SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY – NĂM B

CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY B
Lời Chúa: 2Sb 36,14-16.19-23; Ep 2,4-10; Ga 3,14-21
MỤC LỤC
1. Tin thì sống – ViKiNi …..4
2. Tình thương của Thiên Chúa …..7
3. Cựu Ước và Tân Ước …..9
4. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành …..11
5. Tình yêu của Thiên Chúa …..15
6. Ánh sáng và bóng tối – Thiên Phúc …..17
7. Thế gian được cứu độ nhờ Người …..20
8. Khước từ tình yêu Chúa là tự kết án mình….. 25
9. Tin thì được sống …..29
10. Giương cao con rắn …..34
11. Nào ta hãy mừng vui …..38
12. Nhìn lên Thánh Giá …..42
13. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An …..48
14. Từ bóng tối tới ánh sáng …..55
15. Hãy đến cùng ánh sáng – Lm. Ignatiô Trần Ngà …..58
16. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR. …..61
17. Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. …..63
18. Yêu đến quên mình …..66
19. Lời xin lỗi – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền …..69
20. Như hoa hướng dương – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền …..71
21. Nô lệ tự nguyện …..74
22. Phận người yếu đuối và tội lỗi …..76
23. Nhìn lên Thập Giá …..80
24. Thiên Chúa yêu thế gian …..83
25. Tuyệt vọng trong hy vọng …..87
26. Chuyện thưởng phạt …..89
27. Tin Chúa – Lm. Vũ Đình Tường …..93
28. Đón nhận ánh sáng – Peter Feldmeier …..95
29. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi …..98
30. Chúa Nhật 4 Mùa Chay …..104
31. Tình thương Thiên Chúa cứu chuộc con người. …..109
32. Tình Chúa thương con …..115
33. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái …..119
34. Chúa Nhật 4 Mùa Chay ……129
35. Thiên Chúa yêu thương …..132
36. Ánh sáng thật …..134
37. Nhìn lên ánh sáng …..137
38. Chuộng tối hơn sáng …..140
39. Yêu thương tha thứ …..143
40. Sự thật đổi mới chúng ta …..146
41. Đức tin hôm nay của tôi cứu tôi …..149
42. Tình yêu lớn nhất …..152
43. Người thợ săn trên trời – ĐGM. Arthur Tone. …..156
44. Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu. …..158
45. Lòng tin …..160
46. Yêu cho roi cho vọt – Lm Trần Bình Trọng. …..162
47. Người thợ săn. …..166
48. Thích gì. …..168
49. Yêu Chúa. …..170
50. Con rắn …..173
51. Thiên Chúa yêu. …..175
52. Tiến vào ánh sáng …..178
53. Lòng Chúa thương xót chúng ta …..181
54. Ánh sáng và bóng tối …..192
55. Dĩ độc trị độc – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực …..194
56. Cho là cõi phúc – Lm Vũ Đình Tường ……199
57. Nhìn lên Thập giá …..202
58. Suy Niệm của Lm. Nguyễn Minh Hùng …..205
59. Suy Niệm của Lm. Bùi Thượng Lưu. …..209
60. Đức Giêsu nói chuyện với ông Nicôđêmô – JKN. ……213
61. Nhìn lên Thánh Giá Chúa Giêsu …..219
62. Suy niệm của Lm. Jude Siciliano …..222
63. Nicôđêmô …..228
64. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour …..230
65. Một tình yêu không thể tin được …..234
66. Chú giải của Noel Quesson …..242
67. Chú giải của Fiches Dominicales. …..249
68. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt …..254
69. Đón nhận Thập Giá Chúa Kitô …..257
70. Chú giải của William Barclay …..261
71. Rắn đồng cứu độ …..270

1. Tin thì sống – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Giữa đêm thanh gió mát, ông Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do thái, đến gặp Đức Giêsu. Người đàm đạo với ông về sự sống muôn đời. Sự sống muôn đời là sự sống trong nước Thiên Chúa. Ai tin vào Con Người, Đấng từ trời xuống, thì được sống muôn đời. Tin vào Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một cho thế gian được sống. Tin vào Con Một đến cứu độ thế gian. Tin vào Con Một là ánh sáng thế gian để thiên hạ thấy rõ những chuyện trên trời mà sống theo sự thật để mọi việc họ làm đều hợp ý Thiên Chúa. Như vậy, họ sẽ khỏi phải chết, nhưng được sống muôn thuở.
Đức Giêsu dẫn chứng lịch sử thời Môisen đã treo con rắn đồng lên cây cờ, để ai bị rắn lửa cắn mà tin nhìn lên rắn đồng thì được sống (Ds. 21, 19). Sự kiện đó và bao nhiêu việc lạ lùng khác yêu thương dân Người, cứu họ khỏi chết, cho họ được sống. Giờ đây Thiên Chúa không phải chỉ sai sứ giả phàm nhân như Môisen, để treo rắn đồng mà sai chính Con Một Thiên Chúa xuống thế gian chịu treo mình để không chỉ cứu một dân tộc, mà cứu cả thiên hạ được sống, không phải chỉ sống dưới đất, mà còn được sống trong vinh quang nước trời.
Thánh Phaolô cũng nói với giáo đoàn Êphêsô phải tin vào “Thiên Chúa giàu lòng nhân hậu và rất mực yêu thương chúng ta, tin vào Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa”. Tác phẩm của loài người chỉ là chữ chết hay đá gỗ mà còn mất bao nhiêu kỳ công. Huống chi chúng ta là tác phẩm sống động của Thiên Chúa, được sáng tạo trong trái tim Đức Giêsu để thực hiện những công trình tốt đẹp của Thiên Chúa, thì kiệt tác biết chừng nào!
Hơn nữa chúng ta còn là tác phẩm do công trình cứu độ của Thiên Chúa, còn tốt đẹp gấp bội hơn nữa: “Dầu chúng ta đã chết vì phạm tội, Người vẫn cho chúng ta được sống với Đức Giêsu Kitô, được sống lại, được ngự trị với Đức Kitô trên cõi trời, thế mới rõ tình thương và ân huệ của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô dồi dào phong phú vô cùng”.
Tin thì được sống tuyệt vời như thế! Kẻ không tin thì khốn cùng, tận diệt như thế nào? Họ chuộng bóng tối, làm điều xấu xa, mỗi ngày thêm bất trung bất nghĩa, học đòi các thói tục ghê tởm, làm nhơ nhuốc đền thờ, khinh dể nhạo báng, chê cười các ngôn sứ, khiến Chúa nổi cơn thịnh nộ để cho quân thù tiêu hủy triệt hạ, châm lửa đốt tất cả bọn chúng. Còn sót lại những ai không bị gươm giết, thì bị đày làm nô lệ (Bài đọc I).
Thực ra những hình phạt hữu hình ấy bây giờ ít xảy ra. Nhưng những đau khổ ngấm sâu tận đáy lòng kẻ không tin thì rất nhiều.
Vị cứu tinh vĩ đại của Ấn độ, thánh Grandhi đã nói: “Không nhờ cầu nguyện thì tôi điên từ lâu rồi. Chúng ta cần nhiều nhà thờ để bồi dưỡng sức mạnh tinh thần cho nhân dân”. Cầu nguyện và nhà thờ là biểu lộ lòng tin. Lòng tin đã cứu ông khỏi điên. Không tin, ông đã bị điên vì đau khổ rồi.
Giáo sư William James, người cha của khoa học tâm lý thực nghiệm, đã viết: “Phương pháp thần diệu nhất để diệt ưu tư là đức tin tôn giáo, vì đức tin là năng lực giúp loài người sống mạnh”. Không có đức tin, con người là mồi ngon của ưu tư và nhu nhược.
Bác sĩ Jung, ông tổ khoa chữa bệnh tâm thần kể: “Trong ba mươi năm gần đây, có những người thuộc đủ các nước văn minh trên thế giới, xin tôi chữa bệnh. Tôi chữa được mấy trăm người. Họ đau vì mất thăng bằng. Phải kiếm một giải pháp tôn giáo mới hết bệnh, mà tôn giáo thời nào cũng đem lại cho tín đồ hai kho tàng quý báu: kiên nhẫn và cậy trông”. Không có tôn giáo, thế giới văn minh sẽ mất thăng bằng, bệnh hoạn, rối loạn và tuyệt vọng.
Bà Carnegie, bậc thầy về sách học làm người, đã kể: “Ba má tôi làm việc cực nhọc lắm, từ 4 giờ sáng đến 8-9 giờ tối, liên lỉ 16 giờ một ngày mà vẫn bị nợ nần quấy rầy. Trên ba mươi năm đầu tắt mặt tối, ba tôi chỉ chuốc thêm nợ nần nhục nhã. Ba tôi mất ăn mất ngủ, sức lực hao mòn. Bác sĩ nói: Ông không thể sống được quá sáu tháng nữa đâu. Lo lắng chán nản quá, lúc lên đò qua sông lớn, ba tôi tính lao đầu xuống sông tự tử. Nhờ thoáng nghĩ đến lời mẹ tôi khuyên: Nếu ta kính mến Chúa và giữ lời Người, mọi sự sẽ được như ý. Một sức mạnh tin tưởng đổ dồn vào tim ông. Ông đã phấn đấu với cảnh nghèo khổ và sống thêm 42 năm nữa. Ông thọ được 89 tuổi” (Nguyễn hiến Lê dịch “Quẳng gánh lo đi và vui sống” của Carnegie. Tr. 206).
Nhờ đức tin Grandhi đã không bị điên, còn trở nên thánh nhân và vĩ nhân thế giới.
Nhờ đức tin tôn giáo, bao nhiêu bệnh nhân tâm thần đã được khỏi, sống mạnh mẽ và yêu đời.
Niềm tin tôn giáo còn tránh cho xã hội bao nhiêu thảm họa khác nữa. Dostoievsky, một văn hào bậc nhất Liên Xô nói: “Không còn Thiên Chúa, người ta muốn làm gì thì làm, bất chấp xấu xa, tàn ác”.
Ai tin vào Thiên Chúa và vào Đức Giêsu Kitô thì chẳng những sống lành mạnh ở đời này mà còn được sống vinh phúc muôn đời. Ai không tin vào Con Người thì phải chết muôn thuở.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài đã bao nhiêu lần nói: “Lòng tin của con đã cứu con” (Mt. 9, 22). Xin thêm đức tin cho chúng con để chúng con được sống dồi dào và được sống đời đời.

2. Tình thương của Thiên Chúa
Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu về tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
Sau khi đã tốn nhiều sức lực tinh thần cũng như những cực nhọc thể xác, để cùng với những người cộng tác sáng chế ra bóng đèn điện đầu tiên. Thomas Edison trao bóng đèn điện ấy cho một người bạn trẻ tuổi nhất trong hóm leo lên các bậc thang gắn bóng vào chuôi mà thử nghiệm. Nhưng rủi thay, vì quá xúc động, người bạn trẻ ấy khi vừa leo lên tới bậc thang cuối cùng đã đánh rơi chiếc bóng đèn xuống đất khiến nó bể vỡ tan tành. Thế là cả nhóm lại phải cố gắng không ngừng làm việc suốt 24 tiếng đồng hồ nữa để tạo ra chiếc bóng đèn thứ hai cho kịp với chương trình thử nghiệm. Sau khi hoàn tất xong chiếc bóng đèn thứ hai này, trước sự ngạc nhiên của mọi người, Edison lại trao chiếc bóng đèn ấy cho người bạn trẻ đã từng làm vỡ chiếc bóng đầu tiên, để người bạn trẻ này lại leo lên gắn bóng vào chuôi như lần trước.
Cử chỉ cao đẹp này đã làm thay đổi hẳn cuộc đời của người bạn trẻ đó. Hành động tha thứ và tin tưởng của Edison đối với người bạn trẻ đã một lần sơ sót làm bể chiếc bóng đèn đầu tiên, đã làm cho nhiều người phải kính phục và có lẽ cũng đang thôi thúc mỗi người chúng ta bắt chước Edison, thực hiện những cử chỉ tha thứ và tin tưởng như vậy đối với những người chung quanh chúng ta trong cuộc sống thường ngày. Đồng thời hành động này còn nhắc nhở mỗi người chúng ta nhớ đến tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Ngài luôn luôn tha thứ và tin tưởng con người mặc dù con người hay lầm lỗi, sa ngã, vấp phạm và làm hư hỏng chương trình của Ngài.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã xác quyết: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời. Ngài sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài mà được cứu độ. Hay như thánh Phaolô cũng đã viết: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta còn ngồi trong tội lỗi. Chính sự tha thứ và tin tưởng của Thiên Chúa đã khơi dậy trong lịch sử nhân loại không biết bao nhiêu tâm hồn hối cải, làm lại cuộc đời và bắt đầu sống một cuộc sống mới, cao đẹp hơn, lợi ích hơn. Thiên Chúa luôn tha thứ cho con người để khởi dậy những điều tốt đẹp, vậy thì tại sao mỗi người chúng ta lại không thể dễ dàng tha thứ cho nhau, tin tưởng lẫn nhau để xây dựng xã hội mỗi ngày một tốt đẹp hơn lên.

3. Cựu Ước và Tân Ước
Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta thấy Cựu Ước và Tân Ước có một sợi dây liên hệ mật thiết với nhau. Thực vậy, nếu Cựu Ước là lời hứa, là hình ảnh, là biểu tượng, thì Tân Ước chính là sự thật được chính Thiên Chúa thực hiện.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể, chẳng hạn như Adong là một hình ảnh tượng trưng cho Đức Kitô. Thực vậy, chính thánh Phaolô đã diễn tả trong bức thư thứ nhất gởi giáo dân Côrintô như sau: Adong thứ nhất được dựng nên bằng đất, còn Adong thứ hai là Đức Kitô thì từ trời mà sinh ra. Người thuộc về đất thế nào, thì những kẻ thuộc về đất cũng thể ấy. Còn người thuộc về trời thế nào thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy… Bởi một người mà nhân loại phải chết, thì nay bởi một người mà nhân loại được sống.
Tiếp đến, Isaác, cũng là một biểu tượng cho Đức Kitô, bởi vì giữa Isaác và Đức Kitô có nhiều điểm rất tương đồng. Nếu Isaác được cha mình là Abraham rất mực yêu thương, thì Đức Kitô cũng được Cha mình là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Nếu Isaác được dâng làm hy lễ, thì Đức Kitô cũng được dâng làm hy lễ. Nếu Isaác vác củi lên núi để dùng vào việc hy tế, thì Đức Kitô cũng đã vác thập giá lên đỉnh Canvê, để rồi hiến dâng mình cho Thiên Chúa.
Và hơn thế nữa, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh để so sánh, đó là hình ảnh con rắn đồng trong hoang địa. Ngài nói: Maisen đã treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin vào Ngài thì sẽ được sống.
Chắc hẳn khi gợi lên hình ảnh này, Chúa Giêsu đã nhớ tới một biến cố đã xảy ra trong Cựu Ước được sách Dân Số ghi lại như sau: Bấy giờ dân Do Thái kêu trách Thiên Chúa và Maisen về những khó khăn gặp phải trên đường tìm về miền đất hứa. Thiên Chúa đã trừng phạt họ bằng cách cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Trước thảm hoạ này, họ đã ăn năn hối lỗi và nói với Maisen: Chúng tôi đã phạm tội phản nghịch với Chúa và với ngài. Xin ngài hãy cầu Chúa xua đuổi lũ rắn nay đi. Và Maisen đã cầu nguyện cho dân chúng. Chúa truyền Maisen đúc một con rắn bằng đồng, treo nó lên một chiếc cột, để bất cứ ai bị rắn độc cắn, chỉ việc nhìn lên con rắn ấy là được chữa lành. Chúa Giêsu đã so sánh việc con rắn đồng bị treo lên với việc Ngài bị đóng đinh trên thập giá.
Và cũng như dân Do Thái, bất kỳ ai trong chúng ta, nếu biết nhìn lên thập giá, với niềm tin tưởng và sám hối, sẽ được chữa lành mọi vết thương do tội lỗi gây ra, sẽ được tẩy trừ nọc độc của tội lỗi. Bởi đó hãy ngước nhìn thập giá và hãy suy nghĩ đến tình thương mà Ngài đã dành cho chúng ta qua mầu nhiệm cứu độ mà chúng ta sắp sửa mừng kính.

4. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Lịch sử cứu độ là lịch sử Tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Đó là tình yêu tạo dựng, tình yêu quan phòng và tình yêu cứu chuộc. Thật vậy, vì yêu nên Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người.
Vì yêu nên Ngài đã tạo dựng mọi sự để cho con người cai quản và sử dụng. Vì yêu nên Ngài đã không chấp tội con người, trái lại đã ban chính Con Một của mình để cứu chuộc nhân loại. Tin mừng hôm nay khẳng định: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một Mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời” (Ga 3,15). Trong bài đọc II, Thánh Phaolô cũng cho biết: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời.” (Ep 2,4-6). Ngài còn cho biết thêm: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa.” (Ep 2,8). Cũng vì yêu nên khi xuống trần gian, Đức Giêsu đã chọn các Tông đồ để lập nên Giáo hội, thiết lập các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể để ở lại với loài người cho đến Tận thế. Điều đặc biệt hơn nữa là Thiên Chúa không những yêu thế gian chung chung mà Ngài yêu thương chăm sóc chu đáo từng người một trong chúng ta giống như người cha yêu thương từng người con trong gia đình vậy.
Nhưng con người hay phản bội, đi ngược lại với tình yêu của Thiên Chúa. Lịch sử dân Do Thái là một lịch sử Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, nhưng đồng thời cũng là một lịch sử nói lên sự phản bội của con người đối với Thiên Chúa. Đoạn sách Sử Biên Niên quyển thứ II được trích đọc trong bài đọc I hôm nay cho chúng ta thấy điều đó. Thật vậy, dân Do thái đã sống bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hoá tại Giê-ru-sa-lem. Họ phụ bạc với tình yêu của Thiên Chúa, bất tuân lề luật, phá vỡ giao ước đã ký kết với Thiên Chúa (x. 2Sb 36,14). Hậu quả là đền thờ và thành thánh của họ bị sụp đỗ tan tành. Dân chúng bị tàn sát vô số, những người sống sót còn lại bị đưa đi lưu đầy (x. 2Sb 36, 19-20).
Tuy nhiên, cho dù Thiên Chúa có giận, có ra án phạt nhưng không phải vì ghét, vì oán thù mà nhằm mục đích để thanh luyện, thanh tẩy và chữa trị họ. Bằng chứng là khi dân sai phạm, Ngài đã sai các sứ giả đến để nhắc nhở họ nhiều lần: “Chúa là Thiên Chúa tổ phụ họ, đã luôn luôn đêm ngày sai sứ giả đến với họ, vì Người thương xót dân Người và đền thờ của Người.” (2Sb 36,15). Không những thế, Ngài còn thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư để nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: “Ðây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong xứ Giuđa. Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên.” (2Sb 36, 22-23).
Hình ảnh con rắn đồng được nhắc tới trong đoạn Tin mừng hôm nay cũng là biểu tượng của Tình yêu Thiên Chúa. Thật vậy, sau khi ra khỏi đất Ai cập, dân Do Thái phải sống ròng rã suốt 40 năm trong sa mạc, gặp mọi thử thách gian nan. Họ phàn nàn kêu trách Chúa vì đã để họ phải chịu cảnh lầm than khốn khổ. Thiên Chúa đã nổi cơn thịnh nộ và để cho rắn lửa cắn chết nhiều người. Họ khiếp sợ và thống hối tội lỗi của mình. Họ đến với Môsê và xin ông cầu nguyện cùng Thiên Chúa cứu giúp họ: “Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã nói phạm đến Đức Giavê và đến ông, xin ông cầu với Đức Giavê cho chúng tôi để Ngài đuổi lũ rắn này xa khỏi chúng tôi đi” (Ds 21,7). Thiên Chúa đoái thương bảo Môsê đúc một con rắn đồng treo lên và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được cứu thoát (x. Ds 21,8).
Con rắn đồng là biểu tượng của Đức Giêsu bị treo lên thập giá và ai tin vào Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá sẽ được cứu rỗi. Thánh Gioan nói: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”(Ga 3,20). Cho nên, Thánh giá cũng là biểu tượng của tình yêu. Vì yêu thương nên Đức Giêsu đã chấp nhận bước vào con đường đau khổ, con đường thập giá. Khi suy niệm về những hình khổ Đức Giêsu đã chịu: đánh đòn, đội mạo gai, vác thập giá, đóng đinh vào thập giá…chắc chắn không ai không nghĩ đến tình yêu mà Đức Giêsu dành cho nhân loại. Đó là tình yêu cao quý trên mọi tình yêu. Chính Đức Giêsu đã nói: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13).
Thánh giá cũng là biểu tượng của sự tha thứ. Đức Giêsu đã chịu chết trên thập giá để cứu độ loài người, tha thứ tội lỗi cho loài người. Chính trên thập giá Ngài đã tha thứ cho kẻ đóng đinh Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Cũng trên thập giá, Ngài đã tha thứ cho kẻ trộm lành cùng đóng đinh với Ngài và hứa ban phúc Thiên đàng cho anh ta ngay ngày hôm đó.
Và nhờ công ơn cứu chuộc của Ngài, Ngài muốn Giáo hội tiếp tục sự tha thứ như thế mãi cho đến tận thế. Câu chuyện sau đây nói lên tinh thần đó. Chuyện kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi toà giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: “Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh”. Hối nhân ra khỏi toà giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ.
Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình: “Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”.
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: “Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”. (Sưu tầm)
Lạy Thiên Chúa là nguồn tình yêu. Xin cho mỗi người chúng con luôn cảm nhận được tình yêu của Chúa để chúng con biết yêu thương tha nhân như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.

5. Tình yêu của Thiên Chúa
Trong sinh hoạt thường ngày, chúng ta thường phân chia thành hai lãnh vực, đạo và đời. Thiêng liêng và trần tục. Phàm những gì thuộc về thế gian, thuộc về trần tục, nếu chưa phải là tội lỗi, thì tự bản chất vốn dĩ đã là thấp kém. Từ đó chúng ta dễ đi tới một quan niệm đồng hoá thế gian với tất cả những gì là xấu xa và tội lỗi. Cuối cùng thì thế gian bị coi là một trong ba kẻ thù chính của con người. Trong ba kẻ thù ấy, thì ma quỷ đứng hàng đầu, nhưng có lẽ không trực diện bằng chính kẻ nội thù là xác thịt của chúng ta và kẻ thù gần cận nữa là thế gian.
Với một quan niệm như thế, hẳn người ta sẽ ngạc nhiên nếu không phải là lúng túng trước lời khẳng định của Chúa Giêsu: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống đời đời. Phúc âm không nói: Thiên Chúa yêu thương dân Ngài, yêu thương Hội Thánh của Ngài hay yêu thương những người Ngài đã tuyển chọn, nhưng lại nói: Ngài yêu thương thế gian. Tại sao lại như thế?
Tôi xin thưa: Sở dĩ Thiên Chúa yêu thương thế gian là bởi vì chính Ngài đã tạo dựng nên nó chứ không phải là một ai khác. Thực ra nếu có cái thế gian nào tội lỗi thì phải hiểu đó là một giới nào đó, một người nào đó, một loại người nào đó sống trong thế giới loài người hay trong chính Giáo Hội mà thôi. Ngôn ngữ thông thường vốn chia xã hội thành những giới khác nhau, chẳng hạn giới thanh niên, giới nghệ sĩ, giới tu sĩ. Đồng thời người ta cũng nói đến những giới bê bối như giới xì ke, giới đầu trộm đuôi cướp. Nhưng ngay cả những giới tội lỗi này cũng chưa hẳn đã bị kết án hay bị loại trừ bởi vì Đức Kitô đã đến chỉ vì họ và cho họ: Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài xuống thế gian không phải để kết án, nhưng để nhờ Ngài mà thế gian được cứu độ.
Như vậy thì xét cho cùng chỉ có ma quỷ mới thực sự và vĩnh viễn bị lên án là kẻ thù, còn tất cả vẫn là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa và có được niềm hy vọng cứu độ. Đức Kitô là ánh sáng và ánh sáng thì không bao giờ kỳ thị, phân biệt người lành kẻ dữ, chỗ cao ráo sạch sẽ, ánh sáng soi vào và làm cho vẻ cao đẹp thêm rực rỡ hơn. Nhưng ánh sáng cũng rọi vào chỗ sình lầy nhơ bẩn ấy để mà dọn dẹp, để mà tẩy uế. Chỉ có những ai từ chối ánh sáng, khép kín lòng mình, trốn tránh ánh sáng, che đậy sự thật mới không được cứu độ.
Noi gương Chúa Giêsu chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng cho trần gian, hay nói một cách khác, chúng ta cũng phải yêu mến thế gian bằng một tình thương cứu độ, nghĩa là yêu thương và sẵn sàng dâng hiến đời mình để làm cho thế gian được sáng hơn, được đẹp hơn, nhờ đó mà được tham dự vào vinh quang phục sinh của Đức Kitô.

6. Ánh sáng và bóng tối – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Báo Los Angeles Times ngày 8-6-1996, viết về ông Sam Eason, một người đánh giày ở bãi đậu xe như sau:
Sam Eason là một người đánh bóng với tất cả ý nghĩa của danh từ ấy. Ông ta không chỉ làm cho bạn nhìn bảnh hơn ở chiếc giá đánh giày.. mà còn giúp bạn cảm thấy thoải mái vui hơn. Với vài đường đánh giày thật khéo, ông làm cho đôi giày cũ sờn của bạn trở nên bóng loáng. Và bằng mấy câu nói khéo, ông có thể khiến những luật sư hoặc những người buôn chứng khoán mệt mỏi trở nên hăng hái vui tươi.
Quản lý các hệ thống văn phòng Timothy Matthews nói: “Bất kể màu da hay màu giày của bạn, Sam là một người bạn tốt của mọi người”. Giám đốc công ty sản xuất máy Photocopy Phil Canon thêm: “Không có gì giả tạo nơi Sam”.
Trước sự giao tế niềm nở, cảm thông và đầy tình người của Sam Eason, nhiều khách hàng dù đã đổi đi xa, vẫn lái xe đến với ông để được đánh bóng đôi giày và được làm cho tươi mát tâm hồn.
Người đánh giày dễ thương ấy đã qua đời vì bệnh tiểu đường ngày thứ Hai 3-6-1996 và được an táng đúng sinh nhật thứ 59 của ông (thứ Sáu 7-6-1996). Trên giá đánh giày bỏ trống, khách hàng đặt những bó hoa tươi thắm ấp đầy thương nhớ. Họ kể cho nhau nghe Sam Eason đã làm tươi mát cuộc đời họ như thế nào…
Sĩ quan cảnh sát John Bavetta trong điếu văn đọc ở tang lễ của Sam Eason đã khóc khi kể lại hàng trăm tập quán của Sam Eason. Trước khi chào từ biệt ông đã nói: “Bây giờ đến lượt hào quang của Sam được đánh bóng”.
***
Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay đã nói với Nicôđêmô: “Ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa” (Ga.3,21). Chắc chắn tâm hồn của người đánh giày ngập tràn ánh sáng, nên ông luôn lan tỏa niềm vui chân thật và nét đơn sơ trong sáng.
Cuộc đời mãi mãi là một thách đố. Chúng ta chọn ánh sáng bên này hay bóng tối bên kia. Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa liên lỉ giữa ánh sáng và bóng tối. Lựa chọn của người đời lại khác với lựa chọn của người con Chúa. “Sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sống, vì hành động của họ xấu xa” (Ga.3,19). Người đời trốn chạy ánh sáng vì sợ hành động xấu xa của họ bị lộ tẩy.
Ghét ánh sáng và thích bóng tối là thảm kịch của người đời, vì con người sinh ra là để sống cho ánh sáng. Thiên Chúa không đào hỏa ngục, không xây ngục tối, nhưng chính tù nhân đã tự nhốt mình và nội tâm tăm tối. Ai từ chối ánh sáng của Chúa sẽ héo tàn trong bóng tối của chính mình.
Có cách nào để ra khỏi bóng tối? Có lối nào để trở về với ánh sáng? Đức Giêsu đã chỉ ra một con đường duy nhất: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con của Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga.3,16). Nếu ngày xưa dân Do thái đã tin tưởng nhìn lên con rắn đồng để được chữa lành thì ngày nay tất cả những ai tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu trên thập giá đều được ơn Cứu độ.
Thập giá là tột cùng của đau đớn nhục nhã, nhưng cũng là minh chứng tuyệt vời của một tình yêu: Tình yêu của Cha đã trao ban Con Một, tình yêu của Con đã hiến dâng mạng sống. Tin vào một tình yêu như thế sẽ chữa lành những vết thương cuộc đời. Đức Giêsu đã từng nói: “Đức tin của con đã chữa con” (Mc.10,52).
Đức tin là thành phố trên đồi, là ngọn đèn trên cao. Thành phố trên đồi không bị khuất tầm nhìn. Ngọn đèn trên cao soi sáng cả nhà. Đức tin trong sáng luôn sống động không nằm chết trong lòng, nhưng luôn tỏa sáng.
Đức tin trong sáng luôn mang lại nụ cười, an bình, và hạnh phúc.
Đức tin như những vì sao, lấp lánh lao xao, trên trời cao thăm thẳm.
Đức tin như những vì sao, ngời sáng như kim cương trên ngực người tín hữu.
***
Lạy Chúa, sống là phải chọn lựa không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối. Xin cho chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn nến sáng, để cả thế giới ngập tràn ánh sáng của Chúa. Amen.

7. Thế gian được cứu độ nhờ Người
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Có những lời chúng ta không thể quên, nó xoáy vào trong quả tim thịt máu của chúng ta làm chúng ta sững sờ vừa vui sướng. Có những câu nói mang lại niềm vui bất tận. Hôm nay, chúng ta cũng nghe được một lời như thế: “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi ban người Con Một cho trần gian”. Có lời nào êm đềm hơn không? Chúng ta có cảm thấy hương vị ngọt ngào đó thấm sâu vào tim ta không? Thật huyền diệu! Nếu chúng ta không cảm thấy gì, hãy đọc lại từng chữ, nhiều lần, chúng ta mới cảm thấy cả một vùng trời yêu thương mở rộng trước mắt chúng ta, chúng ta sẽ nghe thấy cả một điệp khúc yêu thương trào tràn trong tim.
Không thể tưởng tượng được! Chúng ta được yêu thương đến mức độ như thế! Chúng ta làm sao cảm tạ ơn Cha trên trời cho xứng được! Chúng ta đo được tình yêu của Cha trên trời đối với chúng ta không?
Thế nhưng chúng ta đã làm gì cho người Con Một yêu quí đó? Chúng ta đã giương cao Ngài lên cây thập giá như xưa, trong sa mạc, Môsê đã giương cao con rắn bằng đồng để nhờ đó những người bị rắn lửa cắn được chữa lành. Chúa Giêsu nhắc đến câu chuyện này để nói cho chúng ta biết, Ngài như con rắn đồng xưa kia trong sa mạc. Sách Dân số kể lại: Dân Do Thái mệt mõi vì nắng nóng và thiếu nước uống, dân đã kêu trách Thiên Chúa, và Chúa đã cho một bầy rắn từ núi bò ra cắn chết một số người. Dân đến kêu cứu với ông Môsê, xin ông cầu nguyện để Chúa cất tai họa đi. Môsê cầu khẩn Chúa và Chúa bảo làm một con rắn bằng đồng treo trên một cây gỗ và khi ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn thì sẽ được khỏi. Chúa Giêsu nói: “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”. Con rắn đồng xưa được nhắc lại như một hình ảnh báo trước cây thập giá: “Con Người cũng phải được giương cao như vậy”.
Người Con Một của Chúa Cha được trao ban cho chúng ta như một món quà tặng của tình yêu, chúng ta mang đóng đinh Ngài vào thập giá! Thật là điên rồ về phía chúng ta, nhưng cũng là sự điên rồ của Thiên Chúa. Điên rồ vì tại sao lại ban người Con Một yêu dấu cho một lũ tội nhân để họ đóng đinh Ngài, giương cao Ngài lên?
Một luồn thần học cổ điển xưa cho rằng Chúa Cha trong sự công thẳng của Ngài, đòi hỏi phải có một sự đền bù cân xứng vì tội nguyên tổ, vì thế Chúa Cha phải cho Chúa Con đến đền tội cho loài người mới xứng hợp với sự phản bội của Ađam. Không thể nói là sai nhưng như thế làm như Chúa Cha là một quan toà hơn là một người cha. Nhiều nhà thần học khác không nghĩ như thế mà ngược lại nghĩ rằng, Chúa Cha là tình yêu vô biên, Ngài thương nhân loại đến mức độ Ngài phải cùng đau khổ với con người bằng cách ban cho con người đứa Con Một yêu dấu của Ngài, vì thế Ngài cũng đau cùng với Chúa Con và cho con người. Như thế, chúng ta thấy câu nói của Chúa Giêsu diễn tả tình yêu của Chúa Cha và của cả Chúa Con.
Nếu hiểu như thế, chúng ta mới thấy thấm thía, chúng ta mới hiểu được hạnh phúc của chúng ta vì được yêu thương đến như thế. Tình yêu của Chúa vượt hẳn tất cả những tư tưởng của con người, vì thế thánh Phaolô dám nói: “Chúng tôi rao giảng một Chúa Kitô chịu đóng đinh, một vấp phạm đối với người Do Thái và sự điên rồ đối với người ngoại đạo”. Người tử tội mang tấm bảng viết bằng ba thứ tiếng: Giêsu Nadaret, Vua Do Thái, với cạnh sườn mở toạt ra, là tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua một con người bằng xương bằng thịt. Chỉ có tình yêu của Ngài đạt tới đỉnh cao đó mới cho thấy chiều sâu rộng của tình yêu Thiên Chúa là Cha nhân từ. Nhân từ đến mức độ không tiếc gì với loài người.
Cái chết nhục nhã của Chúa chúng ta không chấm dứt mọi sự như cái chết của chúng ta mà là một cuộc khởi đầu cho một cuộc sống vĩnh hằng. Như con rắn xưa trong sa mạc được giương cao, chữa lành vết thương do rắn cắn, thì hôm nay, Chúa Giêsu được giương cao để chữa lành vết thương tâm hồn chúng ta, cũng do con rắn là ma quỷ, nhưng với điều kiện là tin vào Ngài.
Người Con Một của Chúa Cha được ban cho chúng ta, Chúa Cha đã giương cao Ngài lên trên thập giá và nhờ đó hễ ai tin vào Ngài thì sẽ khỏi chết và được sống muôn đời. Người Con Một được ban cho chúng ta là để nhờ Ngài, chúng ta được sự sống mới trong tình yêu của Chúa Cha.
Từ giương cao được nhìn từ hai khía cạnh. Giương cao lên thập giá tức là Chúa Con phải chịu khổ hình và chịu chết cho con người. Cái chết đau thương đó chính là nguồn mạch sự sống, vì nơi Ngài chúng ta được hưởng ơn tha thứ nhờ lòng tin. Thánh Phaolô, trong các thư Galat, Êphêsô, Rôma đều nói đến lòng tin. Chúng ta được cứu thoát khỏi tội và được trở thành con Thiên Chúa là nhờ lòng tin: “Chính nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ”.
Vấn đề quan trọng là tin hay không tin. Sự sống muôn đời là do niềm tin. Nếu chúng ta tin, chúng ta sẽ được sống và không bị lên án. Dân Do Thái đã không tin nên đã mất đi tất cả và đã trở thành nô lệ cho ngoại bang. Chúa Giêsu đến giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, mang lại nguồn sống mới, nhờ Ngài được giương cao trên thập giá. Tin vào Ngài, chính là đặt nền tảng cuộc sống chúng ta không phải trên sự tài giỏi hay công nghiệp riêng mà đặt trên tình yêu của Ngài.
Giương cao đứng trên bình diện khác, là được phục sinh và lên trời vinh hiển. Chúa Giêsu chịu chết đau thương nhục nhã, không là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài đã sống lại vinh hiển, đã toàn thắng sự chết và tội lỗi và chiến thắng đó chính là chiến thắng của chúng ta, vì Ngài chết cho chúng ta, sống lại cho chúng ta. Chúng ta thuộc về Ngài. Từ nay chúng ta không còn sống cho chính mình nữa mà sống cho Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta… Chúng ta trở thành tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống và thực hiện công trình tốt đẹp của Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta. Như thế, chúng ta trở thành con cái của ánh sáng. Những việc chúng ta làm sẽ được tỏ bày trong ánh sáng. Thánh Gioan luôn nói đến ánh sáng và bóng tối. Đối với ngài, Chúa Giêsu là Ánh sáng thật chiếu soi vào bóng tối trần gian. Nhưng bóng tối đã không tiếp nhận ánh sáng, thế gian đã yêu bóng tối hơn ánh sáng, vì những việc của thế gian đều xấu xa.
Dù Chúa Giêsu đã mang lại ánh sáng cho chúng ta, nhưng chúng ta có thành ánh sáng như Ngài mong ước chưa? Những việc chúng ta làm có thực sự là ánh sáng chưa? Chúng ta có thực sự sống cho Chúa chưa?
Mùa Chay là lúc thuận tiện để chúng ta có dịp đối thoại với Chúa sâu xa hơn và tìm lại nguồn ánh sáng chúng ta đang cần, để tâm hồn và đời sống chúng ta tươi sáng hơn, xứng đáng với tình yêu Chúa hơn. Chúng ta chỉ là lữ hành trên trần gian, những bước đi nhọc mệt của chúng ta hôm nay sẽ dẫn chúng ta về miền ánh sáng của Chúa, dù quanh ta, bóng tối đang dầy đặc, đôi khi cũng làm chậm bước chân, nhưng tin tưởng, chúng ta không nản lòng. Chúng ta sở hữu Người Con Một thì không có gì có thể làm chúng ta nao núng. Chúng ta đang đi trong tình yêu của Cha chúng ta. Khó khăn nhọc mệt chỉ là giai đoạn, vì Chúa chúng ta là Thiên Chúa Tình Yêu. Chỉ xin cho chúng ta dám tin Ngài đến cùng.
Trên con đường lữ khách, chúng ta vẫn được Chúa chăn nuôi giữ gìn và chính Ngài lại ban cho chúng ta một thứ lương thực hằng sống là Mình thánh Ngài. Thật tuyệt diệu! Hãy đến với Ngài với tất cả niềm tin, ăn lấy của ăn thần linh đó, chúng ta có thể bước đi mãi mà không sợ sệt cho đến ngày chúng ta chỉ còn là một trong tình yêu vô biên của Ngài.

8. Khước từ tình yêu Chúa là tự kết án mình
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang – Joshepus Quang Nguyễn)
Bài đọc 1, Sách Biên Niên Sử hôm nay mô tả dân Israel bị lưu đầy ở bên Babilon. Khi vua nước Batư đã đánh hạ ngục Babilon, ông ta ra chiếu chỉ giải phóng dân Israel, một cuộc xuất hành mới và cho phép họ tái thiết lại đền thờ. Ông vua này không có đạo, không biết Thiên Chúa là ai? Ông giải phóng dân Israel là hành động mang tính chính trị. Ông muốn lấy lòng dân tộc để việc cai trị ông được vững vàng hoặc lý do kinh tế xã hội nào đó. Trái lại, dân Israel nhìn sự giải phóng bằng một đức tin là do Chúa thúc dục lòng nhà vua để hành động. Một cái nhìn của đức tin như vậy không phải là Chúa xa lạ mà là sự thật trong những bước đi của lịch sử khi Ngài gởi Con Một của Ngài. Thiên Chúa Kitô giáo không ở trong lý luận, Thiên Chúa hiện hữu trong đời người tất cả mọi người. Chúa đóng ấn tình yêu của Ngài khi Ngài ban tặng Con Một của Ngài. Giờ đây, Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử bằng tình thương, đó chính là Chúa Giêsu, Con của Thiên Chúa “đến thế gian, không phải để lên án thế gian. Nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.”
Quả thế, Thiên Chúa không lên án ai. Người muốn cứu độ tất cả vì Người yêu thương hết mọi người. Chính con người tự xét xử và lên án mình, khi nó cố chấp khước từ tình của Thiên Chúa, là Chúa Giêsu và Lời Người. Như thế, việc “lên án” không phải là một hành vi ở bên ngoài con người. Nhưng trớ trêu thay, nó lại là sự việc của chính con người đó, khi họ có thái độ khước từ tình yêu Thiên Chúa, được biểu lộ trong việc “Con Một của Người hiến thân” cho đến hy sinh thập giá. Như vậy, Thánh giá đã trở thành dấu chỉ ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài và hễ “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; những kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên Chúa.
Điều này có nghĩa rằng tin vào Chúa Giêsu Kitô bao gồm sự dấn thân dứt khoát, từ bỏ tội lỗi, thi hành ý Chúa và thực thi Lời Người dạy ngay trong cuộc sống. Đức tin mà chúng ta lãnh nhận khi chịu phép Thanh Tẩy và giữ mãi cho đến hôm nay thực sự nó đã cứu tôi, có nghĩa rằng tôi nắm chắc sự sống lại mà Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh ban cho tôi. Nhưng từ khi Rửa Tội cho đến ngày cuối hết đó, đức tin của tôi như thế nào? Hành vi đạo đức của tôi trong cuộc sống như thế nào? Nói cách khác, tôi sống và thi hành Lời Chúa ở mức độ nào? Vì vậy, đức tin của chúng ta hôm nay có tầm mức rất quan trọng đến cuộc hội ngộ mai ngày của chúng ta cùng Thiên Chúa, vì chưng Thánh Phaolô nói trong bài đọc 2 rằng: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa” (Ep 2,8). Vì vậy, mỗi ngày thực thi Lời Chúa của chúng ta là công trạng trong ngày sau hết của chúng ta. Lời Chúa đòi hỏi chúng ta dấn thân sống trong ánh sáng, nghĩa là trong sự thẳng thắn, trung thành và hành động theo gương yêu thương Chúa Giêsu, hy sinh cho người mình yêu.
Đứng trước thập giá Đức Kitô, hôm nay chúng ta phải có thái độ nào? Nếu ta tin vào tình yêu Thiên Chúa thì được ân sủng, được Chúa và cả tha nhân, còn nếu ta chối từ tình yêu của Ngài? Ta tự kết án mình, xa lìa Thiên Chúa và trở thành người vô cảm.
Lời Chúa hôm nay mời gọi ta hãy đón lấy thập giá Chúa Kitô để thấy được tình yêu bao la của Chúa, đồng thời thấy ta tội lỗi vô ngần. Tình yêu Chúa luôn chịu đựng, phục vụ, hiền hòa, khiêm nhường, nhịn nhục và không ngừng tha thứ, và hy sinh chết cho ta. Còn tình yêu của ta dành cho Chúa và tha nhân như thế nào? Có thờ phượng Ngài trên hết mọi sự không? Hay có còn thờ thần đôla, thần danh vọng hay dục vọng mà bỏ Chúa ra bên lề, thích thì đọc kinh dâng lễ không thích thì thôi. Còn đối với nhân thì sao? Ta có yêu ngươi như Chúa yêu ta không? Có tha thứ cho tha nhân như Chúa không hay kết án anh chị em, cha mẹ mình mãi, “sống để bụng, chết mang theo”. Thiên Chúa không kết án luận phạt chúng ta, sao ta lại kết án luận phạt anh em mình? Hãy nhớ Lời Chúa dạy: “Hãy tha thứ để được Chúa tha thứ. Đừng xét đoán để khỏi bị Chúa xét đoán” (Lc 6, 36-37). Vậy, nhìn lên thập giá Chúa Kitô thì biết phép công thẳng của Chúa là thế nào! Hãy xem đó thì biết tội nặng nề gớm ghiếc là chừng nào! Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương ta là dường nào! (Đàng Thánh Giá, chặng 13). Cho nên, trong Sứ Điệp Mùa Chay năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi đừng vô cảm với tha nhân vì “Tình yêu của Thiên Chúa phá vỡ sự vô cảm ấy, một thái độ khép kín tai hại. Giáo hội trao tặng chúng ta tình yêu này qua giáo huấn, và nhất là qua chứng tá của mình. Nhưng chúng ta chỉ có thể làm chứng về điều mà chính chúng ta đã cảm nghiệm. Kitô hữu là người để Thiên Chúa mặc cho mình lòng nhân từ và thương xót của Ngài, mặc lấy Chúa Kitô, để giống như Chúa Kitô, trở nên tôi tớ của Thiên Chúa và của người khác. Chúng ta thấy rõ điều này trong Phụng vụ Thứ Năm Tuần Thánh qua nghi thức rửa chân. Phêrô không muốn Chúa Giêsu rửa chân cho ông, nhưng ông đã hiểu ra rằng Chúa Giêsu không muốn chỉ nêu gương về cách thức chúng ta phải rửa chân cho nhau. Chỉ những ai để cho Chúa Giêsu rửa chân mình trước thì người ấy mới có thể phục vụ người khác như thế. Chỉ người nào được “dự phần” với Ngài (Ga 13,8) thì mới có thể phục vụ người khác” (số 1).
Thư Mục Vụ Năm 2015 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam viết rằng: “Giáo xứ là gia đình của những người con cái Thiên Chúa, trong đó tất cả là anh chị em với nhau. Gia đình giáo xứ cần được Phúc-Âm-hóa, nghĩa là thấm đẫm tinh thần Phúc Âm và làm chiếu tỏa ánh sáng Phúc Âm ra chung quanh, đến với muôn dân”. Ước gì, trong mùa Chay thánh này, mỗi người chúng ta thấm đẫm tinh thần Phúc Âm hôm nay là sống và trao ban tình yêu Chúa đã dành cho mọi người trong giáo xứ và mọi người trong môi trường sống chúng ta ngõ hầu đức tin của chúng ta thật sự sống động và đem lại ân phúc thay vì luận phạt. Vì chưng, “Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2,10). Amen.

9. Tin thì được sống
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)
Biểu tượng của nghành y chính là con rắn quấn quanh cây gậy. Hình ảnh này được bắt nguồn từ thần thoại Hy Lạp và truyền thuyết “Con giun”. Bên cạnh đó, biểu tượng này còn có nguồn gốc từ một câu chuyện được kể trong Kinh Thánh Cựu Ước khi dân Dothái trên đường trở về Đất Hứa (x. Ds 21, 4b-9).
Hôm nay, kết thúc phần hội thoại với ông Nicôđêmô, Đức Giêsu đã nhắc tới sự kiện này như tiền đề cho một chủ đề lớn, đó là cái chết và ơn cứu chuộc do Ngài mang lại ngang qua thập giá, để qua đó, những ai ngước nhìn và tin thì sẽ được cứu độ.
1. Sự liên hệ giữa con rắn đồng và Đức Giêsu
Khởi đi từ việc Đức Giêsu đem chuyện con rắn đồng trong Cựu Ước, nơi sa mạc để so sánh với chính Ngài: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” (x. Ds 21,4-9).
Để hiểu được ý nghĩa của việc Đức Giêsu so sánh trên, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về câu chuyện con rắn đồng trong Cựu Ước, để làm toát lên hình ảnh tiên trưng về Đức Giêsu sau này.
Câu chuyện về con rắn được tác giả sách Dân Số trình thuật rằng: vì yêu thương, Thiên Chúa đã nghe được tiếng ai oán của dân bên đất Aicập kêu than do nỗi thống khổ của họ phải chịu bởi những tên cai của nhà vua Aicập hành hạ…!
Trước cảnh tượng đó, qua Môsê, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát họ, để dẫn họ về Đất Hứa. Tuy nhiên, trên đường, họ đã nổi loạn, kêu trách nặng lời với Thiên Chúa và Môsê nhiều lần. Vì thế, Thiên Chúa đã không cho họ được đi trên con đường thẳng để tiến vào Đất Hứa (x. Ds 14,25. 33). Người cũng không cho bất kỳ một ai trong đám dân này được đặt chân vào đó! Hơn thế, Người đã cho rắn độc trong sa mạc tiến ra và cắn chết nhiều người!
Thấy vậy, dân chúng đã van nài Môsê kêu cầu lên Thiên Chúa để xin tha thứ vì sự phản bội, vô ơn mà họ đã chót phạm, đồng thời, xin Người ra tay cứu sống cho những người bị rắn cắn. Môsê đã thay mặt cho toàn dân để chuyển cầu lên với Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã nhận lời Môsê và truyền cho ông làm con rắn treo lên cây cột, nếu ai bị rắn cắn mà nhìn lên thì liền được sống. Ông Môsê đã làm như vậy và nhiều người đã được sống nhờ nhìn lên con rắn này.
Con rắn đồng chính là biểu tượng về lòng thương xót của Thiên Chúa, và cụ thể là hình ảnh báo trước về chính Đức Giêsu bị treo trên thập giá sau này!
Qua câu chuyện trên, Thiên Chúa muốn dạy cho dân một bài học nhớ đời, đó là: vô ơn, bội nghĩa và đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa thì sẽ phải chết. Ngược lại, nếu tin tưởng tuyệt đối vào Người, thì sẽ được sống.
Khi nhắc lại biến cố này trong câu chuyện với ông Nicôđêmô, Đức Giêsu muốn cho ông hiểu rằng: cần phải có một bước tiến cụ thể, rõ ràng, xác quyết với niềm tin, chứ không phải khơi khơi bề ngoài hay phụ thuộc vào kiến thức mà mình có. Những thứ đó chỉ làm cho ông thỏa mãn sự hiếu tri mà thôi. Vì thế, nó không thể đem lại cho ông ơn cứu chuộc. Ơn cứu chuộc chỉ đến với ông khi ông nhận thức về tội lỗi của mình; cảm nghiệm và tin tưởng tuyệt đối vào tình thương của Thiên Chúa và ơn cứu chuộc ngang qua chính Người Con của Người qua mầu nhiềm thập giá (x. Ga 3,15).
2. Ý nghĩa Lời Chúa với đời sống đức tin của chúng ta
Qua câu chuyện và những mặc khải của Đức Giêsu cho ông Nicôđêmô, Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy quan tâm đến đời sống đức tin của mình ngang qua những cảm nghiệm sau:
Trước hết là ý thức về thân phận yếu đuối của mình:
Cuộc sống của chúng ta không thiếu gì những bất toàn. Chính vì những yếu đuối do bản tính của con người, nên chúng ta dễ hướng chiều và làm theo sự tội. Vì thế, tội lỗi đã làm cho con người đau khổ, thất vọng, nhất là nó nhấn chìm và làm cho chúng ta mất ơn cứu chuộc.
Lời mời gọi nhìn lên con rắn đồng là hình ảnh và cũng là lời mời gọi chúng ta hướng nhìn lên Thánh Giá Chúa Kitô, để ý thức mình tội lỗi và cần được cứu chuộc.
Thật vậy, mỗi khi chúng ta nhìn lên Chúa chịu đóng đinh, hẳn ai cũng cảm thấy thật xấu hổ, bởi vì do tội lỗi của chính mình mà Con Thiên Chúa quyền năng lại phải chịu treo trần trụi trên Thánh Giá như một kẻ tử tội…!
Khi nhìn lên Thánh Giá Chúa, chúng ta hiểu được ý nghĩa cái chết của Đức Giêsu và chúng ta sẽ không thể không sám hối ăn năn, bởi vì nơi ấy, Đức Giêsu đã gánh lấy hết tội lỗi của nhân loại để cho con người được sống và sống dồi dào.
Thứ đến, là cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa:
Mỗi khi nhìn lên Thánh Giá Đức Giêsu, chúng ta nhớ lại lời Kinh Thánh đã nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Thật vậy, tội lỗi của con người rất nặng nề, khiến chúng ta chắc chắn phải chết, nhưng Thiên Chúa đã yêu chúng ta bằng một tình yêu tuyệt đối và trọn vẹn khi trao ban chính con của Người đến để yêu và yêu đến cùng. Tình yêu ấy được chứng minh bằng cái chết trên thập giá. Qua đó, Đấng chịu treo trên thập giá mặc khải cho chúng ta hiểu rằng: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13
Như vậy, mỗi khi chúng ta nhìn lên Thánh Giá Đức Giêsu, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu thương của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu nơi cái chết của Ngài thật lớn lao vô kể….
Cuối cùng, nhìn lên Thánh Giá Chúa để chúng ta được cứu chuộc:
Khi đã phạm tội, con người không thể tự thân cứu chuộc được mình. Cũng như những người Dothái xưa, khi đã phạm tội và bị rắn cắn, họ không còn có thể tự cứu được mình khỏi chết, mà chỉ còn cách, đó là: nhìn lên rắn đồng thì mới được cứu sống.
Chúng ta cũng cùng chung số phận, nên khi phạm tội, con người không thể nào đụng chạm được ơn giải thoát nếu không có lòng thương xót của Thiên Chúa!
Như vây, mỗi khi nhìn lên Thánh Giá với Đấng chịu treo trên đó, chúng ta sẽ nhớ lại những tội lỗi do yếu đuối của mình đã xúc phạm đến Chúa, đồng thời, biết cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa, luôn ăn năn, tin tưởng vào hiệu quả của Đấng chết thay cho nhân loại được cứu chuộc.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu, vì Ngài là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng gánh tội và cứu chuộc trần gian.
Khi tin vào Đức Giêsu tuyệt đối, chúng ta được mời gọi đi trên con đường mà Ngài đã đi để được cứu chuộc. Con đường ấy là: tự hủy, yêu thương và vâng phục. Bên cạnh đó, chúng ta được mời gọi thuộc về Đức Giêsu là Ánh Sáng, khi sống những giá trị Tin Mừng trong cuộc sống và khước từ những thứ thuộc về bóng đêm của tội lỗi như: ích kỷ, kiêu ngạo, khoe khoang, bất hòa, chia rẽ….
Tuy nhiên, muốn được tiếp bước trên con đường của Đức Giêsu và thuộc về Ngài là Ánh Sáng, chúng ta phải sống Lời Chúa mời gọi cụ thể trong Mùa Chay này, đó là: hãy sám hối, ăn năn và canh tân đời sống….
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã phán: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32), xin hãy lôi kéo chúng con lên với Chúa để được Chúa yêu thương và cứu chuộc. Amen.

10. Giương cao con rắn
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Thiên Chúa có bộ mặt nào? – Thánh thiện, quyền phép, thông minh hay công thẳng…? Ai mà biết được khuôn mặt thật của Người nếu như Người không đích thân mặc khải cho biết!
Người Do Thái tin rằng họ biết rất rõ bộ mặt thật của Đức Chúa; họ gọi Ngài là Gia-vê (theo ký tự YHWH), một tên vừa nói lên bản chất tự hữu mang tính triết học, lại vừa diễn tả quyền phép vô song của một đấng tạo dựng muôn loài, mang tính lịch sử. Khuôn mặt hiển hách đó, theo họ, đã lộ rõ qua các dấu lạ điềm thiêng mà Mô-sê nhân danh Ngài thực hiện trong cuộc Xuất Hành giải phóng kiêu hùng, sau khi đã hoàn toàn khuất phục quyền lực thần thánh của Pha-ra-ô được coi là vô địch thời bấy giờ. Thế nhưng Đức Giê-su lại khảng định rằng, khuôn mặt đó chưa hoàn toàn chính xác! Lý do thật đơn giản: đó vẫn chỉ dựa trên suy đoán của loài người, vì thật sự đã có ai từng sống với Thiên Chúa để biết rõ Ngài thế nào đâu; “không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11:27)
Vấn đề ở đây là: diện mạo Thiên Chúa mà ‘Con Người muốn mạc khải cho’ là thứ diện mạo nào? Trước hết Đức Giê-su đưa ra một hình ảnh có sẵn trong Cựu Ước, nhưng rất ít được người Do Thái thời đó quan tâm: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc”. Quả vậy câu truyện được kể trong chương 21 sách Dân Số đã không được các luật sĩ và biệt phái thời đó quan tâm giải thích. Họ cho rằng đó chỉ là một giai thoại mang tính sự kiện lịch sử; dân phạm tội kêu trách Mô-sê, và thế là Đức Chúa đã báo oán qua việc cho rắn độc bò ra cắn hại dân khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết. Rồi Mô-sê chủ động khẩn cầu cho dân, và Đức Chúa truyền cho ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống!” (Ds 21:6-9) Câu chuyện không nhằm vẽ lên khuôn mặt Đức Chúa từ nhân và xót thương; có vẻ ngược lại là đàng khác, Ngài lộ rõ diện mạo nghiêm khắc, trừng phạt; ‘Dân kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê… và Đức Chúa cho rắn độc bò ra cắn chết họ’. Nếu dân có được cứu thì chẳng qua là do lời khẩn cầu của Mô-sê, tôi trung của Ngài. Còn tại sao lại giương cao con rắn là biểu tượng của hình phạt, để ‘hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên đó’ thì được cứu sống, thì không ai giải thích nổi, vì… đơn giản Đức Chúa muốn như thế! Khi Đức Giê-su dùng chính hình ảnh này để công bố mạc khải vĩ đại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” thì xem ra lại càng rối mù hơn. Ni-cô-đê-mô, hay bất cứ người Do Thái nào cũng vậy thôi, sẽ cho điều đó là hoàn toàn vô lý, không thể chấp nhận, nhất là sau dẫn chứng sự kiện hình phạt rắn độc cắn: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”.
Riêng đối với Ki-tô hữu chúng ta, tất cả đều biết một điều căn bản: Tin Mừng chính yếu hệ tại ở điều này, đó là Thiên Chúa yêu thương thế gian, là Thiên Chúa không lên án, là Thiên Chúa không đánh phạt, một khi Đức Ki-tô đã được giương cao trên thập giá. Đó là diện mạo đích thực của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô đã thân hành vẽ lên bằng chính thập giá của Người. Chỉ cần ‘tin vào Con của Người’, chỉ cần ngước nhìn lên Thập Giá cứu độ với lòng khiêm tốn và cậy trông, chỉ cần ‘sống theo sự thật và đến cùng ánh sáng’, thì cũng đã đủ để bất cứ ai, cho dầu tội lỗi tới mấy, cũng sẽ không bị lên án chết. Và ‘sự thật’ của Tin Mừng đơn giản chỉ là, căn cứ lời quả quyết của môn đệ Gio-an – người được coi là hiểu biết Thiên Chúa tình yêu rõ hơn ai hết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta… Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1Ga 1:8-10). Và thật lạ lùng, bản án nếu có bị tuyên, sẽ không căn cứ vào tội lỗi đã phạm, mà chỉ dựa trên một điều duy nhất xem ra chẳng mấy nhằm nhò gì: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng…” ‘Bóng tối’ và ‘ánh sáng’ Gio-an đề cập tới sẽ không mang nội dung luân lý của tội lỗi hay nhân đức, mà chỉ là từ khước hoặc tin nhận Tin Mừng về một ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian tới nỗi…’. Nói cách khác, bóng tối là vẫn nhắm mắt tin vào một Thiên Chúa công thẳng và luận phạt, một Thiên Chúa chỉ biết lên án và trừng trị. Ai cứ cố chấp ở lì trong bóng tối đó, chắc chắn sẽ bị lên án thôi. Lý do là vì mọi việc người ấy làm, cho dầu trong cái nhìn của con người có là tốt lành thánh thiện tới mấy đi nữa, thì cũng vẫn chưa phải là được thực hiện trong Thiên Chúa tình yêu xót thương và cứu độ. Còn ánh sáng đơn giản sẽ là nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, để mở lòng đón nhận ơn cứu độ đầy từ tâm của Thiên Chúa.
Trong tư cách Ki-tô hữu, nhất định mỗi người chúng ta phải sống theo sự thật, và chân thành đi trong ánh sáng của ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian…’ thôi, đặc biệt trong thời khắc cuối của mùa chay thánh, để trong niềm tin vào Đức Ki-tô thập giá cứu độ, chúng ta không còn chút sỡ hãi nào bị lên án nữa.
Lạy Chúa Giêsu được giương cao trên thập giá, xin cho con biết không ngừng chiêm ngắm Thánh Giá để thấu hiểu, ‘Thiên Chúa đã yêu con tới nỗi đã phó nộp…’, và để nhờ nhận biết trong tin yêu điều này, con sẽ ‘không bị lên án’, cho dẫu có tội lỗi và bất toàn tới mấy. Xin cho con cùng với Phao-lô, biết tập trung trọn đời mình vào duy nhất một mình Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh mà thôi. Amen.

11. Nào ta hãy mừng vui
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật IV Mùa Chay (Laetare), Phụng Vụ của Giáo hội đang từ màu tím chuyển sang màu hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm vui Phục Sinh, nghỉ để nhìn lại những gì đã làm trong ba tuần đầu của Mùa Chay, lấy thêm can đảm bước tiếp những chặng đường tới.
“Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan.” (Ca nhập lễ) Hay lời của Thánh vịnh gia: “Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào…… “.
Những lời trên diễn tả niềm vui ngập tràn và thiêng thánh. Giáo hội chúc mừng con cái mình đã hăng hái đi được nửa hành trình của Mùa Chay. Làm sao không thể vui mừng được. Mừng vui lên, hỡi những người trước kia ở trong sầu khổ vì coi thường lời Chúa, bất trung, tội lỗi và nhạo báng các tiên tri nên mất nước, lâm vào cảnh nhà tan cửa nát phải đi lưu đầy, nay được trở về tái thiết quê hương. Mừng vui lên vì Chúa dừng cơn thịnh nộ đổ xuống trên dân nay được thay bằng lòng từ bi và tha thứ, ” Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: Đây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên ” (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23).
Vậy đâu là lý do sâu xa để vui mừng?
Vì tội lỗi của dân mà đền thờ Chúa bị quân thù đốt cháy, tường thành Giêrusalem bị phá huỷ, các lâu đài và mọi đồ vật quý giá bị hỏa thiêu. Nay họ “được kêu gọi tái thiết đền thờ Giêrusalem, được mời gọi đón nhận lại Thiên Chúa đến ở giữa họ, đón nhận sức mạnh của tình yêu và tha thứ” (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23). Đoạn Tin Mừng Gioan ghi lại hôm nay cho chúng ta câu trả lời cụ thể: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài… để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ” (Ga 3,16-17).
Thiên Chúa đã dựng nên con người, ban bố những giới răn, không phải như những ách trói buộc, nhưng là như nguồn tự do, để con người cư xử khôn ngoan, sống theo công lý và hoà bình, biết đặt tin tưởng nơi tha nhân và cùng nhau thực hành các việc công chính dựa theo ý của Chúa để được hạnh phúc.
Vui vì được yêu thương và được cứu
Chúng ta đang ở tuần thứ IV trên hành trình tiến về lễ Phục Sinh, hành trình cùng với Chúa Giêsu bước trong “hoang địa”. Đây là quãng thời gian chúng ta lắng nghe tiếng Chúa và cũng là để vạch trần mặt nạ của những cám dỗ trong lòng chúng ta. Ở phía chân trời của hoang địa này chúng ta thấy nổi lên cây thập giá. Thập giá Chúa Kitô là đỉnh điểm của tình yêu đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Chính Chúa Giêsu khẳng định: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14-15). Lời trên nhắc lại cuộc xuất hành của người Do thái từ đất Ai Cập. Trong hành trình, một số người bị rắn độc cắn và bị chết. Khi ấy, Thiên Chúa ra lệnh cho ông Môisê làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây sào: ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được chữa lành (x. Ds 21,4-9). Ám chỉ Đức Giêsu sẽ được giương cao trên thập giá để bất cứ ai đang ở trong hiểm nguy của tội lỗi, nhìn lên Người với lòng tin thì sẽ được cứu độ, đúng như Gioan nói: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ ” (Ga 3,17).
Theo thánh Âugustinô thì: “Người thầy thuốc là người đến để chữa bệnh. Nếu người bệnh không tuân theo đơn thuốc và chỉ dẫn của thầy thuốc, anh ta tự làm hại mình. Đấng Cứu Thế đến thế gian…nếu anh không muốn được Ngài cứu chuộc, anh tự phán xét chính mình” (Sul Vangelo di Giovanni, 12,12: PL 35, 1190). Tình yêu Thiên Chúa là vô biên và Người đã ban Con Một để chuộc tội cho con người. Phần chúng ta, mỗi người cũng phải chịu trách nhiệm về mình. Thực vậy, mỗi người phải nhận biết tình trạng bệnh tật của mình để được cứu chữa; từng người phải nhìn nhận chính tội của mình để ơn tha thứ của Thiên Chúa, đã thể hiện trên Thập giá, hiện thực trong tâm hồn và cuộc sống mỗi người. Thánh Âugustinô viết tiếp: “Thiên Chúa lên án tội lỗi và nếu anh cũng làm tương tự, anh được hiệp thông với Thiên Chúa. Khi anh bắt đầu tách mình khỏi những gì đã làm, khi đó anh khởi sự nhưng việc tốt lành bởi đã từ bỏ những việc bất chính. Nên hoàn thiện bắt đầu từ việc nhận ra những sai sót của mình.”
Chúa Giêsu là sự sáng thế gian
Ánh Sáng đã đến thế gian, nhưng nhiều người ưa thích đêm tối hơn là ánh sáng. Có biết bao nhiêu đen tối ở trên thế giới hiện nay, những đám mây của sự dữ vẫn còn bao phủ trên mặt đất này. Những vụ thảm sát tàn bạo tại Irắc và Siria, những cuộc tranh chấp giữa các bộ lạc, lòng tham lam làm hoen ố con tim, đưa đến cảnh bóc lột người nghèo, lòng tham vơ vét khai thác các tài nguyện không nghĩ gì đến các thế hệ tương lai; bên cạnh đó là tính ích kỷ khiến con người khép kín, trở nên vô cảm đối với Thiên Chúa và tha nhân, thay vì những lý tưởng cao thượng của quảng đại và từ bỏ, thì người ta đi tìm khoái lạc, hưởng thụ, tìm hạnh phúc qua xì ke, dâm đãng, đưa đến cảnh huỷ hoại gia đình, tàn sát các bào thai, gạt bỏ người già và em nhỏ.
Để chống lại não trạng trên, Sứ điệp Mùa Chay năm nay có chủ đề là xóa bỏ sự “thờ ơ toàn cầu hóa”. Đức Thánh Cha Phanxicô mong ước: ” Nơi nào có sự hiện diện của Giáo hội, đặc biệt là nơi những giáo xứ và cộng đoàn, sẽ trở nên những hòn đảo lòng thương xót giữa biển cả thờ ơ” (Sứ điệp MC 2015). Dửng dưng với Thiên Chúa và đồng loại là điều cần phải loại bỏ trong xã hội hiện đại hôm nay. Chúng ta cần tạo ra một não trạng mới coi tha nhân như là anh chị em đáng được yêu thương tôn trọng và giúp đỡ trên cuộc hành trình tiến đến tự do, sự sống và hy vọng.
Thánh Phaolô nói: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2 Cr 6,2). Đây là thời gian thuận tiện để mỗi người quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, quảng đại giúp đỡ tha nhân.
Mùa Chay là lúc thuận tiện để khích lệ mọi thành phần Dân Chúa gia tăng sức lực thực hiện công việc bác ái nhiều hơn nữa. Giữa biển cả thờ ơ của xã hội hôm nay, mỗi người, mỗi giáo xứ và cộng đoàn thực thi đức ái, nhất định Giáo hội sẽ trở nên những hòn đảo lòng thương xót.

12. Nhìn lên Thánh Giá
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Thánh giá chính là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ.
Hình ảnh con rắn xuất hiện ngay từ những trang đầu của sách Sáng thế (x. St 3) và được nhắc lại trên 40 lần. Kinh Thánh trình bày về rắn với cả hai ý nghĩa tốt và xấu. Phần nhiều rắn mang ý nghĩa xấu, rắn được đồng hóa với chính Satan, thủ lãnh của ma quỉ đã dụ dỗ nguyên tổ phạm tội (x. St 3, 1-15). Đôi khi, rắn được trình bày với ý nghĩa tốt như là biểu tượng của sự khôn ngoan: ” Hãy khôn ngoan như con rắn!” (Mt 10,16), rắn đồng cứu người trong sa mạc (Ds 21, 4-9).
Trong truyền thuyết Hy Lạp, Thần Chữa Bệnh có tên là Asklepios được biểu tượng bằng con rắn. Ngày nay, hình con rắn quấn quanh cây cột được dùng làm biểu tượng cho ngành Dược và ngành Y. Hai ngành khoa học nghiên cứu và chữa trị bệnh tật cho con người.
Biểu tượng của ngành Y Dược cũng còn bắt nguồn từ một biến cố trong Kinh Thánh “con rắn đồng được giương cao” với ý nghĩa: Thiên Chúa cứu độ con người.
Ý nghĩa cứu độ bắt đầu bằng những biến cố trên đường về miền đất hứa. Trong sa mạc, người Do thái đã phạm tội thờ thần ngoại và đúc bò vàng để thờ lạy, họ hay phàn nàn kêu trách Chúa. Họ bị phạt nặng. Đức Chúa để cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Họ sợ hãi xin ông Môsê cứu chữa. Ông Môsê khẩn cầu cho dân. Đức Chúa nói với ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”. Ông Môsê “làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống” (Ds 21, 4b-9).
Rắn đồng được giương lên cao, người bị rắn cắn nhìn vào được chữa lành. Đó là cái nhìn của lòng tin. Sách Khôn Ngoan giải thích (để tránh lối giải thích ma thuật): “Hễ ai nhìn lên thì được cứu vớt, cứu không phải do vật được nhìn, mà do Chúa, Đấng Cứu Độ của mọi người” (Kn 1, 6-7). Nhìn lên con rắn đồng là biểu hiệu một lòng tin vào Thiên Chúa, niềm tin từ bên trong phát xuất ra bên ngoài bằng cái nhìn, nhờ đức tin mà Chúa đã cứu họ. Thiên Chúa yêu thương tha thứ và ban ơn. Ngài cứu sống dân dù họ đã từng bất trung, oán trách, nổi loạn chống đối.
Và đó là ý nghĩa của lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô trong Tin Mừng hôm nay: “Ngày xưa, Môsê treo con rắn đồng thế nào thì Con Người sẽ bị treo lên như thế, để nhờ đó những ai tin nhận sẽ được cứu rỗi”. Chúa ý ám chỉ Người sẽ chết cách nào, sẽ bị treo lên thập giá đau thương. Ở đây, sự so sánh nằm ở từ “treo lên”; Đức Giêsu bị treo lên cây thập giá, cũng như con rắn đồng bị treo lên trước toàn dân. Và ở từ “sống”. Ai bị rắn độc cắn trong hoang địa, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống; những ai tin và tìm kiếm sự sống vĩnh cửu, sẽ tìm thấy trong Đức Giêsu. Người ban sự sống. Không phải sự sống nhân tính, mà “sự sống vĩnh cửu”. Ân huệ vô biên đó là do: “Thiên Chúa yêu thương”.
Khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy nhìn lên Thập giá để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Thập giá là tột cùng của đau khổ và ô nhục, nhưng Thập giá lại là biểu hiện tuyệt vời của một tình yêu cao cả. Nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên Thập giá để con người nhận biết thân phận tội lỗi và từ đó tin vào tình thương của Thiên Chúa.
1. Nhận biết thân phận tội lỗi con người.
Dân Do thái được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập. Hành trình gian truân trong sa mạc, họ nổi loạn chống lại Thiên Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội lỗi.
Đức Giêsu chịu treo trên Thập giá là vì tội lỗi nhân loại. Thánh Phêrô viết những lời thật sâu xa: “Tất cả tội lỗi của chúng ta, Đức Giêsu đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. ” (2Pr 2,24a). Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của con người. Người chịu chết cho con người được sống “Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (2 Pr 2,24b). Nhìn ngắm Đức Giêsu trên thập giá, chúng ta ý thức về thân phận yếu đuối mỏng dòn và tội lỗi của mình.
2. Tin vào tình thương của Chúa.
Con người phạm tội đáng phải chết. Thiên Chúa thương yêu tìm mọi cách để cứu sống. Thiên Chúa “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Thiên Chúa biểu lộ tất cả tình thương đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.Tình yêu của Ngài được thể hiện qua hành vi “trao ban”. Điều quí nhất của Người Cha là Người Con.Thiên Chúa đã trao ban cho nhân loại chính Con Một dấu yêu của Ngài. Đức Giêsu đến trần gian để phục vụ: “Con Người đến hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”. Người đã tự nguyện chết cho con người được sống: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hi sinh mạng sống cho bạn hữu”; “Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con, này là máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội”. Nhìn lên Đấng chịu đóng đinh trên Thập giá, chúng ta cảm nhận tình thương của Chúa thật bao la và diệu kỳ.
3. Chiêm ngắm Thánh giá tình yêu
Người Kitô hữu mỗi ngày nhìn thấy thập giá, nghe nói về thập giá. Thập giá trên tháp chuông, thập giá trên bàn thờ, thập giá bày bán trong tiệm, thập giá treo trên tường, thập giá cắm trong nghĩa trang, thập giá trong nghệ thuật, thập giá trong thi ca.
Có những người đã nhìn vào thập giá như một đơn vị kinh tế để xác định giàu nghèo: thập giá vàng thì quí hơn thập giá gỗ. Thập giá cũng tùy theo loại to nhỏ mà có giá trị khác nhau. Người có tiền thì mua thập giá bằng vàng. Người không có tiền thì cố gắng bằng mọi cách để có được thập giá vàng để khoe mình đã đạt được mức độ giàu có nào đó. Có những người khác dùng thập giá để xuống đường. Họ vác thập giá không phải để chịu đóng đinh như Chúa Giêsu, nhưng để biểu tình và đòi đóng đinh kẻ khác.
Nhiều người đã trần tục hóa thập giá Chúa Giêsu. Thập giá để khoe khoang trang điểm. Thập giá là đơn vị kinh tế phân biệt giàu nghèo. Thập giá là phương tiện tranh đấu. Thập giá là duyên cớ lòng tham. Vậy đâu là ý nghĩa thật của thập giá?
Không biết tự bao giờ, Thập giá đã được ngành tư pháp Rôma chọn làm án tử cho kẻ tội đồ và trở thành biểu tượng cho cái chết nhục nhã. Nhưng kể từ ngày thứ sáu Tuần Thánh, khi Chúa Giêsu bị treo lên, Thập giá trở thành Thánh giá và mang lấy ý nghĩa mới. Thánh giá là ơn cứu độ Thiên Chúa đem đến trần gian. Thánh giá là dấu chứng tình yêu khơi nguồn sự sống. “Khi nào Ta bị treo lên, ta sẽ kéo mọi sự lên với Ta”. Với tình yêu cứu độ, Thánh giá đem lại sự sống đời đời. Từ Thập giá đau thương, Chúa Giêsu đã đưa tình yêu tự hiến, tình yêu tận hiến và dâng hiến vào Thánh giá cứu độ.
Thánh giá, tình yêu tự hiến
Thánh giá với Chúa Giêsu chịu đóng đinh chính là đỉnh cao tình yêu tự hiến. Thánh Phaolô diễn tả quá trình tự hiến khởi đi từ mầu nhiệm Nhập Thể và kết thúc nơi mầu nhiệm Cứu Độ. Chúa Giêsu vốn phận là Thiên Chúa, nhưng lại hủy mình ra không mà nhận lấy phận tôi đòi. Đó là tình yêu tự hiến trong mầu nhiệm Nhập Thể. Người lại còn tự hạ vâng lời Chúa Cha cho đến chết, không nhẹ nhàng trên gối ấm nệm êm mà đau thương trên cây Thập giá, để giải thoát muôn người. Đó là tình yêu tự hiến trong mầu nhiệm Tử Nạn – Phục Sinh. Tình yêu tự nguyện hiến mình cho vinh quang Chúa Cha và mưu ích cho phần rỗi thế gian. (x.Pl 2,6-11).
Thánh giá, tình yêu tận hiến
Với Chúa Giêsu, Thánh giá là dấu chứng tình yêu tự hiến. Với Thiên Chúa, Thánh giá còn là một dấu chứng của một tình yêu bao la và bao dung sẵn sàng hiến ban tất cả những gì cao quý nhất và cao giá nhất cho hạnh phúc của mọi tâm hồn: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3, 16). Trong mầu nhiệm của Đấng chịu đóng đinh trên Thánh gía, chúng ta nhận ra độ cao, sâu, rộng, dài của một tình yêu cho đi đến cùng. Chúa Cha đã hiến ban Con Một của mình trên Thánh giá. Thiên Chúa yêu thương đã hiến ban tất cả cho nhân trần.
Thánh giá, tình yêu dâng hiến
“Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên với Ta”. Khi Chúa Giêsu bị treo lên, Thánh giá phát huy sức mạnh cứu rỗi. Dân chúng được thanh tẩy tội lụy vì được bao bọc bởi tình yêu bao dung tha thứ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Anh trộm lành đựơc vào Thiên đàng vì được đặt vào tình yêu thánh hóa gieo hy vọng:”Hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên đàng với Ta”. Những người chứng kiến cuộc Thương khó về đấm ngực ăn năn và người đội trưởng thốt lên: “Qủa thật người này là Con Thiên Chúa”, vì họ được soi sáng trong tình yêu kiếm tìm sự thật. Tất cả đã gặp nơi Thánh giá Chúa Giêsu một sức mạnh thánh hiến.
Trong Mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh sắp tới, chúng ta hãy siêng năng chiêm ngắm Thánh giá. Đó là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ. Hãy nhìn lên Thánh giá với tâm tình sám hối và tin yêu, nhờ đó chúng ta được Chúa thứ tha và được múc nguồn sự sống dồi dào.

13. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An
TẠI SAO “CON NGƯỜI CŨNG SẼ PHẢI ĐƯỢC GIƯƠNG CAO NHƯ VẬY”?
Sách Dân Số (21, 4b-9) kể chuyện, dân Do thái đi trong sa mạc, họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê rằng: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? …”. Vì thế, Thiên Chúa đã cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Sau đó dân hối lỗi chạy đến với Môsê và ông đã cầu khẩn cùng Chúa. Thiên Chúa thương xót, đã truyền cho Môsê đúc một con rắn đồng treo lên giữa sa mạc, và bất cứ ai, hễ bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được chữa lành.
Bài Tin Mừng, trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu khẳng định: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.
Lời Chúa trong sách Dân Số và trong Tin Mừng Gioan, qua hình ảnh “Con Rắn”, sẽ đưa chúng ta đi xuyên suốt lịch sử cứu độ, khởi đi từ kinh nghiệm phạm tội trong sa mạc (Ds 21,6), trở về với thời điểm khởi đầu của sự sống (St 3), sau đó đi đến ngôi vị của Đức Kitô (Ga 3,14) và vươn xa tới tận thời cánh chung (Kh 12,7-10).
Con rắn cám dỗ Eva và bà đã sa ngã thua cuộc, để lại cho nhân loại tội tổ tông truyền. Con rắn đồng ông Môsê treo lên trong sa mạc giúp cứu sống người bị rắn độc cắn. Bà Eva nhìn lên và nghe theo lời con rắn “phán”. Dân Do thái nhìn lên con rắn đồng và nghe theo Lời Chúa truyền. Chúng ta nhìn lên Thánh Giá Chúa Kitô sẽ được sự sống và ân sủng chứa chan.
Dịp hành hương Thánh Địa, chúng tôi có lên núi Nebo bên đất nước Jordanie. Chiêm ngắm tác phẩm điêu khắc Thánh giá theo hình con rắn, biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê dựng nên, nhìn về Thánh địa và dâng lễ tại nhà nguyện trên núi.
1- Núi Nebo
Núi Nebo là một dãy núi ở Vương quốc Jordanie, cao khoảng 817m. Cựu ước đã đề cập đến nơi này. Trên núi Nebo, Thiên Chúa đã cho Môsê nhìn về Đất Hứa. Từ đỉnh núi nhìn bao quát bức tranh toàn cảnh về Thánh Địa và thành phố bờ Tây sông Giođan là Giêricô, thậm chí vào một ngày rất đẹp trời người ta có thể nhìn thấy cổ thành Giêrusalem.
Theo chương 34 của sách Đệ Nhị Luật, Môsê đã đi lên núi Nebo từ đồng bằng Môáp đến đỉnh Pisgah đối diện với Giêricô để nhìn về Đất Hứa.Giavê phán với Môsê: Đó là đất Ta đã thề với Abraham, ysaac và Giacop rằng: Ta sẽ ban nó cho dòng giống ngươi! Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng ngươi sẽ không qua đó!. Và Môsê đã chết trong xứ Môab. Người ta đã chôn cất ông trong thung lũng, ở xứ Môab, trước mặt Bet-pơor, nhưng không biết được mộ ông cho đến ngày nay.(Đnl 34,4-6).
Theo truyền thống Kitô giáo, Môsê đã được chôn cất trên núi này, tuy nhiên người ta vẫn không xác định được nơi chôn cất ông. Một vài truyền thống Hồi giáo cũng khẳng định điều tương tự, nhưng ngôi mộ của Môsê thì họ cho là ở Maqam El- Nabi Musa nằm về phía nam cách Giêricô 11 km và về phía đông cách Giêrusalem khoảng 20km trong hoang địa Giuđêa. Các học giả tiếp tục tranh luận xem ngọn núi hiện nay được gọi là là Nebo có phải là ngọn núi ngày xưa được đề cập trong bộ Ngũ kinh của Cựu ước không.
Theo sách Maccabê (2 Mcb, 2,4-7): Tiên tri Giêrêmia đã giấu Nhà tạm và Hòm Bia Giao Ước trong một cái hang trên núi Môsê đã lên và được chiêm ngắm cơ nghiệp của Thiên Chúa.
Ngày 20/03/2000, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến núi Nebo trong cuộc hành hương Thánh địa. Ngài đã trồng một cây ô liu bên cạnh nhà thờ theo phong cách Byzantine như là một biểu tượng cho hòa bình.
Ngày 9/5/2009, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã đến thăm địa danh này, đọc bài diễn văn ở đây và ngài nhìn về thành Giêrusalem từ đỉnh núi Nebo.
Nghệ sĩ người Ý, Giovanni Fantoni đã thực hiện tác phẩm điêu khắc Thánh giá theo hình con rắn. Đây là biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê làm theo lệnh của Chúa để cứu sống người bị rắn cắn (Ds 21,4-9) và là thánh giá trên đó Chúa Giêsu bị đóng đinh (Ga 3,14).
Trên đỉnh cao nhất của ngọn núi mang tên Syagha, người ta khám phá ra di tích ngôi nhà thờ và một tu viện vào năm 1933. Ngôi Nhà thờ được xây dựng lần đầu vào nửa bán thế kỷ thứ IV để kỷ niệm nơi Môsê qua đời. Thiết kế nhà thờ theo phong cách một Vương cung Thánh đường. Nó được mở rộng vào cuối bán thế kỷ thứ V và được xây dựng lại năm 597. Ngôi Nhà thờ đầu tiên được nhắc đến trong bản báo cáo về một cuộc hành hương của một người phụ nữ tên Aetheria vào năm 394. Người ta đã tìm thấy 6 ngôi mộ trống rỗng từ những phiến đá tự nhiên nằm dưới sàn khảm đá của nhà thờ.
Trong ngôi nhà nguyện hiện đại được xây dựng để bảo địa danh này và cung cấp nơi thờ phượng, người ta có thể nhìn thấy thấy những di tích của những sàn nhà khảm đá từ nhiều thời kỳ khác nhau. Một trong những bức tranh khảm đá lâu đời nhất là một tấm ghép với những hình chữ thập có viền hiện nay được đặt ở phía đầu Đông của bức tường phía Nam.
2. Tại sao lại treo con rắn?
Trong trình thuật về Tội Nguyên Tổ (St 3,1-7), lời dụ dỗ của con rắn đã làm cho Evà và Adam nghi ngờ Thiên Chúa: Thiên Chúa nói rằng, ăn trái cây đó thì chắc chắn sẽ chết, nhưng con rắn nói: chẳng chết chóc gì đâu! Tin vào lời con rắn, đồng nghĩa với việc cho rằng Thiên Chúa nói dối! Đó là cho rằng, Thiên Chúa lừa dối con người, vì Ngài không muốn chia sẻ sự sống của mình; đó là nghĩ rằng, Ngài tạo dựng con người để bỏ mặc con người trong sa mạc cuộc đời và nhất là cho số phận phải chết. Tin vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc đọc vào người. Và hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người bị phá vỡ. Hậu quả tất yếu là chết chóc, như Thiên Chúa đã báo trước: Ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi sẽ phải chết (St 2,17).
Dựa vào trình thuật Vườn Eden, chúng ta hiểu ra rằng, rắn độc mà sách Dân Số nói đến chính là hình ảnh diễn tả sự nguy hại chết người của thái độ nghi ngờ Thiên Chúa: kế hoạch cứu sống, khi gặp khó khăn lại bị coi là kế hoạch giết chết. Nghi ngờ Thiên Chúa đó là để cho mình bị rắn cắn, là mang nọc độc vào người.
3. Tại sao “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”?
Trong Vương cung Thánh đường Thánh Ambrôsiô ở Milan, có 2 cột đá thật ấn tượng và giàu ý nghĩa; “cột rắn”: một con rắn bằng đồng thời Byzantine vào thế kỷ thứ X được đặt trên đỉnh một cột ngắn, đối diện bên kia có “cột thập giá”.
Sách Dân Số (21,9) là một lời tiên báo rất huyền nhiệm về Đấng Cứu Thế, về mầu nhiệm Thâp giá, nơi Đức Kitô là Con Người được “giương cao”. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh, tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt “đến nỗi Chúa Cha đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa
Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, một hy lễ dâng lên Chúa Cha và cũng là sự tự hiến cho loài người, trở nên lương thực nuôi sống chúng ta. Chúa Giêsu “chết để cho chúng ta được sống”.
Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu ngay từ những lời nói đầu tiên đã đặt mầu nhiệm Thập Giá trong tương quan trực tiếp với hình ảnh con rắn biểu tượng của Tội và Sự Dữ: Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
Một bên là con rắn bị giương cao. Một bên là Đức Kitô được giương cao trên cây thập giá.Trong Cuộc Thương Khó, Đức Kitô sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn.Theo Thánh Phaolô: Đức Giêsu tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” (Rm 8, 3) và Người “đồng hóa mình với tội” (2Cr 5, 21; Gl 3, 13). Tội có bản chất là ẩn nấp, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng đã phải hiện ra nguyên hình nơi thân xác nát tan của Đức Kitô: “tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” (Rm 7,13). Thập Giá Đức Kitô mặc khải cho loài người hình dạng thật của Tội. Chính vì thế mà trong Tin Mừng theo thánh Máccô, Đức Giêsu dạy, (chứ không phải báo trước) cho các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người (Mc 8, 31).
Chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh trên Thánh Giá để nhìn thấy:
Thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo lên án vô cớ, của vụ án gian dối.
Đầu đội mạo gai của Người tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị; chân tay của Người bị đinh nhọn đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính và hành động theo thú tính; cạnh sườn của Người bị đâm thủng thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng là hủy diệt. Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, tình yêu, lòng thương xót, sự thiện, sự hiền lành và cả sự sống của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng!
4. Tại sao “nhìn lên” có khả năng chữa lành?
Theo lời của Đức Chúa, Môsê đã treo một con rắn bằng đồng lên cột gỗ và ai nhìn lên thì được chữa lành. Hình phạt bị rắn độc cắn là rất nặng nề, còn ơn chữa lành thật nhẹ nhàng: nhìn lên thì được sống.
Nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh: “Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37) với lòng tin chúng ta đón nhận ơn tha thứ và được chữa lành.
Thánh Giá Đức Kitô chịu đóng đinh được các giáo phụ gọi là Cây Sự Sống vì đã mang đến cho nhân loại Sự Sống của Thiên Chúa.
Thánh Giá mang lại cho nhân loại Ơn Tha Thứ của Thiên Chúa. Sự bất tuân của Ađam đã mang đến án phạt và sự chết cho toàn thể nhân loại. Giờ đây sự vâng phục của Chúa Giêsu mang lại Ơn Tha Tội của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại. Vì sự vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá của Chúa Giêsu, Chúa Cha đã tha hết mọi tội lỗi cho nhân loại. Ơn tha thứ đã được ban một cách tràn đầy và cho mọi người, không trừ một ai. Ơn Tha Thứ ấy phát xuất từ Tình Yêu của Chúa Cha. Tình Yêu lớn hơn tội lỗi. Tình Yêu khỏa lấp muôn vàn tội lỗi. Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết trên Thánh Giá biểu lộ Gương Mặt đích thực của Chúa Cha giàu lòng thương xót.
Thánh Giá mạc khải Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và đối với nhân loại chúng ta. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến nỗi sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa Cha, dâng hiến sự sống mình lên Chúa Cha. Thánh Giá cũng biểu lộ Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì những người mình yêu.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Nhìn lên Thánh Giá, chúng ta yêu mến và tôn thờ Chúa Cứu Thế. Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Đức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Trong Mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh sắp tới, chúng ta hãy năng nhìn lên Thánh Giá, đó là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ. Nhìn lên Thánh Giá với niềm tin vào tình yêu tha thứ, tình yêu vô bờ bến của Đấng Chịu Đóng Đinh, chúng ta được dồi dào ân sủng và được sự sống đời đời.

14. Từ bóng tối tới ánh sáng
Mỗi khi đọc Kinh thánh, nếu chịu khó để ý một chút, chúng ta sẽ thấy tên tuổi của nhân vật Nicôđêmô được kinh Thánh nói tới ba lần, vào ba hoàn cảnh và ba thời điểm khác nhau:
Lần thứ nhất: ông ta chủ động đến gặp Chúa Giêsu vào ban đêm. Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay sẽ nói với chúng ta về cuộc gặp gỡ này.
Lần thứ hai: khi các thủ lĩnh tôn giáo Do Thái đang bàn tính để tìm cách giết Chúa Giêsu. Nicôđêmô vốn là thành viên của Thượng Hội đồng Do Thái Giáo, ông đã phản đối quyết định đó với ý kiến rằng: “Lề luật của chúng ta có cho phép kết án ai trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?” (Ga 7, 15)
Lần thứ ba: lúc táng xác Chúa Giêsu. Ông cũng đến để tẩn liệm thi hài Chúa Giêsu bằng cách thức sang trọng như tẩn liệm một vị vua. Thánh Gioan kể: ” Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Chúa Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn theo tục lệ chôn cất của người Do Thái.” (Ga 19, 39-40). Sở dĩ tôi liệt kê ba lần như thế vì tôi muốn làm nổi bật lên khuôn mặt của Nicôđêmô và con người của ông. Con người ấy đã đi qua một hành trình mà tôi tạm gọi là hành trình từ bóng tối tới ánh sáng, mà ba lần ở trên là ba cột mốc quan trọng trọng trong hành trình đó.
Ở lần thứ nhất , xét về phương diện thời điểm thì đây là giai đoạn mang một bầu khí căng thẳng do Chúa vừa đuổi quân buôn bán ra khỏi đền thờ.(x. Ga 2, 13-25). Sự căng thẳng này chưa kịp lắng dịu thì Nicôđêmô đã lén lút đến gặp Chúa Giêsu vào ban đêm. Ông ta gặp Chúa lúc đêm tối nhằm giữ kín sự việc và để tránh dòm ngó, soi mói của người khác, đặc biệt là của giới lãnh đạo Do Thái Giáo, đồng nghiệp của ông. Chi tiết ban đêm mà Thánh Gioan mô tả sẽ nói cho chúng ta biết điều đó. Và còn hơn thế nữa, hàm chứa trong chi tiết ấy tôi còn khám phá thêm điều này của Nicôđêmô: Ông đang ở trong đêm tối. Và từ trong đêm tối đó, ông đang dò dẫm, âm thầm tìm đến nguồn sáng. Nicôđêmô là ai?Kinh thánh bảo rằng ông là một thủ lãnh của người Do thái(x. Ga 3,1).
Tức là môt người có địa vị trong xã hội. Và gắn liền với địa vị đó, chắn chắn ông là người có nhiều kiến thức và là một người có trình độ, chính những cái đó sẽ cho ông có khả năng là một người Giàu có.
Tóm lại, cuộc sống ông đầy đủ, bảo đảm, và an ninh. Vậy ông còn thiếu cái gì? Bên ngoài xem ra ông đầy đủ. Ông có tất cả.nhưng những cái mà ông đang có đó không thể làm cho ông được sống thoả mãn. Vì thế, tự trong thâm tâm của ông vẫn luôn nói với ông rằng ông vẫn còn thiếu một cái gì đó. Cái đó là cái gì nếu không phải là sự sống đời đời. Nên ông vẫn phải đi tìm. Và ông hy vọng rằng nơi Chúa Giêsu, ông sẽ khám phá và có được sự sống ấy. Và thế là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và anh tân tòng Nicôđêmô bắt đầu. Chắc chắn cuộc nói chuyện này rất dài và rất lâu. Tôi không muốn đi sâu vào cuộc đối thoại này vì sợ làm mất nhiều thì giờ của anh chị em.
Nhưng thay vào đó là điều tôi muốn nhấn mạnh trong bài chia sẻ này là: Chúng ta có thể khám phá ra điều gì về Nicôđêmô qua ba lần được Thánh kinh mô tả? Là gì, nếu không phải đấy là ba giai đoạn của một hành trình hoán cải mà Nicôđêmô đã đi qua.
Lần xuất hiện đầu tiên cho thấy ông là người cởi mở, nhiều thiện chí và là một người thật sự muốn tìm kiếm chân lý.
Lần xuất hiện thứ hai chứng tỏ ông là một người công chính, một mực khăng khăng rằng không được kết án Chúa Giêsu trước khi đưa ra xét xử công khai. Và lần xuất hiện thứ ba cho thấy rằng ông là một người giàu có nhưng quảng đại và có lòng thương xót nữa. Dám bỏ tiền ra mua số lượng lớn là một trăm cân mộc dược và trầm hương, là những thứ quý hiếm. Chúng ta đang sống trong bầu không khí của mùa chay. Ai trong chúng ta cũng biết mùa chay là mùa hoán cải. Vì thế để gọi là hoán cải, chúng ta cần làm lại hành trình của Nicôđêmô. Hành trình đó được khởi đi từ một khao khát được sống. Khao khát đó sẽ giúp cho ta:
1. Ra khỏi chính mình để đi tìm, để tiếp cận, để gặp gỡ Chúa Giêsu là Đấng ban sự sống và là Sự Sống.
2. Một khi đã khám phá Sự sống đó, sẽ dẫn chúng ta tới sự can đảm để bảo vệ cho sự sống ấy.
3. Cuối cùng là lòng quảng đại để sống cho, sống vì và sống với Sự Sống đó.
– Đó là những Giá trị của Tin Mừng.
– Đó là hành trình của Mùa chay.
– Đó là hành trình của hoán cải.
– Đó là hành trình của bóng tối đến ánh sáng, hành trình đi từ bống tối của sự chết đến ánh sáng của Sự sống. Amen.

15. Hãy đến cùng ánh sáng – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Hôm ấy, Chúa Giêsu ngỏ lời với Nicôđêmô:
“Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
Bóng tối che chở, yểm trợ cho kẻ bất lương
Nhờ bóng tối, phường đạo tặc có cơ hội làm ăn. Trời càng tối trộm cướp càng vui thích vì càng dễ tung hoành.
Nhờ bóng tối, nhờ đèn mờ, nhiều tay ăn chơi có thêm cơ hội làm điều tội lỗi trong các rạp chiếu phim, trong các phòng karaoke mờ ám.
Nhờ bóng tối ở các góc phố, các đoạn đường vắng, các tay cướp của giết người mới có thời cơ hành động.
Đêm đen và bóng tối là bạn đồng minh của phường trộm cướp, là chốn nương tựa của kẻ bất lương, của những tay chơi bời truỵ lạc.
Thế nên Chúa Giêsu nói: “Người đời (người ác) chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách” (Ga 3,19-20)
Trong khi bóng tối bao bọc che chở kẻ bất lương, đồng loã với phường tội lỗi, thì ánh sáng lại có khả năng bảo vệ, che chở cho những kẻ ngay lành.
Ánh sáng bảo vệ người ngay lành
Trong đêm tối giữa rừng sâu, người ta cần đốt lên một đống lửa thật to. Anh lửa bừng lên giữa đêm đen sẽ xua đi những ác thú lăm le vồ xé con người.
Trên những con đường tối tăm thường có trộm cướp rình rập, người ta thắp thêm nhiều ngọn đèn đường. Ánh đèn sáng có khả năng bảo vệ khách bộ hành trong đêm tối.
Chung quanh các cơ quan trọng yếu, những kho chứa hàng quan trọng, người ta bố trí nhiều đèn điện toả sáng suốt đêm để phòng quân gian đột nhập.
Ánh sáng soi đường cho người công chính
Người Việt chúng ta thường nói: “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Khi phải ở gần “mực”, tức ở trong môi trường thiếu văn hoá, thiếu đạo đức thì sớm muộn người ta cũng bị tiêm nhiễm những thói xấu tật hư.
Trái lại, nếu được ở gần “đèn”, tức ở trong môi trường lành mạnh, môi trường đạo đức, người ta sẽ được thấm nhuần điều hay lẽ phải và được cảm hoá nên xứng danh con người.
Giai thoại về cuộc đời Thầy Mạnh Tử (372-289 trước Công Nguyên) cho thấy rõ hơn nội dung nầy.
Lúc còn nhỏ, Mạnh Tử ở gần nghĩa trang. Ngày ngày thấy người ta chôn cất người chết với những lời than khóc ai oán thì cậu bé cũng bắt chước chôn các con vật chết, cũng giả vờ kêu than khóc lóc.
Thân mẫu của Mạnh Tử không muốn con mình bị tiêm nhiễm lối sống buồn thảm ở bãi tha ma, nên mới dời nhà đến gần phố chợ. Sống nơi đây, tuy nhộn nhịp vui vẻ hơn, nhưng Mạnh Tử lại học theo thói côn đồ của một số trẻ ranh ma đầu đường xó chợ, ưa trộm cắp, chửi tục và đấm đá nhau. Người mẹ một lần nữa quyết định phải dời nhà đến gần trường để xa tránh môi trường xấu.
Từ ngày sống cạnh nhà trường, ngày ngày thấy bạn bè cùng trang lứa cắp sách đến trường, Mạnh Tử cũng xin mẹ cho đi học.
Học tập chưa được bao lâu, cậu lại bị bạn xấu rủ rê bỏ học đi chơi.
Hôm nọ, khi người mẹ đang dệt vải nửa chừng chợt thấy Mạnh Tử cắp sách về nhà không muốn học nữa, bà lặng lẽ cầm kéo cắt nát tấm lụa đang còn dở dang trên khung cửi.
Quá tiếc xót tấm lụa quý, Mạnh Tử hỏi lý do, người mẹ trả lời: “Con đang đi học mà bỏ nửa chừng thì có khác chi mẹ dệt tấm lụa chưa xong mà cắt bỏ đi vậy.”
Thế là từ đó, Mạnh Tử giác ngộ, ngày đêm miệt mài đèn sách và sau nầy trở thành bậc thánh hiền của người Trung Quốc.
* * *
Qua Tin Mừng Gioan được trích đọc hôm nay, Chúa Giêsu tỏ ra buồn phiền vì người đời yêu chuộng tối tăm và xa lìa ánh sáng: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách” (Ga 3,19)
Và Người mời gọi mọi người xa lánh “bóng tối” để đến cùng “ánh sáng.”
Xa lánh bóng tối là giã từ môi trường xấu, bạn bè xấu, xa lánh những cơ hội và hoàn cảnh khiến chúng ta phạm tội và đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Đến cùng ánh sáng là đến cùng Đức Kitô, đón nhận giáo huấn của Người, để cho Lời Chúa trở thành ngọn đèn dọi bước ta đi; giúp chúng ta nhận ra và tẩy xoá những vết đen trong cuộc đời và giúp ta sống quang minh chính đại.
Lạy Chúa Giêsu, dù chúng con rất ước ao đến cùng ánh sáng nhưng xác thịt yếu hèn vẫn lôi kéo chúng con về với bóng tối.
Xin cho chúng con có đủ bản lãnh và quyết tâm để lìa xa “mực” và sống gần “đèn”.

16. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR.
Chân lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo Hội hằng rao giảng là chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương từ trước muôn đời. Kitô giáo được xây dựng trên một niềm xác tín vững chắc rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế giới đau khổ bệnh tật này qua con người Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tủy của Tin Mừng. Không có đoạn văn nào trong Kinh thánh nói rõ điều này hơn là lời Đức Chúa Giêsu nói với ông cụ Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sự sống vinh cửu.”
Tình yêu chúng ta đối với tha nhân không phát xuất từ đâu khác hơn là tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta. Tình yêu Thiên Chúa dành cho thế gian này bao la bát ngát đến nỗi Ngài hiến tặng mạng sống mình cho tất cả, chẳng loại trừ ai… Thiên Chúa yêu thương từng người trong chúng ta cứ như là không còn ai khác để cho Ngài yêu thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành suốt cuộc đời, và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đi đó ai nấy đều an toàn trở về mái ấm gia đình.
Chính khi nhìn vào thập tự giá, chứng kiến hình ảnh Đức Kitô chịu khổ hình treo trên thập giá, thấm đẫm bao nhiêu là quyền lực của sự dữ nơi tội lỗi, chúng ta mới bắt đầu nhận ra tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta cao cả biết bao. Tất cả mọi độc ác hận thù ghen ghét bất công của cuộc đời đều đổ dồn vào cây khổ giá, sừng sững giữa trời và đất, trên ngọn đồi Canvê. Một trong những chi tiết đầy ngỡ ngàng nhất về cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu chính là Thập giá nay trở nên bằng chứng tột cùng cho tình yêu Thiên Chúa. Thập giá sừng sững trên đồi cao, xưa kia là dấu chỉ của tủi nhục, nay trở nên chiếc cầu ân sủng thần kỳ có sức chữa lành cả thế giới. Cây chết chóc nay trở nên cây sự sống, cây thất bại nay trở thành cây chiến thắng.
Bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết dân Do Thái đã bất tuân lề luật và phụ bạc tình yêu của Thiên Chúa như thế nào. Họ đã phá vỡ giao ước và kéo theo sự sụp đổ hoang tàn của đền thờ và thành thánh. Nhiều ngôn sứ đã lên tiếng kêu gọi thống hối và sửa đổi cách sống, nhưng vẫn hoài công, chẳng ai màng tới. Chưa hết, ngay trong những giờ phút đen tối nhất của cuộc lưu đầy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Ngài nhưng tiếp tục kêu gọi họ quay về với lề luật, với Thiên Chúa. Lịch sử dân Do thái thật là một kho lưu trữ nhắc nhở cho chúng ta hay biết những gì sẽ xảy ra mỗi khi chúng ta phủ phàng từ chối tình yêu Thiên Chúa. Lịch sử ấy cũng đem lại cho chúng ta niềm an ủi rằng chúng ta cũng phải đối diện với việc chọn lựa đón nhận hay từ chối lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta đã tự đặt mình vào một tình thế nguy hiểm là sống chia lìa với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn kính trọng tự do cá nhân của chúng ta và sẽ không áp đặt ép uổng tình yêu của Ngài, đi ngược với những ước vọng chúng ta. Chúng ta có thể từ chối lòng thương yêu cũng như quà tặng tình nghĩa của Chúa. Chúng ta có thể quay lưng với tình yêu của Thiên Chúa mà ôm lấy bóng tối của tội lỗi và tự mình vĩnh viễn tách xa khỏi Ngài.
Hôm nay chúng ta đã đi được nửa con đường mùa Chay. Đây là lúc chúng ta duyệt xét lại những dốc lòng hồi đầu mùa Chay, và tự hỏi cuộc sống chúng ta đã hân hoan đáp lại tình yêu Thiên Chúa chưa? Tình yêu của Ngài có tìm được cách diễn tả qua nếp sống chúng ta chưa? Chúng ta đang làm gì để mang tình yêu của Ngài vào cuộc đời của bạn bè chúng ta? Mùa Chay là một lời mời gọi chúng ta bước ra khỏi nơi tối tăm của tội lỗi mà bước vào ánh sáng kỳ diệu của Đức Kitô.

17. Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Xưa kia có một vị hoàng đế rất giàu sang và cũng rất đại lượng. Vua rộng ban vàng bạc châu báu cho tất cả những ai làm đẹp lòng vua. Thế là nịnh thần mọc lên như nấm khắp triều đình.
Các hoàng tử thì xu nịnh để được vua cha ban cho ngai vàng. Các quan trong triều đình thì xu nịnh để được thăng quan tiến chức. Ai cũng huênh hoang cho rằng mình hết lòng trung nghĩa với vua, sẵn sàng hiến mạng mình để bảo vệ nhà vua, để chết thay cho vua.
Nhà vua rất đơn sơ nên dễ tin vào những lời nịnh hót của họ và ban phát cho họ ân lộc dư dầy khiến ngân khố của triều đình cạn kiệt.
Cả triều đình chỉ có quan ngự y là người trung thành. Ông đã nhiều lần can gián vua, thuyết phục vua đừng tin bè lũ xu nịnh, nhưng vua chẳng chịu nghe.
Ngày nọ, vua lâm trọng bệnh thập tử nhất sinh, tính mạng nhà vua chỉ còn được đếm từng giờ. Quan ngự y trình với vua là bệnh vua chỉ có thể chữa lành nếu một vị hoàng tử nào đó hiến tặng trái tim mình làm thuốc cho vua.
Nghe tin nầy loan ra, các hoàng tử trong cung trốn biệt!
Khi không thể tìm được trái tim của hoàng tử làm thuốc, nhà vua hỏi quan ngự y xem có thể sử dụng tim của một người khác làm thuốc được không. Quan ngự y trả lời nếu không có trái tim của hoàng tử thì ít ra phải dùng trái tim của các vị quan lớn trong triều.
Nghe tin đó, các quan lớn rồi các quan nhỏ trong triều đều trốn biệt tăm.
Túng quá, thôi thì dùng tạm trái tim của lính hầu, của công chúa cũng được. Nghe tin đó, cả công chúa, cả lính hầu, cả hàng trăm thê thiếp cũng không còn ai lai vãng trong cung điện nữa. Cung điện thường ngày huyên náo, giờ nầy vắng lặng như bãi tha ma!
Bấy giờ vua chỗi dậy, tỉnh ngộ rồi cười ra nước mắt cho nhân tình thế thái.
Duyên do là quan ngự y và cũng là người trung nghĩa với vua, đã khéo dựng lên kịch bản nầy, đề nghị với vua giả vờ đau nặng, bỏ cơm bỏ cháo, để thử thách lòng người!
* * *
Cuộc đời là thế! Ai có đủ yêu thương để dám hy sinh tính mạng, dám chết thay cho người thân thiết của mình, nói chi đến việc chết thay cho kẻ thù nghịch?
Vậy mà có một Đấng đã hy sinh tính mạng cho kẻ phản bội mình. Để hiểu Đấng ấy đã hy sinh như thế nào, chúng ta hãy trở lại với câu chuyện rắn đồng thời Mô-sê.
Thời ấy, trong hành trình bốn mươi năm trong hoang địa, có lần dân Do-Thái phải lâm cảnh đói khát dày vò nên kêu trách Thiên Chúa và Mô-sê. Thế rồi dân chúng bị rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Người ta lại chạy đến kêu cứu Mô-sê. Bấy giờ Thiên Chúa truyền cho ông Mô-sê đúc con rắn đồng, treo lên trụ cờ cao, để làm phương thuốc chữa rắn cắn. Ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được cứu sống.
Ngày nay, để cứu nhân loại tội lỗi lâm cảnh điêu linh và phải chết, Thiên Chúa không thể dùng rắn đồng làm phương trị liệu mà phải dùng đến một phương thuốc khác, đó là bằng chính Thân Thể Chúa Giêsu chết treo trên thập giá.
“Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.”
Thiên Chúa Cha đã lấy mạng đổi mạng. Lấy sinh mạng vô cùng cao quý của Người Con Một yêu quý để đổi lấy sinh mạng khốn hèn của loài người tội lỗi. Thật là điều không thể tưởng tượng được.
Nhưng tình yêu của Thiên Chúa chưa dừng lại ở đó. Tình yêu cứu độ của Ngài còn vươn lên cao hơn. Không những chỉ trao ban Con Một chết thay cho chúng ta mà thôi, không những chỉ ban cho chúng ta được cùng sống lại với Chúa Giêsu mà thôi, Thiên Chúa Cha còn thương cho chúng ta được cùng lên trời, cùng ngự trị với Đức Giêsu trên cõi trời. Bài đọc thứ hai, bài thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Ê-phê-sô hôm nay nhắc chúng ta điều đó: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời.” (Ep 2, 4-6)
Thế là từ thân phận của tên tử tội đáng phải chết đời đời vì tội lỗi của mình, chúng ta được Chúa Giêsu lấy mạng Ngài đổi mạng cho chúng ta, thứ tha cho chúng ta muôn vàn tội lỗi, ban cho chúng ta được sống lại trong đời sống mới, rồi lại được đưa lên trời để “cùng ngự trị với Đức Giêsu trên cõi trời”.
Thật là một tình yêu không còn biên giới.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta cảm nhận thật sâu sắc tình yêu cao vời và sâu thẳm của Thiên Chúa, để sống xứng đáng hơn với tình yêu đó và đừng để công trình cứu chuộc của Ngài hoá ra vô hiệu nơi chúng ta.

18. Yêu đến quên mình
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Khi yêu, người ta thường đòi hỏi quá cao nơi người mình yêu. Họ đòi người yêu phải chung thủy, phải hy sinh, phải quan tâm. Đôi khi còn đòi hỏi người mình yêu phải đánh đổi cả tính mạng vì yêu.
Có một anh chàng nói với cô gái:
– Nếu mình chia tay em có buồn không?
– Đương nhiên là có
– Buồn đến mức độ nào?
– Đương nhiên là không đến mức độ có thể chết
– Vậy mình chia tay đi“!
Hóa ra tình yêu luôn phải có tính bất tử. Nếu yêu nhau mà không đạt đến mức độ sẽ chết vì thiếu người mình yêu thì chưa phải là tình yêu chân thành. Đó cũng là tình yêu mà Xuân Diệu bảo rằng: “Người đi một nửa hồn tôi chết – Một nửa hồn kia bỗng dại khờ”.
Thế nhưng, có người bảo rằng: “Không phải cứ là tình yêu thì phải vĩnh cửu, phải sống chết ở bên nhau, người ta yêu nhau là để được hạnh phúc bên nhau, chứ không phải để chết bên nhau, nếu chết vì yêu thì không những kẻ đó thật bất hạnh mà còn là kẻ ngu ngốc nhất trên đời”.
Thực ra cái chết ở đây không phải là cái chết chung, cũng không phải là liều mạng chết, mà là một tình yêu dâng hiến để vì người mình yêu có thể làm mọi sự, kể cả hy sinh tính mạng mình.
Một học sinh đã tuyên bố với bạn bè: Cuối cùng rồi cũng có người con gái dám liều mình vì tao. Cả phòng nhao nhao:
– Ai vậy mày, nhỏ nào nói nghe coi?
– Nhỏ Hồng bên lớp sử chứ ai!
– Nhỏ nói gì với mày?
– Nhỏ nói “Yêu ông ư? Tui thà nhảy lầu còn hơn”.
Cái chết nhảy lầu này không phải là cái chết vì yêu mà là cái chết chốn chạy tình yêu. Một cái chết không phải vì tình mà là sợ tình. Họ chạy chốn tình yêu chứ không tự nguyện đến với tình yêu. Chỉ có trong tình yêu người ta mới dám sống chết cho nhau. Có yêu nhau người ta mới hiến dâng mạng sống để mang lại hạnh phúc cho người mình yêu. Có yêu nhau người ta mới chẳng quản ngại khó khăn đến mức độ: “Yêu nhau mấy núi cũng trèo – Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”.
Đây chính là tình yêu cao vời của Đức Ky-tô dành cho nhân loại. Ngài không trốn chạy khi gặp gian truân. Ngài không lùi bước khi đối đầu với hiểm nguy. Ngài đã yêu là yêu cho đến cùng, cho dù phải trả giá bằng cái chết đau thương. Chính Ngài đã đề cao tình yêu tự hiến này khi Ngài nói: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu dám thí mạng vì bạn hữu”. Ngài đã dốc cạn đến giọt máu cuối cùng cho người mình yêu khi lưỡi đòng đâm thấu trái tim Ngài, “nước và máu chảy ra”. Ngài đã hoàn tất một đời người khi dâng hiến chính thân mình làm giá chuộc cho người mình yêu.
Thiên Chúa vẫn yêu bạn, yêu tôi. Ngài vẫn tiếp tục thi thố tình yêu của mình trên từng cuộc đời chúng ta. Giá máu cứu chuộc Ngài vẫn đổ ra để mang đến ơn giao hòa cho chúng ta. Thánh giá Ngài vẫn mang lấy tội lỗi nhân loại khi Ngài tiếp tục hiến tế chính mình trên bàn thờ để sinh ơn cứu rỗi cho loài người chúng ta.
Xem ra chúng ta đều là những con nợ ân tình của Chúa. Chúng ta nợ Chúa vì nhiều lần Chúa đã tha thứ tội lỗi cho chúng ta, nhiều lần Chúa chịu đóng đinh vì tội lỗi chúng ta. Xin cho chúng ta biết trả lại món nợ cho Chúa khi chính mình cũng chịu hiến tế hy sinh cho anh em. Xin loại bỏ nơi chúng ta tính hưởng thụ, thói ích kỷ để sống một đời yêu thương và phục vụ tha nhân. Amen.

19. Lời xin lỗi – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có câu chuyện kể rằng: vào buổi tối có hai mẹ con đang ăn tối trong nhà hàng. Thình lình có bà cụ bán vé số tới mời mua, người mẹ nhẹ nhàng mỉm cười và mua cho bà 2 tờ. Bà thấy thằng nhóc kế bên bà nựng nó tí. Thế là nó la lên và hất bà cụ ra tỏ vẻ sợ hãi đứng dậy. Bà mẹ thấy thế xin lỗi bà cụ rối rít. Bà cụ gật đầu và lủi thủi đi trong sự im lặng. Có 1 điều làm tôi khá bất ngờ, nếu đứng ở khía cạnh khác, người mẹ đã la đứa con hay tỏ vẻ khó chịu. Nhưng không, bà mẹ nói với con trai: “Nếu sau này mẹ già mẹ ra ngoài đường bán vé số, bị người ta làm như vậy con sẽ làm gì?”. Cậu con trai bối rối im lặng và thủ thỉ xin lỗi mẹ, mai mốt con không làm như vậy nữa. Hai mẹ con mỉm cười và tiếp tục ăn tiếp.
Cách giáo dục của bà mẹ này rất hay, không la con, nói từ tốn nhẹ nhàng nhưng làm cho cậu nhóc đau, và hiểu được những gì mình đã gây ra là không tốt. Người Việt Nam hôm nay rất ngại nói lời xin lỗi. Có thể vì kiêu căng không dám cúi mình nhận lỗi. Có thể là thiếu giáo dục nên không nhận ra cái sai để nói lời xin lỗi.
Nhiều gia đình đang đánh mất hạnh phúc khi vợ sai vẫn cố gào to tiếng để lấn át chồng. To còi là thắng mà! Nhiều người chồng sai vẫn cố dùng thói vũ phu để đè bẹp người khác. Thói gia trưởng mà! Nhiều đứa con sai vẫn cố tình ngang bướng xem thường bố mẹ chẳng bằng tui! Mình giỏi hơn ông bả mà!
Cuộc sống sẽ hóa giải mọi hiềm khích nếu những người sống bên nhau biết nói lời xin lỗi. Đừng để khi đứng trước quan tài người thân mới nghẹn lời nói trong nước mắt. “Con nợ mẹ cha một lời xin lỗi” như bao bạn trẻ mà tôi đã thường gặp…
Thánh Phaolo nói anh em đừng mắc nợ nhau điều gì ngoại trừ tình yêu. Nếu xét về tình yêu ta thấy mình còn nợ nhiều. Nợ ai đó một bổn phận, một công việc. Nợ ai đó một trách nhiệm mình chưa hoàn thành. Nợ ai đó một lời xin lỗi vì mình quá thờ ơ. Nợ ai đó một lần phản bội, phụ bạc với người hết mình yêu ta.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một của Ngài cho thế gian. Nhưng xem ra chúng ta còn nợ Ngài rất nhiều lời “xin lỗi Chúa” vì những lần xúc phạm đến Ngài, vì những lần không chu toàn bổn phận với Ngài và vì những lần ta phản bội để chạy theo thú vui trần thế.
Thiên Chúa ngàn đời vẫn thế, vẫn yêu là yêu cho đến cùng. Ngài vẫn tiếp tục thi thố tình yêu của mình trên từng cuộc đời chúng ta. Giá máu cứu chuộc Ngài vẫn đổ ra để mang đến ơn giao hòa cho chúng ta. Thánh giá Ngài vẫn mang lấy tội lỗi nhân loại khi Ngài tiếp tục hiến tế chính mình trên bàn thờ để sinh ơn cứu rỗi cho loài người chúng ta.
Xin cho chúng ta biết trả lại món nợ cho Chúa khi chính mình cũng chịu hiến tế hy sinh cho anh em. Xin loại bỏ nơi chúng ta tính hưởng thụ, thói ích kỷ để sống một đời yêu thương và phục vụ tha nhân. Đồng hãy hãy biết noi gương Ngài là sống yêu thương, sống phục vụ với hết khả năng và trách nhiệm để khi đi đến cuối cuộc đời có thể nói như thánh Phaolo tông đồ: “Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha” (2Tm 4,1). Xin cho mùa chay thánh này giúp chúng ta sửa đổi và canh tân theo như lòng Chúa mong ước. Amen.

20. Như hoa hướng dương – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một thời người ta đề nghị loại bỏ bài hát “Tình yêu Thiên Chúa” của nhạc sĩ Thể Thông ra khỏi danh mục những bài được phép hát trong phụng vụ. Họ cho rằng: không thể ví tình yêu Thiên Chúa như tình yêu của đôi nam nữ hẹn hò nhau giữa đêm trăng sao được. Tình yêu trăng sao là tình yêu mờ ảo, là những quan hệ không rõ ràng và bất chính. Một tình yêu đích thực phải quang minh chính đại, phải rõ như ban ngày mới đích thực là tình yêu. Bao lâu tình yêu đang còn che dấu, chưa công khai hoá tình yêu, bấy lâu vẫn còn là những quan hệ bất chính và tội lỗi.
Thường tình là thế! Ai cũng mong có được những tình yêu trong sáng, đơn sơ, chân thành. Ai cũng mong cuộc đời không còn mảng tối cần che đậy hay lấp liếm. Ai cũng muốn đến với nhau trong tình bạn trong sáng, trong tình người chân thành. Thế nhưng, “lực bất tòng tâm”. Con người đến với nhau vẫn còn đó bóng tối của lợi dụng, của ích kỷ. Tình yêu con người sao vẫn còn đó những mảng tối của giả dối, thiếu chân thành. Vẫn còn đó những người thích đi đêm với nhau trong những cuộc tình vụng trộm, trong những phi vụ làm ăn bất chính. Một người con gái bình thường không thể đón nhận lời tỏ tình đại loại như: “anh yêu em, nhưng đừng cho ai biết”. Thế nhưng, thực tế vẫn còn đó những cô gái tham tiền nên chấp nhận sống trong bóng tối làm vợ nhỏ, vợ bé của các đại gia. Ở đời vẫn còn đó những mối tình vụng trộm của “chồng chung vợ chạ”, của vô luân thất đức. Xem ra thế lực của bóng tối quá mạnh đến nỗi đã bao trùm khắp mọi nơi và phủ kín nhiều tâm hồn con người. Nhiều người đã mất ý thức về tội. Nhiều người đã chai lỳ trước tiếng nói lương tâm. Bóng tối đã làm cho con người mất đi sự trong sáng, đơn sơ và chân thật của tâm hồn
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: “ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng”. Đó là những tâm hồn đang chết dần, chết mòn vì thiếu ánh sáng, thiếu sức sống của chân thiện mỹ. Họ tự nguyện đi vào bóng tối cũng đồng nghĩa với việc khước từ sự sống để đi vào cõi chết. Adam – Eva đã rời áng sáng để lẩn trốn trong bóng tối khiến họ mất bình an, tìm lá che thân, và bản án đau khổ và sự chết đã lận vào kiếp người.
Muôn loài luôn hướng tìm về ánh sáng. Quy hướng về ánh sáng vạn vật sẽ xanh tươi. Sống dưới ánh sáng vạn vật sẽ phát triển đúng theo chủng loại của chúng. Con người được tạo dựng để trở thành ánh sáng cho trần gian, nhưng con người lại tìm về bóng tối sẽ trở thành vong thân. Con người sẽ đánh mất tính bổn thiện của thuở ban đầu tạo dựng. Con người tự nguyện nghiêng chiều và chạy theo bóng tối tội lỗi để thoả mãn dục vọng đê hèn, thoả mãn tính xác thịt yếu đuối, con người đang đánh mất dần căn tính của mình.
Mùa chay mời gọi chúng ta nhìn lại mình đang ở trong ánh sáng hay trong bóng tối u mê? Tâm hồn tôi có thực sự được mở rộng cho ánh sáng của Chúa chan hoà khắp tâm hồn, hay đang bị che kín bởi những thói hư tật xấu?
Chúng ta hãy thử đến bệnh viện của Chúa, để kiểm điểm lại mình, để được Chúa chữa lành và sửa đổi cho tốt hơn. Chúng ta có mang những bệnh tật tâm hồn cần sửa đổi trong mùa chay thánh này hay không? Như một tác giả vô danh đã kể lại một lần đến bệnh viện của Chúa để kiểm tra sức khỏe và phát hiện rằng mình đang bị bệnh. Ông kể rằng:
Khi đo huyết áp cho tôi, Chúa cho biết tôi đang thiếu Lòng Nhân Ái. Và khi lấy nhiệt độ, nhiệt kế đã nhảy vọt đến 400 độ Ích Kỷ.
Điện tâm đồ cho biết trái tim thiếu những rung động Yêu Thương, một số mạch máu bị tắc nghẽn, vì lớp cholesterone Ghen Ghét.
Tới khoa chỉnh hình, tôi khám phá mình đi lại khó khăn.
Tôi không thể tiến lại ôm người anh em vì lòng Kiêu Hãnh cản ngăn, cánh tay của tôi bại xuội.
Chứng Cận Thị làm mắt tôi không thể nhìn xa hơn cái vẻ bên ngoài của người khác.
Quen những tiếng ồn ào thường ngày, tai tôi bị Điếc Đặc, không còn nhạy bén với những tiếng thì thầm yêu thương.
Con xin cảm ơn Ngài, Bác Sĩ Giêsu, vị Lương Y nhân hậu! Chúa đã chữa trị cho con miễn phí hoàn toàn vì lòng thương xót.
Con cam kết khi xuất viện sẽ tiếp tục dùng toa thuốc của Chúa, một cách trung thành và đều đặn, nhờ những dược liệu tự nhiên, Chúa hướng dẫn cho con, trong sách thuốc Tin Mừng của Chúa.
Mỗi buổi sáng, khi thức dậy, con sẽ dùng ngay một chén trà Tạ Ơn. Trước khi làm việc, con sẽ nhớ uống một thìa súp Nụ Cười Thân Ái!
Và mỗi giờ, con sẽ uống thêm một viên Nhẫn Nại, với một ly nước Nhân Bản, và lạy Chúa, khi về lại nhà, con sẽ chích một mũi thuốc Tình Thương trợ lực, rồi trước khi đi ngủ, con sẽ uống thêm 2 viên Lương Tâm Bình An.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy để cho ánh sáng của Chúa chan hoà trong tâm hồn để đẩy lùi, xua tan những ký sinh trùng đang làm băng hoại tâm hồn chúng ta. Nguyện xin Chúa là Đấng đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài luôn gìn giữ, che chở chúng ta trong ân thánh của Ngài. Amen.

21. Nô lệ tự nguyện
Ngày nay, có lẽ con người khao khát, tìm kiếm tự do hơn bao giờ hết. Đây thật là một nhu cầu cần thiết và không thể thiếu. Người ta dị ứng hoặc không thích nghe đến từ ” luật” vì nó làm cho ta cảm thấy bị bó buộc. Nhưng có những thứ tự do sẽ dẫn chúng ta đến nô lệ. Và có thứ nô lệ làm cho người ta được tự do, được cứu độ. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết thế nào là tự do đích thực.
Bài đọc I cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc về tự do. Khi dân Do thái muốn sống và làm theo sở thích, theo bản năng, đi trong tội lỗi, họ nghĩ như vậy mới tự do nhưng kết quả họ phải chịu sống trong cảnh nô lệ tủi nhục nơi đất khách Babilon.
Đức Kitô là ánh sáng tình yêu mà Thiên Chúa đã tặng ban cho nhân loại. Ngài đến trần gian để cứu độ chúng ta không phải bằng khả năng của ta nhưng bằng tình thương của Ngài. Đứng trước tình yêu bao la đó, chúng ta có hai thái độ: Tin hay không tin. Nếu tin vào tình yêu và lòng thương xót của Chúa, chúng ta sẽ được sống. Trái lại, nếu từ chối, chúng ta sẽ bị luận phạt.
Người thời đại không muốn bị trói buộc hay uốn mình trong một khuôn khổ. Nghĩa là người ta chỉ thích làm theo những gì mình muốn: Muốn ăn, muốn nói, muốn chơi, muốn làm gì tuỳ theo sở thích. Nhưng tự do đó sẽ biến chúng ta thành nô lệ sống buông thả theo bản năng, và trở thành một con người vô kỹ luật, vô ý thức. Chính những thứ đó sẽ làm mất nhân cách và phẩm giá của chúng ta.
Nhưng, có thứ nô lệ sẽ mang lại cho chúng ta tự do và hạnh phúc. Đó là nô lệ cho Thiên Chúa và lề luật của Ngài. Kỳ thực, khi đó người ta không cảm thấy mình nô lệ, trái lại cảm thấy tự do, hạnh phúc: “Chúng tasống dưới chế độ Lề luật nhưng thật sự chúng ta là con cái của tự do.”. Lề luật Chúa không làm cho chúng ta trở thành tên nô lệ nhưng nhằm mang lại hạnh phúc. Vì nô lệ tội lỗi, thì phải chết; còn nô lệ phục vụ Thiên Chúa thì sẽ được nên công chính, thánh thiện và sự sống đời đời. Khi có niềm vui và hạnh phúc, chúng ta không thể là nô lệ.
Là người chắc chắn không ai muốn sống trong bóng tối, nhưng sống theo ánh sáng thì ai cũng ngại. Chấp nhận Đức Kitô thì dễ, nhưng sống theo giáo huấn của Ngài thì không mấy ai thích: ” Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy”. Và điều này sẽ làm cho chúng ta mất tự do. Nhưng tự do là gì, nếu không phải đi trong đường lối của Thiên Chúa, khi đó chúng ta sễ được tự do vì:” Sự Thật sẽ giải phóng các con.” Ga 8, 32. Lề luật giúp cho con người sử dụng tự do một cách có ý thức và trách nhiệm. Sống nuông chìu theo sở thích bản năng, vô kỹ luật thì cũng giống như ngựa không dây cương, hay thuyền không bánh láy, chúng ta không thể điều khiển cuộc đời mình, cuối cùng trở thành nô lệ cho tội lỗi. Cũng như Krisnamuti nói: “Chỉ có chân lý mới đem lại sự tự do cho chúng ta, chứ không phải ước vọng của chúng ta muốn được tự do.”
Lạy Chúa Giêsu! Xin cho chúng con nhận ra Chúa là Chân Lý, và xin ánh sáng Chân lý Chúa luôn chỉ đường dẫn lối để chúng con xua tan bóng đêm tội lỗi nơi tâm hồn chúng con. Amen.

22. Phận người yếu đuối và tội lỗi
(John W. Martens – Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
“Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3,17).
Một trong những thời điểm đen tối nhất trong lịch sử dân Do thái chính là việc thành phố Giê-ru-sa-lem và Đền thờ bị những đội quân của đế quốc Babylon phá hủy, rồi tiếp sau đó là cuộc lưu đày sang Babylon. Theo người ghi chép biên niên sử, biến cố này chẳng phải là chuyện mà Thiên Chúa muốn, “nhưng là vì dân chúng cứ tiếp tục nhạo báng các sứ giả của Thiên Chúa, coi thường Lời của Người, nhạo báng các tiên tri, cho tới khi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đổ lên dân của Người, và vô phương cứu chữa.” Chỉ khi đó, quân đội Babylon mới đến tấn công họ.
Quân Babylon ngạo mạn đến đánh chiếm đất Ít-ra-en. Trẻ già đều bị họ giết mà “chẳng chút xót thương, bất kể là phụ nữ, người già hay kẻ yếu đuối”. Tài sản và của cải bị cướp được chuyển hết về Babylon; Đền thờ bị thiêu hủy bình địa, các bức tường của thành Giê-ru-sa-lem bị triệt hạ; còn những ai không bị giết thì bị bắt đi lưu đày ở Babylon và trở thành những nô lệ.
Thế rồi bên bờ sông Babylon, họ ngồi than khóc tội lỗi của mình, và Thiên Chúa lại đến với dân Do thái bị lưu đày, và yên ủi họ rằng sẽ đến một ngày họ sẽ được trở về quê hương của mình. Sau khi vua Cyrus của Ba Tư cùng quân đội của nhà vua chiến thắng đế quốc Babylon, dân Do thái được phép quay trở về quê hương của mình để xây dựng lại, và điều này đã “hoàn thành lời hứa của Thiên Chúa đã nói qua miệng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a”. Thế là dân Do thái đã bước từ nơi tăm tối sang miền ánh sáng.
Chuyện Thiên Chúa đến cứu độ dân của Người như vậy chẳng phải do dân Do thái giờ đây đã biết sống công chính, nhưng vì Thiên Chúa dủ lòng thương xót dân của Người. Qua Ét-ra, Nê-hê-mia và Hắc-gai, chúng ta biết dân Do thái cần phải quay trở về và tuân giữ những lề luật của Thiên Chúa mà đã họ lãng quên, canh tân đổi mới cuộc sống và tái xây dựng lại Đền thờ đã bị phá hủy. Thiên Chúa không chờ đợi cho đến khi họ phải đạt tới một cuộc sống công chính trước đã, nhưng chỉ cần hội đủ những điều kiện để sự công chính có thể nở hoa.
Đây chính là điều mà tác giả thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô đã nói tới. Thánh Phao-lô đã nói về việc Thiên Chúa đến với con người “ngay cả khi chúng ta phải chết vì tội lỗi của mình”. Thiên Chúa đến để ban thưởng cho chúng ta, không phải vì chúng ta đã đạt tới một mức độ công chính cần thiết nào đó, nhưng vì Thiên Chúa xót thương và Người muốn đặt chúng ta “đồng ngự trị trên nước trời với Đức Ki-tô, để tỏ cho hậu thế được thấy sự phong phú dồi dào của ơn Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô”. Tất cả những chuyện này đã xảy ra như vậy là do sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa.
Thánh Phao-lô trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô viết rằng: “Vì chưng, bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin. Điều đó không phải do anh em, vì đó là ân huệ của Chúa”. Ơn cứu rỗi là một quà tặng, là một ân ban. Vì thế, chúng ta được dạy rằng tất cả chúng ta được cứu độ là “nhờ đức tin” (pistis) vốn tự nó là một quà tặng. Ơn cứu rỗi không thể là chuyện do chúng ta đạt được, do mua bán hay mặc cả được, nhưng đức tin là sự đáp trả thiết yếu về phía con người. Đức tin là “quà tặng nhưng không” của Thiên Chúa, cho phép chúng ta sống đúng theo hình ảnh của Thiên Chúa, vì chúng ta “được tạo dựng trong Đức Giê-su Ki-tô để làm các việc lành (ergois agathois) mà Thiên Chúa đã dự liệu, hầu chúng ta đem ra thực hành”.
Trong Tin mừng theo Thánh Gio-an, Đức Giê-su nói với chúng ta rằng “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời”. Hạn từ “tin” trong Ga 3,16 ở đây là động từ của “pistis”, cùng một hạn từ được dịch ra là “đức tin” ở trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô. Tất cả những ai tin (pisteuôn) vào Người Con của Thiên Chúa, thì đang làm cho mình trở thành hình ảnh của Thiên Chúa để được thông dự vào sự sống vĩnh cửu, hay theo lối nói của thư Ê-phê-xô, là “đồng ngự trị trên nước trời” với Đức Ki-tô.
Chính Đức tin này cho phép chúng ta (dẫu chúng ta còn sống trong tình trạng tội lỗi) vẫn có thể nhìn ra rằng “sự sáng đã đến trong thế gian” và “những ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động (erga) của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa”. Thư gửi tín hữu Ê-phê-xô thì nói rằng chúng ta được tạo dựng để làm “các việc lành”, trong khi Tin mừng Gio-an lại nói những ai sống trong “sự sáng” thì thực thi “những việc làm” của họ trong Thiên Chúa. Cũng một hạn từ Hy lạp (ergon) được dùng cho “các việc lành” trong thư gửi Ê-phê-xô và “những hành động” trong Tin mừng Gio-an.
Ơn cứu rỗi của Thiên Chúa là ơn mà chúng ta không xứng đáng, lại được khởi sự với đức tin. Nhưng sự đáp trả của chúng ta trước ân ban của Thiên Chúa sẽ được thể hiện qua các việc lành, “để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa.” Những việc làm này tất nhiên không phải để chúng ta xứng đáng được ơn cứu rỗi, nhưng là sự đáp trả trong niềm vui trước ân ban cứu độ do lòng thương xót của Thiên Chúa.
Suy tư: Bạn hãy suy nghĩ xem cách nào để ân ban nhưng không của Thiên Chúa này sẽ giúp bạn thực hiện được những việc lành.

23. Nhìn lên Thập Giá
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Bất cứ ai đã đọc sách Xuất Hành trong Cựu Ước, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, đều nhớ câu truyện con rắn đồng. Đó là khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách Chúa và trách ông Mô-sê. Chúa liền cho rắn bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng lại ăn năn hối hận, chạy đến kêu ông Mô-sê cứu giúp. Ông Mô-sê cầu xin Chúa. Chúa bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên rắn đồng thì được khỏi. Rắn đồng đó, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng chữa bất cứ ai tin cậy ở Ngài. Vì thế, sau khi dùng hình ảnh để so sánh, Chúa quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời”.
Quả thật, thập giá của Chúa đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Bằng chứng cụ thể để bảo đảm điều này là người trộm lành trong Tin Mừng: khi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá trên núi Sọ, thì có hai phạm nhân khác là hai tên trộm cướp, cũng bị đóng đinh như thế ở hai bên Chúa: Đít-ma bên phải và Ghét-ta bên trái. Khi ba thập giá được dựng lên, treo ba thân xác chơ vơ giữa nền trời, người ta nghe tiếng tên trộm Ghét-ta chửa bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Trái lại, tên trộm Đít-ma, như được ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận tội lỗi tầy trời của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết thưa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi”. Trước lời khẩn nài đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.
Trước khi thưa với Chúa Giêsu như trên, người trộm này đã nhìn nhận tội lỗi của mình khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm”. Như vậy, dầu sao trong tâm hồn người đạo chích này cũng đã dậy lên những tâm tình thống hối nồng nàn. Dĩ vãng của anh thật tồi tệ, có lẽ tệ hơn cả Ba-ra-ba, vì Ba-ra-ba thì được tha, còn anh lại bị đóng đinh. Đời anh xấu xa quá. Anh biết và thành thật cảm nhận điều đó; đồng thời anh cũng tin nhận Đấng cùng chịu án với anh thật vô tội và qua cung cách của Ngài, anh tin phải là Đấng Thánh. Nên chỉ một tia sáng từ thập giá Chúa chiếu ra đã làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thập giá, anh đã tin vào giá trị của thập giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.
Như vậy, trên núi Sọ, đám đông dân chúng đòi Chúa xuống khỏi thập giá, thì người trộm lại đòi được đưa lên. Quần chúng cầu mong Chúa thuyết giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lại tìm được niềm tin khi bị treo trên thập giá. Phải chăng sự hối cải của người trộm là chìa khóa, là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta ngày nay?
Kể từ khi thập hình của người Rô ma được áp đặt cho Chúa Giêsu, thì thập giá đã trở thành Thánh giá và bóng Thánh giá của Ngài đã bao trùm cả trái đất. Không ai có thể đứng ngoài bóng mát của Thánh giá. Không ai có thể ở ngoài vòng lôi kéo của Chúa Giêsu. Không bao giờ con người có thể loại bỏ Chúa ra khỏi lịch sử của mình nữa.
Thánh giá không chỉ được dựng lên trên nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người tín hữu mà còn phải được tôn vinh giữa phố chợ, ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã không bị đóng đinh trong một thánh đường, giữa hai hàng nến cháy, nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài đã bị treo lên giữa ngã ba đường để cho mọi người qua lại đều nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người. Ngài đã chết cho mọi người. Ngài đã chết cho từng người trong nhân loại. Ngài đã chết nhân danh chúng ta để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa.
Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục Sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Do đó, sự hối cải của người trộm lành là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta.
Đúng thế, ở trần gian chỉ có một điều xấu xa hơn tội lỗi, đó là không nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình. Không có bệnh, chẳng ai tìm đến bác sĩ. Cũng vậy, không nhận mình tội lỗi, chẳng ai đi tìm Chúa Cứu Thế. Chỉ khi nào cho mình là dại dột hay chỉ khi nào bắt đầu công nhận mình là người tội lỗi, đó là lúc khởi sự bước vào con đường của người trộm lành đưa đến hối cải. Biết mình tội lỗi, đó là điều kiện để hối cải, cũng như biết mình bệnh hoạn là điều kiện để chữa trị.
Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy đến với Chúa và hạ mình xuống như người trộm lành, nhìn nhận mình là người tội lỗi và tin tưởng vào lòng khoan dung của Chúa, thì kể cả trong tình trạng xấu xa nhất, chúng ta vẫn được Chúa thương yêu tha thứ.

24. Thiên Chúa yêu thế gian
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Thiên Chúa yêu con người ngay lúc con người đang còn trong tình trạng tội, nghĩa là, Ngài yêu con người ngay cả khi họ còn đang chống cưỡng Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cho Lời Ngài nhập thể làm người, Ngài đã ban Thánh Thần thúc đẩy và mời gọi con người trở lại với Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu con người vô cùng.
I. Thiên Chúa vẫn yêu thương dân Do Thái cho dù họ phản loạn bất trung
Dân Do Thái là một gương điển hình cho thấy tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tuyển chọn Abraham, đã mời ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất Ngài chỉ cho; Ngài hứa sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, sẽ ban cho ông có đất sở hữu, sẽ làm cho ông trở thành mối chúc lành. Abraham đã quảng đại đáp trả lời mời của Thiên Chúa, và trở thành ông tổ của dân tộc Do Thái.
Dân Do Thái đã được Thiên Chúa thương yêu đặc biệt. Ngài đã dùng Môsê để giải phóng dân khỏi ách nô lệ bên Aicập, ban cho họ đất Canaan, cho họ những vị thẩm phán, các vua, và các tiên tri để hướng dẫn chăm sóc dân nhân danh Ngài. Thế nhưng theo sách Ký Sự (Sử Biên Niên), mọi tầng lớp dân đều phạm tội chống đối Thiên Chúa, kể cả các đầu mục, tư tế, và các tầng lớp lãnh đạo. Thiên Chúa đã sai các tiên tri như những sứ giả đặc biệt đến với dân, nhưng họ cũng chẳng nghe, nên Chúa đã để họ phải lưu đày ở Babylon.
Tuy để dân Do Thái phải lưu đày, nhưng Thiên Chúa vẫn thương dân Ngài; Ngài đã dùng vua nước Ba-Tư là Kyrô cho dân Do Thái lưu đày được trở về quê cha đất tổ của mình. Những tai họa hay đau khổ xảy đến giúp dân Do Thái nhận ra những sai trái trong hành vi tư tưởng của mình, để rồi họ trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng đã để dân Do Thái phải lưu đày, nhưng cũng là Đấng dẫn dân trở về quê hương.
II. Thiên Chúa yêu ta ngay khi ta còn là tội nhân
Thường người ta chỉ yêu người đẹp, chỉ mến người tốt. Nếu ai làm điều dữ mà bị nạn, người ta nói “đáng đời nó;” hơn nữa, người ta còn đòi Thiên Chúa trả oán khi bị oan nghiệt. Tuy nhiên, tư tưởng của Thiên Chúa không giống tư tưởng và suy nghĩ của loài người. Thiên Chúa là Đấng giầu lòng từ bi; Ngài yêu thương con người vô cùng nên ngay khi con người còn là tội nhân, thì Ngài vẫn yêu thương và tìm cách cứu độ con người. Thiên Chúa luôn tìm cách giúp ta trở lại với Ngài, để ta thành người đẹp và dễ thương thật sự. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng, và cũng là Đấng giúp ta nên đẹp và tuyệt hơn.
Thực vậy, từ khi Thiên Chúa dẫn dân ra khỏi Aicập qua Môsê, dân Do Thái nhiều lần không tin tưởng, bất tuân, và làm trái ý Thiên Chúa; chẳng hạn họ đòi nước và muốn ném đá Môsê, đòi ăn thịt giữa nơi hoang địa, thờ bò vàng khi Môsê đang cầu nguyện gặp gỡ Thiên Chúa trên núi, v.v.; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương tha thứ cho dân. Mỗi người chúng ta cũng đã phạm tội phản nghịch cùng Thiên Chúa, không chỉ một lần nhưng nhiều lần; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương, Ngài vẫn mời gọi chúng ta trở lại với Ngài, Ngài ban cho chúng ta bao nhiêu dịp để nhận ra tình yêu vô bờ bến, để chúng ta ăn năn hối lỗi trở về với Ngài.
Thiên Chúa không chấp nhất chúng ta xúc phạm đến Ngài bao nhiêu lần, và nặng nhẹ thế nào. Điều quan trọng là chúng ta trở về với Thiên Chúa. Như người Cha trong dụ ngôn người con hoang trở về, Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta đã mất. Thiên Chúa hạnh phúc khi chúng ta trở lại với Ngài. Cả trời đất đều hân hoan khi một người tội lỗi ăn năm sám hối (Lc.15, 10.7).
III. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi…
Tình yêu Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng. Không gì có thể sánh với tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Qua những thụ tạo hữu hình, con người nhận ra tình yêu của Thiên Chúa; nhưng với biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, con người nhận ra tình yêu vô cùng của Thiên Chúa một cách đặc biệt và có sức thuyết phục hơn.
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga.3, 16). Đức Yêsu là bằng chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Có thể nói, không bao giờ Thiên Chúa kết án con người. Thiên Chúa tạo dựng con người vì tình yêu, để con người được chia sẻ sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Ngài muốn con người trở lại với Ngài và được sống. Ngài không muốn con người phải trầm luân vĩnh cửu.
Thiên Chúa yêu con người, Thiên Chúa đã đang và sẽ làm tất cả để được con người. Nói theo ngôn ngữ nhân loại, Thiên Chúa đang cố gắng làm “hết sức và hết khả năng” để con người yêu Ngài. Trong tình yêu không có võ lực, không có áp bức. Chỉ có tình yêu chân thực khi sống trong sự thật và tự do. Võ lực, áp bức, gian dối không đi chung với tình yêu. Tình yêu đòi tự do và sự thật. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, và chắc chắn con người sẽ rung động trước tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Ai đáp trả tình yêu, thì sống và hạnh phúc trong tình yêu. Ai từ chối tình yêu, thì không hạnh phúc và không có sự sống đích thực. Chính hành vi từ chối tình yêu, làm người ta bất hạnh. Hành vi làm điều dữ, làm người đó đau khổ, và làm người khác bị ảnh hưởng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, đâu là hành vi xấu thật sự? Khi nào người ta phạm tội?
2. Bạn có nghĩ rằng đau khổ là hậu quả của tội không? Tại sao?
3. Tại sao Đức Yêsu lại là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương con người?

25. Tuyệt vọng trong hy vọng
“… ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Phật giáo có câu: “đời là bể khổ” nghĩa là con người từ lúc sinh ra cho đến khi nhắm mắt lìa đời chỉ gặp toàn là đau khổ, tội lỗi, chết chốc… Đây là một trong những ưu tư mà con người phải mang lấy. Đặc biệt hơn khi đối diện với cái chết, con người dù tài giỏi đến đâu cũng đành bó tay và cúi đầu im lặng. Không khéo sẽ dẫn con người đến chổ tuyệt vọng. Nhưng là con người thì ai cũng mong cho mình một cuộc sống an vui, một gia đình ấm no và hạnh phúc. Nhưng đó chỉ là mộng ước, còn thực tế thử hỏi có mấy ai được như vậy?
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một cái nhìn tích cực, mang đầy ý nghĩa và niềm hy vọng từ những đau khổ, tội lỗi và chết chốc trong cuộc sống. Như thánh Phaolô dạy, “Niềm hy vọng của tôi là Thập giá Đức Kitô” (Gl 6,14). Với tôi, sống là chiến đấu; chết là chiến thắng. Tôi hoàn toàn tin tưởng ký thác vào lòng từ bi nhân hậu cho tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì, Đức Kitô đã chiến thắng sự chết và phục sinh vinh hiển ngay trong trần gian này. Đây là đích điểm mà tôi tin tưởng khi phải trực diện với biết bao nghiệt ngã của đau thương, biết bao sóng gió vùi dập lên cuộc đời, và nhất là mai đây phải ngậm ngùi trong tuyệt vọng của cái chết. Và lời hứa của Ngài là chìa khoá mở ra một chân trời hy vọng: “…ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”(Ga 3,16). Chìa khoá này, giúp tôi xác tín một cách chắc chắn rằng: không có sự chết và càng không có sự chết trong khi chỉ có những người đang sống trên thế giới này và thế giới bên kia. Mặc dầu sự chết là một thực tại, nhưng chết chỉ trong chốc lát, một khoảnh khắc, một giây phút, một bước đi. Bước đi từ tạm thời sang vĩnh cửu. Bước đi từ hữu hạn sang vô hạn.
Và cũng chính lời hứa ấy đã âm thầm len lỏi và lấn sâu vào lòng của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, đến nỗi Ngài phải thốt lên trên giường hấp hối: “Tôi không chết, tôi đang bước vào sự sống”. Hơn thế nữa Thánh Phanxicô đã xác tín niềm tin về cái chết của mình rằng: “Sự sống này chỉ thay đổi mà không mất đi, lúc con người nằm yên giấc ngủ, mắt nhắm lại rồi là thấy tương lai”. Quả thế, với những người không có niềm tin thì chết là tuyệt vọng. Ngược lại, với tôi chết là chiến thắng là khởi điểm cho một cuộc sống mới: sống với Chúa, sống bên Chúa, sống trong Chúa và sống như Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Vua tình yêu, Ngài đã chiến thắng sự chết trong đau khổ, trong thất vọng trên giường thập giá. Xin cho con ý thức rằng: Chấp nhận mọi nghịch cảnh đau thương trong cuộc đời mà trên giường hấp hối, trước khi chết con chưa làm được. Nói lời yêu thương mà trong cơn nguy tử con không thể nói được. Hiến thân cho anh em khi còn sống mà trong nấm mồ con đang bất lực. Xin cho con tin tưởng vững vàng trong giay phút hiện tại, để rồi mai đây con không tuyệt vọng mà mãi mãi ra đi trong hy vọng và trong vinh quang bất diệt.

26. Chuyện thưởng phạt
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Chúa hạ con xuống rồi Người lại nâng con lên. Chúa dìm con xuống hố sâu và Người lại nhấc con lên…Bàng bạc đâu đó cái ý tưởng này trong các lời ca, trong nhiều cái nhìn tu đức và cả trong một vài kiểu cách diển tả của Thánh Kinh, đặc biệt là Cưụ Ước. Khi dân được tuyển chọn bất trung, phản bội, Thiên Chúa trừng phạt dân, thông thường bằng cách đày ải dân vào kiếp nô lệ ngoại bang để bày tỏ cơn thịnh nộ. Nhưng rồi sau đó Người lại giải thoát dân để bày tỏ lòng thương xót.
Lời mạc khải là Lời của Thiên Chúa, nhưng lại được trình bày bằng ngôn ngữ nhân loại, qua những con người cụ thể của một thời gian, không gian, nền văn hoá nhất định. Chắc chắn khó có thể tránh khỏi chuyện gán cho Thiên Chúa những tâm tình, ý nghĩ, đường lối, cung cách hành xử mang đậm nét con người. Vì thế chuyện “suy bụng ta ra bụng người” một cách nào đó vẫn bàng bạc ít nhiều trong các trang Kinh Thánh.
Thiên Chúa đày ải và lại giải phóng dân để dân không chỉ để cho dân nhận ra quyền năng và tình yêu của Người mà còn để dân phải gắn bó, trung thành với Người ư? Không lẽ chuyện vừa đấm vừa xoa, chuyện kế sách “cây gậy và củ cà rốt”, chuyện dìm người ta xuống nước cho gần chết ngạt rồi sau đó thả tay ra cho người ta hít thở để người ta rối rít cám ơn mình… cũng là “chuyện tình” giữa Thiên Chúa với nhân loại ư? Chắc chắn tuyệt đối không phải thế. Nếu giả như Thiên Chúa cũng hành xử với con người theo kiểu cách mà nhiều nhà cầm quyền khôn ranh, hay nhiều thể chế độc tài gian ác đã hành xử thì Người chỉ đáng cho chúng ta kính sợ hay kinh sợ mà không bao giờ đáng được kính mến.
Để có cái nhìn tương đối khá chính xác và “gần” chân lý hơn, thiết tưởng không gì hơn hãy lắng nghe những lời do miệng Con Thiên Chúa làm người phán: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3,15).
1. Thiên Chúa không phải là tác giả của sự dữ. Là Đấng toàn thiện, nên sự dữ không thể và không bao giờ do Thiên Chúa gây ra. Thế mà con người rất nhiều khi gặp phải sự dữ thì lại gán ghép cho Thiên Chúa. Xưa kia, khi đi trong hoang địa, dân Chúa đã phản loạn và khi rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người thì người ta cho rằng Thiên Chúa trừng phạt họ bằng cách “cho” rắn bò ra cắn chết họ. Cái ý nghĩ về chuyện “trời phạt” đã từng có trong tâm thức của con người xưa nay. Nhờ lời mạc khải, đặc biệt là lời hoàn hảo của Đấng Cứu độ, chúng ta mới biết rằng Thiên Chúa không phải là ông thần thích báo thù hay trừng phạt. Tuy nhiên, có nhiều lúc Người lại “để” cho sự dữ xảy ra mà không ra tay ngăn cản để cảnh tỉnh con ngưòi về tình trạng tội lỗi của họ hoặc để thanh luyện tình yêu của họ đối với Người, giúp họ ngày càng yêu mến Người cách vô vị lợi và chân thành hơn.
Không kể những sự dữ mang tính mầu nhiệm mà ta không thể suy thấu, thì có thể nói hầu hết các sự dữ xảy ra là do hậu quả của tội lỗi của con người gây ra cho nhau hay cho chính bản thân mình. Con người ta, khi “chẹt chân thì dễ há miệng” và “hữu sự thì dễ vái tứ phương”. Như thế, những sự dữ vẫn có đó ý nghĩa của nó với kiếp người chúng ta. Những sự khốn khó ở đời này vẫn còn đó vai trò của người thầy dạy giỏi. Cho dù đôi khi cái khó bó cái khôn, nhưng sự thường thì “gian nan rèn nhân đức”. Dưới khía cạnh nhân bản thì gian khổ là cơ hội giúp ta rèn luyện sự nhẫn nại, sự bền chí…còn dưới chiều kích đức tin, thì gian khổ giúp ta biết khiêm nhu và tín thác vào tình yêu và của Thiên Chúa. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.” (Ep 2,8-9)
2. Thiên Chúa là Đấng đầy lòng xót thương. Có thể nói đây là ý chính của phần Phụng Vụ lời Chúa mà Hội Thánh dọn cho chúng ta trong Chúa nhật IV Mùa Chay B này. Trong cảnh tha hương lưu đày, dân Chúa xưa luôn hướng về Đền thánh Giêrusalem. Khi bày tỏ nổi lòng của dân: “Giêrusalem, lòng này nếu quên người thì lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm” (Tv 136), tác giả Thánh Vịnh mời gọi dân suy đến tấm lòng của Thiên Chúa. Các sứ ngôn sau khi cảnh báo dân về tội phản nghịch của họ cùng với các hình phạt sẽ phải hứng chịu thì liền sau đó thường bày tỏ lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa. “ Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất trung, sẽ yêu thương chúng hết tình, vì cơn giận của Ta sẽ không còn đeo đuổi chúng” (Hs 14,5). Cố nhạc sĩ họ Trịnh đã từng ca thán: “Chúa đã bỏ loài người. Phật đã bỏ loài người”. Thế nhưng Kinh Thánh khẳng định rằng dù cho có người mẹ nào nhẫn tâm bỏ con mình đi nữa thì Thiên Chúa sẽ chẳng bao giờ bỏ loài người. Thánh Phaolô nói với tín hữu Ephêsô: “Thưa anh em, Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô” (Ep 2,4).
Thiên Chúa không thể bỏ con người. Một lời khẳng định xem ra khá hàm hồ, nhưng thật chính xác vì “Thiên Chúa không thể chối bỏ chính Người, vì Người là Tình Yêu (x.1Ga 4,8). Dù trời cao hay đất thấp, dù thiên thần hay thiên phủ…không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu (x.Rm 8,39). Như thế, nếu chúng ta vẫn chìm trong bóng tối thì chính chúng ta phải chịu trách nhiệm vì đã khước từ ánh sáng.
Thiên Chúa là Đấng ân thưởng. Và chính chúng ta là những người luận phạt. Nếu chúng ta chọn ánh sáng tức là tin vào Chúa Giêsu và sống theo lời của Người thì chúng ta được Thiên Chúa ân thưởng. Trái lại nếu chúng ta chối từ Chúa Kitô thì chúng ta, chứ không ai khác, là người kết án, luận phạt chính bản thân mình.

27. Tin Chúa – Lm. Vũ Đình Tường
Cuộc sống có niềm tin là cuộc sống hạnh phúc. Không phải hạnh phúc lúc nào cũng giống nhau. Có lúc ta vui nhiều, lại có lúc ít vui. Có niềm vui dạt dào lại có niềm vui nhè nhẹ, thoang thoảng. Vui dù ít, dù nhiều đều là hạnh phúc, kết quả của niềm tin. Niềm tin nơi mỗi người lại khác nhau. Có người đặt niềm tin trên thành công, kẻ khác trên vật chất, kẻ khác nữa trên danh vọng, kẻ khác dựa vào tôn giáo. Bởi đặt niềm tin khác nhau nên niềm vui cũng đến rồi đi khác nhau. Niềm vui qua mau bởi chính nguồn gốc của niềm tin không vững chắc. Gốc không vững, chắc chắn ảnh hưởng đến ngọn, hoa lá cành. Như thế cần đi tìm một nguồn gốc vững chắc cho niềm tin vì niềm tin bảo vệ hạnh phúc. Niềm tin vạch đường, vẽ ra viễn tượng cho cuộc sống tương lai. Người ta sống thực hiện, mong đạt được giấc mơ của niềm tin. Đạt được ước mơ của niềm tin mang lại hạnh phúc, nguồn vui. Hạnh phúc bền lâu nếu gốc của niềm tin vững chắc. Hạnh phúc mau tàn, chóng qua nếu gốc của niềm tin biến chuyển ảnh hưởng bởi điều kiện xã hội.
Niềm tin vững chắc là niềm tin tôn giáo bởi niềm tin này cao hơn vật chất nên vật chất dù biến đổi cũng tác hại rất ít đến niềm tin tôn giáo. Có nhiều tôn giáo khác nhau. Về phương diện đạo đức tôn giáo thường có những điểm giống nhau nhưng niềm tin tôn giáo không giống nhau. Căn bản là niềm tin mà niềm tin khác nhau tạo thành tôn giáo khác nhau. Bởi khác biệt về niềm tin nên mới có tôn giáo này, tôn giáo kia. Chính vì khác biệt mà cần chọn lựa, không phải chọn lựa tôn giáo thích hợp cho mình mà chọn lựa tôn giáo có nguồn gốc vĩnh cửu bởi ai cũng đi tìm hạnh phúc vĩnh cửu.
Nicodemus sanh ra trong gia đình quí tộc, giầu có, thành công trên đời. Ông chan chứa danh vọng, đầy quyền chức thuộc hàng lãnh đạo. Bao kẻ ước mơ mong sống thử một ngày như ông nhưng không được trong khi đó Micodemusvui với những gì mình có nhưng vẫn thấy thiếu hạnh phúc vĩnh cửu. Cuộc sống đạo đức không thoả mãn ước mơ tâm hồn. Có lẽ ông có cảm tình với Đức Kitô khi Ngài thanh tẩy đền thờ, dùng giây thừng đuổi kẻ buôn bán.
Ba lần ông đến gặp Đức Kitô mong tìm nơi Ngài điều đang thiếu. Lần đầu có lẽ vì sợ tai tiếng, giữa đêm ông gõ cửa xin gặp Đức Kitô. Trong cuộc đối thoại ông không hiểu làm sao người lớn lại có thể tái sanh trong nước hằng sống. Đức Kitô đã mở trí ông. Có thể nói ông được thanh tẩy không phải bằng nước mà chính Lời Chúa soi sáng tâm hồn. Lần thứ hai trước toà ông công khai lên tiếng phản đối cách phán xét, xử án bất công với Đức Kitô. Kêu gọi họ phải tuân thủ luật lệ hiện hành. Lần thứ ba là kinh nghiệm đau đớn nhất. Ông cùng với bạn mình hiện diện tháo đinh Đức Kitô.
Nicodemus hy vọng gì nơi người bị đóng đinh, chết trên thập giá?
Qua cái chết của Đức Kitô mắt ông nhìn thấy ánh sáng chân lí và bắt gặp niềm vui bất diệt nơi Ngài. Tình thương Đức Kitô dành cho những phụ nữ đứng bên đường than khóc làm mềm tim ông. Lòng nhân ái Đức Kitô dành cho kẻ trộm biết thống hối tăng thêm đức tin cho ông. Lòng mến Đức Kitô dành cho bà Veronica trao khăn cho Chúa lau mặt thôi thúc tâm hồn ông tin Chúa. Chính ông rủ người bạn quí tộc Joseph of Arimathia đến chôn cất Đức Kitô. Người bạn này dành phần mộ riêng mình cho Đức Kitô. Nocodemus tặng Đức Kitô đủ số lượng mộc dược cho việc an táng.
Nicodemus có được niềm tin không phải lúc Đức Kitô đang lừng danh nhưng lúc Đức Kitô chết đau thương trên thập giá. Chính đau khổ của thập giá mở mắt đức tin ông.

28. Đón nhận ánh sáng – Peter Feldmeier
(Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Thiên Chúa yêu trần gian đến độ trao ban chính con một yêu dấu của Ngài” (Ga 3,16)
Có một đội bóng rổ khá nổi tiếng ở Denver Hoa Kỳ đã chọn câu Kinh thánh Ga 3,16 để quảng bá thương hiệu cho mình. Cầu thủ Tim Tebow còn cho xăm câu Kinh thánh đó trên khuôn mặt, sát dưới đôi mắt của anh ta. Đây là câu Kinh thánh được trích dẫn trong bài Tin mừng hôm nay: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban con một, để ai tin vào con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Đó là lời huấn dụ Đức Giêsu ngỏ trao cho Nicôđêmô, khi Ngài khải thị về ánh sáng: “Ánh sáng đã đến trong thế gian” (3,19).
Ngài còn chỉ dẫn cho ông biết, là người ta phải được sinh ra từ trên cao. Nicôđêmô lắc đầu không hiểu. Ngài hướng dẫn tiếp, là con người phải được tái sinh bởi nước và Thần khí. Lại một lần nữa, Nicôđêmô ngơ ngác chẳng hiểu tý nào.
Làm sao Nicôđêmô, và ngay cả chúng ta, có thể hiểu và thoát ra khỏi bóng tối? Trong đáp án cuối cùng, Đức Giêsu đã nói cho Nicôđêmô: “ Như Môsê đã giương cao con rắn đồng trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải bị treo thân như vậy, để những ai tin vào Ngài sẽ có được sự sống đời đời”. Sau này, như được nhắc đến trong Tin mừng Gioan, Đức Giêsu tiếp tục giải trình: “Khi các ông treo Con Người lên, các ông sẽ biết Tôi Hằng Hữu (8,28)”, và Ngài tiếp tục vén mở sứ mạng cứu thế của Ngài: “ Khi tôi được giương cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (12,32). Ở đây, Đức Giêsu nói về Thập giá của Ngài như là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa và là biểu tượng ơn cứu rỗi cho mọi người.
Nhưng điều gì khiến Thập giá minh thị sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa và lôi cuốn chúng ta? Nguyên do nào để khi chúng ta nhìn lên Thập giá, chúng ta được cứu chữa? Đối với Đức Giêsu, Thập giá chính là “Giờ” và “Vinh quang” của Ngài” (Ga 13,23; 17,1). Thập giá là sự diễn bày sâu sa nhất tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. “Thiên Chúa yêu thế gian đến độ trao ban chính con một của Ngài”. Đức Giêsu đã tự hiến thân, đã dâng trao cho chúng ta trọn vẹn, và trên Thập giá Ngài biểu tỏ ánh sáng của tình yêu linh thánh Thiên Chúa ban trao cho con người. Ánh sáng và vinh quang ở đây chính là hành vi tự hiến, tự biến mình ra hư không. Ngài trở nên quà tặng vô giá để ban trao cho ta. Đấng Cứu thế trên Thập giá đã bày tỏtình yêu thâm sâu tuyệt vời nhất, và lôi kéo chúng ta đến với Ngài. Nhưng chúng ta phải làm gì để đáp lại tình yêu đó?
Tin mừng hôm nay vạch dẫn cho chúng ta một phương thức: Đó là Tin vào Ngài. Tin vào Thiên Chúa và Tin vào tình yêu của Thiên Chúa là câu trả lời duy nhất. Nhưng tin ở đây không phải là một hành động suy lý. Những lý lẽ thần học khiến đầu óc chúng ta dễ chấp nhận và khẳng quyết “Đức Giêsu là Chúa”. Nhưng đây không phải là thái độ của Đức tin. Ngay cả ma quỷ cũng chấp nhận sự thật về uy quyền của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và chúng run sợ trước uy quyền đó (Giacôbê 2,19). Đức tin mà Chúa Giêsu mời gọi, thách đố chúng ta một cách thẳng thắn, đó là “Tin Vào” (Pisteu) Ngài. Đây là một tư thế nội tâm, một hành trình tiến sâu vào trong qũy đạo tình yêu của Thiên Chúa và phó thác trọn vẹn cho Ngài: “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ thầy cũng sẽ ở đó (Ga 12,26)”.
Trong Tin mừng Gioan, Thánh sử nêu bật hai chủ đề chính “Tin” và “ Yêu”. Hai phạm trù này không thể tách rời nhau. “Tin” là đi vào quỹ đạo của Đức Giêsu, đón nhận quà tặng vô giá nơi Ngài, hiểu biết Ngài và sống sung mãn tình yêu trong Ngài. “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy(15,9)”. Ngài còn dặn dò các môn sinh: “ Như Thầy yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau (13,34)”.
Bạn đã từng trao tặng ai một món quà gì hay chưa, không phải chỉ là món quà vật chất, nhưng quý giá hơn, là chính món quà tinh thần? Ví dụ, có ai xúc pham đến bạn, bạn tha thứ cho họ, tha thứ vô điều kiện và tha thứ hoàn toàn,tận sâu từ trong đáy lòng? Có bao giờ bạn đã cho đi, cho đi chính con người của bạn, đến độ quên đi chính mình? Có bao giờ bạn để cho tình yêu linh thánh chiếm ngự tâm hồn,khiến bạn không còn nghĩ gì tới mình nữa, và hoàn toàn để tình yêu ấy chiếm đoạt? Bạn đã từng làm như thế chưa? Khi bạn đã trải nghiệm việc thực hành như vậy, thì quả thật, bạn đang chạm đến mầu nhiệm Thập giá.
Thập giá là biểu tượng tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa. Ai nhìn lên Thập giá và tin vào Ngài sẽ có sự sống đời đời. Chúng ta hãy học nơi thái độ đức tin của Nicôđêmô. Sau khi được Chúa khải thị về vinh quang Thập giá, ông đã tin. Từ một người biệt phái, ông đã trở nên môn đệ, và ông đã liều lĩnh giang rộng vòng tay để ôm đón xác Chúa từ trên cao Thập giá, đem đi chôn cất. Dưới chân Thập giá, Nicôđêmô đã diễn bày đức tin của mình.

29. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Trong cái rủi lại có cái may. Từ một thực tại xấu, Thiên Chúa có thể rút ra một thực tại tốt. Từ cuộc đổ vỡ trong công cuộc tạo dựng nhân loại, Thiên Chúa lại tái tạo nó đẹp đẽ hơn theo hình ảnh Con Một Người là Chúa Kitô. Tái tạo hay phục hồi là một đề tài lớn của Phụng vụ Lời Chúa mùa Chay và Phục Sinh. Nhưng động lực tình yêu khiến Thiên Chúa thực hiện việc tái tạo này mới là cao điểm suy niệm. Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua biến cố lịch sử Người giải phóng dân Israel khỏi ách nô lệ, nhưng đó chỉ là hình bóng tiên báo tuyệt đỉnh tình yêu qua hành động Thiên Chúa “sai Con của Người đến thế gian, để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,17).
1. Lịch sử Israel: yêu cho roi cho vọt (bài đọc Cựu Ước – 2 Sb 36:14-16.19-23)
Một đoạn sách Sử biên niên tiêu biểu như bài đọc Cựu Ước hôm nay cũng đủ để phác họa tất cả lịch sử dân Chúa với ba nét chính: Israel bất trung với Thiên Chúa và không chịu hối cải – Thiên Chúa trừng phạt họ, thường là họ bị phát lưu hoặc bị lân bang đánh phá – Thiên Chúa thương xót tha thứ và tái thiết Israel. Lịch sử dân Chúa không chủ yếu xây dựng trên những cột mốc năm tháng, nhưng trên mối quan hệ yêu thương thăng trầm và đổi thay giữa Thiên Chúa và dân Israel. Lịch sử khởi đầu bằng một sự tuyển chọn từ phía Thiên Chúa. Người đã kêu gọi Áp-ra-ham làm tổ phụ của một dân riêng với hy vọng dân này sẽ luôn luôn nhìn nhận Người là Đức Chúa của họ và phụng thờ Người, đồng thời tuân giữ luật pháp Người ban cho họ là Mười điều răn. Mà đã tuyển chọn và kêu gọi thì cần phải có sự đáp lại của Israel. Do đó, mỗi khi dân Chúa quay mặt về phía các tà thần và không đáp lời gọi sống theo luật Chúa là họ đã lỗi phạm sự trung thành đối với Người. Với thân phận làm Cha, Thiên Chúa muốn con cái Người luôn luôn ngoan ngoãn nên mới sửa dạy, sửa dạy bằng những hình phạt nhằm đánh thức lương tâm và giúp họ sống theo đường lối của Người. Việc sửa dạy này đòi hỏi kiên nhẫn và đầy lòng bao dung khoan thứ. Ta có cảm tưởng Thiên Chúa chạy đua với lỗi phạm của loài người. Tội lỗi loài người càng nhiều thì lòng nhân từ thứ tha của Chúa càng tăng gấp bội. Điều này thánh Phao-lô đã phát biểu trong thư gửi tín hữu Rô-ma: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (5:20).
Tuy nhiên ta cũng đọc thấy trong lịch sử dân Chúa không biết bao lần Người đã trừng phạt Israel. Phải chăng Thiên Chúa ghét bỏ Israel? Không bao giờ. Trái lại những trừng phạt ấy luôn luôn nhằm hai mục đích. Về phía Thiên Chúa, chúng là dấu chỉ biểu lộ lòng thương xót của người Cha nhân từ không bao giờ nỡ hủy diệt hay loại bỏ những gì Người đã tuyển chọn. Về phía loài người, trừng phạt của Chúa nhắm mục đích nhắc nhở kêu gọi họ hãy bỏ đường tà mà trở về sống theo luật pháp Chúa. Cha mẹ nuông chiều con cái, chúng sẽ dễ hư mất. Trái lại, răn bảo, la mắng hoặc đôi khi đánh đòn sẽ là những phương tiện nhắc nhở chúng sống cho đúng theo ý tốt của cha mẹ. Cũng vậy, những lần dân Chúa bị ngoại bang xâm chiếm và bắt đi làm nô lệ là những lần giúp họ nhìn lại lỗi lầm bất trung của họ và lối sống đi ngược với Lề Luật. Những khổ đau nhục nhằn của kiếp sống lưu đày là những ngọn roi tuy làm cho người ta đau đớn nhưng lại đầy yêu thương và nhân từ của vòng tay người Cha hoang đàng về tình thương yêu con cái.
Để hiểu rõ hơn mục đích của những trừng phạt này, ta cứ đọc kỹ ba đoạn Kinh Thánh trong bài đọc Cựu Ước hôm nay. Đoạn thứ nhất (2 Sb 36:14-16) cho thấy lỗi lầm to lớn của dân Israel làm cho Thiên Chúa “bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa”. Đoạn tiếp theo (2 Sb 36:19-21) cho thấy mức độ vô phương cứu chữa. Làm sao có thể tái thiết Giê-ru-sa-lem và nhất là thoát ách nô lệ của vương quốc Ba-tư! Đoạn thứ ba (2 Sb 36:22-23) ghi lại sự kỳ diệu của việc Thiên Chúa can thiệp. Ai có thể ngờ được Thiên Chúa dùng chính bàn tay của kẻ thù Israel để tạo điều kiện và hô hào dân Israel xây dựng Nhà Chúa tại Giê-ru-sa-lem? Nhất là lời động viên dân Chúa trong sắc chỉ của vua Ky-rô càng khiến ta suy nghĩ: “Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người, thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên…!” Rõ ràng là Thiên Chúa không “quá giận mất khôn” như ta nghĩ. Nhưng Đấng thấu suốt lòng dạ con người biết con cái mình sẽ hối lỗi ở mức độ nào của sự trừng phạt. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã nói đến cái biết này của Thiên Chúa: “Cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn” (2 Sb 36:21). Đất có được nghỉ một thời gian thì sau đó mới có thể trồng trọt phì nhiêu. Cũng vậy, những năm tháng lưu đày sẽ là thời gian để Israel tăng triển lòng tin và trung thành với Thiên Chúa. Đó cũng chính là điều thường xảy ra trong cuộc đời tín hữu. Gian nan cuộc đời thường là những nhắc nhở hoặc chuẩn bị ta thêm lòng tín thác nơi tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
2. Thiên Chúa định nghĩa tình yêu là gì (bài Tin Mừng – Ga 3:14-21)
Con người tốn bao nhiêu giấy mực để định nghĩa tình yêu mà cũng chẳng nói hết được ý nghĩa của nó. Còn Thiên Chúa có lối định nghĩa tình yêu hoàn toàn khác, nhưng lại vô cùng sâu sắc và thực tế. Tình yêu chỉ có thể định nghĩa đầy đủ bằng hành động, chứ không thể diễn tả bằng lời nói suông. Cho nên đối với Thiên Chúa, yêu là ban tặng. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).
Thiên Chúa yêu thương Israel nên đã cứu họ thoát khỏi cái chết đời này, cái chết trong nô lệ cho ngoại bang, như bài đọc I hôm nay đã nhắc tới. Đó là hình bóng nói đến tình yêu của Thiên Chúa dành cho toàn thể nhân loại đang bị kiềm tỏa do cái chết đời đời bởi tội lỗi. Thiên Chúa yêu nhân loại nên tìm đủ mọi cách để cứu vớt nhân loại khỏi cái chết đời đời ấy. Với dân Israel, Người dùng vị thủ lãnh của nước Ba-tư để giải phóng dân Người và tái thiết Giê-ru-sa-lem. Còn với toàn thể nhân loại, Thiên Chúa đã trao nộp Con Một là Chúa Kitô cho họ, để Ngài phải hy sinh mạng sống mà cứu họ khỏi cái chết vĩnh cửu. Trên thế gian, người ta yêu thương và tặng quà, có thể là những món quà thật đắt tiền, nhưng chẳng ai dám lấy mạng sống con ruột mình để làm quà tặng cả. Vậy mà Thiên Chúa đã làm như thế. Với Người, Con Một thật đáng quý giá chừng nào, nhưng Người lại đánh đổi để lấy lại nhân loại, như thế đủ biết Người yêu thương nhân loại đến mức ta không thể lấy gì mà đo lường được. Món quà càng trân quý đối với người tặng bao nhiêu thì tình yêu của người tặng dành cho người được tặng càng lớn lao bấy nhiêu.
“Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã phục hồi mọi sự”, đó là một luận đề chính trong giáo lý của thánh Phao-lô. Không những Chúa Kitô đã khởi đầu công cuộc phục hồi cho ta danh nghĩa làm con Thiên Chúa nhờ cuộc Thương khó và Phục sinh của Người, Người còn trở nên gương mẫu và nguyên lý phục hồi quyền dưỡng tử của ta. Nói khác đi, chẳng những ta được làm con Thiên Chúa nhờ Bí tích Rửa tội, mà ta còn được cùng đồng hành với Chúa Kitô để sống tình con cái với Thiên Chúa là Cha của Chúa Kitô và của ta nữa. Chúa Kitô là sự thật và ánh sáng. Sự thật ấy cho ta biết Thiên Chúa yêu thương ta đến độ hy sinh Con Một vì ta. Ánh sáng ấy là gương mẫu và dẫn dắt ta sống như con cái Thiên Chúa. Do đó để kết thúc cuộc đàm đạo với ông Ni-cô-đê-mô, Chúa Giê-su đã khẳng định: “Kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3:21). Nghĩa là nếu ta muốn sống đúng với Sự Thật là Thiên Chúa yêu thương ta, thì ta hãy đến với Ánh Sáng là Chúa Giê-su, để tất cả đời ta, lời nói, việc làm, tư tưởng đều được diễn tiến trong Thiên Chúa.
3. Qua Chúa Kitô, Thiên Chúa biểu lộ tình yêu của Người dành cho ta (bài đọc Tân Ước – Ep 2:4-10)
Thánh Gio-an diễn tả tình yêu của Thiên Chúa là việc trao ban Con Một, còn thánh Phao-lô lại muốn nói cách thức Thiên Chúa yêu thương ta qua cuộc đời và sứ mệnh của Chúa Kitô. Hai nhà thần học tiên khởi của Kitô giáo cùng nhìn một vấn đề, nhưng dưới khía cạnh khác nhau. Nhưng cả hai đều muốn nói lên một điểm chung: Thiên Chúa rất mực yêu thương và giàu lòng thương xót. Tuy nhiên thánh Phao-lô muốn khai triển về phía con người được lãnh nhận tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa đã cho ta là những kẻ đã chết vì sa ngã của tổ tông lại “được cùng sống với Đức Kitô”. Đây chính là điều ta cần phải suy nghĩ để biết cách đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. Vì yêu ta nên Thiên Chúa mới tạo điều kiện cho ta “được cùng sống với Đức Kitô”, nghĩa là cùng với Chúa Kitô làm một cuộc biến đổi, một cuộc sống mới. Chúa Kitô đã khai mào cho một cuộc Tạo dựng Mới. Trong cuộc Tạo dựng Mới này, “chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:10). Như vậy là thánh Phao-lô đã cho ta thấy rõ ra phải làm gì rồi, nghĩa là ta phải “sống mà thực hiện công trình tốt đẹp” của Thiên Chúa, tức công trình cứu độ của Người. Mỗi ngày sống của ta là một ngày ta thực hiện một chút công trình cứu độ của Chúa nơi ta. Cứ thế, sau khi ta đi hết những ngày trên trần gian này, ta sẽ đạt tới đích là “được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giê-su trên cõi trời” (Ep 2:6).
4. Sống Lời Chúa
Càng gần lễ Phục Sinh, Phụng vụ Lời Chúa càng cho ta thấy rõ hơn vai trò cứu độ của Chúa Giê-su Kitô. Người đã lấy tất cả cuộc đời Người để nói cho ta biết Thiên Chúa yêu mến và muốn cứu độ ta. Người mời gọi ta đến với Người để bắt đầu một hành trình sức sống mới, sống như “tác phẩm Thiên Chúa đã dựng nên trong Đức Kitô”. Mời gọi này quả thực là một thách đố cho ta nếu ta muốn thành tâm đáp lại. Tuy nhiên ta cũng phải ý thức rằng được mời gọi làm cuộc hành trình sức sống mới này còn là một “ân sủng” Thiên Chúa ban cho ta vì Người yêu thương ta. Ân sủng là do Thiên Chúa, nhưng lòng tin là đáp lại từ phía chúng ta vậy.
Suy nghĩ: Chúa Giê-su lập đi lập lại nhiều lần: “Ai tin vào Người thì được sống muôn đời”. Điều này có ý nghĩa gì đối với tôi? Tôi đã sống niềm tin này như thế nào?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã sai Con Một giáng trần để thực hiện công trình kỳ diệu là cho loài người được hòa giải với Chúa. Xin ban cho toàn thể dân Chúa khắp hoàn cầu được lòng tin sống động, để hăm hở đón mừng lễ Vượt Qua sắp tới. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật IV mùa Chay).

30. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Lịch phụng vụ của Giáo hội vẫn quen gọi Chúa nhật thứ tư này là Chúa nhật màu hồng, màu của niềm vui và hạnh phúc. Sở dĩ gọi làChúa nhật màu hồng là bởi vì trong ngày hôm nay, đồng thời với phẩm phục của chủ tế được thay đổi từ màu tím u buồn sang màu hồng trong sáng, thì những bài Thánh Kinh được chọn để đọc trong thánh lễ cũng loan báo một tin mừng trọng đại cho tất cả mọi người: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban chính con một mình, để tất cả những ai tin vào con Ngài thì được sống đời đời.
Bởi vì Thiên Chúa không sai con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ con Ngài mà được cứu độ”. Tin vui trọng đại này mặc dù được chính Đức Kitô làm cho trở nên hiện thực, nhưng nó đã được chuẩn bị từ thời Cựu ước, mà chúng ta đã có dịp nghe nhắc lại một cách sơ lược trong những ngày Chúa nhật vừa qua. Đúng vậy! Từ thời xa xưa trong Cựu ước, Thiên Chúa đã dùng nhiều phương cách, nhiều trung gian để loan báo ơn cứu độ mà Người sẽ thực hiện một cách rỏ ràng và dứt khoát nơi con một của mình là Đức Giêsu Kitô. Tin mừng ấy được bảo đảm bằng một giao ước long trọng với gia tộc Noe, một gia đình nhân loại mới được tái sinh, là sẽ không bao giờ có hình phạt Đại Hồng thủy như vậy nữa; Một sự kiện mà chúng ta đã nghe nhắc lại trong ngày Chúa nhật thứ nhất mùa chay.
Lợi dụng sự trung thành của Thiên Chúa, dân tộc mới này dần dần biến giao ước đó trở thành pháo đài của sự chống đối Người, mà tháp Ba-ben là một biểu tượng hữu hình. Thế nhưng không vì sự phản bội đó mà thiên Chúa hủy bỏ kế hoạch yêu thương của mình. Lời Chúa trong ngày chúa nhật thứ hai đã cho thấy rằng: Để bày tỏ sự trung thành của mình, Thiên Chúa đã nhẫn nại chọn trong đám nhận loại hư hỏng đó một người thật sự là biết trung thành và tin tưởng nơi Người, để hình thành một dân riêng của Chúa, đó là ông Ab-ra-ham.
Bước vào chúa nhật thứ ba, chúng ta tiếp tục nhìn thấy một sự quan tâm đặc biệt mà Thiên Chúa đã dành cho dân này: Người ân cần ban bố những huấn lệnh, những lời chỉ dạy tốt lành nhất, để cho họ thật sự trở thành một dân tộc được Chúa chúc phúc. Thế nhưng một lần nữa, tình thương của Thiên Chúa bị con người lợi dụng.
Bài đọc một của ngày hôm nay cho thấy rằng: Không phải chỉ có dân chúng, mà còn cả hàng tư tế, cũng tỏ ra gàng bướng bất trung. Bao nhiêu thói hư tật xấu, bao nhiêu tội ác khủng khiếp mà dân ngoại đã làm, thì bây giờ nó lại xảy ra trong chính đền thờ; làm cho đền thờ trở nên dơ bẩn hổn tạp, mở đường cho ngoại bang xăm chiếm. Và rồi cũng thêm một lần nữa, chúng ta nhìn thấy được lòng trung thành yêu thương của Thiên Chúa: Người đã dùng triều đại Vua Cyrô để xây dựng lại đền thờ và khôi phục vương quốc Israel.
Đúng như tác giả của bức thư gửi tín hữu Do Thái đã viết: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng đến thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử”. Noe, Abraham hay Cyrô đều là hình ảnh báo trước việc Đức Giêsu mang ơn cứu rỗi đến cho nhân loại. Và để chứng tỏ rằng: “thời kỳ đã mãn”; nghĩa là ơn cứu rỗi do Đức Giêsu mang đến là vĩnh viễn và dứt khoát, thì trong bài phúc âm hôm nay, khi trả lời với Nicôđêmô, Người quả quyết rằng: “Như Môisen đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời”.
Quả thật, lịch sữ dân tộc Do thái sẽ không bao giờ quên được câu chuyện rắn đồng trong sa mạc. Lúc đó họ nổi loạn đòi giết chết cả ông Môisen. Lập tức Chúa để cho rắn lửa bò ra khắp nơi và cắn chết nhiều người. Khi ấy họ hoãng sợ tìm đến cầu cứu Môisen, và Chúa bảo Môisen làm một con rắn bằng đồng treo lên cao. Bất cứ người nào bị rắn cắn mà biết nhìn lên con rắn đồng ấy thì sẽ được cứu thoát. Nếu như năm xưa con rắn đồng được treo lên cao đó như là một dấu chỉ của lòng yêu thương tha thứ, để rồi cho dù con người có năm lần bảy lượt xúc phạm đến Chúa, nhưng nếu biết tỏ lòng hối cải và nhìn lên đó thì sẽ được cứu thoát; thì hôm nay cũng vậy, việc Đức Giêsu chấp nhận bị treo trên cây thập giá, cũng chính là một sáng kiến nói lên lòng tha thứ, để rồi bất cứ một ai nhìn lên đó và tin vào Người thì sẽ được cứu thoát.
Chính vì thế mà liền sau đó Đức Giêsu khẳng định rằng: “Thiên Chúa sai con một của Ngài đến thế gian không phải là để kết án luận phạt, nhưng là để thế gian nhờ con Ngài mà được cứu độ”.
Tất cả những gì mà Đức Giêsu đã làm ở trần gian này, thì Người chỉ làm có một lần duy nhất, nhưng hiệu quả thì kéo dài đến mọi nơi mọi thời. Chúng ta không có mặt cùng thời với Chúa Giêsu, nhưng phần rỗi của chúng ta, những con người tội lỗi và bất toàn vẫn được Lời Chúa bảo đảm: “Ai tin thì sẽ không bị lên án, còn ai không tin sẽ bị kết án.” Những người không tin không phải là bị kết án bởi Thiên Chúa, mà là tự kết án chính mình bằng thái độ ngoan cố của mình, giống như ngày xưa chỉ có những ai nhất định cúi mặt xuống đất mà không chịu nhìn lên con rắn đồng, thì kẻ ấy mới chết.
Nhưng rồi chúng ta phải thể hiện lòng tin của mình như thế nào? Thánh Giacôbê tông đồ quả quyết rằng: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết.” Nghĩa là một đức tin đúng nghĩa phải là một đức tin được hòa quyện giữa lý trí và việc làm. Dĩ nhiên là có nhiều phương cách thể hiện lòng tin của mình. Thế nhưng chủ đề chung mà các bài đọc Thánh kinh của ngày hôm nay muốn thể hiện đã gợi lên cho chúng ta một bài học lớn.
Một bài học mà suốt cuộc đời này, chúng ta chỉ có vừa đủ thời gian để thực hiện nó; đó là mang tình thương của Chúa đến cho anh chị em mình bằng chính cuộc sống hàng ngày, qua những cung cách ứng xử thắm đượm lòng bác ái của chúng ta. Khi kết thúc cuộc sống đời này, Chúa sẽ không hỏi về số quần áo mà chúng ta đang có trong tủ của mình, nhưng sẽ hỏi rằng chúng ta đã giúp cho bao nhiêu người có quần áo để mặc?
Chúa sẽ không hỏi mức lương cao nhất của chúng ta là bao nhiêu, nhưng sẽ hỏi là chúng ta có làm tổn thương nhân cách của mình để đạt được nó không? Chúa sẽ không hỏi chúng ta là đã nhận được bao nhiêu lời động viên khuyến khích, mà sẽ hỏi rằng chúng ta đã sẵn lòng khích lệ người khác như thế nào? Chúa sẽ không hỏi là chúng ta đã làm gì để lo cho bản thân, mà sẽ hỏi là chúng ta đã làm gì để giúp đỡ anh chi em của mình? Chúa cũng sẽ không hỏi chúng ta đã sống bên cạnh những ai, mà sẽ hỏi rằng chúng ta đã đối xử như thế nào với những người láng giềng của mình? Và nếu như ngay bây giờ, từng người trong chúng ta đang vui mừng hãnh diện với lòng mình về những điều đó khi mà chúng ta phải trả lời trước mặt Chúa, là chúng ta đang thể hiện niềm tin của mình vào Chúa cách đúng đắn.
Còn ngược lại, nếu chúng ta cảm thấy âu lo ngại ngùng trước những câu hỏi ấy, thì nhất định chúng ta hãy mau mắn sửa chữa, đặc biệt là trong mùa chay thánh này; đó chính là lý do mà ngay trong ngày khai mạc, Thánh Phaolô đã tuyên bố: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”.
Chúng ta nên nhớ rằng: không có một sự sửa chữa hay một sự đổi mới nào gọi là quá trể cả. Xin Chúa qua lời cầu bàu của Thánh cả Giuse, Người Công Chính, ban cho mỗi người chúng ta có được sự Công chính của Chúa để sống cuộc đời kitô hữu của mình. Nhờ đó mà mỗi ngày chúng ta được trở nên tốt hơn, xứng đáng hơn với tình thương và ơn cứu độ của Chúa dành cho chúng ta.

31. Tình thương Thiên Chúa cứu chuộc con người.
(Suy niệm của Lm. Anthony Đinh Minh Tiên)
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Tình thương Thiên Chúa cứu chuộc con người.
Con người thường đặt câu hỏi khi phải đối diện những tai ương tàn khốc: “Tại sao một Thiên Chúa tốt lành lại để con người phải chịu những hậu quả thảm khốc như thế?” Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ từ chối tin vào Thiên Chúa vì hai lý do: hoặc không có Thiên Chúa hoặc Thiên Chúa không có lòng thương xót.
Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta câu trả lời thích đáng. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sử Biên Niên II tường trình cách vắn gọn tiến trình giáo dục con người của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách cuối cùng để con người nhận ra lầm lỗi của mình và để ngăn ngừa con người khỏi hư mất đời đời. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô xác quyết Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với con người qua biến cố Đức Kitô. Ngài sẵn sàng hy sinh Người Con Một để chúng ta có thể đạt được Ơn Cứu Độ là sự sống muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói rõ: Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình. Mục đích của Ngài không là để kết án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người Con mà được Ơn Cứu Độ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tiến trình giáo dục của Thiên Chúa.
1.1/ Ngài dạy dỗ và cảnh cáo con người:
– Con người phạm nhiều tội và nhiều lần. Sách Sử Biên Niên chỉ nói cách tổng quát các tội: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Jerusalem ra ô uế.”
– Sai nhiều ngôn sứ đến cảnh cáo: Con người đã được Thiên Chúa dạy dỗ qua Lề Luật, họ đã biết những gì họ phải làm và hậu quả họ phải chịu nếu không giữ cẩn thận các Lề Luật. Tuy nhiên, vì tình thương, “Thiên Chúa vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người.”
1.2/ Ngài sửa phạt dân như lời Ngài đã cảnh cáo:
– Sau khi Thiên Chúa kiên nhẫn dạy dỗ dân qua Lề Luật và các Ngôn-sứ, và họ cố chấp không chịu nghe lời, Thiên Chúa dùng Vua Canđê như chiếc roi để sửa phạt dân: “Đức Chúa để cho vua Canđê tiến lên đánh họ; vua này dùng gươm giết các thanh niên ngay trong Thánh Điện của họ, chẳng chút xót thương bất kể thanh niên thiếu nữ, kẻ đầu xanh cũng như người tóc bạc. Đức Chúa trao tất cả họ vào tay vua Canđê. Quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Jerusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba-tư ngự trị.”
– Mục đích của việc sửa phạt là để cho dân nhận ra tội lỗi và hậu quả của nó, chứ không phải để thỏa mãn tính nóng giận mà để cho chết. Nếu Thiên Chúa không sửa phạt, dân chúng sẽ chết hết trong tội của họ. Khi Thiên Chúa sửa phạt, một số sẽ nhận ra tội lỗi, và bắt đầu cuộc hành trình trở lại với Ngài, để được Ngài xót thương. Như vậy, hình phạt cần thiết để tạo nên sự thống hối ăn năn, và để ngăn ngừa dân khỏi các hình phạt nặng nề hơn, nhất là cái chết.
1.3/ Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương:
– Thiên Chúa xót thương vì Ngài là Cha: Khi dân biết nhận ra tội của họ và thực lòng ăn năn thống hối, Thiên Chúa tha thứ và cứu dân khỏi hình phạt họ đang chịu. Ngài xót thương vì Ngài là Cha, và không một người cha nào muốn con mình phải hư mất. Ngài hoàn lại tất cả những gì con cái Israel đã mất: quê hương, Đền Thờ, và Lời Hứa với các Tổ-phụ.
– Thiên Chúa có toàn quyền trên tất cả quyền lực của thế gian: Điều này chứng tỏ qua các sự kiện: Ngài dùng Vua Babylon như chiếc roi để sửa phạt dân; khi dùng xong, Ngài bẻ gãy chiếc roi bằng việc trao đế quốc Babylon vào tay Cyrus, Vua Ba-tư. Chính Vua này lại trở thành khí cụ Chúa dùng để phóng thích dân Do-thái, cho về để tái thiết lại quốc gia và Đền Thờ. Điều này đã được Thiên Chúa báo trước qua lời ngôn sứ Jeremiah; để khi xảy ra, dân chúng biết đó không phải là chuyện tình cờ, nhưng đã được xếp đặt trước bởi Thiên Chúa, để họ tin vào Ngài.
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu.
2.1/ Thiên Chúa tỏ tình yêu cho con người qua Đức Kitô:
– Đức Kitô đến để lấp đầy khỏang cách xa lạ giữa con người và Thiên Chúa: Tội lỗi làm con người mặc cảm và xa lánh Thiên Chúa; Đức Kitô đến để mời gọi con người quay về với tình yêu Thiên Chúa.
– Ngài nâng cao địa vị và phẩm giá con người: “Họ là con Thiên Chúa và Ngài yêu thương họ.” Tội lỗi làm mất đi các đặc quyền con người được hưởng như một người con của Thiên Chúa. Đức Kitô đến để phục hồi cho con người quyền làm con. Dụ ngôn Người Cha nhân hậu dẫn chứng rõ ràng điều này.
– Ngài hướng lòng con người lên những điều tốt lành thánh thiện và giải thóat con người khỏi xiềng xích của tội, Ngài cho con người cảm nghiệm được tình thương Thiên Chúa.
– Ngài cứu con người khỏi chết và cho con người được cùng sống lại với Đức Kitô. Chính do Đức Kitô mà con người đạt được đích điểm Thiên Chúa đã phác họa cho con người.
2.2/ Chúng ta được cứu độ là do bởi ân sủng của Thiên Chúa:
– Hoàn toàn là do bởi ân sủng của Thiên Chúa: Con người không thể làm gì để đạt Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm tội, và như một hậu quả, tất cả đều đáng phải chết. Nhưng tại sao con người không phải chết là hoàn toàn do lòng thương xót của Thiên Chúa: Ngài cho Người Con Một của mình để chết thay cho nhân lọai. Điều Thiên Chúa mong muốn là con người hãy tin vào Người Con; và qua niềm tin này, con người sẽ nhận được Ơn Cứu Độ: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.”
– Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa: “Chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” Như nguyện ước của các cha mẹ khi sinh con ra đời, họ muốn con nên người và đạt được mọi kỳ vọng họ đặt nơi con. Để giúp con đạt được những kỳ vọng này, họ sẵn sàng hy sinh tất cả. Thiên Chúa cũng thế, Ngài cho con người ra đời là muốn tất cả đạt tới Ơn Cứu Độ. Để giúp con người đạt đích, Ngài sẵn sàng hy sinh tất cả, ngay cả việc cho đi chính Ngài qua Mầu Nhiệm Thập Giá.
3/ Phúc Âm: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người.
3.1/ Nhờ Đức Kitô chịu khổ hình, con người được hưởng ơn Cứu Độ: Chúa Giêsu dùng biến cố “rắn lửa cắn dân chết” trong Sách Dân Số, để loan báo trước về Cuộc Khổ Nạn của Người:
– Như nọc độc của rắn làm dân phải chết, nọc độc của tội cũng làm dân phải chết (Num 21:4-9). Như ông Moses đã giương cao con rắn trong sa mạc, Chúa Kitô cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để cứu chuộc con người.
– Điều kiện để được chữa khỏi nọc độc của rắn là phải nhìn lên con rắn đồng trong sa mạc; điều kiện để được sống muôn đời là nhìn lên Cây Thập Giá và phải tin vào Đức Kitô. Khi nhìn lên Thập Giá, con người phải hiểu được tình thương Thiên Chúa dành cho con người; khi Ngài cho Người Con Một là Ngài cho chính Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
3.2/ Thiên Chúa không kết án thế gian, con người lên án chính mình:
– Tình thương không có chỗ cho buộc tội, kết án: Mục đích của việc Chúa Cha sai Người Con tới là để gánh tội và chết cho con người: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”
– Con người kết án chính mình khi từ chối tình yêu Thiên Chúa, và không tin vào Đức Kitô: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.”
3.3/ Bản án của con người: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.”
– Ánh sáng và bóng tối: Ánh sáng là chính Đức Kitô, là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Khi Đức Kitô đến, Ngài buộc con người phải làm quyết định: tin hay không tin vào Ngài. Bóng tối là tội lỗi, là những cám dỗ bất chính của Satan.
– Con người có tự do lựa chọn: Họ có thể chọn ra ngòai ánh sáng hay ở trong bóng tối, chọn Thiên Chúa hay chọn ma quỉ. Khi con người chọn đàng nào, con người phải chấp nhận hậu quả của nó. Chọn ánh sáng sẽ dẫn con người tới Ơn Cứu Độ; chọn bóng tối sẽ làm cho con người phải chết muôn đời. Con người lên án chính mình bằng ngoan cố ở trong bóng tối.
– Theo Gioan, Thiên Chúa chẳng cần phán xét con người, họ phán xét chính mình. Con người cũng chẳng cần phải đợi Ngày Phán Xét; chính lúc con người lựa chọn ở trong bóng tối là con người tuyên án cho chính mình (Realized eschatology, “phán xét ngay hiện tại” là thế). Phán xét tương lại hoàn toàn tùy thuộc vào phán xét hiện tại.
– Kẻ làm điều gian ác thích ở trong bóng tối, vì sợ nếu ra ngòai ánh sáng, các tội lỗi của mình sẽ bị lật tẩy. Điều này chúng ta dễ nhận ra vì đa số các tội ác xảy ra ban đêm và những chỗ vắng vẻ không người, như lời Tin Mừng hôm nay: “Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.”
– Ngược lại, người làm điều chân thật lại thích ở trong ánh sáng để tránh mọi nguy hiểm do bóng tối mang lại: “Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Tiến trình giáo dục của con người giúp chúng ta nhận ra tiến trình giáo dục của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách thế sau cùng Thiên Chúa dùng trong tiến trình giáo dục.
– Ngay cả khi xử dụng hình phạt, tình thương của Thiên Chúa vẫn chiếu sáng. Nếu không có hình phạt, con người sẽ không nhận ra lỗi lầm của mình.
– Cần nhìn toàn thể Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa trước khi con người có thể phê bình cách thức của Ngài dùng. Nếu chỉ nhìn vào một biến cố, con người dễ mất niềm tin nơi Ngài.

32. Tình Chúa thương con
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CMC)
Một trong những bài thơ Công Giáo nổi tiếng nhất viết bằng Anh Ngữ là bài “Sự săn đuổi của Thiên Đàng”. Tác giả bài thơ đó là Francis Thompson, người đã cố xa tránh Thiên Chúa. Ông so sánh Thiên Chúa như một người thợ săn, săn bắt các linh hồn. Bài thơ đó cũng là câu truyện về cuộc đời của Thompson. Khi còn là một cậu bé, ông có ý định đi tu làm Linh Mục, nhưng vì ông lười biếng, nên cha ông đã ghi tên cho ông học trường thuốc. Sau này ông nghiện thuốc phiện và tật nghiện này đã tàn phá tinh thần lẫn thể xác ông. Ông trở thành kẻ ăn mày la cà các ngõ hẻm, đánh giầy, bán hộp quẹt và giữ ngựa cho người ta để sinh sống. Nhờ một cô bé gái nghèo khó môi giới, Thompson gặp được ông bà Wilfred Meynell. Ông bà Meynell nhận ra Thompson là người có tài và có chí hướng. Họ giúp đỡ ông quay về với Tình Yêu Thiên Chúa.
Ông đã cố tránh né Thiên Chúa ra sao, Ngài đã săn tìm ông thế nào và Tình Yêu Chúa đã bắt được ông làm sao. Đó là tất cả ý nghĩa của bài thơ.
I. TÌNH YÊU CHÚA ĐƯỢC MẶC KHẢI
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc hội kiến giữa Chúa Kitô và Nicodemô trong lúc đêm khuya. Chỉ duy có Thánh Sử Gioan nói về Nicodemô trong 3 trường hợp: Nicôdêmô đến gặp Chúa ban đêm (Jn 3:1-2), bênh vực Chúa khi những người Pharisiêu kết án (Jn 7:50), đem thuốc thơm đến xức xác Chúa (Jn19:39). Ông thuộc phái Pharisieu, là một nhân viên của Hội Đồng Cộng Tọa, bậc Thầy trong dân, Nicodemô cảm phục giáo lý của Chúa và những việc Chúa thực hiện. Nhưng vì sợ đồng bạn, không dám công khai gặp Chúa, ông kín đáo đến cùng Chúa ban đêm và được Chúa mạc khải cho biết, muốn được cứu độ phải tin vào Ngài, phải chịu Phép Rửa, tức là phải được tái sinh bằng Nước và Thánh Linh: “Ai không sinh lại bởi Nước và Thánh Linh sẽ không được vào Nước Thiên Chúa” (Jn 3:5). Đồng thời, Chúa mặc khải cho ông biết về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, luôn theo rõi con người trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Chúa Giêsu đã tự xưng mình là Con Một Thiên Chúa khi nói với Nicodemô: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để tất cả những ai tin Con của Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Jn 3:16). Tình Chúa say yêu mỗi người chúng ta còn được tỏ ra qua lời tiên tri Jeremia và Osê: “Cha yêu thương con bằng một tình yêu vĩnh cửu; nên Cha dủ tình thương mà lôi kéo con lại với Cha” (Jer 31:3). Con người đã bất tuân, cố xa lìa Chúa, đã chống lại Ngài, đã phản bội Ngài; nhưng Chúa vẫn không từ bỏ và để chứng tỏ lòng Ngài thương yêu, Ngài đã sai Con Một Yêu Dấu của Ngài xuống trần gian, chịu chết đền bồi tội lỗi, để cứu chuộc loài người đã hư mất.
Như Thompson, những linh hồn xa tránh Chúa đều bị Chúa săn đuổi để cứu vớt, vì Ngài yêu thương họ. Mỗi người chúng ta đều được Chúa yêu thương, săn đuổi, tìm kiếm trong mọi ngả đường của cuộc sống. Đã bao lần chúng ta phạm đến Ngài, lìa xa Ngài, trốn tránh Ngài, nhưng Ngài vốn theo rõi tìm kiếm, cứu vớt và tha thứ. Chúa Kitô đã dùng nhiều dụ ngôn như Tin Mừng đã tường thuật, để bày tỏ cho chúng ta thấy tình Ngài yêu thương mỗi người chúng ta. Nào dụ ngôn người con phung phá ăn chơi hoang đàng tội lỗi, khi trở về được cha yêu thương tha thứ và mở tiệc mừng. Nào dụ ngôn con chiên lạc, được người mục tử để 99 con lại trên núi, để đi tìm con chiên lạc, khi tìm được, ông vác lên vai vui mừng trở về nhà. Nào dụ ngôn đồng bạc bị mất, người đàn bà thắp đèn tìm kiếm, khi tìm thấy rồi, gọi bạn bè xóm ngõ đến chung vui, vì đã tìm được đồng bạc đã mất.
II. HẬU QUẢ CỦA TỘI PHẠM ĐẾN CHÚA
Adam Evà, nguyên tổ chúng ta phản bội Chúa, xúc phạm đến tình thương của Người, đã chuốc lấy án phạt, tự đẩy mình xa cách Chúa trong kiếp sống lầm than vất vả, mất hết các đặc ân ngoại nhiên và siêu nhiên Chúa ban, linh hồn ra tối tăm u mê, thân xác ra nặng nề, lòng thú lấn thắng lòng thần, thân xác phản bội linh hồn… Ác quả tội lỗi lưu truyền lại cho cả dòng giống.
Cũng như Thompson, cố tình xa tránh Chúa, ông đã phải sống kiếp sống nghèo nàn, vất vả để tìm của độ thân; đam mê nghiện ngập hút xái đã tàn phá cả tinh thần lẫn thể xác, đã hủy hoại cả tài ba, sức lực và chí hướng cao thượng đã được Thiên Chúa phú bẩm. Con người cố chấp trong tội lỗi cũng thế, họ cố tình chống lại Chúa, xa lìa Ngài, bội phản Ngài, khinh dể Ngài, họ cũng tự chuốc lấy án phạt mình bằng một lương tâm cắn rứt, một tâm hồn mặc cảm, một tâm tư nặng trĩu và trở nên nô lệ cho quyền lực tội lỗi và gông cùm hỏa ngục.
III. ĐÁP LẠI TÌNH CHÚA YÊU THƯƠNG
Với lòng thống hối khiêm nhu, ai trong chúng ta cũng đã tự cảm thấy, nhiều lần chúng ta đã phản bội lại tình Chúa yêu thương chúng ta, bằng những tội lỗi xúc phạm đến Người, hoặc những thiếu sót lỗi lầm.
Hay ít ra, chúng ta cũng phải phàn nàn, vì chúng ta chưa sống xứng với những ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta, ơn phần hồn cũng như ơn phần xác. Chúng ta chưa sống xứng với Ơn Gọi cao cả chúng ta được làm con Chúa, được nhiều may mắn hơn người khác, được Chúa thương yêu cưng chiều hơn.
Không tội nhân nào không cảm thấy sung sướng, được Chúa tha thứ mọi lỗi lầm, được xóa bỏ mọi vết tích tội khiên, được quên đi những điều phản bội, được giải hòa và được trở lại trong tình thương mến của Chúa.
Không con cái nào lại không cảm thấy hạnh phúc được cha mẹ thương yêu, cưng chiều, săn sóc, gìn giữ, bao bọc, tha thứ mọi lỗi lầm sơ sót làm phiền lòng các ngài.
Đối với Chúa, chúng ta cũng là những tội nhân đã bao lần xúc phạm đến Người, nhưng Chúa vẫn tha thứ, kiếm tìm và đem trở về hưởng tình yêu thương của Người. Chúng ta là những người con đã bao lần làm cho Chúa phải đau buồn vì những lỗi lầm, hay ít ra chưa sống đúng những ơn huệ Chúa ban, chưa đáp lại cân xứng lòng Chúa yêu thương và muôn ơn phúc Chúa hằng tuôn trào xuống trên chúng ta.
Thì Mùa Chay là cơ hội thuận tiện, chúng ta hãy trở về với tình Chúa yêu thương, làm hòa với Chúa để được lãnh ơn tha thứ. Canh tân cuộc sống, sống đẹp lòng Chúa hơn, xứng với tình Người yêu thương chúng ta.
Kết Luận
Để đáp lại tình Chúa yêu thương, chúng ta hãy sống xứng với Ơn Gọi cao cả làm con Chúa, bằng cách luôn sống trong ơn nghĩa Người, bằng tấm lòng người con ngoan thảo luôn làm hài lòng Cha Hiền.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta hiểu biết giá trị cao quí của Ơn Gọi làm con Chúa và luôn trung thành với hồng ân Chúa ban.

33. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Đề: Khuyến khích sám hối để được cứu. “Như Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc…”
(Ga 3,14)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Trong cuộc hành trình Mùa Chay, chúng ta đã đi được nửa đường. Bây giờ là lúc chúng ta phải sám hối và đổi mới cuộc sống. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta xứng đáng bị phạt. Nhưng nếu chúng ta sám hối thì Thiên Chúa sẵn sàng thứ tha ngay.
II. Gợi ý sám hối
Tội lỗi khiến chúng ta xa cách Thiên Chúa.
Tội lỗi khiến chúng ta xa cách anh chị em.
Tội lỗi làm mất bình an ngay trong bản thân chúng ta.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: 2 Sb 36,14-16.19-23
Tác giả điểm lại những giai đoạn lịch sử trước, trong và cuối thời lưu đày: vì dân Do Thái bất trung với Thiên Chúa nên Ngài để cho họ bị mất nước và phải bị lưu đày. Nhưng dù sao Thiên Chúa vẫn còn thương họ nên Ngài đã soi sáng lòng vua Kyrô nước Ba Tư ra chiếu chỉ cho phép họ hồi hương.
2. Đáp ca: Tv 136
Đây là bài ca của những người đang sống cảnh lưu đày: buồn nhớ quê hương và đền thờ Giêrusalem, buồn đến nỗi không muốn đàn hát gì nữa, chỉ mong được trở về quê hương yêu dấu.
3. Tin Mừng: Ga 3,14-21
Một phần trong cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với ông Nicôđêmô. Đức Giêsu nhắc lại câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc thời xuất hành. Từ đó Ngài mặc khải về tình thương của Thiên Chúa “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Ngài Con ấy thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời”. Khi đề cập đến tội lỗi của loài người, Đức Giêsu còn khẳng định: “Thiên Chúa sai Con mình xuống thế gian không phải để phạt loài người nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”.
4. Bài đọc II: Êp 2,4-10
Thánh Phaolô nói “Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót”. Do lòng thương xót ấy, khi con người vì phạm tội mà phải chết, thì Ngài đã cho họ được sống lại nhờ Đức Giêsu Kitô.
IV. Gợi ý giảng
* 1. “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi…”
Để giúp Nicôđêmô hiểu tình yêu Thiên Chúa, Đức Giêsu đã nhắc lại câu nguyện ngày xưa về con rắn đồng.
Ngày xưa, trong thời xuất hành, Thiên Chúa đã hết lần này tới lần khác tỏ cho dân Do Thái thấy tình yêu của Ngài:
Vì yêu thương, Ngài đã cứu họ khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai cập, dẫn họ xuất hành về Đất hứa.
Họ đã chẳng nhớ ơn Ngài, lại còn đòi quay lại Ai cập để có hành tỏi thịt thà. Thiên Chúa ban cho họ manna.
Ăn manna một thời gian, họ lại đòi ăn thịt. Thiên Chúa ban cho họ chim cút từ trời rơi xuống.
Họ lại đòi nước. Ngài cho nước từ tảng đá vọt ra.
Họ lại nổi loạn đòi giết chết cả ông Môsê. Chúa để cho rắn lửa bò ra cắn chết một số người trong họ. Khi đó họ mới biết sợ và năn nỉ Môsê xin Chúa cứu họ. Chúa dạy ông Môsê làm một con rắn bằng đồng treo lên cao. Ai nhìn lên con rắn đồng mà sám hối thì sẽ được cứu khỏi chết.
Con rắn đồng ở sẵn đó như một con tim yêu thương và tha thứ luôn mở rộng. Dù con người hết cứ lần này đến lần khác xúc phạm đến Chúa, nhưng chỉ cần họ sám hối và nhìn lên đó thì lại được tha.
Sau khi kể chuyện con rắn đồng, Đức Giêsu kết luận: “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, được cứu độ”. Nghĩa là Thiên Chúa chỉ biết thương, chỉ muốn cứu, chứ không bao giờ muốn lên án hay trừng phạt ai cả. Chỉ có con người tự lên án và tự trừng phạt mình, Do Thái độ ngoan cố của họ. Như ngày xưa chỉ có những ai quá sức ngoan cố không chịu nhìn lên con rắn đồng thì mới phải chết.
Thiên Chúa luôn chờ đợi. Chỉ cần con người sám hối và nhìn lên Ngài.
* 2. Giận mà thương
Nếu ta đã thực sự yêu thương ai thì dẫu khi người đó làm gì sai quấy khiến ta giận nhưng ta vẫn thương, như lời của một bài hát “giận thì giận mà thương thì thương”. Điều này càng đúng với Thiên Chúa.
Việc nguyên tổ phạm tội đã khiến Thiên Chúa rất “giận” (có thể tạm nói vậy, theo kiểu diễn tả “của con người”). Ngài đã tuyên án cho các nguyên tổ. Dù vậy, liền ngay sau đó Ngài đã hứa sẽ ban Đấng Cứu thế sinh bởi người nữ (St 3,15). Và, như sách Sáng thế diễn tả, khi Thiên Chúa thấy hai ông bà xấu hổ lấy lá che thân thì Ngài thương lấy da thú may áo cho họ mặc (St 3,21).
Cain đã giết chết em ruột của mình, Thiên Chúa cũng rất “giận” nên phạt hắn phải lang thang vất vưỡng. Nhưng vì thương hắn, Thiên Chúa đã “ghi dấu trên Cain, để bất cứ ai gặp anh khỏi giết anh” (St 4,15).
Loài người dù đã bao lần chứng kiến tình thương của Thiên Chúa nhưng vẫn phạm tội và phạm tội ngày càng nhiều hơn, đến nỗi Thiên Chúa phải cho cơn Hồng thuỷ huỷ diệt họ. Dù vậy, Thiên Chúa đã cứu sống gia đình ông Noê. Ngài dạy ông đóng tàu. Khi gia đình ông đã vào tàu hết, chính Thiên Chúa tự tay đóng cửa tàu lại (St 7,16).
Thiên Chúa luôn luôn là như vậy: luôn luôn yêu thương, dù giận nhưng vẫn thương. Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Ngài Con ấy thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời”; “Thiên Chúa sai Con mình xuống thế gian không phải để phạt loài người nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”.
* 3. Lên án hay cứu độ
Bài Tin Mừng hôm nay có một câu rất đáng chú ý: “Thiên Chúa sai Con của Người xuống thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”
Từ trước tới nay chúng ta cứ bị ám ảnh bởi nỗi sợ “bị Chúa phạt”. Cho nên đọc câu này, chúng ta không còn sợ như thế nữa.
Nhưng để vững lòng hơn, chúng ta hãy kiểm chứng qua những cách đối xử của Đức Giêsu trong các sách Tin Mừng. Chúng ta thấy có nhiều người rất đáng bị lên án, và quả thực họ đã bị người Do Thái lên án, nhưng phần Đức Giêsu thì không bao giờ lên án họ, như: người phụ nữ tội lỗi trong bữa tiệc tại nhà một người biệt phái (xem Lc 7,36-50 “Tội của chị đã được tha rồi”), ông Dakêu (x. Lc 19,1-10), người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8,1-11), tên gian phi bị đóng đinh bên cạnh Ngài (x. Lc 23,43) v.v.
Đức Giêsu đến chỉ để cứu chúng ta. Ngài ban cho chúng ta rất nhiều cơ hội để được cứu. Ngài không phạt ai cả, chỉ những ai không chịu cho Ngài cứu là tự phạt mình mà thôi.
4. Nicôđêmô
Trong Tin Mừng Gioan, Nicôđêmô xuất hiện 3 lần:
Lần thứ nhất là trong bài tường thuật Tin Mừng hôm nay. Ông đến với Đức Giêsu “ban đêm” để thảo luận với Ngài về tình yêu Thiên Chúa và ơn cứu độ. Sau đó ông ra đi.
Lần thứ hai là khi các thủ lãnh tôn giáo Do Thái muốn giết Đức Giêsu. Là thành viên của Thượng Hội đồng Do thái giáo, Nicôđêmô phản đối quyết định ấy. Ông nói: “Lề luật của chúng ta có cho phép kết án ai trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?” (Ga 7,51)
Lần thứ ba là lúc táng xác Đức Giêsu. Nicôđêmô đến để tẩn liệm thi hài Đức Giêsu một cách sang trọng như người ta tẩn liệm một vị vua. Thánh Gioan thuật: “Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người do thái” (Ga 19,39-40)
Lần thứ nhất Nicôđêmô đến với Đức Giêsu để thưa chuyện với Ngài, lần thứ hai ông lên tiếng bênh vực Ngài, và lần thứ ba ông tôn kính thi hài của Ngài.
Nicôđêmô là hình ảnh minh họa cho hành trình của người tìm đến với ánh sáng như Tin Mừng hôm nay viết: “Ai sống theo sự thật thì đến với ánh sáng”
5. Nỗi buồn thánh
“Bên bờ sông Babylon, ta ngồi ta khóc ta nhớ Sion”. Một bài ca buồn, diễn tả tâm tình chung của suốt Mùa Chay này.
Nhưng có nhiều thứ buồn khác nhau, phát xuất từ nhiều nguyên nhân khác nhau, dẫn đến nhiều kết quả khác nhau:
Buồn bực là thứ buồn do tức giận, dẫn tới ý muốn đập phá. Như Cain buồn vì tức giận ganh ghét Abilê rồi lập mưu giết chết em mình.
Buồn chán là thứ buồn do thất vọng, khiến người ta buông xuôi. Như Giuđa buông xuôi đến nỗi tự tử.
Buồn nhớ là buồn vì xa cách một điều gì hay một người nào mình thương. Thứ buồn này thôi thúc mình tìm về với điều hoặc người thương mà mình phải xa cách đó. Như dân Do Thái ngồi buồn trên bờ sông Babylon mà lòng nhớ về Sion yêu quý.
Buồn thương là thứ buồn phát xuất từ tình thương, buồn vì tình thương đang bị đổ vỡ, buồn vì người mình thương đang phải khổ sầu. Thứ buồn này thúc đẩy người ta hàn gắn lại đổ vỡ, xây đắp cho tình thương thêm mặn nồng. Như Phêrô buồn sau khi chối Chúa. Ông đã khóc lóc ăn năn và tìm cách quay về với Ngài.
Cái buồn của Mùa Chay là thứ buồn nào? Nó xuất phát từ nhận thức Chúa rất thương yêu mình, thế mà mình đã không xứng đáng với tình thương đó. Nó khiến mình tỉnh ngộ dừng chân suy nghĩ về cách sống hiện tại. Nó thôi thúc mình tìm về với Chúa, sửa chữa những lỗi lầm đã qua và tìm cách làm cho lòng mình thương Chúa càng nồng nàn thắm thiết hơn.
Đó không phải là buồn bực, buồn chán, mà là buồn nhớ, buồn thương. Đó là thứ buồn rất nên buồn, vì là nỗi buồn thánh.
6. Ánh sáng và bóng tối
Báo Los Angeles Times ngày 8-6-1996, viết về ông Sam Eason, một người đánh giày ở bãi đậu xe như sau:
Sam Eason là một người đánh bóng với tất cả ý nghĩa của danh từ ấy. Ông ta không chỉ làm cho bạn nhìn bảnh hơn ở chiếc giá đánh giày.. mà còn giúp bạn cảm thấy thoải mái vui hơn. Với vài đường đánh giày thật khéo, ông làm cho đôi giày cũ sờn của bạn trở nên bóng loáng. Và bằng mấy câu nói khéo, ông có thể khiến những luật sư hoặc những người buôn chứng khoán mệt mỏi trở nên hăng hái vui tươi.
Quản lý các hệ thống văn phòng Timothy Matthews nói: “Bất kể màu da hay màu giày của bạn, Sam là một người bạn tốt của mọi người”. Giám đốc công ty sản xuất máy Photocopy Phil Canon thêm: “Không có gì giả tạo nơi Sam”.
Trước sự giao tế niềm nở, cảm thông và đầy tình người của Sam Eason, nhiều khách hàng dù đã đổi đi xa, vẫn lái xe đến với ông để được đánh bóng đôi giày và được làm cho tươi mát tâm hồn.
Người đánh giày dễ thương ấy đã qua đời vì bệnh tiểu đường ngày thứ Hai 3-6-1996 và được an táng đúng sinh nhật thứ 59 của ông (thứ Sáu 7-6-1996). Trên giá đánh giày bỏ trống, khách hàng đặt những bó hoa tươi thắm ấp đầy thương nhớ. Họ kể cho nhau nghe Sam Eason đã làm tươi mát cuộc đời họ như thế nào…
Sĩ quan cảnh sát John Bavetta trong điếu văn đọc ở tang lễ của Sam Eason đã khóc khi kể lại hàng trăm tập quán của Sam Eason. Trước khi chào từ biệt ông đã nói: “Bây giờ đến lượt hào quang của Sam được đánh bóng”.
*
Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay đã nói với Nicôđêmô: “Ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa” (Ga.3,21). Chắc chắn tâm hồn của người đánh giày ngập tràn ánh sáng, nên ông luôn lan tỏa niềm vui chân thật và nét đơn sơ trong sáng.
Cuộc đời mãi mãi là một thách đố. Chúng ta chọn ánh sáng bên này hay bóng tối bên kia. Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa liên lỉ giữa ánh sáng và bóng tối. Lựa chọn của người đời lại khác với lựa chọn của người con Chúa. “Sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sống, vì hành động của họ xấu xa” (Ga.3,19). Người đời trốn chạy ánh sáng vì sợ hành động xấu xa của họ bị lộ tẩy.
Ghét ánh sáng và thích bóng tối là thảm kịch của người đời, vì con người sinh ra là để sống cho ánh sáng. Thiên Chúa không đào hỏa ngục, không xây ngục tối, nhưng chính tù nhân đã tự nhốt mình và nội tâm tăm tối. Ai từ chối ánh sáng của Chúa sẽ héo tàn trong bóng tối của chính mình.
Có cách nào để ra khỏi bóng tối? Có lối nào để trở về với ánh sáng? Đức Giêsu đã chỉ ra một con đường duy nhất: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con của Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga.3,16). Nếu ngày xưa dân Do thái đã tin tưởng nhìn lên con rắn đồng để được chữa lành thì ngày nay tất cả những ai tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu trên thập giá đều được ơn Cứu độ.
Thập giá là tột cùng của đau đớn nhục nhã, nhưng cũng là minh chứng tuyệt vời của một tình yêu: Tình yêu của Cha đã trao ban Con Một, tình yêu của Con đã hiến dâng mạng sống. Tin vào một tình yêu như thế sẽ chữa lành những vết thương cuộc đời. Đức Giêsu đã từng nói: “Đức tin của con đã chữa con” (Mc.10,52).
Đức tin là thành phố trên đồi, là ngọn đèn trên cao. Thành phố trên đồi không bị khuất tầm nhìn. Ngọn đèn trên cao soi sáng cả nhà. Đức tin trong sáng luôn sống động không nằm chết trong lòng, nhưng luôn tỏa sáng.
Đức tin trong sáng luôn mang lại nụ cười, an bình, và hạnh phúc.
Đức tin như những vì sao, lấp lánh lao xao, trên trời cao thăm thẳm.
Đức tin như những vì sao, ngời sáng như kim cương trên ngực người tín hữu.
*
Lạy Chúa, sống là phải chọn lựa không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối. Xin cho chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn nến sáng, để cả thế giới ngập tràn ánh sáng của Chúa. Amen (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Mùa Chay là thời gian giúp chúng ta khám phá lại tình thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Người để tất cả những ai tin vào Con Người thì được sống hạnh phúc. Với tâm tình biết ơn, chúng ta dâng lời nguyện xin:
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các vị chủ chăn cũng như đàn chiên là Hội thánh Chúa / luôn trở nên dấu chỉ của niềm vui và niềm hy vọng / để có thể loan báo cho muôn dân biết tình thương của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới / có dịp khám phá ra tình thương của Thiên Chúa qua công trình cứu độ của Chúa / để họ tin tưởng và cộng tác với Chúa trong việc cứu độ thế giới.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người nghèo khổ, bệnh tật, thất nghiệp, bị tù đầy và biệt xứ / có dịp khám phá ra tình thương cứu độ của Đức Giêsu qua những hoạt động bác bái của các Kitô hữu.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mỗi người trong họ đạo chúng ta / đều cảm nhận được tình thương cứu độ của Chúa / để quyết tâm chết đi cho tội lỗi và sống lại trong tình thương và ân sủng của Người.
Chủ tế: Lạy Chúa xin cho mỗi người chúng con biết dùng thời gian thuận lợi của Mùa Chay này, để nhìn nhận hồng ân cứu độ mà Đức Giêsu đã mang đến cho tất cả mọi người / và tin tưởng vào Người để được sống đời đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa là cha giàu lòng thương xót. Dù chúng ta phạm tội nhưng Ngài vẫn thương chúng ta. Vậy chút nữa đây khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt lấy hết tâm tình nói với Ngài câu “Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Trước lúc rước lễ: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban chính Con Một của Ngài làm lương thực cho chúng ta.
VII. Giải tán
Hôm nay chúng ta được biết một điều rất an ủi là Thiên Chúa không muốn phạt ai cả mà chỉ muốn cứu mọi người. Bất cứ ai tội lỗi sám hối quay về với tình thương của Chúa thì đều được tha thứ. Chúng ta đều có tội, vậy chúng ta hãy sám hối quay về với Chúa, đón nhận sự tha thứ của Ngài.

34. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Một câu thơ mà ai trong chúng ta cũng đều biết:
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Tương truyền rằng: Có đôi vợ chồng nọ rất thương nhau. Người chồng vì nghĩa vụ non sông phải ra đi, để lại quê nhà người vợ thân yêu và đứa con nhỏ dạy. Ngày tháng cứ dần trôi… Một hôm người chồng trở về, vì không báo trước nên không có vợ ở nhà, chỉ có đứa con nhỏ giờ đây đã nói được những tiếng nói đầu tiên. Nhìn thấy đứa con nhỏ, anh ta rất vui mừng, gọi con đến và xưng là cha của nó. Nhưng ngở ngàng thay, đứa nhỏ không chịu, còn nói rằng: cha nó không bao giờ về vào lúc ban ngày, cha nó chỉ về vào ban đêm.
Người chồng nghi ngờ vợ, niềm uất hận dâng lên. Bỗng đâu người vợ thân yêu từ ngoài đi vào, nhìn thấy chồng, rất vui mừng. Nhưng sự vồn vã yêu thương đâu chẳng thấy, mà trái lại, chị còn phải nhận thái độ lạnh nhạt và những lời cay đắng. Không thể biện minh được cho sự trong trắng của mình, chị mới tìm cái chết để giải thích cho nỗi oan tình. Chiều đến khi mọi vật đã chìm vào bóng đêm đứa nhỏ cứ đòi mẹ, nhưng chẳng thấy.
Nó lại bảo là cha nó sắp về. Nó mới dẫn người chồng vào trong và chỉ lên vách. Cái bóng đen do ánh đèn tạo nên, đứa nhỏ gọi đó là cha của nó. Người chồng ngỡ ngàng hiểu ra mọi chuyện thì đã muộn. Anh đi tìm vợ, nhưng chẵng thấy. Ngôi miếu được dựng lên để giải oan, để xin lỗi người vợ và để nói lên mối tình chung thủy của vợ chàng Trương.
Người chồng đã đứng kề bên hạnh phúc, đối mặt với sự thật. Nhưng anh ta chưa nhận ra được sự thật, vì anh ta quá tự hào về những hiểu biết của chính mình, mà không cần nghe những lời giải thích cặn kẻ. Thế cho nên suốt cuộc đời anh ta sẽ chẵng bao giờ nhìn thấy và tìm được nguồn hạnh phúc nơi người vợ chung thủy của mình nữa.
Chúng ta cũng vừa chứng kiến cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Ông nầy là ai? Ong là thủ lãnh những người biệt phái, là một nhà thông thái, hiểu biết nhiều, có địa vị trong xã hội. Ông ta cũng nhìn thấy Chúa Giêsu, hiểu biết những việc làm của Ngài. Nhưng ông ta chưa dám đến với Ngài thật sự, vì những gì là của riêng ông ta, đã làm nặng nề bước chân tìm chân lý, đã che khuất đi ánh mắt đi tìm ánh sáng.
Những cái đó cũng làm mất đi sự can đảm cần thiết để có hành động nói lên sự thật. Chính vì thế ông ta mới tìm Chúa Giêsu vào lúc đêm về. Qua cuộc đối thoại không mang lại kết quả bao nhiêu, vì ông ta chưa ra khỏi chính mình được. Đến khi Chúa Giêsu chịu treo trên Thập giá, khi đó ông mới được mở mắt ra, khi đó tất cả những gì là của ông, chẵng có giá trị gì. Mặc dù hiện tại, ông đang đứng trước chân lý, đang đứng trước nguồn hạnh phúc đích thực mà ông chẵng hay biết.
Sánh về địa vị, chắc chúng ta không bằng ông thủ lãnh người Do Thái kia đâu. Về sự hiểu biết, chắc cũng không ai dám tự hào là hơn ông. Về địa vị, chúng ta cứ nhìn lại chính mình xem. Vậy mà chúng ta có biết tìm đến Chúa chưa? Tìm đến để nghe Ngài nói, Ngài chỉ dạy. Chúng ta chê trách ông Nicôđêmô hơi thiếu can đảm. Nhưng vì ông đã có sự khởi đầu nên ông cũng đã có được kết quả tốt đẹp. Ông đã dám xuất hiện giữa ban ngày vào lúc cần thiết nhất, lúc mà các Tông đồ đã trốn chạy hết. Ông lo tất cả mọi việc thật chu đáo.
Thiên Chúa luôn chờ đợi và Ngài cũng tạo điều kiện cho ta, nhưng chúng ta có rời được chỗ ở, rời được con người của chính mình để đến với Ngài không. Hay chúng ta vẫn còn nặng nề với bao nhiêu vấn đề của cuộc sống. Công việc không thể; Vì chúng ta còn sợ; Hay là tôi đã hiểu biết nhiều, nên tôi không cần phải nghe ai chỉ dạy. Vậy thì làm sao chúng ta có thể gặp được Chúa. Thiên Chúa không hiện ra trực tiếp với chúng ta. Ngài nói, nếu cần thiết, có thể qua người con nhỏ trong gia đình để đánh động tâm hồn chúng ta. Ngài cũng muốn nói với chúng ta, qua những cử chỉ đơn sơ của những ngưới thấp hèn hơn chúng ta, đôi khi qua những người hành khất để đánh động lương tâm chúng ta.
Đôi khi cứng rắng hơn, Ngài nói qua những người có uy quyền với lời lẽ có khi làm chạm tự ái chúng ta để đánh động tâm hồn. Nhìn lại cách sống của chính mình, mỗi người sẽ nhận thấy mình đã tìm gặp được Chúa hay chưa. Nếu giờ nầy chúng ta đã can đãm hơn, biết chu toàn trách nhiệm hơn, siêng năng đến với Chúa hơn , biết làm gương tốt cho những người chung quanh. Đó là chúng ta đã gặp được Chúa, đã nhìn thấy ánh sáng. Đó là chúng ta không còn đi trong đêm tối nữa.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn soi sáng cho mỗi người chúng ta biết siêng năng đến với Chúa, để nhận ra chân lý và luôn sống trong ánh sáng chân lý của Ngài.

35. Thiên Chúa yêu thương
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau chia sẻ về tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại. Các du khách có dịp viếng thăm nhà thờ chính tòa Gengiba bên Phi Châu, sẽ nhìn thấy lời chào đón này được viết ngay trên tường ngôi thánh đường: Bạn đang đứng trong nhà thờ của Đức Kitô.
Ngôi nhà thờ này đã được xây dựng ngay trên phần đất trước kia được dùng để tập trung buôn bán, trao đổi những nô lệ da đen như những súc vật. Đặc biệt là bàn thờ được đặt trên một tảng đá nơi những nô lệ bị đánh đòn. Lý do bị đánh đòn trước khi đem bán là để kiểm tra sức khỏe của họ.
Cây thánh giá bằng vàng được treo trên một chiếc cột trụ có khắc tên bác sĩ Livdy Stone, một người Anh đã từng mạnh mẽ và can đảm lên tiếng chống lại tệ nạn buôn bán nô lệ. Cột trụ này là nơi bác sĩ vẫn thường đứng để thuyết trình, để hô hào cổ vũ cho việc giải phóng nô lệ. Mãi đến ngày 16.6.1873 việc buôn bán nô lệ tại Phi châu mới bị ngăn cấm bởi một đạo luật được ban hành. Kể từ đó, phẩm giá đích thực của người da đen mới được nhìn nhận.
Chiếc cột trụ đã trở nên như một dấu chỉ, gợi nhớ đến những hy sinh gian khổ và ngay cả cái chết để giải phóng cho những nô lệ da đen và xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đối lại với thù hận là yêu thương chân thật, đối lại với bóc lột là tự do và công bằng, đối lại với chiến tranh là hòa giải và tha thứ.
Câu chuyện trên gợi lên cho chúng ta những ý nghĩ về tình thương của Thiên Chúa. Thực vậy, trong Cựu ước, Thiên Chúa đã truyền cho Maisen đúc một con rắn đồng, treo lên nơi hoang địa, để những ai bị rắn độc cắn cứ việc nhìn lên con rắn đồng ấy là được chữa lành. Và như thế, dân Do Thái đã được cứu khỏi hiểm họa rắn độc trong cuộc xuất hành tìm về miền đất hứa. Sự việc trên cũng chỉ là một biểu tượng, một hình ảnh tượng trưng cho những gì Chúa Giêsu đã làm để cứu chuộc chúng ta.
Đúng thế, để cứu chuộc chúng ta, Ngài chỉ cần phán một lời, nhưng Ngài đã không làm thế, trái lại, Ngài đã đi cho tới tận cùng những nỗi khổ đau của thân phận con người. Ngài đã chấp nhận mọi hy sinh, mọi đắng cay và sau cùng đã chấp nhận chính cái chết ê chề trên thập giá, để giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi, để cứu chúng ta khỏi nọc độc của thế gian.
Đây là điều mà Chúa Giêsu đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong Phúc âm. Chẳng hạn qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Ngài đã nói với Nicôđêmô: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban chính Con Một của mình để những ai tin vào Người Con ấy thì không phải chết nhưng sẽ được sống muôn đời. Nơi khác Ngài bảo: Con Người đến hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Trong bữa Tiệc Ly, Ngài phán với các môn đệ: Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con, này là máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Rồi thì Ngài cũng đã xác quyết: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta…
Tất cả phải chăng để chứng tỏ một tình yêu bao la mà Ngài đã dành cho chúng ta, bởi vì không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Bởi đó, trong Mùa Chay này chúng ta hãy dành lấy một vài phút để suy nghĩ và cảm tạ tình thương của Chúa, đồng thời chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem, chúng ta đã làm được những gì để đáp trả tình yêu thương ấy.

36. Ánh sáng thật
(Suy niệm của Lm. Bar. Lê An Phong, SDB)
Tin mừng tuần thứ IV Mùa Chay này nằm trong phần mà Thánh sử Gioan nói cho chúng ta về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Trưởng lão Nicodemo. Cuộc chuyện trò của Chúa với Nicodemo (Ga 3, 1-13) đề cập đến sự tái sinh trong Chúa Thánh thần như là việc cần thiết để có sự sống mới hay “được vào Nước Trời”. Ở hồi kết (Ga 3, 14-21), câu chuyện đã khép lại với lời mời gọi “nhận biết ơn cứu độ” nơi Con Thiên Chúa, và “tin vào Người” để được sống, như chuyện đã xảy ra thời ông Mose với con rắn đồng được treo cao trong hoang địa.
Thông điệp mà Lời Chúa (Ga 3,14-21) gởi đến cho chúng ta là một lời tỏ bày về chính Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Người qua Đức Giêsu. Đó là mạc khải về một Thiên Chúa Tình yêu. Người yêu “thế gian”, yêu nhân loại, yêu đến nỗi đến trần gian để gặp gỡ họ. Cách thức mà Thiên Chúa thực hiện cuộc gặp gỡ này là việc việc Ngôi Lời nhập thể.
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
“Con Thiên Chúa đã làm người”, đã đến trần gian để thực hiện một “cuộc trao đổi diệu kỳ giữa trời và đất”, đã mang đến cho trần gian đang ngập trong bóng tối của sự dữ và tội lỗi một tia hy vọng. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”(Ga 3, 17). Đó cũng là một kế hoạch yêu thương mà Thiên Chúa đã định trong Đức Kitô, nhờ Đức Kitô mà thực hiện, để con người được hưởng nhờ hồng ân cứu độ (x. Ep 1,9). Ai từ chối kế hoạch này, hay là không tin nhận Thiên Chúa tình yêu, không chấp nhận Đức Kitô – Con Thiên Chúa, sẽ lìa xa tình yêu Thiên Chúa và tự nhận lấy “án phạt” đời đời, là sống kiếp kiếp trong “bóng tối” và “sự dữ” (x. Ga 3, 18-19).
Lời Chúa Giêsu nói với ông Nicodemo là một cảnh báo đối với chúng ta trong Mùa Chay: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì họ vẫn tiếp tục làm các việc xấu xa. Một dấu hiệu khác cho ta thấy rằng ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách; còn ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, “để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa (x Ga 3, 19-21).
Chúng ta đang sống trong tình trạng nào: của ánh sáng hay bóng tối, của sự tỏ hiện như những chứng nhân hay là ẩn nấp trong tội tình và sợ sệt vì tâm hồn bất an và vì hành vi bất minh của một kẻ tội phạm?
Dù sao đi nữa, vẫn còn có đó cho chúng ta nhiều “cơ hội” để “làm lại cuộc đời”, vì chính Chúa Giêsu cũng đã nói với Nicodemo: Con Thiên Chúa không đến để luận phạt thế gian nhưng là để giải thoát, đến để mang Tin vui của Yêu thương và Tha thứ. Chúng ta còn có thời gian để ăn năm, sám hối và hoán cải lòng mình.
Lời Chúa kêu gọi chúng ta bỏ đi sự cố chấp, sự ẩn khuất, việc né tránh tiếng gọi lương tâm và bỏ quên luật sống theo Tin mừng. Mến Chúa và yêu thương anh em mình vẫn luôn là con đường chúng ta cần tiến bước để sống ơn gọi làm kitô hữu mọi thời và mọi nơi.
Lời Chúa tiếp tục kêu mời chúng ta bỏ đi con đường sai trái, hòa nhập với Ánh sáng Chân lý là Đức Kitô, tin và sống theo lời Ngài. “Ai sống trong Sự thật thì đến cùng Ánh sáng”. Chúng ta vẫn còn có cơ hội để khám phá Sự thật của Thiên Chúa và sự thật về con người, để sống thật với chính mình, sống thật với anh chị em và với Chúa trong đời thường, giữa bao khó nguy ngập tràn, thử thách, cám dỗ. Trong ánh sáng của Đức tin và hy vọng mà Chúa Kitô đã rọi vào lòng ta, chắc chắn chúng ta có thể làm mọi việc hợp với thánh ý Chúa Cha. Và hy vọng đây cũng chính là niềm vui mà chúng ta có thể cảm nhận được trong hành trình sám hối của Mùa Chay năm nay.

37. Nhìn lên ánh sáng
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong sa mạc, dân Israel kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Thiên Chúa cho rắn độc ra cắn họ, khiến nhiều người phải chết. Dân chúng xin ông Môsê khẩn cầu Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền cho ông làm một con rắn bằng đồng và treo lên để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống (Ds 21, 4b-9).
Hôm nay, khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi ta cũng hãy biết nhìn lên Thánh giá để được sống. Việc nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên Thánh giá mở ra cho ta những nhận thức sau:
1) Nhận thức về tội lỗi của ta. Dân Do thái phản nghịch với Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Chính tội lỗi làm người ta phải đau khổ. Chính tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Chính tội lỗi đã gây ra chết chóc. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội lỗi. Cũng vậy, vì tội lỗi của ta mà Đức Giêsu đã chịu treo trên Thánh giá. Người nào có tội tình gì mà phải chết đau đớn, tủi nhục như thế. Không một mảnh vải che thân. Chết lúc tuổi thanh xuân. Chết như một tội nhân. Chết như một người nô lệ. Trước khi chết đã bị sỉ nhục, bị hành hạ đến tan nát hình hài, đến chẳng còn hình tượng con người. Tất cả chỉ vì tội lỗi của ta. Tội lỗi đã làm ta phải chết. Tội lỗi làm linh hồn ta bị biến dạng, méo mó, xấu xa. Tội lỗi khiến ta tủi nhục chẳng dám ngẩng mặt nhìn lên. Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của ta. Người chịu nhục nhã cho ta được vinh quang. Người chịu thương tích để chữa lành vết thương của ta. Người chịu chết như nô lệ để ta được tự do. Người chịu chết cho ta được sống. Người chịu treo lên để kéo ta khỏi vũng bùn nhơ tội lỗi. Nhìn ngắm Người chính là nhìn ngắm tội lỗi của ta. Hiểu được cái chết đau đớn tủi nhục của Người là ý thức được tội lỗi nặng nề của ta.
2) Nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Nhận thức về tội lỗi đưa ta đến nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Ta tội lỗi đáng phải chết. Nhưng Chúa thương yêu không bỏ rơi ta. Người tìm hết cách cứu ta. Tình yêu Chúa dành cho ta thật bao la tha thiết. Tình yêu đã khiến Chúa ra như điên dại. Còn ai điên dại hơn người dám hy sinh con một mình để cứu người khác. Thế mà Chúa Cha đã “yêu ta đến nỗi đã ban Con Một” của Người cho ta. Còn ai điên dại hơn kẻ dám liều mạng chết vì người yêu. Thế mà Đức Giêsu đã tự nguyện chết cho ta. Người đã dậy ta: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã hy sinh mạng sống để làm chứng tình yêu Người dành cho ta. Ta có xứng đáng gì đâu? Ta chỉ là một hạt bụi. Ta ngập trong yếu đuối tội lỗi. Thế mà Người yêu thương đến điên dại, đến chết vì ta. Càng nhìn lên Thánh giá, ta càng thấy mình tội lỗi. Càng thấy mình tội lỗi, ta lại càng thấy tình yêu thương của Chúa dành cho ta thật là bao la, tha thiết, mênh mông khôn tả.
3) Nhận thức về ơn cứu độ của Chúa. Trong sa mạc họ chẳng tìm ra người có thể cứu chữa họ. Chẳng có thuốc nào cứu họ khỏi chết. Chỉ mình Thiên Chúa có thể cứu họ. Thế nên họ phải nhìn lên con rắn đồng để được Chúa cứu. Ta cũng thế. Biết thân phận mình tội lỗi yếu hèn, ta càng cảm nghiệm được ơn cứu độ của Chúa. Ta ngập chìm trong tội lỗi, chẳng thể nào vươn lên được nếu không có ơn cứu độ của Chúa. Ta yếu đuối, chẳng thể nào tự sức mình đứng lên nếu không có ơn Chúa nâng đỡ. Ta bị giam cầm trong ngục tù sự chết, chỉ có Chúa mới có thể tháo bỏ xiềng xích, đưa ta tới miền sự sống. Linh hồn ta ngập ngụa nhơ uế, chỉ có Chúa mới có thể rửa sạch tội tình. Linh hồn ta bị bóng tối tội lỗi phủ vây, chỉ có ánh sáng của Chúa mới soi chiếu cho ta biết đường ngay lẽ phải.
Nhìn lên Thánh giá chính là từ nơi tối tăm nhìn lên ánh sáng. Ánh sáng tình yêu thương từ Thánh giá chiếu toả sẽ giúp ta an tâm trở về với Chúa là Cha, người Cha nhân hiền lúc nào cũng chờ đón đứa con hoang đàng trở về, lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho ta. Ánh sáng cứu độ từ Thánh giá chiếu toả sẽ giải thoát ta khỏi bóng tối tội lỗi, đưa ta trở về làm con cái Thiên Chúa Sự Sáng. Ánh sáng tình yêu và ánh sáng cứu độ sẽ nâng ta lên, để từ nay ta vượt thoát lên khỏi bóng tối tội lỗi, sống thanh sạch công chính, luôn mơ ước những điều cao thượng, xứng đáng là con cái sự sáng. Trong mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh, ta hãy năng chiêm ngắm Thánh giá, để Chúa nâng tâm hồn ta lên với Chúa.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32), xin hãy lôi kéo hồn con lên với Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn có cảm thấy mình được Chúa yêu thương không? Hãy kể lại một kinh nghiệm trong đó bạn cảm nhận được tình yêu thương của Chúa.
2) Bạn có thấy mình yếu đuối, cần ơn Chúa cứu độ không?
3) Bạn đã chiêm ngắm Thánh giá lâu giờ chưa? Bạn có muốn chiêm ngắm Thánh giá trong mùa Chay này không?

38. Chuộng tối hơn sáng
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Cúp điện bất ngờ là điều gây khó chịu.
Trong bóng tối, người ta đi tìm hộp quẹt, tìm ánh sáng để thắp lên một ngọn nến, một cái đèn dầu. Nói chung chẳng ai thích bóng tối, vì bóng tối là dấu hiệu của lạc hậu, thiếu văn minh.
Ấy thế mà cũng có những người mê bóng tối. Bóng tối của quán bia ôm, của Karaokê, của sàn nhảy… Phải bỏ tiền ra để mua được bóng tối. Bóng tối đồng lõa, che đậy, lấp liếm, làm mặt nạ. Bóng tối trong tâm hồn cần có bóng tối ở ngoài. Nó sợ ánh sáng làm lộ chân tướng.
“Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.”
Ghét ánh sáng, chuộng bóng tối: đó là thảm kịch nơi lòng con người, bởi lẽ con người được sinh ra để sống cho ánh sáng.
Lắm khi người ta từ chối tin vào Đức Kitô, từ chối đến với ánh sáng và sự thật, chỉ vì đời họ chìm trong bóng tối và giả trá. Những lý do biện minh cho sự từ chối này thường đến sau khi đã chọn lựa.
Cần thay đổi cuộc sống để tin hơn vào Thiên Chúa, nhưng cũng cần can đảm đến với ánh sáng dù biết mình đang chìm trong bóng tối; hay đúng hơn, vì biết mình nô lệ cho bóng tối mà ta khao khát vươn tới ánh sáng.
Đừng trốn chạy ánh sáng như Ađam, Evà. Hãy để cho ánh sáng vén mở chính mình, bắt ta đối diện với sự thật trần trụi về mình, để rồi ta được rực rỡ trong niềm vui.
Chỉ có một cách ra khỏi bóng tối đó là trở lại với ánh sáng, bằng cách ngước nhìn lên…
Dân Do Thái xưa trong sa mạc đã được chữa lành nhờ tin tưởng nhìn lên con rắn đồng treo trên cây gỗ.
Ngày nay, chúng ta được cứu độ, được sự sống đời đời nhờ tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên thập giá.
Thập giá là tột cùng của nhục nhã đớn đau, nhưng cũng là biểu hiện tuyệt vời của một tình yêu.
Kitô hữu không phải là người tôn thờ đau khổ, nhưng là người say mê tình yêu: tình yêu của Cha khi trao ban người Con yêu dấu, tình yêu của Con khi hiến tặng mạng sống mình.
Nhiều nơi đã đặt tượng Chúa phục sinh trên thập giá, nhờ đó bầu khí nhà thờ tươi vui hơn. Nhưng ta vẫn không được quên nhìn lên thân xác bầm tím nát tan của Đức Giêsu trên Núi Sọ.
Ước gì tôi biết nhìn lên tình yêu bị treo và trở lại với ánh sáng để ánh sáng đưa tôi vào sâu hơn trong tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Trong tôi có ánh sáng và bóng tối; ngoài ra còn có nhiều bóng mờ, nơi khôn g sáng hẳn hay tối hẳn. Bóng mờ dễ chuyển thành bóng tối. Bạn có thấy một số bóng mờ trong đời bạn không? Chúng nguy hiểm đến mức nào?
Thế giới hôm nay tràn ngập ánh sáng của đèn điện. Nhưng vẫn có nhiều bóng tối đang rình rập các bạn trẻ. Bạn có gặp bóng tối nào không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng. Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng giây phút của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.

39. Yêu thương tha thứ
1. Tặng quà là một trong những phương cách biểu hiện lòng yêu quý nhau. Món quà càng có giá trị, càng được chuẩn bị kỹ lưỡng, có thể nói lên tâm tình của người tặng dành cho người nhận. Nhìn lại Lịch Sử Cứu Độ, Thiên Chúa luôn yêu thương dân Người, thời Cựu Ước, Thiên Chúa nhờ các ổ phụ, các ngôn sứ để dạy dỗ, mạc khải… tình yêu của Thiên Chúa cho dân riêng của Người. Thời Tân Ước, sau một thời gian lâu dài chuẩn bị, Thiên Chúa ban tặng chính Con Một là Đức Giêsu cho loài người, đây là món quà cao quý nhất mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Đức Giêsu đến thế gian không phải để luận phạt, mà đem ơn cứu độ, đem lòng yêu thương, tha thứ cho loài người.
2. Bài Tin Mừng hôm là một phần trong cuộc đối thoại với Ông Nicôđêmô. Đức Giêsu nhắc lại câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc thời Xuất hành. Hình ảnh con rắn đồng, đó là tìền trưng của Đức Giêsu, Đấng Cứu Chuộc: “Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ giương cao như vậy”.
Hẳn chúng ta còn nhớ, sau khi rời khỏi Ai Cập để tiến về đất Chúa hứa. Suốt bốn mươi năm trong hoang địa, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương chăm sóc dân Do thái, cho cột mây, cột lửa dẫn đường; đói có mana, có chim cút; khát có nước chảy ra từ tảng đá, thế nhưng họ vẫn chưa thoả mãn, vẫn kêu trách Thiên Chúa. Một lần cơn thịnh nộ của THIÊN CHÚA đã giáng xuống đám dân này, đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Họ đã nhận ra lỗi lầm của họ và chạy đến cầu cứu với Môsê, Thiên Chúa dạy Môsê đúc con rắn bằng đồng treo lên cao, để ai bị rắn độc cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng này sẽ được cứu. Thật ra, Không phải chỉ lần này, mà nhiều lần dân Do thái đã sa ngã, nhưng Thiên Chúa đều rộng lòng tha thứ. Điều này cho ta thấy Thiên Chúa , Đấng giàu lòng tha thứ và hay thương xót.
Nếu con rắn đồng là biểu tượng nói lên lòng yêu thương, tha thứ của Thiên Chúa , thì Đừc Kitô, Con Một của Người, được giương cao trên cây Thánh giá, chính là lòng tha thứ của Thiên Chúa dành cho loài người đạt đến đỉnh cao tuyệt đối: “Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Người mà được cứu độ”.
Đọc Tin Mừng, chúng ta dễ thấy, lòng tha thứ của Đức Giêsu dành cho tất cả mọi người, nhất là những người được xem là tội lỗi như thu thuế, đàng điếm; ngay trên cây Thánh giá, Chúa đã tha cho người trộm lành, cho những kẻ bắt bớ sỉ nhục Ngài. Ngày hôm nay việc tha thứ vẫn được tiếp diễn, qua Bí tích Hòa giải, dù tội chúng ta nặng nề như thế nào, nếu thành tâm quay về cùng Chúa, Ngài sẽ tha thứ tất cả.
3. Mùa Chay là mùa của lòng yêu thương tha thứ. Bởi thế, cùng với việc cầu nguyện, ăn chay, thì sống bác ái đối với nhau là một việc làm rất cần thiết, hữu ích. Một trong những việc làm bác ái cụ thể mà Đức Kitô mời gọi chúng ta sống theo tinh thần, gương của Ngài đó là tha thứ cho nhau, quên đi những lỗi lầm của nhau. Thật vậy, trong đời sống chung làm sao tránh được những điều mất lòng nhau, nhiều khi vô tình hoặc do cố ý.
Hãy sống bác ái, bằng việc tha thứ, từ những người gần gũi. Hãy thực hiện việc tha thứ từ trong gia đình, cộng đoàn: vợ chồng đối với nhau, con cái đối với cha mẹ, cha mẹ đối với con cái, anh chị em đối với nhau, những người chung sống… Từ việc yêu thương tha thứ với những người trong gia đình, cộng đoàn, chúng ta sẽ đi xa hơn trong việc tha thứ đối với người khác: chòm xóm, những người cùng làm ăn buôn bán, nơi làm việc.
4. Muốn tha thứ cần phải có làm hòa. Có thể chúng ta muốn tha thức cho anh chị em chúng ta, nhưng do tự ái, tự cao, chúng ta đặt điều kiện người anh chị em đó phải đi bước trước đến với tôi thì tôi mới tha. Hãy nhìn vào Đức Giêsu, Ngài đã đi bước trước, bỏ trời cao để đến với con người tội lỗi. Bỏ ra món quà để tặng nhau, bỏ ra tiền bạc của cải đễ giúp nhau xem ra dễ hơn rất nhiều bỏ cái “tôi”. Cái “tôi” tự ái, cái “tôi” tự cao, cái “tôi” bướng bỉnh. Vì thế có thể nói tha thứ là món quà quý giá mà chúng ta trao cho nhau. Bởi muốn tha thứ phải bỏ những cái “tô” hẹp nòi như đã nêu trên.
Muốn tha thứ cần phải quên đi những lầm lỗi của người khác, thường thì chúng ta dễ quên điều tốt mà lại nhớ lâu lỗi của người khác. Chính vì vậy khó tha thứ cho anh chị em của minh! Chúng ta nên noi gương Thiên Chúa giàu lòng vị tha: Người không nhắc dân Do thái đã lỗi với Người bao nhiêu lần. Thiên Chúa cũng không nhớ quá khứ tội lỗi của chúng ta, thì chúng ta cũng đừng để lòng về thiếu sót của tha nhân, đó là điều kiện để chúng ta thực hiện việc tha thứ tốt hơn.
5. Người Kitô hữu không những được hưởng hồng ân Cứu Độ từ Thập giá của Đức Giêsu mà Chúa cũng mời gọi mỗi người chúng ta thông phần vào việc chia sẻ niềm vui Thập giá của Ngài. Vì thế hãy tiếp tục đem tình yêu, sự tha thứ của Chúa đến với tha nhân. Hãy góp phần phân phát món quà quý giá này, đặc biệt là trong mùa Chay thánh, bằng cách sống yêu thương, tha thứ.

40. Sự thật đổi mới chúng ta
Trong cái tranh tối tranh sáng của cuộc đời. Thiên Chúa đổi mới chúng ta. Ngài ban Con Một Ngài cho chúng ta để mặc khải chân lý cho chúng ta và mở đường cho chúng ta đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Bài Tin Mừng hôm nay khó hiểu. Nó không kể lại một giai đoạn trong đời Chúa Giêsu hoặc một dụ ngôn. Đây là một suy tư về đời sống vĩnh cửu và về việc Thiên Chúa sai Con Một Ngài đến với chúng ta để cứu độ chúng ta, để đổi mới chúng ta.
Ánh sáng về con người của chúng ta.
Thật khó nói về đời sống vĩnh cửu: Chúng ta biết rất ít về cuộc sống này. Tuy nhiên một số kinh nghiệm trong cuộc đời trần gian có thể giúp chúng ta tưởng tượng ra cuộc sống ấy như thế nào.
Có những lúc trong đời chúng ta có cảm giác như đã khám phá ra một điều gì quan trọng làm cho mọi sự được sáng tỏ trước mắt chúng ta. “Đúng rồi, tôi là như vậy, và tôi muốn trở thành như vậy đó”. Lúc ấy chúng ta có cảm tưởng đã tìm thấy được sự thật về con người của mình như các triết gia hoặc như các nhà tâm lý học nói. Có lẽ đây là một kinh nghiệm hiếm có, nên khi điều này xảy ra, khi chúng ta được nối kết vào con người sâu thẳm của chúng ta, chúng ta có cảm tưởng như tìm được con đường mà ta phải đi. Lúc đó ta dễ hoạt động hơn bởi vì ta đã khám phá được mình là ai. Lúc đó ta có thể hành động theo sự thật mà ta có về mình. Nếu điều này xảy ra, và thường là trong một giai đoạn u tối của cuộc đời khi chúng ta không còn biết “bám víu” vào đâu nữa, hoặc chúng ta không còn biết cuộc đời mình có giá trị gì, thì chúng ta lại được cứu. “Mà thật, đúng thế, trước đây tôi đã không thấy điều này. Ô, nhưng mà nó làm thay đổi mọi sự!”. Lúc đó ta cảm thấy mình được đổi mới, đầy sức lực, đầy những khả năng mới, sẵn sàng sống theo sự thật mà ta vừa khám phá ra.
Cũng gần giống như vậy về sự sống vĩnh cửu là ánh sáng và sự thật. Sự sống ấy đến với chúng ta như một ân huệ của Thiên Chúa, Đấng muốn chúng ta sống thực sự. Nhưng chúng ta biết rằng sự thật đôi khi quấy rầy những thói quen sống của chúng ta và chúng ta từ chối ánh sáng và những thách thức của nó. Vì thế mà Tin Mừng khắt khe với những kẻ từ chối Chúa Giêsu Kitô. Cũng như những sự thật mà đôi khi chúng ta phát hiện được trong cuộc đời chúng ta, sự sống vĩnh cửu không tự áp đặt cho ai cả. Nó chỉ tự giới thiệu mình để chúng ta lựa chọn mà thôi. Đây vừa là một lời mời gọi vừa là một hồng ân.
Một lời mời gọi sống.
Vậy Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Con Một Ngài để giúp chúng ta sống sự thật nơi con người chúng ta và chính vì thế mà Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta sự thật về con người chúng ta và về mối quan hệ giữa chúng ta với tha nhân và với Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu là tin vào đời sống vĩnh cửu và mời gọi chúng ta sống theo sự thật này: Thiên Chúa là Cha, và chúng ta là anh em với nhau.
Có lẽ thường thường chúng ta sống trong sự mập mờ của cuộc đời và những kinh nghiệm của chúng ta về sự thật sâu xa vẫn là điều hiếm có. Nhưng kẻ đã tìm được sự thật của Chúa Giêsu Kitô, kẻ tin vào Chúa Giêsu vì đã thực sự khám phá ra Ngài vào một ngày nào đó trong đời mình, người ấy đã tìm thấy được ánh sáng trong thâm cung của lòng mình. Ánh sáng này đôi khi có thể leo lét, nhưng kỷ niệm về việc tìm thấy nó vẫn tiếp tục soi sáng cuộc đời của họ, cho cuộc đời ấy một ý nghĩa, và dẫn đưa họ đến với tha nhân để sống theo sự thật.
Tin Mừng nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đến không phải để kết án nhưng để cứu độ chúng ta, để cho cuộc đời chúng ta được đổi mới nhờ sự thật. Và chúng ta được đổi mới khi chúng ta nhìn thấy rõ hơn, khi chúng ta cảm thấy mình sống động hơn, khi những năng lực mới giúp chúng ta vạch ra những dự án mới hoặc cho chúng ta can đảm và sức mạnh để tiếp tục những gì mình đã bắt đầu. Chính nhờ thế, mà cuộc sống vĩnh cửu đã mở ra cho chúng ta: một con đường mới để sống với bản thân, với Thiên Chúa và với tha nhân, nhờ ánh sáng mà Chúa Giêsu mang đến cho thế giới và cho cuộc đời chúng ta.
Sống vĩnh cửu là chiêm ngắm mầu nhiệm lớn lao nơi thâm tâm chúng ta và trong lòng kẻ khác, chiêm ngắm Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã đến mặc khải cho chúng ta. Sống vĩnh cửu là hành động theo sự thật. Vậy nên như Tin Mừng nói, công việc của chúng ta “sẽ được nhìn nhận như là công việc của Thiên Chúa”, công việc của những con người được tháp vào sự thật và không sợ ánh sáng bởi vì họ biết rằng ánh sáng của Chúa Giêsu Kitô nhằm cứu độ mọi người chúng ta và cả thế giới.

41. Đức tin hôm nay của tôi cứu tôi
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Thánh sử Gioan viết cuốn Phúc âm của Người vào quãng 60 năm sau khi Chúa về trời. Trí nhớ của bậc cao niên nhiều khi rất chính xác để gợi lên những kỷ niệm lúc thiếu thời, đã làm cho Người nhớ lại cảnh tượng ngoạn mục trong cuộc đời Chúa Giêsu những giáo huấn đặc biệt mà Thày Chí Thánh đã ban bố. Đoạn Phúc Âm đọc hôm nay tiếp nối vào câu chuyện ông Nicôđêmô đến đàm đạo cùng Chúa Giêsu ban đêm. Cuộc đàm đạo nhắm chủ đề đức tin và sự tái sinh trong Chúa Thánh Thần. Sau khi thuật lại câu chuyện trên, thánh sử quy tụ vào sự suy tư cá nhân, một tổng hợp các giáo huấn mà Chúa Giêsu đã ban bố hoặc gợi ý. Sau khi đã nhận lấy và nghiền ngẫm các giáo huấn đó, thánh Gioan trao nó lại cho chúng ta dưới ánh sáng của “Chúa Giêsu đã về trời”, trong một văn thể mà sự suy gẫm riêng tư của Người đã mang lại. Điều này xứng đáng dành cho chúng ta nhiều phản ảnh tuyệt vời của một đức tin được trực tiếp cấp dưỡng từ nguồn gốc vì chưng thánh Gioan đã từng được biết Đức Giêsu phản ảnh của một đức tin sâu xa nghiền ngẫm bởi chưng thánh Gioan đã sống Phúc Âm đó như một môn đệ say sưa trung thành.
Ở đây, thánh Gioan đưa ra ánh sáng điều mà thánh Phaolô đã không ngừng nhắc nhở trong các thơ của Người, đó là “mầu nhiệm” ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã ban cho đức tin của chúng ta: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian để cứu chuộc loài người. Được thừa hưởng ơn cứu độ ấy là những kẻ khi gặp Chúa Kitô, nhờ ân sủng đã tin vào Người.
1) Kiểu nói “Con của Người” xuất phát từ tiên tri Đanien (Đn 7,13). Cách tổng quát, Phúc Âm đã áp dụng danh hiệu đó cho Chúa Giêsu để định nghĩa cho nhiệm vụ Cứu thế qua việc nhập thể, cuộc Khổ nạn và sự Phục Sinh của Người. Chúng ta được phép hiểu câu “Con Thiên Chúa làm người”. Từ đó, chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu thực hiện mẫu người trọn hảo đã hoàn thành, bởi vì Người vượt mình trong Thiên Chúa. Thánh sử Gioan kể lại: “Con Người phải được nâng lên cao”. Đây là ý nói đến việc Chúa bị treo lên thập giá. Sự liên tưởng đến con rắn đồng treo lên cao của ông Môsê, xuất xứ từ một đoạn trích trong sách Dân số (Ds 21,6-9). Đoạn sách ấy thuật lại rằng: Khi dân Do Thái đi qua sa mạc, trong một miền đầy rắn, khi bị rắn cắn, họ được cứu nguy cách kỳ diệu là hễ nhìn lên con rắn đồng –một thứ đồ mã- mà Môsê đã dựng lên cho dân thấy thì dầu có bị rắn cắn cũng không sao. Giai thoại ấy được thánh sử gợi lại ở đây để tiêu biểu cho một thực tại siêu nhiên là ơn Cứu độ dành cho hết thảy những ai nhìn lên Thánh giá Đức Kitô với lòng tin.
2) Ai tin vào Người không bị kết án. Ai không tin vào Người, thì bị luận phạt rồi. Kiểu nói trên đây báo hiệu là đức tin vào Chúa Giêsu Kitô bao gồm sự dấn thân dứt khoát, có hiệu lực chung quyết. Đức tin hôm nay của tôi (dĩ nhiên với điều kiện là tôi không chối bỏ đức tin ấy) đã cứu tôi, ngày tôi từ giã cõi đời và cũng là ngày tận thế. Từ nay cho đến ngày cuối hết đó, dĩ nhiên còn có thể xảy đến biết bao thăng trầm. Nhưng đức tin hiện tại của tôi đã đặt tôi về phía đối nghịch của sự kết án, nghĩa là trong lượng thứ tha của Thiên Chúa, trong sự tiếp đón, và tình nghĩa thiết của Người. Điều này biện giải tại sao đức tin nồng nhiệt của tôi hôm nay có tầm mức rất quan trọng đến cuộc hội ngộ mai ngày của tôi cùng Thiên Chúa. Mỗi ngày hiện tại chuẩn bị trong tôi ngày sau hết của tôi, nhưng nhờ đức tin của tôi nơi Chúa Giêsu, ơn nghĩa phi thường của Thiên Chúa không phải là chuyện sẽ tới nhưng thực sự ơn nghĩa ấy đã hiện hữu nơi tôi và đang biến đổi tôi. Đức tin đó đòi hỏi tôi dấn thân sống trong ánh sáng, nghĩa là trong sự thẳng thắn thực tiễn của lòng trung thành với Phúc Âm. Ai hành động trong chân lý tức là đến cùng Ánh sáng.

42. Tình yêu lớn nhất
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Có rất nhiều giai thoại kể về những tượng thánh giá cổ xưa… Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ giá, nhưng cánh tay mặt thì rời ra và đưa lên phía trước trong tư thế ban phép lành.
Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Một hôm có một hôm có một tội nhân đến xưng tội với vị linh mục chính xứ ngay dưới cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội thật nặng cũng như ngăm đe nhiều điều. Tội nhân ra về lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật nấy, không bao lâu, người đó lại sa ngã. Lần này, sau khi tội nhân xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe doạ: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho anh!”
Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên cây thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát. Ngài lên giọng: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho anh nữa!”. Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân sám hối, thì Ngài bỗng nghe một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Và vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người này chứ không phải ngươi”.
Từ đó, bàn tay của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ban phép lành, như không ngừng mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ. Du khách đến viếng, nhìn lên thánh giá đều có cảm tưởng như ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn mình và nghe như có tiếng thì thầm: “Ta không hề kết án con”.
Anh chị em thân mến, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá của Đức Kitô. Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Ngài luôn tha thứ chứ không kết án. “Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó bỏ đường tội lỗi, quay trở lại để được sống” (Ed 33,11). “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. “Cũng như Môsê treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Ngài sẽkhông phải chết, nhưng được sống đời đời”. Thập giá đã trở thành dấu chỉ ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài, tương tự như con rắn đồng đã được Môsê giương cao trong sa mạc thuở xưa, để những ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng ấy đều được cứu sống.
Thánh Gioan còn nói tiếp: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Thiên Chúa một lần nữa lại biểu lộ tất cả tình thương của Ngài đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Tất cả bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Tình yêu của Ngài không ở trên mây trên gió, nhưng được thể hiện qua hành vi “trao ban”. Điều quí nhất của Người Cha là Người Con. Thế mà Thiên Chúa đã muốn trao ban cho nhân loại chính Con Một dâú yêu của Ngài. Ngài đã cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu chính là quà tặng lớn nhất Thiên Chúa Cha đã trao ban cho nhân loại. Việc trao ban này trước tiên được biểu lộ qua việc Ngài sai Con Người và cuối cùng qua việc nộp Con Một cho loài người treo lên thập giá. Đó là lúc Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài cho loài người một cách trọn vẹn nhất, dứt khoát nhất. Bởi vậy, chính lúc đó là lúc Thiên Chúa đã đặt Con của Ngài làm Đấng ban sự sống cho loài người,đểai tin vào Người Con ấy thì được sống đời đời. Vì con của Ngài đến không phải để kết án luận phạt, nhưng để cứu loài người khỏi chết và cho thông phần vào cuộc Phục Sinh vinh quang của Ngài.
Thưa anh chị em, đứng trước thập giá Đức Kitô, chúng ta phải có thái độ nào? Tin vào tình yêu Thiên Chúa hay chối từ tình yêu của Ngài? Chính thái độ đó sẽ định đoạt số phận của chúng ta. Vì thế, tin hay không tin là một chọn lựa sống chết. Mỗi người có đủ tự do tiếp nhận hay từ chối ánh sáng. Ai tin là đón nhận ánh sáng, là bước vào cõi sống. Ai không tin là từ chối ánh sáng và tự đầy đọa mình trong tăm tối, trong cõi chết. Thiên Chúa không cần kết án luận phạt nữa.
“Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài”, đó là chân lý cơ bản nhất của Kitô giáo. Tất cả cuộc đời cuả Chúa Giêsu, cái chết của Ngài trên thập giá, là ngôn ngữ Chúa muốn sử dụng để nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến nỗi sẵn sàng để cho Ngươì Con Một yêu quí của Ngài chết thay cho chúng ta.
Hãy nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Phải, bên kia sự ác độc của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, trái lại để cảm nghiệm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để cảm nghiệm được ơn tha thứ của Ngài, để chúng ta cũng biết cảm thông và tha thứ cho anh em chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều hơn. Thiên Chúa không kết án luận phạt chúng ta, sao ta lại kết án luận phạt anh em mình? “Hãy tha thứ để được Chúa tha thứ. Đừng xét đoán để khỏi bị Chúa xét đoán” (Lc 6, 36-37). Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương ta.
Một lần nữa, hãy ngước nhìn lên thập giá Chúa Kitô:
Hãy xem đó thì biết phép công thẳng của Chúa là thế nào! Hãy xem đó thì biết tội nặng nề gớm ghiếc là chừng nào! Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương ta là dường nào! (Đàng Thánh Giá, chặng 13).

43. Người thợ săn trên trời – ĐGM. Arthur Tone.
Một trong những bài thơ tôn giáo nổi tiếng nhất bằng Anh ngữ tựa đề: “Người Thợ Săn Trên Trời”, sáng tác của Francis Thompson, ông cố chạy trốn Chúa. Ông so sánh Chúa với một thợ săn, vâng một con chó săn theo đuổi linh hồn. Đây là câu chuyện đời tư của Thompson.
Khi còn là cậu con trai, ông có ý định làm linh mục. Nhưng vì ông lười biếng. Cha ông phải ghi tên gởi ông vào trường thuốc. Ông làm quen với thói hút ma túy, nó hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông đi ăn xin, chui rúc trong xóm ổ chuột, kiếm sống qua ngày bằng đánh giày, bán quạt và giữ ngựa. Nhờ lòng tốt của cô gái nghèo, Thompson gặp ông bà Wilfred Meynell. Họ thấy ông có tài, có lòng tốt thầm kín, họ giúp ông bắt gặp tình thương của Chúa.
Bằng chứng hiển nhiên của tình thương Chúa cho chúng ta được diễn tả trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi ban tặng Người Con Một, để những ai tin vào Ngài sẽ không bị diệt vong, nhưng được sống đời đời”. Cha trên trời chứng tỏ tình thương cho mỗi người chúng ta bằng cách sai Người Con yêu quý của Người để đổi lại chúng ta. Như ông Thompson linh hồn chạy trốn Chúa. Như người thợ săn rượt theo con thỏ. Thiên Chúa tìm kiếm từng linh hồn. Khác với người thợ săn, Chúa muốn cứu linh hồn đó chứ không hủy bỏ.
Làm sao chúng ta có thể có một quan niệm về mức độ vô biên của người thợ săn trên trời thương chúng ta? Trong bức thơ gởi cho Giáo đoàn Êphêsô, Thánh Phaolô gợi ý chúng ta nghĩ đến “Chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu Chúa” đối với chúng ta.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì rộng rãi: nó trải rộng tới mọi người; tới dân ngoại, tới người tội lỗi, tới cả những người chống đối Người. Thiên Chúa muốn mọi người được chia sẻ sự tốt lành của Người.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì dài: “Ta yêu ngươi bằng tình yêu vĩnh cửu (Jer 21.3)”. Trước khi có thế giới, Thiên Chúa đã yêu bạn. Tình yêu Thiên Chúa trải qua đời này tới đời kia.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì cao: Nó từ ngai tòa Đấng Tối cao trên trời cao thẳm mà tới. Chiều cao của tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ trong tặng vật của Người cho chúng ta. Có gì cao siêu hơn được chia sẻ chính sự sống của Chúa qua các bí tích. Tình yêu nào cao hơn việc ban Người Con tốt lành, thánh thiện của Người cho chúng ta khi rước lễ.
Tình yêu Thiên Chúa thì thẳm sâu: Thiên Chúa tự hạ mình từ Thiên đàng cao vời xuống chuồng bò thấp hèn ở Bethlem, tới căn nhà tồi tàn và rừng hoang, tới con người rất hèn, tới sự xỉ nhục của thập giá và chiều sâu của nấm mồ.
Một lần nữa, như Francis Thompson, như các vị thánh, chúng ta nhận thấy rằng: Thiên Chúa săn tìm linh hồn chúng ta cùng khắp thế giới. Vậy chúng ta hãy trở về với tình yêu đó. Chúng ta hãy cố gắng “tiến triển trong tình yêu” như chúng ta cầu nguyện trong kinh nguyện Thánh Thể II.
Trong mùa chay, chúng ta hãy nhớ Đấng Tình Thương đã ban cho chúng ta sự sống. Ước chi người thợ săn trên trời bắt được mỗi chúng ta.
Xin Chúa chúc lành bạn.

44. Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu.
(Suy niệm của Noel Quesson)
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một”
Huyền thoại của một nước vùng Ấn Độ có câu chuyện này: Thời xưa, đất nước còn hoang sơ, có một con thỏ tên là Pôlixa. Thỏ Pôlixa rất thương người, ai xin gì cũng cho, không từ chối bao giờ. Một hôm có một cụ già lom khom chống gậy đi tới và nói:
– Già đói lắm, suốt mùa nước lũ già không có gì ăn. Chắc già sắp chết rồi, giờ đây già chỉ thèm một miếng thịt thỏ, Pôlixa có cho già được không?
Thỏ Pôlixa nhìn ông già hom hem yếu đuối, tội nghiệp quá. Thỏ Pôlixa bảo ông:
– Được rồi, ông chờ một lát.
Pôlixa đi kiếm củi xếp thành đống rồi nổi lửa, và nói:
– Ông chờ thịt cháu chín, ông lấy mà ăn.
Rồi thỏ chụm chân nhảy vào lửa. Bỗng nhiên lửa tắt, ông già biến mất. Thì ra đó là một vị thần được Thượng đế cho phép tới thử lòng thỏ. Về sau để thưởng công, Thượng đế đã cho thỏ Pôlixa về vui đùa mãi mãi bên mặt trăng.
Đó chỉ là một chuyện huyền thoại, nhưng có ý nói tới điểm cao nhất của lòng bác ái, là sẵn sàng chết vì người khác. Đó cũng chính là ý tưởng của Đức Giêsu mà thánh Gioan đã ghi lại: “Không có tình yêu nào lớn bằng chết vì bạn hữu”.
Chúa Giêsu đã nói và Ngài đã thực hiện như thế. Chúa chết trên thập giá vì yêu ta. Chính cái chết của Chúa, hay nói khác đi, chính Tình yêu của Chúa đã đem sự sống tới cho chúng ta. Thiên Chúa yêu thương trần gian đến mức trao ban Con Một của Người. Người Con Một đó chính là Tình yêu của Thiên Chúa, đã dùng cái chết để biểu lộ tình yêu tột đỉnh đối với gian trần. Và Tình yêu đó đã đem đến cho trần gian nguồn sống.
Nhiều người thời nay tỏ ra rất bi quan: “Thế trần hư hỏng, vô phương cứu chữa…” thiếu gì lý do để buồn rầu chán nản. Một lương tâm tương đối sáng suốt nào cũng thấy vô số tệ đoan đang diễn ra khắp nơi khắp chốn: bạo lực, bất công, ích kỷ tập thể hay cá nhân, đê tiện đủ thứ, sa đọa, mất lương tâm nghề nghiệp… Người ta lợi dụng nhau, hành hạ nhau, dối trá công khai trên diễn đàn, trong ý thức hệ v,v… Chắc chắn Thiên Chúa thấy rõ những điều này. Tuy nhiên Người vẫn yêu thương trần gian. Người không chịu nổi sự tồi tệ của trần gian. Người muốn cứu vớt trần gian. Thiên Chúa tới chung sống với nhân trần. Người vẫn thấy những gì Người dựng nên là tốt đẹp.
Thiên Chúa muốn con người được sống vĩnh cửu… đó là cuộc sống từ trên ban xuống (Ga 3,3). Thiên Chúa không kết tội trần gian. Nếu trần gian bị kết tội là do tự mình mà ra. Thiên Chúa muốn giải thoát nhân loại, muốn mọi người được cứu rỗi (1Tm 2,4).
Khi con người cương quyết chối từ Thiên Chúa, họ vẫn bó buộc phải sống gần kề Thiên Chúa mà họ chối từ, đó chính là “hỏa ngục”. Và Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. “Thiên Chúa sai Con Người giáng trần không phải để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Ngài mà được Cứu độ. Ai tin vào Ngài thì không bị luận phạt. Còn ai không tin thì đã bị luận phạt rồi”. (Ga 3,17-19).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thêm lòng yêu mến Chúa bằng cách thương mến phục vụ mọi người như Chúa đã yêu thương phục vụ và hy sinh Cứu chuộc chúng con.

45. Lòng tin
Đang khi đàm đạo với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu nhắc lại hình ảnh “con rắn đồng” trong sa mạc. Đây là câu chuyện xảy ra trên đường từ Aicập về đất hứa. Ong Môisen theo lệnh Chúa dẫn “đám dân nô lệ” ra khỏi Aicập về Đất Hứa, trên đường đi Chúa ban Manna để nuôi dân chúng, nhưng ăn riết một thứ họ cũng chán, chẳng còn thấy ngon chút nào, chán đến phát ớn! Họ nhớ lại những củ hành của tỏi ở đất Aicập, vì dù là nô lệ họ vẫn được ăn nhiều thứ.
Càng nghĩ họ càng thèm những món ăn truớc đây họ đã được ăn, thèm nhỏ dãi luôn, không chịu được họ nỗi loạn chống lại ông Môisen, họ muốn quay về để được ăn dù phải làm nô lệ, làm tôi mọi, chẳng đáng một con người. Họ cố chịu đấm để được ăn xôi, cho dù là xôi có hẩm, xôi hẩm cũng vẫn là xôi mà. Để uống nắn và lòng dân, Chúa cho có những con rắn lửa xuất hiện và chúng đã cắn chết rất nhiều người. Họ hoang mang sợ hãi kêu cầu Chúa tha thứ và cứu chữa họ.
Chúa bảo ông Môisen làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để ai bị rắn lửa cắn thì nhìn lên con rắn đồng ấy, thì sẽ được Chúa cứu khỏi chết. “Cũng như ông Môisen giương cao con rắn trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời “. Chúa Giêsu nói đến cái chết của Ngài sẽ phải chịu. Vâng! Ngài sẽ phải bị treo lên cây thập giá, để những ai tin vào danh của Ngài và thực hành những Lời Ngài dạy bảo thì sẽ được cứu sống.
Xưa dân Do thái nổi loạn chống lại ông Môisen, nghĩa là không tin vào Thiên Chúa nữa. Khi họ bị rắn lửa cắn họ đã nghe theo lời ông Môisen dạy, nhìn lên con rắn đồng thì sẽ được cứu sống. Không phải con rắn đồng có khả năng ấy, nhưng vì họ đã vâng nghe theo lời ông Môisen, nghĩa là tin vào Thiên Chúa, bởi ông là Ngôn sứ của Chúa. Chúa đã ra tay cứu chữa họ, dù họ đã bất trung chống lại Ngài. Xưa con rắn đồng cứu sống họ nhưng rồi họ vẫn phải chết, còn Chúa Giêsu sẽ cho những ai tin và thực hành Lời Ngài sự sống cả đời này và đời sau nữa.
Anh chị em, trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, có lẻ đã nhiều lần, nhiều lúc, ở đâu đó, chúng ta cũng bất trung, cũng phản bội lại ơn làm con Chúa khi chúng ta phạm tội hay chúng ta đồng loã với tội lỗi. Hãy mau quay về với Chúa, hãy ngước nhìn lên thánh giá Chúa với tâm tình hoán cải thực sự, hầu được ơn tha thứ. Hãy tin rằng Chúa sẽ tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta. Ân sủng và tình thương của Chúa lớn hơn tội lỗi và sự bất trung của chúng ta.
Tâm tình mà chúng ta cần phải có hôm nay là cám ơn Chúa vì tình thương Chúa lớn hơn tội của chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng học nơi Chúa bài học tha thứ, tha thứ luôn luôn cho anh chị em của mình.
Bản thân chúng ta là những con người tội lỗi yếu đuối, dễ phạm tội, dễ sa ngã, chúng ta cần được Chúa tha thứ thì chúng ta cũng phải biết không ngừng tha thứ cho những sai phạm của anh chị em chung quanh mình.

46. Yêu cho roi cho vọt – Lm Trần Bình Trọng.
Đọc Thánh Kinh Cựu Ước, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa có vẻ dữ tợn và hay trách phạt. Chẳng hạn khi dân chúng trở mặt chống lại Người, Chúa cho nước lụt tràn ngập đất đai, ruộng vườn của họ. Khi họ khô! ng tuân giữ giới răn Chúa, Người cho hạn hán tiêu hủy mùa gặt, và những sản phẩm ruộng vườn của họ. Khi dân Chúa bất trung phản nghịch cùng Người, Chúa gửi dịch tả đến miền đất của họ. Khi họ toan bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại lai, Chúa ra tay sát phạt họ, và dùng dân ngoại thi hành hình phạt của Chúa.
Tuy nhiên vừa khi họ bị sát phạt, thì hàng ngôn sứ của Chúa liền xuống giọng. Các ngôn sứ bảo họ: đó là hình phạt của Thiên Chúa yêu thương và nhân hậu. Vừa khi dân chúng thay đổi cách sống và ăn năn hối tội, thì họ lại được tha thứ và đưa về đất hứa. Lòng nhân từ hay thương xót của Chúa là một thực tại được thể hiện bằng những việc Người làm trong Thánh kinh. Bài trích sách Biên Niên quyển hai hôm nay là một ví dụ điển hình về lòng xót thương của Chúa. Bài Sách này được viết vào khoảng ba trăm năm trước Chúa giáng sinh, khi tác giả đã có thể nhìn về lịch sử quá vãng, mà dân chúng chồng chất bất trung này lên bất trung khác. Từ lần nọ qua lần kia, họ mần ngơ trước sự hiện diện của các sứ giả của Chúa. Và họ còn bách hại các ngôn sứ và các tổ phụ của Người.
Cho tới lúc mà Thiên Chúa không còn dung thứ được nữa, Người liền cho phép quân thù đến tấn công họ. Quân Ba-by-lon đến xâm chiếm đất nước của họ, giết chết hàng ngàn, hàng vạn người. Quân thù phá huỷ thành phố, thiêu đốt Đền thờ và cưỡng ép dân còn sống sót đi lưu đầy bên Babylon.
Tuy vậy Chúa không nỡ bỏ rơi dân Người. Chúa dùng ông vua ngoại đạo là Ky-rô, vua xứ Ba Tư, để cứu thoát dân Người và đưa họ trở về đất hứa. Như vậy ta thấy những hình phạt của Chúa, không phải nhằm báo thù, mà là cách thế để luyện lọc, thanh tẩy và chữa trị họ, khiến họ trở nên tuỳ thuộc vào Chúa.
Phúc âm hôm nay nhắc nhở cho ta về một tai hoạ xẩy ra cho dân Người trong sa mạc trên đường tìm về đất hứa. Khi dân riêng của Chúa chối bỏ Người, đi thờ thần ngoại lai và còn đúc bò vàng để thờ, Chúa phạt họ bằng cách cho rắn độc đến giữa họ. Rồi với lòng thương xót, Chúa truyền cho Môsê làm con rắn đồng, treo trên cây gậy để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị rắn độc cắn mà nhìn lên con rắn đồng, với niềm tin vào Chúa, thì được chữa khỏi. Đức Giêsu coi việc treo con rắn đồng lên cây gậy như là dấu chỉ Người sẽ bị treo trên thập giá để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời (Ga 3:16). Thánh Phaolô, người am hiểu lịch sử ơn cứu độ trong Thánh kinh Cựu ước đã thốt lên trong thư gửi tín hữu Ê-phê-sô hôm nay: Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô (Ep 2:4-5).
Người ta có thể nói Thánh kinh Cựu ước gắn liền với lịch sử của dân Do thái. Nói cách khác, cổ sử của họ là Thánh kinh và họ luôn ghi nhớ lời Thánh kinh. Đi tản mát khắp thế giới sau khi Đền thờ bị phá hủy mà họ vẫn ghi nhớ lịch sử của họ, nhất là nhớ ngày lễ Vượt qua. Những chi họ bị thất lạc cả hai ngàn năm bên xứ Ê-thi-óp cận đại (xứ Cút cổ xưa) hay bên Ấn độ mà vẫn nhớ cội rễ của họ, mặc dầu có những người da ngăm ngăm đen mà họ vẫn nhận có máu Do thái và có những người vẫn muốn trở về đất hứa. Vào thập niên cuối cùng của thế kỉ 20, chính phủ Do thái giàn xếp với chính phủ của quốc gia mà họ đang sinh sống, gửi những chuyến bay bí mật chở họ về tái định cư tại Do thái.
Tại sao bị sát phạt như vậy mà họ vẫn tưởng nhớ đến Chúa? Một ví dụ trong đời sống hằng ngày có thể giúp ta hiểu phần nào tại sao bị phạt mà người ta vẫn nhớ đến người ra hình phạt mà không uẫn ức. Có những học sinh đã trải qua chương trình giáo dục nghiêm khắc. Họ vẫn nhắc lại những mẩu chuyện như xưa bị thầy giáo nọ dùng thước kẻ đánh vào bàn tay, bà sơ kia bắt quì mà họ vẫn có thể cười được vì bây giờ họ thành công trên đường đời, có địa vị trong xã hội, có việc làm tốt, có thể kiếm được việc mới và tái tạo cuộc sống mới ở nơi khác.
Không phải chỉ có dân Chúa trong Cựu ước mới phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa. Lịch sử dân Chúa thời Tân ước cũng không hơn gì, có khi còn tệ hơn nữa. Dân mới được chọn cũng chồng chất từ tội này đến tội khác, lại còn phạm thêm những tội mới như tội phá thai, hoặc những tội mà người ta phạm qua phương tiện truyền thông như phim ảnh, báo chí, truyền hình và ngay cả mạng tin. Có những tội mà người ta còn công khai phạm, không còn phải giấu giếm vì người ta coi là một lối sống của thời đại. Còn cá nhân mỗi người tín hữu, chính ta cũng có tội: tội phạm đến Chúa, tội phạm đến tha nhân, tội trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Thiên Chúa là Đấng nhân từ hay thương xót, nhưng ta phải nhìn nhận tội lỗi mình, thành tâm sám hối và quyết tâm dốc lòng chừa, rồi xin Chúa xót thương tha thứ thì ơn cứu độ mới đến với ta được. Không nhận tội là tội, người ta sẽ không tìm đến thầy thuốc thiêng liêng và như vậy sẽ hết thuốc chữa.
Lời cầu nguyện xin cho được biết chấp nhận việc sửa lỗi:
Lạy Thiên Chúa, Đấng công minh và khoan hậu.
Chúa trách phạt không phải vì muốn trả thù báo oán
nhưng vì yêu thương với mục đích giáo huấn
hầu cho loài được sống.
Xin cho con biết nhìn nhận tội lỗi mình
chấp nhận việc sửa lỗi và làm việc đền tội
với quyết tâm cải thiện đời sống
hầu trở về sống trong ơn nghĩa với Chúa. Amen.

47. Người thợ săn.
Có một thi sĩ, khi còn là một cậu con trai, đã ước mơ làm linh mục, nhưng rồi vì lười biếng, ước mơ ấy đã không bao giờ trở thành sự thật. Lớn lên, ông làm quen với ma túy, và chính ma túy đã hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông kiếm sống bằng nghề đánh giày, bán diêm quẹt và giữ ngựa. Sau cùng đã phải ngửa tay đi xin ăn và chui rúc ở gầm cầu xó chợ.
Giữa lúc ấy, nhờ lòng tốt của một cô gái nghèo, ông gặp được ông bà chủ. Họ thấy ông có tài, nên giúp ông gặp được tình thương của Chúa. Và ông đã diễn tả kinh nghiệm đời mình trong một bài thơ mang tựa đề là “Người thợ săn trên trời”.
Ông cho biết ông đã trốn chạy Chúa thế nào và Chúa đã chộp bắt được ông ra làm sao? Ông so sánh mình là như một con thỏ nhỏ, còn Chúa là như người thợ săn. Khác với người thợ săn, Chúa chộp bắt từng linh hồn, không phải để giết chết, mà là để cứu sống.
Từ mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, trong đó thánh Gioan đã xác quyết:
– Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban tặng Con Một Ngài, để những ai tin vào Ngài thì sẽ không bị tiêu diệt, nhưng sẽ được sống đời đời.
Làm sao chúng ta hiểu được tình thương bao la mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Thánh Phaolô đã gợi ý cho chúng ta nghĩ đến chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu ấy trong bức thư gửi tín hữu Rôma.
Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì bao la như đại dương không bờ không bến. Thực vậy, tình yêu ấy đã được trải rộng trên mọi người, không kỳ thị, không phân biệt màu da và tiếng nói. Tình yêu ấy cũng trải rộng trên cả những kẻ tội lỗi và phản bội Ngài, bởi vì Thiên Chúa muốn chia sẻ sự tốt lành của Ngài cho tất cả chúng ta.
Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì dài lâu như chính bản tính của Ngài, bởi vì Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vĩnh cửu. Thực vậy, trước khi có thế gian, Ngài đã yêu thương chúng ta và Ngài sẽ còn yêu thương chúng ta mãi mãi, từ đời này sang đời kia.
Hơn nữa, tình yêu Thiên Chúa dánh cho chúng ta còn thật cao vời. Đặc tính cao vời này được biểu lộ qua những tặng vật mà Ngài đã trao ban cho chúng ta. Còn gì cao vời hơn khi được chia sẻ chính sự sống của Ngài qua các bí tích. Còn gì tuyệt diệu hơn cho bằng việc Ngài ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, để cứu độ chúng ta và ngày nay việc trao ban ấy vẫn còn được tiếp nối qua việc chúng ta lên rước lễ.
Và sau cùng tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thật là thẳm sâu, bởi vì là một Thiên Chúa quyền năng, Ngài đã hạ mình xuống mang thân phận con người. Sinh ra là một hài nhi bé bỏng nơi máng cỏ Bêlem. Chết đi như một tội nhân bị bêu xấu trên thập giá.
Từ tình yêu ấy chúng ta thấy được rằng: Thiên Chúa luôn săn đuổi chúng ta để rồi dẫn chúng ta vào trong tình yêu của Ngài. Bổn phận của chúng ta trong Mùa Chay này đó là hãy đáp trả tiếng gọi của tình yêu bằng cách chổi dậy, lên đường và trở về với Ngài.

48. Thích gì.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói rất rõ ràng về bản chất của tội lỗi. Tội chính là chọn lựa bóng tối thay vì chọn ánh sáng là đời sống của Chúa Giêsu. Đây là một sự thật rất kinh khủng về tội. Tội là một cớ vấp phạm, không một suy tư nào có thể biện minh cho tội lỗi. Vì Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những hành vi tội lỗi đều là sự dữ.
Điều chúng ta nên làm là thường xuyên phản tỉnh về những chọn lựa mà chúng ta đang làm, và phân biệt đó là sự chọn lựa bóng tối của tội lỗi hay chọn lựa ánh sáng sự thật của Chúa Giêsu Kitô.
Khi phản tỉnh về những điều sai trái của tôi, tôi cảm thấy bị vỡ mộng và khó chịu về sự bất lực không làm được những chọn lựa đúng của tôi. Cuộc sống của tôi dường như phản ánh cuộc chiến đấu của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma đoạn 7. Trong đoạn này, thánh nhân nói điều mà mình biết là cần phải làm thì lại không làm được.
Trong thực tế, Giáo Hội khuyến khích chúng ta thực hành việc xét mình hàng ngày, vào ban tối trước khi đi ngủ. Vào lúc xét mình, chúng ta nhớ lại các sự việc đã xảy ra trong ngày và tạ ơn Chúa vì những phúc lành mà Người đã ban cho chúng ta. Chúng ta cũng nhớ lại các tội đã phạm và những điều chúng ta cần phải làm mà đã không làm và ăn năn thống hối tất cả các tội lỗi đã phạm. Nhờ ơn Chúa, qua việc xét mình này, chúng ta thấy rõ tâm hồn của mình, nhận biết các tội đã phạm, giúp chúng ta tỉnh thức hơn để canh phòng tâm trí của mình và sẵn sàng đón nhận những ơn soi sáng của Chúa.
Chúng ta cần nhận thức cuộc sống của chúng ta là một chiến trường giữa hai lực lượng thiện và ác. Tin Mừng cho chúng ta biết Chúa Giêsu Kitô đã chiến thắng trong cuộc chiến đấu vì chúng ta. Chúng ta chỉ chiến thắng khi khắc phục được tội lỗi và các cơn cám dỗ. Thiên Chúa sẽ không bao giờ để chúng ta chịu thử thách quá sức chịu đựng của chúng ta. Nhưng chúng ta phải cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa, để nhờ đó, chúng ta luôn sống như con cái của ánh sáng và không trượt ngã vào trong vương quốc của tối tăm và tội lỗi.
Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh và can đảm để con chiến đấu với các đam mê tội lỗi và nết xấu của con.

49. Yêu Chúa.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh con rắn đồng để ám chỉ về cái chết cứu chuộc của Ngài. Con rắn đồng là gì? Đây là một câu chuyện thời xưa được Chúa nhắc lại, khi dân Do Thái lang thang trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, họ đã nhiều lần kêu trách Chúa, họ nói rằng: tại sao lại đưa họ vào sa mạc để họ phải khổ như thế này? Số người Do Thái lúc đầu ra khỏi Ai Cập khoảng hơn hai triệu người, con số không phải nhỏ bé, họ được Chúa ban manna ăn mỗi ngày, nhưng rồi họ cũng chán ngán, họ phàn nàn: chẳng có gì vui, chẳng có gì ngon, chỉ có mỗi manna chán ngắt. Khi họ kêu trách Chúa như vậy tức là họ bày tỏ một tấm lòng hết tin tưởng, họ muốn quay trở về với kiếp nô lệ để được ăn củ hành củ tỏi, họ đã mất niềm tin vào Chúa. Có lần Chúa đã cho rắn lửa xuất hiện khắp nơi và cắn chết nhiều người, khi đó họ mới nhớ ra tội mình bội tín, bất trung với Chúa, họ ăn năn và cầu cứu với ông Môsê xin Chúa tha thứ. Chúa động lòng thương bảo ông Môsê làm một con rắn bằng đồng treo lên cây cao, để bất cứ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng này thì được cứu sống.
Thật ra con rắn đồng kia chỉ là một thứ kim loại vô tri vô giác, tự nó không có khả năng hay quyền hành gì để cứu giúp người ta lúc ấy, yếu tố cứu giúp người ta chính là đức tin. Việc nhìn vào con rắn đồng kia là biểu hiệu một lòng tin vào Thiên Chúa, niềm tin từ bên trong phát ra bên ngoài bằng cái nhìn, nhờ đức tin mà Chúa đã cứu họ. Và đó là ý nghĩa của câu Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô: “Ngày xưa, Môsê treo con rắn đồng thế nào thì Con Người sẽ bị treo lên như thế, để nhờ đó những ai tin nhận sẽ được cứu rỗi”. Nói vậy là Chúa có ý ám chỉ cái chết của Ngài, Ngài sẽ chết cách nào, Ngài sẽ bị treo lên thập giá để chuộc tội cho nhân loại.
Nói rõ hơn, ngày xưa, dân Do Thái muốn được khỏi bệnh rắn cắn thì nhìn lên rắn đồng, còn ngày nay, chúng ta muốn khỏi bị trầm luân, hư mất đời đời thì chúng ta cần tin vào Chúa Giêsu, nhận cái chết chuộc tội của Ngài, để Ngài đem hạnh phúc trường sinh cho. Nói như vậy là để chúng ta ý thức tình trạng tội lỗi của mình, nếu chúng ta không biết mình là người có tội, là người phải cần tới Chúa, thì cái chết của Chúa cũng giống như bao nhiêu cái chết khác, không liên quan gì đến mình, hay cùng lắm chúng ta coi cái chết của Ngài cũng như cái chết của một vị anh hùng, nếu như vậy thì cái chết của Chúa sẽ chẳng ảnh hưởng gì đến chúng ta, thái độ đó cũng chẳng khác gì thái độ của những người Do Thái xưa kia nhìn lên rắn đồng với cặp mắt nghệ thuật, nên vẫn bị chết. Chúng ta phải ý thức rằng tất cả chúng ta đều là những tội nhân, bị rớt xuống vực thẳm, không thể tự cứu nổi mình, chứ đừng nói cứu người khác, vậy cần phải có một người ở trên, ở ngoài cứu vớt chúng ta, đó là Chúa Giêsu, Chúa cứu chúng ta bằng cách chết thay cho chúng ta, nếu chúng ta tin nhận như thế là chúng ta đã bắt đầu đi vào con đường cứu độ của Chúa.
Như vậy bài học Chúa Giêsu dạy đã quá rõ ràng, đó là chúng ta phải tin vào Chúa thì mới được cứu rỗi. Nói tới niềm tin chúng ta thấy sống trên trần gian này bất cứ ai cũng có niềm tin, lòng tin hay đức tin. Con người ta sống không thể nào thiếu vắng điều này, chúng ta không tin điều này thì tin điều khác, không tin người này thì tin người khác, chúng ta tin nhau, cha mẹ tin con cái, con cái tin cha mẹ, vợ chồng, bạn bè, trường học, trao đổi xã hội… đều lấy lòng tin làm căn bản. Từ một em bé đến trường, em có tin cô giáo dạy học được, em mới đi học, cuộc sống chúng ta trao đổi hàng quà, đồng tiền, công thợ… đều đặt vào lòng tin tưởng nhau, nếu không tin tưởng nhau chúng ta không thể nào gặp gỡ và nói chuyện với nhau được. Nói khác đi, chúng ta có gần gũi nhau hay không, thương yêu nhau hay không, điều đó cũng tùy thuộc vào lòng tin, chính lòng tin tạo nên hy vọng, tình yêu, một gia đình cùng một lòng tin “tát bể đông cũng cạn”. Như vậy, tin là chuyện bình thường trong cuộc sống, từ đó chúng ta dễ hiểu lòng tin trong lãnh vực tôn giáo, đối với chúng ta, đó là đức tin.
Cũng thế và hơn thế, Thiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta phải có một đức tin sắt son vào Ngài, có bấy nhiêu thôi, nếu chúng ta không tin Ngài thì tin ai? Tin vào mình chăng? Tin vào tài trí, hy vọng vào chính mình, vào đời mình chăng? Làm như vậy là gánh vàng đem đổ sông Ngô, là xây nhà trên cát. Chúng ta tin Chúa, chắc chắn rồi, chúng ta tin lời Chúa, cũng chắc chắn rồi, nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải tin Chúa thương yêu chúng ta. Chúng ta tin Chúa là Cha rất gần gũi con cái, đùm bọc, che chở, quan phòng, rất toàn năng, đó là bấy nhiêu của lòng tin. Từ lòng tin đó chúng ta bắt đầu yêu Chúa. Chúng ta tin nên chúng ta yêu, hay yêu rồi tin cũng thế, chỉ biết rằng lòng tin nâng đỡ tình yêu, và tình yêu nâng đỡ lòng tin, có tin mới yêu, cũng như có yêu mới tin.
Chúng ta đang sống trong Mùa Chay, chúng ta đã đi được một nửa đường của Mùa Chay. Mùa Chay kêu gọi chúng ta ăn năn sám hối, sửa đổi đời sống. Chúng ta là những người tội lỗi, chúng ta tin Chúa yêu chúng ta hơn những người trần gian yêu chúng ta nhất, nên chắc chắn Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta khi chúng ta xin lỗi Ngài. Vậy để biểu lộ lòng chúng ta tin yêu Chúa, chúng ta hãy ăn năn sám hối.

50. Con rắn
Khi đi ngang qua các tiệm thuốc tây hay nhà thương, chúng ta thấy vẽ hình một con rắn, quấn quanh cây cột. Đó là biểu tượng của ngành y, một nghề cứu nhân độ thế. Biểu tượng này bắt nguồn từ một biến cố xảy ra cho dân Do thái trên đường về miền đất hứa.
Bấy giờ họ phàn nàn kêu trách Chúa và Môsê vì đã không cho họ bánh ăn và nước uống như hồi ở bên Ai Cập. Họ đã quá chán ngán thứ manna này rồi. Và thế là Chúa đã trừng phạt họ bằng cách cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người.
Tuy nhiên, khi họ biết ăn năn hối cải, Ngài đã ra lệnh cho Maisen đúc một con rắn đồng, treo nó lên một cây cột và hễ ai bị rắn độc cắn, chỉ cần nhìn lên rắn đồng là được bảo đảm an toàn tính mạng.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhìn thấy nơi con rắn đồng một hình ảnh về bản thân mình.
Thực vậy, như con rắn ngày xưa, Ngài cũng bị treo lên để những ai nhìn lên Ngài với ánh mắt tin tưởng và sám hối, thì sẽ được tha thứ và được sống đời đời.
Trong Phúc Âm, thánh Gioan đã nói đến ba lần việc Con Người phải được giương cao, ám chỉ cái chết của Ngài trên thập giá, nhưng đồng thời cũng mang ý nghĩa về sự Phục sinh và lên trời của Ngài.
Trong cái nhìn của thánh Gioan, thập giá chính là đỉnh cao trong tiến trình trở về với Chúa Cha. Đây là một tiến trình đi lên, trái ngược với tiến trình đi xuống của Ngôi Lời lúc nhập thể:
– Khi nào các ngươi giương cao Con Người lên, các ngươi sẽ biết rằng Ta là ai… Khi nào Ta được giương cao lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta.
Đức Kitô, Đấng đã chịu treo trên thập giá, đã được Phục sinh và lên trời. Chính Ngài không ngừng cuốn hút vũ trụ này về với Ngài, để dâng lại cho Chúa Cha.
Chúng ta đang ở trong Mùa chay, đây là thời gian thích hợp để chúng ta nhìn lên Đức Kitô trên thập giá.
Những người bị rắn độc cắn nơi hoang địa đã nhìn lên rắn đồng như biểu tượng của lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa. Họ nhìn lên với thái độ tin tưởng và đã được thoát chết.
Chúa Giêsu không cứu chúng ta khỏi cái chết phần xác, nhưng Ngài còn làm một điều lớn lao hơn nhiều, đó là cho cả hồn lẫn xác của chúng ta được sống đời đời.
Chúng ta quen hiểu sự sống đời đời là sự sống vĩnh cửu vào ngày tận thế. Tuy nhiên, theo thánh Gioan thì sự sống đời đời đã được bắt đầu ngay từ bây giờ, ngay từ lúc chúng ta còn sống trên trần gian.
Chỉ cần tin vào Đức Kitô là nguồn mạch ơn cứu độ, là quà tặng cao cả nhất của Thiên Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy sự sống của Ngài tràn vào cuộc đời chúng ta.
Chỉ cần nhìn lên những dấu đinh và trái tim bị đâm thâu qua của Ngài là chúng ta sẽ nhận ra dấu chỉ của một tình yêu và chúng ta được mời gọi để sống một cuộc đời hoàn toàn khác, như thánh Phaolô đã viết:
– Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Tôi sống cuộc sống hiện tại của tôi trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Hãy nhìn lên thập giá với tâm tình sám hối, để nhờ đó chúng ta được Chúa tha thứ và được chữa lành khỏi nọc độc của tội lỗi.

51. Thiên Chúa yêu.
Thiên Chúa quá yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Người, để ai tin vào Con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Chúng ta được nghe những lời tuyệt vời này trong bài Phúc âm hôm nay. Đây là một bản tóm tắt thật hay của Tin Mừng.
Điều đầu tiên chúng ta cần ghi nhận, đó là chính Thiên Chúa đi bước đầu trong việc cứu độ.
Đôi khi, chúng ta có cảm giác rằng: trước hết Thiên Chúa phải nguôi cơn giận, sau đó Ngài mới tha thứ cho chúng ta. Chúng ta đã mường tượng ra hình ảnh Thiên Chúa như là một Đấng nghiêm khắc, nóng giận, và không biết tha thứ.
Nhưng trái lại, Đức Giêsu lại giới thiệu Thiên Chúa như là một Đấng đầy khoan dung, giàu lòng và luôn tha thứ. Nhờ sự chết của mình, Đức Giêsu đã thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Nhưng Tin Mừng hôm nay còn cho thấy chính Thiên Chúa đã sai Con của Ngài đến với chúng ta. Chính Thiên Chúa là Đấng đi bước trước.
Thiên Chúa chọn phương pháp của tình yêu, chứ không phải của sức mạnh. Thiên Chúa hành động không vì mục đích của riêng Người, nhưng vì chúng ta. Thiên Chúa không phải là nhà độc tài tuyệt đối, một người không cảm thấy hài lòng, cho đến khi bắt buộc các tạo vật của Người phải vâng phục một cách hèn hạ. Nói đúng hơn, Thiên Chúa là một người Cha, Người không cảm thấy hài lòng, cho đến khi tất cả những con cái đang tản mác của Người được trở về.
Đoạn này cũng cho thấy rằng tình yêu của Thiên Chúa bao hàm tất cả như thế nào. Tình yêu của Người không chỉ hướng đến một quốc gia duy nhất, mà cũng không chỉ dành riêng cho người tốt. Tình yêu của Người hướng đến tất cả các quốc gia, dành cho những con cái của ánh sáng, và cả những con cái của bóng tối nữa.
Nhưng đoạn này cũng nói về sự phán xét và kết án. Nếu Thiên Chúa chọn phương pháp đầy yêu thương, thì làm thế nào mà phương pháp đó lại có thể bao hàm cả việc phán xét và kết án? Làm thế nào mà việc kết án lại có thể hòa giải với tình yêu được? Hành động của Thiên Chúa không lôi kéo theo sự kết án ai cả. Con người đã tự kết án chính mình, bằng cách sống theo thái độ tiêu cực. Thiên Chúa đã gửi cho chúng ta một nguồn sáng. Nếu con người bị hư mất, chính bởi vì họ đã không chấp nhận ánh sáng. Lỗi không phải do Thiên Chúa, nhưng là lỗi của chúng ta.
Lần kia, một khách tham quan được hướng dẫn đi khắp chung quanh một phòng trưng bày nghệ thuật. Phòng trưng bày đó chứa đựng một số bức tranh đẹp, đã được thừa nhận là những kiệt tác thế giới. Sau khi tham quan một vòng, người du khách nói “Tôi không cho là những bức tranh cũ kỹ này có nhiều giá trị”. Hướng dẫn viên trả lời “Thưa ông, không cần phải xem xét về những bức tranh này nữa. Nhưng cần phải xét lại về những người nhìn vào chúng”.
Phản ứng của người đàn ông không phải là một lời phê phán đối với bức tranh, mà là cách đánh giá thấp kém của ông ta về nghệ thuật. Tương tự như vậy, những ai ưa thích bóng tối hơn là ánh sáng, thì đã tự kết án chính mình.
Những người xấu ghét ánh sáng bộc lộ cho họ nhìn thấy bản thân họ. Họ ghét lòng tốt, bởi vì lòng tốt bộc lộ tâm địa xấu xa của họ. Họ sẽ phá hủy ánh sáng, lòng tốt, tình yêu, để tránh bị nỗi đau của sự tự phát hiện ra bản thân mình.
Thật khủng khiếp khi người ta khước từ ánh sáng, khước từ sự ban tặng tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng thật ngọt ngào khi được bước đi trong ánh sáng tình yêu của Người. Trong quá trình cứu độ, phần đóng góp của chúng ta chính là biết chấp nhận quà tặng của Thiên Chúa, trong tất cả bản tính nhân loại của mình, và cố gắng đáp trả lại bằng sự tận tụy. Chúng ta có khả năng yêu mến Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước.

52. Tiến vào ánh sáng
Thánh Phaolô nói “Bất cứ ai làm những điều đúng đắn (tốt đẹp), đều tiến vào ánh sáng”. Đến với ánh sáng là điều kiện để làm theo lẽ phải. Không phải người nào suy xét về chân lý mới đến được với ánh sáng, mà là những người làm theo lẽ phải. Hành trình ngắn nhất để đến được với ánh sáng là làm việc thiện. Nhưng trong thực hành, không phải lúc nào chúng ta cũng hành động như vậy.
Thông thường, điều mà chúng ta phải làm, đó là cố gắng được trạng thái an bình nội tâm, và rồi sau đó, mới tiến đến làm những hành động đem lại sư an bình. Chúng ta phải cố gắng đạt được trạng thái vui vẻ và biết ơn, và rồi sau đó mới đến làm những việc mang tính cách vui vẻ và biết ơn. Nhưng chúng ta thường làm ngược lại. Chúng ta thực hiện một hành vi đem lại sự an bình, để đạt được sự an bình nội tâm. Chúng ta làm những việc mang tính cách vui vẻ và biết ơn, để cảm nghiệm được niềm vui và sự biết ơn trong tâm hồn. Cũng theo cách đó, nếu chúng ta đang sống trong tối tăm, và làm những hành động tốt đẹp, thì rồi ánh sáng sẽ chiếu tỏa trên chúng ta. Câu chuyện có thật sau đây minh họa điều này thật rõ ràng.
Trong thành phố Látvi của Kovno, có một giáo sư sống tại đó. Mặc dù trong suốt cả cuộc đời, ông đều sống theo học thuyết bất khả tri, nhưng vị giáo sư này càng ngày càng bắt đầu cảm thấy bất an hơn, vì tình trạng bị bỏ bê, u buồn của nghĩa trang dành cho người Do thái trong thành phố. Bởi vì những người theo chủ nghĩa Phátxít đã hủy diệt người Do thái, và những người Xô-viết gây phiền hà cho họ, nên không một ai quan tâm chăm sóc các nấm mộ của họ. Vì thế, phát xuất từ tấm lòng tốt của mình, vị giáo sư này đã quyết định làm công việc đó.
Chúng ta không biết ông có ý thức rằng việc chăm sóc các ngôi mộ là một mitzvah, nghĩa là một nghĩa cử tốt đẹp hay không. Dù sao đi nữa, người đàn ông tốt bụng này cũng kiếm cho bằng được một cái xẻng, một cái liềm, và một cái kéo lớn, rồi bắt đầu công việc làm cho nghĩa trang xứng đáng với những người chôn cất tại đó. Lúc đầu, ông làm một mình, nhưng sau vài tuần, có những người Do thái khác tham gia vào công việc này với ông. Hầu hết những người này đều đã từng là người Do thái rất tuân thủ theo nguyên tắc, nhưng rồi họ trở thành những người sống theo học thuyết bất khả tri, giống như vị giáo sư đó. Cuối cùng, họ có đến 200 người, tất cả đều đang làm một công việc đúng đắn. Trong quá trình họ làm việc, một sự kiện đẹp đẽ đã xảy ra. Niềm tin Do thái của họ soi sáng trong tâm hồn họ. Về mặt thực hành, một lần nữa, tất cả những người này đều đã trở thành những người Do thái tuân thủ theo nguyên tắc đạo đức.
Bất cứ kẻ nào làm điều sai trái, thì đều căm ghét và tránh né ánh sáng. Nhưng những ai làm điều đúng đắn, thì yêu mến và đến với ánh sáng. Có bao nhiêu hành động của chúng ta được thực hiện trong ánh sáng? Có bao nhiêu hành động của chúng ta bộc lộ sự quan sát kỹ lưỡng đối với ánh sáng?
Chúng ta phải chấp nhận rằng có cảnh tối tăm trong cuộc sống và thế giới của chúng ta. Chúng ta phải nhận ra cảnh tối tăm đó, và học hỏi được cách sống trong tương quan với nó.Thật vô ích khi chúng ta chờ đợi cho cảnh tối tăm đó biến mất. Chúng ta vẫn mong muốn điều đó. Nhưng chúng ta phải chấp nhận rằng nó đang tồn tại ở đây, và sẽ luôn luôn ở đây.
Chúng ta không được gọi bóng tối là ánh sáng. Khi làm như vậy, chúng ta sẽ bị bóng tối đánh bẫy. Nhưng khi gọi nó là bóng tối, chúng ta có thể học hỏi được cách sống sao cho bóng tối không chế ngự được chúng ta. khi chấp nhận tất cả mọi sự, thì chúng ta sẽ không thể phân biệt được giữa ánh sáng và bóng tối.
Người nào nhận biết niềm vui và tình yêu của Thiên Chúa, thì không từ chối bóng tối, nhưng họ chọn lựa không sống trong bóng tối. Họ tin tưởng vào ánh sáng chiếu tỏa trong bóng tối, và nhận biết rằng chỉ một tia sáng nhỏ nhoi thôi, cũng đủ xua tan nhiều bóng tối. Và ánh sáng của Đức Kitô quá đỗi mạnh mẽ, đến nỗi không một bóng tối nào có thể áp đảo được. Nếu chúng ta làm việc thiện, thì ánh sáng sẽ chiếu tỏa trên chúng ta.

53. Lòng Chúa thương xót chúng ta
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Chúa nhật 4 mùa chay có thể được gọi là Chúa nhật mầu hồng vì Giáo hội hé mở cho chúng ta những lý do khiến chúng ta vui mừng. Phụng vụ mời gọi chúng ta hãy vui lên: ”Anh em hãy vui lên với thành Giêrusalem, anh chị em là những người đang mang tang chế”. Phụng vụ khuyến khích chúng ta hãy vui lên, chúng ta muốn vui lắm, nhưng nhiều khi không vui được vì còn gặp nhiều nỗi buồn phiền lo lắng, kể cả thất vọng nữa. Thực ra chẳng bao giờ chúng ta hết lo, hết khổ dưới hình thức này hay hình thức khác. Nhưng làm sao vui lên được?
Thì đây, thánh Gioan đã đưa ra lý do căn bản về niềm vui: Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta tới mức độ sai Con Một Ngài xuống thế cứu vớt nhân loại. Vậy muốn tham dự ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, còn cần phải tin vào Ngài! Đức tin thật cần thiết vì: ”Ai tin thì sẽ được sống đời đời”(Ga 3,16).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: 2 Sb 36,14-16. 19-23.
Tác giả sách Biên niên điểm lại những giai đoạn lịch sử dân Israel trước, trong và cuối thời lưu đầy. Nếu Thiên Chúa ngoảnh mặt đi mà cho quân đội Babylon đến phá hủy đền thờ Giêrusalem và bắt dân ưu tuyển đi lưu đầy, chính là dân đã phản bội, đã bỏ Ngài trước. Dân Israel bị phạt vì tội bất trung, nhưng lại được tha thứ vì biết sám hối. Qua các biến cố trong lịch sử của họ, tác giả luôn tìm được những lý do để trông cậy, mà một trong những lý do quan trọng là Chúa trung thành bởi vì chính Ngài là Tình Thương.
+ Bài đọc 2: Ep 2,4-10.
Thánh Phaolô nhắc lại cho tín hữu Êphêsô biết là mọi người được cứu độ nhờ ân sủng khi Ngài nói:”Chính là bởi ân sủng mà chúng ta đượcï cứu độ nhờ đức tin”. Chúng ta được cứu độ nhờ ân sủng miễn là có lòng tin. Đó là giáo thuyết thánh Phaolô dạy chúng ta về ơn cứu độ “nhưng không” màThiên Chúa ban cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô. Ơn cứu độ được ban “nhưng không” chứ không do một điều gì trong con người chúng ta có quyền đòi hỏi. Vì thế, thánh Phaolô xác quyết rằng:”Tất cả là hồng ân”.
+ Bài Tin mừng: Ga 3,14-21.
Ông Nicôđêmô là một người biệt phái đến gặp Đức Giêsu ban đêm. Đây là đoạn nối tiếp câu chuyện giữa Đức Giêsu và ông. Trong buổi nói chuyện này, ông được hiểu thêm về ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho loài người qua Đức Giêsu Kitô. Qua đó, ông biết được rằng tin vào Đức Kitô, chính là nhận biết Ngài là Đấng Chúa Cha sai đến, là người Con đã được Chúa Cha ban cho thế gian vì yêu thương, ngõ hầu thế gian được cứu độ.
Nói khác đi , là nhìn nhận ơn cứu độ con người đến từ trời cao, do mối liên hệ cha con, tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Nhưng ta chỉ biết một sự thật như vậy khi “sống sự thật “ ấy, khi thực sự dấn buớc vào một cuộc sống được soi sáng không ngừng bởi phận làm con.
Theo ý nghĩa đó, không tin vào Đức Kitô, đó là tự kết án chính mình, vì tự tách rời khỏi nguồn sống và tất nhiên đi vào con đường những việc làm xấu xa.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Lòng Chúa yêu thương tha thứ
I. THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG VÀ THA THỨ.
1. Tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại.
Con người được Thiên Chúa yêu thương. Đây là một chân lý mà không ai chối cãi được. Chân lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo hội rao giảng là chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương từ trước muôn đời. Kitô giáo được xây dựng trên một niềm xác tín rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế gian đau khổ bệnh tật qua con người Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tủy của Tin mừng. Không có đoạn văn nào trong Kinh thánh nói rõ điều này hơn là lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô:”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một Mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời”(Ga 3,15).
Thiên Chúa yêu thương từng người chúng ta cứ như là không còn ai khác để cho Ngài yêu thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành suốt cuộc đời, và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đó, ai nấy đều an toàn trở về mái ấm gia đình.
2. Nhưng dân Chúa lại phản bội.
Bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết dân Do thái đã bất tuân lề luật và phụ bạc đối với tình yêu Thiên Chúa như thế nào. Họ đã phá vỡ giao ước và kéo theo sự sụp đổ hoang tàn của đền thờ và thành thánh. Chúa đâu có muốn trách phạt họ, Ngài muốn cho họ sống trung thành với Ngài như con cái đối với người cha, nhưng họ cứ đi sâu vào đàng tội, bỏ Chúa mà đi theo tà thần dân ngoại, bất đắc dĩ Ngài phải phạt để cho họ tỉnh ngộ. Cho đến lúc mà Thiên Chúa không còn dung thứ được nữa, Ngài liền cho phép quân thù đến tấn công họ. Quân Babylon đến xâm chiếm đất nước của họ, giết chết hàng ngàn, hàng vạn người. Quân thù phá hủy thành thánh, đốt phá đền thờ và cưỡng ép dân còn sống sót đi lưu đầy bên Babylon.
3. Các tiên tri nhắc nhở dân chúng.
Tuy nhiên vừa khi họ bị sát phạt, thì các tiên tri của Chúa liền xuống giọng. Các tiên tri bảo họ: đó là hình phạt của Thiên Chúa yêu thương và nhân hậu. Nhiều tiên tri đã lên tiếng kêu gọi thống hối và sửa đổi cách sống, nhưng đã hoài công, chẳng ai màng tới. Chưa hết, ngay trong những giây phút đen tối nhất của cuộc lưu đầy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Ngài nhưng tiếp tục kêu gọi họ quay về với lề luật, với Thiên Chúa.
Lịch sử dân Do thái thật là một kho lưu trữ nhắc nhở cho chúng ta hay biết những gì sẽ xẩy ra mỗi khi chúng ta phũ phàng từ chối tình yêu Thiên Chúa. Lịch sử ấy cũng đem lại cho chúng ta niềm an ủi rằng chúng ta phải đối diện với sự lựa chọn: đón nhận hay từ chối lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta đã tự đặt mình vào một tình thế nguy hiểm là sống xa lìa với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn kính trọng tự do cá nhân của chúng ta và sẽ không áp đặt ép uổng tình yêu của Ngài, đi ngược với những ước vọng chúng ta. Chúng ta có thể từ chối lòng thương yêu cũng như quà tặng tình nghĩa của Chúa. Chúng ta có thể quay lưng lại với tình yêu của Chúa mà ôm lấy bóng tối của tội lỗi và tự mình vĩnh viễn tách xa khỏi Ngài.
4. Dân hối cải, Chúa thứ tha.
Tuy vậy, Chúa không nỡ bỏ rơi dân Ngài. Chúa dùng vua của dân ngoại là Cyrô, vua Ba tư, để cứu thoát dân Ngài và đưa họ trở về quê cha đất tổ. Như vậy ta thấy những hình phạt của Chúa, không phải nhằm báo thù, trách phạt, mà là cách thế để luyện lọc, thanh tẩy và chữa trị họ, khiến họ trở nên tùy thuộc vào Chúa.
Trong bài Tin mừng hôm nay có nhắc đến chuyện con rắn đồng. Sau khi xuất Ai cập, bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp mọi thử thách. Họ oán trách Chúa đã để họ lầm than. Một lần cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Dân Chúa quá sức khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi của mình, và Chúa đã đoái thương nỗi khốn khổ của họ. Ngài dạy ông Maisen hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên một cái sào để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng, sẽ được khỏi. Như vậy, khi con rắn đồng được giương lên, thì ngay chính lúc đó, lòng tha thứ của Thiên Chúa lại tỏa sáng và trao ban. Từ nay Thiên Chúa sẽ cứu sống dân, những kẻ đã từng oán trách Ngài.
II. TÌNH YÊU THIÊN CHÚA NƠI ĐỨC KITÔ.
1. Sự sóng đôi giữa Cựu ước và Tân ước.
Thiên Chúa yêu thương con người, nhưng con người không nhìn ra. Chính vì thế Thiên Chúa đã biểu lộ một cách cụ thể tình yêu của Ngài cho nhân loại nơi Đức Giêsu Kitô, Con yêu của Ngài, như lời thánh Gioan đã nói:”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban chính Con Một Ngài, để tất cả những ai tin vào Con Ngài sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời”(Ga 3,16). và Ngài còn nói tiếp:”Thiên Chúa đã không sai Con Ngài đến để luận phạt mà là để cứu độ”(Ga 3,17).
Tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại qua Đức Kitô đã được ám chỉ trong Cựu ước. Ta có thể nói Cựu ước là hình ảnh của Tân ước. Cựu ước là hình ảnh, Tân ước là thực tại. Chính vì thế, ta thấy có sự sóng đôi giữa Cựu ước và Tân ước. Những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Cựu ước đều là hình bóng của những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Tân ước.
Chẳng hạn , họ chứng tỏ cho thấy Isaac, con trai tổ phụ Abraham là hình bóng của Đức Giêsu như thế nào:
. Isaac con trai độc nhất, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac được cha mình rất mực yêu dấu, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac bị dâng làm hy lễ, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac bị hiến tế trên một ngọn đồi, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac vác củi dùng vào việc hy tế, Đức Giêsu cũng thế.
Thánh Phaolô cũng so sánh tương tự như thế giữa Cựu ước và Tân ước. Chẳng hạn, trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, Ngài đã so sánh giữa Adong và Đức Giêsu. Ngài viết:”Con
người đầu tiên là Adong, đã được dựng nên là một người sống động, nhưng Adong sau cùng (Đức Giêsu) là Thánh Linh ban sự sống… Adong thứ nhất được dựng nên bằng đất, từ đất mà sinh ra, còn Adong thứ hai (Đức Giêsu) từ trời mà sinh ra. Người thuộc về đất thế nào, thì những người thuộc về đất cũng thể ấy. Người thuộc về trời thế nào thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy. Như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh của người thuộc về trời”(1 Cr 15,45-49) (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 88).
2. Thập giá, dấu tích của tình yêu.
Chính khi nhìn vào thập giá, chứng kiến hình ảnh Đức Kitô chịu khổ hình treo trên thập giá, thấm đẫm bao nhiêu là quyền lực của sự dữ nơi tội lỗi, chúng ta mới bắt đầu nhận ra tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta cao cả biết bao. Tất cả mọi độc ác hận thù ghen ghét bất công của cuộc đời đều đổ dồn vào cây khổ giá, sừng sững giữa trời và đất, trên ngọn đồi Calvê. Một trong những chi tiết đầy ngỡ ngàng nhất về cuộc thương khó và tử nạn của Đức Giêsu chính là Thập giá nay trở nên bằng chứng tột cùng cho tình yêu Thiên Chúa. Thập giá sừng sững trên đồi cao, xưa kia là dấu chỉ của tủi nhục, nay trở nên chiếc cầu ân sủng thần kỳ có sức chữa lành cả thế giới. Cây chết chóc nay trở nên cây sự sống, cây thất bại nay trở thành cây chiến thắng.
3. Truyện con rắn đồng.
Con rắn đồng là biểu trưng cho Đức Giêsu bị treo trên thánh giá. Sách Dân số 21,4-9 kể rằng: Dân Do thái đi từ núi Horeb về phía Biển đỏ đi vòng quanh xứ Eđom. Quãng đường dài này đã làm cho dân chúng kêu trách Đức Chúa và ông Maisen:”Tại sao đem chúng tôi ra khỏi Ai cập để rồi cho chúng tôi chết trong rừng? Không có bánh, không có nước, chúng tôi đã chán món ăn khốn nạn này lắm rồi”. Bấy giờ Đức Chúa cho một thứ rắn lửa từ trong rừng bò ra cắn dân chúng, nhiều người phải chết.
Dân chúng chạy đến ông Maisen, thưa với ông:”Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã nói phạm đến Đức Giavê và đến ông, xin ông cầu với Đức Giavê cho chúng tôi để Ngài đuổi lũ rắn này xa khỏi chúng tôi đi”. Ông Maisen cầu cho dân. Chúa bảo Maisen:”Hãy làm một con rắn và treo trên ngọn sào, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn vào đó thì được sống”. Maisen làm một con rắn đồng và treo lên ngọn sào. Hễ ai bị rắn cắn nhìn vào rắn đó đều được khỏi.
Rắn lửa nói đây không phải nó đỏ như lửa, nhưng vết thương nó gây ra cho người ta rát như bỏng lửa. Tại miền nam xứ Palestine có rất nhiều thứ rắn và rắn có nọc.
Không phải tự con rắn treo lên có sức chữa người ta , nhưng cái sức chữa đó do Đấng truyền lệnh đã ban cho.
Sau này, những con rắn đồng đã trở thành vật dị đoan cho dân Do thái: Họ đốt hương trước rắn đồng. Vì thế, trong cuộc cách mạng tôn giáo Ezechias truyền đập nát con rắn đồng
(4 Sb 18,4).
Việc treo rắn đồng là tượng trưng cho việc Chúa chịu treo sau này. Ai tin vào Chúa chịu treo trên Thánh giá sẽ được cứu rỗi (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật, năm B, tr270).
III. HÃY TIN NHẬN ĐỨC GIÊSU LÀ CỨU CHÚA.
1. Ngài đã cứu chuộc bằng máu Ngài.
Thiên Chúa có thể cứu chuộc nhân loại bằng bất cứ cách nào nhưng Ngài lại muốn Con của Ngài phải đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc. Máu ấy có thể rửa sạch mọi tội lỗi của nhân loại, làm linh hồn con người được trở nên trong trắng, xứng đáng được làm con Chúa và làm đền thờ của Ngài. Chúng ta không thể hiểu được việc này vì đây là một mầu nhiệm lớn, mầu nhiệm “Ngôi hai cứu chuộc”. Vì thế, suy niệm về ơn cứu độ này, thánh Phaolôâ trong thư gửi cho tín hữu Do thái đã khẳng định:”Không có đổ máu ra thì không có ơn tha thứ”(Dt 9,22).
Truyện: máu của Telmachus.
Ngày đại hội năm 444 sau kỷ nguyên, làn sóng người từ khắp nơi kéo về Rôma. Rôma tưng bừng với vẻ của một ngày hội.
Hoàng đế Honorius cho tổ chức các trận giác đấu mừng ngày giải phóng dân Goths. Giữa đám đông lũ lượt đi đi lại lại, một ông già trong bộ y phục đơn giản của một vị tu trì Đông phương trầm lặng bước đi. Tên ông là Telmachus. Nhà tu trì này chỉ chăm lo chuyên khảo Thánh kinh và cầu nguyện. Cái trò chơi đẫm máu bỉ ổi này đã chấm dứt ở miền Đông nơi phát xuất ra ông. Nhưng nó vẫn còn đang tiếp diễn ở Rôma, đất nghìn năm muôn thuở, mặc dầu đã có ba vị hoàng đế tìm cách chấm dứt. Telmachus đăm chiêu, vì ông đang suy nghĩ phải làm gì để chấm dứt trò chơi này.
Những tay giác đấu gồm đủ mọi hạng người: có khi là những phạm nhân đã bị án tử, có khi là Kitô hữu, thường hơn là tù binh, đôi khi có người vì tham tiền, ham danh tình nguyện…
Trận đấu đầu tiên ghi lại trong lịch sử diễn ra năm 264 trước kỷ nguyên với 3 cặp đấu. Con số mỗi ngày một tăng. Quốc hội phải hạn chế chỉ cho Julius Cesar được có 320 cặp để chiến đấu trong một trận. Dưới triều Augustô, có lúc tới 10.000 tham dự trận đấu.
Hôm nay ngày tổ chức giác đấu, 85.000 chỗ ngồi trong đại thao trường Colosseum chật ních không còn chỗ trống.
Cái ung nhọt này không còn cơ cứu chữa. Nhân vật duy nhất đã dám lên tiếng chỉ trích là nhà hiền triết Sénèque. Ngoài ra còn có 3 vị hoàng đế chống lại trò chơi này, nhưng không dám thi hành vì sợ sự phản ứng mạnh phía quần chúng.
Đến giờ, những tay giác đấu xếp thành hàng dài chậm chạp diễn quanh đấu trường. Tới chân khán đài danh dự, chỗ vua ngồi, họ la to: kẻ hạ thần là những người sắp chết xin kính chào bệ hạ.
Khán giả quanh đấu trường chọn tay giác đấu nào họ ưa thích rồi la hét kích thích họ xung trận.
Khi hai tay giác đấu đang sát phạt đến hồi gây cấn nhất, bỗng một người ăn mặc đơn giản xông vào giữa hai đấu thủ gạt họ ra. Đám đông khán giả giận dữ la hét vang dội. Một số bực tức quá chạy ra tận đấu trường xé ông ra hàng trăm mảnh vì làm cho họ cụt hứng. Con người đó chính là Telmachus.
Kinh hoàng trước sự việc xẩy ra, Honorius chính thức tuyên bố bãi bỏ trò chơi bỉ ổi đã giết hại không biết bao nhiêu sinh linh ở Rôma cũng như ở các nơi khác.
Kể từ đó lịch sử không còn nói những trận đấu gươm tại Rôma nữa.
Không đổ máu không có ơn cứu rỗi.
Nhờ dòng máu Telmachus làm tắt dòng máu nhiều kẻ khác (Op, cit, tr 271-273).
2. Ai tin thì sẽ được sống.
Thánh Gioan nói:”Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”(Ga 3, 20 ). Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha, là đến với Đức Giêsu và gặp Ngài, là biết Ngài và cùng với Ngài biết Chúa Cha. Đức tin còn là hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha.
Người tin bước vào một cuộc sống mới. Đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa, là một ân huệ Đấng Messia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma qủi. Phải, chính trong đêm tối của tối tăm mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đừng khép kín lòng lại:”Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm họ đều xấu”(Ga 3,19). Hãy tin vào Đức Giêsu thì sẽ được tha thứ và được hưởng nhờ ơn cứu độ,
Truyện: Tượng Thánh giá ban phép lành.
Tại một nhà thờ bên Tây ban nha có một tượng Thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Chuyện kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi toà giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe:”Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh”. Hối nhân ra khỏi toà giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ.
Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát:”Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình:”Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”.
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi:”Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”.
Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Con yêu dấu Ngài là Đức Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta biết ơn Chúa Giêsu và khắc sâu lời Ngài:”Như Maisen đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ giương cao như vậy”.

54. Ánh sáng và bóng tối
(Suy niệm của Lm Nguyễn Khoa Toàn)
Những ngày này quanh quẩn bên người mẹ đang thoi thóp thở những làn hơi cuối ở quê nhà, thỉnh thoảng mẹ lại thều thào nói đang đến được một vùng tràn đầy ánh sáng có rất nhiều thiên thần bay lượn vây quanh. Rồi khi cắn chặt răng quằn quại với cơn đau điến người thịt xác, mẹ mê sảng la lên qủy ma đang chực chờ ẩn hiện đưa mẹ đến một nơi xa thật xa vô cùng tăm tối.
Tìm đọc một vài tin tức địa phương để ‘thư giản’ vãn thời gian, điều đầu tiên đập ngay vào mắt là chuyện dài… cúp điện! Người dân ở đây cơ hồ như quen với lúc tối lúc sáng lúc có lúc không đã từ lâu nên chẳng mấy ai thở than. Mà giả như có muốn thì cũng chẳng biết nơi đâu mà trút tiếng thở dài!!!
Có ai đó nói rằng bất hạnh của người này là hạnh phúc của người kia. Điều này thật vô cùng đúng mỗi khi điện cúp vì đây là cơ hội bằng vàng cho những tay đạo chích. Thời tiết oi bức khó chịu nên sau một ngày dài làm việc khi vừa bước vào nhà mà điện đóm lại không có, việc đầu tiên là mở tung mọi cửa sổ rồi tắm một cái cho đã đời. Bọn trộm chuyên nghiệp chỉ chờ có thế! Dùng những cần dài với móc câu trét đầy ‘keo dính chuột’ cực mạnh, chúng câu bất cứ cái gì mà khổ chủ vô ý bỏ quên!
Đau đớn hơn, họ còn là nạn nhân của những tên trộm ngày thời đại -những cái gọi là ‘đầy tớ nhân dân’: đám quan lại tham ô hủ hóa dùng đủ mọi thủ đoạn tinh vi đến man rợ rợn người đục khoét công qủy nhởn nhơ vênh vang sống ung thối trên mồ hôi nước mắt của chính đồng bào máu thịt -những người dân tội nghiệp ba miền hiền lành khốn khổ ngụp lặn miệt mài lây lất sống cháo buổi mai khoai buổi chiều. Ngày cũng như đêm! Bóng tối đương nhiên đồng nghĩa với xấu xa nhưng ngay cả ánh sáng cũng đã chưa dọi chiếu hết bình minh công chính cho phần đất quá cơ khổ này. Lo toan đè nén ban ngày rồi trăn trở sợ sệt lo âu khi hoàng hôn vừa buông xuống. Thương ôi! “Người chết hai lần…”
Khi xã hội chỉ biết đắm chìm vào việc phát triển kinh tế và con người chỉ mãi lặn lội giữa những sóng đời vật chất, tình nhân loại và nghĩa đồng bào đã không còn nữa. Và khi mọi trọng tâm chỉ chuyên chú vào chỉ tiêu báo cáo, khi giá trị con người chỉ được nhìn qua lăng kính thành tích thi công, tôn giáo và luân lý khó có thể nẩy hạt gieo mầm. Như Dorothy Thompson viết: “Khi Thiên Chúa ra đi, tất cả sẽ ra đi.” Hoặc như George Washington phát biểu trong bài diễn văn từ biệt: “Luân lý sẽ chẳng có thể trường tồn nếu không có đức tin và tôn giáo.”
Thiên Chúa không thể ra đi khi mỗi chúng ta luôn tin vào Con Một Chúa. Nhưng tin vào Con Một Chúa không phải giản đơn chỉ tin những gì đã xảy ra bên này và bên kia bờ sông Babylon hơn hai ngàn năm trước rồi lãng quên hoặc sống cùng sống với thực tế chung quanh. Tin vào Con Một Chúa là phải sống như Con Một Chúa.
Sống như Con Một Chúa là phải luôn “yêu sự sáng” và “đến cùng sự sáng” bằng “hành động trong sự thật”. Ở đây, sự thật đã thật khó tìm mỗi khi hoàng hôn xuống. Và cũng chẳng dễ tìm khi bình minh vừa ửng hiện chân trời. Tự dưng muốn ngồi bên một bờ sông vắng, treo cây đàn, khóc thương về một chốn củ nơi xưa!

55. Dĩ độc trị độc – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Con rắn đã bò vào lịch sử nhân loại, để lại những dấu vết không đẹp. Nhưng có một con rắn tượng trưng cho uy quyền cứu độ, chứ không đẩy xô con người xuống hố diệt vong. Đó là con rắn đồng trong sa mạc. “Ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc,” (Ga 3:14) để “tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.” (Ds 21:9) Con rắn đã mang một bộ mặt mới kể từ ngày Thiên Chúa tìm cách cứu con người khỏi hố diệt vong.
TÌNH YÊU BA CHIỀU
Trên cây thập giá, Đức Giêsu đã thiết lập được một tương quan ba chiều với Chúa Cha, con người và vũ trụ. Người đã phải trả một giá rất đắt. Nếu Thiên Chúa đã không thương yêu thế gian tột độ, không bao giờ có cuộc hi sinh lớn lao đó. Đức Giêsu xứng đáng là một vị thẩm phán tối cao, có quyền xét xử muôn dân. Nhưng Người đã không đến với tư cách đó. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ.” (Ga 3:17) Sự công chính đã mang bộ mặt tình yêu. Chính vì tình yêu đó, Đức Giêsu đã phải hi sinh tới giọt máu cuối cùng trên thập giá. Đó là giá rất đắt. Con Thiên Chúa đã phải trả cho chúng ta.
“Như ông Môsê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:15). Như vậy cuộc hi sinh lớn lao đó nhằm lập tương quan thân ái với nhân loại và vạch ra con đường đi tới hạnh phúc vĩnh cửu. Con đường đó là tin vào tình yêu Thiên Chúa nơi Con Người chịu treo trên thập giá. Đó là con đường dẫn ta thoát vòng tử thần, tới nguồn sống thật. Chính Đức Giêsu quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3:16)
Thập giá trở thành trung tâm trong chương trình giải thoát của Thiên Chúa (Faley 1994: 262). Ngước mắt nhìn lên thập giá, chính là hướng về nguồn ơn cứu độ. Bởi vì chính trên cây thập giá Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về bản tính mình. “Khi các ông giương Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8:28). Đức Giêsu chính là Đức Chúa và nguồn sống cho vạn vật và con người. Không tin vào chân lý đó tức là tự lên án chính mình. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3:17) Chính cây thập giá sẽ phân nhân loại làm hai hạng người tin và không tin. Thập giá không phải là dấu chỉ của án phạt. Nhưng không tin cái chết của Đức Giêsu có sức mạnh cứu độ mới dẫn tới hư vong. “Đức Giêsu là cơ hội chứ không phải là nguyên nhân” (Fahey 1994:263) của việc phán xét. Cây thập giá là một biểu tượng cho mọi người thấy tình yêu Thiên Chúa mãnh liệt tới mức nào.
Như vậy cây thập giá đã chứng tỏ tình yêu riêng của Đức Giêsu (Ga 13:1) và cả tình yêu Thiên Chúa Cha đối với nhân loại. Tình yêu là động lực chi phối toàn bộ sứ mạng Đức Giêsu dưới thế. Tình yêu trở thành hồng ân vĩ đại, vượt quá tầm hiểu biết. Quả thực, “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ” (Ep 2:4-5). Trong nguồn ân sủng đó, chúng ta trở thành “con cái ánh sáng” (Ep 5:8). Bởi vì chính Đức Giêsu là “ánh sáng đã đến thế gian.” (Ga 3:19) Không phải ai cũng đón nhận được hồng ân cao cả đó. Thực tế, “người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.” (Ga 3:19) Chính việc làm đã tạo thành một bản án đeo vào cổ họ. Số phận thật tang thương! Định mệnh thật khốc liệt!
Nhưng trong quá khứ, ngay lúc bi tuyệt vọng nhất, dân Chúa đã thực hiện trọn vẹn giấc mơ. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tạo nổi lịch sử! Thực vậy, “để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Kyrô, vua Ba tư” (Sb 36:22), để vua “ra lệnh phục hồi Giuđa, hồi hương dân cư và tái thiết đền thờ” (Fahey 1994:261). Bởi đó tin vào Thiên Chúa không bao giờ tuyệt vọng. Thiên Chúa luôn có sẵn những giải pháp tốt đẹp nhất.
TRỜI BỪNG SÁNG
Thiên Chúa chính là nguồn hi vọng cho những ai tin tưởng tuyệt đối nơi Người. Nói khác, niềm tin và hi vọng luôn đi song đôi. Tin là con đường dẫn tới sự sống. Đức Giêsu đã củng cố tinh thần những ai run sợ trước thần chết: “Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Đức tin vô cùng quan yếu cho con người. Theo Martin Luther, “đức tin là một thực tại sống và bởi thế gồm những nhân đức thương yêu và hi vọng, kinh nghiệm sống hiệp nhất với Thiên Chúa, và khát vọng sống kết hiệp với Chúa tới muôn đời” (Cook 1995:512). Chính vì thế, không tin, cuộc sống trở thành trống rỗng và vô vị.
Khi tin, con người sẽ thấy mình vươn tới đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa. Vì chính Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta không những khỏi ách nô lệ tội lỗi, nhưng còn khiến chúng ta tự do yêu thương nhau và bởi đó đem ánh sáng Thiên Chúa chiếu soi trần gian (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:19). Từ tình yêu tới tình yêu. Từ ánh sáng tới ánh sáng. Sống trong tình yêu là đi trong ánh sáng. Đức Giêsu muốn chúng ta là “ánh sáng cho trần gian” (Mt 5:14). Nguồn cung cấp ánh sáng chính là tình yêu, một tình yêu phải được sự thật giải thoát. Đó là lý do tại sao Chúa nói “kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng” (Ga 3:21). Đi trong tăm tối trần gian hay sống dựa trên sự lừa đảo, gian dối, không thể tìm được nguồn sống và nguồn sáng đích thực. Do đó cuộc đời mãi mãi là nô lệ.
Muốn thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than đó, phải “tin tưởng và xác tín rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể cứu chúng ta. Tin là phó thác những chương trình hiện tại và vận mệnh đời đời nơi Đức Kitô. Tin là vừa xác tín lời Chúa có thể thực hiện và cậy dựa vào quyền năng biến đổi của Người” (Life Application Study Bible 1991:1878). Một khi xác tín như thế, chúng ta sẽ thay đổi toàn bộ, từ não trạng đến cái nhìn và nếp sống. Từ nay không còn gì xảy ra ngoài chương trình đầy tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Đức tin giúp ta “bắt đầu lượng định tất cả sự việc xảy ra theo nhãn quan vĩnh cửu” (Life Application Study Bible 1991:1878).
Hơn nữa, tin tưởng còn có nghĩa là “làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa toàn thắng trên quyền lực sự dữ trong chúng ta và trên thế giới” (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:19). Niềm tin không bao giờ bất động hay tiêu cực, nhưng luôn thúc đẩy con người đi tới tha nhân và hi sinh bản thân để lôi kéo mọi người vào cuộc sống hạnh phúc và đầy yêu thương của Thiên Chúa. Không có niềm tin ấy, người ta chỉ tìm cách hi sinh tha nhân cho những mục tiêu trần tục. Đó là điều những người vô thần đã làm. Đứng trước đài kỉ niệm Holocaust ở Giêrusalem, tưởng nhớ hằng triệu nạn nhân vô tội của chũ nghĩa Nazis, ĐGH Gioan Phaolô II nói: “Chỉ có chủ thuyết không có Thiên Chúa (vô thần) mới có thể tính kế và thực thi sự tiêu diệt toàn bộ khối người như vậy” (VietCatholic 23/3/2000). Những hành động cuồng điên đó không những phát xuất từ niềm tin vô thần, nhưng còn là kết quả của những thất vọng lớn lao. Từ thất vọng đến tuyệt vọng.
Nhưng “ngay trong những giờ tuyệt vọng, không phải mọi ánh sáng đều đã tắt hết đâu” (Gioan Phaolô II, VietCatholic 23/3/2000). Lý do vì ngay lúc khốn cùng và nguy hiểm nhất, người tín hữu vẫn có thể thưa với Chúa: “Con đây vẫn tin tưởng nơi Ngài, lạy Chúa, con dám thưa rằng: Ngài là Thượng Đế của con.” (Tv 30:15) Nói lên được điều đó thật là can đảm. Ngày nay vẫn còn rất nhiều tâm hồn can đảm như thế nơi những Kitô hữu trên quê hương Việt Nam.

56. Cho là cõi phúc – Lm Vũ Đình Tường
Cuộc đời chúng ta vừa học cho vừa học nhận. Nhận để làm giầu và đồng thời cũng là nhận để cho. Nếu chỉ cho mà không nhận hẳn nguồn cho sẽ cạn dần, cuối cùng không còn bao nhiêu để cho. Vì thế cần phải vừa cho vừa nhận. Nói về của cải vật chất trần thế là thế. Tuy nhiên lí luận hợp lí này không đúng với tình yêu, tình thương và lòng mến con người dành cho nhau. Tình yêu, lòng mến, tình người, con người dành cho nhau không bao giờ cạn. Trái ngược hẳn với của cải vật chất trần thế. Trong tình yêu càng cho đi nhiều chừng nào thì nguồn tình yêu càng triển nở chừng đó. Nguồn tình yêu sung mãn đến độ không bao giờ cạn. Nguồn tình yêu khô cạn, héo hắt là nguồn tình yêu tích trữ. Càng tích trữ nguồn tình yêu càng khô cạn. Tựa như giếng nước trong. Một khi không múc nước, nước giếng vẫn không dâng cao hơn, vẫn không tràn đầy trái lại nước giếng trở nên hôi, bẩn, chứa nhiều vi khuẩn trở thành nước giếng tù hãm, ô nhiễm, độc hại. Trái lại nước giếng trong sáng nhờ có người múc nước hàng ngày. Múc cạn hôm sau nước lại tràn đầy. Cứ thế nước giếng đủ nước cung cấp cho cả làng. Mọi người được tươi mát nhờ nước giếng được múc cạn mỗi ngày.
Tình yêu tích trữ chính là tình yêu tù hãm, loại tình yêu ô nhiễm này độc hại vì nó chỉ biết yêu những gì thuộc về nó mà loại bỏ tình yêu không thuộc về nó. Loại bỏ tình yêu khác chỉ là bước đầu. Bước tiếp theo của loại bỏ chính là tàn phá, giết chết các tình yêu không thuộc về nó. Nguồn gốc của độc tài phát sinh, thúc đẩy bởi loại tình yêu loại bỏ. Những gì không thuộc về nó thì không thể tồn tại. Nếu tồn tại nó không sống yên ổn nên cần loại trừ, triệt tiêu. Nói cách khác tình yêu tích trữ là tình yêu ích kỉ. Bản tính ích kỉ là luôn lo thu quén, gom góp cho chính nó và yêu quí những gì thuộc về nó. Yêu chính nó trên hết mọi sự nên nguồn tình yêu nào không thoả mãn tính ích kỉ đều bị loại trừ.
Trong tình yêu, cho đi chính là làm cho tình yêu triển nở, làm giầu tình yêu bằng cách cho đi. Đây không phải là phí phạm mà chính là tạo cơ hội thuận tiện cho tình yêu nở hoa, kết trái. Hoa trái của tình yêu không thành tựu nơi người cho hay nguồn tình yêu xuất phát. Hoa trái tình yêu thành tựu nơi người lãnh nhận, nơi nguồn tình yêu được trao đến. Dâng hiến, cho đi làm giầu cho tình yêu, tạo cơ hội cho tình yêu đơm hoa, kết trái.Theo nghĩa này trao tặng tình yêu chính là cho sự sống, đổi mới, làm cho tốt hơn. Đây chính là ý nghĩa câu Kinh Thánh,
Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban cho Con Một Ngài, để những ai tin vào Người Con sẽ không phải chết nhưng nhận được sự sống trường sinh. Gioan 3,16.
Cho đi những gì dư thừa, không thích, dù vẫn còn tốt, vẫn mang lại lợi ích cho người nhưng có khác chi nhờ người dọn rác dùm. Cho như thế không phải là cho một cách chân thành. Cho đi điều mình yêu quí, ưa thích, ấp ủ thật lòng như thế mới thật sự là cho đi. Ngoài ra đều không phải là chân thành. Dâng hiến tình yêu một cách tự nguyện, không điều kiện ràng buộc, không mong đền đáp chính là mối tình Thiên Chúa trao tặng nhân loại. Vì trao tặng nên không ép buộc phải đón nhận. Ai đón nhận thì được hưởng hoa trái tình yêu Chúa ban, đó là sự sống mới, sự sống trường sinh. Ai từ chối đồng nghĩa với từ chối sự sống trường sinh. Bởi vì từ chối sự sống trường sinh đời sau nên người ta tranh nhau tìm kiếm sự sống tạm bợ đời này. Để được sống an nhàn người ta bắt người khác phục vụ họ. Để được sống hoan lạc người ta đi tìm lạc thú qua mọi thú vui trần thế. Để được phục vụ cần có người phục vụ và tất nhiên cần tiền chi tiêu cho người cung cấp dịch vụ. Tranh nhau vì tiền từ đó mà ra. Nguồn gốc chính là từ chối sự sống đời sau, sự sống trường sinh Chúa ban. Vì thế Kinh thánh ghi tiếp những ai từ chối đón nhận Con Một Thiên Chúa là tự mình chọn sự sống đời này để rồi chết trong tuyệt vọng. Nói cách khác là tự chọn cuộc sống ngắn ngủi đời này. Chọn sống trong sợ hãi, u sầu vì sợ thần chết đến bất tử.
Chọn tin Con Một Thiên Chúa hay chọn từ chối không tin cùng sống trong một xã hội, một thế giới nhưng có sự khác biệt. Kitô hữu tin vào Thiên Chúa nên học từ Thiên Chúa là cho đi để được nhận lãnh. Hành động bác ái, yêu thương chính là cho đi để tình yêu được đong đầy.

57. Nhìn lên Thập giá
Bất cứ ai đã đọc sách Xuất hành trong Cựu ước, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, đều nhớ câu chuyện con rắn đồng. Đó là khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách Chúa và trách ông Môsê. Chúa liền cho rắn lửa bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng lại ăn năn hối hận, chạy đến kêu ông Môsê cứu giúp. Ông Môsê cầu xin Chúa. Chúa bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên rắn đồng thì được khỏi. Rắn đồng đó, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng chữa bất cứ ai tin cậy ở Ngài. Vì thế, sau khi dùng hình ảnh để so sánh, Chúa quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời”.
Quả thật, thập giá của Chúa đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Bằng chứng cụ thể để bảo đảm điều này là người trộm lành trong Tin Mừng: khi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá trên núi Sọ, thì có hai phạm nhân khác là hai tên trộm cướp, cũng bị đóng đinh như thế ở hai bên Chúa: Đích-ma bên phải và Ghét-ta bên trái. Khi ba thập giá được dựng lên, treo ba thân xác chơ vơ giữa nền trời, người ta nghe tiếng tên trộm Ghét-ta chửi bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Trái lại, tên trộm Đích-ma, như được ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận tội lỗi tầy trời của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết thưa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Trước lời khẩn nài đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.
Trước khi thưa với Chúa Giêsu như trên, người trộm này đã nhìn nhận tội lỗi của mình khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: “Mày đáng chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm”. Như vậy, dầu sao trong tâm hồn người đạo chích này cũng đã dậy lên những tâm tình thống hối nồng nàn. Dĩ vãng của anh thật tồi tệ, có lẽ tệ hơn cả Baraba, vì Baraba thì được tha, còn anh lại bị đóng đinh. Đời anh xấu xa quá. Anh biết và thành thật cảm nhận điều đó; đồng thời anh cũng tin nhận Đấng cùng chịu án với anh thật vô tội và qua cung cách của Ngài, anh tin phải là Đấng Thánh. Nên chỉ một tia sáng từ thập giá Chúa chiếu ra đã làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thập giá, anh đã tin vào giá trị của thập giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.
Như vậy, trên núi Sọ, đám đông dân chúng đòi Chúa xuống khỏi thập giá, thì người trộm lại đòi được đưa lên. Quần chúng cầu mong Chúa thuyết giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lại tìm được niềm tin khi bị treo trên thập giá. Phải chăng sự hối cải của người trộm là chìa khóa, là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta ngày nay?
Kể từ khi thập hình của người Rôma được áp đặt cho Chúa Giêsu, thì thập giá đã trở thành thánh giá và bóng thánh giá của Ngài đã bao trùm cả trái đất. Không ai có thể đứng ngoài bóng mát của thánh giá. Không ai có thể ở ngoài vòng lôi kéo của Chúa Giêsu. Không bao giờ con người có thể loại bỏ Chúa ra khỏi lịch sử của mình nữa.
Thánh giá không chỉ được dựng lên trước nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người tín hữu mà còn phải được tôn vinh giữa phố chợ, ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã không bị đóng đinh trong một thánh đường, giữa hai hàng nến cháy, nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài đã bị treo lên giữa ngã ba đường để cho mọi người qua lại đều nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người. Ngài đã chết cho mọi người. Ngài đã chết cho từng người trong nhân loại. Ngài đã chết nhân danh chúng ta để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa.
Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Do đó, sự hối cải của người trộm lành là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta.
Đúng thế, ở trần gian chỉ có một điều xấu xa hơn tội lỗi, đó là không nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình. Không có bệnh, chẳng ai tìm đến bác sĩ. Cũng vậy, không nhận mình tội lỗi, chẳng ai đi tìm Chúa Cứu thế. Chỉ khi nào cho mình là dại dột hay chỉ khi nào bắt đầu công nhận mình là người tội lỗi, đó là lúc khởi sự bước vào con đường của người trộm lành đưa đến hối cải. Biết mình tội lỗi, đó là điều kiện để hối cải, cũng như biết mình bệnh hoạn là điều kiện để chữa trị.
Trong Mùa chay này, chúng ta hãy đến với Chúa và hạ mình xuống như người trộm lành, nhìn nhận mình là người tội lỗi và tin tưởng vào lòng khoan dung của Chúa, thì kể cả trong tình trạng xấu xa nhất, chúng ta vẫn được Chúa thương yêu tha thứ.

58. Suy Niệm của Lm. Nguyễn Minh Hùng
Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa
Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Chuyện kể rằng, một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: “Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh. Hối nhân ra khỏi tòa giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha!”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lổ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình: “Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”.
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: “Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”.
Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa lớn lắm, mạnh lắm. Có lẽ, nếu có so sánh với trời cao biển rộng vẫn cứ còn khập khiễng. Lòng tha thứ của Thiên Chúa lớn cho đến mức, tội lỗi đã quá sức chịu đựng của lòng người, Thiên Chúa vẫn một lòng tha thứ. Dẫu cho mọi người rất kinh nghiệm về nỗi yếu đuối của bản thân mình, nhưng vẫn khó tha thứ cho anh chị em, thì Thiên Chúa không mảy may vướng một lỗi lầm nào, lại rất dễ dàng thứ tha.
Đọc bài Tin Mừng Chúa nhật thứ IV mùa Chay, ngay câu đầu tiên, câu nói của Chúa Giêsu: “Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy”, tôi bỗng nhớ tới câu chuyện cảm động bên trên, để càng cảm nhận rất nhiều lần rằng: Thiên Chúa là Chúa của tình yêu. Tha thứ là gương mặt chói ngời của tình yêu Thiên Chúa. Bởi tôi nhận ra trong câu nói của Chúa Giêsu bộc lộ cả một nỗi lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa.
Vậy câu nói của Chúa Giêsu: “Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy”, có liên quan thế nào với tình yêu tha thứ của Thiên Chúa?
Chắc anh chị em còn nhớ câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc? Sau khi xuất Ai Cập, bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp mọi thử thách. Họ oán trách Chúa đã để họ lầm than. Một lần cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Dân Chúa quá sức khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi của mình, và Chúa đã đoái thương nỗi khốn khổ của họ. Ngài dạy ông Môsê hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên cây để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng, sẽ được cứu. Như vậy, khi con rắn đồng được giương lên, thì ngay chính lúc đó, lòng tha thứ của Thiên Chúa lại tỏa sáng và trao ban. Từ nay Thiên Chúa sẽ cứu sống dân, những kẻ đã từng oán trách Ngài.
Hình ảnh con rắn đồng đó, là biểu trưng của Đấng Cứu Chuộc. Cũng như con rắn đồng được giương cao, Chúa Kitô sẽ giương cao như vậy. Nếu con rắn đồng nói lên lòng tha thứ, thì Chúa Kitô được giương cao, chính là lòng tha thứ của Thiên Chúa đạt đến tuyệt đối, chiếu sáng ngời ngời và lan tỏa đến bất cứ người nào đã từng được sinh làm người trong cuộc trần. Chúa giương cao, nghĩa là lòng tha thứ của Thiên Chúa được gương cao cho cả nhân loại nhìn vào mà học lấy, mà tha thứ cho nhau.
Lòng tha thứ của Thiên Chúa mạnh lắm, mạnh đến nỗi, Thiên Chúa như ném chính Người Con duy nhất và yêu quí nhất của mình cho trần gian để thực hiện hiện lòng tha thứ đối với chính trần gian vô vàn lần xúc phạm Thiên Chúa.
Trong mạch văn của bài Tin Mừng, thánh Gioan còn ghi thêm chính lời Chúa Giêsu: “Thiên Chúa không sai Con của Ngài đến luận phạt trần gian, nhưng để trần gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. Thiên Chúa luôn ở về phía chúng ta để ra tay cứu chứ không phải phạt.
Mùa Chay là mùa của lòng yêu thương tha thứ. Bởi thế, việc ăn chay trong mùa Chay, trước hết phải là xóa bỏ hận thù và tha thứ. Nhưng để có tha thứ, cần đến sự hòa giải. Anh chị em mất lòng nhau, anh chị em có hố sâu ngăn cách bởi hận thù, tinh thần chay tịnh đòi anh chị em phải lấy lại lòng nhau, phải lấp đầy những ngăn cách để những gì thuộc về thù hận bị chôn xuống, những gì là trao ban, là yêu thương sẽ bùng lên, vương mạnh. Anh chị em và tôi hãy nhớ rõ một điều: Làm sao có thể tha thứ nếu không bao giờ muốn hòa giải; làm sao có thể nhận được ơn tha thứ nếu không biết tha thứ.
Không biết câu chuyện về cánh tay Chúa Giêsu trên thánh giá ban phép lành để tuôn đổ ơn tha thứ cho tội nhân, thực hư thế nào, nhưng lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa đời đời vẫn thế: bền vững và cao ngất. Câu chuyện có thể không có thật, nhưng lòng tha thứ của Thiên Chúa mãi mãi vẫn thật. Vì thế dẫu cho không có thật, nó vẫn đáng quí, vì nó phản ánh một sự thật rất thật: Lòng Thiên Chúa yêu thương tha thứ. Câu chuyện càng đáng quí khi nó giúp ta ghi lòng để học lấy lòng tha thứ của Thiên Chúa mà tha thứ cho anh chị em.
Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Chúa Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta biết ơn Chúa Giêsu và khắc sâu lời Người: “Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy”.

59. Suy Niệm của Lm. Bùi Thượng Lưu.
Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời
Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do-thái và cũng là “bậc thầy trong dân Israel” đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Các nhà chú giải Kinh Thánh giải thích rằng hoặc ông là người vị vọng trong dân Do Thái, lại là tiến sĩ luật, phái Pharisêu, sợ dư luận, nên đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm, để tránh những cặp mắt dòm ngó, những lời đàm tiếu. Hoặc ông là môn đệ đầu tiên bắt đầu tin theo Chúa một cách kín đáo, chưa dám công khai. Một cuộc gặp gỡ kỳ lạ đã đưa Nicôđêmô, một người khát khao chân lý và ánh sáng được gặp thấy chính Đấng đã phán: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14-16). Trong đêm tối của tội lỗi, trong những thao thức băn khoăn đi tìm chân lý, Đức Giêsu đã mạc khải “vén bức màn” bí mật của chương trình cứu độ của Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử của nhân loại.
Trong Tin Mừng của thánh Gioan, Nicôđêmô còn xuất hiện hai lần nữa. Một lần trong cuộc tranh luận về nguồn gốc của Đức Kitô: “Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, trước đây đã đến gặp Chúa Giêsu, ông nói với họ: Lề luật của chúng ta có cho phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?” (Ga 7, 50). Lần sau cùng vào buổi chiều ngày thứ sáu chịu nạn, Ni-cô-đê-mô cũng dự cuộc liệm xác của Đức Kitô: “Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược, trộn với trầm hương” (Ga 19-39).
Trong cuộc gặp gỡ với Nicôđêmô trong Tin Mừng Chúa Nhật 4 Mùa Chay năm phụng vụ B hôm nay, sứ điệp quan trọng nhất mà Thiên Chúa muốn mặc khải cho tất cả những tâm hồn đang khao khát sự thật và ánh sáng chính là: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16)
Vì yêu thương con người đến tột cùng, Chúa Cha đã trao ban Chúa Con cho trần gian, để trần gian được cứu độ (3,16.35) và được sống (5,24-27; 6,39). Sứ mạng của Chúa Con là hoàn tất công trình cứu chuộc của Chúa Cha, đưa con người vào sự hiệp thông hoàn hảo giữa Chúa Cha và Chúa Con. Lịch sử nhân loại, lịch sử dân Do Thái, lịch sử Hội Thánh hay xác thực hơn, lịch sử của mọi người tín hữu chúng ta đều là Lịch Sử Ơn Cứu Rỗi.
“Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3, 17-18). Như vậy:
1. Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha (xem 3,16-18; 14,1.10; 17, 21-25; 20,31), là đến với Đức Giêsu và gặp Người (6,35-37), là biết Người và cùng với Người biết Chúa Cha (10,38; 11,40; 14,7.20). Đức tin còn là một hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha (6,37.44.65).
2. Tin là nhìn lên Con Người (1,51) được giương cao (12,32) và đặt trọn niềm tin vào ĐẤNG BỊ TREO LÊN trên Thập giá, Đấng Mêsia, Đấng Cứu Thế muôn dân trông đợi… Chúa Giêsu nhắc đến câu chuyện ghi trong sách Dân Số (chương 21, 4-9): trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Ítraen mất kiên nhẫn đã kêu trách Chúa, nên bị nạn rắn cắn. Chúa đã truyền cho Môsê: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống” (Ds 21,8). Con rắn đồng đã trở lên dấu chỉ của sự cứu sống. Chúa Giêsu ám chỉ đến cái chết của Người bị hành hạ và bị treo trên thập tự giá. Tất cả những ai nhìn lên và tin vào Ngài, sẽ không bị con rắn xưa là ma quỷ ám hại. Ngày nay, người ta đã dùng dấu hiệu con rắn treo trên các nhà bán thuốc tây hay dùng trong y học như biểu tượng của sự cứu chữa bệnh tật.
3. Người tin (3,12) bước vào một cuộc sống mới (4,14; 6,27; 17,3). Đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa, là một ân huệ Đấng Mêsia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma quỷ (Ba lời thề hứa trong khi lãnh nhận Phép Rửa). Phải, chính trong đêm tối của tội lỗi mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đừng khép kín lòng lại: “Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc họ làm đều xấu”. (Ga 3-19).
Tin là bước đi trong ánh sáng, sống trong chân lý và hành động ngay chính: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.” (Ga 3, 19-21)
Kế hoạch Thiên Chúa là mỗi người được kêu mời lãnh nhận ơn cứu độ. Đó là một mầu nhiệm, Vì, tất cả chúng ta đều đã phạm tội, nhưng nhờ ân thánh, chúng ta được sống lại, được cải tử hoàn sinh với Đức Kitô và trong Đức Kitô. Cứ nhìn qua nếp sống hưởng thụ ăn chơi đàng điếm của những đô thị lớn trên khắp thế giới, kiểm điểm lại sự sa sút lòng đạo đức cũng như luân lý trong các gia đình di cư, chúng ta sẽ nhận định rõ tình thương vô bờ bến của Thiên Chúa trong thế giới hiện nay.
Mùa chay thánh, mùa ăn năn đền tội sám hối giúp mọi cá nhân tỉnh giấc ngủ say, ý thức thân phận tội lỗi của mình, sự yếu hèn của bản tính con người, để khiêm nhượng hơn, để tin tưởng hơn và mở lòng đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa, lãnh nhận chính tình yêu lớn lao của Ngài.

60. Đức Giêsu nói chuyện với ông Nicôđêmô – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Con người tội lỗi và rất yếu đuối, nhưng Thiên Chúa có hy vọng biến đổi con người trở nên tốt, nên thánh thiện hơn không? Ngài kết án hay tìm cách giáo hóa con người? Ngài đã làm gì để giáo hóa?
2. Những nỗ lực của các nhà giáo dục có khả năng hữu hiệu biến người thụ giáo nên tốt lành thánh thiện không? Các nhà giáo dục có ban được sức mạnh cho những người thụ giáo với mình không? Còn Đức Giêsu, Ngài có làm được điều đó không? Với điều kiện gì về phía ta?
3. Chúng ta vẫn tự hào rằng mình tin vào Đức Giêsu, nhưng tại sao chúng ta xem ra vẫn còn rất là yếu đuối trước tội lỗi? Có điều gì không ổn trong đức tin của ta không?
Chia sẻ
1. Con người có thể thay đổi: người xấu thành người tốt
Sống trên đời, ta thấy ở bất cứ môi trường nào (đạo, đời), trong bất kỳ lãnh vực nào (chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội), trong bất kỳ cấp độ địa vị nào (cao, thấp), tuổi tác nào (già, trẻ)… cũng đều có người tốt kẻ xấu, người nhiều thiện chí kẻ lắm ác ý, người trung kẻ nịnh, v.v… Tình trạng khác biệt đó không luôn luôn cố định mà có thể biến đổi: người tốt có thể biến thành người xấu, hay ngược lại. Thật vậy, có người rất ác rất xấu, nhưng sau một biến cố nào đó, gặp một ai đó, đọc một cuốn sách nào đó, hoặc sống trong một môi trường mới nào đó, người đó thay đổi hoàn toàn, trở thành một người rất hiền rất tốt. Chẳng hạn, trong Kinh Thánh có những người như Maria Mađalêna (x. Mt 26,6-13), người trộm lành (Lc 23,39-43); trong lịch sử Giáo Hội có những người như Augustinô…
2. Vai trò của giáo dục
Chúng ta cần phải nắm lấy chân lý này: con người có thể biến đổi, từ xấu thành tốt, cũng như từ tốt thành xấu. Chính vì thế, vấn đề giáo dục rất quan trọng và cần thiết, nó đem lại hy vọng cho Giáo Hội và xã hội. Con người – mà tự do đã bị tội lỗi làm tổn thương – nếu không được giáo dục, sẽ rất yếu đuối, dễ bị lôi cuốn vào vòng tội lỗi: điều thiện mình muốn làm thì lại không làm, mà điều ác mình không muốn làm thì lại cứ làm (x. Rm 7,15-20). Được giáo dục, con người có thêm sức mạnh để làm điều thiện và tránh điều ác hơn. Tuy nhiên, khả năng này rất giới hạn.
Chính dựa trên khả năng thay đổi này mà có những nỗ lực giáo dục, chuyển hóa con người: nhiều nỗ lực đã thành công vẻ vang, nhưng cũng có nhiều nỗ lực không đi đến kết quả. Để giáo hóa, các nhà giáo dục thường dùng những phương tiện tự nhiên của con người: dạy lý thuyết, khích lệ, dỗ dành, đe dọa, thưởng phạt…
3. Đức Giêsu đến để cải hóa, cứu độ con người bằng đức tin
Thiên Chúa cũng quan niệm con người có thể thay đổi và nhờ đó được cứu rỗi. Khi thế gian bị tội lỗi làm hư hỏng, Thiên Chúa đã không lên án và hủy diệt thế gian, nhưng đã “sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”. Thiên Chúa vẫn hy vọng và chờ đợi con người thay đổi. Vì cho dù tự do của con người đã bị tội lỗi hủy hoại phần nào, khiến con người sẵn sàng làm nô lệ cho điều ác, nhưng con người vẫn còn phần nào tự do. Con người vẫn có thể chọn lựa giữa điều thiện và điều ác, giữa Thiên Chúa và những gì khác với Ngài. Ngài đã đi bước trước để làm cho hy vọng biến đổi con người thành hiện thực, bằng cách sai Đức Giêsu, Con của Ngài, đến trần gian. Sứ mạng của Đức Giêsu cũng là giáo hóa con người: Ngài đến để cải hóa người tội lỗi (x. Mt 9,13; Lc 5,32), biến họ nên thánh thiện (x. Rm 6,22), và hơn thế nữa, giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi (x. Mt 1,21; Mc 2,17; Rm 6,6.18; Dt 9,26b; 1Ga 1,7b). Ngài còn có quyền tha tội (Mt 9,5-6; Mt 26,28; Cv 10,43; Cl 1,14), và ban ơn cứu rỗi (x. Lc 19,9; Ga 4,42; Cv 4,12; 13,23). Nhưng Ngài cải hóa và cứu độ con người bằng đức tin: “Ai tin thì sẽ được cứu độ” (Mc 16,16; x. Cv 16,31).
Đức Giêsu đến không phải để đem đến một lý thuyết giáo dục, một triết lý mới để con người theo. Ngài đến để cứu con người khỏi xiềng xích của tội lỗi, khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự chết, là những thứ khiến con người đâm ra bạc nhược, ý chí yếu đuối. Ngài đến để đem lại sức mạnh cho con người, nhờ đó con người có thể đủ sức mạnh để thực hiện những điều thiện mình muốn làm, và nói “không” với những điều ác mình không muốn làm (x. Rm 7,15-20). Để có được sức mạnh đó, con người không cần phải học hỏi lý này thuyết nọ. Điều duy nhất và hết sức quan trọng con người phải làm để có được sức mạnh ấy là hoàn toàn tin tưởng vào Ngài, như bài Tin Mừng hôm nay xác quyết: “Ai tin vào Người thì được sống muôn đời”, “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”. Như vậy, sức mạnh đến từ đức tin, tin vào Đức Giêsu Kitô.
4. Giới hạn của giáo dục
Bất kỳ nhà giáo dục nào trên thế giới cũng đều nhận thấy khả năng giáo hóa của giáo dục rất giới hạn. Giáo dục có thể rất thành công trong việc dạy cho con người biết tất cả điều nào tốt, điều nào xấu, điều nào phải làm, điều nào nên tránh. Nhưng có thể một người biết rất rõ những điều ấy, và thành thật mong muốn làm theo sự hiểu biết ấy, vẫn cảm thấy không đủ năng lực để thực hiện. Người ấy vẫn cảm thấy có một lực nào đó ở ngay bên trong mình khiến mình làm ngược lại. Nghĩa là lực ấy cản trở mình làm điều tốt, và thúc đẩy mình làm điều xấu. Khốn thay, cái lực xấu ác ấy nhiều khi lại thắng và làm tê liệt được sức mạnh của ý chí. Đó chính là điều mà thánh Phaolô cảm nghiệm rất rõ nơi bản thân ông, và ông gọi cái lực xấu ác ấy là “tội”: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì (…) không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. (…) Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi” (Rm 7,15-20). Đây chính là nguyên nhân của mọi bi thảm trên trái đất: kẻ tội lỗi nhất thế giới vẫn luôn luôn phân biệt điều tốt điều xấu, vẫn luôn ao ước làm điều tốt, vẫn mong trở nên trở nên người tốt, nhưng không làm nổi. Vì lực xấu ác kia quá mạnh, đã lôi kéo, thúc đẩy người ấy làm những điều hắn không muốn. Lực ấy mạnh đến nỗi hắn dường như chỉ biết tuân theo, ý chí yếu đuối của hắn không cưỡng lại được.
5. Sức mạnh và sự cứu rỗi đến từ đức tin vào Đức Giêsu
Trước tình trạng bi thảm ấy, thánh Phaolô đã phải kêu cứu: “Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?” (Rm 7,24). Và may mắn thay, ông đã nhận ra người có khả năng cứu ông: “Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” (7,25). Điều này đã được Đức Giêsu xác định với Nicôđêmô trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai tin vào Con Người thì được sống muôn đời”, “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”. Trong bài đọc hai, thánh Phaolô cũng xác nhận điều ấy: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa”. Như vậy, muốn được cứu khỏi tình trạng yếu đuối, nô lệ tội lỗi, điều quan trọng là tin vào Đức Giêsu Kitô.
Đức tin tạo nên sức mạnh: “Mọi sự đều có thể đối với người tin” (Mc 9,23), vì “nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: “Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc”, nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17,6). Khả năng làm được tất cả mọi sự ấy không phải là khả năng của bản thân ta, vì như Đức Giêsu nói: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5), mà là quyền năng của Thiên Chúa, “vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,27). Vì thế, khi tin thật sự vào Đức Giêsu, Đấng ban sức mạnh, ta có thể nói như thánh Phaolô: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi có thể làm được tất cả mọi sự” (Pl 4,13).
Tin vững vàng vào Đức Giêsu, ta sẽ thật sự trở nên mạnh mẽ. Nhưng hãy xem, biết bao người mang danh là tin Đức Giêsu, vẫn cảm thấy mình còn yếu đuối, còn nô lệ cho tội lỗi. Vậy, vấn đề mà ta cần phải nghiêm túc đặt lại, là ta đã thật sự tin vào Đức Giêsu chưa, hay ta chỉ mang danh là tin Ngài thôi? Đức tin của ta vào Ngài là thứ đức tin nào: đức tin rẻ tiền (tin hờ, tin ngoài miệng) hay đức tin đắt giá (tin thật, bằng hành động, bằng đời sống dấn thân thật sự)? Rất nhiều Kitô hữu cảm thấy an tâm vì tưởng rằng khi tuyên xưng ngoài miệng rằng mình tin thì có nghĩa là mình đã tin. Thật ra, tin là một việc quan trọng, nhưng tin thế nào còn quan trọng hơn rất nhiều. Tin mà vẫn nghi nan trong lòng thì chẳng có tác dụng. Hãy xem gương của Phêrô, khi thấy Đức Giêsu đi trên mặt nước đến với thuyền của mình, nhờ tin vững chắc vào Thầy mình, ông đi được trên mặt nước đến với Ngài. Nhưng khi thấy gió thổi, ông đâm sợ và nghi nan trong lòng. Lập tức ông bị chìm xuống (x. Mt 14,25-31).
Cầu Nguyện
Lạy Cha, con đã mang danh là tin vào Cha, vào Đức Giêsu biết bao nhiêu năm nay. Nhưng thử hỏi đức tin của con đã biến đổi con thế nào? Con đã thật sự tốt hơn, mạnh mẽ hơn những người không tin chưa? Đáng lẽ có đức tin, con phải vượt hơn họ xa lắm! Phải chăng, con mới chỉ mang danh là tin, chứ chưa thật sự tin? Xin Cha hãy ban cho con đức tin đích thật, một đức tin được minh chứng bằng hành động thật sự.

61. Nhìn lên Thánh Giá Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm John Nguyễn Tươi)
“Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3,14)
Trong Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay, ngài thuật lại việc Chúa Giê-su nói với ông Ni-cô-đi-mô rằng: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn đồng trong sa mạc, thì Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” Hình ảnh con rắn là biểu tượng của loài sảo huyệt trong sách Sáng thế thuật lại, nó dụ dỗ Adam và Eva sa ngã phạm tội, chống lại Thiên Chúa. Thế nhưng, Tin Mừng hôm nay lại nói, ai nhìn lên con rắn đồng thì lại được sống. Chúng ta sẽ đặt ra đặt câu hỏi, con rắn đồng của Mô-sê có ý nghĩa gì? Đây là vấn đề cho chúng ta tìm ra ý nghĩa ánh sáng Lời Chúa.
Thánh Kinh thuật chuyện dân Do Thái khi họ trên đường tiến vào vùng đất hứa đã xúc phạm đến Thiên Chúa. Họ nặng lời với Môi-se, ngài có sứ mạng dẫn dân Chúa đến vùng đất hứa, họ nói rằng: “Vì sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập, khiến chúng tôi phải chết trong sa mạc này? Chúng tôi chẳng có nước uống, cũng chẳng có gì ăn ngoài loại bánh đạm bạc mà chúng tôi đã chán ngấy!” Thiên Chúa đã sai rắn đến và cắn nhiều người chết. Người ta chạy đến với Môi-se kêu lên rằng: “Chúng tôi có tội, vì đã nói xúc phạm đến Chúa và ông. Xin ông cầu với Chúa để Ngài đuổi rắn đi.” Môi-se tha thiết khẩn cầu thay cho dân. Thiên Chúa đã đáp lời, Ngài phán cùng Môi-se rằng: “Con làm một con rắn đồng, treo trên cây. Người nào bị rắn cắn chỉ cần nhìn nó là được sống.” Vậy Môi-se làm một con rắn bằng đồng, treo trên một cây sào. Hễ ai bị rắn cắn nhìn lên con rắn đồng, liền được thoát chết. (Dân Số 21:6-9)
Đoạn Tin Mừng này, thánh Gioan nhắc lại sự kiện lịch sử thời của Môi-sê dẫn dắt dân chúng thoát khỏi lưu đày. Nhưng ai bị rắn cắn và nhìn lên con rắn bằng đồng thì sẽ được cứu sống. Con rắn bằng đồng là hình ảnh của Chúa Giê-su bị treo lên cây thập giá. Ngài chịu đau khổ, bị sỉ nhục, đóng đinh và chết trên cây thập giá, để chuộc tội cho nhân loại, hễ ai nhìn lên Thánh giá Chúa và tin vào Ngài, thì dù bị nọc độc tội lỗi tàn hại cũng được chữa lành, mỗi hành vi sám hối của chúng ta đều được Ngài tha thứ. Các phòng mạch bác sĩ ngày nay cũng dùng hình ảnh con rắn để nói đến sự chữa lành. Qua hình ảnh con rắn bằng đồng trong Cựu Ước, chúng ta thấy rằng: nhiều người đã bị rắn độc cắn chết, không có thứ thuốc nào chữa được, nhưng nhìn lên con rắn thì được cứu chữa.
Cũng vậy, nhân loại ngày nay không có phương cách nào để tự giải trừ tội lỗi, giải cứu linh hồn mình ra khỏi lửa địa ngục: “Vì mọi người đều phạm tội, không còn phản chiếu vinh quang Thiên Chúa” và “tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rm 3:23). Cho dù, ngày nay khoa học có tiến bộ hơn, nhưng khi con người không biết kính sợ Thiên Chúa- Đấng Tạo Hóa, thì con người vẫn đi trong tăm tối, vô vọng, và trở nên tàn ác hơn. Tội lỗi gian ác là nọc độc phá hoại tâm trí và linh hồn con người bởi nọc độc của quỷ vương từ khi tổ phụ loài người phạm tội, và nọc độc tội lỗi ấy lan truyền cho con người hôm nay. Nhưng, Chúa Giê-su đã đến trần gian để đã nhận chịu nọc độc của tội lỗi thay cho chúng ta. Chỉ cần chúng ta đến với Chúa Giê-su thì tất cả nọc độc của tội lỗi trong chúng ta đều tan biến, mắt chúng ta nhìn biết Đấng Tạo Hóa mình, tai chúng ta nghe được tiếng êm dịu đầy tình yêu của Ngài, để chúng ta kịp thời ăn năn, thống hối và được ơn tha thứ của Thiên Chúa, đó là ân phúc Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại qua Người Con Chí Thánh của Ngài, chúng ta được sự sống đời đời.
Lạy Chúa, Xin cho chúng con nhận ra ơn huệ lớn lao này, nhờ đó chúng ta được chữa lành vết thương và nọc độc đang phá hoại tâm hồn và thể xác con. Căn bệnh của sự kiêu ngạo, ích kỷ, tham lam, dục vọng đang bám lấy tâm hồn con, thì xin cho con biết nhìn lên Thánh Giá Chúa Giê-su mỗi ngày để được chữa lành tâm hồn và thể xác con. Amen.

62. Suy niệm của Lm. Jude Siciliano
Câu truyện dưới đây tác giả đặt sau bài suy gẫm, kiểu như để đọc thêm. Người dịch lại chuyển lên đầu, để giúp minh họa cho nội dung bài Tin Mừng hôm nay. Lý do là độc giả Việt Nam không thích suy luận trừu tượng, ưa những gì cụ thể. Truyện của nữ tác giả Ann Lamott trong sách Bird by Bird (Từng Con Chim).
Một em bé trai tám tuổi có người em gái sáu tuổi đang hấp hối chết vì bệnh ung thư máu. Để cứu được bệnh nhân người ta cần đến một loại máu tương tự. Cha mẹ giải thích cho con trai là đi thử máu để xem có thích hợp với máu của em gái không? Em nhanh nhẹn bằng lòng. Sau khi thử, hai loại máu hoàn toàn am hợp. Rồi các bác sĩ đề nghị em cho em gái mình vài phân khối máu để cứu em. Đứa anh lưỡng lự nói để suy nghĩ xem sao qua một đêm.
Sáng hôm sau, vừa thức dậy, em chạy đến phòng cha mẹ trả lời là em sẵn sàng hiến máu. Cha mẹ vui mừng đưa em vào bệnh viện, nơi con gái đang nằm chờ chết. Người ta đưa em lên giường để hút máu nơi cánh tay. Sau đó người ta tiếp máu cho bệnh nhân. Chỉ một vài lượng máu mà đứa con gái nhỏ thoát khỏi thần chết. Mọi người vui mừng. Một bác sĩ đến giường người cho máu để xem lại sức khỏe cho em. Đứa anh trai đang nằm lim rim mở to đôi mắt hỏi: “Thưa bác sĩ bao lâu nữa thì con mới chết?” Bác sĩ mỉm cười. Với tâm hồn ngây thơ, em cứ ngỡ cho máu như thế là mình sẽ chết thay cho em gái.
Trong câu truyện với Nicôđêmô Chúa Giêsu cũng đề cập đến việc Ngài sẽ chết thay cho nhân loại. Nhưng là chuyện tương lai, cho nên khó mà nắm bắt được hết ý nghĩa. Giọng văn của thánh Gioan thâm trầm, súc tích lại càng làm cho độc giả bối rối hơn. Mỗi câu, mỗi chữ gói ghém nhiều tư tưởng, đến nỗi dù đã ở trong nghề giảng thuyết nhiều năm, tôi vẫn phải ngồi bóp chán suy nghĩ lâu giờ. Bài Tin Mừng đúng là một thách thức cho những khối óc lớn, làm sao giới lao động hiểu nổi? Tuy đã đọc nhiều lần trước đây, hôm nay tôi vẫn phải tự hỏi: Chúa Giêsu ám chỉ điều chi trong câu truyện thù tiếp với ông Nicôđêmô? Làm thế nào mà giải thích nó cho thính giả bình dân? Phúc âm nhất lãm dễ hiểu hơn. Các câu truyện của chúng ngắn gọn và sống động. Hình ảnh rất cụ thể, dễ cho các nhà rao giảng khai triển đề tài. Tuy nhiên nhiều linh hồn đạo đức lại thích Phúc âm của thánh Gioan. Họ có thể ngồi hàng giờ, giở từng trang, nghiền ngẫm từng chữ cho tâm trí thoả niềm nguyện ngắm. Đoạn Tin Mừng hôm nay thêm phần rắc rồi ở chỗ nó được trích ra ở khoảng giữa bài huấn giáo thật dài Chúa ban cho ông Nicôđêmô (3,1-21), bởi vậy khi đọc lên, người ta nghe như hoàn toàn lạc lõng và quá nặng nề đối với một cộng đoàn quen thuộc những bài đọc dễ hiểu hơn. Tôi cũng không dám chắc bài đọc 1 trích từ sách 2 Biên Niên Sử có thoáng hơn bài Tin Mừng chăng? Xem ra nó là một bản tóm lược lịch sử cứu độ và như vậy nó cũng gây khó khăn không ít cho những người rao giảng. Khi đọc lần đầu tôi thấy chúng mơ hồ và có rất nhiều giọng điệu thần học bí nhiệm.
Rào trước đón sau như vậy tôi mới dám bầy tỏ trực giác của mình về nội dung Tin Mừng, tuy nhiên cũng chưa thể đi thẳng vào đề tài, xác địch ngay những điều Phúc âm muốn nói, mà phải suy gẫm hàng giờ xem bằng những hàng chữ này, Thánh Thần muốn mặc khải những chi cho linh hồn tôi và linh hồn các thích giả của tôi.
Điều đầu tiên tôi khám phá ra trong bài huấn từ,Chúa Giêsu nhiều lần quy chiếu về lịch sử cổ xưa của dân tộc Do thái, đặc biệt về hành trình vượt sa mạc, tiến vào đất hứa. Trong mùa chay này giáo xứ chúng ta cũng có nhiều cuộc hành trình thiêng liêng tương tự. Phải lợi dụng chúng để chỉnh đốn lại tâm hồn mọi người. Vừa thoát khỏi ách nô lệ, Ai cập dân Israel tay sách, nách mang vượt qua nhiều con đường dài, khô cằn, vất vả, họ trở nên mỏi mệt, kêu trách ông Môsê đã hành hạ họ và như thế gián tiếp ta thán Thiên Chúa: Sách Dân số ghi lại như sau: “Từ núi Ho, họ lên đường theo Biển sậy, vòng qua lãnh thổ Êdom, trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Israel mất kiên nhẫn, họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môise rằng: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai cập, để chúng tôi chết trong sa mạc?” (4,21). Thiên Chúa nổi giận với họ, vì họ đã bất trung. Ngài cho rắn độc từ trong rừng bò ra cắn chết rất nhiều người. Các nhà chú giải cắt nghĩa rằng, đây là một loài rắn độc. Từ “Saraph” nghĩa là rắn lửa. Gọi như vậy vì các vết thương đỏ lên, rất độc và đau đớn.
Điều thứ hai là: ông Nicôđêmô đến nói chuyện với Chúa Giêsu vào ban đêm. Một người đang ngồi trong bóng tối tìm đến Ánh sáng soi đường. Và ông được bảo cho biết Đức Chúa trời phán xét thế gian. Ý tưởng thật dễ sợ. Những ai quen ăn ở độc ác nghĩ đến điều Thiên Chúa phán xét hẳn phải rùng mình sợ hãi. Đây không phải là chuyện đùa, phép công thẳng của Ngài đã từng được minh chứng qua dòng lịch sử. Cả một dân tộc bị Chúa phạt thua trận, đi đầy, thành quách bị phá đổ, cửa nhà tan hoang, không còn nghi lễ, không còn tư tế, trẻ nhỏ bị sát tế dâng tiến ngẫu tượng (bài đọc 1). Những ai ăn ở bất toàn cũng không thể đứng vững trước mặt Thượng Đế. Nguyên nghĩ về truyện này mà thôi đã thất lạnh sương sống, nói chi đến thực tế hãi hùng? Tuy nhiên án phạt của Thiên Chúa nối kết chặt chẽ với ơn thánh của Ngài. Thật lạ lùng! trí khôn nhân loại không thể hiểu thấu. Bởi lẽ án phạt lại là một hành động yêu thương. Thiên Chúa là tình yêu, nơi Ngài không có bóng tối đố kỵ, ghét ghen. Mọi hành động của Ngài đều là yêu mến, phát xuất từ tình yêu. Điều lạ lùng trên hết mọi sự lạ! Cho nên án phạt là từ chối tình yêu của Đức Chúa Trời: “Kẻ không tin thì đã bị lên án rồi vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa”. Do đó án Đức Chúa Trời tuyên trên nhân loại là sai con của Ngài, Ngôi Hai, nhập thể để giải phóng chúng ta khỏi tội, khỏi đêm tối Nicôđêmô. Ánh sáng đã đến trong thế gian chiếu trên bóng tối linh hồn mỗi người. Người ta muốn xa tránh ánh sáng này cũng không được nữa, bởi nó là ánh sáng thấu suốt mọi sự, chiếu trên tội lỗi của chúng ta và bày tỏ án phạt cho mỗi người. Nói cho đúng, dân Israel bị lưu đầy, đền thờ bị phá huỷ không phải vì Thiên Chúa mà do tội bât trung của mình, họ đã từ chối thắng trận, từ chối ơn bảo trợ của Đức Chúa Trời.
Chúa Giêsu nhắc nhớ ông Nicôđêmô về biến cố rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người Do thái vì bất trung. Ông Môsê đã làm gì để cứu dân? Thiên Chúa truyền cho ông treo một con rắn bằng đồng lên cây cọc giữa sa mạc. Bất cứ những ai nhìn lên, kêu cầu con rắn đó đều được chữa khỏi. Vậy thì con rắn đồng đứng làm biểu tượng cho ơn cứu rỗi đến từ Thượng Đế. Thiên Chúa một lần nữa lại là nguồn ơn giải phóng cho toàn dân, đúng như khi họ còn ở Ai cập. Với đức tin, một cái nhìn hướng về con rắn, hứa hẹn ơn cứu chuộc. Ngày nay chúng ta dễ dàng nhận thấy ý nghĩa song hành giữa Chúa Giêsu chịu chết trên cây thánh giá và con rắn đồng của Môsê. Nhưng đối với ông Nicôđêmô thì không, ông chưa thể nhìn ta vế thứ hai của câu truyện, vì thế ông chưa hiều được, ông cần cần nhờ sự soi sáng đến từ trời cao. Chúng ta cũng phải ngang qua những giây phút hoang địa của cuộc đời, những hoang tưởng trên con đường tiến về Thượng đế. Biết bao nhiêu cám dỗ xúi dục chúng ta thất vọng, mất tin tưởng vào sự cứu rỗi của Thiên Chúa, không phải chỉ trong những thử thách lớn, mà ngay trong các biến cố của cuộc sống hàng ngày, chúng ta cần phải thường xuyên dừng lại, nhất là mùa chay này, nhìn lên Chúa cứu thế để xin thêm đức tin, chỉnh đốn lại cuộc sống. Đến đây tôi nhớ đến bài hát nổi tiếng của Johnny Cash: “Tôi bước đi trên dấu đường đã vạch” (I walk the line). Anh hát về lòng trung thành của mình với người yêu: “Suốt cả thời gian ấy tôi đã mở to đôi mắt… bởi em là của tôi, tôi đang bước đi trên dấu đường đã vạch.” Hôm nay cũng là thời gian và cơ hội để chúng ta mở to đôi mắt, nhìn những dấu chân đi hoang của mình suốt năm qua. Đặt ra những câu hỏi thích hợp để cật vấn lương tâm: Nếu tự do và mục tiêu của tôi là Đức Chúa Trời, thì tôi đã suy nghĩ thế nào khi chọn lựa các quyết định thường nhật? Tại sao tôi ngu xuẩn đến thế? Tại sao tôi không bước đi trên dấu đường đã vạch từ khi chịu phép thanh tẩy? Con đường hiện nay tôi đang tiến bước có dẫn đến Thiên Chúa hay không? Chúa Giêsu đến để bật sáng lên ngọn đèn trong đêm tối tương lai, nhờ ánh sáng của Ngài mọi sự đã rõ ràng, chúng ta nhận ra các chướng ngại vật, bấy lâu làm bao người vấp ngã. Đó là tham, sân, si, là các dục vọng, thói xấu làm điên đảo lòng người. Liệu chúng ta có cương quyết tránh xa? Hay lại dấn thân sâu đậm vào chúng hơn nữa? Đâu là những con đường giả tạo chúng ta đã theo đuổi? Lúc này, có đúng là chúng ta đang bước đi trên “dấu đường” Chúa Giêsu đã chỉ và ban ơn cho chúng ta dõi theo?
Sự lượng định lại giúp dễ nhận ra những thực tại bất ổn trong lương tâm mỗi người, tuy rằng làm như thế có thể khiến chúng ta thất vọng, nhát đảm về mình. Nhưng xin hãy can đảm kết án mạnh mẽ những thiếu xót của lòng mình và lắng nghe sứ điệp Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô hôm nay. Đừng liên tưởng về người khác mà là về chính bản thân.Thiên Chúa sẽ tuyên án trên chúng ta, cái án mà Ngài đã áp dụng cho toàn thể nhân loại: Sự tha thứ qua Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Đức tin chân chính sẽ khích lệ chúng ta ít nhìn về mình, nhưng về Chúa Giêsu, con rắn đồng treo trong “sa mạc” cuộc sống. Nhìn như thế sẽ giúp chúng ta được chữa lành nhanh chóng khỏi các vết thương do Satan, thế gian và xác thịt gây nên, hàn gắn các tương giao đã bị đổ vỡ, trái tim chai đá và độc ác, lòng đạo lạnh nhạt và muôn vàn thiếu xót khác.
Có tất cả hơn ba trăm lời tiên tri về Chúa Giêsu trong Kinh thánh Cựu ước. Ngài đã làm tròn tất cả. Hôm nay những hình ảnh được nhắc trong huấn từ Chúa dành cho ông Nicôđêmô là: Người Con duy nhất, Con Người, Con Một Thiên Chúa, Ánh sáng và Ơn cứu độ thế gian. Những tước hiệu này là đặc trưng của Phúc âm theo thánh Gioan. Nhưng cũng là tước hiệu thiết thân trong mỗi linh hồn tín hữu. Chúng mang nhiều tầng lớp ý nghĩa khác nhau, tuy nhiên, tất cả đều quy hướng về Chúa Kitô. “Con loài người” phải được “giương cao” là tư tưởng chủ đạo trong bài diễn từ. Và thực sự Chúa Giêsu đã được “giương cao” trên thập tự. Một đằng sự kiện này tố cáo chúng ta đã trung thành với Thiên Chúa thế nào? Đàng khác nó đòi hỏi chúng ta phải tiến bước ra sao trên con đường tự do. Sự dấn thân theo Chúa phải trả giá bằng hy sinh và đau khổ cá nhân. Nhìn Chúa đang chịu “giương cao” trên thánh giá, tức khắc chúng ta hiểu điều đó. Nhưng “giương cao” cũng còn có nghĩa là sống lại. Nếu chúng ta nhìn lên Ngài sống lại, chúng ta sẽ hiểu được rằng: Chẳng có tội lỗi nào mà Thiên Chúa không toàn thắng. Amen.

63. Nicôđêmô
Nicôđêmô là nhân vật trung tâm trong bài Tin Mừng hôm nay. Mặc dù ông chỉ xuất hiện ba lần trong sách Tin Mừng (cả ba lần đều xuất hiện trong sách Tin Mừng theo thánh Gioan), nhưng tính cách của ông rất hay. Ông là một người Pharisêu, và là một thành viên của Sanhedrim – tòa án tối cao Do thái.
Lần đầu tiên Nicôđêmô xuất hiện là trong bài Tin Mừng mà chúng ta đọc hôm nay. Chúng ta được nghe kể lại rằng những lời giảng dạy và việc làm của Đức Giêsu đã gây ấn tượng nơi ông. Đối với ông, rõ ràng là trong những lời nói và hành động đó có bàn tay của Thiên Chúa. Do đó, ông đến với Đức Giêsu, nhưng đến một cách âm thầm, bởi vì ông không muốn bị người khác phát hiện ra. Nhưng chúng ta không nên quá khắt khe đối với ông trong cách tính toán này. Với sự kiện ông là một người Pharisêu, thật là một điều đáng ngạc nhiên, khi ông đến với Đức Giêsu. Vì thế, Đức Giêsu đã cho ông vinh dự được có một cuộc phỏng vấn dài với Người.
Khi Nicôđêmô xuất hiện lần thứ hai, ông đã dày dạn, khi dám đặt vấn đề với những kẻ chống đối Đức Giêsu. Lúc bấy giờ, những người Pharisêu đã có ý định giết Đức Giêsu, và sẵn sàng giết Người, mà thậm chí không cần đưa Người ra xét xử. Nhưng Nicôđêmô đã can thiệp, ông tuyên bố rằng ít nhất phải nghe Đức Giêsu nói một cách công bình, theo như lề luật đòi hỏi. Đây là lần ông công khai dính líu vào Đức Giêsu. Chính ông đã cung cấp một khối lượng lớn những thứ thuốc thơm đắt tiền để chôn cất người. Chúng ta có thể suy luận được điều gì về Nicôđêmô, qua ba lần xuất hiện ngắn ngủi này? Lần xuất hiện đầu tiên cho thấy ông là một người cởi mở, và là một người thực sự muốn tìm kiếm chân lý. Lần xuất hiện lần thứ hai chứng tỏ ông là một người công chính, khi cứ khăng khăng rằng không được kết án Đức Giêsu, mà không đưa Người ra xét xử. Và lần xuất hiện thứ ba cho thấy rằng ông là một người giàu có, nhưng cũng là người quảng đại và có lòng thương xót nữa. Với tất cả những phẩm chất này, chúng ta có thể khen ngợi và bắt chước những tính cách hữu ích của ông. Nhưng điều mà dường như Nicôđêmô không có khả năng thực hiện, đó là thẳng tiến và có một hành động chứng tỏ lòng tin nơi Đức Giêsu một cách trọn vẹn và công khai. Dường như ông không có khả năng can đảm để bước ra khỏi bóng tối, và dứt khoát quyết định đến với ánh sáng. Chúng ta có được hình ảnh một con người tốt, có thể trở thành một người vĩ đại. Một con người tầm thường là người không phải là đại thánh, mà cũng không phải là người tội lỗi. Khi suy nghĩ về Nicôđêmô, có thể chúng ta bước ra khỏi bóng tối, vì không e ngại hoặc xấu hổ công khai tuyên xưng lòng tin của chúng ta nơi Đức Giêsu, và nếu cần, chúng ta sẵn sàng trả bất cứ giá nào khi làm điều đó. Những ai tin tưởng sẽ không bị hư mất, nhưng sẽ được sự sống đời đời. Tuy nhiên, điều đó không đơn giản chỉ là vấn đề tin tưởng, mà còn là sống sao cho phù hợp với lòng tin đó.

64. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
NỘI DUNG MẶC KHẢI CỦA CHÚA GIÊSU (c.14-17)
Để tạo uy tín cho lời nói của mình, trước hết Chúa Giêsu đặt nó vào trong lịch sử Israel. Sự mới mẻ mà Người mang đến, cần phải là sự hoàn tất mọi điều Kinh Thánh. Con rắn được giương cao trong sa mạc, theo sách Dân số 21,4-9, đã giải thoát các người Do Thái bất trung khỏi phải chết. Từ giai thoại bí nhiệm này, chúng ta nên lưu ý những điểm có thể làm sáng tỏ điều mặc khải tiếp theo sau:
a) Con rắn được giương cao, giống như con người sẽ được treo lên thập giá. Có sự giống nhau từng chữ.
b) Sự chết đe dọa dân tộc là do sự cứng lòng tin. Dân Do Thái được cứu độ không phải bằng một nghi thức phù phép, mà bằng một nghi thức đầy ý nghĩa tượng trưng, đó là đức tin vào Thiên Chúa. Tác giả sách Khôn ngoan đã hiểu rất rõ điều đó: “Ai nhìn lên (con rắn) sẽ được thoát, không phải nhờ xem điềm lạ đó mà được khỏi, nhưng tại nhờ vào Ngài là Cứu Chúa muôn loài” (16,7). Quả thật, ơn cứu độ do Thiên Chúa mà có.
c) Hiểu rộng hơn, việc tham chiếu với đoạn nói về con rắn bằng đồng kết nối sự giáng thế của Chúa Giêsu với những biến cố Xuất hành. Chúa Giêsu là một Môsê mới, và chắc chắn đối với Thánh sử Người còn hơn thế nữa.
Con Người
sẽ phải được giương cao
để ai tin vào Người
thì được sống muôn đời
Quả thật Thiên Chúa
yêu thế gian
đến nỗi đã ban Con Một
để ai tin vào Con của Người
thì khỏi phải chết
nhưng được sống muôn đời.
Câu này tóm gọn mặc khải: ở đây chúng ta đang đứng trước những “chuyện trên trời” được nói đến ở câu 12. Nên lưu ý đến kết cấu Do Thái song song: cách phân chia câu cú có thể giúp nhận ra những thành phần của câu tương ứng với nhau: “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”: hoàn cảnh và các tác nhân cụ thể gây nên cái chết của Chúa Giêsu không được phơi bày ở đây. Thánh sử chỉ giữ lại sự “nhất thiết” (phải) ăn rễ sâu trong ý định của Thiên Chúa. Việc dùng thụ động tiếp sau đó có thể là một cách hành văn để tránh phải dùng đến từ “Thiên Chúa”. Kết cấu bản văn chứng tỏ sự song song giữa Thiên Chúa yêu thương và Người được giương cao. Từ câu này chúng ta nhận ra bản tóm lược sự mặc khải, chúng ta thử dẫn ra những điểm sau đây:
a) Trong Tin Mừng Gioan, sự nâng lên tương ứng với việc treo lên thập giá (x 2,28’ 12,31-34). Tại sao việc bị treo lên thập giá, “điều ô nhục đối với người Do Thái, sự điên rồ đối với dân ngoại” (1Cl 1,23) lại là tuyệt đỉnh mặc khải nơi Gioan (x. 19,31-37)?
b) Điều đó bởi vì thập giá là nơi phơi bày tình yêu của Thiên Chúa. Từ này xuất hiện ở đây lần đầu tiên trong Tin Mừng Gioan. Đặc biệt nó sẽ được lặp lại trong phần thứ hai của Tin Mừng. “Thiên Chúa đã yêu đến nỗi đã ban Con mình”: cả hai động từ đều được dùng ở thì quá khứ vô định, một sắc thái của thì động từ không dùng trong tiếng Pháp, chỉ định một thời điểm rõ ràng và chính xác (hội nhập vào bước đường lịch sử của Chúa Giêsu và kết thúc trên thập giá). Chính nhờ ân huệ này của Thiên Chúa mà Gioan có thể nói đến tình yêu. Đó là tình yêu hiển thị (1Ga 4,10). Việc nhập thể chính là sự biểu lộ tình yêu mà đỉnh cao là thập giá.
c) Thập giá không phải là nguồn ơn cứu độ ở khía cạnh một của lễ đền tội đẫm máu. Chính bởi vì nó là cách diễn tả cao cả nhất của tình yêu Thiên Chúa, cho nên nó là nguồn sự sống cho các tín hữu. Chúng ta không nên nhìn thập giá như nơi Thiên Chúa trút cơn thịnh nộ, nơi Chúa Con bị Chúa Cha từ bỏ để cứu độ chuộc tội lỗi loài người. Nơi đây Chúa Con và Chúa Cha thông hiệp cùng một tình yêu dành cho nhân loại. Prométhée chịu hình phạt của chúa tể trên chính tảng đá mà chúa tể đã sử phạt mình vì đã mang lừa cho loài người. Và ca đoàn lý giải các nguyên do hình phạt bằng những lời lẽ này: “Đó là kẻ thù của Zeus, kẻ đã chấp nhận sự căm hờn của mọi thần linh vì đã quá yêu loài người”. Trong Tin Mừng Gioan, tình yêu loài người được Thiên Chúa Cha và Con cùng chia sẻ.
d) Cho dù ông Nicôđêmô đã biến mất cách lạ lùng, thì cũng một chủ đề đó kết nối phần thứ hai của bài trần thuật với phần bài mà ông có mặt: ông này, ngờ vực, đã không muốn tin rằng một người già có thể sinh ra lần thứ hai. Ở đây chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa trên thập giá có năng lực làm cho những ai tin vào Người được sống muôn đời.
TIN VÀ KHÔNG TIN (cc. 18-21)
Nếu tình yêu của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu là vô điều kiện, thì nó mời gọi lời đáp trả của con người. Sự hiện diện của Chúa Giêsu đòi hỏi mỗi người bây giờ phải lựa chọn: chính bây giờ mà việc xét xử được thực hiện. Tính cách quyết liệt và lập tức của việc xét xử là hiệu quả sự hiện diện của Đấng mặc khải: Người hiện diện, con người bắt buộc phải lựa chọn và từ sự lựa chọn này phát sinh ngay từ bây giờ hoặc ơn cứu độ hoặc án phạt. Sự đối nghịch bóng tối/ánh sáng nhắc đến những đoạn văn rất quen thuộc với cộng đoàn Cumran. Thế nhưng Gioan tránh né khía cạnh định mệnh những người Etxênô: chính sự tự do của mỗi người kéo theo sự chia cách và từ đó sự xét xử. Đoạn kết phần thứ nhất của Tin Mừng (12,46-48) lặp lại những chủ đề đó cùng với một loại từ ngữ, đến nỗi có vài nhà chú giải đã nghĩ rằng Ga 3,16-19 và 12, 46-50 có thể là hai bản dịch của cùng một bài giảng của cộng đoàn Gioan. Giả thuyết này (không thể xác định được) có cái lợi là chứng tỏ thánh sử đã soạn thảo Tin Mừng như thế nào: ông có sẵn nhiều nguồn và ông đã lựa chọn. Một vài mảng văn đã có thể được thêm vào trong những lần in ấn khác nhau. Chỉ có tác giả là người hoàn tất việc soạn thảo Tin Mừng, chịu trách nhiệm toàn tập.
Cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô và sự mặc khải tiếp theo, tạo thành một đỉnh cao về Chúa Kitô trong Tin Mừng Gioan. Cộng đoàn, đối mặt với Do Thái giáo, được mời gọi xác định căn tính của Chúa Giêsu và tách mình ra khỏi trào lưu Do Thái, cho dù nó có gần gũi với cộng đoàn (như trường hợp ông Nicôđêmô), bởi vì những người Do Thái đã không sẵn sàng tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng mặc khải của Thiên Chúa, là Chúa Con nhờ người Thiên Chúa nói lời cuối cùng với nhân loại.

65. Một tình yêu không thể tin được
(Chú giải của Lm. Phanxicô X. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh và Bố cục
Sách các Dấu lạ của TM IV (2,1–12,50) nói về các dấu lạ lồng vào một cái khung thời gian nhằm giới thiệu chân tính của Đức Giêsu, là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với Nicôđêmô (3,1-21) nằm trong phần đầu (2,1–4,54), phần này có bố cục như sau:
A (2,1-11.12): Khởi đầu các dấu lạ tại Cana miền Galilê: biến nước thành rượu (c. 12 là câu chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian]sang đoạn sau).
B (2,13-22.23-25 +): Thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem và đối thoại với người Do-thái về Đền Thờ mới (cc. 23-25 là những câu “làm cầu” nối 2,13-22 với 3,1-21).
C (2,23-25; 3,1-21): Đối thoại với Nicôđêmô về việc sinh bởi trên cao và diễn từ về việc có sự sống vĩnh cửu.
C’(3,22-36; 4,1-3 +): Đối thoại của Gioan Tẩy Giả với các môn đệ ông về chú rể đến từ trên cao và diễn từ về sự sống (Đoạn 3,22-24 là dẫn nhập chuyển tiếp. Đoạn 4,1-3 là những câu “làm cầu” nối [vì kết] 3,22-36 với [vì chuẩn bị cho] 4,4-42; đoạn này minh nhiên quy chiếu về 3,22-23 và hướng tới 4,43-45).
B’(4,1-3.4-42): Đối thoại với người phụ nữ Samari về việc có nước hằng sống và việc phụng tự đích thật.
A’(4,43-45.46-54): Dấu lạ thứ hai tại Cana miền Galilê: chữa con trai một quan chức nhà vua (cc. 43-45 là đoạn chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian] từ 4,4-42 sang 4,46-54).
Chúng ta thử xác định cấu trúc của phân đoạn 3,1-21 (nhờ đó, có thể biết vị trí của cc. 14-21). Về hình thức bản văn, chúng ta ghi nhận rằng Nicôđêmô có nói ba lần ở cc. 2, 4 và 9. Đáp lại ba câu nói của ông, Đức Giêsu trả lời bằng công thức long trọng, “Thật, tôi bảo thật ông” (cc. 3, 5 và 11; đi trước c. 11 là một nhận xét đối-thủ-luận [ad hominem]). Ba câu trả lời của Đức Giêsu cứ mỗi lần mỗi dài hơn. Về phương diện tư tưởng, có những liên hệ đến Ba Ngôi: các lời Đức Giêsu nói ở cc. 3-8 liên hệ đến vai trò của Thần Khí; những lời ở cc. 11-15 liên hệ đến Con Người; những lời ở cc. 16-21 liên hệ đến Thiên Chúa Cha. Nếu tổng hợp hai phương diện hình thức và tư tưởng, chúng ta có thể xác định bố cục của 3,1-21 như sau:
* Câu 3,1: Dẫn nhập cho toàn bài (nối 2,23-25 với ch. 3).
1. Phân đoạn 1 (cc. 2-8): Sinh ra bởi trên cao nhờ bởi Thần Khí là điều cần thiết để được đi vào trong Nước Thiên Chúa; sinh ra bởi tự nhiên thì không đủ.
(a) cc. 2-3: Câu hỏi và câu trả lời đầu tiên: sự kiện sinh ra bởi trên cao.
(b) cc. 4-8: Câu hỏi và câu trả lời thứ hai: cách thức sinh ra – nhờ bởi Thần Khí.
2. Phân đoạn 2 (cc. 9-21): Tất cả những điều này chỉ có thể có được khi Con đã lên cùng Cha, và điều này chỉ được ban cho những ai tin vào Đức Giêsu.
– cc. 9-10: Câu hỏi và câu trả lời thứ ba dẫn nhập vào toàn phân đoạn.
(a) cc. 11-15: Con phải lên cùng Cha (để ban Thần Khí).
(b) cc. 16-21: Tin vào Đức Giêsu là điều cần thiết để được hưởng nhờ ân huệ này.
Theo R.E. Brown, tác giả TM IV đã để lại một vài dấu chỉ giúp khám phá ra lược đồ ngài theo để tổ chức bản văn.
Phân đoạn 1 bắt đầu với lời khẳng định của Nicôđêmô: “Chúng tôi biết Thầy là một vị tôn sư” (c. 2); câu này được đặt trong thế cân bằng với mở đầu của Phân đoạn 2 với lời Đức Giêsu, “Ông là bậc thầy (tôn sư) trong dân Israel, … chúng tôi nói những điều chúng tôi biết” (cc. 10-11).
Ngoài cách bố cục thành hai phân đoạn, dường như toàn bài được viết theo kỹ thuật đóng khung (bằng các ý tưởng cùng một trường ngữ nghĩa):
(a) Bản văn bắt đầu với việc Nicôđêmô đến với Đức Giêsu ban đêm; bản văn kết thúc với đề tài người ta phải bỏ bóng tối để đến với ánh sáng.
(b) Nicôđêmô mở đầu cuộc đối thoại bằng cách chào Đức Giêsu là vị tôn sư từ Thiên Chúa mà đến; phần cuối của bản văn cho thấy rằng Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa (c. 16) mà Thiên Chúa đã sai đi vào trong thế gian (c. 17) như là ánh sáng cho thế gian (c. 19).
(c) Nếu chúng ta coi 2,23-25 như là phần mở đưa vào “xen” Nicôđêmô, chúng ta lại có một bản văn đóng khung khác: ở 2,23, chúng ta đã nghe nói đến những người “đã tin vào danh Người”, nhưng niềm tin của họ không thỏa đáng vì họ không đến để thấy Người là ai; ở 3,18, chúng ta thấy lời Đức Giêsu nhấn mạnh rằng ơn cứu độ chỉ được ban cho những ai “tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”.
2.- Vài điểm chú giải
– Như ông Môsê đã giương cao con rắn (14): Câu này nhắc đến Ds 21,9tt.
– ai tin vào Người thì được sống muôn đời (15): Câu này tương ứng với Ds 21,8: “Ai nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”.
– Thiên Chúa yêu thế gian (16): Động từ agapaô ở thì quá khứ aorist (êgapêsen) nhắm diễn tả hành vi yêu thương tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Có thể nói ở đây chúng ta có một ví dụ tuyệt hảo về động từ agapaô được diễn tả ra thành hành động, bởi vì c. 16 nói đến tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ ra trong cuộc Nhập Thể và cái chết của Chúa Con.
– đã ban (16): Đông từ didomi không chỉ nhắm đến cuộc Nhập thể (Thiên Chúa gửi Con vào trần gian; c. 17), nhưng nhắm đến cả cuộc đóng đinh (trao nộp cho chết: “giương cao” trong cc. 14-15). Như thế, động từ này tương tự với paradidomi, “trao nộp”, ở Rm 8,32; Gl 2,20; và didomi ở Gl 1,4.
– Thiên Chúa sai Con (17): Động từ apostellô này song song với “ban” (didomi) ở c. 16. Khi nói về Đấng Bảo Trợ, cũng có cặp động từ này, “sai” và “ban” ở 14,16.26. Gioan dùng hai động từ có nghĩa là “sai phái” có vẻ không phân biệt: pempô (26 lần) và apostelô (18 lần).
– Con (17): Từ “Con” ở dạng tuyệt đối (không có túc từ đi theo) trong Ga thì hầu như song song với cụm từ “Con Người” theo truyền thống Nhất Lãm.
– không phải để lên án thế gian (17): Câu này xác định mục tiêu của sứ mạng Chúa Con đảm nhận khi được gửi vào trần gian: không phải để lên án, nhưng để cứu độ (x. Ga 4,42; 1 Ga 4,14). Thế nhưng ở 9,39, Đức Giêsu lại khẳng định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử”. Điều duy nhất Thiên Chúa muốn, đó là cứu độ thế gian; nhưng biến cố Con của Ngài đến cũng nhất thiết đưa loài người đến chỗ phải lấy quyết định; quyết định trọng yếu nhất của đời người, là gắn bó với Con Một Thiên Chúa (c. 18) bằng đức tin, hoặc ngược lại, từ chối tin vào Người.
– được cứu độ (17): So sánh với c. 16, ta hiểu “được cứu độ” ở đây có nghĩa là “được sống muôn đời” (x. 1 Ga 4,14; Ga 12,47).
– vì đã không tin (18): Mê pepisteuken ở thì hoàn thành (perfect) có nghĩa là “đã và vẫn không tin”, một thái độ cứng lòng tin kéo dài.
– tin vào danh (18): “Danh” chính là bản thân Đức Giêsu.
– làm điều ác (20): Kiểu dùng động từ “làm” với “điều tốt”, “sự thật”, hoặc “điều xấu” (xem cc. 20.21) là một kiểu nói Sê-mít.
3.- Ý nghĩa của bản văn
* Con phải lên cùng Cha (11-15)
Qua những lời đối thoại giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô, ta biết rằng để được tham dự vào Nước Thiên Chúa, phải có một khởi đầu hoàn toàn mới, do Thiên Chúa ban trong bí tích Rửa Tội, nhờ quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa. Ở trong khởi đầu mới này, chúng ta không được thụ động, trái lại phải tin vào Con Thiên Chúa (x. 1 Ga 5,1). Thế nhưng đức tin chẳng phải là chuyện của con người. Đức Giêsu cho thấy rằng đức tin phải dựa trên bằng chứng tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta khi sai phái Con của Ngài đến. Cuộc tái sinh bởi Thiên Chúa và lòng tin vào Con Thiên Chúa đưa chúng ta đạt tới ý nghĩa và sự viên mãn của cuộc sống chúng ta, đưa đến sự sống đích thực không qua đi. Không có hai điều này, chúng ta sẽ sai lầm về ý nghĩa của chính bản thân chúng ta.
Làm thế nào để tránh khỏi cái chết thảm thương và bảo đảm cho cuộc sống chúng ta? Israel đã đứng trước những câu hỏi này khi mà trên đường băng qua sa mạc, họ bị rắn độc đe dọa (x. Ds 21,4-9). Thiên Chúa đã ra tay cứu trợ Dân Ngài. Ngài đã bảo Môsê đúc một con rắn đồng và treo vào cán cờ; ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được sống. Thiên Chúa vẫn trợ giúp chúng ta. Khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã đặt định rằng Đấng Chịu Đóng Đinh là biểu tượng của ơn cứu độ, là nguồn mạch đưa tới sự sống. Đàng sau Đấng Chịu Đóng Đinh là chính Thiên Chúa. Ngài đã ban và sai Con của Ngài đến vì yêu thương toàn thể nhân loại, để họ được cứu độ. Tình yêu của Thiên Chúa có một cường độ và một chiều kích to lớn đến nỗi, nếu có thể, hẳn ta phải nói: Thiên Chúa yêu thương thế gian, yêu thương chúng ta, hơn chính Con của Ngài. Ngài không bỏ mặc thế gian, mà lại còn ban cho chúng ta món quà là Người Con vẫn sống trong một tương quan duy nhất với Ngài.
* Tin vào Đức Giêsu là điều cần thiết (16-21)
Thiên Chúa bày tỏ một sự ân cần lạ lùng đối với loài người chúng ta, Ngài quan tâm giúp chúng ta thành công trong cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta vẫn ở trong tình trạng bấp bênh: Thiên Chúa không cung cấp ơn cứu độ không cần chúng ta, hoặc là ngược lại với ý muốn của chúng ta. Chúng ta phải mở ra với sự ân cần của Thiên Chúa, phải trân trọng tình yêu lạ lùng ấy, phải tin vào Con Thiên Chúa chịu đóng đinh. Chỉ khi chúng ta xác tín rằng Đấng chịu đóng đinh là Con Một, Con yêu dấu của Thiên Chúa, thì quyền năng của tình yêu này của Thiên Chúa mới có thể thực sự đến với chúng ta và chúng ta mới có thể hoàn toàn mở ra với ánh sáng và sức nóng của Người. Đời sống chúng ta tùy thuộc đức tin của chúng ta.
Điều cần thiết này có vẻ hiển nhiên. Tuy thế, có một hiện tượng lạ lùng, đó là loài người lại ưa thích bóng tối hơn ánh sáng (c. 19). Có những lý do để trốn tránh ánh sáng và tìm lá chắn là bóng tối; những lý do này nằm nơi lối sống của con người. Ai làm điều ác thì tự nhiên tránh ánh sáng; ai làm điều thiện thì mới dám ra trước ánh sáng, người ấy không có gì phải che giấu. Chúng ta không thể coi nhẹ tầm quan trọng của hành động để bày tỏ đức tin. “Điều thiện”, đó là những gì chúng ta làm theo ý Thiên Chúa (c. 21), bằng cách lắng nghe Ngài, chân thành tìm cách thi hành ý muốn của Ngài. “Điều ác” là những gì chúng ta làm không theo các tiêu chí đó, khi chúng ta không tìm Thiên Chúa, nhưng ích kỷ tìm cách thực hiện các chương trình và ý muốn của riêng mình, thậm chí ngược lại với ý Thiên Chúa. Ai chỉ tìm chính mình, thì khép lại với Thiên Chúa và gặp nguy cơ là cũng cứ khép lại không nhận được mạc khải xán lạn về tình yêu của Ngài. Không nghiêm túc quan tâm đến ý muốn của Thiên Chúa, làm sao có thể tin vào tình yêu của Ngài? Chính tình yêu ấy lại càng đưa người ấy xa rời khuynh hướng ích kỷ và làm cho người ấy càng cảm nhận rằng mình hoàn toàn lệ thuộc Thiên Chúa! Ai luôn duy trì một dây liên kết với Thiên Chúa, thì mở ra với ánh sáng của tình yêu Ngài.
+ Kết luận
Chỉ trong mấy câu Ga 3,14-21, tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với loài người được khẳng định với sự tha thiết lạ lùng và điều kiện phải theo để được hưởng nhờ tình yêu đó cũng được xác nhận hết sức rõ ràng. Đứng trước mạc khải vĩ đại và trực tiếp này về Thiên Chúa, chúng ta không còn có thể tránh né mà nói rằng Thiên Chúa chỉ là một sức mạnh mơ hồ và xa cách với chúng ta. Đức Giêsu, Đấng Chịu Đóng Đinh, cũng không phải chỉ là một tư tưởng hay một lý thuyết, một giả thuyết hoặc một chuyện hão huyền trên mây trên gió, mà là một thực tại lịch sử đích thực. Do đó, tình yêu của Thiên Chúa rất thực hữu!
4.- Gợi ý suy niệm
1. Nói đến tình yêu là nói đến sự quan tâm, sự thông dự, sự ân cần, chăm sóc, nỗ lực, vận dụng mọi sự. Tình yêu muốn điều hay điều tốt cho người mình thương. Người ấy không dửng dưng với con đường và định mệnh của người yêu, nhưng ra sức làm cho người kia được sống trong niềm vui và sự viên mãn. Đối với Thiên Chúa thì sao? Phải chăng Ngài đã tạo thành thế giới rồi bỏ mặc nó? Ngài có quan tâm đến chúng ta và đến định mệnh chúng ta không, Ngài có để ý xem chúng ta thế nào và chúng ta đi đến đâu không? Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta, đã quan tâm đến số phận của chúng ta, đã ban Người Con Một để chúng ta được sống viên mãn ngay từ bây giờ. Chúng ta có giá đối với Thiên Chúa đến mức Ngài sẵn sàng hy sinh Con vì chúng ta (x. Rm 8,32).
2. Sau cuộc tạo dựng, sau Lề Luật, các Ngôn sứ và tất cả những hình thái ân cần săn sóc khác, Chúa Con là tiếng nói cuối cùng và ân huệ có giá trị tối cao được Thiên Chúa ban cho chúng ta. Người Con sẽ quan tâm đến chúng ta riêng tư từng người, sẽ chỉ cho từng người biết con đường đưa tới ơn cứu độ, sẽ đưa ta đến chỗ hiệp thông với Người và đi đến cuộc sống muôn đời. Đức Giêsu, Đấng Chịu Đóng Đinh, không phải là một tư tưởng hay là một lý thuyết, một giả thuyết hay một chuyện tưởng tượng, nhưng là một thực tại lịch sử đích thực. Từ đó, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng tình yêu của Thiên Chúa cũng hết sức hiện thực.
3. Thiên Chúa, “một” (độc thần) mà cũng là “ba” (ngôi), là một mầu nhiệm rất lớn lao, mà chúng ta chẳng bao giờ ngờ tới, nếu chính Thiên Chúa không mạc khải cho chúng ta nhờ trung gian Đức Kitô. Chúng ta phải tuyên xưng các dữ kiện của mầu nhiệm này, và tiếp cận bằng những bước rất giới hạn và phiến diện, đồng thời tin tưởng tuyệt đối vào giáo huấn của Đức Giêsu Kitô.
4. Bản văn không nói trực tiếp đến Chúa Thánh Thần, nhưng chúng ta đã được mạc khải rằng Thiên Chúa và Đức Giêsu cứu độ chúng ta bằng cách ban Thánh Thần cho chúng ta (Ga 7,37-39; x. Gl 4,4-7). Dù sao mẩu đối thoại với Nicôđêmô cũng đã cho thấy những cái mốc: não trạng thiêng liêng do Thánh Thần ban cho. Thánh Thần đối nghịch lại với xác thịt (Ga 3,6), với những cái nhìn trần tục (3,12). Thiên Chúa Cha gửi Con Một của Ngài đến với chúng ta, để Người Con cứu chúng ta bằng cách thông ban Thần Khí. Và chính Thần Khí giúp ta đi lên với Chúa Cha nhờ trung gian Đức Kitô (x. Gl 4,4-7; Rm 8,15-17).

66. Chú giải của Noel Quesson
Như ông Môsê đã gương cao con rắn trong sa mạc
Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng một lời mời gọi ta “nhìn ngắm”, “đưa mắt” hướng lên một hình ảnh. Thánh Gioan sử dụng một hồi tưởng Kinh thánh trong suốt “bốn mươi” năm hành trình trong sa mạc, ngời Do Thái đã bị một kẻ thù đáng sợ tấn công, đó là loài rắn lửa (Ds 21,6-9). Môsê đã phải làm “một dấu hiệu chữa trị”, một con rắn đồng cứu chữa được treo lên một cây gậy. Đó là hình ảnh có tính thần thoại mà các y sĩ ngày nay vẫn tiếp tục sử dụng như là biểu tượng. Kẻ nào quay lại nhìn thì được cứu không phải nhờ điều nó thấy nương nhờ Người, là Đấng cứu chữa mọi người” (Kn 16,7).
Qua sự giải thích trên của sách khôn ngoan, ta đã có thể ghi nhận rằng, đó không phải là một cử chỉ ma thuật, có tính tụ động. Cái “nhìn” tự nó không chữa. lành được ai, như một thứ bùa hộ mạng, một vật mang lại may mắn, một cử chỉ dị đoan. Nhưng đó là dấu chỉ “Đức tin”, nghĩa là nhờ một cử chỉ bên ngoài, nó cho ta thấy rõ rằng, con người đang “quay về” với Thiên Chúa.
Con người cũng sẽ phải được gương cao như vậy để ai tin vào Người, thì được sống muôn đời.
Vâng, thánh Gioan đang mời gọi ta nhìn lên thập giá.
Cần phải dám ngắm nhìn “Đấng chịu đóng đinh” đó, Đấng được “giương cao” trước mắt chúng ta, Gioan đã sử dụng từ được giường cao” (“upsothènai” trong tiếng Hy Lạp) để nói lên, Đức Giêsu vừa được “giương cao) trên thập giá, vừa được “đưa lên” ngự bên hữu Chúa Cha nhờ cuộc phục sinh và lên trời (Ga 3,14; 8,28; 12,32-34).
Vâng, thánh Gioan không bao giờ có thể quên được ngày đó, cũng như cảnh tượng đó, mà chúng ta như đã quá quen thuộc. Vả lại, Gioan là người duy nhất trong số mười hai Tông đồ đã hiện diện tại đó, vào chiều thứ sáu, dưới chân thập giá. Kể từ lúc đó, trong suốt hơn 70 năm, ông đã suy gẫm “hình ảnh” này, và đây là kết quả của cuộc suy tư lâu dài và sâu sắc mà ông cống hiến cho ta. Đối với Gioan, “Thập giá” và “Phục sinh” thuộc cùng một mầu nhiệm mà ông đã diễn tả bằng một từ mang hai ý nghĩa: “Đức Giêsu được đưa lên cao khỏi đất”. Bị đóng kinh: Cũng có nghĩa là được tôn dương. Đối với Gioan, Thăng thiên đã bắt đầu ngay từ ngày thứ sáu tuần thánh. Còn chúng ta, chúng ta vẫn tiếp tục mong chờ Thiên Chúa biểu lộ “vinh quang” của Người cho ta trong cử chỉ hiển thắng rạng ngời nào đó. Còn Gioan, ông đã chứng kiến cảnh tượng, thì thập giá chính là Vinh quang Thiên Chúa
Ngay khi Giu-đa vừa ra khỏi phòng tiệc ly, Đức Giêsu đã nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh” (Ga 13,31). Bốn ngày trước đó, vào buổi chiều ngày dân chúng rước lá tôn vinh Người, Đức Giêsu đã nói: “‘Đã đến giờ Con Người được tôn vinh… Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác… phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,23-32).
Vậy khi đến lượt mình, chúng ta cũng phải nhìn lên Đấng đã được “gương cao” giữa trời và đất, để cầu nguyện. Cái chết tự nguyện này sẽ mãi mãi là “đỉnh cao của tình yêu”: Đỉnh cao của tình yêu Người Con đối với Người Cha và đỉnh cao của tình yêu của Người Anh hoàn vũ đối với những đứa em tội lỗi. Cây thập giá to lớn bằng gỗ đó, đang đeo mang một thân xác con người bị tra tấn đến ứa máu, chính là một “chóp đỉnh của đau đớn” và chết chóc”, nhưng cũng là một đỉnh cao của mạc khải Thiên Chúa. Về chưng diện thể lý, ta cần phải mở to đôi mắt để chiêm ngắm hình ảnh này. Nhưng cũng cần phải nhắm mắt lại để “thấy” những gì chưa có thể thấy được, mà cảnh tượng trên mới chỉ là “dấu chỉ”: Tình yêu tuyệt đối đang thiêu đốt tâm hồn con người đó, Đức Giêsu “không ai có tình thương lên hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho hạn hữu (Ga 15,13). Nhưng tình yêu tuyệt đối đã thiêu đốt con người Giêsu, cũng chính là “dấu chỉ” của một tình yêu tuyệt đối khác, tình yêu của Chúa Cha: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người” (Ga 3,16).
Vì thế, các nghệ sĩ thường muốn trình bày Đức Giêsu trên thập giá với một thứ “vinh quang” nào đó. Hai cánh tay và thân xác của Người, thay vì bị co quắp trong đau đớn khổ hình, lại được trình bày trong tư thế hết sức mềm mại và thoải mái: Tư thế của người cầu nguyện, tư thế của linh mục cầu nguyện và dâng lễ vật nới bàn thờ, tư thế của đôi bàn tay nâng lên để đọc kinh “Lạy Cha”.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình.
Thời đại chúng ta, nhiều người bị thử thách trước một nhận xét đầy bi quan: ‘Thế gian thật là thối nát, không thể làm gì để cứu vãn được’ chúng ta cũng dễ hiểu sự chán nản, vẻ khó chịu của những người thức thời đứng trước bao cảnh trớ trêu: Bạo lực, bắt cóc các con tin, ích kỷ có tính tập thể và cá nhân, đê tiện đủ loại, cảnh người bóc lột người, sa đọa luân lý, mất lương tâm nghề nghiệp, lạm đụng việc dối trá trong việc phổ biến ý thức hệ hay quảng cáo, đàn áp dư luận quần chúng, tình trạng vỡ mộng… Chính Thiên Chúa cũng biết tất cả những sự việc đó? Tuy thế, Người vẫn yêu mến thế gian này. Người không chịu để sự xấu ác của nó lộng hành. Người muốn cứu độ nó. Thiên Chúa thương đi ngược lại chúng ta. Đối với chúng ta, thế gian này xem ra rất tồi tệ và xấu ác, thế mà Thiên Chúa vẫn yêu thương nó. Thiên Chúa như say mê trước công cuộc tạo dựng chưa hoàn tất của mình, mà Người đang hướng đến nó sự hoàn hảo. Thế gian không thể phi lý. Nếu chúng ta chấp nhận cách nhìn của Thiên Chúa, một ‘cái nhìn yêu thương’, thì lúc đó, thay vì tiếp tục rên rỉ kêu than, chúng ta sẽ hiến mạng sống cho anh em.
Người đã ban cho Con Một mình
Hai động từ diễn tả thái độ của Thiên Chúa: “Yêu và cho”! Ta hãy cầu nguyện dựa vào những tác động mà hai từ đó gợi lên.
Ta cũng nên lưu ý tĩnh từ được áp dụng cho Đức Giêsu: “Một” hay “độc nhất” (tiếng Hy Lạp là ‘Monogénes’). Từ này chỉ có thánh Gioan sử dụng. Nó được đưa vào trong kinh Tin kính: “Tôi tin Chúa Giêsu Kitô, con một Thiên Chúa”. Tiếng này làm cho chúng ta vượt qua khỏi những vẻ bề ngoài tràng giang, tiến sâu vào các thế giới bên kia: Đức Giêsu là đối tượng tử hệ tuyệt đối độc nhất của Thiên Chúa. Đàng khác, tiếng này cũng nhắc lại một hồi tưởng Kinh thánh. Trong ký ức của Israel người ta luôn nhớ đến một người con độc nhất khác, được cha hết sức yêu quý thế mà người cha đầy tình yêu thương này lại chấp nhận một cách kỳ diệu ‘hy sinh’, ‘ban tặng’ đứa con đó: thánh Gioan nhớ rất rõ câu chuyện Abraham và đứa con trai của ông Isaac (St 22,2-16).
Tình yêu của Thiên Chúa đối với thế gian, khiến Người ban tặng “Con Một” Người, Gioan sẽ diễn tả tình yêu đó bằng năm kiểu nói, để không ai còn có thể nghĩ ngược lại được: “Thiên Chúa không muốn con người phải hư mất”, Người đã tạo dựng mọi sự để tất cả được tồn tại (Kn 1,13).
– Thiên Chúa muốn cho con người được sống đời đời: đó là một “sự sống từ trời” được ban tặng (Ga 3,3).
– Thiên Chúa không muốn kết án thế gian: nghĩa là toàn thể nhân loại.
– Thiên Chúa muốn cứu độ thế gian; thánh ý của Thiên Chúa là mọi người đều được cứu độ.
– Công trình của Con Người cũng là “công trình của Thiên Chúa” (1Tm 2,4).
Ai tin vào con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Thiên Chúa là “Đấng hằng sống” tuyệt vời, sự sống là của quý giá nhất mà con người có thể chiếm hữu. Thiên Chúa đã quyết định thông truyền sự sống của Người, cho người con sự sống thần thiêng và vĩnh cửu ý định “cứu độ phổ quát” của Thiên Chúa thật rõ ràng: Nhưng để công cuộc cứu độ được thành tựu, con người còn phải chấp nhận “ân huệ” đó. Hiển nhiên không thể tương tượng được rằng, một người nhất định khước từ Thiên Chúa, lại bị cưỡng chế và áp lực phải sống bên cạnh Người, bất chấp ý muốn của họ. Làm như thế, thì thật sự là tạo một thứ “hỏa ngục”. Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của con người: Kẻ nào không muốn “sự sống” mà Thiên Chúa tặng ban cho mọi người, kẻ đó sẽ ở trong sự chết? Liệu có một người nào đó khăng khăng chối từ như thế? Đó là bí mật đáng sợ của cái chết, vào giây phút mà con người được giải thoát khỏi cảnh u tối trần gian, thực sự “đối diện với Thiên Chúa”.
Vì Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian. Nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; những kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên Chúa. Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.
Trích đoạn trên làm cho chúng ta khá choáng váng.
Đoạn văn quả quyết hai điều:
– Một là: Thiên Chúa không lên án ai. Người muốn cứu độ tất cả vì Người yêu thương hết mọi người.
– Hai là: Chính con người tự xét xử và lên án mình, khi nó cố chấp khước từ Thiên Chúa.
Như thế, việc “lên án” không phải là một hành vi ở bên ngoài con người. Nhưng trớ trêu thay, nó lại là sự việc của chính con người đó, khi họ có thái độ khước từ tình yêu Thiên Chúa, được biểu lộ trong việc “Con Một của Người hiến thân” cho đến hy sinh thập giá. Chính Thiên Chúa làm mọi sự. Người đã đi đến cùng sự cứu độ. Mọi sự diễn tiến như thể việc “lên án” không thuộc về thế giới Thiên Chúa, nhưng đó là một thực tại ở bên ngoài Vương Quốc: Những kẻ khước từ ánh sáng “diện kiến” tự kết án mình trở thành một thế giới “ở bên ngoài” Thiên Chúa; một thế giới chết chóc, một thế giới không có sự sống đời đời.
Chúng ta cần ghi nhận rằng, “bi kịch của thái độ vô tín” không chỉ là một vấn đề hiện tại. Nó xuất hiện ngay giữa Tin Mừng. Nếu ta muốn kéo dài sứ vụ của Đức Giêsu, thì chúng ta không được phép lên án ai, mà phải ước muốn cứu giúp mọi anh em mình, phải làm tất cả để đạt được điều đó. Ai xét xử anh em mình, thì làm điều trái ngược Thiên Chúa; kẻ đó tự đặt mình ra ngoài thế giới của Thiên Chúa “Đấng không đến để xét xử”.
Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: “Mọi việc họ làm đều hợp ý Thiên Chúa”
Sau hết, niềm vui của tín hữu là hưởng trước những gì sẽ là niềm vui vĩnh cửu được diện kiến với Thiên Chúa. Đối với họ, sự sống đời đời đã khởi sự. Họ đã nhận biết tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người. Họ sống tình yêu đó mỗi ngày. Họ không ngừng tạ ơn tình yêu đó và ‘sự sống vĩnh cửu’ này đã khởi sự, đó là một sự sống đầy sinh động. Các Kitô hữu từ lâu đã thường nói đến sự sống vĩnh cửu nhờ một thứ ngôn ngữ và những hình ảnh gần với Niết bàn (nirvầna) của Phật giáo hơn là quan niệm của thánh Gioan: Đó là một ’sự nghỉ ngơi đời đời’. Đối với Tin Mừng thứ tư, đó là một ‘sự sống vĩnh cửu’, tràn đầy sinh động và niềm vui, chớ không phải là một sự nghỉ ngơi tẻ nhạt. Ở đấy, theo văn bản Hy Lạp, Gioan đã nói: “Kẻ nào hành động theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng”. Sống là “hành động”! Đó là những “hành động”, những “việc làm”; những “công trình”. Và đây là điều làm ta ngỡ ngàng: lúc đó, những “việc làm của con người” cũng được công nhận như những “việc làm của Thiên Chúa”. Đó là cuộc sống vĩnh cửu.

67. Chú giải của Fiches Dominicales.
THIÊN CHÚA ĐÃ YÊU THẾ GIAN ĐẾN NỖI ĐÃ BAN
CON MỘT, ĐỂ AI TIN VÀO CON CỦA NGƯỜI…
(Ga 3,14-21)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Tình yêu nhưng không của Thiên Chúa
Trong khi bầu khí căng thẳng do việc Chúa đuổi quân buôn bán ra khỏi đền thờ gây ra chưa lắng dịu, thì ông Nicôđêmô, một kỳ mục trong dân tìm gặp Đức Giêsu. Ông đến vào lúc đêm tối, nhằm giữ kín sự việc, nhưng dưới ngòi bút của Gioan nó mang một ý nghĩa tượng trưng: phải chăng Nicôđêmô đang ở trong bóng tối tìm đến ánh sáng?
Cuộc đối thoại mở đầu với đề tài phải tái sinh. Đức Giêsu tuyên bố: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bới nước và Thần Khí” (3, 5).
Rồi từ câu 11 trở đi, cuộc đối thoại biến thành độc thoại. Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy bằng cách kể lại những biến cố trong lịch sử dân Israel. Người nhắc đến biến cố bí ẩn trong sách Xuất Hành: con rắn đồng được treo lên làm dấu hiệu, chẳng những được hoàn tất, mà còn bị vượt lên trên trong biến cố khổ nạn, cái chết, phục sinh và lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa của Người.
+ Ngày xưa, thời xuất hành trong hoang địa, con cái Israel vì kêu trách và thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa, nên đã bị rắn độc tràn ra cắn chết nhiều người. Sách Dân Số thuật lại (21,4-9): bấy giờ ông Môsê treo một con rắn đồng lên cao; hễ ai nhìn lên con rắn đồng với lòng tin thi được thoát chết. Sách Khôn Ngoan giải thích (để tránh lối giải thích ma thuật): “Hễ ai nhìn lên thì được cứu vớt cứu không phải do vật được nhìn, mà do Chúa, Đấng Cứu Độ của mọi người” (Kn 1, 6-7).
+ Dấu chỉ giờ đây nhường chỗ cho thực tại mà nó ám chỉ, đó là sự hiện diện của Đức Giêsu, Môsê mới, là Lời hằng sống, ban sự sống của Thiên Chúa. “Bị treo lên”, Đức Giêsu cũng sẽ bị treo lên bởi những kẻ đóng đinh Người vào thập giá; Người sẽ được nâng lên bởi Chúa Cha, Đấng đón nhận Người vào hưởng vinh quang với Thiên Chúa (8,28-30). Và cũng như xưa, hễ ai nhìn lên con rắn đồng thì được sống, ngày nay hễ ai nhìn lên “Con Người bị đóng đinh và phục sinh” thì được Người ban cho sự sống đời đời.
+ Nguồn gốc của hành vi cứu độ này không cần tìm đâu xa, nó ở ngay trong tình thương điên dại của Thiên Chúa, của Đức Giêsu Kitô đối với thế gian. X. Léon-Dufour diễn tả: “Ở trọng tâm của tất cả mọi sự và đặc biệt của vai trò Con Người và của con đường đi đến thập giá, ta thấy Thiên Chúa yêu thương thế gian. Lời xác quyết nêu bật Thiên Chúa và tình thương của Người như thực tại tuyệt đối. Tình thương đi trước mọi sự, cũng như trong Lời Mở Đầu, ánh sáng thần linh của Ngôi Lời soi chiếu mọi người trong bóng tối. Thiên Chúa thương yêu chỉ có một ý định là ban ơn cứu độ và sự sống (Lecture de L’evangile selon Jean, cuốn 1, Seuil, trang 305-306).
Như thế, ở đây, thập giá được trình bày như địa điểm mạc khải tình thương của Thiên Chúa, một biểu lộ tối hậu là nguồn mạch sự sống.
2. Mời gọi ta đáp trả
Đến đây coi như Nicôđêmô biến mất. Đức Giêsu xem như đối thoại với một nhóm thính giả, chính là chúng ta ngày nay:
Tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa tỏ bày qua Đức Giêsu Con Ngài, luôn kêu mời sự đáp lại của con người có tự do. Và nó đòi một lời đáp ngay lúc này, đối diện với Đức Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến, Đấng mặc khải tình yêu của Thiên Chúa Cha. Bởi vì ngay bây giờ, cuộc xét xử đang được thực hiện:
Hoặc từ khước Thiên Chúa, đóng cửa không đón tiếp, mù quáng không muốn nhận ánh sáng, chìm đắm trong tối tăm và bị luận phạt. Hoặc cởi mở đón nhận ánh sáng, đón nhận sự cứu độ của Thiên Chúa, và như thế tất cả đều thay đổi, vì mọi hoạt động của ta sẽ được nhìn nhận như những hoạt động của Thiên Chúa, và trở nên dấu chỉ sự hiện diện của Người.
X. Léon-Dufour giải thích thêm: “trong những câu chúng ta vừa đọc, thái độ lựa chọn hay từ chối đều thể hiện trong lời đáp trả của con người trước Đấng Thiên Chúa sai đến. Một đặc điểm quan trọng khác là: sự sống vĩnh cửu và luận phạt đời đời không chỉ được thi hành vào ngày thế mạt, nó được thực hiện ngay trong giây phút hiện tại, ngay khi gặp gỡ Đức Giêsu. Tin vào Đức Giêsu, lập tức được sống, trái lại, từ khước tin Chúa, con người tự ý chọn lựa cái chết (vĩnh viễn), mà Thánh Kinh thường ám chỉ bằng câu “bị xét xử”. (Sđd, trang 308-309).
BÀI ĐỌC THÊM
1) “Cái nhìn cứu sống”
(G.Bessière, trong “Dieu si proche” năm B, DDB, trang 42-43).
Đem câu chuyện con rắn đồng so sánh với Đức Giêsu, kể cũng hơi lạ thường! Câu chuyện lạ thường này có ý nghĩa gì đây? Truyền thống Thánh Kinh có thuật rằng, trong cuộc Xuất hành, khi dân Do thái bị đói, bị khát đã kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Họ đã phải chịu hình phạt: những con rắn lửa bò ra gieo chết chóc cho dân. Nhưng rồi Thiên Chúa đã xót thương, Người truyền cho ông Môsê treo con rắn bằng đồng lên cột cao: “Ai nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống” (Ds 21, 8)
Ở đây sự so sánh nằm ở từ “treo lên”, Đức Giêsu bị treo lên cây thập giá, cũng như con rắn đồng bị treo lên trước toàn dân. Và ở từ “sống”. Ai bị rắn độc cắn trong hoang địa, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống; những ai tìm kiến sự sống vĩnh cửu, sẽ tìm thấy trong Đức Giêsu, nếu kẻ ấy “tin”. Đức Giêsu ban sự sống, và Ngài ban cách sung mãn. Không phải sự sống nhân tính, mà “sự sống vĩnh cửu”. Bởi đâu có ân huệ vô biên thoả mãn mọi ước muốn như vậy? – “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi Người đã ban chính Con duy nhất của Người”. Nguồn gốc không thể diễn tả đó, chính là tình thương phát xuất từ mầu nhiệm cao siêu mãnh liệt đối với muôn loài muôn vật.
Viễn tượng thật hết sức lạc quan. Có người chủ trương rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến tiêu diệt những kẻ ô nhơ, tội lỗi. Đức Giêsu lại bày tỏ thái độ chống lại chủ trương tàn bạo này. Thiên Chúa không sai Con của Người đến để phán xét, nhưng “để nhờ Người mà thế gian được cứu sống”.
Nếu có ai cố tình giam hãm mình trong sự dữ, hay trong bóng tối, thì không phải Chúa luận phạt, mà chính họ đã chọn bóng tối cho mình.
Phải chăng, như vậy là nói rằng những người ngoài Kitô giáo, nghĩa là không gắn bó với Đức Giêsu, đều bị mất phần rỗi? Thánh Gioan nhìn nhận rằng sự gặp gỡ Thiên Chúa còn sâu xa hơn; nó được thể hiện trong sự thành tâm, trong giá trị của các hành động và trong sự mở rộng tâm hồn ra với người khác. Thánh sử đề cập cuộc tranh luận này khi viết: “Phàm ai thực thi chân lý, thì đến với ánh sáng…”
2) Một cuộc sống được nâng niu và bao bọc bằng một tình thương vô điều kiện
(Thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Pháp “Thư gởi những người công giáo Pháp”, Cerf, trang 55-56).
Sau hết, tin vào ơn cứu độ của Thiên Chúa làm thay đổi cách thế hoạch định cả cuộc sống trần thế, và khiến ta hiểu khác đi lịch sử của ta trong thế giới này, và cả cách hoàn tất lịch sử đó nữa. Bởi vì “cho dầu sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39).
Mặc dầu chúng ta chia sẻ những ưu tư của thế giới này, chúng ta vẫn tin rằng cuộc sống con người như được nâng niu và bao bọc bằng một tình thương vô điều kiện, mà không gì làm thay đổi được và rằng ân sủng của Thiên Chúa hằng theo dõi và sẽ còn theo dõi trong mọi hoàn cảnh của lịch sử chúng ta. Và chúng ta cũng hy vọng rằng cái chết, đôi khi là cái chết tàn bạo, không chấm dứt số phận chúng ta, bởi vì Chúa hứa cho ta sống lại và sống vĩnh cửu.
Đứng trước những nỗi sợ hãi của thời đại chúng ta, chúng ta không thể im lặng về kết cục của số phận con người, dưới ánh sáng của Tình Thương. Giao ước của Thiên Chúa sẽ được thực hiện trong thế giới mới, thế giới đã được biến đổi, mà chúng ta mong đợi. Niềm hy vọng này luôn nâng đỡ những người (nam cũng như nữ) đang đấu tranh chống lại sự chết và những quyền lực của sự chết, những người dám hiến dâng sự sống mình vì tình yêu Đức Giêsu Kitô.

68. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
ĐÀM THOẠI VỚI NICÔĐÊMÔ (Ga 3,14-21)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Thánh Gioan viết cuốn Tin mừng của ông khoảng 60 năm sau khi Chúa Giêsu về trời. Trí nhớ của tuổi già, thường rất chính xác khi gợi lại những kỷ niệm thời thanh xuân, đã giúp ông nhớ lại một vài cảnh đặc sắc trong đời Chúa Giêsu và nhiều giáo huấn đặc biệt của Thầy. Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp tục câu chuyện Nicôđêmô đến đàm thoại với Chúa Giêsu về đề tài đức tin và sự tái sinh thiêng liêng. Sau khi tường thuật, vị thánh sử gộp lại trong suy tư riêng một lô giáo huấn Chúa Giêsu đã ban hay đã gợi ý mà ông đã thâu thập và đào sâu. Ông trình bày chúng dưới ánh sáng của Chúa Giêsu phục sinh cùng trong lối văn riêng của mình, là nhớ thế đã cho chúng ta một vài phản ảnh sống động về một đức tin được trực tiếp nuôi dưỡng tận nguồn (Gioan dã biết Chúa Giêsu) cùng được suy niệm cách sâu xa (Gioan đã sống đức tin với tư cách môn đồ hết mực trung tín).
2. Ở đây thánh Gioan đưa ra ánh sáng điều mà thánh Phaolô vẫn luôn gói trong các thư của ông là “mầu nhiệm” cứu rỗi do Thiên Chúa đem đến để ta tin: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa xuống trần để cứu rỗi thế gian. Những ai được hưởng ơn rỗi là kẻ, khi gặp Chúa Kitô, đã tin vào Người.
3. Từ ngữ “Con Người” xuất phát từ ngôn sứ Đanien (7,13). Một cách chung chung, tước hiệu được Tin mừng Gioan áp dụng cho Chúa Giêsu để biểu thị vai trò cứu thế của Người qua việc Nhập thể, Tử nạn và Phục sinh, nên có thể hiểu như là “Con Thiên Chúa làm người”. Như vậy ta thấy Chúa Giêsu là Đấng thể hiện được kiểu mẫu hoàn hảo của con người tự hoàn thành lấy mình vì đã tự vượt thắng mình trong Thiên Chúa. Thánh Gioan còn ghi lại: “Con Người đã bị giương cao”. Đây là việc treo lên thập giá. Lời này ám chỉ đến câu chuyện Môsê treo con rắn đồng được sách Dân số kể lại (Ds 21,6-8) Sách kể rằng: khi đang ở trong một vùng nầy rắn rít lúc đi qua sa mạc, người Hy bá đã được kháng nhiễm một cách lạ lùng khỏl nọc độc của chúng bằng cách nhìn lên một con rắn đồng Môsê treo lên nơi cao. Câu chuyện này được thánh sử gợi lại như biểu tượng cho thực tại thiêng liêng của ơn cứu độ được ban cho hết những ai nhìn về thập giá Chúa Kitô vui lòng tin.
4. “Ai tin vào Người thì không bị án xử, kẻ không tin vào Người thì đã bị án xử rồi”. Cách nói này cho thấy niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô bao hàm sự dấn thân dứt khoát và sau cùng sẽ đem lại công hiệu. Nghĩa là đức tin của tôi hôm nay (mà tôi luôn giữ vững) sẽ cứu tôi trong ngày tôi chết và trong ngày cánh chung. Giữa cái hôm nay và ngày sau hết của đời tôi, có thể xảy ra nhiều thăng trầm. Nhưng đức tin hiện tại của tôi đã đặt tôi vào vị thế khỏi bị kết án, nghĩa là đặt tôi trong ơn tha thứ của Thiên Chúa, trong sự tiếp đón và trong tình bằng hữu của Ngài. Điều này giải thích cho thấy sự nồng nhiệt của đức tin tôi hôm nay có một tầm quan trọng rất lên đối với cuộc gặp gỡ sau cùng của tôi với Thiên Chúa; mỗi ngày hiện tại chuẩn bị ngày cuối cùng đời tôi. Song nhờ niềm tin vào Chúa Giêsu, hồng ân lạ lùng là tình bằng hữu của Thiên Chúa cũng đến ngay bây giờ trong tôi và biến đổi tôi rồi. Niềm tin này lôi kéo tôi sống trong ánh sáng, nghĩa là trong sự thẳng thắn trung thành với Tin mừng. “Ai hành động trong sự thật thì đến cùng ánh sáng”.
5. Sự tự do hành động mà Nicôđêmô được hướng cũng là một dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, Đấng để con người bước đi theo ý họ, ngay cả trên đường nẻo gian tà, thù hận và chết chóc. Thiên Chúa chỉ muốn làm một điều là ban Con Một, sai Người đến giữa nhân loại để chịu đau khổ và chết chóc hầu cứu rỗi họ. Cả Chúa Cha lẫn chúa Con đều không muốn ép con người yêu, nhưng chỉ kêu mời họ yêu từ đỉnh thập giá. Hai Đấng cũng tránh không phán xét hay kết án con người ngay ở đời này. Chính con người và chỉ mình họ tự làm quan tòa cho mình, tùy như họ cởi mở đón nhận hay từ chối ánh sáng.
6. Như thế con người của Chúa Kitô, qua hành động và lời nói, tỏ hiện ra như là nơi gặp gỡ hay chia rẽ của nhân loại. Theo Tin mừng Gioan, mọi người đều phải đối chất với Chúa Kitô, dù chỉ là một cách mặc nhiên, khi họ thông đồng với sự ác, hay khi họ khát vọng chân lý, sự thiện. Từ khi Ađam ẩn núp khỏi mặt Thiên Chúa, con người luôn luôn có khuynh hướng trốn tránh Thiên Chúa, tha nhân và chính mình, để khỏi lộ tẩy các hành vi xấu xa của mình, nhất là những hành vi bên ngoài có vẻ tốt hảo. Ai cố ý quay lưng lại với chân lý dầu chân lý ra sao – thì liều mình chết trong sự mù quáng tội lỗi. Ngược lại, ai tỏ ra trung thành trong thực tế với chân tý mà mình đã thoáng thấy – dầu chân lý đó hạn hẹp mặc lòng – thì cũng được Chúa Kitô hứa cho sống và dược thông hiệp với Thiên Chúa Cha.

69. Đón nhận Thập Giá Chúa Kitô
Thánh giá không chỉ được dựng lên trước nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người Công Giáo mà còn phải được tôn vinh ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã bị treo lên để cho mọi người nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người. Ngài đã chết cho nhân loại. Ngài đã thể hiện tình yêu tột đỉnh.
Nói về tình thương tha thứ của Thiên Chúa, người ta thường kể lại cho nhau nghe về câu chuyện ở một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng thánh giá rất đặc biệt. Đó là Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Người ta kể rằng, một lần kia, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: “Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh”. Hối nhân ra khỏi tòa giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha!”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lổ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói: “Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”. Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, thể hiện sự tha thứ của Thiên Chúa đối với hối nhân.
Bước vào Chúa Nhật 4 Mùa Chay, hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá Chúa Kitô. Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Ngài luôn tha thứ. “Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó bỏ đường tội lỗi, quay trở lại để được sống” (Ez 33, 11). Quả vậy Thiên Chúa sai con một của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian nhưng để thế gian nhờ con của Ngài mà được cứu độ. (Ga 3, 17). Cũng như Môisen treo con rắn đồng trong Samạc thế nào, thì con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Ngài sẽ không phải chết nhưng được sống đời đời (Ga 3, 14). Thập giá đã trở thành dấu chỉ ơn cứu độ và Đấng bị treo trên thập giá đã trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin Ngài.
Thánh Gioan đã nói: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban con Một, để ai tin con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Thiên Chúa một lần nữa đã biểu lộ tất cả tình thương của Ngài đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Tất cả bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Tình yêu của Ngài được thể hiện cụ thể qua sự trao ban. Điều quý giá nhất của Người Cha chính là Người Con. Thế mà Thiên Chúa đã muốn trao ban cho nhân loại chính con một dấu yêu của Ngài. Ngài đã cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu chính là quà tặng lớn nhất mà Thiên Chúa đã trao ban cho nhân loại. Việc trao ban này trước tiên được biểu lộ qua việc Ngài sai Con Một yêu dấu đến trong trần gian, mang lấy thân phận con người và cuối cùng qua việc trao nộp Con Một cho loài người treo trên thập giá. Chúa Giêsu trên thập giá chính là lúc Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài làm Đấng ban sự sống cho loài người một cách trọn vẹn nhất, dứt khoát nhất. Bởi vậy lúc đó chính là lúc Thiên Chúa đặt con của Ngài làm Đấng ban sự sống đời đời. Vì con của Ngài đến không phải kết án thế gian nhưng để cứu thoát loài người khỏi chết và ban cho họ thông phần vào cuộc phục sinh vinh quang của Ngài.
Như thế, đứng trước thập giá Chúa Kitô chúng ta tin hay không? Tin vào tình yêu Thiên Chúa hay chối từ. Chính thái độ đó sẽ định đoạt số phận của chúng ta. Chúng ta đã nghe Chúa Giêsu nói: “ai đón nhận ánh sáng, là bước vào cõi sống. Ai không tin là từ chối và tự mình đoạ đày mình trong cảnh tăm tối trong cõi chết”. Thiên Chúa không cần luận phạt nữa.
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban con Một của Ngài. Đó là chân lý cơ bản của chúng ta. Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu là dấu chỉ mà Chúa muốn nói với chúng ta là Chúa yêu thương chúng ta. Yêu thương con người đến nỗi sẵn sàng để ngưiơì con Một yêu quý của Ngài chết thay cho chúng ta.
Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương Thiên Chúa dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Ngài đã chết cho nhân loại để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta hãy nhìn lên thập giá để thấy tình yêu bao la của Thiên Chúa. Một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán và mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô không phải để chúng ta thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi nhưng trái lại để cảm nhận được hồng ân bao la của Chúa để cho tâm hồn được phấn khởi tin yêu hơn.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để chúng ta cảm nhận được ơn tha thứ của Ngài để chúng ta biết cảm thông và tha thứ cho tha nhân. Càng cảm nhận được tình yêu tha thứ của Thiên Chúa chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều hơn. Hãy tha thứ để được Chúa thứ tha. Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương. Một lần nữa hãy nhìn lên thập giá Chúa Kitô. Hãy xem đó thì biết phép công thẳng của Chúa là dường nào! Hãy xem đó thì biết tội nặng nề gớm ghiếc là ngần nào. Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương ta là dường nào!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết trân trọng tình thương mà Chúa dành cho chúng con. Xin cho chúng con luôn coi thập giá Chúa Kitô là hy vọng sự sống đời đời của chúng con. Đồng thời xin cho chúng con biết yêu thương và tha thứ cho anh chị em chúng con như Chúa đã yêu thương mà tha thứ. Amen.

70. Chú giải của William Barclay
CON NGƯỜI PHẢI ĐƯỢC GIƯƠNG CAO (Ga 3,14-15)
Đến đây, Gioan quay về với câu chuyện lạ lùng của Cựu Ước đã được kể lại trong Dân Số 21,4-9. Trên hành trình qua hoang địa, dân Israel lẩm bẩm than phiền và tiếc rẻ việc bỏ xứ Ai Cập ra đi. Để trừng phạt, Chúa cho tai họa rắn độc đến cắn họ chết. Dân chúng ăn năn và kêu xin Đức Chúa thương xót, nên Ngài dạy Môsê làm một con rắn bằng đồng, treo lên cao, hễ ai nhìn lên con rắn ấy thì được chữa lành và thoát chết. Câu chuyện đã gây ấn tượng sâu đậm trong dân Israel. Họ kể lại rằng về sau con rắn bằng đồng đó đã trở thành thần tượng. Dưới thời Khitkigia, đã phải hủy vì dân chúng thờ lạy nó (2V 18,4). Dân Do Thái có phần bối rối về biến cố ấy, vì họ bị cấm tuyệt đối trong việc làm các tượng. Pharisêu giải thích như sau: “Không phải con rắn đã ban sự sống. Khi Môsê treo con rắn lên thì người Israel nhìn và tin Đấng đã truyền lệnh cho Môsê làm như thế. Chính Chúa đã chữa lành cho họ”. Quyền phép chữa lành không ở trong con rắn. Con rắn chỉ là một dấu hiệu, một biểu tượng, chỉ cho người ta hướng tư tưởng mình về Chúa, và khi họ nghĩ đến Ngài thì được chữa lành.
Gioan dùng câu chuyện này như môt loại dụ ngôn về Chúa Giêsu. Ông nói: “Con rắn bị treo lên, người ta nhìn nó, tư tưởng họ hướng về Chúa, do quyền phép của Chúa, Đấng họ tin cậy thì họ được lành bệnh. Chúa Giêsu cũng phải bị treo lên như thế, để khi loài người hướng tư tưởng về Ngài, tin Ngài, thì cũng được sự sống đời đời”.
Một điểm gợi ý rất lạ ở đây. Động từ treo lên là hupsoun. Từ này được dùng cho Chúa Giêsu theo hai nghĩa. Nó được dùng cho việc Chúa bị treo trên thập giá; và nó cũng được dùng cho việc Chúa được cất lên đểvào vinh hiển lúc Ngài về trời. Nó được dùng chỉ thập giá trong Ga 8,28; 12,32, và được dùng chỉ Chúa Giêsu lên trời vinh quang trong Công Vụ 2,33; 5,31; Pl 2,9. Có hai lần Ngài được đưa lên vào cõi vinh quang; cả hai liên hệ với nhau bất khả phân ly. Điều này không thể xảy ra mà không có điều kia. Với Chúa Giêsu, thập giá là con đường tiến đến vinh quang. Nếu Ngài khước từ thập giá, tránh né, tìm cách để thoát khỏi đó –là việc Ngài có thể làm thật dễ dàng nếu muốn- thì Ngài đã không thể bước vào cõi vinh quang. Với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể chọn con đường dễ đi, có thể khước từ thập giá mà mỗi Kitô hữu được gọi phải vác, nếu thế, chúng ta sẽ mất phần vinh hiển. Đó là một trong những định luật bất biến của đời sống: không có thập giá thì không có triều thiên.
Trong câu 15 chúng ta gặp lại hai thành ngữ mà không thể rút tỉa hết ý nghĩa trong đó, vì cả hai vượt xa những gì chúng ta có thể khám phá được. Nhưng chúng ta phải cố gắng lãnh hội ít nhất là một phần trong ý nghĩa của chúng.
1) Thứ nhất là tin Chúa Giêsu. Mệnh đề này có ít nhất ba nghĩa:
a) Hết lòng tin Thiên Chúa vốn đúng như điều Chúa Giêsu tuyên bố. Chúa yêu thương chúng ta, lo lắng chăm sóc mỗi người, Ngài chẳng mong gì hơn là tha tội cho chúng ta. Chúa là tình yêu. Không phải dễ cho người Do Thái tin như vậy. Họ nhìn vào Chúa của luật, áp đặt các luật lệ Ngài trên dân chúng để trừng phạt khi họ vi phạm. Nên dân Do Thái nhìn Chúa như một vị Thẩm Phán, và loài người là tội nhân trước tòa án của Ngài. Họ nhìn Chúa như một Chúa hay đòi hỏi sinh tế và của lễ. Muốn ra mắt Chúa, loài người phải trả giá mà Chúa đã định. Thật khó cho họ nghĩ là Chúa không phải là một quan tòa chuyên tìm cách trừng phạt. Một ông cai chỉ chờ tìm cách vồ lấy công nhân, mà Ngài là người Cha tha thiết trông chờ đứa con đi hoang trở về nhà. Chúa Giêsu đã phải trả giá bằng đời sống và sự chết của Ngài để công bố cho loài người biết điều đó. Và chúng ta không thể trở thành Kitô hữu nếu chưa hết lòng tin như vậy.
b) Làm thế nào chúng ta biết chắc Chúa Giêsu hiểu rất rõ những gì Ngài nói? Có gì bảo đảm Phúc Âm kỳ diệu ấy là thật? Đến đây chúng ta đụng đến tín điều thứ hai. Chúng ta phải tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là tâm trí của Thiên Chúa, biết rất rõ Chúa Cha, thân cận mật thiết với Chúa Cha, vốn là một với Chúa Cha, đến mức Ngài có thể nói cho chúng ta biết chân lý tuyệt đối về Chúa Cha. Chúng ta phải tin chắc Chúa Giêsu biết rõ những gì Ngài nói, Ngài đã nói cho chúng ta biết sự thật về Chúa Cha, vì tâm trí của Chúa Cha vốn ở trong Ngài.
c) Nhưng lòng tin còn một yếu tố thứ ba nữa. Chúng ta tin Chúa là Cha yêu thương, vì chúng ta tin Chúa Giêsu là con của Chúa Cha, vì thế những gì Ngài nói về Chúa Cha đều đúng thật. Đến yếu tố thứ ba, chúng ta phải đặt mọi sự trên cơ sở những gì Chúa Giêsu nói là đúng thật. Chúng ta phải làm theo tất cả những gì Ngài chỉ dạy. Khi Ngài dạy, chúng ta phải đặt mình, không chút do dự, vào lòng nhân từ của Thiên Chúa, thì chúng ta làm theo như vậy. Chúng ta phải tin lời của Ngài. Mỗi hành vi, cử chỉ nhỏ nhất trong đời sống đều phải được thực hiện trong sự vâng lời Ngài không chút nghi ngờ.
Như vậy, niềm tin có ba yếu tố: tin Chúa là Cha yêu thương của chúng ta; Chúa Giêsu là Con Chúa Cha, do đó Ngài cũng nói cho chúng ta biết sự thật về Chúa Cha và đời sống; và vâng phục Chúa Giêsu cách vững vàng không chút nghi ngờ.
2) Mệnh đề quan trọng thứ hai là sự sống đời đời. Chúng ta đã học biết sự sống đời đời là chính sự sống của Chúa, hãy đặt vấn đề: “Nếu được sự sống đời đời, cụ thể là chúng ta được gì?”. Được sự sống đời đời thì đời sống sẽ như thế nào? Khi hưởng sự sống đời đời thì mọi mối liên hệ trong đời sống đều được bao phủ bằng sự bình an.
a) Sự sống đời đời cho chúng ta sự bình an với Chúa, chúng ta không còn sợ sệt như trước mặt một vị vua độc tài, hay tìm cách lẩn tránh một quan tòa nghiêm khắc, nhưng chúng ta được ở trong nhà với Cha mình.
b) Sự sống đời đời là an hòa với mọi người. Nếu chúng ta được tha thứ, chúng ta phải biết tha thứ, nó khiến ta có thể nhìn người khác như Chúa nhìn họ, có thể hòa hợp với mọi người thành một đại gia đình sống trong thương yêu.
c) Sự sống đời đời cho chúng ta sự an hòa với đời sống. Nếu Chúa là Cha, thì Ngài điều hành mọi sự để tất cả trở thành tốt lành. Lessing thường nói, nếu được hỏi con Nhân sư (Sphin, con vật đầu người mình sư tử, theo truyền thuyết Ai Cập, thông suốt mọi sự) một câu thì ông sẽ hỏi nó, “Vũ trụ này có phải là một vũ trụ thiên thần không?” Khi chúng ta tin Chúa là Cha, thì phải tin bàn tay của người cha chẳng bao giờ làm con cái mình nhỏ lệ cách không cần thiết. Chúng ta có thể không hiểu rõ về cuộc đời, nhưng chúng ta sẽ không còn oán tránh nó nữa.
d) Sự sống đời đời khiến chúng ta an hòa với chính mình. Nói cho cùng, con người sợ chính mình hơn bất cứ gì khác. Ta biết sự yếu đuối của mình, biết sức mạnh của những cơn cám dỗ, biết các công việc và những đòi hỏi của đời sống mình. Ta biết mình vẫn đương đầu với mọi điều đó nhưng có Chúa ở cùng. Không phải là ta sống nữa, nhưng là Chúa Cứu Thế sống trong ta, trong đời mình có sự bình an được thiết lập bằng sức mạnh.
e) Sự sống đời đời khiến ta biết chắc sự bình an sâu xa nhất của thế gian chỉ là cái bóng của sự bình an tuyệt vời sắp đến. Nó cho ta một hy vọng, một mục đích để tiến tới đời sống kỳ diệu quang vinh trên đất này, và đồng thời một đời sống tốt đẹp vô cùng ở tương lai.
TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA (Ga 3,16)
Tất cả các vĩ nhân đều có những đoạn văn riêng mình ưa thích. Đoạn văn trên đây là “Bản Văn Của Mọi Người”. Đây chính là Phúc Âm cho tất cả những tấm lòng đơn sơ. Bản văn này nói với chúng ta một số điều quan trọng.
1) Nguồn gốc và khởi đầu của cứu rỗi là từ Thiên Chúa. Đôi khi Kitô giáo đã được trình bày như là chúng ta phải đến thuyết phục Chúa để xin Chúa chấp thuận hòa giải với chúng ta, như là Chúa phải được thuyết phục mới bằng lòng tha tội cho chúng ta. Có khi người ta vẽ ra một bức tranh về Thiên Chúa nghiêm khắc, giận dữ, không dung thứ và khư khư nắm chặt lề luật. Nhiều khi người ta trình bày thông điệp Kitô giáo như là Chúa Giêsu đã làm một điều gì đó thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với loài người, từ xử phạt ra tha thứ. Nhưng câu Kinh Thánh trên cho chúng ta biết rằng mọi sự là do Chúa khởi đầu. Chính Chúa đã sai Con Ngài đến thế gian vì Ngài yêu thương nhân loại. Đằng sau mọi sự đó là tình thương của Chúa.
2) Nguồn mạch chính của bản chất Chúa là tình yêu. Thật dễ nghĩ về Chúa như Ngài đang nhìn vào nhân loại vô tâm, không vâng lời, phản loạn, và phán rằng: “Ta sẽ đánh gục chúng, kỷ luật chúng, trừng trị, xử phạt và giáng tai họa cho đến chừng nào chúng chịu hồi tâm”. Thật dễ nghĩ về Chúa như Ngài đang tìm cách đàn áp loài người để thỏa mãn quyền hành của Ngài, để hoàn toàn chế phục vũ trụ. Nhưng bản văn phi thường này cho chúng ta thấy Thiên Chúa đang hành động, không phải vì chính Ngài, mà vì chúng ta. Ngài không hành động để thỏa mãn ước muốn cầm quyền của Ngài, để giầy đạp vũ trụ dưới gót chân, nhưng là nhằm thỏa mãn tình yêu của Ngài. Ngài không phải là vị bạo chúa độc tài, đối xử với mọi người như thần dân, bắt phải tuân phục vô điều kiện. Ngài là người Cha không thể vui, cho đến khi những đứa con hoang đàng của mình trở về. Ngài không đàn áp loài người khiến họ phải đầu phục, Ngài trông mong và dịu dàng kêu gọi họ trở lại với tình thương của Ngài.
3) Chiều rộng của tình yêu Chúa là cả thế gian. Ở đây không phải là một quốc gia, không phải chỉ những người tốt lành, thánh thiện, không phải chỉ những người biết yêu mến Ngài, nhưng toàn thể nhân loại. Toàn thể những người khó yêu và chẳng có gì đáng yêu, người cô đơn chẳng được ai yêu, người yêu mến Chúa lẫn người chối bỏ tình yêu của Ngài, người chẳng bao giờ suy nghĩ đến Ngài cùng người yên nghỉ trong tình yêu của Ngài, tất cả đều được bao gồm trong tình yêu bao la, bao hàm tất cả của Thiên Chúa. Thánh Augustinô đã nói: “Chúa yêu mỗi người chúng ta dường như chỉ có một mình ta để Ngài yêu mà thôi”.
TÌNH YÊU VÀ XÉT XỬ (Ga 3,17-21)
Đến đây chúng ta lại đối diện với một trong những điểm dường như nghịch lý trong Phúc Âm Gioan –nghịch lý giữa yêu thương và xét xử. Chúng ta vừa suy nghĩ về tình yêu của Chúa và bây giờ thình lình phải đối đầu với sự xét xử, buộc tội và kết án. Gioan vừa mới tuyên bố Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài cho thế gian; rồi ông tiếp tục cho chúng ta thấy Chúa Giêsu nói: “Ta đã đến thế gian để xét xử” (Ga 9,39). Làm sao cả hai điều trên đây đều đúng được?
Chúng ta có thể tạo cho một người kinh nghiệm chỉ có tình yêu mà thôi, nhưng chính kinh nghiệm đó lại trở thành hình phạt cho người ấy. Chúng ta có thể cung ứng cho một người một kinh nghiệm vui sướng hạnh phúc, nhưng kinh nghiệm đó lại là một hình phạt cho người ấy. Giả như chúng ta rất thích nhạc đại hòa tấu, dường như chúng ta cảm thấy rất gần gũi với Chúa trong tiếng vang rền của âm điệu hơn bất cứ nơi nào khác. Giả như chúng ta có một người bạn không biết gì về âm nhạc, chúng ta muốn giới thiệu với người bạn ấy cái kinh nghiệm tuyệt diệu của mình, để chia sẻ cho họ và tạo dịp tiện để họ được tiếp cận với vẻ đẹp vô hình của âm nhạc mà chúng ta thích thú. Chúng ta không có mục đích gì khác ngoài ra làm cho bạn mình thấy hạnh phúc trong một kinh nghiệm mới mẻ tuyệt vời. Chúng ta đưa người bạn ấy đến buổi hòa nhạc giao hưởng; chỉ trong chốc lát, người ấy thấy uể oải, chán ngán và dáo dác nhìn chung quanh hội trường. Người bạn ấy đã chịu hình phạt chính mình vì chẳng có chút âm nhạc nào trong tâm hồn cả. Cái kinh nghiệm nhằm đưa anh ta đến với niềm vui lại trở thành hình phạt cho anh.
Điều này cũng thường xảy ra cho con người khi đứng trước một nhân vật vĩ đại, cao trọng. Chúng ta có thể đưa người ấy đi xem các tác phẩm nghệ thuật bậc thầy, nghe một nhà truyền đạo lừng danh giảng thuyết, ngắm một cảnh đẹp nào đó, hoặc một cuốn sách hay để đọc. Nhưng phản ứng của họ lại trở thành một lời phán xét, một hình phạt cho chính họ. Nếu họ không thấy chút gì là đẹp, không có chút rung động nào, thì chắc hẳn đã có một điểm mù trong tâm hồn họ rồi. Người ta kể rằng có một du khách được đi xem triển lãm nghệ thuật. Trong phòng triển lãm có những tác phẩm vô giá, những kiệt tác vượt thời gian và không gian của những bậc thiên tài thực sự. Sau khi đi hết một vòng, người du khách nói: “Tôi không thấy mấy bức tranh cũ này của ông có giá trị gì”. Người hướng dẫn phòng triển lãm nói: “Thưa ông, tôi xin nhắc để ông nhớ các họa phẩm này không còn bị đem ra xử, nhưng chính chúng xử những người đến xem chúng”. Phản ứng của người này cho thấy ông ta là kẻ đui mù về nghệ thuật cách đáng thương hại.
Với Chúa Giêsu cũng vậy. Khi một người gặp Chúa với tâm hồn rung động trước sự kỳ diệu và vẻ đẹp của Ngài, thì người ấy đang ở trên con đường cứu rỗi. Nhưng nếu đã gặp Chúa và vẫn không thấy Ngài có gì đáng yêu cả, thì người ấy đã bị phán xét. Chính phản ứng của người kết án người. Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đến trong tình yêu để cứu rỗi người ấy, nhưng Chúa Giêsu đã trở thành một lời buộc tội người ấy. Chúa không buộc tội người Ngài yêu thương, nhưng chính người ấy đã tự kết án mình.
Người thù nghịch Chúa Giêsu là người đã yêu mến sự tối tăm hơn sự sáng. Điều khủng khiếp đối với một người thất sự tốt lành thánh thiện, là luôn luôn có một yếu tố vô thức nào đó trong lòng vẫn lên án mình. Chính lúc so mình với Chúa, chúng ta mới thấy mình là thể nào. Alcibiades, một thanh niên tài ba, nhưng hư hỏng, của thành phố Athène, bạn của Socrates, thỉnh thoảng thét lên: “Socrates ơi, tôi ghét anh, vì mỗi lần gặp anh thì anh cho tôi thấy tôi là gì”. Một người làm ác chẳng bao giờ muốn sự sáng soi rọi điều ác mình. Nhưng một người làm lành chẳng bao giờ sợ ánh sáng.
Người ta kể rằng, có lần một kiến trúc sư đến với Plato đề nghị đưa cho ông ta một số tiền, ông sẽ xây cho Plato một ngôi nhà nhiều phòng mà ở ngoài nhìn vào không thể nào thấy người trong phòng. Plato đáp: “Tôi sẽ tặng ông số tiền gấp đôi để ông xây một ngôi nhà mà ở trong phòng nào người ta cũng thấy được”. Chỉ kẻ làm ác mới không muốn nhìn thấy chính mình, cũng không muốn người khác nhìn thấy mình. Người như thế chắc chắn sẽ thù ghét Chúa Giêsu, vì Ngài sẽ chỉ cho người ấy thấy rõ chính mình, đó là điều cuối cùng mà người ấy muốn thấy. Người ấy yêu thích bóng tối che dấu, và không muốn ánh sáng soi tỏ, phơi bày ra.
Phản ứng của một người đối với Chúa Giêsu bày tỏ con người thật của người ấy. Qua phản ứng đối với Chúa Cứu Thế, tâm hồn con người được phơi bày trần trụi. Nếu người ấy nhìn Chúa Cứu Thế với tình yêu, dù chỉ là mơ ước, người ấy vẫn còn hy vọng. Nhưng nếu người ấy chẳng nhìn thấy có gì đáng yêu trong Chúa Cứu Thế, thì người ấy đã tự kết án chính mình. Đấng đã được phái đến trong tình yêu đã trở thành sự phán xét buộc tội người ấy.

71. Rắn đồng cứu độ
Trong cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay đều nói đến hai nhịp: bất trung và trừng phạt, triệt hạ và tái thiết, lưu đày và hồi hương; lên án và cứu độ, chết và sống. Các tình huống thăng trầm này thường xảy ra trong lịch sử dân Do thái. Chúng tiêu biểu cho nhịp sống tôn giáo của một dân tộc và cũng là của mỗi chúng ta, khi bất trung khi nhiệt thành. “Tư tế và dân chúng bất trung bất nghĩa … khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa” (x. Bài Đọc 1. 2Sb 36,14-16.19-23).
Một kinh nghiệm khác, trong hành trình sa mạc tiến về đất Hứa, có lúc người Do thái đã thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa nên than trách, thay vì tri ân thì ca thán Môsê đã đưa họ vào sa mạc; hình phạt được dựng nên tức khắc để trừng trị kẻ vô ơn: rắn độc tràn ra cắn chết những kẻ than van. Không có thuốc chữa, họ ngước nhìn Thiên Chúa và kêu cầu Người; Môsê được lệnh đúc tượng rắn bằng đồng rồi giương cao nơi hoang địa để những ai bị rắn độc cắn, nhìn lên rắn đồng, tức thì được cứu sống (x. Ds 21,4-9). Phương thuốc chữa trị này không phải là ma thuật bùa chú gì cả, nhưng là hành vi cứu độ do đức tin đem lại, quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện nơi lòng tin. Một phương thế cứu độ nhất thời của Thiên Chúa đối với dân của Người, tỏ cho dân biết Thiên Chúa quyền năng đáng kính sợ, Người cứ độ và thưởng phạt theo tội phúc mỗi người.
Hình ảnh rắn đồng được giương cao trong hoang địa được chính Đức Giêsu lấy làm biểu tượng và áp dụng cho chính mình: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn đồng trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (x. Bài Tin Mừng. Ga 3, 14-21). Con Người được giương cao trên thập giá, hình ảnh con rắn đồng được thay thế bằng thực tại xảy ra, Đức Giêsu được ví như Môsê Mới giương cao mình trên đồi Canvê vào Thứ Sáu Thánh để mang lại ơn cứu độ cho muôn dân, như một phương pháp dĩ độc trị độc. Con đường từ cõi chết bước sang sự sống vươn cao trong mầu nhiệm Vượt qua nơi bản thân Đức Giêsu thành Nadarét, đó là mầu nhiệm tử nạn và phục sinh mà Giáo Hội cử hành hằng ngày trên bàn thờ: “Chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho đến khi Chúa lại đến”. Mỗi Chúa nhật, Lời Chúa và Thánh Thể làm cho chúng ta sống một cách bí tích hai nhịp “chết đi và sống lại” này, làm cho chúng ta nên giống Chúa Kitô. “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô trên trời” (x. Bài Đọc 2. Ep 2,4-10).
Kinh thánh ghi lại những bất trung, phản trắc của dân Do thái, những tai ương đi kèm theo họ mỗi khi họ vấp ngã phản bội, như để sửa trị và gíao dục họ, nhưng mục đích chính là cốt để làm nổi bật lên lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với dân Người. Thật vậy lòng yêu thương của Thiên Chúa luôn dẫy tràn trên họ đến nỗi Tin Mừng thánh Gioan ca tụng tình yêu đó: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (c.16). Thật là tội hồng phúc (felix culpa), tội đáng ca tụng vì đã mang lại cho chúng ta Đấng Cứu Chuộc, như bài Hoan Ca Phục Sinh (exultet) được cất lên trong đêm Chúa sống lại. Thật tuyệt vời! Thiên Chúa không ngừng sai những sứ giả của Người đến giữa dân Người để kêu gọi họ trở về với Thiên Chúa. Nếu như dân đã bất trung với Giao Ước nên đã bị lưu đày, Thiên Chúa đã nhờ bàn tay ngọai giáo vua Ky-rô xứ Ba Tư để mở cho họ con đường trở về. Trong mọi hoàn cảnh cho dù bế tắc đến đâu Thiên Chúa cũng có cách hành xử hợp lý, Người luôn tỏ ra là Ông chủ lịch sử. Thật kỳ diệu, lòng Chúa xót thương! Thánh Phaolô dâng lời ca tụng: “Thưa anh em , Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dẫu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng cho chúng ta được cùng sống lại với Đức Kitô” (c. 2. Bài Đọc 2). Tin tưởng và tín thác vào tình yêu Thiên Chúa, người Ki-tô hữu không có chỗ cho tuyệt vọng, họ không có bất cứ lý do nào để đánh mất niềm hy vọng được Thiên Chúa cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dùng sự chết và sống lại của Chúa để cứu độ con, con tri ân cảm tạ và cung kính thờ lạy Chúa. Xin cho con biết trở nên dấu chỉ tình thương của Chúa đối với anh em con. Amen.