Lời Chúa Mỗi Ngày : Chủ Nhật IV Mùa Chay, Năm B

Chủ Nhật IV Mùa Chay, Năm B

Bài đọc: II Chro 36:14-17, 19-23; Eph 2:4-10; Jn 3:14-21.
1/ Bài đọc I: 14 Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Jerusalem ra ô uế. 15 Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. 16 Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa.
17 Đức Chúa để cho vua Canđê tiến lên đánh họ; vua này dùng gươm giết các thanh niên ngay trong Thánh Điện của họ, chẳng chút xót thương bất kể thanh niên thiếu nữ, kẻ đầu xanh cũng như người tóc bạc. Đức Chúa trao tất cả họ vào tay vua Canđê. 19 Quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Jerusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. 20 Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Batư ngự trị. 21 Thế là ứng nghiệm lời Đức Chúa phán, qua miệng ngôn sứ Giêrêmia rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những năm sabát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn. 22 Năm thứ nhất thời vua Cyrô trị vì nước Ba-tư, để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Cyrô, vua Batư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau: 23 “Cyrô, vua Batư, phán thế này: ” Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Jerusalem tại Judah. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người, thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên!”
2/ Bài đọc II: 4 Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, 5 nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! 6 Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời. 7 Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Ki-tô Giê-su, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người.8 Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; 9 cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. 10 Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.
3/ Phúc Âm: 14 Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, 15 để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. 16 Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. 18 Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.19 Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. 20 Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. 21 Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
________________________________________
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình thương Thiên Chúa cứu chuộc con người.

Con người thường đặt câu hỏi khi phải đối diện những tai ương tàn khốc: “Tại sao một Thiên Chúa tốt lành lại để con người phải chịu những hậu quả thảm khốc như thế?” Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ từ chối tin vào Thiên Chúa vì hai lý do: hoặc không có Thiên Chúa hoặc Thiên Chúa không có lòng thương xót.
Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta câu trả lời thích đáng. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sử Biên Niên II tường trình cách vắn gọn tiến trình giáo dục con người của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách cuối cùng để con người nhận ra lầm lỗi của mình và để ngăn ngừa con người khỏi hư mất đời đời. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô xác quyết Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với con người qua biến cố Đức Kitô. Ngài sẵn sàng hy sinh Người Con Một để chúng ta có thể đạt được Ơn Cứu Độ là sự sống muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói rõ: Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình. Mục đích của Ngài không là để kết án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người Con mà được Ơn Cứu Độ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Tiến trình giáo dục của Thiên Chúa.

1.1/ Ngài dạy dỗ và cảnh cáo con người:
– Con người phạm nhiều tội và nhiều lần. Sách Sử Biên Niên chỉ nói cách tổng quát các tội: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Jerusalem ra ô uế.”
– Sai nhiều ngôn sứ đến cảnh cáo: Con người đã được Thiên Chúa dạy dỗ qua Lề Luật, họ đã biết những gì họ phải làm và hậu quả họ phải chịu nếu không giữ cẩn thận các Lề Luật. Tuy nhiên, vì tình thương, “Thiên Chúa vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người.”

1.2/ Ngài sửa phạt dân như lời Ngài đã cảnh cáo:
– Sau khi Thiên Chúa kiên nhẫn dạy dỗ dân qua Lề Luật và các Ngôn-sứ, và họ cố chấp không chịu nghe lời, Thiên Chúa dùng Vua Canđê như chiếc roi để sửa phạt dân: “Đức Chúa để cho vua Canđê tiến lên đánh họ; vua này dùng gươm giết các thanh niên ngay trong Thánh Điện của họ, chẳng chút xót thương bất kể thanh niên thiếu nữ, kẻ đầu xanh cũng như người tóc bạc. Đức Chúa trao tất cả họ vào tay vua Canđê. Quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Jerusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba-tư ngự trị.”
– Mục đích của việc sửa phạt là để cho dân nhận ra tội lỗi và hậu quả của nó, chứ không phải để thỏa mãn tính nóng giận mà để cho chết. Nếu Thiên Chúa không sửa phạt, dân chúng sẽ chết hết trong tội của họ. Khi Thiên Chúa sửa phạt, một số sẽ nhận ra tội lỗi, và bắt đầu cuộc hành trình trở lại với Ngài, để được Ngài xót thương. Như vậy, hình phạt cần thiết để tạo nên sự thống hối ăn năn, và để ngăn ngừa dân khỏi các hình phạt nặng nề hơn, nhất là cái chết.

1.3/ Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương:
– Thiên Chúa xót thương vì Ngài là Cha: Khi dân biết nhận ra tội của họ và thực lòng ăn năn thống hối, Thiên Chúa tha thứ và cứu dân khỏi hình phạt họ đang chịu. Ngài xót thương vì Ngài là Cha, và không một người cha nào muốn con mình phải hư mất. Ngài hòan lại tất cả những gì con cái Israel đã mất: quê hương, Đền Thờ, và Lời Hứa với các Tổ-phụ.
– Thiên Chúa có tòan quyền trên tất cả quyền lực của thế gian: Điều này chứng tỏ qua các sự kiện: Ngài dùng Vua Babylon như chiếc roi để sửa phạt dân; khi dùng xong, Ngài bẻ gãy chiếc roi bằng việc trao đế quốc Babylon vào tay Cyrus, Vua Ba-tư. Chính Vua này lại trở thành khí cụ Chúa dùng để phóng thích dân Do-thái, cho về để tái thiết lại quốc gia và Đền Thờ. Điều này đã được Thiên Chúa báo trước qua lời ngôn sứ Jeremiah; để khi xảy ra, dân chúng biết đó không phải là chuyện tình cờ, nhưng đã được xếp đặt trước bởi Thiên Chúa, để họ tin vào Ngài.

2/ Bài đọc II: Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu.

2.1/ Thiên Chúa tỏ tình yêu cho con người qua Đức Kitô:
– Đức Kitô đến để lấp đầy khỏang cách xa lạ giữa con người và Thiên Chúa: Tội lỗi làm con người mặc cảm và xa lánh Thiên Chúa; Đức Kitô đến để mời gọi con người quay về với tình yêu Thiên Chúa.
– Ngài nâng cao địa vị và phẩm giá con người: “Họ là con Thiên Chúa và Ngài yêu thương họ.” Tội lỗi làm mất đi các đặc quyền con người được hưởng như một người con của Thiên Chúa. Đức Kitô đến để phục hồi cho con người quyền làm con. Dụ ngôn Người Cha nhân hậu dẫn chứng rõ ràng điều này.
– Ngài hướng lòng con người lên những điều tốt lành thánh thiện và giải thóat con người khỏi xiềng xích của tội, Ngài cho con người cảm nghiệm được tình thương Thiên Chúa.
– Ngài cứu con người khỏi chết và cho con người được cùng sống lại với Đức Kitô. Chính do Đức Kitô mà con người đạt được đích điểm Thiên Chúa đã phác họa cho con người.

2.2/ Chúng ta được cứu độ là do bởi ân sủng của Thiên Chúa:
– Hòan tòan là do bởi ân sủng của Thiên Chúa: Con người không thể làm gì để đạt Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm tội, và như một hậu quả, tất cả đều đáng phải chết. Nhưng tại sao con người không phải chết là hòan tòan do lòng thương xót của Thiên Chúa: Ngài cho Người Con Một của mình để chết thay cho nhân lọai. Điều Thiên Chúa mong muốn là con người hãy tin vào Người Con; và qua niềm tin này, con người sẽ nhận được Ơn Cứu Độ: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.”
– Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa: “Chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” Như nguyện ước của các cha mẹ khi sinh con ra đời, họ muốn con nên người và đạt được mọi kỳ vọng họ đặt nơi con. Để giúp con đạt được những kỳ vọng này, họ sẵn sàng hy sinh tất cả. Thiên Chúa cũng thế, Ngài cho con người ra đời là muốn tất cả đạt tới Ơn Cứu Độ. Để giúp con người đạt đích, Ngài sẵn sàng hy sinh tất cả, ngay cả việc cho đi chính Ngài qua Mầu Nhiệm Thập Giá.

3/ Phúc Âm: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người.

3.1/ Nhờ Đức Kitô chịu khổ hình, con người được hưởng ơn Cứu Độ: Chúa Giêsu dùng biến cố “rắn lửa cắn dân chết” trong Sách Dân Số, để loan báo trước về Cuộc Khổ Nạn của Người:
– Như nọc độc của rắn làm dân phải chết, nọc độc của tội cũng làm dân phải chết (Num 21:4-9). Như ông Moses đã giương cao con rắn trong sa mạc, Chúa Kitô cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để cứu chuộc con người.
– Điều kiện để được chữa khỏi nọc độc của rắn là phải nhìn lên con rắn đồng trong sa mạc; điều kiện để được sống muôn đời là nhìn lên Cây Thập Giá và phải tin vào Đức Kitô. Khi nhìn lên Thập Giá, con người phải hiểu được tình thương Thiên Chúa dành cho con người; khi Ngài cho Người Con Một là Ngài cho chính Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”

3.2/ Thiên Chúa không kết án thế gian, con người lên án chính mình:
– Tình thương không có chỗ cho buộc tội, kết án: Mục đích của việc Chúa Cha sai Người Con tới là để gánh tội và chết cho con người: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”
– Con người kết án chính mình khi từ chối tình yêu Thiên Chúa, và không tin vào Đức Kitô: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.”

3.3/ Bản án của con người: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.”
– Ánh sáng và bóng tối: Ánh sáng là chính Đức Kitô, là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Khi Đức Kitô đến, Ngài buộc con người phải làm quyết định: tin hay không tin vào Ngài. Bóng tối là tội lỗi, là những cám dỗ bất chính của Satan.
– Con người có tự do lựa chọn: Họ có thể chọn ra ngòai ánh sáng hay ở trong bóng tối, chọn Thiên Chúa hay chọn ma quỉ. Khi con người chọn đàng nào, con người phải chấp nhận hậu quả của nó. Chọn ánh sáng sẽ dẫn con người tới Ơn Cứu Độ; chọn bóng tối sẽ làm cho con người phải chết muôn đời. Con người lên án chính mình bằng ngoan cố ở trong bóng tối.
– Theo Gioan, Thiên Chúa chẳng cần phán xét con người, họ phán xét chính mình. Con người cũng chẳng cần phải đợi Ngày Phán Xét; chính lúc con người lựa chọn ở trong bóng tối là con người tuyên án cho chính mình (Realized eschatology, “phán xét ngay hiện tại” là thế). Phán xét tương lại hòan tòan tùy thuộc vào phán xét hiện tại.
– Kẻ làm điều gian ác thích ở trong bóng tối, vì sợ nếu ra ngòai ánh sáng, các tội lỗi của mình sẽ bị lật tẩy. Điều này chúng ta dễ nhận ra vì đa số các tội ác xảy ra ban đêm và những chỗ vắng vẻ không người, như lời Tin Mừng hôm nay: “Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.”
– Ngược lại, người làm điều chân thật lại thích ở trong ánh sáng để tránh mọi nguy hiểm do bóng tối mang lại: “Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Tiến trình giáo dục của con người giúp chúng ta nhận ra tiến trình giáo dục của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách thế sau cùng Thiên Chúa dùng trong tiến trình giáo dục.
– Ngay cả khi xử dụng hình phạt, tình thương của Thiên Chúa vẫn chiếu sáng. Nếu không có hình phạt, con người sẽ không nhận ra lỗi lầm của mình.
– Cần nhìn tòan thể Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa trước khi con người có thể phê bình cách thức của Ngài dùng. Nếu chỉ nhìn vào một biến cố, con người dễ mất niềm tin nơi Ngài.

LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP

Sunday of the 4 LentB

Readings: II Chro 36:14-17, 19-23; Eph 2:4-10; Jn 3:14-21.

1/ First Reading: NAB 2 Chronicles 36:14 Likewise all the princes of Judah, the priests and the people added infidelity to infidelity, practicing all the abominations of the nations and polluting the LORD’S temple which he had consecrated in Jerusalem. 15 Early and often did the LORD, the God of their fathers, send his messengers to them, for he had compassion on his people and his dwelling place. 16 But they mocked the messengers of God, despised his warnings, and scoffed at his prophets, until the anger of the LORD against his people was so inflamed that there was no remedy. 17 Then he brought up against them the king of the Chaldeans, who slew their young men in their own sanctuary building, sparing neither young man nor maiden, neither the aged nor the decrepit; he delivered all of them over into his grip. 19 They burnt the house of God, tore down the walls of Jerusalem, set all its palaces afire, and destroyed all its precious objects. 20 Those who escaped the sword he carried captive to Babylon, where they became his and his sons’ servants until the kingdom of the Persians came to power. 21 All this was to fulfill the word of the LORD spoken by Jeremiah: “Until the land has retrieved its lost sabbaths, during all the time it lies waste it shall have rest while seventy years are fulfilled.” 22 In the first year of Cyrus, king of Persia, in order to fulfill the word of the LORD spoken by Jeremiah, the LORD inspired King Cyrus of Persia to issue this proclamation throughout his kingdom, both by word of mouth and in writing: 23 “Thus says Cyrus, king of Persia: ‘All the kingdoms of the earth the LORD, the God of heaven, has given to me, and he has also charged me to build him a house in Jerusalem, which is in Judah. Whoever, therefore, among you belongs to any part of his people, let him go up, and may his God be with him!'”

2/ Second Reading: NAB Ephesians 2:4 But God, who is rich in mercy, because of the great love he had for us, 5 even when we were dead in our transgressions, brought us to life with Christ (by grace you have been saved), 6 raised us up with him, and seated us with him in the heavens in Christ Jesus, 7 that in the ages to come he might show the immeasurable riches of his grace in his kindness to us in Christ Jesus. 8 For by grace you have been saved through faith, and this is not from you; it is the gift of God; 9 it is not from works, so no one may boast. 10 For we are his handiwork, created in Christ Jesus for the good works that God has prepared in advance, that we should live in them.

3/ Gospel: NAB John 3:14 And just as Moses lifted up the serpent in the desert, so must the Son of Man be lifted up, 15 so that everyone who believes in him may have eternal life.” 16 For God so loved the world that he gave his only Son, so that everyone who believes in him might not perish but might have eternal life. 17 For God did not send his Son into the world to condemn the world, but that the world might be saved through him. 18 Whoever believes in him will not be condemned, but whoever does not believe has already been condemned, because he has not believed in the name of the only Son of God. 19 And this is the verdict, that the light came into the world, but people preferred darkness to light, because their works were evil. 20 For everyone who does wicked things hates the light and does not come toward the light, so that his works might not be exposed. 21 But whoever lives the truth comes to the light, so that his works may be clearly seen as done in God.

________________________________________

I. THEME: God’s love saves people.
People used to put out this question when they have to face catastrophes: “Why did the good Lord let such catastrophe happen to humankind?” If they can’t find a proper answer for this question, they shall stop to believe in God due to two following reasons: either God has no power to prevent it to happen or He has no compassion for human beings.
Today readings help to provide us a proper answer for that question. In the first reading, the author of the Second Chronicles briefly reported God’s way of educating human beings. In this way, punishment is only the last step to help people to recognize their sins and to protect them from the everlasting punishment. In the second reading, St. Paul confirmed that God shows His compassion for people through Christ’s event. God sacrificed His Only Son for us so that we can inherit the eternal life. In the Gospel, Jesus clearly declared that God so loved the world that He gave His Only Son. His purpose is not to condemn the world, but through His Son, the world is redeemed and inherited the eternal life.

II. ANALYSIS:

1/ Reading I: The progress in God’s way of educating His people

1.1/ God educated and warned people: He taught people through their leaders, and He gave the Ten Commandments to people through Moses; but people ignored His teachings and many times violated His commandments. The author briefly described all sins of people as follows: “Likewise all the princes of Judah, the priests and the people added infidelity to infidelity, practicing all the abominations of the nations and polluting the Lord’s temple which He had consecrated in Jerusalem.”
When Moses gave the law to people, he already let them know all the good results shall benefit them if they observe God’s law; and he also warned them all the bad results shall happen if they violate His law. God didn’t punish people the first time when they sinned; but out of His love, He constantly sent His prophets to remind people of their sins and to call them to repent. Instead of listening and doing what the prophets warned them, “they mocked the messengers of God, despised his warnings, and scoffed at his prophets, until the anger of the Lord against his people was so inflamed that there was no remedy.”

1.2/ God punished people as He warned them through the prophets: Since they didn’t pay attention to His warnings, He must punish them as He foretold. The punishment which God often used is to stop protecting them. When God did that, their enemies shall devour them without mercy. In today passage, the author reported what happened to the Israelites and the Southern Kingdom in 587 B.C.: “Then he brought up against them the king of the Chaldeans, who slew their young men in their own sanctuary building, sparing neither young man nor maiden, neither the aged nor the decrepit; he delivered all of them over into his grip.They burnt the house of God, tore down the walls of Jerusalem, set all its palaces afire, and destroyed all its precious objects.Those who escaped the sword he carried captive to Babylon, where they became his and his sons’ servants until the kingdom of the Persians came to power.All this was to fulfill the word of the Lord spoken by Jeremiah: “Until the land has retrieved its lost sabbaths, during all the time it lies waste it shall have rest while seventy years are fulfilled.””
God’s purpose of punishment is to help people to recognize their sins so that they can repent and come back to Him for blessings and protection; not to destroy them out of His anger. If God didn’t punish, all people will die in their sins. When people were punished, a remnant from them shall recognize their sins and begin a journey to come back in order to receive His forgiveness and protection. Therefore, punishment is necessary for repentance and to prevent people from a more dangerous punishment, that is, the everlasting separation from Him.

1.3/ After God punished, He had compassion on them: God had mercy on people because He is their Father, and didn’t want them to be lost for ever. When people recognized their sins and sincerely repented, God forgave their sins and liberated people from their punishment. He returned to them all what they had lost: their country, the temple, His promises with their forefathers to protect them.
God completely has dominion over all nations of the world, not only Israel. This was shown through the facts that He used the Babylonian king and his armies as His stick to whip the Israelites. After finishing, God broke His stick and gave the Chaldeans empire into the hand of Cyrus, the Persian king. It was Cyrus who recognized God’s power and obeyed God to set the Israelites free from their exile to come back to their country, so that they could re-establish their nation and rebuild the temple. God foretold all these things through Jeremiah’s prophecy, so that when all these shall happen, the Israelites know it isn’t accidental, it was planned in advance by God so that they shall believe in Him.

2/ Reading II: God showed His mercy for us through Jesus Christ.

2.1/God showed His love for us through Christ: St. Paul believed that God fulfilled all of His promises with people through Christ, by listing out some of them.
(1) Christ came to reconcile people with God: Sins separated people from God. Christ came to destroy sins and to bring people back to God. Christ also invited people to repent so that he can take their sins away and help them to reconnect their relationship with God.
(2) Christ recovered human position and dignity: St Paul said, “because of the great love He had for us.” Sins take away all human priviledges which they should have as God’s children. Christ came to recover people’s position and priviledges as God’s children. The parable of the Prodigal Son is a clear example of this point.
(3) Besides Christ’s liberation of human beings from sins, he also sanctifies people with his grace and helps them to become holy.
(4) Christ saves people from death and helps them to receive the eternal life. Through Christ, people can achieve their ultimate goal which God has destined for them.

2.2/ People are saved completely by God’s grace: People can do nothing to receive their salvation because all of them sinned; the result of sin is death. The reason why people aren’t dead is completely by God’s love for them. He gave His Only Son to die in the place of the people. What God desires for people is that they should believe in Christ, and by this faith, people shall receive their salvation. St. Paul advised people with these words: “For by grace you have been saved through faith, and this is not from you; it is the gift of God;it is not from works, so no one may boast.”
We are God’s handiwork: St. Paul concluded: “For we are his handiwork, created in Christ Jesus for the good works that God has prepared in advance, that we should live in them.”
When a child is born, his parents want him to be a good person and expect him to fulfill many expectations which they have for him. To help their child to reach them, they are ready to sacrifice all things that they have. Similarly, when God let people exist in this world, He wants them to have eternal happiness with Him. To help people to reach this goal, He is ready to sacrifice all, even His Only Son must go through his Passion and Death.

3/ Gospel: God so loved the world that He gave His Only Son.

3.1/ People are saved by Christ’s Passion and Death: Jesus used the event of “the Bronze Serpent” which happened to the Israelites in the desert (Num 21:4-9), to explain his coming death on the cross. One can see many similarities between the two events.
(1) As the snakes’ poison caused the Israelites to die, the poison of sins also lead people to death. As Moses raised the bronze serpent in the desert to heal the Israelites, Christ must also be raised high on the cross to save people from death.
(2) The condition to be healed from the snakes’ poison was to look upon the bronze serpent in the desert; the condition to have the eternal life is to look upon the cross and to believe Christ as the Savior. When looking upon the cross, people can understand God’s immense love for them. When He gave His Only Son, He gave Himself for human beings, as Jesus said: “For God so loved the world that he gave his only Son, so that everyone who believes in him might not perish but might have eternal life.”

3.2/ God doesn’t condemn the world, people condemn themselves: Love has no place for condemnation and verdict. The purpose of God’s sending of His Son is to redeem people’s sins and to die for them: “For God did not send his Son into the world to condemn the world, but that the world might be saved through him.” People condemn themselves when they reject God’s love for them through Christ, as Jesus said: “Whoever believes in him will not be condemned, but whoever does not believe has already been condemned, because he has not believed in the name of the only Son of God.”

3.3/ The verdict for people who refused to believe in Christ: “And this is the verdict, that the light came into the world, but people preferred darkness to light, because their works were evil.”
(1) Light and darkness: Light is Christ himself, he is God’s salvation. When Christ comes, he urges people to make the decision: to believe or to reject him. The darkness is sin, resulted from Satan’s temptation. People have freedom to make a decision; they can choose God or Satan, to step out of darkness and enter into light. When they make a decision, they have to accept the result of their decision. Choosing light shall lead people to salvation; choosing darkness shall lead people to everlasting death. People condemn themselves by stubbornly staying in the darkness.
(2) According to John, God doesn’t need to judge; people judge themselves. People don’t need to wait for the Last Judgment Day, since at the moment when they chose to deny Christ, they condemned themselves. The future eschatology completely depends on the present eschatology.
Those who did evil things prefer to stay in the darkness because they are afraid that their deeds may be displayed. We can see this tendency in the real life, most of crimes happened at night or in deserted places, as the author said, “For everyone who does wicked things hates the light and does not come toward the light, so that his works might not be exposed.” In opposition, those who did good things prefer to stay in the light to be shone and to avoid dangers of darkness: “But whoever lives the truth comes to the light, so that his works may be clearly seen as done in God.”

III. APPLICATION IN LIFE:

– The progress of human education must help us to recognize the progress of God’s education. Punishment is only the last step in this educational progress. Even in punishment, God’s love is still revealed. Without punishment, people shall not recognize their sins.
– We need to see the overview of God’s plan of salvation before we can criticize His ways. If we only pay attention to one particular event, we shall easily lose our faith in Him.