SUY NIỆM TIN MỪNG LỄ CHÚA BA NGÔI – NĂM B

Suy niệm LỄ CHÚA BA NGÔI – Năm B
Lời Chúa: Dnl 4,32-34.39-40; Rm 8,14-17; Mt 28,16-20
MỤC LỤC
1. Chúa Ba Ngôi …….4
2. Chúa Ba Ngôi …….6
3. Chúa Ba Ngôi. …….8
4. Hiệp nhất trong yêu thương – Lm. Ignatiô Trần Ngà …..10
5. Suy niệm của Lm. ViKiNi ……13
6. Lễ Đức Chúa Trời Ba Ngôi …….16
7. Thiên Chúa là tình yêu ……19
8. Lễ Chúa Ba Ngôi – R. Veritas …….32
9. Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi ……35
10. Tình yêu hiệp nhất – Thiên Phúc …….38
11. Yêu thương và hiệp nhất như Ba Ngôi Thiên Chúa ……41
12. Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào SDB …….45
13. Một Thiên Chúa – Lm. Giuse Trần Việt Hùng ……..49
14. Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi ……..53
15. Chúa Ba Ngôi …….55
16. Chúa Ba Ngôi. ……..57
17. Thiên Chúa Ba Ngôi: Tình yêu tuyệt hảo …….60
18. Thiên Chúa Tình Yêu ……..62
19. Mầu nhiệm tình yêu – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt. …..65
20. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần ……68
21. Hãy yêu đi rồi sẽ biết sự thật ……..73
22. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB ……..76
23. Trí khôn và ý muốn …….80
24. Ba Ngôi Thiên Chúa là tình yêu …….83
25. Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi …….86
26. Tình yêu khơi dậy cảm thức về Thiên Chúa …….88
27. Thiên Chúa yêu thế gian …….92
28. Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần. …….95
29. Huyền nhiệm của sự gắn bó – An Phong, OP ……98
30. Mầu nhiệm tình yêu ……100
31. Chịu trách nhiệm về sự hiện diện của Đức Kitô …..103
32. Một định mệnh làm choáng váng mặt mày. …..105
33. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi – Noel Quesson. …..108
34. Con búp bê và biển cả …….110
35. Vinh danh Ba Ngôi. ……114
36. Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi ……118
37. Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần ……120
38. Ba Ngôi cực thánh – Arthur Tone. ……125
39. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần ……127
40. Lễ Chúa Ba Ngôi ……130
41. Bài Giảng Lễ Chúa Ba Ngôi …….134
42. Nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi. ……140
43. Chúa Ba Ngôi. ……142
44. Tình yêu. ……145
45. Hiệp thông. …….147
46. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. …….150
47. Chúa Nhật Ba Ngôi ……..153
48. Mầu nhiệm tình yêu. ……..156
49. Ở cùng anh em. ……..159
50. Tin tưởng. …….161
51. Cửa sổ. …….163
52. Dấu Thánh Giá ……165
53. Tình yêu. …….168
54. Ba bộ mặt. …….170
55. Thiên Chúa Ba Ngôi – Mầu nhiệm Tình Yêu ……..172
56. Tình yêu ……178
57. Mặt trời ban sự sống ……180
58. Thờ Thần nào, sẽ nên vậy …….182
59. Lễ Chúa Ba Ngôi …….185
60. Suy niệm của Lm. Giuse Lê Quốc Thăng. ……..189
61. Mầu nhiệm tối thượng của Kitô Giáo. ……193
62. Suy niệm của Lm Nguyễn Minh Hùng. ……197
63. Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng. ……..199
64. Suy niệm của JKN. …….202
65. Người mang Thiên Chúa – Lm Minh Vận…….. 208
66. Dòng sông ……214
67. Sống hoà nhịp …….216
68. Thừa kế – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực …….218
69. Thiên Chúa đo lường trái tim chúng ta. ……223
70. Suy niệm của Lm. Thu Băng. ……..226
71. Kẻ nội thù ……..229
72. Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi ……233
73. Mầu nhiệm tình yêu – Lê Hoàng Vũ. …..237
74. Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long ……240
75. Chú giải của Noel Quesson. ……256
76. Mầu nhiệm tình yêu hợp nhất – GM Lệ Tâm ……261
77. Làm Dấu – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An …….264

1. Chúa Ba Ngôi
Đâu là hình ảnh Chúa Ba Ngôi trong Phúc Âm? Đọc lại Tin Mừng, chúng ta được tiếp xúc với Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, một Thiên Chúa đang rảo bước trên mọi nẻo đường xứ Palestine để rao giảng Tin Mừng cứu độ cho mọi người, nhất là những kẻ nghèo khó. Ngài cũng đã chữa lành mọi bệnh tật, tha thứ mọi tội lỗi, nhưng Ngài cũng đã bị chống đối, bị ném đá và sau cùng bị đóng đinh vào thập giá như một tên tội phạm. Tin Mừng không giới thiệu với chúng ta về bản thể cũng như về ngôi vị của Ngài, nhưng các lời giảng, các việc làm và trót cả cuộc sống của Ngài như được ghi lại đã mở ra cho chúng ta thấy một Thiên Chúa mà Ngài gọi là Cha, Đấng đầy lòng yêu thương và tha thứ, Đấng đã ươm mơ công trình cứu chuộc loài người, Đấng đã không ngần ngại sai Con Một của mình đến trong trần gian, để thực hiện chương trình cứu chuộc.
Trước lúc chia tay với các môn đệ, Chúa Giêsu không ngừng giới thiệu với các ông Chúa Thánh Thần, cũng xuất phát từ Thiên Chúa mà Ngài sẽ sai phái đến với các ông. Chúa Thánh Thần là Đấng sẽ nối tiếp công việc của Ngài, nơi các môn đệ cũng như nơi nhân loại trong một giai đoạn mới của lịch sử cứu độ. Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi, là Đấng phù trợ, để những người theo Chúa hiểu được những lời Ngài nói và những việc Ngài làm. Chúa Thánh Thần sẽ ban cho họ sự khôn ngoan và sức mạnh, để can đảm làm chứng cho Đức Kitô đến tận cùng bờ cõi trái đất.
Sự việc này đã được thực hiện cho các tông đồ vào ngày lễ Hiện Xuống. Với tác động của Chúa Thánh Thần, từ những kẻ u mê dốt nát, các ông đã thấu hiểu Lời Chúa. Từ những kẻ hèn nhát sợ sệt, các ông đã can đảm rao giảng Lời Chúa và sẵn sàng chết để làm chứng cho Tin Mừng.
Và như thế, dưới ánh sáng Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Ba Ngôi không phả là những ý niệm trừu tượng về bản thể và ngôi vị, nhưng là những Đấng sống động, luôn tha thứ và yêu thương chúng ta, luôn đem lại cho chúng ta những lợi ích trong cuộc sống thiêng liêng.
Chính vì thế, chúng ta phải sống thế nào để đáp trả phần nào tình thương Chúa Ba Ngôi đã dành cho chúng ta qua công cuộc sáng tạo, cứu độ và thánh hoá chúng ta.

2. Chúa Ba Ngôi
Kinh Thánh đã nói gì về Chúa Ba Ngôi. Có lẽ câu văn nổi tiếng nhất bàn về Chúa Ba Ngôi được tìm thấy trong Phúc Âm thánh Matthêu, khi Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ: Các con hãy đi giảng dạy muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Tuy nhiên hình ảnh đặc trưng nhất về Chúa Ba Ngôi là hình ảnh khi Chúa Giêsu chịu phép rửa. Lúc đó, Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài, rồi từ trời có tiếng nói: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Tiếng nói, chim bồ câu và Chúa Giêsu, ba hình ảnh này tạo nên một chân dung sống động về Chúa Ba Ngôi.
Thánh Phaolô cũng bàn về Chúa Ba Ngôi khi viết: Ân sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em.
Còn thánh Luca trong sách Tông đồ Công vụ, cũng như trong Phúc Âm, đã nhìn nhận lịch sử cứu độ mang chiều kích của Chúa Ba Ngôi. Thời Cựu Ước là thời của Chúa Cha. Thời rao giảng Phúc Âm là thời của Chúa Con và thời hiện nay là thời của Chúa Thánh Thần. Kinh Tín Kính chúng ta đọc trong thánh lễ cũng đã tuyên xưng: Chúa Cha là Đấng sáng tạo. Chúa Con là Đấng cứu độ và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá, trao ban nguồn sống.
Tuy nhiên chúng ta đừng bao giờ quên rằng: Chúa Cha ở đâu, thì Chúa Con và Chúa Thánh Thần cũng ở đó. Ba Ngôi luôn luôn là mầu nhiệm thâm sâu, vừa đơn nhất lại vừa đa dạng.
Tuy nhiên có cách nào giúp chúng ta sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi trong cuộc đời chúng ta hay không. Tôi xin giới thiệu một phương pháp vừa đơn giản lại vừa hữu ích đó là trong giờ cầu nguyện ban tối trước khi đi ngủ chúng ta hãy dành ba phút để hồi tâm.
Phút thứ nhất, chúng ta hãy rút ra những việc tốt trong ngày, chẳng hạn như giữ được sự bình tĩnh khi bị vu khống. Và chúng ta hãy thưa lên cùng Chúa Cha và cảm tạ Ngài về những điều tốt đẹp ấy.
Phút thứ hai, chúng ta hãy rút ra những việc làm sai trái, chẳng hạn như đã dửng dưng, không giúp đỡ cho một người khổ đau. Và chúng ta hãy thưa lên cùng Chúa Con, để xin Ngài tha thứ.
Phút thứ ba, hãy nhìn đến một ngày sắp tới với những khó khăn phải đương đầu và chúng ta hãy thưa lên cùng Chúa Thánh Thần, cầu xin Ngài ơn khôn ngoan và lòng can đảm để xử lý cho thích đáng. Và như vậy, cuộc đời chúng ta là một sự gắn bó mật thiết với Chúa Ba Ngôi trong mọi cảnh huống gặp phải.

3. Chúa Ba Ngôi.
Đoạn Tin Mừng ngắn ngủi vừa nghe đã hé mở cho chúng ta thấy mối quan hệ cũng như vai trò của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong việc thực hiện tình thương cứu độ đối với con người. Tình thương ấy xuất phát từ Chúa Cha là nguồn gốc và là Đấng khởi xướng. Tình thương ấy được thực hiện cho con người qua Đức Kitô, Con Thiên Chúa xuống thế làm người và chịu chết trên thập giá. Tình thương ấy được thấm nhập vào trong tâm hồn mỗi người chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần. Đức Kitô đã trình bày và giới thiệu Chúa Thánh Thần như là Đấng sẽ tiếp nối sứ vụ của Ngài bằng cách giúp cho các môn đệ đi sâu vào ý nghĩa của những lời Ngài đã nói và những việc Ngài đã làm.
Thế nhưng không phải chỉ có dân chúng mà ngay cả các môn đệ đã không hiểu nổi những lời Ngài nói và những việc Ngài làm, bởi vì những lời nói và những việc làm ấy không phải chỉ cao siêu uyên bác mà còn vì chúng diễn tả một trật tự khác với trật tự các ông đang sống.
Hôm ấy bên bờ giếng Gacob, sau khi Chúa Giêsu tiếp chuyện một người phụ nữ Samaria thì các môn đệ mang thức ăn về và mời Ngài dùng. Nhưng Ngài đã bảo họ: Có thứ lương thực Ta phải ăn mà các con không biết. Các môn đệ bèn nói với nhau: Phải chăng có ai đã đem thức ăn lạ cho Ngài. Một lần kia, sau khi nghe Chúa Giêsu giảng về bánh bởi trời, các môn đệ đã phản ứng: Lời chi mà chướng tai thế. Ai nghe cho nổi. Hay trong bữa tiệc ly, Phêrô đã không hiểu nổi cử chỉ Chúa Giêsu quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, nên đã ngăn cản Ngài: Thầy mà lại rửa chân cho con ư? Và Chúa Giêsu đã đáp lại: Điều Ta làm nay con không hiểu, nhưng sau này con sẽ hiểu.
Phúc Âm còn ghi lại nhiều bằng chứng của sự không hiểu này. Chẳng hạn sau phép lạ bánh hoá nhiều lần thứ nhất, thánh Marcô đã ghi nhận: Họ không hiểu gì và lòng họ ra như chai đá. Còn lần thứ 2 thì chính Chúa Giêsu đã lên tiếng quở trách các môn đệ: Tại sao các con lo ngại rằng không có bánh. Các con chưa hiểu được hay sao? Cuối cùng một điều các môn đệ đã không hiểu nổi, đó là cuộc khổ nạn của Ngài. Theo thánh Marcô thì Chúa Giêsu đã 3 lần thông báo và giải thích và cả ba lần các ông đều tỏ ra không hiểu gì cả. Lần thứ nhất Phêrô đã lên tiếng can ngăn và đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời. Còn hai lần kia các ông thinh lặng nhưng thầm nghĩ rằng Thầy của mình sẽ lên ngôi trị vì và các ông ngấm ngầm tranh nhau chỗ nhất.
Như chúng ta đã thấy mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm lớn trong đạo, vượt qua cái giới hạn nhỏ bé của trí khôn con người. Sở dĩ chúng ta biết được phần nào là nhờ Chúa Giêsu đã tỏ lộ. Điểm cốt yếu không phải là bàn luận xem thế nào là 3 và thế nào là 1. Nhưng chính là tình thương của Thiên Chúa. Đúng thế mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm tình thương của Thiên Chúa. Được khởi xướng do Chúa Cha, được thực hiện do Chúa Con và được tiếp nối do Chúa Thánh Thần. Tình thương ấy ngày nay vẫn còn được tiếp diễn qua từng người Kitô hữu, cũng như qua từng cộng đoàn, qua từng giáo xứ bằng những nỗ lực, những cố gắng liên kết mọi người lại trong công bình, yêu thương và hợp nhất. Cuộc sống của Chúa Ba Ngôi là tình thương. Ước chi cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng phải ngập tràn tình thương để trở nên một phản ảnh trung thực của Chúa Ba Ngôi.

4. Hiệp nhất trong yêu thương – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Từ ngày cắp sách vào lớp một, mỗi học sinh đều được học bài toán: 1+1+1 = 3 và nếu làm đúng như vậy thì lúc nào cũng được điểm tối đa. Trái lại, nếu có em nào làm phép tính: 1 + 1 + 1 = 1 thì sẽ bị cô giáo cho điểm O và bị phê là ngu xuẩn.
Thế nhưng trong một gia đình đầm ấm yêu thương thì 1 + 1 + 1 không còn là 3, mà chỉ là 1.
Hiệp thông trong gia đình
Trước đây, anh Bắc ở Hà-nội, chị Nam ở Sai-gòn, hai người ở hai phương trời cách biệt. Anh và chị là hai “ngôi vị” hoàn toàn xa lạ.
Về sau, hai người cùng vào làm trong cùng một công ty nên có nhiều cơ hội gặp gỡ và đôi bên cảm thấy ý hợp tâm đầu. Tình yêu của anh chị lớn lên từng ngày và với thời gian, anh chị yêu thương nhau sâu đậm đến nỗi người nầy không thể sống hạnh phúc nếu thiếu vắng người kia.
Do tình yêu thúc đẩy, anh chị tiến đến hôn nhân. Lúc nầy hơn bao giờ hết, anh chị cảm thấy mình hoàn toàn thuộc về nhau: cùng chung một tổ ấm, chung một tình yêu, chung niềm vui nỗi buồn, chung một ước mơ và một niềm hy vọng… Họ không còn là hai mà là một đúng như nhà thơ Tản Đà nhận định: “Mình với ta tuy hai mà một; ta với mình tuy một mà hai.”
Chính Chúa Giêsu cũng nhìn nhận rằng họ chỉ còn là một mà thôi: “Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.” (Mt 19, 5-6)
Rồi tình yêu của anh chị đơm bông kết trái: một đứa con yêu quý chào đời!
Giờ đây tuy trong nhà có ba người hay ba “ngôi” (=ba vị), nhưng tình yêu thương thắm thiết đã nối kết cả ba nên một. Họ cảm thấy hoàn toàn thuộc về nhau. Họ cảm thấy mình không còn là ba nhưng chỉ là một: hạnh phúc của người nầy cũng là hạnh phúc của người kia; khổ đau của mỗi người cũng là nỗi đau chung của cả gia đình.
Mặt khác, tình yêu và mức độ hiệp thông tỉ lệ thuận với nhau: khi càng yêu thương nhau hơn thì mức độ hiệp thông càng bền chặt hơn và ngược lại, khi ghét bỏ nhau, người ta cảm thấy hoàn toàn xa cách dù sống chung dưới một mái nhà. Lúc ấy, vợ, chồng và con cái trong nhà không còn là một mà là ba.
Như thế tình yêu là phép mầu nối kết nhiều người nên một. Những người yêu thương nhau được liên kết nên một với nhau nhưng vẫn không đánh mất bản ngã của mình.
Hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa
Hình ảnh một gia đình đầm ấm yêu thương hiệp nhất thường được Giáo Hội sử dụng để diễn tả mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Trong thư mục vụ gửi cộng đồng dân Chúa năm 2002, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhắc nhở các tín hữu rằng: “Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa” (số 6)
Khi nhìn vào một gia đình có “ngôi cha”, “ngôi mẹ” và “ngôi con” hiệp thông với nhau cách mật thiết, chúng ta hiểu được phần nào sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.
Tuy nhiên, vì tình yêu giữa Ngôi Cha, Ngôi Con và Thánh Thần mênh mông như đại dương, trong khi tình yêu của các ngôi vị trong gia đình chỉ bằng giọt nước; và vì mức độ hiệp thông tỉ lệ thuận với mức độ yêu thương, nên sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa là vô cùng mật thiết so với sự hiệp thông còn quá mong manh giữa các thành viên trong gia đình.
Chúa Giêsu mời gọi sống hiệp thông theo mô hình Ba Ngôi
Được hiệp thông nên một trong yêu thương là một hạnh phúc tuyệt vời nên Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người chung chia hạnh phúc ấy. Vì thế, hôm xưa trong bữa tiệc ly, Người thành khẩn cầu xin cho các môn đệ: “Lạy Cha, xin cho tất cả chúng nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha…. để họ được nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một”. (Ga 17, 20-23)
Và hôm nay, Chúa Giêsu hướng nhìn về mỗi thành viên trong gia đình chúng ta và cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cho người cha, người mẹ và đứa con nầy nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha.”
Rồi Người cũng hướng về mỗi tín hữu trong Hội Thánh và tha thiết khẩn cầu: “Lạy Cha, xin cho các tín hữu nầy được gắn bó nên một trong yêu thương như Chúng Ta là một.”.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con cảm nhận rằng bí quyết để được hạnh phúc tuyệt vời là cùng nhau sống yêu thương gắn bó nên một như Ba Ngôi Thiên Chúa, nhờ đó mỗi thành viên trong gia đình và cộng đoàn sẵn sàng xoá bỏ những bất hoà chia rẽ để tiến tới đời sống yêu thương hiệp nhất theo mô hình Ba Ngôi.
Xin cho tình yêu của Ba Ngôi liên kết chúng con nên một, để đời sống gia đình và cộng đoàn chúng con trở thành hình ảnh sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi.

5. Suy niệm của Lm. ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
PHÉP RỬA NHÂN DANH CHÚA BA NGÔI LÀ GÌ?
Theo lời hẹn của Đức Giêsu, mười một môn đệ đi lên núi miền Galilê.
Chúa muốn các môn đệ phải trèo núi. Đây là một cuộc trèo núi cam go, núi đất đá và núi lòng người, lòng người các ông, lòng người Do thái và lòng người muôn dân.
Như những người trèo núi đất đá, các ông phải vượt suối, vượt đồi, phải bám đá, chui hang, phải chân chồn, tay mỏi, phải mắt tinh, trí sáng, phải lòng gan dạ sắt, phải trèo lòng người, vì tâm can các ông đang bị vò xé, rối bời như tơ vò. Tinh thần các ông tụt hậu, xuống dốc. Xuống dốc vì các ông đang trải qua một cuộc khủng hoảng dữ dằn. Các ông theo Thầy, mong leo lên địa vị cai trị dân Israel, thống trị muôn dân bằng xương bằng thịt, bằng giàu sang danh vọng, bỗng chốc rơi xuống hố sâu vực thẳm. Thầy mới được toàn dân reo hò ủng hộ làm vua, làm con Đại vương Đa vít. Nhưng họ đã trở mặt như chong chóng, theo các tầng lớp lãnh đạo, theo quan quân đế quốc, đả đảo Thầy, bắt nộp Thầy, tra tấn Thầy, kết án đóng đinh Thầy treo trên thập giá, còn nhục nhã hơn tên nô lệ tội ác.
Thầy còn thế, huống chi trò. Trò bảo nhau về Galilê, đi lên núi, để chạy trốn hay theo lời Thầy hẹn gặp. Có đúng Thầy sống lại không? Bao nhiêu băn khoăn lo lắng đang đè nặng tâm tư các ông! Các ông lẳng lặng gượng bước từng bước, nín từng hơi thở. Chẳng ai nói với ai, mỗi người một tâm trạng hoang mang, nghi ngại. Mắt đăm đăm nhìn, có hy vọng leo lét nào không?
Đức Giêsu muốn các ông phải trèo núi, muốn các ông phải thanh tẩy lòng mình, cái lòng trần tục tham ô, tham nhũng đó. Cái lòng yếu đuối thấp hèn đó. Ngài muốn các ông phải trèo núi, phải thắng vượt những cam go thử thách, phải trèo lên cao thoát khỏi bụi trần, vươn lên trời xanh trong sáng, mở rộng tầm nhìn ra khắp thế giới muôn dân: Một thế giới vô cùng tận, một muôn dân sống lại muôn thuở mà Thầy đã làm cho họ. Các ông đã trèo được lên đỉnh núi, đã thoát khỏi lòng trần tục. Các ông đã gặp được Đức Giêsu Phục sinh. Giờ đây, Ngài ban cho các ông một quyền lực mới, quyền lực trên trời dưới đất, thay thế quyền lực trần tục mà trước kia các ông khao khát, quyền lực được đại diện Thầy đến với muôn dân, được làm phép rửa, tẩy sạch mọi tâm hồn, làm sáng lên hình ảnh huy hoàng của Ba Ngôi Thiên Chúa. Các ông được dùng lời Thầy đào tạo họ nên môn đệ Thầy như Thầy đã đào tạo các ông. Các ông ở với họ như Thầy đã ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế.
Theo lời Chúa hẹn, các môn đệ đã phải trải qua một phép rửa cam go như thế đó để được gặp Đức Giêsu Phục sinh. Đó là phép rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đó cũng là một quy luật ngàn đời cho mọi người muốn gặp gỡ Đức Kitô sống lại. Dân Do thái xưa muốn gặp Thiên Chúa trên núi Sinai, cũng phải vượt biển Đỏ, vượt sa mạc, trèo non lặn suối, phải xông pha qua những chinh chiến kinh hồn, khiếp đởm. Muốn được hạnh phúc và được sống lâu trên đất của Chúa, thì “Phải biết và để tâm suy niệm điều này: trên cõi trời cũng như dưới mặt đất, chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có Chúa nào khác. Vậy, các giới răn và mệnh lệnh của Người, anh em phải tuân hành”. Môisen đã nói với dân Israel như vậy (Bài đọc 1).
Thánh Phaolô cũng bảo giáo đoàn Rôma: muốn “được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn để được là con cái Thiên Chúa, để khỏi bị làm nô lệ, khỏi bị khiếp sợ như xưa, để được kêu lên: Abba, Cha ơi! để được đồng thừa kế với Đức Kitô, được hưởng vinh quang với Người, thì phải chịu đau khổ với Người” (Bài đọc 2).
Đó là phép rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi.
Lạy Chúa, ước chi mỗi khi chúng con làm dấu Thánh giá nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, chúng con biết suy niệm đến phép rửa tội của chúng con đã được để luôn luôn trèo lên núi, nơi Đức Giêsu sống lại đã hẹn gặp chúng con và Người thấy chúng con giống hình ảnh Chúa Ba Ngôi, thì phúc cho chúng con dường nào! Amen.

6. Lễ Đức Chúa Trời Ba Ngôi
Là mầu nhiệm lớn nhất của Kitô giáo, khôn dò khôn thấu, Chúa mặc khải để ta tin chứ không để hiểu, là chuyện bên trong của Thiên Chúa, đừng tìm hiểu cho mất công. Thánh Âu Tinh sánh việc tìm hiểu mầu nhiệm Đức Chúa Trời Ba Ngôi như nhóc con ngồi bãi biền mà lấy miễn ngao múc nuớc biển đổ vào cái lỗ mà nó moi trên bãi cát. Lập luận nầy không thuyết phục. Có tin thì cứ.
Từ “ngôi” không tìm thấy trong ngôn ngữ của Đức Giêsu. Là cách giải thích theo triết tây. Hy Lạp có Jupiter, vợ là Zenon và con là Apollo. Ba vị rõ ràng. Là đa thần . Ấn Độ có Brahma (Đấng Tối cao), Shiva thần huỷ diệt hay thần sinh sản (Mẹ) và Atman (spirit). Là ba chứ không là một. Đa thần. Còn Kitô giáo thì độc thần nên phải ba mà một.
Sách giáo lý mới không có bài nào nói Đức Chúa Trời Ba Ngôi mà thay vào đó là bài: THIÊN CHÚA LÀ CHA VÁ CON VÀ THÁNH THẦN. Rất đúng và hiểu được.
Thiên Chúa duy nhất. Chắc chắn. Không có gì bàn cãi.
Thiên Chúa thiêng liêng chúng ta không thể biết được gì bên trong, trừ khi “thiêng liêng” ấy hoạt động ra bên ngoài (mặc khải). Cảm nghiệm được kết quả của hoạt động ấy thì biết về Đấng ấy và chỉ bấy nhiêu thôi cũng như Đấng Phục Sinh chỉ được tin chắc khi các tông đồ cảm nghiệm được nơi chính mình sự hiện diện biến đổi mà Người thực hiện nơi họ.
Thiên Chúa hoạt động tạo dựng: phán lời và quyền năng (thần khí) ĐI LIỀN THEO THỰC HIỆN LỜI vừa phán ra cho có y như lời.
Thiên Chúa duy nhất phán lời và lời được thực hiện bằng thần khí (spirit) của Người. Lời và thần khí phát xuất từ một Đấng duy nhất. Thiên Chúa phán lời và thần khí thực hiện lời phán ra. Là một và ba. Lời và thần khí phát xuất từ Thiên Chúa. Lời và thần khí là của một Thiên Chúa. Dù cho Lời và thần khí có là hai đi nữa thì cũng là của Thiên Chúa duy nhất, hiện hữu với Thiên Chúa trong Thiên Chúa dù có nói là đồng hiện hữu với Thiên Chúa.
Dựng nên con người: Thiên Chúa nói: Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh ta giống như ta rồi lấy bụi đất nắn hình con nguời và thở hơi vào lổ mủi….Nói và thở hơi (spirit) làm nên con người.
Nhưng dường như thần khí ‘yếu’ nên con người sa ngả và tạo vật sụp đổ theo. Thiên Chúa không còn đơn giản nói lời ….mà sai Lời đến, hóa thân làm người, bằng lời nói cuả con người, dạy con người Lời được ghi lại trong Phúc Âm. Lời được phán ra nhưng phải có thần khí kích hoạt mới kết quả. Đức Giêsu về cùng Cha và từ nơi Cha gởi Thánh Thần đến để kích hoạt Lời trong Phúc Âm sinh kết quả.
Trước đó là thần khí vì còn là một thần lực vô danh. Còn bây giờ là Đấng được sai, có địa vị có tên là “Đấng Bảo Trợ”, chủ trì thời đại thứ III, thời cuối cùng. Là Đấng ban phát ơn cứu đô mà Đức Giêsu đã hoàn thành. Là Đấng Thánh Hóa để kết thúc thời gian theo chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa hoạch dịnh chương trình nhưng được thực hiện như đã thấy.(Từ thần khí nghe không đựoc sạch sẽ và gây phản cảm).
Thiên Chúa là ba: Thiên Chúa phán lời là sinh Con, là Cha (là cách giải thích và đặt tên của các nhà thần học). Đức Giêsu cũng gọi Thiên Chúa là Cha.Thiên Chúa tạo dựng và cứu độ bằng lời nhưng tạo dựng thì có thần khí âm thầm kích họat lời mới sinh kết quả. Cứu độ thì Cha sai Thánh Thần đến thế gian (chính thức như một sứ giả) vì Lời đã được ban trong thế gian và lời nằm chết trong Phúc Âm phải được Thánh Thần kích hoạt mới sinh kết quả (Đức Giêsu về cùng Cha rồi). Thánh Thần đến (một mình) như gió thổi đùng đùng như lữa cháy bừng bừng nên kết quả cũng tưng bừng như đã xảy ra. Thần khí vô danh xem ra yếu hơn Thánh Thần chính danh. Không là thần khì nũa mà là Thánh Thần.
Thiên Chúa phán lời là Cha và Con. Thiên Chúa sai Thánh Thần thì là Thánh Thần. Như vậy chúng ta biết Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần. Và Con (Filioque) và (et)Thánh Thần (Pater filioque et Spiritus Sanctus) là nói Con và Thánh Thần đồng phát xuất từ Cha là Thiên Chúa duy nhất. Con và Thánh Thần là của Cha như nhau.(Phải mất rất nhiều thời gian và nước bọt mới phát minh ra đuợc từ filioque).
Ấy vậy Thiên Chúa là một (unus) và ba (et trinus). Chúng ta chỉ biết Thiên Chúa “hoạt động” cũng là Thiên Chúa mạc khải. Thiên Chúa ad extra. (còn bên trong Thiên Chúa chúng ta tuyệt đối không biết gì).

7. Thiên Chúa là tình yêu
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một trong ba mầu nhiệm căn bản của đức tin chúng ta, căn bản vì có ảnh hưởng quan trọng trên cách sống đức tin của chúng ta. Nhưng hình như từ trước tới nay chúng ta chưa ý thức bao nhiều về tầm quan trọng ấy.
Trong Thánh lễ này, chúng ta xin cho Lời Chúa soi sáng cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng ấy, và xin ơn Chúa giúp chúng ta sống đức tin của mình một cách tích cực hơn.
II. Gợi ý sám hối
Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhưng chúng ta chưa mấy tin tưởng phó thác vào tình yêu Chúa.
Chúa Con đã chịu chết để Thiên Chúa tha thứ tội lỗi chúng ta. Nhưng chúng ta không biết tha thứ cho nhau.
Chúa Thánh Thần muốn mọi người sống yêu thương nhau như anh em cùng một Cha trên trời. Nhưng chúng ta thường nhìn người chung quanh như những kẻ xa lạ, thậm chí là những kẻ thù.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Đnl 4, 32-34. 39-40)
Đây là phần kết diễn từ thứ nhất “của Môsê” nói với dân Do Thái trước khi họ vào Đất Hứa.
Trước tiên Môsê lưu ý dân về sự uy quyền và lòng yêu thương của Thiên Chúa mà họ đã chọn tôn thờ: “Có dân nào đã nghe tiếng Thiên Chúa phán bảo từ giữa hỏa hào như các ngươi được nghe?… Có Thiên Chúa nào tìm lấy cho mình một nước giữa các nước khác bằng những dấu lạ, điềm thiêng… như mọi sự Yavê Thiên Chúa các ngươi đã làm cho các ngươi?…”
Rồi Môsê khuyên dân hãy trung thành tuân giữ những lệnh truyền của Thiên Chúa vừa uy quyền vừa yêu thương ấy.
2. Đáp ca (Tv 32)
Tv này được soạn sau thời lưu đày, ca tụng Thiên Chúa là Đấng chủ tể của vũ trụ và lịch sử loài người, hằng yêu thương những kẻ kính sợ Ngài.
3. Tin Mừng (Mt 28, 16-20)
Đoạn Tin Mừng này được chọn đọc trong thánh lễ hôm nay vì câu 19 “Làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Trong lần gặp gỡ cuối cùng với các môn đệ trước khi về trời, Đức Giêsu đã long trọng sai họ đi truyền giáo khắp nơi:
Kẻ sai họ đi là Đức Giêsu phục sinh, Đấng đã “được trao toàn quyền trên trời dưới đất”. Ngài còn hứa sẽ “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Mục tiêu truyền giáo là làm phép rửa cho muôn dân “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” và dạy người ta tuân giữ những lệnh truyền của Đức Giêsu.
4. Bài đọc II (Rm 8, 14-17)
Đoạn thư này cho thấy vai trò của Ba Ngôi Thiên Chúa trong đời sống kitô hữu:
Kitô hữu là người được Chúa Thánh Thần hướng dẫn
Nhờ đó họ có thể sống thân phận làm Con như Đức Giêsu
Họ có thể gọi Thiên Chúa là Cha “Abba”
IV. Gợi ý giảng
* 1. “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”
Đôi khi ta không thể làm gì hơn cho một người đang đau khổ ngoài việc ở bên cạnh họ. Nhưng việc này thật quý giá, vì người đau khổ ấy cảm thấy được an ủi rất nhiều bởi tình bằng hữu của ta. Nếu biết có ai đang ở với mình để an ủi mình thì cuộc đời sẽ khác đi rất nhiều do không còn cảm thấy cô đơn nữa.
Đức Giêsu bảo các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân và Ngài hứa sẽ ở cùng họ luôn mãi. Ngài chỉ hứa có bấy nhiêu, không có sự bảo đảm nào khác. Nhưng đó chính là sự bảo đảm quan trọng nhất Ngài có thể ban cho họ. Mặc dù Ngài không bảo đảm cho họ có một cuộc sống khỏi mọi ưu phiền, thậm chí Ngài cũng không bảo đảm là họ sẽ thành công, tuy nhiên họ ý thức rằng bao lâu Ngài còn ở với họ thì họ sẽ có can đảm và sức mạnh để có thể đương đầu với bất cứ khó khăn nào trước mặt.
Ý thức có Chúa ở cùng chúng ta không thay đổi được thế giới của chúng ta nhưng có thể cho chúng ta can đảm để đối diện thế giới ấy. Chúng ta không xin Chúa thay đổi thế giới hầu làm cho thế giới dễ chịu hơn. Chúng ta chỉ xin Ngài bảo đảm rằng Ngài sẽ luôn ở với chúng ta khi chúng ta phải đương đầu với những khó khăn. Việc Ngài luôn ở với chúng ta sẽ che chở chúng ta khỏi cảm giác cô đơn và thất vọng.
Chúa luôn ờ cùng chúng ta, nhưng chúng ta không luôn ở cùng Chúa. Những bận rộn trong cuộc sống đã cắt đứt liên hệ của chúng ta với Ngài, và khi liên hệ của chúng ta với Ngài bị cắt thì chúng ta phải mất mát thiệt thòi rất nhiều.
Vì thế, chúng ta cần bồi dưỡng ý thức có Chúa luôn ở cùng chúng ta, bồi dưỡng bằng cầu nguyện. (Viết theo Flor McCarthy)
* 2. Tin tưởng vào Chúa
Lời cầu nguyện dưới đây ghi trên một mảnh giấy được tìm thấy trong thi thể một người lính trẻ tử trận trong thế chiến thứ I:
“Chúa ơi, trước đây con chưa bao giờ thưa chuyện với Ngài, nhưng bây giờ con xin chào Ngài. Họ từng nói với con rằng Ngài không hiện hữu, và như một thằng điên, con đã tin họ. Nhưng đêm hôm qua, con đã nhìn lên trời từ một lỗ nhỏ trong hầm trú. Con đã thấy vẻ đẹp của những vì sao và con nghĩ rằng vũ trụ bao la biết chừng nào. Khi đó con biết rằng họ đã nói dối. Con không biết Ngài sẽ bắt tay con không khi Ngài và con gặp nhau. Dù sao, con cảm nghĩ rằng Ngài sẽ hiểu cho tất cả những sa ngã của con. Thật lạ lùng sao con phải đến nơi khủng khiếp này mới có thể biết được Ngài. Trước đây còn đã làm gì? Con chẳng biết nói gì hơn, nhưng con đoan chắc rằng con rất hạnh phúc khi hôm nay được biết Ngài. Con cảm thấy giờ zero sắp đến. Sắp có một trận đánh khủng khiếp. Biết đâu ngay đêm nay con có thể đến nhà Ngài. Con đang khóc! Lạ quá con đang khóc, vì trước đây chưa bao giờ con khóc như thế. Bây giờ con phải đi. Nhưng vì con đi để gặp Ngài nên con không sợ chết nữa.”
Tiếc là người lính trẻ này biết Chúa quá muộn. Nhưng muộn còn hơn không. Khi chúng ta tự cho phép mình tách lìa khỏi Chúa thì chúng ta phải chịu nhiều mất mát to lớn. Mà việc chúng ta tách lìa khỏi Thiên Chúa không phải là do lỗi của Ngài. Bài đọc I hôm nay cho thấy Thiên Chúa đã chủ động đến với con người để được gần gũi với con người như thế nào. Còn bài đọc II thì cho thấy mối liên hệ giữa Thiên Chúa với con người thân thiết đến mức nào. Chúng ta không chỉ là thành viên của dân Chúa mà còn là con cái Ngài. Nếu chúng ta liên kết với Ngài thì chúng ta trở nên những kẻ đồng thừa tự với Chúa Con trong Nước Trời. (Viết theo Flor McCarthy)
* 3. “Dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền”
Những số liệu về kết quả truyền giáo khiến chúng ta rất bi quan. Với tất cả mọi cố gắng và mọi phương tiện, mỗi năm có được khoảng nửa triệu người lớn gia nhập đạo Công giáo; nếu cộng thêm vào đó số trẻ em rửa tội nhờ cha mẹ là người công giáo khoảng 3 triệu rưỡi nữa, thì tổng cộng mỗi năm có thêm chừng 4 triệu người rửa tội. Trong khi đó chỉ ở nước Trung Hoa thôi mỗi năm có thêm 12 triệu dân, nghĩa là số dân Trung Hoa sinh ra trong một năm đã gấp 3 lần số người công giáo tăng thêm trên toàn thế giới. Năm 1960 số người công giáo toàn thế giới là 500 triệu, dân số Trung Hoa khoảng một tỉ rưởi, nghĩa là gấp 3 lần người công giáo trên toàn thế giới, năm 2000, số giáo dân hoàn cầu khoảng 600 triệu, còn dân Trung Hoa khoảng 2 tỉ rưỡi, nghĩa là giáo dân toàn cầu chỉ còn bằng 1/5 số dân của chỉ riêng một nước Trung Hoa. Đó là ta đem tổng số giáo dân của toàn thế giới so sánh với dân số của chỉ một nước Trung Hoa thôi, chứ nếu so với tổng số nhân loại thì còn thể thảm hơn nữa. Cứ cái đà này thì giáo dân hiện này đã là một thiểu số trong nhân loại, mà càng về sau thì cái thiểu số đó càng nhỏ đi, tỉ lệ càng nhỏ đi hơn nữa. Như thế, có thể nói việc truyền giáo là một thất bại!
Nhưng đó là chúng ta tính trên những con số người được rửa tội, những con số rất bi quan. Còn nếu chúng ta nhìn vấn đề dưới một khía cạnh khác thì lại lạc quan. Chẳng hạn như mỗi khi một nơi nào đó trên thế giới gặp thiên tai như động đất, lũ lụt v. v. thì rất nhiều nước trên thế giới không phân biệt lập trường chính trị hay ý thức hệ lập tức gởi tiền bạc, lương thực, thuốc men, quần áo và nhân viên đến cứu trợ. Tinh thần bác ái xã hội của nhân loại càng ngày càng lớn thêm. Nhân loại cũng càng ngày càng biết tôn trọng phẩm giá con người hơn, càng ngày càng tôn trọng nhân phẩm của người phụ nữ hơn, càng ngày càng tôn trọng trẻ con hơn, càng ngày tôn trọng nhân quyền hơn… Do đâu mà có những sự tiến bộ đó? Chắc hẳn là do ảnh hưởng của tinh thần Tin mừng Kitô giáo. Nói như vậy không phải là dành công cho Kitô giáo một cách hồ đồ, mà có bằng chứng rõ ràng: trước khi Kitô giáo được truyền bá loài người đã sống như thế nào? Khi đó, đa thê là tình trạng đương nhiên: Một người đàn ông có quyền có nhiều vợ và muốn bỏ vợ lúc nào tuỳ ý. Khi đó người cha cũng có toàn quyền sinh sát trên con cái: sinh con ra nếu nó không phải là con trai, hay nếu nó tàn tật thì người cha có quyền giết chết nó đi không ai coi là tội. Khi đó chế độ nô lệ cũng là tình trạng đương nhiên: Người giàu có quyền mua những người nghèo về làm nô lệ phục dịch mình, người nô lệ ấy nếu còn mạnh khoẻ thì còn được nuôi dưỡng, còn nếu đã già yếu hay bệnh tật thì chủ có quyền giết đi hay đem bán cho người khác, người nô lệ được xem cũng như con trân con bò… Thế rồi Kitô giáo xuất hiện, giáo hội mở trường dạy học cho giới bình dân, Giáo Hội rao giảng vợ chồng nhất phu nhất phụ, GH lên án tục giết trẻ con, Giáo Hội vận động huỷ bỏ chế độ nô lệ, GH dạy những người chủ phải yêu thương các tôi tớ, GH dạy người giàu phải kính trọng những người nghèo… Vì tất cả đều là người, tất cả đều là con của Chúa và là anh em bình đẳng với nhau. Và dần dần, chế độ đa thê, chế độ nô lệ, tục lệ giết trẻ em biến mất… Dần dần người ta đề cao hơn tình huynh đệ, tình liên đới xã hội v. v… Những giá trị tinh thần của Kitô giáo ấy, ngày nay người ta coi là đương nhiên, kể cả những người không phải là Kitô giáo cũng đương nhiên sống theo những giá trị tinh thần ấy. Người hữu thần và người vô thần đều coi sống như thế là đúng, là phải, là đạo đức.
Những điều kể ra nảy giờ có ý nghĩa gì đối với ngay lời Đức Giêsu nói trong bài Tin mừng hôm nay “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”? Những điều trình bày phía trên muốn cho thấy rằng: nếu quan niệm truyền giáo chỉ là rửa tội cho người ta gia nhập cơ cấu hữu hình của GH thì truyền giáo quả là một thất bại lớn. Nhưng nếu quan niệm truyền giáo chính là truyền bá và làm thấm nhuần những giá trị Tin mừng vào môi trường mình sống thì truyền giáo vẫn còn là một thành công. Cả hai cách truyền giáo đều cần và bổ sung cho nhau. Nghĩa là GH ngày nay vẫn còn phải tiếp tục đón nhận những ai đến xin lãnh nhận bí tích Rửa tội và gia nhập vào cơ cấu hữu hình của GH, nhưng GH không nên tự mãn với việc Rửa tội, mà quan trọng hơn là làm cho tinh thần Tin mừng thấm nhiễm vào thế giới. Thiết nghĩ, ngày nay phải nhấn mạnh hơn vào cách thứ 2 này, bởi vì:
Việc dạy giáo lý, việc Rửa tội hầu như chỉ thích hợp hơn cho các linh mục tu sĩ. Vậy thì giáo dân khỏi phải truyền giáo ư? Không, giáo dân vẫn truyền giáo được bằng nếp sống tỏa chiếu tinh thần Tin mừng cho mọi người chung quanh mình.
Rồi có những hoàn cảnh không tiện nói về đạo, về Chúa, về Giáo Hội. Dù không tiện như thế nhưng ta vẫn có thể truyền giáo được bằng nếp sống của ta.
Và cũng có thể có những người không chịu Phép Rửa tôi được, không đi đến nhà thờ được, nhưng họ vẫn sống theo những giá trị tinh thần tốt đẹp của Tin mừng. Làm sao cho có được những người như thế cũng là một điều đáng mừng rồi. Thần học gia Karl Rahner đã gọi những người đó là những “Kitô hữu ẩn danh”, nghĩa là tuy họ không có danh hiệu là Kitô hữu, nhưng thực chất họ sống y như một người Kitô hữu.
Có lẽ ngay từ ngày xưa Đức Giêsu đã nghĩ tới cách truyền giáo đó và đề cao các đó khi Ngài giảng những dụ ngôn về Nước Trời: Nước Trời giống như men vùi trong thúng bột. Tuy men âm thầm không ai thấy nhưng nó dần dần làm cho cả thúng bột dậy men. Nước Trời giống như một cái hạt gieo xuống lòng đất, cho dù chủ có biết hay không, cho dù chủ đất thức hay ngủ, hạt giống ấy cứ ngày đêm đâm chồi mọc lên và cuối cùng thành một cây to lớn.
Công đồng Vaticanô để kêu gọi “Truyền giáo là bổn phận của mọi Kitô hữu”. Với hoàn cảnh, khả năng và phương tiện của một người giáo dân, chúng ta có thể đáp lời kêu gọi của công đồng để truyền giáo bằng cách sống như một hạt men như một hạt giống giữa những người khác, nghĩa là bằng cuộc sống của mình, Chúng ta cho người ta thấy được sự tốt đẹp của tinh thần Tin mừng và người ta ham thích sống theo đó, dù ý thức hay vô ý thức cũng tốt. Cụ thể, chúng ta hãy sống như những lời kinh Hoà Bình mà thỉnh thoảng chúng ta vẫn đọc:
Đem yêu thương vào nơi oán thù.
Đem thứ tha vào nơi lăng nhục.
Đem an hoà vào nơi tranh chấp.
Đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Đem niềm tin vào nơi nghi ngờ.
Đem cậy trông vào nơi tuyệt vọng.
Đem ánh sáng vào chốn tối tăm.
Đem niềm vui vào nơi sầu thảm.
* 4. Thiên Chúa là Tình yêu
Thánh Gioan đã định nghĩa “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Thiên Chúa là Tình yêu nghĩa là Thiên Chúa chính là nguồn gốc của mọi tình yêu, Thiên Chúa là mẫu mực cho mọi Tình yêu.
Thiên Chúa là Tình yêu có nghĩa là không có nơi nào Tình yêu được trọn vẹn hoàn hảo cho bằng Tình yêu nơi Thiên Chúa. Vì thế suy gẫm về Tình yêu Thiên Chúa có thể giúp ta rút ra được những gương mẫu cho Tình yêu loài người.
Vậy hôm nay, dịp lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta hãy suy gẫm về Tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa có những đặc điểm gì?
1/ Đặc điểm thứ nhất là Tình yêu của Thiên Chúa không cô độc.
TC không phải chỉ có một Ngôi tự yêu thương mình, nhưng TC có Ba Ngôi yêu thương nhau.
Điều đó cho thấy Yêu thương phải có đối tượng. Yêu thương thì là phải yêu thương ai khác mình, ngoài mình. Yêu thương không có đối tượng là yêu thương chính mình, đó là ích kỷ, nếu không muốn nói là bệnh hoạn. Ngày xưa có một anh chàng tên là Narcisse không yêu thương ai hết ngoài chính bản thân anh ta, anh yêu mình đến nỗi một hôm nhìn thấy bóng dáng mình phản chiếu trên mặt nước một cái giếng, anh xúc động quá nhảy tùm xuống giếng để ôm lấy hình ảnh của mình và phải chết đuối. Về sau người ta đặt tên chứng bệnh tự yêu thương mình là chứng bệnh Narcisse.
Nhưng tại sao yêu thương cần phải có đối tượng? Thưa cần có đối tượng để mà chăm sóc, phục vụ, âu yếm, ban phát… nói tóm lại để mà cho đi. Yêu thương là cho đi. Khi ta yêu thương ai, ta thích cho người đó hoặc cái này hoặc cái nọ: khi thì cho một món quà, khi thì cho một sự chăm sóc, khi thì cho một cử chỉ âu yếm, yêu thương cao độ nhất là cho người ấy chính bản thân mình. Cho đi thì hạnh phúc hơn là lãnh nhận. Vì thế ai yêu thương thật thì thích cho đi, trái lại kẻ nào thích lãnh nhận hơn thì là dấu kẻ đó còn ích kỷ chưa yêu thương thật.
2/ Đặc điểm thứ hai của Tình yêu Thiên Chúa là vừa có sự khác biệt vừa có sự hợp nhất.
Chỉ có một TC nhưng lại có Ba Ngôi. Tuy có 3 Ngôi nhưng chỉ là một TC.
Có câu thơ “Mình với ta tuy 2 mà 1, ta với mình tuy 1 mà 2”.
Áp dụng vào Tình yêu Thiên Chúa thì câu này có thể đổi lại là: Mình với ta tuy 3 mà một”, hơi gượng ép một chút nhưng cũng đồng một ý nghĩa.
Ý nghĩa đó là: TC có Ba Ngôi hoàn toàn riêng biệt nhau: Ngôi Cha là đấng tạo dựng vũ trụ, Ngôi Con là Đấng cứu chuộc loài người và Ngôi Thánh Thần là Đấng Thánh hóa loài người. Nhưng dù khác biệt nhau mà 3 Ngôi không đối nghịch nhau, trái lại hoàn toàn hợp nhất với nhau đến nỗi cả 3 chỉ là một TC.
Điều đó có ý nghĩa là: Yêu thương thì phải chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau. Tuy nhiên những kẻ yêu thương nhau thì cho dù khác biệt nhưng không được đối nghịch xung khắc với nhau, mà phải hoà hợp với nhau.
Xin tóm lại những gì đã phân tích được từ Tình yêu của TC Ba Ngôi:
Yêu thương là cho đi.
Yêu thương là chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau.
Yêu thương là dù có khác biệt nhưng vẫn hoà hợp với nhau.
* 5. Tình yêu hiệp nhất
Trong cuộc đời của nghị viên Rémaud có một giai thoại lý thú sau đây: Lần đầu tiên từ Pyrénées đến Paris với tư cách là nghị viên, ông Rémaud thuê phòng trong một khách sạn và trả tiền trước một tháng: 150 quan Pháp. Chủ khách sạn hỏi:
– Ông có cần biên nhận không?
– Không, không cần thiết. Thiên Chúa nhìn thấy hết chúng ta.
– Ngài tin vào Thiên Chúa ư?
– Lẽ dĩ nhiên! Ông cũng thế chứ?
– Tôi thì không, thưa ngài.
– A! Vậy xin ông cho tôi ngay một tờ biên nhận!
******
Người ta thường nói: “Tin đạo chứ đừng tin người có đạo”. Quả thật, khi gặp người có đạo chúng ta thấy tin tưởng hơn, yên tâm hơn. Nhưng thực tế, không hẳn là như vậy! Ở đây, chúng ta muốn nói đến niềm tin vào Thiên Chúa, tin các mầu nhiệm trong đạo. Đã tin là có liều lĩnh, mạo hiểm. Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao sâu, trí khôn con người khó mà hiểu thấu.
Chúng ta thường dùng một vài hình ảnh loại suy để hiểu một phần nào mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đó là hình ảnh của nước. Nước có thể hiện hữu dưới ba dạng: thể hơi, thể rắn, và thể lỏng. Hoặc ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất. Tuy nhiên tất cả những so sánh ấy không tránh khỏi thiếu sót, vụng về khi nói về Thiên Chúa. Chỉ có Đấng ở trong cung lòng Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô đã vén mở cho chúng ta biết có một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị: là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi khác nhau nhưng cùng một Thiên Chúa.
Câu Kinh Thánh nổi tiếng về Ba Ngôi chính là “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép Rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt. 28, 19). Và hình ảnh đặc trưng nhất về Ba Ngôi được mạc khải khi Đức Giêsu chịu phép rửa: Một hình chim bồ câu bay lượn trên mình Người, và một tiếng từ trời phán: “Con là Con Ta yêu dấu” (Mc. 1, 11). Đó là hình ảnh sống động về chân dung của Chúa Ba Ngôi. Theo thánh Tôma Aquinô thì trong cuộc Hiển Dung, tất cả Ba Ngôi đã xuất hiện: “Chúa Cha trong tiếng nói, Chúa Con trong Con người, Chúa Thánh Thần trong ánh mây sáng chói”.
Thánh Luca nhìn lịch sử cứu độ như một viễn cảnh mang chiều kích Ba Ngôi: Thời Cựu Ước là kỷ nguyên của Chúa Cha, thời loan báo Tin mừng là kỷ nguyên của Chúa Con, và thời hậu Tin mừng mà Công vụ Tông đồ ghi lại là kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần. Kinh Tin Kính duy trì mẫu tuyên xưng này: Chúa Cha sáng tạo, Chúa Con cứu chuộc, và Chúa Thánh Thần ban nguồn sống.
Tin vào mầu nhiệm Ba Ngôi là chúng ta dựa vào thế giá của Đức Giêsu, Người là sự thật (x. Ga. 8, 32) nên Người chẳng lừa dối ai.
Tin vào mầu nhiệm Ba Ngôi là chúng ta sống hiệp thông, chia sẻ và yêu thương. Vì “Ai ở trong Tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga. 4, 16).
Tin vào mầu nhiệm Ba Ngôi là chúng ta làm dấu thánh giá trên thân xác, là in dấu Chúa Ba Ngôi trên cuộc đời mình, là họa lại hình ảnh Ba Ngôi trong tâm hồn tha nhân.
*******
Lạy Ba Ngôi chí thánh, Thiên Chúa là một cộng đồng Tình yêu Hiệp nhất. Xin cho Giáo hội tìm thấy bản tính của mình trong bản tính của Chúa Ba Ngôi. Xin cho chúng con hiệp nhất trong tình yêu, để minh chứng cho Tình yêu Hiệp nhất của Chúa. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của tình yêu, một tình yêu sáng tạo cứu độ và thánh hóa chúng ta; một tình yêu muốn hiệp thông với tất cả mọi người. Chúng ta hãy dâng lên Ba Ngôi lời cầu xin của chúng ta:
1. Hiệp thông được phát xuất từ Thiên Chúa Ba Ngôi, và Hội thánh phải qui hướng về Thiên Chúa Ba Ngôi / Chúng ta hãy cầu nguyện cho Hội thánh luôn là dấu chỉ và dụng cụ của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi.
2. Thế giới và vũ trụ cũng phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi / Chúng ta hãy cầu xin cho các nhà cầm quyền cũng như mọi dân tộc / biết nhìn nhận Thiên Chúa là nguồn gốc và là cùng đích của mọi người mọi vật.
3. Trong xã hội còn đầy dẫy những chia rẽ, bè phái, kỳ thị, hận thù, giết hại nhau / Chúng ta hãy cầu xin cho mọi người sớm nhận biết rằng / người trong bốn bể đều là anh em con Một Chúa trên trời.
4. Hội thánh có sứ vụ đem mọi người về hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi / Chúng ta hãy cầu xin cho cộng đồng xứ đạo chúng ta luôn sống hiệp thông với Chúa và với nhau / để có thể đem mọi người chung quanh về hiệp thông trong gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chủ tế: Lạy Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần Ba Ngôi chí thánh luôn hiệp thông với nhau; xin cho mỗi người chúng con biết dẹp bỏ mọi chia sẻ, kỳ thị, hận thù; để chúng con luôn sống hiệp thông với nhau, như anh em trong một gia đình Thiên Chúa. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
Chủ tế chú ý nhấn mạnh tất cả những đoạn kết của các lời cầu nguyện có công thức Ba Ngôi.
Trước kinh Lạy Cha: Lời kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy cố gắng đọc lên với cả tâm tình con thảo như Đức Giêsu và do Chúa Thánh Thần khơi lên trong lòng chúng ta.
VII. Giải tán
Chúng ta đã dâng Thánh lễ tôn kính Thiên Chúa Ba Ngôi đầy tình yêu thương. “Xin chúc anh chị em được đầy ân sủng của Đức Giêsu Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần”.

8. Lễ Chúa Ba Ngôi – R. Veritas
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Tại vùng Texas Hoa Kỳ, không ai lại không nghe lòng hào hùng của anh Biên, chủ một nông trại nuôi bò to lớn. Người ta gọi anh bằng một tên riêng đầy lòng kính trọng là ông Biên quảng đại, đến nỗi nhiều người không còn nhớ tên thật của anh là gì, mà chỉ biết tên anh là ông Biên quảng đại. Dù là người giàu có nhất vùng nhưng nếp sống của ông lại rất gần gũi với mọi người, từ người giúp việc cho tới những người láng giềng chung quanh.
Ông có một người con duy nhất, nhưng rủi thay trong một chuyến đi nghỉ cuối tuần, ông bị một tai nạn xe hơi làm cho vợ và người con duy nhất bị chết. Sau những ngày u buồn, một hôm đi dạo chơi gần nông trại, ông chợt gặp một đứa trẻ rách rưới và có vẻ đang bơ vơ. Ông gọi lại và hỏi thăm về gia đình, đứa bé không trả lời chi được về những câu hỏi của ông. Bé mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Mới sinh ra đã bị cha mẹ bỏ rơi, nên từ đó em bé nay sống với người này, mai sống với người khác, lang thang đây đó. Em chỉ còn biết một điều là tên gọi của em: ai ai cũng gọi em là Jimmi, nên em biết tên mình là Jimmi. Ông Biên liền nhận đứa trẻ về nhà làm con nuôi và làm chúc thư, nếu ông qua đời thì tài sản ông sẽ dành cho Jimmi, người con nuôi mới nhận được.
Nhiều người bạn thân ngạc nhiên hỏi, tại sao ông làm như vậy?
Ông Biên trả lời: với một lý do duy nhất, là Jimmi giống hệt đứa con của tôi đã chết. Tôi thương nó vì nó giống con tôi, tôi nhìn thấy con tôi nơi nó.
Anh chị em thân mến,
“Tôi thương nó, vì nó giống hệt con tôi, tôi nhìn thấy con tôi nơi nó”. Câu nói này của ông Biên gợi lại cho chúng ta mối tương quan giữa tình thương của Thiên Chúa Cha với mỗi người chúng ta là đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa Cha đã yêu thương mỗi người, vì chúng ta đã lãnh nhận ơn cứu rỗi, được tái tạo giống hệt như Chúa Kitô, Con Một Ngài. Thiên Chúa Cha yêu chúng ta, vì Ngài thấy Con Một Ngài nơi mỗi người chúng ta.
Mừng Lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta không mừng với lý trí muốn hiểu cho thấu đáo mầu nhiệm của mọi mầu nhiệm, là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, một Thiên Chúa duy nhất có Ba Ngôi là Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần; nhưng hãy mừng với một con tim tin yêu chân thành, vì đã cảm nghiệm được Thiên Chúa Ba Ngôi nơi chính mình.
Tình thương của Thiên Chúa Cha, Đấng Tạo Hóa đã an bài vũ trụ, nâng đỡ cuộc sống con người và ban cho chúng ta sự sống. Tình thương của Chúa Giêsu Kitô, Đấng mặc lấy thân phận con người đến cứu chuộc chúng ta, để làm sáng tỏ lại hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta, giúp chúng ta trở về nhà Cha an toàn. Tình thương của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ban ơn soi sáng, nâng đỡ, an ủi, giúp chúng ta sống trọn kiếp sống trần gian.
Mừng Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta được nhắc nhớ rằng, Thiên Chúa Cha, Con, Thánh Thần đã yêu chúng ta và chúng ta được mời gọi để đáp lại tình yêu thương ấy bằng một đời sống trổ sinh nhiều hoa trái tốt, xứng đáng con yêu quí của Thiên Chúa: “Chúng con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48).
Chúa Giêsu đã mạc khải cho Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Người thì khỏi phải chết. Quả vậy, Thiên Chúa đã đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng nhờ Con của Ngài mà thế gian được cứu độ, ai tin sẽ được cứu; ai không tin thì đã bị lên án rồi” (Jn 3,16-18).
Lạy Chúa, xin ban thêm Đức Tin cho con để chúng con mỗi ngày được trở nên giống Chúa nhiều hơn. Amen.

9. Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi
Anh chị em thân mến.
Có một vị ẩn sĩ, vào sa mạc tìm đời sống kết hợp với Chúa đã lâu. Nhưng đến một thời gian, ông thấy dường như Thiên Chúa không còn yêu thương mình nữa, vì ông thấy mình buồn chán thất vọng.
Qua bao nhiêu cố gắng nhưng không thể nào tìm được sự an bình thư thái. Ông ngỡ rằng Thiên Chúa đã rời xa mình nên ông mới gặp tình trạng như thế. Ông lang thang buồn chán. Bổng có tiếng gọi, ông biết đó là tiếng của Chúa, ông mới trả lời:”Chúa đã bỏ con, tại sao còn gọi làm gì?” Chúa trả lời:”Ta đâu có bỏ con, con hãy nhìn lại đoạn đường con đã đi, con thấy được điều gì?”. Ông vội nhìn lại phía sau và nhìn thấy, không phải chỉ có hai dấu chân của ông in trên cát, nhưng bên cạnh còn có những dấu chân của một người khác, đi theo từng bước chân của ông. Chúa bảo:”Đấy là những dấu chân của Ta luôn theo sát bên con. ” Ông vui mừng bước đi với tâm hồn phấn khởi.
Đến trưa, mặt trời chiếu những tia nắng nóng như thiêu đốt, ông mệt lã người, ông vội nhìn ra sau, thì hỡi ôi! chỉ còn có những bước chân mệt mỏi của ông kéo lê lết trên đường. Ông vội la lên: “Đó Ngài lại bỏ con nữa rồi, nên con mới mệt lã như thế nầy”. Thiên Chúa trả lời ông:”Ta đâu có bỏ con, con hãy nhìn kỷ xem, những dấu chân đó là những dấu chân của Ta chứ đâu phải của con, vì Ta đã bế con trên đôi tay của Ta”. Vị ẩn sĩ nhìn lại, và quỳ gối xuống tạ ơn Thiên Chúa. Ông tiếp tục cuộc hành trình của mình, và từ đó không còn kêu trách Thiên Chúa nữa. Ông đã nhận ra rằng: Thiên Chúa luôn ở bên cạnh ông từng giây từng phút và luôn nâng đở từng bước chân của ông. “Ta sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế.”
Lời hứa của Người Thầy kính yêu đối với các môn sinh của mình. Lời hứa khi trao sứ mệnh cho các Ngài. Các Tông Đồ đã sống trọn Lời Hứa, các Ngài đã cảm nhận được những gì mà Thầy đã hứa. Trong đời sống, trong lúc thi hành sứ mạng được trao phó, khi thuận lợi, lúc khó khăn, các Ngài luôn thấy Người Thầy kính yêu của mình vẫn hiện diện và không bao giờ rời xa.
Lời hứa đó, lời nói của năm xưa không đi vào dĩ vãng, nhưng luôn là hiện thực qua từng thời đại, cho đến ngày hôm nay vẫn là hiện thực. Lời hứa đó, Thiên Chúa cũng nói với từng người trong chúng ta. Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người hèn kém của chúng ta, Ngài còn thương yêu, cứu chuộc, đem chúng ta về sống trong tình yêu thương của Ngài. Như thế chưa đủ, Ngài còn hứa ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Lời hứa của Ngài hứa với ai? Thưa hứa với những con người hèn kém, những con người phản bội, những con người nông cạn không hiểu được tình yêu thương của Ngài. Trong đó có chúng ta, những người của thời đại hôm nay, những người đang hiện diện nơi đây.
Thế mà Ngài vẫn giữ lời hứa hết sức trung thành. Nhưng rồi Ngài cũng vẫn phải nghe những lòi trách phiền vô cớ. Ngài còn phải đón nhận sự thờ ơ. Thế mà Ngài vẫn bồng bế trên tay những con người như thế, mỗi khi Ngài thấy cần thiết, cho dù người được Ngài nâng niu có biết hay không, điều đó không quan trọng đối với Ngài. Ngài chỉ biết một điều là làm sao cho người mà Ngài yêu thương được hạnh phúc, được tốt đẹp.
Trong đời sống chúng ta, nhiều lúc chúng ta cũng phiền trách rằng: Thiên Chúa đã quên, đã bỏ rơi, để rồi nhiều khi chúng ta có thái độ không được tốt đối với Đấng đã từng yêu thương che chở cho mình. Trong những lúc buồn chán, thất vọng, chúng đã làm gì? Những lúc đó nếu chúng ta bình tĩnh một chút, thì sẽ nhận ra được tình yêu thương bao la của Thiên Chúa luôn ấp ủ. Ngài đang bồng bế chúng ta trên đôi tay, ôm vào lòng để chuyền hơi ấm và sức sống của Ngài cho chúng ta.
Nếu chúng ta chỉ nhìn thấy chính mình, nhìn thấy những công lao của mình, thì chúng ta cũng chỉ biết than thở, đòi hỏi như vị ẩn sĩ. Nhưng chúng ta có nhìn kỷ như vị ẩn sĩ để nhận ra Chúa bên cạnh, như ông đã nhận ra hay không? được bao nhiêu lần trong đời sống, chúng ta biết làm dấu thánh giá cẩn thận để tạ ơn Thiên Chúa. Nhận ra được tình yêu bao la của Thiên Chúa trong đời sống, khi đó chúng ta mới yên tâm bình thản chu toàn thách nhiệm hằng ngày một cách tốt đẹp.
Xin Thiên Chúa Ba Ngôi soi sáng tâm hồn mỗi người chúng ta, để nhận ra sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống.

10. Tình yêu hiệp nhất – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Trong cuộc đời của nghị viên Rémaud có một giai thoại lý thú sau đây: Lần đầu tiên từ Pyrénées đến Paris với tư cách là nghị viên, ông Rémaud thuê phòng trong một khách sạn và trả tiền trước một tháng: 150 quan Pháp. Chủ khách sạn hỏi:
– Ông có cần biên nhận không?
– Không, không cần thiết. Thiên Chúa nhìn thấy hết chúng ta.
– Ngài tin vào Thiên Chúa ư?
– Lẽ dĩ nhiên! Ông cũng thế chứ?
– Tôi thì không, thưa ngài.
– A! Vậy xin ông cho tôi ngay một tờ biên nhận!
***
Người ta thường nói: “Tin đạo chứ đừng tin người có đạo”. Quả thật, khi gặp người có đạo chúng ta thấy tin tưởng hơn, yên tâm hơn. Nhưng thực tế, không hẳn là như vậy! Ở đây, chúng ta muốn nói đến niềm tin vào Thiên Chúa, tin các mầu nhiệm trong đạo. Đã tin là có liều lĩnh, mạo hiểm. Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao sâu, trí khôn con người khó mà hiểu thấu.
Chúng ta thường dùng một vài hình ảnh loại suy để hiểu một phần nào mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đó là hình ảnh của nước. Nước có thể hiện hữu dưới ba dạng: thể hơi, thể rắn, và thể lỏng. Hoặc ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất. Tuy nhiên tất cả những so sánh ấy không tránh khỏi thiếu sót, vụng về khi nói về Thiên Chúa. Chỉ có Đấng ở trong cung lòng Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô đã vén mở cho chúng ta biết có một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị: là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi khác nhau nhưng cùng một Thiên Chúa.
Câu Kinh Thánh nổi tiếng về Ba Ngôi chính là “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép Rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt. 28, 19). Và hình ảnh đặc trưng nhất về Ba Ngôi được mạc khải khi Đức Giêsu chịu phép rửa: Một hình chim bồ câu bay lượn trên mình Người, và một tiếng từ trời phán: “Con là Con Ta yêu dấu” (Mc. 1,11). Đó là hình ảnh sống động về chân dung của Chúa Ba Ngôi. Theo thánh Tôma Aquinô thì trong cuộc Hiển Dung, tất cả Ba Ngôi đã xuất hiện: “Chúa Cha trong tiếng nói, Chúa Con trong Con người, Chúa Thánh Thần trong ánh mây sáng chói”.
Thánh Luca nhìn lịch sử cứu độ như một viễn cảnh mang chiều kích Ba Ngôi: Thời Cựu Ước là kỷ nguyên của Chúa Cha, thời loan báo Tin mừng là kỷ nguyên của Chúa Con, và thời hậu Tin mừng mà Công vụ Tông đồ ghi lại là kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần. Kinh Tin Kính duy trì mẫu tuyên xưng này: Chúa Cha sáng tạo, Chúa Con cứu chuộc, và Chúa Thánh Thần ban nguồn sống.
Tin vào mầu nhiệm Ba Ngôi là chúng ta dựa vào thế giá của Đức Giêsu, Người là sự thật (x. Ga. 8, 32) nên Người chẳng lừa dối ai.
Tin vào mầu nhiệm Ba Ngôi là chúng ta sống hiệp thông, chia sẻ và yêu thương. Vì “Ai ở trong Tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga. 4, 16).
Tin vào mầu nhiệm Ba Ngôi là chúng ta làm dấu thánh giá trên thân xác, là in dấu Chúa Ba Ngôi trên cuộc đời mình, là họa lại hình ảnh Ba Ngôi trong tâm hồn tha nhân.
***
Lạy Ba Ngôi chí thánh, Thiên Chúa là một cộng đồng Tình yêu Hiệp nhất. Xin cho Giáo hội tìm thấy bản tính của mình trong bản tính của Chúa Ba Ngôi. Xin cho chúng con hiệp nhất trong tình yêu, để minh chứng cho Tình yêu Hiệp nhất của Chúa. Amen.

11. Yêu thương và hiệp nhất như Ba Ngôi Thiên Chúa
Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm đứng đầu trong ba mầu nhiệm chính trong đạo Công Giáo. Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi dạy cho chúng ta biết có một Thiên Chúa mà Người có Ba ngôi. Ba Ngôi hiệp nhất và yêu thương nhau. Nhân loại được hiện hữu nhờ tình yêu của Ba Ngôi. Đồng thời khi cử hành mầu nhiệm này, chúng ta được thúc đẩy hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa và yêu thương nhau như chính Ngài.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc trí khôn con người cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Chính Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Giêsu, trong đời sống công khai giảng dạy đã mạc khải dần dần, tức là Ngài đã dần dần vén lên bức màn của mầu nhiệm này. Ngài cho biết Chúa Cha là Thiên Chúa, còn Ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài cùng bản tính với Chúa Cha, Ngài cũng là Thiên Chúa. Và Chúa Thánh Thần là Đấng Ngài và Chúa Cha sai đến, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt nhau.
Trong kinh tin kính, chúng ta đều tuyên xưng: “Tôi tin kính một Thiên Chúa duy nhất là Chúa Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất. Tôi tin kính một Chúa duy nhất là Đức Giêsu Kitô, con Một Thiên Chúa, được Chúa Cha sinh ra trước muôn thưở muôn đời. Tôi tin kính Chúa Thánh thần, người là Chúa và là Đấng ban sự sống, Người phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con”. Đó là một công thức thần học súc tích, mang nặng tính chất lý luận dài dòng và khó hiểu. Thế nhưng đây là một mầu nhiệm tuyệt đối nhất trong các mầu nhiệm. Mầu nhiệm của sự hiệp thông sự sống và tình yêu
Thiên Chúa là tình yêu, nghĩa là Ngài không đơn độc một mình. Nếu như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô cùng. Nhưng Ngài là ba: Cha, Con và Thánh Thần. Là ba, nhưng cả ba hoàn toàn yêu thương nhau, hiến tặng sự sống cho nhau, hoàn toàn tương quan, hiệp nhất với nhau: Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha và mối tương quan tình yêu và sự sống này giữa Cha và Con là chính Chúa Thánh Thần. Tình yêu Thiên Chúa không khép kín lại nơi cộng đồng Ba Ngôi, nhưng lan toả ra ngoài trên khắp vũ trụ và đến nhân loại: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con chí ái của Ngài” (Ga 3, 16), nghĩa là chính “sự sống của Thiên Chúa” .
Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một công thức khác để nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, nghĩa là ban cho con người được hạnh phúc như Chúa. Nhưng con người đã phạm tội phản nghịch đánh mất hạnh phúc. Thiên Chúa không từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban con yêu dấu của Ngài để cứu chuộc. Và vì yêu thương con người, Chúa Con đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian thực hiện sứ mệnh yêu thương đó. Và khi hoàn tất, Ngài về trời, Người Con ấy cũng lại trao ban Thánh Thần, nghĩa là chính sự sống của Ngài cho thế gian. Thánh Thần đến để tiếp tục công việc của Chúa Con, công việc yêu thương. Chính nơi Người Con ấy, nơi bản thân, cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu mà chúng ta nhận ra được Thiên Chúa là tình yêu, thế nào là sống như con người được tạo dựng giống hìng ảnh Thiên Chúa: “Ai không yêu thương anh em là không biết Thiên Chúa” (1Ga 4, 8) còn ai đã biết Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em như Ngài đã yêu thương, “vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8). Nhờ Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa tiếp tục được bày tỏ mãi cho tới chúng ta hôm nay và mãi về sau nữa.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là mầu nhiệm của sự hiệp nhất. Có thể nói Thiên Chúa là một gia đình: Cha , Con và Thánh Thần. Yêu thương chính là bản tính thần linh chung của Ba Ngôi, là lời lý giải cho mầu nhiệm cao cả mà chúng ta tuyên xưng.
Mầu nhiệm đức tin không bao giờ là một trò chơi và thách đố trí tuệ, nhưng luôn hàm chứa lời mời gọi sự sống, Thiên Chúa Ba Ngôi là thực tại sống động trong đời sống người Kitô hữu được khai sinh nhờ bí tích Rửa tội “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Lời cầu nguyện luôn luôn là lời nguyện ” với Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần”. Thánh Lễ, trọng tâm của đời sống Kitô hữu, cũng được khai mở và kết thúc trong danh Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi đang sống trong lòng mỗi người, đời sống Ba Ngôi đang diễn ra trong mỗi tâm hồn.Từng giây từng phút, người Kitô hữu được liên kết chặt chẽ với Chúa Con, đến độ khi được tràn đầy Thánh Thần của Ngài, người Kiô hữu trở thành con của Cha trên trời. Vì vậy, phúc lành vĩ đại nhất cho kẻ tin là ” được tràn đầy ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần”. Vì thế, sự nhận biết Thiên Chúa là tình yêu và là tình yêu cứu độ phải là sự thúc đẩy chúng ta yêu thương mọi người như Thiên Chúa yêu thương.
Như nơi Thiên Chúa, khởi điểm của tình yêu là mở ra, thông ban và chia sẻ. Thái độ mở ra, thông ban, chia sẻ này đòi hỏi phải ra khỏi bản thân và đi đến vời người khác. Thái độ này đòi hỏi chúng ta quan tâm đến ích lợi và hạnh phúc của người khác, biết nhìn nhận người khác ngay trong cái khác biệt của họ.
Bản chất của tình yêu là lan tràn. Tình yêu không khép kín trong trong gia đình Ba Ngôi, nhưng trào vọt và chan hoà trong vũ trụ bao la, tuôn đổ trong lòng mọi người. Vì thế, việc tạo dựng vũ trụ được xem như kết quả của tình yêu tràn trề của Thiên Chúa. Tất cả mọi thụ tạo và đặc biệt là con người được coi như đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. Trong tất cả mọi loài thụ tạo, con người gần gũi với Thiên Chúa hơn cả trong cách sống và tình yêu. Cũng vậy, niềm tin thúc bách tình yêu đi tới, phá đổ mọi bức tường ngăn cách, để đến với muôn người và từng người, vượt qua mọi rào cản của màu da, chủng tộc, tôn giáo, ý thức hệ để tình yêu loan toả khắp nơi.
Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm và mãi mãi vẫn là mầu nhiệm. Thiên Chúa là Tình yêu. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nói lên điều đó. Vì thế, khi mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội không chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa không khép kín lại trong Ba Ngôi, nhưng đã trào tràn trên mọi thụ tạo, thì tình yêu thương của người Kitô hữu phải mở ra cho hết mọi người. Sống yêu thương là cách diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Chúa. Đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương và hiệp nhất.
Lạy Chúa Ba Ngôi, xin Chúa cho chúng con luôn biết sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, bằng cách sống yêu thương và hiệp nhất nhau trong tình yêu Chúa. Và sống yêu thương nhau là cách thế tuyên xưng mầu nhiêm Chúa Ba Ngôi vậy. Amen.

12. Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào SDB
“Xin dâng lời tôn vinh chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Kh 1,8a)
Một đan sĩ nọ đã nói: “Nếu ngày xưa Moisen đã không bước vào chỗ tăm tối và mù mịt trên núi Sinai, ông đã không gặp thấy Chúa. Cũng vậy, nếu chúng ta không thấy mình dốt nát và mù tối khi suy hiểu về Thiên Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết được Ngài”. Điều này rất đúng khi chúng ta suy niệm về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi mà Giáo hội hôm nay mừng kính. Đây là mầu nhiệm căn bản nhất của đức tin Công giáo, đồng thời cũng là chân trời vĩ đại và tối tăm nhất đối với đầu óc suy lý của con người. Mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu và thực ra chúng ta không thể hiểu nổi. Khi đối diện trước các thực tại của Thiên Chúa, chúng ta không thể nhận thức bằng lý trí nhưng chỉ có thể trải nghiệm bằng đức tin. Thái độ cần thiết nơi chúng ta không phải là đứng lên cách ngạo nghễ để vắt óc tìm tòi, nhưng phải quỳ gối xuống cách khiêm tốn trong cung chiêm và thờ lạy.
Thực hành đức tin khi tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trước khi bắt đầu làm bất cứ công việc gì, người Công giáo chúng ta luôn bắt đầu bằng dấu Thánh giá với lời tuyên tín: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Thánh Phaolô thường gửi lời chào thăm đến các cộng đoàn với văn thức xưng tụng Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo hội cũng dùng lại văn thức này để khởi đầu Thánh lễ khi vị linh mục chào chúc cộng đoàn: “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em (2 Cor 13,13; Eph 1,2). Chúng ta nhớ lại giai thoại về thánh Augustinô. Khi Ngài đi bách bộ bên bờ biển và suy tư về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Ngài gặp một em bé đang dùng cái vỏ sò để múc nước biển đổ vào một cái lỗ nhỏ tí xíu. Em bé nhắc nhở cho thánh nhân biết rằng, việc lấy một cái vỏ sò bé tí teo đong đầy nước biển xem ra khá xuẩn ngốc, nhưng việc dùng đầu óc chật chội của con người để cố nhét vào cả bầu trời bao la của mầu nhiệm Thiên Chúa còn xuẩn ngốc hơn gấp bội. Vì vậy, đi vào thế giới của mầu nhiệm, chúng ta phải hết sức khiêm tốn và nhận ra những bất toàn nơi đầu óc mình.
Các thánh giáo phụ vay mượn ý nghĩa của 3 lời khuyên phúc âm để minh họa tình yêu đối với Thiên Chúa Ba Ngôi. Sống tinh thần khó nghèo chính là thể hiện niềm tin vào Chúa Cha, đấng quan phòng và luôn yêu thương con cái mình. Đức Khiết tịnh diễn bày tinh thần từ bỏ để sống với một tình yêu thuần khiết theo gương Chúa Giêsu. Sự Vâng phục của người tu sĩ mời gọi chúng ta mở lòng cho Chúa Thánh Thần tác động. Đó chính là ân ban của Thần Khí giúp chúng ta luôn biết tìm kiếm và quy thuận thánh ý của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng đã mặc khải cho chúng ta về Chúa Cha và về Thần khí tác sinh. Khi Ngài lãnh phép rửa tại sông Jorđan, mầu nhiệm Ba Ngôi từ từ được vén mở, qua tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống và Thánh Thần đậu xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu. Ngoài những điều mà Kinh thánh mạc khải, giáo huấn của Giáo hội cũng đầy ắp những gợi mở cho chúng ta về mầu nhiệm cao cả này. Đây là giáo lý căn bản và chúng ta vẫn thường xuyên tuyên xưng mầu nhiệm ấy mỗi khi chúng ta giơ tay làm dấu Thánh giá để cầu nguyện cùng Chúa Ba Ngôi.
Phẩm tính căn bản của mầu nhiệm Ba Ngôi chính là tình yêu.
Trong lá thư thứ nhất của Thánh Gioan, vị tông đồ đã định nghĩa về Thiên Chúa qua một hạn từ rất đơn giản và cô đọng: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16). Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khẳng quyết rằng, ‘Lòng thương xót’ là tên gọi thứ hai của Thiên Chúa, bởi vì thương xót là cách hiển thị rõ nét về tình yêu mà Thiên Chúa dành cho con người. Khi chiêm niệm về mầu nhiệm Ba Ngôi, chúng ta hãy cảm nghiệm như Thánh Phaolô đã từng diễn tả: “Thiên Chúa đã đổ đầy tình yêu của Người vào tâm hồn chúng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho chúng ta (Rm 5, 5b). Để mặc khải về tình yêu của Chúa Cha, Đức Giêsu đã nói với Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một của Ngài để ai tin vào người Con, sẽ được sống. (Ga 3,16). Vì thế, khi chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi, chúng ta bắt đầu sống ơn gọi làm con và khởi đầu sứ vụ thực hành tình yêu như Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đã nói: “Mỗi người chúng ta được trao ban một sứ vụ để chu toàn, đó là sứ vụ của tình yêu”.
Kết luận
Một bữa nọ, Ông Voltaire, một triết gia vô thần đi bách bộ với một anh bạn trên con đường quê ven rừng. Giữa giao lộ có một cây Thánh giá phủ đầy tuyết. Voltaire đã công khai bỏ đạo từ lâu, và hoàn toàn không còn tin vào Thiên Chúa nữa. Ông còn ngạo nghễ chế diễu niềm tin của các Kitô hữu. Nhưng người bạn đang đi với ông lại có niềm tin rất sâu xa. Voltaire chỉ vào cây Thánh giá phủ đầy tuyết và nói với anh bạn: “Đây là hình ảnh của tôn giáo ngày nay. Thiên Chúa của các anh đã bị văn minh khoa học phủ kín mặt mày và niềm tin tôn giáo đã bị sự lạnh lùng băng giá của con người hôm nay che lấp. Vì vậy, Thiên Chúa của các anh không còn lý do để hiện hữu nữa”. Chợt lúc đó, có một cơn gió mạnh thổi đến hất tung chiếc mũ trên đầu Voltaire và quăng xuống đất, đồng thời cơn gió đã làm tan chảy lớp tuyết bao phủ cây Thánh giá. Gương mặt Chúa Giêsu từ từ hiện lộ một cách rõ nét. Người bạn của Voltaire lúc đó mới trả lời ông: “Này bạn, đây mới là hình ảnh đích thực của niềm tin tôn giáo ngày hôm nay. Cho dù con người vẫn lạnh lùng và chai cứng như lớp tuyết trắng che kín Thánh giá, nhưng sức mạnh của Thiên Chúa vẫn dư sức hất tung sự kiêu ngạo của con người và làm tan chảy sự lạnh lùng nơi con tim sỏi đá của mọi người. Ngài luôn hiện hữu cho dù con người vẫn đang ra sức loại trừ Ngài”.
Một nhà tu đức đã nói: “Chúng ta hãy kiếm tìm Thiên Chúa chứ đừng tìm nơi ở của Ngài”. Chúa ở khắp mọi nơi và đang ở trong tâm hồn mỗi người. Chúng ta hãy không ngừng đi kiếm tìm Ngài.

13. Một Thiên Chúa – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Mừng trọng thể Lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta tôn thờ Một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị: Chúa Cha sáng tạo, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hoá. Qua lịch sử ơn cứu độ, Thiên Chúa đã mạc khải cho loài người nhận biết về sự sáng tạo vũ trụ và muôn loài. Con người là loài cao quý nhất được chính Con Một Thiên Chúa ban ơn thanh tẩy và cứu độ. Trước khi rời khỏi các Tông đồ, Chúa Giêsu đã trao quyền tái tạo con người qua Bí tích Rửa Tội. Chúa Giêsu phán: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Chúng ta được lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mỗi khi làm Dấu Thánh Giá, chúng ta tuyên xưng Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi.
Thiên Chúa an bài mọi sự cách lạ lùng trong vũ trụ thiên nhiên. Tất cả mọi loài được Thiên Chúa quan phòng tạo dựng để tiếp nối sự hiện hữu qua việc truyền sinh các giống nòi. Tác giả sách Đệ Nhị Luật đã viết: “Anh em cứ hỏi những thời xa xưa, thời có trước anh em, từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất; cứ hỏi từ chân trời này đến chân trời kia: có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay có ai đã nghe điều giống như vậy chăng?” (Đnl 4,32). Từ những loài thực vật, động vật đến loài người đều được cộng tác vào chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Một sự di chuyển sống động không ngừng trong vũ trụ giúp chúng ta nhân biết một quyền năng phi thường.
Từ xa xưa, khát vọng tâm tư của loài người đã kiếm tìm nguồn cội có uy quyền. Sống giữa vũ trụ bao la, cha ông tổ tiên đã nhiều lần tìm dựa dẫm và nương nhờ chở che vào những đối tượng giả. Họ đã tôn thờ mọi thứ thần lạ do trí tưởng tượng của con người tạo nên. Họ đã phong thần cho tất cả các nguồn sức mạnh tự nhiên như: thần sông, thần núi, thần sấm sét, thần mưa, thần gió, thần mặt trời, mặt trăng, các con vật, và con người cũng được phong thần và đi đến thờ đa thần. Con người tôn thờ những Thần mà họ không hề biết, người Dothái cũng bị ảnh hưởng bởi các thần dân ngoại, đã có thời họ đúc bò vàng để thờ lạy. Thiên Chúa đã chọn riêng dân Dothái để mạc khải về Thiên Chúa độc thần và chương trình cứu độ.
Từng bước Thiên Chúa đã mạc khải cho Dân mà Chúa đã chọn tìm về nguồn chính thật để tôn thờ Một Thiên Chúa. Vậy hôm nay, anh em phải biết và để tâm suy niệm điều này: “Trên trời cao cũng như dưới đất thấp, chính Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa” (Đnl 4,39). Trải qua biết bao thăng trầm và thanh luyện, lòng người không dễ buông bỏ những sự thờ phượng bụt thần bằng gỗ đá vô hồn. Thiên Chúa đã dùng các tiên tri để nhắc nhở, dạy dỗ và hướng dẫn dân quay trở về với một Thiên Chúa có ngôi vị và yêu thương.
Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm quan trọng trong đạo. Mầu nhiệm cao trọng nhất nhưng cũng gần gũi với đời sống của các tín hữu. Chúng ta có thể tuyên xưng mầu nhiệm qua việc làm Dấu Thánh Giá nhiều lần trong ngày. Đã có rất nhiều suy tư thần học về Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, nhưng con người vẫn đắm chìm trong thao thức. Có rất nhiều nhà thần học đã dùng những hình ảnh, tỉ dụ và ẩn dụ để giải thích một chút về Chúa Ba Ngôi; giúp chúng ta dễ hiểu qua các biểu tượng như hình tam giác ba cạnh, ngọn lửa và tia nắng, lá Shamrock, ba thể khí, lỏng và đặc và nhìn xem cây, cành và lá liên kết… Tất cả những giải thích cũng chỉ như giọt nước trong đại dương bao la. Trí khôn con người chỉ còn biết chìm đắm trong nhiệm mầu và quy phục bái lậy tôn thờ.
Khi chúng ta mở mắt chào đời thì mọi sự đã hiện hữu trong vũ trụ. Chúng ta được hít thở bầu khí quyển, được nuôi sống bằng của ăn thức uống và được ngắm nhìn vũ trụ vạn vần đổi thay. Đại đa số con người được sinh ra có đầy đủ giác quan để chiêm ngắm và thưởng thức tất cả những vẻ tươi đẹp của cuộc đời. Khi chúng ta càng ý thức và suy tư sâu thẳm, chúng ta sẽ nhận diện có một sự trật tự lạ lùng trong vũ trụ muôn loài. Từ sự di chuyển của đại vũ trụ tới những chuyển động của tiểu vũ trụ trong từng tế bào li ti, chúng ta nhận ra có một nguyên nhân đệ nhất.
Có rất nhiều vấn đề xảy ra trước mắt trong cuộc sống hằng ngày, thế mà các nhà chuyên môn cũng chưa thể giải đáp thích đáng mọi sự. Đôi khi có người dùng những sự suy luận hiểu biết thiển cận và mơ hồ để đưa ra những giả thuyết nhằm thách thức não trạng con người. Bởi thế, những điều gì chưa biết, chưa học và chưa hiểu, chúng ta không nên chối bỏ, phủ nhận và loại trừ. Chúng ta gắng công suy tư và học hỏi tìm tòi những bài học hữu dụng trong thiên nhiên. Các môn khoa học mới chỉ đi những bước đầu khám phá, tìm ra một số những nguyên lý và định luật chung về sự kết cấu của vũ trụ vật chất bao la. Mầu nhiệm sự sống vẫn còn nhiều vấn đề sâu thẳm, con người từng bước phát hiện những cái mới và cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Dựa vào nguyên lý nhân qủa, trông qủa thì biết cây. Chúng ta có thể quan sát và dùng lý trí để tìm ngược về dấu vết của các loài thụ tạo. Chúng ta không thể đi ngược tới vô tận, phải có một nguyên nhân đệ nhất. Chúng ta có thể gọi nguyên nhân đó là Thiên, Trời, Thượng Đế, Đấng Tạo Thành, Chủ Tể Vạn Vật, Chúa Trời và Thiên Chúa. Niềm tin của người tín hữu, Thiên Chúa là Đấng tự hữu, thiêng liêng, hằng có đời đời, quyền phép, thánh thiện, tốt lành, nhân từ, công bằng và chân thật vô cùng. Trong sách Giáo Lý Công Giáo cũ có câu hỏi: Ta làm thế nào mà biết có Đức Chúa Trời? Thưa: Ta nhìn xem trời đất muôn vật và trật tự lạ lùng trong vũ trụ, liền biết có Đức Chúa Trời là Đấng tạo thành và an bài mọi sự.
Có rất nhiều người chưa tìm hiểu vấn đề đã vội chối từ và phủ nhận nguyên cội. Họ giống như những chiếc bình gốm tuyệt đẹp nói với chủ nhân rằng tôi không biết ông là ai. Với một trí khôn hạn hẹp, nông cạn và vô thường, nhiều người tưởng rằng họ đã nắm bắt được chân lý. Đã có biết bao nhiêu các nhà triết học, thần học, thần bí và các nhà khoa học đã đang gắng công tìm về nguồn vũ trụ. Trong đó có những Đạo giáo chỉ tập trung vào đời sống con người mà quên đi nguyên lý của vũ trụ bao la hiện hữu. Một số người cố gắng chọn con đường tịnh tâm, tu tâm và luyện tâm để tinh tấn giác ngộ. Những vị này giác ngộ tâm trí nhưng còn rất nhiều thiếu xót trong chức vị và ơn gọi làm người. Họ đã đặt mình là trung tâm của vũ trụ và phủ nhận quyền lực sáng tạo.
Qua quyền năng của Chúa Thánh Thần, chúng ta đã nhận được tinh thần nghĩa tử. Chúng ta không còn tinh thần nô lệ sợ hãi mà là con cái: “Vì chính Thánh Thần đã làm chứng cho tâm trí chúng ta rằng: Chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,16). Ba Ngôi Thiên Chúa liên kết trong tình yêu. Mỗi khi chúng ta làm Dấu Thánh Giá trên mình, là chúng ta đang được kết hợp mật thiết với tình yêu Chúa Ba Ngôi. Tình yêu hiến thân hy sinh. Tình yêu của sự tha thứ bao dung.
Chúng ta cùng nguyện rằng: sáng danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, sáng danh Thiên Chúa, Đấng đang có, đã có và sẽ đến. Amen.

14. Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi
“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy các con hãy đi đến với muôn dân, làm phép rữa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.” (Mt 28, 19)
Sau lễ Phục sinh, Thăng Thiên, Hiện Xuống, Hội thánh tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi. Việc sắp xếp này rất hợp lý. Đối với người giáo dân, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi vẫn còn quá cao sâu. Vô tri bất mộ, chúng ta vì không hiểu về Thiên Chúa Ba Ngôi, nên nhiều khi cũng thiếu lòng yêu mến. Dù vậy, có phải phụng vụ quá tôn vinh Chúa Kitô hơn Chúa Cha và Chúa Thánh Thần không? Chính nhờ Chúa Con xuống thế làm người mà chúng ta biết về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, nhất là khi ta hiểu được và đón nhận hồng ân: được làm con Chúa, thuộc về Chúa.
Ba Ngôi hiệp nhất trong một bản tính, một quyền năng và tình yêu: Đ iều gì Chúa Cha có, thì nơi Chúa Con và Chúa Thánh Thần cũng có. Điều gì Chúa Con muốn, thì Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cũng muốn y như thế. Vì Ba ngôi vì yêu nhau, mà kết hợp quá chặt chẽ với nhau, mà ta gọi là Ba Ngôi vị, nhưng chỉ có một Chúa duy nhất.
Điều này không phải ai cũng hiểu được. Vì Ba Ngôi kết hợp quá chặt chẻ và yêu thương nhau vô cùng, nên nảy sinh chương trình tạo dựng vũ trụ. Hội thánh tin nhận đây là công trình sáng tạo vì tình yêu. Tình yêu càng được biểu lộ hơn nữa khi Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Chúa, nhất là cho con người quyền tự do đón nhận Chúa hay không.
Thiên Chúa thấy trước, con người sẽ từ chối làm con TC vì con người kiêu căng, nhưng TC vẫn thực hiện. Đến khi con người sa ngã, Thiên Chúa lại càng tỏ ra tình yêu vô bờ bến khi đưa ra sáng kiến cứu chuộc con người sa ngã. Điều này làm chúng ta ngạc nhiên vô cùng, vì không hiểu nổi Tình yêu nơi Thiên Chúa.Tất cả những điều đó, chỉ là một phần nhỏ so với sự thật về Tình yêu Thiên Chúa mà ta sẽ biết trên nước Trời.
Chuyện kể rằng: Thánh Augustinô đi lại trên bờ biển, đang tìm hiểu xem về mầu nhiệm Chúa Ba Ngoi. Thiên Thần hiện ra dưới hình đứa bé, nhắc nhở Ngài bằng việc lấy tay đào một lổ nhỏ trên cát, rồi lấy võ nghêu múc nước biển đổ vào lổ này. Thánh nhân tò mò, cho là vô lý. Em bé (thiên thần) trả lời: điều con làm là vô lý khi muốn đổ hết nước biển vào lỗ này, nhưng chưa vô lý bằng tâm trí Ngài muốn tìm hiểu rõ ràng về Chúa Ba Ngôi.
Ba Ngôi luôn kết hợp mật thiết với nhau trong bản tính , quyền năng và tình yêu. Khi ta lãnh nhận Bí Tích Rửa tội, chính là lãnh nhận ơn để trở nên con Thiên Chúa, nên môn đệ và là em của Chúa Giêsu, được múc lấy sự sống của Ngài. Hiểu như vậy, ta có sẵn sàng sống ngay chính, quảng đại, yêu thương, để được tham dự vào sự sống thần linh đó không? Thiên Chúa Ba Ngôi đã hết tình cho nhân loại, vì tình yêu. Ta có sẵn sàng sống tình yêu như Chúa Ba Ngôi không?

15. Chúa Ba Ngôi
Người Đông phương chúng ta thường thích giữ im lặng trước những mầu nhiệm của vũ trụ, của con người và nhất là của Thượng Đế.
Thực vậy, người Trung Hoa rất ít nói về trời, bởi vì họ cho rằng ngay cả những thực tại trần thế này, chúng ta còn chưa hiểu biết được cho thấu đáo, phương chi là những thực tại vô hình.
Người Ấn Độ thì có lẽ thích nói về Thượng Đế thật đấy, nhưng họ luôn tự nhắc nhở cho mình rằng những điều chúng ta biết được về Thượng Đế, thì cũng chỉ là như một chiếc lá giữa rừng cây bao la.
Trong khi đó, người Tây Phương, nhất là người Kitô hữu, có lẽ ít khiêm tốn hơn những người Ấn Độ và Trung Hoa, trong vấn đề này. Thực vậy, chúng ta có biết bao nhiêu sách vở viết về Thiên Chúa, biết bao nhiêu bài giảng bàn về Thiên Chúa và biết bao nhiêu định nghĩa về những tín điều.
Thế nhưng, phải thành thật mà nói: Kể từ thời thánh Augustino cho đến ngày hôm nay, chúng ta đã hiểu thêm được những gì về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi? Hay chúng ta cũng giống như những người lạc vào rừng, càng đi xa, càng vào sâu, thì lại càng cảm thấy mịt mù và tăm tối. Hoặc giống như người trong sa mạc, càng đi thì lại càng cảm thấy chỉ có cát và cát mà thôi.
Bởi thế hôm nay, khi mừng kính mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thái độ thích hợp nhất đối với mỗi người chúng ta, đó là im lặng, khiêm tốn và thờ lạy.
Từ thái độ khiêm tốn và thờ lạy này, chúng ta đưa ra một cách thế để cảm nghiện được mầu nhiệm này, đó là tình yêu. Thực vậy, chúng ta không thể biết rừng, nếu đã chẳng biết cây. Cũng vậy, chúng ta không thể nào biết Thiên Chúa, Đấng chúng ta hằng kính mến, nếu chúng ta không yêu thương anh em đồng loại.
Và thật may mắn cho chúng ta vì không cần biết hết mọi thứ cây, thì mới hiểu được rừng. Cũng vậy, không cần phải nếm hết tất cả nước biển mới biết nước biển mặn, nhưng chỉ cần nếm một vài giọt mà thôi cũng đã đủ.
Cũng vậy, chúng ta không cần phải yêu thương tất cả mọi người trên thế gian, mới hiểu được tình yêu là gì? Và hiểu được chân lý Đức Kitô đã mạc khải cho chúng ta: Thiên Chúa là tình yêu. Đã hẳn Đức Kitô mời gọi chúng ta yêu thương tất cả mọi người, nhưng tất cả ở đây không có nghĩa về số lượng, bởi vì điều đó không thể nào thự c hiện được đối với chúng ta, nhưng Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta yêu thương những người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống của mình, không ghét bỏ một ai, cũng chẳng loại trừ một ai.
Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa. Có lẽ nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là điều quá cao vời, quá rắc rối. Chuyện hiểu biết mầu nhiệm này nằm ở trong lãnh vực chuyên môn của các nhà thần học, của các giám mục, linh mục và tu sĩ…Còn mình làm sao có thời giờ để mà học hỏi, có trình độ đâu mà dám múa rìu qua mắt thợ.
Nhưng chúng ta đâu có ngờ rằng: Trong lãnh vực này, có khi nhà thần học, cũng như giám mục, linh mục hay tu sĩ vẫn còn thua xa một bà già nhà quê, nếu như bà ấy biết yêu thương hết thảy mọi người.
Bởi vì, chuyện yêu thương không nhất thiết đòi hỏi một trí rộng tài cao, mà chỉ đòi hỏi một sự nhiệt tâm và chân thành mà thôi.

16. Chúa Ba Ngôi.
Mầu nhiệm đức tin mà chúng ta mừng kính ngày hôm nay, đó là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, nhưng Ngài có Ba Ngôi. Chúa Cha là Thiên Chúa, Chúa Con là Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần cũng là Thiên Chúa. Nhưng vì cùng chung một bản tính, nên chỉ làm nên một Thiên Chúa. Không một trí khôn nào có thể hiểu thấu. Vì vậy chúng ta hãy khiêm nhường mà thưa lên: Lạy Chúa, chúng con tin và xin giúp đỡ đức tin nhỏ bé của chúng con.
Thế nhưng, tại sao chúng ta lại mừng kính vào ngày Chúa nhật hôm nay. Ngày lễ này chính là ngày lễ kết thúc cho những mầu nhiệm mà chúng ta đã mừng kính, từ đầu niên lịch phụng vụ cho đến bây giờ. Ba Ngôi cộng tác với nhau trong công trình cứu độ. Chúa Cha đã sai Con Một Ngài xuống thế như lời thánh Gioan đã viết: Chúa Cha yêu thương chúng ta đến nỗi đã trao ban chính Con Một của Ngài. Ngài đã kêu mời chúng ta bước vào đời sống đức tin. Chúa Con, Đấng cứu độ đã làm người, đã chịu chết vì chúng ta, để nhờ đó chúng ta được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.
Còn Chúa Thánh Thần, sau khi Chúa Giêsu về trời, Ngài chính là Đấng thủ lãnh, Đấng hướng dẫn, Đấng an ủi của chúng ta. Vì những lợi ích cao cả ấy, chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa. Thực vậy, lễ Chúa Ba Ngôi phải là một lời kinh tạ ơn vang lên trong Giáo Hội. Nó bao gồm biến cố Giáng Sinh, Hiển Linh, Phục Sinh, Lên Trời và Hiện Xuống. Sở dĩ Giáo Hội đặt ngày lễ hôm nay vào Chúa nhật đầu tiên sau lễ Hiện Xuống là vì Giáo Hội muốn nhắc cho chúng ta nhớ rằng mỗi ngày Chúa nhật phải là một ngày lễ kính Chúa Ba Ngôi. Mỗi ngày Chúa nhật phải là một ngày thánh hiến cho Chúa Ba Ngôi. Mỗi ngày Chúa nhật phải là một ngày dành riêng để chúng ta cảm tạ Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha đã tạo dựng và kêu mời chúng ta. Chúa Con đã Phục sinh và cứu chuộc chúng ta. Chúa Thánh Thần đã thánh hóa và biến chúng ta trở nên đền thờ cho Ngài. Hơn nữa, chính Ngài hiện diện vào ngày thứ nhất mà khai sinh ra Giáo Hội. Vì thế ngày Chúa nhật phải là một ngày dành riêng để tôn kính Chúa Ba Ngôi.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy cuộc đời của chúng ta đã thấm nhuần biết bao ơn trọng đại của Chúa Ba Ngôi. Các bí tích mà chúng ta đã lãnh nhận đều được cử hành nhân danh Chúa Ba Ngôi. Với Bí tích Rửa Tội, chúng ta nghe thấy lời đọc: Ta rửa con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Với Bí tích Giải tội, chúng ta nghe thấy lời đọc: Vậy Cha tha tội cho con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Đời sống người Kitô hữu được bắt đầu và hoàn tất trong Chúa Ba Ngôi. Mỗi khi khởi sự hay kết thúc một công việc nào đó, chúng ta thường làm dấu và đọc: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Phần nhiều các kinh Giáo Hội đọc, đều được dâng lên cho Chúa Ba Ngôi. Chẳng hạn kinh Sáng danh. Đây cũng là một lời kinh thường đọc Giáo Hội sử dụng nhiều hơn cả. Mỗi một giờ kinh đều được bắt đầu bằng kinh Sáng danh, mỗi một thánh vịnh đều được kết thúc bằng kinh Sáng Danh. Kinh Sáng Danh chính là tiếng chuông vang lên đều đều nơi nhà Chúa.
Rồi kinh: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, kinh Tạ ơn, đều là những lời kinh dâng tiến Chúa Ba Ngôi. Và còn nhiều lời kinh khác nữa, chẳng hạn kinh Tin kính và những lời đọc trong thánh lễ….
Xem đó, chúng ta thấy từ sinh hoạt cá nhân đến sinh hoạt Giáo Hội, tất cả đều tuôn chảy tới Chúa Ba ngôi, ước gì cuộc đời chúng ta cũng sẽ được diễn ra trong tình thương yêu của Chúa Ba Ngôi, để tất cả chúng ta xứng đáng là con của Chúa Cha, là em của Chúa Giêsu và là chiến sĩ của Chúa Thánh Thần.

17. Thiên Chúa Ba Ngôi: Tình yêu tuyệt hảo
“Biết làm sao định nghĩa được tình yêu?”. Có lẽ đây không chỉ là câu hát đầy thi vị trong lãnh vực tình yêu, mà còn là khắc khoải của từng người trong chúng ta. Thật thế, ai trong chúng ta cũng yêu và muốn được yêu. Tuy nhiên, không gì khiến chúng ta phải lúng túng cho bằng định nghĩa thế nào là tình yêu. Tình yêu quả thật là một mầu nhiệm. Tại sao chỉ có con người mới biết yêu? Có lẽ chúng ta chỉ có thể trả lời câu hỏi này bằng chính mầu nhiệm của Thiên Chúa mà thôi.
Vào cuối đời mình, khi suy niệm về cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, thánh Gioan Tông Đồ đã phát biểu như sau: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Đây quả là công thức độc nhất vô nhị của Kitô giáo; trước và sau Kitô giáo, có lẽ không một tôn giáo hay một triết thuyết nào đã gọi Thiên Chúa là Tình Yêu. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian”. Gọi Thiên Chúa là Tình Yêu, bởi vì Thiên Chúa vừa tỏ mình cho chúng ta một cách gần gũi, thân thiết, lại vừa là một mầu nhiệm mà chúng ta không bao giờ hiểu thấu được. Vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đã tỏ mình qua người Con Một của Ngài, Người Con ấy đã sống kiếp sống của con người và đã chết một cách đau thương nhục nhã để nói với chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Tình yêu nào cũng muốn được bộc lộ, người yêu nào cũng muốn tỏ tình. Bằng cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thực sự tỏ tình với con người: Ngài đã tỏ tình và yêu thương cho đến cùng. Chính vì thế, Ngài đã sai phái Thánh Thần đến để khai sinh Giáo Hội. Thánh Thần chính là Tình yêu nối kết Chúa Cha và Chúa Con. Thiên Chúa thông ban tình yêu của Ngài cho Giáo Hội, để Giáo Hội hiện diện như một dấu chứng tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Giáo Hội là tiếng tỏ tình của Thiên Chúa đối với con người.
Mừng kính Chúa Ba Ngôi hôm nay, Giáo Hội muốn nhắc nhớ chúng ta chân lý ấy. Tỏ mình cho chúng ta, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng Ngài là Ba Ngôi Vị, Ngài là Tình Yêu. Đó là mầu nhiệm cơ bản nhất, từ đó Giáo Hội được xuất phát và xây dựng; Giáo Hội vừa là hình ảnh vừa là thể hiện Chúa Ba Ngôi. Nhưng mầu nhiệm Ba Ngôi không chỉ là nền tảng của Giáo Hội, mà còn là ánh sáng chiếu dọi vào bí ẩn của con người. Thật thế, chỉ trong Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta mới hiểu rõ được ơn gọi và định mệnh của con người. Nếu Thiên Chúa là tình yêu và nếu con người được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, thì một cách tất yếu, con người chỉ thực sự là người khi biết yêu thương. Phẩm giá của con người được xây dựng trên chính tình yêu. Ai chối bỏ tình yêu, ai gieo rắc hận thù, người đó cũng chối bỏ con người và chối bỏ chính Thiên Chúa; trái lại ai sống trong tình yêu, người đó cũng sống trong Thiên Chúa.
Lễ Chúa Ba Ngôi không chỉ là một lời ca tụng tình yêu Thiên Chúa, mà còn là một tuyên xưng về phẩm giá con người. Thiên Chúa phú bẩm cho con người khả năng yêu thương; Ngài tỏ mình cho con người để con người cũng nhận ra được phẩm giá cao cả của mình. Mỗi ngày, từ lúc khởi đầu một ngày mới cho đến lúc trở lại giường ngủ, chúng ta không ngừng tuyên xưng mầu nhiệm của tình yêu Thiên Chúa và phẩm giá cao cả của con người. Mầu nhiệm ấy gắn liền với Thập Giá Chúa Giêsu mà chúng ta vẽ trên người. Qua cái chết trên Thập Giá, không những Chúa Giêsu tỏ bày cho chúng ta mầu nhiệm của Thiên Chúa, Ngài còn vạch ra cho chúng ta con đường đi vào mầu nhiệm ấy, đó là con đường của yêu thương. Chúa Giêsu đã yêu thương và yêu thương cho đến giọt máu cuối cùng; Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy bộ mặt của Thiên Chúa; Ngài đã dạy cho chúng ta biết thế nào là yêu thương.

18. Thiên Chúa Tình Yêu
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Một bạn trẻ hỏi tôi: “Thưa Cha, tại sao đạo Phật khi xây chùa thì chọn những nơi rừng núi thâm u, xa hẳn thị thành, còn đạo Công Giáo khi xây nhà thờ lại chọn những nơi dân cư đông đúc, phồn hoa đô hội?” Tôi trả lời: “Bạn quả là có con mắt nhận xét. Việc xây cất chùa chiền, nhà thờ như vậy, thực ra, phát xuất từ quan niệm nền tảng của đạo. Đạo Phật là đạo xuất thế. Đức Phật vì thấy những cảnh khổ ở đời trong sinh, lão, bệnh, tử nên đã tìm môt con đường mong giải thoát chính mình và nhân loại khỏi cảnh khổ não ở đời. Vì thế Ngài đã từ giã cung đình, rũ sạch bụi trần, xa lánh phồn hoa. Trái lại đạo Công Giáo là đạo nhập thế. Thiên Chúa thấy con người trầm luân khổ ải nên chạnh lòng thương, đã sai Con Một là Chúa Giêsu xuống trần để cứu độ chúng sinh. Chúa Giêsu xuống trần không chỉ là nhập thế, mà còn hoá thân một người nghèo sống giữa người nghèo, người tội lỗi để đưa mọi người về với Chúa, đó là nhập thể. Có thể nói đạo Công Giáo diễn tả việc Thiên Chúa đi tìm con người.
Thiên Chúa đi tìm con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Không yêu thương thì chẳng việc gì phải đi tìm. Đi tìm tức là có quan tâm. Xa vắng thì nhớ. Thấy khổ vì thương. Vì thương, vì yêu nên phải cất bước đi tìm.
Không phải Thiên Chúa chỉ yêu thương khi con người gặp đau khổ. Thực ra Thiên Chúa đã yêu thương con người từ trước, từ khi chưa có con người. Vì Thiên Chúa là tình yêu thương.
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thì không thể sống đơn độc nên phải có Ba Ngôi. Vì yêu thương không chỉ là cho đi nhưng còn là nhận lãnh. Muốn cho đi, phải có đối tượng để nhận lãnh. Muốn nhận lãnh cũng đòi phải có người sẵn sàng cho đi. Vì Thiên Chúa là tình yêu, nên Thiên Chúa là Ba Ngôi để có thể cho đi và nhận lãnh.
Thiên Chúa là tình yêu tuyệt hảo nên sự cho đi và nhận lãnh ở nơi Ba Ngôi Thiên Chúa cũng đạt đến mức tuyệt hảo. Thiên Chúa Cha trao ban cho Chúa Con tất cả những gì mình có, nên Chúa Con là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha, đến nỗi Chúa Giêsu có thể nói: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy, Thầy và Cha là một”. Vì yêu, Chúa con dâng lại cho Chúa tất cả những gì mình nhận lãnh. Việc hiến dâng này ta thấy rõ trong thái độ khiêm tốn, tự hạ, vâng phục vô biên của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Chúa Giêsu đã quả quyết: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu”. Và Người đã vì Chúa Cha mà hiến mạng sống.
Thiên Chúa là tình yêu tuyệt đối. Tình yêu ấy không chỉ đóng kín nơi bản thân mình. Cũng không chỉ dừng lại ở một đối tượng hạn hẹp. Nhưng vượt mọi ranh giới, lan toả đến mọi góc biển chân trời. Ba Ngôi Thiên Chúa là một bầu trời tình yêu hạnh phúc. Nhưng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa không chỉ thu gọn trong cộng đoàn Ba Ngôi, mà lan toả đến khắp vũ trụ, ấp ủ cả thế giới, nâng niu cả sinh linh vạn vật. Ba Ngôi là một lò lửa tình yêu. Lò lửa tinh luyện tình yêu càng ngày càng phong phú, là nguồn mạch của mọi tình yêu trên đời.
Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi như thế không xa vời. Trái lại rất gần gũi, thiết thân với đời sống chúng ta, là nguồn mạch sự sống của ta, là khuôn mẫu ta phải noi theo, là cùng đích ta phải đạt tới.
Ta ra đời là do tình yêu của Thiên Chúa. Có thể nói nhân loại là kết tinh của tình yêu Thiên Chúa. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã nói: “Ta hãy tạo dựng con người giống hình ảnh Ta”. Thiên Chúa là tình yêu. Con người giống Thiên Chúa vì có trái tim biết yêu thương. Cây cỏ không có trái tim biết yêu thương. Cầm thú không có khả năng yêu thương. Chỉ có con người mới có khả năng yêu thương vì con người giống Thiên Chúa.
Nhưng tình yêu ở nơi con người chưa hoàn hảo vì còn chen lẫn nhiều ích kỷ, hận thù, ghen ghét. Vì thế con người còn phải thanh luyện cho tình yêu ngày càng thêm tinh tuyền, thêm quảng đại, thêm phong phú. Càng yêu thương con người càng nên giống Thiên Chúa. Càng quảng đại con người càng gần với trái tim Thiên Chúa. Càng quên mình con người càng tham dự vào sự sống Thiên Chúa.
Được sinh ra trong tình yêu nên con người phải sống bằng tình yêu. Như thế con người mới sống trọn định mệnh đời mình. Như thế con người mới đạt được cùng đích đời mình là sống hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, là nguồn mạch tình yêu, là sự sống sung mãn, là thiên đàng hạnh phúc, con đã được sinh ra trong tình yêu của Chúa. Xin cho con biết sống tình yêu hy sinh theo gương Chúa Giêsu Kitô, để con được kết hợp với Chúa, sống chan hoà hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Thiên Chúa là tình yêu. Bạn cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa thế nào?
2) Bạn có là hình ảnh tình yêu của Thiên Chúa chưa?
3) Bạn làm gì để sống mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi?

19. Mầu nhiệm tình yêu – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm tình yêu thương.
Từ đời đời, Chúa Cha yêu Chúa Con. Tình yêu ấy lớn lao đến nỗi Chúa Cha đã sinh ra Chúa Con giống hệt như mình. Con là hình ảnh hoàn hảo, nguyên tuyền của Cha. Con là chính Cha, nên Đức Giêsu nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9). Cha có gì thì ban tất cả cho Con. Nên sau này Đức Giêsu đã nói: “Tất cả những gì của Cha đều là của Con” (Ga 16,15). Tình Cha yêu Con thật lớn lao, kỳ diệu. Tình Con đáp lại tình Cha cũng nồng nàn tha thiết không kém. Những gì Con nhận được do tình yêu của Cha thì Con dâng lại cho Cha tất cả. Đức Giêsu vì yêu mến Chúa Cha, nên đã vui lòng xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại. Trọn cuộc đời, Người luôn tìm thánh ý Chúa Cha để thi hành. Người luôn tâm niệm: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy” (Ga 4,34). Người từ bỏ hết ý riêng mình để chỉ làm theo ý Chúa Cha. Người nên một với Đức Chúa Cha trong tâm tình, trong tư tưởng, trong hành động. “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga 14,10). Trong giờ hấp hối, dù sợ hãi cái chết đến độ mồ hôi máu tuôn ra, nhưng Đức Giêsu vẫn luôn vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cho Con khỏi uống chén này. Xin đừng theo ý Con, nhưng theo ý Cha mà thôi” (Mt 26,39). Thánh Phaolô đã tóm tắt về cuộc đời Người: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Phil 2,6-8). Tất cả thái độ vâng phục nói lên sự dâng hiến trọn vẹn cho Chúa Cha. Tình yêu nối kết Chúa Cha và Chúa Con là Chúa Thánh Thần.
Ba Ngôi là lò lửa tình yêu lúc nào cũng ngùn ngụt cháy. Ba Ngôi là nguồn mạch tình yêu không bao giờ vơi cạn. Cuộc trao đổi cho đi và nhận lãnh làm cho tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa ngày càng sung mãn dồi dào. Tất cả mọi tình yêu đều bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi. Tất cả mọi tình yêu muốn trung thực và bền vững đều phải học theo khuôn mẫu tình yêu Chúa Ba Ngôi. Hạnh phúc là ta được tham dự vào bầu khí yêu đương của Chúa Ba Ngôi. Hạnh phúc sẽ đến khi mọi người biết yêu thương nhau trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi.
Hôm nay, khi truyền cho ta đi rửa tội cho mọi người nhân danh Chúa Ba Ngôi, Đức Giêsu muốn ta đem tình yêu rửa sạch những oán ghét hận thù đang tàn phá thế giới. Người mong ta đem ngọn lửa tình yêu thắp sáng những gọc tối t8am chiến tranh, chia rẽ. Người mong ta đem mưa tình yêu tưới gội những vùng đất khô cằn vì thiếu vắng tình thương tha thứ. Người muốn cho tình yêu lên ngôi ngự trị trong hết mọi tâm hồn.
Phần ta, những môn đệ của Chúa, mỗi khi ta làm dấu Thánh giá nhân danh Chúa Ba Ngôi, ta hãy xin Ba Ngôi Thiên Chúa in tình yêu thánh thiện của Người vào tâm hồn ta. Xin cho ta được tham dự vào tình yêu vô cùng sung mãn của Người. Xin cho ta trở nên một đốm lửa trong lò lửa yêu thương của Người. Được cháy trong lò lửa tình yêu Chúa Ba Ngôi, ta sẽ trở nên giống như Người, luôn biết cho đi, luôn biết dâng hiến, luôn mưu tìm hạnh phúc cho tha nhân.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Khi cầu nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha. Bạn có cảm thấy Thiên Chúa là người Cha yêu thương và gần gũi không?
2- Bạn có mong muốn được tham dự vào luồng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa không?
3- Thiên Chúa dựng nên bạn giống hình ảnh Người. Bạn đã thực sự là hình ảnh tình yêu thương của Chúa đối với những người chung quanh chưa?
4- Sau khi đã hiểu rõ mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, bạn sẽ có thái độ nào đối với Chúa và đối với anh em?

20. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
(Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm)
Với người công giáo, còn gì gần gũi thân quen cho bằng làm dấu thánh giá trên mình cùng với lời đọc “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Ấy thế mà mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi dường như lại thật xa lạ và trừu tượng. Có chăng những từ ngữ “ngôi vị” và “bản tính”, vốn rất cần thiết để minh định tín điều, lại là bước cản cho sự gặp gỡ Đấng Thiên Chúa sống động? Có chăng những suy tư thần học về Ba Ngôi thật phong phú về tư duy nhưng lại thiếu tiếp cận mục vụ và linh đạo? Từ góc độ thực hành của đời sống đức tin, xin gợi ý về lời đọc “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” như một cảm nghiệm gặp gỡ Đấng Thiên Chúa duy nhất và là Đấng ở trên, ở với và ở trong con người cũng như lịch sử.
Đấng Thiên Chúa ở trên, ở với và ở trong
Cảm nghiệm đầu tiên của con người về Thiên Chúa: Ngài là Đấng “ở trên”, “Ông Trời”, “Ông Thiên”. Thánh Phaolô tuyên xưng chỉ mình Thiên Chúa là “Đấng trường sinh bất tử, ngự trị trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy” (1Tim 6,16). Vì Thiên Chúa vượt lên trên vũ trụ và nhân loại nên “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi” (Mt 16,23). Nếu ai nói rằng mình hiểu được Thiên Chúa thì chắc chắn vị Thiên Chúa ấy không còn là Thiên Chúa đích thực nữa.
Những khám phá khoa học ngày nay không những không làm tiêu hao niềm tin vào Thiên Chúa mà trái lại, càng làm cho chúng ta cảm nhận rõ hơn tính bất khả đạt thấu của Thiên Chúa. Ngân hà mà trái đất chúng ta là một thành phần đã là vĩ đại rồi, nhưng nó chìm nghỉm trong hằng tỉ giải ngân hà của vũ trụ. Chính sự vĩ đại ấy của vũ trụ lại càng làm nổi bật tính vô biên và bất khả đạt thấu nơi Thiên Chúa: “Chúng ta không thể khám phá Thiên Chúa đang điều khiển thế giới cách ngây ngô như trước. Chúng ta không thể làm thế, không phải vì Thiên Chúa đã chết, nhưng vì Ngài là Đấng vĩ đại hơn nhiều, Đấng không thể gọi tên, Đấng bất khả đạt thấu, Đấng là nền tảng mọi sự” (Karl Rahner, Science as a Confession, 389).
Cảm thức về tính bất khả đạt thấu nơi Thiên Chúa giúp các Kitô hữu tránh được nguy cơ rơi vào tình trạng mà một nhà tư tưởng phê phán: “Không phải Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài, nhưng chính con người đã làm nên Thiên Chúa theo hình ảnh của mình”. Một trong những điều răn đầu tiên Thiên Chúa ban bố là: “Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20,4). Dân Chúa trong thời Cựu Ước lại chẳng rơi vào tình trạng đó sao khi họ lấy vàng đúc thành con bê rồi sụp lạy tung hô: “Đây là vị thần đã đưa chúng ta ra khỏi đất Ai Cập” (Xh 32,7)? Và cơn cám dỗ ấy vẫn không ngừng tái diễn trong lịch sử dưới nhiều hình thức khác nhau.
Thiên Chúa là Đấng “ở trên” nhưng đồng thời lại là Đấng “ở với” loài người. Đây là mạc khải trung tâm và độc đáo của Kitô giáo. Kinh Thánh tràn ngập cụm từ “ở với”. Hầu như khi sai bất cứ ai đi thi hành sứ mạng, Thiên Chúa cũng chỉ hứa điều quan trọng nhất là: “Ta ở với ngươi”. Từ Môsê đến Đức Maria đều thế cả (Xh 3,12; Lc 1,28). Cho đến thời của Hội Thánh, lời hứa của Chúa Kitô Phục sinh dành cho các môn đệ vẫn là: “Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Danh thánh Thiên Chúa mạc khải cho Môsê (Xh 3,14) được dịch nhiều cách: “Ta là Đấng hằng hữu”, “Ta là Đấng hiện hữu”, “Ta là Đấng Ta là”. Nhưng cũng có một cách dịch khác mang tính hiện sinh hơn: “Ta là Đấng hằng ở với anh em” (trong mọi hoàn cảnh, mọi bước đường, mọi biến cố). Lời hứa “ở với” ấy đã vươn đến cao điểm trong Đức Giêsu Kitô, Đấng được gọi là Emmanuel, Thiên Chúa-ở-với-chúng ta (Mt 1,23). Thiên Chúa ở với loài người không những bằng sự hiện diện mà còn chia sẻ phận người, kể cả những trạng huống bi thảm nhất, để trong mọi hoàn cảnh, kể cả sự chết, ta có thể cảm nhận được tiếng nói: Cha ở với con.
Ratzinger có trang sách đẹp về trải nghiệm sự chết khởi đi từ hình ảnh đứa bé bị lạc lối trong rừng sâu và màn đêm buông xuống. Cùng với bóng tối vây bủa chung quanh là nỗi hoang mang sợ hãi tràn ngập tâm hồn. Trong giây phút ấy, điều mà cậu bé mong chờ nhất không phải là bài học địa lý về cánh rừng hoặc bài hướng dẫn khoa học tìm tọa độ. Điều mong chờ nhất chỉ là có một bàn tay chạm lấy và tiếng nói bên tai: “Cha đây, nào chúng ta đi”. Không có giây phút nào con người cảm nhận nỗi cô đơn tột cùng cho bằng khi đối diện với sự chết. Kể cả những người thương yêu ta nhất cũng không thể đồng hành. Mọi lý thuyết về thế giới mai sau dường như vô nghĩa. Điều mong đợi duy nhất là sự hiện diện và đồng hành của một ai đó trên con đường tăm tối. Và Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng đã kinh qua sự chết và đã sống lại, chính là Đấng duy nhất đáp trả nỗi ước mong sâu thẳm về một bàn tay nắm lấy và tiếng nói bên tai “Ta đây, nào chúng ta cùng đi”. Thiên Chúa ở với.
Thiên Chúa không chỉ ở với con người mà còn ở trong họ. Theo quan điểm công giáo, lương tâm là “tâm điểm sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây con người chỉ hiện diện một mình với Thiên Chúa, và tiếng nói của Ngài vang dội trong lòng họ” (Hiến chế Vui Mừng và Hi Vọng, số 16).
Tin Mừng Gioan, Tin Mừng của đời sống chiêm niệm, tràn ngập cụm từ “ở trong”: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình yêu của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình yêu của Ngài” (15,9-10); “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí Sự Thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Ngài. Còn anh em biết Ngài vì Ngài luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (14,16-17).
Có chuyện kể về một guru đánh mất chìa khóa vào nhà và quanh quẩn đi tìm chìa khóa ở bãi cỏ trước nhà. Đám học trò thấy thế bèn hỏi, “Thưa thầy, thầy tìm gì vậy?” “Thầy mất chìa khóa vào nhà rồi”. “Để chúng con tìm giúp”. Thế là ai nấy hăng hái bới từng gốc cây, lật từng ngọn cỏ để tìm. Tìm mãi không thấy, một học trò sốt ruột hỏi: “Thầy có nhớ loáng thoáng là đánh rơi ở đâu không?” “Có chứ, thầy nhớ rõ là mình để quên ở trong phòng rồi sập cửa lại”. Đám học trò la lên: “Trời ơi, sao bây giờ mới nói, mất chìa khóa trong nhà mà lại tìm ở ngoài này, làm sao thấy được!” Ông thầy có dịp cho học trò một bài học để đời: chúng ta đánh mất chìa khóa của ngôi nhà hạnh phúc. Chìa khóa ấy ở trong tâm hồn nhưng chúng ta lại mải tìm ở ngoài. Tìm đủ thứ, chiếm hữu đủ thứ, hưởng thụ đủ thứ… mà hạnh phúc vẫn biệt tăm. Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc, ở thâm sâu lòng người, nhưng chúng ta mải tìm ở thế giới bên ngoài.
Đúng là “Chúa ở trong con sâu hơn chính con” và “Con đi tìm Chúa bên ngoài mà quên mất rằng Chúa ở trong con”. Không chỉ là cảm nghiệm của các nhà thần bí mà còn là trải nghiệm của mỗi người nếu chân thành nhìn lại chính mình.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
Hội Thánh có sứ vụ giới thiệu và loan báo cho con người Đấng Thiên Chúa ở trên, ở với và ở trong con người cũng như lịch sử. Nghĩa là phải loan báo Thiên Chúa trong tính toàn thể. Xem ra không dễ dàng giữ được sự quân bình và tính toàn thể ấy. Có khi người Kitô hữu nhấn mạnh đến Thiên Chúa ở trên (chiều kích siêu việt) và ở trong (chiều kích nội tại) mà không quan tâm đến Thiên Chúa ở với phận người, nên bị người ta chê trách là lãng quên những thực tại trần thế. Lại có khi nhấn mạnh đến Thiên Chúa ở với (chiều kích dấn thân xã hội) mà quên Thiên Chúa ở trên và ở trong, nên biến Hội Thánh thành cộng đoàn xã hội thuần túy với chân trời và đường lối hành động không khác gì những tập thể xã hội khác. Làm thế nào để giữ được sự quân bình và tính toàn thể của mầu nhiệm Thiên Chúa, để có thể “ở trong thế gian mà không thuộc về thế gian” (Ga 17,14-16), để là “muối cho đời và ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13-16). Sẽ mãi là một thách đố, nhưng ít ra ý thức được điều ấy cũng đã là lời nhắc nhở cần thiết cho sứ vụ, lời nhắc nhớ mỗi ngày khi làm dấu thánh giá trên mình và đọc “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.

21. Hãy yêu đi rồi sẽ biết sự thật
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Chúa Thánh Thần sẽ dẫn chúng ta đến sự thật toàn vẹn ( x. Ga 16,13 ). Nhờ lời mạc khải của Chúa Kitô, chúng ta biết rằng Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa duy nhất mà là Ba Ngôi riêng biệt là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chỉ một Thiên Chúa duy nhất mà là Ba Ngôi. Tuy Ba Ngôi riêng biệt nhưng chỉ là một Thiên Chúa. Một mầu nhiệm vượt quá trí suy của nhân loại.
Vì sao Ba Ngôi mà chỉ là một Thiên Chúa hay vì sao chỉ một Thiên Chúa mà là Ba Ngôi? Xin được trả lời cách thành thật rằng bản thân không biết. Vì tin vào Đức Kitô, Đấng có lời quyền năng và yêu thương tôi cho đến cùng, cho đến chết trên thập giá, nên tôi tin vào lời của Người. Chính Chúa Kitô đã phải trả giá rất đắt, là cái chết thập giá, cho sự mạc khải này trong bối cảnh Do Thái giáo chỉ tin có một Thiên Chúa duy nhất và độc nhất. Chúng ta đừng quên một trong những lý do khiến những người lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ đã từng lấy đã ném Chúa Giêsu và lên án tử hình cho Người, vì Người tự cho mình là Con Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa ( x. Ga 10,31-33; Mt 26,62-66 ).
Thánh Kinh, đặc biệt Chúa Kitô không cho biết vì sao một Thiên Chúa mà là Ba Ngôi, nhưng đã mạc khải cho chúng ta biết mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi như thế nào. Đó là mầu nhiệm tình yêu liên đới, hiệp thông trọn hảo, đầy năng động và sáng tạo. Và chúng ta, loài thụ tạo cao cả nhất trong các loài hữu hình, ngay trong kiếp lữ thứ này, có thể cảm nghiệm phần nào đó mầu nhiệm ấy, khi sống trong Thánh Thần, Đấng là tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con, giữa Chúa Con và Chúa Cha.
“Sự sống đời đời là chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và Đức Giêsu Kitô mà Cha sai đến” ( Ga 17,3 ). Làm sao để nhận biết sự thật này nếu không được Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa tác động. Chúng ta đã được nhận làm con trong Đức Giêsu. “ Vì là con, nên Thiên Chúa sai Thánh Thần của Con Ngài ngự vào lòng chúng ta và kêu lên: Abba, Cha ơi!” ( Gl 4,6 ). “ Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” ( Rm 8,16 ). Không ai có thể tuyên xưng Đức Kitô là Chúa nếu không được Thánh Thần thúc đẩy ( x.1Cor 12,3 ). Thánh Thần chính là nguồn tình yêu. Vì thế chỉ những ai ở trong tình yêu mới có thể hiểu biết sự thật. Và khi hiểu biết sự thật thì chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta và đưa chúng ta vào sự sống đời đời.
Làm sao ta có thể biết nghĩa phu thê là gì khi ta chưa sống hết tình với người phối ngẫu? Làm sao ta có thể biết được thế nào là quê hương khi ta chưa hết lòng hết tâm với vận mệnh quốc gia dân tộc? Làm sao ta có thể biết được giá trị của con người trong cõi nhân sinh này khi ta chưa trải rộng com tim với người đồng loại, với người anh chị em cận kề, nhất là với những người cô thế cô thân? …
Hãy yêu đi rồi bạn sẽ biết nhiều lẽ huyền nhiệm của sự trao ban và đón nhận. Hãy hiệp thông cách thực sự thì bạn sẽ biết thế nào là tình liên đới. Đây là một cái lẽ biết theo nghĩa Thánh Kinh, tức là không chỉ nhìn thấy thực tại, thấy vấn đề bằng trí khôn, mà còn gắn bó thiết thân, chung lưng đấu cật, khi buồn lẫn khi hoan lạc, lúc thuận lợi cũng như lúc gặp phải nghịch cảnh, gian truân.
Ngay trong cuộc sống này, có nhiều điều mà lý trí phải chào thua. Sự khôn ngoan đích thực không hệ tại ở trí óc, nhưng là ở trái tim. Có thể có trường hợp người ta đâm ra mù quáng vì yêu. Nhưng đó chỉ là thứ tình yêu vị kỷ, nghiêng chiều đam mê vụ lợi hoặc bất chính. Khi đã biết yêu với tình yêu trong sáng, quảng đại quên mình, với một tình yêu bắt nguồn từ tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa thì không một ai là không ở trong ánh sáng. Và chính ánh sáng sẽ soi dẫn chúng ta đến cùng chân lý.
Là kitô hữu, không gì hơn là biết quy chiếu về Tình Yêu Thiên Chúa Ba Ngôi để rồi biết yêu thương nhau bằng:
1. Một tình yêu thúc đẩy ta không chỉ muốn mà còn biết chủ động, tích cực làm cho người mình yêu phát triển và nên hoàn thiện.
2. Một tình yêu thúc đẩy ta tìm mọi cách để cho người mình yêu nên đáng yêu và được nhiều người yêu mến.
3. Một tình yêu thúc đẩy ta nổ lực hết mình làm cho người mình yêu có đủ khả năng và sự nhiệt tình để yêu mến kẻ khác.
Khi ta sống được chút tâm tình yêu mến này, thiết tưởng rằng chúng ta sẽ chẳng còn băn khoăn với câu hỏi tại sao Ba Ngôi mà chỉ một Thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc vì biết cội nguồn của mình chính là Thiên Chúa Ba Ngôi.

22. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Gõ vào Google chữ Holy Trinity tôi tìm thấy cả một rừng giải thích về Chúa Ba Ngôi nhưng hầu hết chỉ là lịch sử hình thành tín điều, vài công thức và suy tư thần học. Lời Chúa trong Ga 3,16-18 trình bày Chúa Ba Ngôi cách sinh động hơn nhiều, có cả một nội dung của cái mà người ta quen gọi là tính hiện sinh (existentiality), vì nó chạm tới hiện hữu sống động của từng con người nhân loại: thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một.
Trong những ngày này, tôi đang đọc và dịch cuốn Heart Speaks to Heart của tác già Windy M. Wright về linh đạo Sa-lê. Tôi rất tâm đắc với trình bày của thánh Phan-xi-cô Sa-lê về viễn ảnh một thế giới của các con tim, đặc biệt lối diễn tả của ngài về nguồn gốc của cái thế giới đó, tuy đậm nét thần học về Chúa Ba Ngôi nhưng lại rất sinh động và đầy tính thuyết phục.
Cho dầu trong bản chất Thiên Chúa vượt xa những gì con người có thể hình dung, ta vẫn có thể nói một cách biểu tượng rằng Ngài có một Con Tim là nguồn mạch mọi thứ tình yêu. Con Tim Thiên Chúa trao ban sự sống. Đó là cõi lòng. là mạch nước, là sinh lực sôi sục, nóng bỏng. Con Tim đó thở, đập nhịp và co thắt. Con Tim Thiên Chúa là Ba Ngôi vì được cấu thành bởi tình yêu hỗ tương trao ban cho nhau giữa Chúa Cha và Chúa Con được thực hiện trong cùng một khát vọng duy nhất là trao hiến tình yêu cho nhau khát vọng duy nhất đó không gì hơn là chính Thần Khí cùng được phóng ra do hai hơi thở đồng xuất ra một lúc. Đặc tính Thiên Chúa tự bản chất được mường tượng như một mối tương quan rất năng động. Trong sự sung mãn vô biên, Ba Ngôi tự bùng nổ và tuôn trào. Thực tế thì tạo vật chẳng qua chỉ là kết quả của năng lượng nội tại của Tình Yêu tuôn trào và trao ban chính mình cách dư dật. Hơn thế nữa, Con Tim thần linh đó tiềm tàng trong tạo vật còn hành động theo cách tương quan sinh động. Trong hiến dâng, Tình Yêu cũng muốn lãnh nhận và lôi cuốn về mình tất cả mọi điều Ngài đã dựng nên. Do đó, ta có thể nói Con Tim Thiên Chúa say mê, yêu mến con tim nhân loại, và hằng mong được kết hiệp với nó.
Thật là một lối diễn tả tuyệt vời! Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu sinh động sung mãn. Và ta có thể hình dung điều gì sinh động hơn là một quả tim rung động vì yêu thương, từ đó vọt ra một sức yêu mãnh liệt, chan hòa và bất tận, để rồi lại muốn thu hút, thâu tóm về mình tất cả những gì mang nét yêu thương cho dầu nhỏ mọn nhất? Tạ ơn Chúa đã dựng nên con người trên cõi đời này, cho dầu thể lý hay tinh thần họ có là thế nào đi nữa, vì tất cả họ đều được xuất phát từ Con Tim yêu thương! Và còn đáng tạ ơn hơn nữa khi Ngài cho phép chúng ta xoay quanh quĩ đạo của hành tinh Mặt Trời Tình Yêu chói lọi bằng chính sự yếu hèn của mình, vì nhờ đó chúng ta có khả năng đón nhận lực hấp dẫn của lòng nhân ái xót thương mạnh mẽ hơn. Mạc khải vĩ đại nhất, chân lý toàn vẹn nhất chính là nhận biết điều kỳ diệu này, không phải bằng trí óc hiểu biết hay suy luận như hình ảnh múc cạn nước đại dương đổ vào lỗ cát trong câu chuyện truyền thuyết về thánh Âu Tinh, nhưng bằng con tim và cõi lòng mà mọi người chúng ta, bất kỳ ai, cũng đều có. Quả thực Chúa Ba Ngôi là chân lý sống động mà bất cứ con người nào cũng đều có thể nắm bắt ít nhiều bằng chính con tim nhân loại của mình; tuy nhiên để thật sự khai thác thành sức sống sung mãn thì cách duy nhất là đi vào trong tác động của Thần Chân Lý và Tình Yêu; Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn (Ga 16,13). Phải chăng đây mới chính là sự thật toàn vẹn mà Đức Giê-su đang đề cập tới: Ba Ngôi Tình Yêu là sự thật toàn vẹn vì chân lý này mang lại cho mọi người chúng ta sức sống mãnh liệt và sung mãn nhất? Chính qua và nhờ các mảnh vụn tình yêu bé nhỏ mà Thánh Thần còn tìm thấy trong tôi giữa cả một rừng những yếu đuối và tội lỗi, mà tôi được đưa vào mầu nhiệm cao quí này cách sung mãn và dồi dào nhất, được thăng hoa tới Con Tim Lò Lửa tình yêu vĩ đại nhất là Chúa Ba Ngôi.
Như thế Ki-tô hữu chúng ta rất đáng tự hào về mầu nhiệm cao cả Thiên Chúa Ba Ngôi (cho dầu bản thân tôi khi sử dụng từ mầu nhiệm – mystery vẫn thấy không ổn chút nào, vì có cảm giác mung lung theo ý nghĩa thường được giải thích: mầu nhiệm là điều không thể hiểu được!). Ki-tô hữu chúng ta quá hãnh diện về mạc khải lớn lao và quan trọng bậc nhất này, vì chúng ta khởi sự và sống niềm tin của mình luôn trong “nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”. Và còn hơn thế nữa, ta có quyền vui mừng khôn xiết vì mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi thực sự trọn vẹn bao phủ sự hiện hữu, tiếp hơi ấm cho đời, ban cho ta niềm vui và cậy trông không hề tàn lụi giữa kiếp sống thường khi phủ kín mây đen, và tiếp cho ta sức mạnh vô địch khi thân xác và tinh thần tàn rữa và yếu đuối. Chỉ khi nào Ba Ngôi Thiên Chúa trở thành tất cả cho mình và cho đời mình, tôi mới có thể quả quyết được rằng tôi đang tuyên xưng mầu nhiệm cao cả này như một Ki-tô hữu đích thực: Tôi tin kính một Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha toàn năng.
Lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay phải là ngày chúng ta cảm nhận được điều này cách sinh động hơn bao giờ hết!
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, con tôn thờ tình yêu vĩ đại; con ca ngợi và cảm tạ Chúa vì ơn gọi Ki-tô hữu đã cho con khả năng nhận biết Con Tim Thiên Chúa đầy yêu thương. Con ước muốn làm sao cho mọi người được cùng con cất lời cảm tạ và tôn thờ sức sống tuyệt diệu và sung mãn này. Xin cho con luôn đáp lại mệnh lệnh khẩn thiết: “Hãy đi và làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần; nhưng trước hết xin cho con được trọn vẹn hòa tan trong Con Tim rực lửa yêu của Ba Ngôi nhiệm mầu trong chính sự hèn yếu của con. Amen.

23. Trí khôn và ý muốn
Cách đây hàng ngàn năm, có một nhà hiền triết tài giỏi tên là Simonide. Ngày kia, nhà vua cho vời ông ta đến và hỏi:
– Thượng đế là gì?
Ông ta xin nhà vua cho mình một ngày để suy nghĩ. Sáng hôm sau, khi nhà vua gọi tới, thì ông ta lại xin thêm hai ngày nữa để suy nghĩ.
Và khi hai ngày đã trôi qua, ông ta lại xin thêm bốn ngày nữa. Rồi sau đó, ông ta lại xin thêm tám ngày nữa. Cứ mỗi lần nhà vua truyền cho ông ta đến, thì ông ta lại xin hoãn với số ngày gấp đôi. Sau cùng, nhà vua bực bội, cho triệu ông ta đến và giận dữ hỏi:
– Cho tới bao giờ, nhà ngươi mới trả lời câu hỏi của ta? Thượng đế là gì?
Bấy giờ ông ta mới ôn tồn trả lời:
– Xin nhà vua đừng hối thúc tôi. Vấn đề thật khó khăn và tôi nghĩ rằng sẽ chẳng bao giờ tìm thấy được câu trả lời. Bởi vì càng suy nghĩ, tôi lại càng cảm thấy bối rối. Vấn đề dường như đã vượt ra ngoài khả năng của tôi.
Kể lại câu chuyện này, tôi cũng muốn nói lên sự bất lực của chúng ta khi phải trình bày về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mà chúng ta mừng kính hôm nay. Mặc dù chúng ta đã học hỏi, đã tìm tòi, nhưng không bao giờ được quên rằng: Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm. Sở dĩ chúng ta biết được là vì chính Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta.
Tất cả những gì chúng ta biết về mầu nhiệm này được gồm tóm như sau: Nơi Thiên Chúa có ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Cả Ba Ngôi cực thánh này đều có chung một bản tính, nên bằng nhau về mọi phương diện và chỉ làm thành một Thiên Chúa duy nhất.
Trong giây phút này, tôi chỉ xin chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ, đó là đứng trước mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, trí khôn chúng ta lại quá nhỏ bé đề mà hiểu thấu, nhưng con tim chúng ta lại đủ to lớn để yêu mến.
Thực vậy, trí khôn chúng ta quá nhỏ bé để mà hiểu thấu. Tôi xin đưa ra một thí dụ: trước mặt chúng ta đây có ba cô, cô Quít, cô Mít, cô Cam. Đó là ba ngôi vị. Mỗi người có một bản tính khác nhau và làm thành ba con người riêng biệt. Đối với Chúa Ba Ngôi thì khác. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, mặc dù là ba ngôi riêng biệt, những chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Đó là một mầu nhiệm không thể nào hiểu thấu, bởi vì trí khôn chúng ta quá nhỏ bé.
Hẳn rằng đã nhiều lần chúng ta được nghe mẩu chuyện về thánh Augustinô. Ngài là một vị thánh tiến sĩ trong Giáo Hội, đã viết nhiều cuốn sách có giá trị. Ngày kia, để bắt đầu viết một thiên khảo luận về Chúa Ba Ngôi, ngài đã đi dạo trên bờ biển để suy nghĩ và cầu nguyện. Bỗng chốc ngài nhìn thấy một em bé đang dùng một chiếc vỏ sò múc nước và đổ vào một chiếc lỗ nhỏ trên bãi cát. Ngài dừng chân và hỏi:
– Em làm gì thế?
Em bé bèn trả lời:
– Tôi muốn tát hết nước biển vào trong chiếc lỗ này.
Thánh nhân mỉm cười và nói:
– Làm sao cho được?
Nhưng em bé nghiêm nét mặt và nói:
– Tôi làm việc này còn dễ hơn cái ảo vọng của ngài là muốn trình bày cặn kẽ về Chúa Ba Ngôi.
Nói đoạn, em bé biến mất. Thánh nhân hiểu rằng đó chính là một thiên thần được Chúa sai đến để nhắc nhở: trí khôn con người thì quá nhỏ bé để hiểu về mầu nhiệm này.
Thế nhưng, con tim của chúng ta lại đủ to lớn để yêu mến Ngài. Thực vậy, Chúa Giêsu đã tỏ lộ không phải để chúng ta hiểu thấu, nhưng để chúng ta yêu mến.
Trước hết, con tim chúng ta đủ to lớn để ca tụng ngài. Mỗi khi hát: Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời. Mỗi khi đọc: Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần. Môi khi làm dấu thánh giá, là chúng ta ca tụng và thờ lạy Chúa Ba Ngôi.
Hơn thế nữa, con tim chúng ta cũng đủ to lớn để cảm tạ Chúa Ba Ngôi. Vậy Ngài đã làm gì cho chúng ta? Chúa Cha đã tạo dựng nên chúng ta ngay khi chúng ta còn chưa cất tiếng khóc chào đời. Chúa Con đã dùng cái chết trên Thập giá để cứu chuộc chúng ta. Và Chúa Thánh Thần luôn thánh háo chúng ta. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa. Nhờ bí tích Thêm sức, chúng ta trở nên những người lính chiến của Chúa Thánh Thần. Nhờ bí tích Giải tội, chúng ta được tẩy sạch mọi tội lỗi. Vì thế, chúng ta phải cảm tạ và yêu mến Chúa Ba Ngôi.
Sau cùng, trái tim chúng ta cũng đủ to lớn để cho Chúa Ba Ngôi ngự trị. Thiên Chúa không ngự trên chốn trời cao, xa cách ngàn trùng. Trái lại, Ngài sống trong chúng ta, Ngài ở cùng chúng ta và chúng ta là đền thờ sống động của Ngài. Mỗi khi tâm hồn chúng ta sạch tội trọng, Chúa Ba Ngôi sẽ ngự trị và trao ban cho chúng ta sự sống thầm linh, sự sống ân sủng, nhờ đó, chúng ta thuộc về gia đình của Thiên Chúa.
Hãy yêu mến Chúa Ba Ngôi, để rồi chúng ta sẽ được chiêm ngắm Ngài nhãn tiền, mắt đối mặt trong niềm hạnh phúc đời đời.

24. Ba Ngôi Thiên Chúa là tình yêu
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có lẽ ai trong chúng ta cũng thuộc nằm lòng câu giáo lý về Một Chúa Ba Ngôi trong sách bổn đồng ấu ngày xưa. Hỏi Đức Chúa Trời có mấy ngôi? Thưa Đức Chúa Trời có Ba Ngôi. Ngôi thứ nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con, Ngôi thứ Ba là Thánh Thần.
Một câu giáo lý quen thuộc mà hết thế hệ này đến thế hệ khác đều học thuộc lòng một cách đầy đủ và chính xác từng lời và từng dấu chấm, dấu phẩy. Điểm đặc biệt là không ai thắc mắc tại sao Một Chúa mà lại Ba Ngôi? Có lẽ chúng ta không thắc mắc, không phải vì chúng ta đã hiểu mà vì cha mẹ chúng ta tin, và vì Hội thánh dạy chúng ta như thế. Thực vậy đức tin của chúng ta được trao ban từ Hội thánh và qua cha mẹ cùng người đỡ đầu tiếp tục bảo vệ, vun trồng đức tin của chúng ta.
Rồi dần dà theo thời gian, đức tin của chúng ta thêm kiên vững và được củng cố nhờ những ngày tháng học giáo lý và học hỏi lời Chúa. Chúng ta tin Một Chúa Ba Ngôi không do trí óc tưởng tượng của con người mà dựa trên thế giá lời chứng của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu nói cho chúng ta biết. Chính Chúa Giêsu là lời mạc khải tròn đầy về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Ngài cho chúng ta biết, Ngài từ Chúa Cha mà đến. Ngài đến trần gian để thi hành thánh ý Chúa Cha, và khi hoàn tất công trình Chúa Cha trao phó, Ngài đã về trời và ban Thánh Thần đến thánh hóa thế gian trong ân sủng và tình yêu của Chúa.
Có một bà cụ đi xe lửa lần đầu tiên nên rất bỡ ngỡ sợ lầm tàu và lạc đường. Bà quay sang hỏi một hành khách ngồi bên cạnh:
– Thưa ông, tàu này có phải là tàu đi Roma không?
Ông ấy trả lời ngay:
– Vâng, đây là tàu đi Roma. Bà đừng lo, vì Roma là nhà của tôi, tôi phải về đó.
Nhưng bà ấy vẫn chưa thỏa lòng, cứ miên man nghĩ ngợi: Nhỡ ông kia cũng lầm tàu thì sao? Làm sao mà mình biết được? Vừa lúc ấy người tài công bước vào, bà hỏi:
– Bác tài công ơi, tàu này là tàu đi Roma phải không?
Người tài công trả lời:
– Vâng, đây chính là tàu đi Roma. Tàu sẽ chạy trong vài phút nữa. Bà cứ việc ngồi thoải mái đừng lo lắng gì cả, sẽ tới Roma an toàn.
Tới lúc ấy bà mới yên tâm, vì bà đã hỏi người có thẩm quyền trên tàu. Bà ấy đã nhận được câu trả lời từ một người có thẩm quyền nên không còn lo sợ nữa.
Mỗi người chúng ta cũng đang đi trên hành trình đời sống, một hành trình vào cõi vĩnh hằng. Có rất nhiều tôn giáo. Có rất nhiều con đường của người này kẻ kia chỉ chúng ta con đường về trời. Nhưng chỉ có một người đáng chúng ta tin cậy, vì Ngài là Thiên Chúa. Ngài có đủ thẩm quyền để chúng ta tin lời Ngài là chân lý, là sự thật. Đó chính là Chúa Giêsu.
Thực vậy, chúng ta tin về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi và các mầu nhiệm khác trong đạo đều dựa vào lời chứng của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên lời chứng của Ngài đáng để chúng ta tin. Chính Ngài đã làm nhiều phép lạ để chứng minh Ngài là Thiên Chúa và phép lạ lớn nhất đó là tự mình sống lại sau ba ngày chôn cất nơi huyệt mộ. Chính Ngài không chỉ nói về Chúa Cha mà cả cuộc sống của Ngài là để tôn vinh Chúa Cha và Ngài hằng sống đẹp lòng Chúa Cha.
Bên cạnh đó, với phương pháp loại suy chúng ta cũng có thể hiểu phần nào về mầu nhiệm Một Chúa ba Ngôi. Tựa như bóng đèn điện: có dòng điện, có ánh sáng và có hơi nóng. Hoặc như cùng một dòng nước chảy nhưng có thể hiện hữu dưới ba hình thái: thể hơi, thế rắn và thể lỏng, nghĩa là dạng hơi nước, dạng băng và dạng mưa.
Nhìn vào Thánh Kinh và lịch sử cứu độ, chúng ta thấy Thiên Chúa đã tỏ bày tình yêu của mình qua ba cách khác nhau: Chúa Cha đã tỏ mình ra qua việc tạo dựng vũ trụ vạn vật và con người. Cho dù con người có bất trung phản loạn Chúa vẫn yêu thương, yêu thương đến nỗi ban chính Con Một của mình là Đức Giêsu Kytô làm Đấng cứu chuộc trần gian. Cứu là giải thoát. Chuộc là cái gì của mình đã mất nay phải chuộc lại. Ngôi Hai Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi và sự chết, và chuộc lại chúng ta trở về làm cho cái Thiên Chúa bằng giá máu trên đồi Golgotha. Chúa Thánh Linh là Ngôi Ba Thiên Chúa đã thánh hóa chúng ta thành con cái Thiên Chúa và trở thành đền thờ của Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chúa cho chúng ta được sinh ra làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa là người cha nhân ái, chậm bất bình và rất mực khoan nhân. Chúa có giận thì giận trong giây lát, nhưng yêu thương thì yêu thương tới cùng. Cho dù chúng ta có yếu đuối bất toàn, Chúa vẫn yêu thương. Chúa không đoán phạt chúng ta theo như chúng ta đáng tội. Chúa như người cha luôn ngong ngóng chờ đợi đứa con tội lỗi trở về để được ôm con vào lòng và lại ban muôn ân huệ dư tràn. Xin Chúa giúp chúng ta luôn sống trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa bằng đời sống sám hối và canh tân cho xứng đáng là con cái Chúa và xứng đáng là Đền Thờ cho Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị. Amen.

25. Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi
Đài truyền hình VTV3 có chương trình gọi là “truyện cổ tích ngày nay”. Chương trình này thường họ đưa một đoạn phim ngắn. Sau đó người dẫn chương trình mới nói lên ý nghĩa của đoạn phim này. Có một đoạn phim như sau: một cậu bé cầm trên tay 7000đ đến tiệm kem để mua 1 cây kem giá đúng 7000d.
Ở tiệm bán kem cậu nhìn thấy có một cô bé dẫn theo đứa em của nó, và tìm mua cây kem giá 1000đ, bởi trên tay nó vỏn vẹn chỉ có 1000đ. “ở đây không có cây kem 1000đ, giá chót cũng phải 2000đ”, tiếng bà chủ quát. Hai chị em cô bé lặng lẻ ra về. Đứa em như thèm được ăn kem, nó quay lại nhìn về phía tiệm kem. Bấy giờ cậu bé có 7000đ đã không mua cây kem 7000đ nữa, nhưng là mua 3 cây kem giá mỗi cây 2000đ. Ba đứa bé tìm đến một bóng cây ở ven đường, chúng nó ngồi xuống cùng ăn kem và nói cười vui vẻ.
Cuộc sống quanh ta có biết bao nhiêu là nét đẹp, chỉ cần chịu khó để ý một chút, chúng ta sẽ nhận ra ngay. Một cậu bé còn quá nhỏ, chưa thể giải thích nỗi về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi, cũng không thể nói về tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi cho rỏ ràng được. Vậy mà, qua việc làm của cậu, cậu như đang hoạ lại chính diện mạo về một tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thiên Chúa không yêu thương chính mình. Người không đơn độc, nhưng là có Ngôi Vị. Ngôi Vị chính là trao ban. Cha hướng về Con, Con hướng về Cha, Cha và Con cùng nhìn về Thánh Thần.
Hình ảnh một cậu bé ăn cây kem sửa, rất bổ dưỡng, rất có lợi cho sức khoẻ tuổi thơ của cậu ta. Nhưng khi đó, cậu bé đang yêu lấy chính mình. Cậu sẽ trở nên đơn độc một mình. Ngược lại, cậu quên đi chính bản thân, sẳn sàng trao ban, nhiệt tình chia sẻ cái cậu đang có trong tay đó là một cây kem 7000 đ. Cậu biết rất rõ, cây kem 7000 đ là kem sữa, nhiều chất bổ cho cậu. Và cây kem 2000 đ là cây kem đá ít chất cho cậu.
Nhưng rồi cậu chọn ăn cây kem đá. Bởi khi ăn cây kem đá, cậu không ăn một mình, mà cậu sẽ ăn với các bạn của cậu. Cậu ăn cây kem sửa, mà kế bên cậu có người đang khóc vì không có kem ăn, cậu cảm thấy cũng không ngon cho mấy. Nhưng nếu phải ăn kem đá, mà cậu làm cho người khác vui, thì cậu thấy cây kem đá vẫn ngon như thường.
Đây là một cái “ngon” không phải giống như ngon miệng mà vị giác mang lại cho chúng ta. Nhưng là một thứ “ngon” sâu lắng nhất, một kiểu ngon do tình yêu mang đến. Nó làm cho chúng ta sẵn sàng dâng hiến, sẵn sàng trao ban. Điều này khác với sự ban bố. Ở đây, người ta không lấy cái dư thừa để cho nhưng là họ đang chia chính sự sống, đang chia chính niềm vui mà họ đang có. Và đây chính là mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng kính hôm nay.
Lạy Chúa Ba Ngôi cực Thánh, xin cho con mỗi ngày biết nhạy bén để nhận ra những nhu cầu của anh chị em đang sống xung quanh chúng con. Xin Người dạy con biết phải làm gì và bằng cách nào để mỗi ngày con thiệt sự trở nên sứ giả tin mừng của Chúa, biết vẽ lại chân dung một thiên Chúa Ba Ngôi bằng chính đời sống của con. Amen.

26. Tình yêu khơi dậy cảm thức về Thiên Chúa
(Suy niệm của Peter Feldmeier – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Đức Chúa là Thiên Chúa, ngoài Người ra không có thần nào khác nữa” (Đnl 4,35)
Thi sĩ Eliot đã viết: “Có những điều chúng ta không thể diễn tả nổi, nhưng không được phép câm lặng”. Tư tưởng này khá thích hợp để chúng ta khởi dẫn những suy tư về Thiên Chúa, trong cái nhìn Kitô giáo. Chúng ta có thể có những ý niệm khi nói về những vật thể trong vũ trụ này, nhưng Thiên Chúa không thuộc về thế giới vật lý đó. Chúng ta không thể nghiên cứu về Thiên Chúa với những lập luận thuần lý, vì Ngài là một mầu nhiệm tuyệt đối. Vì vậy, khi chúng ta suy tư về Thiên Chúa, hoặc tìm hiểu những mạc khải liên quan đến Ngài, điều trước hết là chúng ta phải nhận thức được những giới hạn mong manh nơi những suy tưởng của đầu óc con người.
Tuy nhiên, chúng ta không thể hoàn toàn câm lặng. Thiên Chúa vẫn luôn là một mầu nhiệm. Chúng ta không thể thấu triệt Ngài bằng những suy nghĩ theo luận lý và khoa học, nhưng vẫn có thể trải nghiệm sự hiện diện linh thánh của Ngài bằng đức tin. Trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay, chúng ta nghe Môise tóm kết một huấn từ dài trong sách Đệ nhị luật. Môise nói với dân về Đức Chúa Giavê. Ngài không phải là một vị thần giống như các thần minh khác. Điều này dân Israel chưa hiểu. Sau này, khi trở về từ Babylon thoát kiếp lưu đầy, dân Do Thái mới dần dần hiểu ra chân lý. Chân lý đó là: Chỉ có một Thiên Chúa độc nhất. “Hôm nay, anh em phải biết và để tâm suy niệm điều này: Trên trời cao cũng như dưới đất thấp, chính Đức Chúa là Thiên Chúa. Ngoài Người ra không có thần nào khác nữa.”
Lẽ tất nhiên, Kitô giáo vẫn luôn khẳng định niềm tin độc thần này. Chỉ có một Thiên Chúa, Chúa của tổ phụ Abraham. Nhưng làm sao chân lý này lại được thấu triệt song hành với những mạc khải như “Ngôi Lời ở với Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa (Jn 1,1); hoặc “Chúa là Thần Khí” (2C 3,17). Trong Tin mừng, Đức Giêsu sai các môn đệ ra đi rao giảng cho muôn dân và làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần (Mt 28,19). Công thức ban bí tích rửa tội mang chở mạc khải về mầu nhiệm một Thiên Chúa – ba Ngôi vị.
Làm cách nào chúng ta có thể dẫn giải về mầu nhiệm một Thiên Chúa với ba ngôi vị phân biệt như thế? Có phải ba ngôi là ba thực tại tách biệt và khác nhau nhưng đều có chung một bản tính? Trong Kinh thánh, chúng ta vẫn đọc thấy rằng “Chúa Cha sai Chúa Con, Chúa Con trao ban Thần Khí, Chúa Con tôn vinh Chúa Cha và Chúa Cha cũng tôn vinh Chúa Con. Sử dụng hạn từ “ngôi vị” để nói về ba ngôi dễ khơi dậy một sự chia tách. Tuy nhiên sự phân biệt ngôi vị, trong ý nghĩa tuyệt đối, vẫn luôn hàm ngậm tư tưởng độc thần: “Đức Chúa là Thiên Chúa độc nhất, ngoài người ra không có thần nào khác nữa”.
Có lẽ nhiều người suy nghĩ và cho rằng Thiên Chúa là hữu thể thần linh đơn nhất, là một Thiên Chúa, nhưng chúng ta có thể trải nghiệm sự hiện diện của Ngài qua ba dạng thức khác nhau. Suy nghĩ này giúp củng cố cho niềm tin độc thần, nhưng lại rất khó để quảng diễn về mầu nhiệm ba ngôi. Hơn nữa, tư tưởng này dễ bị đồng hóa với lạc thuyết Sabellian mà ngày nay nhiều người vẫn còn bị ảnh hưởng. Chúa Nhật lễ Ba Ngôi năm ngoái tôi được nghe một vị linh mục giảng trong thánh lễ. Ngài sánh ví mầu nhiệm Ba Ngôi như là chất thể nước với 3 dạng thức: dạng đá, dạng lỏng và dạng hơi. Cả ba dạng thức này khác nhau nhưng cũng chỉ là một chất thể duy nhất. Sau thánh lễ, tôi gặp vị linh mục và muốn nói với Ngài: “Thưa Cha, hình như cha là người theo lạc giáo, có phải không?” Nhưng nghĩ lại, tôi nói với Ngài: “Thưa Cha, bài giảng của Cha hôm nay tuyệt vời”. Giáo hội trong những kỷ nguyên đầu tiên đã tranh cãi khá nhiều suốt hằng bao thế kỷ về tín điều một Chúa Ba Ngôi, và cuối cùng đã xác tín một chân lý mà lý trí con người khó chấp nhận, hầu như không thể chấp nhận. Nhưng Giáo hội đã cố gắng bảo vệ những chân lý mạc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa với hai khẳng định rõ rệt: Chỉ có một Thiên Chúa, và là Ba ngôi vị phân biệt.
Tín điều về Chúa Ba Ngôi là trung điểm linh đạo Kitô Giáo. Truyền thống chúng ta xem Chúa Thánh Thần như là một chân trời thiêng liêng để qua đó chúng ta đến với Đức Kitô phục sinh. Sống trong Thần khí sẽ đưa dẫn chúng ta đi vào sự gắn kết thân tình với Đức Giêsu. Chúng ta tin rằng Chúa Cha là nguồn mạch vô tận khởi sinh Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Vì thế chúng ta vẫn đặt Chúa Cha vào chỗ tối thượng khi cầu nguyện. Chúng ta cầu nguyện cùng Chúa Cha qua Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần.
Tín lý Ba ngôi nêu bật bản chất sâu xa của mầu nhiệm Thiên Chúa, đó chính là tình yêu. Khi có người đang yêu, đương nhiên cũng phải có người đang được yêu thương. Tình yêu kết dính cả hai bằng một năng lực sáng tạo. Tình yêu trao ban và làm phát sinh tình yêu (Chúa Cha yêu Chúa Con). Tình yêu làm tỏa lan và sẻ chia tình yêu (Chúa Cha và Chúa Con). Đồng thời, tình yêu làm khởi sinh một dòng suối sự sống (Chúa Thánh Thần). Tình yêu đối với Chúa Cha hiện lộ trong ta, và lôi kéo chúng ta đi vào sự thông dự mầu nhiệm cứu chuộc. Chúng ta biết về mầu nhiệm Ba Ngôi không phải bằng những diễn dịch trừu tượng của lý trí, nhưng bằng những trải nghiệm cụ thể về tình yêu Thiên Chúa dành trao cho chúng ta, được Chúa Thánh Thần khơi dậy trong sự kết hợp thần linh với Đức Giêsu. Mầu nhiệm Ba Ngôi là một chân lý chắc chắn, nhưng chúng ta đừng lẫn lộn với những suy diễn trừu tượng và mơ hồ. Nền tảng căn bản để chúng ta có thể cảm nhận mầu nhiệm này, chính là tình yêu và sự sống. Tình yêu và sự sống phát nguồn từ nơi Thiên Chúa.

27. Thiên Chúa yêu thế gian
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Có một điều thường khiến các bạn trẻ băn khoăn, đó là làm sao nhận ra một tình yêu chân thực, làm sao không bị chóa mắt bởi những ảo ảnh, không bị lừa dối bởi những ngọt ngào, để rồi vỡ mộng.
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho ta một số tiêu chuẩn, khi mời ta nhìn vào tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu chân thực là tình yêu hiến trao: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một của Người…” Không phải chỉ là trao một quà tặng, hay một cái gì ở ngoài mình, nhưng là trao đi một điều thiết thân và quý báu.
Điều quý báu nhất của Thiên Chúa Cha là người Con Một của Ngài, Đức Giêsu Kitô. Khi trao cho chúng ta Đấng bị treo trên thập giá, Thiên Chúa đã trao cho ta chính bản thân Ngài. Ngài chấp nhận Con Ngài phải chết để nhân loại được sống.
Tình yêu chân thực chẳng hề biết giữ lại cho mình. Tình yêu chân thực là tình yêu chia sẻ, tình yêu mong hạnh phúc cho người mình yêu: “… để bất cứ ai tin vào Người Con ấy thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
Sự sống muôn đời đã bắt đầu từ đời này.
Được sống là được đưa vào thế giới thần linh, được chia sẻ hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thiên Chúa không muốn cho ai phải trầm luân. Nếu có ai hư mất hay bị luận phạt thì không phải là vì Thiên Chúa độc ác, nhưng chỉ vì Ngài tôn trọng tự do con người. Con người có thể tin hay từ chối, mở ra hay khép lại trước sự sống được trao ban.
Thánh Gioan đã dám định nghĩa Thiên Chúa là Tình Yêu.
Một Tình Yêu chia sẻ chan hoà giữa Ba Ngôi: Cha trao tất cả cho Con, Con dâng tất cả cho Cha. Thánh Thần là sự thông hiệp giữa Cha và Con. Một Tình Yêu tràn ngập cả vũ trụ: Thiên Chúa là Tình Yêu sáng tạo khi Ngài dựng nên con người theo hình ảnh Ngài; Ngài là Tình Yêu cứu độ khi Ngài muốn thứ tha cho ta qua Đức Giêsu; Ngài là Tình Yêu thánh hóa khi Ngài muốn ban cho ta sức sống mới trong Thánh Thần.
Chúng ta sẽ mãi mãi xa lạ với Thiên Chúa nếu chúng ta xa lạ với tình yêu. “Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8). Ai không ở lại trong tình yêu thì cũng không ở lại trong Thiên Chúa (x. 1Ga 4,16). Ước gì đời ta được tưới gội bởi Tình yêu, để mọi việc chúng ta làm đều bắt nguồn từ Tình yêu và quy hướng về Tình yêu. Ước gì chúng ta làm chứng cho Thiên Chúa Tình yêu bằng một đời sống hiến trao và chia sẻ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Tình yêu là hai từ được sử dụng khắp nơi. Điều mà người ta thường gọi là tình yêu, thực ra chỉ là sự chiếm đoạt của bản năng ích kỷ. Theo bạn, thế nào là tình yêu thực sự đáng tin? Làm sao nhận ra tình yêu đó?
Có khi nào bạn cầu nguyện với từng Ngôi Cha, Con và Thánh Thần không? Bạn biết gì về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần?
Cầu Nguyện
– Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
– Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
– Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
– Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng. Xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
Xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con và trong lòng từng con người bé nhỏ.

28. Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy niệm
“Nếu bạn đi khắp cùng trời cuối đất, bạn sẽ gặp những dấu vết của Thiên Chúa. Nếu bạn đi thẳng vào cung lòng bạn, bạn sẽ gặp chính Thiên Chúa.”
Nhiều người đã gặp thấy Ngài nhờ chiêm niệm suy tư. Nhưng con người không thể biết hết về Thiên Chúa, cũng không thể mô tả cho đủ về Ngài. Có những thiếu sót, vụng về và đôi khi sai lạc.
Ai có thể giúp ta thấy được khuôn mặt thực của Thiên Chúa? Ai sẽ chỉ cho ta con đường để gặp gỡ Ngài? Phải là Đấng ở nơi cung lòng Thiên Chúa, Đấng ấy là Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể.
Nhờ Đức Giêsu mà mầu nhiệm Thiên Chúa được vén mở, nhờ Ngài mà chúng ta biết có một Thiên Chúa duy nhất trong ba Ngôi Vị là Cha, Con và Thánh Thần.
Ba Ngôi khác nhau nhưng là cùng một Thiên Chúa.
Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài duy nhất nhưng không đơn độc.
“Ta và Cha là một” (Ga 14,10).
“Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta” (Ga 16,15).
Tình yêu khăng khít giữa Cha và Con là Thánh Thần.
Trong niềm hạnh phúc sung mãn, Ba Ngôi đã dựng nên con người giống hình ảnh mình và muốn đưa con người đi vào hiệp thông với Thiên Chúa.
“Đến với Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần”: đó là hành trình thiêng liêng của mọi Kitô hữu.
Chúng ta cần ý thức về sự hiện diện của Ba Ngôi ở trong ta. “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến và cư ngụ nơi người ấy” (Ga 14,23). “Cha sẽ ban cho các anh một Đấng Phù Trợ khác để Ngài ở với các anh luôn mãi” (Ga 14,16).
Chúng ta cần có tương quan riêng với từng Ngôi!
Chúa Cha, Đấng hằng làm việc để duy trì vũ trụ, con người.
Chúa Con, Đấng cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh mạng sống.
Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hoá và dẫn dắt Giáo Hội.
Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là sống hiệp thông và chia sẻ, là ở lại trong Tình Yêu vì “ai ở trong Tình Yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 4,16).
Mỗi ngày chúng ta làm dấu nhiều lần trên thân xác: “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi trên cuộc đời ta, trên thế giới chúng ta đang sống.
Chúng ta đã được chịu Phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi, nhưng làm Phép Rửa cho muôn dân vẫn còn là ước mơ Đức Giêsu chờ ta thực hiện.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khi cầu nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Abba, Cha ơi! Có khi nào trong đời, bạn thấy Thiên Chúa thật là người Cha nhân từ không? Có khi nào bạn gặp khủng hoảng đến nỗi mất niềm tin rằng Cha yêu mình không?
Một thi sĩ Pháp – Jacques Prévert – đã viết hai câu thơ ngắn:
“Lạy Cha chúng con ở trên trời,
xin Cha cứ ở yên trên ấy!”
Theo bạn, Thiên Chúa có phải là kẻ làm phiền con người không?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới. Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.

29. Huyền nhiệm của sự gắn bó – An Phong, OP
Hôm nay, Hội thánh long trọng tuyên xưng Thiên Chúa là Cha, là Con và là Thánh Thần, một Thiên Chúa nhưng có Ba Ngôi. Hơn nữa, nhân danh Thiên Chúa ba Ngôi, Hội thánh có sứ mạng đến với muôn dân, làm cho họ trở nên môn đệ Đức Giêsu và lãnh nhận bí tích Thanh tẩy.
Chúa Ba Ngôi được biểu thị bằng một vòng tròn, trong đó có một tam giác đều. Biểu tượng này diễn tả sự bằng nhau, sự duy nhất: Ba nhưng là Một, Một mà lại là Ba. Bất cứ điểm nào nơi vòng tròn cũng đều là khởi điểm và là tận điểm của đường tròn. Hình tam giác, được nhìn dưới mọi góc cạnh, vẫn đều y nguyên, không có gì thay đổi hay khác nhau. Cha, Con và Thánh Thần đều bằng nhau, đều duy nhất, gắn bó mật thiết với nhau.
Quả là khả năng của con người rất giới hạn khi muốn hiểu và diễn tả mầu nhiệm Ba Ngôi. Dường như trong ngôn ngữ chúng ta, Cha thì hơn Con; dường như chúng ta không thể tưởng tượng ra thế nào là “một” mà lại “ba”… Nhưng dù thế nào đi nữa, điều chính yếu của mầu nhiệm Thiên Chúa ba Ngôi vẫn chỉ là mầu nhiệm Tình yêu.
Trong một Thiên Chúa, Cha – Con – Thánh Thần gắn bó yêu thương (hướng nội). Và Thiên Chúa yêu thương nhân loại, nên đã tạo dựng vũ trụ và con người (hướng ngoại). Đó là hai chiều kích của tình yêu mà chỉ nơi Thiên Chúa mới có.
Con người chỉ có hành vi hướng ngoại, là yêu thương ai khác mình; còn nếu hướng nội thì lại là ích kỷ (yêu mình). Như thế, Kitô giáo luôn kêu gọi sống và đáp trả tình yêu Thiên Chúa bằng cách yêu thương đồng loại.
Hơn thế nữa, lời mời gọi đến với muôn dân, làm cho họ trở nên môn đệ của Đức Giêsu, đó là lời mời gọi thực thi tình yêu Kitô giáo nhân danh Chúa Ba Ngôi. Con người là hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi, nên luôn khát vọng được sống trong tình yêu. Mọi người cần được chìm ngập trong mầu nhệm Tình Yêu, lãnh nhận phép Rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, phép Rửa Tình yêu.
Ngày lễ Chúa ba Ngôi là dịp để chúng ta suy nghĩ lại về phép Rửa Tình yêu đã được lãnh nhận. Phép rửa đó chẳng phải là sức mạnh biến đổi đời sống người kitô hữu trong tình mến Chúa yêu người đó sao?
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã làm người như chúng con,
để chúng con được làm con Thiên Chúa.
Nhờ Mình Thánh Chúa nuôi dưỡng,
xin cho chúng con biết góp phần xây dựng đời sống
theo hình ảnh cộng đồng yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa.

30. Mầu nhiệm tình yêu
(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Chúa Kitô, nếu Chúa không dạy bảo thì loài người không thể biết được. Cho đến trước khi Chúa Kitô đến, loài người không có một ý niệm nào, dân Do Thái cũng không biết gì về mầu nhiệm này. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Kitô trong đời sống công khai đã mạc khải dần dần, tức là Ngài đã dần dần vén lên bức màn của mầu nhiệm này, khi loan báo rằng: Thiên Chúa cao cả của chúng ta vừa là duy nhất vừa là Ba Ngôi, nghĩa là chỉ có một Chúa duy nhất nhưng trong Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần .
Tại sao Chúa Kitô đã mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm này? Vì Ngài muốn cho chúng ta hiểu biết đích thực về bản tính Thiên Chúa, hiểu biết đích thực đời sống nội tại của Thiên Chúa , đó là TÌNH YÊU. Thiên Chúa là tình yêu. Thật vậy, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chúng ta long trọng mừng kính hôm nay nói lên điều đó: Chúa Cha yêu thương Con, từ tình yêu đó đã nhiệm xuất Chúa Thánh Thần, và tất cả là vì yêu thương loài người chúng ta.
Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, và trong suốt lịch sử của nhân loại, Thiên Chúa đã không ngừng bày tỏ cho con người thấu hiểu tình yêu mà Thiên Chúa đã dành tặng cho con người. Dầu con người phạm tội phản nghịch, Thiên Chúa vẫn không từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban Con yêu dấu của Ngài để cứu chuộc.
Và Đức Kitô, cũng vì yêu con người, nên đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian, để hiến thân phục vụ và chấp nhận cái chết nhục nhã trên thập giá làm giá cứu chuộc cho con người. Và cả cuộc đời làm người của Đức Kitô đã không ngớt bày tỏ cho con người biết tình yêu của Chúa Cha, được diễn tả qua cuộc đời yêu thương, đến nỗi hy sinh mạng sống cho người mình yêu.
Và Chúa Thánh Thần, được gọi là tình yêu của Thiên Chúa, Ngài được sai đến để tiếp tục công việc của Đức Kitô, công việc yêu thương. Chính nhờ Chúa Thánh Thần mà các môn đệ và những kẻ tin vào Đức Kitô, tiếp tục công việc cứu chuộc của Đức Kitô qua đời sống hiến thân phục vụ anh em mình. Nhờ Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa tiếp tục được tỏ bày từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Cho nên, khi cử hành mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi hôm nay, Giáo Hội không chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa không khép kín lại trong Ba Ngôi, nhưng đã trào tràn trên mọi thụ tạo thì tình yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Bởi đó, đi vào mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mời gọi chúng ta hãy sống với, sống vì và sống cho người khác.
Nói khác đi, Thiên Chúa hằng mời gọi chúng ta tham dự vào cuộc sống của Ngài, cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, một cuộc sống của tình yêu thương, tức là Ngài kêu gọi chúng ta hãy sống hiến thân cho anh em chúng ta, đừng sống ích kỷ cho riêng mình, nhưng hãy mở rộng đôi tay, mở rộng tầm nhìn, nới dài đôi chân, và mở rộng tấm lòng đến với mọi người chung quanh. Có như vậy chúng ta mới diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Chúa của mình, đồng thời cũng là diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương và hiệp nhất.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, bằng cách sống yêu thương nhau. Và sống yêu thương nhau là cách thế tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.

31. Chịu trách nhiệm về sự hiện diện của Đức Kitô
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – của Achille Degeest)
Đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi đi qua đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Mọi giáo huấn về Thiên Chúa chất chứa nơi con người của Chúa. Do đó sự liên kết đức tin vào Chúa Con đã chứa đựng hành vi tin vào Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Bởi thế Phúc Âm có thể nói: “Mọi người tin vào Ngài không phải chết, nhưng có được sự sống đời đời”. Việc Giáo Hội chọn một đoạn có chủ ý nhấn mạnh tầm quan trọng của đức tin vào Chúa Giêsu Kitô trong ngày lễ Chúa Ba Ngôi, chứng tỏ rằng khởi điểm, tiến trình và đích điểm của tác động tin toàn diện chứa đựng trong việc liên kết toàn diện với Đức Kitô. Ai đến cùng Đức Kitô là đến cùng Chúa Cha, nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần. Nhưng đây là một câu hỏi khác mà Phúc Âm mang lại câu trả lời: Thiên Chúa cứu độ thế gian bằng cách nào? Bằng cách sai Con Người đến. Thế ngày nay Đức Kitô đến trong thế gian bằng đường lối ưu tiên nào? Qua Giáo Hội. Do đó Giáo Hội có sứ mạng làm cho Đức Kitô hiện diện với thế gian. Giáo Hội phải thông truyền một sự hiện diện chứ không phải chỉ giảng dạy những lời nói, một giáo thuyết, một huấn giới. Thiên Chúa Ba Ngôi đã tự hạ xuống ngang tầm con người nơi ngôi vị Đức Giêsu Kitô, được tỏ lộ bởi và trong Giáo Hội. Người đặt lòng tin tưởng nơi Đức Giêsu cho đến mức chia xẻ định mệnh chết và sống lại với Ngài, được tham dự vào mầu nhiệm linh động của Thiên Chúa. Điều này giải thích tại sao lời giảng của các tông đồ lúc khai nguyên Giáo Hội không phải là một sách giáo lý về Ba Ngôi chí thánh nhưng là lời loan báo Đức Giêsu Kitô. Qua giòng lịch sử của mình, nhất là qua các Công Đồng, Giáo Hội cố gắng diễn tả gẫy gọn một sự suy tư về mầu nhiệm Tam Vị. Nhưng công trình chính yếu của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội (và trong mỗi người chúng ta) là làm sao cho Giáo Hội tin và tiếp tục tin vào Chúa Giêsu Kitô. Hai câu hỏi:
1) Đâu là trung tâm đức tin của chúng ta?
Chúng ta có thể tự đặt câu hỏi ấy đối diện với một số người đương thời đang dấn thân vào những hy vọng nhân loại dựa trên những ý thức hệ. Phúc Âm có phải là một ý thức hệ như bao nhiêu cái khác và các Kitô hữu có phải là những người ủng hộ một phong trào nhằm tạo một nhân loại hạnh phúc hơn về mặt trần thế? Không có gì xa lạ với đức tin chân thật hơn điều đó. Trung tâm đức tin là con người Đức Giêsu Kitô. Ước vọng một thế giới tốt đẹp hơn nơi người Kitô hữu được gọi là lòng khao khát ơn cứu độ, khao khát được giải thoát khỏi sự dữ và sự chết, về mặt vật chất và tinh thần. Việc này chỉ có thể thực hiện được bằng sự liên kết hồn xác với Chúa Con, nhờ Ngài mà thế gian được cứu. Đức tin của chúng ta chỉ hữu hiệu cho việc cứu độ thế gian trong mức chúng ta thông hiệp với Chúa Giêsu, trung tâm đức tin của chúng ta.
2) Sứ điệp của chúng ta là gì?
Người ta chỉ truyền bá có giá trị những gì người ta sống. Để Chúa Giêsu trở thành nguyên cực ơn cứu độ, nghĩa là gặp gỡ Thiên Chúa trong tự do, chân lý, cuộc sống hằng cửu. Giáo Hội cần phải tỏ bày Ngài ra cho mọi người. Giáo Hội là chính mỗi người chúng ta. Mọi tín hữu đều mang trách nhiệm phần mình làm cho Đức Kitô hiện diện với người ta, bằng lời cầu nguyện hay bằng hành động, bằng việc dâng hiến một đau khổ hay bằng ảnh hưởng của hoạt động, bằng sự hy sinh thầm kín hay bằng việc loan báo lời Chúa. Mỗi tín hữu có sứ mạng làm sao cho Giáo Hội thông đạt tới thế giới sứ điệp ơn cứu độ nơi Chúa Giêsu Kitô.

32. Một định mệnh làm choáng váng mặt mày.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Đức Giêsu tự giới thiệu cho người ta như là Ngôi Con, trên Ngài Chúa Thánh Thần đậu xuống. Với tư cách là Ngôi Con, Ngài không ngừng quy về Chúa Cha hành động của Ngài. Ngài là Ngôi Con mạc khải Ngôi Cha trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Tin vào Đức Giêsu Kitô là dấn thân chấp nhận mầu nhiệm căn bản này. Không phải chỉ là một sự chấp nhận về tinh thần thôi. Nhưng là một sự tự hiến toàn thể con người ta vào trong hiệp thông sống động với Thiên Chúa hằng sống, Đấng, với tư cách là Cha, sẽ làm cho ta trở nên con cái Người, với tư cách là Thánh Thần sẽ thông báo cho ta sự sống Thiên Chúa.
Niềm tin này sẽ được thành toàn nhờ phép Rửa tội. Chính phép Rửa tội làm cho con người đạt tới tình trạng làm con Thiên Chúa –làm anh em với Đức Kitô, là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần. Nhờ niềm tin, con người đáp lại lời mời gọi của Chúa, lời mời gọi này được truyền đạt nhờ lời rao giảng của Giáo Hội. Nhờ phép Rửa tội, Thiên Chúa tiếp nhận bước tiến của con người và làm cho con người đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Như thế, có hai yếu tố chứa đựng trong Lời Đức Giêsu nói: “Hãy đi thâu nạp môn đệ khắp muôn dân, rửa tội cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Ta có thể hiểu chữ “môn đệ” bằng hai cách:
a/ việc chấp nhận lời rao giảng của Đức Giêsu, và
b/ việc đi vào hiệp thông với Thiên Chúa nhờ bí tích Rửa tội.
Như thế, xuyên qua lời rao giảng của Đức Giêsu và nhờ phép Rửa tội, rõ ràng là con người tiến đến một định mệnh làm choáng váng mặt mày: con người được tham dự vào chính đời sống của Thiên Chúa được mạc khải như là Cha, Con, Thánh Thần.
Đâu là những hiệu quả thực tế của phép rửa chúng ta? Ở đây, chúng ta nêu lên 2 điểm:
1) Hậu quả thứ nhất được chỉ rõ qua công thức: “Phép rửa nhân danh Đức Giêsu”. Thật vậy, nhiều đoạn Tân Ước nói về phép rửa nhân danh Đức Giêsu. Có gì khác với phép rửa nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi không? Trong bài diễn từ thứ nhất, thánh Phêrô nói: “Mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha thứ tội lỗi, và các người sẽ được lĩnh ơn Thánh Thần” (Tđcv 2,38). Không thấy nói đến một phép rửa được trao ban mà không móc nối với Chúa Cha, Con và Thánh Thần. Như thánh Phaolô thường dạy: Phép rửa nhân danh Đức Giêsu chỉ rõ hậu quả này: kẻ chịu phép rửa thuộc về Đức Kitô, được liên kết với Đức Kitô nhờ được tham dự cùng một đời sống và được liên kết với các người chịu phép rửa khác nhờ được cùng liên kết với Đức Kitô. Thánh Phaolô cũng nói: “Kẻ chịu Phép Rửa trở nên anh em với Đức Kitô” (Rm 8,29), “Đền Thờ của Chúa Thánh Thần” (1Cr 6,19), “nghĩa tử của Chúa Cha” (Gal 4,6).
2) Tiếp đến là nhờ Phép Rửa tội, người tín hữu đi vào trong một quá trình đồng hoá với Đức Kitô. Đức Giêsu đã chủ tâm muốn hoàn toàn trở nên Người Con ở giữa chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta chỉ mơ ước một điều duy nhất: đến lượt chúng ta cũng hãy cố gắng trở nên con cái Thiên Chúa. “Được rửa tội trong Đức Kitô” (Gal 3,27). Đối với thánh Phaolô, mặc lấy Đức Kitô là để cho mình biến hoá thành Đức Kitô. Và đó là công việc của Chúa Thánh Thần. Có được thế mới là thành công trong vấn đề ơn kêu gọi làm Con Thiên Chúa. Nhưng điều này không thể thực hiện được mà không có sự cộng tác của chúng ta. Một cách đơn sơ. Vấn đề đối với chúng ta chẳng phải là: cố gắng bước chân theo gót Đức Kitô sao?

33. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi – Noel Quesson.
Trên chuyến xe lửa Lyon-Paris, một thanh niên sang trọng ngồi bên một ông già ăn mặc thô sơ, có vẻ quê mùa. Thấy cụ già cầm xâu chuỗi, miệng lẩm bẩm đọc kinh, chàng thanh niên gợi chuyện:
– Tôi thấy ông vẫn còn tin tưởng ở tập quán thời trung cổ. Chắc ông cũng tin Đức Mẹ Đồng Trinh và những chuyện ghi trong sách Thánh, được nhai đi nhai lại trong các nhà thờ chứ gì?
Ông già trả lời:
– Đúng vậy đó cậu ạ. Còn cậu thì sao?
Chàng thanh niên cười rộ:
– Tôi mà lại tin theo những chuyện vớ vẩn ấy à? Tôi đã tìm được sự thật đầy đủ ơ trường Đại học. Ông cũng nên từ bỏ xâu chuỗi, để có giờ mà đọc các sách khoa học tân tiến.
– Tôi cũng muốn thế, nhưng sợ không hiểu nổi khoa học.
– Được rồi, tôi sẽ gửi biếu ông một số sách. Ông có biết đọc không?
– Cám ơn cậu, tôi có biết đọc.
– Thế thì tốt rồi, nhưng xin ông cho địa chỉ để tôi gửi sách.
Ông già rút trong túi ra một tấm danh thiếp, và cậu thanh niên tròn đôi mắt đọc thấy trên đó ghi: Louis Pasteur –Viện nghiên cứu khoa học–Paris. Đó là người đã viết nhiều sách khoa học mà người thanh niên say mê nghiền gẫm.
Trong đạo Công giáo có nhiều mầu nhiệm, cao sâu trên hết là mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đã là mầu nhiệm thì trí khôn con người khó mà thấu hiểu được. Nhưng nếu khiêm tốn cầu nguyện và tìm hiểu, ta vẫn có thể tiếp thu những mầu nhiệm đó mà không thấy nghịch lý chút nào. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi đã được chính Chúa Giêsu, một trong Ba Ngôi diễn tả và dạy dỗ chúng ta bằng những lời lẽ minh bạch. Vì thế mầu nhiệm này đã được mọi người, kể cả những nhà bác học, những người coi trong lý trí phải suy nghĩ, và tin nhận.
Trong lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, Giáo Hội cho ta đọc lại năm câu cuối cùng của Tin Mừng theo Thánh Matthêu, đây là những lời kết thúc và tóm gọn toàn bộ giáo lý của Thánh Matthêu. Thấy Chúa tới, các môn đệ đã sụp lạy suy tôn Người. Đó là thái độ trước nhan Thiên Chúa, thái độ của những người nhận ra Thiên tính của Đức Giêsu (Mt 14,33; 2,11; 15,25). Tuy vậy vẫn có một số còn hoài nghi. Giáo Hội Chúa luôn là tập đoàn tội nhân. Niềm tin các tông đồ cũng như niềm tin của mọi người chúng ta luôn pha trộn nghi ngờ, hoang mang, một niềm tin trên đường đi tới. Giáo Hội tiếp đón Chúa, luôn là Giáo Hội “những người chỉ mới có chút ít đức tin” (Mt 14,31).
Tuy nhiên Chúa Giêsu vẫn không ngần ngại tiến lại gần họ, như Chúa đã lại đến bên họ sau cuộc biến hình trên núi (Mt 17,7). Cũng như Chúa vẫn tiến lại gần những người chưa có thể hoặc chưa muốn tuyên xưng một đức tin toàn vẹn, rõ ràng.
Khi đã lại gần bên ta, Chúa trao cho ta nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng của Người. Nhiệm vụ đó là biến đổi toàn nhân loại thành môn đệ Chúa để mọi người đều tuyên xưng cùng một niềm tin. Tin vào Chúa là Cha vì đã tự bỏ mình và trao tặng tất cả cho Chúa Con. Tin Chúa Con đã tự hủy bỏ và hiến dâng tất cả cho Chúa Cha; Tin Thánh Thần là tình yêu chuyển thông giữa Chúa Cha và Chúa Con.
Điều Chúa muốn là “tập hợp mọi người trong một tình yêu”. Thiên Chúa là một cộng đồng tình yêu hiệp nhất. Phải tìm bản tính của Giáo Hội nơi bản tính Thiên Chúa Ba Ngôi.
Kính lạy Chúa Ba Ngôi cực Thánh, xin kết hiệp chúng con trong tình yêu của Chúa để chúng con lấy hành động đức tin và cuộc sống bác ái yêu thương, minh chứng mầu nhiệm Tình Yêu hiệp nhất của Ngài.

34. Con búp bê và biển cả
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong quyển sách tựa đề: “Sức thu hút của Thiên Chúa”, tác giả người Italia, ông A-léc-xan-drô Phong-xa-tô đã kể lại câu chuyện vui sau đây về con búp bê bằng muối:
Muốn tìm hiểu thế nào là biển cả để thỏa mãn tính tò mò của mình, con búp bê một mình tiến ra bờ biển và hỏi:
– “Biển cả ơi, bản chất của biển cả là như thế nào?”
Và biển cả đã trả lời:
– “Biển cả là biển cả. Nếu ngươi muốn biết ta là như thế nào thì hãy xuống đây, hãy để cho toàn thân ngươi thấm nhập vào biển cả”.
Con búp bê bằng muối do dự. Nhưng rồi vì tính tò mò thúc đẩy, nó tiến gần ra mặt nước rồi đưa hai chân thấm vào nước biển. Trong nháy mắt sóng biển đánh mạnh vào đôi chân bằng muối của nó làm cho đôi chân tan thành nước biển. Con búp bê kinh hãi lùi lại, nhưng đôi chân đã mất. Tiếng biển cả dịu dàng mời gọi:
– “Này con búp bê nhỏ kia ơi, biển cả là biển cả. Ngươi muốn biết biển cả như thế nào thì đừng sợ. Hãy tiến vào đây với ta. Ta sẽ bảo vệ ngươi. Ngươi sẽ được hòa nhịp với ta và hiểu ta như thế nào. Hãy can đảm lên! Nếu bỏ cuộc nửa chừng thì không bao giờ ngươi sẽ hiểu biển cả như thế nào đâu, và phải sống những năm tháng còn lại với đôi chân đã mất”.
Tính tò mò thúc đẩy, con búp bê ngâm mình xuống biển. Chỉ một lát sau con búp bê bằng muối đã hòa tan trong nước biển và hiểu được thế nào là biển cả.
Anh chị em thân mến, giữa con búp bê bằng muối và biển cả có một căn bản giống nhau. Cũng thế, giữa con người và Thiên Chúa cũng có một sự giống nhau. Con người đã được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh của Ngài. Tâm hồn con người hướng về Thiên Chúa, muốn hiểu biết Thiên Chúa, muốn được kết hợp với Ngài ngày càng khăng khít hơn, giống như con búp bê bằng muối kia muốn hiểu biển cả là thế nào.
Như con búp bê được biển cả mời gọi dìm mình vào trong lòng biển cho mình hòa tan trong biển để hiểu được biển cả, thì mỗi người chúng ta cũng được mời gọi dìm mình vào trong Thiên Chúa. Cần để cho cái tôi của mình được hòa tan đi, biến mất đi trong Thiên Chúa để có thể hiểu biết Thiên Chúa, sống kết hợp với Ngài. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm. Lý trí loài người khó mà hiểu biết cho tường tận được. Chúng ta không hiểu biết Thiên Chúa bằng lý trí cho bằng tình yêu. Thật vậy, chỉ khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta mới hiểu và biết Chúa. Chỉ có sự hiểu biết như vậy mới làm cho ta thỏa lòng thỏa trí. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm hiệp thông và tình yêu.
Thiên Chúa là Tình Yêu, nghĩa là Ngài không đơn độc một mình. Nếu như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô cùng. Nhưng Ngài là 3: Cha, Con và Thánh Thần. Là ba, nhưng cả ba hoàn toàn yêu thương hiến tặng sự sống, hoàn toàn tương quan với nhau, hiệp nhất với nhau: Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha và mối tương quan tình yêu và sự sống này giữa Cha và Con là Chúa Thánh Thần.
Tình yêu Thiên Chúa không khép kín lại nơi cộng đồng Ba Ngôi mà còn lan tỏa ra bên ngoài, trên khắp vũ trụ: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban cho thế gian quà tặng quý giá nhất của người Con Chí Ái của Ngài, nghĩa là chính sự sống của Ngài. Rồi đến lượt Người Con ấy cũng trao ban Thánh Thần, nghĩa là chính sự sống của Ngài cho thế gian. Chính nơi Người Con ấy, nơi bản thân, cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu mà chúng ta nhận ra được Thiên Chúa là tình yêu và thế nào là sống như con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa: “Ai không yêu thương anh em là không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8). Còn ai đã biết Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em như Ngài đã yêu thương, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Thưa anh chị em, với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa muốn vạch ra cho chúng ta con đường của yêu thương và hiệp nhất. Chúng ta chỉ có thể yêu thương và hiệp nhất với nhau khi mỗi người thực sự phải là mình, và chấp nhận đồng hành gắn bó với tha nhân, coi tha nhân là thành phần của chính hiện hữu của mình, đồng thời ý thức rằng mình chỉ có thể sống nhờ tha nhân, sống với tha nhân và sống cho tha nhân; bởi vì tự chính trong nguyên lý, sự sống không phải là một thực tại đơn độc, khép kín, mà là chia sẻ, hiệp thông: sự sống thần linh của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Cái độc đáo mà mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi muốn nói lên đó là Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự khác biệt. Ngài yêu thích sự khác biệt. Ngài tạo ra sự khác biệt và Ngài bao hàm chính sự khác biệt đó trong bản tính của Ngài. Nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa của sự hiệp nhất. Ngài hiệp nhất những gì khác biệt. Phải có cái khác biệt thì mới có thể nói tới hiệp nhất. Phải có Ba Ngôi mới có thể hiệp nhất thành một Thiên Chúa. chỉ khi nào chúng ta chấp nhận và tôn trọng cái khác biệt: khác biệt về hiện hữu, về chủng tộc, văn hóa, tôn giáo, địa vị, phái tính, tuổi tác v.v… và sống với những khác biệt đó, hiệp nhất những cái khác biệt đó. Chỉ khi đó, chúng ta mới đi đúng con đường mà ánh sáng của mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi soi dẫn chúng ta. Sự hiệp nhất ấy không làm cho chúng ta phong phú hơn và sống đúng bản chất là cộng đoàn của Thiên Chúa yêu thương, là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến, trong Thánh lễ hôm nay, cũng như trong các Thánh lễ, chúng ta dâng lên Chúa Cha của lễ cuộc đời chúng ta, nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, để chúc tụng vinh quang Thiên Chúa Ba Ngôi muôn đời.

35. Vinh danh Ba Ngôi.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Biến cố lớn đã được khơi động trong Giáo Hội là mừng năm sinh thứ 2000 của Chúa Giêsu. Như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định trong Tông Thư “Tiến đến Thiên niên kỷ thứ ba”. Chủ đề học hỏi của ba năm chuẩn bị là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Năm 1997 dành cho suy tư về Đức Kitô, Ngôi Lời của Chúa Cha, làm người do hoạt động của Chúa Thánh Thần (số 40). Năm 1998 dành cho Chúa Thánh Thần… Đấng đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Con, trong mầu nhiệm tuyệt đối của Thiên Chúa vừa là một vừa là ba, là Ngôi vị tình yêu, tặng phẩm vĩnh hằng, nguồn mạch vĩnh cửu của mọi ân huệ Chúa ban… (số 44). Năm 1999, năm thứ ba và là năm cuối cùng, hướng đến Cha trên trời, Đấng đã sai Đức Kitô và là Đấng mà Ngài đã trở về (x. Ga 16,28. Số 49).
Trong các Thánh Lễ Chúa Nhật, chúng ta đều tuyên xưng: “Tôi tin kính một Thiên Chúa duy nhất là Chúa Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất. Tôi tin kính một Chúa duy nhất là Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, được Chúa Cha sinh ra trước muôn thuở muôn đời. Tôi tin kính Chúa Thánh Thần, Người là Chúa và là Đấng ban sự sống, Người phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con”. Đó là lời tuyên xưng đức tin trong Kinh Tin Kính, một công thức thần học súc tích, mang nặng tính chất lý luận dài dòng và khó hiểu.
Thế nhưng, đây là một mầu nhiệm tuyệt đối nhất trong các mầu nhiệm: Mầu nhiệm hiệp thông sự sống và tình yêu.
Thiên Chúa là tình yêu, nghĩa là Ngài không đơn độc một mình. Nếu như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô cùng. Nhưng Ngài là ba: Cha, Con và Thánh Thần. Là ba, nhưng cả ba hoàn toàn yêu thương nhau, hiến tặng sự sống cho nhau, hoàn toàn tương quan, hiệp nhất với nhau: Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha và mối tương quan tình yêu và sự sống này giữa Cha và Con là chính Chúa Thánh Thần.
Tình yêu Thiên Chúa không khép kín lại nơi cộng đồng Ba Ngôi, nhưng lan toả ra ngoài trên khắp vũ trụ và đến nhân loại: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban cho thế gian quà tặng quí giá nhất là Người Con chí ái của Ngài, nghĩa là chính sự sống của Thiên Chúa”. Rồi đến lượt Người Con ấy cũng lại trao ban Thánh Thần, nghĩa là chính sự sống của Ngài cho thế gian. Chính nơi người Con ấy, nơi bản thân, cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu mà chúng ta nhận ra được Thiên Chúa là tình yêu và thế nào là sống như con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa: “Ai không yêu thương anh em là không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8), còn ai đã biết Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em như Ngài đã yêu thương, “vì Thiên Chúa là Tình yêu”.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là mầu nhiệm của sự hiệp nhất. Ước vọng hiệp nhất và nên một của những người yêu nhau sẽ được thực hiện nơi người con họ cho nhau. Nó là của chàng và cũng là của nàng. Nó là chúng ta, là tình yêu chung mà họ có thể thấy được. Tình yêu giữa hai người đã triển nở thành tình yêu chung trong một ngôi vi thứ ba: Họ trở thành tình yêu chung trong môt ngôi vị thứ ba: Họ trở thành một gia đình. Hình ảnh gia đình ấy có thể giúp chúng ta tiếp cận phần nào với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi-gọi là phần nào, bởi vì mọi hình ảnh đều bất toàn không thể diễn đạt tương xứng được sự khác biệt nhưng lại duy nhất vô biên nơi Thiên Chúa. Có thể nói Thiên Chúa là một gia đình: Cha, Con và Thánh Thần. Yêu thương chính là bản tính thần linh chung của Ba Ngôi, là lời lý giải cho mầu nhiệm cao cả mà chúng ta tuyên xưng.
Mầu nhiệm đức tin không bao giờ là một trò chơi và thách đố trí tuệ, nhưng luôn hàm chứa lời mời gọi sự sống Thiên Chúa Ba Ngôi là một thực tại sống động trong đời sống người kitô hữu. Thật vậy, đời sống kitô hữu được khai sinh nhờ bí tích Thánh Tẩy “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Lời cầu nguyện luôn luôn là lời nguyện “với Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần”. Thánh Lễ, trọng tâm của đời sống kitô hữu, cũng được khai mở và kết thúc trong Danh Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi đang sống trong lòng mỗi người, đời sống Ba Ngôi đang diễn ra trong mỗi tâm hồn. Từng giây từng phút, người Kitô hữu được liên kết chặt chẽ với Chúa Con, đến độ khi được tràn đầy Thánh Thần của Ngài, người kitô hữu trở thành con của Cha trên trời. Vì vậy, phúc lành vĩ đại nhất cho kẻ tin là “được tràn đầy ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần” (1Cv 13,13). Do đó, sự nhận biết Thiên Chúa là tình yêu và là tình yêu cứu độ phải là sức đẩy cho chúng ta yêu thương mọi người anh em như Thiên Chúa yêu thương.
Như nơi Thiên Chúa, khởi điểm của tình yêu là mở ra, thông ban, chia sẻ. Thái độ mở ra, thông ban, chia sẻ nầy đòi hỏi phải ra khỏi bản thân và đi đến với người khác. Thái độ nầy đòi hỏi rũ bỏ não trạng ích kỷ vốn tiềm tàng ngay trong suy nghĩ, ước mơ, và tính toán để thực sự biết quan tâm đến ích lợi và hạnh phúc của người khác, biết nhìn nhận người khác ngay trong cái khác biệt của họ.
Liệu mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi có là nền tảng cho sự hiệp thông trong cộng đoàn chúng ta không? Mỗi người trong cộng đoàn- từ cộng đoàn họ đạo đến khu phố, gia đình – có cảm thấy mình “yêu và được yêu” không? Có biết cho và nhận cách khiếm tốn không? Dấu Thánh Giá được ghi trên người “nhân Danh Chúa Ba Ngôi” có tác động gì trong đời sống chúng ta không? Có là tấm gương cho chúng ta soi bóng tình yêu hiến dâng của mình trong quan hệ với tha nhân không?
Tuy nhiên, không chỉ là tôi mở ra hướng về anh và anh hướng về tôi, để rồi lại tạo nên một thứ “tôi và chúng ta” khép kín. Tinh thần bè phái và phe nhóm lại chẳng có mặt trong cuộc sống của chúng ta đó sao? Nơi Thiên Chúa Ba Ngôi thì không như thế. Tinh yêu đã chẳng tự khép kín trong gia đình Ba Ngôi, nhưng trào vọt và chan hoà trong vũ trụ bao la, tuôn đổ trong lòng mọi người. Cũng vậy, niềm tin thúc bách tình yêu đi tới, phá đổ mọi bức tường ngăn cản của màu da, chủng tộc, tôn giáo, ý thức hệ, để tình yêu lan toả khắp nơi. Và tình yêu làm nên hơi thở của sự sống. Cứu độ là ở đó. Nước Trời cũng là ở đó.
Chúng ta hãy cầu xin tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi cho chúng ta từ bỏ thái độ cô độc khép kín, cùng nhau xây dựng một thế giới anh em bốn bể một nhà, cho nhân loại nhận biết Chúa Cha là Thiên Chúa chúng ta như Ngài đã tỏ hiện cho chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Ngài hiển trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần muôn đời.

36. Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi
“Chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Chúa đã tỏ lòng từ bi đối với chúng ta”. Đó là lời mở đầu của thánh lễ mừng kính Thiên Chúa Ba Ngôi. Các bản văn phụng vụ không nhằm giải thích tại sao một Thiên Chúa duy nhất mà lại có ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Mạc khải trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được hoàn tất nơi Chúa Giêsu Kitô. Nhưng cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng không dạy tại sao Thiên Chúa duy nhất phải có ba ngôi. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn về việc hiện hình trong bữa tiệc ly vì sự hiện diện và tác động của từng ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, và về mối tương quan hiệp nhất giữa ba ngôi mà không giải thích lý do tại sao. Các tông đồ lúc đó cũng không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng các ngài đã yêu mến chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành: “Ta và Cha Ta, chúng ta chỉ là một. Ai tuân giữa giới răn Ta truyền, thì chúng ta sẽ đến ngự trong người đó”. Và nơi Phúc Âm thánh Gioan chương 16,12-15 được dùng trong thánh lễ kính Đức Chúa Trời Ba Ngôi là những lời Chúa Giêsu mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần.
Vấn đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về Thiên Chúa, mà là sống mầu nhiệm về Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy có thể đạt được phần nào về Thiên Chúa, nhưng không thể nào biết trọn được cả. Sự việc đã xảy ra cho thánh Augustinô khi thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày hôm nay. Trí khôn con người hữu hạn, làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng. Nếu muốn hiểu thì chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong một lỗ nhỏ, như một trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển. “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lãnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật. Người sẽ đưa các con vào trọn cả trong sự thật.”
Mỗi ngày, chúng ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa, cần được Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu nhiệm Ba Ngôi của Thiên Chúa. Đây là một sự khám phá vô cùng và mãi mãi không bao giờ ngừng cả khi chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Mỗi ngày, chúng ta càng được hướng dẫn hay để cho mình được hướng dẫn tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì chúng ta càng trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, càng được thần thiêng hóa và trở nên giống Thiên Chúa hơn và đối xử với anh chị em chung quanh như chính Thiên Chúa muốn, càng được thấm nhuần trong mầu nhiệm Thiên Chúa bằng đời sống cầu nguyện, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa, thì chúng ta càng có tâm hồn quảng đại, mở rộng đón nhận anh chị em chung quanh và mời gọi họ trong mọi hoàn cảnh cụ thể. Đây là kinh nghiệm sống đức tin của những vị thánh mà không sự chứng minh hay giải thích nào của lý trí có thể đủ sức trình bày.
Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, mà dấu Thánh Giá chúng ta mang lấy trên thân mình hàng ngày trước mỗi công việc quan trọng ban cho chúng ta được mỗi ngày một tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, được ẩn mình trong Thiên Chúa, được biến đổi trong Thiên Chúa để sống trọn cuộc sống con người của mình trên trần gian này và mãi mãi trong cõi vĩnh phúc mai sau.

37. Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta long trọng cử hành lễ Thiên Chúa Ba Ngôi Rất Thánh, giúp chúng ta nhận biết và tôn thờ Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi.
Bài giáo lý thuộc lòng
Thủa thiếu thời, trước khi bước vào Thánh lễ Chúa nhật, sau phần Kinh Sáng Tối, mọi người lại cùng nhau cất lên: Bổn dạy những lẽ cần cho được rỗi linh hồn. Phần thứ I… bắt gặp câu:
Hỏi. Có mấy sự mầu nhiệm rất cần phải tin cho được rỗi linh hồn?
Thưa. Có Ba Sự Mầu Nhiệm này: một là sự Đức Chúa Trời Ba Ngôi.
Lớn lên tôi mới hiểu đây là một trong ba mầu nhiệm phải tin cho được rỗi linh hồn. Thảo nào, những câu hỏi mà người học ai cũng được hỏi và buộc phải trả lời chính xác là:
Hỏi. Có nhiều Đức Chúa Trời chăng?
Thưa. Có một Đức Chúa Trời mà thôi.
H. Đức Chúa Trời có mấy Ngôi?
T. Đức Chúa Trời có Ba Ngôi: Ngôi Nhất là Cha. Ngôi Hai là Con: Ngôi Ba là Thánh Thần.
H. Ngôi Nhất là Cha, có phải Đức Chúa Trời chăng?
T. Phải.
H. Ngôi Hai là Con, có phải Đức Chúa Trời chăng?
T.Phải.
H.Ngôi Ba là Thánh Thần, có phải Đức Chúa Trời chăng?
T. Phải.
H. Nếu vậy có phải ba Đức Chúa Trời chăng?
T. Chẳng có, vì Ba Ngôi cũng một tính, một phép, vậy có một Đức Chúa Trời mà thôi.
H. Ba Ngôi, có Ngôi nào trước, Ngôi nào sau, Ngôi nào hơn, Ngôi nào kém chăng?
T. Ba Ngôi cũng bằng nhau. (Sách Bổn Địa Phận Hà Nội tr. 11)
Điều thứ nhất. Đoạn thứ II. Phần I Sách Bổn nói trên là một bản tóm tắt tuyệt vời đầy đủ, dễ hiểu về Thiên Chúa là thực thể duy nhất hiện hữu trong ba ngôi vị. Ba Ngôi bình đẳng, đồng tồn tại vĩnh cửu, tuy riêng biệt nhưng cùng một bản thể và một uy quyền ngang nhau, nên Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa mà thôi.
Thiên Chúa hiện hữu trong Ba Ngôi
Khi bước vào khoa Thần học, tôi được dạy và đọc thấy các nhà thần học suy tư về Một Thiên Chúa có Ba Ngôi. Chúa Cha là Thiên Chúa độc nhất. Chúa Con sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con tự đời đời như một Nguyên lý duy nhất, Ba Ngôi nhưng là Một Thiên Chúa hòa quyện vào nhau một cách hoàn hảo trong Tình Yêu và hành động, cùng tác động trên thế giới.
Nhưng làm sao chúng ta có thể diễn tả hay thấu hiểu về Thiên Chúa Ba Ngôi này. Ai có thể giúp ta thấy được khuôn mặt thực của Thiên Chúa? Ai sẽ chỉ cho ta con đường để gặp gỡ Ngài? Thánh Augustinô viết: “Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được”. Phải, tự sức trí khôn con người là không thể. Phải nại đến Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, qua Người mầu nhiệm Thiên Chúa được vén mở, nhờ Người mà chúng ta biết có Một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị là Cha, Con và Thánh Thần.
Giáo lý về Chúa Ba Ngôi chứng tỏ cho chúng ta thấy cả Ba Ngôi Vị đều tỏ hiện vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, “Chịu thanh tẩy xong, Đức Yêsu liền lên khỏi nước; và này: trời mở ra, và Ngài thấy Thần khí Thiên Chúa đáp xuống như chim câu mà đến trên Ngài. Và này có tiếng tự trời phán: “Ngài là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ” (Mt 3,16-17).
Thiên Chúa hiện hữu trong ba thân vị, luôn luôn yêu thương, và có mối giao hoà trọn vẹn giữa ba ngôi vị. Theo như cách diễn giải của thánh Augustinô trong Ba Ngôi Thiên Chúa: Cha, Con và Thánh Thần chính là Người yêu, Người được yêu và Tình Yêu. Thêm vào đó, theo Tiến sĩ Thomas Hopko, nếu Thiên Chúa không phải là Ba Ngôi, Chúa không thể trải nghiệm tình yêu thương trước khi Chúa tạo dựng các thực thể khác (con người) và yêu họ. Sáng thế ký 1 câu 26 chép rằng “Chúng ta hãy tạo nên con người theo hình ảnh chúng ta”.
Ba Ngôi trong đời sống Kitô giáo
Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại, sâu thẳm, không thể nào diễn tả được; tuy nhiên các giáo phụ đã tìm cách diễn tả nội dung chính yếu này và một trong những cách đó là Dấu Thánh Giá: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Thường ngày, chúng ta làm Dấu Thánh Giá rất nhiều lần, khởi đầu ngày mới cho đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành, trước và sau khi ăn, khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ nguy hiểm … Dấu Thánh Giá bao trùm toàn thể xác và linh hồn; tất cả con người ta được thánh hiến nhân danh Một Chúa Ba Ngôi. Vì thế, Dấu Thánh Giá gói ghém lời tuyên xưng đức tin và nền tảng cầu nguyện của chúng ta. Đồng thời cũng là hành động Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.
Hành động Đức Tin
Dấu Thánh Giá tóm lược Ba Mầu Nhiệm Cả trong Đạo Công giáo
1 – Chúng ta vẽ Dấu Thánh Giá trên mình, vì Chúa Giêsu đã mặc lấy thân xác người phàm đến để cứu chuộc ta. Đây là mầu nhiệm Nhập Thể.
2 – Dấu Thánh Giá nhắc lại rằng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã chết trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta. Đây là mầu nhiệm Cứu Chuộc. Thánh Giá là chiến thắng của Đức Giêsu trên sự dữ và ma quỉ. Chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nhờ hy tế của Chúa Giêsu trên Thánh.
3 – Dấu mà chúng ta vẽ trên mình kèm theo lời đọc: “Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Chúng ta khẳng định mầu định Thiên Chúa Ba Ngôi.
Hành động của Đức Cậy
Niềm hy vọng của chúng ta là về Trời như các thánh đã ái mộ những sự trên Trời. Chính vì Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu độ chúng ta, nên chúng ta có thể về Trời. Khi vẽ trên mình Dấu Thánh Giá, chúng ta nhớ đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh Giá để cứu chúng ta, Ngài đã mở cửa Trời cho chúng ta.
Vậy, chúng ta khẳng định với nhau rằng, cuộc sống lữ hành của chúng ta là đi về Trời nơi chúng ta hy vọng sẽ tới sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế.
Hành động Đức Mến
Thánh Giá gốm hai thanh gỗ ngang và dọc. Thanh dọc trình bầy tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, thanh ngang diễn tả tình yêu của chúng ta đối với “tha nhân”.
Cần phải ghi nhận rằng khi được đưa lên khỏi đất, thanh dọc của cây Thánh Giá đỡ lấy thanh ngang: ngụ ý nói rằng tình yêu của chúng ta đối với tha nhân được “nâng đỡ” bởi tình yêu Thiên Chúa.
Nếu thanh dọc của cây Thánh Giá thiếu (tình yêu Thiên Chúa), thanh ngang bị bỏ nằm trên đất, không thể đưa lên khỏi đất. Ý muốn nói, trong hành động của đức Ái: “yêu tha nhân là yêu chính Chúa”.
Nhưng nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, (yêu tha nhân), hỏi rằng có còn là cây Thánh Giá nữa hay không?
Hai điều cần thiết là: “mến Chúa và yêu người”. Mỗi ngày chúng ta làm dấu trên mình nhiều lần: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Tình Yêu trong cuộc đời ta, để chúng ta không ngừng kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Amen.

38. Ba Ngôi cực thánh – Arthur Tone.
Hơn năm mươi năm trước đây, ở Chicago, một phụ nữ Tin Lành da đen tên là Maria Weaver. Chị là một tín đồ Baptist, Methodist – Kitô hữu khoa học và Holly Roller. Chị chỉ tin: “Duy nhất một Đức Kitô”. Một ngày nọ, chị nghe lén bài giáo lý Công giáo ở nhà một người bạn. Đây là dịp để chị biết người Công giáo tin điều chi, làm điều gì. Rồi chị thấy tức cười. Chị bắt đầu đọc, đọc lần lần từ ghét đến tò mò, đến ngỡ ngàng, rồi đến ước muốn học hỏi. Chị thổ lộ: “Nếu đây là những điều Giáo Hội Công giáo dạy thì tôi muốn làm một người Công giáo”. Maria Weaver đã được rửa tội tại nhà thờ thánh Elisabeth ngày 11 tháng 12 năm 1938.
Bây giờ, chị hoạt động mạnh mẽ giúp Giáo Hội Công giáo như trước kia chị đã hoạt động để chống lại.
Một người bạn của chị thuộc phái Holly Roller đã bày tỏ xúc động trước sự trở lại của chị như sau: “Ôi, Maria chị làm gì với: Duy một mình Đức Kitô?”. Maria Weaver trả lời: “Tôi vẫn còn Ngài. Bây giờ tôi tin nhận Chúa Cha và Chúa Thánh Thần nữa”.
Khi Maria Weaver tin nhận Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, có nghĩa là chị đã tin Chúa Ba Ngôi. Cũng thế, bạn và tôi trong ngày lễ Chúa Ba Ngôi: Tin nhận Ba Ngôi bằng việc tin, ca tụng, cảm tạ và yêu mến Thiên Chúa.
Chúng ta, những người trong Giáo Hội Đức Kitô sáng lập, được gia nhập Giáo Hội bằng nghi lễ gọi là Bí tích Rửa tội, trong đó sử dụng những lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ta rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Chúng ta biết Chúa Ba Ngôi, vì Đức Giêsu đã nói với chúng ta nhiều lần. Làm sao lại có thể Ba Ngôi trong một Chúa? Chúng ta không hiểu. Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất trong đạo chúng ta. Chúng ta hy vọng một ngày kia chúng ta sẽ hiểu rõ hơn chân lý sâu thẳm này.
Hôm nay, chúng ta tập trung vào lời cảm tạ Chúa Ba Ngôi, vì những gì Chúa Ba Ngôi đã làm cho chúng ta. Chúng ta cảm tạ Chúa Cha vì yêu thương, đã tạo dựng nên chúng ta một con người có lý trí và làm cho chúng ta trở nên con cái của Người. Chúng ta cảm tạ Chúa Con, Đấng đã làm người, sống, lao động, dạy dỗ, chết và sống lại để chúng ta được phục hồi trong tình thân mật với Chúa Cha. Đấng đã thành lập Giáo Hội để đem phúc lành thời đại của Người đến với thời đại chúng ta.
Chúng ta cảm ơn Chúa Thánh Thần; Đấng hằng hiện diện trong Giáo Hội và trong tâm hồn mỗi người chúng ta để giúp chúng ta yêu mến Chúa Ba Ngôi, dẫn chúng ta đến hạnh phúc bất diệt.
Chúng ta tôn kính Ba Ngôi Thiên Chúa trong mỗi Thánh Lễ bằng khởi đầu và kết thúc với dấu thánh giá. Chúng ta dâng Mình và Máu Thánh Chúa Kitô trong, với và qua Chúa Ba Ngôi. Chúng ta cầu nguyện với Chúa Ba Ngôi luôn mãi. Lát nữa đây chúng ta sẽ tuyên xưng đức tin – cùng với nhau, lớn tiếng và mạnh mẽ – trong tất cả Ba Ngôi.
Vâng, Thiên Chúa Ba Ngôi đã tiếp nhận chúng ta, đã làm cho chúng ta nên một trong Người. Cũng như Maria Weaver, tới lượt chúng ta, chúng ta tin nhận Chúa Ba Ngôi trong Đức tin, trong đời sống.
Xin Chúa chúc lành cho bạn.

39. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. HK)
Tại Melbourne, nước Úc, Mẹ Têrêxa đi thăm một người già chẳng ai quan tâm để ý đến. Nhìn thấy căn phòng của ông tồi tệ và dơ bẩn, Mẹ muốn lau chùi và quét dọn cho ông, nhưng ông cản lại:
– Tôi còn khoẻ mạnh.
Trong căn phòng của ông có một cây đèn tuyệt đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm. Mẹ Têrêxa hỏi ông:
– Tại sao ông không thắp đèn cho sáng?
– Tôi thắp đèn cho ai đây? Chẳng có ai đến thăm tôi cả, còn tôi, tôi chẳng cần phải thắp đèn.
– Ông có thắp đèn không nếu như có các sơ đến thăm ông?
– Có chứ, nếu tôi nghe thấy một tiếng người, tôi sẽ thắp đèn lên.
Sau đó một thời gian, Mẹ Têrêxa nhận được một lá thư ngắn gọn của ông với dòng chữ sau: “Xin hãy nói với các bạn hữu của tôi rằng ngọn đèn bà thắp sáng trong đời tôi sẽ còn cháy sáng luôn mãi”
Mẹ Têrêxa rồi cũng trở về Ấn độ, nhưng ngày nào ngọn đèn của ông lão còn cháy sáng ngày ấy Mẹ như vẫn còn đó trong nhà ông.
Trước khi gặp Mẹ Têrêxa, ông lão chỉ sống trơ ra đó như là không hề hiện hữu trên đời, như người ta nói đùa là ông phải sống vì chưa tìm ra lý do để chết. Nay ông có lại được “sự sống”, ngọn đèn đã được thắp lên.
Descartes, một triết gia Pháp nổi tiếng, đã có một luận đề triết được nhiều người thán phục: “Tôi suy tư nên tôi hiện hữu” (Cogito sum), người ta biết mình hiện hữu khi biết mình đang suy tư; còn câu truyện trên như mang lại cho ta một luận đề khác: “Tôi yêu nên tôi hiện hữu”, người ta cảm nhận sự hiện hữu của mình khi yêu thương.
Hai cách hiện hữu trên được diễn tả trong văn hoá Á Đông với hai chữ trí và tâm. Con người có trí, có tâm. Trong cuộc sống, tâm và trí có sự sống riêng, hiện diện độc lập bên nhau, không thể thiếu vắng trong sự sống của con người toàn thể, đã phản ánh được phần nào sự sống và hiện hữu của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Thánh Augustinô cũng cho thấy sự giống nhau giữa hai tiến trình hoạt động trong bản tính Thiên Chúa so với hoạt động của tư tưởng và ý chí nơi linh hồn con người (De Trin., IX, iii, 3; X, xi, 17) mà Ngôi Lời là tư tưởng – sự khôn ngoan của Thiên Chúa, và Thần Khí là ý chí – tình yêu của Thiên Chúa.
Được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa nên sự sống của con người không chỉ phản ánh phần nào mà còn có thể được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. Sự sống Thiên Chúa được thông ban cho con người qua Đức Kitô, Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa: “đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1, 24), và qua Thần Khí, Tình yêu của Thiên Chúa: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5).
Bởi đó, có thể nói được là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mạc khải về sự cao trọng của ơn gọi làm người: Đích nhắm sau cùng của ơn gọi làm người là chính sự sống của Thiên Chúa: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48); và cuộc sống tại thế hôm nay là để chuẩn bị cho sự sống vinh hiển được xếp đặt từ đời đời cho nhân loại: “chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển” (1Cr 2,7)
Valencia mồ côi cha lúc mới lên 5, phải ở với mẹ tại một khu lao động nghèo khổ. Sau Thánh lễ hằng ngày, cậu vào các tiệm ăn đánh giầy cho khách. Mỗi khi nhận tiền công, cậu đều làm dấu thánh giá tạ ơn Chúa.
Tụi bạn trông thấy to nhỏ với nhau: “Gạo không lo mà lo giữ đạo!” Valencia vẫn cứ hiên ngang giữ hình thức cầu nguyện đơn sơ ấy.
Năm 17 tuổi, cậu được ban văn nghệ mượn đóng vai thằng quỉ. Màn đầu vừa dứt, khán giả vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt. Sang màn thứ hai, trời đột nhiên đổ mưa, sấm sét nổi lên ầm ầm. Nghe sét đánh, “thằng quỉ” quên mất mình đang đóng kịch, vội quì gối làm dấu thánh giá. Khán giả cười rộ lên, tưởng thằng quỉ làm hề, không ngờ Valencia cầu nguyện thật!
Sau đêm ấy, mọi người trong khu xóm hiểu được hoàn cảnh của cậu, họ chung nhau quyên tiền để giúp Valencia ăn học. Đến sau, Valencia đỗ tiến sĩ lúc vừa mới 30 tuổi … nhờ dấu thánh giá!
Mỗi ngày và cả đời tôi được bắt đầu với dấu thánh giá: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần” để nhắc tôi nhớ rằng Chúa là con đường và thành đạt thực của đời tôi.“Thật vậy, tất cả các dân đều bước đi nhân danh thần của mình; còn chúng ta, chúng ta tiến bước nhân danh Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, đến muôn thuở muôn đời” (Mk 4,5).

40. Lễ Chúa Ba Ngôi
Trong một buổi thuyết trình về những chân lý trong đời đời sống niềm tin tôn giáo, vị thuyết giảng hỏi các thính giả của mình rằng: “Giả sử hôm nay Giáo hội nói với các bạn rằng: Thiên Chúa không hề có ba ngôi, Người chỉ có một ngôi vị duy nhất mà thôi, thì điều này có ảnh hưởng gì đến đời sống của các bạn không?”
Thưa anh chị em! Câu hỏi này tự nó đã hàm chứa một lời khẳng địng rằng: các chân lý tôn giáo không phải là những tín điều chỉ đòi buột ta tuyên xưng ngoài môi ngoài miệng, mà là buột chúng ta tuyên xưng bằng chính cuộc đời của mình. Nghĩa là khi ta tuyên xưng một tín điều nào đó, muốn cho lời tuyên xưng ấy xác thực, chúng ta phải để cho tín điều ấy hướng dẫn và biến đổi đời sống của chính mình. Hôm nay đây, cùng với Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng lễ Chúa Ba Ngôi.
Đây là một mầu nhiệm căn bản trong đời sống đạo của mình, một tín điều mà chúng ta tuyên xưng mỗi ngày khi làm dấu thánh giá, hay đọc kinh Sáng Danh. Thế nhưng bây giờ chúng ta thử nhìn lại xem: chúng ta đã tuyên xưng tín điều này trong đời sống của mình như thế nào? Nói khác đi là chúng ta có để cho tín điều ấy hướng dẫn và làm cho cuộc sống của mình trở nên tốt hơn không? Người ta thường nói: “Vô tri bất mộ”: không hiểu biết thì không thể yêu mến; mà không yêu mến thì không thể hiện được nó trong đời sống của mình được.
Nhưng mà rồi làm sao tôi có thể cắt nghĩa được một Thiên Chúa duy nhất mà lại có ba ngôi khác nhau: Cha, Con và Thánh Thần? Làm sao tôi có thể giải thích ba ngôi riêng biệt ấy không phải là ba Chúa, mà chỉ là một Chúa duy nhất? Người ta đã gắng công tìm những hình ảnh này và hình ảnh khác để diển tả, nhưng cuối cùng thì đó cũng chỉ là những hình ảnh đơn điệu phần nào đáp ứng lại sự tìm hiểu của lý trí mà thôi. Đối với mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi, Chúng ta không thể tìm được một hình ảnh hay một ngôn từ nào để diển tả cách chính xác, rỏ ràng và đầy đủ được.
Đã là mầu nhiệm thì muôn đời sẽ vẫn là mầu nhiệm. Và đồng thời, mầu nhiệm nào cũng là một luồng ánh sáng đặc biệt để soi dẫn chúng ta trên con đường sống niềm tin của mình. Phụng vụ Lời Chúa ngày hôm nay tuy không nói rỏ cho chúng ta về mầu nhiệm này, nhưng chúng ta tìm thấy ở đó một nét đặc biệt nơi mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, đó là Tình Yêu. Thánh Gioan đã nghiền ngẫm mầu nhiệm này này hằng bao nhiêu năm trời, rồi cuối cùng ông chỉ thốt lên được rằng: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Quả thật, khi nhìn lại lịch sử cứu độ nhân loại và lịch sử của bản thân mình, chúng ta sẽ nhận thấy đó là một chuỗi dài của tình thương. Đành rằng trong cuộc sống, có những lúc mình phải đối diện với những đớn đau nghiệt ngã, đối diện với những tủi buồn trăn trở, nhưng khi nhìn kỹ lại, chúng ta sẽ thấy rằng đó chính là những lúc Chúa sửa dạy bảo ban, chính là những lúc Chúa gọt dũa, để đời sống của chúng ta được tốt hơn. Nhà thơ Lệ Khánh chẳng biết có cảm nhận được tình yêu nhiệm mầu này hay không, mà trong ngôn ngữ của con người, ông đã diển tả nó cách sâu sắc và thi vị:
“Yêu lặng lẽ là yêu không dám nói
Là âm thầm chuốc lấy những thương đau
Nhìn người ta rồi khe khẽ cúi đầu
Để đêm về khóc thầm bên gối trắng.”
Khuôn mặt của Thiên Chúa Ba Ngôi là khuôn mặt của một Thiên Chúa tình thương, mà chỉ có con người mới có được vinh dự vẽ lại khuôn mặt đó trong đời sống của mình. Thế nhưng con người hôm nay xem chừng như muốn từ khước cái vinh dự đó, thay vì làm cho sáng sủa dễ coi, thì người ta lại làm cho nó trở nên méo mó khó nhìn khi đối xữ với nhau bằng một đời sống thiếu công bằng, thiếu tình thương chia sẽ. Bằng chứng là chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật, chết chóc dường như chưa bao giờ chấm dứt. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có thể hiện được khuôn mặt của Thiên Chúa tình thương trong chính cung cách ứng xữ thường ngày của mình đối với những người cận kề với chúng ta không?
Tình yêu muốn tồn tại thì cần phải có sự đáp trả. Chúng ta hãy đáp trả lại tình thương của Thiên Chúa bằng cách tin vào Đức Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Mà tin vào Đức Kitô là bước theo và tuân giữ các giới răn của Người. Tin vào Đức Kitô là thể hiện trong cuộc đời của chúng ta cung cách sống của Người. Nghĩa là chúng ta phải suy nghĩ, phải nói năng và phải hành động giống như những gì chúng ta đã học biết nơi Phúc Âm của Người.
Đây không phải là một chuyện dễ dàng, cũng chẳng phải là một chuyện mà chúng ta chỉ làm trong một sớm một chiều. Bởi vì tin vào Đức Kitô và cư xử giống như Người là chúng ta phải đi ngược lại với nhhững quan niệm đương thời, mà lội ngược dòng nước chảy bao giờ cũng là một điều khó khăn, cũng là một điều vất vả. Chắc chắn rằng sẽ có những lúc chúng ta cảm nhận rằng: khi tôi càng tuân giữ các lề luật của Chúa, là lúc tôi càng cảm thấy mất tự do; Khi tôi càng sống theo các giới răn của Chúa, là lúc tôi càng bị thiệt thòi.
Thưa anh chị em! Không bao giờ xảy ra một điều vô lý như vậy, vì Chúa đã hứa rằng: “Điều Ta răn dạy, con ơi giữ cho thật đúng, Tuân cứ lệnh Ta, con sẽ sống một đời.”
Mà ngược lại, tôi càng bám vào lề luật của Chúa, là tôi càng được tự do theo đúng nghĩa của nó; tôi càng sống theo các giới răn của Chúa, là cuộc sống tôi càng được hạnh phúc. Một cánh diều muốn được tung bay lên bầu trời tự do, nó bắt buột phải được giới hạn bằng một sợi dây nhất định. Ngày nào nó tự bứt mình ra khỏi sợi dây ràng buột đó để được tự do hơn, được bay cao hơn, thì đó là ngày nó rơi xuống vực thẳm.
Hôm nay chúng ta không mừng lễ Chúa Ba Ngôi với một quyết tâm tìm hiểu cho thấu đáo mầu nhiệm ấy, nhưng chúng ta hãy mừng lễ này với một con tim chân thành, vì đã cảm nhận được tình thương của Chúa nơi cuộc đời của mình. Tình thương này sẽ luôn luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta, nhưng tình thương ấy cũng sẽ luôn luôn đặt chúng ta trước một sự chọn lựa đầy ray rứt: Tôi có sẵn sàng nói lên tiếng “không” với tất cả những gì đi ngược lại với lề luật của Chúa hay không?

41. Bài Giảng Lễ Chúa Ba Ngôi
(Msgr. Edward Peter Browne)
Tôi tin là hầu hết qúi vị đã tham dự Thánh Lễ Phục Sinh. Thường thì rất đông người tham dự trong ngày Lễ Phục Sinh. Lễ Giáng Sinh cũng đông như vậy. Tất cả những người Công Giáo bề ngoài hay nghĩ mình là người Công Giáo thì đi dự lễ Giáng Sinh và Phục Sinh. Quí vị đã có mặt ở đây trong ngày Chúa Nhật Phục Sinh và nếu qúi vị nhớ lại, trong Thánh Lễ ngay sau bài giảng, quí vị đã được yêu cầu canh tân lại những lời hứa của Bí Tích Thanh Tẩy. Tôi hỏi, “Anh chị em có từ bỏ Satan không?” “Thưa có.” “Và từ bỏ tất cả những công việc và các lời hứa của qủi Satan không?” “Thưa có.”
Tuyên Xưng Đức Tin
Có một lời tuyên xưng đức tin nữa và tôi sẽ hỏi anh chị em một trong những câu hỏi trong lời tuyên xưng đức tin này. Tôi sẽ hỏi để anh chị em trả lời. Câu hỏi sẽ là: “Anh chị em có tin Thiên Chúa, là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Dựng nên trời đất không?” và câu trả lời của anh chị em sẽ là, “Thưa có.” Bây giờ chúng ta sẽ thử bắt đầu, “Anh chị em có tin Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Dựng trời đất không?” “Thưa có.” Tôi nghi là nếu tôi hắt xì hơi khi anh chị em đang trả lời, không ai sẽ nghe thấy câu trả lời của anh chị em bởi vì người ta trả lời theo kiểu máy móc. “Có, tôi tin.” Anh chị em đang tuyên xưng sự thật là, “Thưa có, tôi tin vào Thiên Chúa!” Hôm nay là ngày lễ kính Chúa Ba Ngôi và chúng ta công bố sự thật là: TÔI TIN VÀO THIÊN CHÚA LÀ CHA TOÀN NĂNG, TÔI TIN VÀO CON MỘT THIÊN CHÚA, TÔI TIN VÀO CHÚA THÁNH THẦN. Tôi vững vàng tin tưởng. Anh chị em phải trả lời, “TÔI TIN, TÔI VỮNG VÀNG TIN! TÔI THỰC SỰ TIN! Nhưng đa số người ta nói cách nhỏ nhẹ, “Tôi tin, tôi vững vàng tin, tôi thực sự tin.”
Chúng ta sẽ không giải thích về Chúa Ba Ngôi bởi vì tôi không thể giải thích được. Đó là một mầu nhiệm. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên trời đất, chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ. Chúng ta biết Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa. Chúng ta biết Chúa Thánh Thần ngự trên chúng ta mỗi khi chúng ta lãnh nhận các Bí Tích và Thánh Thần ngự trong chúng ta. Chúng ta tin như thế, hay ít nhất chúng ta nói là chúng ta tin như thế.
Trong bài đọc thứ nhất của Thánh Lễ hôm nay, Mai-sen nói rằng Đây là lý do tại sao các ngươì phải biết lúc này và ghi khắc vào lòng rằng Chúa là Thiên Chúa trên trời và dưới đất và không có Chúa nào khác. Các người phải tuân giữ các lề luật và các giới răn ta nói với các người hôm nay, các người và con cháu các người sẽ thịnh vượng, các người sẽ sống trường thọ trong miền đất mà Chúa là Thiên Chúa của các người, ban cho các người mãi mãi. Anh chị em phải ghi tạc vào lòng của anh chị em: “Tôi phải tin và tuân giữ các lề luật và giới răn.” Anh chị em nói là anh chị em yêu mến Thiên Chúa, anh chị em nói là anh chị em tin vào Thiên Chúa. Cách mà anh chị em tuyên xưng đức tin của anh chị em nơi Thiên Chúa là anh chị em ghi tạc trong lòng của anh chị em rằng Chúa là Thiên Chúa trên trời, trên đất và dưới lòng đất. Rồi anh chị em tuân giữ lề luật và các giới răn. Đây chính là cách anh chị em tuyên xưng đức tin nơi Thiên Chúa.
Tin Giữ Giới Răn
Nếu chúng ta đọc lại qua các giới răn, nhiều người sẽ nghĩ rằng các giới răn thật là tiêu cực. Nhưng thực sự các giới răn là những lời công bố tích cực.Thí dụ, giới răn Thứ Nhất nói anh chị em phải thờ lạy một Thiên Chúa duy nhất. Ta là Chúa, các ngươi không được tôn thờ bất cứ chúa nào khác. Đó không phải là lời tiêu cực. Ngài nói với anh chị em là hãy có đức tin, “tin tưởng vào ta.”
Các ngươi không được xúc phạm đến danh thánh của Thiên Chúa, các ngươi phải tôn kính danh ta. Các ngươi phải sống nhân danh ta. Các ngươi phải tuyên xưng danh ta suốt đời. Đó là niềm tin nơi Thiên Chúa. Đó không phải là điều tiêu cực nhưng là tích cực.
Khi giới luật Thứ Ba nói là các anh chị em phải nhớ giữ ngày Chúa Nhật, đó là vì anh chị em tin vào Đức Giêsu Kitô Đấng là Con Thiên Chúa. Anh chị em tin là Chúa Giêsu Kitô hiện diện nơi bàn thánh. Anh chị em tin, hay ít nhất anh chị em nói là anh chị em tin rằng đây là Bí Tích Thánh Thể thật tuyệt diệu. Tuy thế, có người lại đến ăn mặc cách bê bối, vào trễ ra sớm. Anh chị em có thật tin không? Anh chị em nói là có, anh chị em tin, nhưng anh chị em lại qúa bận rộn để đến tham dự, qúa bận rộn để đến chia sẻ bí bích bởi vì anh chị em có việc khác phải làm. Anh chị em có tin không? Có chứ, anh chị em tin, nhưng anh chị em lại không thực hành niềm tin. Đức tin không thực hành thì có ích lợi gì?
Giới Luật Thứ Tư nói là anh chị em phải thảo kính cha mẹ nhờ đó anh chị em có thể sống trường thọ ở đời này. Anh chị em có thảo kính cha mẹ vì anh chị em tin tưởng vào Thiên Chúa không? Hay bởi vì đó chỉ là điều tiện lợi? Hay bởi vì chúng ta luôn làm như thế, đó là điều đáng làm. Nó phải được thi hành vì tôn kính đối với Thiên Chúa. Chúng ta phải tôn kính Thiên Chúa Cha của chúng ta và cha mẹ chúng ta là bậc đại diện của Thiên Chúa. Chúng ta phải tôi kính các ngài giống như tôn kính Thiên Chúa Cha.
Chúng ta có Giới Luật thứ Năm dạy rằng, “Các ngươi không được giết người.” Tại sao? Bởi vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên ta. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống. Thiên Chúa đã ban cho chúng tất cả các tạo vật. Ngài đã đặt hàng triệu các vì sao trên giải ngân hà. Ngài ban cho chúng ta sự sống. Ngài truyền hãy tôn trọng sự sống đó bởi vì đó là sự sống của Thiên Chúa nơi chúng ta. Tuy thế, nhiều người mẹ lại giết con mình. Có những trẻ em giết các trẻ em khác. Và anh chị em lại nói, có tôi tin nơi Thiên Chúa. Điều đó không nói lên là anh chị em tin.
Chúng ta có Giới Răn Thứ Sáu: “Các ngươi không được phạm tội tà dâm ngoại tình, không được xúc phạm đến sự sống ta đã ban cho các ngươi.” Đó không phải là điều tiêu cực mà là vấn đề dâng lại cho Thiên Chúa sự tôn trọng đời sống của anh chị em. Ngài đòi anh chị em phải thi hành sự trong sạch thanh khiết, bởi vì đây là những món qùa vô giá được Thiên Chúa ban cho chúng ta và chúng ta không muốn phá hủy đi, chúng ta không muốn phung phí, chúng ta không muốn gây trở ngại, chúng ta muốn bảo vệ niềm tin của chúng ta nơi Thiên Chúa. Tuy vậy, hãy nhìn vào xã hội ngày nay. Chẳng ai thực sự tin những điều này là qùa tặng của Thiên Chúa. Chúng chỉ là những thứ đồ chơi. Người ta nói có đấy, họ tin vào Thiên Chúa.
Các giới răn truyền rằng “Các ngươi không được lấy của người khác.” Điều đó có nghĩa là thi hành tinh thần công bình. Đó không phải là điều tiêu cực mà là điều tích cực. Tôi sẽ sống công bình. Tôi sẽ trao cho người khác cái thuộc về họ. Tuy thế người ta lại lấy của Thiên Chúa, không phải chỉ lấy của tha nhân, họ lấy trộm của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói, “Hãy dâng lại cho ta một số những cái Ta đã ban cho các ngươi.” Có bao nhiêu người dâng lại cho Thiên Chúa? Bao nhiêu người đóng góp? Có bao nhiêu người dâng hơn một phần trăm lợi tức của họ cho Thiên Chúa? Anh chị em nói có, anh chị em tin tưởng vào Thiên Chúa, anh chị em tin sự hiện diện của Chúa Kitô trong đời sống. Anh chị em tin. Anh chi em nói anh chị em tin, nhưng anh chị em làm điều gì? Anh chị em có tuân giữ các lề luật và các giới răn mà “Ta đã trao cho các ngươi hôm nay”?
Người ta nói dối, làm chứng dối, phá hại người láng giềng, đổ lỗi không đúng sự thật cho người khác, và họ nói họ tin nơi Thiên Chúa nhưng họ lại phá hại người hàng xóm của họ. Họ không tôn trọng đời sống của người khác. Tất cả những điều này là sự bày tỏ niềm tin của chúng ta. Chúng ta bày tỏ niềm tin của chúng ta bằng cách chúng ta hành động. Nếu anh chị em nói là anh chị em tin vào Thiên Chúa, thì hãy hành động như anh chị tin nơi Thiên Chúa. Hãy tuân giữ các giới răn và các lề luật. Hãy trung tín với Thiên Chúa, tin tưởng nơi Thiên Chúa, tôn kính Ngài. Hãy đến với các Bí Tich cách tôn kính và mong mỏi Chúa Giêsu Kitô đến với mình trong Bí Tích Thánh Thể. Tôi phải cung kính trong cách đón nhận Ngài vào trong đời sống của tôi. Tôi có tin như thế không? Nếu tôi tin, thì tôi sẽ thực hành.
Thực Hành Điều Mình Tin
Chỉ đơn giản nói, “Lạy Chúa, lạy Chúa,” sẽ không đưa anh chị em vào nước trời. Chỉ có một điều là nếu tôi tin thì tôi thực hành. Nếu anh chị em tin rằng anh chị em đã có sự thành công trên đời, có thể nuôi nấng gia đình, lo cho sức khỏe của mình, đó chính là vì anh chị em đã phải làm một số điều. Nếu anh chị em tin nơi Thiên Chúa thì anh chị em cũng phải làm một số điều. Đây chính là lý do tại sao anh chị em biết và ghi tạc trong lòng rằng Chúa là Thiên Chúa trên trời và dưới đất, và không có chúa nào khác. Các ngươi phải tuân giữ các huấn lệnh và giới răn mà Ta ban cho các ngươi hôm nay để nhờ đó các ngươi được trường thọ trong đất mà Chúa là Thiên Chúa của các ngươi đã ban cho các ngươi. Đất mà Thiên Chúa ban cho anh chị em vĩnh viễn là ơn cứu độ muôn đời. Anh chị em có tin như thế không? Anh chị em có thực lòng tin rằng chỉ có một Thiên Chúa Ba Ngôi không? Có tin Thiên Chúa đó đến để cứu chuộc anh chị em không? Nếu anh chị em tin như thế thì anh chị em sẽ tuân giữ các huấn lệnh và các giới răn của Ngài.
Ngay khi tôi giảng giải xong, chúng ta sẽ đứng lên để cùng đọc kinh Tin Kính. Chúng ta tin vào một Thiên Chúa duy nhất, chúng ta tin vào Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta tin điều này, tin điều kia, chúng ta tin vào nhiều điều khác, nhưng anh chị em có sống niềm tin đó không? Hay đó chỉ là cách chúng ta trả lời, “Có” khi được hỏi “Anh chị em có tin vào Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Thành trời đất không?” Đó có phải là cách mà anh chị em bày tỏ lòng tin của mình không?
Đây chính là điều chúng ta được mời gọi để thực hiện. TÔI TIN VÀO THIÊN CHÚA Và bởi vì tôi tin vào Thiên Chúa, tôi tin như là người con nhỏ của Thiên Chúa nhờ đó sự sống viên mãn của thiên Chúa có thể trở thành của tôi và dành cho tôi mãi mãi! Xin Thiên Chúa chúc lành cho các bạn.

42. Nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi.
Christophoro Columbo, người đã khám phá ra Châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi cũng như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ: “Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh”.
Lần kia, khi Columbo trình bày về thuyết “Trái đất tròn” trước một nhóm học giả được gọi là Hội Đồng Salamanca, một tổ chức quy tụ những nhà khoa học và thần học danh tiếng nhất thời bấy giờ, ông đã khởi đầu như sau: “Hôm nay tôi được hân hạnh đứng trước mặt các ngài nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh, vì hoàng đế đã truyền lệnh cho tôi đệ trình lên sự khôn ngoan của quý vị một dự án mà tôi xác tín là Chúa Thánh Thần Ba Ngôi Thiên Chúa đã gợi hứng cho tôi”.
Trong cuộc hành trình thứ ba của ông khởi hành năm 1948, Columbo đã thề hứa sẽ hiến dâng cho Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông khám phá ra đầu tiên, vì thế hòn đảo ông đặt chân xuống đầu tiên trong cuộc hành trình thám hiểm Tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là “Trinidad”, tức là Chúa Ba Ngôi.
Trong suốt cuộc đời, người Kitô hữu chúng ta luôn kinh nghiệm sự gần gũi của Ba Ngôi Thiên Chúa: lúc vừa mở mắt chào đời, chúng ta được nhận lãnh Phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi. Trong suốt ngày sống, chúng ta thường ghi dấu thánh giá trên mình với lời chúc tụng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, cũng như mỗi lần chúng ta dùng bữa hay khi khởi đầu mọi sinh hoạt.
Cộng vào đấy mỗi lần chúng ta vấp ngã và khiêm nhượng đi xưng thú những lỗi lầm trong tòa cáo giải, chúng ta được giao hòa lại với Thiên Chúa và cộng đoàn nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi và cũng nhân danh Người các đôi trai gái yêu nhau được nối kết để chung sống đời hôn nhân.
Rồi cả các bệnh nhân cũng được ban ơn sức mạnh nhờ danh Thiên Chúa Ba Ngôi để khi nhắm mắt xuôi tay, các Kitô hữu chúng ta cũng được tiễn đưa vào cuộc sống đời sau và được chôn cất nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Mặt khác, Chúa Ba Ngôi cũng là trung tâm và mục đích mọi hoạt động của những kẻ tin kính Người. Bởi thế chúng ta thường kết thúc nhiều Kinh và những sinh hoạt bằng câu: “Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần”.

43. Chúa Ba Ngôi.
Khi dựng nên Adong, Thiên Chúa đã phán: Chúng ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh chúng ta. Tại sao Thiên Chúa lại bảo: Chúng ta hãy dựng nên. Sở dĩ như vậy là vì Thiên Chúa có Ba Ngôi cùng nói và làm. Qua đó Ngài đã trao phó cho con người một công việc cao trọng, đó là chúc tụng Ba Ngôi trong cuộc sống của mình.
Nhưng con người đã chống lại ý định muôn thuở của Thiên Chúa. Vì sự bất tuân lệnh truyền mà con người đã phá hủy mất cái hình ảnh Thiên Chúa trong tâm hồn mình.
Nhưng may thay, Chúa Giêsu đã đến, nhờ việc nhập thể, Ngài đã sửa lại điều sai lỗi của ông bà nguyên tổ, Vì thế, trong đêm Giáng sinh, các thiên thần đã hát vang ngoài đồng vắng Bêlem: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình dan dưới thế cho người thiện tâm.
Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn tô lại hình ảnh của Thiên Chúa trong tâm hồn chúng ta và giúp chúng ta dâng lên Chúa Ba Ngôi lời chúc tụng tôn vinh. Cuộc canh tân nội tâm, cuộc đổi mới tự bên trong này được thực hiện cho chúng ta, nhờ công nghiệp Chúa Giêsu, vào lúc chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội, dưới tác động của Chúa Thánh Thần.
Chính vì thế, một khi đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta sẽ nói, không phải chỉ ở trên môi miệng mà còn ở thẳm sâu cõi lòng: Sáng danh Đức Chúa Cha Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần.
Bởi đó, ngày lễ Chúa Ba Ngôi phải là một ngày lễ giúp chúng ta tưởng nhớ đến Bí tích Rửa tội, vì nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con của Chúa Cha, em của Chúa Giêsu và đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Hơn nữa, Bí tích Rửa tội còn nói lên mối dây liên hệ giữa chúng ta và Chúa Ba Ngôi. Đây cũng là điều mà dấu thánh giá nhắc nhở cho chúng ta.
Thực vậy, khi làm dấu thánh giá, chúng ta hãy nhủ thầm: Tôi đã được rửa tội nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Vì thế, tôi phải chu toàn thánh ý Chúa Cha, thực hiện những lời giảng dạy của Chúa Con và thánh hóa bản thân với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần.
Đồng thời, ngày lễ Chúa Ba Ngôi ngày hôm nay, còn đem lại cho chúng ta niềm an ủi và khích lệ. Chúa Cha luôn nhìn xem chúng ta, yêu mến và giúp đỡ chúng ta. Chúa Con luôn khuyên nhủ chúng ta noi gương bắt chước Ngài, quảng đại chấp nhận những hy sinh, những gian khổ. Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta làm lành tránh dữ, trao ban cho chúng ta ánh sáng và sức mạnh.
Tại sao trong ngày hôm nay chúng ta không cầu xin cho được trung thành với những lời chúng ta đã đoan hứa trong ngày chịu phép rửa tội. Nếu chúng ta đã tuân giữ, thì thật là may mắn vì hạnh phúc nước trời đang chờ đón chúng ta, bằng không, thì thật là bất hạnh vì án phạt đời đời sẽ đè nặng trên chúng ta. Hãy nhớ lại lời đoan hứa mà cha mẹ đỡ đầu, thay mặt cho chúng ta đã nói lên trong ngày chúng ta chịu phép rửa tội. Tôi muốn là người con ngoan của Chúa Cha, người môn đệ trung thành của Chúa Giêsu, và người học trò nhỏ của Chúa Thánh Thần.
Ngày hôm nay, chúng ta không có cơ hội lấy máu đào, lấy mạng sống để làm chứng cho tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Nhưng trong cuộc sống, chúng ta có quá nhiều vấn vương, qúa nhiều níu kéo, quá nhiều cám dỗ, đòi buộc chúng ta phải thắng vượt, nếu chúng ta muốn trung thành với Chúa.
Chúng ta hãy tập cho mình có thói quen làm dấu thánh giá một cách trang nghiêm và sốt sắng, để tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, cũng như mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế và cứu độ chúng ta. Đồng thời hãy nhớ lại và tuân giữ nghiêm chỉnh những gì chúng ta đã đoan hứa trong ngày chúng ta chịu phép rửa tội.
Xin Chúa Cha toàn năng gìn giữ chúng ta. Xin Chúa Con đổ đầy tình yêu của Ngài trong lòng chúng ta và xin Chúa Thánh Thần luôn luôn soi sáng và hướng dẫn chúng ta trên đường nẻo dẫn tới quê trời.

44. Tình yêu.
Giáo lý về Chúa Ba Ngôi là một phần giáo lý rất cao siêu. Nhưng Kinh Thánh không dạy một giáo thuyết khi nói về Thiên Chúa. Qua các câu chuyện Kinh Thánh nói cho chúng ta biết về một Thiên Chúa là Cha nhân từ, nhưng cũng là một Đấng Tạo Hóa Toàn Năng đã dựng nên trời đất muôn vật. Một vài đoạn Kinh Thánh khác cũng cho thấy Thiên Chúa như một người mẹ hiền. Thiên Chúa đã trở nên một con người trong Đức Giêsu Kitô, Đấng là Con Thiên Chúa, và Ngài cũng là Thiên Chúa như Chúa Cha. “Người Con” này nói cho chúng ta biết về Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ được Chúa Cha và Chúa Con cử đến.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta tìm thấy công thức mà chúng ta vẫn sử dụng hàng ngày để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi đó là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Như vậy, Kinh Thánh mạc khải Thiên Chúa như một cộng đồng của tình yêu.
Vì Thiên Chúa là tình yêu nên Thiên Chúa không hiện hữu trong sự cô độc. Chúa Cha trao ban tất cả cho Chúa Con và Chúa Con Dâng hiến trọn vẹn cho Chúa Cha. Chúa Thánh Thần là tình yêu nối kết giữa Cha và Con để hình thành một cộng đồng Ba Ngôi. Trong cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, tình yêu của Chúa Cha được Chúa Con đón nhận và dâng hiến trở lại. Tình yêu hỗ tương giữa Cha và Con được trải rộng nhờ Chúa Thánh Thần để tạo nên một cộng đồng của tình yêu.
Bản chất của tình yêu là lan tràn. Vì thế, việc tạo dựng vũ trụ được xem như kết quả của tình yêu tràn trề của Thiên Chúa. Tất cả mọi thụ tạo và đặc biệt là con người được coi như đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. Trong tất cả mọi loài thụ tạo, con người gần gũi với Thiên Chúa hơn cả trong cách sống và tình yêu.
Nhưng con người vì một phần được tạo nên bởi vật chất, nên không có khả năng mở ra trọn vẹn cho người khác trong một tình yêu vị tha hoàn hảo được. Vì thế, Thiên Chúa đã trở nên con người trong Đức Giêsu Kitô để nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần mà cho con người vượt lên, đi vào một tương quan tình yêu tự do và vị tha với Thiên Chúa và với người khác. Được tái sinh trong phép rửa nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng ta được trao phó nhiệm vụ là trở nên tấm gương phản chiếu cộng đồng tình yêu của Chúa Ba Ngôi trong đời sống cá nhân cũng như cộng đoàn của chúng ta, một trách nhiệm lớn lao.
Lạy Chúa Ba Ngôi, con cảm tạ Chúa đã lôi kéo con vào trong tình yêu của Chúa. Xin cho con cũng biết yêu thương như Chúa đã yêu thương.

45. Hiệp thông.
Sau khi mùa Phục Sinh chấm dứt với đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Giáo hội nhìn lại chương trình cứu độ được Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử nhân loại và nhận ra rằng: nguồn ơn cứu độ chính là Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh thần. Vì thế, chúng ta hiểu tại sao ngày Chúa nhật mùa Thường niên tiếp ngay sau lễ Hiện Xuống, luôn luôn được Giáo hội dành riêng để mời gọi người Kitô hữu suy niệm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Trước hết, chúng ta có thể quả quyết: Chúng ta không thể biết gì về Chúa Ba Ngôi nếu chính Chúa Giêsu không dạy bảo cho chúng ta. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã không giảng bài nào, cũng không dùng hình ảnh nào để giải nghĩa cho chúng ta về đời sống hiệp thông giữa Ba Ngôi, nhưng có những sự việc và hoạt động cụ thể bày tỏ cho chúng ta biết có ba ngôi, hoạt động của từng ngôi và đời sống hiệp thông giữa ba ngôi, dựa theo diễn tiến cuộc đời Chúa Giêsu.
Công việc đầu tiên trong Tin Mừng cho biết về Chúa Ba Ngôi là khi sứ thần Gabriel đến báo tin cho Đức Maria: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ che chở bà, vì thế Hài Nhi bà sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Những lời đó cho chúng ta biết: Đấng tối Cao là Chúa Cha cùng với Chúa Thánh Thần sẽ lo cho Hài Nhi sắp sinh ra là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giocđan thì trời mở ra, Thánh Thần như chim bồ câu đậu xuống trên Ngài và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta”. Chim bồ câu chính Kinh Thánh đã cho biết là Chúa Thánh Thần, còn tiếng từ trời cao là tiếng Chúa Cha xác nhận và giới thiệu Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Trong hội đường ở Nagiarét, Chúa Giêsu đọc Kinh Thánh: “Thần Khí của Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi…” Thần Khí là Chúa Thánh Thần, còn tiếng “của Chúa” là Chúa Cha, cả hai sai Đức Giêsu đi loan báo Tin Mừng.
Khi 72 môn đệ đi truyền giáo về vui mừng báo cáo kết quả, thì Chúa Giêsu được Thánh Thần tác động, nên phấn khởi thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, là Chúa tể trời đất…” có đầy đủ ba ngôi.
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu hứa với các tông đồ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bào Chữa khác, đó là Thần Khí sự thật…” Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban Đấng Bào Chữa là Thần Khí sự thật, nghĩa là Chúa Thánh Thần cho các môn đệ.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ: “Rửa tội cho muôn dân nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”, nghĩa là làm phép rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi, để được hiệp thông với sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Ngoài ra, sách Tin Mừng còn nói đến sự hiệp thông giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha trong việc cầu nguyện và thi hành ý Chúa Cha, và sự hiệp thông giữa Chúa Giêsu với Chúa Thánh Thần như: “Đức Giêsu được đầy Thánh Thần… và Thánh Thần dẫn vào hoang địa, hoặc Chúa Giêsu thổi hơi vào các môn đệ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Qua những sự việc và hoạt động diễn tả mối hiệp thông giữa ba ngôi như trưng dẫn trên, Chúa Giêsu cho chúng ta biết: có ba ngôi, ba ngôi cùng một bản tính, mỗi ngôi có tương giao khác nhau với hai ngôi kia và có sứ mệnh riêng biệt, nhưng ba ngôi không tách rời nhau trong bản tính cũng như trong hoạt động, nên ba ngôi chỉ là một Thiên Chúa duy nhất chứ không phải là ba Chúa. Như vậy, chúng ta tin chỉ có một Thiên Chúa trong ba ngôi, và ba ngôi chỉ là một Thiên Chúa, và có cùng một bản tính, nhưng ba ngôi khác biệt nhau thực sự chứ không phải chỉ là ba danh hiệu. Mỗi ngôi có tương giao với hai ngôi kia cùng thực hiện những công trình sáng tạo và cứu độ, nhưng Ngôi Con là Đức Giêsu thì nhập thể cứu chuộc, và ngôi Thánh Thần thì nối tiếp công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu, để đem mọi người về hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Những điều trên đây là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm về bản tính của Thiên Chúa và cũng là tâm điểm của đức tin và đời sống người Kitô hữu. Quả thực, chúng ta đã được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi; tội lỗi chúng ta được tha thứ nhân danh Chúa Ba Ngôi; vợ chồng kết hôn do sự chúc phúc của Chúa Ba Ngôi; Chúa Ba Ngôi hiện diện trong hình bánh khi chúng ta rước lễ, vì ở đâu có Chúa Con thì ở đấy cũng có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần; chúng ta đón nhận sức mạnh của Chúa Ba Ngôi khi chịu phép Thêm sức; linh mục ban phép lành cho chúng ta cũng nhân danh Chúa Ba Ngôi; trên giường chờ đợi sự chết đến, linh mục phó linh hồn chúng ta cho Chúa Giêsu. Ngoài ra, Giáo hội còn dạy chúng ta trước khi làm hay sau khi làm một công việc gì chúng ta hãy làm nhân danh Chúa Ba Ngôi, để cầu xin, chúc tụng hay cảm tạ Chúa. Vì thế, Giáo hội tập họp chúng ta nhân danh Chúa Ba Ngôi, Giáo hội khởi đầu và kết thúc mọi kinh nguyện nhân danh Chúa Ba Ngôi, hoặc như ông Te-tu-liên nói: “Dầu khi thức dậy hay đi ngủ, dầu khi ăn hay làm một việc gì, anh em hãy bắt đầu bằng dấu thánh giá”. Dấu thánh giá là biểu hiệu mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Bất cứ điều gì đã gọi là mầu nhiệm, tức là đã khó hiểu rồi, về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi lại càng khó hiểu hơn. Nhưng khó hiểu mà chúng ta vẫn tin, và cũng vì thế mà mọi việc làm của chúng ta và cả cuộc sống chúng ta có ý nghĩa và có giá trị. Xin Chúa cho chúng ta luôn tin vững chắc mọi điều Chúa và Giáo hội dạy.

46. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Nếu hiểu rằng mầu nhiệm là những gì chúng ta chưa thể hiểu thấu, thì quả thực đời sống của chúng ta bị chìm đắn, bị bao phủ bởi biết bao nhiêu mầu nhiệm.
Thực vậy, chúng ta băn khoăn thắc mắc về tương lai hậu vận, để rồi có người đã đi hỏi ông thày bói, thế nhưng như tục ngữ đã diễn tả:
– Bói ra ma, quét nhà ra rác.
– Tay cầm tiền quí bo bo,
Đưa cho thày bói, thêm lo vào mình.
Rốt cuộc cũng chẳng giải quyết được gì. Hậu vận thì vẫn mịt mù, còn tương lai thì vẫn là một mầu nhiệm.
Chúng ta suy nghĩ về tình yêu, mà rồi cũng chẳng biết được cái tình là cái chi chi. Bao nhiêu người tôi gặp, bao nhiêu người tôi quen, mà sao trái tim tôi vẫn lạnh lùng băng giá. Thế rồi tới một lúc nào đó, trái tim tôi lại “lúc lắc” và chỉ lúc lắc với một người nào đó. Và tình yêu mãi mãi vẫn còn là một mầu nhiệm.
Ngoài ra, còn biết bao mầu nhiệm khác nữa. Nào là mầu nhiệm về sự sống, mầu nhiệm về sự chết, mầu nhiệm về thiên nhiên, mầu nhiệm về con người…Chúng ta cố gắng tìm tòi để thỏa mãn phần nào nhu cầu hiểu biết, cũng như để hạnh phúc cuộc đời được bảo đảm hơn.
Thế nhưng, có một mầu nhiệm rất quan trọng, khả dĩ có thể đem lại cho chúng ta lời giải đáp về số mệnh, về cuộc sống, mà chúng ta lại quên lãng, đó chính là mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Đây quả thực là một mầu nhiệm tuyệt vời, đến nỗi thánh Phaolô đã phải kêu lên:
– Ôi thẳm sâu thay sự khôn ngoan và phong phú của Thiên Chúa. Đường lối của Ngài cao cả lắm thay.
Ngày nay, mặc dù nhiều người không chối bỏ Thiên Chúa, nhưng lại coi Thiên Chúa như là đã chết, không còn tác động và ảnh hưởng tới sinh hoạt của cá nhân và xã hội. Đó chỉ là một vị Thiên Chúa vừa trừu tượng lại vừa xa lạ, bị đóng băng vào trong những ý niệm mang tính cách triết học.
Nhưng với chúng ta thì khác. Thiên Chúa vẫn còn mãi và Ngài luôn hiện diện. Ngài đã vén bức màn che phủ để hé mở cho chúng ta được hiểu biết về Ngài. Việc mạc khải, việc hé mở này được thự hiện nhờ Đức Kitô.
Thực vậy, nhờ Đức Kitô, chúng ta biết được rằng có một Thiên Chúa và Ngài có ba ngôi. Ngôi thứ nhất là Chúa Cha, Đng đã dựng nên chúng ta. Ngôi thứ hai là Chúa Con, Đấng đã cứu chuộc chúng ta và Ngôi thứ ba là Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa chúng ta.
Hơn thế nữa, cũng nhờ Đức Kitô chúng ta còn biết được rằng Thiên Chúa chính là một người cha hằng yêu thương, chăm sóc chúng ta cũng như lo lắng đến tương lại của chúng ta.
Phải chăng tâm trạng của chúng ta cũng giống như tâm trạng của các tông đồ khi lên tiếng hỏi Chúa Giêsu:
– Xin Thày chỉ cho chúng con biết Chúa Cha.
Và Chúa Giêsu đã trả lời:
– Ai thấy Thày là thấy Cha.
Như vậy, Thiên Chúa Cha đã tỏ mình ra nơi Đức Kitô. Và cùng với Đức Kitô, chúng ta có thể mừng vui kêu lên rằng: Abba, cha ơi.
Trong một trận cuồng phong, con thuyền chao qua đảo lại, khiến mọi hành khách đều khiếp sợ, tuy nhiên có một em nhỏ vẫn bình tĩnh ngồi chơi trong một xó góc. Người ta hỏi em:
– Tại sao em không sợ hãi.
Em trả lời:
– Làm sao cháu có thể sợ hãi khi chính ba cháu là người đang điều khiển con tàu.
Cũng thế, tại một thành phố nọ đã xảy ra động đất dữ dội, mọi người đều run sợ kinh hoàng. Thế nhưng, có một bà cụ rất bình tĩnh đi lại chăm sóc cho các nạn nhân, mặc dù nhà của bà cũng đã bị sụp đổ. Người ta hỏi bà tại sao, bà trả lời:
– Không khi nào tôi run sợ, trái lại tôi luôn bình an, bởi vì Thiên Chúa là Cha của tôi, Ngài có thể lay chuyển cả nền móng trái đất.
Hãy xác tín rằng: Thiên Chúa là Cha nân từ. Ngài nắm giữ toàn bộ con người và cuộc sống của chúng ta trong bàn tay đầy quyền năng và yêu thương của Ngài.

47. Chúa Nhật Ba Ngôi
1. Chúng ta thường nghe câu ca dao quen thuộc nói về đời sống hôn nhân và gia đình: “Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai”, vợ chồng cần phải có những điểm chung, nhưng cũng phải có những điểm riêng biệt, hoà hợp trong dị biệt là điều cần thiết trong đời sống hôn nhân nói riêng và đời sống con người nói chung. Sự hiệp nhất này muốn được bền vững phải được khởi nguồn và theo gương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
2. Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu, là một điều vượt quá sự hiểu biết của loài người, nhưng chúng ta vững tin vào chân lý này, bởi đây là điều chính Đức Giêsu đã dạy chúng ta. Đoạn Tin Mừng theo thánh Mátthêu chúng ta vừa nghe kể lại việc Đức Giêsu Phục Sinh hẹn các môn đệ đến một ngọn núi miền Galilê. Ở đó Người tuyên bố rằng: Người đã được Chúa Cha trao cho toàn quyền trên trời dưới đất và Người sai các ông đi khắp nơi thâu nạp môn đệ, làm phép rửa cho họ “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần “,
Trong khi rao giảng bằng nhiều lần và nhiều cách Đức Giêsu đã mạc khải mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, nhưng đặc biệt qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy rất rõ về mầu nhiệm này: chỉ có một Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4,7.16), nhưng Người có Ba Ngôi riêng biệt: Ngôi thứ Nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con, Ngôi thứ Ba là Thánh Thần. Vì Ba Ngôi cùng chung một bản tính Thiên Chúa và cùng một quyền năng, nên trong Ba Ngôi không có vấn đề Ngôi nào lớn hơn.
Chúng ta thường nghĩ tín điều Ba Ngôi quá khô khan, như một công thức toán học: Ba Ngôi một Chúa, một Chúa Ba Ngôi. Nhưng suy nghĩ một chút, chúng ta dễ thấy đây không phải là một công thức khô khan, mà là suối nguồn yêu thương, hiệp nhất trong đó mỗi Ngôi vẫn giữ đặc nét của mình. Tình yêu và sức sống của Ba Ngôi được lan toả cho cả vũ trụ vạn vật, nhất là cho con người của chúng ta.
3. Xã hội, gia đình ngày hôm nay dễ bị xáo trộn, bất đồng… tại sao, hẳn do nhiều nguyên nhân, trong đó chính yếu là do thiếu sự thông cảm, hiểu biết nhau. Quốc gia, đoàn thể, cá nhân thường chỉ nghĩ đến quyền lợi của mình là trên hết, bất chấp đến nước khác, nhóm khác, người khác.
Vậy hãy nhìn vào Thiên Chúa Ba Ngôi là mẫu gương về hiệp nhất: Ba Ngôi một Chúa, một sự hiệp nhất trong tình yêu, vì mỗi Ngôi quá sức yêu thương hai Ngôi kia nên đã trở nên một. Cũng vậy, nếu loài người biết lấy tình thương đối với nhau, biết đặt quyền lợi của kẻ khác không dưới quyền lợi của mình, hẳn chắc là không có hận thù, chiến tranh, giết chóc… Nếu trong cộng đoàn hay trong gia đình người này biết lo cho người kia, nghĩ đến ý muốn, hạnh phúc của người kia – như Ba Ngôi hướng về nhau, luôn làm đẹp lòng nhau – thì chắc sẽ tạo dựng được một cộng đoàn, một gia đình hạnh phúc dù cho có nhiều thành viên trong đó. Tình yêu đã liên kết Ba Ngôi nên một, cũng vậy theo gương Thiên Chúa Ba Ngôi, trong đời sống hôn nhân gia đình hay cộng đoàn, nếu các thành viên thực sự có bác ái, yêu thương thì mọi sinh hoạt hằng ngày hẳn sẽ được tốt đẹp, như chúng ta thường nghe nói: “Thống nhất trong việc lớn, tương nhượng trong việc nhỏ, bác ái trong mọi việc”.
Cách chung, ai cũng muốn mình có một vị thế nơi xã hội, cộng đoàn, gia đình. Vậy sự hiệp nhất có làm mất đi sự đặc thù, riêng biệt của cá nhân hay không? Hãy nhìn vào Thiên Chúa Ba Ngôi: vì không tách rời trong hữu thể, nên các Ngôi không tách rời trong hành động, tuy nhiên mỗi Ngôi biểu lộ đặc tính riêng của mình, như vậy vừa có sự hiệp nhất ; nhưng vẫn có sự riêng biệt, Hội thánh vẫn tuyên xưng “Một Thiên Chúa là Cha, Đấng tạo thành mọi sự, một Đức Giêsu Kitô, cùng đích của mọi sự, và một Chúa Thánh Thần, trong Người muôn vật được hiện hữu”, (x. Cđ Constantinople II: DS 421).
Hay trong các lớp giáo lý, chúng ta vẫn nghe nói: Chúa Cha dựng nên ta, Chúa Con cứu chuộc ta, và Chúa Thánh Thần thánh hoá ta. Sự riêng biệt này nhắc nhở từng người trong chúng ta phải cố gắng lo chu toàn bổn phận của mình, sống đúng vai trò của mình. Là vợ, là chồng phải yêu thương, trung thành, chung thủy với nhau. Là cha, mẹ phải sống đúng tư cách và cố gắng làm bổn phận của người cha, mẹ. Là con cái cũng phải sống đúng vai trò và phận vụ của người con như vâng lời, hiếu thảo… nếu sống như thế mới thật là “chính danh” và “chính phận”.
4. Nhờ bí tích Rửa tội, nhân danh “Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, mỗi chúng ta được mời gọi chia sẻ sự sống của Ba Ngôi diễm phúc, kể từ đó ta có “chính danh” là Kitô hữu ; nhưng ta có thực hiện “chính phận” không, nghĩa là có cố gắng sống xứng đáng là người con Chúa hay không (x. Ga 14,29)?Có sống yêu thương, hiệp nhất ngay cả với người thân, gần gủi với mình hay không? Không những chúng ta được mời gọi dự phần vào sự sống của Ba Ngôi, mà theo lệnh truyền của Đức Giêsu, như đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, mỗi người chúng ta còn có nhiệm vụ đem sự sống viên mãn của Chúa Ba Ngôi đến cho tha nhân nữa. Chúng ta đã làm gì để cộng tác với Thiên Chúa Ba Ngôi trong chương trình cứu độ này?

48. Mầu nhiệm tình yêu.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo, Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là 3; 1 là 1. Không tính với toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà ví von. Thậm chí con người nói rằng; là như thế là đùa bỡn với Thiên Chúa, còn tệ hơn phủ nhận Ngài.
Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Chúa Giêsu Kitô. Nếu Chúa không dạy bảo thì loài người không thể nào biết được. Cho tới trước khi Chúa Kitô đến, loài người không có một ý niệm nào, dân Do thái, dân riêng của Chúa, cũng không biết gì về mầu nhiệm này. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Giêsu, trong đời sống công khai giảng dạy đã mạc khải dần dần, tức là Ngài đã dần dần vén lên bức màn của mầu nhiệm này.
Ngài cho biết; Chúa Cha là Thiên Chúa, còn ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, nghĩa là Ngài cùng bản tính với Chúa Cha, Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài cũng cho biết: Chúa Thánh Thần là Đấng Ngài và Chúa Cha sai đến, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt nhau chứ không phải là ba Chúa.
Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm và mãi mãi vẫn là mầu nhiệm. Vậy tại sao Chúa Giêsu lại mạc khải cho chúng ta một mầu nhiệm quá cao siêu như thế? Chắc chắn không phải là để thử thách thiện chí của con người, hoặc để xây lên bức tượng chặn đứng suy luận và óc tưởng tưởng của con người. Nhưng vì Chúa muốn chúng ta hiểu biết đời sống nội tại của Thiên Chúa, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nói lên điều đó.
Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một công thức khác để nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, nghĩa là ban cho con người được hạnh phúc như Chúa. Nhưng con người đã phạm tội phản nghịch đánh mất hạnh phúc. Thiên Chúa không từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban con yêu dấu của Ngài để cứu chuộc. Và vì yêu thương con người, Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian thực hiện sứ mệnh yêu thương đó. Và khi hoàn tất, Ngài về trời, Ngài đã sai Thánh Thần đến để tiếp tục công việc của Ngài, công việc yêu thương. Nhờ Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa tiếp tục được bày tỏ mãi cho tới chúng ta hôm nay và mãi về sau nữa.
Cho nên, khi mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội Không chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa không khép kín lại trong Ba Ngôi, nhưng đã trào tràn trên mọi thụ tạo, thì tình yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Sống yêu thương là cách diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Chúa; đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương và hiệp nhất.
Ngày kia, có một đan viện phụ tìm đến một thiền sư. Vị đan viện phụ buồn rầu cho biết tình trạng bi đát của tu viện mình và xin ý kiến. Trước đây, tu viện là một trung tâm hành hương lớn, thu hút không biết bao nhiêu tâm hồn mộ đạo. Nhưng bây giờ tu viện gần như đã trở thành ngôi chùa trống vắng. Nghe xong vị thiền sư nói: “Tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn là tội vô tình. Thiên Chúa đã cải trang thành một người giữa chư vị, nhưng chư vị đã vô tình không nhận ra Ngài”. Khi biết điều đó, trong tu viện, mọi người đều thắc mắc không biết ai trong số những thành viên của tu viện là Thiên Chúa đã cải trang. Và từ đó ai cũng đối xử với nhau như đối xử với chính Chúa. Không mấy chốc, bầu khí yêu thương, huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện.
Mạc khải lớn nhất mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta, đó là Thiên Chúa Cha yêu thương chúng ta vô cùng. Tình yêu của Ngài là một lời mời gọi. Ngài muốn chúng ta lên đường, nói theo Con Một của Ngài: sống yêu thương nhau, vì tất cả đều là anh chị em, con cùng một Cha. Thiên Chúa hằng mời gọi chúng ta tham dự vào cuộc sống của Ngài, cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, một cuộc sống của tình yêu thương, có nghĩa là Ngài kêu gọi chúng ta hãy sống hiến thân cho anh em, đừng sống ích kỷ cho riêng mình, nhưng hãy mở rộng đôi tay, mở rộng tầm nhìn, nới dài đôi chân và mở rộng tấm lòng đến với mọi người chung quanh.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, bằng cách sống yêu thương nhau. Và sống yêu thương nhau là cách thế tuyên xưng mầu nhiêm Chúa Ba Ngôi vậy.

49. Ở cùng anh em.
Đôi khi, một người chăm sóc có thể làm cho một người nào đó, chỉ là sự hiện diện bên người này mà thôi. Nhưng đây là một điều quan trọng, bởi vì giúp cho người đang đau khổ có được một quan hệ đồng hành vững vàng. Để nhận biết được điều này, chúng ta phải nhận biết có một Đấng luôn săn sóc con người, làm cho thế giới khác biệt hẳn, giải thoát người đau khổ khỏi cảm giác bị bỏ rơi.
Đức Giêsu ủy thác cho các tông đồ của Người sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc, Người còn nói với họ là sẽ luôn luôn ở cùng họ. Đó là tất cả những gì mà Người có thể hứa hẹn với họ. Người nói một cách đơn giản “Thầy sẽ luôn ở cùng anh em… cho đến tận thế”. Không còn lời đảm bảo nào khác nữa, mà chỉ là “Anh em hãy tin tưởng vào Thầy. Thầy sẽ luôn ở cùng anh em”.
Nhưng đây là lời đảm bảo quan trọng nhất, mà Người có thể ban cho họ. Mặc dù lời nói này không đảm bảo tránh cho họ một cuộc sống khỏi bị rắc rối, và cũng không mang lại cho họ một cuộc sống thành công; họ biết rằng miễn là Đức Giêsu ở với họ, thì họ sẽ có lòng can đảm và sức mạnh, để đương đầu với bất cứ khó khăn nào ở phía trước.
Đối với chúng ta, cảm giác về sự hiện diện của Đức Giêsu ở với chúng ta không làm thay đổi được thế giới, nhưng sự hiện diện của Người có thể ban cho chúng ta lòng can đảm để đương đầu với thế giới. Chúng ta không cầu xin Thiên Chúa thay đổi thế giới, để làm cho cuộc sống dễ dàng hơn đối với chúng ta, trong khi chúng ta đang đối phó với một số hoàn cảnh khó khăn mà thôi. Sự gần gũi của Thiên Chúa che chở chúng ta khỏi cảm giác bị bỏ rơi thất vọng.
Theo truyền thống Kinh Thánh, Credo (Kinh Tin Kính) của những người đạo đức là niềm tin vững vàng của họ vào sự hiện diện của Thiên Chúa nơi họ. Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ những người ngay chính, nhưng Người ban cho họ phần thưởng ở cuộc sống mai sau.
Theo thời gian, không phải lúc nào những người đi theo Đức Giêsu cũng luôn luôn cư xử với nhau theo cách thế mà các Kitô hữu nên làm. Đã có những cuộc cãi vã nhau giữa họ, đưa đến hậu quả là ngày nay, chúng ta không chỉ có một Giáo hội Công giáo, mà còn có đến mấy Giáo hội Công giáo. Tuy nhiên, bất chấp những sa ngã của những kẻ đi theo Người, và nhiều cuộc bắt bớ khủng khiếp. Tin Mừng vẫn đến với chúng ta qua 2000 năm. câu giải nghĩa cho điều này chắc chắn nằm ở lời hứa của Đức Giêsu “Thầy sẽ luôn ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta. Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng ở với Thiên Chúa. Cuộc sống bận rộn của chúng ta làm cho chúng ta mất quan hệ với Thiên Chúa. Khi mất quan hệ với Người, thì nơi chúng ta, xảy ra một sự mất mát rất lớn. Chúng ta nên chú tâm vun xới ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa, và nuôi dưỡng ý thức này bằng lời cầu nguyện.

50. Tin tưởng.
Người ta tìm thấy lời cầu nguyện sau đây trên xác của một người lính trẻ, đã bị tử nạn trong thế chiến I:
“Lạy Thiên Chúa, trước đây con chưa bao giờ nói chuyện với Chúa, nhưng nay con muốn được kính chào Người. Người ta nói với con rằng Chúa không hề hiện hữu, và giống như một kẻ điên rồ, con đã tin vào điều đó. Nhưng đêm hôm qua, con nhìn lên bầu trời qua một cái lỗ của quả đạn pháo. Khi nhìn thấy vẻ đẹp của các ngôi sao, con nghĩ rằng vũ trụ thật bao la. Con biết rằng người ta đã nói dối con.
“Con thắc mắc không biết Chúa có bắt tay với con, khi chúng ta gặp nhau không? Không biết bằng cách nào, mà con cảm thấy rằng Chúa thấu hiểu tất cả những sa ngã của con. Thật kỳ lạ, khi con người phải đến cái nơi khủng khiếp này, thì mới nhận ra được Người. Con sẽ làm gì trước cảm giác này đây?
“Không có gì để nói nhiều hơn nữa, nhưng con biết chắc chắn rằng con vui mừng vì hôm nay, con được nhận biết Chúa. Con cảm thấy rằng chẳng bao lâu, giờ quyết định sẽ xuất phát từ nơi đây. Đây là một cuộc chiến đấu khủng khiếp. Ai biết rằng chỉ có con sẽ đến nhà của Người trong đêm nay.
Con đang kêu gào! Ôi con đang kêu gào! Con không bao giờ nghĩ rằng điều này có thể xảy đến với con. Bây giờ con phải ra đi. Thật kỳ lạ, kể từ khi con được gặp Chúa, con không còn sợ chết nữa”.
Thật đáng buồn vì người lính trẻ đó nhận biết Thiên Chúa quá trễ. Nhưng người ta nói rằng thà trễ còn hơn là không bao giờ. Khi chúng ta tự cho phép mình đánh mất quan hệ với Thiên Chúa, thì sẽ xảy ra một sự mất mát quá lớn. Tác giả Salman Rushdie nói “Khi tôi còn trẻ, tôi sống đạo đức một cách không ý thức. Nhưng hiện nay thì không, tôi đã có ý thức về khoảng không gian nơi Thiên Chúa ngự”.
Khi con người mất quan hệ với Thiên Chúa, thì phần lỗi không thuộc về Thiên Chúa. Bài đọc 1 chứng tỏ rằng Thiên Chúa đã đi vào một mối quan hệ thân mật và đầy yêu thương đối với dân của Người. Trong bài đọc 2, mối quan hệ này thậm chí lại càng trở nên thân mật hơn. Chúng ta không chỉ là những thành viên của dân Thiên Chúa, mà còn là con cái, là những thành viên trong gia đình của Người. Mặc dù mối quan hệ gia đình có sự ràng buộc, nhưng các ân sủng tuôn chảy từ mối quan hệ này thật lớn lao. Chúng ta là những kẻ đồng thừa tự với Chúa Con trong nước trời.
Chúng ta thật cô đơn, nếu không biết Thiên Chúa. Con người tìm kiếm sự an toàn nơi sự giàu có, những của cải sở hữu, các mối tương quan v.v…Nhưng Thiên Chúa chính là nơi nương ẩn cuối cùng. Những ai để cho Thiên Chúa chi phối, thì bắt đầu được cảm nếm sự an bình không thể hiểu hết được. Con người không thể sống hạnh phúc, trừ phi có lòng đạo đức, và người ta không thể sống đạo đức được, nếu không có Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã vén mở bức màn về mầu nhiệm của Thiên Chúa. Chúng ta không còn ở xa nữa, mà đã được đưa vào gia đình của Thiên Chúa. Chúng ta có một Người Cha luôn quan tâm săn sóc chúng ta, chúng ta có một Người Anh Cả đã chịu chết vì chúng ta, và có một Đấng an ủi luôn hướng dẫn chúng ta suốt hành trình đến cuộc sống đời đời.

51. Cửa sổ.
Một người đàn ông bị bắt giam vào nhà tù. Ông ta chỉ được nhìn ra thế giới bên ngoài, thông qua một cửa sổ nhỏ cao trên tường. Lúc đầu, ông ta ghét cảnh bị giam hãm, và coi thường tầm nhìn khốn khổ mà ông ta có về thế giới bên ngoài, đó là thế giới duy nhất mà ông ta tin tưởng.
Nhưng thời gian qua đi, và cái cửa sổ nhỏ đó đã trở thành một người bạn của ông. Thật vậy, mặc dù nó chỉ cho ông một mẩu cuộc sống nhỏ xíu – một làn mây, một máy bay vụt bay qua, một chiếc lá rơi, một giọt nước mưa, một bông tuyết…, nhưng ông nhận ra rằng nó không phải là một đồ vật xấu xa gì. Ô cửa sổ đó bắt buộc ông phải tập trung vào những điểm đặc biệt, và biến cái nhỏ nhoi trở thành cái lớn lao. Ông kinh ngạc khám phá ra rằng thông qua một mẩu vật nhỏ bé như thế, làm thế nào mà cuộc sống lại có thể thật phong phú đến thế. “Nhìn qua một khe hở, không lạ gì khi có cả một bầu trời quá rộng lớn ở đó” (Patrick Kavanagh).
Đôi khi, khung cảnh từ cửa sổ lại nông cạn và mờ đục. Dường như thế giới kết thúc ngay tại khung cửa sổ. Nhưng những lúc khác, cửa sổ lại mở ra một bầu trời trong xanh và trống trải. Thế rồi cửa sổ còn mở vào cõi vô biên, và ông cảm thấy bên trong con người ông bừng tỉnh những ước muốn siêu việt, mà ông không bao giờ biết rằng những ước muốn này muốn có ở đó. Vì thế, cái cửa sổ đó đã giúp ông đánh giá được những sự vật ở trên cõi trời, cũng như ở dưới mặt đất.
Cuối cùng, ông được phóng thích. Tất nhiên là khi được phóng thích, ông sẽ có được nhiều thứ. Bây giờ, tất cả mọi sự đều sẵn có đối với ông. Nhưng ông lại có khuynh hướng nhìn vào tất cả mọi sự một cách chung chung, và không có gì là đặc biệt cả. Và ông cũng cảm thấy là mình bị mất mát. Ở trong tù, ông có được một chiều kích siêu việt về cuộc sống của mình. Thế giới, “bên ngoài” rất quan trọng đối với ông. Ông gia tăng tình yêu đối với cảm giác rằng có một thế giới khác vĩ đại hơn nhiều, so với thế giới hiện tại của ông. Hiện nay, ông e sợ rằng một khi đã bị nhận chìm do sự tầm thường, thì cảm giác này, ước muốn này sẽ quay trở lại với giấc ngủ im lìm, hoặc sẽ chết đi vì sự thờ ơ.
Đức tin cung cấp cho chúng ta một khung cửa sổ để nhìn ra bên ngoài. Đức tin mở ra cho chúng ta một lối đi đến một thế giới khác – thế giới của cõi đời đời, thế giới của Thiên Chúa. Nhưng sự bận bịu của chúng ta đối với cuộc sống tại – đây – và – trong – lúc này có thể tước đoạt của chúng ta “bên ngoài”, có thể kéo một bức màn che mất khung cửa sổ. Tuy nhiên, mặc dù chúng ta có thể chôn vùi những ước muốn siêu việt của mình, nhưng chúng ta không thể dập tắt chúng được.
Khi chúng ta tự cho phép mình đánh mất quan hệ với Thiên Chúa, thì sẽ xảy ra một sự mất mát rất lớn. Tác giả salman Rushdie nói “Khi tôi còn trẻ, tôi sống đạo đức một cách không có ý thức. Nhưng hiện nay thì không, tôi đã có ý thức về khoảng không gian nơi Thiên Chúa ngự”.
Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta có ước muốn chiếm hữu được một cái gì đó ở bên ngoài thế giới mà chúng ta đã biết, bên ngoài bản thân chúng ta, thậm chí vượt ra khỏi sức tưởng tượng của chúng ta. Đây là nơi mà đức tin của chúng ta vươn tới.
Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Trong Thiên Chúa là Cha, chúng ta có một Người Cha luôn quan tâm săn sóc chúng ta, chúng ta có một Người Anh Cả đã chịu chết vì chúng ta, và có một Đấng An ủi luôn hướng dẫn chúng ta đến với vương quốc vĩnh cửu.

52. Dấu Thánh Giá
“Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Chúng ta mở đầu như thế có nghĩa là chúng ta nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi để bắt đầu bài chia sẻ này. Không phải riêng tôi mà tất cả mọi Kitô hữu đích thực, khi làm một việc gì đều muốn làm trong ý nghĩa đó, tức là mỗi khi bắt đầu một công việc gì chúng ta luôn làm dấu thánh giá. Một nhà văn Kitô giáo ở thế kỷ thứ hai, Ông Tertulianô đã viết: “Dù khi thức dậy hay đi ngủ, dù khi ăn hay khi làm một việc gì quan trọng, hãy bắt đầu bằng dấu thánh giá”. Lời khuyên đó cho thấy việc làm dấu thánh giá đã có ngay từ những ngày đầu của Giáo Hội. Thánh Phaolô cũng thường mở đầu và kết thúc các thư của ngài một cách tương tự: “Nguyện xin ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em”.
Người Kitô hữu biểu lộ thánh giá ra bên ngoài để tuyên xưng đức tin và tôn vinh Chúa. Cũng có trường hợp vì tôn trọng thái độ tôn giáo của người khác, chúng ta chỉ thầm nguyện ở trong lòng mà không làm dấu thánh giá bên ngoài. Nhưng cách này hay cách kia, chúng ta đều ý thức rằng chúng ta đang làm mọi việc nhân danh Thiên Chúa để tôn vinh Ngài, như lời Kinh Thánh dạy: “Dù ăn, dù uống, dù làm việc gì, anh em hãy làm mọi sự để tôn vinh Thiên Chúa”. Đặc biệt hôm nay chúng ta đề cập đến dấu thánh giá để nói về Chúa Ba Ngôi, để nói lên lòng chúng ta tin nhận một Thiên Chúa độc nhất có Ba ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Trước hết, chúng ta phải nói ngay: Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm quan trọng vĩ đại nhất của đạo Công giáo: một mầu nhiệm thuộc đời sống thâm sâu của Thiên Chúa mà con người không có quyền cũng như không có khả năng đạt tới, chỉ có Con Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta biết mà thôi. Bởi vì mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm về đời sống thâm sâu của Thiên Chúa, tức đời sống yêu mến của Thiên Chúa, cho nên chỉ được mặc khải trong thời Tân Ước, là thời yêu mến, và do chính Con Một Thiên Chúa là hình ảnh, là tình yêu của Đức Chúa Cha.
Đại khái mầu nhiệm ấy được diễn tả như sau: Chúa Cha chiêm ngưỡng chính mình thì có một hình ảnh, một ý nghĩ, một tâm tình, một lời về mình. Hình ảnh, ý nghĩa, hay kiến thức hoặc tâm tình ấy là Ngôi Hai hay Ngôi Lời. Thế rồi hai ngôi chiêm ngưỡng và yêu nhau làm phát xuất ra một mối tình hay một tình yêu. Tình yêu đó là chính Ngôi Ba: Chúa Thánh Thần.
Khó hiểu quá phải không? Đúng vậy, mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu và mãi mãi vẫn là khó hiểu. Chúng ta biết được như thế là do chính Chúa Giêsu đã mặc khải, các tông đồ đã truyền dạy và cả Giáo Hội không ngừng tuyên xưng như vậy. Giáo Hội toàn cầu đã nhóm họp nhiều công đồng để xác định rõ đức tin của mình về Thiên Chúa Ba Ngôi. Các Công Đồng quan trọng nhất đã định tín về chân lý này là công đồng Ni-xê-a năm 325, Công Đồng Constantinopoli năm 381, công đồng Latran IV năm 1215, công đồng Lion II năm 1274, công đồng Floren năm 1439.
Mầu nhiệm Ba Ngôi được coi như một công thức mà Giáo Hội sử dụng trong tất cả mọi sinh hoạt: từ một dấu thánh giá, một phép lành cho đến một lời thề long trọng hay một bí tích. Tất cả đều bắt nguồn ở công thức duy nhất Chúa Kitô đã dùng để ban truyền mệnh lệnh rửa tội cho muôn dân trước khi Ngài lên trời. Trong đời sống một người tín hữu, ngay từ khi chưa chào đời cho đến khi chết rồi, biết bao nhiêu lần công thức ấy đã được đọc trên mình chúng ta kèm với dấu thánh giá hay một nghi thức hoặc cử chỉ nào khác. Nhưng vì là một công thức, cho nên khi nghe đến hay đọc lên, nhất là sau khi đã lặp đi lặp lại nhiều lần, chúng ta không còn cảm thấy gì nữa, công thức ấy đã được nhắc tới một cách máy móc, vô ý thức, đôi khi còn thiếu tôn kính nữa. Vì vậy, chúng ta cần sửa chữa lại điều không tốt đẹp ấy và quyết tâm từ nay mỗi khi làm dấu thánh giá chúng ta sẽ làm một cách ý thức và tôn kính.

53. Tình yêu.
Thánh Gioan đã định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu. Hay nói cách khác Thiên Chúa chính là nguồn gốc của mọi tình yêu, Thiên Chúa là mẫu mực cho mọi tình yêu.
Thiên Chúa là tình yêu có nghĩa là không có nơi nào tình yêu được trọn vẹn hoàn hảo cho bằng tình yêu nơi Thiên Chúa. Vì thế suy gẫm về tình yêu Thiên Chúa có thể giúp ta rút ra được những gương mẫu cho tình yêu loài người.
Vậy hôm nay, dịp lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta hãy suy gẫm về tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa có những đặc điểm gì?
1. Đặc điểm thứ nhất là tình yêu của Thiên Chúa không cô độc.
– Thiên Chúa không phải chỉ có một Ngôi tự yêu thương mình, nhưng Thiên Chúa có Ba Ngôi yêu thương nhau.
– Điều đó cho thấy yêu thương phải có đối tượng. Yêu thương thì là phải yêu thương ai khác mình, ngoài mình. Yêu thương không có đối tượng là yêu thương chính mình, đó là ích kỷ, nếu không muốn nói là bệnh hoạn. Ngày xưa có một anh chàng tên là Narcisse không yêu thương ai hết ngoài chính bản thân anh ta, anh yêu mình đến nỗi một hôm nhìn thấy bóng dáng mình phản chiếu trên mặt nước một cái giếng, anh xúc động quá nhảy tùm xuống giếng để ôm lấy hình ảnh của mình và phải chết đuối. Về sau người ta đặt tên chứng bệnh tự yêu thương mình là chứng bệnh Narcisse.
– Nhưng tại sao yêu thương cần phải có đối tượng? Thưa cần có đối tượng để mà chăm sóc, phục vụ, âu yếm, ban phát… nói tóm lại để mà cho đi. Yêu thương là cho đi. Khi ta yêu thương ai, ta thích cho người đó hoặc cái này hoặc cái nọ: khi thì cho một món quà, khi thì cho một sự chăm sóc, khi thì cho một cử chỉ âu yếm, yêu thương cao độ nhất là cho người ấy chính bản thân mình. Cho đi thì hạnh phúc hơn là lãnh nhận. Vì thế ai yêu thương thật thì thích cho đi, trái lại kẻ nào thích lãnh nhận hơn thì là dấu kẻ đó còn ích kỷ chưa yêu thương thật.
2. Đặc điểm thứ hai của tình yêu Thiên Chúa là vừa có sự khác biệt vừa có sự hợp nhất.
– Chỉ có một Thiên Chúa nhưng lại có Ba Ngôi. Tuy có 3 Ngôi nhưng chỉ là một Thiên Chúa.
– Có câu thơ “Mình với ta tuy 2 mà 1, ta với mình tuy 1 mà 2”.
Ap dụng vào tình yêu Thiên Chúa thì câu này có thể đổi lại là: Mình với ta tuy 3 mà 1”, hơi gượng ép một chút nhưng cũng đồng một ý nghĩa.
– Ý nghĩa đó là: Thiên Chúa có ba Ngôi hoàn toàn riêng biệt nhau: Ngôi Cha là Đấng tạo dựng vũ trụ, Ngôi Con là Đấng cứu chuộc loài người và Ngôi Thánh Thần là Đấng thánh hóa loài người. Nhưng dù khác biệt nhau mà Ba Ngôi không đối nghịch nhau, trái lại hoàn toàn hợp nhất với nhau đến nỗi cả 3 chỉ là 1 Thiên Chúa.
– Điều đó có nghĩa là: Yêu thương thì phải chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau. Tuy nhiên những kẻ yêu thương nhau thì cho dù khác biệt nhưng không được đối nghịch xung khắc với nhau, mà phải hòa hợp với nhau.
Xin tóm lại những gì đã phân tích được từ tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi:
. Yêu thương là cho đi.
. Yêu thương là chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau.
. Yêu thương là dù có khác biệt nhưng vẫn hòa hợp với nhau.

54. Ba bộ mặt.
Khi quảng diễn về năng lực mặt trời, Denis Hayes, một nhà môi trường học, nhận xét rằng mặt trời đang chiếu sáng trái đất chúng ta. Nó cũng sưởi ấm cho trái đất chúng ta. Giờ đây nó sẵn sàng và đang chờ đợi để năng lực hóa những hoạt động của trái đất chúng ta.
Chúng ta có thể nghĩ rằng mặt trời như là một người bạn vĩ đại, quảng đại trên bầu trời, có gồm ba bộ mặt. Mỗi bộ mặt mỉm cười trên chúng ta theo mỗi phương thức khác nhau. Và mỗi nụ cười là kết quả đem lại những điều lành mạnh cho chúng ta.
Bộ mặt đầu tiên mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những ánh sáng chiếu rọi trái đất chúng ta. Bộ mặt thứ hai mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những tia sức nóng để sưởi ấm trái đất chúng ta. Bộ mặt thứ ba mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những tia sức mạnh để năng lực hóa trái đất chúng ta.
Chỉ có một người bạn duy nhất trên bầu trời, thế nhưng người bạn duy nhất này có ba bộ mặt khác nhau. Và khi mỗi bộ mặt mỉm cười, nó chúc phúc cho chúng ta theo một phương thức đặc biệt.
Những nhận định của Hayes về mặt trời đưa ra một cuộc giới thiệu hiệu nghiệm cho ngày Lễ mà chúng ta mừng kính hôm nay: Lễ Chúa Ba Ngôi.
Đơn giản hóa, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nghĩa là trong Thiên Chúa có ba ngôi vị khác nhau. Thiên Chúa Cha là Thiên Chúa. Thiên Chúa Con là Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Thế nhưng, không phải là ba Thiên Chúa, nhưng một Thiên Chúa duy nhất.
Chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa theo phương thức mà chúng ta nghĩ về mặt trời: như là có ba bộ mặt.
Trước tiên, bộ mặt của Thiên Chúa như là Thiên Chúa Cha. Khi bộ mặt Thiên Chúa là Cha mỉm cười, nó đưa đến nguồn gốc của chúng ta và nguồn gốc của tất cả mọi sự: từ hàng vạn ngôi sao lấp lánh trên bầu trời đến những con chim trời hót líu lo, rồi đến muôn vàn thứ cá trong biển cả.
Thứ đến, bộ mặt Thiên Chúa như là Thiên Chúa Con. Khi bộ mặt Thiên Chúa như là Con mỉm cười, thì xảy ra là Thiên Chúa từ trời xuống thế làm người, chia sẻ bản tính nhân loại của chúng ta, đi với chúng ta, và chỉ tỏ cho chúng ta phải sống và yêu thương như thế nào.
Sau cùng, bộ mặt Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần. Khi bộ mặt Thiên Chúa như là Thánh Thần mỉm cười, thì điều đó đưa Thiên Chúa vào nội tâm chúng ta, cư ngụ trong đó, làm cho chúng ta trở nên những đền thờ của Đấng Tối Cao – dùng hình ảnh của Thánh Phaolô: “Anh chị em không biết rằng thân thể anh chị em là đền thờ của Chúa Thánh Thần trong anh chị em hay sao?”
Và như thế, chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa giống y như là chúng ta nghĩ về mặt trời: như là người bạn vĩ đại yêu mến có ba bộ mặt. Bộ mặt Thiên Chúa là Cha, là Thiên Chúa tạo dựng. Bộ mặt Thiên Chúa là Con là Thiên Chúa làm người. Bộ mặt Thiên Chúa là Thánh Thần, là Thiên Chúa thánh hóa, cho chúng ta chia sẻ Thiên tính của Thiên Chúa.
Chúng ta cùng nhau làm Dấu Thánh Giá tuyên xưng đức tin: Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.

55. Thiên Chúa Ba Ngôi – Mầu nhiệm Tình Yêu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Một thanh niên đến gặp cha sở và nêu thắc mắc xin giải đáp:
– Cha có tấm hình nào của Chúa Thánh Thần không. Mấy bức tranh vẽ Chúa Thánh Thần như chim bồ câu hoặc lưỡi lửa chẳng có ý nghĩa gì với con cả. Con muốn có một tấm hình của Chúa Thánh Thần để treo trong phòng và cầu nguyện với Ngài.
Cha sở ngẫm nghĩ một lát và nói với anh ta:
– Con có tấm hình nào của Chúa Giêsu không?
Anh mau mắn:
– Có chứ cha! Nhiều lắm, nào là Thánh Tâm Chúa, Chúa Chăn Chiên, Chúa Thương Xót, Chúa Chịu Nạn, con đều có đủ cả.
Cha sở gật gù:
– Con cứ về chiêm ngắm mấy hình đó cũng được. Chẳng phải Chúa Giêsu đã nói ‘ai thấy Thầy thì thấy Cha Thầy sao?’ Nếu ai thấy Chúa Con là thấy Chúa Cha, thì ai chiêm ngắm Chúa Giêsu cũng là thấy Chúa Thánh Thần. Không phải là Ba Ngôi chỉ có một bản tính thôi sao?
Người thanh niên vẫn còn ấm ức, có vẻ chưa được thuyết phục lắm. Thấy thế, cha sở hẹn anh tuần sau gặp lại. Đúng hẹn, anh ta đến và cha sở trao cho anh một khung hình bọc kín, ở ngoài có ghi hàng chữ: “Mỗi lần nhìn vào đây con phải nở nụ cười.” Mở ra, anh ta thấy có một tấm gương, trên khung có ghi: “Gặp gỡ Chúa Thánh Thần là gặp gỡ Chúa Kitô nội tại. Con chính là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần. Hãy nhìn vào khuôn mặt tươi vui của mình và ý thức rằng Ngài đang hiện diện trong con. Rồi con cố gắng sống thế nào để tỏ cho mọi người thấy sự hiện diện của Chúa Thánh Thần ở trong con.”.
Trong Ba Ngôi Thiên Chúa nhiệm mầu, Chúa Thánh Thần là Đấng trừu tượng nhất, khó hình dung nhất, tuy gần nhưng thật xa. Tuy cụ thể như gió, như lửa, như hơi thở…. như những biểu tượng thật gần gũi trong đời sống con người nhưng lại khó mà nắm bắt trong thế giới hiện thực này.
Có người nông dân dạy con trai mới lớn: muốn cho mướp ra nhiều trái phải bấm ngọn.
Cậu bé hỏi: tại sao?
Người cha trả lời: vì nó tức nên nó đâm trái.
Có thể cậu bé không bằng lòng với câu trả lời của cha, nhưng sau này khi vào đại học nông nghiệp, cậu sẽ biết rõ lý do.
Một em bé đứng trước thi hài ông nội, hỏi mẹ: Mẹ ơi, sao ông nội chết vậy hả mẹ?
Mẹ đáp: vì ông nội già rồi.
Bé lại hỏi: thế bà nội già rồi sao không chết? Chú Tư trẻ vậy, sao lại chết.
Người mẹ vui mừng vì thấy con thông minh lý sự nhưng lúng túng không tìm ra câu trả lời thoả đáng. Khi lớn lên bé sẽ hiểu lý do.
Trong cuộc sống, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn con người vẫn không bao giờ hiểu thấu. Để diễn tả các điều khó hiểu của cuộc sống, cha ông ngày xưa mới đố nhau:
Đố ai biết lúa mấy cây,
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy tầng.
Đố ai quét sạch lá rừng,
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.
Có lẽ trong tất cả mọi điều khó hiểu của cuộc sống con người thì tình yêu là khó hiểu nhất. Chỉ nguyên định nghĩa tình yêu thôi cũng đủ để hao tổn bao công sức và giấy mực qua các thời đại mà vẫn không có được một định nghĩa diễn tả trọn vẹn ý nghĩa. Và vì không có được một định nghĩa nên người ta mới coi tình yêu như là mầu nhiệm.
Thế nhưng, mầu nhiệm tình yêu có đáng là gì so với các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trong các mầu nhiệm của Thiên Chúa thì mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là cao cả nhất, khó hiểu nhất. Như sách giáo lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định: Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Bởi vì đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa mà cũng là mầu nhiệm của Thiên Chúa “cho chúng ta”.
Trước mầu nhiệm Ba Ngôi, một mầu nhiệm cao sâu, trí khôn nhỏ bé của con người không thể hiễu nổi.Tại sao Một Chúa mà Ba Ngôi? 1 là 3 và 3 là 1?.
Vậy phải hiểu và đón nhận mầu nhiệm quá cao siêu này như thế nào?
Ba Ngôi là một mầu nhiệm thuộc đời sống nội tại của Thiên Chúa, vượt qúa mọi khả năng hiểu biết và suy luận của trí khôn hữu hạn con người. Qua bao thời đại, trí khôn con người dựa vào mạc khải để tìm hiểu huyền nhiệm sâu thẳm này.
Thánh kinh có bàn nhiều về mầu nhiệm Ba Ngôi.
– Mạc khải Cựu ước chủ yếu là mầu nhiệm Thiên Chúa duy nhất nhưng cũng có mầm móng về mầu nhiệm Ba Ngôi. Niềm tin độc thần là tín điều lớn nhất của Cựu ước (Đnl 6,4-5). Điều này cần thiết cho bối cảnh đa thần giáo ở Trung đông thời bấy giờ.
– Mạc khải Tân ước dạy rõ ràng hơn về Thiên Chúa Ba Ngôi. Sứ thần Gabriel đến báo tin cho Đức Maria: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ che chở bà, vì thế Hài Nhi bà sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Những lời đó cho biết: Đấng Tối Cao là Chúa Cha cùng với Chúa Thánh Thần sẽ lo cho Hài Nhi sắp sinh ra là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Hình ảnh đặc trưng nhất là khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, chim bồ câu ngự xuống đậu trên Ngài (Ga1,32-34). Tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là con Ta yêu dấu (Mt 1,11). Tiếng nói, chim câu, Chúa Giêsu,ba hình ảnh này tạo nên chân dung sống động về Ba Ngôi. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu hứa với các tông đồ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bàu Chữa khác, đó là Thần Khí sự thật…” Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban Đấng Bàu Chữa là Thần Khí sự thật, nghĩa là Chúa Thánh Thần cho các môn đệ.
Trong phúc âm, Matthêu có câu nói nổi tiếng về Ba Ngôi “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19). Thánh Phaolô luôn cầu chúc: Ân sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em.
Chỉ có một Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa có Ba Ngôi và là Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần. Mỗi ngôi vị đều là Thiên Chúa, dù vậy vẫn chỉ có một Thiên Chúa mà thôi.Mỗi ngôi vị đều bằng nhau về thần tính và ưu phẩm, nhưng không có ba Thiên Chúa ngang nhau mà chỉ có một Thiên Chúa. Mỗi ngôi vị đều có trọn vẹn sự sống thần linh trong mình dù chỉ có một sự sống thần linh duy nhất. Nói theo từ ngữ của Công đồng Vatican II: Sáng kiến cứu độ là của Chúa Cha. Chúa Cha chia sẽ và bàn bạc sáng kiến ấy với Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Việc thực hiện sáng kiến ấy giống như một bản trường ca gồm hai phần chính.Đức Kitô thực hiện phần đầu. Ngài nhập thể, mạc khải về Chúa Cha dâng lên Cha hy lễ thập giá để cứu độ. Phần hai dựa vào công trình ấy mà nâng con người lên,đưa con người về cùng Cha, đó là phần vụ của Chúa Thánh Thần. Thánh Ignatio Loyola trong một lần cầu nguyện, bổng nhiên nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.
Thiên Chúa duy nhất nhưng không phải là Thiên Chúa đơn độc mà là cộng đồng Ba Ngôi thương yêu nhau hướng về nhau. Ba Ngôi là một gia đình. Giáo hội là một gia đình của Thiên Chúa.Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu là Trưởng Tử, mọi người là anh chị em của nhau. Đạo lý Đông phương vốn trọng chữ trung, chữ hiếu và chữ nhân, rất gần gũi với tinh thần Kitô giáo. Trung với Chúa, hiếu thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ, nhân ái với mọi người.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và duy nhất là một mầu nhiệm vĩ đại thâm sâu mà trí tuệ con người không thể nào hiểu hết, chỉ có thể đón nhận bằng đức tin. Thực tại Ba ngôi không là một điều nghịch lý nhưng là nghịch thường và siêu lý. Mầu nhiệm Ba Ngôi là ánh sáng chói loà rực rỡ,ánh sáng ban sự sống cho những ai khiêm nhường đón nhận và sẽ là bóng tối dày đặc đầy mâu thuẫn đối với những kẻ kiêu căng muốn dùng lý trí làm thước đo siêu việt.
Nhìn lên cung thánh, ta thấy Thánh Giá, Nhà Tạm, Bàn Thờ. Đó là trung tâm niềm tin của người Kitô hữu.Trên Thánh Giá, Đức Kitô đã tự hiến làm hy lễ dâng lên Chúa Cha. Ngài tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trong tinh thần vâng phục và yêu mến đối với Cha, để thiết lập giao ước mới với Giáo hội trong máu của Ngài. Ngài đã phục sinh về với Cha nhưng vẫn luôn ở lại với Giáo hội qua Bí Tích Thánh Thể mà Nhà Tạm là nơi Ngài hiện diện thường trực. Bàn thờ tượng trưng cho Chúa Kitô. Khi linh mục cử hành thánh lễ là tưởng niệm hy lễ thập giá và cử hành mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô.
Ba Ngôi sống bằng một lương thực thần linh, cùng một sự sống đó là tình yêu thần linh. Chúng ta được tham dự vào sự sống của Ba Ngôi khi đi vào cử hành mầu nhiệm vượt qua trong thánh lễ. Với chúng ta sự sống ấy là sự sống của Đức Kitô, Mình và Máu Đức Kitô trao ban qua thánh thể “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6,34). Khi chia sẽ chén hiệp thông cuả Ba Ngôi, chúng ta được mời gọi hiệp thông với nhau để trở nên một như Ba Ngôi là một (Ga 17,21).
Chúng ta đến Nhà thờ để tìm Chúa và gặp Chúa. Nói theo kiểu nói của Đức Hồng y Henry de Lubac: Con người tìm Chúa là một người bơi lội giữa đại dương. Mỗi lần tiến tới là đẩy lui một đợt sóng. Bơi lội giữa đại dương làm cho con người khiếp đảm lo sợ không tới bến. Nhưng Thiên Chúa vừa là bến bờ vừa là đại dương. Ai bơi lội trong đại dương là bơi lội trong Thiên Chúa. Hướng tới Chúa đã là ở trong Chúa, tìm Chúa gặp Chúa là hướng về Chúa. Không có sự tìm kiếm nào mà không phải phấn đấu, không gặp mâu thuẫn đau khổ. Nhưng chúng ta tin vào Thiên Chúa đang ở với chúng ta trong Đức Kitô và lôi kéo chúng ta với sức mạnh Chúa Thánh Thần.
Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là sống hiệp thông và chia sẽ, là ở lại trong tình yêu. Mỗi ngày người tín hữu chúng ta làm dấu Thánh giá nhiều lần trên thân xác “Nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh thần”. Ước gì mỗi người cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, hiệp thông chia sẽ trong cuộc sống hàng ngày của mình.

56. Tình yêu
Một người cha hứa cho đứa con gái 12 tuổi một số tiền nếu cô bé xén sạch đám cỏ trước nhà. Cô bé vui vẻ mang máy cắt cỏ ra làm việc. Đến chiều, cả đám cỏ đã được cắt xén gọn gàng – ngoại trừ một mảng cỏ tí tẹo còn sót trong góc sân.
Ông bố nói rằng ông không thể trả số tiền đã thỏa thuận, bởi vì đám cỏ chưa được cắt xong. Cô bé cho biết cô sẵn sàng chịu mất số tiền đó và cô nhất định không cắt nốt mảng cỏ còn sót kia.
Tò mò muốn biết lý do tại sao, ông bố kiểm tra chỗ cỏ chừa lại. Hóa ra, ở giữa chòm cỏ ấy, một chú cóc đang ung dung ngồi ngắm cảnh hoàng hôn! Cô bé quá thương con cóc, đã không đành đưa lưỡi dao của máy cắt vào chòm cỏ ấy.
Thiên Chúa là tình yêu. Người đã dựng nên con người cao trọng hơn các loài thụ tạo. Nhưng con người lại bất trung phản bội. Vì yêu thương Thiên Chúa đã không nỡ hủy diệt, lại sai con Một là Đức Giêsu Kitô xuống thế để cứu chuộc con người. Người lại gởi Thánh Thần đến để thánh hóa cho nên tạo vật mới, dẫn đưa họ về hưởng vinh quang Nước Trời. Đó là mầu nhiệm tình yêu mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã thương dành cho con người. Vì thế, lễ Chúa Ba Ngôi cũng là lễ của Tình Yêu.
– Chỉ những ai sống yêu thương mới được ở trong Thiên Chúa Ba Ngôi.
– Chỉ những ai thực thi đức ái mới sống trọn ơn gọi làm con Thiên Chúa.
– Chỉ những ai biết sống trao ban mới tìm được nguồn vui đích thực trong Thiên Chúa Tình Yêu.
Nếu Thiên Chúa đã hiến trao con Một của Người để người Con ấy phải chết và để nhân loại được sống, lẽ nào người tín hữu còn sống ích kỷ để giữ lại cho riêng mình những hạnh phúc nhỏ nhoi, tầm thường.
Nếu Thiên Chúa đã muốn chia sẻ hạnh phúc của Ba ngôi, là không muốn cho con người phải chết nhưng được sống hạnh phúc muôn đời, lẽ nào chúng ta đành khép lại con tim để chối từ chia sẻ trao ban.
Được dựng nên theo và giống hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu, nên ơn gọi đích thực của con người chính là ơn gọi sống yêu thương.
Được cứu độ bằng giá máu của Đức Kitô, nên lẽ sống của người Kitô hữu chính là tha thứ trong yêu thương.
Được thánh hóa bằng sức sống của Thánh Thần, nên cứu cánh của người tín hữu là phải nên thánh nhờ sống yêu thương.
Nhìn mầu nhiệm Ba Ngôi từ góc cạnh của đức mến, tức là nhìn từ lăng kính của tình yêu. Người tín hữu không biết đến yêu thương thì cũng hoàn toàn xa lạ với Thiên Chúa. Vì “Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa”. Chỉ những ai dám sống và dám chết cho tình yêu, mới được ở lại trong Thiên Chúa. Chỉ những ai dám tự hiến và trao ban cho anh em mới là những chứng nhân của một Thiên Chúa Tình Yêu.

57. Mặt trời ban sự sống
Một vị linh mục đang chờ máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất, thì một người đàn ông đến ngồi bên cạnh và bắt đầu đề cập tới vấn đề tôn giáo, ông nói:
– Tôi không thể nào chấp nhận được những điều tôi không hiểu, chẳng hạn như vấn đề Chúa Ba Ngôi hay bất cứ vấn đề nào giống như thế. Chẳng ai có thể cắt nghĩa cho tôi, nên tôi sẽ không bao giờ tin.
Chỉ vào một luồng ánh sáng chiếu qua khung cửa kính, vị linh mục hỏi:
– Ông có tin mặt trời không nhỉ?
Ông ta trả lời:
– Dĩ nhiên là có.
Vị linh mục nói tiếp:
– Phải, ánh sáng ông thấy qua cửa sổ, xuất phát từ mặt trời cách đây 150 triệu cây số. Sức nóng chúng ta cảm nhận được cũng xuất phát từ mặt trời. Đối với Chúa Ba Ngôi, một phần nào cũng tương tự như thế. Mặt trời là Chúa Cha. Từ mặt trời mà có ánh sáng, cũng như từ Chúa Cha mà có Chúa Con. Rồi từ Chúa Cha, Chúa Con mà có Chúa Thánh Thần, cũng như từ mặt trời, từ ánh sáng mà có sức nóng. Ông hiểu thế nào về mặt trời, ánh sáng và sức nóng. Thì một phần nào tương tự như thế, ông hiểu về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Hôm nay chúng ta tụ hợp nơi đây để chúc tụng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi. Trước hết chúng ta phải chấp nhận, đó là một chân lý, một mầu nhiệm không ai có thể hiểu thấu. Sở dĩ chúng ta biết được phần nào là do Chúa Giêsu đã nói với chúng ta, như lời Ngài đã phán trong Tin Mừng: “Các con hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”.
Mặt trời là nguồn năng lượng vật chất thế nào thì Chúa Ba Ngôi cũng là nguồn sống thiêng liêng cho chúng ta như vậy. Mặt trời chiếu toả ánh sáng thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng soi sáng tâm hồn chúng ta như vậy. Mặt trời đem đến sức nóng để sưởi ấm vạn vật thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng sẽ đem lại sức nóng thiêng liêng để sưởi ấm, đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh em đồng loại. Mặt trời tiêu diệt vi khuẩn chữa lành bệnh tật thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng sẽ khử trừ những thói hư tật xấu và loại trừ tội lỗi ra khỏi tâm hồn và cuộc đời chúng ta như thế. Mặt trời đem lại cho chúng ta niềm vui cho chúng ta thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc vĩnh cửu như thế.
Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý: Chúa Ba Ngôi không phải là một nguồn năng lượng vô hồn nhưng là những ngôi vị sống động, thông biết và yêu thương. Với Ngài, chúng ta có thể kêu cầu như chúng ta vốn đã thường làm, mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá, đọc kinh Sáng Danh, hay như lát nữa đây, chúng ta cùng nhau hát kinh Tin Kính…
Cùng với lời tuyên xưng chúng ta hãy sống gắn bó mật thiết với các Ngài, để rồi các Ngài sẽ ra tay nâng đỡ phù trợ cho chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

58. Thờ Thần nào, sẽ nên vậy
(Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
Có lẽ chúng ta đã quen thuộc với mẩu chuyện kể về thánh Âu tinh thành Hippo, một nhà thần học nổi tiếng và cậu bé trên bãi biển. Thánh Âu Tinh muốn suy biết và hiểu rõ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi như thế nào: Một Thiên Chúa duy nhất, nhưng lại có Ba Ngôi vị. Một mà lại là 3, rồi 3 lại là 1. Thật khó hiểu và quá phức tạp với sự suy lý của trí hiểu con người. Thế rồi Thánh Âu tinh đã nhận được bài học từ cậu bé: việc cố tìm hiểu như thế thật vô ích, vì trí khôn giới hạn của con người không thể dung nạp được mầu nhiệm lớn lao vô hạn như thế, tựa như việc cố lấy hết nước của đại dương để đổ vào một lỗ cát nhỏ được đào trên bãi biển.
Một điều không thể hiểu được với trí khôn của loài người, vậy thì tại sao phụng vụ Chúa nhật hôm nay lại mừng một cách long trọng mầu nhiệm Ba Ngôi như thế? Chắc chắc Phụng vụ Giáo hội không muốn đưa mầu nhiệm này ra để hù dọa chúng ta, hoặc là làm linh thiêng hóa hệ thống giáo lý hay thần học của Ki-tô giáo. Tuy trí khôn của con người không thể hiểu được mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi như thế nào hay mầu nhiệm đó ra sao, nhưng trí khôn con người vẫn có thể hiểu ra được tại sao Thiên Chúa lại tỏ lộ mầu nhiệm này cho con người. Quả thế, khi Thiên Chúa tỏ lộ mầu nhiệm Ba Ngôi, một mầu nhiệm Tình Yêu vĩ đại là bản chất của Thiên Chúa, thì không phải để trí khôn con người có dịp phân tích, tìm hiểu, hay lý giải mầu nhiệm này, nhưng là để con người nhận biết được Tình yêu của Thiên Chúa và đi vào trong mối tương giao tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi. Đó là cái lý do tại sao mà Thiên Chúa muốn tỏ lộ mầu nhiệm này cho chúng ta.
Trước hết, chúng ta đâu thấy các bài đọc Kinh thánh trong ngày lễ hôm nay cung cấp cho chúng ta một ý niệm hay một sự lý giải minh tỏ về Tín lý Một Chúa Ba Ngôi. Ngay cả hạn từ “Ba Ngôi” cũng chẳng thấy có trong Kinh thánh. Các tín hữu thời Giáo hội sơ khai đã biết đến giáo lý này và đón nhận giáo lý này như một điều phải tin không phải khi họ hiểu về mầu nhiệm này, nhưng là khi họ nhận biết về lý do tại sao Thiên Chúa tỏ lộ mầu nhiệm này.
Trong lịch sử cứu độ, Thánh Kinh chúng ta thấy Chúa Cha là Đấng Tạo dựng, Chúa Con là Đấng Cứu Độ, và Chúa Thánh Thần là Đấng Thánh hóa. Tuy thế, không có ngôi nào lại hiện hữu và hoạt động riêng rẽ một mình. Rồi chính Đức Giê-su đã nói rõ hơn cho chúng ta về Chúa Cha là Đấng đã sai Ngài và về Chúa Thánh Thần, Đấng mà Ngài đã trao ban cho các môn đệ và mọi tín hữu. Đức Giê-su nói rằng Chúa Cha đã trao ban Chúa Con là tất cả những gì Người có, rồi đến lượt Chúa Con lại trao ban Thánh Thần là tất cả những gì Ngài nhận được từ Chúa Cha. Như thế, mầu nhiệm Ba Ngôi là một mầu nhiệm của Tình yêu trao ban, một mầu nhiệm để cảm nhận, để sống hơn là để phân tích tìm hiểu bằng lý lẽ của con người.
Thêm vào đó, điều quan trọng của tín điều này hệ ở chỗ: chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, vì thế, càng cảm nhận về Thiên Chúa, thì chúng ta càng biết về bản thân mình hơn.
Những nhà chuyên môn về tôn giáo nói với chúng ta rằng con người chúng ta sẽ giống như Vị thần mà chúng ta tôn thờ. Kẻ tôn thờ thần chiến tranh thì có xu hướng gây chiến. Kẻ thờ thần khoái lạc, có xu hướng tìm kiếm khoái lạc, kẻ thở một Thiên Chúa hay nổi giận, có xu hướng trả thù, còn kẻ thờ phượng Thiên Chúa Tình yêu, thì có xu hướng sống cho Tình yêu. Thờ Chúa nào, thì cũng nên giống như vậy.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi nói với chúng ta về loại Thiên Chúa của Tình yêu mà chúng ta tôn thờ, và chúng ta phải trở nên loại người nào. Có hai điều để suy tư:
Thiên Chúa không hiện hữu đơn độc, nhưng trong một cộng đoàn tình yêu và chia sẻ. Thiên Chúa không phải là một vị thần cô đơn, nên kẻ thờ phượng Người phải tránh lối sống cô độc, biệt lập. Lối sống của Ki-tô giáo không mang màu sắc bi quan của sự xa tránh xã hội, hay những mối tương giao.
Một tình yêu chân thực luôn mang 3 thành phần. Cộng đoàn Chúa Ba Ngôi thật trọn vẹn. (Hình ảnh gia đình: cha – mẹ – con cái)
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một thách đố, và cũng là lời mời gọi chúng ta biết đi vào mối tương giao giữa bản thân chúng ta – Thiên Chúa – tha nhân. Xin Thiên Chúa Ba Ngôi chúc phúc cho chúng ta.

59. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Chúa Nhật ngay sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Giáo Hội hoàn vũ mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Đức Giêsu là Đấng mặc khải Thiên Chúa và con người. Chính nhờ Đức Giêsu, mà con người biết Thiên Chúa Ba Ngôi Vị.
I. Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Thiên Chúa Duy Nhất
Trong sách Đệ Nhị Luật, người Do Thái đã nhận biết Thiên Chúa là Đấng duy nhất: “Nghe đây hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đấng duy nhất. Hãy yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực ngươi” (Dnl. 6, 4-5). Chính Thiên Chúa là Đấng đã dẫn dân Do Thái ra khỏi Aicập qua Môsê. Thiên Chúa đã đồng hành với dân Do Thái qua cột mây lửa trong sa mạc. Trên núi Sinai, Thiên Chúa đã ký kết giao ước với dân và đã ban thập giới như điều kiện giao ước. Thiên Chúa tỏ lộ Ngài cao cả siêu việt và là Đấng yêu thương dân Do Thái vô cùng.
Trong Tân Ước, khi người ký lục hỏi Đức Giêsu về giới răn trọng nhất, Đức Giêsu đã trích dẫn Ngũ Kinh để trả lời cho ông và các bạn của ông ta. “Giới răn trọng nhất là: Hỡi Israel hãy nghe đây. Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đấng duy nhất, hãy yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Giới răn thứ hai là: hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Mc.12, 29-31). Đức Giêsu đã dạy cùng một điều mà người Do Thái đã được dạy dỗ và đã biết.
Thiên Chúa là Đấng duy nhất, Đấng trổi vượt trên tất cả. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo nên tất cả, là Cha của tất cả. Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi dân tộc, không gì có mà lại không do Thiên Chúa mà có. Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng, Ngài tạo dựng và làm cho tất cả tiếp tục tồn hữu. Thiên Chúa làm mưa xuống cho người công chính cũng như kẻ bất lương. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người.
II. Đức Giêsu Mạc Khải về Thiên Chúa
Khi hài nhi Giêsu được sinh ra tại Bêlem, không ai biết Ngài là Thiên Chúa, không ai biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Ngay khi Đức Giêsu đi rao giảng, cả các tông đồ là những môn đệ thân tín của Ngài, cũng chưa nhận biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Họ có cùng ý nghĩ với dân chúng, Đức Giêsu là một tiên tri, và một cách đặc biệt hơn, Ngài là Đấng Kitô (Mt.16, 16). Khi Đức Giêsu chết trần trụi ô nhục trên thập giá, các tông đồ chán nản sợ sệt, thậm chí có môn đồ đã bỏ về quê (hai môn đệ trên đường Emmau). Những người giết Đức Giêsu cũng không biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể, vì nếu họ biết đâu họ có giết Ngài. Chính Đức Giêsu trên thập giá cũng nghĩ rằng người ta không biết về Ngài một cách thực sự nên đã xin với Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết” (Lc.23, ). Mầu nhiệm nhập thể là mầu nhiệm quá cao vời mà lý trí con người không thể suy biết được trước khi Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.
Khi Đức Giêsu phục sinh từ cõi chết, các tông đồ nhận ra Ngài là Đấng rất đặc biệt. Ngài đến từ Thiên Chúa, Ngài là Đấng Kitô, Đấng Thiên Sai, và có lẽ còn là Đấng có gì đặc biệt hơn nữa. Nhờ Chúa Thánh Thần, các tông đồ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói, đã dạy dỗ khi còn ở với các ông trên trần thế, về quyền tha tội (Mc.2, 7), về trước khi có Abraham đã có Ngài (Ga.8, 58), về việc Ngài và Cha là một (Ga.10, 30), về việc Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc.14, 62). Các tông đồ nhận ra Đức Giêsu là người rất đặc biệt của Thiên Chúa, là Đấng thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa, đến độ có thể nói, Ngài là Đấng ngang hàng với Thiên Chúa.
Con người đứng trước mầu nhiệm Đức Giêsu, đã cố gắng tìm những từ ngữ để diễn tả thực tại này, chẳng hạn như nói: Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể, Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa. Công đồng chung Nicea (325) dạy: Đức Giêsu là Đấng “đồng bản tính” với Thiên Chúa. Nói bằng một ngôn từ khác, Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Những thánh công đồng chung tiếp theo sau đã tiếp tục dạy về thực tại Đức Giêsu. Đức Giêsu là Đấng đồng nhất với Thiên Chúa, là một với Thiên Chúa. Không phải Đức Giêsu là Thiên Chúa “khác” độc lập với Thiên Chúa, nhưng Ngài kết hiệp với Thiên Chúa đến độ chỉ là một Thiên Chúa. Từ ngữ ngôi vị (persona) của ngày hôm nay làm cho người ta tưởng rằng Đức Giêsu là một thực tại hiện hữu độc lập bên cạnh Thiên Chúa, như thể nhiều người khác biệt nhau nhưng đều có cùng bản tính người. Người ta không được hiểu như vậy về Thiên Chúa. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là một Thiên Chúa nhưng không là ba thực tại hiện hữu độc lập khác nhau. Khi nói Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là Ba Ngôi Vị Thiên Chúa, là chúng ta đang diễn tả nét khác nhau giữa Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu, giữa Thiên Chúa Cha và Thánh Thần, và giữa Đức Giêsu và Thánh Thần.
III. Thánh Thần là Thiên Chúa
Chỉ nhờ Đức Giêsu mà người ta nhận ra Thánh Thần là một ngôi vị Thiên Chúa. Đức Giêsu nói về Thánh Thần như một ngôi vị. Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, Đấng Bầu Chữa, Đấng đến từ Thiên Chúa Cha, Đấng được Cha và chính Đức Giêsu sai gởi tới (Ga.14, 16.26; 15, 26; 16, 13-16).
Ngay khi còn tại thế, Đức Giêsu đã giảng dạy về Thánh Thần như vậy, nhưng các tông đồ chưa hiểu được, phải chờ đến khi Đức Giêsu phục sinh và với tác động của Thánh Thần, các tông đồ mới nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể; và một khi nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, các tông đồ mới nhận ra Thánh Thần là Ngôi Vị Thiên Chúa. Chính nhờ Đức Giêsu và nhờ Thánh Thần, mà con người mới hiểu biết hơn về Thiên Chúa, mới biết Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị.
Thiên Chúa sáng tạo mọi loài, tạo dựng mỗi người qua cha mẹ mỗi người. Thiên Chúa nhập thể làm người để mặc khải cho con người biết hơn về Thiên Chúa, để chỉ cho con người biết sống như thế nào để hạnh phúc thật, để trở nên con cái đích thực của Thiên Chúa. Thánh Thần được sai đến để ở với con người, để thánh hóa con người, để làm con người thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa, Đức Giêsu và Thánh Thần là Ba Ngôi Vị khác biệt nhau, nhưng vẫn luôn là một Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng duy nhất trong ba ngôi vị.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có cảm thấy Thiên Chúa gần gũi với bạn không? Xin chia sẻ kinh nghiệm.
2. Bạn có cảm nhận gì về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi?
3. Bạn thường cầu nguyện với ngôi vị nào hơn cả? Bạn có biết tại sao?

60. Suy niệm của Lm. Giuse Lê Quốc Thăng.
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mysterium absolutum trong Kitô giáo chúng ta. Cho dù chúng ta tin Đức Giêsu là Con một Thiên Chúa đến trong thế gian, mặc khải cho chúng ta về Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, nhưng đây là mầu nhiệm tuyệt đối không một người trần thế nào có thể hiểu thấu được.
Về mặt tín lý, Công đồng Nicêa (325) xác nhận thiên tính của Đức Giêsu, đồng bản thể (Homoousios) với Thiên Chúa Cha và Công đồng Constantinople I (381) xác nhận thiên tính của Chúa Thánh Thần: một Thiên Chúa có Ba Ngôi. Dù giải thích như thế nào về Nhiệm sinh và Nhiệm xuất của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng ta khó mà hiểu rõ Thiên Chúa nội tại (in se). thế nhưng qua hành động ra bên ngoài, vì loài người chúng ta (pro mobis) và nhờ mặc khải của Đức Giêsu, chúng ta cảm nhận tình yêu vô biên của Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi hoạt động vì muốn chia sẻ đời sống Thần linh cho nhân loại, cho từng người chúng ta.
Về phụng vụ, chính Đức Giáo Hoàng Gio-an XXII đã đưa thánh lễ kính Chúa Ba Ngôi vào lịch phụng vụ Rôma vào năm 1334 và đặt thánh lễ này vào Chúa nhật sau Chúa nhật lễ Hiện xuống. Năm 1911 lễ này được nâng lên hàng lễ trọng. Kinh nhật tụng thánh lễ này đã có từ thời Đức Piô V.
II. Gợi Ý Bài Giảng
1. Ba Ngôi Thiên Chúa Nguồn Mạch Sự Hiệp Thông Của Con Người Và Thế Giới Hôm Nay: Nhân loại hôm nay đang đối diện rất gần, đang sống với chia rẽ, hận thù và chiến tranh. Từng người đang sợ hãi nỗi cô đơn. Chính vì thế, hơn bao giờ hết thế giới hôm nay đang khao khát sự hiệp thông liên đới với nhau. Nhiều người, nhiều tổ chức, nhiều quốc gia đã và đang nỗ lực tìm kiếm xây dựng sự liên kết với nhau trong mọi lãnh vực từ kinh tế, chính trị đến tinh thần văn hóa. Trong nhãn giới đức tin thì mọi sự, mọi vật đều phát xuất từ Ba Ngôi Thiên Chúa trong công trình sáng tạo và rồi sẽ trở về với Ba Ngôi Thiên Chúa trong công trình cứu độ. Sáng tạo và cứu độ là một hành trình bày tỏ ý định yêu thương của Ba Ngôi dành cho muôn thụ tạo. Vì thế, có thể nói được rằng: mọi sáng kiến hiệp thông liên đới để xây dựng thế giới tốt đẹp hơn đều phát xuất từ Ba Ngôi và để đi tới mục đích tối hậu là hiệp thông trọn vẹn với nhau trong Ba Ngôi. Trong hành trình tiến tới sự hiệp thông viên mãn ấy, Giáo Hội và mọi thành viên của Giáo Hội là nhưng nhân tố tích cực cổ võ, kiến tạo những sáng kiến hiệp thông cho con người và thế giới hôm nay.
2. Giáo Hội Là Hình Ảnh Của Sự Hiệp Thông Nơi Ba Ngôi Thiên Chúa: Thế giới ngày nay đang bị chia rẽ, bị xâu xé bởi chiến tranh, hận thù, lòng đố kỵ và ích kỷ… Với những chủ trương Duy đa diện, đa cực, duy thực dụng làm cho các hố phân cách giàu nghèo, chủng tộc, văn hóa ngày càng lớn. Trước một thực trạng như thế, Giáo Hội cần phải trình bày cho thế giới biết về sự hiệp thông nên một của Ba Ngôi Thiên Chúa. Giáo Hội là màu nhiệm Hiệp thông: Hiệp thông trong cơ cấu Phẩn trật; hiệp thông trong đời sống phụng vụ; hiệp thông trong đời sống yêu thương. Điều trước tiên để diễn tả sự hiệp thông của Giáo Hội đó là sám hối về sự hiệp thông của chính mình. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô mời gọi con cái mình sám hối về những sai lầm gây tổn thương cho sự hiệp thông và tình liên đới trong nhân loại: “Trong số những tội lỗi cần phải dứt khoát sám hối và cải thiện, chắc chắn phải kể đến những tội lỗi đã làm hại đến niềm hiệp nhất theo ý Chúa muốn nơi dân của Người … Trong lịch sử Giáo hội, việc hiệp thông đã bị tổn thương một cách đau xót.” (ĐTC J.P II – Tông thư Ngàn năm thứ ba đang đến – No 34). Sám hối không phải để bi quan, bôi nhọ, nhưng để lột xác đổi mới. Mỗi thành phần và từng thành viên trong Giáo Hội phải nỗ lực hết sức để xây dựng tình hiệp thông liên đới trong cuộc sống hằng ngày của mình. Mỗi Kitô hữu phải cùng trăn trở, thao thức với Giáo Hội. Chung một nhịp thở với toàn thể Giáo Hội, chia sẻ ưu tư gánh nặng và trách nhiệm với các vị chủ chăn của mình. Ngay từ mỗi gia đình Kitô hữu, từ mỗi Giáo xứ, những hạt nhân cơ bản của Giáo Hội luôn phải cùng nhau hiệp nhất yêu thương thì mới có một Giáo Hội Phổ quát hiệp thông.
3. Trong Chúa Ba Ngôi Người Kitô Hữu Sống Tình Hiệp Thông Liên Đới: Mối hiệp thông giữa người với người sẽ tìm thấy một mẫu mực nơi Ba Ngôi Thiên Chúa. Ba Ngôi luôn hướng về nhau, quay mặt vào nhau. Noi gương Ba Ngôi, muốn yêu thương hiệp thông với nhau thì phải biết hướng Thiên Chúa và hướng về nhau. Hướng về Thiên Chúa cụ thể là thái độ tham dự, sự mở lòng đón nhận nguồn sống hiệp thông từ Thánh lễ. Thánh lễ là nơi, là lúc biểu lộ cao nhất mối hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người. Trong Thánh lễ, con người được gặp gỡ, được tiếp chuyện với Thiên Chúa (nơi bàn tiệc Lời Chúa) và kín múc sự sống thần linh của Người (nơi bàn tiệc Thánh Thể). Nhờ đó, con người chúng ta thực sự được hợp nhất với Thiên Chúa. Đức Kitô trong tôi, tôi trong Đức Kitô. Một sự hiệp nhất đến độ ‘tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi’ (Gl 2,20).
Trong cuộc sống mọi người biết hướng về nhau trong tâm tình, trong tư tưởng, trong lời nói và trong việc làm. Hướng về nhau trong tâm tình là xây dựng mối thiện cảm, nhìn nhau bằng ánh mắt của tình thương và cảm thông chứ không phải bằng ác cảm hay thành kiến. Hướng về nhau trong tư tưởng là biết nghĩ đến người khác, biết cầu nguyện cho nhau. Thờ ơ với người khác hình như đang trở nên căn bệnh của thời đại. Làm sao cho tâm hồn mình cũng có nhiều chỗ ở cho mọi người như ‘trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở’(Ga 14,2). Hướng về nhau trong lời nói: “Lời nói không mất tiền mua,Lựa lời mà nó cho vừa lòng nhau.”Lời nói dành cho người khác có truyền tải được một thông điệp cảm thông, thông điệp yêu thương hay ngược lại, mở miệng ra chỉ biết oán trách, chê bai, khích bác nhau, nói xấu nhau … Hướng về nhau trong việc làm: hành động cụ thể là minh chứng rõ ràng nhất cho sự hiệp nhất với nhau, hướng về nhau. Yêu thương hiệp nhất không phải bằng đầu môi chót lưỡi nhưng phải bằng hành động cụ thể ‘nói hay vạn lần về tình yêu không bằng một lần biết yêu’.

61. Mầu nhiệm tối thượng của Kitô Giáo.
(Suy niệm của Phaolô Ngô Suốt)
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm tối thượng của Kitô Giáo. Đã là một mầu nhiệm thì chúng ta không hiểu hết nổi, đây lại là mầu nhiệm tối thượng thì càng không làm sao hiểu thấu được. Tuy nhiên, Chúa Thánh Linh đã làm cho chúng ta hiểu được phần nào về mầu nhiệm một Thiên Chúa nhưng ba ngôi vị này, rồi cũng nhờ Thần Khí chúng ta hiểu thì ít, mà cảm nhận thì nhiều, để từ đó tin vững vàng vào Ba Ngôi Thiên Chúa.
Trong toán học nếu ta lấy 1 rồi lũy thừa lên 3 lần, ta có: 1 X 1 X 1 = 1. Thiên Chúa ba ngôi cũng gần như thế. Chỉ có Một Thiên Chúa nhưng có ba ngôi vị khác nhau. Cả ba đều có cùng bản tính Thiên Chúa như nhau, mặc dù hoạt động với chức năng riêng biệt và Ngôi này không phải là những Ngôi kia.
Giống như nước chúng ta uống là hợp chất của H2O, khi ở thể rắn là nước đá, ở thể lỏng là nước, ở thể bốc hơi là khí, cả ba thể đều chỉ là nước. Hay khi nhìn mặt trời ta thấy ánh sáng, hơi nóng, tia hồng ngoại, cả ba đều phát xuất từ mặt trời, nhưng chỉ có một mặt trời duy nhất.
Trong đoạn Tin mừng ngắn ngủi, kết thúc cuốn Phúc Am thứ nhất hôm nay, Chúa Kitô mạc khải công khai về mầu nhiệm ba ngôi Thiên Chúa. Và gián tiếp tuyên bố Ngài đã hoàn thành công cuộc cứu chuộc. Ngài trở thành Chủ tể vạn vật trên trời lẫn dưới đất. Ngài động viên các môn đệ, cùng trấn an họ, vì Ngài được toàn quyền và Ngài sẽ ở với họ cho đến ngày tận thế.
Một cuộc tình hay chuyện yêu đương đúng nghĩa nào cũng đòi phải hội đủ ba yếu tố: người yêu, kẻ được yêu và tình yêu, và tất cả tình yêu sâu thẳm thực sự, đều không giải thích được bằng lời: khi tình yêu kết hiệp Cha và Con đến mức sung mãn, tột cùng, tình yêu tuyệt vời đó sản sinh ra Chúa Thánh Linh, hay còn gọi là hơi thở, thần khí hay tình yêu Thiên Chúa. Nói một cách cụ thể: Thiên Chúa là tình yêu.
Vì yêu thương, Thiên Chúa Cha đã tác tạo nên vạn vật, vũ trụ này. Vì yêu thương Ngài cho con một của Ngài là Thiên Chúa Con đến trần gian để cứu chuộc nhân loại, vì nhân loại sa ngã, phạm tội. Vì yêu thương Chúa Thánh Linh (Ngôi Ba) được gởi đến để Thánh hóa và ở lại trong thế gian khi Chúa Con về với Chúa Cha.
Vì yêu thương Ngài dựng nên vườn Địa Đàng, rồi cũng vì yêu thương Thiên Chúa đã đặt câu hỏi đầu tiên với loài người, khi Ngài hỏi:”Adam, ngươi ở đâu?”, Tại sao ngươi trốn ta? Cuộc đối thoại kế tiếp về anh em là khi Ngài hỏi Cain:”Abel, em mày ở đâu?”. Ở đây chúng ta tìm thấy hai giới luật của Thiên Chúa đòi hỏi người Kitô hữu tuân giữ: Yêu Chúa và yêu anh em. Dĩ nhiên, với bối cảnh lịch sử hiện nay, hai câu hỏi sẽ là: “Này Anh bạn, anh đang ở đâu?” và “Anh em của bạn ở đâu?”. Phải chăng có một số Kitô hữu chúng ta -nhất là đang sống tại hải ngoại-, bằng một cách nào đó không những đang trốn tránh Thiên Chúa, mà còn trốn cả anh em. Ai cũng có thể viện dẫn ngàn lẻ một lý do để bào chữa cho chính mình! Nhưng lý do dễ hiểu nhất, đó là: khi không còn thương yêu, thân mật, cần nhau nữa; khi đã hết hấp dẫn, lôi cuốn nhau thì người ta bắt đầu chán chường, tránh mặt nhau. Khi khuôn mặt của Thiên Chúa đã nhạt nhòe, phai mờ dần thì hình ảnh của một vị thần vô danh nào đó hiện ra rõ nét, đầy thu hút, ma lực. Có một điều chúng ta phải nhận thức rằng: ai biết Chúa, nhưng rồi trốn tránh hay chối bỏ Ngài là phạm tội.
Thánh Tomas Aquinô giải thích rằng có ba loại tội chống lại ba ngôi Thiên Chúa:”Một tội có thể phạm bằng ba cách, hoặc do ngu dốt, hoặc do cảm xúc hoặc chủ ý. Vì ngu dốt nên không biết về những điều nêu trên, vì sự hiểu biết có thể ngăn ngừa phạm tội. Do đó sự ngu dốt là nguyên nhân làm cho tội lỗi hiện hữu. Đây là loại tội chống lại Chúa Con. Thứ hai, những tội lỗi bắt nguồn từ cảm xúc, vì chỉ dựa hoàn toàn vào xúc cảm mà bỏ qua sự suy xét của lý trí. Và đây là những tội phạm phải do sự yếu đuối của ý chí, nó là loại tội chống lại Thiên Chúa Cha. Thứ ba là những tội do chủ ý, cố tình vi phạm mặc dù biết nó là tội, không phải phạm tội vì bị cám dỗ, hay không tránh thoát, nhưng bởi vì có xu hướng muốn phạm tội, nên chính bản thân của tội đó đã làm thỏa mãn đương sự. Đây là tội phát xuất từ ác tâm, hiểm độc và nó là loại tội chống lại Chúa Thánh Thần”.
Tóm lại, trên thế gian này có rất nhiều điều không thể giải thích hoặc hiểu thấu hết được, cũng như những mầu nhiệm trong Kitô Giáo, nhất là mầu nhiệm một Chúa nhưng Ba Ngôi Vị -đây là mầu nhiệm chính của đạo và chỉ có thể hiểu thấu khi được ở với Ngài, trên thiên quốc-. Chưa kể có những con số cứ trùng lặp trong Phúc Am, cũng đã làm cho chúng ta đau đầu không sao hiểu nổi. Như con số 3 chẳng hạn. Tại sao lại Một Chúa có Ba Ngôi; tại sao Chúa chỉ sống có 33 năm; tại sao 30 tuổi Chúa bắt đầu cuộc đời rao giảng; tại sao Chúa chỉ rao giảng có 3 năm; tại sao Chúa hấp hối đúng 3 giờ trên thập giá; tại sao sau khi chết, 3 ngày Chúa sống lại v.v… Chân lý rõ ràng nhất không thể chối cãi được: Thiên Chúa là Tình Yêu, và đây là đường hướng cho mọi Kitô hữu. Và yêu Thiên Chúa thì không khó -vì không thấy-, nhưng yêu anh em mình như luật Chúa đòi hỏi mới là điều rất khó. Để kết thúc, chúng ta nghe Bishop Sheen nói về “Bí Quyết Tình Yêu”: Một lần tôi gạt bỏ hết cái hời hợt, hào nhoáng bên ngoài để đạt cho được cái cốt lõi qúy báu bên trong, từ đó tôi tìm ra cho mình một bí quyết của tình yêu: Tôi thấy rằng mình không thể yêu thương bất cứ ai, trừ khi người ấy phải có vài điểm tốt đẹp; hay đáng yêu trên một vài phương diện nào đó. Nhưng tôi lại thấy rằng, Chúa đã không yêu thương tôi vì tôi đ¨¢ng yêu! Tôi chỉ trở thành đáng yêu khi Chúa rót vào tôi một ít sự tốt đẹp, thiện hảo và tình yêu của Ngài. Thế là tôi bắt đầu áp dụng nhân đức này cho người chung quanh. Nếu tôi thấy anh ta không đáng yêu chút nào, tôi phải cố rót vào anh ta một vài nét đáng yêu, một vài điều tốt lành nào đó – như Chúa đã làm với tôi- thế là tôi có thể yêu thương anh ta được! Lúc này nhân cách nguyên thủy của tôi đã được phục hồi và tôi khám phá ra một điều vô cùng quan trọng, đó là: không ai có hạnh phúc được, nếu không yêu thương cả Thiên Chúa lẫn người chung quanh”.

62. Suy niệm của Lm Nguyễn Minh Hùng.
GIA ĐÌNH LÀ CỘNG ĐỒNG TÌNH YÊU PHẢN CHIẾU TÌNH YÊU BA NGÔI
Trong lịch sử, người ta thường dùng những hình ảnh khác nhau để trình bày mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chẳng hạn hình ảnh của một ngọn lửa. Trong lửa luôn luôn có ba yếu tố: lửa – ánh sáng – sức nóng. Ba yếu tố đó không lẫn lộn vào nhau: ánh sáng là ánh sáng, lửa là lửa, sức nóng là sức nóng. Ba yếu tố phân biệt rõ ràng, nhưng cũng không bao giờ tách biệt khỏi nhau, ngược lại gắn chặt vào nhau. Có lửa là có ánh sáng, có sức nóng.
Từ hình ảnh ngọn lửa, người ta áp dụng để giải thích mầu nhiệm Thiên Chúa ba Ngôi. Ba Ngôi chỉ là một Chúa duy nhất, nhưng phân biệt rõ ràng: Chúa Cha – Chúa Con – Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi nhưng cũng chỉ là một. Và một Thiên Chúa nhưng vẫn cứ là Ba Ngôi. Cũng như không thể lấy đi ánh sáng khỏi lửa và bảo rằng lửa cứ cháy mà không cần ánh sáng được. Cũng vậy, vì ba Ngôi vẫn chỉ là một Thiên Chúa, nên mọi hoạt động nơi Thiên Chúa đều quy về Ba Ngôi…
Dẫu sao mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi vẫn chỉ là một huyền nhiệm lớn lao đối với con người. Đi tìm câu trả lời cho huyền nhiệm ấy, con người làm một sự cố gắng vượt trên sức hiểu biết của mình. Bởi thế, những hình ảnh mà con người cố gắng suy nghĩ để giải thích, dù có hay đến mấy, vẫn chỉ là một cố gắng còn khiếm diện và bất toàn mà thôi.
Điều hay nhất chúng ta cần làm có lẽ không phải là khám phá tới cùng mầu nhiệm Thiên Chúa cho bằng quay về với chính mình để sống làm sao cho xứng đáng với tình yêu của Chúa Ba Ngôi.
Bởi vậy, tôi muốn mời bạn cùng tôi suy nghĩ về gia đình vì gia đình là một cộng đồng tình yêu, phản chiếu tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi.
Từ xưa, trong Hội Thánh đã có thói quen áp dụng hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa Ba ngôi là kiểu mẫu của tình yêu cha – mẹ – con cái. Ngay từ trong cung lòng mình, tình yêu Thiên Chúa đã là một tình yêu trao ban, tình yêu mở ra, vì thế một mà lại là ba: Trao ban giữa Cha, Con, Thánh Thần.
Nếu Ba Ngôi là kiểu mẫu của gia đình thì mọi thành viên trong gia đình cũng phải yêu nhau bằng tình yêu trao ban, tình yêu hiến thân, tình yêu mở ra đối với người mà mình yêu. Tình yêu gia đình đòi hỏi có nhau, cho nhau và vì nhau. Nếu một thành viên nào trong gia đình chỉ biết có bản thân mình, yêu nhưng chỉ yêu chính mình, tình yêu đó đang phản lại kiểu mẫu của tình yêu Ba Ngôi. Không thể chấp nhận được một người chồng, một người cha quyên trách nhiệm của mình, chỉ biết có say sỉn, còn vợ con có khổ, có đói không đoái hoài tới.
Cũng không ai có thể chấp nhận được một người vợ, một người mẹ tệ cho đến mức quyên hết vai trò của mình, chỉ biết bài bạc, có khi thức thâu đêm suốt sáng chỉ để thỏa đam mê thấp kém này.
Chúng ta cũng không thể chấp nhận hình ảnh một đứa con trả treo với cha mẹ. Có khi bất chấp cha mẹ có khả năng hay không, nó đòi cho bằng được điều mà nó muốn có.
Tất cả những hình ảnh trên đều đi ngược lại tình yêu Ba Ngôi. Vì đó chỉ là một thứ ích kỷ, vụ lợi cho bản thân. Trên hết mọi sự, hãy bắt chước tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa: Yêu là cho đi, là rộng ban, là mở ra. Hãy sống làm sao để gia đình trở thành cộng đồng tình yêu, phản chiếu tình yêu Ba Ngôi.

63. Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng.
Tôn thờ Chúa Ba Ngôi trong đời sống
Mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi không được mạc khải trong Thánh kinh Cựu ước, bởi vì dân riêng của Chúa trong Cựu ước chưa sẵn sàng đón nhận Màu nhiệm này. Đối với người Do Thái, cái thiết yếu trong nền tôn giáo của họ là độc thần, nghĩa là họ chỉ tôn thờ một Chúa. Như ta thấy trong bài trích sách Đệ Nhị Luật hôm nay, Thiên Chúa bày tỏ mình cho Mô-sê như là Chúa tể duy nhất, Đấng sáng tạo và chủ thể vũ trụ. Bị bao vây bởi các dân thờ đa thần, cho nên bất cứ một ý thức nào về Ba ngôi Thiên chúa có thể làm suy giảm lòng tin của họ vào một Chúa. Như vậy thì cái ý tưởng của họ về Ba ngôi Thiên Chúa vừa nhắc đến có thể khiến họ lầm tưởng rằng có ba chúa, ba thần, mà ba chúa – ba thần đối với họ là điều nghịch với bản tính Thiên Chúa đã được mạc khải cho họ. Thế nên Thánh kinh Cựu ước không nói gì về màu nhiệm một Chúa Ba ngôi. Đôi khi Thánh kinh Cựu ước mới ám chỉ – ám chỉ chứ không nói rõ – về Ba ngôi Thiên Chúa mà thôi. Chẳng hạn như trong sách Sáng thế, Thiên chúa dùng số nhiều để nói về mình: Chúng ta hãy tạo dựng con người theo hình ảnh chúng ta (St 1:26). Đại danh từ ngôi thứ nhất số nhiều ở đây là chúng ta ám chỉ rằng có hơn một ngôi vị trong Thiên chúa.
Chỉ khi Chúa Giêsu xuống thế làm người chứng tỏ người là con Thiên Chúa và hứa sai Chúa Thánh thần xuống để an ủi, thánh hoá và ban sức mạnh cho loài người, thì tín điều Ba ngôi Thiên Chúa mới được tỏ hiện. Khi Gio-an tiền hô làm phép rửa cho Đấng cứu thế ở sông Gio-đan, thì Chúa Thánh thần và Thiên Chúa Cha cũng được bày tỏ. Khi ra khỏi nước, Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và kìa có tiếng từ trời phán: ‘Đây là Con yêu quí của Ta, Ta hài lòng về Người’ (Mt 3:16-17). Trong bữa Tiệc ly, Chúa Giêsu còn bày tỏ cho các tông đồ về Chúa Thánh thần: Thày ra đi thì có lợi cho chúng con hơn. Nếu Thày không đi, Đấng Phù Trợ sẽ không đến với chúng con (Ga 16:7).
Như vậy trong dòng lịch sử cứu độ, Chúa Cha được bày tỏ trước tiên, rồi đến Chúa Con, và Chúa Thánh thần. Ba ngôi trong một Chúa là một Màu nhiệm. Ta có thể dùng cái hình tam giác cân để diễn tả Màu nhiệm đó. Trong hình tam giác cân, ta thấy ba cạnh và ba góc đều nhau và bằng nhau. Khi học kinh bổn hồi nhỏ, ta còn nhớ học bằng cách tự hỏi, rồi tự thưa. Những người sinh trước năm 1960 hẳn còn nhớ thưa thế nào cho câu hỏi: Hỏi Đức Chuá trời có mấy ngôi? Rồi người học tự thưa theo sách, hay thưa theo những người đọc thuộc lòng: Thưa Đức Chúa trời có Ba ngôi: ngôi Nhất là Cha, ngôi Hai là Con, ngôi Ba là Thánh thần. Rồi Sách lại hỏi thêm: Hỏi trong Ba ngôi, có ngôi nào trước, ngôi nào sau, ngôi là hơn, ngôi nào kém chăng? Họ lại tự thưa theo Sách Bổn: Thưa Ba ngôi cũng bằng nhau. Sở sĩ trước đây giáo dân học kinh bổn thuộc lòng như vậy là vì người ta thiếu sách vở, và có những người lại không biết đọc. Việc học thuộc lòng như vậy còn có điểm lợi là ghi vào ký ức của họ một niềm tin sắt đá.
Một trong những điều Giáo hội muốn nhắc nhở cho ta về Chúa Ba ngôi là dấu thánh giá. Dấu thánh giá nhắc nhở cho ta về lòng tin vào hai màu nhiệm quan trọng trong đức tin công giáo là màu nhiệm một Chúa Ba ngôi và màu nhiệm Cứu chuộc. Ta thấy linh mục rửa tội nhân danh Chúa Ba ngôi như lời Chúa dạy: Các con hãy làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh thần (Mt 28:20). Các bí tích khác cũng được cử hành nhân danh Chúa Ba ngôi. Linh mục kêu cầu Chúa Ba ngôi khi cử hành Bí tích Giải tội. Linh mục xức dầu bệnh nhân, nhân danh Chúa Ba ngôi. Đức giám mục cử hành Bí tích Thêm sức trong dấu Chúa Ba ngôi. Ta bắt đầu và kết thúc kinh đọc bằng dấu thánh giá tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba ngôi. Trước khi ăn, ta cũng làm dấu thánh giá, tạ ơn Chúa Ba ngôi cho ta của ăn hàng ngày.
Thiết tưởng hôm nay nhân ngày lễ kính Chúa Ba ngôi ta cần giải đáp một vài thắc mắc:
Ta có ý thức được chỗ đứng của Chúa Ba ngôi trong đời sống chưa?
Dấu thánh giá có nhắc nhở cho ta về lòng tin vào Chúa Ba ngôi không?
Ta có làm dấu thánh giá cách ý thức và kính cẩn, hay làm một cách cẩu thả vô ý thức?

64. Suy niệm của JKN.
Đức Giêsu hiện ra tại Galilê, và sai môn đệ đi đến với muôn dân
Câu hỏi gợi ý:
1. Ba Ngôi Thiên Chúa khác biệt nhau, hay đồng dạng với nhau? Nếu bản chất khác biệt nhau, có Ngôi nào muốn bắt các Ngôi kia phải trở nên giống mình không? Sự hiệp nhất của Ba Ngôi xây dựng trên tinh thần “hiệp nhất trong đa dạng” hay “thống nhất bằng đồng dạng”?
2. Vũ trụ vạn vật mà Ba Ngôi tạo dựng là đa dạng hay đồng dạng với nhau? Thiên Chúa có muốn chúng ta biến vạn vật thành đồng dạng không? Bắt mọi người phải đồng dạng với mình thì có hợp với ý Thiên Chúa không?
Suy tư gợi ý:
1. Hiệp nhất trong đa dạng nơi Ba Ngôi Thiên Chúa
Thiên Chúa theo quan niệm Kitô giáo là một Thiên Chúa duy nhất, nhưng lại gồm có ba Ngôi – nói nôm na là ba Đấng, ba Vị hay ba “Người” – khác biệt nhau. Ba Ngôi nhưng mỗi Ngôi một vẻ, không Ngôi nào giống Ngôi nào. Ba Ngôi khác biệt nhau, nhưng lại hoàn toàn bình đẳng, và không Ngôi nào muốn Ngôi kia phải trở nên giống như mình. Chính vì chấp nhận và tôn trọng sự đa dạng của nhau, mà Ba Ngôi sống hòa bình với nhau, hợp tác chặt chẽ với nhau, yêu thương nhau, và hiệp nhất với nhau chặt chẽ tới mức độ chỉ còn là một Thiên Chúa duy nhất.
2. Sự khác biệt và đa dạng trong vũ trụ vạn vật
Ba Ngôi khác biệt nhau và đa dạng như vậy, nên đã tạo dựng nên một vũ trụ cũng đầy khác biệt và đa hình đa dạng vô cùng. Ngài tạo dựng nên muôn loài khác biệt nhau, và loài nào cũng lại phân chia thành nhiều cấp độ khác nhau với những chủng loại khác nhau. Nhờ đó vũ trụ trở nên vô cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ. Thật vậy, tinh tú trên trời thì đủ kiểu đủ loại. Con người người thì đủ mọi chủng tộc, đủ mọi ngôn ngữ, đủ mọi nền văn hóa khác biệt nhau. Thú vật và thực vật thì lại càng đa hình đa dạng hơn: loại sống trên trời, loại trên đất, loại dưới nước, loại thật to như đại bàng, cổ thụ, loại thật nhỏ như vi trùng, vi-rút, loại ăn thịt, loại ăn cỏ… Vạn vật phong phú và đa dạng đến nỗi con người từ khi biết khám phá đến nay vẫn chỉ thấy mình khám phá được một phần rất nhỏ. Chỉ riêng loài hoa thôi đã có cả hàng chục ngàn giống khác nhau. Vạn vật tuy vô cùng đa dạng như thế, nhưng vật nào cũng có cái hay cái đẹp riêng của nó và trở nên một toàn thể rất hài hòa. Chính vì thế mà vũ trụ mới tươi đẹp huy hoàng làm sao! Thử tưởng tượng xem nếu Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong đó vạn vật đồng dạng với nhau, nghĩa là chỉ có một loài duy nhất, loài này cũng chỉ có một chủng loại duy nhất thì vũ trụ sẽ buồn thảm biết bao! Chỉ cần xét loài hoa: nếu hoa chỉ có một loại duy nhất – dù là loại được hầu hết mọi người coi là đẹp nhất – thì thế giới sẽ bớt đẹp, bớt thơ mộng và phong phú đi biết bao!
Riêng xã hội con người, Thiên Chúa đã gầy dựng trong đó nhiều dân tộc với những nền văn minh, văn hóa, phong tục, nề nếp suy nghĩ khác nhau. Thiên Chúa cũng cho xuất hiện nhiều tôn giáo với những nghi thức, tín điều, với những cách gọi tên, cách quan niệm hay cách nhìn về Thực Tại Tối Hậu khác biệt nhau; v.v… Nói về từng người, thì mỗi người một vẻ, mỗi người một diện mạo, một tài năng, một tính tình, một quan niệm, một lối suy nghĩ khác nhau: “bá nhân bá tính”. Ngay như khi cùng nhau nhìn vào một sự vật cụ thể, thì mỗi người lại có một cách nhìn khác nhau, cách diễn tả về vật ấy cũng khác nhau, thậm chí gọi vật ấy bằng những tên khác nhau. Một vật cụ thể hữu hạn mà người ta còn có nhiều cách nhìn khác nhau như vậy, huống gì khi họ suy nghĩ về những thứ vô hình, nhất là những thực tại không thể quan niệm hay suy nghĩ được, chẳng hạn khi suy nghĩ về tuyệt đối, về nguồn gốc siêu hình của vũ trụ vạn vật… làm sao mà họ quan niệm và nhìn cách giống nhau cho được? Thôi thì đủ mọi loại quan niệm, đủ mọi kiểu nhìn, đủ mọi tên gọi khác nhau cho Thực Tại Tối Hậu duy nhất ấy!
Những cách nhìn khác nhau ấy – dù là hướng về một vật hết sức cụ thể hay về những thực tại hết sức trừu tượng – cũng thường bổ túc cho nhau dẫu có mâu thuẫn lẫn nhau, để – nếu tổng hợp lại – sẽ có được một cái nhìn toàn diện hơn, đầy đủ hơn. Chính nhờ sự khác nhau ấy mà con người mới cần lẫn nhau, mới phải hợp tác với nhau, mới yêu thương nhau. Chẳng hạn khi xây một căn nhà, người ta cần có đồ họa của kiến trúc sư, cần khả năng thực hiện tổng quát của nhà thầu khoán, cần sự khéo léo của đủ loại thợ (mộc, xây, trang trí, điện…), cần những nhà cung cấp vật tư khác nhau (gạch, xi măng, sắt, gỗ, ống nước, đồ điện…). Ông kiến trúc sư có tài giỏi đến đâu mà không nhờ thầu khoán thực hiện thì cũng chẳng làm nên trò trống gì! Ông thầu khoán mà không thuê được thợ thì cũng đành bó tay bất lực! Thợ khéo léo hay tài giỏi đến đâu mà không có kiến trúc sư hay thầu khoán thì cũng chẳng biết phải làm gì. Nhờ tài năng khác nhau mà người ta cần lẫn nhau, kết hợp với nhau, yêu thương nhau! Thiên Chúa của chúng ta – gồm Ba Ngôi khác biệt, tuy đa dạng nhưng lại hiệp nhất – đã muốn như thế, chúng ta không nên đi ngược lại đường lối của Ngài!
3. Khuynh hướng phản đa dạng của con người
Thế nhưng trên thế giới có biết bao nhiêu con người, bao nhiêu tập thể muốn đi ngược lại ý muốn của Thiên Chúa, muốn chống lại luật “vạn vật đa dạng” của Ngài. Họ muốn tất cả mọi người phải nghĩ giống như họ, làm giống như họ, chỉ theo một lập trường duy nhất là lập trường của họ, vì họ cho rằng chỉ có họ là nghĩ đúng, làm đúng, lập trường của họ là duy nhất đúng hoặc đúng hơn cả. Ai khác họ là họ khó chịu, bực bội, kết án, loại trừ. Họ muốn trên thế giới này chỉ có một bè đảng duy nhất là bè đảng của họ, một ý thức hệ duy nhất là ý thức hệ của họ, một tôn giáo duy nhất là tôn giáo của họ, một đoàn thể duy nhất là đoàn thể của họ… Và họ nỗ lực để biến thế giới đa dạng này thành độc dạng hay đồng dạng (uniforme), thậm chí với tất cả thiện chí hay lòng thành của họ. Biện pháp của họ là loại trừ tất cả những ai khác với họ. Ai chủ trương khác với họ thì bị coi là đối lập, là kẻ thù, cần phải tiêu diệt.
Rất tiếc là trên thế giới này không chỉ có một bè đảng, một tôn giáo, một đoàn thể duy nhất nghĩ mình là duy nhất đúng hoặc đ¨²ng hơn cả và chủ trương loại trừ những ai khác với mình, mà có nhiều bè đảng, nhiều tôn giáo, nhiều đoàn thể nghĩ và chủ trương như vậy. Thế là có chiến tranh: bè đảng này tìm cách diệt bè đảng kia, tôn giáo này diệt tôn giáo kia, đoàn thể này diệt đoàn thể kia. Bè đảng nào, tôn giáo nào, đoàn thể nào cũng đều nhân danh sự thiện, sự đúng của mình – mà họ nghĩ là duy nhất thiện, duy nhất đúng – để tiêu diệt những gì mà họ cho rằng chắc chắn là sai lầm, xấu xa. Ai cũng có những “vũ khí” riêng của mình để ép buộc người khác theo mình, trung thành với mình, đồng dạng với mình. Bè đảng thì dùng vũ lực, âm mưu chính trị. Tôn giáo thì dùng những quyền lực thiêng liêng của mình. Đoàn thể thì dùng kỷ luật riêng của đoàn thể.
Nhưng hễ phản lại ý muốn của Thiên Chúa thì chỉ gây rối loạn. Đáng lẽ con người phải tôn trọng sự khác biệt nhau như một hồng ân Thiên Chúa ban để bổ túc lẫn nhau, để hợp tác với nhau, và để nhờ đó mà dễ yêu thương nhau, dễ đi đến hiệp nhất. Hiệp nhất ở đây là thứ hiệp nhất trong đa dạng. Có tôn trọng sự khác biệt của nhau thì mới có thể hiệp nhất được. Nhưng con người lại coi tình trạng đa dạng đó như một bất lợi cho “cái tôi tập thể” của mình. “Cái tôi” nào – dù là cá nhân hay tập thể – thì cũng ích kỷ, muốn đề cao mình và những gì của mình, muốn mình phải trổi vượt hơn những “cái tôi” khác, và những gì của mình cũng phải trổi vượt hơn những gì của những “cái tôi” khác. “Cái tôi” nào cũng muốn dùng thế mạnh của mình để hiếp đáp những “cái tôi” khác yếu thế hơn, bắt những “cái tôi” khác phải theo mình, phải đồng dạng với mình. Họ muốn “thống nhất bằng đồng dạng”.
4. “Hiệp nhất trong đa dạng” là ý muốn của Thiên Chúa
Ôi, chính cái ý chí muốn “thống nhất bằng đồng dạng” này đã gây nên biết bao cảnh “nồi da xáo thịt” trong các quốc gia, cảnh các “bè phái ly khai” trong các tôn giáo, cảnh chia rẽ nhau trong các đoàn thể. Đúng là chưa phát triển được ra bên ngoài thì đã bị chia rẽ nội bộ. Thiết tưởng thế giới đã phải đau khổ rất nhiều, phải chịu biết bao cảnh đau thương tang tóc chỉ vì những tham vọng “thống nhất bằng đồng dạng” của các bè đảng, tôn giáo, đoàn thể. Nhưng thực tế hiện nay chứng tỏ rằng tham vọng đó càng ngày càng trở nên phi lý, phản tiến bộ và bất khả thi. Thật vậy, khuynh hướng của thế giới, của các quốc gia dân tộc càng ngày càng đòi hỏi phải “đa nguyên chính trị”, phải “đa đảng”, phải loại trừ độc tài. Chủ trương “độc đảng”, “độc tài” đang dần dần bị đào thải khỏi nhân loại vì chủ trương này chỉ làm cho quốc gia dân tộc mình bị băng hoại, nghèo khổ và chậm tiến. Các tôn giáo thì tôn giáo nào cũng muốn trở thành tôn giáo toàn cầu và đều nỗ lực tối đa để đạt được điều đó; nhưng dường như ngày nay tôn giáo nào cũng đều đi đến tình trạng “bão hòa”, nghĩa là khó có thể phát triển thêm về tỷ lệ dân số. Vì ai đã theo tôn giáo nào thì khó mà bỏ tôn giáo mình để theo tôn giáo khác, vì tôn giáo nào cũng có những biện pháp riêng khá hữu hiệu để giữ tín đồ của tôn giáo mình lại. Tuy vẫn có những người thay đổi tôn giáo, nhưng khi có những người tôn giáo này bỏ sang tôn giáo kia, thì ngược lại cũng lại có những người tôn giáo kia bỏ sang tôn giáo này. Cuối cùng vẫn phải chấp nhận một “thế giới đa nguyên tôn giáo”, như một “dấu hiệu của thời đại” (signum temporum) để nhận ra ý muốn của Thiên Chúa. Các đoàn thể cũng tương tự như thế.
Vì thế, đã đến lúc các bè đảng, các tôn giáo, các đoàn thể phải nhận ra rằng càng muốn “thống nhất bằng đồng dạng” thì càng gây nên chia rẽ, xáo trộn, và đau khổ cho nhân loại, vì điều này chống lại luật tự nhiên của Thiên Chúa. Trái lại, càng muốn “hiệp nhất trong đa dạng” – nghĩa là đến với nhau trong tinh thần tôn trọng sự khác biệt và đa dạng – thì càng dễ đoàn kết, càng dễ gắn bó yêu thương nhau. Vì sự “hiệp nhất trong đa dạng” chính là ý muốn của Thiên Chúa. Và sự hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa chính là gương mẫu toàn hảo nhất của sự “hiệp nhất trong đa dạng” mà chúng ta phải noi theo. Gia đình nào, dân tộc nào, tôn giáo nào, tập thể nào biết noi gương này thì sẽ càng ngày càng trở nên hạnh phúc, thịnh vượng và phát triển.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con cũng như các Kitô hữu và mọi tín đồ của các tôn giáo biết noi gương “hiệp nhất trong đa dạng” của Ba Ngôi Thiên Chúa; biết tôn trọng sự khác biệt và đa dạng mà Cha đã tạo nên nơi mỗi người, mỗi dân tộc, mỗi nền văn hóa, mỗi quốc gia, mỗi tôn giáo… Xin cho chúng con biết chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của nhau, đừng ép ai phải giống mình. Để chúng con nhận ra rằng chúng con cần lẫn nhau, cần đến với nhau, cần tìm hiểu, thông cảm, hợp tác với nhau, và nhất là cần yêu thương nhau như Cha hằng mong muốn điều đó. Amen.

65. Người mang Thiên Chúa – Lm Minh Vận.
Kirchner, một nhà thiên văn nổi tiếng, có một bạn học là người vô thần. Một hôm, ông bạn này tới thăm nhà thiên văn và rất thích thú ngắm nghía mô hình thái dương hệ đặt trên bàn giấy. Mỗi khi dùng cần quay, thì cả thái dương hệ di chuyển theo đúng vị trí của mỗi hành tinh. Ông bạn vô thần hỏi:
– Hay thiệt, ai làm mô hình này vậy?
– Chẳng ai làm cả, nhà thiên văn trả lời.
– Thật đó, nói đi, tôi thật muốn biết, nhà vô thần nói tiếp.
– Thì tôi vừa nói với anh là không ai làm cả. Nó tự mình mà có, nhà thiên văn đáp.
Ông bạn vô thần lúc này cảm thấy hơi nóng mặt, nên nói gằn từng tiếng: “Thì ra anh chơi tôi đấy phải không?” Nhà thiên văn đáp: “Xin lỗi anh, nhưng tôi chỉ muốn cho anh thấy cái vô lý của anh. Trong khi anh không tin cái mô hình đó tự nó mà có, anh lại cho rằng mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, và cả vũ trụ hiện hữu mà không có Đấng Tạo Dựng!”
Người bạn vô thần lặng lẽ từ giã ra về, lòng suy nghĩ miên man, rồi cuối cùng đã xin trở lại gia nhập Giáo Hội Công Giáo.
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội dâng Thánh Lễ kính thờ Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi. Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao trọng nhất trong Kitô Giáo: Một Thiên Chúa duy nhất mà có Ba Ngôi riêng biệt, Thiên Chúa Ngôi Cha, Thiên Chúa Ngôi Con và Thiên Chúa Ngôi Thánh Linh. Chúa Cha tạo dựng vũ trụ, Chúa Con Cứu Chuộc muôn dân và Chúa Thánh Linh thánh hóa các linh hồn.
Đây là một mầu nhiệm thuộc đời sống thâm sâu của Thiên Chúa, nó vượt mọi khả năng hiểu biết và suy luận của trí khôn hữu hạn con người. Các nhà bác học dù khôn ngoan thông thái đến đâu cũng không thể hiểu hết được cái vũ trụ vật chất đang hiển hiện trước mắt, mà chỉ mò mẫm khám phá được một phần nào nơi các công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Vậy con người càng phải thú nhận sự bất lực của chính mình, trước một mầu nhiệm cao trọng nhất của Đức Tin, đó là Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta hãy hết lòng khiêm tốn suy phục và tôn thờ những điều Chúa đã mạc khải trong Thánh Kinh, với thế giá là Đấng chân thật vô cùng, không hề lừa dối ai và cũng không ai có thể lừa dối được Ngài.
I. MẶC KHẢI CHÚA BA NGÔI TRONG TÂN ƯỚC
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, chính Chúa Kitô, là Thiên Chúa Ngôi Hai nhập thể làm người đã mạc khải cho chúng ta về Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi, qua thánh lệnh Ngài truyền cho các Tông Đồ: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được Chúa Cha trao ban cho Thầy, vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm Phép Rửa cho họ nhân Cha và Con và Thánh Thần, hãy dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”. Chúa còn phán tiếp: “Thầy hứa sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:19-20).
Nơi khác, Chúa hứa yêu thương và đến ngự trong lòng những kẻ yêu mến và tuân giữ giáo huấn của Ngài: “Ai yêu mến và tuân giữ giáo huấn của Thầy, Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy và Chúng Ta sẽ đến và ngự trong người ấy” (Jn. 14:23). Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi còn được mạc khải ở nhiều nơi khác trong Tân Ước, như dịp Chúa tỏ vinh quang của Người cho ba môn đệ (Mt 17), dịp Chúa chịu Phép Rửa tại sông Jordan (Mt 3:13-17).
Đó là những chân lý Chúa và Giáo Hội dạy chúng ta phải tin, hằng ngày chúng ta tuyên xưng niềm tin đó khi chúng ta làm Dấu Thánh Giá, đọc kinh Sáng Danh, và tuyên xưng trong kinh Tin Kính, hoặc các trường hợp khác tương tự khi tham dự các Nghi Lễ Phụng Vụ.
II. ĐỀN THỜ SỐNG ĐỘNG CỦA CHÚA BA NGÔI
Khi lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy, chúng ta được diễm phúc trở nên con Thiên Chúa, được Chúa Ba Ngôi ngự trong hồn xác chúng ta như Đền Thờ sống động, như Thiên Đàng của Người. Chúng ta còn được sống bằng sức sống thần linh của Chúa, nhờ công nghiệp Ơn Cứu Chuộc của Chúa Kitô.
Chính nhờ niềm tin Chúa Ba Ngôi ngự trong linh hồn, mà biết bao người đã biết sống cuộc đời trong sạch; bao tội nhân đã được ơn cải thiện, bỏ đàng tội lỗi trở về với Chúa; bao chính nhân đã anh dũng hy sinh vì Chúa, sẵn sàng hy hiến cuộc đời để bênh vực Đức Tin; bao thanh niên nam nữ đã hy sinh cả cuộc đời mộng mơ, thánh hiến bản thân và cả cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa; bao vị tông đồ đã từ bỏ quê cha đất tổ, với nếp sống đầy đủ tiện nghi thoải mái, để chọn một cuộc sống khổ cực nghèo nàn vất vả nơi các xứ truyền giáo, nhiều khi phải liều cả mạng sống mình để chinh phục các linh hồn về cho Chúa.
III. NGHĨA VỤ KHẨN THIẾT CỦA CHÚNG TA
Là con cái Chúa và Giáo Hội, chúng ta phải có nghĩa vụ nào với ơn cao cả được Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta? Chúa ngự trong tâm hồn chúng ta không phải chỉ như một Thiên Chúa, một Chủ Tể tối cao hiện diện trong các thụ tạo của Người; mà hơn nữa, Chúa còn ngự trong tâm hồn chúng ta như một Người Cha Nhân Từ hằng yêu thương con cái, như lời Chúa Cứu Thế đã dạy chúng ta cầu xin với Người: “Lạy Cha chúng con ngự trên trời”. Chúa quan đến mọi nhu cầu dù rất nhỏ mọn, chẳng khác gì một bà mẹ săn sóc con nhỏ của mình. Chính Chúa đã bày tỏ lòng yêu thương đó, khi sánh Mình như một bà mẹ qua lời Chúa phán với tiên tri Isaia: “Các con được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm vào lòng, nâng niu trên đầu gối, như mẹ hiền âu yếm con thơ, Cha cũng cưng yêu vỗ về các con như vậy” (Is 66:12-13).
Tình Chúa yêu thương chúng ta còn tới chỗ thái quá khi nâng chúng ta lên ngang hàng với Người và gọi chúng ta là bạn: “Thầy không còn gọi các con là tôi tớ nữa, nhưng Thầy gọi các con là Bạn Tâm Phúc, vì tất cả những điều Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, Thầy đã tỏ cho các con biết” (Jn 15:15).
Chúa còn ngự trong tâm hồn chúng ta như Đấng Thánh Hóa, luôn trào đổ muôn ơn lành xuống trên chúng ta, ban cho chúng ta các nhân đức và hồng ân của Người, giúp chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi và quyền lực Satan, hầu chúng ta được sống xứng đáng với ơn gọi cao cả làm con Chúa, làm Đền Thờ sống động Chúa hằng sung sướng hiển ngự.
Vậy nghĩa vụ khẩn thiết chúng ta phải có đối với Chúa Ba Ngôi là:
1. Tôn Thờ: Chúng ta cần phải dâng lên Chúa lòng tôn thờ xứng đ¨¢ng như một nghĩa vụ khẩn thiết của một thụ tạo phải có đối với Đấng Tạo Hóa, bằng cách luôn hiệp với Hiến Lễ Thánh Thể hằng tiến dâng nơi các bàn thờ trên khắp thế giới, nhất là mỗi khi chúng ta cử hành hay tham dự Thánh Lễ Misa; đồng thời; biến cả cuộc đời chúng ta cùng với Công Nghiệp và Giá Máu Chúa Cứu Thế, thành một Thánh Lễ liên tiếp để tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh, vì chỉ có Lễ Hy Sinh của Chúa Kitô mới có giá trị vô song, tái diễn Lễ Hiến Tế Núi Sọ mới đáng được Thiên Chúa hài lòng chấp nhận. Không bao giờ cố tình tục hóa Đền Thờ bản thân chúng ta đã được hiến dâng cho Chúa ngày chúng ta lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy, như lời Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Anh em không biết rằng anh em là Đền Thờ Thiên Chúa sao, ai tục hóa Đền Thờ Thiên Chúa, sẽ bị Chúa hủy diệt” (1 Cor 3:16).
2. Yêu Mến: Chúng ta hãy hết lòng yêu mến Chúa, bằng cách không từ chối Chúa điều gì, luôn làm hài lòng Chúa, làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa, dâng trót tình yêu cho Chúa, đáp lại lòng Chúa khát khao: “Con hãy dâng trái tim con cho Cha!” (Prov 23:26) hợp với thánh lệnh Chúa truyền: “Con hãy yêu mến Thiên Chúa là Chúa con hết lòng, hết sức, hết trí khôn, hết tâm hồn con” (Mt 22:37).
3. Biết Ơn: Để tỏ lòng biết ơn Chúa vì những ơn phúc Chúa đã ban, ơn được làm con Chúa, ơn được làm Bạn Tâm Phúc của Chúa Kitô, ơn được trở nên Thừa Tác Viên phân phát các mầu nhiệm thánh… Chúng ta hãy cẩn phòng bảo toàn ơn thánh đã lãnh nhận, luôn giữ tâm hồn trong sạch sống trong ơn nghĩa Chúa, luôn làm hòa lòng Chúa, không bao giờ xúc phạm đến Chúa, bằng cách cố tình phạm bất cứ một tội lỗi nào, nhất là tội trọng, vì phạm tội trọng là trục xuất Chúa Ba Ngôi ra khỏi tâm hồn, đón rước ma quỉ vào thống trị tâm hồn mình. Hơn nữa, cần phải cố gắng giãi sáng ơn thánh Chúa bằng sống đời gương mẫu thánh thiện, nên chứng nhân chinh phục cho Chúa các linh hồn, để chớ gì tất cả những ai chúng ta giao tiếp, những ai chúng ta có sứ mạng phục vụ, đều cảm nhận thấy nơi bản thân chúng ta là “Người mang Thiên Chúa trong lòng”.
Kết Luận
Những ai được tham dự các buổi triều yết Đức Thánh Cha Piô XII đều có cùng một nhận định khi quả quyết rằng: “Chúng tôi có cảm giác như ngài đang thấy Thiên Chúa hiện diện”. Một bác nông phu nhà quê cũng phát biểu một tư tưởng tương tự, khi được mời tới thẩm vấn để lập hồ sơ xin phong Thánh cho Thánh Gioan Maria Vianney: “Tôi đã thấy Thiên Chúa nơi ngài!”
Vậy, người ta sẽ phát biểu thế nào khi thấy chúng ta, là những con người được diễm phúc mang danh nghĩa là con Thiên Chúa, là Bạn Tâm Phúc của Chúa Kitô, là Chúa Kitô thứ hai, là những tông đồ, những sứ giả của Thiên Chúa?

66. Dòng sông
Hôm nay toàn thể Hội thánh mừng kính trọng thể mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đây là mầu nhiệm quan trọng nhất của Kitô giáo. Không một ngày nào Hội thánh và mỗi người chúng ta lại không tuyên xưng mầu nhiệm ấy, bởi vì mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá, mỗi khi đọc kinh sáng danh thì đó là lúc chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Nhưng có lẽ chẳng mấy khi ta quan tâm để tìm hiểu xem mầu nhiệm này có ảnh hưởng như thế nào đối với cuộc đời của chúng ta. Bởi vì nói tới các mầu nhiệm, đặc biệt là mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, chúng ta dễ có cảm tưởng đó là những chuyện xa vời và chẳng liên hệ gì tới đời sống của mình. Nhưng không phải thế. Mầu nhiệm nào cũng rất gần gũi và liên hệ mật thiết với đời sống của con người, bởi mầu nhiệm nào cũng là một luồng ánh sáng soi cho chúng ta hiểu rõ thân phận mình và dẫn lối để chúng ta đi tới bến bờ hạnh phúc.
Đối với mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, chúng ta không thể tìm được một hình ảnh, một ngôn từ nào để diễn tả cách chính xác, rõ ràng và đầy đủ được. Tuy nhiên chúng ta có thể tạm dùng hình ảnh một dòng sông để diễn tả ảnh hưởng của mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi trong cuộc đời mình.
Con sông mang dòng nước phù sa đến tưới cho các cánh đồng, cho các vườn cây được tươi tốt và đơm bông kết trái. Dòng sông cũng mang sự sống đến cho con người và mọi loài. Chúng ta thử tưởng tượng nếu một ngày nào đó mình không có chút nước nào để dùng thì cuộc sống sẽ ra sao?
Thiên Chúa Cha chính là cội nguồn của dòng sông, và Người đổ vào dòng sông nguồn nước phù sa mầu mỡ là tình yêu và ân sủng của Người. Chúa Giêsu chính là dòng sông chứa đựng nguồn nước tình yêu và ân sủng ấy. Và Chúa Thánh Thần là sức đẩy để nguồn nước tình yêu chảy đến các tâm hồn.
Như con cá sẽ không sống được nếu nó nhảy ra khỏi dòng sông. Như cây cối sẽ không thể tươi tốt và đơm bông kết trái nếu nó không hút lấy sự sống từ dòng sông mang lại. Càng ở xa dòng sông, cánh đồng càng dễ nứt nẻ và khô cháy. Cũng vậy, con người sẽ không thể sống được nếu tách ra khỏi dòng sông tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi. Càng xa rời tình yêu của Thiên Chúa bao nhiêu, con người càng cằn cỗi bấy nhiêu và rồi sẽ chết khô. Bởi đó, sống mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi chính là biết mở lòng mình ra để đón lấy nguồn nước tình yêu và ân sủng của Người, để ta có thể sống và được sống dồi dào. Đón nhận dòng nước là đón nhận Chúa Kitô và tin vào Người. Lời Tin Mừng trong thánh lễ hôm nay dạy ta như thế. “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình, để những ai tin vào Người sẽ không phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Mà tin vào Chúa Kitô chính là thể hiện trong đời mình cuộc sống của Người, nghĩa là suy nghĩ, nói năng, hành động và cư xử như Người. Điều Chúa Kitô quan tâm nhiều nhất và đã sống triệt để nhất chính là tình yêu thương. Người yêu Chúa Cha nên thi hành mọi sự theo ý Cha. Người yêu con người nên chấp nhận chết để cho con người được sống.
Yêu Chúa và yêu người, đó chính là ta đang sống mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi vậy.

67. Sống hoà nhịp
Ngày kia, có một người nông dân đi lên thành phố. Khi đang đi bộ trên một con đường đông đúc, thì đột nhiên, anh ta nói với một người bạn cùng đi với mình:
– “Tôi có thể nghe được tiếng kêu rúc rích của một con dế”.
Người bạn của anh ngạc nhiên và hỏi:
– “Làm sao mà anh lại có thể nghe được tiếng dế, giữa tất cả những tiếng động ồn ào này?”
Người nông dân đáp lại:
– “Bởi vì hai tai của tôi hòa nhịp được với tiếng dế”.
Thế rồi anh ta lại càng cố tình lắng nghe nhiều hơn, và dõi theo âm thanh đó, anh đã tìm ra được một con dế đang bò trên bờ cửa sổ. Người bạn của anh không thể nào làm được điều này. Nhưng người nông dân không hề tỏ ra ngạc nhiên. Thay vào đó, anh móc vài đồng xu từ trong túi áo ra, và ném chúng xuống lề đường. Khi nghe được tiếng leng keng của mấy đồng xu, những người qua đường liền ngừng lại nhìn theo dấu vết của chúng.
Người nông dân nói:
– “Bạn hiểu ý tôi chứ: Không có ai trong số những người này có thể nghe được tiếng dế, nhưng tất cả bọn họ đều có thể nghe được âm thanh của tiền bạc. Người ta nghe được cái gì hòa nhịp với hai tai của họ, và không thể nghe được tất cả những thứ còn lại”.
Điểm cần ghi chú ở đây khá rõ ràng: Nếu ít bị lo lắng phiền muộn, chúng ta có thể hòa nhịp với Thiên Chúa. Voltaire đã nói: “Ngay khi mở đôi mắt của mình ra, thì tự nhiên, người ta thừa nhận được sự hiện hữu của Thiên Chúa”. Và Abraham Lincoln đã nói: “Tôi có thể nhận thấy con người có thể nhìn xuống mặt đất, và trở nên một người vô thần ra sao, nhưng tôi không thể tưởng tượng được làm thế nào mà người ta có thể nhìn lên bầu trời, và nói rằng không hề có Thiên Chúa”.
Khi nhìn vào sự vật nào đó hoặc người khác, người ta sẽ nhận biết ngay rằng những sự vật này không tự hiện hữu được, mà chính là nhờ Thiên Chúa. Tương tự như một căn nhà phải có người xây dựng ra nó, một cái áo do người may, một cánh cửa do thợ mộc. Như vậy, thế giới chứng tỏ rằng phải có Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa.
Khi nhìn vào một công trình nghệ thuật, không thể nào bạn không nghĩ đến người nghệ sĩ. Nhìn vào thế giới tạo vật, mà không nhận thấy Đấng Tạo hóa, chính là mù quáng, không thấy được ý nghĩa của toàn thể công việc sáng tạo, và ý nghĩa sự hiện hữu của bản thân mình. Tuy nhiên, thật đáng buồn là có nhiều người nhìn, mà vẫn không thấy gì. Họ lắng nghe, mà vẫn không nghe được gì. Đức Giêsu đã nói về Thiên Chúa, như là một người Cha đầy lòng xót thương và khoan dung. Người nói về chính mình, với tư cách là Con của Cha, và Người gửi Chúa Thánh Thần đến với chúng ta, để trợ giúp chúng ta sống tư cách người môn đệ và con cái của Thiên Chúa.
Chúng ta đang trực diện với một mầu niệm vĩ đại. Tuy nhiên, bất cứ người con nào cũng đều có thể thấu hiểu, bằng cách cầu nguyện và sống mầu nhiệm này. Chúng ta nghĩ đến Thiên Chúa như là một người Cha (và người Mẹ), một người Cha yêu thương chúng ta một cách sâu sắc. Chúng ta nghĩ đến Đức Giêsu như là một người Anh, Đấng hiến tặng cho chúng ta chính cuộc đời của Người. Và chúng ta nghĩ đến Chúa Thánh Thần như là một người Bạn. Đấng trợ giúp chúng ta sống theo Đức Giêsu, và liên kết chúng ta với nhau, như là anh chị em trong một cộng đoàn của lòng tin và tình yêu thương. Với tư cách là những người Kitô hữu, đây là bầu khí mà trong đó chúng ta sinh sống, di chuyển và hiện hữu.

68. Thừa kế – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Sống trong một thế giới đầy thất vọng và sợ hãi, con người tìm đâu chỗ dựa vững chắc cho hiện tại và tương lai? Mầu nhiệm Ba Ngôi có thể mạc khải tất cả sự thật và soi sáng cho con người vượt qua bóng tối trần gian.
Mầu nhiệm lớn nhất
Đức Giêsu đã mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi khi kêu gọi các môn đệ: làm phép rửa cho muôn dân “nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.” (Mt 28,19) Đây là một mầu nhiệm cao cả nhất được mạc khải rõ ràng nhất trong một công thức vắn tắt nhất. Một chấm chót đã tóm lược toàn bộ mạc khải về Thiên Chúa. Thiên Chúa là Mầu nhiệm Tuyệt đối đã tự mạc khải và giao tiếp với loài người nhờ Thánh Linh và qua lịch sử cứu độ. Nhờ ân sủng, Thiên Chúa hiện diện và đi vào tận thâm cung lòng người. Khi hiện diện trong lịch sử cứu độ, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi trở thành nhiệm cục Thiên Chúa cứu độ. Vĩnh hằng hóa thành thời gian. Nhờ Thánh Linh, mạc khải trở thành biến cố hiện tại. Đức Giêsu thành hiện thực cho cuộc sống hôm nay.
Chính vì thế, Đức Giêsu mới sai các môn đệ đến với muôn dân và hứa “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 16:20) để thực hiện công cuộc cứu độ đó. Nhờ Thánh Linh, Người hiện diện và hành động với tất cả sức mạnh vô biên, vì “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.” (Mt 28,18) Với sức mạnh đó, Giáo hội có thể hoàn thành sứ mệnh cứu độ một cách vẻ vang. Không gì có thể cản trở bước chân người môn đệ đến với muôn dân. Vì chính Người hành động trong họ, khi họ “nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28:19) uốn nắn muôn dân “tuân giữ mọi điều Thày đã truyền.” (Mt 28:20) Trước bao quyến dũ trần gian, Kitô hữu không dễ dứt bỏ quyền lợi mà nghe theo Lời Chúa. Phải có sức mạnh kinh hồn mới lôi họ ra khỏi những đam mê tầm thường và dai dẳng. Sức mạnh đó chính là Thánh Linh.
Nhưng như thế không có nghĩa họ phải dứt bỏ những bận tâm hằng ngày và những thăng trầm trong cuộc sống trần gian để đạt tới một tình trạng đạo đức cần thiết cho sứ mạng tông đồ, mặc dầu “Kitô hữu được kêu gọi nên thánh. Ơn gọi này bắt nguồn từ bí tích thanh tẩy và canh tân bằng các bí tích khác, nhất là bằng bí tích Thánh Thể.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 08/06/2003) Sự thánh thiện tùy thuộc Kitô hữu có nhờ Thánh Linh mà sống trong Đức Kitô hay không. Sự thánh thiện này vô cùng cần thiết cho sứ mạng cứu độ. Lý do vì chỉ trong Đức Kitô, họ mới có thể đi vào cuộc hiệp thông thân mật với Thiên Chúa và với những ai đón nhận ơn cứu độ nhờ cái chết của Đức Kitô. Chỉ trong cuộc hiệp thông này, người ta mới có thể tìm được một ngôn ngữ diễn tả mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa cứu độ. Nói khác, sứ mệnh cứu độ được hoàn thành trong cuộc hiệp thông lớn lao đó.
Sứ mệnh đó nhắm tới “muôn dân”. Chiều kích phổ quát này bao trùm mọi dân tộc và văn hóa. Sứ mệnh đó phát xuất từ lời Thày chí thánh mời gọi: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.” (Mt 28:19) Phải “đi” ra khỏi nơi lối mòn và tới tứ phương thiên hạ rao giảng Tin Mừng. Không ra khỏi lối mòn đó, không thể thấy chiều kích lớn lao của sứ mệnh cứu độ. Thật vậy, sứ mệnh này bắt nguồn từ tương quan Ba Ngôi. Chúa Con đã được sai đến trần gian để hòa giải nhân loại với Thiên Chúa và hiệp nhất mọi người với nhau. Chúa Thánh Linh cũng được sai đến qui tụ các tín hữu thành một thân thể để hiệp thông và thi hành sứ mệnh cứu độ như Đức Giêsu. Bởi đấy, Giáo hội luôn hoạt động để làm cho mọi người tham dự vào mầu nhiệm cứu độ của Đức Giêsu. Bản chất Giáo hội là truyền giáo, nghĩa là mời gọi mọi người vào gia đình Ba Ngôi, để từ đó họ cảm nhận và sống tình yêu Thiên Chúa và chia sẻ với mọi người tình yêu huynh đệ.
Để hoàn thành sứ mệnh đó, các môn đệ phải nỗ lực “dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thày đã truyền cho anh em,” (Mt 28:20) tức là giới răn tình yêu. Khi công bố Tin mừng, họ gieo vào lòng nhân loại hạt giống “tự do và tiến bộ … tình huynh đệ, hiệp nhất và hòa bình.” (A.G. 8) Theo Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới 1971, “sứ mệnh dân Chúa là thăng tiến công lý trên thế giới.” Bởi đấy, Giáo hội cổ võ và xây dựng hòa bình.
Tin Mừng: một gia tài vô giá
Chính Thánh Linh làm cho Tin Mừng thấm sâu vào các cơ cấu xã hội và văn hóa. Tin Mừng trở thành sức mạnh giải thoát lớn lao cho toàn thể nhân loại. Giáo hội góp phần đem lại tự do như một giá trị lớn nhất cho nhân loại. Thật vậy, Kitô giáo “đã góp phần tạo nên bản chất Aâu châu. Chỉ cần đi thăm bất cứ thành phố nào trên lục địa này, vào bất cứ bảo tàng viện nào, đọc bất cứ văn chương quốc gia nào cũng thấy” sự đóng góp của Kitô giáo trong lịch sử (Giorgio Salina: Zenit 11.06.2003).
Thực tế, người ta đang muốn loại bỏ ảnh hưởng Kitô giáo khỏi bản dự thảo Hiến pháp Âu châu. Salina lưu ý, ngay trong lời mở đầu, bản dự thảo khẳng quyết “Hiến pháp theo tinh thần dân chủ vì quyền lực không nằm trong tay thiểu số nhưng toàn dân.” (Zenit 11.06.2003) Thực ra họ không muốn nhắc đến Thiên Chúa, chứ không phải nguồn gốc Kitô giáo mà thôi.” (Giorgio Salina: Zenit 11.06.2003)
Ngay cả nước Pháp theo tinh thần tục hóa cũng lên tiếng phản đối việc loại bỏ Kitô giáo ra khỏi lời mở đầu bản dự thảo Hiến pháp Âu châu tương lai. Một nhà bình luận chính trị, ông Bernard Guetta viết: “Khi bàn về nguồn gốc Kitô giáo Âu châu, tôi nhận thấy Kitô giáo bị bỏ quên. Đó là một xỉ nhục đối với trí thông minh. Với tư cách một người vô thần kiên định, tôi cương quyết phản đối. Không nhắc tới gia tài Kitô giáo tại Âu châu tức là chối bỏ chứng cứ lịch sử.” (Zenit 12.06.2003) Mất gốc, Âu châu không thể đứng vững và vươn lên được.
Muốn lấy lại bản sắc và vị thế của mình, Âu châu phải “tái khám phá và làm chứng cho mọi người thấy căn tính Kitô giáo để cổ động những giá trị làm nền tảng cho hòa bình giữa các dân tộc, công bình xã hội và tình liên đới quốc tế. Nếu Âu châu muốn liên kết con người và các dân tộc để sống hòa hợp trong sự kính trọng sâu xa và bao dung với nhau, lục địa này phải lấy Chúa Kitô làm nguồn hứng khởi.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 11.06.2003) Chỉ có Đức Kitô mới là con đường dẫn đến hòa bình và tự do đích thực. Chỉ Người mới là chân lý giải thoát và là sự sống sung mãn cho toàn thể nhân loại. Chỉ Người mới có thể khẳng quyết cho Âu châu biết rõ “chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa.” (Đnl 4:39)
Âu châu muốn xa lìa nguồn gốc Kitô giáo vì phong trào tục hóa ảnh hưởng vào toàn bộ cuộc sống. Đây là dấu chỉ mãnh liệt về một nhu cầu phải gấp rút tái Phúc âm hóa Âu châu. Muốn thế, cần phải thận trọng phân tích hoàn cảnh văn hóa cụ thể đã ảnh hưởng tới Âu châu như thế nào. Hiện nay đang có một nhu cầu sâu xa đòi phải nhập thể toàn diện trong các lãnh vực thần học, linh đạo và phụng vụ. Muốn thỏa mãn nhu cầu đó, người ta phải tôn trọng toàn bộ truyền thống Tin mừng cũng như những cách biểu lộ khác nhau của truyền thống ấy.
“Khi rao giảng Tin mừng, cử hành bí tích Thánh Thể, làm chứng tá Phúc âm, cam kết cải hóa đời sống xã hội và chính trị, Giáo hội vừa là bí tích vừa là người đầy tớ phục vụ Vương Quốc Thiên Chúa.” (The New Dictionary of Theology 1989:667) Cần nhiều nỗ lực hơn nữa mới có thể phục hồi Aâu châu và toàn thế giới theo khuôn mẫu Vương Quốc Thiên Chúa, nơi chúng ta sẽ “đồng thừa kế với Đức Kitô” (Rm 8:17) để hưởng “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14:17)

69. Thiên Chúa đo lường trái tim chúng ta.
(Suy niệm của Lm Hữu Độ)
Chuyện kể rằng: một hôm có chàng thanh niên vào rừng đốn củi. Đến trưa nhọc mệt anh nằm nghỉ dưới gốc cây đa cổ thụ, nhìn lên thấy cành lá rườm rà, song qủa đa nhỏ xíu. Anh thầm nghĩ, sao cây thì khổng lồ mà trái nhỏ xíu vậy tôi mà là Ông Trời thì tôi cho trái nó to như trái bí và lá nó to như lá chuối như thế mới cân xứng. Đúng là Ông Trời thiếu khôn ngoan, không biết tính toán gì cả. Thế rồi anh ngủ đi lúc nào không hay. Đang ngủ say thì một cơn gió lớn thổi mạnh làm một qủa đa rớt vào mặt anh ta. Anh giật mình thức dậy vừa xoa mặt vừa nghĩ: May quá, nếu trái đa lớn bằng trái bí thì mặt mình đã dập ra như cái bánh bao rồi. Qủa là Ông Trời khôn ngoan, biết lo liệu hơn là mình nghĩ.
Thiên Chúa sáng tạo mọi sự hài hòa và có tính toán của Chúa. Nhìn vào chính thân thể mình, chúng ta thấy là cả một công trình vừa tỉ mỉ vừa tài khéo không có đầu óc phàm nhân nào hiểu thấu. Thí dụ như chỉ trong một square inch da của chúng ta mà thôi thì trong đó có chứa tới 19 triệu tế bào của da, 60 sợi lông, 90 tuyến mỡ, 19 feet mạch máu, 625 tuyến mồ hôi và 19,000 tế bào cảm giác.
Sách Giáo Lý Công Giáo số 292 cho chúng ta biết Sáng Tạo là công cuộc của Chúa Ba Ngôi, “Được ám chỉ trong Cựu Ước, được mạc khải trong Tân Ước, hành động sáng tạo của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, là một và không thể tách rời hành động sáng tạo của Chúa Cha… Sáng tạo là công cuộc chung của Ba Ngôi Thiên Chúa.”
Ba Ngôi Thiên Chúa là một mầu nhiệm vượt trên mọi trí khôn thụ tạo. Mầu nhiệm này là mầu nhiệm trung tâm của Đức Tin và của sinh hoạt Kitô giáo. Nếu dùng đầu óc để tìm hiểu mầu nhiệm này thì chắc chắn chúng ta thất vọng. Nhưng may mắn chúng ta có Trái Tim để cảm nghiệm được một phần nào không phải cái “lý lẽ” của mầu nhiệm nhưng thứ “tình yêu” bao la mà Thiên Chúa Ba Ngôi dành cho chúng ta. Nghĩa là vì yêu thương mà Thiên Chúa Ba Ngôi dựng nên chúng ta, vì yêu thương mà sau khi con người phạm tội, Thiên Chúa không bỏ mặc nhưng hy sinh Người Con duy nhất của Ngài để cứu chuộc chúng ta, rồi cũng vì yêu thương mà Chúa Thánh Thần thánh hóa chúng ta, tức là Chúa Thánh Thần tiếp tục công trình cứu chuộc của Chúa Con nơi mỗi người cho tới khi thành đạt là được hưởng Nước Trời.
Bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu cho nên khi đo lường con người thì Chúa đo ở Trái Tim chứ không ở Cái Đầu. Có nghĩa là Chúa đo mức độ chúng ta mến Chúa và yêu anh chị em chứ không đo mức độ chúng ta hiểu biết khoa học nhiều hay thông suốt nhiều ngôn ngữ.
Cứ trở lại Phúc Âm chúng ta thấy rõ điều đó: để định đoạt số phận đời đời của mỗi người thì Chúa hỏi chúng ta có làm hay không làm cho những anh chị em nghèo đói, trần truồng, lao tù, đau yếu? Để xác định chúng ta được tha nhiều hay ít thì Chúa cũng đo ở tình yêu, “Chị này được tha nhiều bời vì chị yêu mến nhiều.” Để giao trách nhiệm liên quan đến người khác thì Chúa đo lường ở tình yêu, “Phêrô, con có yêu mến Thầy hơn những người này hay không?… hãy chăn dắt chiên con và chiên mẹ của Thầy.” Để xác định chúng ta là môn đệ Chúa hay không thì Chúa cũng dựa vào tình yêu, “Các con cứ yêu mến nhau để thiên hạ nhìn thấy mà biết các con là môn đệ Thầy.” Như vậy “đồng phục” của người Công Giáo là Đức Bác Ái, Yêu Thương.
Ngày nào đó con người sẽ trở về nguồn gốc của mình là tro bụi. Tất cả những hành trang chúng ta gom góp và nâng niu như: kiến thức, sức khỏe, sắc đẹp, thông minh, tài khéo… khi chạm tới quan tài đều biến thành con số không. Chỉ có một thứ hành trang duy nhất chúng ta có thể mang đi với mình là Tình Yêu Thiên Chúa và tha nhân.
Trong ngày lễ trọng tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta nhắc nhở mình cái chân lý này: Tôi đã được Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương nên Ngài dựng thành, cứu chuộc và thánh hóa. Vậy tôi phải có nghĩa vụ đáp trả lại tình yêu đó. Nợ tình phải trả bằng tình. Cuối cùng chỉ có Đức Mến là thiên thu.
Đã nhiều lần tôi trộm nghĩ, nếu bây giờ mình ra khỏi thế gian này, đứng trước tòa Chúa phán xét thì điều gì tôi hối hận nhất? Tôi không cần suy nghĩ lâu để tìm ra câu trả lời, “Điều tôi hối hận nhất là khi còn sống trên trần gian này tôi yêu mến Chúa qúa ít. Từ cái nhược điểm đó nó kéo đi theo bao nhiêu vấn đề xấu hay tiêu cực khác.” Rất may chúng ta còn có thời giờ, chúng ta biết phải làm gì để bớt hối hận nhiều ở đời sau.

70. Suy niệm của Lm. Thu Băng.
Gia đình yêu thương là hình ảnh gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa
Trong đoạn Tông thư Thánh phaolô có lời cầu chúc: “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa Chúng ta và tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” là một lời mạc khải xác quyết của Ngài về gia đ¨¬nh đầy ân sủng của Chúa Ba Ngôi, trong đó có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Mầu nhiệm về Thiên Chúa duy nhất đồng một bản thể nhưng có Ba Ngôi riêng biệt và hành động khác nhau đã được các thánh Tông Đồ tuyên tín ngay trong thời khơi dựng Giáo Hội qua kinh Tin kính. “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng dựng nên trời đất muôn vật. Tôi tin kính Chúa Giêsu Kitô Con một Đức Chúa Cha, xuống thế làm người, chịu chết chuộc tội cho thiên hạ Tôi tin kính Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng ban sự sồng…”. Chúng ta cũng tin như thế vì thế giá của chính Chúa Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa đã nói cho chúng ta biết về Chúa Ba ngôi. Chúng ta cũng tin như thế vì thế giá của các thánh Tổ phụ và các thánh khác đã được Chúa mạc khải cho. Thánh Augustinô dạy: “Màu nhiệm Chúa Ba ngôi chỉ có thể hiểu được khi chúng ta được hợp nhất với Chúa trên thiên đ¨¤ng”
Thánh Augustinô là vị đại thánh Tiến sỹ của Giáo hội, ngài đã suy nghĩ và tìm hiểu để dạy cho mọi người biết về Chúa Ba ngôi thế nào khi ngài đi bách bộ trên bờ biển. Chúa đã sai một thiên thần nhỏ đến nơi ngài đang suy niệm, lấy con sò múc nước biển đổ vào lỗ con dã tràng đào trên cát. Augustinô thấy em làm việc các thích thú, nhưng có về kỳ ngộ đối với ngài, nên ngài đến hỏi em:
– Em làm việc gì mà ngộ thế?
Em trả lời:
– Cháu có ước vọng tát cạn nước biển khơi bằng cách múc nước đổ vào lỗ con dã tràng này.
– Không được đâu em, biển thì rộng bao la, nước biển thì dạt dào mà lỗ dã tràng thì nhỏ bé, làm sao tát cạn được biển.
Thiên thần nhỏ trả lời:
– Cháu nghĩ cháu có thể làm được việc này và tát cạn được nước biển cách dễ dàng hơn điều ngài đang suy luận trong lòng về Thiên Chúa Ba ngôi nữa.
Nói rồi Thiên thần biến đi và lời đó đánh thức ngài về với thực tại con người. “Tát cạn nước biển còn dễ hơn việc suy về Chúa Ba ngôi” và ngài đã kết luận “Thiên Chúa Ba ngôi là một màu nhiệm chỉ có thể hiểu đủ khi ta được về trời”. Tuy nhiên ngài cũng dùng nhiểu thí dụ cụ thể để giải đáp những thắc mắc theo trí óc loài người. Ngài diễn tả sự DUY NHẤT của Thiên Chúa Ba Ngôi như một hình tam giác đều với đầy đủ mọi đặc tính như nhau và bằng nhau của toán học.
Ngài cũng dùng ngọn đèn cầy để diễn tả TÁC ĐỘNG RIÊNG của mỗi Ngôi: Ngọn lửa nguồn chính, là Chúa Cha phát sinh ra ánh sáng là Chúa Con để cứu người ta khỏi ngồi trong bóng tối tội lỗi. Ngọn lửa cũng đem hơi ấm là Thánh Thần để thánh hóa, sưởi ấm mọi cõi lỏng cô lạnh. Cả ba hành động khác nhau nhưng cũng do một nguồn là ngọn lữa.
Ta cũng có thể diễn tả sự NHẤT TRÍ và HÒA HỢP của Chúa Ba ngôi trong tư tưởng và hành động như người chơi dương cầm: Cây đàn là Chúa Cha hợp với năng khiếu, tài khéo của đôi tay là Chúa Con để dệt lên những cung điệu nhịp nhàng thánh thót là sự sống động của Chúa Thánh thần, làm thỏa lòng người nghe. Tuy ba hành động khác nhau nhưng cả ba đều hợp nhất trong hành động, đều hòa hợp trong việc làm. Chính sự hợp nhất vả hòa đồng ấy mà Thiên Chúa Ba Ngôi cảm thấy mình hạnh phúc không chi sánh bằng, một hạnh phúc bất tận và miên trường trong sự trường cửu của Ngài.
Thánh Phaolô đã cảm khoái được sự hợp nhất yêu thương này nơi Thiên Chúa nên ngài khuyên chúng ta: “Anh chị em hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí, hãy hòa thuận với nhau thì Thiên Chúa, nguồn sự bình an hạnh phúc sẽ ở với anh chị em” (2 Cor 13:12). Gia đình Chúa Ba Ngôi là một gương mẫu yêu thương, hòa thuận và nhất trí. Chúng ta cũng hãy gắng tạo cho gia đình chúng ta nên một gia đình nhất trí trong yêu thương và trong che chờ đùm bọc như vậy.
Một trong những năn trở dễ phá vỡ hạnh phúc gia đình, tôi muốn lưu ý anh chị em là sự khó chịu buồn bực do bạn bè, do chủ hãng, do sở làm, do nhà trường, do hoàn cảnh giao tế xã hội… tạo nên cho mình rồi khi về nhà không gạt bỏ, không để nó ở ngoài cửa, mà đem về trút đổ trên con cái, trên vợ chồng… gây khó khăn cho nhau, làm mất đi bầu khí hạnh phúc gia đình. Chớ gì khi về nhà chúng ta chỉ sống cái bầu khí của gia đình: yêu thương, chia sẻ, nâng đỡ, an ủi nhau…. Đó là hình ảng của gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa, duy nhất, thánh thiện, nhất trí và yêu thương.
Nguyện xin Chúa Ba ngôi soi dẫn trí lòng mỗi người trong gia đình chúng con, biết sống đúng địa vị trong nhà, biết hợp lòng nhất trí với nhau trong tư tưởng và hành động để chúng con trở nên một gia đình hạnh phúc, nên hiện thân của Gia đình Ba ngôi Thiên Chúa giữa trần gian. Amen.

71. Kẻ nội thù
Trong một gia đình gồm bảy hay tám người, thế nhưng chỉ có một người cha là gia trưởng. Trong một nhà máy gồm hàng trăm thợ thuyền, thế nhưng, chỉ có một ông giám đốc để điều hành. Trong một sư đoàn gồm cả ngàn binh lính, thế nhưng, chỉ vó một vị tướng để chỉ huy. Trong một quốc gia gồm hàng triệu người dân, thế nhưng, chỉ có một ông tổng thống để cai trị.
Cũng vậy, chỉ có một Thiên Chúa là chủ tể, là vị vua tối cao, đã an bài và sắp xếp mọi sự. Ngoài Ngài ra, không còn một thần minh nào khác. Đó là một sự thật tương đối dễ hiểu và dễ tin. Tuy nhiên đã từ lâu, mỗi khi làm dấu thánh giá hay đọc kinh Sáng danh. chúng ta vốn hằng tuyện xưng: Thiên Chúa ấy lại có Ba Ngôi. Chúa Cha là Thiên Chúa. Chúa Con cũng là Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần cũng lại là Thiên Chúa. Thế nhưng, cả ba chỉ là một Thiên Chúa vì cùng chung một bản tính. Đó là một màu nhiệm vượt ngoài khả năng hiểu biết của chúng ta.
Người ta đã cố gắng đưa ra những hình ảnh để sánh ví. Chẳng hạn hình ảnh về mặt trời. Phải, mặt trời là một khối lửa, vừa tỏa sáng vừa đem lại sức nóng. Lửa, sáng và nóng, ba đặc tính này cũng chỉ làm nên một mặt trời mà thôi. Chẳng hạn một cây hồng gồm rễ, thân và hoa. Thế nhưng, cả ba phần nay cũng chỉ làm thành một cây hồng mà thôi. Chẳng hạn như nước, có thể ở ba trạng thái khác nhau, lỏng như nước lã, đặc như nước đá, khí như hơi nước. Thế nhưng, cả ba trạng thái này cũng chỉ là nước mà thôi.
Tuy nhiên, những so sánh trên chỉ là những hình ảnh quá mờ nhạt, nếu không muốn nói là què quặt và lệch lạc, khã dĩ bóp méo cả sự thật mà chúng ta đã tin theo. Trí khôn và ngôn ngữ của con người thì quá nghèo nàn, không thể nào hiểu thấu và diễn tả nổi về màu nhiệm cao cả này, như trường hợp của thánh Augustinô: Múc cả nước biển mà đổ vào chiếc lỗ nhỏ còn dễ hơn là suy nghĩ về Chúa Ba Ngôi.
Sở dĩ chúng ta tin, đó là vì chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ và truyền dạy. Thực vậy, khi Ngài chịu phép rửa của Gioan ở sông Giócđan, Phúc âm đã kể lại: Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài và từ trời có tiếng phán: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Qua đó, chúng ta thấy có đủ Ba Ngôi: Chúa Cha qua tiếng nói từ trời cao, Chúa con đang chịu phép rửa và Chúa Thánh Thần qua hình chim bồ câu.
Khi Chúa Giêsu biến hình trên đỉnh Taborê, Phúc âm cũng ghi nhận: Lúc Phêrô còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ và từ trong đám mây có tiếng phán: Này là Con Ta yêu dấu, hãy vâng lời Ngài. Qua đó, chúng ta cũng thấy có đủ Ba Ngôi: Chúa Cha qua tiếng nói, Chúa Con đang biến hình và Chúa Thánh Thần qua đám mây chói lòa.
Sau cùng, trước khi về trời, Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ: Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, Rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh thần.
Tuy nhiên, điều quan trong chúng ta cần tìm hiểu, đó là Chúa Ba ngôi đã làm gì cho chúng ta?
Trước hết, Chúa Cha đã yêu thương chúng ta bằng cách dựng nên chúng ta, nhận chúng ta làm con để rồi trao ban cho chúng ta quyền thừa kế Nước trời.
Ông vua kia nuôi một con chim hoàng yến. Nó hót rất hay khiến ông thích nó lắm. Ông mua những thức ăn hảo hạng và làm cho nó một chiếc lồng bằng vàng. Trong lúc quá say mê, ông đã nói với nó: Ta sẽ nhận ngươi làm con để ngươi thừa kế gia tai và vương quốc của ta. Chắc hẳn chúng ta sẽ bảo ông vua này điên khùng hay sao mà lại nói với một con chim như vậy. Tuy nhiên, Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta bằng một tình yêu điên khùng hơn thế nữa.
Báo chí cách đây đã lâu có đăng tải tin một công chúa nước Anh sẵn sàng từ bỏ tất cả để kết hôn với một anh chàng phó nhòm. Người ta cho rằng cô công chúa này đã yêu một cách cuồng si. Tuy nhiên, Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta bằng một tình yêu cuồng si hơn thế nữa. Chúng ta là gì mà lại được diễm phúc gọi Thiên Chúa là Cha?
Thứ đến, Chúa Con đã yêu thương chúng ta bằng cách xuống thế làm người và chịu chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta. Nếu chúng ta ca ngợi cha Đamiêng, người đã tình nguyện đến sống chung với những người cùi ở Molokai, một hòn đảo xa xôi và hẻo lánh, để rồi đã chết đi giữa những người cùi bất hạnh ấy, thì chúng ta lại càng phải ca ngợi Chúa Giêsu hơn nữa, bởi vì Ngài đã đến ở với chúng ta, những kẻ đang mắc phải chứng phong cùi thiêng liêng là tội lỗi.
Nếu chúng ta ca ngợi cha Maximilanô Kolbê, người đã tình nguyện chết thay cho một bạn tù trong trại tập trung của Đức quốc xã, thì chúng ta lại càng phải ca ngợi Chúa Giêsu hơn thế nữa bởi vì Ngài cũng đã tình nguyện chết thay cho chúng ta để nhờ đó chúng ta được sống muôn đời.
Sau cùng, Chúa Thánh Thần đã yêu thương chúng ta bằng cách cư ngụ trong tâm hồn chúng ta và trao ban cho chúng ta sự sống thần linh cùng với những ơn sủng do công nghiệp của Chúa Giêsu để nhờ đó chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa và xứng đáng lãnh nhận phần sản nghiệp Nước trời.
Để đáp lại tình yêu cao cả đó, chúng ta sẽ làm gì? Tôi xin đề nghị hai việc.
– Việc thứ nhất đó là mỗi khi làm dấu thánh giá hay mỗi khi đọc kinh Sáng danh, chúng ta hãy làm và hãy đọc cho trang nghiêm và sốt sắng, để nhờ đó tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi.
– Việc thứ hai đó là trong đời sống thường ngày, chúng ta hãy ra sức khử trừ tội lỗi, bởi vì tội lỗi chính là kẻ nội thù, làm cho chúng ta quay lưng chống lại tình yêu mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Bởi vì mỗi khi phạm tội, chúng ta không còn vâng phục Chúa Cha, chúng ta đóng đanh Chúa Con một lần nữa và chúng ta xua đuổi Chúa Thánh Thần ra khỏi cõi lòng chúng ta.

72. Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi được mừng vào Chúa Nhật sau Chúa Nhật Lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.
Các Bài Đọc chu kỳ Năm B: Bài Đọc I (Đệ Nhị Luật 4: 32-34, 39-40): Ông Môsê nói với Dân Chúa: Thiên Chúa là Chúa duy nhất trên trời dưới đất; chỉ một mình Ngài là Thiên Chúa, không có Chúa nào khác. Bài Đọc II (Thơ Rôma 8:14-17): Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta, nhờ ơn Chúa Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận, chúng ta được làm con cái Chúa và có thể xưng với Chúa là Cha. Bài Phúc Âm (Matthêu 28:16-20): Chúa Giêsu nói với các Tông Đồ: “Hãy đi giảng dạy muôn dân và ban phép Thánh Tẩy cho họ “Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần.”
Thiên Chúa Ba Ngôi là một Mầu Nhiệm, nghĩa là một Tín Điều mà chúng ta không thể nào cắt nghĩa được bằng lý trí; nhưng chúng ta tin và lãnh nhận do Chúa Giêsu đã giảng dạy, và nhờ ơn Chúa Thánh Thần soi sáng (Gioan 16:12) để nhận biết: Chỉ có một Thiên Chúa mà Ngài có Ba Ngôi: Ngôi Nhất là Cha, Ngôi Hai là Con, Ngôi Ba là Thánh Thần; Ba Ngôi cùng một bản thể, cùng là một Thiên Chúa duy nhất.
Người ta nói khi Thánh Patrick giảng dạy về Thiên Chúa Ba Ngôi, Ngài đã dùng một lá có ba nhánh để làm thí dụ. Giáo sư Tiến sĩ Phan Văn Ngọc, sau khi tìm hiểu Thánh Kinh kỹ càng và được ơn Chúa soi sáng, đã tin nhận Thiên Chúa và chịu phép Thánh Tẩy. Khi tìm hiểu giáo lý, ông cảm thấy điều khó hiểu nhất là về Thiên Chúa Ba Ngôi; nhưng sau cùng, ông suy nghĩ: dù chỉ là nước, nhưng vẫn có thể ở thể lỏng, thể rắn (nước đá) hay thể hơi (hơi nước).
Tuy nhiên, tất cả những so sánh, những biểu tượng bề ngoài chỉ để tạm thời giải thích Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi; vì ‘Mầu Nhiệm’ là điều vượt quá mọi sự suy nghĩ của lý trí con người. Con người dù thông minh thế nào, cũng không thể hiểu hết được những ‘bí ẩn’ trong vũ trụ, huống chi làm sao hiểu được hết mọi điều siêu việt của Thiên Chúa. Thánh Augustinô (354-430) là một nhà Thần Học và Triết Gia, Ngài luôn muốn cắt nghĩa mọi sự theo lý trí, kể cả Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Một ngày kia, Ngài đi đi lại lại trên bờ biển để vừa cầu nguyện vừa cố suy nghĩ trong tâm trí xem có cách nào để hiểu và cắt nghĩa được tường tận mọi điều về Thiên Chúa Ba Ngôi. Đang lúc vừa đi đi, lại lại trên bờ biển, vừa suy nghĩ mung lung, chợt ông thấy có một em bé trông rất khôi ngô và thông minh, đang dùng một vỏ sò múc nước biển đổ vào một lỗ nhỏ trên bờ biển. Thánh Augustinô liền dừng lại hỏi em đang muốn làm gì vậy. Em bé mỉm cười trả lời: “Cháu đang muốn múc hết nước đại dương để đổ vào cái lỗ nhỏ này.” Thánh Augustinô liền cười và nói: “Sao cháu làm một việc vô ích như vậy… Làm sao cháu có thể múc nước cả đại dương này để đổ hết được vào cái lỗ nhỏ như thế?” Em bé liền cười nói: “Việc của cháu đang làm có vẻ khờ dại thật, nhưng việc bác đang suy nghĩ còn khờ dại hơn…”
Thiên Chúa là cả một đại đương mênh mông, tâm trí con người chỉ là một giới hạn nhỏ bé, làm sao có thể thông hiểu tường tận hết mọi điều về Thiên Chúa. Chỉ với đức tin và tâm hồn khiêm nhường và sự kết hiệp với Chúa qua lời cầu nguyện, chúng ta mới có thể được Ơn Chúa soi sáng và tin nhận được các Mầu Nhiệm về Thiên Chúa, nhất là Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, chứ không phải qua suy nghĩ của lý trí hạn hẹp của chúng ta.
Như vậy, Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một điều ‘huyền nhiệm’ chỉ các nhà Thần Học mới hiểu được. Một nhà Thần Học thế kỷ 19, ông Thomas Hancock nói: “Một người đàn ông hay một người phụ nữ dù quê mùa không thể lý luận về Thịên Chúa Ba Ngôi, nhưng vẫn có thể nhận thức được về Thiên Chúa Ba Ngôi một cách hoàn hảo hơn một nhà Thần Học uyên bác, thông hiểu các tác phẩm của Thánh Athanasius hay Thánh Augustinô và tất cả những tranh luận của sáu thế kỷ đầu của Giáo Hội!” (trích trong Preaching the Lectionary, Reginald H. Fuller). Thánh Phaolô cũng nói với chúng ta: “Đức tin của chúng ta không dựa vào những lý lẽ khôn ngoan của con người…nhưng nhờ mạc khải của Thiên Chúa qua sự soi sáng của Chúa Thánh Thần (Xin xem 1 Cr, chương 2; hoặc Ga 14,26). Trong một lần cầu nguyện, Chúa Giêsu đã nói: “Con cảm tạ Cha vì Cha đã không soi sáng cho những kẻ khôn ngoan thế gian biết những điều ấy, nhưng cho những người đơn sơ, hèn mọn!” (Lc 10,21; Mt 11,25). Chính vì vậy, Pascal, một nhà tư tưởng lớn trong thế kỷ 17, đã luôn cầu xin cho mình được có một Đức Tin mạnh mẽ của một bà nhà quê ở xứ Bretagne!
Chúng ta tuyên xưng Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi khi đọc kinh Tin Kính. Mỗi khi chúng ta đọc kinh: “Sáng Danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần”, chúng ta cúi đầu để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi. Mỗi khi làm Dấu Thánh Giá là chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba ngôi: “Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần.” Chúng ta được chịu phép Thánh Tẩy để gia nhập Gia Đình Hội Thánh Chúa nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi trong công thức: “Cha rửa con, nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần.”
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng kính mừng Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta hãy cầu xin cho chúng ta luôn được ơn Chúa soi sáng để chúng ta có thể có một đức tin sáng suốt và mạnh mẽ, không phải chỉ dựa vào lý trí, nhưng bằng chính đời sống thực hành đức tin hàng ngày của chúng ta qua đức Bác Ái.
Với lời cầu nguyện của Thánh Phaolô, chúng ta hãy cùng “nguyện xin Ân Sủng của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Tình Yêu của Chúa Cha, và Ơn Thông Hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng mỗi người, mỗi gia đình chúng ta!” (2 Cr 13,13).

73. Mầu nhiệm tình yêu – Lê Hoàng Vũ.
Hàng ngày khi làm dấu thánh giá là chúng ta tuyên xưng vào mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Đó là trọng tâm trong đời sống đức tin của người Công giáo. Đó là lời dạy của Chúa Giêsu với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là mầu nhiệm đức tin mời gọi chúng ta đem vào cuộc sống của mình. Vì mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi khó hiểu nên người ta chỉ có thể đón nhận bằng cả cuộc sống mà thôi. Hiểu không quan trọng bằng tin, yêu và sống với Chúa Ba Ngôi.
“Thiên Chúa là tình yêu” phát biểu này của Thánh Gioan Tông đồ giúp chúng ta hiểu đúng về Thiên Chúa. Để có thể phát biểu được như vậy, ngài đã luôn tin tưởng vào Chúa và được Chúa yêu thương. Lời phát biểu đó là đúc kết của cả cuộc đời theo Chúa của thánh nhân. Lời phát biểu đó soi sáng đức tin cho chúng ta hiểu về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Thật vậy, Thiên Chúa là Tình yêu thì tất cả những gì thuộc về Ngài hay ở trong Ngài cũng là Tình yêu. Chính vì thế Thánh Augustinô lại cho chúng ta một nhận định rõ ràng hơn: “Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của Tình yêu” Tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa là tình yêu trọn hảo. Tình yêu Thiên Chúa vượt lên trên mọi thứ tình cảm khác trong nhân loại. Tình yêu của Ngài là tình yêu chung thủy bền vững, tình yêu muôn đời tồn tại và vô vị lợi. Trong mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chúng ta học được cung cách sống yêu thương mọi người.
Kinh Thánh mặc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Và mỗi Ngôi vị đều có những chương trình riêng nhằm phục vụ lợi ích cho con người. Chúa Cha là Đấng Tự Hữu, Ngài yêu thương và tạo dựng muôn vật, khi tạo dựng nên con người. Ngài ban cho một phẩm giá cao trọng. Chúa Con đến trần gian để cứu độ những người lầm lạc tội lỗi. Ngài dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa Cha là Đấng nhân hậu và đầy lòng thương xót. Sau cùng Chúa Thánh Thần là Tình yêu và Sự Sống, Ngài đang đồng hành với Hội Thánh. Chính Ngài nuôi dưỡng đức tin và lòng mến của người Kitô hữu qua mọi thời đại, Như vậy Ba Ngôi Thiên Chúa đang hiện diện trong cuộc sống con người. Ba Ngôi Thiên Chúa là cộng đồng của tình yêu thương. Ba Ngôi Thiên Chúa hiệp nhất nhau trong tình yêu. Chương trình chính yếu trong mọi hoạt động của Thiên Chúa Ba Ngôi là nâng cao người vươn tới tầm mức của một Tình yêu cao đẹp. Chúng ta đã đón nhận hồng ân Thiên Chúa Ba Ngôi thì cuộc sống chúng ta phải thấm nhuần tình yêu thương. Chúng ta sẽ xứng đáng là những người con của Cha trên trời nếu chúng ta biết sống trao ban tất cả cho mọi người. Với phương châm sống “mình vì mọi người, nhưng không đòi hỏi người khác sống vì mình”, chúng ta đang trao ban hạnh phúc cho tha nhân. Đặc biệt là gia đình chúng ta đang sống phải là cộng đồng của tình yêu thương. Một gia đình ngập tràn tình yêu thương và niềm hạnh phúc vì mỗi người biết sống vì nhau sẽ là mô thức về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Trong ngày lễ Cháu Ba Ngôi mỗi người Kitô hữu sẽ được học tập để sống yêu thương như là bài học vỡ lòng không bao giờ quên trong cuộc đời. Chúng ta chiêm ngắm Chúa Ba Ngôi là cộng đồng của tình yêu thương để học theo. Học sống theo gương Chúa là chúng ta luôn giữ cho gia đình mình đầm ấm yêu thương. Điều đó tùy thuộc vào việc chúng ta sống có trách nhiệm với gia đình mình. Học sống theo gương Chúa Ba Ngôi là chúng ta sống sao để đem niềm vui đến cho mọi thành viên trong gia đình. Và tấm lòng của chúng ta đối với gia đình sẽ được cụ thể: Khi người con biết kính yêu, vâng lời, phụng dưỡng cha mẹ, người cha tận tụy làm việc nuôi dạy con cái thành người, người mẹ chăm sóc, lắng nghe, chia sẻ, những tâm tự của con cái. Sống được như thế là gia đình chúng ta đang có Chúa hiện diện. Dưới sự hướng dẫn dịu, chúng ta sẽ tìm được chỗ dựa cho gia đình mình trước những cơn sóng gió trong cuộc sống đức tin.
Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con rằng” không có Thầy chúng con không làm được gì”. Chúng con luôn tin vào lời đó của Chúa. Xin Chúa soi lòng mở trí chúng con hiểu về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nhất là để chúng con luôn cảm nhận tình Chúa yêu thương chúng con là vô bờ, để chúng con luôn cố gắng gìn giữ cho gia đình mình luôn là cộng đồng của tình yêu thương như Thiên Chúa là tình yêu vậy. Amen.

74. Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long
SỨ MẠNG PHỔ QUÁT
1.- Ngữ cảnh
Ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến ngữ cảnh trực tiếp, đó là mộ trống với hai sứ điệp, một tích cực, một tiêu cực:
a) Sứ điệp tích cực
Sứ điệp tích cực được gửi đến trong hai thì:
– bởi sứ thần khi ngài giao phó cho các phụ nữ hai sứ mạng là làm chứng về sự Phục Sinh của Đức Giêsu và loan báo cho các môn đệ lệnh triệu tập của Đức Giêsu (28,1-8). Đây là kinh nghiệm tiêu cực về sự Phục Sinh.
– bởi chính Đức Giêsu Phục Sinh (28,9-10): Người cho các phụ nữ sống một kinh nghiệm thực hữu về sự Phục Sinh của Người và giao cho họ cùng một sứ mạng, là triệu tập các môn đệ về Galilê.
Đoạn văn Mt 28,16-20 cho hiểu rằng các phụ nữ đã chu toàn hai sứ mạng được giao: khi quy tụ về quả núi đã được chỉ định tại Galilê, các môn đệ chứng tỏ các ông đã tin vào chứng tá của các phụ nữ liên hệ đến cuộc Phục Sinh để cũng có thể tin vào lệnh triệu tập được các bà chuyển cho.
b) Sứ điệp tiêu cực
Sứ điệp tiêu cực là truyện sai lạc về Đức Giêsu, được toán lính tung ra theo trò bịp bợm của các thủ lãnh Do-thái.
Đoạn văn này nêu bật sự tương phản (c. 16: de) giữa các thủ lãnh Do-thái và toán lính một bên, và bên kia, là Đức Giêsu và các môn đệ Người, giữa sứ điệp do người Do-thái tung ra và thực tế; vậy đoạn văn này chính là một lời phi bác tin đồn thất thiệt đã được phổ biến. Đối với người Do-thái, Đức Giêsu là một xác chết, còn các môn đệ Người là những tên trộm cắp và dối trá; trong thực tế, Đức Giêsu đã chiến thắng cái chết, đã sống lại, được ban cho toàn quyền của Thiên Chúa và đảm bảo bằng sự hiện diện đầy uy lực của Người; các môn đệ Người không tìm cách đánh cắp thi hài, nhưng đã đi về Galilê, đi xa ngôi mộ, để gặp Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Mừng sẽ đi đến với “mọi dân tộc”, chứ không như tin đồn thất thiệt kia, chỉ được loan truyền “giữa người Do-thái” mà thôi. Giáo huấn phổ quát (didaskontes) mà các môn đệ của Đức Giêsu, vị Tôn Sư tuyệt đối (didaskalos, 23,8), sẽ cống hiến cho mọi dân tộc sẽ hoàn toàn vượt xa những gì toán lính phổ biến, vì họ đã làm theo lời “các thượng tế dạy” (edidachthêsan, 28,15). Các môn đệ sẽ được che chở và nâng đỡ “cho đến tận thế”, không phải bởi một quyền bính nhân loại như quyền bính của các thượng tế, nhưng bởi uy quyền của Đấng Phục Sinh, Chúa tể vũ hoàn.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Cuộc diện kiến của Nhóm Mười Một với Đức Giêsu (28,16-17);
2) Các lời nói của Đức Giêsu (28,18-20):
a) Mạc khải về quyền năng (18),
b) Lệnh truyền giáo (19-20a),
c) Hứa hiện diện hỗ trợ (20b).
3.- Vài điểm chú giải
– Về phần mười một môn đệ (16): Ở đầu c. 16 này, có tiêu từ de (“và”, “rồi”; “nhưng”; “về phần”) hẳn là để nêu lên sự tương phản giữa báo cáo sai lạc của toán lính với sự thật về cuộc hiện ra của Đức Giêsu với mười một môn đệ.
– Mười một môn đệ (16): Trong Mt, Đức Giêsu có một nhóm các “môn đệ” (mathêtês: Mt 73 lần, Mc 46 lần, Lc 37 lần, Ga 78 lần. Có 65 trong Mt ở số phức) luôn luôn được xác định bằng quán từ (article) hoi (x. 5,1; 8,21; 9,10; 12,1; 13,10; 14,15; 15,2; 16,5; 28,7). Điều này khẳng định rằng họ được biết rõ trong tư cách đó và họ không phải là nhóm “bảy mươi hai” của Lc (vả lại, Lc không gán cho nhóm “bảy mươi hai” cái tên “môn đệ”, mà là “bảy mươi hai người khác”, x. Lc 10,1). Các ông là những người sống hiệp thông với Thầy mình (“einai meta” [“ở với”]), tháp tùng Thầy trong sứ vụ của Người (9,19), cùng làm việc với Người để phục vụ các đám đông (9,36-37), được nêu ra làm gương cho các đám đông và được giới thiệu như là gia đình đích thực của Đức Giêsu (12,46-50). Mt xác định rằng các ông là “mười hai môn đệ” ( 10,1; 11,1; hay là “Nhóm Mười Hai”: 20,17; 26,20; ở c. 10,2, các ông cũng được gọi là “mười hai tông đồ” cùng với tên của các ông).
Con số “mười một” nhắc đến sự vắng mặt thê thảm của Giuđa, “một trong Nhóm Mười Hai” (26,14.47; x. 10,2.4): sự hư hỏng đã xảy ra ngay trong nhóm, tức là đây không phải là một nhóm toàn vẹn; với lại, tất cả các ông khác đều đã té ngã (x. hoi mathêtai: 26,56b; Phêrô: 26,69-75). Nhưng sứ điệp mà Đức Giêsu ban cho các ông nhờ trung gian các phụ nữ đã là một dấu cho thấy Người tha thứ và hòa giải; Người gọi các ông là “anh em của Thầy” (28,10). Bây giờ, cuộc hành trình của các ông tiến về với Đức Giêsu và sự hiện diện của các ông tại nơi Người đã chỉ định là một dấu chứng tỏ các ông đón nhận sự tha thứ và hòa giải.
– ngọn núi (16): To oros (danh từ với quán từ) khẳng định rằng chính là trên một quả núi mà Đức Giêsu và các môn đệ đã biết, nhưng không cung cấp một xác định nào khác.
– Bái lạy (17): Mt chỉ dùng động từ proskyneô (Mt 13 lần; Mc 2 lần; Lc 2 lần) cho những ai đã nhìn nhận phẩm giá của Đức Giêsu và diễn tả sự nhìn nhận đó ra bằng hành vi này (x. các hiền sĩ: 2,2.8.11; người phong cùi: 8,2; ông trưởng hội đường: 9,18; các môn đệ trên thuyền: 14,33; bà Canaan: 15,25; mẹ các con ông Dêbêđê: 20,20; các phụ nữ tại mồ: 28,9).
– Nhưng có mấy ông lại hoài nghi (17): Trong Tân Ước, động từ distazein chỉ xuất hiện ở 14,31 (Phêrô đi trên mặt nước) và ở đây. Động từ này nhắc đến những gì Tin Mừng đã nói biết bao lần về phẩm chất của đức tin của các môn đệ: ở 6,30; 8,26-27; 14,31; 16,8; 17,20 (x. câu 17). Mt là tác giả duy nhất ghi nhận “đức tin lớn (megalê hê pistis)” của bà Canaan (15,28). Cùng với đề tài đức tin, Mt trình bày đề tài sự hiểu biết (synienai) và không hiểu biết: ở 15,16; x. 16,12; 17,13.
– Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (18): Động từ edothê ở thì aorist thái bị động trần thuật (passive indicative): Thì aorist nhắm đến một sự kiện đã hoàn tất, chứ không phải là một lời hứa hay một niềm hy vọng; hẳn là ta có thể nghĩ đến một quan hệ mặc nhiên với sự phục sinh. Thái bị động đây là một thái bị động thay tên minh nhiên của Thiên Chúa. Hơn nữa, cách thức khẳng định cách tuyệt đối như thế gợi ý rằng Thiên Chúa là tác giả (so sánh c. 18b với 11,25).
Đề tài exousia cũng là một đề tài quan trọng của Mt (9 lần: 7,29; 8,9; 9,6; 9,8; 10,1; 21,23; 21,24; 21,27; 28,18). Từ ngữ có nghĩa là “quyền hành”, “uy quyền”, “quyền lợi”, “khả năng”, là những đặc tính của giáo huấn và cách hành động của Đức Giêsu: phân đoạn 5,1–7,29 (Bài Giảng trên núi) giới thiệu Đức Giêsu như là “Đấng Mêsia có uy quyền trong lời nói” (x. 7,28), còn phân đoạn 8,1–9,38 giới thiệu Người như là “Đấng Mêsia có uy quyền trong hành động” (x. 11,2) (Đức Giêsu khẳng định rằng Người có exousia này: 9,6; dân chúng: 7,29; viên sĩ quan: 8,9; khi thấy người bại liệt được chữa lành, dân chúng tôn vinh Thiên Chúa: 9,8; Đức Giêsu nói về quyền của Người và từ chối cho biết nguồn gốc của quyền ấy: 21,24.27). Câu 28,18 là như tổng hợp về đề tài này và là một câu trả lời cho nhà chức trách tôn giáo: Đức Giêsu không phải là một người mất trí hay một kẻ tiếm quyền; Người đã nhận được quyền bính này trọn vẹn, trên toàn vũ trụ, từ Thiên Chúa (chứ không phải từ tay ma quỉ, x. 9,34). Ở đây, điều được khẳng định là quyền (exousia) đã được Thiên Chúa ban.
– hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ (19): Trong các Tin Mừng, động từ mathêteuein chỉ được sử dụng ở Mt (13,52; 27,57; 28,19) với hai nghĩa: 1) nghĩa nội động (intransitive): trở thành môn đệ (13,52; 27,57); 2) nghĩa ngoại động (transitive): làm thành môn đệ; làm cho ai thành môn đệ (28,19; x. Cv 14,21). Đây không phải là chỉ trình bày, cống hiến sứ điệp, loan báo Tin Mừng, nhưng là kiến tạo một quan hệ chặt chẽ và riêng tư. Kiểu mẫu của quan hệ này chính là quan hệ của Đức Giêsu lịch sử với các môn đệ đã được Người kêu gọi (môn đệ đi theo [akolouthein, x. 4,20.22; 8,23; 19,27.28], Thầy đi trước [proagein, x. 26,32; 28,7]).
– nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần (19): Công thức “nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” một công thức phép rửa. Qua công thức này, ta găp thực tại chúng ta có trong các Tin Mừng Nhất Lãm: đó là quan hệ chặt chẽ giữa đời sống và công trình của Đức Giêsu với Cha Người trong Chúa Thánh Thần. Cựu Ước biết đến vị Thiên Chúa tạo thành trời đất, đây là vị Thiên Chúa mà họ đến trình diện trong tư cách là các thọ tạo hoàn toàn khác với Ngài và không có quyền đi vào đối thoại với Ngài. Đức Giêsu loan báo vị Thiên Chúa có một người đối thoại trong bình diện thần linh. Chúa Con ở trước mặt Chúa Cha, và hai Đấng được liên kết với nhau, biết nhau, hiểu nhau và yêu thương nhau trọn vẹn và hoàn hảo nhờ Chúa Thánh Thần. Bí tích Rửa tội nhận chìm chúng ta vào trong vùng quyền lực của vị Thiên Chúa này.
– Này đây Thầy (20): Mt chuộng thức mệnh lệnh idou này. Nên ghi nhận là công thức long trọng idou egơ luôn luôn có quan hệ với ý tưởng sứ mạng: 10,16; 23,34 et 28,20.
– Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (20): Khi nói minh nhiên pasas tas hêmeras (tất cả các ngày), Đức Giêsu khẳng định Người sẽ ở thường trực và trọn vẹn với các môn đệ. Heôs tês synteleias tou aiônos (cho đến tận thế) có nghĩa mục tiêu, nơi đến: nhắm đến tận thế. Từ ngữ synteleia (hoàn tất; kết cục) luôn được sử dụng với aiôn có nghĩa là “thời gian hiện tại”, “tình trạng hiện nay của tạo thành” (x. 13,22; 12,31). Synteleia tou aiônos có nghĩa là “khi kết thúc thời gian của thế giới này”. Người ta chờ đợi một kết thúc thời gian này với việc Đức Giêsu ngự đến (x. 24,3).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cuộc diện kiến của Nhóm Mười Một với Đức Giêsu (16-17)
Phần thứ nhất kể lại các hành vi của các môn đệ trong quá khứ (aorist) (đi tới, c. 16; bái lạy, c. 17; hoài nghi, c. 17). Bản văn cũng ghi nhận một hành vi của Đức Giêsu, “đã truyền” (etaxato, c. 16), nhưng chắc chắn đây là một hành vi Đức Giêsu đã làm trước các hoạt động của các môn đệ được kể lại trong đoạn văn này; hành vi này lại chỉ là một mệnh lệnh, một hành vi nói. Ngược lại, trong các bản văn khác về hiện ra, Đức Giêsu hành động cùng nhịp với những người có mặt, chẳng hạn, ở Mt 28,9, Đức Giêsu đến gặp (hypêntêsen) các bà. Phải chờ đến c. 18 để gặp được một hành vi của Đức Giêsu, nhưng cả hành vi này cũng chỉ là một hành vi nói (elalêsen).
Các nhân vật chính của phần thứ nhất là hoi hendêka mathêtai, “mười một môn đệ”. Con số này nhắc đến sự phản bội của cả nhóm. Nhưng sứ điệp mà Đức Giêsu ban cho các ông nhờ trung gian các phụ nữ đã là một dấu cho thấy Người tha thứ và hòa giải; Người gọi các ông là “anh em của Thầy” (28,10). Bây giờ, cuộc hành trình của các ông tiến về với Đức Giêsu và sự hiện diện của các ông tại nơi Người đã chỉ định là một dấu chứng tỏ các ông đón nhận sự tha thứ và hòa giải. Các môn đệ tiến về một nơi đã được Đức Giêsu xác định trước và theo thông tin của các phụ nữ (lệnh của sứ thần (28,7) và lệnh của Đức Giêsu ban cho các phụ nữ).
Trong Mt, ta không thấy có một lệnh minh nhiên của Đức Giêsu là đi đến một ngọn núi được xác định, nhưng có những chi tiết liên hệ đến Galilê. Tất cả các chi tiết này, khi được đặt vào trong bối cảnh là cuộc Thương Khó và Phục Sinh, thì giống như những tia chớp hy vọng được ban cho các môn đệ (tại núi Ô-liu, Đức Giêsu đã nói đến Galilê: 26,32; tại mộ, vị thiên thần đã nhắc đến Galilê: 28,7; Đức Giêsu xác nhận sứ điệp: 28,10). Chuyến đi đưa các ông về nơi Đức Giêsu đã chỉ định cho thấy rằng họ vừa thi hành lệnh Đức Giêsu truyền, họ vừa ý thức rằng họ đang được trở vào trong tình bằng hữu với Người, tình bằng hữu mà Người đã mời họ đến khi gọi họ là “anh em của Thầy” (28,10).
Như thế, câu truyện sẽ kết thúc ngay tại nơi mà sứ vụ của Đức Giêsu đã bắt đầu: tại “Galilê, miền đất của dân ngoại”, đã xuất hiện ánh sáng có sức thắng vượt bóng tối của tử thần (4,15-16) và giúp cho có thể bắt đầu việc rao giảng cho muôn dân (28,19). Ở đây tầm quan trọng của Galilê đặc biệt có tính thần học: Đấng Phục Sinh gặp lại các môn đệ Người tại nơi chính của hoạt động trần thế Người (nhất là theo Mc và Mt); điều này giả thiết có một sự tiếp nối giữa Đức Giêsu trần thế và Đức Kitô Phục Sinh, một sự tiếp nối mà c. 20a sẽ nêu bật minh nhiên (“[bằng cách] dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”). Do chính sự kiện này, Người xác nhận việc loan báo đầu tiên của Người, hoặc đơn giản hơn, xác nhận trọn vẹn sứ mạng của Người và giới thiệu sứ mạng ấy như mẫu mực cho các môn đệ.
Lời Đức Giêsu nói với các phụ nữ (28,10), “họ phải đi đến Galilê”, là một mệnh lệnh, còn “họ sẽ được thấy Thầy ở đó” là một lời hứa. Vậy bản văn của chúng ta là sự hoàn tất mệnh lệnh ấy và sự thực hiện lời hứa ấy.
“Ngọn núi” không phải là một nơi mà người ta hẳn là có thể xác định theo địa lý; đây là nơi tiêu biểu cho mạc khải (5,1: “Bài Giảng trên núi”; 15,29: mạc khải của Đấng cứu thế, Đấng nuôi dưỡng dân Người như Môsê xưa kia trong hoang địa; 28,16: “ngọn núi” xuất hiện lần thứ ba, để cũng nêu bật tầm quan trọng của mạc khải như thế).
Sự kiện các môn đệ “thấy” Đức Giêsu được kín đáo giới thiệu bằng một vị tính từ (participle), lệ thuộc động từ chính: “các ông bái lạy”. Việc “thấy Đức Giêsu” chỉ được nhắc đến ngắn ngủi ở đây, khác với các bài tường thuật khác về hiện ra, nhưng nó chẳng còn giá trị gì khi nói về niềm tin Phục Sinh. Sự kiện quan trọng đối với Mt là “các ông bái lạy” (prosekynêsan), đây là cách tôn kính mang tính tôn giáo và thậm chí phụng vụ. Thái độ này diễn tả trước những gì sẽ được lời tuyên bố ở c. 18b loan báo về quyền của Đức Giêsu. “Nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (c. 17). Ở đây, nỗi ngờ vực đã xảy đến idontes, “khi thấy Người” như là Đấng Phục Sinh. Chúng ta phải ngạc nhiên khi thấy phát sinh nỗi ngờ vực, nghĩa là một tình trạng ngần ngại, lưỡng lự, trong bối cảnh lại quá đậm đặc và tiêu biểu này. Phản ứng này xuất hiện nhiều lần trong các bài tường thuật khác về hiện ra. Nỗi hoài nghi được thắng vượt mỗi lần một cách: Đấng Phục Sinh xin các ông cho ăn (Lc 24,41tt); Đức Giêsu hiện ra một lần nữa với các môn đệ lúc đầu không tin (Mc 16,14tt); Tôma có thể chạm tới các vết thương của Đức Giêsu (Ga 20,24-29). Ta không thấy có gì tương tự ở đây cả. Có lẽ sự hoài nghi này liên hệ đến một thời đại muộn màng hơn: cộng đoàn hôm nay không còn thấy Đức Giêsu bằng mắt thịt nữa, họ có thể rơi vào hoài nghi; họ phải thắng vượt khó khăn này nhờ dựa vào lời của Đấng Phục Sinh. Các lời nói của Đức Kitô Phục Sinh và sự vâng phục của các môn đệ với lời Người là cách thế duy nhất giúp vượt qua nỗi hoài nghi.
* Các lời nói của Đức Giêsu (18-20)
Đứng trước đức tin xen lẫn hoài nghi của các môn đệ, lời Đức Giêsu nói cung cấp câu trả lời. Đấng Phục Sinh không trách các ông về sự bất trung hoặc về nỗi hoài nghi; thậm chí Người cũng không xua tan nỗi hoài nghi bằng một cử chỉ hoặc một chứng từ bổ sung. Người đến gần các ông và nói. Người từ xa đến với những người là các môn đệ Người, vâng phục Người và đang cung kính bái lạy Người. Chỉ mình Người có thể vượt qua khoảng cách bằng cách đi đến với các ông. Proserchomai là một động từ được Mt ưa chuộng (Mt 52x; Mc 5x; Lc 10x; Ga 1x), nhưng chỉ có hai lần ông diễn tả một hành vi chủ động của Đức Giêsu (ở đây và ở 17,6-7: hai đoạn riêng của Mt): trong trường hợp này, Đức Giêsu đến gần là để nâng đỡ những người đang hoài nghi hoặc đang sợ.
Vấn đề ở đây là một lời nói, vấn đề ở đây là nghe chứ không phải là thấy. Chính lời nói của Đức Giêsu tạo được sự trấn an diễn tả ra bằng hành vi đến gần: Người tự tỏ mình ra trong lời Người nói như là Đấng được đặt để trong quyền bính và nói với uy quyền. Trong tư cách đó, Người hiện diện trong thời gian của thế giới, trong Giáo Hội cho đến tận thế.
Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (18b). Được đặt ở đầu bài diễn từ, mạc khải này đỡ nâng các khẳng định tiếp sau: lệnh truyền và lời hứa. Đức Giêsu khẳng định quan hệ của Người với Thiên Chúa và vị trí hiện nay của Người: chính Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu (so sánh với 9,6.8; 11,27 và Đn 7,14), đã ban cho Người tất cả các quyền hành trên trời dưới đất.
Theo lời rao giảng tiên khởi (kêrygma) của các tông đồ, do Phục Sinh, Người đã được đặt làm Đức Chúa (Kyrios) trên vũ trụ và làm Thẩm phán vào lúc tận thế. Trong thực tế, bản văn không nói cho biết là Người đã được Chúa Cha đặt để như thế khi nào, nhưng nhấn mạnh rằng quyền lực tối thượng này của Đấng Phục Sinh là vô biên (pasa) tự nó trong sự viên mãn và trong cường độ của nó: trong không gian, Đấng Phục Sinh hiển trị trên vũ hoàn (trời và đất), như trong Cựu Ước, Thiên Chúa được nhìn nhận là Chúa tể trời đất, nghĩa là Đấng Tạo hóa và Bảo toàn tất cả vũ trụ; và trong thời gian, Người hiển trị bây giờ và cho đến tận thế.
Bây giờ, trong tư cách là Đấng đại diện toàn quyền của Thiên Chúa, Đức Giêsu là Đấng mạc khải cánh chung cho biết ý muốn của Thiên Chúa và là Đấng thực hiện dự phóng cứu độ của Ngài. Các môn đệ có thể hoàn toàn chắc chắn rằng họ được ban cho quyền này.
Từ oun, “vậy”, gợi ý là lệnh truyền này là hậu quả của tuyên bố về quyền vũ hoàn của Đức Giêsu, là sứ mạng của Nhóm Mười Một phát xuất từ quyền bính của Đức Kitô. Tuy nhiên, lệnh truyền được ban cho toàn nhóm, điều này cho thấy rằng bổn phận truyền giáo là một nhiệm vụ của toàn thể cộng đoàn chứ không của một vài cá nhân. Uy quyền (c. 18) và sự hiện diện của Đức Giêsu (c. 20) sẽ cho các ông đủ tư cách và uy tín mà chu toàn bổn phận này.
Khi đi rao giảng, các môn đệ không chỉ trình bày, chỉ cống hiến sứ điệp, loan báo Tin Mừng (keryssein), nhưng là kiến tạo một cộng đoàn có quan hệ chặt chẽ và riêng tư. Tương quan của các môn đệ với Đức Giêsu là kiểu mẫu cho sự hiệp thông với Người mà mọi dân tộc đang được đưa dẫn tới. Kể từ nay, kiểu mẫu này là chuẩn mực cho mọi ki-tô hữu: “môn đệ” có thể nói là định nghĩa ngắn nhất của ki-tô hữu. Được giao sứ mạng “làm ra các môn đệ”, Nhóm Mười Một đang hiện diện ở đây sẽ có thể rút ra từ đó biết bao hệ luận: một đàng, kinh nghiệm sống với Đức Giêsu phải luôn luôn là điểm qui chiếu cho họ trong hoạt động; đàng khác, tư cách môn đệ không phải là của riêng thuộc về những bạn đồng hành lịch sử của Đức Giêsu trần thế, trái lại đây là tư cách mà kể từ nay mỗi người được mời gọi đi vào. Tất cả đều được mời gọi trở thành”môn đệ Đức Giêsu”, vị Thầy duy nhất (x. 23,8.10).
Chiều hướng phổ quát đã được báo trước trong lời nhắc đến Abraham (1,1), trong truyện các đạo sĩ (2,1-12), vị sĩ quan Caphácnaum (8,5-13), bà Canaan (15,21-28), viên sĩ quan canh giữ Đức Giêsu trên đồi Sọ (27,54). Đi đến với các dân tộc đã là chọn lựa của Đức Giêsu, cho dù trong diễn từ truyền giáo (ch. 10), Người đã truyền các môn đệ là chỉ đi đến với các chiên lạc Israel thôi. Tính phổ quát truyền giáo này còn được báo trước ở 24,4 và 26,13, và bây giờ được khẳng định như là ý muốn chính xác của Đức Giêsu. Điều bị cấm trước đây ở 10,5 (anh em đừng đi tới vùng các dân ngoại) bây giờ được khuyến cáo thi hành (hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ): như đại đa số các lần xuất hiện, từ ethnç trong Mt có nghĩa chữ là Dân ngoại, lệnh này chỉ liên hệ đến Dân ngoại. Nhưng nếu Israel không còn là đối tượng của một sứ mạng đặc biệt, điều này không có nghĩa là Israel bị loại ra khỏi chân trời Phục Sinh. Rất có thể vào thời của cộng đoàn Mt, đã có một sự đoạn tuyệt giữa Giáo Hội và Hội đường; nhưng người Do-thái tiếp tục là một thực tại của cộng đoàn Mt. Nếu Israel bị kết án, mỗi người Do-thái vẫn có thể đến với cộng đoàn các môn đệ. Sẽ xuất hiện một cộng đoàn phổ quát trong đó mỗi người có một quan hệ trực tiếp và thân tình vừa với Đức Giêsu vừa với những người khác. Hoạt động của các môn đệ là một sự tiếp nối hoạt động của Đức Giêsu (4,23; 9,35; 11,1).
Để làm cho muôn dân thành môn đệ, hai việc các môn đệ phải làm là “làm phép rửa” nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi và “giảng dạy”. Căn tính mới của Thiên Chúa là căn tính Cha, Con và Thánh Thần, mà người môn đệ bắt đầu quan hệ với qua bí tích thánh tẩy. Lệnh truyền giảng dạy đã được đặt vào cuối Tin Mừng, có thể là vì Mt coi nhiệm vụ giảng dạy như là nhiệm vụ cao nhất trong Hội Thánh. Nhóm Mười Một không được phép mở trường, nhưng tiếp tục học ở “trường” Đức Giêsu: các ông phải giảng dạy, như chính Đức Giêsu đã giảng dạy. Cho dù các ông đã nhận lãnh bổn phận giảng dạy, các ông sẽ phải mãi mãi duy trì chân tính môn đệ, bằng cách nhìn nhận và chấp nhận uy quyền của Đức Giêsu, bằng cách bây giờ tin vào Đức Giêsu như tin vào chính Thiên Chúa.
Đề tài giảng dạy đã có sẵn: các lệnh truyền của Đức Giêsu. TM Mt chứa biết bao lời giảng dạy của Đức Giêsu (trong năm diễn từ), nhưng nhất là giáo huấn của Bài giảng trên núi đáng được xét đến. Trong lệnh truyền giáo, Đấng Phục Sinh đã nói với các môn đệ là “dạy bảo họ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (c. 20). Câu này chắc chắn qui về tất cả mọi lời nhắn nhủ, tất cả giáo huấn của Đức Giêsu trong TM Mt, nhưng đặc biệt qui về các lời nhắn nhủ trong Bài Giảng trên núi bởi vì Bài Giảng này chứa phần lớn những gì Đức Giêsu đã dạy các môn đệ và có một giọng thôi thúc người ta thực hiện các lời nhắn nhủ này (x. 7,13-27).
Tuy nhiên, Đấng nói đây không còn là vị Thầy trần thế nữa, nhưng là Đức Chúa Phục Sinh, “Đấng đã được ban cho toàn quyền trên trời dưới đất”. Bây giờ, với uy quyền của Đấng là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” trong mức viên mãn của sự Phục Sinh, Đức-Giêsu-đang-sống lấy lại giáo huấn của Bài Giảng trên núi và nhắc lại cho các thế hệ tương lai.
Mục tiêu không còn phải là chu toàn Lề Luật hoặc các Ngôn sứ, nhưng tuân giữ “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em”. Như thế, chính Đức Giêsu đặt mình vào vị trí của “Lề Luật hoặc các Ngôn sứ” (x. ngay ở 5,21-48 với các công thức “Anh em đã nghe [Luật] dạy người xưa / Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”), Người là Đấng lập pháp tối cao, diễn tả trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa. Thái độ này khi đó và lệnh truyền hiện nay gửi trở lại với các công thức khác nhau của Cựu Ước trong đó chính Yhwh truyền lệnh cho dân Ngài là tuân giữ điều răn của Ngài (x. 2 Sb 33,8; Xh 34,32; Đnl 4,2; 12,14). Bây giờ Đức Giêsu thay thế Yhwh khi khẳng định ý muốn của Người. Và chắc chắn ý muốn thần linh này được tập trung nơi điều răn yêu thương, đỉnh cao và sự hoàn tất của Kinh Thánh (“Lề Luật hoặc các Ngôn sứ”: x. 22,40).
Tuy nhiên, hẳn là ta có thể nới rộng ý nghĩa của “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em” cho cả bốn bài diễn từ khác, bởi vì tác giả đã xác định rằng chúng cũng là những “chỉ thị/dụ ngôn/những điều” của Đức Giêsu (x. công thức kết luận mỗi bài diễn từ: 11,1; 13,53; 19,1; 26,1; x. 7,28-29). Vấn đề ở đây là các giáo huấn của Thầy về các điều kiện và bản chất của đời sống đích thực của người môn đệ và về nẻo đường thánh ý chân thực của Thiên Chúa, “nẻo đường công chính” (21,32).
Khi nói “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em”, Đức Giêsu xác định giáo huấn của Người là như một lệnh truyền, như một đòi hỏi cấp bách (trong một ngữ cảnh tương tự, Mc nói đến “tin mừng”: 13,10; 14,9; Lc thì nói đến “hoán cải và tha thứ tội lỗi”: 24,47). Đấng Phục Sinh biến lời của Đức Giêsu trần thế thành chuẩn mực cho Hội Thánh mọi thời và “cho đến tận thế”. Sứ điệp của Đấng Phục Sinh được coi là đồng nhất với sứ điệp của Đức Giêsu trần thế.
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (20b). Egô meth’ hymôn eimi. Giới từ meta + thuộc cách có nghĩa là “với” nhằm diễn tả sự hiệp thông, sự hiệp nhất (cơ bản là riêng tư cá nhân), sự cộng tác, khi đó là tương quan của Đức Giêsu với những người khác: Đặc biệt 28,20 đáp lại khởi đầu Tin Mừng, khi mà Đức Giêsu được giới thiệu lúc chào đời như là Đấng mà “người ta sẽ gọi tên là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (1,23). Ở đây chúng ta có một thể đóng khung rất lớn bung mở ra chiều kích vũ hoàn của bản thân Đức Giêsu trên toàn thể lịch sử nhân loại, đồng thời vẫn nêu bật sự bám rễ của Người về phương diện xác thịt trong thời gian và không gian. Thực tại Emmanuel này được diễn tả xuyên qua toàn thể Tin Mừng: Vào lúc chào đời của Đức Giêsu (1,23); trong khi hoạt động, Người hiện diện giữa nhóm môn đệ (9,15; 26, 18. 20. 36. 38. 40; x. “Đức Giêsu dẹp yên biển động”, 8,23-27; egô eimi, 14,27); những lần Người tiếp xúc với người tội lỗi (9,11) và qua cái chết ban ơn cứu chuộc (26,28; x. 1,21; 17,17 so với Mc 9,19). Mt 28,20 hẳn là câu trả lời chung cuộc cho câu hỏi ấy. Bây giờ Người hứa ở với họ mãi mãi.
Trong Cựu Ước, bằng những thuật ngữ tương tự Ta sẽ ở với các ngươi mãi mãi, Yhwh thường đảm bảo với một tín hữu, một ngôn sứ, một thủ lãnh, toàn dân, nhất là trong bối cảnh một cuộc sai phái, là Người sẽ hiện diện, nghĩa là giúp đỡ tận tình, với lòng từ bi thương xót, để cứu độ. Đấng Kyrios ban cho các môn đệ cũng một đảm bảo như Yhwh đã ban cho dân Ngài trong Cựu Ước. Người không thế chỗ cho các môn đệ, nhưng sẽ hiện diện với họ để nâng đỡ họ bằng sức mạnh, không do các đức tính hay các thành tích của các môn đệ, nhưng do sự trung tín hữu hiệu của Đấng đã đưa các lời hứa trong Kinh Thánh đến chỗ hoàn tất. Khi nói “tất cả các ngày”, Đức Giêsu khẳng định Người sẽ ở thường trực và trọn vẹn với các môn đệ, và nhắm đến tận thế, “lúc kết thúc thời gian của thế giới này”.
+ Kết luận
Trên núi Galilê (28,16; x. 5,1), Đức Giêsu Phục Sinh, đại diện toàn quyền của Thiên Chúa, tỏ mình ra như là Đấng mạc khải tối hậu của Thiên Chúa và Đấng lập pháp vĩnh viễn, nay cử các môn đệ đi đến với mọi dân tộc. Trong Cựu Ước, núi Sinai xuất hiện ra như là quả núi của mạc khải và của Giao ước, trên đó Thiên Chúa tự tỏ mình ra và thông ban các điều răn của Ngài (Xh 19,1–24,11). Từ Sinai, dân Israel bắt đầu cuộc hành trình tiến về Đất hứa; trên núi Galilê, Đức Giêsu đích thân, trong tư cách Đấng Phục Sinh, tức đã đi vào trong đời sống Thiên Chúa, cho thấy đâu là mục tiêu của mỗi người trong “tất cả các dân tộc”.
Các lời kết thúc của Đức Giêsu đã đón nhận lấy các nội dung chính của TM Mt về sứ vụ không biên giới của các môn đệ. Điều này còn cho thấy một lần nữa chiều hướng tổng hợp hướng về sứ vụ phổ quát như là nét tiêu biểu của Tin Mừng này.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Thiên Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm
Không dễ gì mà tiếp cận với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng lễ hôm nay. Đây là một trong những đại lễ dường như ở hơi xa đời sống chúng ta. Tuy vậy, chúng ta vẫn nhớ những bài học giáo lý khi còn bé bảo rằng Thiên Chúa Ba Ngôi bao trùm trọn vẹn đời sống chúng ta; và ý tưởng này vẫn cung cấp sức mạnh và sự tin tưởng cho chúng ta và nhắc chúng ta nhớ rằng đây là một thực tại sống động. Các bài Lời Chúa hôm nay có góp phần làm sáng tỏ mầu nhiệm này. Trong bài đọc thứ nhất, Môsê đã mời gọi dân chúng: “Anh em cứ hỏi những thời xa xưa”. Nếu tôi đi ngược lại thời gian cho đến “những thời xa xưa”, tôi cũng sẽ sống lại kinh nghiệm của dân Israel: tôi ghi nhận sự hiện diện thường trực của Thiên Chúa, Đấng đã chọn lựa tôi từ thuở đời đời, rồi vẫn hiện diện trong cuộc sống thường ngày tầm thương của tôi, tỏ mình ra qua những dấu chỉ, nâng đỡ tôi trong các thử thách, bung mở các việc kỳ diệu ra trong thế giới.
2. Ở trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi và Thiên Chúa Ba Ngôi ở trong lòng
Khi đó, ở trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi và Thiên Chúa Ba Ngôi ở trong lòng, có nghĩa là trước tiên ý thức rằng lịch sử chúng ta có gốc rễ rất xa, từ bao đời vẫn ở trong tay Thiên Chúa, Ngài vẫn dẫn dắt cuộc sống chúng ta, vì trung thành với lời đã hứa.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô nhắc lại rằng vị Thiên Chúa này, Đấng ban sự sống, đã thổi Thần Khí của Ngài vào chúng ta, để nhờ Thần Khí, Ngài giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và nỗi sợ hãi, và làm cho chúng ta thành conc ái Ngài, khiến chúng ta có thể gọi Ngài là Cha. Ở trong lòng Ba Ngôi và có Ba Ngôi trong lòng, khi đó, cũng có nghĩa là ý thức về ân huệ Thánh Thần mà Thiên Chúa đã ban cho ta, để cho Ngài dẫn dắt và biến đổi đời sống chúng ta, sống kinh nghiệm tự do nội tâm, một kinh nghiệm phát sinh từ cảm nhận chúng ta được yêu thương như là những người con và là kinh nghiệm mạnh hơn mọi nỗi sợ hãi, mọi đau khổ.
3. Đức Giêsu Phục Sinh sai phái các tông đồ
Cuối cùng, Đức Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với các tông đồ, truyền họ ra đi và tiếp nối công trình của Người nhân danh Ba Ngôi vị thần linh, bảo đảm với họ rằng Người sẽ hiện diện với họ mọi ngày cho đến tận thế. Ở trong lòng Ba Ngôi và có Ba Ngôi trong lòng, cuối cùng, có nghĩa là có cặp mắt có khả năng nhận ra Đức Giêsu, vị Thiên Chúa làm người, ngay tại những nơi của đời sống mà Người cho ta làm điểm hẹn, và ra đi trong Thánh Thần, để bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa cho mỗi người, để làm cho mọi người sống nhờ hơi thở của Thiên Chúa.

75. Chú giải của Noel Quesson.
Mười một môn đệ đi tới miền Galilê
Riêng câu này cũng đủ nói cho chúng ta biết “Giáo Hội là ai”. Đó là Hội Thánh của những quốc gia ngoại giáo. Những môn đệ được chính Chúa Giêsu mời gọi rời bỏ Giêrusalem (Mt 28,7), cho đến lúc bấy giờ vẫn là trung tâm địa lý của Đức Tin, nơi Thiên Chúa hiện diện. Theo Thánh Matthêu, không có sự hiện ra “chính thức” với các tông đồ tại Giêrusalem. Chúa trao phó sứ mạng cho các phụ nữ một cách riêng tư, Người triệu tập các tông đồ đến “miền Galilê của chư quốc”, một tỉnh có nhiều dân tứ xứ vãng lai – Hội thánh bắt đầu tại Galilê, vùng này thay thế cho Giêrusalem và trở thành trung tâm phát triển của cộng đoàn mới. Trong những chương đầu, Matthêu cho thấy tính cách bí nhiệm của các “Đạo sĩ phương Đông”, họ đến từ những vùng ngoại giáo, sấp mình thờ lạy Giêsu Hài Nhi, trong khi đó, Giêrusalem lại không đón tiếp Người.
Phải chăng tôi có quan niệm như thế về Giáo Hội?
Một Giáo Hội mở rộng loan báo Tin Mừng cho toàn thế giới, chứ không đóng kín trong những bức tường.
Đến những ngọn núi Chúa Giêsu đã hẹn với các ông
Chữ “Eklésia”(Giáo Hội) trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “tập họp những người được triệu tập”. Kitô hữu là những người được Đức Giêsu Phục Sinh triệu tập. Mỗi Chúa Nhật khi đến với Bí tích Thánh Thể, tôi có ý thức rằng, không phải tôi có sáng kiến này, mà Đức Giêsu đã triệu tập tôi. Tôi đáp lại lời mời trước tiên, đức tin của tôi không phải là một mớ kiến thức, mà là sự đáp trảvới đấng đã kêu gọi tôi “trên núi”.
Trong Tin Mừng của Matthêu, người ta không bao giờ nói núi đó là núi nào. Nhưng trái lại, phải chăng là tình cờ, núi là địa điểm tốt nhất cho sự mạc khải của Thiên Chúa. Chính ở trên “núi cao”, Đức Giêsu đã tuyên bố diễn văn khai mạc tức là “Bài giảng trên núi”(Mt 5,1–8,1). Người cũng đã cầu nguyện, hoá bánh ra nhiều và biến hình trước mặt các tông đồ của người ở trên núi cao.
Tôi để biểu tượng này in sâu trong tôi.
Tôi để cho Đức Giêsu triệu tập tôi trên núi cao.
Tôi chấp nhận mở rộng nhãn giới của tôi. Phong cảnh Đức Giêsu mời gọi tôi thật hùng vĩ.
Người ta thoải mái hít thở không khí ở trên đỉnh cao.
Khi thấy Người các ông sụp lạy
Đó là cử điệu Phụng vụ mà những người trẻ sẽ thực hiện lại, và dân chúng phương Đông thường làm một cách tự phát: Nằm dài trên mặt đất hay ít nhất là cúi rạp, trán chạm đất. Đây là cử chỉ tôn thờ long trọng. Cử điệu cao quí nhất mà con người có thể làm hiện được. Trong tin mừng Thánh Matthêu, sự sụp lạy này cũng được các tông đồ thực hiện trong chiếc thuyền, khi thuyền đã được cứu khỏi cơn phong ba bão táp (Mt 14, 33). Đó cũng là cử điệu của ba nhà Đạo sĩ ngoại giáo (2,11), của người bệnh phong (8,12), và của một phụ nữ Canaan, một người ngoại đạo khác (15,25).
Tôi có bao giờ thờ lạy như thế không? Nghĩa là thầm lặng suy niệm về sự oai nghi của đấng đang ở trước mặt tôi chăng?
Nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Đức Giêsu đến gần
Giáo Hội dâng lễ tế để tôn thờ Thiên Chúa vẫn còn là một Giáo Hội của những người tội lỗi. Đức tin của những con người. Đức tin của những tông đồ đầu tiên (cũng như đức tin của chúng ta) vẫn còn là một đức tin pha trộn hoài nghi và nước đôi, đó là một đức tin còn đang di hành. Giáo hội đón tiếp Đức Giêsu vẫn là một Giáo Hội của những người “yếu đức tin” (Mt 14,31), bị hư mất một người, chỉ còn 11 trong số 12 người đã được chọn. Đức Giêsu không ngạc nhiên về điều này. Người đến gần họ như ngày người đã biến hình (Mt 17,7). Lạy Chúa xin hãy đến. Xin Chúa hãy đến gần hơn. “Maranatha”. Lạy Chúa xin thương xót chúng con và tất cả những người đã không tuyên xưng Đức tin một cách hoàn toàn và rõ ràng. Xin Chúa thương xót biết bao bạn trẻ, biết bao con người thời nay “không đạt đến đức tin”. Xin Chúa thương xót con, vì đôi khi đức tin của con cũng hoài nghi.
Người nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi đến muôn dân và kết nạp môn đệ … Dậy họ tuân giữ những điều răn… Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
Lời của Đức Giêsu phục sinh nói trên đây oai nghi biết bao!
Sau cuộc sống khiêm nhường thành Nagiarét, giờ đây sự thật đã tỏ lộ. Bên ngoài, đây có vẻ như là tramg cuối của một câu truyện, giai đoạn kết thúc của cuộc sống một con người, nhưng thực ra đây là khởi đầu của một cuộc phiêu lưu vĩ đại nhất trong các thời đại, không thể giải thích được bằng những tiêu chuẩn bình thường của lịch sử.
Chúng ta nên lưu ý đến tầm quan trọng của tất cả tĩnh từ “tất cả, toàn thể” đã được lập lại tới bốn lần. Nhắc lại bốn lần từ “toàn thể”, nhắc lại bốn lần từ “trọn vẹn” là để biểu lộ hành động của Đức Giêsu. Đó là tính trọn vẹn – toàn diện trong hành động của Thiên Chúa, Đấng đã chấp nhận thân xác trong toàn diện hành động của con người, theo suốt dòng thời gian trôi chảy! Nên đọc lại tư tưởng của Cha Teihard de Chardin. Dưới đây là là một trích đoạn: “xét về mặt vật lý, Đức Kitô là Đấng choán phủ tất cả: Không có một yếu tố nào trong vũ trụ, vào bất cứ một giây phút nào của trần gian, chuyển hành mà lại không di chuyển, và không bao giờ được vận hành ngoài tầm hướng dẫn của Người cả. Không gian và thời gian đã ngập đầy sự hiện diện của Người. Cũng xét về mặt thể lý, Đức Kitô là Đấng “tiêu thụ” tất cả: trọn vẹn vũ trụ chỉ được hoàn tất trong một tổng hợp cuối cùng, mà ở đó có một ý thức siêu việt sẽ biểu lộ trên mọi yếu tố phức tạp cho dù đã được cấu tạo một cách tuyệt vời. Mọi con người sẽ hội tụ và cùng kết nối lại với nhau trong Người. Chính Đức Kitô sẽ tạo cho toàn bộ công trình vật chất và tinh thần độ bền vững mãi.
Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Chúa Cha chỉ là “Cha”, vì Người quên mình hoàn toàn, để chuyển trọn vẹn sang Ngôi Con. Chúa Con chỉ là “Con” vì Người quên mình để trọn vẹn “tự hiến dâng” cho Chúa Cha – Chúa Thánh Thần sẽ không là gì cả nếu Người không phải là tình yêu hỗ tương của Chúa Cha và Chúa Con, Thiên Chúa là Tình yêu.
Chương trình lớn lao của Thiên Chúa, mà Đức Giêsu đã giao cho các tông đồ, cho Giáo Hội, nhằm “nhận dìm” (đấy là nghĩa chữ Hy Lạp baptizô) nhân loại trong tương quan tình yêu liên kết Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. “Dấu” rửa tội đúng là dấu Thánh Giá; đó là “cuộc sống cho tha nhân”. Chúng ta được rửa tội nhân danh tình yêu. Chúng ta được “nhận dìm” trong nguồn tình yêu đó – Đấy là “chương trình” của Giáo Hội.
Đôi khi người ta tự hỏi Đức Giêsu đã muốn sáng lập Giáo Hội nào? Chắc chắn, Đức Kitô đã không nghĩ đến nước Vatican, đến các vị Giám mục đội mão, đến những văn phòng hành chánh, những kiến trúc tôn giáo hay những nghi lễ trọng thể của Giáo Hội, giống như những triều đình vua chúa ngày xưa.
Nói điều này để chúng ta đừng đóng khung Giáo Hội sống động trong những bộ mặt trần thế mà Giáo Hội đã có trong một số thời đại. Điều Đức Kitô muốn đó là “Tập hợp tất cả mọi người trong tình yêu” – Chúa là tình yêu – Chúa là cộng đồng những người thương yêu nhau tronh hiệp nhất của Chúa Thánh Thần – phải tìm điều cốt yếu của Giáo hội trong bản tính của Chúa Ba Ngôi.
Những người thấy tôi sốt sắng, tôi được “nhận dìm”, “được rửa tội” trong Chúa Ba Ngôi tình yêu, những người quan sát những nhóm mà tôi đang sống: Gia đình, nhóm làm việc với tôi, họ có thể cảm thấy “tôi đã được rửa tội nhân danh ai”?
Anh em hãy dạy bảo họ giữ những điều Thầy đã dạy cho anh em.
Đức Giêsu đã truyền dạy những điều răn nào? Đó là giới răn tình thương. “Người ta sẽ nhận các con là môn đệ của Thầy, ở điều này, nếu các con yêu thương nhau”. Không phải cứ được rửa tội là đủ – phải tỏ ra là “môn đệ” của Đức Giêsu bằng mọi hành động trong cuộc sống. Đối với Đức Giêsu, giáo lý không phải là một bài phải học mà là một tập luyện sống “theo tình thương”
Và đây; Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
Lời hứa “Thầy ở cùng” trên đây rất mạnh nghĩa. Cũng như trong Tin Mừng Thánh Gioan, ta đoán nhận ra trong lời phát biểu đó, cung cách của “Giavê”trong Cựu ước. Hơn nữa, theo lối hành văn của người Sêmít, ở đây ta nhận thấy, để kết thúc Tin mừng của mình, Matthêu đã lập lại tư tưởng đã đề cập ở đầu sách: “Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Khi báo tin cho Thánh Giuse (Mt 1,23), Thiên sứ đã nói con trẻ sẽ được gọi là Emmanuel, vậy mà Thánh Giuse đã đặt tên Chúa là Giêsu: Nhưng trong dòng cuối của Tin Mừng, Thánh Matthêu đã giải thích bí mật này: Đức Giêsu Phục sinh, chính là “Chúa ở cùng chúng ta”.
“Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa”.

76. Mầu nhiệm tình yêu hợp nhất – GM Lệ Tâm
Ngày xưa khi còn bé đang tuổi thiếu nhi, tôi đã được học giáo lý về Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong bài giảng thánh lễ Chúa Nhật mừng kính Thiên Chúa Ba Ngôi, cha xứ tôi đã dùng một hình ảnh để mô tả về mầu nhiệm này. Cha hỏi:
– Các con đưa mắt nhìn xem mặt trời các con sẽ thấy gì?
Cả ngàn thiếu nhi trả lời:
– Thưa cha, thấy một vòng tròn to, đỏ như lửa ạ!
– Giờ cha tắt máy quạt các con có thấy gì không?
– Thưa cha, thấy nóng ạ!
– Nhìn qua cửa sổ nhà thờ các con thấy gì?
– Thưa cha, thấy ánh sáng ạ!
-Vậy, bởi đâu mà có ánh sáng và sức nóng.
– Thưa, tự mặt trời phát ra.
– Vậy ánh sáng có phải là mặt trời không? Sức nóng có phải là mặt trời không?
Cả nhà thờ thưa to:
– Thưa phải.
– Như vậy là có ba mặt trời phải không?
Tất cả đoàn Thiếu Nhi chúng tôi ngẩn người ra. Thú thật ngày đó tôi không thể hiểu nổi những điều cha xứ dạy, và cha kể chuyện thánh Augutinô: Trong một lần kia, thánh nhân đi dạo trên bãi biển, vừa đi vừa suy niệm về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, và ngài không thể hiểu nổi về mầu nhiệm cao siêu này. Đang lúc miên man thì ngài nhìn thấy một em bé cầm cái vỏ ốc nhỏ múc nước từ dưới biển đổ vào một lỗ cáy, thánh nhân lấy làm ngạc nhiên, lại gần hỏi em bé:
– Này em bé, sao em lại lấy vỏ ốc nhỏ xíu như vậy mà múc cả một đại dương như thế? Bé không biết là mình đã làm một việc vô lý sao?
– Em bé trả lời:
– Thưa ngài, việc cháu làm còn dễ hiểu hơn là điều ngài đang suy nghĩ! Thánh nhân đã chợt hiểu ra.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Công giáo. Quả thật, đây là một mầu nhiệm thâm sâu, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả người có óc tưởng tượng nhất cũng không sao hiểu thấu hay hình dung ra được. Bởi vì Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một bài toán: 3 là 3; 1 là 1; chứ không có bài toán nào 1 là 3 hoặc 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số cho con người cộng, trừ, nhân, chia.
Vậy ai đã dạy cho chúng ta biết về mầu nhiệm này? Chính Chúa Giêsu Kitô. Người đã đến từ Chúa Cha và Người đã mặc khải cho con người biết: Chúa Cha là Thiên Chúa, còn Người là Con Một của Chúa Cha. Người và Chúa Cha là một. Người ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Người, nghĩa là Người cùng bản tính với Chúa Cha. Người là Thiên Chúa. Người cũng đã cho biết: Chúa Thánh Thần là Đấng Người và Chúa Cha sai đến, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ có một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt. Nếu Người không dạy bảo thì loài người không thể nào biết được. Vì thế, Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm và mãi mãi vẫn là mầu nhiệm. Và Thiên Chúa muốn chúng ta hiểu biết đời sống nội tại của Thiên Chúa, đó là tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi nói lên một điều duy nhất đó.
Vì vậy, khi Giáo hội mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này. Hơn thế nữa, lại còn mời gọi chúng ta sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương hiệp nhất. Tình yêu giữa Ba Ngôi không khép kín trong Ba Ngôi, nhưng đã trào tràn trên hết mọi loài thụ tạo. Bởi thế, tình yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Sống yêu thương là cách diễn tả đúng nhất, và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm ngừời và làm con Chúa. Đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Thiên Chúa Ba Ngôi: Yêu Thương – Hiệp Nhất.
Lời Nguyện.
1. “Hạnh phúc thay Dân nào được Chúa chọn làm gia nghiệp”. Chúng con cầu xin Chúa cho toàn thể Hội Thánh, luôn diễn tả niềm hạnh phúc được làm con Chúa, nên dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi, và nên những chứng nhân loan báo Tin Mừng. Thành tâm chúng con cầu xin Chúa.
2. Môisen nói: “Anh em giữ các lệnh truyền của Chúa, anh em sẽ hạnh phúc và sống lâu”. Chúng con cùng cầu xin Chúa cho các thành phần gia đình, giúp nhau tuân giữ các giới răn Chúa, luôn hiệp thông trong tình yêu Chúa, và thông phần sự sống của Chúa. Thành tâm chúng con cầu xin Chúa.
3. Chúa phán: “Các con hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy”. Lạy Chúa xin cho các Kitô-hữu, sống đoàn kết yêu thương nhau, hiệp nhất với nhau, và ra sức thực thi lệnh truyền của Chúa, mà làm cho mọi người tin nhận ơn cứu độ. Thành tâm chúng con cầu xin Chúa.
4. Chúa phán: “Các con hãy dạy cho muôn dân tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, trung thành tuân giữ Lời Chúa, và ra sức giúp mọi người thực thi mọi điều Chúa truyền dạy.Thành tâm chúng con cầu xin Chúa.

77. Làm Dấu – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Thiếu nhi trong Giáo xứ Kim Ngọc chúng tôi thuộc lòng ca khúc “Làm Dấu”, ngày Chúa Nhật nào các em cũng hát trước khi học giáo lý.
1. Con đặt tay lên trán tôn vinh Chúa Cha toàn năng.
Con đưa tay xuống ngực chúc tụng Chúa Con tình yêu.
Đưa tay sang trái phải, vinh danh Chúa Thánh Thần nguồn ơn thánh thiên hồng phúc đời con.
Mỗi lần làm dấu thánh xin ngự đến trong tâm hồn con, mỗi khi con cầu nguyện xin hãy biến đổi tâm hồn con, xin cho con giống Ngài trong lời nói việc làm, ước mong đời con nên dấu chỉ yêu thương của Ngài giữa đời.
ĐK: Con làm dấu hằng ngày. Con làm dấu một đời, khắc ghi tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa trong trái tim con. Ôi dấu thánh nhiệm mầu, dấu ấn tình yêu nhắc nhở con luôn hướng lòng lên Chúa.
Con làm dấu hằng ngày. Con làm dấu một đời, khắc ghi tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa trong trái tim con. Ôi dấu thánh nhiệm mầu, dấu ấn tình yêu Chúa mãi ở trong con con ở trong Chúa.
2. Bao lần con quên Chúa khi vô ý hay khi thờ ơ.
Bao phen con ngại ngần lúc làm dấu tuyên xưng niềm tin.
Đã có lúc yếu hèn, không làm dấu giữa đời, Ngài ơi giúp con bừng cháy niềm tin.
Giữa hiểm nguy khốn khó con làm dấu xin ơn bình an, trong an vui ngập tràn con làm dấu hân hoan tạ ơn. Khi cô đơn thất vọng, khi mệt mỏi chán chường, Chúa ơi ở bên con nhé vì con đây luôn cần tới Ngài.
Làm dấu Thánh Giá là lời tuyên xưng đức tin, tôn vinh Chúa Ba Ngôi của người Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người theo đạo khác.
Mùa Phục Sinh kết thúc với đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Giáo hội nhìn lại chương trình cứu độ được Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử nhân loại và nhận ra rằng: nguồn ơn cứu độ chính là Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Vì thế, chúng ta hiểu tại sao ngày Chúa nhật mùa Thường niên tiếp ngay sau lễ Hiện Xuống, luôn luôn được Giáo hội mừng kính và suy niệm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Giáo Hội là công trình của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ Ngài, Giáo Hội sinh ra; nhờ Ngài, Giáo Hội hoạt động; và hướng tới Ngài, Giáo Hội dấn bước. Chỉ một mình Thiên Chúa mới nắn đúc nên Giáo Hội theo lòng Ngài mong ước. (Thư Chung 2011, Số 19).
Giáo hội được Chúa Cha tập hợp chung quanh Chúa Giêsu dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Là dân tộc lữ hành, Giáo hội phát xuất từ Chúa Cha, sẽ trở về với Chúa Cha, nhờ trung gian của Chúa Kitô, dưới hơi thở của Chúa Thánh Thần. Chính từ mầu nhiệm Ba Ngôi mà Giáo hội được sinh ra và cũng từ Thiên Chúa mà Giáo hội lãnh nhận sứ mạng để tất cả nhân loại làm thành một Dân Thiên Chúa, tập họp thành Thân Thể Chúa Kitô, được xây dựng thành Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Giáo hội như là hình ảnh của mầu nhiệm hiệp thông giữa Ba Ngôi Thần Linh và Giáo hội là dấu chỉ của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại (x.GH1; GLCG số 772). Ba Ngôi là cội nguồn và là cùng đích của Giáo hội. Giáo hội là công trình của Ba Ngôi. Giáo hội nuôi sống con cái mình bằng thần lương Ba Ngôi ban tặng qua các bí tích.
1. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo.
Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là 3; 1 là 1. Không tính với bài toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà ví von được.
Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Chúa Giêsu Kitô. Nếu Chúa không dạy bảo thì loài người không thể nào biết được. Cho tới trước khi Chúa Kitô đến, loài người không có một ý niệm nào. Dân Do thái, dân riêng của Chúa, cũng không biết gì về mầu nhiệm Ba Ngôi. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Giêsu, trong đời sống công khai giảng dạy đã mạc khải dần dần. Ngài đã từng bước vén lên bức màn của mầu nhiệm Ba Ngôi.
Ngài cho biết: Chúa Cha là Thiên Chúa, còn Ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, cùng bản tính với Chúa Cha. Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài với Chúa Cha là một Thiên Chúa.
Ngài cũng cho biết: Chúa Thánh Thần là Đấng mà Chúa Cha sai đến, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt nhau chứ không phải là ba Chúa.
2. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm Tình Yêu.
Tại sao Chúa Giêsu lại mạc khải cho chúng ta một mầu nhiệm quá cao siêu như thế? Chắc chắn không phải là để thử thách thiện chí của con người, hoặc để xây lên bức tường chặn đứng suy luận và óc tưởng tượng của con người. Nhưng vì Chúa muốn chúng ta hiểu biết đời sống nội tại của Thiên Chúa, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nói lên điều đó.
Thiên Chúa là Tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một công thức khác để nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, ban cho con người được hạnh phúc như Chúa. Nhưng con người đã phạm tội phản nghịch đánh mất hạnh phúc. Thiên Chúa không từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban Con Một yêu dấu để cứu chuộc. Và vì yêu thương con người, Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian thực hiện sứ mệnh yêu thương đó. Và khi hoàn tất, Ngài về trời. Chúa Thánh Thần đến để tiếp tục công việc của Ngài, công việc yêu thương. Nhờ Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa tiếp tục được bày tỏ mãi cho tới chúng ta hôm nay và mãi về sau nữa.
Vì thế, khi mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội không chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa đã trào tràn trên mọi thụ tạo, thì tình yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Sống yêu thương là cách diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Chúa; đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương và hiệp nhất.
3. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm gần gũi nhất trong đời sống đạo.
Trước khi dùng cơm, phần lớn trong chúng ta đều làm dấu thánh giá và đọc nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Khi đọc kinh trong nhà thờ hay tại nhà, chúng ta đều bắt đầu bằng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Có những người có thói quen tốt là trước khi làm bất cứ việc gì, họ đều làm dấu thánh giá. Qua đài truyền hình, thỉnh thoảng chúng ta thấy, có những cầu thủ bóng đá quốc tế làm dấu thánh giá sau khi đá lọt lưới đối phương, hoặc trước khi đá phạt đền.
Làm dấu trên trán, chúng ta tuyên xưng Chúa Cha là Đấng tạo dựng trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Làm dấu trên ngực, chúng ta tuyên Chúa Con là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Làm dấu trên hai vai chúng ta tuyên xưng Chúa Thánh Thần là Chúa và Đấng ban sự sống, Người bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Dấu chữ thập mà chúng ta làm chỉ thánh giá của Chúa Giêsu, nơi mạc khải trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đối với nhân loại.
Dấu thánh giá là lời tuyên xưng đức tin vắn tắt nhất của người Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người theo đạo khác. Lời kinh nhân danh Cha và Con và Thánh Thần tóm tắt đức tin mà chúng ta đã nhận lãnh khi chịu phép rửa tội, mà nội dung là ba điều khoản lớn của đức tin công giáo, điều khoản thứ nhất tuyên xưng Chúa Cha, điều khoản thứ hai tuyên xưng Chúa Con, điều khoản thứ ba tuyên xưng Chúa Thánh Thần và Hội thánh. Như vậy cách thực tế và đơn giản nhất để tôn vinh Chúa Ba Ngôi là chúng ta hãy làm dấu thánh giá cách sốt sắng và ý thức, với tất cả lòng yêu mến và kính trọng.
Đi sâu hơn chút nữa, chúng ta càng thấy mầu nhiệm Ba Ngôi thật gần gũi và thật là cao cả. Thánh Augustinô đã nói: “Nếu bạn thấy tình yêu, bạn sẽ thấy Chúa Ba Ngôi”.
Chúng ta có thấy tình yêu không, và thấy như thế nào? Tình yêu được nhìn thấy qua những hành vi yêu thương.
Yêu thương là ban tặng: khi yêu người ta trái tim của mình cho người yêu. Yêu thương sâu đậm là cho đi điều quý báu nhất cho người mình yêu, như trường hợp của Chúa Cha mà Chúa Giêsu nói tới trong Tin mừng Gioan: “ Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian” ( Ga 3, 16 ). Hay chính trường hợp của Chúa Giêsu: “ Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người dám thí mạng sống vì bạn hữu” ( Ga 15, 13 ). Yêu thương là cho đi chính mình, là tự hiến chính mình. Vợ chồng yêu thương nhau, dâng hiến bản thân cho nhau, kể cả thân xác mà không chút e dè, trái lại còn hạnh phúc nữa. Cha mẹ và con cái yêu thương nhau có thể hy sinh mạng sống mình cho nhau.
Yêu thương là chia sẻ: yêu nhiều, người ta chia sẻ cho nhau nhiều, yêu nhau hết mức thì người ta chia sẻ cho nhau tất cả. Vợ chồng yêu nhau chia sẻ cho nhau tất cả, từ của cải vật chất đến gia sản tinh thần, đến cả tình gia đình. Ông bà cha mẹ của chồng trở thành ông bà cha mẹ của vợ và ngược lại. Trong Thiên Chúa cũng thế, Ba Ngôi Thiên Chúa chia sẻ cùng một sự sống thần linh. Và chính sự sống thần linh duy nhất làm cho Ba Ngôi là một. Chúa Cha đã sai Chúa Con mang sự sống thần linh ấy xuống trần gian chia sẻ cho nhân loại. Sự sống ấy là Bánh bởi trời mà chúng ta nhận lãnh trong bí tích Thánh Thể.
Yêu nhau là đón nhận nhau. Đón nhận tình yêu và ý muốn của người mình yêu, đón nhận tất cả, đón nhận chính bản thân của người yêu. Người được yêu có vị trí quan trọng trong trái tim của người yêu. Suy nghĩ về tình yêu giữa Chúa Con và Chúa Cha, chúng ta sẽ thấy ở trần gian này, không có sự đón nhận nào trọn vẹn như thế. Chúa Con đón nhận tất cả từ Chúa Cha: giáo lý, ý muốn, lời nói, hành động. Chúa Con đón nhận chính bản thân Chúa Cha làm bản thân của mình, vì vậy mà đồng bản thể với Chúa Cha.
Yêu nhau còn là gắn bó với nhau. Càng yêu nhau càng gắn bó mật thiết đến nỗi là một với nhau. Hai vợ chồng yêu nhau ở mức độ cao nhất thì trở nên một: một xương thịt, một thân mình. Bấy giờ tình yêu vợ chồng không những là dấu chỉ hữu hình của tình yêu Chúa Giêsu đối với Giáo Hội, mà còn là dấu chỉ của tình yêu Ba Ngôi. Ba Ngôi gắn bó với nhau đến nỗi là Một với nhau. Và chỉ có một Thiên Chúa mà thôi, Thiên Chúa là Tình Yêu nguồn suối, mẫu mực cho mọi tình yêu của con người (ĐGM Bùi Văn Đọc).
Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm vì đó là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm đó, nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy được biểu hiện của mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm của tình yêu.
Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen ghét hận thù làm cho khuôn mặt chúng ta lem luốc méo mó, không còn giống khuôn mặt Thiên Chúa.
Hôm nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia sẻ, biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ mình, bỏ sở thích riêng, bỏ của cải và nhất là phải biết bỏ ý riêng, hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Khi hoàn toàn quên mình để sống cho tình yêu ta sẽ được kết hiệp với tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng. Đó chính là đích điểm của đời chúng ta.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, xin cho chúng con ngày càng trở nên giống hình ảnh của Chúa. Amen.