Lời Chúa Mỗi Ngày : Ngày 24 tháng 12 GS, Lễ Nửa Đêm

Ngày 24 tháng 12 GS, Lễ Nửa Đêm
Bài đọc: Isa 9:1-3, 5-6; Tit 2:11-14; Lk 2:1-14.
1/ Bài đọc I: 1 Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. 2 Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. 3 Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Median. 5 Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình. 6 Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó.
2/ Bài đọc II: 11 Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người.
12 Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. 13 Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. 14 Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân Riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện.
3/ Phúc Âm: 1 Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.
2 Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri.
3 Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. 4 Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít. 5 Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai.
6 Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. 7 Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.
8 Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật.
9 Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. 10 Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: 11 Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. 12 Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” 13 Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: 14 “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”
________________________________________
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin Mừng Giáng Sinh là tình yêu Thiên Chúa.
– Một cụ già 93 tuổi, được coi là khá thành công trong cuộc đời: có nhiều của cải, con đàn cháu đống gần 100 đứa. Về già, có nhiều thời gian nhìn lại và suy gẫm, cụ ngậm ngùi kết luận: Vất vả ngược xuôi cả cuộc đời cũng chẳng đến đâu, có tí của ăn nhưng nhìn lại đàn con đàn cháu thấy giật mình. Đứa thì gia đình tan nát, đứa thì bệnh họan, hầu hết con cháu đều xa Chúa, cố gắng khuyên lơn bảo ban nhưng chúng nó không chịu nghe. Nếu Chúa không thương đưa con cháu trở lại thì chết mất! Chẳng biết sau này Chúa cho gặp được bao nhiêu người? May mắn cho cụ già đã nhìn ra bóng tối đang vây bọc gia đình, nhưng làm sao để đưa các con cháu về lại với Thiên Chúa?
– Hòan cảnh của cụ già có lẽ cũng là hòan cảnh của hầu hết gia đình chúng ta. Khi được may mắn định cư nơi các cường quốc có nhiều cơ hội, chúng ta lăn xả vào đời để kiếm tiền sinh sống, mà không bao giờ chịu cân nhắc những thiệt hại của lối sống tư bản này. Nhiều cha mẹ đã không quản ngại hy sinh vất vả để cày 2,3 việc; với hy vọng cho con được tiến thân trong việc học hành, với hy vọng sau khi đã hy sinh cho con sẽ được chúng báo hiếu sau này, như mình đã từng thương yêu và báo hiếu cha mẹ. Sau hơn 30 năm vật lộn với cuộc sống nơi xứ lạ quê người, giờ có thời gian nhìn lại những cố gắng của mình như cụ già, chắc nhiều người chúng ta cũng không khỏi giật mình: gia đình có của nhưng con cái xa Chúa và xa mình vạn dặm. Con cái bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ, làm rất nhiều tiền nhưng chẳng bao giờ nghĩ đến việc phải báo hiếu cha mẹ; dạy dỗ khuyên răn chúng khó chịu và chỉ để ngòai tai. Chúng ta cũng chép miệng thở than như cụ già: Hy sinh vất vả cả đời để giờ phải chấp nhận một thực tại chúng ta không ao ước!
– Câu hỏi được đặt ra: Chúng ta đã làm điều gì sai? Làm thế nào để cứu chúng ta và con cháu ra khỏi vùng bóng tối sự chết này?
– Câu trả lời: Chúng ta đã không đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự. Chúng ta coi trọng tiền của nên đã dùng quá nhiều thời giờ vào việc kiếm tiền, mà quên đi Lời Chúa báo trước: “Các con không thể làm tôi cả Thiên Chúa lẫn tiền tài.” Chúng ta đã xao lãng trong việc trau dồi đời sống tâm linh mà chỉ chú trọng đến thức ăn của uống, mà quên đi Lời Chúa báo trước: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” Chúng ta đã chạy theo và thờ lạy những hào nhóang thế gian như danh vọng, quyền bính, khóai lạc; mà quên đi Lời Chúa sửa dạy ma quỉ: “Ngươi phải thờ phượng Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa thờ phượng ngươi.” Nói tóm, chúng ta đã không sống theo những gì Thiên Chúa muốn, nhưng sống hệt theo lối sống của ma quỉ đã cám dỗ Thiên Chúa. Nếu chính chúng ta không sống những gì Chúa dạy, làm sao chúng ta mong các con chúng ta biết sống? Nếu chúng ta đã không dạy cho con biết kính sợ Thiên Chúa, và gia đình đã không sống theo đường lối của Thiên Chúa; chúng sẽ sống theo kiểu của xã hội hiện nay: ích kỷ chỉ biết tới mình, tôn thờ vật chất, sống buông thả như không có ngày mai.
– Tin Mừng Giáng Sinh: Những Bài đọc đêm nay cung cấp cho chúng ta những tia sáng hy vọng. Trong Bài đọc I: Tiên-tri Isaiah tường thuật những lợi ích khi con người có được Đấng Cứu Thế: Ngài như ánh sáng soi cho con người đang sống trong vùng bóng tối của sự chết. Ngài giúp giải thóat con người khỏi làm nô lệ cho tội lỗi. Ngài ban cho con người khôn ngoan, sức mạnh, thương yêu, và bình an. Trong Bài đọc II, Thánh Phaolô dạy Titô, môn đệ của ngài: Ân sủng Cứu Độ dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Chúa Giêsu đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân Riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện. Trong Phúc Âm, Tin Mừng Giáng Sinh được loan báo cho con người: Con Thiên Chúa đã giáng sinh làm người trong hang đá khó nghèo. Chỉ có Mục đồng là những người đầu tiên được sứ Thần loan báo và nhận ra Tin Mừng Cứu Độ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ơn Cứu Độ được thực hiện qua Người Con.
1.1/ Sự khác biệt khi Đấng Cứu Thế đến: Ngay trong tuần thứ I Mùa Vọng, Giáo Hội đã mời gọi chúng ta suy xét để nhận ra sự khác biệt giữa người có và không có Thiên Chúa. Tiên-tri Isaiah hôm nay cũng mời gọi chúng ta suy xét để nhận ra tình trạng của mình và sự cần thiết của Đấng Cứu Thế trong cuộc đời mỗi người, qua 2 hình ảnh:
(1) Ánh sáng và bóng tối: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” Tình trạng của dân Do-Thái thời Tiên-tri và tình trạng của con người trước khi Đấng Cứu Thế đến là hòan tòan bi quan và tăm tối. Hai vương quốc của Do-Thái sắp sửa bị quân thù Assyria và Babylon xâm chiếm và đem đi lưu đày. Con người bị bao quanh bởi bóng tối của sự không biết Thiên Chúa, không biết suy xét, và bao nhiêu tội lỗi lan tràn. Hậu quả tai hại nhất của việc sống trong bóng tối là con người chắc chắn sẽ phải chết.
Nhưng may mắn cho dân tộc Do-Thái và cho con người, Thiên Chúa đã ban cho họ một ánh sáng, Người Con của Ngài. Ánh sáng này sẽ làm cho con người được thấy, được thấu hiểu những Mầu Nhiệm của Thiên Chúa, và nhất là mang lại Ơn Cứu Độ cho con người, cho họ được sống đời đời.
(2) Vui mừng và đau khổ: Hình ảnh thứ hai Tiên-tri dùng là liên kết ánh sáng với vui mừng và bóng tối với đau khổ: “Vì Chúa đã gia tăng các quốc gia, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt hái, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Median.”
Chúng ta có thể hiểu nỗi đau khổ của dân Do-Thái trong nơi lưu đày: mất quê hương, gia đình tan nát, Đền Thờ và sự hiện diện của Thiên Chúa không còn, cuộc sống thiếu thốn và khổ cực, bị đối xử tàn bạo bởi kẻ thù. Tất cả những đau khổ này sẽ được Thiên Chúa cất hết khi Ngài cho họ được trở về quê hương để tái thiết quốc gia và Đền Thờ. Tất cả những điều này là do Thiên Chúa làm, chứ không do sức lực của con người. Tiên-tri nhắc nhở cho dân nhớ lại chiến thắng tại Median, Thiên Chúa muốn Thủ-lãnh Gideon đuổi quân lính về hết, kẻo họ nghĩ rằng sở dĩ có chiến thắng là do sức mạnh của họ.
Thiên Chúa gia tăng các quốc gia và nỗi vui mừng bằng cách loan Tin Mừng cho Dân Ngọai và cho họ cũng được hưởng Ơn Cứu Độ. Cả dân Do-Thái cũng như Dân Ngọai không làm gì xứng đáng để được hưởng Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm tội. Sở dĩ tất cả đều được hưởng Ơn Cứu Độ là hòan tòan do Thiên Chúa.
1.2/ Con người Đấng Cứu Thế: “Vì một trẻ thơ đã được sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban tặng cho ta. Người đã lãnh nhận quyền cai trị (arché) trên vai, tên của Người sẽ được gọi là Cố Vấn kỳ diệu, Thiên Chúa uy quyền, Người Cha muôn thuở, Hòang Tử hoà bình.” Tên là người; những danh hiệu này cần được hiểu thấu đáo để chúng ta ước mong có được Người Con này trong cuộc đời:
(1) Cố Vấn kỳ diệu: Người cố vấn phải là người khôn ngoan, có khả năng nhìn thấy những gì người khác không nhìn thấy. Người Con này là người Cố Vấn kỳ diệu cho con người, vì Ngài là Thiên Chúa khôn ngoan: cố vấn cho mọi người và chẳng cần ai làm cố vấn cho Người. Nếu có người cố vấn như vậy trong cuộc đời, chúng ta sẽ không khiếp sợ ai nữa.
(2) Thiên Chúa uy quyền: Tuy dáng vẻ là con người yếu đuối, nhưng ẩn chứa quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Người Con này làm được mọi sự, và không có gì là không thể đối với Ngài. Nếu chúng ta có Ngài trong đời, Ngài sẽ giúp chúng ta làm được mọi sự.
(3) Người Cha muôn thuở: Bản tính của người cha là yêu thương, dạy dỗ, và săn sóc cho con cái. Người Con này là Thiên Chúa, Người Cha muôn thuở của con người. Bằng việc nhập thể, chính Ngài vẫn tiếp tục yêu thương, dạy dỗ, và săn sóc từng người. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa dùng các tiên tri để dạy dỗ; trong Tân Ước, chính Thiên Chúa dạy dỗ con người.
(4) Hòang Tử bình an: Để có bình an, người lãnh đạo phải yêu mến bình an, và phải có khả năng đem lại bình an. Người Con này có khả năng hòa giải giữa con người với con người, và giữa con người với Thiên Chúa. Chỉ khi nào con người có được Hòang Tử bình an này, con người mới thực sự có bình an.
1.3/ Triều đại của Đấng Cứu Thế: “Quyền cai trị của Ngài sẽ gia tăng, và hoà bình sẽ vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua David. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng công bình và chính trực, từ nay cho đến mãi muôn đời. Lòng nhiệt thành của Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó.”
– Trong khi các vua chúa trần gian gia tăng quyền cai trị của họ bằng chiến tranh; Người Con gia tăng vương quốc của mình bằng hòa bình. Điều này, chúng ta có thể thấy được qua sự phát triển của Giáo-hội: con số những người tin vào Đức Kitô mỗi ngày một gia tăng, không bằng chiến tranh, nhưng bằng sự rao giảng Tin Mừng và sự làm việc bên trong của Chúa Thánh Thần. Vua chúa trần gian càng bách hại Đạo, số tín hữu càng gia tăng. Nước Thiên Chúa không còn giới hạn trong dân tộc Do-Thái, nhưng được lan rộng ra tới mọi dân tộc trên địa cầu.
– Tiên-tri Isaiah liên kết giữa triều đại của David và của Người Con. Như lời Thiên Chúa hứa qua các Tổ-phụ và các Tiên-tri, triều đại của Nhà David sẽ tồn tại muôn đời. Điều này chỉ thực hiện được qua Người Con thuộc giòng dõi David, Ngài sẽ làm cho triều đại David được tồn tại đến muôn đời.
– Trong khi các vua chúa trần gian củng cố vương quốc của mình bằng đàn áp và bạo lực, Người Con củng cố vương quốc bằng công bình và chính trực. Đàn áp và bạo lực chỉ có thể giữ dân chúng một thời gian; công bình và chính trực sẽ thu hút lòng dân đến muôn đời (Lk 1:32-33).
– Tác nhân chính của sự gia tăng là Thiên Chúa và lòng nhiệt thành yêu thương của Ngài, chứ không do đức độ, tài năng, hay sức mạnh của con người. Thiên Chúa yêu thương đến nỗi đã ban Người Con này cho con người (Jn 3:16); và trong Người Con này, mọi lời hứa được thực hiện.
2/ Bài đọc II: Ơn Cứu Độ thay đổi đời sống luân lý của các Kitô hữu
2.1/ Ơn Cứu Độ giúp con người biết sống: Con người làm bất cứ một việc gì đều có một mục đích. Khi các Kitô hữu biết rõ ràng mục đích của cuộc đời là “trông chờ ngày hồng phúc, ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang;” họ sẽ phải biết chuẩn bị xứng đáng cho ngày đó. Thánh Phaolô khuyên các Kitô hữu: (1) Cách tiêu cực: Họ phải từ bỏ lối sống thế gian và những đam mê trần tục; vì lối sống này ngăn cản không cho họ đạt tới mục đích của cuộc đời. (2) Cách tích cực: Họ phải biết sống chừng mực, công chính, và đạo đức ở thế gian này. Những nhân đức này sẽ giúp họ đạt được mục đích của cuộc đời.
2.2/ Ơn Cứu Độ giải thóat con người: Bằng Mầu Nhiệm Nhập Thể, Đức Kitô giải thóat con người: (1) cách tiêu cực: khỏi mọi điều bất chính (tội lỗi); cách tích cực: biến họ thành người hăng say làm việc thiện. Chính sự tích cực này làm con người xứng đáng thành Dân Riêng của Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta.
3.1/ Hòan cảnh sinh ra của Đấng Cứu Thế: Không giống như các biến cố khác của cuộc đời Chúa Cứu Thế, biến cố sinh ra chỉ được tường thuật bởi Thánh sử Luca cách vắn tắt như sau: “Thời ấy, Hoàng-đế Augusto ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quirinô làm tổng trấn xứ Syria. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nazareth, miền Galilee lên thành vua David tức là Bethlehem, miền Judah, vì ông thuộc giòng tộc vua David. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.”
Khỏang cách từ Nazareth đến Bethlehem là 80 dặm, và phương tiện di chuyển duy nhất thời đó là đi bộ hay dùng các thú vật như bò lừa. Bethlehem rất lạnh vào mùa Đông vì là một cánh đồng chỉ cách Jerusalem vài dặm và có rất nhiều các hang đá ẩn sâu trong lòng đất, vẫn còn tồn tại tới hôm nay. Các hang đá này là chỗ lý tưởng cho các người chăn chiên vì họ có thể giữ chiên trong đó an tòan và tránh lạnh mà không cần chuồng.
3.2/ Thiên Thần loan Tin Mừng trọng đại cho các mục-đồng.
Mục-đồng (Bedouins) vẫn còn tồn tại ở Do-Thái cho tới ngày nay. Họ không thích lối sống thành phố hay cố định ở một chỗ; nhưng thích lang thang khắp đó đây theo đòan vật, chỗ nào có cỏ và nước cho súc vật họ sẽ định cư tại đó. Họ bị các người Do-Thái khác khinh thường vì bẩn thỉu và không thể giữ các nghi thức thanh tẩy trước khi ăn.
Tại sao các mục đồng được diễm phúc là những người đầu tiên biết Tin Mừng Giáng Sinh của Hài Nhi Cứu Độ? Để trả lời, chúng ta cần hỏi câu hỏi ngược lại: Ai là người sẽ dễ đón nhận Tin Mừng Giáng Sinh nhất trong hòan cảnh này?
Mối Phúc thứ nhất: “Phúc cho những ai nghèo khó vì Nước Trời là của họ” sẽ giúp chúng ta trả lời. Thiên Chúa chọn cho con mình giáng sinh trong hoàn cảnh nghèo khó, chứ không trong dinh thự giàu sang. Người muốn con mình cảm nhận thân phận cùng cực của kiếp người. Vì sinh ra trong hoàn cảnh nghèo hèn như thế, chỉ có những người nghèo như các mục-đồng mới có thể nhận ra và cảm thông, vì Con Trẻ cùng một hòan cảnh như họ. Hơn nữa, người nghèo khổ là người biết trông cậy vào Thiên Chúa, chứ không cậy vào sức của họ; vì thế, dễ cho họ đón nhận Tin Mừng Giáng Sinh hơn. Lời ca của muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” cũng củng cố cách cắt nghĩa này. Thiên Chúa đóai thương và nhìn đến kẻ khó nghèo.
Tin Mừng Giáng Sinh được Sứ thần loan báo cho các mục-đồng: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua David, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Thiên Chúa đã quá yêu thương nhân lọai. Chúng ta phải cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa qua Mầu Nhiệm Nhập Thể. Mục đích của Mầu Nhiệm Nhập Thể là để gánh tội lỗi và mang Ơn Cứu Độ cho con người. Không có Mầu Nhiệm Nhập Thể, con người sẽ chết trong tội.
– Món quà Giáng Sinh quí giá nhất Thiên Chúa ban cho chúng ta là chính Chúa Giêsu; qua Người Con này, chúng ta sẽ không thiếu bất cứ ân huệ cần thiết nào của cuộc sống. Chúng ta phải đáp trả lại tình yêu Thiên Chúa bằng cách làm sao cho có và giữ được Chúa Giêsu trong cuộc đời.
– Ơn Cứu Độ phải trở thành đích điểm cho cuộc sống. Chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính, và đạo đức ở thế gian này.
– Thiên Chúa là Chủ Tể của vũ trụ, mà lại chọn sinh ra trong cảnh khó nghèo để dạy chúng ta một bài học: Sống đơn giản và nghèo khó làm chúng ta dễ dàng trông cậy vào Thiên Chúa và nhận ra những nhu cầu của tha nhân hơn.
– Mong sao cho Tin Mừng Giáng Sinh hôm nay giải thóat các gia đình chúng ta ra khỏi vùng bóng tối sự chết, và đưa chúng ta vào miền ánh sáng, bình an, và hoan lạc.

LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP

Solemnity of the Nativity of the Lord (Christmas) Mass at Midnight
Viết bởi Lan Hương

Reading 1: (Isa 9:1-6)
The people who walked in darkness
have seen a great light;
upon those who dwelt in the land of gloom
a light has shone.
You have brought them abundant joy
and great rejoicing,
as they rejoice before you as at the harvest,
as people make merry when dividing spoils.
For the yoke that burdened them,
the pole on their shoulder,
and the rod of their taskmaster
you have smashed, as on the day of Midian.
For every boot that tramped in battle,
every cloak rolled in blood,
will be burned as fuel for flames.
For a child is born to us, a son is given us;
upon his shoulder dominion rests.
They name him Wonder-Counselor, God-Hero,
Father-Forever, Prince of Peace.
His dominion is vast
and forever peaceful,
from David’s throne, and over his kingdom,
which he confirms and sustains
by judgment and justice,
both now and forever.
The zeal of the LORD of hosts will do this!

Reading 2: (Tit 3:4-7)
Beloved:
The grace of God has appeared, saving all
and training us to reject godless ways and worldly desires and to live temperately, justly, and devoutly in this age,
as we await the blessed hope,
the appearance of the glory of our great God
and savior Jesus Christ,
who gave himself for us to deliver us from all lawlessness
and to cleanse for himself a people as his own,
eager to do what is good.

Gospel: (Lk 2:1-14)
In those days a decree went out from Caesar Augustus
that the whole world should be enrolled.
This was the first enrollment,
when Quirinius was governor of Syria.
So all went to be enrolled, each to his own town.
And Joseph too went up from Galilee from the town of Nazareth
to Judea, to the city of David that is called Bethlehem,
because he was of the house and family of David,
to be enrolled with Mary, his betrothed, who was with child.
While they were there,
the time came for her to have her child,
and she gave birth to her firstborn son.
She wrapped him in swaddling clothes and laid him in a manger,
because there was no room for them in the inn.

Now there were shepherds in that region living in the fields
and keeping the night watch over their flock.
The angel of the Lord appeared to them
and the glory of the Lord shone around them,
and they were struck with great fear.
The angel said to them,
“Do not be afraid;
for behold, I proclaim to you good news of great joy
that will be for all the people.
For today in the city of David
a savior has been born for you who is Christ and Lord.
And this will be a sign for you:
you will find an infant wrapped in swaddling clothes
and lying in a manger.”
And suddenly there was a multitude of the heavenly host with the angel,
praising God and saying:
“Glory to God in the highest
and on earth peace to those on whom his favor rests.”
________________________________________
Written by: Fr. Anthony Dinh M. Tien, O.P.

I. THEME: The Christmas’ Good New is God’s love.
A 93 years old man who was regarded as a successful person in society, had many possessions and the total about 100 children, grandchildren and great grandchildren. When he looked back at his family’s past and meditated about his family’s future, he sadly concluded: “Hard-working all life long leads me to no where. I am financially stable but I failed to educate my family according to the Lord’s way. Some of them had broken family, some lived far away from God. Many times I advised them to come back but they didn’t listen. If God doesn’t interfere, I don’t know how many of my family’s members shall be with Him in the next life.” It is fortunate for him to recognize the darkness was covering his family; but how can he bring his family back to God?
The elder’s situation might also be our family’s situation. When we were fortunate to settle down in a prosperous country, we blindly emerged ourselves in it by working long hours to earn money for living, without a second thought about damages of the capitalism. Many parents sacrificed themselves for their children by working two jobs, with the hope that their children will be successful in education, and when they find good jobs they shall support them back as they have supported them. After more than 30 years of struggling in the foreign land, many parents now had a chance to evaluate their efforts. They probably draw the same conclusion as the elder: their family is financially stable; but their chidren are living far away from God and them. Their chidren became doctors, dentists, pharmacists, lawyers; they made lots of money but never think about paying back to parents. Worse of all, they don’t pay attention to their teaching any more and many times were irritated when they repeated. Many of us also drew the same conclusion as the elder’s: Sacrificing our whole life to receive an underired result!
The question many of us asked: What did we do wrong? How can we save ourselves and our family from this culture of death? The simple answer is we didn’t love and worship God above all things. We overestimated the importance of material things by putting our whole effort in making money and forgot God’s warning: “You can’t serve both God and mammon” (Mt 6:24; Lk 16:13). We didn’t pay attention to the building up of our spiritual life, our relationship with God, but only to eating, drinking and making merry. We forgot God’s warning: “Man shall not live by bread alone, but by every word that proceeds from the mouth of God” (Mt 4:4). We ran after and worshipped worldly values such as fame, power, pleasure; and forgot about God’s warning: “You shall worship the Lord your God and him only shall you serve” (Mt 4:10).
In a word, we didn’t live according to what God wants; but lived exactly what the devil tempted Christ. If we, leaders and parents, didn’t live according to God’s teaching, how can we wish that our children shall live according to God’s standard? If we didn’t teach our children to fear the Lord and our family didn’t live according to God’s ways; we shall live according to the modern standards: selfish, materialism and pleasure seeking.
Tonight readings provide hope for us. In the first reading, the prophet Isaiah showed us the benefits when people possessed the Messiah: He is the light that shines over those who are living in the darkness of death. He liberates people from slavery for sins. He bestows on people wisdom, strength, love and peace. In the second reading, St. Paul taught Titus, his disciple that the grace of salvation teaches us to renounce immoral life and worldly passion in order to live righteous and pious in this world. Jesus Christ sacrificed himself to save us from all sins and purified us to become his people, a people who are eager to do good things. In the Gospel, the Christmas Good New was announced to human beings: The Son of God was incarnated and born in a manger of a stony cave. The shepherds were the first people to hear the Good New by angels and to recognize their salvation.
II. ANALYSIS:
1/ Reading I: Salvation is achieved by the Son.
1.1/ The difference between those who have and don’t have the Messiah: Starting with the first Sunday of Advent, the Church asked us to meditate to recognize the difference between those who have and those who don’t have God. Tonite, the prophet Isaiah also invited us to examine ourselves to recognize our situation and the necessary of the Messiah in our life. Isaiah gave us two situations:
(1) Light and darkness: “The people who walked in darkness have seen a great light; those who dwelt in a land of deep darkness, on them has light shined.” The Jewish situation at the prophet’s time and human situation before the Messiah’s coming are completely pessimistic and hopeless. The Northern and Southern kingdoms are about to be destroyed by the Assyrians and the Babylonians and all people shall be on exile. People were surrounded by the darkness of the ignorance of God, they didn’t know how to do good and sins were multiplied. The most danger of living in darkness is people were going to die.
It is fortunate for the Jews and for humanity because God has given them a light which is His only Son. This light shall help people to see and to understand God’s mysteries, especially he shall bring salvation for people by bestowing on them the eternal life.
(2) Joy and suffering: The prophet connected light with joy and darkness with suffering, he said: “Thou hast multiplied the nation, thou hast increased its joy; they rejoice before thee as with joy at the harvest, as men rejoice when they divide the spoil.For every boot of the tramping warrior in battle tumult and every garment rolled in blood will be burned as fuel for the fire.”
We can sympathize with the Israelite’s sufferings on exile: they lost their country, their family were broken up, the Temple and God’s presence were no longer existed, impoverished life, maltreatment by enemies… All these sufferings will be taken away when God liberates them and let them return to their country to re-establish their country and to rebuild the Temple. This is only possible by God alone, not by human effort. The prophet reminded people of Midian victory when God wanted Gideon the leader to sent his soldiers home; lest them think the victory was caused by their military forces.
God increases the nations and the joy by announcing the Good New to the Gentiles so that they can also inherit His salvation. Both the Jews and the Gentiles didn’t do anything to be deserved of salvation because all have sinned. The cause of their salvation is completely from God.
1.2/ The Messiah’s titles: “For to us a child is born, to us a son is given; and the government will be upon his shoulder, and his name will be called “Wonderful Counselor, Mighty God, Everlasting Father, and Prince of Peace.” Name is the person; we need to understand these titles in order to wish to have God’s Son in our life.
(1) Wonderful Counselor: A counselor must be wise, he must see what others cannot see. This Son is the Wonderful Counselor for men because he has God’s wisdom; he can counsel for all and needs no one to be his counselor. If we have such a counselor in life, we shall have no fear of anyone.
(2) Mighty God: Even he has a form of a weak human being, but God’s immense power is hidden in him. This Son can do all things, and nothing is impossible to him. If we have him in our life, he shall help us to achieve all.
(3) Everlasting Father: The father’s nature is to love, to educate and to care for children. This Son is God Himself, the Everlasting Father of human beings. By incarnation, he continues to love, to educate and to care for every human being. In the Old Testament, God used prophets to teach His people; in the New Testament, God Himself teaches His people.
(4) Prince of Peace: To have peace, a leader must love peace and has ability to bring forth peace. This Son has ability to reconcile people to God and people to people. Only when we have this Prince of Peace, we truly have peace.

1.3/ The Messiah’s age: “Of the increase of his government and of peace there will be no end, upon the throne of David, and over his kingdom, to establish it, and to uphold it with justice and with righteousness from this time forth and for evermore. The zeal of the LORD of hosts will do this.”
While worldly kings and leaders increase their power through war, the Son increases his kingdom by peace. We can see this point through the Church’s development: the number of the faithful in the Catholic Church is increased every year, not through war, but by the proclamation of the Good News and the Holy Spirit’s transformation of human minds and hearts. The more worldly kings and leaders persecuted the Church, the more is number of the faithful increased. The kingdom of God is no longer limited in Israel but spread out to all nations in the world.
The prophet Isaiah connected David’s with the Son’s kingship. As God promises with the forefathers and prophets, the kingship in David’s lineage shall remain for ever. This promise can only be achieved by the Son who was born in David’s lineage. He shall keep the kingship in David’s house for ever because he lives for ever.
While worldly kings and leaders confirm their kingship by force and oppression, the Son confirms his kingship by justice and righteouness. Oppression and force can only keep people in line for a short time; but justice and righteousness shall attract them for ever (Lk 1:32-33).
The main agent of the increase is God and His eager love, not by human virtue, talent or strength. God loves the world so much that He gives His only Son (Jn 3:16); and in this Son, all of God’s promises to human were fulfilled.
2/ Reading II: Salvation must change the faithful’s moral life.
2.1/ Salvation helps people how to live: People do everything for a purpose. When Christians clearly know the purpose of life is “awaiting our blessed hope, the appearing of the glory of our great God and Savior Jesus Christ;” they must correspondently prepare for that day. St. Paul advised the faithful: (1) Negatively, they must renounce irreligious life and worldly passion; because this way of life prevent the faithful to reach the ultimate goal of their life. (2) Positively, they must live temperately, righteously, and piously in this world. These virtues shall help them to reach their ultimate goal.
2.2/ Salvation shall liberate people: By incarnation, Christ sets people free: (1) Negatively, he sets people free from sins. (2) Positively, he transforms them to the kind of people who eagerly do good things. Because of this, people are deservely called God’s people.
3/ Gospel: For to you is born this day in the city of David a Savior, who is Christ the Lord.
3.1/ The Messiah’s birth: Not like other events of Jesus’ life, the Messiah’s birth was briefly reported only by Luke as follows: “In those days a decree went out from Caesar Augustus that all the world should be enrolled.This was the first enrollment, when Quirinius was governor of Syria.And all went to be enrolled, each to his own city.And Joseph also went up from Galilee, from the city of Nazareth, to Judea, to the city of David, which is called Bethlehem, because he was of the house and lineage of David,to be enrolled with Mary, his betrothed, who was with child.And while they were there, the time came for her to be delivered.And she gave birth to her first-born son and wrapped him in swaddling cloths, and laid him in a manger, because there was no place for them in the inn.”
The distance from Nazareth to Bethlehem is about 80 miles, and the transportation at that time are either by walking or riding animals. Bethlehem is very cold in winter because it is the shepherds’ field and only a few miles from Jerusalem. It has many caves which merge deep underground and still exist today. These caves are ideal places for shepherds because they can keep their sheep safely inside and avoid cold weather.
3.2/ The angel announced the Good New to shepherds.
Shepherds are also called Bedouins, still remain in Israel today. They don’t like to settle in a city or to live in a certain place; but to wander around everywhere with their flock; wherever they can find green pasture and water, they shall live there until grass and water are run out. They are despised by the Jews because they are dirty and can’t fulfill purified laws.
Why were the shepherds first people to know the birthday of the Infant Jesus? To answer this question, we need to reverse the question and to ask: Who shall be the people that easily welcome the Chistmas Good New in this situation?
We learn from the first Beatitude which said: “Blessed are the poor because the kingdom of God is theirs.” God chose for His Son to be born in a poor manger, not in a royal palace. He wanted His Son to experiment the most lowly situation of human life. Because Jesus was born in such poor condition, only the poor shepherds could recognize and sympathize because the child was in their same situation. Moreover, the poor (anawim) are those who put their trust in God, not in themselves or in any power; therefore, they were more ready to welcome the Christmas Good New. The song of the heavenly host praising God and saying,”Glory to God in the highest, and on earth peace among men with whom he is pleased!” also confirms this explanation. God has compassion and cares for the poor.
The Good New was announced for the shepherds as follows: “Be not afraid; for behold, I bring you good news of a great joy which will come to all the people;for to you is born this day in the city of David a Savior, who is Christ the Lord.And this will be a sign for you: you will find a babe wrapped in swaddling cloths and lying in a manger.” They believed in the angel and started immediately on the road to looking for the child. They found and worshipped him.

III. APPLICATION IN LIFE:
– God so loves the world. We must feel His love for us through the mystery of Incarnation. The purpose of this mystery is to wipe out human sins and to bring salvation to humankind; without this mystery, people shall die in their sins.
– The most precious gift that God could give us is Jesus. Through His Son, we are lacking nothing in our earthly life. We must respond to God’s love by having Jesus and keeping him with us all the days of our life.
– Salvation must become the ultimate goal of our life. We must renounce the immoral life and worldly passion, and live temperately, righteously and piously in this world.
– God is the Lord of heaven and earth. He chose to be born in poor condition is to teach us a lesson: By living a simple life, we are easily to rely on God and to recognize others’ needs.
– We wish the Christmas Good New shall liberate our family from the darkness of death and lead us to the area of light, peace and joy. Come! Lord Jesus.