I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 12,20-33
(20) (Khi ấy) trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp, (21) họ đến gặp ông Phi-líp-phê, người Bết-xai-đa miền Ga-li-lê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su. (22) Ông Phi-líp-phê đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su. (23) Đức Giê-su trả lời: “Đã đến Giờ Con Người được vôn vinh! (24) Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (25) Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. (26) Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy. Và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy. (27) Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này. Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. (28) Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha. Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”. (29) Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: “Đó là tiếng sấm!”. Người khác lại bảo: “Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!” (30) Đức Giê-su đáp: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. (31) Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! (32) Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. (33) Đức Giê-su nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
2. Ý CHÍNH:
Việc dân Do Thái suy tôn khi đón rước Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem và việc dân ngoại đến xin gặp mặt là dấu hiệu tiên báo đã đến “Giờ” Đức Giê-su được tôn vinh. Được tộn vinh nghĩa là được vào trong vinh quang qua khổ nạn thập giá, giống như hạt lúa chỉ phát sinh được nhiều hạt lúa khác sau khi trải qua một quá trình tự hủy trong ruồng đất. Đức Giê-su qua cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh, để ban ơn cứu độ cho loài người, và đến ngày tận thế Người sẽ đến lần thứ hai để phán xét và tiêu trừ ma quỷ cùng những kẻ theo chúng vào hỏa ngục đời đời.
3) CHÚ THÍCH:
– C 20-22: + Mấy Người Hy lạp: Đây là lương dân theo văn hóa Hy-lạp, có thiện cảm với đạo Do Thái hoặc mới theo đạo Do Thái. Họ lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua (x. Ga 11,55). Được chứng kiến cuộc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem của Đức Giê-su, họ đã mạnh dạn đến xin gặp Người. + Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su: Sở dĩ hai ông Phi-líp-phê và An-rê cùng đến thưa Đức Giê-su điều này vì cả hai ông đều nói thạo tiếng Hy-lạp, và cả hai đều sống ở Bết-xai-đa, nơi có nhiều dân ngoại sinh sống.
– C 23-25: + Đã đến Giờ: Tin Mừng nhiều lần nói đến “Giờ”: Giờ của Ta (x. Ga 2,4), Giờ của Người chưa đến (x. Ga 7,30 ; 8,20), Đã đến Giờ Người phải rời khỏi thế gian (x. Ga 13,1), Giờ phải uống chén đắng (x. Mc 14,35), Giờ của kẻ thù và của tối tăm (x. Lc 22,53), Giờ Đức Giê-su bị bỏ rơi (x. Ga 16,32), Giờ Con Người được tôn vinh (x. Ga 12,23). + được tôn vinh: là Giờ Chúa Cha tôn vinh Chúa Con (Ga 17,1). Được tôn vinh nghĩa là Đức Giê-su phải trải qua cuộc khổ nạn rồi sống lại để vào trong vinh quang cùng với Chúa Cha. + Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất: Đức Giê-su đã dùng dụ ngôn hạt lúa để giải thích: Hạt lúa có chết đi mới gây được một mùa gặt bội thu. Cũng vậy, Đức Giê-su cũng phải trải qua cuộc thương khó và bị giết chết, rồi mới được Chúa Cha cho sống lại vinh quang. Từ cạnh sườn của Người bị đâm thâu, Hội Thánh được sinh ra và ngày một phát triển. + Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này…: Coi thường hay ghét mạng sống mình nghĩa là yêu mến ít hơn. Đây là một câu có hai vế đối nghịch nhau: Ai chăm lo hưởng thụ ở đời này thì sẽ mất sự sống vĩnh cửu đời sau. Còn ai chấp nhận gian nan thử thách đời này, thì sẽ được sống vĩnh cửu ở đời sau (x. Mc 8,35 ; Mt 16,25 ; Lc 9,24).
– C 26-28: + Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy: Ai muốn làm môn đệ Đức Giê-su thì phải đi con đường khổ nạn mà Người đã đi và sẽ được cùng Người sống lại. +Tâm hồn Thầy xao xuyến: Đứng trước cuộc tử nạn gần kề, Đức Giê-su cảm thấy bất an xao xuyến, vì Người có nhân tính giống như loài người chúng ta mọi đàng, ngoại trừ Người vô tội (x. Ga 8,46 ; 1 Ga 3,5). + Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì Giờ này mà con đã đến: Mang thân phận loài người, Đức Giê-su cũng sợ hãi, đau khổ trước cái chết như mỗi người chúng ta. Người đã cầu xin Chúa Cha cứu mình khỏi “Giờ khổ nạn” ấy. Nhưng Người sẵn sàng chấp nhập vâng theo Ý Chúa Cha, nghĩa là cứu chuộc loài người bằng con đường đau khổ. Lời cầu xin này cũng được lặp lại trong vườn Câu Dầu (x. Lc 22,42-44). + Có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”: Tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống như khi Đức Giê-su chịu phép Rửa (x. Mt 3,17) và biến hình (x. Mt 17,5). Từ trước đến nay, Thiên Chúa đã tôn vinh Danh Ngài nhờ những “dấu chỉ” do Đức Giê-su thực hiện. Từ đây, Thiên Chúa sẽ lại tôn vinh Đức Giê-su khi cho Người từ cõi chết trỗi dậy.
– C 29-30: + Đó là “tiếng sấm!”… “Tiếng một thiên thần!”: Chỉ mình Đức Giê-su mới nghe được tiếng Chúa Cha. Còn các người khác chỉ nghe thấy âm thanh rền vang mà không hiểu nội dung nói gì ? nên kẻ thì cho đó là tiếng sấm, kẻ khác lại nghĩ là tiếng thiên sứ nói với Đức Giê-su. Sự kiện này tương tự như trường hợp Sao-lô sau khi bị ngã ngựa tại cửa thành Đa-mát (x. Cv 9,3-7; 22,9). + Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài: Giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su là Giờ phán xét và kết án: Những kẻ không tin sẽ bị liệt vào hàng ngũ Xa-tan đối nghịch với Thiên Chúa. Họ sẽ chịu chung số phận là bị loại ra khỏi Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập.
– C 31-33: + Được nâng cao lên khỏi mặt đất: Đức Giê-su sẽ bị treo trên thập giá (x. Ga 8,28), rồi được đưa lên trời (x. Ga 3,13 ; 6, 62), sau khi từ cõi chết trỗi dậy (x. Ga 20,17). + Tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi: Đức Giê-su sẽ đưa các tín hữu lên trời hưởng vinh quang với Người. Với điều kiện họ cũng phải đi theo con đường tự hủy là bỏ mình, vác thập giá mình mà đi theo Người (x. Mt 16,24); nghĩa là chấp nhận cùng uống chén đắng với Người (x. Mt 20,23).
4. CÂU HỎI: 1) Đức Giê-su đã tuyên bố điều gì trước sự kiện dân Do thái hoan hô đón rước Người vào thành Giê-ru-sa-lem và một số lương dân đến xin gặp mặt? 2) “Giờ” của Đức Giê-su được Tin Mừng nhắc đến bao nhiêu lần? 3) “Giờ được tôn vinh” của Đức Giê-su nghĩa là gì? 4) Từ “ghét” sự sống mình ở đời này nghĩa là gì? 5) Tại sao Đức Giê-su cảm thấy xao xuyến bất an trước giờ tử nạn? 6) Đức Giê-su đã cầu xin Chúa Cha thế nào ? 7) Thế gian bị phán xét và ma quỷ thủ lãnh thế gian sẽ hoàn toàn bị đánh bại vào lúc nào? 8) Muốn được Chúa ban ơn cứu độ, đưa lên thiên đàng hưởng vinh quang với Người đời đời thì ngay từ bây giờ các tín hữu phải làm gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Hạt lúa gieo vào lòng đất nếu chết đi mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
2. CÂU CHUYỆN:
1) GƯƠNG HY SINH CHỊU CHẾT THAY CHO BẠN TÙ:
Vào năm 1941, tại nhà tù Ốt-suýt (Auschiwits), một trại tập trung của Đức Quốc Xã nổi tiếng tàn bạo và khủng khiếp nhất, có một tù nhân vượt ngục vào đêm hôm trước. Theo qui định của nhà tù, sáng sớm hôm sau viên sĩ quan coi tù đã tập họp tất cả tù nhân lại và lần lượt chọn ra 10 người phải chịu chết thay cho kẻ đào thoát. Một trong những người bị tử thần điểm danh ấy, khi được gọi tên, đã kêu to lên rằng: “Trời ơi! Thế là hết! Tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại vợ con tôi nữa!”. Tiếng kêu than tuyệt vọng của anh khiến cho nhiều tù nhân phải rơi lệ. Bấy giờ một tù nhân liền tách ra khỏi hàng ngũ tiến đến gần viên sĩ quan chỉ huy để xin chết thay cho người bạn tù kia. Ông tự xưng là Mắc-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê (Maximiliano Kolbe), một linh mục Công giáo. Lý do xin chết thay vì ông là linh mục đã tình nguyện sống độc thân, ông cảm thương người kia còn có vợ con phải chăm sóc. Sau khi được chấp thuận, Cha Kôn-bê cùng 9 bạn tù đi hàng một tiến về phía hầm chết đói. Tại đây, Cha và các bạn tù sẽ phải nhịn đói đến chết. Trong thời gian này Cha luôn động viên mọi người kiên vững đức tin và cậy trông phó thác cuộc đời trong tay Chúa Quan Phòng. Cha giúp họ can đảm chấp nhận cái chết mà không oán than, không chửi bới kêu khóc như nhiều người đã làm khi gặp hoàn cảnh tương tự. Cha là người sống dai nhất trong lúc các bạn tù đều lần lượt chết vì đói khát. Sau hai tuần lễ, Cha đã bị chích thuốc độc cho chết hẳn trước khi bị hỏa táng làm phân bón!
Người tù nhờ Cha Kôn-bê được thoát chết tên là Phăng-xít (Francis Gap Wniczeck). Về sau ông đã kể lại sự biến đổi của nhà tù đó như sau: “Sau khi Cha Kôn-bê tình nguyện chịu chết thay cho tôi thì tinh thần của các tù nhân trong trại giam đã biến đổi hẳn. Trước đây họ thường ích kỷ, khép kín, bắt nạt người mới và yếu thế hơn để tranh giành thực phẩm được người thân tiếp tế… thì bây giờ họ đã đối xử với nhau trong tình thân ái, sẵn sàng nhường cơm xẻ áo cho nhau. Ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị linh mục đã có tinh thần tự hủy khi sẵn sàng hy sinh chết thay cho một người không quen biết.
2) THÁNH GIÁ TRỞ THÀNH HẢI ĐĂNG DẪN ĐƯỜNG :
Phi trường quốc tế Pen-syl-va-ni-a là một trong những sân bay lớn nhất và hiện đại nhất trong các sân bay của Hoa kỳ. Cách sân bay chỉ khoảng một cây số có một ngôi thánh đường nằm đúng vào hướng bay của phi đạo đón nhiều chuyến bay nhất của phi trường.
Do sợ tháp chuông nhà thờ có thể gây nguy hiểm cho các máy bay khi đáp xuống phi đạo, cộng đoàn giáo dân nhà thờ đã gắn trên đỉnh tháp chuông một cây thánh giá bằng đèn nê-ông. Từ đó, mỗi lần đáp xuống phi đạo vào ban đêm, các viên phi công đều lấy cây thánh giá nê-ông này làm chuẩn để đáp máy bay xuống phi đạo. Cây thánh giá trên nóc nhà thờ được sử dụng như ngọn đèn hải đăng giúp cho tầu thuyền từ ngoài khơi có thể cập bến an toàn.
Cũng vậy, con đường bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa Giê-su cũng chính là đường duy nhất dẫn đưa ta lên trời với Chúa Cha.
3) GIÁ ĐẮT PHẢI TRẢ CHO THÁI ĐỘ BẤT NHÂN VÔ CẢM:
Ở bên Trung Quốc, một chiếc xe buýt 16 chỗ chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba tên côn đồ có vũ khí đã để mắt tới cô tài xế xinh đẹp. Đến khúc đường rừng, chúng ép cô tài xế phải lái xe vào bìa rừng và dừng xe lại. Tên cầm đầu bắt đầu có hành vi sàm sỡ với cô gái trước sự chứng kiến của hành khách trên xe. Khi bị tấn công, cô tài xế đã la hét cầu cứu, nhưng hầu như tiếng kêu cứu của cô chỉ được đáp lại bằng sự im lặng.
Bỗng một người đàn ông trung niên với dáng vẻ gầy yếu ngồi gần tài xế đã lên tiếng yêu cầu tên cầm đầu dừng tay, nhưng ông liền bị hai tên kia đánh đập tàn nhẫn. Ông càng lớn tiếng kêu gọi mọi người ngăn cản hành động man rợ kia lại, nhưng không một ai hưởng ứng. Sau đó cô tài xế đã bị bọn côn đồ lôi vào bụi rậm gần đó và để lại một tên cầm súng ra lệnh cho mọi hành khách phải ngồi yên trên xe.
Một giờ sau, bọn cướp đưa cô tài xế áo quần sốc xếch quay lại xe để tiếp tục cuộc hành trình… Trước khi nổ máy cho xe chạy, cô tài xế yêu cầu người đàn ông khi nãy đã bênh vực cô như sau: “Này ông kia, yêu cầu ông xuống xe đi!”. Người đàn ông ngạc nhiên nói: “Cô làm sao thế? Tôi là người duy nhất đã lên tiếng bênh vực cô mà. Chẳng lẽ tôi đã làm sai hay sao?”
Cô gái vẫn tỏ ra cương quyết: “Nếu ông không xuống, tôi sẽ không cho xe chạy.” Ðiều bất ngờ là các hành khách trước đó đã im lặng thì bây giờ lại nhao nhao đòi người đàn ông kia phải mau xuống xe. Thậm chí hai hành khách trẻ còn hè nhau lôi người đàn ông ra khỏi xe và chiếc xe tiếp tục cuộc hành trình. Cô tài xế vuốt lại mái tóc và vặn radio to hết cỡ. Chiếc xe đã lên đến đỉnh đồi và bắt đầu đi xuống sườn đồi. Phía tay phải đường đèo là một vực thẳm sâu hun hút. Tốc độ chiếc xe buýt tăng dần. Gương mặt cô lái xe trở nên căng thẳng, hai tay cô giữ chặt vô lăng và hai hàng nước mắt trào ra. Nhận thấy có điều không ổn, tên cầm đầu liền nói với cô tài xế: “Chạy chậm thôi, cô đang làm gì thế hả?” Cô tài xế không nói tiếng nào và tiếp tục nhấn ga cho xe chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Tên côn đồ đã cố giành lấy vô lăng, nhưng chiếc xe đã lao lên lề đường và rơi xuống vực sâu như tên bắn.
Hôm sau, môt tờ báo địa phương đã loan tin một tai nạn thảm khốc đã xảy ra ở vùng “Phục Hổ Sơn”: Một chiếc xe cỡ trung đã rơi xuống vực sâu bên sườn núi. Tài xế và 14 hành khách trên xe đều thiệt mạng. Trong thành phố, một người đàn ông đã bật khóc khi đọc được bản tin này!
4) NHỮNG MẪU GƯƠNG HY SINH TỰ HỦY CHO HẠNH PHÚC CỦA THA NHÂN:
Ngày 3/11/1995 Cái chết của Thủ Tướng Ít-raen là YITZHAK RABIN, đã làm cả thế giới chấn động. Những người Do Thái quá khích đã giết ông, vì họ không chấp nhận con đường mà ông đang thực hiện mang lại nền hòa bình giữa dân Ít-ra-en với dân Palestine và các nước vùng Trung Đông.
Cái chết của Thủ tướng Rabin làm cho thế giới nhớ lại cái chết của MAHATMA GANDHI 50 năm trước: một thanh niên Ấn Giáo quá khích đã sát hại vị Cha già của dân tộc Ấn, vì anh ta không thể chấp nhận việc ngài tha thứ và dạy người Ấn giáo tha thứ cho người Hồi Giáo.
Người ta cũng không thể không nhắc đến cái chết vào năm 1968 của MARTIN LUTHER KING, vị mục sư da đen người Mỹ, khi ông đang hăng say đấu tranh cho quyền bình đẳng của người da đen tại Hoa Kỳ bằng phương pháp ôn hòa và bất bạo động.
Lịch sử nhân loại đã được viết bằng máu của bao gương mặt kiến tạo hòa bình như thế. Cách đây hơn 2000 năm, cái chết của Đức Giê-su chính là khởi điểm cho những cái chết của các vĩ nhân đã hy sinh tự hủy chịu chết để đấu tranh cho nhân loại được sống an vui hạnh phúc hơn.
5) HY SINH CỤ THỂ LÀ QUẢNG ĐẠI CHIA SẺ CHO NGƯỜI NGHÈO:
Mẹ TÊ-RÊ-SA thành Can-quýt-ta đã kể câu chuyện về thái độ quảng đại chia sẻ như sau: Hồi đó, nhằm lúc thiếu đường trong thành phố, thì ngày kia có một cậu bé bốn tuổi, đem đến cho mẹ một chén đường và nói: “Thưa mẹ con đã nhịn đường suốt cả một tuần lễ nay, xin mẹ dùng ít đường này cho các trẻ mồ côi của mẹ”. Một cử chỉ thật anh hùng biết bao đối với một em bé 4 tuổi. Em đã học biết yêu thương kẻ khác đến mức hy sinh tất cả những gì mình cần thiết. Một dịp khác, đang lúc mẹ đang vo gạo thì có một người đàn ông đến gặp mẹ và nói: “Thưa mẹ, gần đây có một gia đình người Hindu gồm tám đứa con, nhưng đã cả tuần lễ nay họ không có gì để ăn”. Lập tức mẹ bưng rá gạo đi theo người đàn ông đó đến nhà người Hindu kia. Bước vào túp lều xiêu vẹo, mẹ đã gặp được trên những nét mặt xanh xao đó cơn đói đang hành hạ. Không cầm lòng được, mẹ đã đưa cả rá gạo cho người đàn bà. Bà này cảm động cầm lấy rá gạo rồi lập tức chia làm hai phần, bưng một nửa ra đi, lát sau mới trở lại. Thấy vậy mẹ ngạc nhiên hỏi: “Bà đi đâu vậy và đem gạo cho ai?” Không chút do dự người đàn bà trả lời: “Họ cũng đói lắm”. “Nhưng họ là ai?”- “Là những gia đình Hồi giáo, cũng có những người con đói khổ như con. Họ ở bên kia đường và cả tuần lễ nay họ cũng chẳng có gì để ăn”.
Câu chuyện trên cho thấy: yêu thương chính là quảng đại chia sẻ. Là cho đi không những các của dư thừa, nhưng cho cả những gì cần thiết cho chính cuộc sống của mình.
6) GIÁ TRỊ CỦA ĐAU KHỔ: CÂU CHUYỆN CỦA MỘT CHIẾC CỐC SỨ.
Một hôm chiếc cốc sứ tâm sự: “Ban đầu tôi chỉ là một cục đất sét nhỏ, và người thợ gốm đã không ngừng hành hạ làm khổ tôi: Đầu tiên bác ta nhào nặn tôi, lăn qua lăn lại và đập vào người tôi khiến tôi bị đau. Khi bị đau đớn tôi đã kêu xin: “Đừng, đừng đập tôi nữa, hãy đối xử nhẹ nhàng với tôi”. Nhưng bác thợ gốm chỉ cười và đáp: “Chưa đủ đâu!”.
Rồi tôi được đặt lên một chiếc guồng quay và bị quay cuồng chóng mặt và mất phương hướng. Trong khi bị hành hạ, tôi gào thét lên: “Dừng lại! Làm ơn dừng lại”. Nhưng bác thợ vẫn im lặng làm việc và nói: “Chưa hết đâu!”.
Một lát sau, bác đặt tôi vào trong lò nướng. Tôi chưa khi nào trải qua sự đau đớn khủng khiếp đến như vậy. Tôi tuyệt vọng kêu la: “Cứu tôi với, làm ơn đưa tôi ra khỏi nơi này”. Nhưng bác thợ chỉ nhìn tôi và vẫn… lắc đầu.
Khi nghĩ mình không thể chịu đựng thêm một phút giây nào nữa, thì cửa lò bỗng mở ra. Bác thợ cẩn thận đưa tôi ra bên ngoài, đặt tôi lên chiếc kệ và quạt mát cho tôi. Tôi cảm thấy mọi thứ dường như đã tốt lên và hy vọng mình đã qua khỏi cơn đau. Nhưng sau đó bác lại nhìn tôi, lắc đầu và nói: “Chưa xong đâu!”.
Rồi bác ta tiếp tục đặt tôi vào trong lò lần thứ hai. Vì đã từng trải qua những phút đau khổ trong chiếc lò đó nên tôi nghĩ chắc mình sắp bị chết. Tôi sợ hãi khóc lóc và muốn từ bỏ tất cả. Nhưng bác thợ vẫn lạnh lùng bỏ ngoài tai lời van xin của tôi. Tôi muốn chết ngay để khỏi phải chịu đựng những cơn đau hành hạ. Rồi chính lúc bị tuyệt vọng nhất thì cánh cửa lò lại mở ra. Lần này, tôi được lấy ra đặt trên kệ, được làm lạnh và chờ đợi. Một giờ sau, bác thợ đưa cho tôi một tấm gương và nói: “Bây giờ bạn hãy nhìn vào mình đi”. Tôi ngỡ ngàng thốt lên: “Đó không phải tôi, không thể là tôi và không còn là tôi nữa! Quả thật, một hình ảnh hoàn toàn khác hiện ra trước mắt, một chiếc cốc sứ đẹp đẽ hoàn hảo và nhiều màu sắc xuất hiện trong tấm gương soi, thay vì một cục đất sét lúc ban đầu.
Sau cùng, bác thợ gốm điềm tĩnh kết luận: “Khi tôi nhào nặn bạn, tôi biết điều đó sẽ làm cho bạn bị tổn thương. Nhưng nếu tôi không làm như vậy thì bạn vẫn chỉ là một cục đất sét tầm thường vô dụng. Khi tôi đặt bạn lên guồng quay, tôi biết nó sẽ làm bạn bị mất phương hướng. Nhưng nếu tôi dừng lại quá sớm, bạn sẽ bị té ngã và bị bể tan. Tôi biết ở trong lò, bạn sẽ bị sức nóng thiêu đốt đau đớn. Nhưng nếu không có những cơn đau đó, bạn sẽ không bao giờ trở nên cứng cáp và có màu sắc đẹp như bây giờ. Vì thế, trong cuộc sống, bạn cần phải luôn dũng cảm đón nhận mọi nỗi đau khổ gặp phải để ngày một nên hoàn thiện hơn bạn nhé”.
3. SUY NIỆM:
1) Sự hy sinh tự hủy của hạt lúa:
Hôm ấy, một bác nông dân đã mang thóc giống đi gieo trên ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời bỗng nổi cơn giông. Nhiều hạt giống gieo đã rơi xuống ruộng, nhưng cũng có những hạt bị cơn gió mạnh thổi bay lên mặt đường. Các hạt giống nằm trên đường cảm thấy mình thật diễm phúc khi nằm ở nơi khô ráo, đang khi bao hạt giống khác bị ngụp lặn dưới lớp bùn đen nhão trong ruộng. Các hạt giống trên đường liền nói với các hạt nằm dưới bùn đen như sau: “Các bạn thật đáng thương! Trong lúc chúng tớ được nằm ở nơi khô ráo sạch sẽ, thì các bạn lại phải ngụp lặn dưới lớp bùn đen nhơ bẩn!”
Hạt lúa vừa dứt lời thì bỗng bị một bàn chân người giẫm đạp khiến nó gãy thành ba đoạn. Sau đó, nó lại bị một chiếc xe cán qua nát thành bột trên đường và một cơn gió ào tới thổi bay tứ tán. Những hạt lúa còn nằm lại đã trở thành mồi ngon cho lũ chim chóc và bầy chuột gặm nhấm!
Đang khi đó, từ những hạt lúa tưởng chừng bất hạnh kia, chỉ ít ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống và trở nên những cây lúa cứng cáp. Cây lúa lớn dần và không đầy ba tháng sau đã trổ sinh bông lúa với hàng trăm hạt lúa khoe mình dưới ánh nắng mặt trời, và được vinh dự trở nên lương thực nuôi sống loài người. Từ một hạt lúa đơn độc ban đầu, cuối cùng nó đã biến thành trăm hạt lúa mới sau một quá trình biến đổi âm thầm!
Tin Mừng Gio-an hôm nay diễn tả hạt lúa bị mục nát trước khi biến thành cây lúa mang lại mùa gặt bội thu như sau: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).
2) Đường hy sinh tự hủy của Đức Giê-su.
Đức Giê-su đã trỗi dậy từ trong cõi chết và mở ra con đường cứu độ cho loài người chúng ta là “Qua đau khổ vào trong vinh quang”.
Tông đồ Phao-lô đã diễn tả mầu nhiệm tự hủy của Đức Giê-su qua ba giai đoạn sau:
+ Mầu nhiệm Nhập Thể: “Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). Người như hạt lúa phải được gieo vào lòng đất.
+ Mầu nhiệm Tử Nạn: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,8). Đức Giê-su chấp nhận chịu chết đau thương trên cây thập giá như hạt lúa phải chịu mục nát đi.
+ Mầu nhiệm Phục Sinh: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và tặng ban danh hiệu, trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl 2,9-11). Đức Giê-su đã từ cõi chết trỗi dậy tương tự như hạt giống gieo vào lòng đất phải bị mục nát trước khi trở thành cây lúa và đến mùa trổ sinh nhiều bông hạt khác.
Tin Mừng Mát-thêu đã trình bày quá trình hy sinh tự hủy của Đức Giê-su như sau: “Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21).
3) Đường hy sinh tự hủy của các môn đệ Đức Giê-su.
Đức Giê-su đã mời gọi các môn đệ đi theo con đường thập giá hy sinh của Người: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Nhóm 12 Tông đồ sau khi nhận được Thánh Thần đã chấp nhận con đường tự hủy của Đức Giê-su như tông đồ Phao-lô đã chia sẻ với các kỳ mục ở Ê-phê-sô như sau: “Giờ đây, bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giê-ru-sa-lem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi” (Cv 20,22-23).
Sau các Tông đồ, đến lượt các tín hữu cũng chọn đi con đường hy sinh tự hủy là chấp nhận chịu chết vì danh Chúa, nhờ đó Hội Thánh mới có điều kiện để phát triển như lời Téc-tu-li-a-nô đã tiên báo: “Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu”.
4) Đường hy sinh tự hủy của các tín hữu hôm nay.
Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy đi theo đường “Qua đau khổ vào vinh quang” là quyết tâm loại trừ các thói hư bằng việc thực tập các nhân đức đối lập như kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức” đã dạy:
– Mỗi ngày chúng ta hãy quyết tâm làm ít nhất một việc hy sinh tự hủy như sau:
Để loại trừ thói ích kỷ lười biếng, chúng ta sẽ chu toàn việc xếp gọn quần áo đồ dùng của mình và vệ sinh nhà cửa mỗi ngày. Hãy cho tha nhân một nụ cười thân thiện, một cái bắt tay thân ái, cho người ăn xin một số tiền cứu đói…
Để làm chủ thói xấu vô cảm, chúng ta quyết tâm sẽ bênh vực những người thân cô thế cô thay cho thái độ im lặng mần ngơ.
Để loại trừ thói kiêu ngạo tự mãn, chúng ta sẽ nói lời động viên khen ngợi tha nhân cách thành thật.
Để loại trừ thói ganh ghét đố kỵ, chúng ta sẽ bào chữa lỗi lầm thay vì phê phán chỉ trích người vắng mặt.
Để loại trừ thói quan liêu cửa quyền, chúng ta sẽ mỉm cười thân thiện và chào hỏi trước người mới gặp. Tránh to tiếng la mắng nạt nộ người dưới.
Để “thêm bạn bớt thù”, chúng ta sẽ mở rộng vòng tay kết thân với tha nhân. Mỗi gia đình công giáo sẽ quan tâm cầu nguyện và đến thăm chào hỏi làm quen với một gia đình mới dọn đến khu xóm để thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng.
4. THẢO LUẬN: Trong những ngày Mùa Chay này, mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể để sống mầu nhiệm hy sinh tự hủy noi gương Đức Giê-su?
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU, Khi đóng đinh Chúa trên cây thập giá, bọn đầu mục Do Thái tưởng mình đã hoàn toàn chiến thắng Chúa. Nhưng Giờ Tử Nạn đối với Chúa không phải là sự thất bại, nhưng là Giờ được Chúa Cha tôn vinh. Cũng như hạt lúa có chết đi mới sinh được nhiều bông hạt mới, thì nhờ cái chết thập giá, Chúa đã được Chúa Cha tôn vinh cho sống lại và đặt làm Chúa tể muôn loài. Rồi Hội Thánh về sau cũng noi gương Chúa chấp nhận bị Đế quốc Rô-ma bách hại, và cuối cùng đã được tôn vinh, khi chinh phục cả Đế quốc Rô-ma tin Chúa và gia nhập vào Hội Thánh.
Trong những ngày Mùa Chay này, xin đổ ơn Thánh Thần giúp chúng con vui lòng đón nhận những đau khổ gặp phải trong cuộc sống, với niềm tin yêu hy vọng. Xin cho chúng con ý thức rằng: thập giá là con đường hy sinh tự hủy mà Chúa đã chọn để vâng theo thánh ý Chúa Cha. Nhờ đó chúng con sẽ ngày nên hoàn thiện và hy vọng sau này sẽ được Chúa Cha tôn vinh trên Nước Trời.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- D) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH- HHTM