tôi đã thủ đắc được trong thời gian ngằn ngủi này đã đủ để làm đảo lộn (upside down) mọi suy nghĩ trước đó của tôi về lãnh vực này.
Trước hết, tôi thấy mình dị ứng ghê gớm với cái từ ‘truyền giáo’ thông dụng, vì thấy nó quá mập mời dễ gây hiểu lầm. Nếu truyền giáo hàm ý làm cho một người ‘không có đạo’ được rửa tội để gia nhập đạo Công giáo theo nghĩa ‘cải đạo’ (proselytism), thì rõ ràng là ta đã hiểu sai ẩn ý của Đức Kitô mất rồi. May mắn thay nội dung này đã chính thức bị Công Đồng Va-ti-can II phế bỏ! ‘Missio’ phải được hiểu là sứ vụ được sai đi (‘thừa sai’) để ‘rao giảng Tin Mừng’ (evangelisare), có nghĩa là để loan báo Tin Mừng cứu độ, để loan truyền tình yêu thương xót của Thiên Chúa đã từng được Đức Kitô Giêsu thực hiện trong cuộc sống của Người, đặc biệt qua cái chết Thập Giá. Quan niệm cho rằng: ai đó phải gia nhập đạo, phải được rửa tội, thì mới được hưởng nhờ lòng nhân ái cứu độ của Thiên Chúa là một sai lầm lớn. Lòng thương xót và ơn cứu độ đã được Chúa ban cho hết thảy mọi người cách vô điều kiện (xem thư Rô-ma chương 5). Như thế ‘Loan báo Tin Mừng’ không làm gì khác hơn là mở mắt cho người ta nhận biết rằng họ đã được hưởng ơn cứu độ và lòng thương xót, nhờ vào sự chết và phục sinh của Đức Kitô Giêsu; và một khi họ đã tin nhận điều đó, ta mời gọi họ gia nhập cộng đoàn tín hữu để cùng chúng ta dâng lời cảm tạ tri ân lên Thiên Chúa về hồng ân vĩ đại đó.
Một suy nghĩ khác mà tôi cảm thấy rất ‘dội’ đó là: nếu không có ai đi truyền giáo thì các dân ngoại sẽ mất linh hồn hết…, rằng nhà truyền giáo là những người mang ơn cứu độ tới cho kẻ ngoại…, rằng ơn cứu độ lệ thuộc vào một lối sống được xây dựng trên nền ‘luân lý Kitô giáo’ mà ta sẽ mở mắt cho họ biết, để rồi, nhờ nắm giữ cặn kẽ các qui định, luật lệ đó, họ sẽ được vào hưởng nước thiên đàng. Thiết tưởng: khi Đức Kitô sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng, Người đâu có ám chỉ điều này: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Ngay câu nói: ‘Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” đâu có nghĩa là, chính phép rửa sẽ ban ơn cứu độ! Nhìn vào chính Đức Giêsu ta sẽ thấy: Tin Mừng của lòng thương xót cứu độ vẫn có thể được rao giảng và mời gọi ngay cả một người nữ Sa-ma-ri đang sống chung chạ sau năm đời chồng. Khi còn ở Mongolia, cha sở nhà thờ chính tòa Ulaanbataar, một nhà truyền giáo người Ca-mơ-run, xin tôi dạy giáo lý cho một nhóm sinh viên. Ngài muốn tôi dạy theo chương trình giáo lý tân tòng mà ngài đã soạn sẵn, khởi đầu bằng nội dung thập giới của Chúa và lục giới của Hội Thánh… Ngài căn dặn: đó là các điều kiện tiên quyết để gia nhập đạo hầu được rỗi linh hồn… Tôi đã quyết định không áp dụng chương trình đó, xác tín rằng ‘truyền giáo’ tiên quyết phải là rao giảng Tin Mừng, mà Tin Mừng chính là cho mọi người nhận biết Thiên Chúa xót thương và cứu độ toàn thể nhân loại. Tôi dọn một chương trình riêng, trong đó tôi phân tích cho các sinh viên Mongolia hiểu ra rằng: Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô yêu thương họ, không như các thần linh đạo Shaman của người du mục, luôn gieo rắc sợ hãi kinh hoàng khắp nơi. Thế đấy, cái kinh nghiệm rất cụ thể của tôi về sự khác biệt quá lớn giữa ‘truyền giáo’ và ‘loan báo Tin Mừng’ đại loại là như thế.
Từ cái kinh nghiệm ‘thừa sai’ còn rất thô thiển tại Mongolia tôi đã học được một bài học cơ bản: Thiên Chúa, không biết từ thuở nào, đã yêu mến và cứu chuộc các người Mông Cổ du mục sinh sống trên vùng thảo nguyên lạnh giá mênh mông tại Trung Á. Cuộc sống du mục nay đây mai đó của họ, với văn hóa và các truyền thống từ bao đời, cho dầu có nhiều điểm khác biệt với nền ‘luân lý Kitô giáo’ mang tính định canh định cư của lịch sử, vẫn không hề tách họ ra khỏi lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa đã và đang chủ động thực hiện nơi họ nhờ Đức Kitô Giêsu. Công việc của một ‘thừa sai’ như tôi đích thị phải là rao giảng Tin Mừng, là loan báo cho họ biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ trong chính lối sống và văn hóa của họ…, đồng thời mời gọi họ tin vào Đức Kitô Giêsu Cứu Chúa…, mời gọi họ lãnh nhận phép thánh tẩy… và gia nhập vào Hội Thánh là cộng đoàn những người nhận biết Thiên Chúa từ ái và yêu thương để không ngừng cất cao lời cảm tạ. Và cũng từ đó tôi nghiệm ra một điều còn quan trọng hơn nữa là: một ‘người loan báo Tin Mừng’ trước hết phải chính mình có cảm nghiệm sâu sắc về lòng thương xót cứu độ của Chúa. Cảm nghiệm này chính là nền tảng của việc được sai đi, là sức mạnh trong khiêm tốn phục vụ, là hy vọng không hề suy chuyển trước các khác biệt và thách đố, và là chương trình và hành động trong sứ vụ thừa sai.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã cho con được tham gia chút ít vào chương trình cứu độ đầy yêu thương của Chúa đối với dân tộc Mongolia. Cảm tạ Chúa đã mở lòng cho con nhận biết Chúa yêu thương họ vô cùng, trước cả khi con được sai tới với họ để nói cho họ biết điều đó. Qua tâm tình tri ân này, xin cho con tiếp tục không ngừng khao khát tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương và cứu độ, và tìm cách làm chứng cũng như loan truyền điều đó cho mọi người con gặp gỡ và tiếp xúc hàng ngày. Con coi đó chính là công việc ‘truyền giáo = thừa sai’ Chúa đang dành cho con lúc này và trong điều kiện sống này. Amen.
12. Sứ Điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo
(Sứ Điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2018 của ĐGH Phanxicô – Chuyển ngữ từ Zenit: Joseph C. Pham)
Cùng với giới trẻ, chúng ta hãy đem Tin Mừng cho hết mọi người
Các bạn trẻ thân mến, Cha muốn suy tư với các con về sứ mạng mà chúng ta đã nhận lãnh từ Đức Kitô. Trong khi nói với các con, Cha cũng nói với hết mọi Kitô Hữu đang sống hành trình đời mình trong Giáo Hội trong vai trò là con cái của Thiên Chúa. Điều dẫn Cha đến việc nói với mọi người qua cuộc trò chuyện này với các con là là sự chắc chắn rằng niềm tin Kitô vẫn hằng luôn trẻ khi nó mở ra cho việc truyền giáo mà Đức Kitô ủy thác cho chúng ta. “Truyền giáo làm sống động niềm tin” (Redemptoris Missio, 2), theo những lời của Thánh Gioan Phaolô II, một Vị Giáo Hoàng là người đã cho thấy một tình yêu lớn lao và sự quan tâm đặc biệt với giới trẻ.
Thượng Hội Đồng sẽ được tổ chức tại Rôma vào Tháng 10 này, tháng của việc truyền giáo, mang lại cho chúng ta một cơ hội để hiểu cách trọn vẹn hơn, dưới ánh sáng của niềm tin, điều mà Chúa Giêsu muốn nói với các con là giới trẻ, và qua các con, đến hết mọi cộng đoàn Kitô Giáo.
Cuộc đời là một sứ mạng
Mỗi người nam nữ là một sứ mạng; đó là lý do cho cuộc sống của chúng ta trên mặt đất này. Để được lôi cuốn và được sai đi là hai chuyển động mà tâm hồn chúng ta, đặc biệt khi chúng ta còn trẻ, cảm nhận như là những sức mạnh nội tại của tình yêu; chúng mang lại một sự hứa hẹn cho tương lai của chúng ta và chúng mang lại định hướng cho đời sống của chúng ta. Hơn bất kỳ ai khác, người trẻ cảm thấy sức mạnh của cuộc sống đổ ập xuống trên chúng ta và hấp dẫn chúng ta. Để sống cách vui tươi trách nhiệm của chúng ta với thế giới là một thách đố lớn lao. Cha ý thức rõ về những ánh sáng và bóng tối của tuổi trẻ; khi Cha nghĩ lại về tuổi trẻ của Cha và gia đình của Cha, Cha nhớ lại sức mạnh của niềm hy vọng của Cha cho một tương lai tươi đẹp hơn. Sự thật là chúng ta không ở trong thế giới này bởi sự chọn lựa của riêng chúng ta giúp cho chúng ta cảm thấy rằng có một sáng kiến đi trước chúng ta và làm cho chúng ta hiện hữu. Mỗi người chúng ta được mời gọi để suy tư về sự thật này: “Tôi là một sứ mạng trên mặt Đất này; đó là lý do vì sao tôi hiện diện ở đây trong thế giới này” (Evangelii Gaudium, 273).
Chúng ta loan báo Chúa Giêsu Kitô
Giáo Hội, qua việc loan báo điều mà Giáo Hội đã nhận lãnh nhưng không (x. Mt 10:8; Cv 3:6), có thể chia sẻ với các con là những người trẻ con đường và sự thật vốn mang lại ý nghĩa cho đời sống của chúng ta trên mặt đất này. Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết trên thập giá và đã sống lại vì chúng ta, mời gọi sự tự do của chúng ta và thách đố chúng ta hãy tìm kiếm, khám phá và loan báo thông điệp của sự thật và sự thành toàn này. Các bạn trẻ thân mến, đừng sợ Đức Kitô và Giáo Hội của Ngài! Vì ở đó chúng ta tìm thấy kho tàng vốn lấp đầy cuộc sống bằng niềm vui. Cha có thể nói với các con từ kinh nghiệm của riêng Cha: nhờ niềm tin, Cha đã tìm thấy một nền tảng chắc chắn cho những giấc mơ của Cha và sức mạnh để thực tại hóa chúng. Cha đã chứng kiến sự khổ đau lớn lao và sự nghèo nàn làm biến dạng diện mạo của quá nhiều người anh chị em chúng ta. Và rồi, đối với những người đứng về phía Chúa Giêsu, sự dữ là một động lực cho một tình yêu lớn lao hơn. Nhiều người nam nữ và nhiều bạn trẻ đã hy sinh cách quảng đại chính bản thân họ, thậm chí đôi khi đến mức tử đạo, vì tình yêu đối với Tin Mừng và sự phục vụ anh chị em của họ. Từ thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta học được logic thánh của sự hy sinh bản thân (x. 1 Cr 1:17-25) như là một việc loan báo Tin Mừng cho sự sống của thế giới (x. Ga 3:16). Để thắp lên ngọn lửa bởi tình yêu của Đức Kitô nghĩa là bị tiêu thụ bởi ngọn lửa ấy, để lớn lên trong sự hiểu biết bởi ánh sáng của nó và được sưởi ấm bởi tình yêu của ngọn lửa ấy (x. 2 Cr 5:14). Ở trường của các thánh, những vị mở ra cho chúng ta những chân trời của Thiên Chúa, Cha mời gọi các con đừng bao giờ ngừng tự hỏi: “Đức Kitô sẽ làm gì nếu Ngài ở vị trí của tôi?”
Thông truyền niềm tin đến tận cùng trái đất
Các bạn trẻ thân mến, qua phép rửa của mình, các con đã trở thành những thành viên sống động của Giáo Hội: chúng ta cùng nhau nhận lãnh sứ mạng đem Tin Mừng cho hết mọi người. Các con đang ở ngưỡng cửa của cuộc sống. Để lớn lên trong ân sủng của niềm tin đã được ban xuống trên các con bởi các bí tích của Giáo Hội nhận chìm chúng ta vào trong dòng chảy lớn lao của những chứng nhân là những người, qua các thế hệ, làm cho sự khôn ngoan và kinh nghiệm của những người lớn hơn trở thành một chứng tá và sự khích lệ cho những người đang nhìn về tương lai. Và sự tươi mới và lòng nhiệt thành của người trẻ biến chúng thành một nguồn bổ trợ và niềm hy vọng cho những người đang ở gần cuối hành trình của mình. Trong sự hòa quyện của những giai đoạn khác nhau này trong cuộc sống, sứ mạng của Giáo Hội làm cầu nối cho các thế hệ; niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa và tình yêu của chúng ta dành cho người thân cận là một nguồn của sự hiệp nhất lớn lao.
Sự thông truyền niềm tin này, trọng tâm của sứ mạng của Giáo Hội, diễn ra bởi sự lây nhiễm của tình yêu, nơi mà niềm vui và lòng nhiệt thành trở thành một sự thể hiện của một ý nghĩa và sự tròn đầy mới được phát hiện trong cuộc sống. Việc lan tỏa niềm tin “bởi sự cuốn hút” mời gọi các tâm hồn cởi mở và được mở rộng bởi tình yêu. Thật không thể để đặt các giới hạn cho tình yêu, vì tình yêu thì mạnh mẽ như sự chết (x. Dc 8:6). Và sự diễn tả ấy làm phát sinh sự gặp gỡ, chứng tá, sự loan báo; nó làm phát sinh sự chia sẻ về bác ái với hết mọi người đang ở xa niềm tin, thờ ơ với niềm tin và có lẽ thậm chí thù nghịch và chống lại niềm tin. Các bối cảnh con người, văn hóa và tôn giáo vẫn xa lạ với Tin Mừng của Chúa Giêsu và với sự hiện diện mang tính dấu chỉ của Giáo Hội hiện diện ở những vùng ngoại biên cực xa, “những tận cùng thế giới”, mà ngày từ ngày đầu tiên của Sự Phục Sinh, các môn đệ truyền giáo của Chúa Giêsu đã được sai đi đến những nơi ấy, với sự chắc chắn rằng Chúa của họ luôn ở cùng họ (x. Mt 28:20; Cv 1:8). Đây là điều mà chúng ta gọi là mission ad gentes (đến với muôn dân). Vùng ngoại biên hẻo lánh nhất của hết mọi nơi là nơi mà nhân loại, đang cần Đức Kitô, vẫn đang thờ ơ với niềm tin hay những biểu hiện lòng hận thù đối với sự tròn đầy của sự sống trong Thiên Chúa. Mọi sự nghèo nàn về thiêng liêng và vật chất, mọi hình thức phân biệt đối xử với anh chị em của chúng ta, luôn là một hậu quả của sự chối bỏ Thiên Chúa và tình yêu của Ngài.
Các bạn trẻ thân mến, ngày nay, những tận cùng trái đất thì lại khá tương đối và luôn “có thể điều hướng” cách dễ dàng. Thế giới số – các mạng xã hội vốn quá phổ biến và luôn sẵn sàng – làm tan biến hết mọi biên giới, loại bỏ hết những khoảng cách và giảm thiểu những khác biệt. Mọi thứ đều ở trong tầm với, quá gần gũi và tức thời. Nhưng rồi việc thiếu quà tặng chân thành của cuộc sống của chúng ta, chúng ta có thể có vô số các mối liên hệ nhưng không bao giờ chia sẻ một sự hiệp thông sự sống thật sự. Để chia sẻ về mặt truyền giáo cho đến tận cùng trái đất đòi hỏi một quà tặng về bản thân trong ơn gọi mà Thiên Chúa, Đấng đã đặt để chúng ta trên mặt đất này, chọn để ban cho chúng ta (x. Lc 9:23-25). Cha dám nói rằng, đối với một người trẻ nam hay nữ là người muốn theo Đức Kitô, thì điều thiết yếu nhất là tìm kiếm, khám phá và duy trì trong hơn gọi của mình.
Làm chứng cho tình yêu
Cha biết ơn tất cả các nhóm giáo hội đang làm cho việc có một cuộc gặp gỡ cá nhân với Đức Kitô sống động trong Giáo Hội của Ngài trở nên khả thể với các con: các giáo xứ, các tổ chức, các phong trào, các cộng đồng tu trì, và nhiều sự thể hiện khác nhau của công việc truyền giáo. Biết bao nhiêu người trẻ tìm thấy trong công việc thiện nguyện truyền giáo một con đường phục vụ “người bé mọn nhất” trong số anh chị em của chúng ta (x. Mt 25:40), cổ võ phẩm giá con người và làm chứng cho niềm vui của tình yêu và của việc là các Kitô Hữu! Những kinh nghiệm mang tính giáo hội này sẽ giáo dục và đào luyện người trẻ không chỉ cho sự thành công nghề nghiệp và còn cho sự phát triển và nuôi dưỡng những quà tặng mà Thiên Chúa ban cho để có thể phục vụ người khác tốt hơn. Những hình thức đáng khen ngợi này của công việc truyền giáo đương thời là một khởi đầu sinh hoa trái và, qua sự biện phân ơn gọi, những hình thức này còn có thể giúp các con quyết định thực hiện một quà tặng trọn vẹn về bản thân các con thành những nhà truyền giáo.
Hội Truyền Giáo được sinh ra từ những tâm hồn trẻ như là một phương thế của việc cổ võ và loan báo Tin Mừng cho hết mọi dân nước và do đó góp phần cho sự phát triển về nhân bản và văn hóa của hết mọi người đang khát sự hiểu biết về sự thật. Những lời cầu nguyện và sự trợ giúp vật chất được trao ban và phân phát cách đại lượng qua Hội Truyền Giáo giúp cho Tòa Thánh đảm bảo rằng những người được giúp đỡ trong những nhu cầu các nhân của họ sau đó có thể làm chứng cho Tin Mừng trong những hoàn cảnh của đời sống của họ. Không một ai quá nghèo đến mức không thể cho điều họ có, nhưng trước hết và trên hết điều mà họ là. Cho phép Cha lặp lại những lời khích lệ mà Cha đã nói với các bạn trẻ của Chile: “Đừng bao giờ nghĩ rằng các con không có gì để cho đi, hoặc nghĩ rằng không một ai cần các con. Nhiều người cần các con. Hãy nghĩ về điều đó! Mỗi người trong các con, hãy nghĩ trong tâm hồn mình: nhiều người cần tôi” (Gặp Gỡ Giới Trẻ, Đền Maipu, 17/01/2018).
Các bạn trẻ thân mến, vào Tháng 10 tới đây, tháng của truyền giáo, chúng ta sẽ tổ chức Thượng Hội Đồng dành cho các con. Thượng Hội Đồng này sẽ cho thấy là một cơ hội nữa để giúp chúng ta trở thành các môn đệ truyền giáo, hằng tận hiến cách hăng say hơn nữa cho Chúa Giêsu và sứ mạng của Ngài, đến các tận cùng trái đất. Cha xin Mẹ Maria, Nữ Vương Các Tông Đồ, Thánh Francis Xavier, Thánh Thérèse Hài Đồng Giêsu và Chân Phúc Paolo Manna chuyển cầu cho hết mọi người chúng ta và đồng hành với chúng ta luôn mãi.
13. Xin hãy sai con – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Thông thường khi cầu xin bất cứ ân huệ gì, chúng ta tha thiết cầu xin cho bản thân, cho gia đình mình trước. Thế nhưng, giả như khi đất nước lâm nguy, cần có người ra biên thuỳ bảo vệ, thì người ta lại sốt sắng cầu xin cho người khác, ngoại trừ bản thân, được can đảm xông ra chiến trường gìn giữ giang sơn. Nếu ai cũng cầu như thế và những lời cầu kiểu nầy được chấp nhận, thì làm gì còn Tổ Quốc!
Trong việc cầu cho công cuộc truyền giáo cũng vậy, chúng ta thường cầu với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin cho có đông người, ngoại trừ con, biết quảng đại lên đường đi khắp muôn phương loan báo Tin Mừng cứu độ”. Nếu ai cũng cầu xin kiểu đó, nghĩa là cầu cho người khác lên đường, ngoại trừ bản thân mình, thì cánh đồng truyền giáo sẽ vắng bóng thợ gặt, tìm đâu ra người đi loan báo Tin Mừng.
Vậy thì lời cầu xin thiết thực nhất mà mỗi người chúng ta phải cầu xin với Chúa là: “Lạy Chúa, tuy con bất xứng, nhưng xin hãy sai con đi làm thợ gặt cho Chúa ngay hôm nay.”
Dù muốn dù không, chúng ta cũng là tông đồ của Chúa ngay từ ngày lãnh bí tích thanh tẩy. Bí Tích Thanh Tẩy làm cho chúng ta trở thành chi thể Chúa Giêsu, cho thông dự vào vai trò ngôn sứ của Người, nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin Mừng cứu độ của Người.
Chính vì thế, trước khi về trời, Chúa Giêsu long trọng chuyển trao cho chúng ta, là môn đệ Người, tiếp tục thi hành sứ vụ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)
Vậy thì sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn phận phải làm chứ không phải là việc tuỳ thích. Thánh Phaolô thú nhận: “đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng.” (1 Cr 9,16).
Việc loan Tin Mừng là một bổn phận bắt buộc. Chỉ khi nào chúng ta tự khai trừ mình ra khỏi Hội Thánh, tự tách mình ra khỏi Thân Thể Chúa Giêsu, thì chúng ta mới có thể cho phép mình ngừng loan báo Tin Mừng.
Truyền giáo bằng chia sẻ tình thương
Phải truyền giáo cách nào?
Đối với Mẹ Têrêxa Calcutta, truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm bằng lời nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng chẳng chủ trương yêu thương đại chúng cách chung chung, nhưng là yêu thương từng người đang đối diện.
Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân Đức Kitô, mà chỉ có một Chúa Giêsu thôi. Người đó phải là người duy nhất trên thế gian trong giây phút đó.”
Với tâm tình nầy, Mẹ Têrêxa đã thu phục nhân tâm rất nhiều người khắp nơi trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội công giáo Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mươi năm!
Theo gương Mẹ Têrêxa, mỗi một người công giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem hết lòng yêu thương người đó.
Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với một gia đình lương dân, coi họ như thân quyến của mình, sẵn sàng chia sẻ buồn vui sướng khổ; khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng thông hiệp. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối giây thân ái và qua tình thân nầy, Tin Mừng của Chúa Kitô sẽ được lan toả.
Giáo Hội Hàn Quốc đã chứng tỏ đây là phương thức truyền giáo rất hiệu quả mà mỗi tín hữu đều có thể thực hiện trong đời mình.
14. Hãy thả lưới bên phải thuyền
Các Tông đồ đã đánh cá vất vả suốt đêm mà không được con cá nào. Nay Chúa Giêsu bảo các ngài phải ra khơi một lần nữa. Chắc các ngài phải ngần ngại lắm. Ngần ngại vì vừa qua một đêm vất vả, thân thể mỏi nhừ vì suốt đêm phải vật lộn với biển cả, với sóng gió, với chài lưới. Ngần ngại vì đang buồn ngủ. Mắt chĩu nặng vì suốt đêm không ngủ, đang cần một giấc ngủ để hồi phục sinh lực. Ngần ngại vì vừa bị thất bại ê chề, đã mất hết ý chí phấn đấu. Thế nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa, ra khơi, thả lưới. Và kết quả thật là bất ngờ. Lưới đầy cá chất đầy hai thuyền đến gần chìm.
Qua bài Tin Mừng này Chúa muốn dạy tôi những bài học về việc truyền giáo.
Bài học thứ nhất: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi vất vả. Phải lao động đêm ngày. Như các Tông đồ đã chài lưới suốt đêm thâu trong sương đêm giá lạnh, trong sóng gió biển khơi, trong vất vả cực nhọc. Suốt đêm đã lênh đênh trên biển cả, sáng sớm vừa mới về tới đất liền, tưởng được nghỉ ngơi, không ngờ lại phải ra khơi ngay tức khắc. Ra khơi cả lúc đang mệt mỏi cần nghỉ ngơi. Người muốn truyền giáo cũng phải noi gương các tông đồ. Làm việc không nghỉ. Phải đầu tư sức lực và trí tuệ. Phải phấn đấu không ngừng. Làm cho hết việc chứ không làm cho hết giờ. Và phải chấp nhận tất cả những mỏi mệt, những thử thách.
Bài học thứ hai: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi kiên trì. Vì việc truyền giáo có nhiều thất bại hơn thành công, có nhiều mệt nhọc hơn vui thích, nên việc truyền giáo đòi hỏi rất nhiều kiên trì. Kiên trì khi đã gặp thất bại. Kiên trì khi đã chán nản, mệt mỏi rã rời. Kiên trì khi gặp những trắc trở. Như lời thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tim 4,2). Các Tông đồ thật kiên trì, mặc dù đã thất bại sau suốt một đêm vất vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi theo lệnh Chúa truyền. Trong quá khứ, ta đã gặp nhiều thất bại trong việc truyền giáo. Hôm nay Chúa lại mời gọi ta hãy ra khơi, hãy lên đường truyền giáo. Ta hãy mau mắn đáp lời Chúa mời gọi, kiên nhẫn làm việc trên cánh đồng truyền giáo, bất chấp mọi thất bại, bất chấp mọi chán nản.
Bài học thứ ba: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi thanh luyện bản thân. Truyền giáo là công việc thánh thiện nên người truyền giáo phải thánh thiện. Sự thánh thiện khởi đi từ nhận thức thân phận yếu hèn tội lỗi. Và từ đó nảy sinh nhu cầu được thanh luyện. Như Phêrô cảm thấy mình tội lỗi không xứng đáng ở gần Chúa. Như Phaolô ngã ngựa cảm thấy mình lầm lạc. Như Isaia cảm thấy môi miệng mình ô uế. Sau khi được thanh luyện các ngài đã trở thành những nhà truyền giáo gương mẫu. Thánh hoá bản thân là một điều kiện quan trọng để truyền giáo thành công.
Bài học thứ tư: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi lắng nghe Lời Chúa. Vì truyền giáo là một công việc thiêng liêng. Nên ta không thể cậy dựa vào sức lực phàm nhân, phương tiện phàm trần. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp. Các ngài biết rõ biển hồ Galilê như lòng bàn tay. Thế mà các ngài đánh cá suốt đêm chẳng được con nào. Đó là bài học dạy ta biết rằng, nếu cậy dựa vào tài sức riêng, việc truyền giáo sẽ không có kết quả. Việc các tông đồ vâng lời Chúa ra khơi và vâng lời Chúa thả lưới bên phải mạn thuyền cho ta thấy một thái độ khiêm nhường lắng nghe. Dù Chúa Giêsu không phải là ngư phủ chính gốc. Dù Chúa Giêsu không hiểu biết biển hồ, nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa. Chính nhờ thế, các ngài đã thành công. Người làm việc truyền giáo phải noi gương các tông đồ biết khiêm nhường nhận biết sự bé nhỏ nghèo hèn của bản thân để thao thức lắng nghe Lời Chúa. Chỉ làm theo Lời Chúa, làm theo ý Chúa, làm vì Chúa việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta một nghị lực mạnh mẽ để sẵn sàng chấp nhận những vất vả khổ cực trong việc truyền giáo. Xin cho chúng ta biết chấp nhận cả những thất bại mà vẫn kiên trì lên đường truyền giáo. Và nhất là xin cho mọi người chúng ta được Chúa dạy bảo, để biết làm theo ý Chúa. Chỉ có như thế, việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Lạy Chúa Giêsu, xin kêu gọi chúng con lên đường truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin thanh luyện chúng con để xứng đáng làm việc truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết cách làm việc truyền giáo. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Truyền giáo là lẽ sống của Hội Thánh, bạn có ý thức điều này không?
2. Muốn truyền giáo phải có những điều kiện nào?
3. Bạn đã bao giờ bắt tay vào việc truyền giáo chưa?
4. Năm nay bạn đã quyết tâm làm gì để đóng góp vào việc truyền giáo?
15. Nhân chứng Phúc Âm
(ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên – Bài giảng Lễ Khánh nhật truyền giáo)
Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo trong Giáo Hội. Bí tích Thanh Tẩy trao cho mỗi Kitô hữu sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu cho anh em đồng loại của mình.
Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo trong Giáo Hội. Bí tích Thanh Tẩy trao cho mỗi Kitô hữu sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu cho anh em đồng loại của mình. Sau mỗi Thánh lễ, vị chủ tế tuyên bố với cộng đoàn tham dự: “Lễ xong, chúc anh em đi bình an!”. Đây không chỉ là lời chào tạm biệt trước lúc chia tay. Đây chính là lời sai đi, mang nội dung và ý nghĩa như lời Chúa nói với các tông đồ trước khi về trời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo…” (Mc 16,15). Như vậy, vào lúc thánh lễ trong phụng vụ kết thúc, cũng là lúc khởi đầu cho một cuộc lên đường mới để loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu.
Hội đồng Giám mục Việt Nam vừa tổ chức Đại hội tại Trung tâm Mục vụ Sài-gòn từ ngày 7 đến ngày 12 tháng 10-2013. Trong Thư Chung gửi cho cộng đoàn Dân Chúa, các Giám mục đã chọn đề tài Tân Phúc-Âm-Hóa như một định hướng cho Giáo Hội công giáo tại Việt Nam. Đó cũng là thao thức của các vị Giáo Hoàng trong thời hiện đại này. Có một nghịch lý hiện nay, đó là ngày càng có nhiều hiệp hội truyền giáo ở cấp quốc tế cũng như cấp địa phương, nhưng số tín hữu công giáo thực hành Đức tin lại ngày càng giảm. Phải chăng đó là hậu quả của não trạng cho rằng việc truyền giáo là của các linh mục và tu sĩ. Chính vì vậy, Giáo Hội luôn khích lệ người tín hữu tham gia cộng tác trong sứ vụ cao cả này, với hy vọng công cuộc truyền giáo sẽ đem lại nhiều kết quả tích cực.
Thế nào là Phúc-Âm-hóa? Đó là “mang Tin Mừng đến mọi môi trường nhân loại và, nhờ sự tác động này, làm biến đổi từ bên trong, đổi mới chính nhân loại:”Này đây Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21,5; ĐGH Phaolô VI,Tônghuấn Loan Báo Tin Mừng, 18). Phúc-Âm-Hóa là làm cho tinh thần của Phúc Âm được thấm nhuần trong mọi lãnh vực của cuộc sống, từ việc giải trí đến việc lao động; từ đời sống gia đình đến xã hội; từ người già đến người trẻ… Tân Phúc-Âm-Hóa là một cách thức canh tân để loan báo Phúc Âm có hiệu quả hơn. Đức Chân phước Gioan Phao-lô II đã giải thích khái niệm Tân Phúc-Âm-hóa trong bài diễn từ tại Đại hội lần thứ 19 của HĐGM Mỹ Châu năm 1983: “Tân Phúc-Âm-Hóa không phải là loan báo một Phúc Âm mới, nhưng là mới trong nhiệt thành, trong phương cách, trong cách diễn đạt”’. Như thế, mọi thành phần Dân Chúa, từ giáo sĩ đến giáo dân phải kiểm điểm lại cách thức truyền giáo của mình. Phải chăng phương pháp truyền giáo của chúng ta không còn hợp thời, hoặc thiếu lửa truyền giáo nên không đem lại những kết quả như chúng ta mong muốn.
Trong nhiều định nghĩa về truyền giáo, chúng ta thường hay nghe nói đến một khái niệm: truyền giáo là làm chứng cho Chúa. Chúng ta dành ít phút để suy tư về khái niệm này.
“Làm chứng” chính là lệnh truyền của Chúa Giêsu trước khi Chúa về trời: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Trong cuộc sống đời thường, nhiều khi chúng ta đã được mời làm chứng về một vụ việc xảy ra hoặc một tranh chấp quan trọng. Người làm chứng là nhân vật trung gian giữa hai bên. Muốn làm chứng, chúng ta phải biết rõ nội dung vụ việc đã xảy ra, với những chi tiết quan trọng có liên quan. Người làm chứng cũng phải là người có cuộc sống tốt, có uy tín, đáng tin đối với cả hai bên đang tranh chấp.
Truyền giáo là làm chứng cho Chúa. Để làm chứng cho Chúa, trước hết chúng ta phải hiểu Chúa, biết Chúa và tin vào Chúa. Một người không tin Chúa hoặc có một đức tin sơ sài thì không thể “kể về Chúa” được. Tiếp đến, người làm chứng phải có một cuộc sống tốt lành thì chứng của người đó mới đáng tin và có giá trị thuyết phục người khác. Một người nói về Chúa mà chính bản thân họ không sống những lời Chúa dạy thì không thể thuyết phục người khác theo Chúa, thậm chí họ còn làm biến dạng giáo huấn của Chúa và giáo lý của Giáo Hội.
Trở lại với Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Các Giám mục kêu mời các thành phần Dân Chúa, nhất là các linh mục, cộng tác nhiệt thành để truyền giáo theo những sáng kiến và phương pháp hợp với thời đại, được thúc đẩy bởi nhiệt tình mới, nhờ đó, chúng ta hy vọng sẽ đem đến cho Giáo Hội Việt Nam những mùa lúa chín dồi dào. Một cách cụ thể, trong năm 2014 sắp tới, các vị chủ chăn mong muốn chúng ta dành thời giờ và tâm huyết cho việc “Phúc-Âm-hóa gia đình”, tức là việc học giáo lý hôn nhân đối với các bạn trẻ; là trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái; là việc cầu nguyện chung thường xuyên trong gia đình. Những việc làm đó nhằm củng cố tình yêu gia đình và giáo dục Đức tin cho các thế hệ tương lai.
16. Khánh nhật truyền giáo – Lm Trần Ngà
Mến Chúa và yêu người là hai giới răn trọng nhất. Điều đó thì trẻ con cũng thuộc. Nhưng điều quan trọng là làm sao thực thi lòng mến Chúa qua việc yêu thương con người là hiện thân của Thiên Chúa.
Yêu Chúa mà lại ghét người thân cận thì thật là điều trớ trêu như câu chuyện sau đây:
Có một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên.
Hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến và rồi anh khẩn khoản xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực hay không, vua cha dạy cho hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái…
Thế là hoàng tử hoá thành người nông dân, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và mong được kết hôn với hoàng tử, nhưng cô tạ không nhận ra hoàng tử nơi người nông dân nghèo khổ nầy. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh.
Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lai.
Như vị hoàng tử kia hoá thân thành nông dân để thử lòng cô gái, Thiên Chúa cũng hoá thân thành người phàm để thử thách tình yêu của chúng ta. Ngài đã từ trời xuống thế, hoá thân làm người, cắm lều ở giữa loài người, trở nên người thân cận của mỗi người.
Thế nên, khi yêu thương người thân cận là chúng ta yêu thương Chúa, và khi chúng ta từ khước hay bạc đãi người thân cận là bạc đãi Chúa. Tình yêu thương người thân cận là thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Mẹ Têrêxa là người giữ điều răn yêu thương nầy cách tuyệt hảo. Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người phong cùi, trong những người bần cùng khốn khổ và mẹ tận tình yêu thương săn sóc những người ấy hết sức tận tình.
Mẹ dạy nữ tu của mẹ: “Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ.”
Mẹ là người vừa yêu mến Thiên Chúa trên trời lại vừa yêu mến Chúa hịên diện trong những người khốn khổ. Mẹ không tách rời hai giới răn mến Chúa và yêu người, nhưng mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người.
Khi hỏi tại sao người công giáo chúng ta truyền đạo mà không thu hút được nhiều người về với Hội Thánh?
Chắc chắn là vì chúng ta chưa sống theo đạo yêu thương. Nếu chúng ta theo phương cách sống đạo của mẹ Têrêxa Calcutta, tha thiết yêu mến Thiên Chúa nơi con người, thì đạo chúng ta trở thành hấp dẫn, và bản thân chúng ta cũng có sức thu hút được nhiều người như mẹ Têrêxa đã minh chứng bằng đời sống của mẹ: Mẹ được người đời xem là bà thánh sống, được mọi người yêu mến, cả những người Hồi Giáo, Ấn giáo, Bà La Môn và các đạo khác đều vô cùng quý mến mẹ.
Nhân ngày Truyền Giáo, xin cho chúng ta biết áp dụng phương thế truyền giáo tuyệt hảo của mẹ Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa trong con người, hy vọng nhờ đó, đạo Chúa trở thành một tôn giáo rất đẹp, rất hấp dẫn và nhiều người sẽ quay về với đạo yêu thương nầy.
17. Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
CHỨNG NHÂN TRONG SỰ HIỆP NHẤT YÊU THƯƠNG
Thế giới ngày hôm qua cũng như hôm nay luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình yêu. Một Tê-rê-sa thành Calcutta nhỏ bé nhưng có một trái tim lớn lao đã làm cho cả thế giới kính phục. Ở Việt Nam, người công giáo hay không công giáo họ vẫn nói với nhau về một vị giám mục dám bỏ ngai tòa để đến ở cùng những người cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là Đức Giám mục Cassien. Ngài đã dùng tình yêu để xoa dịu những những đau đớn cho người cùng khổ. Ngài đã chết cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi dương thế qua mọi thời đại.
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, thiết tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn lại tinh thần chứng nhân tin mừng của giáo hội sơ khai. Một giáo hội non trẻ nhưng có sức mạnh biến đổi trần gian. Một giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan tỏa đến tận cùng thế giới. Một giáo hội nhỏ bé nhưng ai cũng có tinh thần truyền giáo, khiến thánh Phao-lô đã từng nói rằng: “Tôi trồng, Apolo tưới, Thiên Chúa mới cho mọc lên”. Vậy đâu là điểm son để giáo hội có thể vượt qua mọi trở ngại để phát triển và canh tân bộ mặt trái đất? Thưa đó chính là tinh thần hiệp nhất yêu thương.
Theo sách tông đồ công vụ, thời giáo hội sơ khai, các tín hữu “sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự là của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu” (Tđcv 2, 44). Họ hợp nhất với nhau không chỉ về niềm tin mà còn hiệp nhất trong tình liên đới chia sẻ của cải vật chất cho nhau. Sự liên đới này tạo nên một cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người đều được cộng đồng quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu của từng người.
Chính đời sống yêu mến nhau nơi các tín hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân thương mến. Sự thương mến đó đã đem nhiều người về với Chúa. Sự thương mến đó cũng là nơi bảo vệ các tín hữu khỏi những cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn. Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn Giáo hội sơ khai đã được “toàn dân thương mến” (Tđcv 2,47a), thì đời sống của xứ đạo chúng ta hôm nay, cũng phải là một cộng đoàn được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến thân thương. Đó cũng là cách chúng ta ca tụng Chúa và giúp cho “càng ngày càng có nhiều người gia nhập Giáo hội” (Tđcv 2, 47b).
Thế nên, tinh thần truyền giáo mời gọi chúng ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả về vật chất, không chỉ là những người có đạo mà còn cả những người lương dân. Đồng thời sự chia sẻ này cũng nói lên sự xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét trong cộng đoàn để đón nhận nhau trong tinh thần bác ái huynh đệ. Lấy “dĩ hòa vi quý” để sống hài hòa, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một cộng đoàn chan hòa yêu thương, bác ái, chia sẻ, cảm thông. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu, là chứng nhân của Tin mừng giữa lòng dân tộc Việt Nam.
Vì chưng, giới luật quan trọng nhất của kytô giáo chính là Mến Chúa – yêu người, thì người người Kitô hữu chúng ta phải thể hiện điều đó qua từng lời nói, từng việc làm, luôn được cân nhắc cho vừa ý trời và phù hợp với luân thường đạo lý làm người. Vì vậy, một đời sống chứng nhân Tin mừng cũng phải thể hiện bằng một đời sống hòa hợp với cộng đồng, với tha nhân. Nhất là biết thể hiện sự tương thân tương ái nơi cộng đồng giáo xứ, sự hiệp nhất yêu thương trong tình huynh đệ với tha nhân, nhờ đó mà Tin mừng mới nở hoa trên từng môi trường sống của người tín hữu. Chúng ta không thể là một người kytô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ với anh chị em chung quanh. Lối sống này không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho những người chưa biết Chúa. Nhà lãnh tụ Ganhi của An Độ đã từng nói: “Nếu những người kytô giáo sống đúng tinh thần giáo lý của họ. Tôi sẽ mời gọi cả dân tộc Ấn trở lại”. Chúng ta không thể truyền giáo mà còn mang nặng tính bè phái, tỵ hiềm, chia rẽ. Lối sống này đã không thu góp về cho giáo hội những tín đồ mới mà còn đẩy biết bao người ra khỏi giáo hội bởi lối sống ích kỷ, độc đoán của chúng ta. Thực tế đã có rất nhiều những cộng đoàn, những xứ đạo đổ vỡ vì sự bè phái đã phá đổ tình hiệp nhất yêu thương. Đã có rất nhiều người bỏ đạo, chối đạo vì sự bất khoan dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo hội, khỏi cộng đoàn. Và cũng có rất nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em lương dân nhìn đến chúng ta, chỉ vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng bác ái, thiếu lòng bao dung.
Thế nên mỗi người tín hữu phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa, yêu người nơi mỗi người chúng ta. Chúng ta mến Chúa nên chúng ta hăng say truyền giáo. Chúng ta yêu mến tha nhân nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với tha nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta đi đến với tha nhân bằng một tình yêu chân thành, không khoe khoang, không giả dối. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần nhau.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã từ trời xuống để gieo tin mừng yêu thương vào cho nhân thế, nâng đỡ và giúp chúng ta sống ơn gọi truyền giáo bằng một tình yêu mến nồng nàn. Ước gì đời sống chúng ta cũng trở thành một lời chứng sống động cho tin mừng khi chúng ta dám sống triệt để theo những đòi hỏi của tin mừng là mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Amen.
18. Lễ Khánh Nhật Truyền Giáo
Chúa Nhật trước Chúa Nhật cuối tháng mười là khánh nhật truyền giáo. Năm nay cũng là năm thánh truyền giáo của Giáo Hội Việt Nam, đây cũng là dịp thuận lợi để Kitô hữu Việt Nam tìm hiểu sâu xa về sứ mạng truyền giáo.
Truyền giáo, là giúp người ta tin nhận Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, để họ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, để họ trở nên Kitô hữu. Tại sao phải truyền giáo?
Một số người cho rằng nếu không truyền giáo, nghĩa là nếu không giúp người ta trở lại đạo Công Giáo thì người ta không được cứu độ. Họ tưởng rằng những người ngoại đạo chết sẽ sa hỏa ngục, hoặc ít là không được lên thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời. Công Đồng Chung Vaticanô II dạy rằng, cả những người không biết Đức Giêsu, cả những người không biết Thiên Chúa, thậm chí những người vô thần cũng có thể được cứu độ (Hiến Chế Giáo Hội số 16).
Đứng trên quan điểm của một người không tôn giáo, tất cả các tôn giáo đều như nhau: tất cả các tôn giáo đều tốt, đều dạy ăn ngay ở lành. Có nhiều người Công Giáo sống tốt hơn những người không theo đạo nào hoặc sống tốt hơn một số người theo đạo khác, nhưng cũng có những người sống trong tôn giáo ngoài Kitô giáo hoặc không theo một tôn giáo nào cũng ăn ngay ở lành và thậm chí còn sống tốt hơn một số Kitô hữu. Như vậy, Kitô hữu truyền giáo không phải vì Kitô hữu sống tốt hơn những người không tôn giáo hoặc sống trong các tôn giáo khác.
Tin Mừng theo thánh Matthêu cho thấy Đức Giêsu truyền lệnh cho các tông đồ “dạy muôn dân trở thành môn đệ,” dạy bảo người ta tuân giữ những điều Đức Giêsu đã dạy các môn đệ. Kitô hữu truyền giáo không phải vì sợ người ta nếu không theo đạo Công Giáo thì phải sa hỏa ngục, nhưng bởi vì Đức Giêsu đã truyền lệnh.
Một số Kitô hữu không thích chữ truyền giáo, vì họ cho rằng từ ngữ này mang tính bá quyền, thống trị, độc tôn, tự kiêu, vì nó hàm chứa rằng Kitô giáo là nhất, chỉ có Kitô giáo là đúng. Nhiều người cho rằng, nếu dùng từ ngữ truyền giáo thì rất khó có thể đối thoại với những người sống trong các tôn giáo khác, vì nếu tiếp xúc với ai mà lại nghĩ người đó đang theo một tôn giáo sai lầm, và rồi chỉ tìm mọi cách làm cho người đó vào đạo của mình, thì làm sao có thể trân trọng và trao đổi chân tình một vấn đề.
Một số Kitô hữu thích dùng từ ngữ rao giảng Tin Mừng. Từ ngữ này có thể hiểu khi một người trình bày cho người khác tôn giáo của mình, họ nghĩ rằng điều họ biết họ tin là đúng, nên họ loan báo cho người khác biết, để nếu người đó thấy như họ và tin theo, thì người đó sẽ được hạnh phúc như họ cảm nghiệm. Việc người khác trở lại hay không là tùy do người đó, Kitô hữu chỉ chia sẻ những gì mình thấy là hay là tuyệt, và để người đó hoàn toàn tự do theo điều mà họ thấy đúng nhất hay nhất tuyệt nhất. Kitô hữu luôn tôn trọng tự do tôn giáo của người khác. Tự do tôn giáo là quyền của con người, quyền này đã được công đồng chung Vatican khẳng định. Kitô hữu không được rửa tội cho ai nếu người đó không muốn. Thực ra, từ ngữ “truyền giáo” là từ ngữ được sử dụng “nội bộ” thôi, nghĩa là, chỉ dùng giữa những Kitô hữu với nhau thôi, chứ không thể dùng để nói với những người theo các tôn giáo khác được. Nếu nói với những người ngoài Kitô giáo, từ ngữ loan báo Tin Mừng có lẽ dễ được chấp nhận hơn.
Rao giảng Tin Mừng là nói về Đức Giêsu Kitô. Kể cho người ta nghe Đức Giêsu là ai, Ngài đã làm gì, Ngài thực sự là ai. Tín hữu tin rằng Đức Giêsu chết và phục sinh là Tin Mừng tuyệt đối cho tất cả mọi người, thế nên, họ muốn chia sẻ Tin Mừng cho người khác. Tin Mừng Đức Giêsu Phục Sinh làm cho Kitô hữu hạnh phúc, nên Kitô hữu muốn người khác được bình an, hạnh phúc như họ, nên họ rao giảng Tin Mừng tuyệt vời này.
Đức Giêsu đã chết và đã phục sinh, ai tin vào Ngài sẽ không phải chết, và nếu có chết cũng sống lại. Đức Giêsu đã chết và đã sống lại. Đức Giêsu phải chết, vì Ngài mang thân phận con người. Không có ai là người mà đã không chết. Đức Giêsu đã phục sinh. Sự Ngài phục sinh trở thành dấu chỉ cho người ta nhận ra sự thật về chính Ngài: Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Thiên Chúa đã làm người để chỉ cho con người biết con đường cứu độ, chỉ cho người ta biết cách sống giúp người ta hạnh phúc đích thực.
Đức Giêsu là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa. Ngài là biểu tượng tình yêu Thiên Chúa. Đức Giêsu là chính tình yêu Thiên Chúa cho con người. Biết Đức Giêsu, là biết hơn về Thiên Chúa. Biết Đức Giêsu, là biết Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào; vì nếu không yêu thương, tại sao Thiên Chúa lại nhập thể, lại vĩnh viễn làm người! Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người như một lời mời gọi con người đáp trả tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu đáp trả tình yêu, ân tình đền đáp ân tình. Con người đáp trả tình yêu Thiên Chúa bằng việc phó thác tất cả cho Thiên Chúa trong niềm tin tưởng tuyệt đối.
Bước theo Đức Giêsu, trở nên môn đệ của Ngài, là đã bắt đầu được giải phóng, được an bình hạnh phúc vì biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Kitô hữu muốn người khác biết Đức Giêsu, là để họ được bình an và hạnh phúc thật sự. Đó là lý do tại sao Kitô hữu rao giảng Tin Mừng, rao giảng Đức Giêsu đã chết và đã phục sinh. Đức Giêsu là chính Thiên Chúa nhập thể. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, nên đã sai Con Ngài nhập thể để đưa con người đến với Thiên Chúa, để con người được hạnh phúc đích thực.
Con người ngày nay dường như được đánh động bởi những việc làm hơn là những lời nói xuông. Họ được đánh động bởi chứng từ cuộc sống hơn là bài giảng hay. Nếu Kitô hữu cho người khác thấy niềm tin vào Đức Giêsu chết và sống lại đã chi phối đời sống của họ, giúp họ vượt qua khó khăn và giúp họ chấp nhận cuộc sống đích thực như thế nào, thì chắc có nhiều người sẽ tìm hiểu về Đức Giêsu, Đấng đã làm cho các Kitô hữu những điều tuyệt vời như vậy.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Truyền giáo là gì? Tại sao Kitô hữu phải truyền giáo?
2. Hôm nay tại môi trường bạn sống, phải loan báo Tin Mừng thế nào để người ta tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa?
19. Cách thức truyền giáo
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta nghe âm vang lời mời gọi của Chúa vẫn còn vang vọng tới hôm nay: “anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Chúa không nói riêng một ai. Chúa mời gọi tất cả. Chúa không đòi hỏi khả năng, bằng cấp, học vị mà chỉ cần có nhiệt huyết làm tông đồ cho Chúa. Chúa cũng không đòi hỏi người truyền giáo phải hiểu biết tín lý thần học sâu xa, hay luân lý uyên thâm, Chúa chỉ cần có lòng quảng đại dấn thân mở mang nước Chúa. Chúa đã sai 72 môn đệ ra đi với đôi bàn tay trắng, thế mà khi trở về ai cũng vui mừng vì thành quả họ đã đạt được. Chúa đã thưởng công cho mỗi người như nhau, không phân biệt người đến sớm, kẻ đến muộn, người đạo gốc hay mới theo đạo. Từ người thợ giờ thứ 9 cho tới giờ thứ 11 đều được ân thưởng theo lòng nhân từ của Chúa.
Vậy đâu là cách thức truyền giáo hữu hiệu nhất cho người tông đồ của Chúa?
Thánh Gioan Tông đồ đã viết: “Ngôi lời đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta”. Chúa Giêsu là Lời hằng sống gieo vào thế gian, nhưng Lời đã mang lấy xác phàm giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngôi Lời đã trở thành nguồn ơn cứu độ để những ai tiếp xúc với Ngài đều có thể nhận lãnh được sự sống dồi dào cả tinh thần lẫn thể xác. Ngôi Lời đã mặc lấy thân phận con người, để có thể gần gũi, cảm thông và chia sẻ với những khổ đau của con người. Cuộc sống của Ngài đã trở thành trở thành lẽ sống cho con người, “Sống để yêu thương”, và Ngài đã đi trọn con đường tình yêu là “dám chết cho người mình yêu”. Vì vậy, cách thức duy nhất mà Chúa trối lại cho chúng ta là “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Lời Chúa và giáo huấn của Chúa phải trở thành cung cách sống của người tín hữu. Một đời sống bác ái yêu thương mới thực sự là phương thế hữu hiệu nhất để giới thiệu về Chúa cho tha nhân. Lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau. Mang danh kytô hữu và sống đời kytô hữu phải nên một trong con người có đạo mới thực sự trở thành chứng nhân cho Chúa.
Vì vậy, Truyền giáo không thể chỉ đi lễ, đọc kinh cầu nguyện là xong bổn phận chứng nhân cho Chúa. Nếu như thế mới chỉ là hành vi trả lại công bằng cho Chúa, vì việc tạ ơn là hành vi đền đáp lại ân ban của Thiên Chúa dành cho con người. Truyền giáo không phải là việc tuân giữ các giới răn của Chúa. Nếu như thế mới là giữ đạo chứ chưa truyền đao. Truyền giáo không phải là nói thật hay, thuyết trình thật hùng hồn là có thể đem nhiều người về với Chúa. Nếu như thế mới chỉ là tiếp thị chứ chưa mang đạo vào đời như muối như men ướp mặn trần gian.
Trong thông điệp “khánh nhật truyền giáo 2006”, Đức Thánh Cha Bênedictô 16 đã viết: “Sứ mạng truyền giáo, nếu không được định hướng bởi Lòng mến, nếu không phát sinh từ một hành động sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng đó liền bị rút gọn về chỉ còn như là một hành vi nhân ái và xã hội không hơn không kém. Tình yêu mà Thiên Chúa có đối với mỗi người, kết thành trung tâm của kinh nghiệm sống và loan báo Phúc Âm”.
Như vậy, Đức Thánh Cha đã tái khẳng định cách thức mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đi đó là thực hành bác ái. Không có lòng mến thì không thể trở thành nhân chứng cho niềm tin của mình. Yêu Chúa luôn đi liền với yêu mến tha nhân. Và thánh Phaolô còn quả quyết “Lòng mến chính là sợi giây ràng buộc chúng ta nên một với Đức Kytô”.
Hôm nay nhân ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta hãy rà xét lại lòng mến của chúng ta đã trở nên dấu chỉ của người kytô hữu hay chưa? Ngày xưa cộng đoàn tín hữu tiên khởi họ đã sống thật hiệp nhất với nhau, ngày ngày họ đến hội đường để nghe các tông đồ rao giảng. Họ chia sẻ đời sống hằng ngày với nhau, để không ai phải thiếu thốn. Họ được toàn dân thương mến và ngày càng có thêm nhiều người gia nhập Giáo Hội. Ước gì cộng đoàn xứ đạo chúng ta cũng được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến, đầy thiện cảm và tôn trọng, và ngày càng có những người muốn sống đời kytô hữu như chúng ta. Amen.
20. Khánh Nhật Truyền Giáo
(Suy niệm của Lm. G.B. Văn Hào)
Trong cuộc tông du tại Hoa Kỳ vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Thánh lễ ngày 23 tháng Chín năm 2015 tại Đền Thánh Đức Mẹ Vô nhiễm ở Washington DC để tuyên thánh cho Cha Junipero Serra, một vị thừa sai dòng Phanxicô gốc Tây Ban Nha. Vị Thánh đã đến Châu Mỹ làm việc cho thổ dân da đỏ và đã đón nhận cái chết tử đạo để minh chứng đức tin. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nhắc lại câu châm ngôn của vị thánh, đó là “Hãy luôn tiến lên phía trước để rao giảng Tin mừng”. Đức Thánh Cha cũng gợi lại tư tưởng mà Ngài đã viết trong tông huấn ‘Niềm vui của Tin mừng’ (Gaudium Evangelii): “ Từ sâu tận tâm hồn, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy ra đi. Đừng ở lỳ một chỗ để an hưởng một cuộc sống nhàn hạ. Đức Giêsu nói với các Tông đồ: Hãy đi rao giảng. Niềm vui Tin mừng là điều chúng ta phải trải nghiệm cách cụ thể. Chúng ta không có niềm vui đó nếu chúng ta không biết xả thân và trao ban”. Đây cũng là sứ điệp Giáo hội gửi trao đến chúng ta trong ngày Chúa nhật truyền giáo hôm nay.
Truyền giáo là lên đường.
Trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô, Thánh Phaolô đã nói đến bốn phần vụ trong Giáo hội để xây dựng nhiệm thể Đức Kitô, đó là: làm tông đồ, làm ngôn sứ, làm người loan báo Tin mừng, làm người coi sóc và dạy dỗ (Eph 4, 11). Trong bốn chức năng đó, trở thành người loan báo Tin mừng đòi hỏi sự hi sinh và dấn thân hơn cả, bởi vì người đó phải ra đi và lên đường. Người đi rao giảng Tin mừng phải rời bỏ tất cả: từ gia đình, quê hương, đến nơi ăn chốn ở và mọi dính bén khác. Căn gốc của sự ra đi chính là từ bỏ chính mình. Khi sai các học trò đi thực tập truyền giáo, Chúa Giêsu chỉ trang bị cho các ông một món hành trang duy nhất, đó là ‘năng quyền trừ quỷ và chữa lành các bệnh tật’, ngoài ra không tiền bạc, không bao bị, không mặc hai áo, không giầy dép..(Lc 9,3). Vì vậy truyền giáo trước hết là phải sẵn sàng lên đường và ra đi đến mọi ngõ ngách của thế giới, đặc biệt đến những vùng ven (peripheries) như lời Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi. Cuộc ra đi như vậy đòi hỏi phải chấp nhận phiêu lưu cách mạo hiểm, và cao điểm của cuộc hành trình liều lĩnh đó là chấp nhận cái chết như Đức Kitô trên Thập giá. Khi phong Thánh cho Cha Serra cuối tháng Chín vừa qua, Đức Thánh Cha đã nhắc lại đôi nét về sự ra đi của Ngài. Vị Thánh đã quảng đại từ khước địa vị danh giá là ghế giáo sư đại học ở Tây Ban Nha để lên đường sang Tân thế giới, phục vụ cho Tin mừng và ơn cứu độ. Cuộc mạo hiểm của Ngài đã phải trả giá, nhưng là cái giá của vinh thắng. Vừa khi mới đặt chân đến Mexicô, chân của Ngài đã bị sưng tấy vì dị ứng và đau đớn tột cùng, giống như bị ung thư hay bị nhện rừng cắn. Cao điểm của cuộc phiêu lưu này là Ngài đã bị giết chết, để bảo vệ các thổ dân. Một thi sỹ đã viết: “ Ra đi là chết trong lòng một ít”. Nhưng sự ra đi trong hành trình truyền giáo là sao chép lại tận căn chính cái chết của Đức Giêsu, vị truyền giáo đầu tiên, và cũng là nguyên mẫu cho chúng ta trong việc thực thi sứ mệnh rao giảng Tin mừng.
Đức Giêsu, nguyên mẫu của ơn gọi truyền giáo.
Năm mươi năm trước, Công đồng Vaticanô 2 đã ban hành sắc lệnh về truyền giáo ‘Ad Gentes’. Ngay từ chương đầu tiên của giáo huấn này, Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn về Đức Kitô như là nguyên mẫu cho sứ vụ truyền giáo. Công đồng đưa dẫn nhiều trích đoạn kinh thánh để cho chúng ta thấy Đức Kitô là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian hầu thực hiện sứ mạng cứu thế (Col 1, 13; Cv 10, 38; 2C 8, 9..). Vì vậy khi nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta có thể nghiệm ra rằng, 2000 năm trước Ngài đã đi vào trần thế không phải để sáng lập một tôn giáo, cũng như không phải để quảng bá một học thuyết chính trị. Ngài đến chỉ với sứ mạng duy nhất là công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là Tin mừng về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu đã lập đi lập lại sứ điệp này trong suốt ba năm rao giảng công khai, và cái chết của Ngài trên Thập giá chính là đỉnh điểm của lời công bố Tin mừng vĩ đại ấy. Vì vậy, để sống tinh thần truyền giáo, chúng ta phải học nơi Thập giá Đức Giêsu. Ngài chính là vị truyền giáo đầu tiên, và là mẫu gương trọn hảo cho tất cả chúng ta (trích Tông huấn Evangelii Nuntiandi số 7). Trong các đợt xuất phát truyền giáo, các hội dòng thường trao cho các vị thừa sai Thánh giá truyền giáo cũng với hướng đích này.
Truyền giáo là bản chất của Giáo hội
Trong các phiên họp khoáng đại của công đồng chung Vaticanô 2, Đức Thánh Cha Phaolô đệ lục có nêu ra một câu hỏi rất giản đơn cho các nghị phụ: “ Ta sống ở đời này để làm gì?” Đây cũng là câu hỏi đầu tiên trong các sách giáo lý căn bản mà chúng ta đều biết cũng như đã thuộc lòng câu trả lời, đó là:‘Ta sống ở đời này để nhận biết và kính mến Chúa, cho ngày sau được hưởng hạnh phúc đời đời’. Các nghị phụ cũng trả lời như thế. Nhưng Đức Thánh Cha nói rằng câu trả lời còn thiếu. Ngài cắt nghĩa: “ Ta sống ở đời này để nhận biết và yêu mến Chúa, cho ngày sau được cứu rỗi, nhưng chúng ta cũng sống ở trần gian này còn để giúp người khác yêu mến và nhận biết Thiên Chúa, để họ cũng được ơn cứu độ như chúng ta”. Cha Thomas Merton, một tu sỹ dòng Trappist ở Hoa Kỳ có viết một tác phẩm tựa đề: ‘Không ai là một hòn đảo’. Tư tưởng của Ngài rất thâm thúy, và trong dịp viếng thăm Hoa Kỳ vừa qua, khi đọc diễn văn tại lưỡng viện quốc hội, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng gợi nhắc khuôn mặt tiêu biểu này. Cha Thomas Merton lý luận rằng, không ai trong chúng ta có thể sống cô lẻ một mình như một ốc đảo. Khi sống hiệp thông trong Hội thánh, chúng ta liên đới với anh chị em mình trong sự thánh thiện cũng như cả trong tội lỗi. Vì vậy không ai trong chúng ta sẽ lên thiên đàng một mình hoặc cũng không ai xuống hỏa ngục một mình. Chúng ta nên thánh bằng cách giúp người khác nên thánh, và đây cũng là ý nghĩa của sứ mệnh truyền giáo. Sứ mệnh này thuộc bản chất của Giáo hội, gắn liền với Giáo hội và cũng là bổn phận của mọi Kitô hữu. Trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đã chuyển giao sứ mạng cứu thế cho Giáo hội bằng mệnh lệnh: “ Anh em hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân” (Mc 16,15). ‘Cho muôn dân’ tức “ ad gentes”, cũng chính là tựa đề của sắc lệnh về truyền giáo mà công đồng Vaticanô 2 đã để lại cho chúng ta.
Chứng nhân hơn là thầy dạy
Trong một sứ điệp ngày truyền giáo, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 cũng viết: “ Truyền giáo là thước đo đức tin của mọi tín hữu”. Lời khẳng định này cũng tương hợp với giáo huấn của Thánh Giacôbê tông đồ khi Ngài viết: “ Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Việc làm đó được thực hiện rõ nét nhất qua sứ vụ truyền giáo. Rao giảng Tin mừng là một bổn phận của những ai thuộc về Đức Kitô và được Chúa mời gọi trở nên môn đệ Ngài. Thánh Phaolô xác tín mạnh mẽ bổn phận ấy nên Ngài nói: “ Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16). Nhưng, cách thái rao giảng Tin mừng để đạt hiệu quả mới là điều quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm.
Có lần, một số các vị truyền giáo đang làm việc ở Ấn Độ đến gặp ông Mahatma Gandhi và hỏi ông bí quyết làm sao để có thể truyền giáo cho người dân Hindu ở đây. Ông Gandhi mời gọi các vị truyền giáo hãy suy nghiệm bí quyết từ cánh hoa hồng. Người ta thích hoa hồng không phải chỉ vì vẻ đẹp bên ngoài mà còn vì mùi hương quyến rũ từ bên trong tỏa ra. Ông kết luận, muốn truyền giáo thành công, phải học bí quyết ấy, tức là rao giảng không phải bằng lý thuyết xuông nhưng bằng gương sáng cụ thể của cuộc sống. Điều ông ta nói tới cũng giống như giáo huấn của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 khi Ngài diễn tả: “ Ngày nay, Giáo hội cần những chứng nhân hơn là những thầy dạy.”
Kết luận: Chứng tá Tin mừng
Sau biến cố 30 tháng 04 năm 1975, một cán bộ nhà nước thuộc dạng cao cấp có hỏi một anh em tu sĩ dòng Tên ở Thủ Đức: “ Các anh là những người theo tôn giáo, chắc các anh rất sợ chúng tôi là những người vô thần?”. Vị tu sĩ đó bình thản trả lời: “Vâng thưa ông, chúng tôi rất sợ những người vô thần. Nhưng nếu các ông là những người vô thần thực sự và sống đúng với lý tưởng của các ông, thì chẳng có gì đáng sợ cả. Xin chúc mừng các ông nếu các ông thật sự cảm thấy hạnh phúc trong sự xác tín lý tưởng của mình. Nhưng ngược lại, chúng tôi rất sợ những người vô thần trong thực hành. Họ mang danh là Kitô hữu, nhưng lại sống như những người vô thần thực sự và còn tệ hơn cả những con người công khai chối bỏ Thiên Chúa. Bởi vì, cuộc sống của họ đang tàn phá Giáo hội, làm lung lạc đức tin người khác và làm cho Giáo hội của chúng tôi ngày càng suy yếu.”
Nếp sống vô thần trong thực hành như thế chính là một lối sống phản chứng tá. Thay vì rao giảng Tin mừng, thì cuộc sống như vậy lại cản che và bóp chết hạt giống Lời Chúa trong những sỏi đá và gai góc nơi chính tâm hồn của họ. Trong ngày khánh nhật truyền giáo hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống chính mình để duyệt xét xem chúng ta đã thực thi bổn phận quan trọng ấy như thế nào.
21. Truyền giáo bằng cách sống
(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cách chung con người ngày hôm nay thường nóng vội, hấp tấp, làm đại. Nghịch lý ở chỗ thích hoành tránh nhưng lại đòi phải nhanh, phải gọn. Họ chỉ thích làm những chuyện lớn mà bỏ qua chuyện nhỏ. Họ luôn xem việc nhỏ là tầm thường mà quên rằng việc lớn là do tích tiểu thành đại. Không kiên nhẫn trong việc nhỏ thế nên, họ cũng bỏ lỡ cơ hội làm những chuyện lớn lao.
Điển hình là xã hội hôm nay không có những công trình thế kỷ mà chỉ có những kiến thiết hợp thời, model nhưng mau qua. Về sự học dường như học sinh không thể ngồi yên để thuộc một câu thơ hay một bài lịch sử mà chỉ học trên net, trên Iphone…
Người ta kể rằng: Thời Đông hán có một thiếu niên tên Trần Phiên. Hắn cho mình bất phàm nên chỉ làm chuyện lớn mà thôi. Một hôm người bạn tới thăm thấy nhà hắn bẩn thỉu liền nói: Nho tử sao không quét nhà để tiếp đón khách?
Trần Phiên trả lời: Đại trượng phu xử thế. Nên quét thiên hạ sao lo một nhà?
Người bạn đáp lại: Một nhà không quét, sao có thể quét thiên hạ.
Trần Phiên ngộ ra không nói được lời nào.
Xem ra muốn xây dựng giang sơn thì phải xây dựng từ gia đình mình. Muốn làm những điều cống hiến cho đời thì phải rèn luyện mình thành người tốt. Phải khởi đi từ việc nhỏ mới mong làm chuyện đại sự to tát hơn. Muốn canh tân xã hội phải có một kế sách lâu dài và phải khởi đi từ những việc nhỏ nhất mới mong thành đại sự.
Phải chăng Giáo hội hôm nay cũng bị cuốn vào trào lưu thích hoành tráng, rầm rộ? Thích phô trương đánh trống hơn là sống đạo mến yêu? Các lễ nghi, lễ hội thật nhiều nhưng điều đó không quan trọng bằng việc ra đi đến với người nghèo, người già yếu, bệnh tật …?
Giáo hội luôn nói mình có sứ mạng truyền giáo và mời gọi các tín hữu tham gia vào công cuộc truyền giáo, nhưng xem ra chẳng có kết quả, bởi vì ai cũng muốn làm việc lớn nhưng những việc bình thường là canh tân đời sống bản thân, là sống công bình bác ái, là phục vụ yêu thương khởi đi từ gia đình lại bị xem thường.
Thực vậy, làm sao có thể truyền giáo khi chưa tề gia để mang lại cho gia đạo êm ấm thuận hòa?
Làm sao có thể truyền giáo khi bản thân còn nhiều tính hư nết xấu, đôi khi còn trở thành gương mù gương xấu cho tha nhân?
Truyền giáo không phải là một lễ hội để đánh trống khua chiêng. Truyền giáo là đem đạo vào đời qua muôn nẻo đường trần thế. Thế nên, truyền giáo đòi hỏi từng người phải biết sống trở thành nhân chứng cho Chúa, phải mang tin mừng thẩm thấu vào trong trái tim và trao tặng cho anh em, cho bạn bè. Truyền giáo phải như chút muối làm cho thế gian nồng thắm tin mừng. Truyền giáo phải như chút men làm cho Tin mừng hòa vào thế gian.
Trong bài hát “Một chút” thôi của Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống dường như cũng nói những điều thật đơn giản ấy.
Một chút những viên đá nhỏ hợƿ thành ngọn núi lớn
Một chút những bước chân đi xɑ về muôn lối
Một chút những ƿhút ủi ɑn dịu xoɑ ngàn nỗi sầu
Ϲhỉ một chút ƙhởi đầu tương lɑi sẽ đẹƿ màu
ĐK – Một chút trong đời chỉ một chút chút xíu thôi
Ɲhiều chút chút bé nhỏ mà làm cho đời thêm mới
Một chút trong đời trở thành một chút thật tuуệt vời.
Ϲhắt chiu từng chút ấу cho đời nàу thêm sáng tươi.
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, ước gì chúng ta hãy từng chút một chắt chiu những việc làm tốt để sáng danh Chúa, có như vậy chúng ta mới gom thành một làn sóng yêu thương mang tin mừng lan tỏa khắp nơi. Xin Chúa giúp chúng ta biết truyền giáo khởi đi từ việc nhỏ nhất trong đời thường bằng việc nêu gương sáng cho tha nhân trong bổn phận và trong việc bác ái dấn thân xây dựng thế giới ngày một tốt đẹp hơn.
22. Nối bước các Thừa Sai
(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong tông huấn Ecclesia in Asia, Đức Cố Gioan Hoàng Gioan Phao-lô II đã kêu gọi: “Thiên niên kỷ thứ nhất truyền giáo cho Châu Âu. Thiên niên kỷ thứ hai truyền giáo cho Châu Mỹ. Thiên niên kỷ thứ ba phải truyền giáo cho Á Châu”.
Cách riêng với Giáo Hội việt Nam năm 2003 mừng 470 năm Tin Mừng được rao giảng trên quê hương đất nước chúng ta, các Đức Giám mục Việt Nam đã hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha, công bố thư mục vụ mang tựa đề “Sứ Mạng Loan báo TinMừng Của Hội Thánh Việt Nam Hôm Nay” đã khẳng định: “Đầu thiên niên kỷ mới, sứ mạng loan báo Tin mừng được đặc biệt trao vào tay chúng ta. Chúng ta hãy tiếp bước các vị thừa sai đầy nhiệt tình tông đồ, hãy phát huy truyền thống kiên cường của các bậc tiền nhân anh hùng tử đạo. Ta hãy đáp lại kỳ vọng của Hội thánh đem Tin mừng cho anh em trên lục địa mênh mông này. Và đặc biệt đem Tin mừng cho anh chị em sống ngay trên quê hương Việt nam”. (Thư chung 2003)
Hơn nữa, Giáo hội Việt Nam ngày nay là con cháu của 117 vị thánh Tử Đạo và của hàng chục ngàn người Việt Nam đã chết vì đạo. Nhưng gần 5 thế kỷ trôi qua, Giáo hội Việt Nam xem ra vẫn còn bé nhỏ giữa lòng dân tộc Việt nam. Theo thống kê năm 2006 thì Giáo hội việt nam có 26 Giáo Phận, gồm khoảng 7 triệu giáo dân, trên tổng số hơn 80 triệu người Việt Nam, chiếm tỉ lệ 6,62%.
Là người con của dân tộc Việt Nam, là dòng máu các anh hùng Tử đạo Việt Nam chúng ta cần phải có bổn phận loan báo Tin mừng cho chính quê hương, dân tộc của mình. Đạo làm người dạy chúng ta phải “thương người như thể thương thân”, thì đạo làm con Chúa đòi hỏi chúng ta chia sẻ tất cả những gì mình có cho tha nhân, cho đồng loại. Các thánh Tông Đồ, các vị Thừa Sai đã đem niềm vui lớn nhất là Tin mừng Chúa Giêsu được công bố cho toàn thế giới. Các Ngài đã không quản ngại hy sinh tính mạng để đổi lấy niềm vui ơn cứu độ được trao ban tới muôn triệu tâm hồn. “Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau đem Tin mừng đến tận cùng thế giới”. (Thư chung 2003)
Nhờ các vị thừa sai tràn đầy nhiệt huyết, quê hương Việt Nam đã được đón nhận Tin mừng. Nhờ đời sống đức tin anh dũng của các bậc tiền nhân mà thế hệ chúng ta được thừa hưởng một gia tài đức tin vô cùng quý giá. Gia sản này chúng ta không có quyền lưu giữ cho riêng mình, nhưng phải có bỗn phận chia sẻ cho con người thời đại hôm nay. Chúa Giêsu sau khi phục sinh, Ngài đã uỷ thác cho Hội Thánh nhiệm vụ loan báo tin mừng khi Ngài nói: “Anh em hãy đi tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin mừng” (Mc 16,15). Lệnh truyền này đã trở thành sứ mạng chính yếu của Hội Thánh Chúa Kitô. Hội thánh hiện hữu là để loan báo Tin mừng và làm cho những ai thành tâm đón nhận Tin mừng trở nên môn đệ Chúa Kitô, đồng thời quy tụ cho Thiên Chúa mọi con cái tản mác khắp nơi về một mối (Ga 10,52). Thế nên, là người công dân của Nước Trời, chúng ta phản có bỗn phận chu toàn sứ vụ đó cho anh chị em chung quanh chúng ta, cụ thề là cho chình đồng bào và dân tộc Việt Nam.
Vậy, truyền giáo là gì?
Theo công đồng Vat II: “Việc truyền giáo là tất cả những công tác đặc biệt qua đó các nhà rao giảng Phúc âm được Giáo hội sai đi khắp thế gian, thi hành nhiệm vụ rao giảng Phúc âm và vun trồng Giáo hội nơi các dân tộc cũng như giữa những nhóm người chưa tin vào Chúa”. (TG 6c)
Trước đó, cha Pierre Charles cũng cho rằng: “mục tiêu truyền giáo không phải là cứu rỗi các linh hồn”, hoặc “làm cho dân ngoại trở về với Chúa”…; song là “mở rộng biên cương Giáo hội hữu hình, nhằm hoàn tất tiến trình lớn lên, hầu bao phủ toàn thế giới với lời cầu nguyện và việc phụng tự, tức là để mang cho Đấng Cứu Thế toàn bộ gia sản của Ngài”.
Như vậy, việc truyền giáo là “đưa Thiên Chúa đến với con người và đưa con người trở về với Thiên Chúa”. Đó chính là mục tiêu chính của việc truyền giáo và cũng là sứ mạng cấp bách của Giáo hội Chúa Kitô. Vì Giáo hội được hình thành để tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, Đấng sang lập Giáo hội. Khi hoàn tất sứ mạng của mình ở trần gian, Chúa Giêsu đã sai phái các tông đồ tiếp tục sứ mạng đó cho đến tận cùng trái đất. “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sia anh em” (Ga 20, 21″. “Anh em hãy làm chứng cho Thầy khởi đầu từ Giê-ru-sa-lem đến tận cùng trái đất” (Lc 24, 47)
Vì vậy, là người công giáo chúng ta phải có bổn phận mang Tin mừng của Chúa đến cho anh em minh. Hãy tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô đưa muôn người đang còn tản mác khắp nơi về với Chúa. Hãy tiếp nối truyền thống của các Thừa sai Việt Nam mang Tin mừng đến cho những anh em nghèo đói, đến những phận người bị bỏ rơi.. # Hãy tiếp nối tinh thần quả cảm hy sinh, kiên cường của các tiền nhân mà mạnh dạn làm chứng cho Chúa, cho dù có bị thua thiệt trước mặt người đời, cho dù có bị hiểu lầm, ngược đãi… nhưng cùng chịu chết với Đức Kitô là một mối lợi mà không có một gia sản nào trên trần gian có thể sánh bằng.
Nguyện xin Chúa Giêsu là người thợ lành nghề được sai đến trần gian để gặt lúa của Người, xin giúp chúng con biết dấn thân quảng đại vào cánh đồng truyền giáo Việt Nam hôm nay. Amen.
23. Suy niệm của Lm. Jos. Nguyễn Thành Long
Truyền giáo bằng chứng tá: Ai cũng có thể làm được
Có lẽ chúng ta đã nghe nói nhiều đến việc truyền giáo. Và thường chúng ta nghĩ rằng đó là việc của các linh mục, các nam nữ tu sĩ, của tiểu ban truyền giáo, hay của một số người có ơn gọi đặc biệt như Thánh Phaolô, Thánh Phanxicô Xaviê,… chứ chẳng phải là việc của mình. Tuy nhiên, truyền giáo là ơn gọi, là trách nhiệm gắn liền với mọi người Kitô hữu. Bao lâu còn là Kitô hữu, bấy lâu còn phải loan báo Tin Mừng. Có thể chúng ta không có khả năng lôi kéo, thuyết phục để cho người khác theo đạo, nhưng “nói” cho người khác biết về đạo bằng chứng tá đời sống thì ai ai cũng có thể làm được. Vậy chứng tá cụ thể đó là gì?
– Trước hết là chứng tá bằng đời sống cầu nguyện hy sinh
Đây là hoạt động đi đầu và không thể thiếu trong việc loan báo Tin Mừng. Nhìn thấy gương chúng ta cầu nguyện, gương chúng ta hy sinh, người ta sẽ được đánh động, được cảm hoá. Nếu đời sống tâm linh của chúng ta được cắm rễ sâu trong đời sống cầu nguyện hy sinh, thì mọi việc ta làm đều có giá trị truyền giáo, đều có khả năng làm cho người khác nhận biết Chúa và đem lại rất nhiều lợi ích cho các linh hồn. Như vậy, ngồi ở nhà, chúng ta vẫn có thể truyền giáo. Về điểm này, Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta noi theo. Ngài nói: “Dù cúi xuống nhặt một cây kim vì lòng yêu mến Chúa, tôi cũng có thể cứu được một linh hồn”.
Không ai có thể nói là tôi không có thì giờ để cầu nguyện. Không ai có thể nói là tôi không có cơ hội để hy sinh. Và để rèn luyện được nếp sống thấm nhuần tinh thần cầu nguyện hy sinh, có sức giới thiệu Đức Kitô cho người khác, thiết tưởng chúng ta có thể nhờ đến Chuỗi Kinh Mân Côi. Nhờ Mẹ dẫn chúng ta bước đi từng bước nhỏ trên đường vâng phục thánh ý Chúa và phục vụ các linh hồn.
– Thứ đến là chứng tá bằng lối sống hiệp nhất yêu thương
Truyền giáo bằng việc giảng dạy, bằng sách báo, bằng các lớp Giáo lý, bằng các lễ nghi, bằng các hoạt động tôn giáo, thực tế là rất cần. Nhưng cách truyền giáo hữu hiệu nữa là chính nếp sống đạo đức nổi trội của chúng ta về sự hiệp nhất yêu thương: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em hãy thương yêu nhau”. Tình yêu thương hiệp nhất ấy được thể hiện qua cách suy nghĩ, cách phán đoán, cách chọn lựa, cách đối xử, cách phản ứng, cách hiện diện, cách phục vụ nói năng, ăn uống, giải trí, cách dùng thời giờ, sức khoẻ, của cải,…
Những dấu chỉ yêu thương hiệp nhất giữa mọi người trong gia đình, trong hội đoàn, trong giáo họ, giáo xứ là dấu chỉ loan báo Tin Mừng hữu hiệu nhất, giá trị nhất. Ngược lại, nếu thiếu tình bác ái yêu thương thì những việc tông đồ truyền giáo sẽ phản tác dụng. Xin dẫn chứng:
Một cô gái ngoại giáo lấy người Công giáo, láng giềng, bà con thấy cô ta đẹp người đẹp nết, nên giục cô ta vào đạo. Cô ta trả lời: “Khi nào cháu thấy đạo Chúa hơn đạo Phật, cháu mới vào”. Tìm hiểu, người ta mới biết được bà mẹ chồng dù rất siêng năng đọc kinh, dự lễ và đã từng bỏ ra gần cả một chục triệu bạc cùng với nhiều bà khác giúp cha sở đi Roma xin ơn Đức Giáo hoàng, nhưng bà đã từng sang giật nồi, lấy niêu của một bà hàng xóm nghèo chưa có tiền trả nợ cho bà. Cô dâu in trong lòng hình ảnh không tốt về mẹ chồng và về đạo. Do đó cô nhất quyết không theo đạo bao lâu chưa thấy người theo đạo sống tốt hơn.
Một khi tất cả nếp sống của chúng ta phảng phất hương thơm của tình hiệp nhất yêu thương thì dù ở đâu, nếp sống ấy cũng là truyền giáo.
– Sau nữa là chứng tá bằng nếp sống có văn hoá, văn minh
Ngày hôm nay, xã hội đang phải đối diện với biết bao tệ nạn, môi trường sống bị ô nhiễm trầm trọng, các giá trị đạo đức luân lý bị băng hoại. Chính vì thế, nỗ lực của xã hội là xây dựng nếp sống lành mạnh, có văn hoá, văn minh. Đi đâu chúng ta cũng thấy có các bảng hiệu “khu phố văn hoá”, “thôn văn hoá, ấp văn hoá”…, lẽ nào chúng ta lại đứng ngoài, lẽ nào chúng ta lại không chung tay góp sức mình vào việc đó. Dĩ nhiên, nền văn hoá mà chúng ta phải xây dựng không phải là văn hoá sự chết, văn hoá tiêu diệt sự sống, mà là nền văn hoá bảo vệ và thăng tiến sự sống, sự sống ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Nền văn minh mà chúng ta phải kiến tạo không phải là văn minh của nền khoa học kỹ thuật khô cứng hay của chủ nghĩa duy vật hưởng thụ cực đoan, mà là nền văn minh của tình thương, nền văn minh của lòng bao dung tha thứ.
Như mọi người khác, người Công giáo cũng đang hiện diện tại mọi môi trường xã hội hôm nay. Chúng ta cũng làm ăn sinh sống trong mọi lĩnh vực: kinh doanh, sản xuất, buôn bán… với mọi hoàn cảnh từ thương gia đến kỹ sư, bác sĩ, giáo viên, công nhân viên. Cũng làm việc, cũng mưu sinh, nhưng chúng ta làm việc với tinh thần khác: tinh thần công bình bác ái và phục vụ hy sinh.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn ý thức được sứ mạng truyền giáo bằng chứng tá của mình, đặc biệt trong Năm Đức Tin, để ra sức sống tinh thần cầu nguyện hy sinh, yêu thương hiệp nhất, đồng thời nỗ lực xây dựng một cuộc sống tốt đạo đẹp đời hầu cho danh Chúa được ngày một cả sáng hơn. Amen.
24. Truyền giáo.
Công đồng Vat. II trong sắc lệnh về truyền giáo có viết: Được Thiên Chúa sai đến với muôn dân để nên bí tích cứu độ phổ quát, Giáo Hội vì những đòi hỏi căn bản của mình và vì mệnh lệnh của Đấng sáng lập, nhất quyết loan báo Tin Mừng cho mọi người. Việc loan báo này được thực hiện bằng nhiều phương thế khác nhau của toàn thể dân Chúa vẫn luôn được Giáo Hội cổ võ, khuyến khích và chỉ dẫn. Vì vậy hàng năm Giáo Hội đã chọn một ngày vào Chúa nhập áp cuối tháng 10 để thúc đẩy mọi linh mục tu sĩ và giáo dân ý thức hơn về việc rao giảng Tin Mừng. Việc này không dành cho riêng ai và không thể một cá nhân, một đoàn thể nào làm được hết. Trái lại mọi thành phần dân Chúa phải có trách nhiệm để thực hiện lời Chúa đã truyền dạy trước khi về trời: Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
Vì thế, theo lệnh truyền của Chúa, từ ngày chịu bí tích Rửa Tội, chúng ta đã trở nên con cái Chúa, rồi từ ngày lãnh nhận bí tích Thêm Sức, chúng ta đã lãnh nhận sứ vụ tông đồ để thi hành đúng chức năng ngôn sứ của mình. Vì vậy, bổn phận đòi buộc hết mọi người giáo dân trong bất kỳ lãnh vực nào cũng phải là chứng nhân cho Đức Kitô. Hơn thế nữa, người giáo dân có một lợi thế hơn hẳn hàng giáo sĩ là sống giữa các môi trường xã hội khác nhau với đủ ngành nghề, địa vị xã hội để có thể cảm hoá cảnh vực và trở nên như men, như ánh sáng, như muối cho những người chung quanh.
Lời thánh Phaolô tông đồ mời gọi chúng ta suy nghĩ: Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Giáo Hội luôn ý thức điều đó và hôm nay nhắc nhở chúng ta luôn tích cực thi hành sứ mạng truyền giáo cả những lúc bận tâm lo lắng công việc trần thế. Tất cả mọi người đều phải cộng tác vào việc mở mang Nước Chúa trên trần gian và trở thành chứng nhân cho Ngài. Lời Chúa nói: Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít, sẽ nhắc nhở chúng ta phải trở nên là những thợ gặt trên cánh đồng nhân loại, và trở nên ngư phủ trên đại dương trần thế.
Tuy nhiên, như chúng ta đã nói, có nhiều phương thế để góp phần vào công cuộc trọng đại này, chẳng hạn cầu nguyện và rao giảng như các tông đồ, các vị thừa sai, sống đức tin và đức ái phục vụ như Mẹ Têrêsa Calcutta. Thực vậy, tục ngữ cũng đã bảo: Lời nói như gió lung lay việc làm như tay lôi kéo. Chính đời sống gương mẫu của chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn nhất có sức lôi cuốn và hấp dẫn người khác đến cùng Chúa. Chính nhờ những việc làm cụ thể trong khi dấn thân để phục vụ, chúng ta sẽ trở nên là những chứng nhân sống động cho Đức Kitô.
Để kết luận, chúng ta hãy ghi nhớ lời nói sau đây của Đức Phaolô VI: Con người thời đại thích lắng nghe các nhân chứng hơn là những nhà giảng thuyết. Và nếu họ có nghe những nhà giảng thuyết chỉ vì những nhà giảng thuyết này đã là những chứng nhân.
25. Sứ điệp Truyền giáo năm 2012.
“Được kêu gọi làm rạng ngời Lời Chân Lý”
(Tông Thư Porta Fidei, 6)
Anh chị em thân mến!
Cuộc cử hành Ngày Thế giới Truyền giáo năm nay mang một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Việc kỷ niệm 50 năm Sắc Lệnh Ad Gentes của Công đồng, việc khai mạc Năm Đức Tin và Thượng Hội đồng Giám mục về đề tài Tân Phúc Âm Hoá là các sự kiện cùng diễn ra trong năm nay để tái xác nhận ý muốn của Hội Thánh là dấn thân một cách hăng say và can đảm hơn vàomissio ad gentes (sứ vụ đến với muôn dân) hầu đem Tin Mừng đến tận cùng trái đất.
Với sự tham dự của các Giám mục Công giáo từ khắp nơi trên thế giới, Công đồng Chung Vatican II đã là một dấu chỉ sáng ngời về tính phổ quát của Hội Thánh, qua việc lần đầu tiên quy tụ một con số đông đảo như thế các Nghị phụ đến từ Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ Latinh, và Châu Đại Dương. Các giám mục truyền giáo và các giám mục bản xứ, các mục tử của các cộng đoàn rải rác khắp nơi giữa các dân không Kitô giáo, tất cả các vị ấy đã đem đến cho các phiên họp của Công đồng hình ảnh của một Hội Thánh hiện diện trên mọi châu lục và đã trở thành những người cắt nghĩa về thực tại phức tạp mà thời ấy được gọi là “Thế Giới Thứ Ba”. Là những người giàu kinh nghiệm thực thi sứ vụ mục tử tại các giáo hội non trẻ đang hình thành, và đầy nhiệt huyết loan truyền Nước Thiên Chúa, các ngài đã góp phần rất quan trọng vào việc tái xác nhận nhu cầu và sự cấp bách của việc loan báo Tin Mừng cho các dân tộc, từ đó đưa bản chất truyền giáo của Giáo Hội vào trung tâm của khoa Giáo hội học.
Khoa Giáo hội học hướng đến truyền giáo
Ngày nay, quan điểm trên vẫn còn nguyên giá trị, hơn nữa còn được tiếp nhận những suy tư thần học và mục vụ phong phú, và đồng thời lại càng tỏ ra cấp bách, vì số người chưa biết Chúa Kitô ngày càng nhiều thêm. “Những người mong chờ Đức Kitô vẫn còn đông vô kể”, như lời khẳng định của Chân phước Gioan Phaolô II trong Thông điệp Redemptoris Missio về giá trị muôn đời của huấn lệnh truyền giáo, và ngài thêm: “Chúng ta không thể ngồi yên khi nghĩ tới hàng triệu anh chị em chúng ta đang sống trong tình trạng không biết đến tình yêu của Thiên Chúa, chính họ cũng được cứu chuộc bằng máu Chúa Kitô” (số 86). Phần tôi, khi công bố Năm Đức Tin, tôi đã viết rằng Đức Kitô “hôm nay cũng như hồi ấy, sai chúng ta đi khắp các nẻo đường trên thế giới để loan báo Tin Mừng của Người cho mọi dân tộc trên mặt đất” (Tông Thư Porta Fidei, 7); việc loan báo này, như lời Vị Tôi tớ Chúa Phaolô VI trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, “đối với Hội Thánh không phải là một sự cống hiến tuỳ ý, nhưng là một bổn phận Hội Thánh phải thực thi theo lệnh truyền của Chúa Giêsu, để loài người có thể tin và được cứu rỗi. Quả thế, đây là sứ điệp cần thiết. Đây là sứ điệp độc nhất. Sứ điệp không thể thay thế” (số 5). Vì vậy chúng ta cần phải lấy lại cùng một nhiệt huyết tông đồ như các cộng đoàn Kitô hữu sơ khởi, tuy chỉ là một nhóm ít người và không thể tự vệ, nhưng bằng lời loan báo và chứng tá, họ đã có thể loan truyền Tin Mừng trên toàn thế giới được biết đến thời bấy giờ.
Vì vậy không lạ gì khi Công đồng Vaticanô II và Huấn quyền sau Công Đồng của Hội Thánh luôn nhấn mạnh một cách đặc biệt về nhiệm vụ truyền giáo mà Đức Kitô đã uỷ thác cho các môn đệ của Người, và là nhiệm vụ mà toàn thể Dân Thiên Chúa: các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân phải dấn thân thực hiện. Nhiệm vụ loan báo Tin Mừng trên khắp thế giới trước tiên là nhiệm vụ của các giám mục, vì trong tư cách là thành viên của Giám mục đoàn cũng như là Mục tử của các Giáo Hội địa phương, các ngài là những người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc rao giảng Tin Mừng trên thế giới. Thực vậy, các ngài “đã được tấn phong không chỉ cho một giáo phận, mà cho sự cứu rỗi của toàn thế giới” (Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio, 63), “các ngài là những người rao giảng đức tin dẫn đến cho Đức Kitô những người môn đệ mới” (Ad Gentes, 20) và làm cho mọi người “thấy được tinh thần và nhiệt huyết truyền giáo của Dân Chúa, để toàn giáo phận trở thành những nhà truyền giáo” (nt., 38).
Địa vị ưu tiên của rao giảng Tin Mừng
Vì vậy, đối với một Chủ Chăn, nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng không chỉ giới hạn vào việc chăm lo cho thành phần Dân Chúa được giao phó cho ngài chăm sóc về mục vụ, cũng không chỉ là sai một số linh mục hay giáo dân đi truyền giáo như là fidei donum (quà tặng đức Tin). Nhiệm vụ ấy phải bao gồm toàn thể hoạt động của Hội Thánh địa phương, mọi lĩnh vực của Hội Thánh ấy, tóm lại, phải bao gồm toàn thể đời sống và hoạt động của Hội Thánh ấy. Công đồng Vaticanô II đã nói rõ điều này và Huấn quyền sau Công đồng đã mạnh mẽ xác nhận lại. Điều này đòi hỏi rằng các bậc sống, các kế hoạch mục vụ và việc tổ chức giáo phận phải không ngừng được thích nghi với chiều kích nền tảng này của Hội Thánh, đặc biệt trong thế giới không ngừng biến đổi của chúng ta ngày nay. Điều này cũng đúng với các Hội Dòng và các Tu đoàn Tông đồ, cũng như các Phong trào trong Giáo Hội: mọi thành phần trong bức tranh lớn của Hội Thánh phải cảm thấy lệnh truyền rao giảng Tin Mừng của Chúa chất vấn mình mãnh liệt, để Đức Kitô được rao giảng khắp nơi. Là những mục tử, tu sĩ nam nữ và tất cả các tín hữu trong Đức Kitô, chúng ta phải tiếp bước Thánh Phaolô Tông Đồ, là “tù nhân của Đức Kitô vì anh em, những người dân ngoại” (Ep 3, 1), ngài đã chịu đau khổ và chiến đấu để đem Tin Mừng đến giữa dân ngoại (x. Cl 1, 24-29), không ngại tiêu hao sức lực, thời giờ và của cải để loan báo Sứ điệp của Đức Kitô.
Ngày nay cũng thế, sứ mạng ad gentes –đến với muôn dân– phải không ngừng là chân trời và khuôn mẫu cho mọi hoạt động của Hội Thánh, vì chính căn tính của Hội Thánh được tạo thành bởi đức tin vào Mầu Nhiệm Thiên Chúa, Đấng đã tỏ mình ra cho chúng ta trong Đức Kitô để đưa chúng ta đến ơn cứu độ, và bởi sứ mạng làm chứng và loan báo Người cho thế giới, cho tới khi Người trở lại. Cũng như Thánh Phaolô, chúng ta phải quan tâm tới những người ở xa, những người chưa biết Đức Kitô và chưa cảm nghiệm được tình phụ tử của Thiên Chúa, và chúng ta phải ý thức rằng “sự hợp tác truyền giáo hôm nay phải mở ra những hình thức mới để bao gồm không chỉ việc trợ giúp kinh tế, mà cả sự tham gia trực tiếp vào việc rao giảng Tin Mừng” (Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 82). Việc cử hành Năm Đức Tin và Thượng Hội đồng Giám mục về Tân Phúc Âm hoá sẽ là những cơ hội thuận lợi để phát động sự hợp tác truyền giáo, nhất là trong khía cạnh thứ hai này.
Đức Tin và việc loan báo
Mối quan tâm loan báo Đức Kitô cũng thúc đẩy chúng ta đọc lịch sử để từ đó nhận ra những vấn đề, những khát vọng và hi vọng của nhân loại mà Đức Kitô phải chữa lành, thanh tẩy và kiện toàn bằng sự hiện diện của Người. Thực vậy, Sứ điệp của Người luôn mang tính thời sự, đi vào giữa lòng lịch sử và có khả năng đáp lại những mối lo lắng thâm sâu nhất của mỗi người. Vì vậy mọi thành phần trong Hội Thánh phải ý thức rằng “các chân trời bao la của sứ mạng Hội Thánh và tình hình phức tạp hiện nay đòi hỏi những phương thức mới để có thể truyền đạt hiệu quả Lời Thiên Chúa” (Bênêđictô XVI, Tông huấn hậu THĐGM,Verbum Domini, 97). Điều này trước hết đòi hỏi phải gắn bó với Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô bằng đức Tin được canh tân nơi mỗi cá nhân cũng như các cộng đoàn “lúc nhân loại đang sống giữa những thay đổi sâu xa như hiện nay” (Tông thư Porta Fidei, 8).
Thực vậy, một trong các trở ngại cho việc đẩy mạnh hoạt động rao giảng Tin Mừng chính là cơn khủng hoảng đức tin, không chỉ của thế giới phương Tây, mà của phần lớn nhân loại; họ cũng đói khát Thiên Chúa và phải được mời gọi và dẫn đưa tới bánh sự sống và nước hằng sống, như người phụ nữ Samaria đến giếng Giacóp và nói chuyện với Đức Kitô. Như tác giả Tin Mừng Gioan đã kể lại, câu chuyện về người phụ nữ này có một ý nghĩa đặc biệt (x. Ga 4,1-30): bà gặp Chúa Giêsu, Người xin bà nước uống, nhưng sau đó Người nói về một thứ nước mới, có khả năng làm cho bà không bao giờ còn khát nữa. Thoạt đầu bà không hiểu, bà vẫn dừng lại trên bình diện vật chất, nhưng dần dần bà được Chúa dẫn đi trên con đường đức tin giúp bà nhận ra Người chính là Đấng Mêsia. Về điểm này, Thánh Augustinô quả quyết: “Sau khi đã đón nhận Chúa Kitô vào tâm hồn mình, [người phụ nữ này] còn có thể làm gì khác hơn là bỏ lại thùng nước ở đó để chạy đi loan báo Tin Mừng?” (Bài giảng 15, 30). Một khi gặp được Đức Kitô hằng sống, là Đấng làm thỏa cơn khát của trái tim, người ta không thể không mong muốn chia sẻ với người khác niềm vui có Đức Kitô đang hiện diện và giúp họ nhận ra Người để tất cả đều cảm nghiệm được sự hiện diện ấy. Cần phải đổi mới niềm hăng say loan truyền đức tin để cổ vũ một cuộc tân phúc âm hoá các cộng đoàn và các nước vốn có truyền thống Kitô giáo lâu đời mà nay chẳng còn màng đến Chúa, để họ tìm lại được niềm vui của đức tin. Không bao giờ được gạt mối quan tâm loan báo Tin Mừng ra khỏi mọi hoạt động của Giáo Hội cũng như đời sống cá nhân của người Kitô hữu, nhưng phải ý thức rõ mình là đối tượng đón nhận Tin Mừng, đồng thời cũng là những thừa sai của Tin Mừng. Tâm điểm của lời loan báo vẫn luôn như thế: đó là Kerygma (lời rao giảng cơ bản) về Đức Kitô chịu chết và phục sinh để cứu độ thế giới,Kerygma về tình yêu tuyệt đối và trọn vẹn của Thiên Chúa đối với mọi người nam cũng như nữ, đạt đến tột đỉnh trong việc Thiên Chúa sai Con Một hằng hữu của Người là Chúa Giêsu, Đấng không ngại nhận thân phận nghèo hèn của bản tính loài người chúng ta, yêu thương và cứu chuộc bản tính ấy khỏi tội lỗi và sự chết, bằng việc hiến mình trên thập giá.
Trong kế hoạch yêu thương được thể hiện nơi Đức Kitô, đức tin vào Thiên Chúa trước hết là một hồng ân và một mầu nhiệm mà chúng ta phải đón nhận trong lòng và trong cuộc sống, và phải luôn luôn tạ ơn Chúa vì hồng ân ấy. Đồng thời đức Tin còn là một ân huệ được ban cho chúng ta để chia sẻ cho người khác; là một nén bạc chúng ta nhận được để sinh lời; là ánh sáng không được đem giấu đi, nhưng phải soi sáng cho cả nhà. Đức Tin là ân huệ quan trọng nhất được ban cho cuộc đời chúng ta mà chúng ta không được phép giữ lại cho riêng mình.
Loan báo trở thành bác ái
“Khốn thân tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng!”, Thánh Phaolô nói như thế (1 Cr 9, 16). Lời này vang dội với sức thúc bách mỗi người Kitô hữu và mỗi cộng đoàn Kitô hữu trên mọi châu lục. Ngay cả đối với các giáo hội tại các xứ truyền giáo, phần lớn là các giáo hội non trẻ, mới lập, hoạt động truyền giáo đã trở thành một chiều kích tự nhiên, cho dù chính các giáo hội này vẫn còn cần đến các nhà truyền giáo. Nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ từ khắp nơi trên thế giới, rất đông giáo dân và thậm chí cả gia đình sẵn lòng rời bỏ quê hương mình, rời bỏ các cộng đoàn mình và đi đến các giáo hội khác để làm chứng và loan báo Danh Chúa Kitô, nhờ Người mà nhân loại tìm được ơn cứu độ. Đây là một biểu hiện của sự hiệp thông sâu xa, sự chia sẻ và bác ái giữa các giáo hội, để mọi người có thể nghe và nghe lại lời loan báo có sức chữa lành, và có thể đến với các Bí Tích, nguồn mạch đời sống đích thực.
Cùng với dấu chỉ siêu vời của đức tin được biến đổi thành đức ái này, tôi ghi nhận và biết ơn các Hội Giáo hoàng Truyền giáo, công cụ của sự hợp tác trong sứ vụ phổ quát của Hội Thánh trên thế giới. Qua hoạt động của các Hội truyền giáo này, việc loan báo Tin Mừng còn trở thành hành động giúp đỡ tha nhân, thúc đẩy đối xử công bằng với những người nghèo khổ nhất, đưa giáo dục về tận những thôn làng xa xôi nhất, trợ giúp y tế tại các vùng sâu vùng xa, giải phóng khỏi cảnh khốn cùng, giúp những người bị gạt ra lề xã hội tìm lại được quyền sống, nâng đỡ sự phát triển các dân tộc, khắc phục những chia rẽ sắc tộc, tôn trọng sự sống ở mọi giai đoạn của nó.
Anh chị em thân mến, tôi khẩn cầu Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy trên việc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc, đặc biệt trên những ai đang loan báo Tin Mừng, để Ân Sủng của Thiên Chúa làm cho công cuộc rao giảng Tin Mừng tiến bước vững vàng trong lịch sử thế giới. Cùng với Chân phước John Henry Newman, tôi muốn cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin đồng hành với các nhà truyền giáo tại các xứ truyền giáo, xin đặt trên môi miệng họ những lời lẽ chính đáng, xin làm cho công lao khó nhọc của họ sinh nhiều hoa trái.” Lạy Trinh Nữ Maria, Mẹ là Mẹ Hội Thánh và là Ngôi Sao dẫn đường loan báo Tin Mừng, xin đồng hành với tất cả các thừa sai Tin Mừng.
Vatican, ngày 6 tháng 1 năm 2012.
Đại lễ Chúa Hiển Linh
Bênêđictô XVI, giáo hoàng
(Bản dịch của Ủy ban Loan Báo Tin Mừng / HĐGMVN)
26. Hãy đi khắp thế gian.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
“Hãy đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng…”
Lời Đức Giêsu mời gọi làm chúng ta nhức nhối.
Thế giới chẳng phải ở đâu xa. Thế giới là quê hương tôi với gần 80 triệu dân. Thế giới là những người tôi vẫn gặp, những nơi tôi vẫn sống. Thế giới ấy, chân tôi chưa một lần đi hết, miệng tôi chưa một lần loan báo tin vui.
Tôi có lòng tin không? Tôi có dám tin Lời Chúa không?
Chúa hứa cho những ai tin được khả năng trừ quỷ, nghĩa là giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô lệ, khả năng chữa bệnh để xoa dịu nỗi đau của trần gian, khả năng nói những ngôn ngữ mới để đem lại hiệp nhất. Các tông đồ đã tin và thấy Chúa cùng làm việc với mình. Họ chẳng bao giờ cô đơn trên bước đường rao giảng.
Có nhiều cách loan Tin Mừng, nhiều cách truyền giáo.
Cách thứ nhất là bằng chính cuộc sống bản thân. Nếu các Kitô hữu đều siêu thoát danh lợi, sống trung thực, thanh khiết, sống chung thủy, yêu thương… Một Kitô hữu nghèo mà vui tươi, hạnh phúc, thì đó là một lời chứng đáng tin cậy.
Làm cho xã hội được tốt đẹp hơn, đó cũng là một cách loan báo Tin Mừng rất hiệu quả. Kitô giáo phải góp phần xây dựng một thế giới hòa bình và huynh đệ, công bằng và ấm no, nơi nhân phẩm của từng người được tôn trọng, nơi bóng tối của sự ích kỷ tàn nhẫn bị đẩy lui.
Mẹ Têrêxa Calcutta đã âm thầm loan báo Tin Mừng bằng những cử chỉ nhân ái với bao người cùng khổ. Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để lập các cộng đoàn.
Còn thánh Têrexa nhỏ đã truyền giáo tại chỗ bằng lời cầu nguyện và những hy sinh nhỏ bé. Chị là nữ tu dòng Kín, sống trong bốn bức tường, nhưng lại được phong làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Chị đã đi khắp thế giới, không phải bằng đôi chân, nhưng bằng lòng ước ao của một trái tim cháy bỏng.
Phải sống sao để người ta thắc mắc, đặt câu hỏi. Nhưng cũng phải sẵn sàng trình bày câu trả lời.
Dù bạn chẳng uyên thâm về giáo lý nhưng hãy bập bẹ nói về Chúa bằng kinh nghiệm của bạn.
Truyền giáo là giới thiệu cho người khác Đấng tôi đã quen. Có thể người ấy đã biết Đấng này từ lâu rồi.
Anrê đã gọi Simon, Philipphê đã gọi Nathanaen đến gặp Chúa. Cần tập đến với người khác như Đức Giêsu đã đến với người phụ nữ Samari. Hãy xin nước uống, trước khi nói về Nước Hằng Sống. Hãy tìm hiểu người đối diện trước khi loan báo Tin Mừng. Chúng ta cần thấm nhuần văn hóa dân tộc thì mới biết cách nói về Chúa Cha cho đồng bào mình.
Nếu cả đời, mỗi Kitô hữu mời được một người theo đạo, thì nguyện ước của Đấng Phục Sinh được thành tựu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thánh Têrêxa nhỏ đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội Thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh của chị? Bây giờ có hợp thời không?
Mẹ Têrêxa hiến đời mình cho người cùng khổ, bệnh tật, không phân biệt tôn giáo, màu da… Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo này? Nó có đánh động trái tim con người hôm nay không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình…
Lạy Chúa Giêsu, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh: nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện. (dựa theo lời của thánh Têrêxa)
27. Hãy loan báo Tin Mừng – Mc 16,15-20.
(Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò và con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: Không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thày có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thày vẫn lắc đầu: Không phải. Thấy không ai trả lời được, thày mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.
Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của mình.
Mẹ Têrêxa dường như đã tìm ra thứ ánh sáng ấy.
Mẹ Têrêxa là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn độ. Đến Ấn độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không buồn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đã đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hoả soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm. Khi người Samaritano nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng loé lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc để họ được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ đã lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết tiếng. Mẹ được nhiều giải thưởng trong đó có giải Nobel Hoà bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Cliton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn độ, đa số dân theo Ấn độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc táng. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.
Mẹ Têrêxa là một nhà truyền giáo thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn soi trong đêm tối. Giữa đêm tối vật chất hưởng thụ, Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên của thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã thắp lên ngọn đèn cởi mở tin yêu. Giữa đêm tối lạnh lẽo cô đơn. Mẹ đã thắp lên một ngọn đèn ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy toả lan tới muôn người làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là anh em.
Vào thời Cộng sản còn mạnh và còn chống đối Công giáo kịch liệt. Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở Nga, ở Cuba và cả ở Việt Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu toả ánh sáng Tin Mừng khắp thế giới.
Hôm nay Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Nhờ đâu Mẹ Têrêxa đến được cả những nước Cộng sản?
2- Nhờ đâu việc truyền giáo của Mẹ Têrêxa thành công tốt đẹp?
3- Đời sống bạn là ánh sáng hay là bóng tối cho những người chung quanh?
4- Bạn quyết tâm làm gì để loan báo Tin Mừng cho mọi người?
28. Ưu tiên bốn hạng người
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Thư mục vụ Năm Đức Tin của HĐGMVN viết:
Cùng một nhịp bước với Giáo Hội toàn cầu, Năm Đức Tin phải là cơ hội thuận lợi cho mọi thành phần Dân Chúa tại Việt Nam củng cố đức tin của mình, hoán cải và đổi mới đời sống, trở về với Chúa là Đấng Cứu độ duy nhất của thế giới. Khi chúng ta tái khám phá niềm vui đức tin, chúng ta sẽ hăng say dấn thân cho công cuộc Tân Phúc Âm hoá loan báo Tin Mừng cho 93% người Việt Nam chưa biết Chúa, đem tinh thần Phúc Âm thấm nhập mọi lĩnh vực đời sống, góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh theo những giá trị Tin Mừng và truyền thống văn hoá của dân tộc. (Số 5).
Năm Đức Tin giúp cho Giáo Hội trở về cội nguồn của mình là chính Chúa Kitô và Tin Mừng của Chúa. Nhờ đó có thể canh tân đời sống và cách làm việc, nhằm thể hiện tốt đẹp hơn Sứ vụ Loan báo Tin Mừng.
Truyền giáo là chia sẻ cuộc sống, một cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, và yêu thương đến cùng (x. Ga 13,11), yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu (x. Ga 15,13). Truyền giáo đồng nghĩa với làm chứng cho Chúa Kitô (x. Lc 24, 47, 48, Cv 1,8) bằng đời sống theo gương của Người.
A. Truyền Giáo theo gương Chúa Giêsu
Giáo Hội luôn trong nỗ lực loan báo Tin mừng của Chúa Giêsu cho toàn thể thế giới. Công đồng Vatican II đã phác họa hướng đi mục vụ truyền giáo: “Vui mừng và hy vọng, buồn sầu và lo sợ của con người ngày hôm nay, nhất là của người nghèo khổ, bị ruồng bỏ quên lãng, cũng là niềm vui, hy vọng, nỗi buồn sầu lo lắng của môn đệ Chúa Kitô…”(Hiến chế Giáo hội, số 1).
Sứ vụ truyền giáo của Giáo hội thời nào và ở đâu cũng bắt đầu từ mẫu gương Chúa Giêsu.
Khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu ưu tiên để ý đến những người nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Chúa Giêsu áp dụng vào chính mình những lời tiên tri Isaia xưa đã nói: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn phong tôi.Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,17-20). Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Thầy đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).
Chúa Giêsu nói với người phụ nữ ngoại giáo Samaria: “Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong sự thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,21-24).
Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi với 4 hạng người: người nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Chúa Giêsu đến với họ, cho họ thấy, Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người. Chúa Giêsu hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở điểm hiến thân trên thánh giá mà Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người được tôn vinh. Chúa Giêsu đã nói trước khi hiến tế: “Lạy Cha, giờ đã đến. Xin Cha tôn vinh Con Cha, để con Cha tôn vinh Cha” (Ga 17,1).
Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng hãy theo gương Thầy, đem Tin Mừng đến cho 4 hạng người đó.
Đây cũng là sứ mạng truyền giáo của mỗi kitô hữu.
ĐGH Gioan Phaolô II đã khẳng định trong Thông điệp ‘Sứ Vụ Đấng Cứu Độ’: “Truyền giáo là trình bày tình yêu của Thiên Chúa được tỏ bày trong Đức Giêsu Kitô.” (số 2)
Nói cách khác, truyền giáo là yêu như Chúa Giêsu yêu. Chúa dành tình yêu đặc biệt cho 4 hạng người: người ngoại, người tội lỗi, người bệnh tật và người nghèo.(x.Nhật ký truyền giáo, Lm Piô Phúc Hậu).
1) Yêu thương Lương dân
Chúng ta phải yêu thương và kính trọng Lương dân theo gương Chúa Giêsu.
– Chúa Giêsu về thăm quê hương Nazareth. Đồng hương đang niềm nở đón tiếp Chúa thì bổng dưng đổi thái độ. Họ đã đảo và đòi giết Chúa vì Chúa đề cao người ngoại, coi người ngoại hơn người đạo (Do Thái Giáo).”Vào thời Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà góa trong nước Itrael, thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa thành Sarépta miền Siđôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Itrael, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman người xứ Syri thôi” (Lc 4, 25-37).
– Tại Caphanaum, Chúa đã đề cao một viên sĩ quan người ngoại, đề cao đến mức độ có thể bị hiểu lầm: “Tôi chưa thấy một niềm tin nào như thế trong dân tộc Israel” (Lc 7,9). Tại miền Tia và Xiđon, Chúa đề cao niềm tin người đàn bà xứ Canaan: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”(Mt 15,21-28). Chúa Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).Giờ đây Chúa đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin, khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Chúa Giêsu,và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Chúa.
Thật ra ttrong nước Israel có nhiều người có niềm tin lớn hơn ông sĩ quan, người mẹ Canaan ấy nhiều. Bà Êlisabeth, Gioan Tẩy Giả, thánh Giuse và Đức Mẹ đều là người Israel. Chúa cường điệu lời khen để ta thấy Người thương người ngoại đến mức độ nào.
– Dụ ngôn người Samari tốt lành (Lc 10, 29-37) đề cao người ngoại hơn cả mấy ông trợ tế và tư tế. Đặc biệt là khi Chúa nói với ông kinh sư bậc thầy của Do Thái giáo: “Ông hãy về và làm như thế!”. Làm như thế tức là noi gương một người ngoại.
– Khi Chúa cho 10 người phong cùi được khỏi, chỉ có một người trở lại cám ơn Chúa. Chúa bảo: “Không phải cả mười người được sạch sao? Thế thì 9 người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại đạo này?” (Lc 17,17-18).
2) Yêu thương người tội lỗi.
Trong lịch sử loài người, từ trong gia đình ra ngoài xã hội, từ trong đạo ra tới ngoài đời, Chúa Giêsu yêu thương trìu mến người tội lỗi nhất.
Thánh vịnh 100, đòi “quét sạch thành đô, những đứa làm điều ác, không sót một tên”. Luật Do Thái loại trừ người tội lỗi, không cho tín đồ liên hệ với họ.
Còn Chúa Giêsu:
– Đề cao người phụ nữ tội lỗi hơn ông Simon biệt phái.
– Dụ ngôn con chiên bị mất (Lc 15,4-7) cho thấy chủ chăn khi tìm được con chiên lạc (người tội lỗi), không mắng, không đánh, mà còn âu yếm vác lên vai đưa về và còn mở tiệc mừng.
– Dụ ngôn người cha nhân từ (Lc 15,11-32) cho thấy, Chúa yêu người tội lỗi tới mức nào. Chỉ thấy đứa con sám hối và trở về mà người cha quên hết bao tội lỗi của nó. Cha làm tiệc mừng vì con trở về. Cha đã quên con ngỗ nghịch phá tan tài sản với bọn đàng điếm.
– Yêu người tội lỗi, để cứu họ, Chúa đã phải trả giá rất cao. Khi Chúa vào nhà ông Giakêu, thánh Luca đã ghi lại: “mọi người xầm xì với nhau: ông này lại vào trong nhà người tội lỗi”.
3) Yêu người bệnh tật
Bệnh tật là một trong bốn nỗi khổ của kiếp người. Nó gắn liền với đời người vốn là hữu hạn.
Chúa Giêsu luôn tỏ ra đặc biệt quan tâm tới những người yếu đau. Nhiều câu chuyện chữa lành tuyệt vời được kể lại:
– “Thiên hạ đem đến cho người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người đã chữa họ.” (Mt 4, 24).
– “Chúa Giêsu trên núi đi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Người. Và kìa, một người phong hũi tiến lại…Người giơ tay đụng vào anh và bảo, tôi muốn, anh sạch đi. Lập tức, anh được sạch bệnh phong hủi.” (Mt 8, 1-3) -“Chúa Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa các bệnh hoạn tật nguyền.” (Mt 9, 35) -“Ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ”. (Mt 14, 14) -“Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành… (Mt 15, 30) -“Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.” (Mc 1, 34)
– “Chính giờ ấy, Chúa Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám và ban cho nhiều người mù được thấy…” (Lc 7, 21)
Quan niệm của Cựu Ước cho rằng bệnh gắn liền với tội. Bệnh tật như là một sự trừng phạt bởi tội lỗi gây ra. Vì thế, người ta xa lánh bệnh nhân, nhất là bệnh phong cùi. Đó là một bệnh nan y bị mọi người kinh tởm, không chỉ vì sự dơ bẩn “ô uế theo luật Do thái”, hay lây nhiễm, mà còn bị xa lánh như kẻ tội lỗi. Chính các Tông đồ vẫn còn mang cái nhìn ấy khi hỏi Chúa, người mù từ khi mới sinh là do tội của anh hay gia đình anh.(x. Ga 9, 2-3). Chúa đã trả lời không bởi tội, nhưng để làm vinh danh Thiên Chúa.
Chúa yêu người bệnh tật, và cứu họ khỏi nỗi đau thân xác tâm hồn. Thần học Do thái giáo cho rằng bệnh tật là hậu quả của tội. Chúa phản đối điều đó. Cứ mỗi lần Chúa chữa bệnh, Chúa lại gánh lấy nỗi khổ nhân loại.
Chúa đã thông truyền khả năng chữa lành cho các tông đồ: “Rồi Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10, 1). Khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Chúa cũng ra lệnh chăm sóc bệnh nhân: “Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch và khử trừ ma quỷ”. (Mt 10, 8). Sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu gắn liền với sứ vụ chăm sóc bệnh nhân. Chính các tông đồ nối tiếp công việc của Chúa Giêsu, vừa truyền giáo vừa chữa lành.
4) Yêu người nghèo
Chúa yêu người nghèo và kêu gọi người giàu chia cơm sẻ áo cho người nghèo. Ai giúp người nghèo thì Chúa bảo là đã giúp Chúa. Ai từ chối người nghèo, thì Chúa bảo là từ chối Chúa (Mt 25, 31-46). Người giàu mà chỉ lo ăn xài, chứ không lo chia cơm xẻ áo thì Chúa gọi là đồ ngốc (Lc 12,20).
Yêu người ngoại, yêu người tội lỗi, yêu người nghèo và người bệnh tật như thế là truyền giáo theo gương Chúa Giêsu.
B. Truyền Giáo như Mẹ Maria
Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Hội Thánh và là Ngôi Sao dẫn đường loan báo Tin Mừng (x.Sứ điệp Truyền Giáo 2012).
Truyền giáo là đem Chúa Giêsu đến cho tha nhân. Mẹ Maria là nhà truyền giáo đúng nghĩa nhất. Mẹ đã đón nhận Con Thiên Chúa và đưa Người vào trong thế gian. Đó là Tin Mừng.
Sứ vụ truyền giáo là sứ vụ của người mang tin vui, tin cứu độ, tin được Thiên Chúa đoái thương.
Người truyền giáo là người được Chúa Thánh Thần tác động và làm trổ sinh hoa trái giống như Mẹ: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ ngự xuống trên Bà” (Lc 1, 35). Hoa trái của Chúa Thánh Thần là “hoan lạc, bình an…”. Hân hoan trong Thánh Thần, từ đó: “Đức Maria lên đường vội vã” thăm Êlisabet (Lc 1,39), gợi lại hình ảnh ngôn sứ Isaia tiên báo: “Đẹp thay trên núi đồi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị” (Is 52,7). Đức Maria mang trọn niềm vui Đấng Cứu Độ mà nhân loại đón đợi. Đức Maria trở nên người loan báo Tin Mừng vì Mẹ mang trọn niềm vui Chúa Thánh Thần. Ai để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời của mình cũng là người mang trọn niềm vui loan báo.
Đức Maria còn là người công bố Tin Mừng: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn” (Lc 1, 49). Thấy được tình thương Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời mình nên lời công bố mang một niềm tin xác tín, đã gặp và đã thấy.
Để trở thành người loan Tin Mừng, Đức Maria đã “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 3,51). Cầu nguyện là chiêm ngắm những điều Thiên Chúa đã thực hiện nơi mình. Cầu nguyện là cuộc trao đổi, đối thoại giữa những khó khăn và thử thách. Đức Maria trở thành người công bố Tin Mừng, bởi Mẹ đã chiêm ngắm công trình của Thiên Chúa thực hiện cho dân tộc, cho chính Mẹ.
Đối với Đức Maria, truyền giáo là đem chính Chúa Giêsu cho nhân loại.
Chúa Giêsu là lẽ sống, là hạnh phúc, là niềm vui của cuộc đời mỗi kitô hữu. Chúng ta phải xác tín như Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1, 46). Tràn ngập niềm hân hoan bởi Mẹ đã gặp thấy và cưu mang chính niềm vui có Chúa Giêsu trong lòng Mẹ. Đức Maria reo ca: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 47). Đức Maria đã cưu mang chính Chúa Giêsu, quà tặng tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa, nguồn ơn cứu rỗi duy nhất, công bố, trao tặng cho nhân loại.
Đức Maria luôn đặt mình dưới sự bảo trợ hoạt động của Chúa Thánh Thần.
Đức Maria là công trình tuyệt hảo của Chúa Thánh Thần.
Người truyền giáo cũng như thế, không thể tách rời Chúa Thánh Thần với hoạt động của mình được. Ai có thể chinh phục sự sâu thẳm của lòng người quy hướng về Thiên Chúa, nếu đó không phải là tác động của Chúa Thánh Thần?
Giáo Hội không truyền giáo bằng cách áp đặt, cưỡng chế những người khác theo mình. Giáo Hội cũng không mua chuộc bằng tiền của bằng quyền lợi hay bằng những hứa hẹn. Giáo Hội cũng không dụ dỗ người khác theo đạo.
Truyền giáo hôm nay phải là giới thiệu, là trình bày, là minh họa, là thuyết phục. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho những anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày nơi môi trường mính sống và làm việc.
Truyền giáo là giới thiệu Chúa cho anh chị em mình bằng chính đời sống chứng tá yêu thương dưới sự bảo trợ của Mẹ Maria. Hy vọng mỗi người chúng ta cũng có thể nói được như người Công Giáo Hàn Quốc với đồng bào lương dân của mình: “Anh chị em cứ nhìn chúng tôi sống thế nào, thì anh chị em bắt chước mà sống như thế”.
C. Vài gợi ý thực hành.
Đức Tin là một ân huệ được ban cho chúng ta để chia sẻ cho người khác; là một nén bạc chúng ta nhận được để sinh lời; là ánh sáng không được đem giấu đi, nhưng phải soi sáng cho cả nhà. Đức Tin là ân huệ quan trọng nhất được ban cho cuộc đời chúng ta mà chúng ta không được phép giữ lại cho riêng mình. (Sứ điệp Truyền Giáo 2012).
Cách riêng, trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, đức tin của người Công giáo cần được thể hiện qua việc thực thi bác ái. Đức Tin và Đức Mến cần đến nhau và hỗ trợ cho nhau: “Chính đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thôi thúc chúng ta chạy đến phục vụ Chúa mỗi khi Người trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống”. Được Lời Chúa soi sáng và tình yêu Chúa thấm nhập trong suy nghĩ cũng như hành động, chúng ta sẽ trở nên những chứng tá đáng tin trong xã hội ngày nay. (Thư Năm Đức Tin HĐGMVN, số 7).
Thực thi sứ vụ truyền giáo trong Năm Đức Tin bằng cách:
– Mỗi Giáo xứ khởi động phong trào: mỗi thành viên phải làm sao giúp cho một người khác theo đạo.
– Mỗi giáo dân nên kết thân với một Lương dân. Mỗi gia đình kết thân với một gia đình bên Lương. Kết thân để cầu nguyện, nâng đỡ nhau.
– Các hội đoàn đi tìm người tội lỗi và người nghèo trong địa phương của mình. Nên có một danh sách cụ thể. Sau đó sẽ cùng nhau thăm viếng, an ủi và giúp đỡ.
29. Tinh thần truyền giáo
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Truyền giáo là một sứ mạng thiêng liêng cao cả, khởi nguồn từ Thiên Chúa. Qua mọi can dự vào lịch sử loài người, Thiên Chúa Ba Ngôi đã làm tất cả “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta”.
Sứ mạng truyền giáo đã được trao phó cho Giáo Hội. Khi lập Nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu cho thấy ý định trao phó sứ mạng truyền giáo cho Giáo Hội sau này (x. Mc 3,13). Trước khi rời các Tông đồ để về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu đã trực tiếp ban mệnh lệnh truyền giáo cho các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21), “Anh em hãy đi dạy dỗ muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, và dạy họ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20).
Chính các Tông đồ và những cộng sự của các ngài đã thừa hành mệnh lệnh này một cách xuất sắc. Trải qua bao khó khăn dọc dài lịch sử, các ngài đã đem Tin Mừng Phục Sinh tới nhiều miền và cho nhiều tâm hồn. Hơn hai ngàn năm qua, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, các thế hệ tông đồ truyền giáo đã nối tiếp nhau mang Tin Mừng đi khắp địa cầu.
Như vậy, truyền giáo xuất phát từ Thiên Chúa, qua Đức Kitô sứ mạng này đã được trao cho Giáo Hội, nhờ Thánh Thần hướng dẫn Giáo Hội trung thành và nhiệt thành chu toàn sứ mạng cho đến ngày tận thế.
Thực thi sứ mạng truyền giáo là chia sẻ cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, yêu thương đến cùng, yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu. Truyền giáo là làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống.
1. Nội dung truyền giáo
Trước khi về với Chúa Cha, Chúa Giêsu ban lệnh truyền; “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Lời Chúa nói với các môn đệ về nội dung truyền giáo có 4 công việc quan trọng.
a. Truyền giáo là Rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu. Rao giảng là bước đầu tiên và quan trọng nhất. Truyền giáo là “loan báo Tin mừng”.
b. Truyền giáo là “thiết lập cộng đoàn các môn đệ”, cộng đoàn những người tin vào Chúa Kitô, cộng đoàn này chính là Giáo Hội. Chúa Giêsu nói rõ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”.
c. Truyền giáo là “cử hành Phụng vụ và các Bí tích”. Chúa Giêsu cũng nói rõ: “làm phép rửa cho họ Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Các Bí tích thuộc về Nhiệm cục Cứu độ của thời đại Tân Ước, được Chúa Giêsu thiết lập, để qua đó ban ơn cứu độ cho con người.
d. Truyền giáo là dạy Giáo lý, là Huấn giáo. Chúa Giêsu đã căn dặn: “Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Mục tiêu của Huấn giáo là dạy cho người ta biết Chúa, tin Chúa và yêu Chúa, giúp cho người Kitô hữu có thể gặp gỡ Chúa, tiếp xúc với Chúa trong đời sống cầu nguyện, cũng như trong đời sống thực tế hằng ngày.
2. Truyền Giáo theo gương Chúa Giêsu
“Đức Giêsu Kitô là lý tưởng trung tâm của truyền giáo, và lý tưởng này đòi hỏi sự hiến mình hoàn toàn cho việc rao giảng Tin Mừng” (Sứ điệp TG 2015). Sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội thời nào và ở đâu cũng bắt đầu từ mẫu gương Chúa Giêsu.
Khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu ưu tiên để ý đến những người nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi với 4 hạng người: người nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Chúa Giêsu đến với họ, cho họ thấy, Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người. Chúa Giêsu hiến thân đến tột cùng vì tình yêu.
Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng hãy theo gương Thầy, đem Tin Mừng đến cho 4 hạng người đó.Đây cũng là sứ mạng truyền giáo của mỗi kitô hữu.Nói cách khác, truyền giáo là yêu như Chúa Giêsu yêu. Chúa dành tình yêu đặc biệt cho 4 hạng người: người ngoại, người tội lỗi, người bệnh tật và người nghèo.Yêu người ngoại, yêu người tội lỗi, yêu người nghèo và người bệnh tật như thế là truyền giáo theo gương Chúa Giêsu.
Trong sứ điệp Truyền Giáo 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đặt câu hỏi và trả lời: “Ai là những người đầu tiên phải được nghe loan báo sứ điệp Tin Mừng? Câu trả lời rất rõ ràng và được gặp rất thường xuyên trong Tin Mừng, đó là: những người nghèo, những người bé mọn và những người bệnh tật, những người thường bị khinh dể hay bị bỏ quên, những người không có gì để đền đáp chúng ta (x. Lc 14,13-14). Ưu tiên rao giảng Tin Mừng cho những người hèn mọn nhất giữa chúng ta là dấu chỉ của Nước Thiên Chúa mà Đức Giêsu đem đến: “Có một dây liên kết không thể phân ly giữa đức tin của chúng ta và người nghèo” (Evangelii Gaudium, 48).
3. Tinh thần truyền giáo và nhiệt huyết tông đồ.
Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, khi còn là Giám Mục giáo phận Nha Trang, đã viết chỉ dẫn về truyền giáo như sau: “Những nỗ lực hoạt động, cầu nguyện sẽ không mang lại kết qủa nếu chúng ta không được hướng dẫn bằng một tinh thần mới, một bầu nhiệt huyết tông đồ.Bất cứ lúc nào tiếp xúc với lương dân, với một bầu nhiệt huyết tông đồ, anh chị em hãy luôn luôn nhớ rằng:Tinh thần truyền giáo không phải là óc chinh phục mà là lòng yêu thương.Tinh thần truyền giáo không phải là óc cai trị, mà là tinh thần phục vụ mọi người.Tinh thần truyền giáo không phải là đạo binh thánh gía, dùng vũ lực để đánh ngã, nhưng là tinh thần chứng nhân, lấy đời sống mà làm chứng tích.Tinh thần truyền giáo không phải là óc tự cao tự đại, nhưng là thái độ đối thoại, là tinh thần trao đổi và tôn trọng các tôn giáo khác.Tinh thần truyền giáo không phải là mãnh lực của tiền tài, quyền thế mà là tinh thần tương trợ. Tinh thần truyền giáo không phải là thủ đoạn chiến lược, nhưng là tấm lòng chân thành đơn sơ.Tinh thần truyền giáo không bao giờ chán nản, vì trở ngại, vì vô ơn, vì phản bội, vì thất bại, ngược lại luôn luôn tin cậy vào ơn Chúa và nhẫn nại”. (Gm. Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, Thư luân lưu: Sứ mạng Chúa Kitô là sứ mạng của chúng ta, lễ Thánh Têrêxa năm 1970. Trích trong tập Hôm qua, hôm nay, ngày mai, Thời điểm 1996, tr. 102-103).
Sắc lệnh Ad Gentes đề cao tầm quan trọng của chứng tá đời sống trong việc truyền giáo: “Tất cả các Kitô hữu, dù sống ở đâu, đều phải dùng chứng tá và gương mẫu đời sống để thể hiện con người mới của họ đã đón nhận qua bí tích Thanh tẩy, đồng thời biểu dương sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã cũng cố họ qua bí tích Thêm sức, để những người chung quanh nhìn thấy các việc họ làm mà ngợi khen Chúa Cha” (số 11).
Truyền giáo hôm nay phải là giới thiệu, là trình bày, là minh họa, là thuyết phục. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho những anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày nơi môi trường mình sống và làm việc. Đời sống của giáo dân là phương tiện truyền giáo hữu hiệu hàng đầu. Muốn truyền giáo, giáo dân phải có lòng đạo nhất định. Việc tái truyền giáo giúp tẩy xóa hay giảm bớt những cách sống phản Tin Mừng nơi người đã có đức tin. Thực tế, chẳng ai lại đi theo một cái Đạo mà ngay cả tín đồ cũng không thực hành Đạo. Cũng chẳng ai có thể cho người khác cái mà mình không có. Tái truyền giáo sẽ giúp giáo dân đong đầy hành trang là những giá trị Tin Mừng cho cuộc sống, thay cho những lối sống buông thả và thiếu cố gắng xưa nay. Muốn giới thiệu Chúa cho người chưa biết Chúa, người giáo dân phải thấm nhuần đạo lý, sống trong thế thượng phong về luân lý, về đức bác ái và sự công bằng. Như thế, từng cá nhân, từng nhóm và cộng đoàn, mới dấn thân vào việc truyền giáo. Đức Phanxicô viết trong Sứ điệp truyền giáo năm nay rằng “ Mọi thành viên của Hội Thánh được kêu gọi rao giảng Tin Mừng bằng chứng tá đời sống của mình… Như Công đồng Vaticanô II nói: Giáo dân phải hợp tác vào công cuộc truyền giáo của Hội Thánh; là những chứng nhân và đồng thời là những công cụ sống động, họ chia sẻ sứ mạng cứu rỗi của Hội Thánh” (Ad Gentes, 41)”.
Thực thi sứ vụ truyền giáo trong Năm Tân Phúc Âm hóa đời sống giáo xứ và đời sống cộng đoàn thánh hiến bằng cách:
– Mọi thành viên của Hội Thánh được kêu gọi rao giảng Tin Mừng bằng chứng tá đời sống của mình. Một cách đặc biệt, những người nam người nữ thánh hiến được mời gọi lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần, Đấng kêu gọi họ đi ra các vùng ngoại biên, đến với những người chưa được nghe rao giảng Tin Mừng….Người truyền giáo đích thực thì say mê Tin Mừng. Tin Mừng là nguồn mạch niềm vui, sự giải phóng và cứu độ cho mọi người. Hội Thánh ý thức được hồng ân này, vì thế Hội Thánh không ngừng công bố cho mọi người “điều đã có từ ban đầu, điều chúng tôi đã nghe, và chúng tôi đã tận mắt chứng kiến” (1Ga 1,1). Sứ mạng các tôi tớ của Lời – các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân– là giúp cho mọi người, không trừ một ai, được đi vào mối quan hệ với Đức Kitô. (Sứ điệp Truyền giáo 2015).
– Đặc biệt đối với những người sống đời thánh hiến, qua lời khấn sống đời nghèo khó, họ chọn theo Đức Kitô trong sự ưu ái của Ngài đối với người nghèo, theo cách mà Ngài tự đồng hoá mình với người nghèo: sống giống như người nghèo giữa những bất trắc của đời sống hằng ngày và từ khước mọi đòi hỏi về quyền lực, để đem đến cho họ chứng tá về niềm vui của Tin Mừng và một dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa. (Sứ điệp TG).
– Mỗi Giáo xứ khởi động phong trào: mỗi thành viên phải làm sao giúp cho một người khác theo đạo.
– Mỗi giáo dân nên kết thân với một Lương dân. Mỗi gia đình kết thân với một gia đình bên Lương. Kết thân để cầu nguyện, nâng đỡ nhau.
– Các hội đoàn đi tìm người tội lỗi và người nghèo trong địa phương của mình. Nên có một danh sách cụ thể. Sau đó sẽ cùng nhau thăm viếng, an ủi và giúp đỡ.
Chúa Thánh Thần hướng dẫn và quyết định thành tựu của việc truyền giáo. Nhưng nỗ lực của mọi thành phần Dân Chúa trong việc truyền giáo cũng là yếu tố làm nên sự thành công. Ước mong Khánh Nhật Truyền Giáo là ngày mang đến cho chúng ta nhiều niềm vui Tin Mừng qua những thành quả, và cũng giúp chúng ta có thêm động lực để dấn thân cho việc loan báo Tin Mừng.
30. Truyền giáo theo gương Mẹ Têrêsa.
(Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Ngày Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị tuyên phong Mẹ Têrêxa lên bậc Chân Phúc mà ta quen gọi là Á thánh cũng là ngày cầu nguyện cho việc truyền giáo. Và Đức Thánh Cha khuyên nhủ chúng ta hãy truyền giáo theo gương Mẹ Têrêxa. Vậy Mẹ Têrêxa là ai và Mẹ đã truyền giáo như thế nào?
1- CUỘC ĐỜI
Mẹ Têrêxa sinh tại nước Anbani cũ. Mẹ đã xin gia nhập dòng Đức Mẹ Loretto và được sai đi Ấn độ để phục vụ nguơì nghèo. Khi đến Ấn độ, Mẹ được chứng kiến cả một đại dương mênh mông những người nghèo đói. Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi nằm la liệt ngoài đường. Những người già cả bệnh tật nằm chờ chết bên những đống rác, và khi chết, bị vất vào đống rác như một con thú vật. Xúc động trước cảnh nghèo khổ. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo. Việc đầu tiên là mở những trung tâm đón tiếp, đưa những người hấp hối ngoài đường về, săn sóc để họ được chết như một con người. Rồi mở cửa nhà cô nhi nuôi dưỡng trẻ em bị bỏ rơi. Rồi mở bệnh viện chăm sóc chữa trị những người nghèo khổ. Rồi mở trường cho trẻ em nghèo đến học. Công việc càng ngày càng phát triển. Số người theo giúp Mẹ càng ngày càng đông. Chẳng bao lâu, một dòng mới được thành hình với tên Nữ tử Thừa sai Bác ái. Ngoài 3 lời khấn như những nữ tu khác, còn có lời khấn phục vụ người nghèo. Mẹ được thế giới biết tiếng. Cả thế giới gọi Mẹ là Mẹ Têrêxa. Khi Mẹ qua đời, 80 nhà lãnh đạo quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Cliton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến nghiêng mình kính cẩn trước thi hài của Mẹ. Nước Ấn độ có đa số dân theo Ấn độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, thế mà đã nghi thức quốc táng cho Mẹ,đã bắn hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về thiên đàng.
2- TRUYỀN GIÁO
Mẹ Têrêxa đã truyền giáo cách nào mà thành công như thế? Thưa, Mẹ đã dùng 4 phương cách sau:
Phương cách thứ nhất: cầu nguyện. Có nhiều người tưởng Mẹ Têrêxa là con người hoạt động. Không phải thế. Trước hết Mẹ là con người cầu nguyện. Những giờ cầu nguyện triền miên phát xuất từ nỗi niềm khao khát Chúa. Cầu nguyện đã đưa Mẹ đến phục vụ người nghèo. Rồi việc phục vụ người nghèo đã đưa Mẹ trở về với kinh nguyện. Dòng chảy cầu nguyện liên lỷ không bao giờ ngừng. Có thể nói cuộc đời Mẹ là cuộc đời chiêm niẹm trong hoạt động.
Phương cách thứ hai: thấm nhuần Lời Chúa. Mẹ tha thiết yêu mến Lời Chúa. Lời Chúa thấm vào tận mạch máu thớ thịt, để Mẹ suy nghĩ, nói năng và hành động theo Lời Chúa. Mẹ thường nói: Lời Chúa phải ở trên đầu ngón tay ta. Theo Mẹ 5 từ ngữ quan trọng khắc ghi tên 5 đầu ngón tay của Mẹ là: You did it for me. Đó là 5 từ tóm tắt 25 chương Tin Mừng theo thánh Mátthêu: “Mỗi lần các con làm những việc này cho một trong những anh em bé nhỏ nhất, đó là các con làm cho Thày”.
Phương cách thứ ba: yêu mến người nghèo. Nơi Mẹ, yêu mến người nghèo không phải là cảm tính nhất thời. Yêu mến người nghèo thực sự phát xuất từ một đức tin sâu xa. Tin thật Thiên Chúa đang ở trong nhưng người nghèo. Vì yêu mến người nghèo Mẹ đã tự nguyện sống nghèo. Mẹ sống trong một căn phòng đơn sơ, chỉ có một chiếc giường, một bàn nhỏ, một ngọn đèn và một chậu nước.
Phương cách thứ tư: phục vụ bằng tình yêu. Vì tin Chúa đang ngự trong người nghèo, nên phục vụ người nghèo chính là phục vụ Chúa. Vì thế, phục vụ người nghèo là một bổn phận phải thực hiện trong khiêm nhường. Phải phục vụ một cách kính cẩn. Phải phục vụ bằng tình yêu.
Giữa thế kỷ 20 tôn trọng vật chất, quay lưng lại với đời sống tâm linh, Mẹ Têrêxa đã trở nên một nhân chứng sống động của thế giới thần linh. Giữa nước Ấn độ xa lạ với Kitô giáo, Mẹ Têrêxa đã trình bày được khuôn mặt dễ thương dễ mến của Chúa, làm cho mọi người yêu mến đạo Cháu. Mẹ xứng danh là nhà truyền giáo của thế kỷ 20. Giữa những bế tắc Mẹ đã khai thông một lối đi. Lối đi vào thẳng trái tim con người. Trong bóng tối dày đặc, Mẹ đã thắp lên một ngọn đèn. Ngọn đèn đó chiếu lên ánh sáng niềm tin. Giữa trần gian lạnh lẽo, Mẹ đã đốt lên ánh lửa yêu mến. Ánh lửa đó sưởi ấm tình người.
Năm 2004 sắp tới được Hội đồng Giám mục Việt Nam chọn làm Năm Truyền Giáo. Chúng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, biết tha thiết cầu nguyện, biết yêu mến Lời Chúa, nhất là biết yêu mến người nghèo và biết phục vụ bằng tình yêu. Để mỗi người Công giáo thực sự là một ngọn đèn chiếu toả ánh sáng của Chúa. Để mỗi người Công giáo là một niềm vui cho những người chung quanh.
Lạy Chân Phúc Têrêxa, xin cầu cho chúng con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Mẹ Têrêxa đã truyền giáo bằng những phương cách nào?
2- Trong hoàn cảnh của bạn, bạn có thể thực hiện phương cách nào trong 4 phương cách của Mẹ Têrêxa để truyền giáo?
3- Qua cuộc đời Mẹ Têrêxa, bạn thấy ngày nay còn có thể truyền giáo được không?
31. Khánh Nhật Truyền Giáo
NGƯỜI CHÂU Á TRUYỀN GIÁO CHO NGƯỜI Á CHÂU. (Mc 16, 15-20)
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Từ ngày 5 đến ngày 8.1.1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm Ấn Độ. Cao điểm của chuyến viếng thăm lần này là nghi thức công bố Tông Huấn về “Giáo Hội tại Á Châu”. Tông huấn này là một đúc kết thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục họp tại Rôma hồi tháng 4.1999.
Chọn Ấn Độ làm nơi công bố Tông Huấn “Giáo Hội tại Á Châu”, Đức Thánh Cha muốn hướng các dân tộc ở Á Châu tới các dân tộc Á Châu, tới đồng bào của mình tại lục địa mênh mông rộng lớn này với hơn 3 tỷ người, trong đó chỉ có 3% là người Công Giáo. Những nơi mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong mỏi đến viếng thăm nhất hẳn phải là Đài Loan, Hồng Kông, Trung Hoa lục địa và đặc biệt là Việt Nam. Thế nhưng cho đến nay người ta vẫn cứ nại đến lý do chính trị và quan hệ ngoại giao để không cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Giáo Hội ở phần đất này.
Ấn Độ là một quốc gia đang bị xâu xé vì tinh thần bất khoan dung. Trong những năm gần đây, người ta ước tính là đã có gần 150 vụ tấn công nhắm vào nhân sự và các cơ sở của Kitô Giáo. Nhiều mục sư và linh mục bị sát hại, nhiều nữ tu bị bạo hành, nhiều nhà thờ bị đốt phá. Nhân dịp Đức Thánh Cha viếng thăm Ấn Độ, nhóm Ấn Giáo cực đoan đòi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lên án các cuộc trở lại Công Giáo cũng như xin lỗi người Ấn Độ về những phương pháp truyền giáo cho người Ấn Độ trong quá khứ. Chính bầu khí bất khoan dung ấy đã khiến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chọn Ấn Độ làm nơi để công bố Tông Huấn “Giáo Hội tại Á Châu”.
Trong Thư Mục Vu Hội Đồng Giám Mục Việt Nam gởi toàn thể Dân Chuá vào khoá họp thường niên từ 2-7/10/2000 tại Hà Nội, các Giám Mục đã viết: “Thật là phấn khởi vô cùng khi nghe lời Đức Gioan Phaolô II mở đầu Tông Huấn: “Giáo Hội tại Á Châu ca lên những lời ngợi khen Thiên Chúa cứu độ loài người” (GA. Số 1). “Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Thế đã đến trần gian làm một người Á Châu. Ngài đã sinh ra, đã chết và sống lại tại Thánh Địa, một miền đất nhỏ bé của miền Tây Á Châu. Thánh Địa đã trở thành mảnh đất của Lời Hứa niềm hy vọng cho toàn thể nhân loại” (GA. Số 1). “Thế nhưng cho tới nay nhiều người Á Châu vẫn chưa nhận biết Tin Mừng để trở thành Kitô hữu” (Thư MV. Số 2).
“Năm nay, Ngày Thế Giới Truyền Giáo mang một ý nghĩa phong phú trong ánh sáng của Đại Năm Thánh, một năm hồng ân, cử hành Mầu Nhiệm Cứu Độ từ 2000 năm, kể từ ngày sinh của Đức Giêsu Kitô là vị Thừa Sai đầu tiên và vĩ đại của Chúa Cha. Hội Thánh tiếp nối sứ mạng thừa sai của Chúa Kitô trong thời gian, qua hành động loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng Chúa Kitô. Năm thánh 2000 là một thời gian thuận tiện để toàn thể Hội Thánh, nhờ Thánh Thần, có một hứng khởi thừa sai mới. Vì thế, Đức Thánh Cha mới gọi cách đặc biệt và chân thành mọi người đã được rửa tội hãy trở nên sứ giả của Tin Mừng”. “Đây là một sứ vụ liên quan đến mọi Kitô hữu, mọi giáo phận và giáo xứ, mọi tổ chức và hiệp hội của Hội Thánh” (RM. Số 2). “Trong những cách thế khác nhau, mọi người được mời gọi tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu trong Hội Thánh”. “Mỗi người được mời gọi cộng tác tuỳ theo hoàn cảnh sống của riêng mình. Trong mùa này, một mùa của ân sủng và lòng thương xót, tôi đặc biệt ý thức rằng tất cả sức lực của Hội Thánh phải dành cho việc Phúc Âm Hoá Mới và Truyền Giáo. Không tín hữu nào, không tổ chức nào trong Hội Thánh có thể trốn tránh nhiệm vụ tối cao là loan báo Đức Kitô cho mọi người”. (x. RM số 3). Toàn thể sứ vụ của Hội Thánh và đặc biệt việc truyền giáo cần đến những tông đồ quyết tâm kiên trì cho đến cùng, trung thành với sứ vụ đã lãnh nhận, bằng cách nào bước đi trên cùng con đường Đức Kitô đã đi qua, “con đường nghèo khó, vâng phục, phục vụ và hy sinh bản thân, cho cả đến chết…” (TG. Số 5). Trong công việc này, người Kitô hữu không đơn độc. Chúa không bao giờ bỏ rơi những ai Ngài kêu gọi cộng tác vào công việc phục vụ của Ngài. “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy… và hãy biết rằng Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (X. Mt 28,18-20). Sự hiện diện mãi mãi của Chúa trong Hội Thánh, nhất là trong Lời Chúa và các bí tích, là một bảo đảm cho hiệu năng của công cuộc truyền giáo.
Viễn cảnh của Đại Năm Thánh mà chúng ta đang cử hành, dẫn đưa chúng ta tới một sự dấn thân truyền giáo hăng say hơn. Đã 2000 năm, kể từ khởi sự công cuộc truyền giáo, vẫn còn lãnh vực rộng lớn về địa dư, nhân văn và xã hội, trong đó Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài chưa thấm nhập vào, cách riêng đối với chúng ta, người Á châu ở trên châu lục này. Làm sao chúng ta có thể không nghe lời mời vang lên từ hoàn cảnh này? Người Châu Á phải loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô cho người Á Châu, vì Chúa Giêsu là người Á Châu. Tại sao người Á Châu lại không nhận biết Ngài?
Thưa anh chị em,
Cánh đồng truyền giáo thật rộng lớn và nhiều việc còn phải làm: vì thế sự cộng tác của mọi người thật cần thiết. Thật vậy, không ai nghèo nàn đến nỗi không có gì để ban tặng. Trước tiên chúng ta tham dự vào hoạt động truyền giáo bằng lời cầu nguyện, bằng những hy sinh và dâng hiến những đau khổ cho Thiên Chúa. Đó là loại cộng tác đầu tiên mà mọi người có thể trao tặng. Cũng quan trọng là đừng bỏ qua sự trợ giúp kinh tế tài chánh cần thiết cho sự sống còn của biết bao Giáo Hội địa phương.
Đức Thánh Cha kêu gọi chúng ta, khi cử hành Năm Thánh 2000, “toàn thể Hội Thánh càng dấn bước vào một Mùa Vọng truyền giáo mới, chúng ta phải gia tăng nhiệt tình tông đồ để chuyển giao cho người khác ánh sáng và niềm vui của đức tin… Thánh Thần của Thiên Chúa là sức mạnh của chúng ta. Thánh Thần, Đấng biểu lộ quyền năng trong sứ vụ của Đức Giêsu khi Ngài được sai đi “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó… Và loan báo một năm hồng ân của Chúa”, đã đổ tràn trong tâm hồn của mọi tín hữu (X. Rm 5,5), giúp chúng ta trở nên chứng nhân của Chúa”.
Thưa anh chị em,
Truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương. Đây chính là cốt lõi mà Chúa Giêsu cô đọng trong giới răn mến Chúa và yêu người. Trong một xã hội mà Kitô Giáo chỉ là thiểu số thì truyền giáo đối với Kitô hữu hiện nay là quyết tâm sống như thế nào để rao giảng một thứ Đạo, đó là “Đạo của tình thương”.
Mẹ Têrêsa Calcutta, Ấn Độ, đã định nghĩa về một nhà truyền giáo, đó là một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Têrêsa không những chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêesu bằng những lời nói suông, nhưng mẹ nói về Chúa Giêsu, mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêsa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu.
32. Tinh thần truyền giáo (Lc 18, 1-8)
(Trích trong ‘Với Cả Tâm Tình’ – ĐGM. Vũ Duy Thống)
“Không biết khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?”. Trang Tin Mừng hôm nay được kết thúc như thế.
Có thể đó là câu hỏi một thoáng bâng khuâng Chúa Giêsu thốt lên cho riêng mình Người. Cũng có thể đó là câu hỏi dự báo một tình huống không vui Chúa Giêsu cảnh giác cho các môn đệ. Có khi câu hỏi đó đợi chờ một lời đáp tích cực mở ra cho lối sống đức tin lạc quan. Và biết đâu, câu hỏi đó lại chẳng tố giác một thực trạng tiêu cực đang dần dà bào mòn niềm tin tôn giáo?
Nhưng đặt trong bối cảnh của Chúa Nhật cầu cho việc truyền giáo, theo tinh thần của các bài đọc, câu hỏi ấy đã ẩn chứa một lời giải đáp. Đó là: để lòng tin còn mãi trên mặt đất, mọi thành phần của Dân Chúa cần phải sống tinh thần truyền giáo.
1) Tinh thần truyền giáo ấy được nuôi dưỡng bằng sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động.
Nói đến truyền giáo người ta thường nghĩ là phải dấn thân làm việc truyền giáo, và ai càng làm được nhiều, người ấy lại càng được xem là nhà truyền giáo lớn. Thực ra, quan niệm ấy cũng đúng, nhưng không đủ, bởi dù không phủ nhận những kết quả lớn lao trong lịch sử Giáo Hội do hoạt động truyền giáo mang lại, nhưng bao giờ cũng thế, bên trong những hoạt động ấy còn là cả một tinh thần cầu nguyện tích cực của bản thân các nhà truyền giáo cũng như của mọi thành phần Dân Chúa.
Thiếu cầu nguyện, hoạt động sẽ không kết quả, hoặc sẽ lái kết quả sang một hướng khác có nguy cơ “sáng danh tôi, tối Danh Chúa”. Vắng cầu nguyện, hoạt động có thể trở thành nguy hại, nó đồng nghĩa với náo động nếu không muốn nói là khua động ầm ĩ hoặc khuấy động ồn ào. Quên cầu nguyện, hoạt động chỉ là hời hợt mang tính phong trào bùng lên đó nhưng rồi cũng lịm tắt đó. Bạo phát bạo tàn, mau xộp mau xẹp! Bỏ cầu nguyện, hoạt động coi chừng chỉ còn là một việc cá nhân, dẫu bỏ ra nhiều công sức, nhưng vẫn không phải là hoạt động của Hội Thánh vốn luôn được nuôi dưỡng phong phú bởi nguồn ơn Chúa Thánh Thần.
Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động truyền giáo. Nó đem đến cho những hoạt động một sức sống kín múc tận nguồn sứ mạng.
Bài đọc thứ nhất kể lại một hình ảnh sống động cho thấy mối tương liên không thể tách rời giữa việc Môsê giơ tay cầu nguyện và việc Giosuê đánh bại quân Amalếch. Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của ông Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông giơ tay lên, phần thắng đã nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy không riêng của Môsê hay riêng của Giosuê, mà là của Môsê cùng với Giosuê, là dung hòa của cầu nguyện và hoạt động, là tổng hợp của ơn thánh Chúa và nỗ lực con người.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được mừng kính vào đầu tháng mười này cũng là một hình ảnh khác minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động truyền giáo. Chín năm khuôn mình trong nhà kín Lisieux, chưa hề làm việc truyền giáo bên ngoài, thế nhưng chỉ bằng hy sinh cầu nguyện cho các vị thừa sai và cho công cuộc rao giảng Tin Mừng, thánh nữ đã được Giáo Hội đặt làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê một đời bươn chải giảng giải đạo Chúa đến tận miền xa Châu Á.
Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ Giáo Hội thôi truyền giáo. Bốn phần năm dân số địa cầu chưa biết Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo đã đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết Chúa, Giáo Hội cũng phải tái truyền giáo nữa. Xem như thế, truyền giáo vừa là sứ mạng, vừa là số mạng, tức là sự sống còn của Giáo Hội. Và tinh thần truyền giáo ấy một khi được hun đúc đều đặn bằng cầu nguyện và hoạt động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô đến, Người vẫn thấy niềm tin trên mặt đất.
2) Tinh thần truyền giáo ấy được thể hiện khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.
Được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện dung hòa với hoạt động cây truyền giáo nhất định sẽ vươn lên, nhưng không thể không biết đến yếu tố thời tiết, mưa thuận gió hòa, hoặc nắng hạn mưa giông. “Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống”, đó là kinh nghiệm trồng cây. Song một cây lành như cây truyền giáo phải biết chứng minh bằng phẩm chất của mình. Nói khác đi, tinh thần truyền giáo cũng phải được chứng minh bằng chí bền sứ mạng, nghĩa là vừa kiên tâm thực hiện những điều tốt, vừa kiên gan chịu đựng ngay cả những điều xấu nữa (thánh Augustinô), phải bền chí khi thuận tiện cũng như khi không thuận tiện.
Khi thuận tiện là khi chí bền truyền giáo giúp ta tỉnh táo đừng để mất mình trong hoạt động đến nỗi quên đi cầu nguyện, giúp ta phân biệt rõ ràng đâu là đóng góp nhỏ nhoi của mình và đâu là ơn ban vô cùng to lớn của Thiên Chúa, và còn mãi giúp ta không chạy theo những thành công trước mắt để sau này khỏi phải trả giá đắng cay trắng tay thất vọng. Trong một chừng mực nào đó, biết đâu lối sống của ông thẩm phán bạo ngược “chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì” trong bài Phúc Âm lại chẳng có vài tương đồng với quan niệm háo thắng hoặc đắc thắng của cách truyền giáo thời Trung cổ, vốn xem Kitô giới như một xã hội lý tưởng, nên cố mà đưa người ta vào bằng chinh phục (truyền giáo) hoặc gắng mà ép người ta về bằng cả chinh phạt nữa (thập tự chinh)?
Xem ra kiên tâm thực hiện những điều tốt trong truyền giáo vào thời thuận tiện cũng không ít vấn đề.
Khi không thuận tiện là khi chí bền truyền giáo không chỉ giúp ta chịu đựng những khắc nghiệt thường xuyên, mà còn giúp ta biết tận dụng hoàn cảnh để mà thanh luyện tâm hồn. Nếu những hoạt động phải chấp nhận giới hạn ngoài ý muốn, thì chí bền như một mạch điện tự động “kiểm soát lợi suất” sẽ bù lại những giới hạn ấy bằng một thao thức phong phú của lời nguyện cầu. Và nếu như hoàn cảnh cụ thể không cho phép có một hoạt động bên ngoài nào nữa, thì vẫn còn đó mênh mông một phương tiện truyền giáo bằng gương sáng tình mến, bằng chứng tá đức tin và bằng cách sống tốt đẹp đời Kitô của mình.
Điều đáng sợ không phải là hoàn cảnh khắc nghiệt, mà là chính mình không đủ chí bền mà vượt qua những khắc nghiệt ấy. Trong ý tưởng này, có lẽ rất thích hợp khi đặt hình ảnh người đàn bà góa bụa của bài Phúc Âm, nhiều lần đến quấy rầy ông thẩm phán mong được minh xét minh định minh oan, ở đây như một cổ võ sống động cho chí kiên bền.
Và dầu hoàn cảnh thuận tiện hay không (bài đọc thứ hai), chí truyền giáo thiết tưởng cũng là biểu tỏ của niềm hy vọng, là tình mến khởi đi từ một đức tin sống động vào Thiên Chúa là Cha nhân ái luôn muốn sự tốt lành trong ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Được như thế, chắc chắn khi Chúa Kitô trở lại vẫn thấy niềm tin còn trên mặt đất trong chí bền của Giáo Hội là thân mình Người.
Ước mong rằng suy nghĩ trên sẽ trở nên ý lực cho cuộc sống và trở nên ý nguyện trong Ngày Thế Giới Truyền Giáo hôm nay.
33. Sứ mạng truyền giáo
(ĐTGM. Phaolô Bùi Văn Đọc – Bài Giảng Thánh Lễ Đại Hội Truyền Giáo – tại Trung Tâm Mục vụ Sài Gòn)
1. Giáo Hội tự bản chất có sứ vụ truyền giáo (x. AG,2). Chúa Giêsu Phục Sinh, khi hiện ra với các Tông đồ, đã trao sứ vụ của Người lại cho Giáo hội: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy sai anh em” (Ga 20,21). “Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hay nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22).
Chúa Giêsu đã trao sứ vụ truyền giáo lại cho chúng ta, và Người cũng đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta, cho tất cả chúng ta, không trừ một ai, cho mọi thành viên của Giáo hội, mọi người đã chịu Phép Rửa và trở thành môn đệ của Chúa.
2. Có lẽ một số đông người Công giáo Việt Nam chưa hiểu mình có sứ mạng truyền giáo, chưa xác tín về sứ mạng, chưa đón nhận sứ mạng từ nơi Chúa. Dịp Đại hội Truyền giáo của Giáo phận Sài Gòn hôm nay, chúng ta hãy nhắc lại cho nhau lệnh truyền của Chúa:
– “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” (Mc 16,15-16).
– “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền dạy cho anh em” (Mt 28,19-20).
– “Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thư ba, từ cõi chết sống lại và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24,46-48).
3. Cả bốn sách Tin Mừng cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa của việc truyền giáo, thấy nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội.
Trước hết, truyền giáo là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người Ngài gặp gỡ, mà còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải tình yêu đó, nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa. Nơi Ngài tình yêu đó đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy vọng cho toàn thể nhân loại.
4. Truyền giáo còn bao gồm việc thiết lập và xây dựng Giáo hội, bắt đầu bằng việc gầy dựng những cộng đoàn các môn đệ của Chúa. Rồi mạnh dạn thúc đẩy các cộng đoàn ấy “làm chứng cho Chúa” hoặc bằng lời nói, hay bằng những việc lành, bằng chính đời sống huynh đệ, đời sống bác ái yêu thương, như lời Chúa dạy: “Cứ dấu này, người ta nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu thương nhau” (Ga 13,35).
5. Dĩ nhiên cách truyền giáo trong thế giới hôm nay không thể nào rập khuôn với những cách làm của cha ông, vì sứ vụ của chúng ta là đưa Tin Mừng của Chúa vào các môi trường khác nhau của xã hội hôm nay. Có những môi trường rất khó thâm nhập, mặc dù chính những nơi ấy rất cần những hạt giống Tin Mừng, như môi trường giáo dục, môi trường y tế, môi trường kinh doanh, môi trường xã hội đen, môi trường của những con người khốn khổ…, cả môi trường chính trị nữa.
Chúng ta không truyền giáo bằng cách áp đặt, cưỡng chế những người khác theo chúng ta. Chúng ta cũng không mua chuộc bằng tiền của, hay bằng quyền lợi, bằng những hứa hẹn. Chúng ta cũng không dụ dỗ, như người ta dụ dỗ vị thành niên.
6. Truyền giáo hôm nay phải là giới thiệu, là trình bày, là minh họa, là thuyết phục. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho những người chúng ta gặp. Chúng ta đừng sợ: sự nhút nhát của chúng ta có hậu quả rất lớn. Nhiều người mất cơ hội để biết Chúa. Hãy mạnh dạn như anh em Tin Lành. Họ ít khi bỏ lỡ cơ hội để nói về Chúa.
Một thống kê khá chính xác ở Trung Quốc cho thấy một sự khác biệt quá lớn giữa sự dấn thân truyền giáo của anh em Tin Lành và người Công Giáo: năm 1815, cách đây gần 200 năm, số người công giáo ở Trung Quốc là 215.000 người, số người Tin lành chỉ có 20 người. Hơn 10.000 người Công giáo mới có 1 người Tin Lành. Nhưng thống kê năm 2006 cho biết ở Trung Quốc có 12 triệu người Công giáo, và có tới 36 triệu người Tin Lành, có nghĩa là 3 người Tin Lành mới có 1 người Công giáo.
7. Hãy dùng mọi phương tiện lành mạnh chúng ta có được để loan báo Tin Mừng, phần còn lại Chúa Thánh Thần sẽ bổ túc cho, vì Chúa Thánh Thần mới là tác nhân chính của việc truyền giáo. Ngài sẽ làm những việc lớn lao mà chúng ta không ngờ, miễn là chúng ta tự nguyện trở nên khí cụ trong tay Ngài. Chính Chúa Giêsu, khi hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ đã nói về sứ mạng làm chứng của Chúa Thánh Thần: “Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Cha. Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15, 26-27).
8. Chúng ta chỉ có thể cùng với Chúa Thánh Thần làm chứng cho Chúa Giêsu, khi chúng ta có “ở với Người”, gần gũi với Người, mặc dù chúng ta không thấy Người. Chính vì thế mà đời sống cầu nguyện rất cần thiết để chúng ta có thể loan báo Tin Mừng. Tất cả chúng ta đều là những con người yếu đuối tội lỗi, hãy cầu nguyện cách khiêm nhường như người thu thuế (Publicano) trong Tin Mừng Luca hôm nay, chắc chắn Thiên Chúa sẽ nhậm lời chúng ta, vì như sách Huấn Ca viết: “Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các từng mây” (Hc 35,16).
Hãy làm sao để có thể nói được ít nhất là một phần nào như Phaolô: “Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng được hoàn tất, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng” (2 Tm 4,17).
34. Lửa truyền giáo – ĐGM. GB. Bùi Tuần
TRUYỀN GIÁO, MỘT ĐẶC ĐIỂM CỦA LINH MỤC VIỆT NAM THỜI NAY
(Bài giảng thánh lễ Truyền Dầu ngày 28 tháng 3 năm 2002)
Một trong những niềm vui lớn của tôi, khi nhìn giáo phận nhà, là thấy số linh mục tương đối đông, đa số còn trẻ, tất cả đều hợp nhất.
Nói chung, tất cả các linh mục của chúng ta đều có thiện chí làm tốt bổn phận của mình.
Hiện nay, bổn phận linh mục tại Việt Nam nói chúng và tại địa phương chúng ta nói riêng không phải dễ dàng.
Ngoài những bổn phận thông thường vốn đi liền với chức linh mục, thì còn một số bổn phận mới.
Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp những giá trị truyền thống với những đổi mới có giá trị. Để sống đạo được nhìn nhận như một mời gọi hấp dẫn, thăng tiến, chứ không phải như một lối sống khép kín, lỗi thời.
Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp những kiến thức tôn giáo với những kinh nghiệm nội tâm. Để sống đạo được nhìn nhận như một chiều kích thiêng liêng đi sâu vào con người, chứ không phải chỉ là một lý thuyết suông.
Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp giáo lý với thực tế cuộc sống. Để sống đạo được coi như ánh sáng của đương thời, chứ không phải như bóng mờ của một cõi xa xôi, lạnh lùng, huyền ảo.
Nhất là bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp mục vụ và truyền giáo. Để linh mục là người ra khơi thả lưới, chứ không phải chỉ là người chủ chăn.
Riêng về bổn phận trên đây, tôi muốn chúng ta cùng nhau dừng lại, để suy nghĩ thêm. Bởi vì truyền giáo là một trách nhiệm quan trọng, một tiếng gọi bức xúc. Nếu coi thường bổn phận này, tôi sợ chúng ta sẽ phạm một lỗi lầm lớn, đạo sẽ cằn cỗi, bản thân ta sẽ chìm sâu xuống thung lũng vô hình cực kỳ nguy hiểm.
Suy nghĩ truyền giáo của chúng ta sẽ được gợi ý bằng mấy việc truyền giáo của Chúa Giêsu, để từ đó chúng ta sẽ thấy việc truyền giáo có thể thực hiện được trong hoàn cảnh mục vụ hiện nay.
Tôi xin nêu lên ba trường hợp của Chúa Giêsu.
Trường hợp thứ nhất là cuộc gặp gỡ với người phụ nữ Samaria (Ga 4,7-42). Bà này là người ngoại giáo. Do đời sống gia đình lôi thôi, bà sống giữa xã hội như kẻ bị loại trừ. Bà không chủ ý đi gặp Chúa Giêsu. Nhưng
Chúa Giêsu đã như vô tình gặp bà. Bắt đầu là một đối thoại vắn về đời sống, về khổ đau, rồi sau đó Chúa làm một cử chỉ cứu độ. Chúa giúp bà vượt qua ranh giới mặc cảm tội lỗi. Bà tin vào Chúa. Hơn nữa, bà trở thành người đứng đầu một nhóm loan báo Tin Mừng giữa dân ngoại.
Trường hợp thứ hai là cuộc gặp gỡ với vị sĩ quan thành Caphanaum (Ga 4,46-54). Ông là người Rôma ngoại giáo. Ông thuộc lớp người có chức có quyền. Ông xin Chúa chữa con ông đang hấp hối. Cũng sau một đối thoại về khổ đau, Chúa đã làm một cử chỉ cứu độ. Chúa đã giúp ông vượt qua được biên giới phân biệt giai cấp, tôn giáo và dân tộc. Ông tin vào Chúa. Hơn nữa, ông trở thành người đứng dầu một nhóm loan báo Tin
Mừng giữa giai cấp chức quyền.
Trường hợp thứ ba là cuộc gặp gỡ với người bại liệt (Ga 5,1-18). Anh này sống chung với một đám người tật bệnh nghèo khổ. Đã 38 năm anh nằm một chỗ cô đơn, lầm lũi trên bờ hồ Bết-da-tha. Anh là kẻ bị xã hội loại trừ. Chính Chúa đã chủ động đến gặp anh. Cũng bắt đầu bằng một đối thoại về khổ đau, sau đó là cử chỉ cứu độ. Chúa đã giúp anh vượt qua biên giới cùng khổ. Anh tin vào Chúa. Hơn nữa, anh trở thành người đứng đầu một nhóm nhỏ loan báo Tin Mừng ngay giữa những người phản đối Chúa.
Ba trường hợp trên đây gồm một người ngoại đạo trong cảnh bê bối, một người quyền chức trong cảnh khó khăn, một người tật bệnh trong cảnh khốn cùng tuyệt vọng. Chúa đã gặp họ, đã nói chuyện với họ về các vấn đề thuộc về cuộc sống, rồi đã làm cho họ một việc cứu độ.
Tôi thấy các loại người như thế hiện nay vẫn còn rất nhiều trong xã hội chúng ta. Nhiều người công giáo đã gặp họ. Cũng đã có những chuyện trò về cuộc sống, về khổ đau, rồi trong lúc thuận tiện đã có những cử chỉ cứu độ. Kết quả rất bất ngờ: Nhiều người trước đây xa lạ nay nhận được Tin Mừng. Sau đó, chính họ gây dựng nhiều nhóm nhỏ để bàn về Tin Mừng và loan báo Tin Mừng. Có nhóm trong khuôn khổ giáo xứ. Có nhóm ngoài cơ chế giáo phận.
Tất cả những gì tôi vừa nêu trên đều làm chứng rằng: Trong mục vụ có vô số cơ hội để truyền giáo. Hơn nữa, trong sống đạo cũng có vô số dịp để làm việc truyền giáo. Linh mục làm, tu sĩ làm, giáo dân cũng làm. Thậm chí người ngoại giáo cũng làm. Làm qua những nẻo đường cuộc sống. Làm qua những vấn đề bức xúc của con người. Nếu không làm thì thiết tưởng không phải không có dịp để làm, nhưng là không có nhiệt tâm và tỉnh thức.
Như thế, điều quan trọng trong truyền giáo là người truyền giáo phải có hồn truyền giáo. Hồn đầy lửa mến Chúa. Hồn đầy lửa thương người.
Lửa đó là lửa từ trái tim Chúa chia sẻ ra. Lửa đó được chia sẻ cho những hồn khiêm tốn, từ bỏ mình, thiện chí muốn gieo trồng sự thiện.
Lửa đó là lửa thanh luyện, lửa cầu nguyện, lửa canh thức, lửa thương cảm, lửa cháy trong thánh giá.
Nhờ lửa như thế, người truyền giáo mới gần gũi được với con người, mới thương cảm được với thân phận từng người, mới hiểu được các vấn đề luôn mới trong dòng lịch sử đầy chuyển biến của xã hội và con người. Nhờ vậy, mà họ là người đáng tin. Đồng bào Việt Nam thời nay không còn dễ tin vào những người nói mạnh nói khéo. Nhưng họ tin vào những người có cái tâm yêu thương, chân thành, khiêm tốn, vừa sâu về đời sống thiêng liêng, vừa cởi mở thông cảm về phía con người.
Với vài suy nghĩ trên đây, tôi xin anh chị em cầu nguyện cho Hội Thánh Việt Nam được trở thành một Hội Thánh truyền giáo. Xin hãy cầu nguyện cách riêng cho các linh mục của chúng ta, để mọi linh mục và từng linh mục, bất cứ trong chức vụ nào, ở tuổi nào, với hoàn cảnh nào, luôn coi bổn phận truyền giáo là một trách nhiệm mà Chúa đòi phải chu toàn. Chu toàn một cách khôn ngoan theo ý Chúa. Mình có trách nhiệm thì cố gắng chu toàn. Còn kết quả ra sao thì hãy để mặc Chúa. Chúng ta cần nâng đỡ các linh mục của chúng ta trong bổn phận truyền giáo. Bởi vì công việc truyền giáo thường được bắt đầu từ các ngài và được phát triển cũng nhờ các ngài.
Chớ chi thời nay truyền giáo trở thành một đặc điểm sáng chói của mọi linh mục tại Việt Nam chúng ta.
35. Đức Maria, mẫu gương truyền giáo.
(Suy niệm của Lm. Hoàng Kim Toan)
Đôi khi tôi tự hỏi, tại sao Chúa Nhật Truyền Giáo lại được nhắc trong tháng Mân Côi, tháng dâng kính Đức Mẹ, cùng với Đức Mẹ chiêm ngắm tình thương của Thiên Chúa, bằng những tràng chuỗi đơn sơ và thành kính nhất qua lối cầu nguyện theo Tin Mừng. Những dòng suy niệm này trả lời cho tôi câu hỏi đó.
Những trang Tin Mừng về Đức Maria thật là phấn khởi cho trần thế chúng ta. Có một người phụ nữ, mang trọn vẹn sứ điệp Tin Mừng của Thiên Chúa vào trong lòng nhân thế. Nhân loại vui mừng bởi sự đón nhận này của Mẹ Maria, “để từ nay mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Thiên Chúa đã làm cho Mẹ những kỳ công lớn lao nơi Mẹ và còn làm những điều lớn lao ấy cho nhiều tâm hồn nhân thế chúng ta.
Sự chuẩn bị một tâm hồn vô tì tích là sự chuẩn bị của Thánh Thần, Chúa Thánh Thần thực hiện nơi Đức maria những điều lớn lao, bởi Mẹ là người đã để Chúa Thánh Thần hoạt động và làm phát sinh hoa trái của Người. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ ngự xuống trên Bà” (Lc 1, 35), hoa trái của Chúa Thánh Thần là hoan lạc và bình an. Mẹ đã mang hoan lạc và bình an của Thiên Chúa cắm rễ vào trong trái đất. Maria, công trình tuyệt diệu của Chúa Thánh Thần, nhân thế có một con người được Chúa Thánh Thần chuẩn bị cho sự toàn vẹn để xứng đáng đón nhận Đức Giêsu, Con thiên Chúa vào trong lòng nhân thế, lịch sử đã đổi hướng đi về nguồn ơn cứu độ, về niềm vui của Thiên Chúa đã hứa từ ngàn xưa, và trở nên hiện thực trong sự cưu mang này. Đức Maria trở nên người diễm phúc là nhờ sự chuẩn bị của Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần có thể làm cho con người tội nhân của Eva cũ, xuất hiện một Eva mới vô tì tích, trong trắng đẹp lòng trước mặt Thiên Chúa. Maria, công trình của Chúa Thánh Thần thực hiện cho nhân loại.
Maria, là người Mẹ truyền giáo đúng nghĩa nhất, bởi sự tinh tuyền của Mẹ, bởi Mẹ là kỳ công của Chúa Thánh Thần hoạt động trên trái đất này. Mẹ đã đón nhận Con Thiên Chúa cho thế gian và đưa Con Thiên Chúa vào trong thế gian và đó là Tin Mừng đúng nghĩa nhất cho trần thế. Từ nay, nhân loại nhận ra rằng: Sứ vụ truyền giáo là sứ vụ của người mang tin vui, tin cứu độ, tin được Thiên Chúa đoái thương. Đức Giêsu Con lòng Mẹ, một Người Con của nhân loại, một người Con của Thiên Chúa là nguồn ơn cứu độ, suối trào niềm vui cho nhân thế.
Người loan báo Tin Mừng là người được Chúa Thánh Thần tác động cách đặc biệt trên cuộc đời của họ. “Đức Maria lên đường vội vã” (Lc 1, 39). Sự vội vã của con người mang niềm vui khôn tả, thúc đẩy mau mắn lên đường, nhắc lại hình ảnh xưa Isaia đã tiên báo: “Đẹp thay trên núi đồi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị” ”. (Is 52, 7). Đức Maria mang trọn niềm vui Đấng Cứu Độ mà nhân loại đón đợi, không thể không vui và niềm vui chất ngất, thúc đẩy lên đường loan báo tin vui. Nếu trong lòng tôi và trong lòng bạn mang niềm vui ngập tràn như thế tôi và bạn cũng sẽ vội vã lên đường loan báo. Đức Maria trở nên người loan báo Tin Mừng đúng nghĩa bởi vì Mẹ mang trọn niềm vui Chúa Thánh Thần. Ai để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời của mình cũng là người mang trọn niềm vui loan báo.
Không chỉ là loan báo mà thôi, Đức Maria còn là người công bố Tin Mừng. Người công bố là người đã xác tín một cách chắc chắn về những gì Thiên Chúa đã làm cho mình. Đức Maria đã nghiệm thấy như thế trong cuộc đời của Mẹ: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn” (Lc 1, 49). Thấy được tình thương Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời mình, người loan báo sẽ đi xa hơn nữa để, công bố Tin Mừng Thiên Chúa đã làm cho mình. Sự công bố mang một niềm tin xác tín, đã gặp và đã thấy. Sứ vụ loan báo Tin Mừng hôm nay, cần chứng nghiệm nơi người loan báo Tin Mừng như thế, bởi vì người ta đang cần chứng nhân hơn thày dạy. Đức Maria nhận ra bàn tay Toàn Năng của Thiên Chúa thực hiện trong cuộc đời của Mẹ, nên Mẹ là người công bố sứ điệp chắc chắn về Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa cho nhân loại.
Niềm xác tín của Đức Maria mang một chiều kích rất riêng tư, nhờ Mẹ đã “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 3, 51). Cầu nguyện là chiêm ngắm những điều Thiên Chúa đã thực hiện nơi mình, là cuộc trao đổi, đối thoại giữa nhưng khó khăn, thử thách. Đức Maria trở thành người công bố Tin Mừng, bởi Mẹ đã chiêm ngắm công trình của Thiên Chúa thực hiện cho dân tộc, cho chính Mẹ. Sự chiêm ngắm, đối thoại dẫn đến một xác tín riêng tư chắc chắn để đi đến một công bố cho muôn người. Con đường cầu nguyện của Đức maria đã đi qua là con đường mời gọi những người truyền giáo hôm nay thực hiện.
Truyền giáo không là công cuộc cày xới những mảnh đất hoang, cũng không là công cuộc cải đạo cho những người khác niềm tin. Đối với Đức Maria truyền giáo có nghĩa là đem chính Đức Giêsu cho nhân loại. Đức Giêsu có là niềm vui cho bạn không? trước khi là niềm vui công bố cho người chung quanh bạn, trở lại niềm xác tín này chúng ta trở lại niềm xác tín của Đức Maria, khi Mẹ xác tín: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1, 46). Tràn ngập niềm hân hoan bởi Mẹ đã gặp thấy và cưu mang chính niềm vui của Đức Giêsu trong lòng Mẹ. Đức Maria không mang niềm vui nào khác ngoài niềm vui: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 47). Niềm vui của Thiên Chúa trong ngày Thiên Chúa đoái thương, ngày nào không là ngày Thiên Chúa đoái thương, nhưng đôi lúc chúng ta lại quên mất cảm nghiệm thực sự điều này, để rồi sứ vụ truyền giáo của mỗi thành viên chúng ta cứ hoài dang dở. Đức Maria đã mang chính Đức Giêsu, quà tặng tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa, nguồn ơn cứu rỗi duy nhất, công bố, trao tặng cho nhân loại.
Dù là người loan báo, dù là người công bố Tin Mừng đi chăng nữa, Đức Maria luôn đặt mình dưới sự bảo trợ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Không thể tách rời Đức Maria khỏi hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đức Maria là công trình tuyệt hảo của Chúa Thánh Thần. Dù Đức Maria có được như thế nào chăng nữa, Mẹ cũng luôn đặt mình trong tâm khảm của người: “phận nữ tỳ hèn mọn, Người đã đoái thương nhìn tới” (Lc 1, 48). Người truyền giáo cũng thế, không thể tách rời Chúa Thánh Thần với hoạt động của mình được. Ai có thể chinh phục sự sâu thẳm của lòng người quy hướng về Thiên Chúa, nếu đó không phải là tác động của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần mời gọi con người theo nhiều nẻo đường khác nhau, để quy tụ cho Thiên Chúa một Dân được hiến thánh. Chúng ta là những dụng cụ Thiên Chúa dùng, và hãy đặt cuộc đời mình vào bàn tay của Thiên Chúa.
Không có công trình nào là thua mất cả với ánh mắt nhìn đức tin của Đức Maria, đôi khi gặp những người cứng cỏi quá sức, hãy phó dâng cho Thiên Chúa, như người gieo giống chỉ biết chờ đợi cho hạt giống nảy mầm. Đức Maria đã thấy nghiệm điều này trong cuộc đời của Mẹ: “Chúa biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng” (Lc 1, 51). Chúng ta cần biết chờ đợi điều Thiên Chúa sẽ cho mọc lên, sự chờ đợi là một bài học cuối kết thúc cho sứ vụ truyền giáo chúng ta học nơi Đức Maria.
Kính dâng Mẹ những suy nghĩ này, bởi hơn ai hết Mẹ là vị Thày tốt nhất dạy chúng con sống sứ vụ truyền giáo.
36. Thầy Ở Cùng Anh Em.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Truyền giáo là một mệnh lệnh và cũng là một ước mơ của Chúa Phục Sinh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.”
Ngài đòi ta phải ra đi loan báo Tin Mừng, nhưng cuối cùng là phải giúp người khác trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, nghĩa là có tương quan thân thiết với Ngài, dám sống như Ngài, sống cho Cha và con người.
Đấng Phục Sinh nắm quyền trên cả thế giới, nên Ngài sai chúng ta đến với mọi dân tộc. Tin Mừng không còn bị giới hạn trong mảnh đất Israel, nhưng lan rộng khắp trái đất (x. Mt 10,5). Ngày nào còn một người chưa trở thành môn đệ, ngày ấy trách nhiệm chúng ta vẫn còn.
“Bằng cách làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Phép Rửa khiến người ta trở thành môn đệ Đức Kitô, và đi vào tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa.
“Bằng cách dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em”, như thế các môn đệ thuộc bất cứ thời đại nào đều có một điểm chung, đó là cùng tuân giữ toàn bộ giáo huấn của Chúa.
“Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” Đây không phải là một lời hứa cho tương lai, nhưng là một điều đang xảy ra trong hiện tại. Chúa Giêsu thật là Emmanuel (Mt 1,23), Ngài ở cùng Giáo Hội, ở cùng các môn đệ, Ngài ở bên họ trong mọi bước đường rao giảng (Mc 16,20).
Khi nhìn đến quê hương Việt Nam, chúng ta thấy hơn 70 triệu người chưa biết Chúa. Chúng ta có trách nhiệm loan báo Tin Mừng, có bổn phận nói về Chúa cho họ, nói bằng lời và nói bằng cuộc sống cụ thể. Làm sao qua cuộc sống của tôi: yêu thương, tha thứ, hy sinh phục vụ, bình an vui tươi, người ta gặp được Đấng Vô Hình mà gần gũi? Làm sao tôi có thể trả lời được những câu hỏi, soi sáng được những vấn đề nhức nhối của họ bằng ánh sáng Tin Mừng?
Truyền giáo không phải là tuyên truyền hay mua chuộc, cũng không phải là áp đặt một cách tinh vi, Truyền giáo là hát lên niềm vui chất chứa nơi lòng mình, là tỏa hương tự nhiên như đoá hoa. Truyền giáo là hơi thở của một Giáo Hội đầy sức sống Thánh Thần.
Chúng ta phải biếu Chúa Giêsu cho con người hôm nay. Nhưng trước hết chúng ta phải có Chúa Giêsu, và phải biết lắng nghe con người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, tại sao ít người Việt Nam theo đạo Công Giáo? Có gì cần sửa đổi để người khác dễ chấp nhận đạo chúng ta hơn không?
Cha Đắc Lộ đã đi truyền giáo ở Việt Nam và đã đóng góp nhiều cho việc hình thành chữ Quốc Ngữ. Theo bạn, người Công Giáo Việt Nam hôm nay có thể làm được điều gì cho quê hương Cha Đắc Lộ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Chúa đã muốn trở nên con của loài người, con của trái đất, con của một dân tộc. Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa dù họ từ khước Tin Mừng và đóng đinh Chúa vào thập giá. Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương, một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu sau những năm dài chiến tranh, một quê hương đang mở ra trước thế giới nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên trong sự an toàn và tiện nghi vật chất, nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau, và làm một điều gì đó thật cụ thể cho những đồng bào quanh chúng con. Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước bằng khối óc, quả tim và đôi tay. Và ước gì chúng con biết khiêm tốn cộng tác với muôn người thiện chí.
37. Truyền giáo.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Ấn Độ hồi tháng 11.1999. Cao điểm của chuyến viếng thăm này là nghi thức công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu. Tông Huấn này là một đúc kết kết quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Á Châu nhóm họp tại Rôma hồi tháng 4.1999. Việc chọn Ấn Độ làm nơi công bố Tông Huấn mang một ý nghĩa đặc biệt. Những nơi mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong mỏi đến viếng thăm nhất hẳn phải là Đài Loan, Hồng Kông, Trung Hoa Lục Địa và đặc biệt là Việt Nam. Thế nhưng, cho đến nay người ta vẫn cứ nại đến lý do chính trị và quan hệ ngoại giao để không cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Giáo Hội ở phần đất này. Dĩ nhiên đằng sau những lý do chính trị và quan hệ ngoại giao ấy, ai cũng thấy rõ chủ trương bài trừ tôn giáo và nhất là chống lại Giáo Hội. Tựu trung linh hồn của bất cứ một chế độ độc tài ý thức hệ nào cũng là tinh thần bất khoan nhượng. Người dân không những bị cưỡng bách phải tuyên xưng ý thức hệ của chế độ mà còn bị kỳ thị loại trừ và bách hại về niềm tin tôn giáo của mình.
Tuy là một quốc gia có nền dân chủ lớn nhất thế giới hiện nay, Ấn Độ đang bị xâu xé vì tinh thần bất khoan nhượng. Tại một quốc gia với một tỷ dân này, liên minh cầm quyền gồm những người theo chủ nghĩa Ấn Giáo, trong đó có một số thành phần cực đoan lại tái cử thêm nhiệm kỳ nữa, tinh thần bất khoan nhượng ngày càng gia tăng tại Ấn Độ. Trong những năm gần đây, người ta ước tính là đã có gần 150 vụ tấn công nhắm vào nhân sự và các cơ sở của Kitô Giáo, nhiều vị mục sư và linh mục bị sát hại, nhiều nữ tu bị bạo hành, nhiều nhà thờ bị đốt phá.
Một nhóm Ấn Giáo cực đoan đã tổ chức cuộc biểu tình phản đối nhân dịp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Ii viếng thăm Ấn Độ. Họ đòi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lên án các cuộc trở lại Công Giáo cũng như xin lỗi người Ấn Độ về những phương pháp truyền giáo cho người Ấn trong quá khứ. Chính trong bầu khí đầy bất khoan nhượng ấy mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm Ấn Độ, đúng hơn chính bầu khí bất khoan nhượng ấy đã khiến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chọn Ấn Độ làm nơi để công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu.
Trong bầu khí đó chúng ta thấy rằng, sứ điệp mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ với các tín hữu Kitô tại Ấn Độ và toàn thể Á Châu, cũng như với tất cả mọi người Ấn Độ là sứ điệp về lòng khoan nhượng. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trưng dẫn cuộc cách mạng bất bạo động vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại do Mahatma Gandhi chủ xướng, Ngài cũng nói đến tấm lòng khoan dung độ lượng của biết bao nhiêu nhà hiền triết Ấn Độ.
Quả thật, tôn giáo nào cũng tốt trong một mức độ nào đó, câu nói này nói lên tinh thần khoan nhượng vốn là yếu tính của tất cả mọi tôn giáo. Thật thế, tôn giáo nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành; tôn giáo nào cũng lên án ích kỷ, bạo động, hận thù và tinh thần bất khoan nhượng.
Trong tuyển tập có tựa đề “Con Đường Đơn Sơ” của Mẹ Têrêsa Calcutta, vị Sáng Lập Dòng Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái đã viết như sau: “Chỉ có một Thiên Chúa và Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Do đó, cần phải nhận ra mọi người bình đẳng trước mặt Chúa. Tôi vẫn luôn luôn nói rằng, chúng ta phải giúp cho một người Ấn Giáo trở thành người Ấn Giáo tốt hơn; một người Hồi Giáo được trở thành một người Hồi Giáo tốt hơn và một người Công Giáo trở thành một người Công Giáo tốt hơn.” Lễ quốc táng mà chính phủ Ấn Độ đã dành cho Mẹ cách đây 4 năm chứng tỏ rằng, sứ điệp mà Mẹ mang đến cho dân tộc này đã được mọi người đón nhận. Sứ điệp ấy không chỉ được Mẹ Têrêsa nói lên bằng những lời nói suông mà còn bằng cả cuộc sống của Mẹ nữa.
Hôm nay là ngày thế giới truyền giáo, chúng ta hiệp nhau cầu nguyện cho công việc truyền giáo của Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện cách đặc biệt cho các nhà thừa sai trên cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội. Chúng ta tuyên xưng rằng, Chúa Giêsu Kitô là Đấng duy nhất cứu rỗi nhân loại, nhưng quan trọng hơn cả là chúng ta được Giáo Hội mời gọi mỗi người ý thức về sứ mệnh truyền giáo của mình, nhất là hiểu được ý nghĩa đích thực của việc truyền giáo trong thế giới hôm nay.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo: “Đó là một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Têrêsa không những chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêsa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu.
Truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương. Đây chính là cốt lõi mà Chúa Giêsu cô đọng trong giới răn mến Chúa và yêu người được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay. Trong xã hội mà Kitô giáo chỉ là thiểu số thì truyền giáo đối với Kitô hữu hiện nay là quyết tâm sống như thế nào để cho mọi người nhận biết Chúa Giêsu là Đấng đã đến chỉ để rao giảng một thứ đạo, đó là đạo của tình thương. Trong một chế độ chối bỏ những quyền tự do cơ bản nhất của con người, thì truyền giáo đối với các tín hữu Kitô hiện nay chính là biểu lộ được bộ mặt đích thực của Đạo là yêu thương và khoan nhượng.
38. Chứng tá.
Truyền giáo là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu. Đây là điều công đồng Vaticanô II nhắc đi nhắc lại nhiều lần: việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận chính yếu. Bổn phận căn bản của Giáo hội và mỗi Kitô hữu. Công đồng đã làm nổi bật vấn đề truyền giáo và đã định nghĩa Giáo hội là Giáo hội truyền giáo và coi việc truyền giáo là nghĩa vụ tông đồ của mỗi Kitô hữu. Theo công đồng, không một tín hữu nào đáng gọi là tín hữu mà có thể khước từ nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không thể là một việc tùy sở thích, nhưng mỗi tín hữu phải coi đây là vấn đề sống đạo, vấn đề sinh tồn của Giáo hội và là trách nhiệm của chính mình.
Đối với người giáo dân, qua sắc lệnh về tông đồ giáo dân. Công đồng còn cho thấy vai trò quan trọng của người giáo dân trong việc truyền giáo, vai trò là men, là muối, là ánh sáng, là chứng nhân giữa đời. Bởi vì giáo sĩ không thể sống chân bùn tay lấm nơi đồng ruộng với những nông dân; giáo sĩ không thể gồng gánh theo chân những người buôn bán đi vào đầu đường xó chợ; giáo sĩ không thể đầu tắt mặt tối làm việc trong những cơ xưởng, nhà máy, công trường… nhưng chính những giáo dân nhà nông, những giáo dân buôn bán, những giáo dân công nhân, có nhiệm vụ đem Chúa đến cho anh em mình nơi đồng ruộng, chợ búa, xí nghiệp, nhà máy, nghĩa là những nơi mà giáo sĩ không thể có mặt và không thể đi đến, thì giáo dân sẽ đóng vai trò chủ chốt và chủ động. Bởi đó, không những giáo dân đóng vai trò yểm trợ cho giáo sĩ mà còn đóng vai trò chính yếu, thay thế cho giáo sĩ trong những nơi hay những hoàn cảnh đó.
Như vậy cách truyền giáo tốt nhất và có hiệu quả nhất là đời sống gương mẫu, đời sống Công giáo đích thực, nhất là đời sống thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những bạn tốt, những công nhân gương mẫu trong nhà máy, những công nhân gương mẫu ngoài công trường. Tóm lại, chúng ta hãy nắm lấy những cơ hội đi lại đây đó, khi thi hành công tác, khi làm ăn sản xuất, khi xê dịch thăm viếng… để nói hay làm chứng về Chúa qua lời nói, thái độ và cách đối xử đầy tình yêu thương của chúng ta.
Mẹ Têrêxa Cancutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo như sau: đó là “một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêxa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu, truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương.
Có người đã kể lại lý do và động lực thúc đẩy ông theo đạo như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đưa tôi vào bệnh viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và tận tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”. Chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu không biết Chúa, bây giờ được biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy. Giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy gương sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, vì họ có đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu lộ tình thương với họ hay với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo Chúa, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những người bạn tốt của nhau.
Trong thư mục vụ năm 2003 của các Giám mục Việt Nam, số 10 cũng nói đến cách truyền giáo này: cầu nguyện cho việc truyền giáo là việc quan trọng hàng đầu, việc truyền giáo phải đặt nền tảng trên lời cầu nguyện: cá nhân, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ. Trước khi rao giảng bằng lời nói, hãy rao giảng bằng đời sống, chúng ta hãy nêu gương về đời sống hiệp nhất yêu thương, không có lời rao giảng nào có sức thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình, xóm làng, trong giáo xứ, trong giáo phận, như lời Chúa phán: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy, ấy là nếu anh em thương yêu nhau”.
Tóm lại, ngày thế giới truyền giáo hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy luôn ý thức về sự quan trọng của việc truyền giáo và nhắc nhở chúng ta hãy góp phần mình vào công cuộc truyền giáo của Giáo hội bằng việc cầu nguyện và bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta.
39. Truyền giáo.
“Mỗi người ở ngoài Chúa là một cánh đồng truyền giáo, và mỗi người ở trong Chúa là một nhà truyền giáo”. Câu nói trên rất đúng và cũng rất hay.
“Mỗi người ở ngoài Chúa là một cánh đồng truyền giáo”. Điều đó rất đúng. Như vậy, cánh đồng truyền giáo vẫn còn bao la, mênh mông. Mặc dầu Tin Mừng đã được loan truyền và đạo Chúa đã được thiết lập cả hai ngàn năm rồi mà số đông vẫn chưa được nghe biết Tin Mừng, hay nói ngược lại, chưa được một phần ba nhân loại nhận biết Chúa Kitô. Với đà gia tăng dân số kinh khủng hiện nay, thì một ngày kia số ngày tin theo Chúa sẽ trở thành thiểu số đáng ngại.
Các nước được mệnh danh là “Công giáo” như Tây Ban Nha, Pháp, Ý… có tới 70-80 phần trăm dân số được rửa tội, nhưng được mấy chục phần trăm sống theo đức tin? Từ hơn nửa thế kỷ rồi, ngay giữa Âu Châu đã vang lên những lời cảnh tỉnh: “Nước Pháp, xứ truyền giáo”. Nước Pháp mà còn gọi là xứ truyền giáo thì nói gì đến những xứ truyền giáo chính hiệu như ở Á Châu, Phi Châu. Hai nước có dân số lớn nhất nhì thế giới là Trung Quốc và An độ, chỉ có không tới một phần trăm là Công giáo. Nếu đất nước chúng ta đã thấm nhiều máu tử đạo và đang có một cộng đồng Công giáo tương đối đông đảo, thì sát cạnh nước chúng ta, hai nước Lào và Campuchia kể như vẫn chưa được rao giảng Tin Mừng.
Ngay tại Việt Nam chúng ta, tính đến ngày 31-12-2004, số người Công giáo trên toàn quốc là 5.776.972 người trên tổng số dân cả nước là 82.032.300 người, chiếm tỷ lệ khoảng 7,04% dân số. Việt Nam vẫn còn là xứ truyền giáo, và việc truyền giáo vẫn luôn là vấn đề cấp bách. Chính vì sự cấp bách đó nên Giáo Hội luôn luôn cổ võ tinh thần truyền giáo, nhất là trong những văn kiện gần đây của Công đồng Vaticanô II cũng như của các Đức Giáo Hoàng. Cũng nhằm mục tiêu đó, mỗi năm Giáo Hội dành riêng một Chúa Nhật để cầu cho công cuộc truyền giảng Tin Mừng, kêu gọi các tín hữu cầu nguyện, hy sinh, đóng góp, đồng thời thúc giục mọi người tham gia vào công cuộc cao quý vĩ đại ấy.
Truyền giáo là bổn phận của mọi người và mỗi người, việc truyền giáo không của riêng ai, và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được, đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc, không ai có quyền trốn tránh và không ai có lý do nào tự miễn chuẩn cho mình hay tự bào chữa cho mình được. Từ một em bé đến một cụ già, từ một bệnh nhân đến một lực sĩ, từ một người buôn bán đi khắp đó đây đến một người nội trợ, từ một người bình dân đến một người trí thức… trong mỗi hoàn cảnh sinh sống, ai cũng phải truyền giáo, người nào cũng có thể tìm thấy cách thức truyền giáo thích hợp với khả năng của mình. Do đó, “Mỗi người ở trong Chúa là một nhà truyền giáo”, câu nói đó rất đúng, mỗi người chúng ta phải là một nhà truyền giáo.
Đành rằng không phải ai cũng có thời giờ hoặc khả năng làm công việc truyền giáo trực tiếp, nhưng tất cả mọi người đều có thể và phải thực hiện cách gián tiếp. Chẳng hạn, cầu nguyện cho việc truyền giáo; đóng góp vào việc truyền giáo bằng những hy sinh; bớt tiêu xài một chút trong gia đình hay cho cá nhân mình để đóng góp vào công cuộc truyền giáo, nhưng trên hết là truyền giáo bằng đời sống chứng nhân. Đây là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất: Truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta, một đời sống đạo đức chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người.
Cách đây ít năm, có một cuốn Phim Việt Nam gây được nhiều chú ý ở ngoại quốc là phim “Chuyện Tử tế” của đạo diễn Trần văn Thuỷ, phim được hãng truyền hình Pháp mua và trình chiếu trong chương trình có tên là Đại Dương. Sau khi xem cuốn phim này, một ký giả ngoại quốc đã hỏi đạo diễn Trần văn Thuỷ: “Những người Kitô Việt Nam có thể làm gì để truyền giáo cho dân tộc họ?” Nhà đạo diễn đã trả lời: “Với tôi, điều người ta mong đợi ở các Kitô-hữu là niềm tin của họ và họ phải sống điều họ tin”. Lời phát biểu trên đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một đất nước còn nhiều khó khăn, sống trong một dân tộc còn nhiều người chưa biết Chúa, sống trong một xã hội còn nhiều tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và sống niềm tin của mình là phải sống, phải tin thật tử tế, tức là tin và sống tình nhân loại, sống quảng đại, tóm lại là sống tình người. Tin và sống như thế không phải chỉ là cách sống dành cho các nữ tu, các linh mục mà cũng chính là sứ mạng và ơn gọi của mỗi Kitô hữu.
Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu không chỉ sai 12 tông đồ đi rao giảng nhưng Ngài sai tất cả 72 môn đệ. Điều này có nghĩa là việc rao giảng Tin Mừng không phải chỉ dành cho một số thành phần trong Giáo Hội: Giám mục, linh mục, tu sĩ, nhưng là bổn phận của mọi người và mỗi người. Điều đáng chú ý nữa là khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu không mấy chú trọng đến phương tiện. Phương tiện mà Chúa trao cho họ là đừng mang theo túi tiền, bao bị gì cả, phương tiện duy nhất và tiên quyết là đem lại bình an cho mọi người, là sống chia sẻ, sống trọn tình người với họ. Tóm lại là sống tử tế với mọi người.
Sống tử tế là sống vui tươi, sống lạc quan, sống biết điều, sống lịch sự, sống cảm thông, sống yêu thương với mọi người, sống như thế là chúng ta đang góp phần làm cho danh Chúa được cả sáng và nước Chúa được trị đến, tức là chúng ta đang truyền giáo vậy.
40. Đời sống chứng nhân.
Hôm nay, ngày thế giới truyền giáo. Chúng ta cùng tìm hiểu xem: Truyền giáo là gì? Chúng ta phải truyền giáo thế nào?
Trước hết, truyền giáo là gì? Truyền là tuyền bá, truyền thông, chuyển giao, rao giảng, loan truyền… Giáo là giáo lý, đạo giáo, Tin Mừng, Phúc âm… Truyền giáo là truyền bá đạo, là rao giảng Phúc âm, là loan truyền chân lý của Chúa cho người khác. Đó là ý nghĩa thứ nhất, nghĩa hẹp, nghĩa chặt và chính xác. Đàng khác, truyền giáo còn có nghĩa là lập những cộng đoàn Kitô hữu trong đức tin, trong phụng tự Thánh Thể, bác ái như Giáo hội mong muốn. Nói khác đi, truyền giáo là “trồng” Giáo hội vào các dân tộc, các địa phương, cho đến khi những người trong địa phương ấy trở nên tín hữu, thành một đoàn chiên. Theo ý nghĩa này, truyền giáo không phải chỉ là truyền bá một số giáo lý, nhưng là truyền thông sự sống của Chúa cho anh em khác, vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống, đạo Chúa là đạo sự sống, là nguồn sống, có khả năng thay đổi, biến cải những con người từ không có Chúa trở thành có Chúa, từ mất Chúa trở thành tìm lại được Chúa. Truyền giáo theo nghĩa này là truyền sự sống của Chúa Kitô mà chúng ta đã có sang cho anh em mình, như thân cây nho chuyển nhựa sống sang cho cành nho. Sau hết, truyền giáo còn có một nghĩa nữa là củng cố, tăng cường, huấn luyện đức tin cho một cộng đoàn, cho các tín hữu, để họ lại ra đi truyền giáo cho những người khác.
Những ý nghĩa trên đây cho thấy hai chiều của việc truyền giáo: chiều rộng và chiều sâu. Nếu làm cho những người chưa biết Chúa hoặc những người biết mà đã bỏ Chúa, được nhận biết và yêu mến Chúa. Đó là truyền giáo theo chiều rộng, là mở rộng nước Chúa và làm tăng thêm số người thờ phượng Chúa. Còn nếu làm cho những người đã biết và yêu mến Chúa được hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, để rồi họ lại tiếp tục làm những công việc ấy nơi những người khác. Đó là truyền giáo theo chiều sâu, vì làm cho nước Chúa được vững chắc hơn và làm tăng thêm số người Công giáo sốt sắng, đạo đức.
Việc phân biệt ý nghĩa như trên đây rất quan trọng để chúng ta hiểu rõ hơn việc truyền giáo, vì truyền giáo không phải chỉ có nghĩa là làm cho những người ngoại, những người lương, những người chưa biết được biết và yêu mên Chúa, nhưng còn có nghĩa là truyền giáo cho cả những người Công giáo sống trong một họ, một xứ với chúng ta nữa. Chúng ta phải sống một đời đạo đức, sốt sắng, thánh thiện để làm gương tốt cho họ, để giúp cho họ thêm lòng yêu mến và tôn kính Chúa.
Đó là ý nghĩa của việc truyền giáo. Và như vậy tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không của riêng ai và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được. Nhưng đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc. Mỗi người chúng ta phải coi đây là vấn đề sống đạo, là vấn đề sinh tồn của Giáo Hội và là trách nhiệm của chính mình.
Vậy chúng ta phải truyền giáo thế nào? Có rất nhiều cách. Chúng ta muốn dùng cách nào cũng được, nhưng nhất thiết phải thi hành hai cách này là cầu nguyện và đời sống chứng nhân: Cầu nguyện cho việc truyền giáo là cách thức rất quan trọng: cầu nguyện cho những người đi truyền giáo, cầu nguyện cho mọi người mở rộng lòng sẵn sàng đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa. Cụ thể như thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cả đời không đi đâu truyền giáo, chỉ ở trong bốn bức tường dòng kín cầu nguyện cho việc truyền giáo. Thế mà Giáo Hội đã tôn phong ngài là quan thầy các nơi truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê. Xin anh chị em hãy suy nghĩ: Chúng ta có thường xuyên thi hành việc này không? Chúng ta có cầu nguyện cho việc truyền giáo không? Nếu không thì đó là tội thiếu sót, bỏ việc phải làm. Thứ hai là truyền giáo bằng chính đời sống chứng nhân của mình: Đây là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất, đó là truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa, cho đạo không?
41. Khiêm nhường trong truyền giáo.
(Suy niệm của ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần)
Người truyền giáo tốt có thể là người không hiểu biết nhiều và sâu sắc về Chúa, nhưng nhất định phải là người có sự sống của Chúa trong mình.
Tôi vẫn nghĩ như vậy. Và tôi có kinh nghiệm như thế.
Người ta không nhìn thấy Chúa trong họ. Nhưng người ta có thể cảm được phần nào sự hiện diện của Chúa trong họ qua một số dấu chỉ. Một trong những dấu chỉ dễ thấy nhưng lại chắc chắn, đó là sự khiêm nhường.
Trước khi khiêm nhường được nâng lên hàng nhân đức siêu nhiên, nó đã là một đức tính nhân bản.
Ngay trên lãnh vực nhân bản, khiêm nhường vẫn được coi là một giá trị cao quí. Văn hoá Việt Nam vốn ca ngợi người khiêm tốn. Lễ giáo Việt Nam vốn đề cao đức khiêm nhường, coi khiêm nhường như một yếu tố của đạo làm người.
Trong xử thế, khiêm nhường là chià khoá mở lòng người ta, gây nên thiện cảm. Nhờ thiện cảm, người ta dễ chấp nhận ta, và dễ nghe ta.
Trái lại, kiêu căng dễ gây nên ác cảm. Khi ác cảm đã chớm nở, thì lý luận dù đanh thép đến đâu, chứng từ dù rõ ràng đến mấy, người ta cũng không muốn đón nhận ta và những gì ta trình bày, kể cả khi ta trình bày Tin Mừng cứu độ.
Cái kiêu căng dễ xúc phạm đến người khác nhất, chính là sự tự đắc cho mình là đúng, là đẹp, là đáng kính trọng; còn người khác thì bị coi là sai, là xấu, là phải loại trừ. Nhất là trong việc phê phán tôn giáo, tín ngưỡng và những lựa chọn liên quan.
Người tự tôn, hay khinh miệt người khác rất dễ rơi vào những sai lầm trầm trọng và sự mù quáng thê thảm. Hơn nữa, họ có thể làm cho chính mình lâm vào tình trạng điên rồ. Để rồi, sẽ làm sụp đổ mọi sự nghiệp đạo đức của mình chỉ trong giây phút. Thảm thương nhất là kẻ kiêu căng cứng lòng sẽ vô tình mở rộng cửa lòng mình, rước quỷ Satan là thần kiêu ngạo vào ngự trị trong đó, để rồi lập liên minh với các hình thức kiêu căng khác, chống lại Nước Thiên Chúa.
Đọc Phúc Âm, tôi thấy Chúa Giêsu nhắc bảo chúng ta phải hết sức tránh mọi hình thức kiêu căng như:
Đừng thích tìm địa vị cao trước công chúng, như trong đám tiệc (Lc 14,7).
Đừng giả hình đạo đức bằng cái vỏ bề ngoài, còn bên trong thì dơ bẩn (Mt 23,5-25).
Đừng căn cứ vào mấy việc đạo đức của mình, để khinh chê người khác (Lc 18,9-14).
Đang khi đó, Kinh Thánh rất khen người khiêm nhường. Đến mức Chúa Giêsu coi họ là những người được Chúa Cha mạc khải cho biết nhiều điều cao siêu, mà Người không cho những người khôn ngoan và thông thái biết (Lc 10,21). Chính bản thân Chúa Giêsu cũng rất khiêm nhường. Ngài nói: “Hãy học với Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Hơn nữa, suốt cuộc đời, từ khi sinh ra trong hang đá cho đến lúc chết trên thánh giá, Chúa Giêsu luôn làm chứng Đấng cứu thế không phải là một quyền lực, nhưng là tình yêu xót thương phục vụ khiêm nhường.
Do đó, sự khiêm nhường của người truyền giáo không phải chỉ là một đức tính nhân bản, mà còn phải là một nhân đức được chia sẻ từ sự khiêm nhường của Đức Kitô. Đức Kitô truyền sang cho họ sự khiêm tốn của Người, để nhờ đó, họ sẽ luôn nhận được thêm chân lý và sự sống cứu độ của Người.
Chính ở điểm này, mà đến lượt mình, chính người truyền giáo cũng là người cần được Chúa Giêsu thường xuyên truyền giáo cho. Và đây chính là một kinh nghiệm quí báu họ có được về người được truyền giáo.
Kinh nghiệm cho thấy người được truyền giáo rất cần có lòng khiêm tốn.
Thuở xưa, các thầy thượng tế, các kỳ lão, các kinh sư, các biệt phái đã nghe tận tai chính Chúa Giêsu giảng, đã xem tận mắt những phép lạ Chúa Giêsu làm. Nhưng không mấy người trong họ đã tin. Hơn nữa, càng nghe thấy và càng nhìn thấy Chúa Giêsu, họ càng đâm ghét. Sau cùng họ đã giết Người.
Sở dĩ Tin Mừng đã không vào lòng họ được, chính là vì sự kiêu căng tự đắc đã khoá chặt lòng họ.
Thời nay cũng thế. Những người đơn sơ, khiêm tốn dễ đón nhận được những cái mới mẻ của Tin Mừng hơn những người tự phụ kiêu căng.
Vì thế, tôi nghĩ rằng: Người truyền giáo cần phải khiêm nhường. Người được truyền giáo cũng cần khiêm nhường.
Để có đức khiêm nhường, chúng ta không thể coi thường việc tập luyện mình về nhiều mặt. Một người không được uốn nắn tập luyện kỹ lưỡng về đức khiêm nhường sẽ dễ trở nên hư hỏng: Hư hỏng do những thất bại và do cả những thành công, do những thực tế cuộc đời và cả do những ước mơ và ảo tưởng của mình, nhất là do sự cố chấp tôn thờ cái tôi và làm nô lệ cho ý riêng mình.
Không những chúng ta cần tập luyện để nên khiêm nhường, mà cũng cần cầu nguyện khẩn xin Chúa ban ơn khiêm nhường.
Ơn khiêm nhường, mà Chúa ban cho kẻ cậy trông nài van Chúa, sẽ đặt ta dưới cái nhìn thánh thiện của Chúa. Nhờ đó ta sẽ nhận ra Chúa nơi người khác và ta là kẻ tội lỗi, bất xứng, mọi sự Chúa ban cho ta đều do tình xót thương nhưng không của Chúa. Càng được ơn khiêm nhường, ta càng hiểu thấm thiá lời thánh Giacôbê: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Gc 4,6). Và chúng ta cũng sẽ càng thấy rõ thói quen tìm đắc thắng, phô trương, trịch thượng, bất bao dung trong truyền giáo không những đang trở nên quá lỗi thời, mà còn gây nhiều thiệt hại cho Hội Thánh. Bởi vì đó là những điều rất trái nghịch với thánh ý Chúa.
Một điều lợi nữa, mà ơn khiêm nhường hôm nay sẽ đem lại cho ta, đó là nó giúp ta biết kiểm điểm lại bổn phận đón nhận Tin Mừng và bổn phận loan báo Tin Mừng. Ai trong chúng ta cũng có hai bổn phận đó.
Trong hoàn cảnh cụ thể ta đang sống, Chúa vẫn gửi cho ta vô số Tin Mừng mới mẻ. Ta đã đón nhận thế nào?
Trong địa vị cụ thể của ta và với những phương tiện cụ thể của ta, ai trong chúng ta cũng vẫn có thể góp phần không nhỏ vào việc loan báo phần không nhỏ vào việc loan báo Tin Mừng, hoặc bằng cách này, hoặc bằng cách khác. Ta đã thực hiện bổn phận đó thế nào?
Nếu khiêm tốn biết mình, khiêm tốn ăn năn, khiêm tốn sửa mình về bổn phận truyền giáo, chúng ta sẽ có một lương tâm truyền giáo đổi mới. Để từ nay, ta biết nhận lãnh, biết sinh lời và biết chia sẻ Tin Mừng cho những người gần xa, mà ta có thể gặp.
Nếu ta ý thức được như vậy và cố gắng làm như vậy, thì đời ta sẽ mang ý nghĩa cao đẹp, đi theo đúng hướng về với Cha trên trời.
42. Linh đạo truyền giáo
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Đức Khiết)
Hoạt động truyền giáo đòi hỏi một linh đạo đặc biệt. Linh đạo này liên hệ đặc biệt tới những người được Thiên Chúa mời gọi để trở thành những nhà truyền giáo. Đức Phaolô VI phác họa linh đạo truyền giáo trong chương VII của Tông Huấn Loan báo Tin Mừng. Đức Gioan-Phaolô II trực tiếp đề cập tới linh đạo này trong chương VIII của Thông Điệp Sứ vụ Đấng Cứu Thế. Ngài cũng nhắc đến nhiều lần trong Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu và mới đây trong hai Tông Thư Bước vào ngàn năm mới và Kinh Mân côi của Đức Trinh Nữ Maria. Chúng ta chia sẻ với nhau linh đạo này.
1. Để cho Chúa Thánh Thần hướng dẩn
Chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu để “chèo ra chỗ sâu” (Duc in altum) là chủ đề của Tông Thư Bước vào ngàn năm mới (Novo Millennio inuente). Chiêm ngắm Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra chân lý này: Ngài đã là sứ giả Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất, là sứ giả Tin mừng đã để cho Thần Khí hướng dẫn. Thần Khí đã xuống trên Đức Giêsu Nadarét vào lúc Ngài chịu thanh tẩy và được Chúa Cha giới thiệu là Con Chí Aùi của Người (x. Mt 3, 17). Chính vì “được Thần Khí dẫn đưa” (Mt 4, 1), mà Ngài đã trải qua trong sa mạc cuộc chiến đấu quyết liệt và một cuộc thử thách lớn lao nhất trước khi bắt đầu sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Chính “với quyền năng của Thánh Thần” (Lc 4, 14) mà Ngài đã trở về Galilê và mở đầu tại Nadarét công cuộc rao giảng, khi áp dụng đoạn sách tiên tri Isaia cho chính mình: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi”. Ngài công bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh này”(Lc 4, 18.21: x. Is 61, 1). Nhờ quyền năng của Thần Khí, Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân và xua đuổi ma quỷ, như một dấu chỉ Nước Thiên Chúa đã đến (x. Mt 12, 28). Vào buổi chiều Phục Sinh, Ngài thổi hơi trên các môn đệ sắp được phái đi mà nói với họ: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”(Ga 20, 22).
Từ việc chiêm ngắm Đức Giêsu, sứ giả Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất đã để cho Thần Khí hướng dẫn, ta thấy linh đạo truyền giáo được thể hiện trước hết qua việc nhà truyền giáo để cho con người của mình trở nên hoàn toàn dể dạy đối với Chúa Thánh Thần, một sự dễ dạy để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn con người bên trong càng ngày càng nên giống Chúa Kitô. Không thể rao giảng và làm chứng về Chúa Kitô cũng như Tin Mừng của Ngài nếu bản thân nhà truyền giáo không phản ánh gương mặt Chúa Kitô. Gương mặt Chúa Kitô sẽ trở nên sống động trong chúng ta nhờ ân sủng và hoạt động của Thánh Thần
Ngoài ra, sự dễ dạy đối với Thánh Thần còn làm cho chúng ta đón nhận được những ân huệ khác của Ngài, đặc biệt là ơn can đảm và biện biệt. Hai ân huệ này là những nét cốt yếu của linh đạo truyền giáo.
Trường hợp của các tông đồ là một điển hình: trong sứ vụ công khai của Đức Giêsu, dù đã yêu Chúa nồng nàn với một tấm lòng quảng đại, dù đã được Chúa huấn luyện trong nhiều năm, các tông đồ vẫn tỏ ra là những con người tối trí và chậm hiểu. Nhiều lần Chúa giảng dạy mà các ngài chẳng hiểu gì hết, nhất là khiếp sợ theo Chúa trên đường khổ nạn. Biến cố thập giá chiều thứ sáu tuần thánh đã làm tiêu tan niềm tin và hy vọng của các ngài vào Đức Giêsu. Chúa Thánh Thần đã biến đổi các tông đồ trở nên những chứng nhân can đảm cho Đức Giêsu và những người loan báo cách rõ ràng lời Ngài. Chính Thánh Thần đã hướng dẫn các ngài trên những nẻo đường gian khổ và mới mẻ của sứ mạng truyền giáo.
Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh về vai trò của Chúa Thánh Thần trong công cuộc loan báo Tin Mừng khi đọc lại những ngày đầu của Giáo Hội sơ khai:
“Sẽ không bao giờ có thể phúc-âm-hóa được nếu không có tác động của Chúa Thánh Thần…
[…] Thật ra, chỉ sau khi Chúa Thánh Thần đến, ngày Hiện Xuống, các tông đồ mới lên đường đi đến khắp các chân trời trên thế giới để khởi sự công cuộc phúc âm hoá của Giáo Hội, và thánh Phêrô giải thích biến cố như đã thực hiện của lời tiên tri Giôel: “Ta sẽ đổ Thần Khí Ta” (Cv 2, 17). Thánh Phêrô được đầy Thánh Thần để nói với dân chúng về Đức Giêsu Con Thiên Chúa (x. Cv 4, 8). Thánh Phaolô, cũng thế, “được đầy Thánh Thần” (Cv 9, 17) trước khi hiến thân cho sứ mệnh tông đồ; thánh Stêphanô cũng vậy, khi được chọn để làm phó tế và sau đó đã đổ máu làm chứng (x. Cv 6, 5.10; 7, 55). Thần Khí khiến Phêrô, Phaolô hay nhóm Mười Hai lên tiếng và soi sáng cho họ những lời lẽ phải nói, thì cũng ngự xuống “trên tất cả những người đang nghe Lời Thiên Chúa (x. Cv 10, 44). Chính nhờ Chúa Thánh Thần nâng đỡ mà Giáo Hội tăng tiến (x. Cv 9, 31). Ngài là linh hồn của Giáo Hội này. Chính Ngài giải thích cho tín hữu hiểu ý nghĩa thâm sâu của lời Đức Giêsu giảng dạy và mầu nhiệm con người của Đức Giêsu. Ngày nay cũng như vào buổi đầu của Giáo Hội, Ngài là Đấng hoạt động trong mỗi sứ giả Tin Mừng, nếu họ chịu thuộc về Ngài và để Ngài hướng dẫn mình, Ngài đặt nơi môi miệng họ những lời mà một mình họ không thể tìm ra được, và đồng thời chuẩn bị cho tâm hồn người nghe biết cởi mở đón nhận Tin Mừng và Triều Đại được loan báo.
Có những kỹ thuật phúc-âm-hóa là điều tốt, nhưng những kỹ thuật hoàn hảo nhất vẫn không làm sao thay thế được tác động âm thầm của Thần Khí. Không có Ngài thì sứ giả Tin Mừng có sửa soạn hết sức tinh tế cũng chẳng làm được gì cả. Không có Ngài thì biện luận thuyết phục nhất cũng không ảnh hưởng gì được trên trí tuệ con người. Không có Ngài, những lược đồ xã hội học và tâm lý học được soạn thảo kỹ lưỡng nhất cũng chóng tỏ ra vô giá trị.
Chúng ta đang sống trong Giáo Hội những giờ phút đặc biệt của Thần Khí. Đâu đâu người ta cũng tìm biết Ngài hơn, đúng như Thánh Kinh mạc khải. Người ta sung sướng tự đặt dưới quyền lực Ngài. Người ta họp nhau quanh Ngài. Người ta muốn để Ngài hướng dẫn mình.
Vậy, nếu Thần Khí Thiên Chúa có một vị trí ưu việt trong toàn thể đời sống Giáo Hội, thì chính trong sứ mệnh phúc-âm-hóa của Giáo Hội là chỗ Ngài hoạt động hơn cả. Không phải tình cờ mà cuộc khởi đầu vĩ đại đi phúc-âm-hóa đã xảy ra vào sáng ngày Hiện Xuống, dưới hơi thổi của Thần Khí”.
Như vậy, chúng ta có thể nói rằng Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của hoạt động truyền giáo của Giáo Hội, là tác giả đầu tiên của việc đối thoại giữa Giáo Hội và tất cả các dân tộc, văn hoá và tôn giáo. Chính Ngài thúc đẩy mỗi người loan báo Tin Mừng, chính Ngài, từ chiều sâu ý thức, làm cho người ta đón nhận và hiểu Lời cứu độ., và chính Ngài liên tục gieo những hạt giống chân lý giữa các dân tộc, tôn giáo, văn hoá và triết học của họ. Nhờ Chúa Thánh Thần, vị Thầy Nội Tâm, gương mặt và giáo huấn của Chúa Kitô sẽ tỏ hiện lên trong lòng người đón nhận và đặc biệt hơn trong chính cuộc đời và bản thân của nhà truyền giáo.
Ngày nay cũng như ngày xưa, công cuộc truyền giáo vẩn có nhiều khó khăn và phức tạp. Ngày nay cũng như ngày xưa, nó đòi hỏi lòng can đảm và ánh sáng của Thánh Thần. Chúng ta vẫn thường đang sống trong thảm kịch của các Kitô hữu tiên khởi khi họ thấy đám đông bất tín và thù nghịch “đang rập mưu đồ chống lại Đức Chúa và chống lại Đấng Người đã được xức dầu phong vương” (Cv 4, 26). Cũng như ngày xưa, chúng ta phải cầu nguyện để Thiên Chúa ban cho chúng ta lòng can đảm loan báo Tin Mừng, để bước đi trên những nẻo đường huyền nhiệm đầy bất ngờ của Thiên Chúa và để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn đến chân lý vẹn toàn (x. Ga 16, 13).
2. Sống mầu nhiệm Đức Kitô “được sai đi”.
Sống hiệp thông với Đức Kitô là một yếu tố căn bản của linh đạo truyền giáo. Người ta không thể hiểu cũng như không thể sống sứ mạng truyền giáo nếu không quy chiếu về Đức Kitô như Đấng được sai đi để loan báo Tin Mừng.
Thánh Phaolô đã nói về tâm tình của Đức Kitô, Đấng được Thiên Chúa sai đến trong bài thánh thi thời danh: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ là phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 5-8).
Trong bài thánh thi này, thánh Phaolô chiêm ngưỡng và suy tư về mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc. Các mầu nhiệm này được diễn tả như một sự hoàn toàn từ bỏ bản thân, dẫn Đức Giêsu đến việc sống hoàn toàn như con người và gắn bó với chương trình của Chúa Cha cho tới cùng. Đây là mầu nhiệm tự hủy mang dấu ấn của tình yêu và diễn tả tình yêu.
Sứ mạng truyền giáo cũng đi trên con đường này, một con đường cuối cùng dẫn tới chân thập giá. Sứ mạng này đòi hỏi nhà truyền giáo “từ bỏ chính mình và những gì mình có, để trở nên tất cả cho mọi người”. Sự từ bỏ được thể hiện qua nếp sống nghèo khó trong sự thanh thoát của nội tâm. Nếp sống này làm cho nhà truyền giáo được tự do để loan báo Tin Mừng, tự do để trở nên người anh em của tất cả mọi người mà ngài được sai đến để đem Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ cho họ. Đó là linh đạo truyền giáo mà thánh Phaolô đã sống trên những nẻo đường truyền giáo và muốn chia sẻ lại cho chúng ta: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để được phân chia phần phúc của Tin Mừng” (1Cr 9, 22-23).
Rõ ràng vì được sai đi, nhà truyền giáo cảm nghiệm được sự hiện diện đầy an ủi của Đức Kitô đang đồng hành với mình trong mọi giây phút của cuộc đời. “Đừng sợ! Cứ nói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với con” (Cv 18, 9-10).
3. Yêu mến Giáo Hội và con người như Chúa Kitô đã yêu mến.
Linh đạo truyền giáo còn được thể hiện bằng tình yêu của người tông đồ dành cho Giáo Hội và cho con người. Người có tinh thần truyền giáo sẽ chiêm ngắm Đức Giêsu, vị Mục Tử tốt lành biết chiên của mình, tìm kiếm chiên và hy sinh mạng sống vì đàn chiên (Ga 10) mà bày tỏ tình yêu đối với các tâm hồn và đối với Giáo Hội.
Nhà truyền giáo được thúc bách nhờ “lòng nhiệt thành vì các linh hồn”, một khi được tình yêu của chính Đức Kitô soi chiếu, sẽ biết chú tâm, nhẹ nhàng, thương cảm, đón tiếp, có một con tim sẵn sàng và cởi mở, biết lưu tâm đến những vấn đề của người khác. Như Đức Giêsu, nhà truyền giáo tiên vàn là con người của tình thương. Để có thể loan báo cho mỗi người trong anh em mình rằng họ được Thiên Chúa yêu thương và họ có thể yêu thương Thiên Chúa thì nhà truyền giáo phải làm chứng về tình thương đối với mọi người bằng cách hy sinh mạng sống mình vì người khác. Nhà truyền giáo là “người anh em của tất cả” (frère universel), ngài mang trong mình tinh thần của Giáo Hội, sự cởi mở và quan tâm của Giáo Hội đối với mọi dân tộc và toàn thể nhân loại, đặc biệt đối với những người bé nhỏ nhất và nghèo khổ nhất. Ngài phải vượt qua mọi ranh giới và khác biệt về chủng tộc, giai cấp xã hội hay ý thức hệ. Ngài là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa trong thế giới, nghĩa là một tình yêu không loại trừ ai cũng như không thiên vị người nào.
Trong Tông Huấn Loan báo Tin Mừng, Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh rằng thời đại hôm nay chờ đợi những nhà truyền giáo trung thực. Sự trung thực được bày tỏ nơi chính bản thân và trong nếp sống Tin Mừng của nhà truyền giáo: “Ngày nay, người ta thường hay lặp đi lặp lại rằng: thế kỷ này khao khát sự trung thực. Nhất là khi nói tới giới trẻ, người ta quả quyết rằng họ ghê tởm những gì là giả tạo, giả mạo và tìm kiếm chân lý và sự trong sáng trên tất cả.
Chúng ta phải tỉnh táo trước những “dấu chỉ thời đại” ấy. Âm thầm hay lớn tiếng, thiên hạ luôn luôn vặn hỏi chúng ta: Các người có thực sự tin điều các người loan báo không? Các người có sống điều các người tin không? Các người có rao giảng thực sự điều các người sống không? Hơn bao giờ hết, làm chứng bằng đời sống đã trở thành một điều kiện thiết yếu để việc rao giảng có hiệu quả thâm sâu. Bằng ngả này, chúng ta lại chịu trách nhiệm, đến một mức độ nào đó, về bước tiến của Tin Mừng mà chúng ta công bố.
Ở đầu bài suy niệm này, Chúng tôi đã tự hỏi: “Mười năm sau khi Công Đồng kết thúc, Giáo Hội hiện như thế nào?”. Giáo Hội phải chăng đã cắm neo giữa lòng thế giới và phải chăng tuy vậy vẫn khá tự do và độc lập để lên tiếng nói với thế giới? Giáo Hội có chứng tỏ mình liên đới với loài người và có đồng thời làm chứng cho sự Tuyệt Đối của Thiên Chúa không? Giáo Hội có nồng nhiệt hơn trong việc chiêm niệm và thờ phượng, mà cũng nhiệt thành hơn trong công việc truyền giáo, bác ái, giải phóng không? Giáo Hội phải chăng đang dấn thân hơn mãi vào những nỗ lực nhằm tái lập sự hiệp nhất hoàn toàn giữa các kitô-hữu, sự hiệp nhất vốn cần để việc làm chứng thêm hiệu lực “ngõ hầu thế giới tin”. Chúng ta tất cả đều có trách nhiệm về những câu trả lời mà người ta có thể đem lại cho các câu hỏi trên”
Công cuộc truyền giáo giả thiết nhà truyền giáo có một lòng thương yêu ngày càng lớn hơn mãi đối với anh chị em mà mình được sai đến để nói với họ về Thiên Chúa Tình Yêu, về Tin Mừng cứu độ. Thánh Phaolô, sứ giả Tin Mừng mẫu mực đã viết cho tin hữu Thessalônica lời sau đây là một chương trình cho tất cả chúng ta: “Chúng tôi đã thương yêu anh em thắm thiết đến nỗi muốn giao phó cho anh em không những Tin Mừng của Thiên Chúa mà còn chính mạng sống chúng tôi nữa, bởi chưng anh em đã trở nên chí thân chí thiết với chúng tôi” (1 Tx 2, 8; x. Pl 1, 8).
Tình thương yêu mà thánh Phaolô biểu lộ ở đây rõ ràng là tình thương yêu của một người cha, và còn hơn nữa, của một người mẹ (x. 1 Tx 2, 7-11; 1Cr 4, 15; Gl 4, 19). Chắc chắn, Thiên Chúa mong thấy tình thương yêu như thế ở mỗi người rao giảng Tin Mừng.
Chúng ta sống trên lục địa Á châu, một lục địa mà đại đa số là người nghèo, cho nên, ta không ngạc nhiên gì khi Đức thánh cha Gioan-Phaolô II nhấn mạnh đến việc phục vụ người nghèo qua việc đề cao Mẹ Têrêxa Calcutta trong Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu: ”Mẹ là hình ảnh của sự phục vụ mạng sống mà Giáo Hội đang dâng hiến tại Á châu, can đảm đi ngược lại nhiều quyền lực đen tối đang hoành hành trong xã hội “. Ngài suy nghĩ rằng trong bối cảnh của Á Châu với đông dân nghèo và bị áp bức thì ơn gọi đặc thù của Giáo Hội tại Á châu là bầy tỏ cách riêng trong việc phục vụ đầy tình yêu đối với các người nghèo và người cô thế cô thân.
Người ta đễ tin hơn tình liên đới với kẻ nghèo, nếu chính những Kitô hữu sống đơn sơ, theo gương Đức Giêsu. Sự đơn sơ trong cách sống, đức tin sâu xa và tình yêu không giả dối đối với mọi người, nhất là người nghèo và người bị loại trừ, đó là những dấu chỉ Tin mừng trong hành động.
Tinh thương yêu nơi nhà truyền giáo không chỉ được diễn tả qua hình ảnh người bạn, người cha, người mẹ mà còn qua nhiều dấu chỉ khác nữa được Đức Phaolô VI nhắc đến trong Tông Huấn Loan báo Tin Mừng:
“Một dấu chỉ của tình thương yêu là mối quan tâm cho người khác chân lý và đưa vào sự hiệp nhất. Một dấu chỉ nữa là hy sinh trọn vẹn và dứt khoát cho việc loan báo Đức Giêsu-Kitô. Chúng tôi xin kể thêm vài dấu chỉ khác của tình thương yêu kia.
Trước tiên là sự tôn trọng hoàn cảnh tôn giáo và tinh thần của những con người đang được phúc-âm-hóa. Tôn trọng nhịp điệu riêng của họ, không thúc ép quá đáng. Tôn trọng lương tâm và những xác tín của họ, không can thiệp thô bạo.
Một dấu chỉ khác của tình thương yêu kia là biết lo tránh làm tổn thương người khác, nhất là khi họ còn yếu đức tin (x. 1Cr 8, 9-13) bằng những quả quyết có thể là sáng sủa đối với những người đã thông thạo, nhưng đối với các tín hữu thì lại có thể là nguồn dao động và cớ vấp phạm, như một vết thương trong tâm hồn.
Một dấu chỉ nữa của tình thương yêu là biết cố gắng truyền đạt cho các kitô-hữu, không phải những ngờ vực và những điều mập mờ phát sinh từ một sự học rộng mà không tới nơi tới chốn, nhưng là những điều chắc chắn vững vàng vì được neo vào Lời Thiên Chúa. Các tín hữu cần những điều vững chắc ấy cho đời sống kitô-giáo của họ; họ có quyền được những điều chắc chắn ấy, với tư cách là con cái Thiên Chúa phó thác mình hoàn toàn cho những đòi hỏi của tình thương yêu, trong tay Ngài”.
Cuối cùng, như Đức Kitô, “đã yêu thương Giáo Hội và hiến mình vì Giáo Hội” (Ep 5, 25), nhà truyền giáo phải yêu mến Giáo Hội. Tình yêu của Chúa Kitô đối với Giáo Hội, một tình yêu đến nỗi trao ban mạng sống, sẽ là tấm gương soi và điểm quy chiếu cho nhà truyền giáo. Đức Gioan-Phaolô II nhấn mạnh rằng chỉ với một tình yêu sâu xa dành cho Giáo Hội mới có thể nâng đỡ lòng nhiệt thành của nhà truyền giáo, như thánh Phaolô nói về nỗi ray rứt hàng ngày của ngài là “mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh” (2Cr 11, 28).
Đối với mỗi nhà truyền giáo, lòng trung thành với Chúa Kitô không thể tách rời khỏi lòng trung thành đối với Giáo Hội, bởi vì “có một mối liên hệ sâu xa giữa Đức Kitô, Giáo Hội và việc loan báo Tin Mừng. Trong “thời của Giáo Hội” này, chính Giáo Hội có bổn phận phúc-âm-hóa. Bổn phận không thể hoàn tất mà không có Giáo Hội, càng không thể hoàn tất nếu chống lại Giáo Hội”.
4. Nhà truyền giáo đích thực là một vị thánh
Lời mời gọi truyền giáo tự bản chất phát xuất từ lời mời gọi nên thánh. Nhà truyền giáo chỉ thực sự là nhà truyền giáo khi ngài dấn thân trên con đường thánh thiện “Sự thánh thiện là nền tảng cốt lõi và điều kiện không thể thay thế được để chu toàn sứ mạng cứu rỗi của Giáo Hội”.
Ơn gọi phổ quát hướng tới việc nên thánh liên hệ mật thiết với ơn gọi phổ quát hướng tới sứ mạng truyền giáo, bởi vì mỗi người tín hữu được mời gọi nên thánh và truyền giáo. Linh đạo truyền giáo là con đường dẫn tới sự thánh thiện.
Sức năng động mới hướng tới muôn dân (Ad gentes) đòi hỏi các nhà truyền giáo thánh thiện. Đức thánh cha Gioan-Phaolô II nhắc đến điều này với một lòng xác tin: “Thật không đủ khi chúng ta chỉ nghĩ tới việc đổi mới các phương pháp mục vụ cũng như làm thế nào để tổâ chức nhân sự và tài lực tốt hơn hay đào sâu nền tảng kinh thánh và thần học của đức tin. Phải gợi lên một sức năng động mới về sự thánh thiện nơi các nhà truyền giáo và trong từng cộng đoàn kitô hữu, đặc biệt nơi những người cộng tác gần gũi nhất của các nhà truyền giáo.
Chúng ta hãy nhớ lại sức năng động truyền giáo nơi các cộng đoàn tín hữu sơ khai. Mặc dù lúc bấy giớ còn thiếu phương tiện di chuyển và truyền thông, nhưng việc loan báo Tin Mừng đã sớm đi đến mọi miền thế giới. Và cho dù đó là một tôn giáo của một Người đã chết trên thập giá, “một cớ vấp phạm đối với người Do Thái và sự điên rồ đối với dân ngoại” (1Cr 1, 23). Tự nền tảng của sức năng động truyền giáo này, ta thấy có sự thánh thiện của các cá nhân và của các cộng đoàn tín hữu sơ khai”.
Trong mọi trường hợp, rõ ràng là không thể có sự rao giảng Tin Mừng đích thực, nếu người kitô hữu không sống chứng tá phù hợp với sứ vụ rao giảng: “Hình thức chứng tá thứ nhất là chính đời sống của vị thừa sai, của gia đình Kitô hữu và của cộng đồng Giáo Hội, một cộng đồng bày tỏ một nếp sống mới… Mỗi người trong Giáo Hội, khi cố gắng bắt chước Vị Thầy Thần Linh, thì có thể và phải làm chứng theo kiểu này; trong nhiều trường hợp, đó là phương cách duy nhất có thể được, để trở thành nhà truyền giáo”.
Nhà truyền giáo phải là một nhà “chiêm niệm trong hành động”. Khi tiếp xúc với các vị đại diện của các truyền thống thiêng liêng ngoài Kitô giáo, nhất là của Á Châu, Đức thánh cha xác tín rằng tương lai của việc truyền giáo tuỳ thuộc phần lớn vào sự thánh thiện. Nhà truyền giáo, nếu không phải là nhà chiêm niệm thì không thể loan báo Chúa Kitô một cách khả tín được. Điều này chắc chắn đúng trong bối cảnh Á Châu, nơi mà dân chúng được thuyết phục do đời sống thánh thiện hơn là do luận chứng tri thức. Như thế, để là chứng nhân cho kinh nghiệm về Thiên Chúa, nhà truyền giáo phải có kinh nghiệm về Thiên Chúa, “Điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng…về Lời hằng sống… chúng tôi đã loan báo” (1 Ga 1, 1-3).
Đức thánh cha chia sẻ với các Giáo Hội tại Á Châu rằng trong bối cảnh của Á Châu, quê hương của các tôn giáo lớn, nơi mà các cá nhân cũng như toàn dân khao khát cái thiêng thánh, Giáo Hội được kêu gọi trở nên một Giáo Hội cầu nguyện. Tất cả các Kitô hữu cần một tu đức truyền giáo thực sự gồm có cầu nguyện và chiêm niệm.
Đức Thánh Cha còn ghi nhận rằng các nghị phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã nhấn mạnh nhiều đến chỗ đứng của chiêm niệm trong công cuộc truyền giáo:: “Việc công bình, bác ái và thương xót phải gắn bó mật thiết với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm đích thực, và thật vậy, chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin mừng của chúng ta”.
Sự thánh thiện nơi bản thân nhà truyền giáo được nhìn thấy trong nếp sống của Tám Mối Phúc. Nhà truyền giáo là con người của Tám Mối Phúc. Trước khi sai các tông đồ đi rao giảng, Đức Giêsu đã huấn luyện nhóm Mười Hai bằng cách cho họ thấy những con đường của truyền giáo: khó nghèo, hiền lành, chấp nhận đau khổ và những bách hại, khao khát sự công chính và hoà bình, bác ái, hay nói khác đi là con đường Tám Mối Phúc (x. Mt 5, 1-12). Trong khi sống Tám Mối Phúc, nhà truyền giáo có kinh nghiệm và cho thấy một cách cụ thể rằng Nước Thiên Chúa đã đến và chính bản thân ngài đã đón nhận Nước ấy.
Sự thánh thiện không chỉ là lời mời gọi của Chúa, nhưng nơi bản thân của nhà truyền giáo, nó còn là sự chờ đợi của thế giới hôm nay, như Đức Phaolô VI nhận định: “Thế giới tuy có vô vàn dấu hiệu từ khước Thiên Chúa, nhưng một cách nghịch thường vẫn tìm kiếm Ngài bằng những đường nẻo bất ngờ và vẫn xót xa cảm thấy cần đến Ngài, thế giới ấy đòi có những sứ giả Tin Mừng nói về một Thiên Chúa mà họ biết và gần gũi như thể họ đã từng thấy Đấng không thể thấy (x. Dt 11, 27). Thế giới đòi hỏi và chờ đợi ở chúng ta đời sống giản dị, tinh thần cầu nguyện, lòng yêu thương đối với mọi người nhất là đối với những kẻ bé mọn và nghèo khó, đức vâng phục và khiêm tốn, sự siêu thoát và từ bỏ chính mình và mọi sự. Không có dấu hiệu về sự thánh thiện như thế, lời chúng ta nói sẽ khó đi vào lòng của con người thời nay. Nó có thể thành vô ích và vô hiệu”.
Một trong những nét đặc sắc của cuộc đời nhà truyền giáo là niềm vui nội tâm phát xuất từ đức tin. Trong một thế giới đầy lo âu và bị áp lực của trăm ngàn vấn đề, một thế giới dễ làm cho con người bi quan, thì người loan báo Tin Mừng phải là người đã tìm thấy nơi Đức Kitô nguồn hy vọng đích thực.
Đức Phaolô VI nhận xét rằng công cuộc truyền giáo trong thời đại chúng ta gặp nhiều trở ngại bởi vì sự thiếu nhiệt tình và niềm vui nơi bản thân người tín hữu. Nó càng trầm trọng bởi lẽ nó phát xuất từ bên trong; nó biểu lộ trong sự mệt mỏi và chán nản, sự làm lấy lệ và hờ hững. Đức thánh cha khuyến khích tất cả những người có nhiệm phúc-âm-hóa với tư cách nào và ở cấp bậc nào cũng vậy, hãy nuôi dưỡng nhiệt tình cho tâm thần mình (x. Rm 12, 11).
“Chúng ta hãy giữ cho tinh thần được nhiệt thành. Chúng ta hãy giữ niềm vui dịu dàng và khích lệ trong công việc phúc-âm-hóa, ngay cả khi phải gieo trong nước mắt. Ước gì đó là một nhiệt tình mà không ai và không gì có thể dập tắt được nơi chúng ta – cũng như nơi thánh Gioan Tẩy Giả, nơi thánh Phêrô và thánh Phaolô, nơi các thánh Tông Đồ khác, nơi vô vàn sứ giả Tin Mừng đáng khâm phục trong suốt cả lịch sử Giáo Hội –. Ước gì đó là niềm vui lớn lao cho những cuộc đời của chúng ta đã được hiến dâng. Và ước gì thế giới thời đại chúng ta, đang tìm kiếm, khi thì trong lo âu, khi thì trong hy vọng, có thể nhận được Tin Mừng, không phải từ những sứ giả Tin Mừng buồn rầu và chán nản, nôn nóng hay bứt rứt, nhưng là từ những thừa tác viên của Tin Mừng có đời sống tỏa ấm nhiệt tình, đã nhận sẵn niềm vui của Đức Kitô trong bản thân mình và chấp nhận đánh đổi mạng sống mình lấy việc Triều Đại được loan báo và Giáo Hội được đưa vào giữa lòng thế giới”.
5. Xây dựng hiệp nhất
Đây là mối ưu tư đặc biệt của Đức Phaolô VI, vị giáo hoàng của đại kết và đối thoại. Mối ưu tư này được nói lên một cách mạnh mẽ trong Tông Huấn Loan báo Tin Mừng:
“Sức mạnh của việc phúc-âm-hóa sẽ bớt đi nhiều nếu những người loan báo Tin Mừng lại chia rẽ nhau bằng đủ thứ gãy vỡ. Phải chăng đó là một trong những vướng víu lớn nhất cho việc phúc-âm-hóa ngày nay? Thật vậy, nếu Tin Mừng mà chúng ta công bố lại cho thấy bị xâu xé bởi những cãi cọ về giáo thuyết, những phân cực ý thức hệ hay những kết án lẫn nhau giữa các kitô-hữu, tùy theo những cách họ nhìn khác nhau về Đức Kitô và về Giáo Hội, và ngay cả vì những cách họ quan niệm khác nhau về xã hội và các thể chế nhân loại, thì làm sao những người được chúng ta rao giảng lại khỏi bị dao động, lạc hướng nếu không nói là bị vấp phạm?
Di chúc thiêng liêng của Chúa nói với chúng ta rằng sự hiệp nhất giữa các môn đồ của Người không phải chỉ là bằng chứng chúng ta thuộc về Người mà còn là bằng chứng Người do Chúa Cha sai đến, là trắc nghiệm về sự đáng tin của các kitô-hữu và của chính Đức Kitô. Là những sứ giảTin Mừng, chúng ta cần hiến cho các tín hữu của Đức Kitô, không phải hình ảnh những con người chia lìa nhau vì những tranh chấp không chút xây dựng, nhưng là hình ảnh những con người chín chắn trong đức tin, có khả năng gặp gỡ nhau bên trên những căng thẳng thực tế, nhờ việc cùng nhau tìm kiếm chân lý một cách chân thành và vô vị lợi. Phải, số phận công cuộc phúc-âm-hóa chắc chắn được gắn liền với việc Giáo Hội làm chứng cho sự hiệp nhất. Đó là một nguồn trách nhiệm mà cũng là một nguồn khích lệ”. Như vậy, nhà truyền giáo là sứ giả của hoà bình và người thợ xây dựng sự hiệp nhất và đối thoại.
6. Nơi trường học của Đức Maria, nhà truyền giáo đầu tiên
Trong thông điệp đầu tiên Redemptor Hominis (Đấng Cứu Chuộc con người), Đức thánh cha Gioan-Phaolô II đã viết rằng chỉ trong một bầu khí cầu nguyện sốt sắng mới có thể “đón nhận Chúa Thánh Thần ngự xuống trên chúng ta và nhờ đó trở nên những nhân chứng của Đức Kitô cho đến tận cùng trái đất, giống như những người ra khỏi phòng Tiệc Ly tại Giêrusalem vào ngày lễ Ngũ Tuần”.
Tháng Mười năm ngoái, khi bước vào năm thứ 25 sứ vụ giáo hoàng, với Tông Thư Rosarium Virginis Mariae (Kinh Mân Côi của Trinh Nữ Maria), Đức thánh cha Gioan-Phaolô đã công bố một Năm đặc biệt, gần như một sự tiếp nối lý tưởng của Năm thánh, dành cho việc tái khám phá kinh Mân Côi, là kinh nguyện rất thân thiết với truyền thống kitô giáo; một năm cần được sống dưới cái nhìn của Đấng, theo kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, nhờ lời “Xin Vâng”, đã làm cho việc cứu độ loài người có thể được thực hiện. Đồng thời ngài đặt Đức Trinh Nữ rất thánh làm Thầy dạy các tín hữu trong việc chiêm ngắm khuôn mặt Chúa Kitô để từ đó ra đi truyền giáo trên đại dương bao la của thế giới.
Đức Thánh Cha ước mong rằng Năm Mân Côi sẽ tạo nên một cơ hội thuận lợi để các tín hữu trên mọi lục địa đào sâu ý nghĩa của ơn gọi Kitô hữu. Dưới mái trường của Đức Trinh Nữ và noi gương ngài, mỗi cộng đoàn sẽ có thể làm nổi bật hơn chiều kích “chiêm niệm” và “truyền giáo” của mình. “Kinh Mân Côi cũng là một con đường loan báo và hiểu biết ngày một hơn, trong đó mầu nhiệm của Đức Kitô được trình bày đi, trình bày lại ở nhiều mức độ khác nhau của kinh nghiệm Kitô giáo. Đó là một trình bày mang tính cầu nguyện và chiêm ngưỡng, có khả năng đào tạo người Kitô hữu theo trái tim của Đức Kitô… Kinh Mân côi vẫn giữ được sức mạnh của nó và tiếp tục là một tài nguyên mục vụ có giá trị tố đẹp cho mọi người loan báo Tin Mừng”.
Đức thánh cha chia sẻ với Giáo Hội rằng sự tin tưởng chạy đến cùng Đức Maria, qua việc đọc kinh Mân Côi hằng ngày và việc suy niệm các mầu nhiệm đời sống Chúa Kitô, sẽ nhấn mạnh rằng sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội trước hết phải được nâng đỡ bằng việc cầu nguyện. Thái độ “lắng nghe” mà kinh Mân Côi gợi lên, đem người tín hữu lại gần Đức Maria, Đấng“hằng ghi nhớ mọi điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Việc siêng năng suy niệm Lời Chúa luyện tập cho chúng ta sống “hiệp thông sống động với Đức Giêsu. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đức Maria giúp chúng ta đạt được “sự dạn dĩ thanh thản” làm cho chúng ta có khả năng thông truyền cho người khác kinh nghiệâm về Đức Giêsu.
Dưới mái trường của Đức Maria, Giáo Hội chiêm ngưỡng dung nhan đầy lòng thương xót của Đức Giêsu nơi những người anh chị em, đặc biệt nơi những người nghèo khó và thiếu thốùn. Với sự ân cần từ mẫu mà Mẹ đã tỏ ra ở tiệc cưới Cana)x. Ga 2, 1-5), Đức Maria dạy nhà truyền giáo biết sống tế nhị, yêu thương và quan tâm đến những vấn đề của con người.
Hình ảnh Đức Maria, nhà truyền giáo đầu tiên đã để cho Thánh Thần thúc đầy mà vội vã tiến bước (x. Lc 1, 39-56) đem Chúa Giêsu trong cung lòng mình đến cho nhà Elizabeth mời gọi các sứ giả Tin Mừng không được để cho nhiệt tình tông đồ suy giảm đi, đặc biệt trong sứ vụ truyền giáo “đến với muôn dân” (Ad gentes).
Vào buổi sáng ngày Hiện Xuống, ai cũng biết là Mẹ Maria đã có mặt với các Tông Đồ, hiệp nhất “cùng một lòng trong lời cầu nguyện” (x. Cv 1,14) trong cộng đoàn tiên khởi được qui tụ sau khi Chúa lên trời, trong khi chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống. Đức Maria đã tham dự vào buổi khởi đầu công cuộc Phúc-Âm-hóa dưới tác động của Chúa Thánh Thần: ước gì Ngài là Ngôi Sao Sáng của công cuộc Phúc-Âm-hóa luôn được làm mới lại mãi mà Giáo Hội, thừa lệnh Chúa, phải xúc tiến và thực hiện, nhất là giữa thời buổi vừa khó khăn vừa đầy hy vọng này.
Kết Luận
Chúng ta vừa làm công việc tổng hợp một linh đạo truyền giáo được nói đến trong một số văn kiện của các Đức Giáo Hoàng. Chúng ta hy vọng rằng linh đạo truyền giáo sẽ làm cho lòng chúng ta bừng cháy lên nhiệt tình loan báo Tin Mừng.
Truyền giáo khởi sự bằng cuộc sống và con tim. Cuộc sống và con tim đòi hỏi các môn đệ Chúa Kitô sống có tấm lòng. Tấm lòng với mọi người và với Giáo Hội, một tấm lòng “dễ dạy” đối với Chúa Thánh Thần, một tấm lòng mới như của Đức Maria.
Ký hiệu viết tắt:
EA: Tông Huấn Ecclesia in Asia (Giáo Hội tại Á Châu) của ĐTC Gioan Phaolô II (6 -11-1999)
EN: Tông Huấn Evangelii nuntiandi (Loan báo Tin Mừng) của ĐTC Phaolô VI (8 -12-1975)
NM: Tông Thư Novo Millennio ineunte (Bước vào ngàn năm mới) của ĐTC Gioan-Phaolô II (6-1-2001)
RM: Thông điệp Redemptoris missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế) của ĐTC Gioan Phaolô II (7-12-1990)
RVM: Tông Thư Rosarium Virginis Mariae (Kinh Mân Côi của Đức Trinh Nữ Maria) của ĐTC Gioan-Phaolô II (16-10-2002)
TG: Công Đồng chung Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Truyền giáo của Giáo Hội (Ad gentes)
43. Tin Mừng cho người ngoại biên.
(Suy niệm của ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần)
Thuở còn nhỏ, tôi đã sớm nhận thấy sự khác biệt giữa người giàu và người nghèo.
Lớn lên, tôi cảm được sâu sắc cảnh nghèo. Nghèo thì hèn. Nghèo thì khổ. Cái Nghèo, cái Hèn, cái Khổ dính vào nhau khăng khít. Đồng thời, tôi cũng nhìn được cảnh giàu. Giàu thì sang. Giàu thì có. Cái Giàu, cái Sang, cái Co đồng hành ung dung.
Khi đi qua nhiều nơi, ở lại nhiều nước, tôi lại thấy giàu nghèo làm thành những giai cấp. Giàu là giai cấp cao. Nghèo thuộc giai cấp thếp. Cấp cao, cấp thấp đều có nhiều bậc. Đôi khi, người nghèo khổ bậc dưới không thể và cũng không dám nhìn người giàu sang ở bậc trên. Vì khoảng cách quá xa về địa lý, nhất là về tâm lý.
Trung tâm và ngoại biên.
Để đơn giản hoá tình trạng chênh lệch giữa giàu và nghèo, tôi tạm chọn cho mình một hình ảnh gợi ý. Hình ảnh đó là Trung tâm và Ngoại biên.
Trung tâm có thể áp dụng về nhiều mặt. Như trung tâm kinh tế, trung tâm văn hoá, trung tâm chính trị, trung tâm tôn giáo. Những ai được ở trong hoặc gần những trung tâm đó thường được coi là những người hưởng nhiều may mắn về phát triển, về danh dự, về cuộc sống.
Ngoại biên cũng được hiểu về nhiều lãnh vực như trên. Những ai ở ngoại biên kinh tế, văn hoá, xã hội, tôn giáo thường phải chịu nhiều mất mát, thua thiệt, kém cỏi.
Trung tâm và ngoại biên không hẳn chỉ là địa lý, mà còn là tâm lý và pháp lý.
Thời Chúa Giêsu giáng thế, theo truyền thống lâu đời, thì Giêrusalem là trung tâm chính trị, văn hoá và kinh tế, còn đền thờ là trung tâm tôn giáo. Đền thờ này cũng toạ lạc tại Giêrusalem.
Giêrusalem là nơi tập trung những người có địa vị, nắm quyền lực, sống trong phẩm trật và được ưu đãi.
Đền thờ là nơi thờ phượng của người có đạo. Gian trên dành cho các chức sắc. Gian giữa dành cho các đàn ông Do Thái. Gian cuối dành cho phụ nữ và trẻ con. Ngoài hè dành cho các người ngoại giáo, các kẻ tội lỗi và những ai tàn tật.
Chúa Giêsu đi về ngoại biên.
Trong một tình hình như thế, Thiên Chúa có những lựa chọn lạ lùng.
Thực vậy, Chúa Giêsu xuất hiện ở Galilêa. Xứ này là vùng biên, xa trung tâm Giêrusalem.
Người sinh ra trong một gia đình làm nghề mộc, thuộc dạng nghèo.
Như vậy, Người mang thân phận kẻ nghèo để chia sẻ với thế giới những người ngoại biên.
Khi đi rao giảng Tin Mừng, Người ưu tiên để ý đến những người nghèo, người người tội lỗi và những người cùng khổ. Người áp dụng vào chính mình những lời tiên tri Isaia xưa đã nói:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn phong tôi.Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,17-20).
Người cũng đã xác định: “Thầy đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).
Người muốn dạy cho mọi người thấy: Trước mặt Chúa không có vấn đề ưu đãi cho trung tâm và bỏ quên hoặc loại trừ những ngoại biên. Người nói rõ ràng với người phụ nữ ngoại giáo xứ Samaria:
“Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong sự thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,21-24).
Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi những người ngoại biên, Người đến với họ, Người chia sẻ những nỗi đau của họ, Người được kể như người ngoại biên. Người cho họ thấy Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người.
Người hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở điểm hiến thân trên thánh giá, mà Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người được tôn vinh. Người đã nói trước khi tự nạp mình chịu chết: “Lạy Cha, giờ đã đến. Xin Cha tôn vinh Con Cha, để con Cha tôn vinh Cha” (Ga 17,1).
Người muốn các môn đệ Người cũng hãy theo gương Người, mà đem Tin Mừng đến cho người nghèo khổ như vậy. Muốn được thế, các ngài cần đón nhận sẵn tình thương cứu độ của Người. Để đón nhận, các môn đệ phải rất khiêm nhường trong phục vụ. Gương phục vụ khiêm nhường sau cùng Nguời trối lại là chính Người quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Sau đó, Người truyền dạy: “Thầy đã nêu gương cho các con, để các con cũng làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13,15).
Phục vụ rất khiêm nhường là một cách tốt nhất để mở cửa lòng, đón nhận lửa tình yêu của Chúa, một thứ lửa đầy ánh sáng chân lý và yêu thương. Nhờ đó, môn đệ Chúa có thể ra đi ngoại biên, đem Tin Mừng cho mọi người, ưu tiên cho những người nghèo khổ.
Vui buồn về thực tế truyền giáo.
Đem mấy tư tưởng Phúc Âm trên đây chiếu dọi vào thực tế truyền giáo tại địa phương, tôi thấy có những điều đáng mừng và có những điểm đáng lo ngại.
Những điểm đáng mừng là từng triệu những người nghèo khổ vẫn đón chờ Tin Mừng, và vẫn sẵn sàng đón nhận Tin Mừng. Nhiều nơi, nhiều người đã gặp được Tin Mừng, nhờ gặp được những người môn đệ Chúa đến với họ, thương cảm đời họ, phục vụ họ một cách khiêm nhường, và dấn thân hy sinh vì họ. Các môn đệ như thế thuộc mọi thành phần, trong đó các nữ tu và giáo dân giữ một vai trò quan trọng.
Những điểm đáng buồn là ở nhiều nơi còn thiếu gương sáng về truyền giáo.
Trên đường đời, không thiếu trường hợp, người có đạo chúng ta thuộc đủ cấp bậc, đã xử sự lạnh lùng với người ngoại biên. Thái độ của ta cũng giống thái độ thầy tư tế và Lêvi xưa trước nạn nhân nằm quằn quại bên vệ đường. Mặc người ngoại Samaria lo cho người ngoại biên (Mt 12,41-44). Ta cứ an tâm đi về đền thờ là trung tâm.
Trong cuộc sống, không thiếu trường hợp, người có đạo chúng ta thuộc đủ cấp bậc, cũng đã xua đuổi người ngoại biên, không cho họ đến gần Chúa. Giống như các môn đệ Chúa xưa đã muốn xua đuổi người đàn bà xứ Canaan. Khi bà cứ lẽo đẽo sát lại bên Chúa Giêsu, để xin Người chữa con bà bị quỉ ám (Mt 15,21-28). Ta bảo vệ Chúa là trung tâm bằng cách loại trừ ngoại biên, tức những ai ta coi là bất xứng.
Trong những công việc chung, không thiếu trường hợp người có đạo chúng ta thuộc đủ cấp bậc, cũng đã đánh giá thấp người ngoại biên. Không giống cách Chúa Giêsu xưa đã đánh giá rất cao người đàn bà goá nghèo, đã dâng cúng vào đền thờ chỉ một đồng xu (Mt 12,41-44). Ta tôn vinh con người theo tiêu chuẩn tiền bạc và địa vị, như thể tiền bạc và địa vị là giá trị của trung tâm đạo.
Hiện nay, Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đang được đề cao như một gương mẫu rao giảng Tin Mừng cho người ngoại biên. Mẹ không làm việc gì khác ngoài đi theo đường lối mà Chúa Giêsu đã đi trước. Điều đáng ngợi khen nhất nơi Mẹ là Mẹ làm, chứ không chỉ nói. Với những việc làm yêu thương cụ thể, Mẹ là một người mẹ âm thầm hy sinh, trước khi là thánh vinh quang.
Khi tôn vinh Mẹ Têrêsa, Toà Thánh muốn tôn vinh một tinh thần truyền giáo sáng ngời, một phương cách truyền giáo khôn ngoan, đã rất hữu hiệu, đã gây được nhiều thiện cảm ở các xã hội và tôn giáo đa dạng, tại Ấn Độ nói riêng và Á châu nói chung.
Qua đời sống của mình, Mẹ Têrêsa Calcutta đã giới thiệu dung mạo một Hội Thánh dễ thương, dễ mến. Một Hội Thánh dịu dàng, khiêm tốn phục vụ, đầy tình xót thương, luôn đi tìm những người nghèo khổ, tội lỗi, bị loại trừ, sống trong bế tắc, để đưa họ vào tình Chúa bao la.
Ước gì mọi người truyền giáo chúng ta cũng theo gương Mẹ, để bất cứ ai, nhất là các người ngoại biên, đón nhận được hy vọng là Tin Mừng nơi Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
44. Kitô hữu, chứng nhân truyền giáo
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Anh chị em đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng cho muôn dân”. Thưa anh chị em, đó là mệnh lệnh cuối cùng của Chúa Giêsu. Giáo Hội từ thời các Tông đồ trải qua các thời đại cuối cùng của Chúa, bất chấp mọi trở ngại.
Thế nhưng, qua 20 thế kỷ truyền giáo, số người tin theo Chúa Kitô vẫn là một thiểu số đáng lo ngại so với dân số thế giới ngày càng gia tăng. Hiện nay, dân số thế giới đã lên đến trên 5 tỷ người, thế mà số tín hữu công giáo chỉ được 900 triệu, nhưng 50 phần trăm là ở Nam Mỹ, còn triệu kia rải rác ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Châu Úc và Châu Phi.
Riêng tại Châu Á của chúng ta, một lục địa với hơn 3 tỷ người, trong số đó chỉ có 3% là người Công giáo. Tại Trung Quốc chỉ có 4 triệu người Công giáo giữa một tỷ dân. Tại Nhật Bản có lối 500 ngàn người Công giáo giữa 123 triệu dân. Ở Nam Triều Tiên, 5 triệu người Công giáo trên 42 triệu dân. Tại đất nước Việt Nam chúng ta chỉ có hơn 4 triệu rưỡi người Công giáo trên 72 triệu dân, tỷ lệ hơn 6%. Tại TP. Hồ Chí Minh chúng ta có khoảng hơn 450 ngàn (485.584) người Công giáo trên hơn 5 triệu dân, tỷ lệ 13%. (Tại Hạt Tân Định, có 41.105 người Công giáo trên 266,000 dân). Đó là những con số trên giấy tờ, trong sổ Rửa Tội, còn trên thực tế, họ có sống đạo hay không là chuyện khác.
Như chúng ta được biết, ở những miền có đông giáo dân Công Giáo- ở Nam Mỹ chẳng hạn- đời sống dân chúng ở đó lại nghèo đói và thiếu linh mục.Ở Braxil, một nước lớn nhất Nam Mỹ, dân số 107 triệu, đại đa số là Công giáo. Thế mà gần đây người Công giáo đã bỏ Giáo Hội để sang Hội Thánh Tin Lành tính ra có trên 17 triệu người (lý do có lẽ là để được hưởng trợ cấp). Trái lại, ở các nước giàu có, phồn thịnh về vật chất- như ở Châu Âu và Bắc Mỹ- người Công giáo lại đánh mất niềm tin và không còn tôn trọng các giá trị đạo đức tinh thần nữa, coi thường các luật luân lý của Giáo Hội về đời sống hôn nhân gia đình. Sự kiện đó đang trở nên mối lo âu và là một vết thương đau nhức nhối nhất của Giáo Hội ngày nay.
Xin đan cử ra đây một dấu chỉ của thời đại: Đầu năm 1998, tại thành phố Amsterdam ở Hà Lan, Hội Đồng Giáo Mục đã quyết định đóng cửa một loạt 5 ngôi thánh đường đồ sộ của thành phố, vì không có giáo dân lui tới nữa, trong khi đó phí khoản 9dê3 bảo trì các ngôi thánh đường này lại quá lớn. Tại Bắc Mỹ cũng thế, Đức Hồng Y Josef Bernardin, Tổng Giáo Mục Chicago tuyên bố: ngài buộc lòng phải đóng cửa 13 giáo xứ, 2 cơ sở truyền giáo và 6 trường tiểu học Công giáo trong giáo phận của ngài. Còn Đức Hồng y Szoka, Tổng Giám Mục Giáo phận Detroit cũng tuyên bố quyết định đóng cửa 30 giáo xứ thuộc giáo phận của ngài. Lý do đóng cửa là vì thiếu người và thiếu tiền (x. Bùi Tuần, Ơn Trở Về, tr.85).
Nói lên những dấu chỉ thời đại ấy để chúng ta thấy rằng: Con người ngày nay đã bỏ Chúa, không còn tin vào Chúa nữa, hoặc có nhiều người tin, nhưng với một niềm tin hời hợt, hững hờ. Chính vì thảm trạng nầy mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành thông điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu Độ” (Redemptoris Missio, 1990) để đặt toàn thể Giáo Hội trước sứ mạng truyền giáo và tái truyền trong Thiên Niên Kỷ Thứ III.
Hôm nay, ngày Thế Giới Truyền Giáo, Đức Thánh Cha lại gởi đến toàn thể Dân Chúa một sứ điệp với chủ đề: “Tất cả các kitô hữu đều được mời gọi làm người truyền giáo và chứng nhân”. Đức Thánh Cha nói: “Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, Chúa Giêsu quyết liệt lập lại những lời Ngài đã nói với các Tông đồ trước khi về trời, những lời hàm chứa bản chất sứ vụ của người Kitô hữu: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Quả thực, Kitô hữu là ai? Thưa họ là người được Chúa Kitô “chiếm đoạt” (x.Pl 3,12), và vì thế, là người khao khát làm cho Chúa Kitô được mọi người nhận biết và yêu mến ở khắp mọi nơi “cho đến tận cùng trái đất”. Chính niềm tin vào Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta trở thành những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Ngài. Nếu không thực hiện được điều đó, có nghĩa là niềm tin củ chúng ta còn bất toàn, khiếm khuyết và chưa trưởng thành.
Do đó, “Truyền giáo là vấn đề của niềm tin, nó là thước đo niềm tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu và nơi tình yêu của Ngài dành cho chúng ta” (RM số 11). Đức tin và truyền giáo đi đôi với nhau: đức tin càng mạnh càng sâu thì nhu cầu truyền thông, chia sẻ và làm chứng niềm tin càng bức thiết. Ngược lại, nếu đức tin suy yếu thì nhiệt tình truyền giáo cũng suy giảm và khả năng làm chứng cũng mất đi sức mạnh. Đó là điều vẫn xảy ra trong lịch sử Giáo Hội: sự sút giảm lòng nhiệt thành truyền giáo là triệu chứng của sự khủng hoảng đức tin. Điều này phải chăng xảy ra khi người ta đánh mất xác tín sâu xa là: “Đức tin càng vững mạnh khi đem chia sẻ” (RM.2). Vì chính khi loan báo Chúa Giêsu Kitô và làm chứng về Ngài mà đức tin của chúng ta được củng cố và tái khám phá con đường đưa đến một nếp sống đúng theo Tin Mừng của Ngài. Như thế, chúng ta có thể nói: “Truyền giáo là một phương thuốc chắc chắn nhất chống lại cuộc khủng hoảng đức tin. Chính nhờ dấn thân truyền giáo mà mỗi thành phần Dân Chúa củng cố căn tính mà mình và hiểu rõ là: không ai có thể là Kitô hữu đích thực nếu không là chứng nhân” (số 2).
“Mỗi Kitô hữu được sáp nhập vào Giáo Hội nhờ Bí tích Thanh Tẩy, đều được mời gọi làm nhà truyền giáo và chứng nhân. Đó là sự ủy nhiệm rõ ràng của Chúa Kitô. Và Thánh Thần sai mỗi người kitô hữu ra đi loan báo và làm chứng về Chúa Kitô cho muôn dân: đó là nhiệm vụ và đặc ân, bởi vì đó là một lời mời gọi cộng tác với Thiên Chúa để cứu độ mỗi người và cả nhân loại” (số 3).
Truyền giáo bằng đời sống chứng tá Tin Mừng giữa đời, làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống yêu thương, bác ái, công bình, cụ thể trong gia đình, ngoài xã hội, là sứ vụ của mọi người giáo dân. Làm chứng cho sự thánh thiện, như những người sống các Mối Phúc của Tin Mừng, đó là căn tính của người Kitô-hữu-chứng-nhân. Con người ngày nay có vẻ dửng dưng không muốn tìm về Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, họ cảm thấy cần đến Thiên Chúa và họ bị các Thánh thu hút và đánh động, những vị thánh đã biểu lộ khuôn mặt của Thiên Chúa trong đời sống của mình, như những ánh sao trong đêm tối.
Giáo Hội Việt Nam chúng ta ngày nay phải truyền giáo trong môi trường cụ thể chúng ta đang sống, với những con người cụ thể chúng ta đang gặp. Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem Tin Mừng vào lòng dân tộc. Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng đại và sẵn sàng của chúng ta, cần đến đời sống nhân chứng của chúng ta để bày tỏ cho anh em đồng bào tình yêu thương vô biên của Ngài. Tích cực tham gia vào công cuộc Phúc-âm-hóa mới, đó là công việc đặc trưng của những năm chuẩn bị tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của Hồng Ân Cứu Độ.
45. Quyền năng từ trên cao
Nếu Đức Giêsu phục sinh không sai gửi Thánh Thần
thì chúng ta sẽ chẳng có một Hội Thánh truyền giáo.
Các tông đồ được lệnh phải chờ ở Giêrusalem.
Chờ mặc lấy quyền năng từ trời cao ban xuống.
Chờ Đức Giêsu sai gửi Đấng Cha đã hứa ban.
Chờ lãnh nhận phép Rửa trong Thánh Thần (Cv 1,5).
Không có sức mạnh của Ngôi Ba Thiên Chúa,
các tông đồ chẳng dám đi rao giảng cho muôn dân,
và trở nên chứng nhân của Đức Giêsu cho cả thế giới.
Không có Thánh Thần thì không có hoạt động truyền giáo.
Điều này vẫn đúng cho thời đại chúng ta.
Thánh Thần vẫn thôi thúc bao tâm hồn đi gieo Tin Mừng,
vẫn hiện diện và hướng dẫn Hội Thánh trong việc rao giảng,
vẫn khơi dậy bao sáng kiến mới mẻ trong việc truyền giáo.
Kitô hữu tự bản chất là chứng nhân.
Các tông đồ đã làm chứng vì họ đã thấy tận mắt.
Chúng ta chỉ có thể làm chứng nếu thấy bằng đức tin.
Thấy bằng đức tin mạnh chẳng kém gì thấy bằng mắt.
Kitô hữu là người thấy được Đấng Vô Hình,
có tương quan thân thiết với Đấng họ mến tin.
Truyền giáo không phải là tuyên truyền một lý thuyết,
mà là đưa người khác đến gặp một Ngôi Vị,
là chia sẻ cho họ niềm xác tín và yêu mến của mình.
Chúng ta cần tự hỏi tại sao sau gần 4 thế kỷ
Kitô giáo ở Việt Nam vẫn chưa phát triển mạnh.
Phải chăng vì đức tin chúng ta đã nhạt nhòa,
vì đời sống chúng ta chẳng có gì đáng nói?
Hay phải chăng chúng ta đã lơ là với việc rao giảng,
hoặc không biết cách loan báo Tin Mừng cho phù hợp?
Có thể tất cả những lý do trên đều đúng.
Truyền giáo hôm nay đòi ta cộng tác với mọi người thiện chí, để xây dựng một thế giới công bằng, nhân ái hơn,
đòi ta yêu thương và phục vụ những người nghèo nhất.
Truyền giáo là đưa Tin Mừng vào nền văn hoá Việt Nam,
và đưa những giá trị tốt đẹp của văn hoá Việt Nam
vào việc sống và làm chứng cho Tin Mừng.
Chúng ta tin một Thánh Thần duy nhất
đã hoạt động nơi các dân tộc trước khi Ngôi Lời nhập thể,
vẫn luôn hoạt động trong đời Đức Giêsu và trong Hội Thánh,
và còn đang hoạt động nơi các tôn giáo, các nền văn hoá
của mọi dân tộc trong thế giới hôm nay.
Phải làm sao để trình bày Tin Mừng cách dễ hiểu,
gần gũi với tâm thức của đồng bào.
Phải làm sao để bày tỏ một khuôn mặt Đức Giêsu
nhân từ, dễ mến, đem lại hạnh phúc cho con người.
Hội Thánh Việt Nam cần biết bao những người công giáo
biết làm văn, làm nhạc, làm thơ, biết viết kịch, viết báo…
Tinh thần Chúa Kitô phải từ từ thấm vào mọi lãnh vực.
Có thể Kitô hữu mãi mãi vẫn là một thiểu số,
nhưng phải là một thiểu số đóng góp nhiều cho dân tộc.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có người bảo đạo Công Giáo là đạo ngoại lai. Bạn nghĩ sao? Có tôn giáo nào ở Việt Nam không đến từ nước ngoài? Làm sao để đạo Công Giáo gần gũi với lối sống, lối nghĩ của người Việt Nam hơn?
Đức Thánh Cha nói: không truyền giáo là dấu hiệu của khủng hoảng đức tin. Bạn nghĩ sao?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
46. Anh em là chứng nhân
(Trích trong ‘Manna’)
Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã làm một điều quan trọng,
đó là đào tạo những chứng nhân.
Hội Thánh tương lai phải được xây nền vững chắc
trên những con người có kinh nghiệm cá nhân
về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Chính vì thế Ngài đã hiện ra cho Simon,
cho hai môn đệ về Emmau, cho các tông đồ.
Ngài cho họ xem chân tay và Ngài đã ăn bánh
để họ đừng nghi Ngài là ma.
Hơn nữa Ngài còn soi sáng cho họ
để họ hiểu những lời Kinh Thánh nói về Ngài.
Các môn đệ đã là chứng nhân, đã tử đạo
để làm chứng cho điều mình xác tín.
Mỗi năm Hội Thánh dành một ngày Chúa Nhật
để nhắc chúng ta nhớ đến bổn phận của mình,
bổn phận truyền giáo cho thế giới.
“Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”
Chúng ta phải tiếp tục sứ mạng của các tông đồ,
vinh dự đứng vào hàng ngũ các chứng nhân.
Để truyền giáo, chúng ta phải quen thân với Chúa Giêsu,
có kinh nghiệm gặp gỡ Ngài thật sâu lắng,
sống cái chết của Ngài mỗi ngày
và nếm được niềm vui phục sinh Ngài ban tặng.
Để truyền giáo cần có nhiều tình yêu:
tình yêu đối với Chúa Giêsu và đối với con người.
Chính vì mến yêu Ngài
mà ta muốn Ngài được mọi người nhận biết.
Chính vì mến yêu mọi người
mà ta muốn chia sẻ hạnh phúc mình đang hưởng.
Thế giới hôm nay đầy lạc thú và hưởng thụ,
nhưng vẫn là một thế giới buồn.
Buồn vì nạn phá thai, ly dị, tự tử;
buồn vì hận thù, thất vọng và lo âu.
Nhiều bạn trẻ tìm quên trong vui chơi, nghiện ngập,
vì không thấy cuộc sống có ý nghĩa.
Như thế truyền giáo là loan báo tin vui
cho một thế giới buồn.
Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ giới trẻ:
“Hội Thánh ủy thác cho giới trẻ nhiệm vụ hô to lên
cho thế giới biết niềm vui vì gặp được Đức Kitô…
Hãy đi rao giảng Tin Mừng giải thoát.
Hãy là những điều ấy với tâm hồn hân hoan.”
Chúng ta không thể là những chứng nhân buồn.
Chính cuộc sống của ta phải đầy ắp niềm vui,
sự lạc quan và sự sống của Chúa Phục Sinh.
Chỉ như thế chúng ta mời hy vọng đáp ứng
những đòi hỏi gay gắt của thế giới
đang bước vào đệ tam thiên niên kỷ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn nói về Chúa cho một người bạn không? Bạn có thấy mình cần học giáo lý và cầu nguyện để có thể truyền giáo tốt hơn không?
Hơn 90% người Việt Nam chưa tin Chúa. Theo ý bạn, chúng ta có truyền giáo đủ chưa? Phải sửa đổi gì để việc truyền giáo có hiệu quả hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
47. Chúa sai tôi đi
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công việc của mọi người khi Người sai 72 môn đệ lên đường. Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng. Đó là thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Còn 72 môn đệ không có tên tuổi rõ ràng. Đó là một đám đông không xác định. Đó là tất cả mọi người giáo dân. Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần tham gia vào việc truyền giáo.
Giáo dân tham gia vào việc truyền giáo bằng cách nào?
– Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Biết bao anh em đang chờ đợi được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa. Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lở mất cơ hội.
– Thứ đến ta phải cầu nguyện. Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban. Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. Ta hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín. Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.
– Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chúa dạy ta: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” để ta biết sống khó nghèo. Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.
– Sau cùng, truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người. Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận lãnh. Và nhất là, niềm bình an vì được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.
Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm trong tầm tay của mọi người giáo dân. Mọi người đều có thể ý thức việc truyền giáo. Mọi người đều có thể cầu nguyện. Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên chúa. Và mọi người đều có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người khác
Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.
Hôm nay, Chúa đang than thở với mọi người chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp thiết không?
2) Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công trong vùng này, người tông đồ cần có những đức tính nào?
3) Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho người làm việc truyền giáo, cho những người chưa biết Chúa ở chung quanh bạn không? Bạn đã bao giờ tham gia vào việc truyền giáo trong Giáo xứ, trong Giáo phận chưa?
48. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Việt nam chúng ta hiện này dân số đã hơn 80 triệu người, trong số đó những người Công Giáo chỉ chiếm 7%, Tin Lành 2%, như thế còn hơn 81% dân số vẫn chưa biết Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài. Tỉnh Đồng Nai hiện có khoảng 2,5 triệu dân, số người công giáo chiếm khoảng 900 ngàn tức khoảng 36%. Nhìn vào con số như thế, chúng thấy rằng Sứ vụ loan báo Tin Mừng đang là một sứ vụ thôi thúc chúng ta, đồng thời cũng chất vấn về trách nhiệm của mỗi người đã sống như thế nào, đã nói về tin Mừng ra sao để sau bao nhiêu năm, số người biết Đức Giêsu không những không gia tăng, mà trái lại đang có nguy cơ giảm sút?
Thưa quý OBACE, trước khi về trời, Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta một mệnh lệnh hết sức cấp bách: Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và thánh Thần. Mệnh lệnh ấy đã được các tông đồ và các tín hữu mọi thời đại đã không ngừng trung thành thực hiện, trải qua hơn 2000 năm qua, cho đến chúng ta hôm nay. Vì thế, ngày nay chúng ta không thể dừng chân, không thể ngừng loan báo, mà phải tiếp tục giới thiệu Đức Giêsu Kitô cho thế giới hôm nay, và đem ngọn lửa đức tin mà chúng ta đã lãnh nhận sưởi ấm cả thế giới băng giá lạnh lùng này.
Việc loan báo Tin Mừng cho con người hôm nay là một thách thức khó khăn, song không vì thế mà chúng ta dừng lại. Đức Thánh Cha Fancis trong Sứ điệp Ngày Quốc Tế cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo đã nhắc lại cho chúng ta rằng: Chúng ta vừa mới cử hành Năm Đức Tin, qua năm Đức Tin này chúng ta được mời gọi nhìn lại đời sống đức tin của mình, làm mới đời sống của mình và lên đường để đem đức tin ấy thắp sáng thế giới hôm nay. Đức tin là một hồng ân của thiên Chúa, là quà tặng Chúa ban cho chúng ta, và chúng ta phải đáp trả lại bằng thái độ sẵn sàng và khiêm tốn đón nhận. Đức tin là một hồng ân vô giá, mà chúng ta không thể giữ riêng cho mình, là ánh sáng không thể che giấu, là thành phố xây dựng trên núi, vì thế, chúng ta phải làm mọi cách, và dùng mọi phương tiện tuyền thông cũng như các phương tiện hiện đại ngày hôm nay để giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Xã hội Việt nam của chúng ta đang thay đổi nhanh chóng từng ngày, cuộc sống phát triển, sự giàu nghèo gia tăng, sứ ép kinh tế trở thành gánh nặng cho nhiều người, khiến các cuộc di dân tìm kiếm việc làm đã làm xáo trộn nếp sống thường ngày của các làng xã Việt nam. Người trẻ bị thu hút mạnh mẽ bởi các phương tiện truyền thông và các công nghệ, lối sống thực dụng và đề cao vật chất được cổ vũ, tư tưởng cộng sản, Mac xit, vô thần vẫn ảnh hưởng sâu đậm trên biết bao thế hệ từ già đến trẻ tại Việt Nam… những yếu tố này đã là những cản trở rất lớn và cũng là những thách thức cho công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo hội và của mỗi người chúng ta. Tại việt nam, Tin Mừng đã được gieo vãi từ nhiều thế kỷ trước, và đã có một thời phát triển nhanh chóng về số lượng và chất lượng, nhưng đến nay, việc loan báo Tin Mừng đã bị chựng lại, bời vi: Nhiều người nghĩ rằng việc loan báo Tin Mừng là việc của các linh mục tu sĩ, mà quên rằng ơn gọi của bí Tích rửa Tội, cho mỗi người được tham dự vào ba chức năng: Tư tế, Ngôn sứ và Mục tử của Chúa Giêsu, và với chức năng Ngôn sứ, tất cả mỗi người không trừ một ai đều có trách nhiệm và đòi buộc phải nói về Chúa Giêsu cho mọi người, và mời gọi mọi người trở thành môn đệ của Chúa Giêsu.
Nhiều người khác, nhất là những người sống trong vùng đông dân Công Giáo, đã quá quen với các sinh hoạt đông đúc của nhà thờ, khiến họ lầm tửơng rằng: cả thế giới này đã biết Chúa, và bỏ quên ý thức và bổn phận không ngừng loan báo Chúa Giêsu cho mọi người. Chúng ta cũng không lọai trừ lý do nhiều lương dân không muốn gia nhập vào đạo, vì nhiều Kitô hữu đã không sống tốt, đã không gây được ấn tượng tốt đẹp nơi những người khác, trái lại nhiều người đã có lối tồi tệ trở thành gương xấu khiến cho anh chị em lương dân dị ứng với đạo của Chúa. Đáng lẽ chúng ta phải là cầu nối để mọi người đến với Chúa, thì nhiều người lại trở thành vật cản đưởng người khác bằng chính sự lười biếng hoặc gương xấu của mình. Cụ thể hiện nay, do lối sống thiếu trách nhiệm, sống bất hiếu của người có đạo, do sư thiếu hiểu biết giáo lý của những cô dâu chú rể Công Giáo, khiến cho nhiều người ngoại đạo vẫn cho rằng những người có đạo là những người bất hiếu với tổ tiên, theo đạo thì phải bỏ tổ tiên ông bà; Nhiều người có đạo nhưng lại sống gian dối, điêu ngoa chứi bới dữ tợn, khiến đã có thời người ta cho rằng dân có đạo là những người hung dữ, có thể kéo cả làng để đánh người khác mỗi khi có tai nạn trên đường…, họ nói như thế có lẽ cũng không sai! Làm sao người ta có thể tin vào Chúa Giêsu, làm sao có thể tin đạo Công Giáo dạy hiền lành bác ái, khi chính người Công Giáo đâm chém giết chóc nhau, hoặc ở vùng Công Giáo xảy ra tệ nạn?
Làm thế nào để khắc phục những thiếu sót trong trách nhiệm và đáp ứng lại đòi hỏi cấp bách của việc loan báo Tin Mừng? Thưa trước hết, mỗi người không ngừng điều chỉnh lại nếp sống của bản thân, làm cho ánh sáng của Tin Mừng thực sự được tỏa sáng trên cuộc đời mỗi chúng ta qua những gương sánh và nếp sống tốt theo Tin Mừng. Tích cực làm nhiều việc lành việc tốt, việc nhân ái yêu thương đối với tha nhân, vì như Chúa đã nói: Cứ dấu này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thày là các con hãy yêu thương nhau.
Kế đến mỗi người hãy dành nhiều việc lành hy sinh, và miệt mài cầu nguyện cho công cuộc loan báo Tin Mừng, vì lời cầu nguyện có sức thay đổi thế giới và thay đổi lòng người, lời cầu nguyện sẽ nâng đỡ bước chân những nhà truyền giáo, sẽ an ủi các tin hữu đang gặp thử thách, và lời cầu nguyện còn có sức thay đổi và thúc đây bản thân mỗi người thêm hăng say và thao thức đem Chúa đến cho anh em; Đồng thời hảy tích cực tìm mọi cách, mọi cơ hội mọi điều kiện hiện tại để nói về Chúa Giêsu cho mọi người, đừng chờ đợi, đừng ngại ngùng, đừng bao giờ mặc cảm vì mình là môn đệ của Chúa.
Dù người Công giáo Việt Nam chỉ là một nhóm nhỏ, dù chúng ta đang bị xã hội và người đời cảnh giác đề phòng và coi chúng ta như những kẻ xấu xa phản loạn, những người mê muội lạc hậu… đừng mặc cảm tự ty về điều đó, nhưng mỗi người hãy mạnh dạn và thể hiện niềm hăng say của những người được sai đi, thể hiện niềm hạnh phúc và tự hào vì là con Chúa, vì mình được biết Chúa, đồng thời cố gắng sống tốt để cho mọi người hiểu chúng ta, xã hội tin chúng ta và những người chung quanh muốn làm bạn với chúng ta, và họ nhìn thấy Thiên Chúa ở nơi chúng ta.
Hãy bắt đầu công cuộc loan báo tin Mừng từ trong gia đình: các bậc làm cha mẹ hãy nuôi dưỡng nhiệt tâm tông đồ và lòng hăng say tuyền giáo cho chính mình, và truyền ngọn lửa thao thức ấy cho con cháu qua những giờ kinh giờ cầu nguyện của gia đình. Hãy chủ động để bước đến, làm quen với những nhà lương dân bên cạnh, và thể hiện tình yêu thương sự bác ái quảng đại với họ, hãy nói về Chúa Giêsu cho họ không chỉ bằng lời, nhưng bằng cách sống tốt của chúng ta đối với họ. Nơi giáo xứ, mọi người mọi gia đình trong giáo xứ cùng chung tay sát cánh với nhau và cùng với chủ chăn trong kế hoạch loan báo tin Mừng, qua nếp sống đạo đức siêng năng của các thành viên trong giáo xứ, qua việc năng lãnh nhận các bí tích để xin Chúa biến đổi bản thân và biến đổi giáo xứ nên cộng đòan yêu thương hiệp nhất.
Hãy thực hiện công việc giới thiệu Chúa Giêsu cho các bạn bè nơi trường học, cho các đồng nghiệp nơi công ty, cho những chị em nơi phố chợ, qua đời sống ngay thẳng thật thà, qua việc tôn trọng và bảo vệ của công, qua việc gạt bỏ khỏi mình sư gian tham dối trá, và không để mình bị lôi kéo và những trào lưu ảnh hương xấu của xã hội hôm nay.
Tuổi trẻ ngày ngay dễ để mình buông xuôi theo dòng chảy của cuộc sống, của xã hội, nhiều người còn cho rằng: Người ta làm sao tôi làm vậy. Suy nghĩ và hành động như thế, tức là đã đánh mất ý thức và niềm tự hào là người Công Giáo là con của Chúa. Trái lại hãy mạnh dạn để lội ngược dòng dù có bị bạn bè cười nhạo, hãy dám từ chối những điều xấu và những lối sống dễ dãi của ngày nay, và mạnh dạn nói với mình rằng: Người ta có thể làm được điều xấu, người khác có thể sống dễ dãi, nhưng vì tôi là con Chúa tôi sẽ không làm điều đó.
Xin Chúa thương nhìn đến cánh đồng lúa đã chín vàng và sai nhiều thợ lành nghề hăng say nhiệt thành, đến gặt lúa của Ngài. Amen.
49. Cánh cửa truyền giáo
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong bài báo: “Khi các sao Việt quy y cửa Phật”, tác giả Ngọc Hoa đã viết: là một trong những nữ diễn viên hàng đầu thời phim “Mỳ ăn liền” còn hoàng kim. Thế nhưng, Việt Trinh lại luôn lận đận về chuyện tình duyên. Những người đàn ông đã từng yêu Việt Trinh sau này đều dính đến pháp luật, chính điều đó đã khiến có người dành những lời không thiện cảm cho người đẹp này. Cùng thời gian đó, dòng phim “mỳ ăn liền” xuống dốc, Việt Trinh trở nên hụt hẫng, tuyệt vọng, có những lúc chị cảm thấy bi quan và chán nản cuộc sống.
Thế nhưng, chính trong những lúc tuyệt vọng nhất, một cánh cửa khác đã mở ra cho người phụ nữ đa truân này. Đó chính là Phật pháp. Vô tình đến với đạo Phật, Việt Trinh ngộ ra nhiều điều, chị tìm hiểu rõ hơn về đạo Phật, về nhân quả, nghiệp báo, bỏ tính nóng này, thậm chí còn làm phim liên quan đến đề tài này. Chính xác là từ năm 2001, chị quyết định đi theo đạo Phật bằng sự thành kính. Cô tâm sự:
“Cách đây không lâu, trong lúc tôi đang còn ngụp lặn trong biển khổ ái tình, tôi rất buồn, lúc nào cũng chỉ biết khóc, không biết làm sao để giải thoát khỏi mối tình cay nghiệt. Khi lồng tiếng cho phim Duyên Trần Thoát Tục, đọc tới đoạn Hòa thượng dạy cho Thường Chiếu: “Còn duyên thì hợp hết duyên thì tan”, tự nhiên tôi rùng mình, tự hỏi rằng tại sao mình phải ngụp lặn trong sự đau khổ của ái tình? Từ đó, tôi không vướng bận vào chuyện tình cảm đau khổ nữa”
Đối với những người theo đạo Phật thì Cửa Phật là nơi ẩn náu bình yên sau những vật lộn của thế gian. Họ sẽ tìm đến cửa Phật một khi không còn thấy hạnh phúc nơi phong trần. Họ quy y cửa Phật như nói lên quyết tâm của họ rũ bỏ đường trần để tìm sự thanh thoát bình yên nơi cửa Phật.
Còn đối với đạo Công giáo thì lý do nào khiến người ta trở về với Chúa? Chúng ta sẽ giới thiệu Chúa như thế nào để những người ngoại trở lại để náu nương, và những người lạc bước được sớm quay trở về? Chúng ta có con đường nào cho anh em quay trở về như cửa Phật đã từng rộng mở cho thiện nam tín nữ của họ?
Có lẽ điều này thì nơi đạo Phật dễ dàng hơn. Cửa Phật luôn rộng mở miễn là con người muốn quay trở về. Còn với đạo Công Giáo chúng ta thì còn phải trải qua rất nhiều thử thách trong thời kỳ dự tòng, phải học giáo lý, phải thể hiện ý hướng ngay lành, phải có lý lịch rõ ràng…
Có một người bạn ngoại đạo hỏi tôi: Người ta ai cũng muốn tự do thoải mái, vậy đi đạo làm gì cho mệt vì phải giữ quá nhiều luật lệ?
Và anh ta còn thêm: Luật lương tâm là đủ rồi, tại sao còn phải thêm biết bao luật do con người quy định hoặc thêm thắt vào?
Thực ra, ở đời, ai cũng muốn được tự do thoải mái, nhưng không phải vì thế mà mình muốn làm gì thì làm. Đối với chính bản thân, mình cũng cần có những nguyên tắc phải tuân thủ để bảo vệ và phát triển sự sống; trong tương quan với tha nhân (gia đình và xã hội) mình có những bổn phận, những trách nhiệm phải chu toàn nên cũng cần có những quy định ràng buộc. Đạo Thiên Chúa qui định những luật lệ đối với bản thân, gia đình, xã hội và Giáo hội là để giúp cho mọi người được sống an vui hạnh phúc. Ngoài ra, chúng ta còn có bổn phận tôn thờ Thiên Chúa, nên mỗi ngày bỏ ra 10 phút, mỗi tuần bỏ ra một tiếng đồng hồ để thờ phượng Thiên Chúa và cứu rỗi linh hồn thì đâu có gì là quá đáng, là mất tự do!
Phân tích như vậy thì đúng lắm! Nhưng làm sao để cho anh em lương dân cảm thấy nhẹ nhàng khi theo đạo thay vì sợ hãi vì cha quá khó, luật quá nhiều…? Luật Chúa, luật Giáo hội thì ít mà luật giáo xứ lại quá nhiều?
Chúa luôn mời gọi con người hãy đến với Chúa vì “ách của Chúa thì êm ái và gánh của Chúa thì nhẹ nhàng”, sao chúng ta lại chồng chất lên nhau quá nhiều những gánh nặng khiến đạo trở thành nặng nề, khó khăn cho biết bao người. Chúng ta sợ quá dễ dãi người ta sẽ bỏ đạo. Thế nhưng, quá khó khăn có chắc để họ giữ được đạo hay không? Bởi vì có rất nhiều người “nín thở qua sông”, học giáo lý, học kinh cho thật thuộc để lấy được vợ là thôi nhà thờ! Vậy phải làm thế nào để những người lương dân cảm thấy bình an khi đến với Chúa mà không cảm thấy khó khăn bởi những yếu tố bên ngoài tác động?
Hãy nhìn vào cung cách sống của Chúa Giêsu, Ngài đã sống hòa mình vào mọi hạng người để nâng đỡ, cảm thông và chia sẻ với họ. Ngài tạo mọi điều kiện cho con người đến với Chúa từ trẻ nhỏ, người già, người tội lỗi, tật nguyền đều có thể tìm thấy bình an khi đến với Chúa. Chính vì thế, mà Ngài luôn có một số rất đông đi theo Người.
Hãy nhìn vào Giáo hội sơ khai họ đã thành công khi sống bác ái huynh đệ với nhau, họ gom của cải vào của chung và chia sẻ cho nhau đến nỗi không một ai thiếu thốn trong cộng đoàn của họ, nhờ đó mà họ được toàn dân thương mến.
Cánh cửa Giáo hội công giáo luôn rộng mở nhưng quan yếu vẫn là thái độ của từng người công giáo chúng ta có rộng mở với anh em qua đời sống bác ái huynh đệ, luôn chia sẻ, cảm thông với mọi hạng người, luôn sẵn lòng đến với anh em trong tinh thần hiệp thông bác ái? Cuộc sống của người tín hữu chúng ta phải là cánh cửa của hiệp thông, của bác ái để có thể đón nhận và hòa nhập với mọi hạng người. Cuộc đời của chúng ta thực sự có bình an khi sống đạo mới có thể mang bình an chia sẻ cho tha nhân.
Nét son của đạo Phật là tại tâm. Nét son của Kytô giáo là yêu thương. Liệu rằng chúng ta có trở thành dấu chỉ tình yêu, của bình an và hy vọng cho anh em mình không?
Xin cho đời truyền giáo của chúng ta phải khởi đi từ những nghĩa cử yêu thương nhân hậu với tha nhân. Xin đừng là vật cản trở anh em đến với Chúa vì đời sống thiếu bác ái, thiếu lòng nhân từ của chúng ta. Amen.
50. Đưa anh em lưu lạc về nhà
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Hùng và Cường là hai anh em trong một gia đình hạnh phúc và êm ấm tại một thôn làng nhỏ ở miền Trung. Đời sống an bình bên luỹ tre xanh kéo dài chưa được bao lâu thì chiến tranh nổ ra dữ dội khiến gia đình Hùng và Cường phải theo đoàn người sơ tán.
Trên con đường lánh nạn, bom đạn vô tâm đã trút xuống đầu dân lành vô tội, gây nhiều cái chết đau thương. Dưới lằn bom đạn kinh hoàng, ai nấy cắm đầu chạy trối chết và rồi sau đó, khi đến nơi an toàn, cha mẹ của Cường không thấy Cường đâu nữa. Thế là cả ba người – cha, mẹ và Hùng- quay quắt tìm kiếm Cường suốt cả mấy ngày nhưng cũng hoài công. Bị lạc mất con, cha mẹ Cường gặm nhấm nỗi đau buồn suốt ngày nầy qua tháng khác.
Thương nhớ Cường, nên trong mỗi bữa ăn, khi dọn cơm lên, ngoài những chén cơm của hai ông bà và Hùng, cha mẹ còn dọn thêm cho Cường một chén, mặc dù Cường không hiện diện. Rồi khi dựng lại ngôi nhà mới, cha mẹ cũng dành riêng cho Cường một phòng, có cả giường, gối hẳn hoi, dù hiện thời không biết Cường lưu lạc phương nao.
Thường ngày, ông bà vẫn nhắc nhở Hùng hãy cố gắng cất bước tìm em: “Con ơi, lòng cha mẹ rất buồn đau, ngồi đứng không yên khi vắng bóng em con trong ngôi nhà nầy. Con đã khôn lớn rồi, con hãy lên đường tìm em về cho cha mẹ”.
Nghe lời cha mẹ nỉ non, Hùng cảm thấy chột dạ, nên cũng dạ dạ vâng vâng nhưng rồi mãi lo vui chơi với bạn bè, nên cũng chẳng cất bước tìm em.
Qua những lần sau, cha mẹ Hùng lại năn nỉ: “Xưa rày ở cùng cha mẹ, con được ăn ngon mặc đẹp, được cắp sách đến trường… nhưng em con có thể đang phải đói khát, thất thểu bơ vơ, không người săn sóc… Con hãy tìm kiếm và đưa em con về đoàn tụ dưới mái nhà nầy. Được thế, cha mẹ có nhắm mắt cũng an lòng thoả dạ…”. Lần nầy cũng như bao lần trước, Hùng cứ dạ dạ vâng vâng rồi để đó. Cậu cứ mãi lo việc mình, lo vui đùa với chúng bạn, không màng gì đến em…
Người cha người mẹ trong câu chuyện trên đây là biểu tượng của Thiên Chúa nhân lành. Hùng tượng trưng cho những người con trong gia đình Thiên Chúa. Cường tượng trưng cho những anh chị em còn đang ở ngoài.
***
Thiên Chúa là Cha chung của hết mọi người. Ngài yêu thương tất cả không trừ ai và đặc biệt yêu thương những người con lưu lạc. Đã bao lần Ngài van lơn và thúc giục chúng ta, những đứa con trong nhà, hãy đi tìm đứa em lưu lạc và đem nó trở về, nhưng chúng ta cứ dạ dạ vâng vâng… rồi để đó!
Là con cái trong nhà, hằng ngày chúng ta được Thiên Chúa cho ăn ngon mặc đẹp. Lời Chúa là thức ăn bổ dưỡng được Chúa trao ban hằng ngày. Chúa lại còn trao ban cả Mình Máu thánh Ngài để bồi bổ, tăng cường sức sống cho chúng ta. Chúa trang điểm chúng ta bằng bao lời khuyên dạy khôn ngoan giúp chúng ta trở thành người có phẩm chất cao đẹp. Chẳng có gì cần thiết cho đời sống tâm linh mà Chúa lại không cung cấp cho chúng ta.
Thế nhưng khi Chúa truyền dạy chúng ta lên đường tìm đứa em lưu lạc, đưa em về sum họp với gia đình để cùng chia sẻ cuộc sống ấm no hạnh phúc với mình thì chẳng mấy ai quan tâm.
Như thế, việc loan Tin Mừng, giới thiệu Đức Kitô cho lương dân và đưa họ về với Chúa là bổn phận phải làm vì đức ái, vì tình huynh đệ. Ai thoái thác là lỗi đức ái đối với anh em mình.
Ngoài ra, tất cả chúng ta, nhờ bí tích rửa tội, được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu, được trở thành chi thể của Ngài.
Là chi thể của Chúa Giêsu, chúng ta không thể từ khước tham gia vào công việc hệ trọng nhất của Ngài là Đầu và của Thân Mình Ngài là Hội Thánh.
Một chi thể không làm theo mệnh lệnh của đầu là một chi thể tê bại và một chi thể tê bại thì luôn gây cản trở cho hoạt động của toàn thân.
Vậy, lý do thứ hai khiến chúng ta phải tham gia truyền giáo vì đây là đòi buộc tất yếu đối với các chi thể của Chúa Giêsu. Chi thể nào không tham gia vào sứ mạng tối thượng nầy là tự tách mình ra khỏi Đầu là Chúa Giêsu và Thân Mình Ngài là Hội Thánh.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con chỉ muốn yên thân, yên phận trong căn nhà ấm cúng với đầy đủ tiện nghi. Phải ra đi, phải cất bước lên đường đến những nơi xa lạ, đương đầu với bao nhọc nhằn vất vả để đi tìm người anh em lưu lạc quả là một thách thức rất lớn đối với con.
Xin cho con có đủ nghị lực để đáp lại tiếng gọi khẩn thiết phát xuất từ nghĩa vụ và từ lòng yêu thương.
51. Sứ mạng truyền giáo là một hồng ân
(Suy niệm của Lm. Mặc Nhân)
Bằng những kinh nghiệm trong sứ vụ truyền giáo Thánh Phaolô đã khuyên nhũ Timôthê: “Người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (2Tm 3, 17). Hiệp thông với Giáo Hội trong ngày Chúa Nhật truyền giáo hôm nay, quả là một đòi hỏi cấp thiết và cần kiếp cho sứ vụ truyền giáo.
Trong Thông điệp “Sứ mạng Đấng Cứu Thế” số 11 đã trình bày lý do phải Truyền giáo là: ngoài mệnh lệnh của Đức Giêsu Kitô sai các môn đệ đi khắp thế giới rao giảng Tin Mừng, Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đặt nền tảng của việc truyền giáo trên quyền lợi cao quý nhất của con người, đó là quyền của con người được biết sự thật.
Đó là quyền mà Giáo hội luôn tôn trọng và luôn đòi hỏi người truyền giáo luôn ý thức phải nói cho người khác biết sự thật về phẩm giá cao quý của mình. Phẩm giá đó chính là việc Thiên Chúa yêu thương con người, mời gọi con người thông dự vào sự sống của Ngài, nhờ hồng ân cứu rỗi qua Đức Kitô.
Nơi Đức Giêsu, ngài đã thực hiện sứ vụ truyền giáo: “Tôi từ trời mà xuống không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi…Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”(Ga 6, 38-40).
Một sứ vụ được biểu hiện tinh thần vâng phục và yêu mến. Trong 04 Tin Mừng, thì Tin Mừng theo Thánh Gioan điều này nổi bật nhất: Vâng lời – Yêu thương và Hiệp nhất. Người truyền giáo là người muốn sống đời sống đạo đức, thì cũng có nghĩa là phải chịu bắt bớ cùng với Đức Kitô (2 Tm 3, 12).
Như vậy những người đi theo Đức Giêsu phải cùng sống trong yêu thương và hiệp nhất, để thế gian tin (Ga 17,21-32). Do đó, cộng đoàn được Chúa Giêsu sai đi làm chứng cho Ngài bằng sự hiệp thông của họ, như Ngài đã sống sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Như chính Ngài đã cầu nguyện: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta…; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con” (Ga 17, 20-23).
Trong Sắc lệnh Truyền giáo, Công đồng Vaticanô II cũng đề ra 3 lýdo:
– Chúa Giêsu trước khi về trời đã dạy: “Vậy Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em ” (Mt 28,19-20). Nên Hội Thánh phải vâng lời Đức Kitô mà thi hành sứ mạng truyền giáo cho muôn dân.
– Chúa Giêsu dạy: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án ” (Mc 16,15). Đây là tính chất công giáo tính của Giáo hội.
– Chúa Giêsu cũng mời gọi “Chính anh em là muối đất và ánh sáng trần gian” (Mt 5,13-14). Là những điều cần thiết để sống Hiến Chương Nước Trời.
Nhìn vào thực trạng của Giáo Hội hôm nay, người kitô hữu đang đánh mất dần căn tính Kitô của mình. Vì mọi áp lực trong cuộc sống giữa xã hội, vì đấu tranh sinh tồn nên nhiều giáo dân không còn bận tâm nhiều đến các nghi thức tôn giáo như dự lễ Chúa Nhật, lãnh nhận bí tích, thực hành luân lý Kitô giáo…Vì thế, các giá trị Tin Mừng trong cuộc đời của họ giống như những ngọn đèn leo loét đang cạn dần dầu và sắp phụt tắt trước những luồng gió mới của thời đại. Nghĩ rằng họ đáng thương hơn là đáng trách. Đó là những con người đang cần đến các nhà truyền giáo đến giữa họ, để nói cho họ về Đức Giêsu đang yêu họ, để đời sống đức tin của họ và con cháu họ được hồi sinh trong yêu thương và hiệp nhất.
Sứ vụ truyền giáo không tập trung cho một thành phần trong Giáo hội, mà tất cả mọi người con trong Giáo Hội đều được Chúa Kitô mời gọi và sai đi thực hiện sứ vụ truyền giáo. Một cách ý thức sâu xa hơn và được xác quyết trong lời nói Đức Giêsu: “ vì Tôi tự trời mà xuống không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. ” (Ga 6, 38). Như thế khi ta làm công việc truyền giáo, là ta tìm đến cùng đích để chiêm ngưỡng khuôn mặt của Chúa Cha mà tôn vinh Ngài. Đó cũng là quan điểm truyền giáo hiện nay của Giáo hội.
Vậy thì qua sứ vụ truyền giáo:
– Trước hết ta phải xác định không phải là một công việc nhưng là một hồng ân Thiên Chứa ban và ta cần phải đón nhận.
– Thứ đến, là phải tái truyền giáo chính bản thân mình, nghĩa là phải ăn năn hối cải, chỉnh sửa tinh thần sống được trở nên tốt trong khiêm nhường.
– Và cuối cùng thì chính ta phải là một chứng nhân. Vì con người ngày nay tin vào chứng nhân hơn là Thầy dạy.
Tất cả đều đòi hỏi chúng ta phải có đức tin. Đức tin đó đã được Đức Thánh Cha Phanxicô đề cập đến trong Sứ điệp truyền giáo năm 2013 như sau: “Đức tin là quà tặng quý giá của Thiên Chúa, không dành riêng cho một vài người nhưng được ban tặng một cách quảng đại. Tất cả mọi người đều có thể trải nghiệm niềm vui được Thiên Chúa yêu thương, niềm vui của ơn cứu rỗi! Nó là một món quà mà người ta không thể giữ riêng cho mình, nhưng để được chia sẻ. Nếu chúng ta muốn giữ nó cho riêng mình, chúng ta sẽ trở thành những Kitô hữu cô lập, son sẻ và bệnh hoạn”. (trích số 1 – sứ điệp truyền giáo 2013).
Ta có thể trở lại với bài Tin Mừng của chúa nhật hôm nay. Nếu Ông quan tòa không có đức tin thì ít ra ông ta cũng đã làm một việc mà bổn phận ông ta phải làm, đó cũng chính là phương cách sửa mình để những gì ta đang có một giá trị tương xứng. Và nếu nói về đời sống cầu nguyện, thì đó là một sự cố gắng để mình ý thức trách nhiệm, vai trò, bổn phận của một người kitô hữu trong sứ vụ truyền giáo, mà hình ảnh ông Môisen cố gắng giăng tay cầu nguyện để cho dân Israel được thắng trận là một bài học thích ứng cho người kitô hữu chúng ta.
Lạy Chúa, cánh đồng truyền giáo vẫn còn thiếu nhiều thợ gặt. Xin Chúa kiện toàn những gì Chúa đã khởi sự trong thế gian, để thế gian nhận biết Chúa mà chúc tụng, tôn vinh Chúa mãi đến muôn đời.
52. Lễ Truyền Giáo – Lc 24, 46-53
(Suy niệm của Lm Đoàn Quang CRM)
“Phải nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân”.
1. Bài Tin mừng hôm nay ngắn, nhưng rất cần nhớ, vì là những lời Chúa Giêsu dặn dò trước khi ly biệt các Tông đồ để về trời. Chắc Chúa có nhiều điều cần dạy, nhưng Ngài chỉ dạy: Các con phải giảng dạy cho người mọi dân về “Đức Kitô đã chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem”.
Tại sao Chúa dạy vắn tắt như vậy? Vì Người đã xuống thế mở đường cứu rỗi cho người Do thái, nhưng còn bao nhiêu người trên địa cầu cũng cần được cứu.
Ngài đã hứa ban Chúa Thánh Thần đến hướng dẫn bên trong, và nhờ các Tông đồ, các môn đệ của Ngài làm việc rao giảng ấy bên ngoài.
* Qua 2 ngàn năm, các cấp bậc trong Giáo hội đã vâng lệnh Chúa, nhất là các nhà truyền giáo hi sinh bỏ cha mẹ, quê hương đi rao giảng đạo Chúa khắp thế giới.
Việt Nam ta cũng nhờ các nhà truyền giáo người Pháp, người Tây ban nha sang khó nhọc rao giảng và còn đổ máu tưới cho cây Giáo hội Việt nam tươi tốt trong 300 cấm đạo dã man. Cám ơn các Ngài muôn vàn.
* Hiện nay năm 2012, số người trên địa cầu là 7 tỉ người, trong đó mới có hơn 1 tỉ người Công giáo, còn bao nhiêu linh hồn cần cần được cứu rỗi.
2. Nhưng thật buồn, nhiều người sống phất phơ như không care về ơn cứu rỗi, nhiều người có care nhưng sơ sơ, nhu cầu sinh sống vật chất đời này cần hơn, quan trọng hơn. Họ theo lý thuyết “có thực mới vực được đạo”, rồi lơ đạo luôn.
3. Tôi có thể làm gì để thi hành lời Chúa dạy?
– Tôi không đi giảng được. Không sao.
– Tôi bận rộn làm ăn sinh sống. Không sao.
* Nhưng chắc bạn có thể cầu nguyện vắn tắt, dễ dàng như Chúa Giêsu dạy trong sách ” Chúa Giêsu ngỏ lời với thế giới: Hãy làm tác động mến yêu: “Giêsu Maria Giuse con mến yêu, xin cứu rỗi các linh hồn”. Mỗi lời cầu sốt sắng thành tâm là cứu rỗi một linh hồn đấy. Linh hồn còn sống, linh hồn tội lỗi, linh hồn vô thần, linh hồn luyện ngục… (ngày 20-6-1940)
* Chắc bạn có thể hi sinh làm trọn bổn phận, vui chịu đau khổ, và kết hợp với máu cứu chuộc của Chúa, cứu nhiều linh hồn?
Một hôm, Chúa xin nữ tu Beninha, Chúa nói: Bêninha, cho Cha các linh hồn? Chị hỏi: -Giêsu, con làm cách nào để cho Chúa? Chúa trả lời: Bằng hy sinh, con ạ! Các linh hồn sẽ không được cứu chuộc, nếu người ta không hy sinh gì cho họ. Phần Cha, Cha đã chết trên thánh giá để cứu chuộc họ… Cha không xin con những hy sinh lớn lao, Cha chỉ xin con hãm một lời nói, dẹp một cái nhìn, cắt đứt một tư tưởng vui thích… Những cái nhỏ mọn đó, hợp nhất với công nghiệp vô cùng của Cha, sẽ cứu nhiều linh hồn. (Tình dịu dàng CGS, TTĐM xb,1994, trg 108).
Tại Fatima, Đức Mẹ cũng nói y như Con của Mẹ: “Nhiều linh hồn phải sa hỏa ngục, vì không có ai cầu nguyện và hi sinh cho họ” (hiện ra lần 4 ngày 15-8-1917)
Mời bạn làm những gì trong tầm tay của bạn thôi nhá. Chúa hài lòng với bạn đấy.
Truyện:
Cô Sophia được mướn đến trông coi 3 đứa nhỏ cho một gia đình. Ngày đầu tiên ông chủ đã nói: Trông coi con nít nhưng không được giảng đạo Công giáo. Cô viết mấy chữ vào một mảnh giấy, nhét sau bức ảnh Đức Mẹ. Cả ba đứa trẻ tò mò đòi coi, nhưng cô không cho.
– Đây là điều bí mật, không ai được coi.
Ba đứa trẻ càng ngày càng ngoan ngoãn, học giỏi, dễ thương.
Mùa đông năm ấy, ba đứa thay nhau vào nằm điều trị tại bệnh viện. Cô tình nguyện chăm sóc chúng ngày đêm. Tới lượt cô ngã bệnh. Sưng phổi. Ho loặc quặc, vì quá lao lực. Cô đã từ trần.
Hai năm sau, người ta thấy gia đình ông chủ cũ đi dự lễ nhân ngày qua đời của cô Sophia. Bức ảnh Đức Mẹ cũ của cô bị vứt xó.
Tình cờ một hôm bị vỡ tan mặt kính. Ông chủ mở ra, một hàng chữ hiện ra trước mặt ông: “Người ta cấm không cho tôi giảng đạo Công giáo, nhưng tôi sẽ giảng bằng đời sống của tôi, để làm chứng nhân cho Chúa”.
Sophia đã thực hành quyết định trên bằng lao công của cuộc đời. Đáng khen chừng nào.
4. Chúa muốn tôi làm gì?
– Xin Mẹ Maria giúp con sốt sắng thực hành lời Chúa dạy là cầu nguyện, hi sinh trong bổn phận con để cứu thật nhiều linh hồn cho Nước Chúa.
“Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài, để tất cả những ai tin vào Ngài, thì được sống đời đời. (Ga 3, 16)
(Loan báo tin vui -Don Hồ hát)
53. Loan báo Tin Mừng trong xã hội hôm nay
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Trước khi về trời, Đức Giê-su đã truyền cho các môn đệ tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước Trời khắp thế gian. ai tin và chịu phép rửa thì sẽ nên dưỡng tử của Thiên Chúa và được hưởng ơn cứu độ. Còn kẻ không tin là đã tự loại mình ra khỏi Nước Trời và sẽ bị kết án. Cuối cùng Đức Giê-su còn hứa ban cho các ông quyền làm nhiều phép lạ. Các môn đệ đã vâng lời Thầy đi khắp nơi loan báo Tin Mừng.
CHÚ THÍCH:
– C 15-16: + Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ: Trong thời gian 3 năm rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su chỉ được sai đến cùng các con chiên lạc của nhà Ít-ra-en. nhưng sau khi phục sinh, Người đã trao cho các Tông đồ sứ mạng truyền giáo phổ quát là đến với muôn dân + Loan báo Tin Mừng: theo Hy ngữ, Tin Mừng (Euaggelion) là một “Tin Vui, Tin Mừng”. Có thể hiểu Tin Mừng Đức Giê-su theo hai nghĩa: Một là chính “Tin Mừng được Đức Giê-su công bố”. Hai là “Tin Mừng về Đức Giê-su”, Đấng ban ơn cứu độ nhờ mầu nhiệm chết và sống lại của Người. + cho mọi loài thọ tạo: Nghĩa là mọi dân mọi nước (x. Mt 28,19). + Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ: Tin là mở lòng đón nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. Chịu phép rửa là nhận ơn tha tội và ơn tái sinh để nên người mới, nên dưỡng tử của Thiên Chúa để được sống đời đời.+ còn ai không tin thì sẽ bị kết án: Thực ra, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ (x Ga 3,17). Còn những kẻ không tin thì đã bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa. Họ giống như cành nho bị tách lìa khỏi thân cây là Đức Giê-su, nên sẽ bị khô héo và bị quăng vào lửa đời đời (x. Ga 15,5-6). + Riêng những người không tin Đức Giê-su nhưng không phải do lỗi của họ thì có được Chúa ban ơn cứu độ không?: Những ai tuy không biết Đức Ki-tô, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành, thì Chúa sẽ lo liệu cho họ có đủ phương tiện cần thiết để được rỗi linh hồn. Chỉ những kẻ cố tình làm tay sai cho ma quỷ, ra tay làm điều gian ác và không chịu hồi tâm sám hối thì chắc sẽ bị sa vào hỏa ngục. Vì hỏa ngục được lập ra “dành cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25,41).
– C 17-18: + Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: Ngay trong thời gian giảng đạo, khi sai các Tông đồ đi thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông quyền trên các thần ô uế để các ông xua trừ chúng và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền trong dân (x. Mt 10,1-5). Giờ đây trước khi về trời, Đức Giê-su lại trao quyền làm các dấu lạ cho các ông. + Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe: Khi viết Tin Mừng (khoảng năm 65), thánh Mác-cô đã nghe biết các phép lạ do các Tông đồ thực hiện. Chẳng hạn: vào lễ Ngũ Tuần, các ông đã được đầy ơn Thánh Thần, bắt đầu nói các thứ tiếng khác lạ (x. Cv 2,4). Thánh Thần cũng ngự xuống trên gia đình Co-nê-li-ô và cho họ nói các thứ tiếng lạ (x. Cv 10,44-46). Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân nhờ bàn tay của các Tông đồ (x. Cv 5,12). Ông Phê-rô đặt tay trên bệnh nhân hoặc chỉ cần bóng của ông phớt qua đã đủ để họ được lành bệnh, và thần ô uế cũng phải xuất ra (x. Cv 5,15-16). còn Tông đồ Phao-lô thì chữa lành một người bị bại chân tại Ly-tra (x. Cv 14,8-10); Tại đảo Man-ta, Phao-lô đã bị rắn độc bám vào tay mà không hề hấn gì (x. Cv 28,1-6); Ông cũng đã cầu nguyện và đặt tay chữa lành nhiều bệnh nhân (x. Cv 28,8-9); Ngay cả chiếc áo ông mặc qua cũng có năng lực làm cho cơn bệnh biến đi và tà thần phải xuất ra (x. Cv 19,11; 20,9-12).
– C 19-20: + Chúa Giê-su được rước lên trời: Như Ê-li-a thời Cựu Ước đã “lên trời trong cơn gió lốc”(2 V 2,11), thì thân xác Đức Giê-su cũng được rước lên trời trên các tầng mây, và từ nay Người không còn lệ thuộc vào không gian thời gian như khi còn sống nữa. + và ngự bên hữu Thiên Chúa: Đức Giê-su đã được Chúa Cha tôn vinh, được vào trong vinh quang của Chúa Cha, với quyền cai trị vũ trụ (x. Mt 28,18; Ep 1,21-22). + ra đi rao giảng khắp nơi: các Tông đồ đã vâng lời Chúa Giê-su, đi rao giảng Tin mừng, làm chứng cho Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 1,8). + có Chúa cùng hoạt động với các ông…: Từ đây, Chúa Ki-tô sẽ luôn hiện diện trong Hội thánh (x Mt 28,20). Người ban Thánh Thần để Hội thánh tha tội cho người ta như Người đã làm (x Ga 20,21-22). Người cũng hứa ban cho Hội thánh làm được những việc lớn lao hơn Người nữa, đó là đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc với quyền năng Thánh Thần giúp sức (x Ga 14,12).
CÂU HỎI:
1) Mầu nhiệm Phục sinh có tầm quan trọng thế nào đối với sứ mệnh được sai đi? Các Tông đồ được Đức Giê-su sai đến với những ai?
2) Tin Mừng Đức Giê-su có những ý nghĩa nào?
3) Phải có những điều kiện nào để được hưởng ơn cứu độ của Đức Giê-su?
4) Những ai chắc chắn sẽ bị sa vào hỏa ngục? Những người chưa có đức Tin, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành có được hưởng ơn cứu độ không?
5) Trong thời gian giảng đạo, khi sai môn đệ đi thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông những quyền gì?
6) Trước khi về trời, Đức Giê-su trao sứ mệnh loan Tin mừng cho các Tông đồ kèm theo những dấu lạ nào?
7) Lời Chúa phán về các dấu lạ kèm theo Lời rao giảng của các Tông đồ đã ứng nghiệm như thế nào trong thời Giáo Hội sơ khai?
8) Thời Cựu Ước, Ngôn sứ nào được rước lên trời? Thời Tân Ước hai nhân vật nào cũng được lên trời? Chúa Giê-su thăng thiên khác với việc mông triệu của Đức MA-RI-A thế nào?
9) Người lương dân luôn ăn ngay ở lành mà chết, có được hưởng ơn cứu độ của Chúa Giê-su không?
10) So sánh Lời Chúa Giê-su truyền cho các Tông đồ trước khi lên trời là “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…”(x Mt 28,19) và “Hãy nên chứng nhân của Thầy…” (x Cv 1,8) giống và khác nhau thế nào?
11) Sau khi lên trời, Chúa Giê-su còn hiện diện trong Hội thánh nữa không?
12) Từ đây, Chúa Thánh Thần được ban cho Hội thánh với sứ mạng gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
2. CÂU CHUYỆN: Viên nhạc sĩ và chiếc vĩ cầm quí giá
PHÍT KÂY-DƠ-LÊ (fritz kreisler) (1875-1962) là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng khắp thế giới. Ông đã tạo được một tài sản đồ sộ nhờ các buổi hòa nhạc và soạn nhạc, nhưng lại hào phóng cho đi gần hết những của cải kiếm được. Do đó, trong một chuyến đi lưu diễn, ông phát hiện ra một cây vĩ cầm rất đẹp và âm thanh của nó nghe thật tuyệt vời, nhưng ông lại không có đủ tiền để mua ngay. Sau một thời gian để dành, khi ông mang tiền đến mua thì cây vĩ cầm kia đã được bán cho một nhà sưu tầm nhạc cụ. Phít theo địa chỉ tìm đến chủ nhân mới của cây vĩ cầm để xin được mua lại. Nhà sưu tầm lúc đầu không muốn bán, vì theo ông ta cây đàn này là một bảo vật quí giá. Phít cảm thấy chán nản thất vọng. Tuy nhiên trước khi ra về, ông nảy ra sáng kiến và nói với người chủ mới của cây đàn như sau: “Tôi xin phép được chơi một bài trước khi cây đàn này bị rơi vào cỏi thinh lặng”. Được chủ nhân đồng ý, viên nhạc sĩ tài ba này đã làm cho ông chủ cây đàn vô cùng xúc động khi nghe được tiếng đàn du dương réo rắt của nó qua bàn tay tài hoa của ông, đến nỗi ông ta đã phải thốt lên: “Này Kây-dơ-lê ơi! Tôi không có quyền giữ cây đàn này. Nó thuộc về ông. Ông hãy đem nó đi khắp thế giới, để thiên hạ được thưởng thức âm thanh tuyệt vời của nó”.
3.THẢO LUẬN:
1) Thánh Têrêxa nhỏ đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh của chị? Bây giờ có hợp thời không?
2) Mẹ Têrêxa hiến đời mình cho người cùng khổ, bệnh tật, không phân biệt tôn giáo, màu da… Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo này? Nó có đánh động trái tim con người hôm nay không?
3) Trong xã hội ngày nay, chúng ta cần rao giảng Tin Mừng cho anh em lương dân bằng cách nào để đạt được hiệu quả nhất?
4. SUY NIỆM:
1) Tại sao phải truyền giáo?:
Có người lên tiếng chỉ trích công việc truyền giáo của Hội thánh Công giáo cho lương dân. Theo họ: “Đạo nào cũng tốt vì đạo nào cũng dạy người ta phải ăn ngay ở lành và đều bắt nguồn từ Trời, nên cần chi phải rao giảng về đạo Công giáo cho ngừoi ta? Tốt hơn là cứ khuyên họ hãy sống thật tốt theo đúng tôn chỉ của đạo giáo mà họ đang theo”. Thực ra, nếu xét về mặt luân lý tự nhiên thì xem ra mọi tôn giáo đều tốt và đều dạy người ta hướng thượng, ăn ngay ở lành, giữ đức công bình và sống từ bi nhân ái. Nhưng về mặt tín lý, giáo lý của các đạo giáo chỉ là thứ chân lý chủ quan, có nhiều sai lạc và làm méo mó đi hình ảnh của Thiên Chúa. Do đó, các tôn giáo nói chung không thể có giá trị ngang nhau cả về tín lý và luân lý. Ta có thể ví chân lý của các tôn giáo giống như ánh sáng lờ mờ của cây đèn dầu, và có tôn giáo còn sai lầm khi thờ lạy những con người hay thú vật để được chúng ban ơn… Còn chân lý của đạo Công giáo thì phát xuất từ Đức Giê-su là Con Thiên Chúa làm người nên đạo của Người đáng tin như Người đã nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống…. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6). Đạo Công giáo ví như ánh sáng chói chan của mặt trời chính ngọ, giúp các tín hữu nhận biết, tôn thờ yêu mến một Thiên Chúa tòan năng chân thật, nhờ đó, họ sẽ nhận được hạnh phúc và sự sống đời đời như công đồng Vaticanô II đã dạy: “Tất cả những gì tốt lành chân thật trong các tôn giáo chỉ có giá trị như để chuẩn bị cho họ lãnh nhận Tin Mừng, và như một hồng ân mà Đấng soi sáng mọi người ban cho, để cuối cùng họ sẽ được sống đời đời” (LG số 16).
Để qui tụ tất cả con cái loài người đã bị tội lỗi làm cho tản mác và đi lạc đường, Thiên Chúa muốn tập họp toàn thể loài người trong Hội thánh của Đức Giê-su là Con yêu dấu của Ngài. Hội thánh là nơi loài người tìm thấy Thiên Chúa và sẽ được hưởng ơn cứu độ. Hội thánh là thế giới đã được hòa giải, là con tàu giúp vượt đại dương trần gian nhờ cơn gió mạnh là Thánh Thần, với cánh buồm là thánh giá Đức Ki-tô. Hội thánh cũng được ví như con tàu của tổ phụ Nô-e giúp loài người thoát khỏi cơn lụt đại hồng thủy (x. 1 Pr 3,20-21).
2) Sứ vụ truyền giáo của Hội thánh bắt nguồn từ đâu?:
Đức Giê-su đã trao sứ vụ truyền giáo cho các môn đệ trước khi lên trời “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20). Người cũng dạy môn đệ hãy làm chứng nhân cho Người: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri-a và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Như vậy sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn phận phải làm chứ không phải là một việc theo sở thích như lời thánh Phao-lô: “Đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng.” (1 Cr 9,16). Công việc truyền giáo đòi hỏi nhiều kiên trì dù có gặp thất bại, dù thân xác đã bị mệt mỏi rã rời và cả khi gặp những trắc trở như lời thánh Phao-lô: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tim 4,2). Nhờ ơn Thánh Thần của Chúa Phục Sinh trao ban, Hội thánh thời sơ khai đã hăng hái chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời đi khắp thế gian. Các Tông đồ nhờ ơn soi dẫn của Chúa Thánh Thần, đã sống đơn giản vị tha, quảng đại chia sẻ và khiêm tốn phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ những người bất hạnh để giới thiệu Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế cho mọi dân mọi nước, để ai tin và chịu phép rửa tội sẽ được gia nhập Nước Trời hầu được hưởng ơn cứu độ là sự sống vĩnh hằng đời này và đời sau. Còn những kẻ cố chấp không tin vào Đức Giê-su là tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ do Người mang đến.
3) Truyền giáo cụ thể là truyền điều gì?:
Truyền giáo không phải chỉ là rao giảng một số chân lý về Chúa, nhưng là truyền đức tin mà chính mình đã có sau khi gặp gỡ Chúa, truyền đức tin ấy cho những người chưa biết Chúa để họ cũng tin thờ yêu mến Chúa như mình, như An-rê sau khi tin nhận Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, đã giới thiệu Người cho em mình là Si-mon (x. Ga 1,40-42). Hoặc như ông Phi-lip-phê sau khi gặp và tin Đức Giê-su đã dẫn bạn mình là Na-tha-na-en đến gặp Người (x. Ga 1,45-51). Truyền giáo bằng cách truyền lòng tin yêu Chúa sẽ có sức lay động lòng người hơn là chỉ trình bày giáo lý cho người chưa tin.
Để chu toàn sứ mạng thông truyền đức tin cho người khác, trước hết chúng ta cần phải củng cố đức tin của mình vào Đức Giê-su, bằng việc năng đọc và suy niệm Lời Chúa dưới ơn soi dẫn của Chúa Thánh Thần và cầu xin Chúa gia tăng lòng tin cậy mến cho mình, trước khi “đi bước trước” chủ động làm quen với người chưa nhận biết Chúa, theo cách Đức Giê-su đã làm bên bờ giếng Giacóp: Người đã mở lời xin nước uống với người phụ nữ Samari để làm quen, rồi sau đó đã từng bước trình bày cho chị về thứ Nước Hằng Sống Người sẽ ban cho những ai tin Người (x. Ga 4,7-10). Rồi sau khi đã tin Đức Giê-su là một Ngôn sứ, chị ta đã trở về làng nói về Đức Giê-su cho dân làng và dẫn họ đi ra bờ giếng để gặp Người (x Ga 4,25-30).
4) Phải truyền giáo bằng cách nào cho hữu hiệu?:
Ngày nay mỗi tín hữu do đã nhận được ơn do bí tích rửa tội và thêm sức, cũng có sứ vụ góp phần với Hội thánh để đi loan báo Tin Mừng Nước Trời cho những người chưa tin bằng các việc như sau:
– Bằng việc “tân phúc âm hóa” đời sống của mình và gia đình mình:
Truyền giáo là làm chứng cho Chúa. Để làm chứng cho Chúa, trước hết chúng ta phải hiểu biết Chúa và tin yêu Chúa. Một người không tin Chúa hoặc chỉ có đức tin nông cạn thì không thể “nói về Chúa” cách hữu hiệu được. Tiếp đến, người làm chứng phải có một cuộc sống tốt lành thì lời chứng mới đáng tin và có sức thuyết phục người khác tin theo. Thực vậy, một người nói về Chúa mà không sống những điều mình nói thì không thể làm cho người nghe tin được, có khi họ lại còn nói sai về giáo lý của Hội thánh nữa. Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam gần đây đã kêu gọi các thành phần Dân Chúa, nhất là các linh mục, hãy nhiệt thành cộng tác để đổi mới phương cách loan báo Tin Mừng cho phù hợp với thời đại hiện nay, nhờ đó, hy vọng sẽ đem lại cho Hội thánh Việt Nam một mùa lúa chín dồi dào. Nói cụ thể, các vị chủ chăn muốn mỗi người tín hữu công giáo chúng ta hãy dành thời giờ và tâm huyết cho việc “Phúc-Âm-hóa gia đình”, tức là liệu sao cho việc học giáo lý hôn nhân được nghiêm túc hơn, và tổ chức thường xuyên giờ Kinh Tối gia đình theo hướng canh tânm nghĩa là thêm phần suy niệm Lời Chúa. Những việc làm đó sẽ giúp củng cố tình yêu giữa các thành viên trong gia đình và giúp giáo dục Đức tin ngày một tốt hơn cho các thế hệ tương lai.
– Bằng cuộc sống chan hòa tình thương giữa cộng đoàn:
Thời Hội thánh sơ khai chính tình yêu thương nhau giữa các thành viên trong cộng đoàn đã khiến toàn dân thương mến (Cv 2,47a), thì sự hiệp nhất yêu thương giữa cộng đoàn xứ đạo hôm nay cũng sẽ gây được thiện cảm của anh chị em lương dân sống bên cạnh. Đó cũng là phương cách để “càng ngày càng có nhiều người gia nhập Hội thánh” (Cv 2,47b). Thế nên, tinh thần truyền giáo mời gọi chúng ta hãy quan tâm giúp đỡ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả vật chất nữa, không chỉ trong nội bộ người công giáo mà còn cả với những anh em lương dân đang sống chung quanh. Đồng thời tình thương này bao gồm xóa bỏ những sự hận thù ganh ghét giữa người này với người kia trong cộng đoàn, mỗi người luôn sống bác ái huynh đệ, “dĩ hòa vi quý”, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau để biến giáo xứ trở thành một cộng đoàn chan hòa yêu thương, chia sẻ và cảm thông với nhau. Đó chính là dấu chỉ chúng ta là môn đệ đích thực của Chúa Giê-su và nên chứng nhân Tin mừng giữa lòng xã hội Việt Nam hôm nay.
– Bằng việc “đi bước trước” đến với anh em lương dân:
Cụ thể, trong những ngày này, mỗi người tín hữu sẽ noi gương Mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta kết thân với một người lương, coi họ như anh chị em trong gia đình ruột thịt để năng quan tâm giúp đỡ họ. Mỗi gia đình công giáo sẽ kết thân với một gia đình lương dân, sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi: Khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc, hai bên nên mời nhau đến chia sẻ tình hiệp thông để thắt chặt mối giây thân ái. Nhờ đó, Tin Mừng sẽ ngày một lan truyền từ người này sang người khác giống như ánh nến thánh lễ đêm Vọng Phục Sinh được truyền từ người này sang người khác bên cạnh.
– Bằng việc chia sẻ ngọn lửa yêu thương cách cụ thể:
Mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta đã nêu gương truyền giáo bằng việc chia sẻ ngọn lửa yêu thương cụ thể. Mẹ không giảng Tin Mừng bằng lời nói, nhưng bằng tâm tình yêu mến kèm theo cử chỉ thân thương đối với những người nghèo đói bệnh tật và bị bỏ rơi. Mẹ cũng không chủ trương yêu người cách chung chung, nhưng là yêu từng con người cụ thể gặp được trong cuộc sống. Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là yêu thương từng người một. Để thương yêu một người thì trước tiên phải đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người vì mỗi người đều là hiện thân của Đức Ki-tô… Người đó phải là con người duy nhất trên thế gian trong giây phút đó.” Với tâm tình nầy, Mẹ Tê-rê-xa đã thu phục nhân tâm của nhiều người trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo hội công giáo Hàn Quốc đã gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong mười năm!
5. NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay là ngày thế giới truyền giáo. Xin giúp chúng con trở nên chứng nhân giúp người khác nhận biết và tin yêu Chúa bằng lời nói việc làm của chúng con:
Giữa một thế giới chỉ biết chạy theo các tiện nghi để hưởng thụ, xin cho chúng con biết chấp nhận cuộc sống đơn sơ trong cách ăn ở và tiêu dùng của cải vật chất.
Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho chúng con tránh thói tham lam, chỉ lo thu tích cho mình, nhưng biết quảng đại chia sẻ cho người bất hạnh.
Giữa một thế giới khinh thường người nghèo, xin cho chúng con biết quí trọng phẩm giá của mọi người.
Giữa một thế giới bị mất phương hướng, xin cho chúng con giúp họ nhận biết tin yêu Chúa và phục vụ tha nhân, hầu tìm thấy ý nghĩa cuộc đời.
– Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con, nếu Hội thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất tà trái tim, một trái tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội thánh vắng bóng tình yêu, thì các Tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình… Lạy Chúa Giê-su, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội thánh: nơi Trái Tim Hội thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện (Th Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su).
X. Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
54. Truyền Giáo: Chuyện không của riêng ai
(Suy niệm của Huệ Minh)
Chúa Giêsu không ở trần gian mãi, đến kỳ hạn, Chúa Giêsu lại trở về cùng Cha bởi lẽ Ngài xuất phát từ Cha.
Trước khi chia tay với các môn đệ thân tín ở Galilê, ở cái ngọn núi mà các môn đệ được dặn trước và từ đó Ngài về Trời cùng Cha như đã loan báo. Ta bắt gặp lời trối trăng của Chúa Giêsu với các môn đệ rằng: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Thi thoảng, ta lại bắt gặp lời trăn trối đó và lòng ta lại “được” chất vấn trước lời trăng trối của Chúa Giêsu. Để sống đúng nghĩa và đúng chất với lời mời gọi của Chúa Giêsu không phải là chuyện dễ dàng. Đơn giản là ta nhìn vào con số tỷ lệ giữa người Công Giáo và không Công Giáo tại Việt Nam và nhìn vào con số theo đạo Công Giáo tại Việt Nam thì ta sẽ rõ.
Hẳn nhiên vẫn có con số gia tăng vởi trẻ con của những gia đình có đạo cũng cất tiếng khóc chào đời để rồi được rửa hội và ta có thể gọi là rửa tội tự nhiên. Còn một thể thức rửa tội xem ra tự nhiên mà cũng không tự nhiên tí nào đó là phương thức rửa tội của những người dự tòng để lập gia đình với người bạn đời của mình. Tính như thế, ta sẽ thấy được con số thực của việc truyền giáo trong Giáo Hội ngày hôm nay.
Tỷ lệ người tự nguyện rửa tội chứ không phải tự nhiên ta ngồi nhẩm được bao nhiêu? Và từ đó, ta lại nhìn lại cung cách sống của ta nhất là với lời mời gọi của Chúa.
Phải nói rằng, điều đầu tiên và căn cốt nhất để người khác không theo đạo, không thiển cảm mấy về đạo Công Giáo đó chính là cung cách sống của người Kitô hữu. Đức cố giáo hoàng Ðức thánh Phaolô VI đã nói rất thấm thía trong Tông huấn Loan báo Tin Mừng như sau: “Người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn các thầy dạy. Nếu họ có nghe các thầy dạy là bởi vì thầy dạy cũng chính là chứng nhân”.
Và rồi, tư tưởng của Nathan Soderblum: ” Thánh nhân là những người có thể làm cho người khác dễ tin vào Chúa hơn”.
Thế đó, để người khác tin vào Chúa thì chỉ có duy nhất một con đường cho người Kitô hữu là phải sống, sống như thế nào để người khác tin rằng nơi mình có sự hiện diện của Chúa để rồi tự khắc người ta theo Chúa.
Nhìn vào thực tại truyền giáo tại Việt Nam chúng ta có điều gì đó lợn cợn. Lợn cợn bởi lẽ đã qua nhiều năm, nhiều cách thức, nhiều nẻo đường truyền giáo nhưng rồi ta lại thấy thu lượm kết quả không là bao và chính trong kết quả đó cũng không được có cái gì gọi là bảo đảm.
Thực tại ta thấy ngày hôm nay đó là cảm thức đức tin. Chính người Kitô hữu dù đã có Chúa Kitô, dù đã mang trong mình dấu ấn của Kitô rồi nhưng rồi lại không diễn tả một niềm tin Kitô ngay trong cuộc đời của mình. Và ta thấy vẫn còn cái gì đó, điều gì đó mang dáng dấp của cái nhãn, cái mác bên ngoài mà thôi.
Cái nhãn, cái mác đó dù đẹp, dù hay và thậm chí có dán tem như sản phẩm lan tràn ở thị trường ngày hôm nay làm cho ta nhiều suy nghĩ.
Thánh Giacôbê đã không ngần nại để nói thẳng rằng: “Ai bảo mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Ðức tin có thể cứu người ấy đợc chăng? Giả như có một người anh em hay chị em không có áo che thân, và không đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2,14-15). Chính nhờ công việc, nhờ việc làm mà củng cố lời rao giảng.
Lời rao giảng, giới thiệu của Gioan tẩy giả về Chúa Giêsu trở nên đáng tin đến độ có những môn đệ của ông đã xin làm môn đệ của Chúa Giêsu. Bởi vì ông đã sống hết mình với sứ điệp ông rao giảng. Ông mời gọi người ta ăn năn sám hối đón đợi Ðấng Cứu Thế thì chính ông đã là mẫu gương của người sám hối, chờ mong. Nhìn nhận Ðấng Cứu Thế, ông tự làm cho mình trở nên bé nhỏ, từ chối những vinh dự mà dân chúng thời đó muốn suy tôn ông, để giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người, cho những môn đệ của mình. Ông đã để cho môn đệ của mình đi theo làm môn đệ Chúa Giêsu, một người lúc đó còn vô danh chưa ai biết đến.
Không phải tất cả chúng ta đều có điều kiện để giới thiệu, để rao giảng Chúa Giêsu cho người khác. Nhưng tất cả chúng ta đều có ơn gọi làm chứng cho ngài bằng đời sống của chúng ta, và bổn phận đó nằm trong tầm tay của chúng ta, từ em thiếu nhi cho đến cụ già. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận của mình với trách nhiệm làm người, làm con Thiên Chúa. Và khi chúng ta sống đúng đắn tư cách, bổn phận là người, là con Thiên Chúa, chúng ta đã trở nên chứng nhân cho Chúa , là ánh sáng cho thế gian.
Ta cần và cần lắm khi truyền giáo ngay chính gia đình của ta và gần hơn nữa là truyền giáo cho chính bản thân chai lỳ của chúng ta.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta làm mới con người chúng ta từ lời ăn tiếng nói, cách hành xử để rồi người khác nhìn vào chúng ta họ nhìn thấy một Thiên Chúa sống động đang ở trong chúng ta. Chính khi sống như thế, ta đã người truyền giáo rồi. Xin Chúa thêm ơn và chúc lành cho chúng ta.