SUY NIỆM CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Is. 25, 6-10a; Pl. 4, 12-14.19-20; Mt. 22, 1-14
MỤC LỤC
1. Tiệc cưới hoàng tử – ViKiNi 4
2. Làm việc lành 8
3. Chiếc áo cưới 10
4. Chuẩn bị sẵn sàng y phục lễ cưới – Huệ Minh 12
5. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang 20
6. Lời mời gọi 24
7. Thiên Chúa mời nhưng con người tự do 26
8. Đại tiệc thiên quốc – AM Trần Bình An 29
9. Suy niệm của Lm. Carôlô Hổ Bặc Xái 34
10. Dụ ngôn tiệc cưới – R. Veritas 41
11. Mặc lấy Chúa Kitô – Lm. Ignatiô Trần Ngà 44
12. Lời mời dự tiệc 47
13. Tiệc cưới Nước Trời – Thiên Phúc 51
14. Chúa mời dự tiệc Nước Trời 55
15. Mời hết vào tiệc cưới – Lm. Trầm Phúc 62
16. Cần một tấm lòng 66
17. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 70
18. Nếu cuộc sống thiếu tình yêu? 79
19. Ăn Bánh Trường Sinh 83
20. Tiệc cưới, áo cưới – Radio Veritas Asia 86
21. Y phục tiệc cưới 88
22. Tiệc cưới đã sẵn sàng 91
23. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 95
24. Tiệc mừng – Lm. Giuse Trần Việt Hùng 99
25. Y phục xứng kỳ đức 104
26. “Những kẻ được mời không xứng đáng” 110
27. Sinh ra dưới một ngôi sao xấu – JB. Lê Ngọc Dũng 113
28. Hân hạnh vì được mời dự tiệc Nước Trời 117
29. Tiệc cưới với bốn nghịch thường 123
30. Mời quí vị đến dự tiệc cưới – Lm Fx. Đỗ Công Minh 127
31. Tính “ích kỷ” trong hai bữa ăn 130
32. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành 135
33. Ăn cưới và y phục lễ cưới 140
34. Tiệc cưới và y phục tiệc cưới – Anmai, CSsR 143
35. Suy niệm của Lm. Anthony Đinh Minh Tiên 148
36. Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng 154
37. Chúa Nhật 28 TN A 159
38. Tiệc cưới 163
39. Mặc áo cưới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 165
40. Không mặc y phục lễ cưới 168
41. Áo cưới – Achille Degeest. 171
42. Chấp nhận lời mời dự tiệc Nước Trời 173
43. Hãy đến dự tiệc cưới – Charles E. Miller. 176
44. Đám cưới vĩ đại 179
45. Lời mời gọi của Thiên Chúa 182
46. Dự tiệc – Lm. Vũ Đình Tường 184
47. Lửa mến – Lm. Vũ Đình Tường 187
48. Không có gì vui hơn tiệc cưới 190
49. Những người được chọn và được gọi. 192
50. Lễ cưới Nước Trời – P. Trần Đình Phan Tiến 195
51. Tiệc cưới hoàng tử 200
52. Tiệc cưới 202
53. Hãy mặc áo cưới – JM. Lam Thy ĐVD. 206
54. Áo cưới 210
55. Tiệc Nước Trời 214
56. Áo cưới 216
57. Phòng tiệc Nước Trời 218
58. Tiệc cưới & Y phục lễ cưới 220
59. Joe mời Bill 224
60. Cách đáp trả 226
61. San sẻ niềm vui 229
62. Dụ ngôn tiệc cưới – JKN 232
63. Suy niệm của Lm. Luy Hữu Độ, CRM 238
64. Suy niệm của Lm Nguyễn Tiến Huân 240
65. Dự tiệc cưới Nước Trời 242
66. Dự tiệc miễn phí 252
67. Mời vào dự tiệc cưới – Lm Thu Băng 254
68. Gọi nhiều, chọn ít – Lm. Minh Vận 256
69. Tiệc cưới – Thiện Mỹ 259
70. Dụ ngôn tiệc cưới và áo cưới 262
71. Dụ ngôn tiệc cưới hoàng gia 268
72. Suy niệm của Noel Quession 281
73. Dụ ngôn tiệc cưới – Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 287
74. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển 293
75. Suy niệm của Lm. Đan Vinh 298
76. Suy niệm Lời Chúa các ngày trong tuần 28 TN 309
1. Tiệc cưới hoàng tử – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Tiệc cưới nào cũng được gia đình tổ chức hết sức trang trọng theo khả năng của mình. Tiệc cưới hoàng tử càng biểu lộ vinh quang trang trọng của cả nước. Ngày 03/04/1985 (?). Hoàng hậu Elizabeth Anh quốc, đã mở tiệc cưới hoàng tử Charles đẹp duyên cùng công nương Diana. Khách mời là những vua chúa, Hoàng hậu, Tổng thống, Thủ tướng của hơn hai chục nước trong Liên hiệp Anh. Những hoàng tử của các nước xa xôi ngoài Liên hiệp cũng được mời dự tiệc cưới, như hoàng tử Nhật. Ai được mời đều lấy làm hết sức vinh dự. Cho nên, không ai từ chối, mà còn mong ước chóng được tới dự.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh tiệc cưới hoàng tử để nói về vinh quang, vui mừng và hạnh phúc vô cùng của nước Trời. Nhưng những khách được mời ưu tiên thì lại từ chối, không đếm xỉa tới những ân huệ vinh quang Thiên Chúa ban. Họ còn có những thái độ khinh bỉ ngạo mạn coi tiệc cưới hoàng tử không bằng đi thăm trại súc vật, không bằng đi buôn bán lặt vặt; kinh khủng hơn nữa, dám bắt các đại diện của vua đi mời xỉ nhục và giết chết.
Khi so sánh khách dự tiệc cưới của con vua dưới đất với khách được mời dự tiệc con vua nước Trời như vậy, Chúa Giêsu thấy một cảnh trái ngược, thật chua xót biết bao!
Những hạng người từ chối dự tiệc nước Trời vì những lối sống sau đây:
Lối sống thứ nhất là đi thăm trại: Một công việc quá tầm thường. Họ không phải chăn nuôi, chăm sóc, cầy cấy như các đầy tớ. Họ là những ông chủ, nhàn rỗi, lúc nào đến xem xét, thăm nom tùy ý thôi. Thế mà họ dám coi thường tiệc cưới hoàng tử trọng đại của nhà vua. Mấy khi trong đời ai có dịp vinh phúc như thế! Phải chăng khi nói đến hạng người này, Đức Giêsu buồn lòng về những ông chủ đứng đầu đạo đời dân Do thái. Họ những thành phần địa vị cao cấp ưu tuyển, lại đi làm những việc sai trái, bỏ bổn phận cao trọng đối với Thiên Chúa và những nhiệm vụ quan trọng đối với dân nước. Họ chỉ lo tìm tư lợi cá nhân để vinh thân phì gia. Họ coi trời bằng vung, không còn biết Đấng trên đầu mình nữa.
Lối sống thứ hai là đi buôn: Một công việc kiếm lời nhặt lãi. Họ mê man kiếm tiền của, tham lam vơ vét, cạnh tranh, giành giựt nhau từng đồng bạc, từng tấc đất, từng bát gạo, từng bó rau, từng ly rượu, từng điếu thuốc, từng số đề, số đuôi. Thật bần tiện, bủn xỉn, họ chẳng cần tình nghĩa cao đẹp, dầu là tình nghĩa với nhà vua, với Thiên Chúa. Phải chăng đó là lối sống của dân Do thái, của ích kỷ, hà tiện, không có lòng bác ái, chỉ biết bo bo lấy mình, họ kỳ thị loại trừ những ai không phải là đồng đạo, đồng bào. Hạng người đó không thể được ngồi chung với muôn dân trong nước Trời.
Lối sống thứ ba là bắt bớ, xỉ nhục và giết người vô tội. Những đầy tớ của vua sai đi mời thật tử tế, là những kẻ vô tội, chỉ lo làm bổn phận mình đem ân huệ đến cho họ, thế mà bị họ bắt bớ, xỉ nhục, giết đi. Họ chẳng biết thương yêu, tử tế là gì! Họ không còn biết ai là người lành. Họ quá chai đá với những cảnh căm thù, phá hoại, sát nhân. Bao nhiêu trẻ thơ vô tội, dân lành bị họ bắt làm bia đỡ đạn cho những tham vọng cướp ngôi, cướp quyền. Bao nhiêu những tiên tri, những thánh nhân tử đạo do những hạng đầu óc hẹp hòi, mù quáng, độc tài. Họ là những Hêrôđê bố, Hêrôđê con đã giết hài nhi vô tội, giết Gioan tẩy giả. Họ là những thượng tế Anna và Caipha, những luật sĩ và biệt phái. Những Philatô, Giuda và quân dữ đã cả gan nhúng tay vào giết Con Một Thiên Chúa.
Lối sống thứ bốn là không mặc áo cưới: Thuần phong mỹ tục coi lễ cưới là ngày lễ trọng đại của gia đình, tất nhiên có nghi thức long trọng với những trang phục đẹp đẽ chỉnh tề. Những hạng người bê bối thô lỗ tục tằn, vô lễ, vô kỷ luật đều bị loại bỏ vì nó bôi nhọ nếp sống văn hóa trong sáng và đạo đức thanh nhã. Nêu ra hạng người này, chắc hẳn thánh Matthêu đã thấy cảnh những Kitô hữu bất chính, theo đạo kiếm gạo mà ăn chứ không sống theo thánh ý Chúa. Thánh Phaolô đã thấy cái cảnh đó trong giáo đoàn Côrintô: Những phụ nữ đến cầu nguyện hoặc nói tiên tri ăn mặc bất xứng không theo truyền thống (1Cr. 11,15). Những tín hữu đến dự tiệc Chúa ăn uống say sưa, khinh dể, vô phép với cộng đoàn Hội thánh của Chúa, làm nhục kẻ nghèo. “Vì thế bất cứ ai ăn bánh hay uống chén của Chúa cách bất xứng, thì phạm đến Mình và Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình… để khỏi bị án phạt” (1Cr. 11, 21-22 và 27-29, 34)
Tất cả những hạng người có những lối sống như trên đều bị “Nhà vua sai quân đến tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng. Rồi nhà vua bảo gia nhân ra các ngã đường, gặp ai mời tất cả vào tiệc cưới” (Mt. 22, 7-9).
Theo phong tục của nhiều dân tộc xưa, tiệc cưới hoàng tử chẳng những các đại thần được ưu tiên mời, mà còn tất cả thần dân đều được hưởng lộc của nhà vua. Tiệc cưới hoàng tử nước Trời chẳng những ưu tiên cho dân tộc Do thái, mà còn cho toàn thể muôn dân, vì toàn thể nhân loại đều là thần dân của Ngài. Như tiên tri Isaia đã loan báo: “Chúa tể trời đất sẽ thiết tiệc đãi muôn dân” (Is. 25, 6).
Vua trời đất đã mời mọi người chúng ta vào nước Trời, không phải bốn năm lần mà trăm ngàn lần, từ xưa đến nay. Không phải chỉ có đầy tớ như tiên tri, tông đồ, Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục mà còn chính Con Một Thiên Chúa giáng trần chịu chết tế lễ lấy Thịt Máu châu báu mình đến mời chúng ta vào dự tiệc nước Trời. Chúng ta đáp lại lời mời diễm phúc đó bằng lối sống nào? Chúng ta lấy làm vinh phúc, khao khát, vui mừng, siêng năng đón nhận; hay như hạng khinh nhờn, thờ ơ, nguội lạnh khô khan, nổi loạn, vô kỷ luật, thì khốn cho chúng ta, sẽ có ngày bị tru diệt.
Lạy Chúa, xin cho con nhận biết rằng: Tiệc thánh nước Trời, không phải là thịt béo bò tơ, thú quý, rượu ngon nuôi thân xác tro tàn, mà là lời Chúa, Mình Máu Chúa, ơn cứu độ và tình thương vô bờ của Chúa nuôi tâm hồn con muôn đời. Nhờ đó, thánh Phaolô, dù sống trong tù ngục thiếu thốn vẫn thấy Chúa thỏa mãn mọi nhu cầu một cách tuyệt vời theo sự giàu sang của Người trong Đức Kitô Giêsu. Xin cho con biết sống mạnh mẽ như thánh Phaolô để tôn vinh Thiên Chúa là Cha chúng con đến muôn thuở muôn đời. Amen. (Phil. 4, 12. 14. 19-20)
2. Làm việc lành
Câu chuyện vừa nghe đối với chúng ta có phần nào khó hiểu.
Tại sao một ông vua làm tiệc cưới cho hoàng tử, mà các khách mời lại đồng loạt từ chối, không tới dự? Có thể là Chúa Giêsu đã sử dụng một câu chuyện có sẵn, đang được loan truyền trong dân gian. Câu chuyện ấy như thế này: Có một người thu thuế, nhờ làm mà ăn phất lên mau chóng, nên cũng muốn học làm sang, nên đã mở tiệc và cho mời đông đảo khách khứa. Vì không muốn để cho người thu thuế, vốn dĩ bị mọi người coi rẻ, lợi dụng sự hiện diện của mình tại nhà y để huênh hoang. Tất cả những người được mời đã nhất loạt từ chối không đến.
Chúa Giêsu đã từng cho thấy là Ngài không ngần ngại sử dụng những câu chuyện dân gian để cho chúng ta hiểu về thái độ của Thiên Chúa. Thực vậy, các khách được mời dự tiệc cưới, đã được thông báo nhắc nhở tới hai lần nhưng chẳng những đã không tới, mà có người lại còn hành hạ và giết cả những người được chủ sai đi mời. Như thế khách được mời đã không tới, chẳng phải vì quên hay vì bận việc khác, mà hoàn toàn vì ác ý. Hậu quả là họ đã bị trừng trị vì thái độ của họ.
Thay vào chỗ của họ là tất cả mọi người mà các đầy tớ của nhà vua có thể gặp được ở khắp cả ngã đường. Tất cả mọi người đều được mời không phân biệt người tốt kẻ xấu. Chúng ta có thể hiểu chi tiết này bằng hai cách: hoặc là trong Nước Trời, trước ngày phán xét, kẻ tốt người xấu lẫn lộn như cỏ lùng mọc chung với lúa tốt. Hoặc là Thiên Chúa qua lòng nhân lành của Ngài, đã mời gọi mọi người nhất là những kẻ tội lỗi vào dự tiệc mừng của Nước Trời.
Thế nhưng ám chỉ của dụ ngôn xem ra khá rõ. Vị vua làm tiệc cưới cho hoàng tử là Thiên Chúa, Đấng sẽ thực hiện chương trình cứu độ. Những người được mời trước là các thành phần của dân được tuyển chọn, nghĩa là người Do Thái. Nhưng họ đã khước từ lời mời gọi của các tiên tri và cuối cùng là của chính Chúa Giêsu. Những người được mời gọi lần thứ hai, từ khắp các ngã đường, tượng trưng cho mọi dân tộc, không phân biệt cũ mới, nguồn gốc. Như thế dụ ngôn cho thấy diễn tiến của chương trình cứu chuộc. Sự khước từ của người Do Thái đối với giáo huấn của Chúa Giêsu, việc những người tội lỗi và những người không phải là dân Do Thái được đón nhận Tin Mừng của Ngài là những dấu chỉ cho thấy thời cứu độ đang thực sự diễn ra.
Tuy nhiên, phần cuối của dụ ngôn, có thể là do cộng đoàn tiên khởi thêm vào, lại là một lời cảnh cáo đối với các tín hữu. Chiếc áo cưới mà những người dự tiệc phải mặc tượng trưng cho lòng tin, cho niềm vui, cho sự công chính, nghĩa là những việc lành luôn luôn được thánh Matthêu nói tới. Lời kêu gọi của Chúa không phải là không có những đòi hỏi. Chúng ta lãnh nhận ơn cứu độ từ tình thương của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa cũng đòi hỏi chúng ta phải sống ơn cứu độ đó bằng cách làm những công việc tốt lành, để nhờ đó chúng ta xứng đáng được Chúa cho vào tham dự bàn tiệc Nước Trời.
3. Chiếc áo cưới
Không ai biết đích xác được là con người đã bắt đầu biết may mặc từ thời nào, nhưng chắc chắn là rất xa xưa. Cái mặc đã đi theo cái ăn như là một trong hai cách thế hiện thân độc đáo của loài người, và ngay từ sớm, nó đã vượt ra ngoài cái ý nghĩa sở đẳng là một vật dụng để che thân cho kín đáo, cho ấm áp, hầu mang lấy những ý nghĩa khác có tính cách văn hoá, kinh tế, chính trị và tôn giáo.
Thực vậy, cái áo có thể cho chúng ta biết được giai cấp, địa vị, nghề nghiệp, và thậm chí đến cả tư cách và tính tình của một người. Người nông dân nghèo không ăn mặc như một cậu công tử thành phố. Ông quan không mặc như người lính, thầy tu không mặc như dân thường. Người con gái nết na kín đáo thì không thích ăn mặc hở hang khêu gợi. Người khiêm tốn không ăn mặc loè loẹt phô trương. Cái áo do đó có một vai trò, một ý nghĩa quan trọng trong đời sống con người. Vì thế mà Chúa Giêsu đã sử dụng nó như một hình ảnh để nói lên cái tư cách của một người công dân Nước Trời.
Bài Tin Mừng vừa nghe ghi lại hai dụ ngôn. Dụ ngôn tiệc cưới và dụ ngôn chiếc áo cưới. Hai dụ ngôn này, nguyên thuỷ có lẽ đã được Chúa Giêsu nói trong hai trường hợp riêng biệt, nhưng đã được Matthêu chắp lại thành một đề tài chung vì thấy có liên hệ với nhau.
Dụ ngôn thứ nhất ám chỉ dân Do Thái là dân hai lần được mời gọi tham dự tiệc cưới, nhưng họ đã từ chối và không những thế, họ còn sát hại những sứ giả của Thiên Chúa. Bởi đó cuối cùng, Ngài lại sai các sứ giả đi khắp các ngả đường để mời gọi tất cả mọi người, không phân biệt tốt xấu. Tuy nhiên lời mời gọi ấy đã được đưa ra với điều kiện là phải sám hối, phải hoán cải, phải đổi đời.
Sám hối, hoán cải hay đổi đời được diễn tả qua dụ ngôn chiếc áo cưới, là dụ ngôn thứ hai đã được ghi lại. Như chúng ta đã nói cái áo không phải chỉ là một đồ dùng để che thân mà còn là một trang phục, nghĩa là một phương tiện tô điểm, đánh giá con người, nói lên địa vị, nghề nghiệp cũng như tư cách của một con người. Đã hẳn tuyệt đối mà nói, cái áo không làm nên thầy tu, nhưng bình thường thì thầy tu vẫn có cái áo của thầy tu. Nhưng lính có cái áo của người lính hay ít ra thầy tu không được ăn mặc loè loẹt diêm dúa.
Ngoài ra cái áo còn là điều kiện để cho con người nhập cuộc với tha nhân: không ai ở trần và và mặc quần xà lỏn mà đi ăn đám cưới, trái lại không ai mặc bộ đồ vét mà lại đi hôi cá dưới ao.
Khi Chúa Giêsu dùng dụ ngôn chiếc áo cưới để nói về những điều kiện mà kẻ đón nhận Tin Mừng phải có để được vào Nước Trời, dĩ nhiên Ngài không muốn nói đến cái áo theo nghĩa thông thường mà là nói tới cái thái độ bên trong, tới những đức tính, hay nói đúng hơn đến cái tinh thần mà người đó phải có. Nói theo thánh Phaolô thì mặc áo cưới ở đây là mặc lấy con người mới được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Hay nói một cách mạnh mẽ hơn, đó là hãy mặc lấy Đức Kitô.
Mặc lấy Đức Kitô là mang những tâm tình của Ngài, là sống hiền từ và khiêm tốn, biết chia sẻ nỗi bất hạnh của người anhem, biết yêu thương cho đến cùng như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta và hiến mạng sống mình vì chúng ta.
Mặc lấy Đức Kitô là nên giống Ngài, đó là chiếc áo cưới mà tất cả những ai được nghe Tin Mừng và đón nhận lời mời vào Nước Chúa phải mặc lấy. Thế nhưng, có mấy ai trong chúng ta đã thực sự mặc lấy Đức Kitô như thế hay chưa?
4. Chuẩn bị sẵn sàng y phục lễ cưới – Huệ Minh
Kính thưa cộng đoàn,
Kỳ vừa rồi, có dịp đi ra Bà Rịa, thì đứng nói chuyện với một Sơ dòng Phaolo. Sau đó mới biết được Sơ là bạn của Tân giám mục phó Giáo Phận Đà Lạt. Thế là Sơ đưa ra những tấm hình, mà ngày xửa ngày xưa, thời Đức Cha và sơ còn nhỏ học chung ai cấp 2 cấp 3 với nhau. Mà bây giờ, bỗng nhiên người bạn của mình được thụ phong Giám Mục thì: bạn mời bạn, khăn gói quả mướp lên đường để mà đi dự lễ.
Có mấy người bạn bảo: Làm sao mà có thể chen được vào ngồi! Nhưng mà Sơ nói rằng: bạn mà! Thế là vui lắm! Đi dự lễ, không những dự lễ, mà còn ở lại dự tiệc nữa. Bởi vì, đó là ngày vui của bạn mình!
Và một cái câu chuyện hôm nay, Chúa Giêsu kể một cái dụ ngôn mà chúng ta thấy nó có cái gì đó nó mâu thuẫn. Thực sự ra, nó không có đúng trong thực tế đâu. Nhưng mà qua đó, Chúa lại mời gọi chúng ta suy nghĩ về vụ khác.
Cái chuyện là: Có một nhà vua kia, mở tiệc cưới cho con. Chỉ là một cái tiệc mà Tân giám mục, tân linh mục thôi! Bao nhiêu người trang điểm, phải chuẩn bị hành trang đi để mà dự lễ, để mà dự tiệc. Ấy vậy mà, tiệc cưới của nhà vua, con của nhà vua, vậy mà người ta khước từ, khách không tới!
Nó có cái gì đó, nó khó hiểu, nó mâu thuẫn, làm cho chúng ta suy nghĩ.
Nhưng mà, Chúa Giêsu muốn kể cái dụ ngôn này để mà nói với chúng ta về: Cái đời sống tôn giáo của chúng ta, về tương quan của chúng ta với Thiên Chúa như thế nào?
Nếu mà, chúng ta thật sự bận tâm với Thiên Chúa, chúng ta bận tâm với Nước Thiên Chúa: sẽ sẵn sàng và từ bỏ tất cả mọi sự, để mà chỉ đi tìm Nước Thiên Chúa mà thôi!
Có hai ông: một ông là thương gia, một ông là nhà sinh vật học đi dạo với nhau. (tức là đang đi dạo với nhau). Nhưng mà, bỗng nhiên cái nhà sinh vật học chạy vào cái bụi cây và bắt được cái con côn trùng. Ông cảm thấy vui, bởi vì, ông bắt được cái con ông cần bắt, để mà nghiên cứu.
Lại đi tiếp tục với nhau một quãng đường, thì cái ông thương gia cúi xuống, thì cái ông nhà nghiên cứu sinh vật học ngạc nhiên nói tại sao bạn mình dừng lại! Thì ra, nhà thương gia cúi xuống lượm được đồng tiền.
Bởi vì, chỉ cần một cái bóp nhỏ thôi! Ông nhận ra dưới chân của ông đó là tiền. Bởi vì sao?
Mỗi người có một cái mối bận tâm riêng của mình. Nhà nghiên cứu sinh vật học đó Chỉ cần nghe tiếng, hay chỉ cần nghe cái tiếng con vật mà mình đang nghiên cứu, thì biết nó đang ở đâu, và đi tới để mà tìm. Còn cái người thương gia, chỉ cần một cái đạp nhẹ thôi, biết ở dưới chân đó là có tiền.
Rõ ràng cuộc đời của chúng ta, một khi chúng ta bận tâm một cái điều gì đó! Thì chúng ta sẽ chăm chú, chúng ta sẽ đi tìm nó và tìm bằng mọi giá, chứ không thể nào mà không tìm được.
Thì Nước Trời cũng như thế, Chúng tôi cảm thấy nó là như thế nào trong cuộc đời của mình.
Thì có người chạy tới nói với con: Cha ơi, ngày xưa thì con đã đi theo chồng con. Con bỏ tất cả mọi sự, con học đạo, con đi theo chồng. Rồi con làm đám cưới, ban đầu thì cũng rất hạnh phúc lắm!
Sau đó rồi anh đánh đập con. Bây giờ anh bỏ con, không những bỏ con, anh còn đi lấy một người khác. Và anh bỏ người vợ đó! Giờ anh đi lấy người khác nữa!
Và bây giờ, Giáo Hội cảm thấy ràng buộc con, không cho con đi lấy chồng khác có nghĩa là sao? Lẽ ra Giáo Hội phải giải thoát cho con, phải mang đến niềm vui cho con! Nhưng tại sao, giáo hội lại ràng buộc con như thế!
Kính thưa Cộng đoàn khi mà người ta không hiểu người ta không đoán những cái luật của đời sống hôn nhân Công giáo thì họ cảm thấy bực mình và khó chịu lắm.
Và có một người kia, chạy đến nói với con: Cha ơi, cha cầu nguyện cho con! Bởi vì, kỳ này con sẽ thụ thai. Con sẽ thụ thai trong ống nghiệm, sẽ kiếm một đứa con. Bởi vì con không muốn lập gia đình, lập gia đình chán lắm! Hôm nay, người ta lập gia đình xong rồi, chồng con ăn ở lung tung hết, nên con muốn có một đứa con mà chỉ thụ tinh trong ống nghiệm.
Nghe xong thì thôi biết gì cầu nguyện bây giờ. Làm sao mà cầu nguyện được khi mà: Luật Giáo hội cấm không cho phép người phụ nữ có thai, nếu nhưkhông có quan hệ vợ chồng. Bởi vì, đối với Giáo Hội: đứa con chính là hoa quả của tình yêu, đứa con chính là hoa quả của đời sống hôn nhân, chứ không thể nào đơn phương mà có con được!
Và rồi khi người ta không cảm nhận được Tin Mừng, người ta sẽ cảm thấy Tin Mừng nó đắng đó! Như Lời Chúa, đôi khi con đọc Tin Mừng, con không dám nói gì cả! “khốn cho các ngươi là những đồ biệt phái và luật sĩ, như mồ mã tô vôi.”
Chúa nói những luật sĩ và biệt phái đó! nhưng man mác trong mình, cũng có đó: những luật sĩ và biệt phái. Mình không sống đúng những gì mà Chúa dạy! Nghe những lời đó mình cảm thấy đắng đót lắm! Và chính đời mình mình có bận tâm vào Nước Trời mình có bận tâm vào Thiên Chúa hay không?
Và rồi trong Tin Mừng đó! Chúng ta thấy, ngoài ra không những là không đi dự tiệc cưới mà còn giết tôi trai, tớ gái của Thiên Chúa nữa!
Mà điều đó có thật trong Kinh Thánh. Chúng ta thấy: tại sao mà Saulê, lẽ ra là phải yêu thương và quý mến Đavít, bởi vì Đavit là sứ giả của Thiên Chúa, được sai đến để cứu Ítraen.
Thế nhưng mà, khi Saulê thấy dân chúng ta ca tụng Đavít và cảm thấy ngai vàng của mình bị đe dọa. Bằng mọi cách Saulê đã khước từ cái tình nghĩa anh em mà giết hại bằng được David. Và cũng thế, chúng ta thấy Hêrôđê đã giết Gioan Tẩy giả, Gioan Tẩy giả như một người ngôn sứ mà Thiên Chúa sai đến! Để mà loan báo sự xuất hiện của Chúa Giêsu, cũng như Gioan Tẩy giả đã can đảm lên tiếng Hêrôđê. Bởi vì, Hêrôđê đã lấy vợ của anh mình. Nhưng vì ông không cảm nhận được Lời của Thiên Chúa, nên Hêrôđê đã tìm mọi cách chặt đầu Gioan Tẩy giả.
Chúng ta thấy đó, những con người ác đức là hiện thân cuộc đời của Chúa Giêsu, Chúa Giêsu không phải là một vị ngôn sứ mà là ngài là Con Thiên Chúa nhưng người ta cũng không đón nhận Chúa Giêsu trong tư cách là một ngôn sứ. Và hơn thế nữa, không đón nhận Ngài trong tư cách là Con Thiên Chúa.
Và nhìn vào cuộc sống ngày hôm nay chúng ta thấy, nhân loại người ta sát hại nhau rất là dễ dàng.
Người ta bận tâm vào Nước Trời thì người ta sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì không dính líu vào cuộc đời này. Khi mà mối bận tâm của họ trở thành niềm đam mê và dục vọng, thì họ sẵn sàng hủy diệt sứ giả của Thiên Chúa.
Khi đó họ không thấy cái tình thương của Thiên Chúa nơi cái luật: một vợ, một chồng. Nơi cái luật không có con ngoài cái chuyện quan hệ vợ chồng. Mà người ta chỉ thỏa mãn cái lòng dục của người ta và khi đấy cái nỗi bận tâm về vật chất, về hưởng lợi, về quyền lực nó lại làm mờ mắt chúng ta để chúng ta không còn bận tâm đi tìm cái đám cưới, chúng ta không đi tìm Nước Trời nữa.
Chúng ta không can đảm để đón nhận Chúa là Tin Mừng, Chúa là Đấng là Chủ tể cuộc đời chúng ta. Bởi vì, tất cả những ràng buộc của vật chất nó nặng nề, nó đã che lấp cuộc đời chúng ta.
Thế nhưng có điều đáng nói rằng: phần đông chúng ta, thì không phải là như thế đâu!
Bởi vì, chúng ta là những người đã được đón nhận Chúa, chúng ta thấy Chúa, chúng ta nghe Chúa, nhưng rồi chúng ta đã nhận lời mời, nhưng chúng ta không mặc y phục cho xứng đáng để mà dự tiệc cưới.
Có nhiều người đi lễ trang điểm rất đẹp, có nhiều hơn 2, 3 tiếng đồng hồ để đi lễ. Và đặc biệt, đi ăn cưới thôi, người ta trang điểm rất là lâu và đẹp
Nhưng mà rồi, chúng ta thấy cái phần 2 trong cái dụ ngôn này, phát hiện ra một người đi vào ăn cưới. Nhưng mà không y phục lễ cưới, để rồi bị đuổi ra ngoài, vì không mặt đúng y phục lễ cưới.
Về chuyện này ở người Do Thái thì họ có một cái, nghe kể lại là có một cái hành lang để mà treo áo, để mà vào dự tiệc thì họ mặc áo vào, để mà đi dự tiệc cưới.
Nhưng mà điều mâu thuẫn mà chúng ta thấy là chủ điểm ở đây là những người khách được mời, nhưng mà họ đi vào, họ đâu có chuẩn bị trước đâu.
Ví dụ như những người bán vé số, những người lao động ngoài đường khi mà được mời đi ăn đám cưới, họ đâu có chuẩn bị quần áo đâu để mà mặc mà chủ đi bắt họ để mà nhốt tù họ.
Chủ điểm ở đây mà chúng ta nhắn tới, để chúng ta hiểu được đó là: những người Do Thái bởi vì họ đã được nghe lời Chúa, họ đã được đón nhận lời Chúa đón nhận sự hiện diện của Chúa thế nhưng rồi họ đã khước từ, và rồi Chúa đã mời, Chúa đã sai Con Thiên Chúa làm người để cứu độ cho tất cả mọi người. Ơn cứu độ phổ quát cho mọi người, chứ không có dành riêng cho một người nào cả!
Nhưng mà chỉ có điều chúng ta quan tâm đó là khi vào dự tiệc cưới, chúng ta phải mặc cái lễ phục của tiệc cưới đó, không phải là cái quần là áo lụa bên ngoài mà đó chính là cái trang phục nội tâm của mọi người chúng ta. Trang phục nội tâm mà mỗi người chúng ta có đó, khi mà chúng ta lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy.
Thì nói tới đây mà xét cho cùng mà nghiên cứu đã cho thấy ở bên sông Giođan, nó có cái hay lắm! Người ta đi rửa tội ngay tại sông Giođan, và người ta bước xuống dòng sông Giođan với quần áo cũ và khi lên dìm mình ở trong cái dòng sông Giođan, bước lên thì: cha mới thay cho họ, một cái y phục mới. Một cái y phục trắng tinh, một cái y phục rất là đẹp! Nó giống như cái y phục lễ cưới, mà như chúng ta đã lãnh nhận từ ngày chúng ta nhận bí tích rửa tội.
Thế nhưng rồi nhiều khi chúng ta vô tình, chúng ta không có bận tâm, chúng ta không có chú ý. Nhiều khi cái áo mà chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội cách đây 2,30 năm, 40 năm. Bây giờ nó vàng, nó ngà mà nhiều khi nó đen nữa.
Bởi vì, cái lòng của chúng ta nó không còn trong trắng như ngày xưa!
Và khi ấy, chúng ta không có đủ để xứng đáng để đi vào dự tiệc cưới và khi chúng ta được mời gọi rằng chúng ta có một y phục lễ cưới.
Chúng ta thấy quần áo mà chúng ta cần giặt, thì chúng ta phải cởi bỏ cái áo cũ và chúng ta lấy cái áo cũ đó đi giặt.
Cũng vậy, những cái đam mê, tính hư, nết xấu, những cái ý tưởng xấu trong con người chúng ta. Nếu chúng ta can đảm, chúng ta tin nhận Chúa là Chúa đời ta, chúng ta cảm nhận Tin Mừng là Tin Mừng, thì tất cả những gì mà lột bỏ nơi chúng ta, là chua xót đó: tính hư, nết xấu.
Có nhiều khi: chúng ta bỏ đi một ý tưởng xấu không phải dễ, chúng ta bỏ đi một cái hành vi xấu không phải dễ đâu! Nhưng nếu, chúng ta cảm nhận được Nước Trời là cùng đích của cuộc đời chúng ta, chúng ta cảm thấy được là chúng ta phải cần có một cái bộ y phục lễ cưới!
Đi ra ngoài đi mua 5, 7 triệu bạc, 20 triệu, có người mặc bộ đồ 3, 400 triệu như là các minh tinh màn bạc. Chúa không bắt chúng ta phải mặc những quần là, áo lụa đó! Nhưng Chúa mời gọi mỗi người chúng ta, có y phục trong tâm hồn: phải trắng, phải xứng hợp với tiệc cưới Nước Trời.
Cái y phục đó là gì? Y phục đó là tình yêu thương, đó là lòng bác ái, đó là sự vị tha.
Chúa mời gọi mỗi người chúng ta, ngày mỗi ngày, trước khi đi ngủ, chúng ta đặt mình trước mặt Chúa. trước khi nhắm mắt.
Xin Chúa thanh tẩy lòng chúng ta, xin Chúa tha thứ cho chúng ta. Và đặc biệt xin Chúa cho chúng ta mau chạy đến với bí tích Hòa Giải, nơi Bí tích Hòa Giải chúng ta được dìm mình trong Chúa. Và chúng ta được thanh tẩy, để tâm hồn chúng ta trắng.
Cuộc đời này không biết ngày nào chúng ta ra đi. Ngày nào mà chúng ta ra đi chính là ngày mà chúng ta được mời vào dự tiệc cưới. Và khi đó, Chúa lại hỏi chúng ta, chúng ta có mặc trang phục lễ cưới, hay là chúng ta mặc một cái bộ đồ bẩn thỉu vào dự tiệc cưới!
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, để ngày mỗi ngày, chúng ta biết thanh luyện tâm hồn chúng ta luôn luôn mặc lấy một lấy chiếc áo trắng, áo mới, mà ngày chúng ta lãnh Bí tích Thanh Tẩy. Để chúng ta đón Chúa, để chúng ta được vào dự tiệc cưới Nước Trời như Chúa mời gọi chúng ta. Amen.
5. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang
MẶC CHIẾC ÁO CƯỚI TRONG NGÀY RỬA TỘI
Dụ ngôn Chúa Giêsu kể hôm nay có nhiều chi tiết mới nghe chúng ta thấy không hợp lý cho lắm? Thứ nhất, giả như bây giờ chúng ta được ông chủ tịch quận hay huyện mời dự đám cưới con của ông, mình có đi không? Phải đi chứ, vinh hạnh lắm! Đàng này trong Tin Mừng kể ông vua mời, tại sao những khách mời không thèm đếm xỉa tới lời mời, rồi còn đồng loạt từ chối không đi, tại sao? Thứ hai, lý do họ từ chối không đi: kẻ thì đi thăm trại, đi buôn, kẻ khác đi cày đi cấy… đó là những lý do chính đáng mà vì họ là những người nông dân lao động kiếm miếng cơm manh áo thường ngày, bỏ cày bỏ cấy lấy gì ma nuôi gia đình. Chi tiết thứ ba là vua mời mà không đi thì thôi tại sao họ bắt bớ các giết sứ giả của vua đem thiệp mời đến, phi lý quá? Chi tiết cuối cùng, khi những khách được mời không tới, nhà vua bảo đầy tớ ra ngoài đường mời hết mọi người bất luận giàu nghèo, tốt xấu, người lang thang và cả kẻ ăn xin vào tiệc cưới. Đương nhiên, những người này làm gì có áo đẹp, mà hơn nữa bất thình lình thì lấy gì có y phục lễ cưới mặc kịp, thế thì tại sao vua phạt anh không mặc y phục lễ cưới, nghịch lý nhỉ?
Chúa Giêsu kể dụ ngôn này nghe thì nghịch lý đó nhưng quy chiếu về lịch sử ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho con người đúng y như vậy. Cụ thể, ông vua trong dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn nói đến dung mạo Thiên Chúa yêu thương con người tha thiết đến cỡ nào, 5 lần 7 lượt mời con người hiệp thông với Ngài, vào Nước của Ngài mà hưởng hạnh phúc vui vẻ đời đời, ấy vậy, con người một mực chối từ.
Vâng, Thiên Chúa mở tiệc cưới cho Con của Ngài là Chúa Giêsu, nhưng cưới ai? Cưới cả nhân loại. Sách Sáng Thế kể “Người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ mình mà luyến ái với vợ mình và cả hai nên một thân xác” (St 2,24). Còn Chúa Giêsu đã lìa bỏ Cha của mình trên trời cao để kết hợp với nhân loại nên một thân xác. Với đám cưới này, Thiên Chúa mời cả dân Do thái trước hết đến dự tiệc cưới, nhưng họ chối từ. Thiên Chúa sai ngôn sứ đến, họ cũng chối từ, rồi giết chết. Cuối cùng vị vua đó nổi cơn thịnh nộ chu triệt thành phố của họ. Matthêu có ý nói đên biến cố năm 70 năm khi đế quốc Rôma đem quân sang xâm chiếm thành Giêrusalem đã phá huỷ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Từ đó, Dân Do thái trở thành một dân tộc không có quê hương suốt 19 thế kỷ.
Sau đó, Thiên Chúa sai các ngôn sứ đi ra mọi ngã đường của thế giới không còn trong nước Palestina nữa mà đến với các nước Ai Cập, Nước Iran, Iraq… trong đó có Việt nam để mời tất cả nhân loại vào dự tiệc cưới. Giờ đây, Bàn tiệc cưới của Giáo Hội là bàn tiệc Thánh Thể, được Chúa Ki-tô khai mạc với các Tông Đồ trong bữa tiệc ly (Mt 26, 26- 29) và luôn được tái diễn từ ngày Hiện Xuống trong Giáo Hội sơ khai (Cv 2, 42) cũng như trong các cộng đoàn Kitô hữu mới (1Cr 11, 23- 29) cho tới hôm nay, cụ thể giờ này chúng ta đang cử hành tiệc cưới Con Chiên đây. Như vậy, để xứng đáng tham dự bàn tiệc Thánh Thể này, phải mặc áo cưới, áo cưới đó là chiếc áo trắng chúng ta mặc ngày chịu phép rửa tội, khi linh mục trao chiếc áo trắng và nói: Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Kitô. Chiếc áo này là dấu chỉ tước vị của con, con hãy mang và giữ nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh. Như vậy, chiếc áo cưới đây chính là tước vị của chúng ta, tước vị đó là gì? Là chức tước và danh vị. Chức tước của chúng ta là vương đế, tư tế và ngôn sứ, còn danh vị của chúng ta là danh Kitô, cho nên người rửa tội trong đạo Công giáo gọi là Kitô hữu. Vì vậy, Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói: Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được. Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết để tôn vinh Danh Chúa đến muôn đời.
Vì thế để cho tước vị của chúng ta được tinh tuyền và giữ mãi, Chúa Giêsu hôm nay đòi hỏi tất cả chúng ta mặc y phục lễ cưới mãi trong đời mọi nơi mọi lúc. Mặc áo cưới đây chính là bỏ con người củ mặc lấy Chúa Kitô, có nghĩa là lấy Lời Chúa làm lẽ sống, tức phải sống Phúc Âm hóa chính bản thân trong mọi hoàn cảnh. Cởi bỏ con người cũ thật khó lắm, vì chưng tính xác thịt đã ăn sâu vào trong con người bây giờ tháo bỏ thì thiệt thòi lắm, uổn lắm… Chẳng hạn, ngày Chúa Nhật, ngày ăn nên làm ra, giờ bỏ buôn bỏ bán một giờ đi lễ là không được, mất khách, thất thu không được. Hay là thời buổi này xã hội ai cũng gian xảo mánh lới, lọc lừa là chuyện bình thường, còn Chúa bảo chúng ta phải thật thà và trong sạch, sao khó quá vì người đời lọc lọc, lương lẹo lại lên lương, còn mình thật thật thì thua thiệt! Rồi, thời buổi này ngoài đời ngươi ta cho trai gái yêu nhau thoả mái, muốn cưới nhau thì phải sống chung trước, để con rồi mới cưới vì cưới về vô sinh thì toi đời trai sao, cho nên người Công giáo bắt phải giữ mình đồng trinh khó quá, không theo nỗi! Như vậy, nếu chúng ta không cỡi bỏ áo cũ, không sống theo Tin Mừng của Chúa cho dẫu chúng ta có ở giữa lòng Giáo hội, thì chúng ta vẫn chưa xứng đáng tiệc cưới của Chúa Giêsu vì không mặc áo cưới, không sống Lời Chúa và Hội Thánh dạy. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu kể anh chàng không mặc y phục vụ cưới sao? “Nhà vua liền bảo những người phục dịch: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng!”
Thánh Phaolô nói: “Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô” (Gl 3,27). Mặc lấy Chúa Kitô cũng là mặc lấy tư tưởng, lời nói và hành động của Kitô có nghĩa rằng chúng ta phải hoán cải đời sống và sống Phúc Âm từ chính bản thân đến gia đình, Giáo xứ… để mỗi người trở nên thánh và thiện trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Như thế, chúng ta mới được Thiên Chúa yêu thương mời gọi ta vào hưởng tiệc cưới hạnh phúc trên đời này và Nước Trời mai sau. Vì thế, trong Thánh lễ, trước khi hiệp lễ, Linh mục cầm chén Máu Thánh và Mình Thánh Chúa giơ cao và đọc: Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa. Vậy, mỗi lần chúng ta đến tham dự Thánh lễ là người có phúc vì được Chúa mời. Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay và mọi Thánh lễ, xin cho mỗi người chúng ta biết giữ niềm hạnh phúc vô biên ấy từ bây giờ và cho đến khi vào dự tiệc cưới Nước Trời bằng việc sống Lời Chúa và Hội Thánh dạy một cách chân tình và triệt để hằng ngày qua từng lời nói, hành động, công ăn việc làm hay cách đối nhân xử thế của chúng ta trong gia đình và cuộc sống. Amen.
6. Lời mời gọi
Tại một xứ đạo ở một thành phố lớn, trong lớp giáo lý cha sở để ý thấy một em nhỏ xanh xao khoảng 13 tuổi. Ngày kia em đến với cha và cặp mắt đỏ hoe, em nói: Con không thể xưng tội rước lễ lần đầu. Tại sao? Vì cha mẹ con ngăn cấm. Cha sở bảo: Con thử về xin phép cha mẹ con một lần nữa xem thế nào? Mấy ngày sau, em lại đến với một điệu bộ thất vọng: Không được đâu cha ạ, bố mẹ con đã nổi nóng và đã đánh con. Cha sở an ủi: Con hãy cầu nguyện và Chúa sẽ giúp đỡ con. Ngày trọng đại đã đến nhưng vẫn không có em nhỏ trong số những em được xưng tội rước lễ lần đầu. Rồi một tuần sau, vào một buổi sáng, em chạy đến nhà xứ, hổn hển thưa: Xin cha giải tội cho con, kẻo mẹ con hay biết. Cha sở giải tội cho em rồi nói: Bây giờ con hãy về kẻo má con biết được. Em do dự một lát rồi nói với một giọng van xin: Cha có thể cho con rước lễ được chứ? Dĩ nhiên cha sở chấp thuận và ngài đã phát biểu: Tôi đã tổ chức nhiều cuộc xưng tội rước lễ lần đầu một cách trọng thể nhưng không lần nào làm tôi cảm động cho bằng lần này.
Chúng ta cũng vậy, có lẽ chúng ta cảm phục em bé đói khát Mình Máu Thánh Chúa. Trong khi đó những người khách trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay lại có một thái độ lãnh đạm. Họ đã được mời nhưng lại không đến. Nhưng đâu là ý nghĩa của dụ ngôn?
Vào thời Chúa Giêsu những kẻ được mời là những người Do Thái. Còn bây giờ những kẻ được mời lại là những Kitô hữu. Mọi sự đã sẵn ngay từ lúc chúng ta còn nhỏ bé: Các bí tích và những ơn lành của Chúa. Hằng tuần bàn tiệc Thánh Thể và bàn tiệc Lời Chúa cũng đã được dọn sẵn. Chúa vẫn kêu mời: Hãy đến vì tất cả đã sẵn. Nhưng người ta đã đưa ra những lý do: tậu bò, cưới vợ, mua đất để từ chối. Nếu chúng ta coi bí tích Thánh Thể là một quà tặng quý giá và chúng ta là những kẻ túng thiếu thì lẽ nào chúng ta lại từ chối.
Không phải chúng ta chỉ là những khách dự tiệc, mà hơn thế nữa, chúng ta còn là những gia nhân của Chúa, chúng ta có bổn phận tiếp tay với Chúa và kêu mời những người khác còn ở ngoài đường trở về bàn tiệc của Chúa qua những hoạt động tông đồ và truyền giáo. Thiên Chúa muốn rằng mọi người đều được dự tiệc vì phòng tiệc thì lúc nào cũng còn chỗ. Những kẻ còn ở ngoài đường, còn ở ngoài Giáo Hội, đó là những anh em lương dân chưa nhận biết Chúa, nhất là những người khổ đau và túng thiếu, chúng ta không được phép bỏ rơi họ.
Phương thế hiệu nghiệm hơn cả để cảm hoá họ, đó chính là tình thương, đó chính là bác ái được biểu lộ qua việc thăm viếng và giúp đỡ. Nhờ tình thương và bác ái, chúng ta sẽ gây được những cảm tình tốt đẹp và tạo được những điều kiện cần thiết, để rồi một ngày kia họ quay trở về với Chúa và nhất là họ sẽ hưởng được sự dịu ngọt tình thương của Chúa và tiệc cưới chính là niềm hạnh phúc Nước Trời mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho họ.
7. Thiên Chúa mời nhưng con người tự do
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Bài đọc Cựu Ước trong sách tiên tri Ysayah và bài Tin Mừng đều đề cập đến bàn tiệc. Ai cũng hiểu đây là một kiểu nói để diễn tả một thực tại siêu vượt: Nước Trời. Thiên Chúa mời và muốn tất cả vào dự tiệc, nghĩa là vào Nước Trời; nhưng không phải tất cả mọi người đều đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa mời con người chia sẻ sự sống vĩnh cửu
Ngày đó Thiên Chúa sẽ thiết tiệc đãi mọi dân tộc, thịt béo rượu ngon. Ngày đó Thiên Chúa cất tấm khăn tang, không còn những chuyện buồn phiền nữa. Ngay cả cái chết, Ngài cũng hủy diệt. Chính Thiên Chúa sẽ lau khô những giọt lệ, chính Ngài sẽ ủi an dân Ngài.
Tất cả những điều trên là dấu chỉ của Nước Trời, nơi đó Thiên Chúa sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của con người, nơi đó con người sẽ được toại nguyện và hạnh phúc. Thiên Chúa là nguồn mọi hy vọng của con người. Ngài không chỉ là Đấng thoả mãn nhu cầu vật chất, cho con người lương thực hằng ngày, hoặc thịt béo rượu ngon; nhưng Ngài còn đong đầy mọi hy vọng, Ngài biến đổi lòng người, Ngài là Đấng cứu độ.
Dự tiệc “Nước Trời” là hồng ân Thiên Chúa ban cho con người, cho mọi dân tộc chứ không chỉ riêng cho dân tộc Do Thái, cho mọi người thành tâm thiện chí chứ không phải chỉ cho những người mang danh Công Giáo. Thiên Chúa muốn chia sẻ sự sống vĩnh cửu của Ngài với mọi người thuộc mọi dân tộc, vì nếu không vậy Ngài đâu tạo dựng họ. Ngài tạo dựng con người, để con người được chia sẻ sự sống thần linh với Ngài.
2. Những người từ chối sự sống đời đời
Ông vua trong dụ ngôn làm tiệc cưới cho con, đã cho người đi gọi những người được mời để họ đến dự tiệc cưới. Và những người được mời đã chọn làm điều họ quan tâm hơn việc đi dự tiệc của vị vua; hơn nữa, một số người không chỉ không đi, mà còn bắt các đầy tớ được sai tới, hành hạ và giết họ nữa.
Ông vua đã cho mời tất cả những người tìm được vào dự tiệc cưới của con ông; và người ta đã vào tiệc. Theo phong tục, khi vào phòng tiệc mọi người đều được mời mặc trang phục tiệc cưới do chủ tiệc cung cấp, ấy thế mà vẫn có một kẻ không chịu mang trang phục lễ cưới khi vào phòng tiệc.
Con người tự do trước lời mời gọi của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương con người, tạo dựng con người vì yêu thương, và mời gọi họ vào Nước Trời để chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài cũng vì yêu thương. Tuy nhiên một số người đã từ chối không vào, họ đã không muốn dự tiệc cưới, và ngay cả có người bước vào bàn tiệc vẫn còn không muốn dự tiệc qua việc không mang trang phục lễ cưới. Ai không sống yêu thương, không thể vào Nước Trời ngay cả khi họ mang danh Kitô-hữu.
3. Cách sống của những người tự do đích thực
Những người chọn Thiên Chúa trên mọi sự, là những người sống hạnh phúc ở đời sau và ngay ở đời này. Họ tự do với những gì nhiều người theo đuổi: tiền bạc, danh vọng, tình duyên. Những người đặt quá nặng tiền bạc danh vọng dường như lúc nào cũng bận rộn, và họ sẵn sàng hy sinh “bàn tiệc hạnh phúc” thường ngày để làm việc. E rằng những người này không có tự do đích thực.
Sự tự do đích thực không chỉ là tự do làm theo như mình muốn, nhưng còn là làm những gì lý trí thấy như vậy là đúng là tốt. Con người là thực tại có thân xác, con người chịu những chi phối của những định luật vật lý. Con người không có tự do vật lý tuyệt đối nhưng con người có tự do luân lý. Con người có tự do để sống theo lý trí hay theo bản năng.
Thánh Phaolô có thể sống với mọi tình huống để rao giảng Lời Chúa cho những người ngài gặp gỡ. Ngài đã học để hành xử lúc no cũng như lúc đói, lúc nghèo cũng như lúc giầu. Bận tâm chính của Ngài là Thiên Chúa, và làm sao để cho mọi người được biết Chúa và sống hạnh phúc. Niềm cậy trông của Ngài cũng chính là Thiên Chúa. Ngài không tựa vào sức riêng của Ngài. Những gì người ta tặng cho ngài, ngài lãnh nhận và trân trọng; đồng thời hy vọng Thiên Chúa sẽ thỏa mãn mọi nhu cầu của những người đã rộng lượng giúp Ngài. Cách sống của Phaolô là cách sống của những người đã được cứu độ, chỉ có Thiên Chúa là nguồn hy vọng và hạnh phúc của Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Điều bạn mong ước nhất là gì?
2. Nếu bạn đạt được điều mong ước ở trên, bạn có hạnh phúc lắm không, và hạnh phúc này kéo dài bao lâu?
3. Theo bạn, điều gì đáng bạn mong ước nhất? Điều bạn mong ước có thể đạt được không? Làm sao để đạt được điều bạn mong ước?
8. Đại tiệc thiên quốc – AM Trần Bình An
Khoảng 1.900 vị khách sẽ có mặt tại đám cưới của hoàng tử Anh William và cô Kate Middleton vào tháng 4/2011. Các nhà lãnh đạo Anh và quốc tế, các chính trị gia cao cấp, các nhân viên từ thiện và những ngôi sao như vợ chồng nhà Beckham nằm trong số những người sẽ có mặt tại lễ cưới tại Tu viện Westminster ở London hôm 29/4/2011. Tuy nhiên, không phải vị khách nào cũng sẽ có mặt tại bữa tiệc chiêu đãi sau đó tại cung điện Buckingham. BBC cho biết những cá nhân có quan hệ với hoàng tử William cũng sẽ được mời, trong đó có những người vô gia cư và các binh lính bị thương trong cuộc chiến tại Afghanistan và Iraq.
Có khoảng 40 hoàng thân quốc thích nước ngoài tới tham dự. Đại diện của Khối thịnh vượng chung cũng sẽ có mặt. Ngoài ra còn có thành phần của các tổ chức từ thiện của William, khối quân sự và thành viên Nội các. Còn lại khoảng 1.000 người là bạn bè của hai vợ chồng sắp cưới.
Tất cả 1.900 người sẽ được tham dự lễ thành hôn tại Tu viện Westminter, 650 trong số đó sẽ có vinh dự được tham dự tiệc chiêu đãi tại cung điện Buckingham. Ngoài ra còn có một bữa tiệc khác vào buổi tối với khoảng 300 khách là bằng hữu thân cận nhất. Vì thế khi giấy mời tới tay, mọi người sẽ phải mở phong bì ra để biết mình thuộc dạng khách mời nào.
Thiếp mời bao gồm một tấm thiệp màu trắng có dát chữ vàng đặt trong một phong bì màu nâu nhạt. Tên viết tắt của Nữ hoàng được in màu vàng nổi bật trên tấm thiệp, ngay dưới hình vương miện. Góc trái phía dưới tấm thiệp mời cẩn thận ghi rõ quy định trang phục là “Đồng phục, lễ phục hoặc veston.” (Dress: Uniform, Morning Coat or Lounge Suit) (Song Minh, VnExpress.net)
Tin Mừng theo Thánh Matthêu hôm nay tường thuật dụ ngôn tiệc cưới hoàng gia mở rộng, đón rước tất cả mọi người, bất kể sang giàu, hèn mọn, thân quen, xa lạ khắp nơi. Nhưng kẻ nào không mặc lễ phục phù hợp sẽ bị đuổi ra ngoài chịu phạt. Hoàng gia Anh còn quy định trang phục nghiêm nhặt trong tiệc cưới, huống chi Đại Tiệc Thiên Quốc?
Không như hoàng gia nước Anh năm thì mười họa mới tổ chức tiệc cưới, Đại Tiệc Thiên Quốc thì hằng ngày đều tưng bừng khoản đãi tất cả những Kitô hữu thành tâm, qua Thánh Lễ dâng lên khắp các Thánh Đường trên thế giới. Đặc biệt hơn nữa, mỗi Thánh Lễ gồm cả hai Đại Tiệc liên tiếp.
Khởi sự, bước vào tham dự Đại Tiệc Thánh Lễ, Linh mục chủ sự mời gọi toàn thể cộng đoàn sám hối, ăn năn mọi tội lỗi, hầu tẩy sạch vết nhơ lốm đốm hoen ố kiêu căng, tự phụ, ganh ghét, đố kỵ, hận thù, tham lam, gian dối, ăn cắp, dâm ô, sa đọa.
Đại Tiệc Lời Chúa
Ngôn sứ Isaia phát ngôn viên của Chúa, đã thân thương mời gọi những ai đang đói khát sự thật, sự công chính và sự sống đời đời, hãy đến nghe Lời Hằng Sống và đem thực hành, thì sẽ toại nguyện.”Hỡi tất cả những ai khát nước, hãy đến uống nước; hỡi kẻ không tiền bạc, hãy đến mua lúa mà ăn; hãy đến mà mua rượu và sữa, không cần trả tiền, không cần đổi chác gì… Vậy hãy lắng tai nghe, hãy đến ăn đồ bổ, và các ngươi sẽ được thưởng thức món ăn mỹ vị. Hãy lắng tai và đến cùng Ta, hãy nghe, thì các ngươi sẽ được sống; Ta sẽ ký kết với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, đó là những hồng ân đã hứa cho Ðavít.” (Is 55, 1-3)
Chẳng phải Đức Giêsu đã chẳng dạy các môn đệ: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn”. (Mt 14, 16) Luôn xả kỷ, chia sẻ vật chất đến tinh thần, Tình Yêu, giúp đỡ phục vụ tha nhân. Một Đại Tiệc Lời Chúa bao gồm cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, đỉnh cao là Phúc Âm, mà Linh mục luôn hào phóng chia sẻ cho toàn thể cộng đoàn chung hưởng.
Nhờ tham dự Đại Tiệc Lời Chúa, Kitô hữu mới có thể thấm nhuần, thấu hiểu và thực hành, mặc lấy tấm áo dự tiệc đúng tiêu chuẩn ấn dịnh. Đó là tấm áo Đức Kitô đã vẽ mẫu, thiết kế theo ni tấc đúng mode, đúng size, đúng gammàu của luật Tình Yêu tối thượng: Mến Chúa yêu người.
Chiếc áo đẹp nhất của người dự Đại Tiệc Thiên Chúa chính là sống khiêm nhường, bác ái, nghèo khó, vâng theo Thánh Ý Chúa, trung thành và hành xử y như Ðức Kitô, mà Thánh Phaolô khuyên tín hữu Êphêsô, Galata: “Anh em hãy mặc lấy con người mới,”(Ep 4, 24) “Hãy mặc lấy Ðức Kitô.” (Gl 3, 27)
Đại Tiệc Thánh Thể
Sau khi chuẩn bị tâm hồn sạch sẽ, thanh khiết nhờ thấu đáo học hỏi qua Đại Tiệc Lời Chúa, nhờ Đức Chúa Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn, chỉ dạy ý nghĩa thâm sâu Tin Mừng, Kitô hữu mới được vinh hạnh tham dự Đại Tiệc Thánh Thể.
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6, 51, 54-56)
Tại Tiệc Thánh, Kitô hữu mới nhận được tuyệt đỉnh Tình Yêu, khi được ưu ái đón tiếp chính Đức Giêsu hạ cố vào nguyện đường nhỏ bé tâm hồn mình. Còn gì tuyệt diệu hơn khi Người lấy chính Máu Người tẩy sạch tấm áo dự tiệc cưới của mỗi tín hữu, để có thể tham dự Đại Tiệc Thiên Quốc. Nhờ được tái sanh, Kitô hữu mới được ở trong Chúa, và Chúa hiện diện trong mình. Chính Đức Giêsu khẳng định công khai như một bảo chứng tuyệt đối: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.” (Ga 6, 56)
Đại tiệc Cánh chung
Sau khi xuôi tay nhắm mắt, bất kỳ ai cũng được tham dự vào Đại Tiêc Cánh Chung, chẳng hề phân biệt Phật giáo, Kitô giáo, Hồi giáo, hoặc vô thần, chẳng phân biệt sang hèn.
Tại Đại Tiệc Cánh Chung, Thiên Chúa ân thưởng người lành trừng phạt kẻ dữ. Sau lòng từ bi nhân hậu vô hạn với mọi người biết sám hối, thì lòng công thẳng của Thiên Chúa được thực hiện nghiêm nhặt với từng người. Thấy có người khách dự tiệc không mặc y phục lễ cưới, Nhà Vua thực sự bất bình: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” Bạn im lặng, không biết trả lời sao. Nhà Vua nghiêm nghị hạ lệnh: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng! Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.” (Mt 22, 13-14)
Lòng Thương Xót vô hạn của Thiên Chúa luôn cứu vớt những ai biết sám hối trở về Nhà Cha, nhưng không thể giải thoát cho ai cố tình bưng tai bịt mắt, cố tình chống báng, quay lưng lại với Đại Tiêc Thiên Quốc. Bởi vì, “Ðể sinh ra con Nguời không hỏi ý kiến con, nhưng để cứu chuộc con Nguời phải hỏi ý kiến con.” Thánh Augustinô đã giải thích Tình Chúa dành cho con người, tự do quyết định số phận của mình.
“Trước muôn ngàn thử thách đau khổ, con hãy sốt sắng, tin tưởng và đọc nhiều lần: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy.” Bí quyết can đảm của người Kitô hữu.” (Đường HY Vọng, số 674)
Lạy Chúa Giêsu, Người đã luôn hào phóng mời gọi chúng con đến tham dự Đại Tiệc Thiên Quốc. Một vinh dự cao quý mà chúng con thường hay lãng quên, vì mãi tham lam vơ vét của phù vân và ham mê hưởng thụ thú phù hoa. Kính xin Người ban Đức Chúa Thánh Thần luôn đến nhắc nhở, soi sáng chúng con đâu là cùng đích cuộc đời chúng con.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ luôn tham dự Đại Tiệc Thiên Quốc, khấn xin Mẹ ban cho chúng con lòng tin cậy mến Đại Tiệc Thiên Quốc, xin Mẹ cầu bầu, giúp đỡ chúng con nhờ Con Mẹ tẩy trắng tinh tấm áo lễ cưới, để chúng con xứng đáng vào tham dự Đại Tiệc Thiên Quốc. Amen.
9. Suy niệm của Lm. Carôlô Hổ Bặc Xái
Chủ đề: Chúa mời chúng ta dự tiệc Nước Trời (Mt 22,4)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Có nhiều niềm hạnh phúc chúng ta đang hưởng mà không ý thức, chẳng hạn hạnh phúc được làm con Chúa, hạnh phúc được ở trong Giáo Hội, hạnh phúc mỗi tuần được dự tiệc của Chúa.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta ý thức những hạnh phúc ấy; và chúng ta cũng xin Ngài dạy chúng ta biết sống thế nào để xứng đáng với tấm lòng của Chúa.
II. Gợi ý sám hối
Tuy vẫn biết hạnh phúc Nước Trời là quý báu nhất, nhưng rất nhiều khi chúng ta coi trọng những giá trị vật chất hơn.
Nhiều lần chúng ta từ chối ơn Chúa.
Dù đang ở trong Nước Chúa và làm công dân Nước Chúa, nhưng cách sống của chúng ta chưa xứng đáng.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 25,6-9)
Bữa tiệc mà ngôn sứ Isaia mô tả có những nét đáng chú ý sau đây:
Người thết đãi là “Chúa các đạo binh”
Khách được mời dự là tất cả các dân
Nơi dọn tiệc là “trên núi này”, tức là núi Sion.
Trong bữa tiệc đó, người dự không chỉ được thưởng thức những thức ăn ngon, mà còn được cất khỏi mọi buồn sầu, tủi hổ, tang chế.
Ðó chính là hạnh phúc Nước Trời được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người không phân biệt ai.
2. Ðáp ca (Tv 22)
Tv 22 này rất quen thuộc đối với mọi tín hữu: Thiên Chúa là một mục tử chăm sóc đoàn chiên hết sức chu đáo: lo cho chiên có cỏ xanh để ăn, nước trong để uống, bóng mát để nghỉ ngơi, và còn bảo vệ để chiên có thể “ăn tiệc” thoải mái ngay trước mặt quân thù.
3. Tin Mừng (Mt 22,1-14)
Ý nghĩa của dụ ngôn bữa tiệc: Thiên Chúa ban hạnh phúc Nước Trời trước tiên cho dân Do Thái, nhưng họ đã từ chối vì chuộng những giá trị trần gian hơn; Thiên Chúa lại ban hạnh phúc ấy cho muôn dân. Tuy nhiên, cũng như người dự tiệc cưới phải mặc áo cưới, người được mời gia nhập Nước Trời cũng phải có một nếp sống mới phù hợp với Tin Mừng.
4. Bài đọc II (Pl 4,12-14.19-20) (Chủ đề phụ)
Trong thời gian Phaolô bị cầm tù, tín hữu Philipphê đã rộng rãi giúp đỡ ông. Trong lá thư cám ơn gởi cho họ, Phaolô nói 2 ý:
Thực ra ông cũng không cần những giúp đỡ vật chất ấy, vì một mặt ông đã quen thích nghi với mọi hoàn cảnh, và mặt khác ông còn được Chúa trợ giúp, cho nên “Tôi có thể làm được mọi sự trong Ðấng ban sức mạnh cho tôi”.
Tuy nhiên việc tín hữu Philipphê trợ giúp vật chất cho ông là một điều rất quý. Phaolô xin Thiên Chúa đền đáp lại xứng đáng cho họ.
IV. Gợi ý giảng
1. Ðiều trước mắt che khuất điều ở xa
Hạnh phúc Nước Trời, hay–nói cho dễ hiểu–hạnh phúc thiên đàng là thứ hạnh phúc trọn vẹn nhất, vững bền nhất, hơn tất cả mọi thứ hạnh phúc ở trần gian. Ai cũng biết thế.
Tuy nhiên, loài người chúng ta có một cái tật, là bị những cái trước mắt che khuất nên không nhìn thấy cái ở xa, giống như tật cận thị.
Cái trước mắt mà chúng ta thấy hằng ngày là hạnh phúc mà trần gian mang lại qua việc làm ăn, buôn bán. Nói cách khác, trước mắt phải lo làm ăn để có một cuộc sống bảo đảm về vật chất; thiên đàng thì còn xa, sau này từ từ lo.
Suy nghĩ như thế có phần đúng, vì ta phải sống thực tế với hiện tại. Nhưng cũng có phần sai khi chỉ biết hiện tại mà không hề nghĩ tới tương lai.
Ðiều sai lớn nhất mà bài Tin Mừng này vạch ra là chẳng những ưu tiên lo cho hiện tại, mà còn “không đếm xỉa gì” đến bữa tiệc Nước Trời, thậm chí còn nhục mạ và hành hạ những sứ giả mà Thiên Chúa sai đến mời ta dự tiệc của Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho chúng ta một số điều để suy nghĩ:
Chúa không hề trách vì chúng ta lo cho cuộc sống vật chất. Nhưng lo đến nỗi quên hẳn cuộc sống mai sau thì sẽ đáng trách. “Tiên vàn chúng con hãy tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, mọi sự khác Ngài sẽ lo cho chúng con”.
Vì chúng ta dễ quên hạnh phúc mai sau, nên nhiều lần và nhiều cách Thiên Chúa sai người này người nọ đến nhắc nhở chúng ta. Chúng ta có khó chịu với những người ấy, xua đuổi họ, nhục mạ họ và ngược đãi họ không?
2. Tại sao họ đã chối từ?
Trong đoạn Tin Mừng này, Thánh Mát thêu ghi lại hai lý do: “người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán”. Thánh Luca thì ghi rõ hơn, tới 3 lý do: “Người thứ nhất nói: tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; người khác nói: Tôi mới tậu 5 cặp bò, tôi đi thử đây; người khác nói: Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được” (Lc 14,18-19)
3 lý do trong Luca có thể gom thành 2 loại là làm ăn (thăm đất và thử bò) và thụ hưởng (cưới vợ). Thực ra hai điều ấy không cấp bách đến nỗi phải lập tức làm ngay để đành từ chối lời mời ưu ái của nhà vua. Tuy nhiên, đó là hai nguyên do khiến nhiều người chối từ lời mời của Thiên Chúa. Ta có thể rút ra hai khuyến cáo:
Quá mê làm ăn có thể kéo ta xa Chúa.
Quá lo thụ hưởng cũng có thể kéo ta xa Chúa.
3. Những ông chủ trại, những thương gia và những kẻ ngoài đường
Chúng ta hãy lưu ý rằng hai hạng người từ chối dự tiệc cưới là những ông chủ trại và những thương gia. Họ không đến vì còn phải lo đi thăm trại và đi buôn bán. Còn những người mau mắn đến dự tiệc là những kẻ ở các ngã đường. Họ nghèo, họ đang đói cho nên được mời ăn tiệc là đến ngay.
Người no đủ không thích ăn tiệc bằng người đói khát.
Bởi thế, Ðức Giêsu đã nói rất chí lý: “Khốn cho các ngươi là những kẻ no đủ… Phúc cho chúng con là những người đói khát”.
4. Y phục tiệc cưới
Phần cuối dụ ngôn này làm người đọc thắc mắc và khó chịu: những người đang ở ngoài đường đột nhiên được mời vào dự tiệc cưới thì làm sao có sẵn áo lễ mà mặc. Thế mà ông vua lại bắt một người không có áo lễ tống giam vào ngục.
Nên nhớ đây là một dụ ngôn, nghĩa là các chi tiết ám chỉ đến một ý nghĩa nào đó. Nếu bữa tiệc cưới là hình ảnh của Nước Trời, thì chiếc áo cưới tượng trưng cho nếp sống phù hợp với Nước Trời. Tự nhiên được mời vào Nước Trời đã là một hồng phúc, cho nên để đáp lại thì phải có một nếp sống phù hợp với Nước Trời.
Chiếc áo tượng trưng cho cách sống. Chúng ta hãy suy nghĩ về chiếc áo / cách sống hiện tại của chúng ta: Nó có tốt hơn, đẹp hơn chiếc áo / cách sống của những người không được ở trong phòng tiệc không?
Chiếc áo tốt đẹp nhất của người dự tiệc Thiên Chúa chính là sống như Ðức Kitô, như lời Thánh Phaolô nói: “Anh em hãy mặc lấy con người mới” (Ep 4,24), “Hãy mặc lấy Ðức Kitô” (Gl 3,27)
5. Chuyện minh họa: Viện Cớ
Chúng ta có rất nhiều cớ để không làm điều mình phải làm, và nhiều cớ để làm điều lẽ ra không nên làm.
Ngày xưa có một anh thợ may rất khéo. Bao nhiêu áo đẹp của mọi người trong thành đều do anh may. Tuy nhiên bản thân anh thì chỉ có mỗi một chiếc áo rách. Lúc nào anh cũng mặc chiếc áo rách ấy, ngay cả trong những buổi tiệc lớn của thành phố. Có người thấy thế hỏi anh:
– Sao anh có thể may bao nhiêu chiếc áo đẹp cho mọi người mà lại không may cho anh được một chiếc áo lành lặn.
– Vì tôi phải may áo kiếm tiền, không có giờ may áo cho mình.
– Vậy anh hãy cầm lấy 20 đồng tiền này và may cho anh một chiếc áo, kể như tôi mướn anh may cho tôi vậy.
Anh thợ may cầm tiền về nhà. Ðến buổi tiệc tiếp theo, anh lại đến với chiếc áo rách cũ. Người bạn hỏi:
– Sao anh không may áo cho anh?
– Chiếc áo cho chính bản thân tôi mà giá chỉ có 20 đồng thì quá rẻ, nên tôi không may!
Người bạn chẳng nói gì nữa, bởi vì có nói gì nữa thì anh thợ may cũng sẽ tìm được một cớ khác thôi.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa mời gọi, ban phát tình thương và ân sủng một cách vô giới hạn cho tất cả mọi người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1. Chúa Giêsu đã dùng bí tích Thánh tẩy mà quy tụ chúng ta vào trong Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban Thánh Thần hiệp nhất đến trong Hội Thánh / để Người loại trừ mọi bất hòa / ghen ghét và chia rẽ giữa những người có cùng một niềm tin.
2. Chúa Giêsu là vua đem lại hòa bình / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa tiêu diệt mầm móng chiến tranh / và cho muôn dân được an cư lạc nghiệp.
3. Ðời sống thường ngày đem lại cho con người hạnh phúc thì ít / mà phiền muộn đau khổ lại nhiều / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban Thánh Thần / là nguồn an ủi kỳ diệu đến trần gian / đề Người lau sạch nước mắt cho những ai đang khổ sầu.
4. Ngày phán xét chung / Chúa chỉ căn cứ vào một tiêu chuẩn duy nhất / để thưởng công hay luận tội người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn sống trọn vẹn niềm tin đã lãnh nhận / đặc biệt là biết chân thành yêu thương hết thảy mọi người.
CT: Lạy Chúa, xin ban ơn trợ giúp chúng con sống trọn vẹn ơn gọi kitô hữu, nhờ đó chúng con có thể mạnh dạn nói như Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Galát: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi”. Chúng con cầu xin…
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Họp nhau đây quanh bàn tiệc của Chúa, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha một cách sốt sắng.
– Trước rước lễ: Chúng ta là những kẻ hạnh phúc được mời dự bàn tiệc của Chúa. Chúng ta hãy mặc chiếc áo cưới tượng trưng cho thiện chí muốn có một cuộc sống mới xứng đáng với Chúa hơn. “Ðây Chiên Thiên Chúa…”
VII. Giải tán
Chúng ta sắp trở lại với cuộc sống thường ngày. Chớ gì những việc làm ăn, buôn bán đừng trở thành những nguyên do khiến chúng ta xa Chúa.
10. Dụ ngôn tiệc cưới – R. Veritas
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Được một ông vua đích thân mời đến dự tiệc cưới của hoàng tử, nhưng các thần dân không những khước từ lời mời mà còn nhục mạ giết các sứ giả, đây quả là tột cùng của sự khiếm nhã. Qua dụ ngôn, chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu nhắm vào dân Do Thái. Câu truyện gợi lên một sự đau thương của cả một dân tộc mà Thiên Chúa đã chọn họ làm dân riêng để thực hiện công cuộc cứu rỗi, nhưng họ đã khước từ ơn cứu rỗi ấy. Nhưng có lẽ trọng tâm của bài Tin Mừng được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay không hẳn là mời dự tiệc cưới cho bằng chiếc áo cưới.
Hai câu truyện xem ra bất thường, được Vua mời đến dự tiệc cưới, thần dân lại khước từ. Đây quả là một hành động nhục mạ đối với nhà Vua. Nhưng thách thức không kém là khi vào phòng cưới mà không chịu mặc y phục lễ cưới do nhà Vua qui định, thái độ này khiêu khích đến nhà Vua phải truyền lệnh cho gia nhân trói tay chân người đó lại và ném ra ngoài.
Hình ảnh người thực khách vào dự tiệc cưới mà không chịu mặc y phục lễ cưới của nhà Vua qui định, gợi lại cho chúng ta lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Không phải những ai nói “Lạy Chúa, Lạy Chúa” mà được vào Nước Trời đâu, mà chỉ có những ai thực thi ý Chúa muốn, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
Anh chị em thân mến,
Mang danh hiệu Kitô nhưng sống hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng, đây vốn là điều thường xảy ra trong cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng như trong lịch sử của Giáo Hội. Trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi con cái Giáo Hội sám hối và thanh luyện ký ức lịch sử. Trong suốt 2,000 năm lịch sử của Giáo Hội, con cái Giáo Hội không biết bao nhiêu lần hành động hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng. Những cuộc thập tự viễn chinh để sát hại người Hồi Giáo, các tòa điều tra thời Trung Cổ để kết án, ngay cả thiêu sống những người lạc giáo, các cuộc chém giết giữa các tín hữu Công Giáo và Tin Lành.
Đó là những vết nhơ trong lịch sử của Giáo Hội, nhưng gần đây là chủ nghĩa bài trừ Do Thái thời đệ nhị thế chiến, trong cuộc sát tế 6 triệu người Do Thái, dĩ nhiên do Đức Quốc Xã chủ xướng, nhưng nó lại diễn ra ngay trong lục địa tự xưng là Kitô giáo. Không ai tự mình có thể trở thành độc tài và đồ tể. Hitler chắc chắn không có đủ ba đầu sáu tay mà hiện diện khắp cả Âu Châu để truy lùng và sát hại người Do Thái. Đức Quốc Xã không chỉ là một mình Hitler tích cực hay tiêu cực, do xác tín hay do hèn nhát, do ác ý hay vì dửng dưng, biết bao người tín hữu trên khắp lục địa Âu Châu đã nhúng tay vào tội ác của Đức Quốc Xã, tự xưng là người tín hữu Kitô nhưng hành động hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng.
Đây là cách cư xử mà Chúa Giêsu muốn ám chỉ qua người thực khách không chịu mặc y phục lễ cưới do nhà Vua qui định, một cách cư xử thiếu nhất quáng như thế vẫn xảy ra trong Giáo Hội ngày nay. Tại những nước vẫn tự xưng là Kitô giáo, đa số là những người tín hữu hữu danh vô thực, phép Rửa Tội chỉ còn là một nghi thức xã hội, ai sinh ra cũng phải đem đến nhà thờ để được rửa tội, nhưng suốt một đời nhiều người chỉ đến nhà thờ để được rửa tội, để được cưới hỏi và cuối cùng để gọi là được chết trong Giáo Hội.
Biết bao nhiêu đảng phái tự xưng là Kitô giáo nhưng đường hướng hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng. Không ngược lại với Tin Mừng là gì khi những người mang danh hiệu Kitô lại cổ võ cho ly dị, phá thai, sinh hoạt đồng tính luyến ái v.v… Còn những nước trong đó Kitô giáo là thiểu số thì người ta thường tự hào về việc giữ đạo của các tín hữu Kitô, nhà thờ lúc nào cũng chật ních người, các cuộc biểu dương và rước sách lúc nào cũng đông người tham dự. Thế nhưng, chúng ta nghĩ gì về các tệ nạn xã hội đầy dẫy trong các giáo xứ, những người ngoài Công Giáo thấy gì về các tín hữu đến nhà thờ mỗi ngày Chúa Nhật, tối sớm đọc kinh làu làu, tích cực trong các buổi rước sách, nhưng sống ích kỷ, lường gạt, mánh mung như mọi người. Một cách sống như thế quả thực làm ố danh sự đạo. Không thể mang danh hiệu Kitô mà hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng Kitô, không thể là người Công Giáo mà chủ trương sống ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội, bỉ ổi hơn cả là khi người ta dùng danh hiệu Công Giáo để phục vụ cho một chế độ chủ trương bách hại Giáo Hội.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho chúng ta về những lời cam kết khi chịu Phép Rửa Tội, một trong những ý tưởng đầy ý nghĩa của Bí Tích này là chiếc áo trắng mà Giáo Hội phủ lên người chúng ta. Chiếc áo trắng ấy là căn cước Kitô của chúng ta, chúng ta không chỉ mang nó mỗi năm một lần, mỗi tuần một lần hay thậm chí chờ cho đến khi ta nhắm mắt lìa đời. Chiếc áo trắng ấy là từng hơi thở của chúng ta, chiếc áo trắng ấy là Tin Mừng Chúa Kitô mà chúng ta phải sống từng giây phút trong cuộc sống. Có sống như thế chúng ta mới thật sự cảm nhận được niềm vui khi tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể mà Chúa dọn ra cho chúng ta mỗi ngày, nhất là ngày Chúa Nhật. Có sống như thế những người xung quanh mới nhìn vào chúng ta mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời. Amen.
11. Mặc lấy Chúa Kitô – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Trong một trăm người đang sống trên lục địa Á châu, chỉ có hai người gia nhập Hội Thánh Chúa. Hạnh phúc cho ai được liệt vào số ít những người may mắn nầy. Trong số một trăm người đang sống trên giải đất Việt Nam, chỉ có bảy người có diễm phúc tham dự tiệc cưới vua trời, tức được gia nhập vào Hội Thánh Chúa. Chúng ta cũng được may mắn thuộc về thiểu số nầy. Đây quả là một hồng phúc lớn lao cho chúng ta.
Để xứng hợp với tư cách của vị khách được Thiên Chúa ưu ái mời vào dự tiệc Nước Trời, Thiên Chúa đòi buộc chúng ta phải vứt bỏ tấm áo dơ bẩn đang mặc để khoác vào mình y phục xứng đáng.
Khi mặc đồ tang chế mà đi dự tiệc cưới, người ta nghĩ là bạn bị khùng nặng và xua đuổi bạn tức khắc. Khi bước vào bệ kiến Đức Vua mà trang phục lôi thôi lếch thếch, nói năng hồ đồ lỗ mãng thì không khỏi bị kết tội khi quân. Khi bước vào đời quân ngũ mà ăn mặc rách rưới như kẻ bần cùng, thiếu tác phong quân nhân, thì bạn sẽ bị tống cổ ra ngay vì làm ô danh quân đội.
Hội Thánh của Chúa luôn mở rộng cửa để tiếp nhận tất cả mọi người từ khắp tứ phương thiên hạ bất kể sang hèn tốt xấu. Nhưng một khi đã gia nhập đại gia đình nầy, các thành viên phải cởi bỏ tấm áo xấu xa để khoác lên người trang phục xứng đáng, nghĩa là phải có những phẩm chất phù hợp với Tin Mừng.
Một con sâu tuy nhỏ nhưng cũng đủ để làm rầu nồi canh. Vài ba giọt mực tuy không nhiều nhưng cũng đủ để làm hư tấm vải trắng. Chỉ một ít tín hữu sống trái nghịch với Tin Mừng và giáo huấn Hội Thánh, cũng đủ để làm cho khuôn mặt của Giáo Hội trở nên khó thương trước mặt người khác.
Vì thế nên một khi đã gia nhập Hội Thánh mà cách ăn thói ở không phù hợp thì đương sự sẽ bị Thiên Chúa lên án nặng nề. Đoạn Tin Mừng sau đây nhắc nhở chúng ta điều đó.
“Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục dịch: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”
Là người được Thiên Chúa mời gọi gia nhập vương quốc Thiên Chúa, chúng ta phải xem lại cách ăn thói ở của chúng ta sao cho thích đáng.
Xưa kia, Augustinô ban đầu theo đuổi phù du ảo ảnh của thế gian, nhưng đến năm 33 tuổi, lần đầu tiên con người lầm lạc nầy tiếp cận với kinh thánh và đoạn văn đầu tiên đập vào mắt Anh là lời dạy của thánh Phaolô trong thư Rô-ma như sau: “Như giữa ban ngày, anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đảng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt.” (Rm 13, 13-14).
Nhờ ơn Thánh Linh tác động, Augustinô bừng tỉnh trước Lời Chúa. Anh cảm thấy những câu Lời Chúa nầy như nói riêng với chính mình. Thế là từ đây, Augustinô từ bỏ quãng đời tội lỗi, từ bỏ những đam mê xác thịt, rũ bỏ bộ áo bẩn thỉu hôi hám để mặc áo mới, mặc lấy Đức Giêsu Kitô. Anh được lãnh bí tích rửa tội vào năm 33 tuổi, hiến mình cho Chúa và ba năm sau, trở thành một linh mục thánh thiện, về sau được cất nhắc lên chức giám mục và trở thành vị thánh chói ngời đồng thời cũng là thầy dạy trong Giáo Hội với tước hiệu tiến sĩ Hội Thánh.
Trong ngày lãnh bí tích rửa tội, ngày chúng ta chính thức gia nhập Hội Thánh, linh mục chủ sự thay mặt Hội Thánh trao cho chúng ta tấm áo trắng với lời kêu gọi: “Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Kitô. Vậy con hãy nhận chiếc áo trắng nầy, hãy mang lấy và giữ nó tinh tuyền cho đến khi ra trước toà Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, để con được sống muôn đời”.
Xin cùng khẩn cầu Thiên Chúa giúp chúng ta đừng luyến tiếc áo cũ đã hoen ố vì vô vàn thói xấu tật hư. Hãy dứt khoát cởi bỏ nó để quyết tâm mặc lấy áo mới, mặc lấy Đức Kitô, mang những tâm tình cao đẹp như Chúa Giêsu, cư xử ôn hoà nhân ái như Chúa Giêsu, biết thứ tha, yêu thương và phục vụ như Chúa Giêsu; Nhờ đó, chúng ta sẽ được cùng với Chúa dự tiệc vui muôn đời.
12. Lời mời dự tiệc
(Suy niệm của John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Nước Trời ví như một ông vua kia mở tiệc cưới cho đứa con” (Mt 22,2).
Khi nói về nước Thiên Chúa, có lẽ không một hình tượng nào thú vị và hấp dẫn cho bằng quang cảnh một bữa tiệc. Mọi người trong chúng ta đều đã từng trải nghiệm sự hoan vui với đồ ăn thức uống khi tham dự một bữa tiệc như vậy. Nhiều nơi tôi đã đi qua, đã để lại những dấu ấn khó quên với những món đặc sản tại nơi đó. Vì vậy, hình ảnh bữa tiệc mà bài Tin Mừng nói tới hôm nay mang đậm nét văn hóa nhân sinh nơi cuộc sống đời thường của chúng ta. Bữa ăn gợi nhớ những thời khắc thư giãn trong cuộc sống, hoặc đó cũng là những giờ phút đầm ấm, cả gia đình cùng quây quần sum họp bên nhau. Isaia phác vẽ một viễn cảnh tương lai, đó là lúc “Đức Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc thịnh soạn, nào thịt béo, nào rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25,7). Vị tiên tri còn khai mở trong tâm tưởng chúng ta một chân trời tươi sáng hơn: “Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần” (Is 25,7). Người ta sẽ nhớ mãi đến Vương quốc này, vì không phải chỉ có thịt và rượu, nhưng còn có một đặc nét khác quan trọng hơn, đó là Thành đô sẽ dàn trải ơn cứu độ đến với muôn dân, và tử thần sẽ bị khuất phục.
Mọi người đều phải ngóng đợi, và hướng vọng về bữa tiệc này. Còn bạn, làm sao bạn có được vé mời để đến tham dự? Rất giản đơn và dễ dàng. Bởi vì chính bạn đã được mời từ lâu rồi. Đức Giêsu kể một dụ ngôn về một ông vua tổ chức tiệc cưới cho đứa con. Ông sai gia nhân đi mời các quan khách. Những người được mời, cho dù thiệp mời đã được trọng thị gửi đi từ trước, nhưng họ đã xem nhẹ và lạnh lùng từ chối. Người đi thăm nông trại, người khác mải mê công việc làm ăn…Một số khác còn bắt các gia nhân, ngược đãi và thậm chí còn giết chết họ. Thái độ phản kháng này xem ra rất dị thường trước một lời mời trang trọng như vậy. Thế thì, ai là những con người đã chối từ bữa tiệc của Đức Vua, mà chỉ chú tâm đến những bận rộn đời thường? Còn kỳ lạ và khó hiểu hơn nữa, chúng ta thử hỏi tiếp, ai là những người đã bắt các gia nhân, giết chết họ chỉ vì họ đi mời các quan khách? Dụ ngôn của Đức Giêsu vạch dẫn những ám dụ biểu thị sự từ chối lời gọi mời của chính Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta hôm nay.
Sự việc Vương quốc bị từ chối, còn nêu ra những thái độ kỳ lạ hơn nữa. Tự bản chất, Vương quốc của Thiên Chúa luôn là một bữa tiệc, là một lễ hội, lúc nào cũng được dọn sẵn và rộng mở cho mọi người. Các giáo phụ đã nói nhiều về điều này, ví dụ Thánh Clêment thành Alexandria đã viết “Trọn vẹn cuộc sống chúng ta là một ngày đại lễ”. Thánh Chrysostomo viết tiếp “Chúng ta có những ngày lễ bất tận”. Còn Thánh Augustinô cũng mô tả “ Lễ hội luôn mãi trường cửu trong nhà Thiên Chúa” và Thánh Hiêrônimô còn nói tổng quát hơn “Cuộc sống chúng ta, là một cuộc lễ hội không bao giờ chấm dứt”… Lễ hội hoan vui của Thiên Chúa luôn tuôn đổ niềm vui xuống trên chúng ta, giữa bao lao nhọc và khổ đau của kiếp người. Nhưng trớ trêu thay, con người lại đáp trả một cách vô tâm, hờ hững, và cuối cùng còn phản kháng một cách cuồng nộ nữa.
Cho dù bị chối từ, các gia nhân vẫn đi và kiếm tìm thực khách để lấp đầy phòng tiệc, bất kể người tốt hay kẻ xấu. Nhưng câu truyện lại nêu ra một khía cạnh khác khá nhức nhối. Nhiều nhà chú giải cho rằng chi tiết này thuộc về một dụ ngôn khác, nhưng đã được gượng ép gắn kết với dụ ngôn về bữa tiệc cưới. Đó là sự kiện xảy ra sau khi các gia nhân đã đi mời, và phòng tiệc đầy kín người, cả tốt lẫn xấu, nhà vua để ý thấy có một thực khách không mang y phục đám cưới. Nhà vua nói với anh ta “Này bạn, sao bạn đến đây mà không mặc áo cưới? Vị khách này đã được mời, và đã ngồi vào bàn, trong khi biết bao người khác lại chối từ. Nhưng tiếc thay, anh ta vẫn còn thiếu một điều quan trọng. Ông vua ra lệnh cho gia nhân “Hãy trói tay chân nó lại, đưa ra chỗ tối tăm bên ngoài, nơi chỉ có khóc lóc và nghiến răng”. Đây là một hình tượng nói về hỏa ngục, theo cách diễn tả truyền thống nơi Tin mừng Matthêu.
Dụ ngôn kết thúc với lời giáo huấn của Đức Giêsu “Người được gọi thì nhiều, nhưng người được chọn thì ít”. Câu kết luận này đan nối câu chuyện tiệc cưới với sự kiện có một vị khách không mặc áo cưới. Khi chúng ta nhìn lại trình thuật của dụ ngôn, rõ ràng hạn từ “nhiều người” mà Chúa Giêsu nói tới, biểu trưng cho “tất cả mọi người”, cho tính phổ quát của ơn cứu độ. Tất cả mọi người, không loại trừ ai, đều được gọi mời vào bàn tiệc, người tốt cũng như kẻ xấu. Nhưng chỉ “ít người được chọn” mà thôi. Đó là những ai đã nhận được lời mời và thực lòng chấp nhận. Họ là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, hoàn toàn do ân huệ trao ban cách nhưng không, chứ không phải do công lao của họ. Nhưng để được chọn, chỉ lời mời của Thiên Chúa mà thôi, thì không đủ. Còn phải có sự tự nguyện đáp trả từ phía con người, tức là những kẻ được mời. Hơn nữa, một khi chúng ta đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, chúng ta phải chuẩn bị chu đáo để đến dự tiệc. Y phục phải gọn gàng, khăn áo phải chỉnh tề, tức là chúng ta phải sẵn sàng mọi thứ để có thể ngồi vào bàn tiệc hầu thưởng lãm niềm vui. Y phục tiệc cưới là chính thái độ rộng mở của tâm hồn, sẵn sàng đáp trả lời gọi mời của Thiên Chúa và cộng tác với Ngài, Đấng đem đến cho ta ơn cứu độ. Điểm nhấn của Đức Giêsu nơi dụ ngôn, thể hiện trong câu nói cuối cùng. Không phải là Ngài có ý nói về số người được cứu sẽ ít ỏi. Ngài muốn nêu lên niềm khắc khoải, vì những người được mời thì nhiều, nhưng tiếc thay con số đáp trả lời mời gọi đó, và chuẩn bị sẵn sàng cho Vương quốc lại quá ít. Tất cả mọi người chúng ta được mời, nhưng chúng ta có được chọn hay không, tùy thuộc vào thái độ và sự tự do nơi chính chúng ta. Dầu sao, bạn hãy luôn sẵn sàng, không phải sẵn sàng ngồi vào bàn tiệc hôm nay, hay ngày mai, hay của một thời điểm nào đó, nhưng là bữa tiệc Nước Trời, bữa tiệc của ơn cứu độ, bữa tiệc lúc nào cũng được dọn sẵn và rộng mở để đem lại cho ta niềm vui vĩnh cửu tròn đầy.
13. Tiệc cưới Nước Trời – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Chuyện kể rằng: có một con gà rừng đang ấp trứng, nhưng lẫn trong ổ của nó một trứng đại bang. Đúng ngày giờ, trứng nở thành con. Đại bàng con nô đùa vui vẻ bên đàn gà rừng như anh chị em ruột.
Một ngày kia, đang bươi móc kiếm ăn cùng đàn gà rừng, đại bang con bỗng thấy một con chim đại bang lớn bay lượn trên không thật oai phong và đẹp mắt. Cậu liền hỏi mẹ gà:
– Mẹ ơi! Sao mình không bay như chim kia trên trời?
– Chúng ta đâu phải đại bàng mà bay được!
– Thế chúng ta là ai?
– Chúng ta là gà rừng!
Bỗng một ngày, đang khi bươi chải kiếm ăn trên đống rác cậu lại thấy đại bang mẹ bay lượn trên đầu gọi:
– Bay lên con ơi, bay lên đại bang con của mẹ. Thế giới của con là trời cao đất rộng, chứ không phải là đống rác này! Bay lên đi con.
Cậu cố bay lên, nhưng lại rơi xuống. Trong khi các chú gà rừng cười cợt chế nhạo:
– Chúng ta là gà rừng, làm sao mà bay được.
Cậu suy nghĩ, nếu ta là gà rừng sao đại bang kia cứ bảo ta là đại bang con. Và khi bay lên ta thấy cũng đâu có gì khó khăn, có lẽ chưa quen thôi. Nào hãy thứ lần nữa xem.
Thế là cậu đại bang đủ lông đủ cánh bay lên, và bay lên mãi. Cậu bay theo mẹ về một chân trời mới. Lần đầu tiên trong đời, cậu được nhìn thế giới từ trên cao, lòng cậu mênh mang, hạnh phúc ngập tràn.
***
Như đại bàng mẹ tha thiết mời gọi đại bàng con bay lên bầu trời thênh thang lộng gió, Thiên Chúa cũng gọi mời các tín hữu Kitô, hãy tiến lên dự tiệc cưới Nước Trời.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu ví: “Nước Trời cũng giống như chuyệm một vua kia mở tiệc cưới cho con mình” (Mt 22,20). Ông cho mời các quan khách, nhưng họ đều kếm lý do để từ chối; thậm chí, còn sỉ nhục các đầy tớ của vua và giết đi. Cuối cùng vua sai đầy tớ đi mời tất cả mọi người bắt kể tốt xấu vào dự tiệc của ông. Rủi thay, có một thực khách không mặc y phục lễ cưới. Ông liền ra lệnh cho gia nhân: “Trói chân tay nó lại quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó ngươì ta sẽ phải khóc lóc nghiến rằng. Vì kẻ được gọi thì nhiều mà người được chọn thì ít” (Mt 22,14).
Mỗi một kitô hữu đều có một bộ y phục lễ cưới, đó là tấm áo trắng ngày chịu phép Rửa tội.
Tấm áo trắng ấy là tâm hồn thanh khiết của những người con Chúa đã được tẩy trắng trong máu Con Chiên.
Tấm áo trắng ấy được dệt bằng sợi tơ Lời Chúa mà người tín hữu phải nâng niu, gìn giữ suốt cuộc đời.
Tấm áo trắng ấy luôn được mặc vào khi người tín hữu đi dự tiệc Thánh Thể.
Và nhất là, tấm áo trắng ấy phải tinh tuyền cho đến ngày họ bước vào dự tiệc cưới trong Nước Trời.
Kitô hữu là người đã được thiên Chúa tuyển chọn., làm con cái của Người. Họ là những con đại bang, luôn ngước mắt nhìn cao, mong bay lên cùng Thiên Chúa là cha đầy yêu thương. Họ luôn sống tâm tình của thánh Au-tinh: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa. Tâm hồn con luôn thao thức cho tới khi nào được nghỉ yên trong Chúa”.
Đừng bao giờ nghĩ mình là giống gà rừng, để cúi đầu bươi chải, an phận với những hạnh phúc nhỏ nhoi tầm thường. Tuy được những con sâu bọ là miếng mồi ngon đấy, nhưng chúng cũng nằm trên đống rác, đống phân.
Đừng bao giờ quên rằng, những thành quả trong đời sống kinh tế, và những ân sủng trong đời sống đức tin, chỉ là phương tiện giúp ta đạt đến cứu cánh của cuộc đời, là được vào dự tiệc Nước Trời. Đức Giêsu nói: “Vì nếu người ta được cả thế giớ imà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” (Mt 16,26).
Người do thái bị loại ra khỏi tiệc cưới, cho dù họ là quan khách được mời trước, chỉ vì họ đã không đón nhận Đức Kitô của Thiên Chúa. Mặc lấy “tấm áo trắng Rửa tội” là “Mặc lấy đức Kitô”, là tin tưởng vào Người và ơn cứu độ do Người mang đến.
Người Kitô hữu cũng có thể không vào được Nước Trời, nếu họ để mất “tấm áo trắng Rửa tội”. Chính là việc họ từ chối “mặc lấy Đức Kitô”, từ chối mặc y phục lễ cưới mà vua đã qui định. Đức giêsu nói với họ rằng: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
Rốt cuộc, “chỉ ai thi hành ý muốn của Cha” mới đúng là thực khách của bàn tiệc Nước Trời. Còn tất cả những ai mang danh hiệu Kitô, nhưng sống hòan toàn ngược lại với Tin Mừng, đều phải bị loại ra “chỗ tối tăm bên ngoài”, “nơi khóc lóc nghiến răng”.
***
Lạy Chúa,
Xin giải thoát chúng con khỏi những mê hoặc của khoái lạc, giàu sang, danh vọng. Con đại bang dù có bị cột vào một sợi dây rất nhỏ ấy cũng không thể bay lên cao.
Xin cho chúng con luôn biết lắng nghe tiếng Chúa, và mau mắn đáp lại tiếng gọi yêu thương của ngài. Amen.
14. Chúa mời dự tiệc Nước Trời
MINH HỌA LỜI CHÚA:
1. Niềm vui ơn cứu độ
Chúa Giêsu đi dự tiệc cưới Cana. Ở đó, Người đã hóa nước thành rượu ngon cho thực khách tiếp tục ăn uống vui tươi. Trong những bữa ăn thân mật với các môn đệ và mọi hạng người trong xã hội, Người chia sẻ niềm vui với họ. Người nhâm nhi tách rượu với kẻ quen biết, khiến người Biệt Phái kết án Người là bợm nhậu.
Tất cả những cuộc gặp gỡ vui vẻ đó là những bằng chứng hùng hồn cho thấy Chúa Giêsu không phải là con người buồn phiền muốn mượn ly rượu giải sầu, nhưng là con người biết chia sẻ, biết đem lại niềm vui cho mọi người. Chính Người đã ví Nước Trời như tiệc cưới, không gì vui bằng tiệc cưới.
Được nhà vua mời dự tiệc cưới của hoàng tử, còn niềm vui nào bằng, còn danh dự nào hơn. Thế mà nhiều người đã từ chối vì mãi lo làm ăn hưởng thụ.
Chúa Giêsu mượn hình ảnh những người khước từ lời mời dự tiệc cưới của nhà vua để nói lên thái độ của người Do Thái từ khước sứ điệp cứu rỗi của Người. Người mang đến cho họ sứ điệp giả phóng. Người mang đến Tin Mừng cứu độ, nhưng họ không đón nhận vì bận bịu làm ăn buôn bán: “Quan khách không thèm đếm xỉa tới lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán” (Mt. 22,5). Họ coi trọng việc làm ăn buôn bán hơn Tin Mừng giải phóng. Nói cách khách, họ chạy theo hạnh phúc trước mắt mà bỏ hạnh phúc khuất mắt là hạnh phúc Nước Trời.
Tin Mừng hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta duyệt lại nếp sống của chúng ta. Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu có đem lại cho chúng ta niềm vui trong cuộc sống không? Hay niềm vui của cuộc sống chúng ta là: đi tham trại, đi buôn bán?
Thực khách bị loại ra khỏi tiệc cưới hôm nay là vì không mặc y phục lễ cưới. Y phục lễ cưới của chúng ta là Đức Giêsu. Như lời thánh Phaolô bảo: “Hãy mặc lấy Đức Kitô” (Gl. 3,27). Hãy để cho Đức Chúa Kitô chiếm ngự tâm hồn chúng ta, hầu cho niềm vui ơn cứu độ đưa chúng ta vào tiệc Nước Trời. (Theo “Lẽ sống”, tập 2)
2. Chối từ
Trong tập sách “Những mảnh vụn suy tư”, linh mục Albert Limet có ghi lại:
“Một buổi sáng, tôi bước ra khỏi nhà, lòng tràn ngập hớn hở. Bỗng tôi thấy một người lạ mặt đi về phía tôi, tôi vui vẻ chào chúc ông mọi điều may mắn tốt lành; nhưng thay vì vui vẻ đáp lại ông ta tỏ vẻ giận dữ, nói liên tục:
– Tôi không biết ông. Tôi không cần biết ông là ai. Tôi không cần lời chào chúc của ông. Tôi không tin có Thiên Chúa. Tôi không cần Ngài, và tôi nhất định không bao giờ cần Ngài…”
Phản ảnh dữ dội của người khách lạ khiến linh mục phải suy nghĩ trong nhiều ngày. Cha ghi tiếp trong tập sách: “Tôi cảm thấy thương người khách lạ đó hơn là giận ghét. Có lẽ ông đang khổ tâm vì công việc làm ăn của ông thất bại. Có thể ông đang bận quá nhiều công ăn việc làm, không thể nhận lời chào chúc tốt lành của tôi, cũng không thể nhận thấy tinh yêu của Thiên Chúa!…”
Câu chuyện trên đây minh họa thái độ từ khước của những thực khách được vua mời dự tiệc cưới trong Tin Mừng hôm nay. Người khách lạ không nhận lời chào chúc của linh mục Albert Limet vì công việc làm ăn, các thực khách được mời dự tiệc cưới cũng vì đi thăm trại, đi buôn bán mà khước từ dự tiệc.
Đối với Chúa cũng thế. Nhiều lần chúng ta từ chối ơn Chúa, lắm khi chúng ta khinh thường Lời Chúa mời gọi vào dự tiệc hạnh phúc Nước Trời của Chúa, vì coi của cải vật chất, danh vọng chức quyền ở đời, lạc thú xác thịt quý hơn Nước Trời, trọng hơn hạnh phúc vĩnh cửu. Như thế chẳng phải chúng ta đánh giá các giá trị sai lầm sao?
Chúa Giêsu mượn đoạn Tin Mừng hôm nay, hay nói đúng hơn “dụ ngôn tiệc cưới” trên đây để cho chúng ta biết: Chúa không trách chúng ta lo cuộc sống vật chất, vì ai trong chúng ta cũng phải sống thực tế hằng ngày. Nhưng Chúa trách những ai chỉ biết lo cho hiện tại mà không nghĩ gì đến tương lai. Điều sai lầm lớn nhất mà Chúa vạch ra cho chúng ta là chỉ lo cho hiện tại mà không đếm xỉa gì đến tiệc Nước Trời, thậm chí còn từ chối lời mời gọi của Chúa, còn nhục mạ và hành hạ các sứ giả Chúa sai đến nhắc nhở chúng ta. Chúa kêu gọi chúng ta: “Thiên vàn các con hãy tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính của Người, còn mọi sự khác Người sẽ lo cho các con” (Theo “Ánh sáng thế gian”).
3. Đi tìm kho báu
Một người đi tìm kho tàng quý giá. Sau những ngày đi tìm mệt mỏi, ông thấy mình lạc lối. Nhưng may thay, đang lúc lo buồn vì biết mình lạc đường, ông ngước mắt nhìn về trước thì thấy một lâu đài tráng lệ. Trước cổng lâu đài có tấm bảng với hàng chữ lớn: Xin mời vào.
Ông sung sướng tiến đến lâu đài. Đứng trước cổng, ông ngạc nhiên thấy nhiều người lữ hành đi ngang qua cũng có vẻ lạc đường và mệt mỏi mà vẫn lê bước đi như không thấy có lâu đài trước mặt. Ông liền đến hỏi người gác cổng lâu đài:
– Sao những khách lữ hành đó không dừng lại để vào lâu đài an nghỉ?
Người gác cổng trả lời:
– Đây là lâu đài hạnh phúc, nhưng là một lâu đài bí nhiệm. Chỉ những ai biết mình lạc lối mới có thể trong thấy. Trái lại, những kẻ tưởng mình đi đúng đường và cứ cắm đầu đi theo đường đó, thì bị mờ mắt không trông thấy lâu đài hạnh phúc.
Câu chuyện ngụ ngôn trên đây nhắc chúng ta nhớ lâu đài hạnh phúc Nước Trời. Chỉ những ai biết mình lầm đường lạc lối mới nhìn thấy mà tin vào. Còn những kẻ tưởng mình đi đúng đường, và cứ cắm đầu đi theo đường đó thì bị mờ mắt không trông thấy mà vào.
Những người từ chối lời mời gọi dự tiệc cưới của nhà vua trong Tin Mừng hôm nay là những kẻ tưởng mình “đi thăm trại, đi buôn bán” là đúng nên khinh thường bữa tiệc vui mừng, coi rẻ thịnh tình của nhà vua.
Đối với tiệc Nước Trời cũng thế. Chỉ khi nào chúng ta nhận thức bữa tiệc đó là hạnh phúc nhất, chúng ta mới hy sinh những hạnh phúc khác để đến tham dự.
Và Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta nhớ tiệc Nước Trời là hạnh phúc nhất, bền vững nhất. Chúng ta cần hy sinh tất cả để đến dự tiệc đó. (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập II).
4. Quê trời vĩnh cửu
Ai đi xa cũng nhớ quê hương đất tổ. Đó là tâm tình tự nhiên mà những kẻ xa quê nhà đều cảm nhận. Đó cũng là nhu cầu không thể bỏ qua trong cuộc sống. Hai chữ “quê nhà” bao giờ cũng gợi lên trong chúng ta một sự êm đềm, hạnh phúc.
Tâm trạng đó giải thích cho nỗi thao thức cùng đích của cuộc sống Kitô hữu là “quê trời vĩnh cửu”.
Ai trong chúng ta, khi làm việc gì cũng nhắm đến cùng đích và cứu cánh của nó.
Con người nỗ lực sống, nỗ lực phấn đấu từng giây từng phút để đạt tới cùng đích của mình, đồng thời cũng chọn cho mình một cách thế sống, như một văn hào Nga đã tâm huyết: “Đời người ai cũng chỉ sống có một lần. Cần sống sao cho khỏi xót xa ân hận”.
Trong Tin Mừng hôm nay, ông vua mời quan khách đến dự tiệc cưới là ám chỉ Chúa mời gọi chúng ta vào dự tiệc Nước Trời là quê hương thật của chúng ta, là quê trời vĩnh cửu, là Thiên Đàng hạnh phúc.
Quê trời vĩnh cửu đó chính là cùng đích và là cứu cánh của người Kitô hữu. Tiệc cưới trong Tin Mừng là hình ảnh quê trời vĩnh cửu đó. Muốn xứng đáng dự tiệc cưới, phải ăn mặc đứng đắn. Chiếc áo cưới trong Tin Mừng tượng trưng cho nếp sống phù hợp với Nước Trời. Được mời vào dự tiệc cưới Nước Trời là một hồng phúc, nên phải đáp lại bằng nếp sống phù hợp với nước đó.
Chiếc áo tượng trưng cho cách sống. Mỗi người chúng ta cần xem lại cách sống của chúng ta, xem cuộc sống hiện tại của chúng ta ra sao. Nó có tốt hơn, đẹp hơn chiếc áo là cách sống của những người không được mời dự tiệc, những người không được ở trong phòng tiệc không?(Theo “Ánh sáng thế gian”).
5. Hạnh phúc thật
Sau đây là kinh nghiệm của một người tìm gặp hạnh phúc thật.
“Tôi là người làm chính trị và cũng là ca sĩ nổi tiếng. Tới đâu, tôi cũng được mọi người hoan nghênh khen ngợi, và họ cảm nghĩ tôi là người hạnh phúc nhất đời. Thế nhưng trong thâm tâm, tôi cảm thấy tôi là kẻ bất hạnh nhất, đến nỗi có lần tôi đã toan tự tử…
Một hôm trên chiếc xe lửa trở về nhà, tôi ngồi đối diện với một người chăm chú đọc sách Kinh Thánh. Một lúc sau, ông ngước mắt nhìn tôi và gợi chuyện:
– Ông là một ca sĩ nổi tiếng. Tôi nghe biết danh tiếng ông.
Tôi đáp:
– Phải đúng vậy.
– Nhưng ông có hạnh phúc không?
Tôi ngập ngừng một lúc rồi thú thật:
– Không hẳn hạnh phúc lắm.
– Xem ra ông thiếu Thiên Chúa trong cuộc sống nên không được hạnh phúc.
Tôi vội vàng đáp:
– Không. Tôi rất hài lòng về cuộc sống của tôi. Tôi có đầy đủ tất cả. Tôi không cần Thiên Chúa.
Nhưng người ấy cứ lặp lại:
– Ông nói thế, chứ thực sự ông cần Thiên Chúa hơn bao giờ hết,
Lời nói của người ấy như sét đánh bên tai tôi. Nó xâm chiếm cõi lòng tôi. Về đến nhà, tôi phải tự nhủ: “Quả thật, người đó nói rất chí lý”.
Hôm sau thấy tôi cần tìm đến người đó, vừa thấy tôi, ông ta vui vẻ hỏi thêm, như để tiếp nối cuộc đối thoại trên xe lửa.
– Ông có muốn được hạnh phúc ngay bây giờ không?
Tôi ngạc nhiên hỏi:
– Làm như ông có sẵn hạnh phúc trong túi vậy?
– Có chứ. Tôi có ngay trong túi đây.
Vừa nói ông vừa rút trong túi ra một cuốn Kinh Thánh nhỏ, trao cho tôi và vui vẻ nói:
– Ông hãy về nhà, đóng cửa phòng lại, mở Kinh Thánh ra mà thầm thỉ: “Lạy Chúa, con chấp nhận Chúa là Chúa của con, là chủ cuộc đời con…”
Tối hôm đó, sau khi vợ con tôi đã đi ngủ, tôi vào phòng và làm như người đó khuyên bảo tôi. Từ ngay đó, niềm vui xâm chiếm tâm hồn tôi. Thiên Chúa thực sự là hạnh phúc duy nhất đời tôi.
Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta, nhất là những người xa lìa Chúa, những kẻ từ chối vào dự tiệc Nước Trời với Chúa, những kẻ gạt Chúa ra bên lề cuộc sống của họ, để chỉ lo bon chen với công ăn việc làm, với việc “đi thăm trại và đi buôn bán” như Tin Mừng hôm nay thuật lại.
Họ chạy theo hạnh phúc mau qua để rồi chỉ còn tồn lại sự trống rỗng tâm hồn. Hạnh phúc chân thật và lâu bền chỉ bắt nguồn từ Thiên Chúa. Và chỉ những ai biết dừng lại, lắng nghe lời mời gọi của Người, trở về với Người, tìm gặp lại Người, dự bữa tiệc với Người mới được hưởng hạnh phúc đích thực Người ban cho. Nói cách khác, chúng ta chỉ thực sự tham dự bữa tiệc hạnh phúc Nước Trời, khi chúng ta chấp nhận để cho Người bước vào trong tâm hồn chúng ta, làm chủ trọn vẹn cuộc sống của chúng ta.
(Theo “Ánh sáng thế gian”).
15. Mời hết vào tiệc cưới – Lm. Trầm Phúc
“Nước Trời giống như…”
Chúng ta đã được nghe nói đến Nước Trời qua nhiều dụ ngôn. Hôm nay, chúng ta hãy suy nghĩ đến một hình ảnh khác của Nước Trời qua dụ ngôn nhà vua mở tiệc cưới cho con mình.
Dụ ngôn này có nhiều điểm tương tự với dụ ngôn mà chúng ta đã nói đến trước đây: dụ ngôn những tá điền sát nhân. Tuy mỗi dụ ngôn đều nhằm một mục đích riêng nhưng cả hai đều nói đến sự từ chối của nhóm Pha-ri-siêu đối với hồng ân cứu độ của Thiên Chúa và thái độ ngoan cố, cực đoan của họ về việc giết các đầy tớ của ông chủ và của nhà vua.
Chúa Giêsu thường dùng hình ảnh tiệc cưới để nêu lên hình ảnh Nước Trời là một bữa tiệc vui. Đó là niềm vui ơn cứu độ.
Dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử này là một tóm lược lịch sử ơn cứu độ. Ơn này được xem như một bữa tiệc cưới; không phải là một tiệc cưới bình thường nhưng là tiệc cưới do nhà vua thết đãi.
Những người được vua mời phải xem như một vinh dự được vua chiếu cố. Đức Vua, chính là Thiên Chúa. Ngài đã tuyển chọn dân Do Thái làm dân riêng của Ngài, nhưng họ không nhận biết hồng ân Chúa ban cho họ, nên họ đã nhiều lần chối từ và phản bội Thiên Chúa. Mặc dù vậy, Chúa vẫn tiếp tục mời gọi họ. Ngài sai các tiên tri đến thúc giục, cảnh báo, và kêu gọi họ trở về với Chúa, nhưng họ càng trở nên ương nghạnh hơn, thậm chí họ còn dám giết chết các tiên tri. Sau cùng, Chúa đã bỏ dân Ngài và kêu gọi các dân tộc khác vào bàn tiệc yêu thương của Ngài.
Dân Do thái đã từ chối Chúa bằng cách không đến dự tiệc cưới. Còn chúng ta, là những người đến sau, là dân mới nhưng được Chúa mời gọi vào dự tiệc của Vua.
Thánh Mat-thêu viết quyển Tin Mừng này cho người Do Thái. Ngài vạch rõ sự cứng lòng của họ. Ngài muốn cho họ thấy rằng, chương trình của Chúa vẫn tiếp tục dù họ từ chối. Chúa kêu gọi tất cả các dân tộc vào dự tiệc của Chúa.
Chúa đã nhẫn nại kêu gọi người Do Thái trở về, nhưng họ càng tỏ ra ngoan cố hơn, đến nỗi giết người Con Một yêu dấu là Chúa Giêsu.
Chúng ta thấy gì? Chối từ ơn Chúa và tình thương của Ngài là một tai họa lớn cho con người.
Những thiên tai, bão lụt, động đất… là những gì đáng sợ; nhưng cái đáng sợ nhất là sống không có Thiên Chúa. Mà sống không có Thiên Chúa, nghĩa là không có tình yêu. Không có tình yêu là khốn nạn, là hỏa ngục. Thiên Chúa không cần sai đạo binh nào đến tiêu diệt những người từ chối lời mời gọi yêu thương của Ngài. Chính con người tiêu diệt lẫn nhau bằng bạo lực, chiến tranh và bằng mọi thứ… mà chúng ta đang chứng kiến hôm nay.
Chúng ta đang sống vào một thời điểm quyết định tương lai của con người. Nhân loại đang đi về đâu? Đó là câu hỏi được đặt ra cho chúng ta hôm nay.
Nếu con người chỉ lo cho bản thân và quyền lợi của mình mà bất cần Thiên Chúa, bất cần người khác, thì sớm hay muộn, chúng ta sẽ hủy diệt lẫn nhau. Hình ảnh của thế chiến thứ ba đang chập chờn trước mắt chúng ta… Thế giới chúng ta đang lâm nguy vì ô nhiễm… Ai có thể cứu thế giới? Những cuộc hội họp quốc tế có đem lại kết quả gì không?
Giêrusalem đã chối từ và Chúa Giêsu phải rơi lệ: “Giêrusalem, Giêrusalem, biết bao lần Ta đã muốn ấp ủ ngươi như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh, nhưng ngươi đã từ chối…”
Và hậu quả là “Không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào.”
Chúng ta có hơn dân Do Thái xưa kia không? Chúng ta có chăm chú nghe lời mời gọi của Chúa không? Hay chúng ta vẫn chối từ, vẫn cứng lòng?
Chúng ta đã đáp lại tiếng mời gọi của Chúa như thế nào?
Ai trong chúng ta cũng biết rằng: “Chúa đã yêu tôi và đã liều mạng sống vì tôi.” Hằng ngày Chúa vẫn mời gọi chúng ta vào bàn tiệc yêu thương của Chúa. Ngài đến với chúng ta qua tấm bánh, nuôi dưỡng chúng ta bằng Thịt Máu Ngài, chúng ta đáp lại như thế nào? Chúng ta đòi hỏi Chúa phải làm gì nữa để chúng ta yêu Ngài?
Nhiều người vẫn không thèm đến dự tiệc của Vua: “người thì đi thăm trại, người thì đi buôn…” Bàn tiệc đã sẵn, nhưng khách mời không đến dự. Họ khinh thị nhà vua, họ còn làm nhục và giết cả những thuộc hạ của vua sai đến mời họ. Họ khiêu khích đến mức độ như thế, hậu quả sẽ như thế nào? Vua sai quân triệt hạ thành phố của họ, và sau cùng, vua sai gia nhân mời tất cả những người ngoài đường phố vào bàn tiệc của vua. Những khách được mời đã từ chối, những người khác được nhờ.
Chúng ta nghĩ thế nào khi chúng ta mở tiệc mời những người thân, những người hàng xóm đến dự, nhưng mọi người đều từ chối, họ đưa ra mọi lý do để không đến? Chúng ta sẽ thất vọng như thế nào?
Nhưng Thiên Chúa vẫn không thất vọng, vì Ngài mãi mãi yêu thương, và Ngài vẫn tiếp tục mời gọi. Bàn tiệc của Ngài luôn sẵn sàng, nhưng chúng ta không đến vì quá bận. Chân trời của chúng ta hẹp hòi, chúng ta ham thích bữa tiệc thế gian hơn bữa tiệc Vua Trời, quyền lợi vật chất của chúng ta quan trọng hơn hồng ân của Chúa. Chúng ta lầm tưởng rằng, thế gian sẽ đem lại cho chúng ta hạnh phúc, mà quên rằng, chỉ một mình Chúa mới là hạnh phúc độc nhất mà thôi.
Chúng ta là khách mời của Chúa. Đây chính là vinh dự lớn lao, nhưng có mấy người hiểu được điều đó? Nhiều người nghĩ rằng Chúa đòi buộc họ quá đáng. Theo Chúa, dự vào bàn tiệc của Chúa không có lợi, vì Chúa không cho họ tiền bạc, danh vọng, và tiện nghi.
Chúng ta hãy nghĩ đến những chối từ của chúng ta. Bao nhiêu lần chúng ta đã phản bội? Bao nhiêu lần chúng ta vì ham mê tiền bạc, của cải đã bỏ quên việc thờ phượng Chúa?
Chúng ta có tốt hơn mấy ông Pha-ri-sêu mà Chúa đã cảnh báo không?
Làm sao chúng ta vào bàn tiệc yêu thương của Chúa với chiếc áo nhơ nhớp, đầy hận thù, tham lam và tranh chấp?
Bàn tiệc của Chúa là một tiệc cưới của hoàng tử. Hoàng tử là Con Chúa Cha hằng hữu đã đến trần gian, cưới một người phàm là nhân loại.
Tất cả chúng ta là cô dâu, một người hèn mạt và xấu xa, nhưng được Thiên Chúa yêu thương trọn vẹn… Hoàng tử thần thiên kia đã yêu thương người vợ nhân loại này đến nỗi quên hết tất cả quyền uy sang trọng của mình, yêu đến nỗi chết cho người mình yêu.
Ai có thể dám chối từ tình yêu của một Hoàng Tử như thế? Và nếu chối từ… thì chỉ còn ngục tối tăm, ở đó họ sẽ khóc lóc nghiến răng…
Hãy mau vào tiệc cưới! Vì tất cả mọi người đều được mời…
Vua Trời không bỏ sót một ai.
16. Cần một tấm lòng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Một trong những cung cách giảng dạy của các danh sư là dùng các câu chuyện kể. Khi sinh thời, Chúa Giêsu cũng đã từng làm người kể chuyện. Cách kể chuyện của Chúa hẳn rất có duyên khiến cho đám đông thính giả say sưa nuốt từng lời, từng câu nói. Chúa Nhật 28 TN A này, Mẹ Hội Thánh cho chúng ta nghe lại câu chuyện Chúa Giêsu kể năm nào: “Nước Trời giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho hoàng tử. Đến hẹn, vua sai gia nhân đi mời quan khách. Ngày xưa, đi dự tiệc cưới của hoàng cung có phải mang theo quà cáp hay phong bì chăng? Ngày nay rất nhiều người cứ đến mùa cưới là như trong tư thế sẵn sàng đi trả nợ đời. Cứ mỗi tấm thiệp mời ăn cưới là một tờ giấy báo nợ không bằng. Tìm được cớ hợp lý để thoái thác tham dự một tiệc cưới kể như lập một chiến công, dù không trọn vẹn, vì cũng phải nhờ người gửi quà biếu, nhưng dẩu sao cũng tiết kiệm được một buổi công làm. Tuy nhiên hầu hết đây là những trường hợp “được hay bị mời”, kiểu phải đáp lễ, ít có liên hệ họ hàng hay thân thuộc.
Trở lại với câu chuyện dụ ngôn Chúa kể. Được vua mời dự tiệc cưới hoàng tử quả là một vinh dự to lớn mà nhiều người thời phong kiến hằng ước ao. Không chỉ vì mình được nhà vua sủng ái mà còn có nhiều vận hội lớn, mỗi khi được dịp vào hoàng cung, được dịp gặp gỡ bao vị quyền chức cao trọng. Hơn nữa, ngôn sứ Isaia đã minh nhiên nói rõ sự hào phóng của đức vua: Thịt thì béo, rượu thì ngon mà khỏi phải trả đồng nào (x. Is 25,6; 55,1). Thế mà những người được mời lại nỡ tâm từ chối với những lý do không chút tương xứng: đi thăm nông trại, đi buôn bán. Có kẻ lại bắt đầy tớ của vua mà hành hạ và giết chết! Không thể hình dung và cũng chẳng thể hiểu được.
Chuyện hình như không thể xảy ra trong đời thường thì lại rất có thể có trong đời sống đức tin, và thực sự đã hiển nhiên với lịch sử đoàn dân được tuyển chọn ngày xưa. Israel, họ được Thiên Chúa ưu ái mời gọi đến hưởng nhận bao ân phúc của Người. Chỉ là một dân nhỏ bé giữa các dân, họ chẳng có gì xứng đáng. Tất thảy chỉ vì tình Chúa bao la. Chúa sủng ái họ cách đặc biệt hơn các dân. Thế mà khi sai các đầy tớ là các sứ ngôn đến mời gọi thì họ lại chối từ và còn nhẫn tâm hãm hại các ngài. Chính sự vô tình và sự nhẫn tâm của họ đã kết án họ, đã loại họ ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Và rồi muôn dân khắp thiên hạ đã được mời vào dự tiệc của Thiên Chúa. Thiên hạ sẽ từ Đông chí Tây, từ Bắc chí Nam đến dự tiệc Nước Thiên Chúa, còn con cái trong nhà sẽ bị loại ra ngoài. Người ta bị loại chỉ vì thiếu một tấm lòng.
Chúa Giêsu kể thêm một câu chuyện khác cũng về tiệc cưới của hoàng tử. Khi đức vua vào phòng tiệc thì thấy một người không mặc y phục lễ cưới. Đi dự một đám cưới mà trên người chỉ có chiếc “may – ô” và cái quần cộc hay với bộ đồ đen của “đám tang” thì quả là xấc xược với đôi tân hôn, với chủ tiệc và với cả quan khách. Lại còn ương ngạnh, không thèm trả lời khi được chất vấn, thì quả là người chẳng coi ai ra gì, đúng hơn là chẳng biết nghĩ đến kẻ khác. Đi dự một lễ hội, tiệc tùng hay đình đám thì chuyện mặc y phục gì, kiểu dáng ra sao, màu sắc thế nào… không nguyên là để làm đẹp bản thân mà tiên vàn là để tôn trọng chủ nhà, tôn trọng nội dung, bầu khí buổi lễ, buổi tiệc… Đã là người biết nghĩ, thì không ai ăn mặc hở hang, lòe loẹt đi dự đám tang và cũng chẳng có ai mặc toàn màu đen đi dự đám cưới.
Nguời không biết nghĩ đến kẻ khác thì không xứng đáng dự tiệc nước trời, vương quốc của tình yêu. Vào đạo, gia nhập Hội Thánh…mà chỉ biết lo cho bản thân mà thôi, cho dù là phần rỗi linh hồn mình, thì không xứng đáng lãnh nhận ân tình của Chúa. Chốn khóc lóc và nghiến răng là nơi dành cho những kẻ chỉ biết sống cho riêng mình.
Được làm con cái Chúa thì phải lấy danh Chúa làm trọng. Nguyện xin cho danh Cha cả sáng. Được làm tín hữu trong Hội Thánh thì phải mến yêu người mẹ sinh ta trong đức tin. Xin gìn giữ Hội Thánh Chúa trong chân lý và binh an. Được làm con dân nước Việt thì phải đồng hành với dân tộc trong mọi hoàn cảnh lịch sử. Xin cho quê hương được thái bình thịnh vượng trong công lý. Những lời cầu xin cũng là những ý chỉ định hướng cuộc đời ta, hành vi của ta.
Những ngày vừa qua, truyền thông đại chúng nước nhà đất Việt chúng ta đã dùng xảo kế làm méo mó chân dung một vài đấng bậc trong Hội Thánh, gieo rắc ác cảm nơi tâm hồn nhiều bà con lương dân và khác đạo. Chính quyền Hà Nội lại còn dùng bạo lực đối xử cách bất công với nhiều tín hữu Công giáo. Là người đang cùng chung bữa căn nhà Hội Thánh, chúng ta hẳn đau xót cách này cách khác. Thế nhưng, sau một vài ngày, một vài tuần, lòng ta có lại dửng dưng như chưa có chuyện gì xảy ra? Hy vọng rằng sẽ chẳng có ai tự bằng lòng với một vài lời kinh hiệp thông cầu nguyện để che dấu tấm lòng ích kỷ chỉ lo cho riêng mình, sợ bị phiền toái, sợ bị bách hại hay sợ ảnh hưởng đến đường thăng tiến tương lai.
Trước tình cảnh đất nước nhiễu nhương vì nạn tham nhũng, gian dối, bạo lực, bất công… là đồng bào, là người con cùng một dạ mẹ tổ quốc, chúng ta có dừng lại ở một vài xuýt xoa, than thở, tán gấu vĩa hè…để rồi phủi tay xem như chuyện của người khác phải lo, phải liệu, chứ không phải của tôi? Hy vọng rằng sẽ chẳng có ai đóng khung các mối lo toan bằng vòng tay của bản thân hay các cánh cửa gia đình riêng mình.
Lạy Chúa xin cho chúng con có một tấm lòng.
17. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Qua hình ảnh bàn tiệc, các ngôn sứ đã thử mô tả niềm vui tương lai của những người công chính trong thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, đồng thời ơn cứu độ và muôn vàn thiên ân đa dạng vào thời Thiên Sai. Bàn tiệc thời Cánh Chung hay bàn tiệc thời Thiên Sai trộn lẫn với nhau ít nhiều trong cùng một biểu tượng.
Is 25: 6-9
Trong Bài Đọc I, được trích từ “sấm ngôn khải huyền của I-sai-a”, bàn tiệc mà Thiên Chúa thiết đãi muôn dân là bàn tiệc thời Cánh Chung cũng là bàn tiệc thời Thiên Sai. Đây là niềm hân hoan khôn tả của những người được tuyển chọn, vì mọi đau khổ và sự chết đều hoàn toàn biến mất trong Nước Trời.
Pl 4: 12-14, 19-20
Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô bày tỏ tấm lòng tri ân đối với cộng đoàn Phi-líp-phê nầy. Trái với thông lệ vốn có của mình, thánh Phao-lô đã chấp nhận sự giúp đỡ vật chất của họ khi thánh nhân gặp phải sự khốn khó trong cảnh giam cầm.
Mt 22: 1-14
Tin Mừng thuật lại dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử được Đức Vua thiết đãi cho các vị quan khách thân hữu của mình. Tuy nhiên các vị quan khách lại từ chối, vì thế lời mời được gởi đến tất cả mọi người.
BÀI ĐỌC I (Is 25: 6-9)
Trong văn mạch của các chương 24-27, bản văn được trích dẫn là một phân đoạn đặc thù của sách I-sai-a, thuộc thể loại sấm ngôn khải huyền. Người ta nghi ngờ tác giả của phân đoạn nầy không phải là ngôn sứ I-sai-a, bởi vì văn phong và tư tưởng thuộc thời đại sau nầy. Viễn cảnh của đoạn văn này là thời Cánh Chung (25: 6-8) và thời Thiên Sai (25: 9). Hình ảnh bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi muôn dân diễn tả ơn cứu độ phổ quát và niềm hân hoan khôn tả của những người được tuyển chọn.
1. Viễn cảnh thời Cánh Chung:
“Ngày ấy, trên núi nầy,
Đức Chúa các đạo binh sẽ thiết tiệc đãi muôn dân một bữa tiệc” (Is 25: 6a)
“Trên núi nầy”, đó là ngọn đồi Si-on trên đó Đền Thờ được xây dựng. Theo ngôn ngữ khải huyền, “núi Si-on” chỉ thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, nơi Thiên Chúa thiết tiệc đãi “muôn dân muôn nước”. Ơn gọi phổ quát của núi thánh đã được ngôn sứ I-sai-a loan báo, chính xác vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên:
“Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa
đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao,
vươn mình trên hết mọi ngọn đồi.
Dân dân lũ lượt đưa nhau tới,
nước nước dập dìu kéo nhau đi.” (Is 2: 1-5).
Cũng chính vị ngôn sứ này nhắc lại:
“Vì Đức Chúa các đạo binh hiển trị
trên núi Si-on và tại Giê-ru-sa-lem” (Is 24: 23).
Vào thời hậu lưu đày, ngôn sứ Da-ca-ria cũng loan báo theo cùng một cách như thế: “Các dân đông đảo và các nước hùng cường sẽ đến tìm kiếm Đức Chúa các đạo binh ở Giê-ru-sa-lem” (Dcr 8: 22). Thời cánh chung sẽ là giờ Đức Chúa hiển trị. Bữa tiệc cánh chung là bữa tiệc của Đức Vua. Đức Giê-su sẽ lấy lại chủ đề nầy trong dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử.
Chất lượng tuyệt hảo của thức ăn thức uống nhấn mạnh tấm thịnh tình của Thiên Chúa đối với các quan khách mời:
“Tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon,
thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25: 6b).
Cho đến lúc đó, trong các hy lễ, “thịt béo” luôn luôn được dành riêng để dâng tiến Chúa (Lv 3: 3-5, 9-11, 14-15). Điều đó muốn nói lên rằng con người sẽ được dự phần vào những thiện hảo được dành riêng cho chỉ một mình Thiên Chúa.
Trong Kinh Thánh, rượu luôn luôn là dấu chỉ của niềm vui. Vào dịp nầy, đây là một niềm vui vĩnh viễn bởi vì:
“Trên núi nầy, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân,
và tấm màn trùm lên muôn nước.
Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần
Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ
trên khuôn mặt mọi người,
và trên toàn cõi đất, Người sẽ xóa sạch
nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy” (Is 25: 7-8)
Sách Khải Huyền Gioan sẽ lấy lại viễn cảnh chứa chan hy vọng nầy: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21: 4).
2. Viễn cảnh thời Thiên Sai (25: 9)
Sấm ngôn hoàn tất với cuộc hội ngộ vượt quá niềm mong đợi:
“Ngày ấy, người ta sẽ nói: ‘Đây là Thiên Chúa chúng ta,
chúng ta từng trong đợi Người, và được Người thương cứu độ” (25: 9a)
và một niềm hân hoan chưa bao giờ dám ước mơ:
“Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông.
Nào chúng ta hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ” (25: 9b).
Niềm vui viên mãn, sự no thỏa dư dật cũng sẽ là những dấu hiệu của thời Thiên Sai như tiệc cưới Ca-na hay phép lạ hóa bánh ra nhiều, cả hai đều là dấu chỉ của bàn tiệc thời Thiên Sai đích thật là bàn tiệc Thánh Thể: “Hãy cầm lấy mà ăn”.
BÀI ĐỌC II (Pl 4: 12-14, 19-20).
Với đoạn trích nầy, chúng ta kết thúc thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê. Xin nhắc lại rằng thánh Phao-lô viết bức thư nầy khi thánh nhân đang sống trong cảnh giam cầm ở Rô-ma hoặc ở Ê-phê-xô. Các tín hữu Phi-líp-phê đã giúp đỡ ngài, vả lại đây không là lần đầu tiên (Pl 4: 16). Quả thật, các tín hữu Phi-líp-phê là cộng đoàn độc nhất mà thánh nhân đã không từ chối sự giúp đỡ vật chất của họ. Thánh nhân luôn luôn bận lòng là không bao giờ để cho mình phải trở thành gánh nặng cho các cộng đoàn mà ngài loan báo Tin Mừng để không bao giờ làm hại đến sứ vụ của ngài. Để người ta có thể tin rằng lời loan báo Tin Mừng của ngài là vô vị lợi, thánh nhân đã không ngừng lặp đi lặp lại Tin Mừng mà ngài đem đến là một ân ban nhưng không. Với tư cách là “tôi tớ” của Đức Kitô, thánh nhân không mong chờ bất kỳ bổng lộc nào. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, thánh nhân đã lao động bằng chính bàn tay của mình để chi cấp cho nhu cầu của mình: “Chúng tôi phải vất vả và tự tay làm lụng. Bị nguyền rủa, chúng tôi chúc lành; bị bắt bớ, chúng tôi cam chịu” (1Cr 4: 12). Khi từ chối sự giúp đỡ của các tín hữu, thánh Phao-lô muốn họ hiểu rằng ngài không muốn bị ràng buộc với bất cứ ai và quyết tâm gìn giữ sự tự do của mình để Tin Mừng mà ngài rao giảng không gây trở ngại cho bất kỳ ai, như ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Chúng tôi chịu đựng tất cả mọi sự để khỏi gây trở ngại cho Tin Mừng của Đức Kitô” (1Cr 9: 12).
Tuy nhiên, do mối quan hệ thân tình và niềm tin tưởng gắn bó của thánh nhân với các tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô chấp nhận sự giúp đỡ của họ, vì biết rằng nghĩa cử của họ biểu lộ tấm lòng yêu mến chân thành đối với ngài. Thánh Phao-lô tế nhị cám ơn họ và xin họ đừng bận lòng thái quá đối với ngài, vì thánh nhân biết hài lòng trong mọi sự và thích nghi với mọi hoàn cảnh. Ở đây, người ta có thể gặp lại cách nói tương tự dưới ngòi bút của các triết gia khắc kỷ như Ēpictète hay Sénèque. Nhưng trong khi các hiền triết xưa múc lấy nguồn bình an tự tại nơi chính mình, thánh Phao-lô đánh dấu sự khác biệt: thánh nhân múc lấy sức mạnh của mình chỉ từ Đức Kitô, Đấng đang sống trong thánh nhân.
Thánh Phao-lô bày tỏ tấm lòng biết ơn chân thành của ngài đối với các tín hữu Phi-líp-phê, bởi vì thánh nhân biết rất rõ cộng đoàn Phi-líp-phê không giàu có gì. Quả thật, trong bức thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô về việc lạc quyên giúp Giáo Hội Giê-ru-sa-lem, chúng ta đọc thấy những lời nầy khi thánh nhân nói về các tín hữu Phi-líp-phê: “Trải qua bao nỗi gian truân, họ vẫn chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ trở nên những người giàu lòng quảng đại. Họ tự nguyện theo sức họ, và tôi xin làm chứng là quá sức họ nữa” (2Cr 8: 2-3). Dù không muốn nhận bất kỳ sự giúp đỡ của bất cứ ai, thánh Phao-lô biết rằng những quà tặng của các tín hữu Phi-líp-phê vượt quá con người của ngài. Chúng đẹp lòng Thiên Chúa. Đó thật sự là một sự giàu có tinh thần. Thánh nhân có thể nói với các tín hữu Phi-líp-phê: “Họ đầy công đức vì những việc lành và bố thí họ đã làm”, như thánh Lu-ca nói về bà Ta-bi-tha ở Gia-phô: “Bà này đầy công đức vì những việc lành và bố thí bà đã làm” (Cv 9: 36). Vì thế, họ phải tôn vinh Thiên Chúa.
Trong phần cuối, trước tiên thánh nhân nói về “Thiên Chúa của tôi”, vì Thiên Chúa sẽ thay thánh nhân trả công bội hậu cho những người làm phúc cho thánh nhân; tiếp đó “Thiên Chúa là Cha chúng ta”, vì Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ bi nhân hậu sẽ săn sóc các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 22: 1-14).
Dụ ngôn “tiệc cưới” hôm nay cùng với hai dụ ngôn đi trước: “hai người con” và “những tá điền gian ác”, hình thành nên một bức tranh bộ ba theo cùng một chủ đề: vì bất trung với sứ mạng của mình, dân được tuyển chọn sẽ được thay thế bởi lương dân. Tuy nhiên, có một sự tiến triển: Dụ ngôn “tiệc cưới” nhấn mạnh ơn cứu độ phổ quát. Dụ ngôn nầy chứa đựng hai bài học: “tiệc thời Thiên Sai” (22: 1-10) và “tiệc thời Cánh Chung” (22: 11-14), cả hai viễn cảnh nầy rất thường được đặt chồng chéo lên nhau (như trong trường hợp Bài Đọc I).
1. Tiệc thời Thiên Sai (22: 1-10)
Như trong sấm ngôn khải huyền của Bài Đọc I, hình ảnh bàn tiệc gợi ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài trong niềm vui cứu độ. Trong dụ ngôn, Đức Vua đại diện Thiên Chúa, Người Con đại diện Đấng Mê-si-a, và tiệc cưới biểu tượng giao ước mới, giao ước vĩnh viễn của Thiên Chúa với nhân loại. Nhưng các quan khách được mời không thèm đếm xỉa tới giao ước mới nầy, đó là dân Ít-ra-en, họ từ chối nhận ra Người Con là Đấng Mê-si-a. Vài khách mời còn đi xa hơn nữa, họ ngược đãi và sát hại các gia nhân của vua, tức là các ngôn sứ thời Cựu Ước và các tông đồ thời Tân Ước.
“Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng”: Thái độ như thế được đặt vào trong bối cảnh Kinh Thánh: những án phạt của Đức Chúa, nhưng dường như ở đây là một trong những lời tiên báo trực tiếp của Đức Giê-su về biến cố đạo quân Rô-ma tàn phá Giê-ru-sa-lem vào năm 70 sau Công Nguyên. Vài nhà chú giải thấy ở đây không là một lời tiên báo, nhưng lời nhắc nhở về một biến cố đã xảy ra. Tuy nhiên, trong câu chuyện đối chiếu của Lu-ca (14: 15-24), không có chi tiết nầy. Vì thế, người ta có thể nghĩ chi tiết nầy đã được thêm vào Tin Mừng Mát-thêu sau các biến cố nầy.
Các quan khách đã được mời nhưng không đến. Mỗi người đã theo đuổi lợi ích riêng của mình. Họ đã không đáp trả lời mời, từ chối dự phần vào vương quốc thiên sai, hình ảnh của Giáo Hội.
Thành phố bị thiêu hủy, tuy nhiên, tiệc cưới vẫn được tiến hành. Các quan khách từ chối lời mời được thay thế. Lời mời gọi được vang lên khắp các ngã đường: “Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai thì mời hết vào tiệc cưới”. Dụ ngôn nhấn mạnh tính nhưng không của lời mời gọi: Gia nhân liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại”. Như vậy, toàn thể nhân loại, không phân biệt chủng tộc, được mời gọi thế chỗ dân Ít-ra-en bất trung.
Trong cùng một câu chuyện, thánh Lu-ca ghi nhận các đầy tớ ra các ngã đường đến hai lần (Lc 14: 21-24). Trong lần thứ nhất, các đầy tớ mời các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào tham dự tiệc cưới; trong lần thứ hai, tất cả những khách qua đường. Có lẽ thánh Lu-ca đã nghĩ trước hết đến những “người nghèo của Đức Chúa”, những người mà chính Đức Giê-su đã ưu ái đặc biệt; còn họ đã hoan hỉ tiếp đón Tin Mừng và dự phần vào niềm vui thời Thiên Sai, vì thế, họ không thể nào bị loại ra ngoài. Hạng người thứ hai là lương dân, đây là nét tinh tế của thánh Lu-ca khi đề cập đến hạng người nầy.
2. Tiệc thời Cánh Chung (22: 11-14)
Từ tiệc thời Thiên Sai, dụ ngôn chuyển sang tiệc thời Cánh Chung. Vả lại, dụ ngôn ngắn về một khách mời bị loại trừ có thể tự ban đầu đã là một dụ ngôn độc lập. Quả thật, có sự khác biệt đáng kể giữa phần trước và phần tiếp theo nầy. Trong bàn tiệc thời Thiên Sai, mọi người đều được mời tham dự, dù tốt hay xấu, công chính hay tội lỗi, dân Do thái hay dân ngoại. Thật ra, đó không phải là lời mời gọi của Đấng Thiên Sai đặc biệt gởi đến những người tội lỗi hay sao? Trái lại, trong bàn tiệc thời Cánh Chung, nghĩa là trong Nước Trời, người ta chỉ được phép dự tiệc khi mặc y phục của những người công chính. Đức Vua nói: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà không có y phục lễ cưới?”. Trong Tin Mừng Mát-thêu, lời chất vấn nầy luôn luôn hàm chứa sắc thái khiển trách, như ông chủ vườn nho đáp lại lời kêu ca của người thợ làm vườn nho ngay từ sáng sớm: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn” (Mt 20: 13), hay Đức Giê-su nói với ông Giu-đa, kẻ dẫn người đến bắt Ngài: “Nầy bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi” (Mt 26: 50).
Ấy vậy, trong dụ ngôn này, làm thế nào có thể khiển trách người khách nầy không mặc y phục lễ cưới khi anh ta được mời cách bất ngờ từ ngoài đường vào phòng tiệc? Vài nhà chuyên môn giải thích rằng tại vài dân tộc Đông Phương, gia chủ đã tiên liệu vài y phục lễ cưới cho khách mời ở lối vào tiệc cưới. Tuy nhiên, một tập tục như vậy không được chứng thực ở Ít-ra-en. Vì thế, không nên quá coi trọng vài chi tiết nhỏ nhặt của dụ ngôn. Ý nghĩa thì rõ ràng. Người ta không được dự phần vào bàn tiệc Nước Trời nếu như đã không chu toàn những đòi hỏi sứ điệp Tin Mừng.
Câu cuối: “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít” rõ ràng không ăn nhập với toàn bộ dụ ngôn trong đó có một số lượng lớn khách mời dự tiệc trong khi chỉ riêng một người bị loại. Đúng hơn lời cuối nầy có liên quan đến phần thứ nhất của dụ ngôn, theo đó có ít người dân Ít-ra-en, dân được tuyển chọn, được dự phần vào bàn tiệc thời Thiên Sai, trong khi so sánh với muôn dân muôn nước hân hoan tiếp đón Tin Mừng và gia nhập Giáo Hội.
18. Nếu cuộc sống thiếu tình yêu?
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ở đời có yêu nhau người ta mới dám hy sinh dành thời giờ cho nhau, mới hy sinh làm vui lòng nhau. Có yêu nhau người ta mới chẳng quản ngại ngăn sông cách núi để “Tam tứ núi cũng trèo – Thất bát sông cũng lội, thập cửu đèo cũng qua”. Ngược lại nếu không có tình yêu thì cuộc đời sẽ không có hy sinh và càng không cần làm vui lòng nhau. Phải chăng đó cũng là lối cư xử thiếu tình yêu của con người đối với Thiên Chúa mà bài tin mừng hôm nay Chúa Giêsu đề cập đến? Phải chăng lời Chúa hôm nay là bức tranh tương phản giữa tình yêu quảng đại của Thiên Chúa và thái độ vô ơn, bất kính của con người?
Thiên Chúa là chủ tiệc. Thiên Chúa thiết đãi một bữa tiệc chứa chan hạnh phúc cho con người. Nhưng tiếc thay, con người đã từ chối lòng tốt của Thiên Chúa. Ngay từ đầu trong vườn địa đàng, Adam đã từ chối chung bàn với Thiên Chúa. Ông muốn loại trừ Thiên Chúa. Ông muốn bước đi theo lối đi của ông. Một lối đi theo ý mình. Một lối đi không có Thiên Chúa. Hậu quả là đau khổ và sự chết đã đi vào kiếp người. Cũng từ đây tình yêu của Thiên Chúa theo đuổi con người suốt dọc dài lịch sử ơn cứu độ. Thiên Chúa vẫn tiếp tục kiên nhẫn mời gọi, dẫn dắt con người trở về trong sự hiệp nhất với Ngài. Các tiên tri và Chúa Giêsu đều dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về niềm vui của sự xum vầy bên Chúa và bên nhau trong hoan lạc hạnh phúc.
Thế nhưng, cho thì nhiều mà đáp trả chẳng bao nhiêu. Con người qua mọi thời đại vẫn tìm nhiều cách để khước từ lời mời gọi đầy yêu thương của Chúa. Nhiều người vẫn đang tìm cho mình một lối đi không có Thiên Chúa. Họ muốn tự hành xử theo ý mình và bắt người khác theo ý mình. Một thế giới không có Thiên Chúa chỉ dẫn đến chiến tranh hận thù, nghị kỵ và kết án lẫn nhau. Một thế giới không có Thiên Chúa sẽ dẫn đến một nhân loại gồm toàn những người quá đề cao cái tôi đến nỗi chẳng ai chịu nghe ai. Đó là kinh nghiệm đắng cay nhưng đáng tiếc, chẳng mấy ai chịu sửa sai!
Có nhiều người hôm nay nhân danh đạo tại tâm để từ chối việc đến nhà thờ, ngay cả thánh lễ Chúa nhật họ vẫn dửng dưng xem thường. Họ cho rằng đạo tại tâm là không cần biểu lộ ra bên ngoài nhưng họ quên rằng cái tâm đó phải thể hiện ra bên ngoài bằng thái độ giữ đạo chân thành, không giả dối, không khoe trương. Đây là điều mà Chúa Giêsu đã từng nói: “nghe và thực hành Lời Chúa” mới là điều quan trọng. Và chính Chúa thêm rằng: “Ai xưng mình là môn đệ của Thầy trước mặt người đời, thì Thầy mới xưng nó trước mặt Cha Thầy”.
Có nhiều người viện lý do ghét người này người nọ để từ chối việc đến nhà thờ. Họ cho rằng “tin đạo nhưng không tin người có đạo”. Điều đó có thể đúng, nhưng không thể “vơ đũa cả nắm” càng không thể “đánh lận con đen”, Đạo và người có đạo như nhau. Đạo là đường. Người có đạo đang đi trên con đường đó. Đường ta ta đi. Tại sao vì một vài người mà mình lại bỏ đạo? Tại sao ta không tiếp tục đi để nâng đỡ anh em đang vấp té trên đường? Tại sao ta không trở thành bạn đồng hành để giúp anh em sai lỗi biết sống và thực hành đạo? Xem ra đó chỉ là nguỵ biện cho thái độ từ chối thông hiệp với Thiên Chúa của chính mình!
Bên cạnh những người bỏ đạo còn có những người lấp lửng nửa vời. Họ nại vào lý do “có thực mới vực được đạo”. Họ không đi lễ vì phải lo kế sinh nhau. Lo đồng tiền bát gạo trước, rồi khi rãnh mới tranh thủ đi lễ. Họ là những người thờ thần tài trên cả Thiên Chúa. Họ say mê tìm kiếm của cải trần gian mau qua, mà lãng quên giá trị vĩnh cửu là Nước Trời. Họ là những người sống theo chủ nghĩa thực dụng. Cái gì có lợi trước mắt là làm ngay. Họ quên rằng: mọi sự thế gian này sẽ qua đi, và những gì họ đã một đời bán mạng để tìm kiếm cũng thuộc về người khác. Công việc tìm kiếm danh vọng của họ chỉ là “dã tràng xe cát biển đông”.
Hình ảnh vị khách đã không mặc áo “xứng kỳ đức” có thể là chính chúng ta. Những người mang danh ky-tô hữu nhưng không có nếp sống phù hợp với tư cách của người môn đệ Chúa. Chúng ta vẫn khoác trên mình biết bao thói hư tật xấu, biết bao những đam mê lầm lạc. Chúng ta chưa dám mặc lấy Đức Ky-tô. Chúng ta không dám sống như lời thánh Phaolo đã từng nói: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Ky-tô sống trong tôi”. Vì thế, cuộc đời chúng ta vẫn đầy những lầm lạc, gian dối và tội lỗi.
Phải chăng, bài dụ ngôn này là lời nhắc nhở chúng ta hãy chỉnh đốn lại lối sống cho phù hợp với tình yêu của Thiên Chúa? Hãy nhìn lại tương quan của mình với Thiên Chúa cho đúng, để có cách sống cho phù hợp. Chúng ta là thụ tạo hãy biết lệ thuộc vào Đấng tạo hoá. Chúng ta là tôi tớ hãy sống theo ý của chủ. Chúng ta là môn đệ của Chúa hãy từ bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới. Con người của ân sủng không bị lệ thuộc vào những đam mê thấp hèn làm mờ lương tri. Chúng ta là con Chúa hãy sống thông hiệp với Chúa và với nhau để xây dựng một thế giới hiệp nhất, yêu thương, thắm đượm tình Chúa tình người.
Ước gì chúng ta luôn biết chọn Chúa làm gia nghiệp thay cho những phù vân ở đời mau qua. Ước gì chúng ta luôn trân trọng tình Chúa để dám dành thời giờ cho Chúa hơn là lao mình vào những danh vọng trần gian. Xin Chúa giúp chúng ta gìn giữ nét đẹp của phẩm giá con người bằng chiếc áo ân sủng của Chúa luôn gìn giữ chúng ta trong sạch và tinh tuyền. Amen.
19. Ăn Bánh Trường Sinh
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Năm 2005, Hội Đồng Giám Mục Anh đã cho phát hành bản báo cáo dài 90 trang do Đức Giám Mục John Hine soạn thảo trên cơ sở một cuộc điều tra kéo dài hơn một năm. Với hơn 15,000 gia đình Công Giáo về một vấn đề duy nhất là tại sao người ta không đi nhà thờ ngày Chúa Nhật.
Qua điều tra người ta nhận định rằng: 1/ chủ nghĩa vật chất, 2/ tình trạng tài chính khó khăn, và 3/ lề lối làm việc hiện đại là ba yếu tố chính đẩy đưa người ta đến chỗ bỏ lễ ngày Chúa Nhật.
Ở thời đại hôm nay người ta bỏ lễ ngày Chúa nhật rất dễ dàng. Người ta viện vào nhiều lý do để hợp thức hóa cho việc bỏ lễ. Họ cho rằng cuộc sống luôn phải làm việc vất vả để kiếm ăn. Họ còn phải chạy đua theo những tiện nghi vật chất. Cuộc sống quá vất vả, căng thăng vì cơm áo gạo tiền khiến người ta quá mệt sau một tuần vật lộn với cuộc sống. Tâm trí không thảnh thơi. Thân xác thì mệt mỏi khiến họ chỉ muốn tìm giây phút thư giãn qua việc giải trí, mua sắm…
Tệ hơn nữa là nhiều người vẫn coi nhẹ việc tham dự thánh lễ. Thánh lễ không phải là việc tối quan trọng. Thánh lễ chỉ là tùy phụ rảnh thì đi, bận thì thôi. Hay tệ hơn nữa, là lạm dụng lòng thương xót Chúa, bỏ lễ rồi xưng tội là xong!
Ở miền quê chúng tôi chỉ cần một cơn mưa nho nhỏ cũng khiến người tham dự thánh lễ vơi đi. Xem ra chỉ cần một khó khăn nho nhỏ cũng là lý do để họ bỏ lễ.
Chúa Giêsu ví Nước Trời là một bữa tiệc. Thiên Chúa mời mọi người vui lòng đến dự bữa tiệc do Ngài thiết đãi. Thế nhưng người ta nại vào nhiều lý do để không tới dự tiệc. Đa phần cũng chỉ vì công việc, vì nhu cầu vật chất, vì cuộc sống bận rộn khiến họ chú tâm vào cuộc sống phần xác mà quên dành thời giờ cho phần hồn. Họ khước từ vì họ còn mải mê với nhu cầu vật chất trần gian.
Bữa tiệc Nước Trời chính là bữa tiệc cánh chung. Đó là bữa tiệc Thiên Chúa khoản đãi cho tất cả những ai đón nhận lời mời của Ngài. Thiên Chúa mời gọi không phân biệt chủng tộc, màu da. Ngài hân hoan chào đón mọi thành phần vào tham dự bữa tiệc. Tuy nhiên, để được dự tiệc Ngài cũng đòi hỏi mỗi người phải khoác chiếc áo dự tiệc. Chiếc áo thể hiện lòng kính trọng với chủ tiệc. Chiếc áo mà Ngài đã trao cho mỗi người khi chấp nhận lời mời bước vào bữa tiệc cánh chung. Đó chính là chiếc áo trắng trong ngày rửa tội. Chiếc áo của ân sủng. Chiếc áo tinh tuyền không tì vết tội lỗi.
Nhưng đáng tiếc, có người đã đánh mất chiếc áo. Có người đã làm bẩn chiếc áo. Có người đã để chiếc áo nhàu nát, rách rưới. Có người đã bỏ lại chiếc áo ân sủng mà khoác trên mình chiếc áo của tính hư nết xấu. Họ đã thiếu y phục cần có khi dự tiệc. Nhìn lại mình nhơ nhớp tội nên không dám bước vào bữa tiệc cánh chung vì không còn xứng đáng với ân huệ của Thiên Chúa.
Bữa tiệc Nước Trời hôm nay còn là bàn tiệc Thánh Thể mà Chúa mời gọi chúng ta hãy đến tham dự. Chính Chúa thiết đãi chúng ta của ăn không bao giờ hư nát chính là bánh trường sinh, vì Ngài đã nói: “Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”. Bánh Thánh Thể của Chúa luôn dành cho mọi người. Không phân biệt màu da sắc tộc. Chúa muốn mọi người đều được quy tụ bên nhau quanh bàn tiệc Thánh Thể. Chúa muốn qua bữa tiệc Thánh Thể này sẽ bảo đảm cho con người sự sống đời đời.
Đó là lý do mà Chúa muốn không trừ một ai mà không đến tham dự bữa tiệc. Ai cũng muốn trường sinh, thì đây là cơ hội để chúng ta sống chính sức sống phục sinh của Chúa. Chúng ta được bồi dưỡng bằng của ăn không hư nát trên hành trình về miền Đất Trường Sinh.
Ước gì chúng ta luôn biết ưu tiên dành thời giờ cho việc tham dự thánh lễ để được rước Thánh Thể Chúa là bánh thánh trường sinh. Ước gì chúng ta luôn biết chuẩn bị lòng mình cho xứng đáng tham dự bàn tiệc thánh. Xin gìn giữ chiếc áo ân sủng hầu xứng đáng tham dự bàn tiệc thánh. Amen.
20. Tiệc cưới, áo cưới – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Dụ ngôn tiệc cưới và chiếc áo cưới trong Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta mặc lấy một trong những tâm tình cơ bản nhất của Kitô giáo, đó là hân hoan, vui mừng. Kitô giáo thiết yếu là đạo của Tin Mừng.
Trong rất nhiều sinh hoạt và hình ảnh của cuộc sống, Chúa Giêsu đã chọn bữa ăn như dấu chỉ ưu việt nhất để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Nước Trời giống như một tiệc cưới, đây là một trong những hình ảnh được Chúa Giêsu sử dụng nhiều nhất để nói lên niềm vui của Nước Trời. Chúa Giêsu cũng mặc cho bữa tiệc của Ngài một ý nghĩa tượng trưng đặc biệt. Chúng ta chỉ cần nhớ lại tiệc cưới Cana, trong đó Chúa Giêsu đã biến nước thành rượu để khách dự tiệc được tiếp tục cuộc vui. Ngài dự tiệc do Lêvi, do Zakêu và rất nhiều người thu thuế khoản đãi; Ngài đồng bàn với họ, chia sẻ một tấm bánh và uống một chén rượu với họ.
Không những đồng bàn với những người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng không từ chối lời mời của những người Biệt phái, những người giàu có. Ngài chia sẻ bữa ăn thân thiết với gia đình Marta, Maria và Lazarô tại Bêtania. Ngài thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng của Ngài với các môn đệ. Sau khi sống lại, Ngài ngồi đồng bàn với hai môn đệ trên đường Emmau. Ngài hiện ra trên bờ hồ và chuẩn bị bữa ăn cho các môn đệ, rồi Ngài cùng ăn cùng uống với các ông.
Bữa ăn là nơi thể hiện của những giá trị cao quí nhất trong cuộc sống của con người, như gặp gỡ, hiệp thông, trao ban, chia sẻ, hân hoan. Chính vì ý nghĩa cao quí ấy, Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh bữa tiệc để nói lên những thực tại Nước Trời. Đến đây, chúng ta hiểu được ý nghĩa của hình ảnh chiếc áo cưới mà thực khách phải mặc vào khi dự tiệc cưới. Chiếc áo cưới ấy chính là tâm tình gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, hân hoan mà con người phải mặc lấy để thuộc về Nước Trời.
Có người đã tưởng tượng ra Thiên đàng, hỏa ngục như hai bàn tiệc. Bàn tiệc dưới hỏa ngục cũng mâm cao cỗ đầy, thế nhưng khách dự tiệc thì ngồi ủ rũ buồn thiu, bởi vì mỗi người đều cầm trong tay một đôi đũa dài đến độ thức ăn thì gắp được, nhưng không thể đưa thức ăn vào miệng. Bàn tiệc trên Thiên đàng cũng y hệt, nhưng khác một điều, là thay vì gắp thức ăn cho vào miệng mình, người ta lại gắp thức ăn và đưa vào miệng người đối diện, thế là vui vẻ cả, vì ai cũng được ăn uống no nê.
Ước gì niềm vui bàn tiệc thánh mà chúng ta tham dự cũng được tiếp tục thể hiện trong đời thường của chúng ta. Ước gì cả cuộc sống chúng ta luôn được diễn ra trong gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, vui tươi, nhờ đó chúng ta cảm nhận được niềm vui đích thực của Nước Trời và thắng vượt được mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống.
21. Y phục tiệc cưới
(Suy niệm của Barbara E. Reid – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Mọi sự đã sẵn sàng, xin mời đến dự tiệc”. (Mt 22,4).
Tuần vừa qua tôi nhận được hai lá thư. Lá thứ nhất do một người giàu sang quý tộc gửi đến qua đường bưu điện. Bức thư được gửi đi một cách trọng thị, với phong bì dán kín, được trang trí kiểu cách, và có dấu bảo đảm của bưu điện. Lá thứ hai được gửi qua đường email, gửi cho tôi cũng như cho nhiều người khác cùng lúc. Nội dung lá thư thứ hai này nói với người nhận hãy chuyển sứ điệp cho nhiều người khác nữa, càng nhiều càng tốt, không cần họ trả lời. Kẻ gửi thư email này, giống như một người xóc đĩa, cứ xóc đại, trúng ai thì trúng.
Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, ông vua sắp tổ chức tiệc cưới cho đứa con trai, dường như đã gửi thư mời theo cả hai dạng thức này. Những người đầu tiên được mời rất trang trọng, nhưng họ lạnh lùng từ chối, cho dù các gia nhân đã đi mời họ đến hai lần. Nhà vua sau đó truyền lệnh cho các gia nhân ra khắp các nẻo đường phố xá, mời tất cả những ai họ gặp để đến cho đầy nhà, bất kể người tốt lẫn kẻ xấu. Và cuối cùng, phòng tiệc đã chật kín người.
Trong mạch văn của Tin mừng Matthêu, dụ ngôn dường như không phân định sự khác biệt giữa hai nhóm người được mời. Thánh ký cũng chẳng đá động gì tới những người được mời thuộc tầng lớp xã hội nào, có khi chỉ là những người nghèo kiết xác, thậm chí bị què quặt hay đui mù như trong trình thuật của Luca (Lc 14,15-24). Matthêu cũng không để ý đến sự kiếu từ mà nhóm thứ nhất đưa ra, xem lý do của họ có chính đáng hay không. Hơn nữa, thánh ký cũng chẳng cần điều tra lý lịch những người ở nhóm thứ hai, xem họ thuộc giai tầng nào, và đặt điều kiện ra sao đối với họ. Thay vào đó, Matthêu chỉ nhấn mạnh đến tính cách đại trà không cần tính toán nơi lời mời, và sự kỳ vọng duy nhất của đức vua đặt để nơi những người được mời, là mong họ chấp nhận.
Đây là dụ ngôn thứ ba trong một loạt những dụ ngôn nhắm đến các lãnh đạo tôn giáo thời Chúa Giêsu. Họ là những người đầu tiên đã được Thiên Chúa gọi mời, và Ngài hy vọng họ sẽ chấp thuận lời mời trọng thị đó, ngang qua Đức Giêsu. Tuy nhiên đây không phải là những nhân vật đã mau mắn sẵn sàng đáp trả, và đến để ngồi vào bàn tiệc. Đức Giêsu, qua hình tượng Người Nữ Khôn ngoan mà sách châm ngôn trong cựu ước nói tới, “đã lên các nơi cao trên thành phố (Cn 9,3) mời gọi mọi người: Hãy bước đi trên con đường hiểu biết” (Cn 9,6).
Tuy nhiên, có một điều kiện khá giản đơn được đặt ra, là khi đến tham dự bữa tiệc, người ta phải “mặc” y phục chỉnh tề. Trong các lá thư của Thánh Phaolô, chúng ta thường thấy hạn từ “mặc lấy” mang một ý nghĩa biểu trưng, nói về chính cách sống của người Kitô hữu. Ngài nhắn nhủ giáo đoàn Colossê “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương. Anh em hãy mặc lấy lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại” (Col 3,12; xem Rm 13,14; Gal 3,37). Cũng tương tự, Thánh Matthêu muốn khách dự tiệc cưới phải mặc y phục. Những việc làm tốt lành và thái độ đức tin, chính là biểu thị cụ thể của y phục lễ cưới. Thực khách phải “mặc vào” để có thể xứng đáng ngồi vào bàn. Những cách sống cụ thể như thế sẽ rất cần thiết, chứ không phải chỉ có thái độ hình thức xuông bề ngoài mà thôi.
Câu văn trong Tin mừng Matthêu hôm nay đổi hướng từ hình thái dụ ngôn, dường như chuyển sang hình thức ám dụ, để nói về lịch sử ơn cứu độ. Trong khi đức vua đã quảng đại và hào phóng vượt bậc khi mở phòng tiệc, là một hình ảnh tương thích với lời mời của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu, thì sự truy diệt không thương tiếc của nhà vua đối với những kẻ đã giết các đầy tớ và việc đốt phá các làng mạc của họ, chắc chắn không biểu thị về cách hành xử của Thiên Chúa. Tội ác của họ đã rõ ràng, cụ thể là sát hại các gia nhân, như trường hợp đã xảy ra khi Herôđê ra lệnh chém đầu Gioan Tẩy giả, hoặc như những người Rôma phá hủy thành Jêrusalem năm 70. Nhưng Thiên Chúa đã xử đối như thế nào?
Cũng như trong các dụ ngôn khác nơi Tin Mừng Matthêu, những nhân vật chống đối sẽ bị “ném ra ngoài nơi tối tăm, chỗ khóc lóc và nghiến răng (8,12; 13,42; 13,50; 24,51;25,30). Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý một điều quan trọng. Sự từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa, tự nó sẽ gánh lấy hậu quả. Thiên Chúa không giáng phạt chúng ta một cách cuồng nộ để trả thù, như nhiều người vẫn nghĩ tưởng. Tuy nhiên, những ai phớt lờ lời mời gọi của Ngài, và không mặc lấy áo cưới, tức là không sống theo đường lối yêu thương và tha thứ của Đức Giêsu, thì chính họ đã tự chọn cho mình một chỗ dẫn đến hủy diệt và bạo tàn. Không phải Thiên Chúa ra hình phạt, nhưng chính họ, họ đã tự kết án chính mình.
22. Tiệc cưới đã sẵn sàng
(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Dụ ngôn hôm nay nói về một tình yêu bị từ chối.
Chẳng có gì long trọng và tưng bừng cho bằng tiệc cưới của hoàng tử.
Tiệc cưới này do chính nhà vua khoản đãi với sự chuẩn bị chu đáo.
Vua đã mời các quan khách từ trước, và còn mời nhiều lần sau đó.
Trước những lời mời trân trọng của nhà vua, họ đã chối từ.
Thái độ của quan khách thật không sao hiểu nổi.
Họ chẳng sợ xúc phạm đến nhà vua khi coi chuyện đi buôn và chăn nuôi
quan trọng hơn chuyện dự tiệc cưới hoàng tử (c. 5).
Thậm chí có kẻ còn bắt các đầy tớ, hành hạ và giết đi (c. 6).
Những khách quý bây giờ trở thành kẻ sát nhân.
Họ sẽ phải chịu cơn thịnh nộ ghê gớm của nhà vua về sự xúc phạm đó.
Như thế tiệc cưới cho hoàng tử sẽ đi về đâu?
Ai là người sẽ được mời tiếp theo, khi những người trước tỏ ra bất xứng?
Nhà vua đã đưa ra một quyết định rất bất ngờ.
“Hãy đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” (c. 9).
Như thế phòng tiệc bây giờ vẫn đầy người được mời, có cả tốt lẫn xấu.
Dụ ngôn trên đây lại được kết nối với một dụ ngôn khác.
Chúng ta ngạc nhiên khi thấy nhà vua đi vào phòng tiệc
để quan sát cách ăn mặc của những vị khách đến từ đường phố (c. 11).
Có người không mặc y phục lễ cưới và đã bị trừng phạt nặng nề (c. 13).
Tại sao lại phạt anh, khi anh bất ngờ được đưa vào ăn cưới?
Nhưng đừng quên các người khác đều mang y phục lễ cưới đầy đủ,
nên anh chẳng nói được gì để tự biện minh (c. 12).
Lịch sự với Thiên Chúa là điều ta dễ quên.
Ngài vẫn trân trọng mời ta dự tiệc chung vui với Ngài, với Con của Ngài.
“Mọi sự đã sẵn, mời quý vị đến dự tiệc cưới” (c. 4).
Đối với Ngài, sự hiện diện của chúng ta đem lại niềm vui lớn.
Khi đa số dân Do-thái, những khách quý được mời trước, từ chối Ngài,
Ngài đã không muốn phòng tiệc bị trống, tiệc cưới bị đình hoãn.
Thiên Chúa chấp nhận mở cửa phòng tiệc cho mọi người.
Họ đến từ muôn phương, có người tốt người xấu, để làm nên Giáo hội.
Giáo hội gồm những người được mời và được gọi một cách nhưng không.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần lịch sự với Thiên Chúa, người chủ tiệc,
cần mặc y phục lễ cưới một cách đàng hoàng.
Y phục ấy chính là một đời sống nghiêm túc theo giáo huấn của Đức Giêsu.
Các kitô hữu chúng ta đã được ngồi trong phòng tiệc của Thiên Chúa.
Chúng ta đã được mời và được gọi để sống trong Giáo hội,
nhưng chưa chắc chúng ta nằm trong số những người được tuyển chọn.
Số người được chọn bao giờ cũng ít hơn số người được gọi.
Để vào số những người được chọn, chúng ta phải biết trân trọng ơn ban.
Có khi chúng ta cũng coi chuyện buôn bán làm ăn của mình
quan trọng hơn những lời mời khẩn thiết đến từ Thiên Chúa.
Làm thế nào để chúng ta giữ được ơn cứu độ Chúa đang ban hôm nay?
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
23. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
CỬA NƯỚC TRỜI LUÔN MỞ, NHƯNG Y PHỤC PHẢI XỨNG HỢP
Lại một dụ ngôn khác về Nước Trời được trình bày cho chúng ta với chủ đề sâu xa tương tự như các Chúa nhật trước. Thiên Chúa luôn đi bước trước, “Chúa dọn ra cho con mâm cỗ ” (Tv 22) “đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon” (Is 25, 6) ; “ Đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa ” (x. Tv 22) “theo sự phú túc vinh sang của Người trong Đức Giêsu Kitô” (Pl 4, 12). Nước Trời luôn rộng mở cho hết thảy mọi người, bất luận tốt xấu, miễn là phải có y phục xứng hợp: “Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới ” (Mt 22, 9).
Lời mời gọi phổ quát
Qua dòng thời gian, Thiên Chúa đã mời gọi dân Ngài đi vào trong giao ước, chia sẻ tình yêu với Ngài. Nhưng tiếc thay, con người luôn đáp lại một cách khác, ngược đãi, xua đuổi các tiên tri. Giao ước không được đáp trả. Nhưng Thiên Chúa vẫn một mực trung thành, tiếp tục mở tiệc mời con người tới dự tiệc giao ước mới và đó chính là niềm vui cho mỗi người chúng ta.
Những người đầu tiên được đức vua mời đến dự tiệc cưới, nhưng viện cớ lấy lý do “như đi thăm trại…đi buôn bán” để từ chối (Mt 22, 5-6). Vì họ từ chối, nên những người khác được mời vào chia sẻ niềm vui với gia đình hai bên và đôi bạn trẻ.
Khác với những người được mời trước, những người được mời sau chẳng có công gì cũng được mời dự tiệc cưới. Họ chỉ có cơ may là được các người đầy tớ gặp ở ngã ba đường. Họ thuộc đủ mọi thành phần, bình thường không ai để ý tới.
Chúng ta tự hỏi: Liệu họ có hy vọng, có trông đợi mình được mời dự tiệc cưới kia không? Isaia trả lời. Mọi người đều sống niềm hy vọng vì trong con người có một sự chờ đợi vô song. “Này đây Chúa chúng ta…nơi Người, chúng ta đã tin tưởng…vì ơn Người cứu độ” (Is 25). Họ hy vọng và chờ đợi chứ.
Hy vọng vào lời mời gọi phổ quát này, giả thiết không có một điều kiện tiên quyết nào, cũng không phải là lời mời của những người có lên hệ với nhà vua: “Chúa dọn ra cho con mâm cỗ…”, cho hết mọi người (Tv 22). Thật khó có thể tưởng tượng, hoặc tin rằng Thiên Chúa ban ơn ơn cứu độ nhưng không cho hết mọi người. Đây chính là Tin Mừng Thiên Chúa kêu gọi chúng ta.
Hạnh phúc vì được mời
“Tiệc cưới Con Chiên” được sách Khải Huyền mô tả (19, 7, 9) hàm chứa một ý nghĩa sâu xa: “Phúc cho những ai được mời dự tiệc cưới của Chiên Con!” Thật hạnh phúc cho chúng ta, phúc này vượt quá những gì chúng ta có thể nếm hưởng trên trần gian, đây là yến tiệc Chúa Giêsu ban cho chúng ta.
Sau Chiên Thiên Chúa linh mục mời gọi: “Đây Chiên Thiên Chúa… phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa” (Thánh lễ). Lời này gửi đến tất cả những ai sẽ tham dự vào tiệc cưới Con Chiên. Mỗi Thánh lễ là một lời loan báo và tham dự trước vào yến tiệc Nước Trời, tiệc của Hoàng Tử, Con yếu dấu của Chúa Cha, tiệc của Đức Kitô kết ước với nhân loại. Thánh Têrêsa Avila nói: “Lạy Chúa vị Hôn Thê của con, giờ đã đến, giờ con hằng mong đợi, giờ chúng ta gặp nhau. Ôi lạy Thiên Chúa là tình yêu duy nhất của con! Này là giờ con ao ước từ lâu, tâm hồn con vui sướng khi được kết hợp với Chúa! ” Chúng ta không thể gần Chúa mà không mặc lấy tâm tình của Chúa.
Nhưng phải có y phục lễ cưới
Có một điều khiến người đọc không khỏi thắc mắc và tìm lời giải đáp cho người được mời không mặc y phục lễ cưới, họ vào và bị đức vua ra lệnh: “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! ” (Mt 22, 13). Họ đang ở ngã ba đường, đầy tớ đức vua tình cờ gặp họ, mời họ vào bất luận họ là ai, sao lại đòi họ phải có y phục lễ cưới?
Áo cưới mà Tin Mừng nói tới ở đây là áo nào? Có phải các bí tích không? Hay là Phép Rửa tội? Vì không chịu phép Rửa tội, không ai có thể đạt tới Thiên Chúa được, nhưng có một số người lãnh nhận phép Rửa tội, không đến cùng Thiên Chúa… Có thể là bàn thờ hay điều người ta lãnh nhận từ bàn thờ không? “Vì kẻ ăn và uống, mà không phân biệt được Thân mình, tức là ăn và uống án phạt cho mình” (1Cr 11, 29). Vậy thì là cái gì? Ăn chay ư? Những kẻ gian ác cũng làm thế. Đi nhà thờ ư? Những kẻ gian ác cũng đi nhà thờ như bao người khác … Vậy áo cưới này là áo nào?
Ở đây, người vào dự tiệc cưới không thụ động, chấp nhận vào thì phải tìm cách thể hiện mình xứng đáng, và đó là áo cưới. Ơn cứu độ là phổ quát, đồng ý để được cứu độ là chấp nhận sống theo những đòi hỏi của Nước Trời, áo cưới vừa thể hiện sự đồng ý, vừa chứng tỏ trách nhiệm của chúng ta.
Đời sống luân lý không phải là điều kiện duy nhất để được cứu độ, Maria Mađalêna, Giakêu và nhiều người khác được mời, họ đã hoán cải để trở nên xứng đáng với Chúa hơn. Áo cưới là những điều tốt, người dự tiệc phải có. Thánh Phaolô nói: “Điều lời truyền dạy phải nhằm đưa tới đức mến, phát tự tấm lòng trong sạch, lương tâm thiện hảo, và đức tin không giả hình” (1Tm 1, 5). Đây là y phục lễ cưới.
Người được mời đến dự tiệc cưới không đơn giản chỉ ăn, nhưng chia sẻ niềm vui với họ hàng hai bên, mừng hạnh phúc cho đôi bạn trẻ, nên phải có y phục xứng đáng.
Chúng ta là những tội nhân được Thiên Chúa mời dự tiệc Nước Trời. Chắc chắn ai cũng muốn mặc chiếc áo cưới tinh tuyền, không vương tội lỗi. Giáo hội Chúa không phải là một xã hội hoàn hảo, gồm có tội nhân, nhưng ý thức được tội lỗi của mình và mong muốn được tha thứ: “mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3, 27), chấp nhận hoán cải, thanh tẩy chính mình “để sao cho xứng với Chúa, mà làm đẹp lòng Ngài trong mọi sự” (Cl 3, 10). Giờ đây hãy chúng ta hãy nghe lời Chúa: “Mọi sự đã sẵn sàng hãy đến!”
Lạy Chúa, ước gì ân sủng Chúa vừa mở đường cho chúng con đi, vừa đồng hành với chúng con luôn mãi, để chúng con sốt sắng thực hành những điều Chúa truyền dạy. Amen.
24. Tiệc mừng – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sống trên đời, ai cũng muốn được ăn ngon mặc đẹp. Trừ một số những vị chân tu tự nguyện ăn uống kham khổ để tu thân luyện tính hoặc kiêng khem để chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe. Đa số dân lao động chỉ mong muốn được hằng ngày dùng đủ. Việc ăn uống đáp ứng nhu cầu thể xác và cũng mang lại niềm vui tinh thần. Nghe tiên tri Isaia loan báo về bữa tiệc, ai nấy đều vui mừng phấn khởi: Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thết tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc, đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon (Is 25, 6). Bữa tiệc thịnh soạn là dấu chỉ của sự sung túc và vui hưởng phước lộc. Tiệc đã dọn sẵn sàng, ai cũng có thiệp mời đến tham dự bữa tiệc vui này, nhưng cuối cùng đã có một số người tìm lý do riêng tư để từ chối. Vì họ có nhiều lý do và nghĩ rằng những công việc khác quan trọng hơn.
Isaia đã phấn khích dân chúng mong chờ một tương lai sáng rạng hơn. Ngày đó sẽ mang lại nhiều niềm vui hoan lạc. Niềm vui không chỉ là sự an cư lạc nghiệp, xây dựng đền thờ và cuộc sống sung túc, nhưng là Đấng Cứu Thế sẽ viếng thăm dân Người: Ngày đó, người ta sẽ nói: Này đây Chúa chúng ta, chúng ta đã chờ đợi Người, chúng ta đã tin tưởng, chúng ta hãy hân hoan và vui mừng vì ơn Người cứu độ (Is 25, 9). Dân Do-thái có một sứ mệnh cao cả hơn các dân tộc khác. Họ được Thiên Chúa chọn lựa, hướng dẫn, dậy dỗ và chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn cứu rỗi. Có biết bao các nhóm dân tộc chung quanh tự do bước đi trong đường lối của họ. Họ dựng nước, xây đồn, đắp lũy, tường thành và lập đàn miếu thờ cúng các thần phật. Thiên Chúa đã không lập giao ước với họ. Họ đã phải dầy công học hỏi, suy tư và kiếm tìm về nguồn chân thiện, giống như các nhà đạo sĩ Đông Phương dõi theo ánh sao tìm đến tôn thờ vua Hài Nhi.
Trong thế giới chúng ta đang sống đây, con số giầu nghèo rất chênh lệch. Có rất nhiều người chỉ mong được ăn no mặc ấm, nhưng cũng chưa được toại nguyện. Tại nhà xứ nơi tôi đang ở, có cha Richard Nahmann, dòng Augustinô, đã ngoài 76 tuổi rồi, quanh năm suốt tháng, cuối tuần nào cũng đi giảng cho chương trình ‘Food for the Poor’. Mỗi cuối tuần cha đều có bài sai đi các xứ đạo khác nhau trong vùng, cha Nahmann phải lái xe vừa đi vừa về mỗi lần trên dưới khoảng 500 cây số. Ngài đi giảng để xin tiền gây quỹ cho tổ chức Cứu Trợ Quốc Tế. Có nhiều cơ quan và tổ chức tôn giáo cộng tác với nhau, có các mục sư, linh mục và thiện nguyện đang hoạt động tại 17 quốc gia vùng Địa Trung Hải, Châu Mỹ La Tinh và cả ở Hoa Kỳ. Thực phẩm cung cấp cho những người nghèo đói nhất trong những trường hợp khẩn cấp: Cứu trợ thức ăn, nước uống, thuốc thang, giáo dục, huấn nghệ, giúp trẻ mồ côi và người cao niên. Tổ chức dành 95% tiền dâng cúng gởi trực tiếp đến cho chương trình cứu trợ này. Chúng ta biết những người nghèo nhất chiếm 40% tổng số dân trên thế giới.
Nghĩ đến những người sống trong các trại cấm, trại tỵ nạn, lớp cùng đinh, hàng tiện dân ở Ấn Độ và những người nghèo khổ sống ở những miền đất khô cằn tại Phi Châu. Biết bao người đói khổ, tấm thân gầy guộc, thiếu thốn đồ ăn nước uống và mọi nhu cầu cần thiết. Nhiều người trong họ đã phải chết dần chết mòn vì đói khát, thiếu dinh dưỡng và bệnh hoạn. Niềm hy vọng nhỏ nhoi của họ là có được bữa ăn no để sống còn. Nghèo thì khổ. Niềm hy vọng của họ là gì? Người ta thường nói: Có thực mới vực được đạo hay đi đạo lấy gạo mà ăn. Nhu cầu cụ thể trong đời sống cần được giải quyết trước. Chúa Giêsu cũng đã chia sẻ kiếp sống nghèo, đi tị nạn xứ người, lao động kiếm sống và làm bạn với những người nghèo khổ. Chúa cảm thông nỗi đắng cay khổ sở của họ. Chúa mở rộng cửa Nước Trời đón nhận mọi thành viên vào dự tiệc. Nguồn an ủi cậy dựa vào tình thương của Chúa: Xin Thiên Chúa cung cấp dư dật những nhu cầu của anh em, theo sự phú túc vinh sang của Người trong Đức Giêsu Kitô (Phil 4, 19).
Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu ví Nước Trời giống như vị vua làm tiệc cưới cho hoàng tử. Đây là một bữa tiệc vui quan trọng vì là con của vua. Bao nhiêu ngày tháng hoàng gia mong chờ và chuẩn bị để thết đãi các khách mời: Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến (Mt 22, 3). Thật lạ, tiệc cưới sang trọng và cao quí, nhưng những khách được mời lại không muốn tham dự. Khách mời đây trước hết chính là dân tộc Do-thái. Nhiều người đã không màng tới, vì họ còn phải bon chen lo lắng nhiều sự ở đời. Họ đang cố công tìm kiếm những niềm vui và lợi ích riêng cho đời sống: Nhưng những người ấy đã không thèm đếm xỉa gì và bỏ đi: Người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi (Mt 22, 5-6). Ai cũng có lý do biện minh rằng cuộc sống bận bịu quá không có thời gian. Nên cuối cùng, tiệc cưới của hoàng tử được mở ra đón mời mọi thành phần, không phân biệt ngôn ngữ, chủng tộc và nòi giống, họ đến từ bốn phương trời. Sự kiện này diễn tả hình ảnh tiệc vui Nước Trời phổ quát cho mọi dân nước.
Tiệc cưới có thịt béo rượu ngon dọn sẵn sàng, nhưng niềm vui không trọn. Khách mời đã không đến dự tiệc. Có lẽ những người này đang đi tìm một bữa tiệc hợp khẩu vị hơn hoặc là khung cảnh vui nhộn hơn. Họ đã bỏ qua một cơ hội quí báu. Giáo Hội chọn đoạn thơ của thánh Phaolô để lồng vào phần phụng vụ lời Chúa hôm nay nói lên một thực tế cuộc sống: Anh em thân mến, tôi biết chịu thiếu thốn và biết hưởng sung túc. Trong mọi trường hợp và hết mọi cách, tôi đã học cho biết no, biết đói, biết dư dật và thiếu thốn (Phil 4, 12). Phaolô chia sẻ cuộc sống một cách khôn ngoan. Biết sống thích thời trong mọi hoàn cảnh. Vì danh Chúa Kitô, Ngài đã chấp nhận trải qua mọi sự gian khó trong đời sống. Cho dù trong hoàn cảnh nào, Ngài vẫn trung thành và đáp lại lời mời gọi của Chúa Kitô phục vụ anh chị em.
Chúa các đạo binh sẽ khoản đãi anh em một bữa tiệc giống như tiệc cưới của hoàng tử. Đây là bữa tiệc Nước Trời. Không chỉ là một bữa mà là một cuộc sống an bình viên mãn. Trên đường dương thế, chúng ta phải chuẩn bị kỹ lưỡng để cùng được chung hưởng ngày vinh quang đó. Nhiều người trong chúng ta cũng đã trải nghiệm sự đói khổ ở đời. Những ngày tháng tại quê nhà vào những năm mất mùa, thiên tai nạn lụt, vào thời bao cấp bị thiếu ăn thiếu mặc, chúng ta chịu thương chịu khó. Đối diện với những khó khăn cuộc sống, chúng ta không bỏ cuộc. Niềm tin của chúng ta vẫn khăng khít gắn bó với Chúa Kitô. Hình như trong những lúc gian truân cùng quẫn, lòng tin yêu sống đạo của chúng ta càng sắt son.
Những người được mời đã không đáng được tham dự tiệc cưới, vì họ đã coi thường đức vua của họ. Chúng ta biết lời mời cao hơn mâm cỗ. Vua đã đích thân gởi thiệp mời đến dự tiệc cưới. Thiên Chúa yêu thương mời gọi mỗi người chúng ta đến dự tiệc cưới Nước Trời. Tiệc cưới này được chuẩn bị ngay trên trần thế. Đây là bữa tiệc Thánh Thể được cử hành mỗi ngày nơi các giáo xứ. Nơi đây chúng ta sẽ được nuôi dưỡng bằng Lời và Mình Máu Thánh Chúa. Bánh trường sinh nuôi dưỡng linh hồn và dẫn bước chúng ta vào tiệc vui Nước Trời mai sau. Chúng ta hãy mau mắn đáp lời mời gọi của Chúa. Hãy ăn mặc tươm tất, chuẩn bị chu đáo và dành thời gian quí để cùng chia sẻ niềm vui chung với cộng đoàn dân Chúa.
Lạy Chúa, Chúa mở cửa đón nhận mọi người vào dự tiệc cưới Nước Trời. Xin cho chúng con biết sắp xếp công việc và chuẩn bị chu đáo để tham dự ngày vui hồng phúc này. Chúng con hoàn toàn đặt niềm tin yêu nơi Chúa, xin cho chúng con được vào số những người Chúa chọn: Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít. (Mt 22, 14).
25. Y phục xứng kỳ đức
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin mừng hôm nay là sự nối kết của hai dụ ngôn “hai người con” và “các tá điền sát nhân” thành một đề tài giáo huấn về tính phổ quát của ơn cứu độ, con người cần phải thống hối, ăn năn, hoán cải, phục thiện, phải cố gắng không những vào số những người được gọi, mà còn phải vào số những người được chọn nữa, bởi lẽ gọi thì nhiều mà chọn thì ít.
1. Tính phổ quát của ơn cứu độ
Câu chuyện Tin mừng gồm hai phần rõ rệt. Nhà vua mời thực khách dự tiệc cưới của hoàng tử (câu 1-10) và người khách không mặc y phục lễ cưới (câu 11-14).
a. Điều khó hiểu
– Thái độ của khách mời: Bình thường khi được các bậc vị vọng mời dự tiệc, khách được mời sẽ rất hãnh diện. Ở đây nhà vua mời dự tiệc cưới của hoàng tử. Vậy mà các khách được mời đều từ chối. Thánh Mátthêu ghi lại hai lý do: “người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán”. Thánh Luca thì ghi tới ba lý do: “Người thứ nhất nói: tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; người khác nói: tôi mới tậu 5 cặp bò, tôi đi thử đây; người khác nói: tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được” (Lc 14,18-19). Họ khước từ vì lo làm ăn và hưởng thụ cá nhân. Họ bận rộn, mải mê kiếm sống, không còn giờ cho tình người.Một số khách được mời nóng nảy quá khích, đã không dự tiệc vua mời còn bắt đầy tớ của vua, đánh đập, sỉ nhục và giết chết.
– Hành động của ông vua: Ông mời khách đến mấy lần, mời đi mời lại, năn nỉ họ tham dự. Ông còn tỏ ra hào phóng là thu nạp mọi người, bất luận tốt xấu, giàu nghèo.Thế nhưng, khi thấy một thực khách không mặc y phục lễ cưới ông ra lệnh trói chân tay, bỏ vào nơi tối tăm bên ngoài mà khóc lóc nghiến răng. Người đọc cảm thấy thật khó hiểu: những người đang ở ngoài đường đột nhiên được mời vào dự tiệc cưới thì làm sao có sẵn áo lễ mà mặc?
b. Ý nghĩa dụ ngôn
Nên nhớ, đây là một dụ ngôn nằm trong chuỗi ba dụ ngôn theo cùng một chủ đề mà Chúa Giêsu kể cho các thượng tế và kỳ mục Do thái khi họ đến chất vấn Người về thẩm quyền của Người (x. Mt 21,23). Hai Chúa Nhật trước qua hai dụ ngôn “hai người con” (21,28-32) và “các tá điền sát nhân” (21,33-43). Dụ ngôn “tiệc cưới” (22,1-14) là câu trả lời cho những thái độ của các thượng tế và pharisiêu.Thiên Chúa ban hạnh phúc Nước Trời trước tiên cho dân Do Thái, nhưng họ đã từ chối vì chuộng những giá trị trần gian hơn; Thiên Chúa lại ban hạnh phúc ấy cho muôn dân. Tuy nhiên, cũng như người dự tiệc cưới phải mặc áo cưới, tượng trưng cho cách sống. Những người được mời gia nhập Nước Trời cũng phải có một nếp sống mới phù hợp với Tin Mừng.
2. Được mời dự tiệc là niềm vinh dự và là hạnh phúc
Người Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Ngài để chuẩn bị ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Thế nhưng họ đã từ chối đặc ân. Họ thờ ơ, không đếm xỉa gì đến lời mời gọi dự tiệc cưới: người thì đi thăm trại, kẻ thì đi buôn, người khác thì bắt đầy tớ nhục mạ và giết đi…
Con người có thái độ thờ ơ, lãnh đạm và coi thường như thế bởi vì họ không yêu mến Thiên Chúa, không cần Thiên Chúa. Nếu yêu thương, tôn trọng người chủ tiệc thì chắc chắn cho dù có vướng bận đến đâu họ cũng sẵn sàng sắp xếp công việc, thời gian để đi dự tiệc. Được mời là một vinh dự, nhưng đáp lời mời là biểu lộ tình cảm của bản thân dành cho gia chủ. Cũng thế, Thiên Chúa mời gọi con người vào hưởng hạnh phúc Nước Trời là do tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, còn đáp lời mời này để hân hoan tiến vào Nước Chúa là lời đáp trả tình yêu của con người với Thiên Chúa.
Thiên Chúa mời con người đến tham dự tiệc cưới. Tiệc cưới là tiệc vui tươi, chúc mừng tình yêu của cô dâu chú rễ. Chúa Giêsu là chàng rễ, Giáo hội là cô dâu. Thiên Chúa đã mời gọi các Kitô hữu đền bàn tiệc để chia sẽ niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài (GLCG # 1384).
Được mời và đón nhận lời mời là một biểu lộ của tình yêu từ hai phía, Thiên Chúa và con người dành cho nhau. Thế nhưng, trong cuộc sống Kitô hữu ngày hôm nay, thái độ từ chối Thiên Chúa, thờ ơ với lời mời gọi của Ngài vẫn còn tiếp diễn nơi nhiều người.
Dụ ngôn tiệc cưới luôn mang tính thời sự. Những người từ chối dự tiệc cưới đã viện dẫn nhiều lý do chỉ vì họ không muốn đến. Những người không tham dự Thánh Lễ ngày Chúa nhật cũng có rất nhiều lý do để biện minh. Người ta có trăm ngàn lý do để từ chối lời mời tha thiết của Chúa đến dự bàn tiệc Thánh Thể, bàn tiệc Lời Chúa. Nào là chuyện gia đình, bạn bè, chuyện làm ăn, chuyện học hành, chuyện giải trí, chuyện tương lai… nào là quá bận rộn không có thời gian. Có khi chỉ là một cuốn phim đang xem, một trận đá bóng trên tivi, một bữa nhậu… nhiều người đã bỏ lễ Chúa nhật.
Người ta nại vào rất nhiều lý do từ công ăn việc làm đến những lý do bận rộn với những sinh họat xã hội để từ chối các sinh hoạt đạo đức, từ chối tham dự Thánh Lễ. Người ta nại đến nhiều lý do, nhiều hoàn cảnh khó khăn để từ chối gặp gỡ, đón nhận Chúa qua anh chị em chung quanh, để khước từ sống giới răn yêu thương của Chúa.
Là Kitô hữu, chúng ta cần xét mình về thái độ của bản thân trước những lời mời gọi dấn thân vì Nước Trời, vì tha nhân của Chúa. Đừng lấy lý do tôi quá bận rộn với công việc làm, với gia đình mà không dành giờ cho Thiên Chúa, không dành giờ cho Nước Trời, không dành giờ lo đến linh hồn mình. Bận rộn chỉ là bình phong che đậy những lười biếng, những ích kỷ. Đừng hỏi tôi có bận hay không, nhưng hãy hỏi tôi có muốn hay không? Vì lòng muốn sẽ thắng vượt mọi trở ngại, mọi toan tính.
Thánh lễ chính là tiệc cưới Nước Trời mà Thiên Chúa thiết đãi cho chúng ta hưởng nếm trước hạnh phúc, vinh quang và sự sống thần linh. Vậy chúng ta hãy dẹp bỏ đi mọi lo toan của công việc, mọi vướng bận của cuộc sống đời thường để hân hoan tiến đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể. Sau khi đã vui hưởng Tiệc Thánh, mỗi người sẽ thêm nghị lực, thêm niềm tin, thêm tình yêu.
3. Đến dự tiệc cưới phải mặc áo cưới.
Muốn tham dự tiệc cưới, vào bàn tiệc chưa đủ mà còn phải mặc y phục cho thích hợp. Y phục đó tượng trưng cung cách sống đạo, trang phục bằng những đức tính và tinh thần của Đức Kitô. Là người Kitô hữu, cần sống cho xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu mới được vào Nước Trời. Ân sủng không chỉ là một quà tặng mà còn là một trách nhiệm phải chu toàn.
Chiếc áo cưới vào dự tiệc Nước Trời chính là ơn Thánh tẩy của Bí tích Rửa Tội. Ngày chịu phép rửa tội, tất cả mọi Kitô hữu được nhắn nhủ: “Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Đức Ktiô. Chiếc áo trắng này là dấu chỉ tước vị của con. Nhờ lời chỉ bảo và gương lành của thân nhân giúp đỡ, con hãy mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh.”
Mỗi một Kitô hữu đều có một bộ y phục lễ cưới, đó là chiếc áo trắng ngày chịu phép Rửa tội. Chiếc áo trắng ấy là tâm hồn thanh khiết của những người con cái Chúa đã được tẩy trắng trong máu Con Chiên. Chiếc áo trắng ấy được dệt bằng sợi tơ Lời Chúa mà người tín hữu phải nâng niu, gìn giữ suốt cuộc đời. Chiếc áo trắng ấy phải tinh tuyền cho đến ngày bước vào dự tiệc cưới trong Nước Trời.
Có người đã vào phòng tiệc mà vẫn bị mời ra, vì không mang y phục lễ cưới. Có người theo đạo mà vẫn không được vào Nước Trời vì họ đánh mất chiếc áo trắng ngày Rửa tội. Theo ý kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Kinh Thánh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật. Như thế, chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải tâm hồn, một tâm hồn trong sạch, một tấm lòng bác ái yêu thương và một đức tin vững mạnh.
Đành rằng “chiếc áo dòng không làm nên thầy tu”, nhưng qua cách ăn mặc cũng chứng tỏ cho người khác thấy phần nào con người của mình. Khi đến thăm gia đình của người bạn với quần áo lịch sự, chứng tỏ rằng chúng ta kính trọng người bạn đó. Khi đến nhà thờ dâng thánh lễ ngày Chúa nhật, chúng ta mặc y phục đẹp nhất của mình, chứng tỏ mình kính trọng Thiên Chúa, tôn trọng anh chị trong cộng đoàn, và biểu lộ sự tự trọng đối với chính bản thân mình.
Quần áo bề ngoài xã hội như vậy, nhưng còn y phục của tinh thần và linh hồn nữa. Mỗi lần đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng phải mặc lấy y phục phẩm hạnh của bàn tiệc mà Chúa Giêsu đòi hỏi. Y phục của lòng tin, cậy, mến. Y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa.
Y phục phải xứng với kỳ đức. Chiếc áo cưới của Kitô hữu không được dệt bằng lụa là gấm vóc, không được mua từ hàng hiệu đắt tiền nhưng chính là lòng khiêm hạ, lòng tin, lòng cậy, lòng mến Chúa, lòng mến đối với mọi người.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen (Thánh Augustinô)
26. “Những kẻ được mời không xứng đáng”
(Suy niệm của Lm Gioan B. Phan Kế Sự)
1. “Làm sao bạn vào đây mà không có y phục lễ cưới”
Chuyện dài nhiều tập của những kẻ coi thường mọi hành rào của luân thường đạo lý. Chuyện thật dễ hiểu của nét văn hóa dành cho những người học thức: khi ta biết tôn trọng người khác thì người khác cũng sẽ tôn trọng mình. Thường người ta chỉ thích và bắt người khác tôn trọng ý riêng mình, còn ngược lại thì lại làm lơ tất cả, thậm chí coi thường và tỏ ra mình là phường vô học. Thái độ không đúng mức sẽ bị trừng phạt như những kẻ được mời nhưng không xứng đáng.
Thật hớ hênh và lố bịch khi chúng ta “không có lòng tự trọng”. Thật khó coi, khi chính mình muốn được người khác kính trọng và đánh giá cao về mình, thì chính hành động lố bịch của chúng ta tự tố cáo sự trơ trẽn của mình. Cũng thật công bằng, khi chính mình không biết tôn trọng tha nhân hay không biết tự trọng mình, thì chẳng ai dại gì mà kính trọng chúng ta.
Thật trơ trẽn khi chúng ta không biết trân trọng “lời mời” của Đức Vua khi vào dự tiệc cưới của Hoàng Tử. Được mời vào dự tiệc cưới của Hoàng Tử, được chung chia vinh dự cùng với khách dự tiệc, được hưởng dùng những “cao lương mỹ vị”… Quả là điều vượt mọi ước mơ của mỗi người chúng ta. Không còn biết đâu là trọng, đâu là hèn, đâu là điều cần phải làm, đâu là điều phải tránh; thì tự thân giá trị của người đó trở thành con số không. Chẳng ai dại gì mà phải kính trọng những hạng người chỉ biết sống cho mình, vì mình, vì cái chỗ đứng của mình mà chẳng bao giờ biết trân trọng những giá trị khác ngòai mình!
Thật xấu hổ khi chúng ta không biết chuẩn bị, không biết sắm sửa được một “bộ cánh đàng hoàng” cho chính mình. Và cũng thật nhục nhã khi chính chúng ta bị “tống vào ngục”, không tự lo được cho phần rỗi mình. Con cái trong nhà, lẽ ra là người được ưu tiên hơn cả, nay lại bị đuổi ra ngoài đường, là kẻ ngoại cuộc. Quả thực là quá xấu hổ và đáng thương thay cho họ.
2. “Những kẻ được mời không xứng đáng”
Trong tình thương của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta có “một chỗ đứng rất riêng và khác biệt” Ngài muốn tất cả chúng ta thuộc về Ngài và không để một ai phải hư mất. Ngài mời gọi từng người chúng ta vào vui hưởng hạnh phúc của bàn tiệc muôn đời.
Trong tình thương của Thiên Chúa, Ngài mời gọi tất cả chúng ta dự tiệc cưới của Hoàng Tử không loại trừ ai, dù là những người nghèo khổ, hèn kém “không có tiền để mua rượu và thịt” Trong tình thương của Ngài không có từ ngữ loại trừ, nhưng rộng mở để đón nhận tất cả, ôm trọn tất cả và tha thứ tất cả.
Nhưng Thiên Chúa lại luôn tôn trọng tự do của mỗi người chúng ta. Ngài không áp đặt quyền của Ngài trên sự tự do và chọn lựa của mỗi người chúng ta. Ngài muốn tất cả chúng ta tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Chiếc áo cưới mà mỗi người phải biết chuẩn bị cho mình, chính là chiếc áo tình thương mà mỗi người phải tự sắm. Trong bữa tiệc vui của gia đình, chẳng ai dại mời một người xa lạ vào dự tiệc, khi họ không hề có một chút liên hệ tình cảm hay chút tình nghĩa gì. Khoác tấm áo Lời Chúa, mặc vào thân giới răn yêu thương của Chúa, chúng ta sẽ trở thành người nhà của Chúa.
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, thật vinh dự cho mỗi người chúng con khi được Chúa mời gọi vào tham dự Bàn Tiệc Nước Trời. Nhưng Chúa cũng đòi hỏi chúng con phải tự kiếm cho mình chiếc áo cưới. Thật xấu hổ khi cả đời chúng con không tự dệt nổi cho mình chiếc áo cưới. Xin giúp chúng con biết tích cực tích lũy những giá trị cho đời mình, để xứng đáng hơn với lời mời của Chúa. Amen.
27. Sinh ra dưới một ngôi sao xấu – JB. Lê Ngọc Dũng
Có khi nào ông bà anh chị em cảm thấy mình sinh ra dưới một ngôi sao xấu không? Trên đời, có người sinh ra thì đã mang những bệnh tật hay đui, mù, què quặt; sinh ra thì đã ngu đần, thiểu năng trí tuệ; sinh ra mà đã bất tài rồi thì làm ăn mãi mà vẫn thất bại, nghèo khổ vẫn cứ nghèo khổ.
Một cô gái thầm nghĩ: sao người ta lại đẹp gái duyên dáng đến thế mà tôi lại xấu quá đi mất chẳng ai mà dám lấy tôi làm vợ, tôi sinh ra dưới một ngôi sao xấu!
Nếu phải ở trong tình trạng trên, ta có buồn chán hay thất vọng không, và thậm chí có than trách Chúa bất công hay ông Trời không có mắt hay không?
Dụ ngôn mời dự tiệc cưới của CGS sẽ hướng dẫn ta nhận ra cái vận mệnh tốt xấu của mình.
Những người được mời dự tiệc cưới, trước tiên là những người giàu có sang trọng có nhiều địa vị trong xã hội. Họ được người đời cho là những người sinh ra dưới vị sao sáng. Họ thông minh, có nhiều tài năng, có sắc đẹp và được người đời ngưỡng mộ. Họ là những đại gia, là những tài tử, là những người mẫu… Họ thuộc top người giàu nhất thế giới, họ nổi tiếng khắp nơi.
Trong báo chí, người ta đã từng chú ý đến 4 nhà kinh doanh lớn trên thế giới và nhiều người đọc thầm mong ước ao được như họ.
Những người ấy là Bill Gates, ông tổ của máy vi tính và được báo chí nói ông ta rất tin tưởng vào tài năng của mình, là một người dường như luôn tin rằng bất cứ điều gì mình làm đều đem lại nhiều tiền.
Người thứ hai là Ric-hard Branson, một doanh nhân, ông chủ của một hệ thống các công ty mang thương hiệu Virgin với mật độ hiện diện rộng khắp toàn cầu và báo chí viết về ông rằng: “Đối với những ai đang cháy bỏng niềm đam mê với tinh thần doanh nhân, những trang sách lưu giữ hồi ức của ông tựa như một cuốn cẩm nang dẫn đường vậy”.
Người thứ ba là Warren Buffett, người được mệnh danh là vị thánh trong lĩnh vực đầu tư tài chính, lại có một phong cách quản lý quỹ đầu tư khác thường.
Nhân vật cuối cùng là Steve Jobs, ông chủ của một loại máy vi tính nhỏ, hiệu Apple. Cái Iphone, điện thoại di động nổi tiếng là của ông ta. Báo chí viết rằng: “Một tuyệt phẩm quý giá và cần thiết cho những ai muốn khám phá những bí mật thẳm sâu bên trong trí tuệ của Steve và tìm hiểu xem điều gì đã khiến Apple trở nên vĩ đại như vậy”.
Ngày nay người ta lại nói đến Jeff Bezos nhà sáng lập Amazone đang soán ngôi giàu nhất thế giới với Bill Gates.
Họ là những người được ca tụng như những người làm thay đổi vận mạng thế giới của thời đại hôm nay. Độc giả cũng phải buộc miệng khen: Họ quá tài giỏi. Cuộc đời và sự nghiệp của họ là nguồn cảm hứng bất tận cho những ai đang vật lộn với sự nghiệp kinh doanh của mình.
Bây giờ chúng ta nói đến những người được mời dự tiệc cưới ở phần sau: họ là những người nghèo khổ, họ ở đầu đường xó chợ, họ bất tài, họ xấu xí, trí tuệ kém cỏi, làm ăn hay thất bại. Tuy nhiên nhiều người trong họ lại sẵn sàng nhận lời mời dự tiệc cưới.
Tôi nhớ đến trường hợp một bà mẹ già một mình đã phải vất vả nuôi 4 đứa con bị điên với đầy tình yêu thương; một trường hợp khác: một bà cụ 35 trời ngồi vá xe đêm. Tuy tuổi đã già, 76 tuổi, tuổi mà đáng lý ra bà phải được nghỉ ngơi, nhưng bà đã thức suốt đêm ở một góc đường Lê Quang Định – Nguyễn Văn Đậu thành phố Hồ Chí Minh để vá xe, khi xe ai đó bị lỡ cán đinh, xì hơi… suốt 35 năm, nhiều biến cố xảy ra, chồng mất, nhà bán, các con tan tác nhưng bà vẫn bám trụ góc phố này như một sự gắn bó định mệnh. Cụ không ước mơ một ngày nào đó mình sẽ đủ sống mà không cần vá xe nữa, cụ chỉ ước có nơi trú ngụ cho tuổi già. Vá xe, không chỉ là mưu sinh mà cũng là cách để cụ giữ những ký ức về người chồng yêu thương, về những tháng ngày ấm nồng bên người đàn ông của cuộc đời mình. Giờ đây, bên cạnh cụ là đứa cháu hơn ba tuổi gọi bằng cố. Những khi không có khách, cụ vui đùa cùng cháu và vỗ về giấc ngủ cho cháu ngay góc đường luôn nườm nượp người xe qua lại.” Trông hai bà cháu thật hạnh phúc.
Thử hỏi ông bà anh chị em, những người tài năng giàu sang có hạnh phúc hơn bà cụ này không? Hay là họ phải lo lắng không yên, mất ăn mất ngũ. Trong dụ ngôn có nói họ lo làm ăn buôn bán đến độ không màng chi đến lời mời gọi dự tiệc cưới của con Vua. Đời sống vật chất, sự thành công của họ thì quan trọng hơn đời sống tinh thần, và rất có thể sẵn sàng làm những việc xấu như lừa đảo, áp bức, tham nhũng hối lộ để tạo sự nghiệp cho mình. Đời sống vật chất, hưởng thụ quan trọng hơn là những niềm vui tinh thần; niềm vui tạm bợ hơn là niềm vui vĩnh cửu. Họ không biết đến hành vi phục vụ bác ái yêu thương mang lại niềm hạnh phúc.
Còn những người nghèo khổ xấu số nhưng lại tin tưởng và sống thực hành Lời Chúa thì họ rất bình an và vui vẻ hạnh phúc trong tâm hồn. Chưa nói đến niềm hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng, ngay ở đời này họ cũng đã cảm thấy hạnh phúc vì cảm nhận được ân phúc thiêng liêng mà Thiên Chúa dành cho họ.
Và như vậy chúng ta thấy, dưới ánh sáng của Lời Chúa, không ai lại sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Những hoàn cảnh nghèo hèn, bất tài, bất hạnh… với con mắt thế gian thì chúng thuộc về định mệnh của một ngôi sao xấu, nhưng dưới con mắt được ánh sáng Lời Chúa soi chiếu thì nó lại là cơ hội để trở thành bình an hạnh phúc nếu biết sống theo mời gọi của Thiên Chúa.
28. Hân hạnh vì được mời dự tiệc Nước Trời
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Người ta nói rằng ở Việt Nam hiện nay có ba mùa: đó là, mùa mưa, mùa nắng và mùa cưới. Việc cưới hỏi của người Việt trước đây thể hiện tình xóm làng cùng chung niềm vui khi có một thành viên trong làng xóm trưởng thành bước vào đời sống hôn nhân gia đình. Mỗi khi trong xóm có đám cưới, cả xóm kéo nhau đến giúp trang trí, dựng rạp, làm cổng hoa, mọi người ăn uống đơn giản vui vẻ. Tuy nhiên xã hội văn minh, tương quan rộng rãi, thời buổi kinh tế khó khăn thì việc tổ chức đám cưới ngày nay được cân nhắc chi li sao cho không lỗ hoặc phải có lời. Vì vậy, mỗi khi có đám cưới, gia chủ đi mời cũng cân nhắc xem mời những ai, và người được mời cũng cân nhắc dự đám nào, bỏ đám nào. Cứ như thế, đám cưới không còn là dịp gặp gỡ để chia vui, mà chỉ là để trả nợ trả nghĩa nhau, người đi ăn cưới mạnh ai nấy ăn, chẳng cần chờ đợi ai, chẳng cần tuyên bố lý do, chẳng cần làm dấu thánh hóa, hay lời khai mạc của gia chủ. Họ tranh thủ ăn cho xong để còn ra về đi dám khác. Ở cấp độ khác, khi quan chức tổ chức đám cưới cho con, họ làm hết sức rềnh rang để phô trương sự giàu có và đẳng cấp của mình. Các tấm thiệp được gửi đến giới làm ăn hoặc cho cấp dưới không ai dám từ chối, ai đến dự tiệc cũng hớn hở, hãnh diện và dĩ nhiên việc hồi âm chúc mừng cũng không thể nhẹ tay.
Thưa quý OBACE, bữa tiệc là hình ảnh đẹp diễn tả niềm vui và hạnh phúc. Trong bữa tiệc, mọi người cùng ăn uống chuyện trò vui vẻ, quên hết ưu tư phiền muộn. Mọi người được thưởng thức những món ngon, rượu nồng. Hơn nữa khi ngồi cùng bàn, mọi người thể hiện tình yêu thương gắn bó giữa những người bạn, họ dễ dàng hiểu nhau và thông cảm với nhau hơn. Ngày nay, tiệc tùng đã bị lạm dụng trở nên dư thừa phí phạm và trở thành dịp trao đổi làm ăn hoặc ký kết những phi vụ ngầm. Nó mất đi vẻ đẹp ban đầu, và biến thành một thứ “ngoại giao bàn nhậu”.
Vì mục đích, ý nghĩa tốt đẹp của bữa tiệc nên Kinh Thánh nói chung và sau này Chúa Giêsu luôn dùng hình ảnh bữa tiệc để diễn tả về hạnh phúc Nước Trời. Trong lúc dân Israel rơi vào cảnh đau khổ bởi chiến tranh, bởi sự áp bức của dân ngoại và sự nghèo đói, tiên tri Isaia đã nói đến Ngày Hoàng Tử Vua Trời sẽ đến: “Ngày ấy, Thiên Chúa sẽ thiết đãi các dân trên núi này một bữa tiệc, tiệc thịt béo, rượu thì ngon”. Lời tiên báo này chỉ nghe thôi đã thấy tâm hồn rạo rực niềm vui và hy vọng. Người ta sẽ hình dung đoàn đoàn lớp lớp người cùng rủ nhau lên núi nhà Đức Chúa để dự tiệc vui của Chúa. Thiên Chúa không chỉ báo trước một niềm vui gặp gỡ, ăn uống đồng bàn với Thiên Chúa, mà Ngài còn xóa đi mọi chết chóc, đau khổ. Những gì là tang tóc, u ám sẽ được Thiên Chúa thay bằng niềm vui ngập tràn: Người sẽ cất chiếc khăn tang bao trùm muôn dân, và bỏ đi tấm khăn liệm phủ trên mọi nước.
Vị Hoàng Tử mà tiên tri Isai tiên báo đã đến, Ngài chính là Chúa Giêsu Con Thiên Chúa, đến để giải thoát con người chúng ta khỏi mọi đau khổ thể xác cũng như tinh thần. Ngài sẽ vĩnh viễn tiêu diệt sự chết bằng chính cái chết và sự sống lại của Ngài, để đem lại cho chúng ta sự sống. Chúa Giêsu đã mời gọi tất cả mọi người tin nhận Ngài, yêu mến Ngài, thực hành những điều Ngài truyền dạy vào tham dự hạnh phúc Nước Trời cùng với Ngài. Đây là hạnh phúc mà triên tri Isaia đã tiên báo như là một bữa tiệc gặp gỡ vui tươi mà giờ đây Chúa Giêsu đang dọn ra cho hết mọi người. Tuy nhiên dù đang đói đang khát, đang đau khổ, nhưng nhiều người đã không đếm xỉa gì đến lời mời của Chúa, họ còn tìm nhiều cách để từ chối lời mời.
Thực tế này đã được Chúa Giêsu kể qua câu chuyện dụ ngôn: Một ông Vua tổ chức đám cưới cho hoàng tử, nhưng các quan khách được mời đã không cảm thấy hãnh diện vì được Vua mời. Trái lại, họ đã tìm cách từ chối với nhiều lý do: kẻ thì đi thăm ruộng, người thì đi buôn bán, người khác còn khinh thường và hành hạ những đầy tớ của Vua. Cuối cùng, tiệc rượu đã sẵn, những kẻ được mời không đến, nhà Vua đã cho người ra mời tất cả mọi người, bất cứ ai, thế là phòng tiệc đã đầy khách. Câu chuyện cho thấy, những kẻ ưu tiên được mời trước hết là những nhà lãnh đạo và toàn dân Do Thái. Họ là những người được Chúa ưu ái chọn thành dân riêng, và cho họ cơ hội được gia nhập vào tiệc cưới Nước Trời. Nhưng rất tiếc, các nhà lãnh đạo và dân Do Thái đã không đếm xỉa gì đến lời mời của Thiên Chúa. Họ từ chối Thiên Chúa để đi tìm kiếm lợi lộc vật chất. Họ tìm kiếm đất đai ở thế gian mà từ chối gia nghiệp Nước Trời. Họ từ chối việc chung hưởng niềm vui hạnh phúc với Thiên Chúa và với nhau để đi tìm kiếm của cải trần thế. Hơn nữa, họ đã nhiều lần hành hạ, nhục mạ, giết hại các ngôn sứ là những đầy tớ được Chúa sai đến để mời họ, cảnh báo họ.
Thiên Chúa đã mở cửa phòng tiệc để đón nhận mọi người thuộc mọi dân tộc, ngôn ngữ cùng vào Nước Trời để được dự tiệc cưới của Hoàng Tử. Bất cứ ai đáp lại lời mời của Thiên Chúa, không kể giàu nghèo địa vị, mọi người đều có chỗ trong Nhà của Thiên Chúa. Phòng tiệc đầy khách, những người xa lạ giờ đây trở nên thân thuộc, những người đau khổ đón nhận được niềm vui, những người đói khát thì được no thỏa. Tuy nhiên, dù tất cả mọi người được mời vào, nhưng Thiên Chúa vẫn đòi ở nơi mọi người một sự thay đổi và có những điều kiện thích hợp. Câu chuyện cho thấy, nhà Vua thấy có một người đã không mặc y phục cưới. Vua hỏi người ấy: Này bạn, sao bạn vào đây mà không mặc y phục lễ cưới? Người ấy câm miệng không nói gì. Nhà Vua đã cho trói anh và ném ra ngoài, nơi sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Điều đó có nghĩa là, để trở thành thành viên của Nước Trời, thành người đồng bàn với Thiên Chúa, thì chúng ta sẽ phải thay đổi con người cũ với sự rách nát tả tơi để mặc lấy con người mới, đời sống mới như khoác chiếc áo cưới vậy. Thiên Chúa như vị vua trong câu chuyện sẽ đến với từng người, từng bàn để thăm hỏi, để khuyến khích. Ngài muốn thấy nơi chúng ta vẻ đẹp của sự biến đổi, thấy chúng ta tỏ ra thiện chí và xứng đáng trước mặt Ngài.
Tiệc cưới Nước Trời không chỉ là một lời hứa hẹn mai sau trên thiên đàng, mà phòng tiệc của Thiên Chúa đang được mở rộng, và Thiên Chúa đang mời mọi người bước vào, đó là Giáo Hội. Trong Giáo Hội, chúng ta thực sự được Thiên Chúa thiết đãi không chỉ bằng thịt béo rượu ngon, mà Hoàng Tử Giêsu sẽ thiết đãi mọi người bằng lương thực là chính Mình và Máu Thánh Ngài. Tiệc này đang được dọn ra mỗi ngày ở nơi đây và mời gọi tất cả mọi người cùng tham dự. Trong phòng tiệc là Giáo Hội, chúng ta còn được gặp gỡ Đức Vua, gặp gỡ Hoàng Tử Giêsu qua lời dạy bảo của Ngài, được vui hưởng Tin Mừng Cứu độ của Ngài. Trong phòng tiệc là giáo Hội, chúng ta còn được chăm sóc bằng các Bí Tích, từ khi chúng ta sinh ra cho đến khi trưởng thành và nhắm mắt lìa đời. Chúa Giêsu qua Giáo Hội của Ngài vẫn yêu thương săn sóc chúng ta. Cũng ở trong phòng tiệc của Thiên Chúa, chúng ta được sống chan hòa tình anh em, đồng bàn với Chúa, đồng bàn với nhau, cùng chia sẻ cho nhau niềm vui nỗi buồn, nâng đỡ nhau khi gặp khó khăn thử thách. Thánh Phaolô đã chia sẻ kinh nghiệm sống tình huynh đệ trong bài đọc hai rằng: khi ngài gặp khó khăn thử thách, ngài đã được cộng đoàn Giáo Hội chia sẻ, an ủi, nâng đỡ.
Thưa quý OBACE, Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục mời gọi chúng ta mỗi ngày vào chung hưởng hạnh phúc với Chúa. Đi dự đám cưới trần gian, không ai dám ăn mặc quá xuềnh xoàng. Trái lại, người dự tiệc cũng phải chuẩn bị, chau chuốt, trang điểm cho đẹp hơn ngày thường. Thiên Chúa đang chờ đợi nơi chúng ta sự biến đổi, thanh tẩy khỏi hôi hám của tội lỗi, khỏi bẩn thỉu rách rưới của những đam mê, thói quen xấu. Hãy mang trên mình một con người mới, như chiếc áo mới để chia sẻ tiệc vui với Chúa. Tuy nhiên nhiều người, nhiều gia đình, nhiều bạn trẻ đã không cảm thấy vinh dự vì lời mời gọi này. Nhiều người đã bỏ ngoài tai lời mời của Chúa, có những kẻ cân nhắc thiệt hơn trước lời mời gọi này. Họ từ chối vì lý do cuộc sống kinh tế, vì bận công ăn việc làm.
Giống như khi nhận nhiều thiệp mời trong mùa đám cưới, nếu lấy lý do để từ chối thì ai cũng có lý do, và sẽ có rất nhiều lý do. Nhưng lý do quan trọng là do người ta cân nhắc tình cảm và sự thiệt hơn khi quyết định tham dự hay không tham dự. Nhưng chắc chắn nếu người mời và người được mời có ân nghĩa với nhau, thì người ta sẽ không thể không tham dự. Cũng vậy, nhiều người từ chối đến với bàn tiệc Thánh Lễ mỗi ngày, là vì họ không nhận ra ân nghĩa với Thiên Chúa, không nhận ra Đấng mời mình là Đấng đã và đang làm ơn cho mình. Một khi nhận ra ân tình với Thiên Chúa, chúng ta không thể từ chối lời mời của Chúa, trái lại, chúng ta còn cảm thấy vui và hãnh diện vì được đến với Chúa mỗi ngày.
Xin Chúa cho chúng ta luôn tự hào vì mình là những người được Chúa mời gọi để biết mau mắn đến với bàn tiệc Nước Chúa. Đồng thời, không chỉ là người được mời, song mỗi chúng ta còn là người đầy tớ được Chúa sai đi mời những người khác cùng vào dự tiệc Nước Trời. Xin cho nhúng ta luôn biết ra đi để đem nhiều người vào phòng tiệc Nước Chúa. Amen.
29. Tiệc cưới với bốn nghịch thường
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
Cách đây 9 năm, 29-4-2011, Hoàng tử William của hoàng gia Anh và công nương Kate Middleton đã trao đổi lời thệ ước hôn nhân tại Đại Thánh đường cổ kính Wesminter. Đây là lễ cưới cung đình.
Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu cũng đã ví Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Chuyện từ 20 thế kỷ trước, ta tưởng như chuyện đời xưa mà lại không cũ chút nào, vì mới diễn ra gần đây.
Mùa xuân 1947 cả thế giới chú ý đến hàng tít lớn trên trang nhất của báo chí cho biết công chúa Elizabeth của nước Anh sẽ sánh duyên cùng hoàng tử Philip gốc Hi lạp. Cuộc tình duyên này quan trọng vì công chúa Elisabeth sẽ lên ngôi kế vị vua cha trị vì không những vương quốc Anh, Bắc Ai-len và còn đứng đầu khối Thịnh Vượng Chung gồm trên 50 nước lớn nhỏ (Ấn, Canada, Úc…). Lễ được tổ chức tại Thánh đường Wesminter cổ kính ngày 20/11/47. Người ta không những nhìn xem hai nhân vật chính là cô dâu chú rể nhưng còn chăm chú điểm danh những nhân vật quan trọng từ quốc trưởng, tổng thống, vua chúa… đến các nhà quí tộc, tài phiệt. Không ai được mời mà muốn vắng mặt trong lễ cưới, trong tiệc mừng long trọng như vậy. Đó là chuyện bình thường dễ hiểu.
Nhưng dụ ngôn của Chúa hôm nay ví Nước Trời như một chuyện bình thường: vua mở tiệc cho hoàng tử, nhưng lại mang đầy những chi tiết không bình thường chút nào, nếu không nói là nghịch thường quá khác lạ. Ta nhận ra được ít là bốn khác lạ nghịch thường so với một đám cưới tương tự trong đời thường: dửng dưng – đổ máu – mở rộng – thanh trừng.
1. Dửng dưng
Đám cưới của Hoàng tử tức con vua ai lại chẳng muốn tham dự, vì một miếng đầu làng đã bằng một sàng xó bếp, huống gì là một miếng ở cung đình, một chỗ ngồi chung quanh vua lại mang vinh dự biết bao cho kẻ được mời. Đó là chưa kể có thể có những chức tước được ban, những cơ hội phát đạt… . Thế mà trong dụ ngôn Chúa Giêsu nói, khách không thèm đến. Một lần giấy mời từ trước, hai lần sai gia nhân, họ đều dửng dưng để ngoài tai. Dụ ngôn nói rất rõ: Vua sai đầy tớ đi gọi những kẻ đã được mời, nhưng họ không đến. Vua lại sai đầy tớ khác dặn, hãy nói với khách mời, tiệc sẵn rồi, heo đã quay, bò đã thui, lẩu đã sôi… Họ vẫn dửng dưng, và đưa ra những lý do chảng có tầm cỡ chút nào: người thì nói mắc đi thăm trại (thăm lúc nào chẳng được), kẻ thì nói đi buôn (buôn quanh năm chứ đâu một ngày), một lần thiếp mời cộng với hai lần sai hai nhóm đầy tớ khác nhau tới mời, khách vẫn dửng dưng.
2. Đổ máu
Khi toán đầy tớ thứ nhất tới nài nỉ khách đi dự tiệc, vì mọi sự đã sẵn, thì có nhiều khách đã không những không thèm đến dự mà còn “bắt các đầy tớ của vua, hành hạ rồi giết luôn.” Máu đã đổ! Chuyện rất lạ. Và vua khi nghe được thì cũng trả đũa không kém khác thường: sai quân lính đi giết bọn sát nhân đó (mạng đổi mạng) và thiêu hủy luôn thành phố của chúng. Sự trả đũa quá tay! Máu đổ nhiều trong ngày cưới. Năm 1989, tháng 11, tại Saigon, cô Hồng Cẩm còn mười ngày nữa là đám cưới của cô. Cô dựng xe trước nhà bị hung thủ đến cướp xe đâm chết. Máu đã đổ. Điều càm động là trong tang lễ, người ta mặc áo cưới cho cô. Đó là một chuyện lạ, lạ mà cảm động. Còn trong dụ ngôn cũng lạ, khác lạ, nhưng lạ của tàn sát tập thể ngay trong ngày cưới.
3. Mở rộng
Khi khách được mời không thèm tới, khi kẻ xứng đáng chẳng đoái hoài, thì vua mở rộng cửa phòng cưới, mời tất cả mọi người không phân biệt giàu nghèo, đui què, tàn tật và không phân biệt cả tốt xấu, thánh nhân lẫn quỉ sứ: mời tất tần tật vào, cũng là một chuyện lạ. Thánh Luca thuật dụ ngôn tương tự như Matthêu hôm nay kể tới hai lần sai đầy tớ đi mời: mời lần đầu, chỗ còn trống, phải mời thêm một lần nữa: lượm lặt khắp hang cùng ngõ hẻm cho đầy bàn tiệc cưới. Thật ra vào thời Chúa Giêsu đã xảy ra một chuyện gần tương tự, được ghi lại trong sách Talmud: ông Bar Majan người thu thuế giàu có đã tổ chức một tiệc lớn chiêu đãi chức sắc trong thành, những vị này từ chối lời mời. Thế là thay vì nhìn mâm cỗ bị hư, ông cho mời những người nghèo tới dùng bữa. Dụ ngôn của Chúa Giêsu không dừng lại ở đó mà còn mở ra một chuyện khác lạ nữa: đó là thanh trừng.
4. Thanh trừng
Mời đột ngột, người ta đang đi ăn xin cũng mời vào, đang quét rác cũng kéo vô thì làm sao chuẩn bị y phục đàng hoàng. Vậy mà vua vào thấy một kẻ không mặc áo cưới thì nổi giận. Đáng lẽ đuổi ra là cùng, đàng này vua ra lệnh: trói chân tay nó lại, ném vào nơi tối tăm, ở đấy đầy khóc lóc và nghiến răng. Chuỵện quá lạ! Người ta đã tìm cách giải thích nhiều kiểu cho đỡ lạ kỳ như áo cưới sẵn có nơi tiền đình, trước khi vào phòng tiệc thì khoác vào thôi. Nhưng lời giải này cũng bị bác vì chẳng hề có tục lệ đó nơi người Do thái bấy giờ. Người ta còn tìm nhiều giải thích khác như hai dụ ngôn tiệc cưới và áo cưới riêng biệt được ghép chung lại, nên nhiều khi không khớp. Nhưng dầu sao thanh trừng quá đáng như thế vẫn là một chuyện lạ!
Bốn chuỵện lạ trong dụ ngôn: dửng dưng của khách được mời; đổ máu quá nhiều trong ngày cưới, mở rộng quá đáng cánh cửa cho mọi người vào, rồi lại thanh trừng khắt khe kẻ chưa kịp mặc áo cưới. Tất cả các chuỵện lạ đó chỉ có thể hiểu được dưới ánh sáng của lịch sử –lịch sử dân Israel và lịch sử cứu độ-, chứ không thể hiểu được trong khung cảnh tiệc cưới.
Những kẻ dửng dưng, đó là dân Israel chính tông chẳng đoái hoài gì đến con vua là Giêsu Kitô: vị tân lang chàng rể.
Đổ máu là họ, dân Israel đã giết các tiên tri, đổ máu những người được Chúa sai đến báo tin vui cho họ.
Mở rộng là ơn cứu độ của Chúa dành cho mọi hạng người bất kỳ đen trắng vàng đỏ, nô lệ, tự do, nam hay nữ, kể cả trung tính…
Thanh trừng là, một khi được mời tới phải biết mặc lấy Chúa Kitô là áo cưới, mặc lấy con người mới, không thể khác.
Dụ ngôn với những chuyện lạ nhắm vào người Do Thái Pharisêu, nhưng cũng có thể nhắm vào chúng ta. Ta được thánh tẩy ngay từ nhỏ, tức được mời dự tiệc cưới từ đầu, nhưng biết đâu ta lại dửng dưng, coi chừng sẽ bị Chúa “mửa” ra. Cũng có thể ra mới được thánh tẩy, là Đạo Mới, tức mới được “thu gom” để vào phòng cưới, nhưng ta lại không mặc áo cưới –coi chừng sẽ bị thanh trừng. Không thể chỉ dựa vào lý lịch: tôi là con cháu các thánh tử đạo oai hùng Việt Nam.
Xin Chúa cho chúng ta kẻ được mời trước hay là kẻ đến sau đều biết giữ gìn chiếc áo trắng thánh tẩy ngày nhận Phép Rửa Tái Sinh, đó chính là chiếc áo cưới mà Chúa đòi hỏi để ta được vào dự tiệc cưới Nước Trời đời đời. Amen.
30. Mời quí vị đến dự tiệc cưới – Lm Fx. Đỗ Công Minh
Ai trong chúng ta đã một lần được một vị Vua mời dự tiệc, hay nói theo thời đại, một vị Tổng Thống, thủ tướng hay chủ tịch nước mời dự tiệc cưới con của các ngài mà chối từ? Theo báo chí, đám cưới của con một vị tổng thống, người ta đã phải vận động hành lang từ cả năm trước đó để xin được một tấm thiệp mời. Có những người xin dự chẳng thân thiết, quen biết một ai trong hai họ; hay đã một lần nào gặp gỡ cô dâu, chú rể. Có chăng là thấy hình ảnh trên truyền hình hay qua báo chí. Mà đâu phải chỉ mong có được một tấm thiệp cưới để hãnh diện với người khác, những người được dự như thế còn sẵn sàng trả chi phí lẫn tiền mừng, tặng phẩm đắt giá. Vậy mà trong Tin Mừng hôm nay, một vị Vua mời những người thân thiết, những người bạn yêu dấu đến dự tiệc cưới con ông thì quan khách không chịu đến. Không thất vọng vì sợ mang tiếng là lợi dụng để kiếm chác, để “một vốn bốn lời “nhà vua đã cho người đầy tớ khác đi mời với lời dặn dò thuộc hạ: “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn ta đã dọn xong,bò tơ và thú béo đã hạ rồi,mọi sự đã sẵn, mời qúy vị đến dự tiệc cưới”. Phũ phàng thay,người thì bỏ đi không nhận lời mời, người khác nêu lý do đi thăm nông trại, đi buôn. Thậm chí có người còn bắt bớ, hành hạ, giết những người đi mời khiến nhà vua nổi cơn thịnh nộ mà tru diệt những người dã tâm, ác đức.
Để thể hiện tấm lòng của một vị Vua nhân hậu, ông đã cho mời tất cả những người đang lang thang trên khắp các nẻo đường, “Gặp ai, bất luận tốt xấu, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách“. Thế nhưng trong số đám đông ấy, cũng có người vào dự mà không tuân theo nghi thức qui định, cố tình chống lại nhà vua, làm xấu đi hình ảnh của một buổi tiệc vui theo phong tục bấy giờ, đó là không mặc y phục lễ cưới đã có sẵn phía ngòai. Người ấy bị trừng phạt và lọai ra.
Lạy Chúa,
Con đang tự hỏi mình, làm sao lại có những con người “khác người “ như thế! Được mời dự tiệc cưới, mà lại là một tiệc cưới có một không hai, vậy mà không chớp lấy cơ hội ra mắt nhà vua để ít nhiều được ân thưởng? Tại sao lại viện cớ bận rộn vì những chuyện vặt vãnh trong cuộc sống để chối từ bước vào cung điện tráng lệ, nơi đầy cỗ bàn với mọi thứ ngon ngọt và rộn ràng niềm vui? Tiệc cưới ấy như dụ ngôn mà Đức Giêsu nêu ra đó chính là Nước Trời. Nước Trời giống như…
Chúa cũng đã từng và mỗi ngày mời gọi con vào dự tiệc cưới trong nước trời như những vị quan khách. Không những một lần mà nhiều lần. Con cũng đã bao lần thóai thác, chối từ. Viện lẽ này, lẽ khác để trả lời những người đến mời gọi. Con không nhận ra rằng vào dự tiệc cưới là cơ hội để con đón nhận những ân phúc mà Cha trên trời sẽ ban cho con, hầu con tiếp tục cuộc sống trần gian với những gì là tốt đẹp nhất. Con chưa đến nỗi hành hạ, chống lại những người được Chúa sai đến với con, nhưng cũng nhiều lần tìm cách lảng tránh, hay vì quá đam mê cuộc sống, công việc trần thế mà chê chối lời mời, lần lữa hẹn dịp này dịp khác sẽ đi dự tiệc. Hẹn đến khi nào công việc rảnh rỗi, sung túc cái đã, rồi tính chuyện vào dự.
Con cũng đã nhiều lần cùng anh chị em vào dự tiệc cưới nhưng lại không xứng đáng. Không trân trọng, không mang trong mình thái độ đón nhận, mà thay vào đó là lòng tự kiêu, bất cần, bất trung. Thái độ coi thường Lòng thương xót của Chúa.
Những con người xấu trong Tin Mừng hôm nay diễn tả đều có trong con. Xin Chúa cho con bừng tỉnh và nhận ra những thiếu xót của mình. Nhận ra lòng thương yêu vô cùng của Chúa với con. Người hằng chờ con từng ngày, mỗi ngày để vào hưởng “Niềm vui nước trời “.
Lạy Chúa xin thứ tha và giúp con. Amen.
31. Tính “ích kỷ” trong hai bữa ăn
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
“Khi nghe tin Gioan bị chém đầu, Chúa Giêsu rút vào nơi hoang vắng…”
Chỉ với câu mô tả đó nằm đầu đoạn Tin Mừng hôm nay, gợi nhớ cho chúng ta 2 bữa ăn trộn với hai biến cố: Gioan bị chặt đầu trong bữa ăn linh đình tại dinh Hêrode, và bánh hoá nhiều trong bữa ăn nuôi 5000 người giữa nơi hoang vắng. Nét chung của hai bữa ăn là chủ đề suy tư hôm nay.
1. Bữa ăn sang trọng: Tại bữa tiệc ở cung điện của vua Hêrôđê với các quan khách sang trọng quí phái, tất cả mọi sự trên đời: quyền hành, danh vọng, tiền bạc, sắc đẹp, lạc thú, cao lương mỹ vị, rượu ngon thỏa thích, vũ nữ duyên dáng… đều có, và có cả hận thù, ích kỷ, cho nên có luôn máu đổ đầu rơi!
Vài tuần lễ trước khi chết, một phóng viên đã phỏng vấn Elvis Presley – nổi tiếng là vua của nhạc Rock:
– Elvis, khi anh bắt đầu chơi nhạc, anh đã nói anh muốn có được ba điều trong cuộc đời. Anh muốn giàu sang. Anh muốn nổi tiếng. Và anh muốn sống hạnh phúc. Giàu sang và nổi danh chắc chắn là anh đã có. Thế còn hạnh phúc, không biết anh thực sự có hay không, Elvis?” Chàng ca sĩ trả lời
– “Không, tôi sống cô đơn như ở trong hỏa ngục”.
Presley kết hôn với Priscilla Beaulieu 1967. Năm sau có con gái. 1973 ly dị. Năm1977 Presley chết 42 tuổi. Không biết khi chết gia tài bao nhiêu, nhưng giỗ thứ 25, (2002) báo Forbes xếp anh vào loại nghệ sĩ có để lại lợi tức cao nhất: 37 triệu đô 1 năm.
Giàu sang. Danh vọng. Những người hâm mộ vây quanh gồm đủ mọi hạng người, các giai nhân tài tử tuyệt trần, vậy mà Elvis diễn tả cuộc sống của anh như hỏa ngục! Thật lạ lùng! Như thế, cuộc sống của vua Hêrôđê với tiệc tùng sang trọng nào có khác chi!
2. Bữa ăn Giêsu: hóa bánh ra nhiều: tại bữa ăn nơi hoang vắng với đám dân nghèo, họ chẳng có gì, ngoài sự tin tưởng, hy vọng vào tình thương và sự chia sẻ của Chúa Giêsu. Nhưng nếu tiệc Herode có “ích kỷ,” thì sự thiếu thốn về vật chất cũng dễ làm cho con người trở nên “ích kỷ.” Họ không muốn đóng góp sự gì, mà chỉ mong mỏi từ Đấng khác.
Vì thế, đây không chỉ là phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều nhưng còn là phép lạ thay đổi dân chúng ích kỷ trở nên quảng đại nhờ sự hiện diện và tiếp xúc với Chúa Kitô. Chúa sẽ không làm phép lạ, nếu không có 5 chiếc bánh và hai con cá (chắc là cả hai cùng bé, cá bé và bánh bé, vì là của một em bé). Làm gì mà một người mẹ trong gia đình khi đi với chồng con vào nơi hoang vắng lại chẳng quơ vội ổ bánh, chai nước, vài ba viên kẹo, để lỡ con mình đòi ăn liền có, đòi uống, đưa ngay. Ấy vậy mà cho đến chiều tối, không ai chịu đưa ra. Không đưa ra, không có phép lạ! Không góp phần của chính mình, không hưởng ơn!
Minh hoạ cho điều này, ta có thể nhờ tới một nhà văn Kitô giáo đã dựng vở kịch diễn tả vụ hành quyết một tên trọng phạm tại một thị trấn nhỏ thời Trung Cổ. Theo phép Nước, chỉ có một lối thoát chết cho tử tội là nộp đủ 1000 đồng tiền vàng để chuộc mạng. Nhà vua tỏ ra hào hiệp tặng hết số 700 đồng vàng mang theo trong một chuyến tuần du qua đây; hoàng hậu theo gương có 200 đồng cũng giúp hết; các cận thần đi theo cũng dốc túi. Người ta đếm được 999 đồng, còn thiếu một đồng. Công lý không thể nhân nhượng, đành phải thi hành pháp lệnh. Toán hành quyết tròng dây thừng vào cổ tên tử tội thiếu may mắn. Khi sắp sửa rút dây thì có một tiếng kêu lớn: “Khoan đã, lục soát người nó đi, biết đâu đấy”, đao phủ lần mò khắp người tội nhân và móc ra được một đồng hắn giấu trong lưng quần từ hồi nào mà hắn cũng không nhớ nữa. Thế là đủ 1000 đồng, tên tử tội được thoát tử.
Có lẽ chúng ta đều hiểu câu chuyện này. Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng ta 700 đồng tiền vàng, Mẹ Maria đã trợ giúp chúng ta 200, các thánh cũng góp vào 99, và chính chúng ta cũng phải đưa ra. Tóm lại, dù chúng ta là ai, dù chúng ta hèn kém thế nào, chúng ta hãy cố gắng với hết khả năng của mình, Chúa sẽ trợ giúp chúng ta. “Để dựng nên ta, Chúa không cần chúng ta. Nhưng để cứu ta, Ngài cần ta góp phần.” Thánh Âu-Tinh đã nhận xét như vây.
Đừng bao giờ nghĩ rằng với một chút của mình làm chi nên chuyện. Không có mợ chợ vẫn đông mà. Không, không mợ chợ mất đông (hết một người)!
Vào một đêm đông, người đàn ông rút cây nến nhỏ từ trong ngăn kéo ra, thắp nó lên, và bắt đầu bước lên chiếc cầu thang dài hình trôn ốc. Cây nến hỏi người đàn ông: “Ông đi đâu vậy?” Ông trả lời: “Đi lên chỗ cao hơn nóc nhà nơi chúng ta “.
“Và ông sẽ làm gì ở đó?” cây nến hỏi.
– “Tôi sẽ chỉ cho những con tàu ở biển khơi biết đâu là hải cảng”, vì chúng ta đang ở ngay lối vào hải cảng, và một số con tàu ngoài biển khơi đang gặp bão táp, có thể tìm thấy ánh sáng của chúng ta”.
“Không có con tàu nào nhìn thấy ánh sáng của tôi cả”, ngọn nến nói “tôi quá nhỏ bé mà”.
“Mặc dù ánh sáng của ngươi nhỏ bé”, người đàn ông đáp, “cứ hãy thắp sáng nó lên, đừng e ngại, hãy để phần còn lại cho ta tính”. Rồi người đàn ông trèo lên những nấc thang cho tới đỉnh của ngôi nhà hải đăng, cầm cây nến nhỏ bé, châm lửa vào những cái đèn vĩ đại đã đứng sẵn ở đó với những tấm gương phản chiếu bóng láng ở phía sau. Một cây nến nhỏ cũng có thể làm nên một vùng sáng lớn.
Có hai bữa ăn: cả hai cùng có một điểm chung: ích kỷ
– Herodia ích kỉ, nghĩ đến mình, mong yên chuyện (bậy): lấy em chồng làm chồng, (em chồng là vua, còn chồng mình chỉ là quan nhỏ) trong khi chồng mình còn sống, bị Gioan trách cứ, muốn yên thân (=ích kỉ) chỉ có cách bịt miệng Gioan. Bịt hay nhất là chặt đầu.
– Herode, vì nghĩ đến mình, đến danh dự (hão) của mình, đã lỡ hứa rồi, (xe lỡ mua, nhà lỡ xây, điện kế lỡ lắp…) lỡ hứa rồi, cho nên chết ai mặc kệ, miễn là bản thân được tiếng “khen” kẻ giữ lời.
Bữa tiệc đó có ích kỷ ngự trị, nên kết cục là đầu rơi
Bữa ăn Chúa khởi đầu cũng có ích kỉ, ai cũng giữ cho riêng mình, nhưng rồi gương em bé quảng đại, làm cho quảng đại lây lan và thế là phép lạ bánh hoá nhiều
Khi Mẹ Têrêsa Calcutta đi ngang qua một gia đình Hin-đu (Ấn Giáo) đã đói nhiều ngày. Mẹ cầm theo một ít gao cho gia đình ấy. Điều xảy ra sau đó làm mẹ kinh ngạc. Không chút lưỡng lự, người mẹ trong gia đình Hinđu đã chia số gạo ra làm hai phần. Rồi bà đem một nửa cho gia đình nhà bên cạnh, tình cờ là những người theo Hồi giáo.
Thấy điều đó, mẹ Têrêsa nói với bà mẹ Hinđu “Bà còn lại được bao nhiêu? Liệu có đủ cho gia đình bà không?”.
“Nhưng họ cũng đã nhịn đói nhiều ngày rồi”, người đàn bà ấy trả lời.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều ấy còn được gọi là phép lạ của lòng quảng đại. Trước hết là lòng quảng đại tuyệt vời của cậu bé, vì với món quà của cậu là năm chiếc bánh nhỏ và hai con cá con mà phép lạ mới được thực hiện. Nếu ta muốn hưởng ơn cứu độ, nếu ta muốn được Chúa làm phép lạ ban ơn cứu độ cho ta, đừng ích kỷ, nhưng quảng đại góp phần, dù nhỏ bé chẳng là chi. Amen.
32. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Thiên Chúa là tình yêu. Vì tình yêu, Ngài đã dựng nên con người. Vì tình yêu, Ngài đã dựng nên mọi loài mọi vật để phục vụ con người. Không những thế, Ngài còn muốn con người được hưởng hạnh phúc đời đời. Chính vì vậy, qua mọi thời đại, Ngài mời gọi tất cả mọi người không phân biệt tốt xấu vào hưởng hạnh phúc Nước Trời.Dụ ngôn tiệc cưới hôm nay diễn tả tâm tình đó của Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa mời gọi hết thảy mọi ngườivào hưởng hạnh phúc Nước Trời
Trước hết là người Do thái: Thiên Chúa đã ưu tiên cho dân Do thái. Ngài tuyển chọn họ làm dân riêng. Qua các thời kỳ lịch sử, Ngài đã chăm sóc họ bởi các thủ lĩnh, các ngôn sứ và cuối cùng Ngài sai chính Con Một của Ngài. Nhưng biết bao nhiêu lần, họ đã từ chối tình thương và sự chăm sóc của Thiên Chúa. Thậm chí, họ còn giết các tiên tri và giết chính Con Một yêu dấu của Ngài.
Khi dân Do thái từ chối, Thiên Chúa mở rộng đối tượng được mời, đó là hết thảy mọi người,không phân biệt tốt xấu, màu da, chủng tộc. Thánh Mathêu cho biết: “Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới. Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc”(Mt 22,8-10). Chính Đức Giêsu, trong ba năm rao giảng Tin mừng, Ngàikhông chỉ rao giảng cho riêng người Do thái mà còn rao giảng cho cả vùng dân ngoại. Ngài không chỉ rao giảng cho những người “đạo đức” mà còn rao giảng cho những kẻ “tội lỗi”, đó là những người thu thuế và những cô gái điếm. Tiếp nối sứ mệnh của Đức Giêsu trao phó, Giáo hội trong suốt hai ngàn năm qua, luôn đi khắp tứ phương thiên hạ và mời gọi mọi người gia nhập Giáo hội. Từ con số 12 nay đã có khoảng1,2 tỷ người công giáo trên thế giới. Họ thuộc mọi tầng lớp, màu da, chủng tộc.
Như vậy, dầu trực tiếp hay gián tiếp, Thiên Chúa luôn mời gọi mọi người để họ được hưởng hạnh phúc với Ngài trong Nước Trời.
2. Thiên Chúa mời một cách tha thiết và chu đáo
Qua “dụ ngôn tiệc cưới” hôm nay cho chúng ta thấy, ông chủ không chỉ mời qua loa chiếu lệ, nhưng ông mời một cách tha thiết và hết sức chu đáo. Cụ thể, ông cho người mời thành hai giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất, thiệp mời được gửi đi. Thời gian này cách xa ngày mở tiệc cưới khoảng ít lâu, có lẽ khoảng chừng một tháng. Ông chủ làm như vậy để giúp người được mời có thời gian sắp xếp công việc, chuẩn bị áo cưới và có thể những thứ cần thiết để mừng cô dâu chú rể. Cách làm này thể hiện sự quan tâm của ông chủ.
Gian đoạn thứ hai, là thời gian cận kề bữa tiệc cưới. Ông chủ cho người đi mời lại một lần nữa: “Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới”(Mt 22,4).Ông chủ sợ khách mời quên chăng? Dẫu sao cử chỉ này cũng thể hiện sự nhiệt tình, chu đáo của ông chủ. Cử chỉ này cũng rất phù hợp với phong tục cưới hỏi nhiều nơi ở người Việt Nam chúng ta. Ở nhiều địa phương tại Việt Nam, chủ nhà có đám cưới thường gửi thiệp mời trước ngày cưới cả tháng. Và đương nhiên trước ngày dọn tiệc, chủ nhà còn “nhắc khéo” người được mời một lần nữa để họ nhớ đi tham dự đám cưới cách đầy đủ. Đó là mong muốn của ông chủ.
Thái độ của ông chủ cũng là thái độ của Thiên Chúa khi Ngài mời con người đến dự tiệc cưới Nước Trời. Ngài mời lần này lượt khác. Ngài mời qua các tiên tri. Ngài mời qua chính Con Một của Ngài. Ngài mời qua Giáo hội. Ngài mời một cách nhiệt tình và chu đáo. Hầu mong muốn ai ai cũng có mặt trong tiệc cưới mà Ngài dọn sẵn là Nước Trời.
3. Thái độ của khách mời
Thái độ thứ nhất của khách mời là từ chối lời mời gọi của ông chủ: Ông chủ tiệc cưới ở đây lại là một vị vua. Đám cưới ở đây là của hoàng tử. Đáng lý ra khách được mời phải cảm thấy vinh dự to lớn và phải đáp trả lại lời mời gọi một cách mau mắn. Nhưng than ôi, họ không làm như vậy. Trái lại, họ đã từ chối một cách ra mặt. Từ chối lần mời đầu tiên “Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến.”(Mt 22,3). Từ chối lần mời thứ hai: “Những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán;”(Mt 22,5).Những lý do họ đưa ra để từ chối không đủ thuyết phục: bởi vì, những công việc như thăm trại, buôn bán thì không quan trọng cho lắm so với tiệc cưới của hoàng tử, được nhà vua đích thân mời. Hơn nữa, những công việc đó có thể chuyển sang một thời gian khác. Thậm chí, “một số người còn bắt các đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi” (Mt 22,6).
Thái độ của khách mời trên cũng là thái độ của người Do thái: Dân Do Thái đã từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa, của Đức Giêsu; Họ đã giết chết các tiên tri; Họ không tin vào Đức Giêsu và thậm chí đã giết chết Người. Thái độ của khách mời cũng là thái độ của con người qua mọi thời đại: Họ viện vào nhiều lý do không đâu để từ chối lời mời của Đức Giêsu, lời mời của Giáo hội. Thậm chí, họ còn bắt bớ, đánh đập những người được Chúa và Giáo hội sai đến. Các cuộc bách hại Giáo hội qua các thời kỳ làm chứng cho chúng ta thấy điều đó.
Chắc chắn số phận của những người từ chối lời mời gọi của ông chủ, của Thiên Chúa sẽ không có chỗ trong Nước Trời.
Thái độ thứ hai của khách mời là không mặc y phục lễ cưới:Điều kiện duy nhất mà ông chủ đòi hỏi nơi khách mời là phải mặc y phục lễ cưới. Y phục lễ cưới ở đây ám chỉ lòng sám hối của con người và những việc lành phúc đức mà con người thực hiện. Trongsố những người đã ngồi vào phòng tiệc, nhà vua nhận ra một người không mặc y phục lễ cưới. Nhà Vua liền nói với người ấy rằng: “Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?” Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!”(x. Mt 22,12-13). Khung cảnh này làm chúng ta nhớ tới khung cảnh về ngày phán xét chung mà Thánh Mathêu kể lại ở chương 25, nhà vua cũng nói với những kẻ bên tả là những kẻ không thực hành việc bác ái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống;Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng”(Mt 25,41-43).
Như vậy, y phục lễ cưới ở đây không chỉ là lòng sám hối mà còn là những việc lành bác ái yêu thương. Số phận của những người không có y phục lễ cưới, tức là không có lòng sám hối và không có lòng bác ái yêu thương sẽ không cố chỗ trong Nước trời.
Thái độ thứ ba của khách mời là mặc y phục lễ cưới: Trong phòng tiệc cưới, chỉ có duy nhất một người không mặc y phục lễ cưới. Số còn lại đều mặc y phục lễ cưới. Điều này cho chúng ta thêm niềm hy vọng.Nhưng hy vọng mà thôi chưa đủ. Để đảm bảo chắc chắn có chỗ trong Nước Trời, chúng ta cần chuẩn bị sẵn sàng: Đó là lòng sám hối và các việc lành phúc đức, nhất là những việc bác ái yêu thương;Đó là thực hành những đòi buộc của Bí tích Rửa tội:“từ bỏ ma quỷ và tuyên xưng đức tin”; Đó là luôn giữ gìn chiếc áo ngày rửa tội được “tinh tuyền”; Đó làsiêng năng cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích, suy niệm và thực hành Lời Chúa.
Tóm lại, Thiên Chúa là tình yêu. Ngài luôn mời gọi và mong muốn mọi người được hưởng hạnh phúc Nước Trời. Xin cho tất cả mọi người chúng ta luôn biết đáp trả lại lời mời gọi của Chúa, đồng thời biếtchuẩn bị cho mình những chiếc áo cưới đẹp, đó là sự hoán cải tâm hồn và những việc lành phúc đức. Amen.
33. Ăn cưới và y phục lễ cưới
Làm vườn nho, nộp phần hoa lợi, mời ăn “Tiệc cưới Nước Trời”. Làm thì phải có ăn. Làm ăn. Ăn là kết thúc. Thiên Chúa dọn tiệc mời tất cả. Công bình. Đáp lại là tự do của mỗi người. Tự do thì phải nhận kết quả của sự thực hiện của mình. Thiên Chúa phán xét cũng tuỳ theo sự thể hiện của mỗi người. “Vua đến quan sát và thấy”. Thấy sao thì phán xét vậy.
Vài điểm CHÚ GIẢI
– Vua dọn tiệc cưới cho con mình: Israel và Đức Giêsu. Đức Giêsu là tân lang..là một tỉ dụ. Nước Trời là tiệc cưới Thiên Chúa dọn cho Con mình.
– Họ không chịu đến: Israel từ chối Đức Giêsu và công trình cứu độ mà Thiên Chúa đã dùng họ để chuẩn bị. Không chịu đến là khinh dễ, từ khước Thiên Chúa, từ chối Nước Trời.
– Vua lại sai… nhưng họ không thèm đếm xỉa gì tới, lại bỏ đi, người thì đi thăm trại, kẻ khác đi buôn, có người lại bắt đầy tớ vua mà sỉ nhục và giết chết: cố chấp từ khước. Do thái từ chối Đức Giêsu. Còn tín hữu ngày nay, Chúa Nhật mắc đi nầy đi nọ…không đến nhà thờ.
– Vua thịnh nộ sai quân lính đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thánh trì của họ: Trước là Do thái và Giêrusalem (năm 70), kế đến là phán xét cho mọi người. Không đơn giản như có nhiều ngưới lầm nghĩ “Thiên Chúa nhân từ vô cùng, cưối cùng Người sẽ “xả dàn” cho tất cả vào ăn, không bỏ ai”. Thiên Chúa không bỏ nhưng tự mình bỏ. Đoạn Phúc Âm nầy là câu trả lời rõ ràng.
– Các ngươi hãy đi ra các ngả đường gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới: “xả dàn”. Thời cánh chung. Mời thì mời tất cả (không ép) nhưng đáp lại là quyền tự do và phải chấp nhận một số điều kiện.
-..bất luận tốt xấu, tập hợp tất cả và phòng tiệc cưới đã đấy thực khách: Muốn đi dự tiệc cưới của vua thì phải áo quần “tử tế” kẻo mắc tội “khi quân”. Phạm thượng khi quân là tội chém đầu. Nhiều người không đến mà đến thì phải….
– Bấy giờ vua đến quan sát khách dự tiệc thấy có người không có y phục lễ cưới: Ăn tiệc cưới của vua mà không có y phục lễ cưới là không được.
– Vua hỏi “sao bạn vào đây (được) mà không có y phục lễ cưới: Vào lậu (chui) phải không? Có kiểu nói lén chui vào thiên đàng bằng cách nầy cách khác..
– Người ấy câm miệng: không cãi lại được vì đúng vậy.
-Trói chân tay nó lại quăng ra chổ tối tăm bên ngoài ở đó mà khóc lóc nghiến răng: Hình phạt tuyệt đối. Không có van xin, không có tha thứ. Ngày phán xét đó. Đừng lơ mơ.
– Vì kẻ được gọi thì nhiều mà người được chọn thì ít: Ai cũng có thể. Chúa không đặt giới hạn. Tình thương bao la của Chúa là thế ấy. Đức Giêsu truyền đi rao giảng, ai nghe và tin thì chịu phép rửa gia nhập cộng đoàn cúư độ của Chúa và “nhập gia tuỳ tục”, phải vô khuôn đổi mới, “giữ những điều Đức Giêsu dạy”, không như trước nữa. Có đủ điều kiện mới chọn. Vì số nầy ít nên chọn ít. Chọn thì không thể bất luận tốt xấu.
Thiên Chúa thết tiệc. Tiệc của Chúa đã dọn sẳn. Tiệc Thánh Thể, tiệc Nước Trời. Thiên Chúa mời tất cả mọi người.
Những người khinh rẻ, từ chối mắc đi nầy đi nọ…..còn sỉ nhục đấy tớ vua thì số phận là tru diệt và phá huỷ thành trì của họ.
Còn những người vào ăn tiệc thì dụ ngôn y phục lễ cưới nói rõ “không phải muốn ăn thì cứ nhào vô”. Tiệc của Chúa đòi hỏi phải có y phục xứng đáng: Ơn thánh hoá (không thể miễn). Bắt dầu là nghe lời rao giảng của những kẻ Chúa sai. Tin, chịu phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần và nhất là “giữ mọi điều Đức Giêsu truyên”.
Bây giờ Thiên Chúa nhân từ, chờ đợi kẻ xấu hối cải, hết xấu bằng “giữ mọi điều ĐứC GIÊSU truyền”. Giữ mọi điều Đức Giêsu truyền là có y phục lễ cưới.
Phaolô: Ăn tiệc Chúa không xứng đáng là rước hình phạt cho mình. Hoặc mắc đi đây đi kia không đến hoặc đến ăn tiệc mà xứng đáng, bây giờ thì không thấy rõ. Nhưng khi vua đến thì là lúc…..
Tiệc cưới trong Nước Thiên Chúa là ngày chung thẩm, quyết định số phận vĩnh cữu của mỗi người, ai từ chối lời mời gọi, mắc đi buôn, đi đám nầy đám kia… còn khinh dể Chúa còn sỉ nhục, giết hại các đầy tớ Chúa thì bị tru diệt và phá huỷ thành trì. Còn những ai vào ăn tiệc cưới (tín hữu) mà không có y phục lễ cưới (tình trạng công chính hoá) thì bị trói tay chân (hết còn làm gì được) ném ra bên ngoài (Nước Thiên Chúa) ở đó mà đói khát và khóc lóc nghiến răng…
Được ăn tiệc cưới trong Nước Thiên Chúa là kết cục vĩnh viễn, là hạnh phúc đời đời.
Đức Giêsu nói ai có tai thì hãy nghe.
34. Tiệc cưới và y phục tiệc cưới – Anmai, CSsR
Bài đọc thứ nhất trích sách ngôn sứ Isaia chúng ta vừa nghe đấy khá quen thuộc với Kitô Hữu chúng ta. Thường trong các thánh lễ an táng, lời ngôn sứ này được công bố để nói lên niềm tin, niềm an ủi, niềm cậy trông mà Thiên Chúa hứa ban cho con người, đặc biệt khi gia đình rơi vào cảnh chia ly, mất mát người thân yêu trong gia đình.
Niềm an ủi đấy được ngôn sứ Isaia công bố rõ rệt: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế”. Không chỉ được đãi tiệc và rượu cách thịnh soạn mà còn: “Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy. “
Và ngôn sứ Isaia lại nói tiếp với chúng ta: “Ngày ấy, người ta sẽ nói: “Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ.”
Lời của ngôn sứ Isaia vang vọng cách đây hơn hai ngàn năm, lời hứa của Đức Chúa qua môi miệng ngôn sứ Isaia vẫn còn tồn tại và Đức Chúa vẫn đãi tiệc cho dân của Chúa mỗi ngày trên bàn tiệc Thánh, trên cuộc lữ hành trần thế. Hình ảnh bữa tiệc thịnh soạn mà Isaia loan báo đó được hiện tại hoá mỗi ngày nơi Bàn Tiệc Thánh Thể. Bàn Tiệc Thánh Thể mà Chúa mời gọi mỗi người đến tham dự như là hình ảnh Bàn Tiệc Nước Trời mà Chúa nói trong trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu hôm nay.
Trang Tin Mừng kể một lễ cưới long trọng cu#a một ông vua mở tiệc cưới cho hoàng tử. Câu chuyện tiệc cưới này có cái gì khác thường, từ thực khách cho đến những sự tham dự, và nhất là cách xử sự của chủ tiệc, cho chúng ta thấy có điều gì không bình thường, và đó chính là điều Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta. Trong thực tế, có lẽ chẳng có tiệc cưới nào diễn ra như thế. Đúng, đây không phải là một tiệc cưới bình thường, mà là tiệc cưới Nước Trời: đức vua mở tiệc cưới là Thiên Chúa. Hoàng tử của nhà vua là Chúa Giêsu. Các đầy tớ được sai đi mời khách là các ngôn sứ. Khách được mời lần đầu là dân Do Thái. Họ đã từ khước lời mời của Thiên Chúa và giết hại các ngôn sứ, thậm chí họ còn giết luôn cả hoàng tử Giêsu. Những người được mời kế tiếp là dân chúng ở khắp hang cùng ngõ hẻm, tức là mọi người, bất kỳ ở đâu, cũng được mời gọi vào nước Chúa.
Câu chuyện của Chúa Giêsu tưởng chừng như xa rời thực tế nhưng thật sự quá hay, quá thiết thực với mỗi Kitô Hữu.
Thử nhìn lại cuộc đời mỗi người, đành biết rằng cần phải kiếm miếng cơm manh áo để đắp đổi đời sống qua ngày nhưng xin hỏi rằng miếng cơm manh áo đấy có phải là tất cả cùng đích của cuộc đời, của con người không? Một thân xác xem ra “nặng ký”: đẹp về ngọai hình, cân đối về thể chất, vạm vỡ về sức lực hay tròn trịa về ký lô đi nữa mà chẳng có một chút gì để cho Thiên Chúa hiện diện, chẳng có một chút gì dành cho đời sống tâm linh thì thử hỏi thân xác đó có thể làm được gì? Đẹp, to, béo, tròn nhưng chỉ cần một cơn gió thoảng qua thôi thì cái thân xác to béo đấy cũng chỉ nằm gọn trong chiếc quan tài 4 miếng dài và 2 miếng vuông thôi.
Phải nói thẳng với nhau một thực trạng đau lòng đó là ngày hôm nay, con người ta cứ mãi miết để lo cho thân xác mình mà lại đánh mất đi cái lương thực tâm linh, lương thực nuôi hồn người ta đó chính là Bàn Tiệc Thánh Thể.
Chúa Giêsu đã hơn một lần nhắc nhở các môn đệ cũng như nhắc nhở mỗi người chúng ta:” người ta sống không nguyên bởi cơm bánh nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” Ngày hôm nay, chạy theo trào lưu của xã hội, con người đã đánh mất cái cảm thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời. Họ đánh mất Thiên Chúa để rồi họ chẳng cần tìm đến Thiên Chúa nữa, họ cứ tưởng rằng: họ viện cớ này, viện cớ kia cho công việc làm ăn riêng tư của họ để họ khước từ Bàn Tiệc của Chúa thì họ thanh thản và bình an.
Họ cứ cắm cúi và thậm chí hao mòn sức khoẻ để đầu tư vào những kho tàng mà sẽ bị mối mọt đục khoét, họ quên đi kho tàng của họ là ở trên trời, nơi đó trộm cướp không đào ngạch và mối mọt không đục khoét được. Nhiều người ngày hôm nay đã vịn cớ vào công ăn việc làm, vào miếng cơm manh áo để không còn mặn mà với Bàn Tiệc Lời Chúa, Bàn Tiệc Thánh Thể nữa.
Con người ngày nay không chỉ khước từ và viện cớ là bận rộn với công việc để không đến được với Bàn Tiệc Thánh, mà như Chúa nói hôm nay trong Tin Mừng là họ có thể giết luôn cả người con yêu dấu của Đức Vua. Chính cái lối sống nhiều khi là phản chứng Tin Mừng, phản bội lòng tin, lòng cậy, lòng mến mà Đức Vua mời gọi đã nói lên việc họ giết Hòang Tử. Hoàng Tử được Đức Vua sai đến loan báo một lòng tin, một lòng cậy, một lòng mến, nhưng nhiều người đã không tha thiết gì với lời loan báo ấy, bằng cách đẩy ra khỏi mình lòng tin, cậy,mến và như thế là họ đã giết hoàng tử như nhà vua tiên báo.
Cũng chẳng cần đợi đến ngày chung cuộc, chủ tiệc sẽ mời họ ra không cho dự bàn tiệc Thiên Quốc nữa. Nhưng chính ngày hôm nay, bất cứ giây phút nào trong cuộc đời, Chủ Tiệc cũng có thể mời họ về và khi này họ phải về tay không và họ mất cả chì lẫn chài. Kho tàng dưới đất mà bấy lâu nay đổ mồ hôi, sôi con mắt tìm kiếm cũng đành phải để lại cho người khác hưởng dùng.Còn họ không thể bước vào Bàn Tiệc Thiên Quốc được vì ngày mỗi ngày trong đời tạm này họ có thiết tha gì với Thiên Chúa đâu?
Chúng ta để ý một chút, chi tiết này cực kỳ quan trọng đó là đang bữa tiệc diễn ra, đức vua phát hiện có một anh không mặc y phục lễ cưới nên đã bị vua sai đầy tớ đuổi anh ra ngoài không cho anh dự tiệc cưới nữa. Tôi trộm nghĩ rằng, anh ta là người cũng đon đả đi vào dự tiệc khi được mời nhưng anh ta không chuẩn bị một y phục của lễ cưới. Chúa Giêsu, trong trang Tin Mừng này không hề mô tả y phục của lễ cưới Nước Trời, lễ cưới của Hoàng Tử là gì nhưng ta có thể hiểu ý Chúa Giêsu rằng: anh ta đã không chuẩn bị cho mình tư cách để đi dự tiệc. Chúa hoàn toàn không đặt vấn đề gì về sính lễ, về qùa cáp như người đời thường suy tính. Chúa chỉ gợi lên là không mặc y phục lễ cưới! Y phục ấy phải chăng là thái độ, tâm tình phải có khi đi dự tiệc cưới Con Chiên. Thái độ, tâm tình đó phải chăng là lòng mến, là tình yêu, là lòng bác ái đối với Vua và Hoàng tử. Chắc có lẽ anh chàng này đi dự tiệc cưới của Hoàng Tử nhưng còn khoác trong mình bộ áo của hận thù, ghen ghét, kiêu căng nên bị Vua đuổi ra chăng?
Tiệc cưới của Hoàng tử này ta nên nhớ là mời tất cả mọi người khắp hang cùng ngõ hẻm, không phân biệt giàu nghèo. Chủ tiệc sai đầy tớ đi mời tất cả những người phải nói là đầu đường xó chợ vào dự tiệc thì chắc chắn rằng chiếc áo mà chủ tiệc nói không phù hợp với tiệc cưới đây không phải là chiếc áo bằng vải, bằng vật chất mà thực khách khi dự tiệc phải mang. Cái áo cưới ở đây được nhà vua nhắc đến chính xác là chiếc áo tâm hồn, là tấm lòng của thực khách mà chỉ duy nhất Nhà Vua – Thiên Chúa quyền năng – nhận ra mà thôi.
Rồi đây, ngày tận thế cũng sẽ đến và như lời Chúa đã hứa: bất luận ai đi nữa, giàu hay nghèo cũng được mời để vào dự tiệc cưới Hoàng tử. Chuyện quan trọng hôm nay Chúa nói rồi, Chúa nói cho mỗi người chúng ta là chúng ta phải chuẩn bị y phục như thế nào để khi vào dự tiệc cưới chúng ta sẽ không bị chủ tiệc đuổi ra ngoài. Y phục mà Chúa muốn, y phục mà Chúa cần mỗi người có không phải được dệt bằng lụa là gấm vóc, không phải được mua từ cửa hiệu Việt Tiến, may Nhà Bè hay thun Cá Sấu đắt tiền nhưng y phục ấy chính là lòng khiêm hạ, lòng tin, lòng cậy, lòng mến Chúa và nhất là lòng mến đối với anh chị em đồng loại là những người đang sống chung với chúng ta.
Chúng ta đang sống trong cuộc lữ hành trần gian, chúng ta đừng quên rằng quê hương đích thực của chúng ta ở quê Trời. Chúng ta cũng đừng quên rằng tiệc cưới quan trọng nhất, cùng đích nhất của chúng ta chính là tiệc trên Trời. Những tiệc cưới trần gian này ta đi dự sao cũng được, thậm chí ta không đi dự cũng được nhưng chúng ta đừng bỏ lỡ cơ hội như nhiều người đã khước từ trong trang Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe Thánh Matthêu thuật lại.
Dâng Thánh lễ hôm nay, chúng ta tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta được tận hưởng trước tiệc cưới trên quê trời. Muốn chung vui với chủ tiệc lòng chúng ta phải thanh sạch, chúng ta phải dẹp bỏ mọi oán hờn ghen ghét để dự bàn tiệc Thánh Thể. Cũng thế, muốn tham dự bàn Tiệc Nước Trời, Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy trang bị cho lòng chúng ta những bộ y phục xứng đáng với y phục mà Chúa mong muốn.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Chúa, là Vua của chúng ta đến giúp mỗi người chúng ta biết chuẩn bị y phục theo lòng Chúa mong muốn để ngày sau, chúng ta được cùng vào hưởng tiệc cưới Nhà Vua dọn sẵn trên Nước Trời.
35. Suy niệm của Lm. Anthony Đinh Minh Tiên
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Giữ quân bình cho cuộc sống
– Nhu cầu vật chất, nhất là ăn uống, có thể nói là nhu cầu căn bản nhất của con người. Để có thể thỏa mãn nhu cầu này, con người phải dành hầu hết thời gian để làm việc kiếm tiền, để chuẩn bị nấu nướng, và để thưởng thức. Tuy nhiên đây không phải là nhu cầu duy nhất của con người, bên cạnh đó, con người còn có những nhu cầu về tình cảm, hiểu biết, và nhất là mối tương quan với Thiên Chúa. Các Bài đọc Chủ Nhật tuần này đều hướng về nhu cầu ăn uống, nhưng với những bài học khác nhau.
– Trong Bài đọc I, tiên tri Isaiah hướng lòng con người về Bữa Tiệc Nước Trời. Chỉ có Bữa Tiệc này mới hòan tòan thỏa mãn mọi khát vọng của con người.
– Trong Bài đọc II, thánh Phaolô dạy cho chúng ta biết làm chủ cuộc đời, khi no cũng như khi đói, khi đầy đủ cũng như lúc tùng thiếu. Điều quan trọng là biết trông cậy vào Chúa trong mọi lúc; chỉ có Ngài mới có thể thỏa mãn mọi nhu cầu của con người.
– Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu gióng lên tiếng chuông để cảnh tỉnh mọi người: Quá bận rộn với nhu cầu vật chất có thể làm cho con người quên đi hay từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa vào tham dự Bàn Tiệc Nước Trời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bàn Tiệc Nước Trời
Tiên tri Isaiah được Thiên Chúa cho thấy trước hòan cảnh đau khổ của dân tộc Do-Thái khi phải sống lưu đày bên Assyria và Babylon. Họ sẽ phải đau khổ vì đói khát, vì chết chóc, và vì bị Thiên Chúa bỏ rơi; nhưng ông cũng thấy trước ngày Thiên Chúa sẽ khôi phục và cho họ trở về. Đó là ngày họ sẽ được hân hoan vào dự Bàn Tiệc Nước Trời. Giống như cuộc lưu đày của dân Do-Thái, cuộc đời con người cũng được ví như những chuỗi ngàu lưu đày xa Chúa, con người cũng ra sức tìm kiếm để thỏa mãn các nhu cầu trong cuộc đời; nhưng con người sẽ không tìm thấy bất cứ đâu ngòai Bàn Tiệc Nước Trời. Những nhu cầu căn bản được tiên tri Isaiah ghi lại trong Bài đọc hôm nay:
(1) Hai nhu cầu căn bản cho cuộc sống con người là ăn và uống. Con người ra sức làm việc và dành rất nhiều thời gian cho hai nhu cầu này, nhưng vẫn không hòan tòan thỏa mãn cho đến ngày: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế.”
(2) Con người có thể đạt mọi ước mơ trong cuộc đời: vợ đẹp, con khôn, giàu có, danh vọng, quyền lực … Nhưng khi phải đối diện với tử thần, con người không thể kéo dài cho đời mình dù chỉ một giây phút ngắn ngủi. Sự chết là nỗi đau khổ lớn nhất của con người vì nó tước đọat tất cả những gì mà con người vất vả xây dựng. Nhưng con người vẫn còn hy vọng thắng được cái chết, vì ngày ấy: “Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần.”
(3) Con người muốn hạnh phúc nhưng cuộc đời là bể khổ. Đau khổ vì trăm ngàn thứ bệnh tật, đau khổ vì hận thù chiến tranh, đau khổ vì thiên tai bão lụt… Con người chỉ tìm thấy sung sướng hạnh phúc trong Ngày ấy, ngày mà: “Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy.”
(4) Không có sự dằn vặt nào lớn hơn sự dằn vặt của con người có mặt trong cuộc đời mà không biết ai sinh ra mình. Không những thế, con người còn được nghe và xem thấy rất nhiều những sự tốt lành và hứa hẹn của Đấng ấy, như lời của Thánh Augustine trong tác phẩm Tự Thú: “Thiên Chúa dựng nên con cho Ngài, và hồn con những khắc khỏai mong chờ, cho tới khi được an nghỉ trong Chúa.” Niềm mong đợi sâu xa nhất của con người cũng sẽ được thỏa mãn trong Ngày đó, ngày mà người ta sẽ nói: “Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ.”
Chỉ khi nào những niềm trông đợi trên của con người được hòan tòan thỏa mãn thì “Bàn tay Đức Chúa sẽ đặt trên núi này mà nghỉ.”
2/ Bài đọc II: Tin tưởng nơi Thiên Chúa hơn là tin tưởng nơi con người.
2.1/ Cần luyện tập để trở thành con người có bản lãnh: Có những người đã quá quen với cuộc sống sung túc nên cảm thấy rất đau khổ khi phải sống thiếu thốn. Ngược lại, có những người đã sống trong cảnh nghèo lâu năm, không biết phải cư xử làm sao khi bỗng chốc trở nên sang giầu vì trúng số hay được thừa hưởng gia tài; rốt cuộc, tiền của cũng hết mà cuộc sống còn tàn tệ hơn trước. Người có bản lãnh là người biết điều khiển cuộc sống mình trong mọi hòan cảnh như thánh Phaolô: “Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được. Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết. Tuy nhiên, anh em đã chia sẻ với tôi, khi tôi gặp cơn quẫn bách, như thế là phải.”
2.2/ Thiên Chúa sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời: Cái đau khổ nhất của con người là không tin nơi Thiên Chúa; vì thế, họ phải vất vả để lo cho mình. Thánh Phaolô nhắc nhở những người này: “Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Giêsu Kitô.” Hơn nữa, có những điều mà con người không thể tự lo cho mình được: sức mạnh để chịu đau khổ, sự chết, ơn cứu độ. Một thái độ tin tưởng nơi quyền năng và tình yêu Thiên Chúa sẽ giúp con người sống vui vẻ, bình an, và hạnh phúc trong cuộc đời hơn.
3/ Phúc Âm: Tiệc cưới Nước Trời: Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.
3.1/ Quan khách được mời vào dự tiệc cưới Nước Trời: Giống như Bàn Tiệc Nước Trời trong Cựu Ước của tiên tri Isaiah, Chúa Giêsu cũng ví Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. Người Vua này là hình ảnh của Chúa Cha, Người Con đây là Chúa Giêsu, quan khách được mời là người Do-Thái, dân riêng được Chúa tuyển chọn. Các đầy tớ của nhà Vua là các tiên tri, các Tông Đồ, và những môn đệ của Chúa. Nhà vua tuy có quyền lực để truyền lệnh hay bắt tới, nhưng ông rất kiên nhẫn sai các đầy tớ đi mời quan khách ít là hai lần; nhưng các quan khách vẫn từ chối không chịu đến.
3.2/ Phản ứng của quan khách: Tuy nhà vua đã làm đủ mọi cách, nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới. Phúc Âm tường thuật 2 phản ứng chính:
– Kẻ thì ra đồng, người thì ra tiệm: Phản ứng này có lẽ là thông thường nhất. Con người vì quá bận rộn với công việc làm ăn khiến họ không còn thời giờ và từ chối lời mời gọi vào dự tiệc cưới Nước Trời.
– Còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết. Phản ứng của hạng người này thật khó hiểu: không đi thì thôi, tại sao lại bắt người, sỉ nhục, và giết chết? Nếu chúng ta quan sát những gì đang xảy ra ở Hà-Nội, chúng ta có thể hiểu phản ứng của những người này. Được mời gọi để tôn trọng công bằng và sự thật, họ đáp lại bằng bất công, gian trá, đàn áp, và đe dọa tù đày! Được mời gọi để hướng lên Trời suy nghĩ về đích điểm của cuộc đời, họ từ chối không nhìn lên và tiếp tục nhìn vào những mối lợi vật chất mà họ sẽ mất. Nếu đã được chứng kiến niềm tin của biết bao tín hữu coi thường cái chết và sẵn sàng chịu đau khổ để làm chứng cho Tin Mừng, mà họ vẫn giả điếc làm ngơ thì con người mới thấu hiểu được sự tức giận của nhà vua khi biết họ đối xử tàn tệ với các đầy tớ của mình.
3.3/ Phản ứng của nhà Vua: Khi hay tin các phản ứng của quan khách đối xử tàn tệ với các đầy tớ của mình, nhà Vua liền nổi cơn thịnh nộ và làm 2 việc chính:
(1) Trước tiên, nhà vua sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng. Sự phá hủy tan tành của Jerusalem vào năm 70 AD bởi đế quốc Rôma có lẽ là những gì mà Chúa Giêsu muốn ám chỉ ở đây.
(2) Thứ đến, nhà vua bảo đầy tớ: “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.” Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách. Vì người Do-Thái khước từ không chịu tiếp nhận Con Thiên Chúa, nên Tin Mừng được loan báo cho tất cả mọi người, mọi quốc gia, mọi thành phần trong xã hội: tốt cũng như xấu.
(3) Dự tiệc cưới mà không mặc y phục lễ cưới: Khi nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục dịch: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng!” Nhiều người cho phản ứng của nhà Vua khó hiểu ở đây vì những khách dự tiệc được mời sau không có thời giờ để chuẩn bị y phục lễ cưới. Lý do này không vững chắc vì tại sao biết bao nhiêu người khác với hòan cảnh tương tự như anh ta lại có thời giờ chuẩn bị? Hơn nữa, không phải tất cả những người được mời là xứng đáng được chọn, như lời Chúa kết luận: “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.” Để được vào Nước Trời, con người cần đáp ứng những điều kiện đưa ra bởi Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Không có gì trên thế gian có thể thỏa mãn hòan tòan những khát vọng của con người. Chỉ có Bàn Tiệc Nước Trời mới có thể thỏa mãn mọi khát vọng đó.
– Chúng ta cần phải ăn uống để sống, nhưng đừng quá lệ thuộc vào chúng mà quên đi những nhu cầu khác. Như thánh Phaolô, chúng ta cần làm chủ cuộc sống khi đói cũng như khi no; và trong mọi lúc, chúng ta phải luôn trông cậy vào Chúa, là Đấng duy nhất có thể cho con người thỏa mãn hòan tòan.
– Chúng ta phải rất cẩn thận để đang khi phải lo lắng làm việc kiếm của ăn cho thân xác, chúng ta đừng quên lời mời gọi của Thiên Chúa vào dự Tiệc Cưới Nước Trời. Thiên Chúa đã gọi nhưng để được vào con người có tự do đáp trả, như Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.”
36. Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng
TỪ BÀN TIỆC THÁNH
Câu chuyện về cái chết của triết gia Socrates như sau:
Năm 399 BC. Meletus và Anytus đã tố cáo Socrates là “vô đạo và làm hư hỏng thanh niên”. Socrates bị 11 vị Thẩm phán của chính quyền Hy Lạp kết án tử hình về tội dụ dỗ thanh niên theo tà thuyết và phản loạn. Trong các hình phạt dành cho tử tội, ông chọn chén thuốc độc. Apollodore luôn đầm đìa nước mắt, có lúc gào lên, làm cho Platon không thể cưỡng lời thầy, khóc theo. Còn Criton thì như đứt từng khúc ruột, nhưng sợ thầy, ông lén ra ngoài khóc cho bớt đau khổ. Tuy vậy, khi thấy các học trò khóc, Socrates phải quát lên: “Các con làm gì kỳ vậy? Sở dĩ thầy đuổi hết các bà các cô ra ngoài, là để tránh sự mất bình tĩnh như vậy. Các con phải cương nghị. Chúng ta phải chấm dứt cuộc đời một cách êm ái, thảnh thơi chứ!
Buổi chiều hôm ấy, mặt trời xuống dần, Socrates bước ra từ phòng tắm, ông gặp ba người con một lúc rồi bảo họ ra ngoài chỗ mấy người đàn bà đang sụt sùi. Chỉ mấy người môn đệ của ông là được ở lại. Người cai ngục bước ra bảo ông hãy tự uống chén thuốc độc, đã có người mang tới, sẵn sàng ở phòng bên. Người này tỏ ra mến phục nhân cách của ông, thậm chí anh ta cũng khóc sướt mướt lúc vĩnh biệt ông. Socrates ra dấu cho Criton môn sinh của mình, bảo người mang thuốc độc vào cho ông uống. Criton nói: “Thưa thầy, mặt trời chưa lặn. Đừng vội lìa bỏ chúng con. Thiếu gì người nấn ná, ăn uống, chuyện vãn với gia đình, họ hàng rất lâu”, Nhưng Socrates mắng ông: “Họ làm như vậy có được thêm lợi lộc gì đâu. Thầy không muốn bám chặt thêm cuộc sống, khi chẳng thể giữ nó mãi được! Con hãy nghe lời thầy”…
Cầm chén thuốc trong tay, ông căn dặn lại các môn đồ: “Hãy bình tĩnh, đừng thay đổi sắc diện” rồi từ từ đưa chén độc dược lên miệng uống một hơi êm ái hiền hoà. Lúc ấy, Plato và các môn đệ khác nhìn ông uống từng hớp tử thần mà chết đứng, tê cóng người. Nước mắt tuông trào như hai giòng suối mà không dám để tiếng nức nở thoát ra. Trong Phaedo Plato thốt lên: “Từ đây thế là hết!”, ông không khóc cho thầy, vì một người như thầy mình, không cần ai khóc khi qua đời. Tôi khóc cho chính tôi, vì từ đây, tôi đã mất đi một người thầy, một người anh, một người bạn, mà không sao có thể kiếm được người thứ hai trên cõi đời này.
Đó là một cái chết can đảm. Socrates đã bước vào thế giới vĩnh hằng với sự “chấm dứt cuộc đời một cách êm ái và thảnh thơi”. Đó là bài học cuối cùng ông dạy cho các môn sinh.
ĐẾN VỚI CHÚA VỚI TÂM HỒN TRONG TRẮNG
Đời ai cũng có một đoạn kết, để bước vào cõi bất tử. Cho dù con người có lý tưởng và tâm linh thế nào, một sự ra đi bình an vẫn là niềm mong đợi. Một sự ra đi bình an để vào thế giới hạnh phúc, đó là niềm tin tôn giáo. Thế giới Tình Yêu và được chung hưởng vinh quang Thiên Chúa, là niềm tin Kitô hữu.
Đối với niềm tin chân chính, người vào thế giới vĩnh hằng đều có một tâm hồn trong sáng. Họ rửa sạch tâm hồn họ theo tiếng gọi của Đấng Tối Cao mà nhiều khi họ chưa hiểu rõ về Ngài. Họ sống theo nẻo thiện lương, ăn ngay, ở lành, và họ được Thiên Chúa yêu thương vì tâm hồn đơn sơ như trẻ thơ của họ.
Đối với niềm tin Công Giáo, tâm hồn họ đã được tẩy rửa trắng tin trong máu Đức Kitô, và họ không ngừng được thanh luyện qua các bí tích.
Sau đó, tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế…
“Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên”. (Kh.7,9-14).
“Chiếc áo trắng tinh” ấy là mặc lấy Đức Kitô, là “y phục lễ cưới” mà Thiên Chúa muốn con người mặc vào trong tiệc cưới dành cho mối duyên Con Thiên Chúa và nhân loại. Là tình yêu Thiên Chúa dành cho con người.
“Chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đúng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng; cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng”. (Rm 13, 12-14).
Thiên Chúa yêu thương con người vô điều kiện, nhưng để thật sự gọi là tình yêu, bao giờ cũng có sự tự nguyện đón nhận. Nó không phải là điều kiện để yêu, mà là điều kiện để có thể gọi là tình yêu. Yêu, là yêu ai. Tự dưng nói yêu, động từ yêu trơ trọi, nó chỉ là một từ ngữ vô nghĩa!
Tình yêu chỉ đạt được trọn vẹn, khi tình yêu có sự tự nguyện đáp lại. Con người đáp lại tình yêu Thiên Chúa khi họ đã tự nguyện thanh luyện để vươn lên với tình yêu của Ngài.
Nếu con người không đáp lại tình yêu Thiên Chúa, con người thuộc về thế giới đen tối – thế giới Sa-tan – thì làm sao có tình yêu tồn tại được?
Sao lại không mặc “y phục lễ cưới”? Y phục lễ cưới đã có sẵn ở phòng trang điểm, người không màng vì tới khâu chuẩn bị vào dự tiệc, chắc chắn lòng cũng không tha thiết gì đến niềm vui tiệc cưới. Không có sự tôn trọng, có tình yêu không?
TỪ BÀN TIỆC THÁNH ĐẾN TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI.
Một bé gái bệnh nặng, một hôm biết mình khó qua khỏi, em gọi cha mình lại để nói chuyện. Người cha này rất nguội lạnh, lại hay chè chén ăn chơi, không bao giờ đến nhà thờ. Em hỏi: – “Cha có thương con không?”. Người cha cảm động nói: – “Sao con lại hỏi thế, cha rất yêu con!”. – “Con sắp xa cha rồi, con sắp về với Chúa rồi!”. – “Không! Con sẽ mạnh, cha thương con lắm!”. Người cha ôm con khóc nức nở. – “Con sẽ gặp Chúa, con yêu Chúa, nhưng con cũng yêu cha, con không muốn xa cha, cha có muốn gặp lại con không?” – Người cha nghẹn ngào đáp: – “Có, con yêu!”. – “Vậy cha hứa với con là cha sẽ đi nhà thờ nhé! Con muốn được gặp lại cha trên Thiên Đàng”. Người cha trả lời trong nước mắt: – “Cha hứa!”. – “Con vui lắm rồi, con sẽ gặp lại cha nhé!”. Bé gái nhìn cha mỉm cười, sau đó vài phút, nó ra đi.
Người cha từ đó trở thành một con chiên ngoan đạo, rồi ông giúp nhiều việc ở nhà thờ.
Để đến Bàn Tiệc Thánh, đến với bí tích Thánh Thể, người Công Giáo có sự chuẩn bị trước đó: “mặc chiếc áo tâm hồn trắng tinh” để đón nhận Mình Thánh Chúa.
Và từ Bàn Tiệc Thánh trong Giáo Hội Lữ Hành này, người Công Giáo đã sẵn sàng cho mình “y phục lễ cưới” để vào dự Tiệc Cưới Nước Trời.
“Họ đã giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên”, trong bí tích Rửa Tội, và họ không ngừng chiến đấu trong cuộc đời để giữ mãi màu áo trinh nguyên ấy trong ăn năn sám hối, trong bí tích Hòa Giải, trong ơn sủng của những bí tích thánh hóa, trong việc thực thi Giới Luật Yêu Thương.
Từ Bàn Tiệc Thánh, đời sống người có Đức Tin luôn thăng hoa, họ tránh xa được những dục vọng hạ đẳng, những ước muốn thấp hèn, đời sống nhân bản của họ được đặt trên nền tảng của Tình Yêu Thiên Chúa. Tình yêu biến đổi lòng họ để họ xứng đáng đón nhận tình yêu bao la mà Thiên Chúa dành cho họ. Người ta luôn vượt qua những thử thách, từ bên ngoài hay chính tại lòng mình, để gìn giữ tình yêu. Vì tình yêu cho ta hạnh phúc. Chúa là Tình Yêu, là suối nguồn hạnh phúc, sao ta không vượt qua thử thách để gìn giữ Tình Yêu đó. Sao ta không mặc “y phục lễ cưới” để bước vào Tiệc Vui của Ngài?
Chiếc áo trắng tinh nào mà không cần phải tẩy sạch. Tâm hồn trong sáng nào mà không cần sám hối ăn năn!
Vì thế, từ Bàn Tiệc Thánh, từ Thánh Thể, người Công Giáo đã chuẩn bị sẵn sàng “Y phục lễ cưới” vào dự Tiệc Cưới Nước Trời – “Bàn Tiệc Thánh Đời Đời” trong Vương Quốc Tình Yêu Thiên Chúa.
Lạy Chúa,
Xin rửa con sạch hết lỗi lầm
tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy…
Xin dùng cành hương thảo
rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền;
xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết… Amen.
37. Chúa Nhật 28 TN A
Niềm vui gắn liền với con người. Con người không thể sống mà không có niềm vui. Nếu không có niềm vui, cuộc đời sẽ trở nên nặng nề và đáng chán. Vì thế, khoa học kỹ thuật, tiền tài và vật chất luôn cố gắng đem lại cho con người thật nhiều niềm vui, càng nhiều càng tốt. Thế nhưng những niềm vui ấy không khác gì những cánh phù du, sớm nở chiều tàn, để rồi càng lao mình vào những thú vui trần thế, con người càng cảm thấy thất vọng, chán nản và trống rỗng. Thấu hiểu được điều này nên khi đến trần gian Chúa Giêsu đã giới thiệu cho nhân loại một niềm vui mới, niềm vui vững bền. Niềm vui đó chính là Ngài. Không những Ngài mang niềm vui mà Ngài còn mang niềm hạnh phúc mãi mãi, mang đến niềm vui vĩnh cửu cho nhân loại. Hơn nữa, Ngài đã chỉ cách để con người sở hữu được niềm vui ấy mãi mãi. Ngài đúng là một Tin Mừng đem lại niềm hạnh phúc đời đời. Việc Ngài Nhập thể đáp ứng niềm khát khao của nhân loại từ bao đời. Ngài đến thế trần để ban sự sống, bình an, ơn cứu chuộc.
Đọc trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy chính Chúa Giêsu đã ví tiệc cưới này với tiệc cưới của một nhà Vua tổ chức cho Hoàng Tử. Chỉ có một điều khác biệt là những khách được mời (những khách quý đầu tiên) đã tỏ ra coi thường và đối xử tệ đối với các sứ giả của nhà Vua. Họ không những đã từ chối lời mời mà còn nhục mạ và sát hại những người được Nhà Vua phái tới.
Bài học mà Chúa Giêsu muốn truyền đạt cho thính giả thời của Ngài, tức là dân tộc Israel, một dân tộc ngay từ đầu đã được Thiên Chúa mời gọi làm dân tuyển chọn của Ngài, làm những khách mời đặc biệt vào dự tiệc Nước Trời. Thế nhưng khi Chúa Giêsu đến loan báo ngày mở tiệc và mời gọi họ thì họ từ chối. Vì thế, các khách được mời đầu tiên này sẽ được thay thế bằng bất cứ ai.
Dụ ngôn tiệc cưới ấy vẫn có giá trị đối với chúng ta ngày nay. Là Kitô hữu, chúng ta là những khách được mời dự tiệc Nước Trời. Thiên Chúa là Đấng đã mời gọi chúng ta “do lòng từ bi của Ngài, chứ không do công trạng nào của chúng ta”. Nhưng Chúa đòi hỏi ở chúng ta một điều kiện, cũng là vinh dự của chúng ta là con người có lý trí và tự do, đó là đáp lại lời mời gọi yêu thương quảng đại của Ngài.
Trong các khách được mời dự tiệc cưới, chúng ta là những khách mời gọi cuối cùng để thay thế vào chỗ những khách đặc biệt được mời từ đầu mà đã từ chối lời mời của Chúa. Qua các thời đại, Thiên Chúa vẫn sai các sứ giả của Ngài đi qua mọi nẻo đường thế giới, mời gọi mọi người vào phòng tiệc, bất cứ họ là ai, tốt hay xấu. Thiên Chúa không loại bỏ ai, chính chúng ta tự loại mình. Nhưng không phải cứ vào phòng tiệc là được dự tiệc đâu, còn cần phải áo cưới nữa, nếu không sẽ bị tống cổ ra ngoài. Nói cách khác, không phải cứ là người Công Giáo, là người có đạo, là được vào Nước Trời đâu. Cần phải làm chứng cho Chúa Kitô, phải sống đời sống Kitô hữu, phải tin, yêu và theo Chúa Kitô nữa.
Kitô giáo không phải là một tin buồn, nhưng là một Tin mừng và nước trời là những bữa tiệc cưới không ngừng. Kẻ thì từ chối, người thì đáp trả lời mời gọi của Ngài. Lời mời gọi ấy được gửi đến cho mọi người không phân biệt giàu nghèo. Nhưng điều quan trọng đó là họ phải hiểu được rằng, sứ điệp của Tin mừng là một sứ điệp đem lại hạnh phúc. Thế nhưng, nhiều người trong chúng ta lại không muốn hiểu, đối với họ, đạo chỉ là những luật lệ ngăn cấm. Họ cho rằng mình phải đi lễ, phải đi xưng tội, không được làm điều này điều kia. Có người thì lại nghĩ rằng mình không thể nào sống đạo. Họ tiếc rằng mình đã là Kitô hữu, vì đạo làm thiệt hại đến lợi lộc riêng tư của họ. Đạo là một cái gì buồn thảm với những tiếng thở dài não nuột. Thế nhưng nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy họ mới chỉ biết được mặt trái của đạo. Trong khi đó người tín hữu đích thực lúc nào cũng ngập tràn niềm vui, vì tất cả đều có thể đem lại cho họ sự hân hoan sung sướng.
Dụ ngôn còn cho thấy, cuối cùng phòng tiệc đầy khách, gồm đủ hạng người. Cũng thế, Giáo Hội ngày càng đông, gồm đủ mọi dân dộc trên thế giới. Nhưng Giáo Hội không phải là quán cơm bình dân, ai vào cũng được, không có một chút điều kiện tối thiểu. Có thể xem Giáo Hội là một “Bữa Tiệc của người tội lỗi”, nhưng là người tội lỗi tin tưởng vào Chúa Kitô và ơn cứu độ Ngài đem đến. Tình thương đòi hỏi tình thương đáp đền, mới xứng đáng dự bữa tiệc tình thương.
Thánh Lễ là một bữa tiệc của Chúa. Giáo Hội là tập thể những người được mời dự tiệc, không phân biệt giai cấp giàu nghèo, màu da, ngôn ngữ. Lời Chúa và Mình Thánh Chúa là những món ăn ” có chất lượng”. Áo cưới trong trắng Chúa đã ban cho chúng ta trong bí tích Rửa Tội và Giải Tội là điều kiện để xứng đáng dự Tiệc Thánh này. Và Tiệc Thánh hôm nay bảo đảm cho việc dự tiệc cưới trong Nước Trời mai sau. Dưới ánh sáng đức tin thì mỗi ngày sống của chúng ta phải là một ngày lễ lớn, bởi vì từng giây từng phút chúng ta đã nhận lãnh biết bao ơn lành, biết bao nhiêu quà tặng của Thiên Chúa. Chính trong chiều hướng này mà mỗi ngày Chúa Nhật đều dẫn chúng ta tới đỉnh cao hoan lạc qua việc kết hiệp với Đức Kitô nơi bàn tiệc Thánh thể. Để rồi từ đó, niềm vui được chiếu toả trên toàn bộ cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con vui mừng và mau mắn vào dự tiệc Thánh Thể. Hơn nữa lòng chúng con đã chuẩn bị sẵn sàng những điều kiện để xứng đáng hưởng niềm vui bất diệt của Chúa. Chính Chúa là niềm vui và hạnh phúc của chúng con. Chúa là Nước Trời mà chúng con đang khát khao tìm kiếm. Amen.
38. Tiệc cưới
Đâu là ý nghĩa của dụ ngôn chúng ta vừa nghe?
Nhà vua là Thiên Chúa, hoàng tử là Đức Kitô, tiệc cưới là hình ảnh tượng trưng cho sự kết hợp giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Những kẻ được mời trước là dân Do Thái, và họ đã từ khước. Những đầy tớ được sai đến là các tiên tri, mà những lời giảng dạy chỉ là những tiếng kêu trong sa mạc và bản thân thì bị ngược đãi…Những đầy tớ được sai tiếp theo là các tông đồ, có nhiệm vụ chiếu tỏa ánh sáng Tin mừng để dẫn đưa mọi người tới niềm hạnh phúc nước trời. Thế nhưng nhiều kẻ cũng đã từ chối sứ điệp Tin mừng, bắt bớ và hành hạ những người được Chúa sai đến. Phải chăng Giêrusalem đã bị phá hủy tan hoang cũng chỉ vì họ đã không biết đến ngày giờ Chúa viếng thăm.
Tiệc cưới nói lên niềm hạnh phúc nước trời, cũng như niềm vui của Bí tích Thánh Thể. Vì dân Do Thái đã từ chối, nên Thiên Chúa đã mời gọi những người khác, thuộc mọi quốc gia, thuộc mọi màu da, thuộc mọi tiếng nói, làm nên một dân riêng mới trong đó có mỗi người chúng ta.
Thế nhưng chúng ta hãy lưu ý: Đừng hành động như những người Do Thái, đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước tiếng gọi ân tình của Thiên Chúa.
Ngày xưa họ đã đưa ra những lý do, nào là tôi mới mua đất, mới tậu bò, mới cưới vợ… thì ngày nay chúng ta cũng có thể đưa ra những lý do như thế từ từ khước lời mời gọi của Thiên Chúa.
Và như chúng ta đã biết, Thiên Chúa là Đấng nhân từ, Ngài luôn tôn trọng sự tự do của chúng ta, nên Ngài không muốn cưỡng bức chúng ta phải đáp trả tình thương của Ngài. Tự bản thân chúng ta phải ý thức, để rồi có những thái độ đáp trả cho đúng mức.
Nước trời phải là viên ngọc quí để chúng ta dám hy sinh cả gia tài cho viên ngọc ấy. Nước trời phải là một kho tàng để chúng ta dám bán tất cả mà mua cho được thửa ruộng có kho tàng ấy. Nước trời phải là miền đất hứa, ở đó chảy sữa và mật để chúng ta bước tới, phải là bữa tiệc cho chúng ta tham dự.
Thế nhưng chúng ta không được phép đến tham dự bữa tiệc ấy với bộ quần áo lem luốc và bẩn thỉu. Không cần phải bỏ tiền ra mua sắm những thứ vải ngoại quốc đắt giá… Không cần phải là ông hoàng bà chúa mới có được tấm áo cưới.
Bộ áo cưới ở đây, ai trong chúng ta cũng có thể mua sắm mà không phải tốn kém chi hết, đó chính là tâm hồn trong sạch của chúng ta. Càng nghèo vật chất chúng ta càng dễ làm cho tâm hồn mình trở nên xinh đẹp. Bởi vì như một lời nói của Léon Bloy đáng cho chúng ta suy nghĩ:
– Không phải là ngày mai hay ngày mốt nhưng là chính ngày hôm nay chúng ta có thể bước vào thiên đàng, khi chúng ta sống nghèo khó và chịu đóng đinh.
Nghèo khó và chịu đóng đinh, phải chăng đó là điều mà con người thời nay không thể nào chịu đựng nổi. Chính vì thế, kẻ gọi thì nhiều còn người được chọn thì ít. Không phải ai cũng có thể vào được nước trời. Chúa Giêsu muốn tất cả chúng ta được cứu rỗi, chính vì thế mà Ngài đã phải chết trên thập giá. Nhưng Ngài không cưỡng bức chúng ta, Ngài đòi chúng ta phải cộng tác với Ngài, bởi vì chúng ta có thể từ chối ơn Ngài. Chúng ta hãy khắc ghi lời cảnh cáo sau đây của thánh Phaolô:
– Gieo gì thì gặt nấy. Gieo trong xác thịt thì sẽ gặt sự hư nát, gieo trong thần khí thì sẽ gặt cuộc sống vĩnh cửu.
39. Mặc áo cưới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Với tình thương yêu, Thiên Chúa dọn tiệc mời.
Đọc dụ ngôn tiệc cưới, tôi không khỏi ngỡ ngàng trước tình yêu thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa mời con người đến dự tiệc cưới Con của Người. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa yêu thương con người.
Đó là một tình yêu nhưng không.
Thiên Chúa là vị vua cao sang. Ta chỉ là đám tiện dân hèn hạ. Sao Chúa lại mời ta. Theo lẽ thường ở đời người ta chỉ mời những người ngang vai bằng vế. Một bữa tiệc thường có mục đích củng cố uy tín của chủ nhân và ràng buộc khách mời vị vọng để khi hữu sự cần nhờ. Vua Trời mời tiện dân hèn hạ thì có lợi gì. Không những hèn hạ mà còn đui, què, mẻ, sứt nữa. Ta là những hạng rác rưởi của xã hội, chẳng có gì đền đáp cho chủ nhân. Chẳng đem lại một chút vinh dự nào cho chủ nhân. Thế mà Người vẫn mời ta. Rõ ràng là do tình thương của Người. Đó là tình yêu nhưng không. Người không mong ta có gì đền đáp. Người mời ta chỉ vì yêu thương ta mà thôi.
Đó là tình yêu chia sẻ.
Thiên Chúa tràn đầy vinh quang không còn thiếu thốn gì. Tại sao Người còn mời những con người hèn hạ vào Nước Trời làm gì cho thêm bận. Thưa vì Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Người vô biên nên Người khao khát chia sẻ. Người vô cùng tốt lành nên Người muốn thông ban hạnh phúc cho loài người. Tình yêu mãnh liệt khiến người nảy sinh những sáng kiến kỳ diệu. Cho Con Một mặc lấy bản tình loài người để nâng loài người lên. Mời gọi loài người vào hưởng hạnh phúc với Người. Nâng loài người hèn hạ lên bậc thượng khách trong tiệc cưới. Nâng loài người tôi tớ lên hàng con cái trong Nước Trời. Đưa nhân loại bơ vơ đầu đường xó chợ vào ngồi đồng bàn với hàng thần thánh trên trời.
Chẳng có gì có thể giải thích được thái độ của Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu. Đó là một tình yêu vô cùng mãnh liệt và hoàn toàn vô vị lợi. Tình yêu muốn chia sẻ hết những gì mình có. Tình yêu hoàn toàn vì người mình yêu. Mong muốn mọi sự tốt đẹp cho người mình yêu.
Tôi phải mặc áo cưới tới dự.
Tình yêu Thiên Chúa tha thiết nhưng vẫn tôn trọng tự do. Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, tôi có thể nhận lời hoặc chối từ. Khi dọn tiệc, Chúa mong tôi tới dự. Khi mở rộng cửa trời, Chúa mong tôi bước vào. Khi mời gọi, Chúa mong tôi trả lời. Khi bày tỏ tình yêu, Chúa mong tôi đền đáp. Tuy nhiên, nhận lời đền đáp đòi phải có điều kiện. Đến dự tiệc cưới phải mặc áo cưới.
Mặc áo cưới là mặc lấy nhân phẩm. Được mời vào dự tiệc cưới Con Vua, tôi không còn là phường rác rưởi của xã hội nữa. Tôi đã được Chúa trân trọng. Nâng lên hàng thượng khách, là khách mời của Vua. Mặc áo cưới ở đây là tự trọng, cư xử như người tự do. Chúa đã phục hồi nhân phẩm cho tôi, tôi phải trân trọng giữ gìn.
Mặc áo cưới là mặc lấy tình yêu. Vì yêu thương Chúa đã mời tôi vào chung hưởng hạnh phúc với Người trong tiệc cưới. Đáp lại, tôi phải có tình yêu mến đối với Người. Tình yêu đáp đền tình yêu. Mặc áo cưới là trân trọng tình yêu của Chúa, là muốn đáp lại tình yêu của Chúa.
Mặc áo cưới là mặc lấy Chúa Kitô (x. Gl 3,27). Được ơn cứu độ, ta trở thành em Chúa Kitô, vì thế ta phải noi gương Người mặc lấy tâm tình người con được Cha yêu thương và biết lấy tâm tình hiếu thảo đáp lại tình Cha. Mặc lấy Chúa Kitô cũng là mặc lấy con người mới là hình ảnh của Thiên Chúa công chính và thánh thiện (x. Ep 4,24).
Thiên Chúa yêu thương mời gọi ta vào hưởng hạnh phúc Nước Trời. Đáp lại, ta phải đổi mới đời sống cho phù hợp với Nước Chúa, với tình yêu của Chúa và với địa vị mới của ta.
Lạy Chúa, xin cho con biết mạnh dạn đáp lại lời Chúa mời gọi.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Hằng ngày Chúa vẫn mời gọi tôi đến dự tiệc Thánh Thể, tôi có mau mắn đáp lời hay tôi thường từ chối?
2) Mặc áo cưới là theo Chúa quyết liệt, không nửa vời tôi theo đạo nhưng tôi có thực hành Lời Chúa không?
3) Bạn phải làm những gì để được coi là “mặc áo cưới”?
40. Không mặc y phục lễ cưới
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
“Thiên Chúa chúng ta chỉ toàn đưa ra những cấm đoán”, một bạn trẻ đã bực bội nói như vậy khi anh nhớ lại nền giáo dục mình phải chịu.
Thật ra Thiên Chúa không phải là người khắt khe. Ngài mời chúng ta đến dự tiệc vui, tiệc cưới. Ngài thích chia sẻ niềm vui và sự sống cho con người. Ngài cần con người đáp lại lời mời đó, để sự hiệp thông giữa đôi bên được trọn vẹn.
Có ai nếm được nỗi chờ mong của Thiên Chúa không khi khách mời không chịu đến?
Có ai nếm được nỗi đau của Thiên Chúa không khi con người hờ hững trước bữa tiệc mà Ngài đã đặt vào đó cả lòng mình?
Tôi có trăm ngàn lý do để từ chối lời mời: Chuyện làm ăn, chuyện học hành, chuyện gia đình, bè bạn, chuyện giải trí, chuyện lo cho sự nghiệp tương lai… Tôi có nhiều thứ ưu tiên khác nên việc đến gặp gỡ Thiên Chúa bị đẩy xuống hàng thứ yếu.
Biết bao lần chúng ta lỡ hẹn với Ngài, từ chối niềm vui và sự sống đích thực để chạy theo những cái bóng. Nhưng Thiên Chúa vẫn cứ sai người đi mời. Bàn tiệc lúc nào cũng sẵn sàng.
Vấn đề là tôi có đến không, tôi có đặt Chúa lên trên những bận tâm về mình không?
Dân tộc Do Thái chính thức được mời dự tiệc. Thiên Chúa đă sai đến với dân Ngài yêu mến những ngôn sứ và những nhà rao giảng Tin Mừng. Nhưng họ đã khước từ và một số bị giết đi. Bữa tiệc linh đình vốn dành cho khách quý nay trở thành bữa tiệc cho mọi người mà các đầy tớ tình cờ gặp ngoài đường phố. “Từ phương đông, phương tây, nhiều người sẽ dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaác và Giacóp…”
Chúng ta là dân ngoại, được mời vào phòng tiệc, được gia nhập Hội Thánh qua phép Rửa.
Có người đã vào phòng tiệc mà vẫn bị mời ra, vì không mang y phục lễ cưới. Có người theo đạo mà vẫn không được vào Nước Trời vì họ đánh mất tấm áo trắng ngày Rửa tội.
Chúng ta phải coi chừng kẻo lại rơi vào sự tự mãn như người Do Thái. Được làm con cái Chúa, được sống trong Hội Thánh đó không phải chỉ là những ơn để nhận, mà còn là ơn để sống.
Mặc y phục lễ cưới là thực sự đổi đời, là cho thấy mình coi trọng bữa tiệc của Chúa. Chúng ta phải thường xuyên tự hỏi mình có mặc y phục lễ cưới không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa mời chúng ta chung hưởng hạnh phúc với Ngài, nhưng chúng ta luôn có lý do để từ chối lời mời đó. Bạn nghĩ gì về chỗ đứng của Chúa trong đời bạn?
Có những Kitô hữu bị loại khỏi Nước Trời và sa hoả ngục. Bạn tin có hỏa ngục không? Bạn có sợ hỏa ngục không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen (Thánh Âu-Tinh).
41. Áo cưới – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Dụ ngôn tiệc cưới theo như Matthêu viết gồm có hai phần tách biệt rõ ràng. Phần thứ nhất kể viêc thay thế những khách không đến bằng những người nghèo. Phần thứ nhì không liên lạc được với phần thứ nhất, nên có thể tự hỏi có phải nó dùng kết luận một dụ ngôn khác thánh Matthêu tường thuật chăng? Phần ấy thuật lại việc mỗi người dự tiệc bất kính. Việc thay cho kẻ được mời bằng những người gặp ngoài đường báo trước việc các dân ngoại được vào vương quốc của Đấng Thiên sai thế chỗ dân Do thái đã bị các ký lục của họ lôi kéo về những viễn tượng khác nên đã không chịu vào. Các bài đọc của những Chúa nhật vừa rồi đã bàn đến đề tài này. Chúng ta hãy dừng lại ở dụ ngôn tóm tắt về người dự tiệc vô lễ. Phong tục thời ấy coi như thô lậu sỉ nhục việc vào dự một bữa tiệc cưới mà không mặc y phục xứng hợp. Trong dụ ngôn này chúng ta gặp lại ý tưởng chuẩn bị và tỉnh thức mà những ai chờ đợi vào Nước trời phải có, hãy nhớ lại dụ ngôn 10 trinh nữ; 5 cô bị loại, 5 cô được nhận. Có lẽ truyện người dự tiệc bị loại thuộc một dụ ngôn không thuật lại ở đây trong đó có thể Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến sự cần thiết phải tự chuẩn bị để được nhận vào đoàn thể các bạn hữu Thiên Chúa. Việc chuẩn bị ấy gồm hai khía cạnh: một khía cạnh tiêu cực từ bỏ, một khía cạnh tích cực bác ái.
1) Từ bỏ. Khi sửa soạn mặc áo dự hội, người khởi đầu bằng việc tắm rửa sạch sẽ. Sự sạch sẽ cần thiết để vào Nước Thiên Chúa đòi hỏi nỗ lực luân lý tẩy rửa khỏi những gì làm dơ bẩn tinh thần và tấm lòng. Các tiên tri thường nhấn mạnh đến sự cần thiết phải thanh tẩy tâm hồn để được đến gần Thiên Chúa. Các ngươi hãy tắm rửa, hãy tự thanh tẩy, hãy cất những hành động gian tà của các ngươi khỏi mắt Ta, hãy thôi làm điều dữ, hãy tìm kiếm sự công chính, hãy cứu giúp kẻ bị áp bức, hãy bênh đỡ kẻ mồ côi, hãy biện hộ cho người góa bụa (Is 1, 16-17). Ngày nay có một bữa tiệc thiêng liêng tối hậu, Lễ Tế Tạ Ơn. Phaolô viết cho tín hữu Cô-rin-tô dạy: ai ăn và uống bất xứng Mình và Máu Đức Kitô, tức là ăn và uống chính án phạt mình. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nói với một nhóm người hành hương ngày 9 tháng 6 năm 1971: “Phải có tâm hồn trong sạch- phải tìm lại được ân sủng bằng lòng thống hối và bằng bí tích phục hồi nếu cần, trước khi đến nhận cái hôn của Đức Kitô. Ngày nay có nhiều người mưu định miễn cho tín hữu việc chuẩn bị ấy. Nhưng họ có còn tin không, những người bỏ qua việc chuẩn bị ấy?”.
2) Bác ái. Một truyền thống bắt nguồn từ những thế kỷ đầu của GH, coi áo cưới như biểu hiệu của đức bác ái. Đức bác ái bao gồm hai động tác của tâm hồn, hướng về Thiên Chúa và hướng về người lân cận, cả hai tạo thành một thực tại siêu nhiên duy nhất. Người ta đã ví đức bác ái như một tấm vải. Có những khung dệt đặt một loại chỉ theo chiều ngang, một loại chỉ khác luồn theo chiều thẳng. Có đường canh và đường cửi của thợ dệt. Áo cưới cũng vậy, được dệt bằng hai chuyển động của tâm hồn, một dọc nghĩa là hướng về Thiên Chúa, một ngang nghĩa là hướng về loài người. Việc se kết sống động và không ngừng nghỉ của hai chiều hướng tình yêu ấy dệt nên tấm áo lễ hội xứng hợp với tiệc Thiên Chúa. Về điểm này không ai có thể viện cớ túng thiếu như cách một người nghèo có thể phân trần không có một bộ áo đẹp. Áo bác ái đòi buộc hết mọi Kitô hữu đều có bổn phận và khả năng dệt nên áo ấy.
42. Chấp nhận lời mời dự tiệc Nước Trời
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Giao ước giữa Thiên Chúa và dân Người mang đặc tính của bữa tiệc cưới. Mỗi giao ước giữa Thiên Chúa với loài người trong Thánh kinh Cựu ước được hiểu và cắt nghĩa theo hình ảnh hôn nhân trong tiệc cưới.
Giao ước giữa Thiên Chúa và dân được chọn trong Cựu ước đi song song với giao ước giữa Chúa Kitô và Giáo hội trong Tân ước. Trong mối giao ước giữa Thiên Chúa và dân được chọn, Thiên Chúa được coi như vị hôn phu, còn dân riêng được coi như người hôn thê. Hình ảnh hôn nhân cũng được thánh Phaolô và thánh Gioan dùng để so sánh mối liên hệ giữa Chúa Kitô, được ví như vị hôn phu và Giáo hội, được coi là hôn thê (2 Cr 11:2; Ep 5:22; Kh 19:7-9; 21:2; 22:17).
Dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử ghi lại những phản ứng khác nhau trước lời mời gọi đến dự tiệc cưới. Mời ai đến dự tiệc cưới là mong mỏi người ấy đến bàn tiệc. Tuy nhiên số khách được mời đợt đầu từ khước đến dự tiệc cưới. Lần thứ hai nhà vua lại sai đầy tớ đi khẩn khoản mời khách đến dự tiệc, nói với họ: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn sàng. Mời quí vị đến dự tiệc cưới (Mt 22:4). Tiệc cưới hôm nay có liên hệ đến bữa tiệc vui nước Trời mà ngôn sứ Isaia đã viễn kiến: Bữa tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế (Is 25:6).
Khi khách được mời dự tiệc từ chối, thì ông vua cho mời bất cứ ai vào tiệc cưới. Tuy nhiên khi vào phòng tiệc, ông vua bắt gặp một người không bận áo cưới và ra lệnh tống ngục anh ta. Làm sao ông vua có thể hy vọng người đang ở ngoài đầu đường xó chợ được mời vào dự tiệc cưới có thể bận quần áo thích hợp cho tiệc cưới được? Ông lại không đòi hỏi quá đáng chăng? Tuy nhiên theo phong tục Do thái thời bấy giờ, thì đôi khi nhà trai cung cấp vải cho khách được mời đến dự tiệc để họ tự may áo cưới. Chủ tiệc cưới cũng có thể may y phục tiệc cưới treo sẵn ngoài cửa phòng tiệc cưới cho khách vào bận. Nếu không biết có phong tục này thì người ta cho rằng ông vua đòi hỏi cách quá đáng và vô lí. Tuy nhiên theo đa số các học gỉả Thánh kinh thì có lẽ mẩu chuyện người khách không bận áo cưới là phần kết của câu chuyện khác, được thánh sử Mát-thêu lồng vào làm một với dụ ngôn dự tiệc cưới, nên khi đọc tiếp, nghe có vẻ đột ngột và khó hiểu.
Dầu sao đi nữa dụ ngôn mời dự tiệc cưới cho thấy nếu đã chấp nhận lời mời thì người ta phải theo phong tục dự tiệc cưới, một phong tục mặc áo cưới mà hầu như được coi như là luật lệ. Ai không bận là tỏ ra khinh chủ, là lỗi phong tục tiền nhân. Vì thế mà khi bị chủ vặn hỏi tại sao một người không bận y phục lễ cưới, người ấy thinh lặng vì không tìm được lý do bào chữa như nhà nghèo, không tiền may sắm, hoặc đang ở ngoài đồng không kịp về nhà thay quần áo cưới.
Theo cốt chuyện dụ ngôn thì tiệc cưới ám chỉ bàn tiệc nước Trời; nhà vua ám chỉ Thiên Chúa; con nhà vua ám chỉ Ðấng Cứu thế; đầy tớ chỉ về các ngôn sứ và các tông đồ; khách từ chối dự tiệc cưới ám chỉ dân được chọn trong Cựu ước; thành phố bị tàn phá ám chỉ Giêrualem bị phá huỷ năm bảy mươi. Cũng như trong dụ ngôn tá điền gian ác, vườn nho được trao cho tá điền khác là dân ngoại, thì trong dụ ngôn tiệc cưới, khách ngoài đường là dân ngoại và người tội lỗi cũng được mời vào dự tiệc cưới.
Y phục lễ cưới ở đây được hiểu theo nghĩa bóng là người được mời dự tiệc cưới nước Trời phải bận quần áo thích hợp cho cơ hội. Người được mời dự tiệc phải tỏ ra dấu hiệu nào đó là họ chấp nhận lời mời gọi một cách nghiêm chỉnh. Họ phải hội đủ những tiêu chuẩn, những đòi hỏi nào đó của Phúc âm. Áo cưới thích hợp họ phải bận là áo đức tin vào Ðức Kitô.
Tiệc cưới nước Trời được dành ưu tiên cho dân được tuyển chọn trong Cựu ước. Tuy nhiên dân được chọn lại coi thường, không đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa qua các ngôn sứ của Người. Gioan tiền hô, vị ngôn sứ cuối cùng trong Cựu ước đến kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối để dọn đường cho Ðấng Cứu thế, thì họ giả điếc. Khi Ðấng Cứu thế đến, thì họ tẩy chay Người. Và khi dân được chọn từ khước, thì lời mời gọi dự tiệc cưới được gửi đến cho hết mọi người ở các ngả đường. Ðiểm này nói lên lòng quảng đại của đức vua. Tuy nhiên không phải vì thế mà việc vào ngồi bàn tiệc cưới không có điều kiện. Ðiều kiện vào ngồi bàn tiệc cưới là bận áo cưới.
Lời mời gọi dự tiệc cưới nước Trời cũng được tiếp tục gửi đến vô số người từ khi Giáo hội được thiết lập trong những hoàn cảnh và thời điểm khác nhau. Hôm nay mỗi người cần tự vấn lương tâm xem mình đang đáp trả laị lời mời gọi của Chúa như thế nào?
Lời cầu xin cho được tham phần vào bàn tiệc cưới nước Trời:
Lạy Chúa, chúng con xin cảm tạ Chúa
đã chiếu cố đến tổ tiên chúng con là dân ngoại.
Qua bí tích Rửa tội, Chúa đã kêu mời
tổ tiên chúng con đến tham dự tiệc cưới của Hoàng Tử.
Do đó con cũng được thừa hưởng phúc ấm của tổ tiên.
Xin cho con được trung thành với đức tin mà con đã lãnh nhận
để con được tham phần vào bàn tiệc nước Trời. Amen.
43. Hãy đến dự tiệc cưới – Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Có vẻ như Chúa Giêsu không bao giờ từ chối một cuộc mời ăn tối, không có vấn đề người chủ đó là ai hay ai sẽ là những thực khách ở đó. Vào thời ấy, Người đã bị không ít phiền phức với những người công chính đương thời, họ bị sốc “khi Chúa tiếp đón những người tội lỗi và ăn uống với họ”. Có thể Chúa Giêsu chấp nhận cuộc mời ăn tối bởi vì Chúa là một người rao giảng lưu động, rày đây mai đó như chính Người đã thú nhận là nhiều lần, Người đã không có ngay cả một cục đá để tựa đầu nữa. Người sẵn sàng sự phần vào một bữa ăn ngon.
Sâu xa hơn là Chúa Giêsu Giêsu đã nhìn thấy bữa ăn trong kinh nghiệm của con người nhân loại là một biểu tưởng sự hiệp nhất chúng ta với Người và Cha Người trên thiên đàng, chúng ta sẽ trở nên một nhờ Chúa Thánh Thần, sự liên kết tình yêu. Đó là lý do vì sao người ám chỉ Nước Trời giống như một bữa tiệc cưới. Niềm vui và tình bạn bè, ngày lễ và tiệc mừng là những đặc tính của một bữa tối long trọng dành cho đôi bạn mới nối kết với nhau bằng sợi dây hôn nhân, là một hình ảnh không bao giờ tàn úa của những điều kỳ thú nơi Thiên đàng.
Vì sao những thực khách được mời trong dụ ngôn lại từ chối lời mời đến dự tiệc, một lời mời của một bậc vị vọng như là một vị vua? Dụ ngôn muốn ám chỉ đến những người chống đối Chúa Giêsu, những người đã bị sốc khi thấy Người thân mật với những người thu thuế và những người tôi lỗi. Trong sự tự kiêu giả dối của họ, họ không muốn Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc của họ chút nào. Thật ra họ đang âm mưu giết Người và khi đứng dưới chân thập giá chỉ để cười nhạo Người.
Một số ít biết tình yêu của Chúa Giêsu rất lớn lao, Người đã chết vì họ cũng như Người đã chết vì mẹ Người và các môn đệ của Người. Chúa Giêsu giang rộng đôi tay trên thánh giá là để tiếp đón hết thảy mọi người sẽ đến với Người trong đức tin và sự khiêm nhường. Thật ra, trên thánh giá mọi sự đã được biểu hiện bằng bữa tiệc cưới đã viên mãn.
Thánh giá cũng có nghĩa là sự giảng hoà của chúng ta với Thiên Chúa. Một cách nào đó thì nòi giống nhân loại giống như một người vợ bỏ chồng mà đi theo trai vậy, cô ta đã quên đi tình yêu thuở ban đầu mà họ đã cùng sống với nhau. Ly dị đã củng cố sự cách biệt. Chúa Giêsu đã can thiệp vào hoàn cảnh đáng buồn của chúng ta. Người được Cha Người sai đến để tìm lại cô dâu của mình. Bằng cái chết, Chúa Giêsu đã xé đi cái quyết định ly dị và bằng chính Máu của Mình, Chúa Giêsu đã viết và ký tên một bản hôn ước mới xác thực và vĩnh cửu, giao ước đã được đóng dấu sự hợp nhất của hôn nhân giữa Thiên Chúa và dân Người (hình ảnh minh hoạ này của tiên tri Hôsê, ngài đã trình bày Thiên Chúa như người chồng và dân Người như người vợ).
Giao ước hôn nhân mới và vĩnh cửu này được cử hành trong một bữa tiệc cưới cao cả, đó là hy tế Thánh Thể. Bữa tiệc cưới được cử hành một lần duy nhất, ngay lập tức sau khi cuộc hôn nhân vừa diễn ra. Nhưng sự hợp nhất của chúng ta với Thiên Chúa cũng quan trọng như vậy mỗi khi chúng ta đến nhà thờ tham dự thánh lễ. Chúng ta hiện diện nơi đây là vì chúng ta chấp nhận chứ không loại bỏ lời mời của Thiên Chúa.
Đừng để cho chúng ta bị sai lầm. Chúng ta hiểu rằng trong khi tìm kiếm tình yêu và hạnh phúc là chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa. Trong lúc cử hành hy tế Thánh Thể, chúng ta sẽ vui mừng và sung sướng vì Chúa Giêsu đã cứu độ chúng ta, rằng Người đã đến để dắt chúng ta đến với Cha Người. Khi thời gian chúng ta ở trên thế gian này chấm dứt, Chúa Giêsu sẽ dẫn chúng ta đến sống nơi nhà của Cha Người cho đến muôn đời. Ở đó chúng ta sẽ tiếp tục bữa tiệc cưới vĩ đại, bữa tiệc đời đời cho tình yêu hợp nhất của chúng ta với Thiên Chúa trên Nước trời. (Có vẻ tốt hơn khi dùng hình thức của Phúc âm, từ khi nhiều nhà thông thái nói rằng câu chuyện người không có trang phục áo cưới là một dụ ngôn riêng biệt).
44. Đám cưới vĩ đại
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đó là đám cưới của Alexandre Đại đế với công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước công nguyên.
Khi quyết định cưới một người Á Châu, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con tim. Nhưng qua cuộc hôn nhân này, ông muốn biểu tỏ ý muốn thống nhất tất cả lãnh thổ đã được chinh phục từ Đông sang Tây. Ông cũng hy vọng có được một người con nối dõi với hai dòng máu Đông Tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu.
Đám cưới được cử hành trong vòng bảy ngày, bảy đêm. Nơi nơi đều có yến tiệc. Và để tăng thêm phần long trọng, Alexandre đã cho tổ chức những cuộc tranh tài thể thao: Thế vận hội đã được khai sinh từ đó. Chính Đại đế là người đích thân trao giải thưởng cho những người thắng cuộc. Thông thường Hoàng đế trao tặng những chiếc cúp bằng vàng. Nhưng người được coi là đoạt nhiều giải nhất trong cuộc thi thế vận hội đầu tiên ấy chỉ nhận được một cành lá chiến thắng. Alexandre Đại đế giải thích như sau: Chỉ có vinh quang mới có thể tưởng thưởng được người xuất sắc nhất.
Thưa anh chị em,
Có một hôn lễ còn vĩ đại gấp bội so với hôn lễ của Alexandre Đại đế với Công chúa Roxane: đó là hôn lễ của Trời và Đất, của Thiên Chúa với nhân loại. Đây là hôn nhân mà loài người đã chờ đợi từ khi có mặt trên trái đất. Hôn lễ ấy đã diễn ra qua biến cố Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Tất cả nhân loại đều được mời đến dự tiệc cưới vĩ đại này. Trong Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã sánh ví tiệc cưới nầy với tiệc cưới của một nhà Vua tổ chức cho Hoàng Tử. Chỉ có một điều khác biệt là những khách được mời -những khách quý đầu tiên- đã tỏ ra hết sức khinh thường và hung dữ đối với các sứ giả của Nhà Vua. Họ không những đã chối lời mời mà còn nhục mạ và sát hại những người được Nhà Vua phái tới.
Bài học mà Chúa Giêsu muốn truyền đạt cho thính giả thời của Ngài, tức là Dân Israel, một dân tộc ngay từ đầu đã được Thiên Chúa mời gọi làm dân tuyển chọn của Ngài- làm những người khách mời đặc biệt vào dự Tiệc Nước Chúa- Nhưng đến khi Chúa Giêsu đến loan báo ngày mở tiệc và mời gọi họ thì họ lại từ chối. Vì thế, các khách được mời đầu tiên này sẽ được thay thế bằng bất cứ ai- người tốt cũng như kẻ xấu- gặp được ở các ngã đường. Dân Israel đã từ chối lời mời gọi gia nhập Nước Chúa sẽ được thay thế bằng lời các dân tộc khác, cả những người ngoại giáo và tội lỗi, những người thu thuế và các cô gái điếm.
Anh chị em thân mến,
Dụ ngôn tiệc cưới hoàng gia mà Chúa Giêsu đã kể lại luôn có giá trị đối với thính giả ngày xưa cũng như ngày nay. Là Kitô hữu, chúng ta là những khách được mời dự tiệc Nước Trời. Thiên Chúa là Đấng đã mời gọi chúng ta “do lòng từ bi của Ngài, chứ không do công trạng nào của chúng ta”. Nhưng Chúa đòi hỏi chúng ta một điều kiện- cũng là vinh dự của chúng ta là con người có lý trí và tự do- đó là đáp trả lời mời gọi yêu thương quảng đại của Ngài.
Trong các khách được mời dự tiệc cưới, chúng ta là những khách được mời cuối cùng để thay thế vào chỗ những khách đặc biệt được mời từ đầu mà đã chối lời mời của Chúa. Qua các thời đại, Thiên Chúa vẫn sai các sứ giả của Ngài đi qua mọi nẻo đường thế giới, mời gọi mọi người vào phòng tiệc, bất cứ họ là ai, tốt hay xấu. Thiên Chúa không loại bỏ ai, chính chúng ta tự loại mình. Nhưng không phải cứ vào phòng tiệc là được dự tiệc đâu, còn cần phải có áo cưới nữa, nếu không sẽ bị tống cổ ra ngoài. Nói cách khác, không phải cứ ghi tên vào sổ Rửa Tội, là người Công Giáo, là người có đạo, là được vào Nước Trời đâu. Cần phải sống đời sống kitô hữu, phải tin, yêu và theo Chúa Kitô nữa.
Dụ ngôn cho thấy, cuối cùng phòng tiệc đầy khách, gồm đủ hạng người. Cũng thế, Giáo Hội ngày càng đông, gồm đủ mọi dân tộc trên thế giới. Nhưng Giáo Hội không phải là quán cơm bình dân, ai vào cũng được, không một chút điều kiện tối thiểu. Đành rằng Chúa rất thương người có tội và Giáo Hội của Ngài đầy tội nhân hơn là vị thánh. Nhưng dù sao, muốn vào Giáo Hội, Chúa cũng đòi hỏi có một ước muốn trở lại chân thật, “một chiếc áo trắng Rửa Tội”, “mặc lấy con người mới, được Thiên Chúa tạo dựng và tái sinh trong công chính và thánh thiện”.
Phải, thưa anh chị em, Giáo Hội là một “Bữa Tiệc của người tội lỗi”, nhưng là những người tội lỗi tin tưởng vào Chúa Kitô và ơn cứu độ Ngài đem đến. Tình thương đòi hỏi tình thương đáp đền, mới xứng đáng dự vào bữa tiệc tình thương.
Anh chị em thân mến,
Thánh lễ là một bữa tiệc của Chúa. Giáo Hội là tập thể những người được mời dự tiệc, không phân biệt giai cấp giàu nghèo, màu da, ngôn ngữ. Lời Chúa và Mình Thánh Chúa là những món ăn “có chất lượng”. Áo cưới trong trắng Chúa đã ban cho chúng ta trong bí tích Rửa Tội và Giải Tội là điều kiện xứng đáng dự Tiệc Thánh này. Và Tiệc Thánh hôm nay bảo đảm cho việc dự tiệc cưới trong Nước Trời mai sau.
45. Lời mời gọi của Thiên Chúa
Thiên Chúa là vị Vua đầy quyền năng, Ngài có thể làm được mọi sự theo ý Ngài muốn. Tuy nhiên, Ngài đã ban sự tự do cho con người để con người chọn điều tốt, làm điều lành hầu xứng đáng với phần thưởng đời đời Chúa ban.
Khi được tự do chọn lựa, con người có thể có xu hướng chọn những cái thấy được trước mắt, coi trọng vật chất hơn những ơn thiêng liêng Chúa ban, không biết thờ phượng Chúa cho phải đạo. Dụ ngôn tiệc cưới này đã nhắc nhở chúng ta biết chọn lựa đúng đắn. Thực tế cho thấy có rất nhiều người từ chối lời mời của Chúa, họ phủ nhận Thiên Chúa những vì mãi lo việc vật chất phần đời mà bỏ quên Thiên Chúa. Những khách được mời trong dụ ngôn này đã không chịu đến, sai người đến nhắc cũng không đến, Vua lại sai nhiều người khác đến mời mọc, họ cũng không đến, lại còn đối xử tệ bạc với những đầy tớ của Vua! Thật là quá lắm!
Ông chủ trong dụ ngôn thật là tốt bụng, ông kiên nhẫn với nhóm khách được mời, tạo cơ hội cho họ đến nhưng họ cứ khăng khăng từ chối: vua lại sai các đầy tớ khác… nhưng lần này họ còn ra mặt chống đối, đánh đứa này, giết đứa kia. Chúa Giêsu kể dụ ngôn này có ý ám chỉ đến những người Do thái, họ đã được các tiên tri kêu gọi, nhắc nhở, loan báo và chuẩn bị cho việc đón nhận Chúa Cứu Thế. Thế nhưng, khi Chúa Cứu Thế đến thì họ lại từ chối và còn đối xử cách bất công nữa…. Nghe dụ ngôn chúng ta thấy bất bình với những người được chủ mời dự tiệc này, nhưng có khi nào chúng ta cũng giống như họ chăng! Tiệc của hoàng tử mà chúng ta lo là, không lo sửa soạn sẵn sàng mà lại lo tìm những thú vui giả trá chóng qua!
Thiên Chúa quá nhân từ khi đối xử với con người, Ngài có quyền nhưng cứ nhân từ, nhẫn nại, không ép buộc mà chỉ mời; còn con người lại không biết nghĩ đến Chúa, cứ một lo chuyện đời theo ý riêng. Sẽ có lúc Chúa phải xét xử công bằng với chúng ta. Ngài không để sự dữ hoành hành mãi được. Lúc đó, không ai thoát khỏi kết quả mình làm lúc còn trên dương thế. Tội của những kẻ chối từ lời mời gọi của Thiên Chúa trầm trọng lắm vì đã không tin vào Đức Kitô, Đấng vì họ mà đến trong thế gian. Chúng ta không chống đối Thiên Chúa nhưng chúng ta hay chối từ lời mời gọi của Chúa trong Giáo hội, không tuân giữ lời Chúa dạy trong Kinh thánh, chưa nghe theo lời khuyên của những người Chúa chọn, chúng ta có thể sẽ bị chúa trách cứ về điểm này.
Giáo hội trần thế hôm nay còn có người lành kẻ dữ lẫn lộn. Thiên Chúa kêu gọi tất cả hãy đến với Người, mặc lấy tâm tình xứng hợp để được vào Nước Trời. Những ai hoán cải và giữ lời Chúa dạy, làm việc lành thì giống như người có mặc áo cưới, có tâm tình và diện mạo xứng hợp để vào dự tiệc cưới. Bao lâu chúng ta duy trì đời sống công chính, gia tăng những việc lành thì chúng ta đang khoác cho mình chiếc áo cưới sẵn sàng chờ Chúa gọi.
Bữa tiệc Thánh Thể vẫn được lặp lại hàng ngày trong Thánh lễ, ai muốn tham dự phải mặc áo ân sủng Chúa và sống theo Tin Mừng. Để đi vào Nước Trời, chúng ta phải giặt áo mình trong máu Con Chiên, phải mặc lấy Chúa Kitô và thể hiện ra bên ngoài bằng đời sống tốt đẹp hơn, bác ái, quảng đại hơn… (x. Ep 4, 24).
Lạy Chúa Giêsu, con xin cám tạ Chúa đã kêu gọi con vào nhà chúa, con sẽ cố gắng đáp trả tiếng Chúa và dùng những khả năng Chúa ban để phục vụ cho Nước Chúa mau trị đến trong các tâm hồn.
46. Dự tiệc – Lm. Vũ Đình Tường
Hầu như ai trong chúng ta cũng có lần tham dự tiệc. Hoặc là do chính gia đình mình tổ chức hoặc là do người thân quen tổ chức mời tham dự. Tiệc có thịt và rượu là món chính, ngoài ra còn những món phụ khác làm cho bữa tiệc thêm thịnh soạn. Cũng có thể là món phòng trường hợp có thực khách thích rau hơn thịt, cá. Có bữa tiệc không có thịt cũng chẳng cá được gọi một tên đặc biệt là tiệc chay. Dù tiệc mặn hay chay vấn đề tổ chức, thiệp mời cũng đòi hỏi nhiều công sức. Nếu không cẩn thận sẽ quên việc này, sót việc nọ làm cho việc tổ chức thành luộm thuộm, vá víu và hậu quả là niềm vui giảm, lo lắng tăng và bất bình, cãi vã, đổ thừa là điều ắt phải có.
Tiệc mừng thường đi sau tin vui để đón tin vui. Tin vui dù lớn hay nhỏ đều quan trọng, cần thiết trong cuộc sống. Tin vui được coi là một phần trong cuộc sống, là ước vọng làm cho cuộc sống thêm hạnh phúc, ý vị. Tổ chức tiệc to nhỏ lệ thuộc vào niềm vui lớn nhỏ và hoàn cảnh tài chánh gia đình. Tùy theo cách mời mà thực khách đoán biết tầm mức quan trọng khi được mời. Mời qua điện thoại, mời lúc gặp ngoài đầu đường, cuối thôn, gặp nhau mời tới cho thêm vui. Mời có danh thiếp là tiệc mời quan trọng, trịnh trọng nhất. Theo phong cách đó người được mời dự tiệc nếu không là thân nhân thì cũng là người quen của gia đình. Vì thế vui mừng chấp thuận hay từ chối lời mời đều có ý nghĩa, nguyên nhân riêng của nó. Có nhiều lí do khách từ chối tham dự tiệc như cách trở ngàn trùng, giấy phép xuất nhập cảnh, sức khoẻ hay ngay cả hoàn cảnh tài chánh gia đình không cho phép và cũng có khi vì công ăn việc làm.
Dụ ngôn nhà vua tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử (Mat 22,1-14) bị các thực khách từ chối tham dự mang một ý nghĩa đặc biệt. Thứ nhất không phải một người mà nhiều người cùng từ chối. Thứ hai lí do đưa ra rất chung chung, bận công ăn việc làm. Thử hỏi mấy ai không bận công ăn việc làm. Thứ ba thiệp gởi mời trước ngày khai tiệc để khách có giờ chuẩn bị. Thứ tư đây là tiệc cưới hoàng gia, đúng ra phải hãnh diện, vui mừng mới phải. Thực khách lại chối từ không tham dự. Tệ hơn nữa còn xỉ vả, giết chết gia nhân hoàng tộc. Quả là hành động khiêu khích. Giết người vô tội trở thành kẻ có tội. Lí do khách vin vào từ chối là hành động phản kháng nhà vua. Hoàng tử chỉ là nạn nhân của phản kháng và gia nhân bị giết là vật tế thần của khiêu khích. Đối với thứ dân từ chối tham dự tiệc cưới của gia đình là hình thức phản kháng cho biết chưa thân thiết mấy, tình bạn còn lỏng lẻo nên coi nhẹ lời mời, không quan tâm, liệt vào ưu tiên hàng đầu.
Khách dự tiệc cũng cần chuẩn bị chu đáo vừa cho mình vừa khỏi làm mất mặt chủ tiệc. Một người tham dự tiệc cưới mà mà mặc áo công nhân đi dự sẽ lạc lõng. Dù không ai nói gì, mọi người nhìn vào cách ăn mặc lập dị đó cũng đủ cho chủ tiệc buồn. Như thế tham dự tiệc vui đã không chia vui, mang lại niềm vui; trái lại mang đến nỗi buồn, nỗi lo cho chủ tiệc.
Nước trời thường được ví như ngày hội vui, tiệc cưới. Tiệc thiên quốc do Chúa các đạo binh thiết đãi. Là ngày vui mừng hoan hỉ vì không còn tiếng rên xiết, không còn than van. Vui vì sự chết bị tiêu diệt. Ngày người ta không chôn xác người mà chôn chiếc khăn tang, vùi sâu vào lòng đất vì không bao giờ cần đến nó nữa. Nước trời được ví như tiệc cưới. Khách mời nằm trong danh sách chọn lựa. Không phải mời cách trống không, chung chung mà sai gia nhân đi mời. Tới ngày chủ còn sai gia nhân nhóm đi nhắc nhở khách, nhóm nhắc lại lời mời. Khách được mời không đáp nghĩa. Họ cũng không chuẩn bị để dự tiệc và cũng chẳng sẵn sàng. Trái lại còn chê trách, phản kháng lời mời gọi.
Nghĩ người rồi nghĩ đến ta. Tiệc Thánh Thể chính là hình ảnh tiệc cưới nước trời. Mỗi Kitô hữu hãy thành tâm nhìn lại thái độ, hình thức, phong cách chúng ta chuẩn bị tâm hồn, trong ngoài khi tham dự thánh lễ. Tham dự với tâm hồn sốt sắng, thành tâm, yêu mến. Trái lại tham dự có tính cách hời hợt, làm cho có lệ, cho xong tránh tội. Đến trễ về sớm, đứng ngoài sân ngó vào, vừa nói chuyện vừa tham dự thánh lễ. Tất cả những tâm tình thái độ trên cách nào đó bộc lộ nội tâm và tâm tình tham dự tiệc cưới nước trời. Coi thường bí tích Thánh Thể có khác chi nhóm thực khách được nhà vua mời tham dự tiệc cưới, họ đã không đi còn viện lí do bài bác, phê bình, chê trách.
Chúng ta hãy xin ơn biết yêu mến, quí trọng Bí Tích Thánh Thể.
47. Lửa mến – Lm. Vũ Đình Tường
Cả trẻ em lẫn người lớn đều chơi trò giả điếc làm ngơ trước tiếng kêu của người khác. Trẻ con nghe cha mẹ kêu gọi nhưng chúng giả bộ không nghe, làm ngơ tiếp tục chơi trò chơi bởi con tim chúng đang nồng cháy với trò chơi. Người lớn có vẻ lịch sự hơn khi giả bộ điếc từ chối lời mời gọi của anh em. Họ cáo lỗi với nhiều lí do khác nhau với hi vọng giữ được hoà khí, không làm phật lòng người anh em. Tất cả các lí do đều đúng nhưng không phải tất cả đều chính đáng. Tựu chung thì người nào cũng viện cớ vào công việc bận rộn với những lời hứa từ trước và không thể thất hứa. Những lí do trên cho chúng ta thấy một điều rất thật đó là cuộc sống con người trong thời đại kĩ nghệ, từ già đến trẻ đều bận rộn, kể cả người già về hưu cũng bận bịu suốt ngày. Tất nhiên công việc của họ ít hơn nhưng tuổi già họ chậm hơn, mau mệt hơn vì thế cần nhiều thời gian cho cùng công việc.
Phúc Âm hôm nay nói vể dụ ngôn vua nước trời tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử. Thiệp mời phát ra nhưng người nhận được thiệp đều từ chối vì người nào cũng bận rộn công việc không thể tham dự tiệc cưới. Những lí do từ chối tựu chung vào một iếu tố duy nhất đó là con tim họ đang nồng cháy với việc trần thế, không phải việc thiên quốc.
Thứ nhất cuộc sống tân tiến chính là cuộc sống hàng ngày con người phải chạy đua với máy móc. Ai cũng biết sức người sao so với sức máy nhưng vẫn phải chạy, không thể ngừng. Đời sống mệnh danh là có mức sống cao chính là mức sống đòi hỏi bận rộn từ sáng tinh sương cho đến khuya. Mệt nhoài người ra thế mà đôi khi có ngày công việc bỏ dở không làm hết.
Thứ hai mưu sinh cho cuộc sống là ưu tiên hàng đầu trong mọi thứ ưu tiên. Vì thế việc đáp trả lại lời mời gọi tham gia vào cộng đoàn dân Chúa trở thành ưu tiên thứ yếu, ưu tiên phụ. Bởi phải chạy đua, cạnh tranh liên tục nên mấy ai có giờ nghỉ thảnh thơi thoải mái. Khi được nghỉ lại dành thời giờ cho việc nhà, sơn chỗ này, sửa chỗ nọ, quét dọn chỗ kia, cuối ngày vẫn chưa xong và tất nhiên không có giờ nghỉ.
Thứ ba nhiều người tự an ủi là mai mốt có giờ sẽ phục vụ cộng đoàn, hiện nay chưa thể. Ai cũng biết mai mốt rất ít khi đến. Hơn nữa thời giờ của người bận rộn thì bay đi rất nhanh nên quay lại thấy ôi thôi già mất rồi. Đời sống cộng đoàn giầu mạnh là nhờ cộng tác tài đức của mỗi thành viên. Không cộng tác vào cộng đoàn mình đang sinh hoạt sẽ làm cho cộng đoàn đó thiếu đi một ít sinh khí sống động. Ít người cộng tác quá cộng đoàn đó sẽ sống èo ọt.
Thứ tư liên quan đến sức khoẻ con người. Cơ thể con người mau chóng thích ứng với hoàn cảnh nhưng nó có giới hạn riêng của nó. Nếu ép nó chịu đựng quá mức nó sẽ tự huỷ do sức ép quá mức của công việc. Bệnh nan y xảy đến là điều không trể tránh. Lúc đó con người lại than trách cuộc đời sao nặng nhọc quá sức thế. Ít ai chịu nhận lỗi do mình gây nên.
Thứ năm thuộc về lãnh vực tâm lình. Chúng ta tin là Thiên Chúa ở tận đâu đâu, xa lắm, Ngài đang bận rộn điều hành vũ trụ mù xa. Quan niệm Chúa ở xa đưa đến việc vắng bóng Chúa trong đời, vắng bóng Chúa trong gia đình, vắng Lời Chúa trong cuộc sống hàng ngày, và con tim nguội lạnh thờ ơ đời sống đức tin. Đời sống đạo nguội lạnh thì việc tham gia phục vụ cộng đoàn hẳn là băng giá. Bởi tin là Thượng Đế xa vời nên cảm thấy iên ổn trong việc thờ ơ, nguội lạnh đời sống đạo và iên tâm lo việc kiếm sống.
Trở lại với dụ ngôn chúng ta thấy vua nước trời có cách giải quyết riêng của Ngài. Người được mời dự tiệc cưới từ chối tham dự không làm cho tiệc cưới phải đình chỉ, cũng chẳng làm cho nó kém vui. Vua sai gia nhân ra đầu đường, góc phố gặp ai mời người đó vào dự tiệc cưới và hội trường chật ních người từ muôn phương dồn đến. Trong số đó có kẻ giầu, người nghèo, kẻ sang người hèn, kẻ quyền quí giới bình dân. Thành phần tham dự tiệc cuới nước trời dành cho những con tin nồng cháy, mau mắn đáp lại lời mời của Đức Vua.
48. Không có gì vui hơn tiệc cưới
Mỗi thánh lễ nhắc lại dụ ngôn của sự mời gọi này: ”Phúc cho những người dược mời tới dự tiệc của Chúa!”. Nhưng Matthêu nhà đạo đức nhanh chón báo động với chúng ta: Khốn thay kẻ từ chối lời mời và khốn thay kẻ nào đến mà không cố gắng để làm cho mình xứng đáng dự tiệc.
Dầu sao tôi cũng muốn ở giây lát trong niềm vui trong sáng. “Nước Trời giống như một ông vua dọn tiệc cưới cho con trai mình”. Khi nói điều ấy, Chúa Giêsu thấy được nhiều điều! Chúa Cha và đám đông con người. Và Ngài, Con của vua và là người anh em phổ quát. Ngài là Đấng không chỉ “ở giữa” Chúa Cha và con người mà thôi, nhưng “hướng về Chúa Cha” và “được trao ban cho con người”. Kết hợp Thiên Chúa với nhân loại trong các tiệc cưới lạ lùng. Không có gì vui hơn tiệc cưới. Đừng bao giờ đánh mất cái nhìn về lễ hội vô cùng của Tin Mừng là lễ hội mở tất cả các cửa của Thiên Chuá cho tất cả mọi người.
Chúa Giêsu nhấn mạnh trên sự miệt mài của Chúa Cha để nói với chúng ta: các ngươi hãy đến, tất cả đã sẵn sàng! “Ngài sai các đầy tớ… Ngài lại sai các đầy tớ khác… Ngài nói với các đầy tớ: các ngươi hãy mời tất cả những người mà các ngươi có thể gặp”. Kẻ nào không cảm thấy vui vẻ vì được Thiên Chúa mời thì kẻ ấy không nhận biết Thiên Chúa.
Thế thì tại sao có nhiều người từ chối? Matthêu phác hoạ còn Luca thì xác định những lý do: “Người thì đi ra đồng, kẻ thì lo buôn bán”, Matthêu nói như thế. Còn Luca thì bảo: “Tôi vừa mua một đám ruộng… Tôi vừa mua mấy con bò… Tôi mới cưới vợ”.
Đó là những lý do tuyệt vời, và biết bao Kitô hữu cuối cùng từ chối những lời mời của Thiên Chúa bằng mọi lý do tốt đẹp! Giờ đây dụ ngôn không còn được nói lên cho những người Do thái bị đe doạ là những người ngoại đạo sẽ thay thế họ nữa, dụ ngôn được nói với những Kitô hữu. Trong các bài phỏng vấn về cách thức sống đức tin, những Kitô hữu nói với tôi: “Tôi không hành đạo, tôi không đọc kinh”. Những lý do họ nêu ra đôi khi bi đát, nhưng thường thường tôi nghe gần giống như những từ trong dụ ngôn: “Tôi quá bận bịu vì chuyện này chuyện nọ…”
Bởi vì bạn đang đọc những bài suy niệm này nên bạn không ở trong trường hợp đó, nhưng chúng ta hãy chú ý, Thiên Chúa lúc nào cũng mời gọi.
Chúng ta có thể nghĩ rằng có hai dụ ngôn: dụ ngôn vói về lời mời gọi lớn lao và những lời từ chối, và dụ ngôn người được mời bị loại ra. Thực ra, đây cũng cùng một ý tưởng mời gọi, nhưng sự mời gọi rộng rãi đến nỗi cuối cùng trong phòng tiệc có cả “người tốt lẫn kẻ xấu”. Điều này nhắc lại các dụ ngôn cỏ lùng và lưới cá trong đó Chúa Giêsu muốn chứng tỏ rằng bất cứ những người nào được Thiên Chúa mời gọi cũng sẽ có cơ may trở nên tốt lành.
Ở đây nữa họ cũng phải nỗ lực. Dụ ngôn bắt đầu bằng sự biết ơn đầy kinh ngạc: “Phúc cho những kẻ được Chúa mời dự tiệc!”. Dụ ngôn kết thúc bằng việc trở lại thái độ của người được mời. Chúng ta đang ở trong phòng tiệc, đây chính là Giáo hội, cộng đoàn dự lễ Chúa nhật, tiệc Thánh thể. Cũng không thiếu lời mời gọi chúng ta: “Chúng ta hãy nhìn nhận chúng ta là những kẻ tội lỗi…”. Và trước khi rước lễ: “Lạy Chiên Thiên Chúa, xin thương xót chúng con, xin cho chúng con một bộ đồ cưới”.
49. Những người được chọn và được gọi.
Thánh Matthêu trình bày ở đây ba dụ ngôn mà chắc chắn Chúa Giêsu đã nói đến trong những hoàn cảnh khác nhau. Nhưng đúng ra, được quy hợp thành một toàn thể, các dụ ngôn đó giúp khám phá những viễn tượng mới cách phong phú hơn, vì những dụ ngôn đó chứng tỏ lập trường của những nhóm khác biệt đối với nước Thiên Chúa. Nhóm thứ nhất gồm có nhiều hạng người lãnh đạm hờ hững. Thái độ lãnh đạm của họ rất trầm trọng, vì đây là một việc tối hệ, dụ ngôn nói về tiệc cưới của Thái Tử, đó là một cuộc lễ duy nhất chỉ có những ai sang trọng mới được dự. Hơn nữa, lời mời gọi được lập lại nhiều lần biểu thị tính chất bất nhất của khách mời. Thái độ nhửng nhưng hình như là một xúc phạm.
Áp dụng dụ ngôn vào giáo hội, họ là những người đáng lẽ phải hiểu biết ý nghĩa dụ ngôn để cải hóa, nhưng vẫn đứng ngoài như những kẻ không tha thiết gì cả. Thương mại làm họ chú tâm hơn kinh nguyện, dương thế có giá trị hơn Thiên đàng, thời gian có ý vị hơn vĩnh cửu, bản ngã quý hơn Thiên Chúa. Họ không phải là thù địch, cũng không phải là vô thần, cũng không phải là vô tôn giáo. Nhưng họ không có thì giờ, chỉ hoàn toàn bận tâm với những lo âu trần thế.
Rồi sẽ ra sao? Thiên Chúa cũng không chú ý đến họ, để họ bị bỏ rơi và quên lãng. Nếu họ ngoan cố trong tình trạng này, họ sẽ bị kết án vĩnh viễn: “Ta không biết các ngươi. Ngày nay trước nhiệt tình đấu tranh chính trị, trước nhịp độ vội vã của cuộc sống kinh tế, trước cảnh náo động của thế giới, nhóm này hình như quan trọng đặc biệt.
Nhóm thứ hai gồm những người tự xưng là đối thủ. Trong dụ ngôn, đó là những người xử dụng tiệc cưới để nổi loạn và từ chối không theo hoàng vương. Mọi việc đều sôi nổi tạo nên một cuộc tranh chấp đẫm máu và thanh trừng tàn bạo. Áp dụng vào giáo hội, họ là những người vô thần cuồng tín, chiến đấu mạnh mẽ, là những bè phái tự cho là sáng suốt, là những người coi Tôn giáo là một loại thuốc phiện mê dân, coi đức tin như một loại ký sinh trùng bám vào nhân loại; coi luân lý công giáo làm suy giảm ý thức quốc gia, coi Giáo Hội là một chế định do những người đen tối thiết lập để che chở những kẻ trí thức nhỏ bé. Họ chống đối Kitô giáo và Giáo Hội bằng lời nói, bút mực, hay hành động có tổ chức. Khi họ nắm chính quyền họ xử dụng luật pháp, cảnh sát, và trong trường hợp thất bại, họ dùng đến quân đội, thanh toán Kitô giáo: Đó là mục đích họ theo đuổi.
Tuy nhiên, cuộc nổi loạn chống lại Thiên Chúa luôn luôn thất bại thảm khốc. Quan niệm tạp chủng về một siêu nhân loại sẽ gây nên cảnh trụy lạc dưới ảnh hương củ ác quỷ và phi nhân. Khi cả gan chống lại Thiên đàng sẽ bị rơi xuống hỏa ngục.
Nhóm thứ ba, gồm những người bước vào phòng tiệc nhưng không mặc áo cưới. Bên ngoài, họ là những người được mời, nhưng tâm tình bên trong của họ không hòa hợp với hoàn cảnh. Có lẽ họ cũng có áo cưới, nhưng họ coi việc mặc áo vào là vô ích. Phong độ của họ chứng tỏ họ khinh bỉ chủ tiệc. Thuộc về nhóm này còn có những ai thực sự là thành phần của Giáo Hội và tham dự vào đời sống Giáo Hội như những người Công Giáo sùng tín, nhưng mặt khác, họ khinh chê lời các Tông đồ, không mặc lấy Đức Kitô, không thấm nhuần tinh thần của Ngài. Đó là những chi thể chết của nhiệm thể. Họ tha hóa nhiệm thể và bóp méo nhiệm thể. Họ là những cành cây héo úa của Thiên Chúa, những cành cho khô khẳng, là những người Công giáo trong ngày Chúa nhật. Bên ngoài họ có vẻ quen thuộc với tôn giáo, nhưng trong tâm hồn họ vẫn xa lạ với tinh thần Đức Kitô. Trong dụ ngôn, số phận của họ là bị trục xuất khỏi lễ tiệc vì họ đã làm phiền lụy đến buổi tiệc và bóp méo hình ảnh buổi tiệc. Nếu họ cố chấp trong tình trạng của họ, họ sẽ bị Chúa tuyên phạt đời đời.
Sau cùng, nhóm thứ tư gồm những người đã chấp nhận lời mời gọi và rất mực khôn ngoan vì được hạnh phúc bất ngờ. Họ đến từ khắp nơi, dù biết rằng họ không có liên quan gì đến đặc ân này. Họ vô cùng hân hoan. Đó là những người ý thức về ơn sủng. Họ biết rằng, tiếng gọi của Chúa là do lòng thương xót, được ban xuống cho những người xa lạ, những chiên lạc, những tội nhân và những người bất xứng. Nhưng khi đã nghe tiếng gọi đó, họ cố gắng trả lời. Vì thế đời sống của họ là một đại lễ. Họ được tham dự vào tiệc cưới Con chiên. Họ vui sướng như ở Cana, bên những bình đầy rượu cách lạ lùng. Họ sẽ vẫn là những người bạn của quân lang. Tiếng gọi được ban xuống cho nhiều người, nhưng trong số những người đó có những người biệt phái coi mình là những kẻ ưu tuyển rồi lên mặt khoe khoang. Họ chỉ là thiểu số. Ngược lại, trong nước Chúa, cũng có những người tùy thuộc vào một thành phần ưu tuyển luân lý và công giáo, song vẫn không dám giả hình kiêu ngạo, tự mãn với ơn chọn lựa.
50. Lễ cưới Nước Trời – P. Trần Đình Phan Tiến
Vâng, kính thưa quý vị, Tin Mừng Chúa Nhật XXVIII (A) hôm nay (Mt 21, 1-14) một lầm nữa Chúa Giêsu lại dùng dụ ngôn nói về Nước Trời. Dụ ngôn hôm nay là “Dụ Ngôn Tiệc Cưới “. Có thể đoạn Tin Mừng hôm nay hơi khó hiểu, nếu chúng ta hiểu một cách nông cạn, theo nghĩa đen. Nhưng, nếu chúng ta hiểu theo ý nghĩa của niềm tin, ý nghĩa siêu nhiên, thì chúng ta sẽ thấy một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi vì, điều mà Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta là điều mà Chúa yêu thương chúng ta.
Khởi đi từ Bài đọc I (Is 25, 6-10a), chúng ta thấy sự “ khải hoàn “ sự vinh quang từ Thiên Chúa, sự mong đợi sự thết đãi từ Thiên Chúa đối với dân của Ngài. Bởi vì, ngoài Thiên Chúa ra, dân riêng của Ngài, ai chăm sóc, ai vỗ về, ai yên ủi? Chúng ta thấy, niềm vui thường đi kèm với yến tiệc. Yến tiệc khoản đãi từ Thiên Chúa còn gì là cao cả hơn?! Theo đó, phần thưởng chiến thắng, phần thưởng được ban ra từ Thiên Chúa, thì không có gì có thể so sánh được. Đó là niềm an ủi, niềm khích lệ, niềm mong đợi của sự công chính cho người công chính.
Theo đó, chúng ta thấy, từ trước Chúa Cứu Thế, dân Thiên Chúa đã mang một tâm tình mong đợi như vậy. Và Isaia đã được chính Thiên Chúa mở miệng cho nói những điều trên. Cho thấy, điều mà Tiên tri Iasia nói chính là hình bóng một Nước Thiên Chúa mà con người luôn mong đợi. Nhưng khốn nỗi thay, khi Thiên Chúa ban Nước ấy cho con người, thì họ lại khước từ.
Vâng, từ thực tế nêu trên, chúng ta mới thấm thía được ý nghĩa Tin Mừng hôm nay.
Tin Mừng hôm nay (Mt 22, 1-14) có thể chia ra ba ý chính:
Ý nghĩa “Dụ ngôn tiệc cưới “ (Mt 22, 1- 10)
Y phục tiệc cưới (c 11- 12)
Sự tuyển chọn của Thiên Chúa. (c 13 -14)
Chúng ta thấy, đoạn Tin Mừng hôm nay có nhiều tình tiết “ đối chọi” nhau. Ngay chính đoạn đầu, chúng ta thấy có sự “thất bại”, có sự “ thất trung, thất tín” trong bữa tiệc cưới. tiệc cưới là một niềm vui lớn trong đời người, lại là tiệc cưới của Con “ Ông Vua “, tức hoàng tử. Chúng ta hãy đặt mình vào trong chính trường hợp như vậy. Có vị vua nào mà không có niềm kiêu hãnh, sự tự hào, dù là vị vua rất mực nhân từ. Càng nhân từ, càng xứng đáng với niềm hãnh diện của một vị vua. Chúa Giêsu rất chận thật, rất chân lý và tâm lý, khi miêu tả Nước Trời bằng một dụ ngôn “ Tiệc Cưới “. Điều nầy phù hợp với tâm tình và đặc tính của một vị Vua là Thiên Chúa.
Bởi vì, Thiên Chúa sẽ trừng phạt và sẽ hành động như vậy, không còn cách nào khác hơn. Với cương vị là một “ Vị Vua Trời “, Thiên Chúa đã quá nhân từ, khi con người tội lỗi đã quá mạo phạm, chống lại, khước từ ân sũng của Ngài.
Chúng ta thấy, về mặt nghĩa đen và câu chữ là một sự bất trung, thất tín, một sự chống lại Thiên Chúa. Nhưng về ý nghĩa siêu nhiên, thì Nước Trời qua dụ ngôn Tiệc Cưới chính là bữa tiệc cứu độ (messianic banquet). Chúng ta hiểu được bữa tiệc cứu độ, “Bữa Tiệc Thánh”, cụ thể như Thánh Lễ Missa ngày nay, thì chúng ta mới hiểu được sự phù hợp của câu chuyện “Tiệc Cưới Nước Trời “ hôm nay. Việc mời là sự tự do của lòng tốt, không phải bắt buộc mời. Sự mời thể hiện tính cách tôn trọng, tử tế, yêu mến. Nhưng sự từ chối, tỏ vẻ khinh khi, phớt lờ. Thái độ không đáp trả là thái độ dể ngươi. Nhưng cũng có những trường hợp chính đáng. Nhưng trong dụ ngôn, cho thấy hai lần mời, khách được mời đều tỏ rõ thái độ xem thường. Lần đầu, là những khác đã được mời trước, nhưng họ không chịu đến (c 3). Lần thứ hai, Nhà vua nói rõ: Tiệc đã sẵn sàng, cỗ đã bày xong, rượu ngon, thịt béo, mọi sự đã sẵn sàng. Mời quý vị đến dự tiệc cưới. (c 4). Nhưng lần nầy, không những họ không đi, mà lại tỏ ra cho thấy những lý do vì tư lợi, kẻ thì đi buôn bán, người đi thăm trang trại. Còn tệ hơn co những kẻ lại bắt các đầy tớ cảu vua đáng đập và giết đi. (c 5- 6). Như vậy, không còn là lý do chính đáng nữa, mà là lý do phụ rẫy, lý do xem thường vị vua. Như vậy, tất nhiên vua sẽ nổi cơn thịnh nộ mà tru diệt bọn ác nhân. Và rồi vua cho mời tất cả những kẻ không được mời trước đây, lúc nầy không phân biệt người sang, kẻ hèn, ai cũng được mời. Có nghĩa là ơn cứu độ được ban cho hết mọi dân nước, chứ không còn dành riêng cho một dân nào. Theo đó giáo hội luôn gồm hai thành phần kẻ lành và người tội lỗi. Ơn cứu độ ở đây hiểu là “ Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh “ của Đức Kitô. Nhưng khách được mời dự tiệc “bắt buộc” phải mặc y phục lễ cưới. Điều nầy theo phong tục của người Do-thai. Khi đến dự tiệc cưới, khách mời phải mặc y phục của bữa tiệc đó, không được mặc y phục tự do, hay theo ý mình. Nhưng, phải mặc trang phục lễ cưới, bởi vì, để tỏ thái độ kính trọng với người chủ tiệc. Từ ý nghĩa thực tế, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh nầy để miêu tả dụ ngôn.
Nhưng, y phục tiệc cưới ở đây chính là thái độ đón nhận Tin Mừng và thực thi Tin Mừng. Điều nầy có nghĩa là: Muốn đón nhận ơn cứu độ, muốn vào Nước Trời, thì kẻ ấy phải ăn năn, sám hối, cải thiện đời sống. Đó chính là y phục lễ cưới. Không có y phục lễ cưới, minh nhiên, người ấy không thể vào dự tiệc cưới của “Vua Trời “ được. Ơn Cứu độ được trao ban nhưng không, nhưng muốn được cứu độ, thì phải mặc lấy tâm tình sám hối, như vậy, mới có thể đón nhận Nước Trời được. Nước Trời là nơi có Thiên Chúa ngự trị, mặc nhiên phải mặc lấy “ Tâm tình “ của Thiên Chúa. Chúng ta nhớ lại, có lần Chúa Giêsu đã nói: “ Không phải những kẻ kêu lạy Chúa, lạy Chúa, mà được vào Nước Trời. Nhưng những kẻ nghe và thực hành Lời Chúa (ý muốn của Cha Thầy) mới được vào mà thôi!” (Mt 7, 21 -22)
Ở câu 13, chúng ta “ trói tay chân nó lại và ném ra ngoài, ở đó sẽ khóc lóc và nghiến răng “, câu nầy đưa ra có vẻ gay gắt. Sự dẫn ra gay gắt của dụ ngôn hợp lý với khuôn mẫu lịch sử cứu độ. Nhưng, không thích hợp với những hàng chữ của câu chuyện. Vì chúng ta thấy, vị vua vừa muốn mời người ta dự tiệc. Có người từ chối, nhưng khi mời tất cả những người không định mời trước đó, nhưng khi thực khách đã đông, thì vua lại chú ý đến người dự tiệc không mặc y phục lễ cưới, ngay tức khắc bị đuổi ra ngoài. Như vậy, ơn cứu độ được trao ban nhưng không, nhưng người muốn đón nhận phải là người có lòng “ sám hối “. Có nghĩa là người đó phải có “ tinh thần của anh trộm lành”. Y phục lễ cưới là “ tâm tình người trộm lành “.
Qua đó, thánh Matthuê muốn phân biệtt giữa sự kêu gọi lúc ban đầu đối với sự cứu độ của Thiên Chúa và sự tuyển chọn và bảo tồn sau cùng. Theo đó, sự cánh chung không phải là sự tự động hóa. Do vậy, những người có niềm tin được cảnh báo chống lại sự tự phụ, tự mãn. Thánh Matthuê đã thường khiêm tốn nhìn nhận, bằng cách truyền thống của ngài, theo dụ ngôn “ những kẻ tá điền sát nhân “. (Mt 21, 33 -46)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con bằng những dụ ngôn về Nước Trời. Để chúng con hiểu và thực thi ý muốn của Cha trên Trời. Xin thương cho chúng con biết đón nhận ơn cứu độ từ nơi Chúa và biết cải tà quy chánh, sống theo đường lối của Chúa, vì đó là y phục lễ cưới Nước Trời. Như vậy, chúng con mới xứng đáng được vào dự tiệc cưới với Người. Amen.
51. Tiệc cưới hoàng tử
Con người không thể sống mà không có niềm vui, bởi vì không có niềm vui, cuộc đời sẽ trở nên nặng nề và u buồn. Khoa học và tiến bộ cũng như tiền tài và vật chất luôn cố gắng đem lại cho con người thời nay thật nhiều niềm vui, thế nhưng những niềm vui ấy không khác gì những cánh phù du, sớm nở chiều tàn, để rồi càng lao mình vào những thú vui trần thế, con người càng cảm thấy thất vọng, chán nản và trống rỗng.
Tuy nhiên, cách đây hơn 2000 năm, có một người đã xác quyết rằng: sứ mạng của mình là một tin mừng, đem lại niềm hạnh phúc. Người ấy chính là Chúa Giêsu. Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Ngài đã đưa ra một hình ảnh so sánh để nói lên niềm vui ấy, đó là hình ảnh tiệc cưới.
Nghĩ tới tiệc cưới là chúng ta nghĩ tới niềm vui ồn ào với rượu thịt đầy dẫy, có khi kéo dài tới hai ba ngày. Kitô giáo không phải là một tin buồn, nhưng là một tin mừng và nước trời là những bữa tiệc cưới không ngừng. Kẻ thì từ chối, người thì đáp trả lời mời gọi của Ngài. Lời mời gọi ấy được gửi đến cho mọi người không phân biệt giầu nghèo. Nhưng điều quan trọng đó là họ phải hiểu được rằng, sứ điệp của tin mừng là một sứ điệp đem lại hạnh phúc. Thế nhưng, nhiều người trong chúng ta lại không muốn hiểu, đối với họ, đạo chỉ là những lằn mức ngăn cấm, mà chúng ta không được phép vượt qua. Nào là phải đi tham dự thánh lễ, phải đi xưng tội, rồi thì không được làm điều nọ điều kia. Có người thì lại nghĩ rằng mình không thể nào sống đạo. Bộ mặt trần gian này sẽ tươi đẹp hơn nếu không có giới răn nọ giới răn kia. Họ tiếc rằng mình đã là Kitô hữu, vì đạo làm thiệt hại đến lợi lộc riêng tư của họ. Đạo là một cái gì buồn thảm với những tiếng thở dài não nuột. Thế nhưng nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy họ mới chỉ biết được mặt trái của đạo. Trong khi đó người tín hữu đích thực lúc nào cũng ngập tràn niềm vui, vì tất cả đều có thể đem lại cho họ sự hân hoan sung sướng.
Chẳng hạn, họ nhìn vào thiên nhiên và họ thấy rằng mình chỉ là một hạt cát, thế nhưng Tin Mừng cho họ biết chính hạt cát vô nghĩa ấy đã được Thiên Chúa yêu thương và chăm sóc, cũng vì hạt cát vô danh ấy mà Thiên Chúa đã từ bỏ trời cao, mang thân phận con người và chịu chết trên thập giá, Ngài đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã ban chính Con Một của Ngài cho chúng ta. Phải chăng đó là điều mà chúng ta không dám mơ ước tới.
Chẳng hạn, hãy nhìn vào chính bản thân. Con người chúng ta chỉ là một hạt bụi so với mặt trời, thế nhưng hạt bụi này đã được Thiên Chúa quan phòng an bài sắp xếp như lời Ngài đã phán: Tóc trên đầu các con đã được đếm, và không một sợi nào rơi xuống mà Chúa Cha không biết. Ngài còn dành cho chúng ta cái đặc ân được gọi Ngài là Cha. Phải chăng đó chỉ là một câu chuyện thần tiên hay là một sự thật.
Dưới ánh sáng đức tin thì mỗi ngày sống của chúng ta phải là một ngày lễ lớn, bởi vì từng giây từng phút chúng ta đã nhận lãnh biết bao ơn lành, biết bao quà tặng của Thiên Chúa. Chính trong chiều hướng này mà mỗi ngày Chúa Nhật đều dẫn chúng ta tới đỉnh cao hoan lạc qua việc kết hiệp với Đức Kitô nơi bàn tiệc Thánh thể. Để rồi từ đó, niềm vui được chiếu toả trên toàn bộ cuộc sống của chúng ta.
52. Tiệc cưới
Mùa xuân năm 1947, cả thế giới chú ý tới hàng tin lớn trên báo chí cho biết: công chúa Êlisabét của nước Anh sẽ đẹp duyên với hoàng tử Philip người Hy Lạp. Cuộc tình duyên này quan trọng, bởi vì công chúa Êlisabét sẽ lên ngôi kế vị vua cha trị vì không những trên vương quốc Anh và bắc Ailen mà còn đứng đầu khối thịnh vượng lớn, gồm trên 50 quốc gia lớn nhỏ như Ấn Độ, Canađa, Úc, Tân tây Lan… Ai cũng tò mò theo dõi lễ cưới lịch sử này. Cuộc lễ được tổ chức ngày 20-11-1947 tại tu viện cổ kính Oét-minh-tơ, nơi chôn cất các bậc vương quân và những nhân vật lớn nước Anh. Người ta không những theo dõi hai nhân vật chính là cô dâu chú rể mà còn chăm chú điểm danh từng nhân vật lớn trên thế giới. Không ai được mời tới dự mà muốn vắng mặt, từ những vị nguyên thủ quốc gia đến các vị thủ tướng và các nhà chính trị, từ những nhà quý tộc đến những nhà tỷ phú. Nói tắt, tất cả những nhân vật quan trọng hàng đầu của nước Anh và nhiều nước trên thế giới đều lấy làm vinh dự được mời và được xuất hiện trong lễ cưới long trọng đó.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng kể một lễ cưới long trọng được tổ chức do một ông vua mở tiệc cưới cho hoàng tử. Câu chuyện tiệc cưới này có cái gì khác thường, từ thực khách cho đến những sự tham dự, và nhất là cách xử sự của chủ tiệc, cho chúng ta thấy có điều gì không bình thường, và đó chính là điều Chúa Giêsu muốn dạy bảo và chúng ta cần tìm hiểu. Trong thực tế có lẽ chẳng có tiệc cưới nào diễn ra như thế. Đúng, đây không phải là một tiệc cưới bình thường mà là tiệc cưới nước trời. Bữa tiệc cưới này là hình ảnh tiệc cưới nước trời mà Thiên Chúa khoản đãi loài người, không phân biệt ai, đều được mời tham dự, chỉ với một điều kiện tối thiểu là mặc áo cưới.
Qua dụ ngôn này Chúa Giêsu đã phác hoạ cho chúng ta thấy các giai đoạn chính của lịch sử cứu chuộc. Từ khi Thiên Chúa gửi đến các ngôn sứ cho đến khi Ngài gửi đến chính Con Một Ngài, nhưng tất cả đều thất bại. Cây thánh giá như chóp đỉnh của lịch sử. Có phải thất bại thật không? Thưa không, qua biến cố phục sinh, lịch sử cứu chuộc vẫn tiếp diễn. Phòng tiệc cưới vẫn rộng mở, mời gọi hết mọi người, mọi dân tộc đến tham dự, làm sao cho đầy phòng tiệc. Không ai có thể từ chối, viện lý do nọ lẽ kia ti tiện, hẹp hòi để khước từ ơn Chúa. Nếu làm như vậy là họ tự chuốc lấy án phạt cho mình.
Quả thực, qua mọi thời đại, Thiên Chúa đã gửi các đầy tớ, các vị thừa sai, đi qua mọi nẻo đường thế giới kêu gọi mọi người vào Giáo Hội. Bất cứ họ là ai, tốt xấu bất kể, đều được mời tất cả. Thiên Chúa không loại bỏ ai bao giờ, nhưng chính chúng ta tự loại bỏ chính mình, đó là hình ảnh người không mặc áo cưới. Chúng ta cần hiểu rằng: Giáo Hội đón nhận tất cả mọi người, nhưng Giáo Hội không phải là một quán cơm bình dân, nên cũng đòi hỏi một chút điều kiện tối thiểu nào đó. Nói cách khác, đành rằng Thiên Chúa rất thương kẻ có tội, và Giáo Hội của Ngài đầy tội nhân hơn là thánh nhân, nhưng dầu sao, muốn vào Giáo Hội, Chúa cũng đòi hỏi một điều kiện tối thiểu nào đó.
Y phục lễ cưới ở đây chính là điều kiện tối thiểu để được dự tiệc cưới trong nước Thiên Chúa. Theo ý kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Kinh Thánh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật. Nội dung của dụ ngôn cho thấy rõ điều đó: tất cả những người xấu và cả những người tốt đã được gọi vào dự tiệc. Vì lòng thương bao la của nhà vua, những người xấu này đã tỏ ra dấu hoán cải thật sự hay đã thi hành những công việc cụ thể do đức ái đòi hỏi. Chính vì thế họ đã thoát khỏi cặp mắt xét xử của nhà vua. Trong khi đó, con người kia đã không thèm để ý gì tới việc cố gắng và còn dám bước vào phòng tiệc mà không mặc áo cưới. Vì vậy, anh ta đã tự chứng tỏ rằng anh ta không xứng đáng tham dự bàn tiệc. Nói ngắn gọn hơn, Giáo Hội là một “bữa tiệc” của người tội lỗi, nhưng là những người tội lỗi tin tưởng vào Chúa Kitô và ơn cứu độ Ngài đem đến, nên đã hoán cải để nhận được ơn đó. Tóm lại, Thiên Chúa yêu thương con người, nhất là người tội lỗi. Tình thương ấy đòi hỏi một chút tình thương đáp trả mới xứng đáng dự vào bữa tiệc tình thương.
Như vậy, bài Tin Mừng này muốn dạy chúng ta ba điều: Thứ nhất, cho chúng ta thấy tính phổ quát của ơn cứu độ, bao gồm tất cả mọi người, ai cũng được mời gọi đón nhận ơn cứu độ, nhất là những người tội lỗi. Tất cả đều do sáng kiến nhân từ của Thiên Chúa hay thương xót. Thứ hai, ơn cứu độ Thiên Chúa mang đến là nhưng không, nhưng vẫn có điều kiện, là phải thống hối, ăn năn, hoán cải, phục thiện. Nói cách khác, Thiên Chúa yêu thương con người, nhất là người tội lỗi. Tình thương ấy đòi hỏi một chút tình thương đáp trả, mới xứng đáng dự vào bữa tiệc tình thương. Thứ ba, chúng ta phải cố gắng không những vào số những người được gọi, mà còn phải vào số những người được chọn nữa, bởi vì gọi thì nhiều, chọn thì ít. Được rửa tội không có nghĩa là đã được cứu rỗi không cần phải làm gì nữa. Cũng thế, vào Giáo Hội của Chúa Kitô cũng không đương nhiên vào thẳng nước trời, mà còn phải tỉnh thức, phải ra sức lập công và bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi.
Bài Tin Mừng làm chúng ta rất phấn khởi: chúng ta biết Thiên Chúa là một người cha thương yêu chúng ta vô cùng, lúc nào cũng sẵn sàng ban ơn trợ giúp chúng ta. Nhưng chính chúng ta phải đáp lại tình yêu thương đó bằng đời sống tốt đẹp hoặc bằng thái độ chân thành sám hối. Mọi người chúng ta hãy giúp đỡ nhau để cùng nhau sống đẹp lòng Chúa và rồi cùng nhau dự tiệc cưới nước trời vĩnh cửu mai sau.
53. Hãy mặc áo cưới – JM. Lam Thy ĐVD.
Việc tổ chức tiệc cưới trong xã hội loài người cũng khá đa dạng. Việc mời khách đến dự tiệc cưới cũng có nhiều phương cách khác nhau. Tiệc cưới dân dã nơi một vùng quê, bình thường thì chủ hôn mời cả làng đến dự cho đông vui và cũng thể hiện tình làng nghĩa xóm vui buồn ấm lạnh có nhau; nhưng tiệc cưới ở thành thị có khác hơn, khách mời được chọn lọc từ những mối dây thân tình, thân tộc, không đặt nặng vấn đề địa chỉ cư trú, thậm chí nhiều khi ở liền vách với nhau cũng không được mời vì lý do này nọ. Đến như tiệc cưới nơi cung đình thời phong kiến tuy cách tổ chức thật lộng lẫy xa hoa, nhưng khách được mời lại càng được chọn lọc kỹ càng, dân đen đừng hòng bén mảng. Nhìn vào những tiệc cưới như vừa kể, mới thấy cái lạ lùng nơi tiệc cưới trong bài Tin Mừng CN XXVIII/TN-A (“Dụ ngôn tiệc cưới” – Mt 22, 1-14).
Cái la lùng thứ nhất không phải ở chỗ nhà vua chọn lọc khách mời, nhưng ở chỗ khách được mời thay vì vui mừng hãnh diện, mau mắn áo quần bảnh bao tới dự, thì lại tỏ ra thờ ơ, lơ là, chẳng thèm để ý. Đến khi được nhắc nhở, không những đã không nhìn thấy cái sai của mình, mà còn chống đối lại chủ tiệc bằng cách sỉ nhục và giết chết những đầy tớ được sai đi nhắc lại lời mời dự tịêc. Chính vì thế, nhà vua mới giận dữ tru diệt những khách mời hết sức lạ lùng ấy, và sau đó nhà vua hạ lệnh mời tất cả mọi người bất kể quan hay dân, tốt hay xấu. Và đó chính là cái lạ lùng tiếp theo của tiệc cưới này. Cứ tưởng chỉ có lần trước, những người được chọn mời vì là những quan khách có vai vế trong dân mới chống đối lại ông chủ tiệc cưới; nhưng thật không ngờ lần sau (những người được mời ở những tầng lớp bình dân) cũng vẫn còn có kẻ coi thường nhà vua, không chịu mặc áo cưới.
Khi thấy có người không mặc y phục lễ cưới, nhà vua ôn tồn hỏi: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?”, nhưng “người ấy câm miệng không nói được gì”. Vì thế, nhà vua nổi giận bảo những người phục dịch: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng!” (Mt 22, 13). Anh chàng ngoan cố đó không thể biện hộ cho việc mình khinh thường nhà vua, bởi vì đâu có ai đi dự tiệc cưới mà lại không mặc y phục lễ cưới. Sự ngoan cố của anh ta đã chuốc lấy bản án khốc liệt. Dụ ngôn trình thuật đó là cơn thịnh nộ của nhà vua chủ tiệc cưới; tuy nhiên, suy cho cùng thì anh chàng không mặc áo cưới đã “tự kết án mình”. Phải chi anh ta “mặc y phục lễ cưới” cho đàng hoàng thì đâu đến nỗi! Những cái lạ lùng ấy cho thấy đây không phải là một tiệc cưới ở trần gian, dù cho đó có là một tiệc cưới đặc biệt nơi cung đình những triều đại phong kiến đầy xa hoa kiểu cách.
Cũng bởi vì tiệc cưới trong dụ ngôn không phải là một tiệc cưới trần gian và chủ nhân tiệc cưới tất nhiên cũng không phải là vua chúa gian trần. Và vì thế tấm áo cưới ấy hoàn toàn không phải là những soirées, những complets loè loẹt kiểu cách. Từ đó suy ra khi kể dụ ngôn này, Đức Giê-su Ki-tô muốn nói đến một tiệc cưới tối quan trọng, độc nhất vô nhị: tiệc cưới Nước Trời. Nói khác hơn, Người muốn nói đến lịch sử Cứu Độ của Thiên Chúa đối với nhân loại, mà chính Người đóng vai trò chủ yếu. Có thể thấy được 2 giai đoạn lịch sử cứu độ qua dụ ngôn: Giai đoạn đầu là giai đoạn dân It-ra-en được chọn mời, nhưng họ không những đã khước từ, mà còn có thái độ chống đối thô bạo (giết hại những đầy tớ được sai đi mời hoặc nhắc lại lời mời, đó chính là những ngôn sứ, tiên tri là những người được sai đi loan truyền Ơn Cứu Rỗi). Tuy rất thịnh nộ vì kẻ được chọn mời đầu tiên, nhưng lòng khoan nhân đại độ của Thiên Chúa vẫn không vì thế mà suy giảm. Và cũng vì thế, lịch sử cứu độ bước sang giai đoạn hai: Tất cả các dân nước trên thế giới đều được mời gọi và chỉ với một điều kiện duy nhất là phải mặc áo cưới khi dự tiệc.
Cũng vì tiệc cưới đó là “Nước Trời” nên lời mời dự tiệc cưới không gì khác hơn là “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4, 17). Nói cách cụ thể thì trước khi tham dự lễ cưới, khách được mời hãy tẩy rửa con người của mình cho trong sạch (mặc áo cưới). Sự tẩy rửa này đã được “Tiếng hô trong hoang địa” Gio-an rao giảng và thực hành. Đến ngay cả Người kể dụ ngôn “Tiệc cưới” (Đức Giê-su Ki-tô) cũng làm gương bằng cách đến xin Thánh Gio-an Tẩy Giả làm phép rửa (Lc 3, 21; Mt 3, 13-17; Mc 1, 9-11). Đó chính là Phép Rửa mà từ đó về sau, Giáo Hội quy định: Trong lễ Rửa tội, tấm áo trắng được trao cho người tân tòng mặc vào. Nó biểu tượng cho sự sống mới Chúa Giê-su đem lại cho họ nhờ cái chết trên thập giá của Người. Qua Bí tích Thánh Tẩy, người tín hữu đã cởi bỏ con người cũ tội lỗi để mặc lấy con người mới mà sống theo tinh thần Giao Ước Mới do chính Chúa Ki-tô thi hành theo ý định của Thiên Chúa Cha. Tất cả những ai muốn được dự Tiệc Cưới của Chúa Ki-tô do Thiên Chúa Cha đãi tiệc, đều phải tiếp nhận lối sống ấy (mặc áo cưới Nước Trời).
Rõ ràng “mặc áo cưới” là “cởi bỏ con người cũ tội lỗi (sám hối) để mặc lấy con người mới (canh tân)” mà vui mừng vào dự Tiệc Cưới Nước Trời. Nói cách cụ thể là phải sống đúng tinh thần CANH TÂN và SÁM HỐI (Mt 3, 1-2; Lc 3, 3). Nói đến canh tân và sám hối là nói đến chuyện vượt qua chính mình. Trèo đèo, lội suối, vượt qua sông này, biển nọ, có thể thực hiện được, chớ “vượt qua chính mình” mới là thiên nan vạn nan. Kẻ viết bài này cứ thích nhắc đi nhắc lại cho bản thân câu nói rất hay của Nguyễn Bá Học: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Vâng, khi được mời gọi, hãy chân thành nhìn lại mình với cái quá khứ chắc chắn không ít thiếu sót sai lầm của bản thân, quyết tâm sửa chữa (sám hối) để đổi mới (canh tân) toàn bộ con người của mình. Chỉ có như thế mới tránh được “vết xe đổ It-ra-en”, hầu xứng đáng là thực khách diễm phúc trong Tiệc Cưới Nước Trời.
Là Ki-tô hữu, tức là những người “được mời gọi”, phải chân nhận đó là một hồng ân, một đặc sủng, phải quyết tâm cố gắng làm sao để có thể trở thành người “được chọn”, bởi vì “Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít” (Mt 22, 14). Muốn được như vậy, thì đừng ỷ tài, cậy sức mình, mà phải biết cậy nhờ vào sức mạnh của Thần Khí, cũng bởi vì “Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ” (Cv 2, 18). Mà muốn đến được với Chủ nhân Tiệc Cưới để Người “đổ Thần Khí” cho, thì đừng quên chạy đến với Đức Maria trong tiệc cưới Ca-na, xin Mẹ ban cho “Áo Đức Bà” (*) cùng với tràng chuỗi Mân Côi huyền nhiệm làm vũ khí lợi hại để hộ thân, trước khi tiến vào Tiệc Cưới Nước Trời. Hãy vững tin kiên trì vững bước theo hành trình ấy, chắc chắn sẽ đạt được ước nguyện.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng, ước gì ân sủng Chúa vừa mở đường cho chúng con đi, vừa đồng hành với chúng con luôn mãi, để chúng con sốt sắng thực hành những điều Chúa truyền dạy. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN.XXVIII/TN-A).
—————-
(*) xc “Áo Đức Bà Ca-mê-lô” trong “Tài liệu về Mẹ Maria” (Thanhlinh.net)
54. Áo cưới
Phong tục đám cưới của người Do Thái có hai giai đoạn. Lời mời được gửi đi trước, nhưng không nói rõ ngày và giờ của tiệc cưới. Khi chủ nhà chuẩn bị xong, mới sai đầy tớ đi mời khách dự tiệc cưới vào. Những người khách khôn ngoan tắm rửa sạch sẽ, sẵn sàng áo cưới và chờ đợi ngay cửa triều đình, khi có lệnh liền nhập vào tiệc cưới ngay. Những người khách ngu dại nghĩ rằng phải chờ đợi rất lâu mới có tiệc, nên họ vẫn đi lao động ngoài đồng ruộng, nơi lò gốm… Thình lình lệnh vua mời vào dự tiệc cưới, họ chưa sẵn sàng, không mặc áo cưới, nên bị loại ra ngoài phòng tiệc, buồn bã và đói khát.
Một lần nữa Chúa Giêsu dùng dụ ngôn này để tố cáo những người Do Thái là những người khác được mời đến dự tiệc cưới nhưng từ chối. Trải qua bao nhiêu thế hệ, Thiên Chúa đã sai các tiên tri và sứ giả đến mời họ, như dân tộc được tuyển chọn, họ đã từ chối, hành hạ và giết chết các đầy tớ của Thiên Chúa, ngay cả đến Con Thiên Chúa. Vì thế, những người ở ngoài đường sá là dân ngoại và những người tội lỗi đã được mời tham dự vào vương quốc Thiên Chúa.
Ngày xưa, một vị vua kia có bốn người con trai được yêu cầu phải tự chọn lựa nghề nghiệp cho tương lai của mình. Bốn người con mới bàn tính với nhau: “Nào chúng mình hãy đi khắp nơi trong thiên hạ và tìm kiếm lấy một nền khoa học đặc biệt”. Họ đồng ý sẽ gặp lại nhau ở một chỗ nào đó, và bốn anh em bắt đầu ra đi theo bốn hướng khác nhau. Thời gian qua đi, bốn anh em gặp lại nhau ở chỗ đã hẹn để tổng kết điều họ học hỏi được. “Tôi đã làm chủ một nền khoa học”. Người anh cả nói, “khoa học này cho phép tôi có thể làm ra một tạo vật có đầy đủ bắp thịt với điều kiện tôi phải có một miếng xương”. “Tôi”, người thứ hai nói, “học được cách làm ra da và lông nếu đã có các bắp thịt trên xương của nó”. Người thứ ba nói, “Tôi có thể tạo ra chân tay nếu tôi đã có thịt, da và tóc”. Và tôi”, người thứ tư kết luận, “biết cách ban cho tạo vật đó sự sống, nếu nó đã có đầy đủ hình thù tay chân”.
Sau khi bàn tính với nhau, bốn anh em đi vào rừng sâu tìm một miếng xương để có thể chứng tỏ những tài năng chuyên môn của họ. Như số phận đã định, miếng xương họ tìm thấy là miếng xương của một con sư tử, nhưng họ đã không biết. Một người đắp thịt vào xương, người thứ hai thêm da, lông và tóc, người thứ ba hoàn chỉnh với tay chân, và người thứ tư ban cho con sư tử sự sống. Đang khi lúc lắc bộ lông rậm rạp trên gáy, con sư tử hung dữ gầm lên một tiếng, nó chồm lên ngoác to miệng đe doạ với những chiếc răng nanh và móng vuốt nhọn hoắt. Nó nhẩy về phía những nhà sáng tạo, giết chết tất cả, rồi biến mất vào trong rừng.
Bất cứ khi nào chúng ta cố ý sống tách rời ra khỏi Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể trở nên nạn nhân của chính những công trình do mình làm ra. Tách biệt ra khỏi Thiên Chúa, sự tự do và những khả năng trí tuệ cho phép con người tạo nên vũ khí hạch nhân, sử dụng quyền hành và của cải trần gian để áp đặt sự thống trị trên những người khác… cũng tiềm ẩn một khả năng tự huỷ diệt con người.
Những người từ chối dự tiệc cưới đã viện dẫn rất nhiều lý do chỉ vì họ không muốn đến. Và những người không muốn tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật cũng có rất nhiều lý do để biện minh.
Người Ả Rập có một ngụ ngôn kể về một người sang nhà hàng xóm xin mượn một sợi dây thừng. Người hàng xóm trả lời: “Tôi không thể cho anh mượn được, vì tôi đang dùng nó để cột đống cát”. Về nhà suy nghĩ một lúc, anh trở sang nhà hàng xóm và phân trần: “Nhưng anh không thể nào cột đống cát bằng sợi dây thừng được!” Lúc đó người hàng xóm mới trả lời một cách xảo quyệt rằng “Phải rồi, bạn có thể… làm bất cứ điều gì bằng sợi dây thừng khi bạn không muốn cho người khác mượn!”
Thiên Chúa mời gọi con người đến tham dự tiệc cưới. Tiệc cưới là tiệc vui tươi, chúc mừng tình yêu của cô dâu, chú rể. Chúa Giêsu là chàng rể và Giáo Hội là cô dâu. Thiên Chúa đã mời gọi các Kitô hữu đến bàn tiệc để chia sẻ niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài.
Niềm vui đó được trao ban ngay từ đời này và cả đời sau nữa. Kitô giáo không phải là thuốc phiện ru ngủ con người trong đau khổ, quên đi hạnh phúc của cuộc sống ở đời này để chỉ mơ tưởng nước thiên đàng ở đời sau.
Có một huyền thoại kể về một người câu cá tên là Aaron. Aaron sống ở bên bờ sông. Vào một buổi chiều, đang khi đi bộ về nhà, mắt nhắm mắt mở sau một ngày làm việc vất vả, anh mơ tưởng mình sẽ phải làm gì nếu giàu có. Đang khi bước đi, chân anh đá phải một cái túi da, trong lúc lơ mơ, anh nghĩ dường như đó là những hòn sỏi nhỏ. Đãng trí, anh nhặt cái túi lên và bắt đầu ném từng viên sỏi xuống mặt nước sông. “Khi ta giầu có”, anh nói, “Ta sẽ mua một cái nhà thật lớn”. Anh lại ném hòn sỏi khác xuống nước. Ném hết hòn này tới hòn khác rồi anh nghĩ, “Vợ ta và ta sẽ có những người đầy tớ phục vụ, đồ ăn dư giả với tất cả mọi sự sang trọng”. Và cứ như vậy xảy ra cho đến khi chỉ còn lại một hòn sỏi trong tay. Khi Aaron cầm nó trong tay và nhìn xuống, một luồng ánh sáng phát ra lấp lánh. Anh nhận ra rằng đây là một hòn ngọc quý giá. Anh ném xuống nước bao nhiêu viên ngọc quý đã có trong bàn tay, trong khi đó lại mơ tưởng những của cải không có thực ở tương lai.
Niềm vui trong tâm hồn giúp cho con người sống hy vọng và tin tưởng, giữa những khó khăn và khổ đau ở đời này. Bài đọc thứ hai, trích thư thánh Phaolô gửi tín hữu Philipphê: “Trong mọi trường hợp, và hết mọi cách, tôi đã học biết no, biết đói, biết dư thừa và thiếu thốn”. Ngài viết những lời khuyên nhủ này đang khi ở trong nhà tù. Ngài nói: “Trong mọi sự hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa”. “Trong mọi hoàn cảnh hãy tạ ơn Thiên Chúa”.
55. Tiệc Nước Trời
Trong một đời người chắc ai cũng có rất nhiều lần dự tiệc, nào là tiệc cưới, sinh nhật, bổn mạng… nhưng vì tình nghĩa chúng ta cũng rất ít lần bỏ qua. Họa hoằn làm chúng ta mới bỏ qua một lần, nhưng lần đó chỉ là những trường hợp bất khả kháng chúng ta không thể nào đi được. Cho dù buổi tiệc đó có lớn đến đâu, nhân vật quan trọng như thế nào đi nưa thì đó cũng cũng chỉ là buổi tiệc mau tàn, chóng qua. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta thấy một buổi tiệc vô giá, buổi tiệc quan trọng hơn gấp bội phần buổi tiệc của trần gian nay. Đó chính là buổi tiệc nước trời mà Thiên Chúa giống như vua kia tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử. Nước Trời có nghĩa là gia đình Thiên Chúa trên trần gian. Tiệc cưới là bàn đặt lương thực thiêng liêng. Còn mỗi người chúng ta là đầy tớ của vua cao cả. Chúa Kitô là Con của Ngài. Cha trên trời sai chúng ta đi mời mọi người chia sẻ bữa tiệc thiêng liêng do Giáo hội của Ngài khoản đãi.
Nhưng ai là người chúng ta có thể mời? Thực tế là mọi người. Có nhiều người Công Giáo không bao giờ tham dự những ngày đại phúc, tĩnh tâm hay học hỏi về đạo. Những người công giáo lơ là về đạo ấy, chỉ cần một chút thúc giục để họ bắt đầu quay về với gia đình của Thiên Chúa. Họ hăng say tham gia vào buổi tiệc mà chính Chúa đã dọn, đã mời gọi. Chính khi họ đi dự tiệc họ cũng có thể mời gọi người khác cùng đi
Hơn nữa chúng ta cũng cần nghĩ đến những người bạn chưa hề nghe, chưa hề biết, chưa hề cầm được tấm thiệp mời, đó chính là những người bạn khác niềm tin khác tôn giáo đang tìm kiếm của ăn thiêng liêng. Chúng ta có thể gặp những người khách này ở đâu? Họ có thể là người láng giềng, bạn học, bạn công nhân cả đến những người thân thuộc. Họ có thể là người quen biết trong cuộc chơi, ở tiệm bán hàng, trên xe buýt, ở phòng đợi bác sĩ, bạn đừng giới hạn sự mời đón vào những người gọi là đáng kính. Bạn hãy mời những người thấp kém, vô gia cư, tội lỗi. Như trong Tin Mừng hôm nay, ông vua truyền lệnh: “Hãy ra các ngả đường, mời bất cứ ai bất luận tốt xấu”.
Hãy mời họ thường xuyên tới dự thánh lễ, hay những dịp lễ dặc biệt lễ Giáng sinh, viếng máng cỏ, nghi lễ rửa tội, lễ cưới, lễ an táng hay là viếng nhà thờ trong tuần một vài lần…
Nếu có thể, bạn hãy nói trước với cha sở về những người khách ấy. Có lẽ Ngài mong được biết có sự hiện diện của họ, và có một vào người hứơng dẫn cho họ chung quanh nhà thờ. Điều này làm họ cảm thấy được cần đến và giúp sửa được ý niệm sai lầm là người công giáo chúng ta không muốn người ngoài đạo tham dự các lễ nghi.
Giả sử như họ từ chối lời bạn mời, thì bạn cũng đã một trọn bổn phận của bạn, bổn phận của lòng tin và bác ái. Bạn đang cổ động sự hiểu biết giữa những người có niềm tin khác nhau. Bạn đang tỏ ra rằng: đức tin của bạn có một ý nghĩa đối với bạn. Bạn lưu tamâ và ân cần mong muốn người khác chia sẻ bữa tiệc thiêng liêng chúng ta tham dự trong chính giờ này.
Lạy Chúa, chỉ có tình yêu mới đáp trả được tình yêu, chỉ có lòng thành mới mới đáp trả được lời mời gọi thiết tha mà Thiên Chúa đã kêu gọi. Xin cho con biết nhân ra đâu là thánh Ý Chúa để con hăng say đáp trả bằng tình yêu và lòng nhiệt thành. Amen.
56. Áo cưới
Dụ ngôn của các thầy Rabbi mô tả về một vị vua đã tin tưởng trao phó cho các đầy tớ những chiếc áo cưới của triều đình. Những người khôn ngoan nhận lấy, đưa về nhà cất giữ cẩn thận với lòng quý mến. Những người khờ dại mặc nó vào đi lao động, dính bùn đất dơ bẩn. Tới ngày nhà vua ra lệnh thu hồi áo về, những người khôn ngoan trả lại vua với những chiếc áo sạch sẽ và mới tinh được cất giữ trong nhà kho, nhà vua để họ ra về bằng an. Còn những người khờ dại với những chiếc áo dơ bẩn bị bắt bỏ vào ngục tù. Dụ ngôn này dạy con người bài học phải gìn giữ linh hồn tinh tuyền cho đến khi gặp lại Thiên Chúa; nếu linh hồn dơ bẩn sẽ bị Ngài trừng phạt.
Nối kết câu chuyện phải có y phục lễ cưới trong bữa tiệc, Chúa Giêsu đã ngụ ý rằng nhà vua dọn tiệc mời khách và cũng cung cấp cho họ những chiếc áo cưới. Khách dự tiệc đã chấp nhận lời mời, còn phải bắt buộc mặc áo cưới dự tiệc. Ân sủng không phải chỉ là một món quà; nó còn là một trách nhiệm phải được chu toàn. Một người khi đã gặp Đức Kitô, không được sống cuộc đời tội lỗi nữa, phải mặc lấy tinh thần mới, đời sống mới của sự thánh thiện!
Đành rằng “chiếc áo dòng không làm nên thầy tu”, nhưng qua cách ăn mặc cũng chứng tỏ cho người khác thấy phần nào con người của mình. Khi đến thăm gia đình của người bạn với quần áo lịch sự, chứng tỏ rằng chúng ta kính trọng người bạn đó. Khi đến nhà thờ dâng thánh lễ ngày Chúa nhật, các Kitô hữu mặc y phục đẹp đẽ nhất của mình, chứng tỏ chúng ta kính trọng Thiên Chúa, tôn trọng những người chúng ta gặp gỡ trong cộng đoàn, và biểu lộ sự tự trọng đối với chính bản thân mình.
Quần áo bề ngoài xã hội như vậy, nhưng còn y phục của tinh thần và linh hồn nữa. Mỗi lần đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng phải mặc lấy y phục phẩm hạnh của bàn tiệc mà Chúa Giêsu đòi hỏi; y phục của lòng tin, cậy, mến; y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa.
Rất nhiều khi chúng ta đã coi thường bàn tiệc Thánh Thể. Chúng ta đến nhà Chúa với một tâm hồn không chuẩn bị gì, chẳng có tâm tình cầu nguyện, và cũng không chịu lắng nghe lời Chúa. Lời Chúa hôm nay cảnh cáo thái độ khinh thường đó rằng: “Trói chân tay nó lại, ném nó vào nơi khóc lóc nghiến răng! Vì những kẻ được mời gọi thì nhiều, còn những người được chọn thì ít”.
57. Phòng tiệc Nước Trời
“Gặp bất cứ ai hãy mời vào…”
Qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta tham dự bữa tiệc Nước Trời. Trong Thánh Kinh, nhiều bữa được nhắc đến; như bữa ăn Tổ Phụ Abraham khoản đãi ba người khách lạ dưới lều vải (St 18,1-8), như bữa tiệc người cha già mừng con đi hoang trở về (Lc 15,22-32). Chúa Giêsu đã đi dự đám cưới ở làng Canaan (Ga 2,1-10), Ngài cũng dọn bữa ăn cho các môn đệ sau một đêm lao lực (Ga 21,1-14), cho dân chúng được ăn no từ 5 chiếc bánh và 2 con cá. Tất cả để báo hiệu bữa tiệc Thánh Thể.
Thì, hôm nay, tiên tri Isaia ví Nước Trời như một bữa tiệc mà Chúa khoản đãi mọi dân tộc, nhất là những ai đói khát tự do, công chính. Chúng ta cũng hãy sốt sắng tham dự vào bữa tiệc thánh là LỜI và THÁNH THỂ Chúa, hãy “hân hoan vì Chúa khoản đãi và lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt”.
Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu lấy lại ý tưởng của hai dụ ngôn của những người tá điền giết người. Chúa nhấn mạnh đến trách nhiệm của những đã nhúng tay vào máu của người con thừa tự, họ sẽ bị tiêu diệt và lời hứa được trao cho người khác. Chúa phác họa lịch sử cứu rỗi qua các giai đoạn chính. Từ khi Thiên Chúa gửi đến cho các tiên tri khi Ngài gửi đến chính Con Một Ngài, nhưng tất cả đều thất bại. Cây thánh giá như chóp đỉnh của lịch sử. Nhưng qua biến cố Phục sinh, lịch sử cứu rỗi vẫn tiếp diễn. phòng tiệc Nước Trời vẫn mở rộng, mời gọi hết mọi người, mọi dân tộc đến tham dự, làm sao cho phòng tiệc phải đầy ắp. Làm sao chúng ta có thể từ chối, viện lý nọ lẽ kia ti tiện hẹp hòi đòi để từ khước ơn Chúa?
Từ đời nọ qua đời kia, Ngài gửi các đầy tớ – các vị thừa sai – đi qua mọi nẻo đường thế giới, kêu gọi mọi người vào phòng tiệc, bất cứ họ là ai, tốt xấu. Thiên Chúa không loại bỏ, nhưng chính chúng ta tự loại bỏ mình.
Nhà vua đi vào bữa tiệc quan sát. Một câu hỏi được đặt ra. Làm sao nhà vua lại thịnh nộ khi đã ra lệnh “gặp bất cứ ai đều mời vào dự tiệc cưới” rồi.
Matthêu nhận thức rằng Giáo Hội càng ngày càng đông. Nhưng Giáo Hội không phải là quán cơm bình dân, ai vào cũng được, không có một chút điều kiện tối thiểu. Đành rằng Chúa rất thương kẻ có tội và Giáo Hội của Ngài đầy tội nhân hơn là vị thánh. Nhưng dẫu sao, muốn vào Giáo Hội, Chúa cũng đòi hỏi có một sự ước muốn trở lại chân thật, một “chiếc áo trắng Rửa tội”, một sự ao ước “mặ lấy Đức Kitô”.
Phải, Giáo Hội là một “bữa tiệc” của người tội lỗi, nhưng là những người tội lỗi tin tưởng vào Chúa Kitô và ơn cứu độ Ngài mang đến. Tình thương đòi hỏi chút tình thương đáp đền, mới xứng đáng dự vào bữa tiệc tình thương.
Charles de Foucauld (1858-1961) là một sĩ quan phóng khoáng, 12 năm không tin tưởng gì cả. Một hôm gặp một Linh mục, cha Huvelin, quen với gia đình. Foucauld nói với cha: “Từ ngày lên 15 tuổi, con không còn đức Tin”. Cha Huvelin như đọc được trong tâm hồn, chỉ nói: “Con hãy quỳ xuống xưng tội đã”. “từ đó tôi hiểu rằng tôi không còn cách nào khác là chỉ sống cho một mình Ngài”.
Hạ mình nhìn nhận tội lỗi là chiếc áo cưới của Charles de Foucauld, con người đã tìm thấy Chúa trong im lặng.
58. Tiệc cưới & Y phục lễ cưới
(Suy niệm của William Barclay & LMN)
Lần này chúng ta học hỏi Thánh kinh về bài tin mừng Chúa nhật 28 thường niên năm A qua tư tưởng của William Barclay, một nhà chú giải thánh kinh người Tô Cách Lan.
Theo William Barclay, đoạn tin mừng này gồm hai dụ ngôn: Dụ ngôn về tiệc cưới, và dụ ngôn về việc mặc y phục lễ cưới.
Những biến cố trong dụ ngôn thứ nhất phù hợp với phong tục thông thường của dân Do thái. Với những bữa tiệc như tiệc cưới, có hai lần mời. Lần thứ nhất gởi thiệp nhưng không định rõ ngày giờ tiệc cưới. Khi mọi việc xong xuôi, thì người giúp việc đi mời lần cuối cùng. Như vậy, vị vua trong câu truyện này trước đó đã gởi thiệp mời khách, và khi mọi việc sẵn sàng thì mời lần cuối cùng. Tuy nhiên đã bị khách được mời khước từ. Dụ ngôn tiệc cưới có hai ý nghĩa:
1. Ý nghĩa trước hết ám chỉ dân Do thái. Từ xưa, dân Do thái đã được tuyển chọn làm dân riêng của Chúa, nhưng khi Chúa Giêsu Con Thiên Chúa đến thế gian, mời gọi tin nhận Chúa, thì họ đã chối từ. Vì thế, lời mời của Thiên Chúa được chuyển đến những tội nhân và dân ngoại.
2. Ý nghĩa thứ hai bao quát rộng rãi hơn. Trước hết, lời mời của Thiên Chúa là lời mời đến dự tiệc vui vẻ như tiệc cưới. Đức Thánh Cha Phanxicô bảo: “Có những Kitô hữu sống đời mình giống như chỉ có mùa Chay mà không có mùa Phục Sinh.” Kitô giáo không phải là một tôn giáo lúc nào cũng u buồn, thiếu vắng nụ cười, nhưng là tôn giáo với mùa Chay và Phục Sinh.
Thứ đến, những lý do khiến người ta khước từ lời mời dự tiệc cưới không hẳn là những lý do xấu. Kẻ đi thăm trại, người đi buôn bán…chứ không phải đi chơi bời, ăn nhậu say xỉn, làm điều xấu. Do đó, điều chúng ta cần để tâm là thảm họa của cuộc sống không phải những gì xấu, nhưng chính là những gì tốt thường làm hỏng những điều tốt nhất. Người ta có thể quá bận rộn mưu sinh mà quên lo cho cuộc đời mình, quá bận rộn với việc tổ chức và quản trị đời sống mà quên đi chính đời sống. (A man can be so busy making a living that he fails to make a life; he can be so busy with the administration and the organization of life that he forgets life itself.) Người ta dễ bận tâm với những điều chóng qua đời này và quên đi những điều quan trọng đời đời. Quá chăm chú đến những lời mời gọi của thế gian, thì khó nghe được tiếng gọi mời của Thiên Chúa.
Sau cùng, lời mời gọi của Chúa là lời mời gọi của ân sủng. Những kẻ được mời ở các ngả đường không có quyền đòi hỏi gì nơi nhà vua cả. Họ không bao giờ có thể ngờ rằng mình sẽ được mời và càng không xứng đáng để dự tiệc đó. Tất cả đều do lòng quảng đại tử tế của nhà vua. Ân sủng của Thiên Chúa trao ban, con người không xứng đáng lãnh nhận, nên khi lãnh nhận cần phải khiêm tốn tạ ơn.
Dụ ngôn thứ hai bắt đầu từ câu 11 đến câu 14, kể chuyện một thực khách đến dự tiệc cưới nhưng không mặc lễ phục. Các giáo sĩ Do thái có hai câu chuyện liên quan đến vua và áo lễ. Câu chuyện thứ nhất về một vị vua mời khách dự tiệc nhưng không nói rõ ngày giờ bữa tiệc. Tuy nhiên nhà vua bảo họ tắm rửa, xức dầu và mặc y phục chuẩn bị sẵn sàng khi được mời đến. Người khôn sửa soạn sẵn sàng, người dại nghĩ rằng vì còn nhiều thời giờ nên bỏ đi làm công việc riêng. Thình lình lệnh triệu tập đến dự tiệc cưới được ban ra, người khôn vì đã sẵn sàng nên vào bàn tiệc cùng nhà vua ăn uống vui vẻ, người dại vì không chuẩn bị kịp, chưa kịp tắm rửa, thay quần áo nên phải đứng ở bên ngoài, vừa buồn vừa đói nhìn vào niềm vui mà họ đã đánh mất. Câu chuyện nhắc nhở bổn phận phải chuẩn bị sẵn sàng chờ Thiên Chúa mời đến, và y phục tượng trưng cho sự chuẩn bị đó.
Câu chuyện thứ hai về một vị vua đã trao cho các tôi tớ những bộ triều phục. Người khôn mang đồ đó cất giữ cẩn thận sạch sẽ. Người dại mang ra mặc khi làm việc nên làm dơ bộ đồ. Đến khi vua ra lệnh thu hồi các bộ đồ, người khôn trao trả trong tình trạng sạch sẽ, người dại đem trả bộ đồ dơ, khiến vua phải truyền đưa đi giặt và bỏ tù những đầy tớ ngu dại. Câu chuyện này dạy người ta phải trao linh hồn lại cho Chúa trong trạng thái trong sạch nguyên thủy, và kẻ nào làm dơ bẩn linh hồn mình sẽ phải chịu đoán phạt. Phải chăng Chúa nghĩ đến hai câu chuyện này khi Ngài kể dụ ngôn tiệc cưới?
Chúa Giêsu nói nhà vua sai đi mời tất cả vào dự tiệc cưới. Điều đó cho thấy nước Trời mở cửa cho mọi người. Tuy nhiên khi đến họ phải mang theo một đời sống thích hợp với tình yêu đã ban cho họ. Ân sủng không chỉ là một quà tặng, nhưng đi kèm một trách nhiệm quan trọng. Con người không thể tiếp tục sống cuộc sống họ đã sống như trước khi họ gặp Chúa. Cánh cửa mở nhưng không mở để tội nhân vào và vẫn là tội nhân, nhưng để tội nhân vào và trở nên thánh nhân. (Grace is not only a gift; it is a grave responsibility. A man cannot go on living the life he lived before he met Jesus Christ. The door is open, but the door is not open for the sinner to come and remain a sinner, but for the sinner to come and become a saint.)
Dụ ngôn còn nói cho chúng ta biết cung cách một người thể hiện tinh thần của người đó. Khi đến thăm một người bạn, chúng ta không mặc bộ đồ thợ thuyền hay làm vườn. Chúng ta biết rõ áo quần không thành vấn đề nhưng chúng ta ăn vận gọn gàng tề chỉnh là để tôn trọng và bày tỏ tình cảm của chúng ta dành cho bạn bè. Đối với nhà của Chúa cũng vậy, chúng ta không ăn vận như để trình diễn thời trang nhưng có những y phục của tâm hồn, của lòng trí, của khiêm nhường thống hối, niềm tin, tôn kính, mà nếu không mặc những bộ y phục này, sẽ không dám đến gần Chúa. Điều thường xảy ra là chúng ta đến nhà Chúa mà không chuẩn bị sửa soạn chút nào. Nếu mỗi người chúng ta biết sửa soạn dành ít phút cầu nguyện, suy ngắm và xét mình trước khi đến nhà thờ thờ phượng Thiên Chúa thì sự thờ phượng đó mới đúng là sự thờ phượng đích thực đem lại nhiều lợi ích cho tâm hồn, giáo hội và thế giới.
Thiên Chúa Cha đang mở tiệc cưới mời chúng ta tham dự, phải chăng chúng ta quá bận để chối từ, và nếu chúng ta đến dự tiệc cưới, chúng ta đến dự với bộ y phục nào? Điều chúng ta được nhắc nhở là Thiên Chúa đã đang chờ đợi câu trả lời của mỗi người chúng ta.
59. Joe mời Bill
Sau thánh lễ, Joe tới gặp cha sở: “Cha nói về việc mời người đi dự lễ. Con đã có một kinh nghiệm trong quân đội, Bill và con là bạn thân, cả hai là người công giáo. Nhưng Bill không bao giờ đi dự thánh lễ. Có năm ngày đại phúc, con mời Bill đi dự, nhưng anh khéo léo từ chối. Ngày thứ hai và thứ ba anh cũng từ chối. Cuối cùng, vào ngày thứ bốn, anh tới nhà thờ cùng với con. Có một cái gì đụng chạm đến anh, vì từ đó trở đi anh cùng con đi dự lễ và rước lễ thường xuyên. Việc đó đã 20 năm rồi, con cũng chưa gặp Bill, nhưng anh viết thư cho con mỗi năm và cám ơn con vì đã rủ anh đi dự tuần đại phúc đó”.
Chúa Giêsu vừa nói với chúng ta: nước Thiên Chúa giống như vua kia tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử. Nước Trời có nghĩa là gia đình Thiên Chúa trên trần gian. Tiệc cưới là bàn chất lương thực thiêng liêng.
Hôm nay tôi suy tưởng rằng mỗi người chúng ta là đầy tớ của vua cao cả. Chúa Kitô là Con của Ngài. Cha trên trời sai chúng ta đi mời mọi người chia sẻ bữa tiệc thiêng liêng do Giáo hội của Ngài khoản đãi.
Nhưng ai là người chúng ta có thể mời? Thực tế là mọi người. Có nhiều người công giáo không bao giờ tham dự những ngày đại phúc, tĩnh tâm hay học hỏi về đạo. Những người công giáo lơ là về đạo ấy, chỉ cần một chút thúc giục để họ bắt đầu quay về với gia đình của Thiên Chúa.
Chúng ta đặc biệt nghĩ đến nhiều người không đến nhà thờ và những người bạn khác niềm tin đang tìm kiếm của ăn thiêng liêng chúng ta có.
Chúng ta có thể gặp những người khách này ở đâu? Họ có thể là người láng giềng, bạn học, bạn công nhân cả đến những người thân thuộc. Họ có thể là người quen biết trong cuộc chơi, ở tiệm bán hàng, trên xe buýt, ở phòng đợi bác sĩ, bạn đừng giới hạn sự mời đón vào những người gọi là đáng kính. Bạn hãy mời những người thấp kém, vô gia cư, tội lỗi. Như trong Tin Mừng hôm nay, ông vua truyền lệnh: “Hãy ra các ngả đường, mời bất cứ ai bất luận tốt xấu”.
Hãy mời họ thường xuyên tới dự thánh lễ, hay những dịp lễ dặc biệt – lễ Giáng sinh, viếng máng cỏ, nghi lễ rửa tội, lễ cưới, lễ an táng hay là viếng nhà thờ trong tuần một vài lần…
Nếu có thể, bạn hãy nói trước với cha sở về những người khách ấy. Có lẽ Ngài mong được biết có sự hiện diện của họ, và có một vào người hứơng dẫn cho họ chung quanh nhà thờ. Điều này làm họ cảm thấy được cần đến và giúp sửa được ý niệm sai lầm là người công giáo chúng ta không muốn người ngoài đạo tham dự các lễ nghi.
Giả sử như họ từ chối lời bạn mời, thì bạn cũng đã một trọn bổn phận của bạn, bổn phận của lòng tin và bác ái. Bạn đang cổ động sự hiểu biết giữa những người có niềm tin khác nhau. Bạn đang tỏ ra rằng: đức tin của bạn có một ý nghĩa đối với bạn. Bạn lưu tam và ân cần mong muốn người khác chia sẻ bữa tiệc thiêng liêng chúng ta tham dự trong chính giờ này.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
60. Cách đáp trả
Hãy đặt giả thiết là bạn đang định tổ chức một bữa tiệc. Khi đã ân định xong ngày tháng tổ chức bữa tiệc, bạn lên danh sách những người mà bạn dự định mời tham dự. Sau đó, bạn gửi thiệp mời đi khắp nơi, có đính kèm phần trả lời, và chờ đợi lời phản hồi. Về cơ bản, có thể bạn chờ đợi ba loại câu trả lời:
Một số người chấp nhận lời mời của bạn. Mỗi lời chấp nhận đều làm cho bạn cảm thấy hài lòng. Tất nhiên có thể có những mức độ chấp nhận khác nhau. Một số người chấp nhận nửa vời; họ đến tham dự chỉ vì theo cách nào đó, họ cảm thấy bắt buộc phải đến. Nhưng có những người khác có thể vui lòng chấp nhận lời mời; họ cảm thấy vinh dự và biết ơn vì đã được mời.
Còn những người khác lại từ chối lời mời của bạn. Mỗi lời từ chối đều làm cho bạn thất vọng, thậm chí còn gây đau lòng cho bạn nữa, nhưng ít nhất bạn nhận biết được tương quan của bạn đối với những người đó như thế nào. Cũng có thể có nhiều mức độ từ chối. Trong một số trường hợp, có thể có những người muốn đến tham dự, nhưng không thể được, bởi vì họ mắc bận một việc quan trọng nào đó trùng vào ngày mà bạn mời. Nhưng các trường hợp khác, có những người từ chối chỉ vì không thích; không phải vì họ không thể đến, mà vì họ không muốn đến.
Trong việc đáp trả lại lời mời, còn có một cách thứ ba nữa – đó là bằng cách không hề trả lời gì cả. Vâng, đây cũng là một cách trả lời. Bạn nóng lòng chờ đợi câu trả lời, nhưng không nhận được bất cứ một lời phản hồi nào. Đây là cách trả lời tệ hại nhất. Cách này còn tồi tệ hơn cả lời từ chối. Khi có ai từ chối lời mời, bạn nhận biết được tương quan của bạn đối với người đó. Nhưng trong trường hợp này, bạn không hiểu gì cả. Bạn cứ thắc mắc không biết có chuyện gì xảy ra hay không. Không hiểu bạn có vô tình làm điều gì xúc phạm đến người được mời không? Bạn không biết, và chắc hẳn sẽ không bao giờ bạn biết được. Nếu liên lạc được với họ, thì chắc chắn họ sẽ nói “Ồ, tôi có ý định trả lời, nhưng…”. Có ý định! Câu nói này để lại cho bạn một cảm giác trống rỗng làm sao!
Thiên Chúa không hề bắt buộc chúng ta. Người chỉ mời gọi chúng ta mà thôi. Bạn không thể quá dễ dàng phớt lờ một giới răn, nhưng lại có thể dễ dàng bỏ quên một lời mời gọi. Những nhà quảng cáo không thể bắt buộc chúng ta phải mua một sản phẩm nào đó của họ, nhưng họ phải viện dẫn đến tất cả mọi mánh lới quảng cáo, để thuyết phục và dụ dỗ chúng ta mua sản phẩm đó. Thiên Chúa không hành động giống như vậy. Người quá tôn trọng sự tự do của chúng ta.
Thông thường, chúng ta không biết mình thực sự muốn gì, hoặc thậm chí không biết cái gì là tốt đẹp đối với mình. Những gì chúng ta đang tìm kiếm, và những gì chúng ta thực sự coi trọng hoặc ao ước, đều không phải lúc nào cũng tương tự như nhau. Có lẽ chúng ta quá bận rộn, cuộc sống của chúng ta bị quá tải, đến nỗi ngay cả Thiên Chúa cũng gặp khó khăn, trong việc vượt qua những yếu tố gây cản trở đó, để đến được với chúng ta.
Chỉ một mình Thiên Chúa mới biết được điều gì thực sự là tốt đẹp nhất đối với chúng ta. Tương tự như cha mẹ luôn mong muốn điều tốt đẹp nhất cho con cái mình, Thiên Chúa cũng luôn mong muốn điều tốt đẹp nhất cho chúng ta, là những con cái của Người.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta làm gì? Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta đi vào một cuộc sống sâu xa hơn và đích thực hơn ở nơi đây, trên trái đất này. Người đang mời gọi chúng ta đi vào tương quan thân mật với chính Người. Người cũng đang mời gọi chúng ta đi vào đời sống cộng đoàn với những người khác nữa. Và đến giờ chết, Người sẽ mời gọi chúng ta đi vào sự sống đời đời.
Nói chung, phớt lờ lời mời gọi là một cách từ chối tệ hại nhất. Điều này ám chỉ sự lãnh đạm. Người lãnh đạm là người gặp khó khăn nhất trong việc hoán cải.
61. San sẻ niềm vui
Anh chị em thân mến.
Có lần vào tiệm ăn sáng, tôi nhìn thấy hai trường hợp trái ngược nhau:
Một đứa trẻ được mẹ dắt vào quán ăn, ngồi vào bàn, được một phần ăn riêng biệt. Nhưng nó tỏ vẻ khó chịu, không biết vì lý do gì mà nó không vui, nó không nhìn đến phần thức ăn của mình. Người mẹ thì nhìn con với vẻ ái ngại, bà năn nỉ con, nhưng vô hiệu. Cuối cùng hai người đứng lên với phần ăn còn nguyên.
Một đứa trẻ khác, trên tay có một cái lon, chạy ngay lại phần ăn còn nguyên trên bàn mà người chủ đã không cần dùng đến, nó cho tất cả vào trong chiếc lon và mang ra bên ngoài, cùng với một đứa trẻ khác nhỏ hơn, tận hưởng niềm vui của một người không cần đến.
Tôi chợt suy nghĩ: phần ăn là chất bổ dưỡng, là niềm vui cho một người, nhưng chính người đó không vui khi nhận thấy phần của mình. Một người khác nhận được niềm vui không phải chuẩn bị cho mình, nhưng lại được hưởng trọn vẹn. Nếu đứa trẻ cằm chiếc lon, không biết chuẩn bị những gì cần thiết để có thể mang phần ăn ra bên ngoài tận hưởng, thì làm sao nó có thể hưởng trọn niềm vui được.
Trong dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu cho mọi người nhìn thấy viễn ảnh một tiệc cưới, những vị khách quý đã được mời, sau đó còn được nhắc lại. Nhưng những người đã được mời đó, không một ai được dự tiệc vì có người không muốn tham dự, họ không còn nhớ đến lời mời gọi trước kia, họ chỉ sống cho mình và chỉ biết có chính mình. Có người không dự được vì họ đã bị trừng phạt. Họ không muốn dự tiệc, là một việc không phải phép, nhưng họ còn hành hạ những người đến nhắc nhở cho họ về những gì họ đã hứa, nên họ bị trừng phạt. Còn những người dự tiệc, là những người đang cần đến thức ăn và có sự chuẩn bị để đón nhận thức ăn một cách xứng đáng và không phung phí nó. Những người dự tiệc là những người không cần được báo trước, nhưng họ biết sẵn sàng đáp lại lời mời gọi với lòng chân thành.
Mỗi người trong chúng ta được mời gọi sống làm người, chúng còn được mời gọi để sống trong hồng ân Chúa cách đặc biệt hơn qua việc chúng ta được lãnh bí tích rửa tội. Đó là chúng ta được mời gọi để sống đời sống một người Công Giáo. Thiên Chúa còn mời gọi mỗi người sống trong môi trường sống của mình, sống xứng đáng với địa vị trong xã hội, trong môi trường thực tế của công việc để sống theo thánh ý Chúa. Lời mời gọi đó chúng ta cũng thường được nghe nhắc nhở lại rất nhiều trong đời sống hằng ngày: kêu gọi chu toàn trách nhiệm, kêu gọi sống xứng đáng hơn, kêu gọi sửa đỗi đời sống. Nhiều lúc những lời đó làm cho chúng ta khó chịu, không muốn nghe. Có những lúc chúng ta phản ứng mạnh mẽ hơn vì những lời đó làm cho chúng ta ái ngại. Những lời mời gọi và nhắc nhở đó, những lời làm cho chúng ta khó chịu đó là những lời kêu mời chúng ta đến dự bàn tiệc nước trời. Nhưng mỗi người đáp lại như thế nào? Cứ nhìn lại đời sống, nhìn lại những hành động đã qua, xem chúng ta đáp lại lời mời như thế nào?
Chúng ta hứa vào dự tiệc, nhưng nhiều lúc chúng mãi bận rộn với những toan tính thiệt hơn hằng ngày, chúng ta mất quá nhiều thời gian với gia tài riêng tư của mình: đó là sự ích kỷ, sự hẹp hòi và cả những cố chấp trong con người của mình, nên không còn nghe thấy gì ngoài bản thân mình. Chúng ta chỉ còn biết tính toán thiệt hơn, cố làm sao mang cho mình thật nhiều những gì mình muốn, không cần biết đó là đúng hay sai, đồng thời cũng để ngoài tai những lời nhắc nhở chân thành. Như thế thì làm sao chúng ta có thể ngồi vào bàn tiệc đã dọn sẵn và đang chờ đợi chúng ta. Chúng ta giống như đứa bé, ngồi trước phần ăn nhưng không chịu dùng những gì của mình.
Nếu chúng ta chu toàn trách nhiệm hằng ngày, cho dù những khó khăn vất vã, nhưng vẫn chấp nhận và can đảm vượt qua. Nếu chúng ta biết lắng nghe và nhìn lại chính mình, để nhận ra những gì sai lỗi, để làm lại cho tốt. Nếu chúng ta lắng nghe tiếng Chúa qua những việc làm tốt đẹp, những cử chỉ yêu thương, những lời nói ủi an khi cần thiết; đó là chúng ta đang bước vào phòng tiệc với chiếc áo cưới chuẩn bị sẳn sàng, và dự tiệc vui mừng với chủ.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa kêu mời, để xứng đáng dự tiệc Nước Trời.
62. Dụ ngôn tiệc cưới – JKN
Câu hỏi gợi ý:
1) Hãy so sánh về chủ ý giữa bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước (dụ ngôn những tá điền sát nhân) với bài Tin Mừng hôm nay. Bài dụ ngôn hôm nay có chủ ý gì mới hơn bài trước?
2) Ý nghĩa của “y phục lễ cưới” trong bài Tin Mừng là gì? Phải áp dụng ý nghĩa này trong đời sống Kitô hữu thế nào?
3) Theo Thánh Kinh, sự công chính hệ tại những điểm cốt yếu nào?
Chia sẻ:
1. Hai chủ ý của dụ ngôn tiệc cưới
Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay có hai chủ ý:
– Chủ ý thứ nhất tương tự như dụ ngôn những tá điền sát nhân Chúa Nhật tuần trước: ơn cứu độ hay nước Trời ưu tiên dành cho người Do Thái rồi mới tới dân ngoại, nhưng người Do Thái đã tỏ ra hờ hững hay bất xứng với sự ưu tiên ấy. Vì thế, sự ưu tiên ấy đã được trao cho các dân tộc khác.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, 1. Đức vua ám chỉ Thiên Chúa; 2. Tiệc cưới = Nước Trời; 3. Các đầy tớ đi mời dự tiệc = Các ngôn sứ, trong đó có Đức Giêsu; 4. Các quan khách ưu tiên được mời mà không thèm đến = Dân Do Thái; 5. Những người ở ngoài đường được mời dự tiệc = Dân ngoại, các dân tộc khác. Chủ ý này đã được khai triển trong bài Chia sẻ Chúa Nhật tuần trước (27 Thường Niên), nên bài này không bàn tới nữa.
– Chủ ý thứ hai là: để vào Nước Trời, cần phải có một nỗ lực cá nhân để trở nên xứng đáng với Nước Trời, tức phải trở nên người công chính. Trong đó, y phục lễ cưới tượng trưng cho sự công chính, hay sự quang minh chính đại mà mọi người Kitô hữu cần phải có.
2. Giải thích dụ ngôn
Đây là tiệc cưới mà nhà vua làm cho hoàng tử, nên chắc chắn được tổ chức rất sang trọng và trang nghiêm. Những người được nhà vua ưu tiên mời đã không đến, mặc dù đã được ngài khẩn khoản mời tới hai lần. Chẳng những họ không đến, mà còn có những người sỉ nhục và giết chết những đầy tớ mà nhà vua sai đi mời nữa. Họ đã phạm tội khi quân một cách nghiêm trọng. Những người này ám chỉ dân Do Thái nói chung, đặc biệt những thành phần ưu tú trong Do Thái giáo (hàng tư tế, lê-vi, ráp-bi, kinh sư, luật sĩ…). Họ đã được các ngôn sứ và Đức Giêsu ưu tiên rao giảng Nước Trời cho họ, nhưng chẳng những họ không thèm nghe để đón nhận Nước Trời, mà còn giết các ngôn sứ và cả Đức Giêsu nữa. Vì thế, để trừng phạt, dân Do Thái đã bị đế quốc Rô-ma xóa tên trên bản đồ vào năm 70 sau công nguyên.
Những người ở ngoài đường, đáng lẽ ở ngoài danh sách được mời dự tiệc, nay vì các quan khách ưu tiên từ chối, nên họ được mời thay thế. Vì đây là tiệc cưới của nhà vua, nên theo phép lịch sự, những người được mời đều có bổn phận phải về nhà mặc quần áo cho tề chỉnh để đi dự tiệc. Vả lại, tại những tiệc cưới sang trọng như vậy, thì theo phong tục Do Thái, chủ tiệc cũng sẵn sàng cung cấp những lễ phục phù hợp cho các khách dự tiệc. Vì thế, những ai không mặc lễ phục đám cưới đều phạm tội khi quân vì đã xúc phạm đến nhà vua, và đáng chịu hình phạt.
3. Áp dụng dụ ngôn cho người Kitô hữu
Chúng ta không là người Do Thái, mà là người thuộc những dân tộc khác vốn bị người Do Thái coi là dân ngoại. Vì thế, trong dụ ngôn này, chúng ta thuộc thành phần những người ở ngoài đường được mời vào dự tiệc, tức được Thiên Chúa mời gọi tham dự mầu nhiệm Nước Trời. Chúng ta đã đáp lại lời mời gọi ấy qua bí tích rửa tội, vì thế, chúng ta thuộc về Giáo Hội của Đức Giêsu, là dấu chỉ của Nước Trời. Chúng ta đang ở giai đoạn “đã bước vào bàn tiệc cưới nhưng chưa bắt đầu dự tiệc”. Trước khi bữa tiệc bắt đầu, nhà vua còn phải vào phòng tiệc và quan sát khách dự tiệc: ai không có y phục lễ cưới thì bị loại ra ngoài. Vì thế, muốn tham dự tiệc cưới, vào bàn tiệc chưa đủ, mà còn phải bận y phục cho thích hợp. Y phục đó tượng trưng sự công chính. Nếu không công chính, chắc chắn ta không phải là đối tượng của Nước Trời. Điều này cho thấy sự sai lầm của những người quan niệm rằng: chỉ cần là người Kitô hữu, hay chỉ cần được rửa tội là đã đủ để vào Nước Trời, mà không cần phải cố gắng sống cho xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu.
Khi chọn y phục lễ cưới để ám chỉ sự công chính, rất có thể Đức Giêsu đã dựa vào những câu Kinh Thánh như: “Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang” (Is 61,10; xem thêm Da 3,3-5); Về sau sách Khải Huyền cũng dùng hình ảnh áo cưới để chỉ sự công chính, trong sạch: “Tại Xác-đê, ngươi có một ít người đã không làm nhơ bẩn áo mình; họ sẽ mặc áo trắng cùng đi với Ta, vì họ xứng đáng. Như thế, ai thắng sẽ được mặc áo trắng; Ta sẽ không xoá tên người ấy khỏi Sổ Trường Sinh; Ta sẽ nhận người ấy trước mặt Cha Ta và trước mặt các thiên thần của Người” (Kh 3,4-5)
4. Sự công chính là gì?
Để hiểu về sự công chính, ta nên theo chỉ dẫn của Kinh Thánh, là cở sở đáng tin cậy nhất, hơn là theo quan niệm, sự hướng dẫn hay truyền thống của người đời.
Đức Giêsu đã cho ta 3 yếu tố căn bản của lề luật, tức 3 yếu tố căn bản của sự công chính: “Những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự chân thật” (Mt 23,23).
– Công lý hay sự công bằng: là sự tôn trọng hay đòi hỏi những quyền lợi tinh thần hay vật chất mà cá nhân (hay tập thể) có quyền đòi hỏi cá nhân (hay tập thể) khác phải trả hay phải tôn trọng. Chẳng hạn đã là người được sinh ra trong xã hội ngày nay thì đều có quyền tự do về thân thể, về tư hữu, về ngôn luận, v.v… mà mọi người khác kể cả chính quyền đều phải tôn trọng. Ai không tôn trọng là có lỗi, là sai trái, là vi phạm công lý hay công bằng. Công lý không chỉ bao hàm việc mình phải tôn trọng công bằng đối với người khác, mà còn bao hàm việc mình phải đòi hỏi người khác phải tôn trọng quyền lợi của của tha nhân và của tập thể. Im lặng để mặc kẻ ác vi phạm công lý một cách trầm trọng đối với tha nhân khi chính mình có thể can thiệp, cũng là không tôn trọng công lý. Công lý hay công bằng là nền tảng của tình thương. Tình thương hay lòng nhân ái không xây dựng trên nền tảng công lý, thì đó là tình thương giả tạo. Không ai có thể tự hào mình thương yêu người khác khi chính mình đang cố tình vi phạm sự công bằng đối với người ấy.
– Tình thương: Công chính hay thánh thiện Kitô giáo theo nghĩa chính xác nhất của danh từ là trở nên hoàn hảo giống Thiên Chúa. Mà yếu tính của Thiên Chúa là tình yêu: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8.16). Vì thế, cốt yếu của sự công chính hay thánh thiện chính là tình yêu. Không có tình yêu, thì dù có giữ luật hoàn chỉnh đến đâu cũng không phải là công chính hay thánh thiện: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3). Tình yêu là nhân đức cao trọng hơn cả (x. 1Cr 13,13). Có thể nói, người có tình yêu đích thực là người công chính hay thánh thiện. Càng yêu thương nhiều thì càng công chính hay thánh thiện. Tình yêu chính là nền tảng của công chính. Nhưng cần nhớ: nền tảng của tình yêu lại chính là công lý hay sự công bằng. Không thể có tình yêu đích thực khi không tôn trọng công lý hay công bằng.
– Sự chân thật: là luôn luôn thành thật, không dối trá, gian xảo, không có ý lừa dối hay lường gạt người khác. Đây cũng là một đức tính căn bản của sự công chính. Một người có tính không thành thật không thể là một người công chính được, vì điều gì gian dối đều xuất phát từ sự ác, đi ngược lại với công chính. Đức Giêsu nói: “Hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37).
Ngoài những đức tính mà Đức Giêsu đề ra như nền tảng của công chính, còn một số đức tính khác được đề cập đến trong Thánh Kinh như:
– Đức Tin: “Dân ngoại (…) được nên công chính là nhờ đức tin” (Rm 9,30; x. 1,17; 5,1; 9,32; 10.6; Gl 3,11…).
– Đức khiêm nhường: Trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện (x. Lc 18,9-14), người thu thuế mặc dù tội lỗi nhưng có lòng khiêm nhường nhìn nhận mình tội lỗi, nên Đức Giêsu tuyên bố ông là người công chính: “Tôi nói cho các ông biết: người thu thuế khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người Pha-ri-siêu thì không” (Lc 14,18).
– Tính quên mình, vị tha, xả kỷ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24; Mc 8,34; Lc 9,23).
Vậy, để vào Nước Trời, ngoài việc chịu phép rửa và gia nhập Giáo Hội, người Kitô hữu cần sống công chính, quang minh chính đại, xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu, với phẩm giá cao quí của “con cái Thiên Chúa”. Tình thương chính là điều căn bản nhất của sự công chính.
Cầu nguyện
Lạy Cha, con đã đáp lại lời mời gọi của Cha để trở nên con cái Cha, đã chịu phép rửa và gia nhập Giáo Hội là dấu chỉ của Nước Trời. Nhưng quả thật, con vẫn chưa sống công chính xứng đáng với danh hiệu con cái Cha, hay với danh hiệu Kitô hữu. Con giống như những người dự tiệc cưới của hoàng tử mà không ăn mặc cho xứng đáng, đó chính là tội khi quân. Xin cho con ý thức được việc con mang danh hiệu con cái Cha mà lại không sống công chính xứng với danh hiệu ấy chính là một xúc phạm đến Cha. Vì “chó gầy hổ mặt chủ nhà”, hay con cái làm điều xấu thì hổ mặt cha mẹ.
63. Suy niệm của Lm. Luy Hữu Độ, CRM
THIÊN CHÚA: ĐẤNG ƯU TIÊN VÀ TỐI HẬU
Người Ba Tư kể lại câu chuyện ngụ ngôn sau:
Có một nhà hiền triết xuất hiện giữa phố chợ và nói sẽ giải đáp được mọi thắc mắc của bất cứ ai. Có một anh chăn chiên muốn hạ nhục nhà hiền triết giữa đám đông, anh cầm trong tay một con chim sẻ và đặt câu hỏi: “Thưa ngài, trong tay tôi có một con chim. Ngài là người thông thái giải đáp mọi vấn nạn, vậy xin hỏi ngài, con chim trong tay tôi còn sống hay chết”. Biết đây là cái bẫy, vì nếu nói chim sống thì tức khắc anh chăn chiên bóp nó chết trước khi mở bàn tay. Nếu nói chim chết thì anh ta mở bàn tay cho chim bay đi. Trước sự chờ đợi của đám đông, nhà hiền triết từ tốn trả lời như sau: Con chim trong tay ngươi sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi cho nó sống thì sống, nếu ngươi muốn nó chết thì nó chết.
Ai trong chúng ta cũng khao khát hạnh phúc, đó là niềm khao khát thâm sâu nhất của con người, nhưng chúng ta được hạnh phúc hay không là tùy ở chúng ta, giống như con chim sống hay chết là tùy ở anh chăn chiên Hạnh phúc đích thực của mỗi người chúng ta là Thiên Chúa, là Nước Trời. Phúc Âm viết Thiên Chúa mời gọi con người tới dự tiệc cưới. Tiệc cưới đó là hình ảnh Nước Trời, là nơi đem lại hạnh phúc viên mãn và vĩnh cửu. Thế nhưng người ta không đáp lại, viện cớ đi thăm trại, viện cớ đi buôn bán. Đi thăm trại, đi buôn bán tự nó không phải là việc xấu, nhưng họ đã làm một việc khờ dại là chỉ chú ý đời này mà quên đi đời sau. Đi thăm trại, đi buôn bán tựu kỳ trung là lo làm giàu. Họ nghĩ lầm: giàu sang đem lại hạnh phúc. Nhưng cái nghịch lý lớn nhất của cuộc đời là khi con người tìm cách lấy đầy tâm hồn mình bằng những của cải chóng qua thì đó là lúc con người cảm thấy trống vắng nhất trong tâm hồn.
Đừng lấy lý do tôi quá bận rội với công việc làm, với gia đình mà không dành giờ cho Thiên Chúa, không dành giờ cho Nước Trời, không dành giờ lo đến linh hồn mình. Bận rộn chỉ là tấm ảnh dựng nên để che đậy những lười biếng, những tiêu cực của mình. Đừng hỏi tôi có bận hay không, nhưng hãy hỏi tôi có muốn hay không? Vì lòng muốn sẽ thắng vượt mọi trở ngại, mọi bận rộn.
Thiên Chúa không phải là bông hoa để trang trí cuộc đời. Thiên Chúa là một Đấng tối cần không thể thiếu vắng trong cuộc đời chúng ta. Hạnh phúc Nước Trời không phải là một con bài trong Casino, thua con bài này ta đánh con bài khác. Hạnh phúc Nước Trời là một vấn đề cực kỳ nghiêm trọng và can hệ vì chỉ có một lần thôi: Đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa thì muôn đời tôi được, trái lại từ chối thì tôi đánh mất đời đời.
Vậy thì Thiên Chúa phải là Đấng ưu tiên và tối hậu trong cuộc đời chúng ta. Ngài phải ỡ trên mọi lý do bận rộn, trên mọi của cải đời này. Và hạnh phúc Nước Trời là một thứ suốt đời tôi chuyên tâm tìm kiếm..
64. Suy niệm của Lm Nguyễn Tiến Huân
GỌI THÌ NHIỀU MÀ CHỌN THÌ ÍT
Quan niệm “Tiệc cánh chung” là một quan niệm rất phổ thông trong đạo Do Thái. Vì thế ví dụ “Đức Vua làm tiệc cưới” mà Chúa Giêsu nói trong đoạn Phúc Âm hôm nay cũng gợi lại tư tưởng bữa “Tiệc cánh chung” mà Tiên tri Isaia đá nói tới: “Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi tất cả các dân trên núi nầy một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon” (Is 25,6- Bài đọc 1)
Đức Vua đây, tức là Thiên Chúa, đã nhờ “Hoàng tử” của mình là Chúa Giêsu Kitô dọn tiệc Nước Trời. Khách được mời chính thức và trước hết là dân Do Thái. “Nhưng họ không thèm đếm xỉa và bỏ đi… Thậm chí có kẻ còn bắt đầy tớ Vua (là các Tiên tri và cả chính Con của Người là Chúa Giêsu, sứ giả cuối cùng (Mt 21, 35-39) mà nhục mạ và giết đi” (Mt 22, 5-6)
Vì thế Thiên Chúa là Vua bèn “thịnh nộ và phái quân binh đi tru diệt bọn sát nhân đó và thiêu hủy thành phố của chúng” (Mt 22,7). Sau đó Đức Vua Thiên Chúa phán: “Tiệc đã sẵn sàng nhưng những khách được mời đã không đáng dự”. (Mt 22,8) và ngài truyền cho đi mời “mọi người gặp được, bất luận tốt xấu”. (c 9).
Theo thánh Luca, họ gồm cả những kẻ ăn mày, tàn tật, đui mù, què quặt (Lc 14, 21). Đúng như lời Chúa nói: “Ta bảo các ngươi: nhiều kẻ từ đông sang tây sẽ đến và dự tiệc Nước Trời, còn chính con cái trong nhà lại bị loại ra” (Mt 8,11).
Nước Thiên Chúa, ơn Cứu Độ, vậy là từ nay thuộc về mọi dân tộc: “Bởi các người (Do thái) đã khước từ những lời của Thiên Chúa nên chúng tôi quay sang người ngoại” (Cv 14,46). Và “Bởi họ (Do thái) đã sa ngã, nên ơn Cứu Độ đã về phần dân ngoại” (Rm 11,11). Lại nữa, Nước Thiên Chúa ở trần gian với tự do chọn lựa lành dữ nên gồm có người lành lẫn kẻ ác, – như ruộng lúa có cỏ lùng, mẻ lưới đầy cá tốt lẫn cá xấu (Mt 13, 36-47).
Nhưng khi ngày Tận thế đến sẽ có sự phân biệt và chọn lọc (Mt 13,41-49): người lành người tốt thì được thưởng, còn kẻ dữ người xấu thì bị phạt. Cũng vậy, kẻ dự tiệc mà mặc y phục lễ cưới, là ơn Chúa đã sắm sẵn, thì sẽ được chọn, còn kẻ “không mặc y phục lễ cưới” thì sẽ bị “đuổi ra bên ngoài ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng” (Mt 22, 11-12).
Tục lệ Do Thái: ai vào ăn tiệc cưới cũng phải mặc y phục chủ đã may và treo sẵn ở cửa vào. Ai không mặc là lỗi luật, là khinh chủ. Ví thế “Anh ta câm miệng không nói được gì để tự bào chữa” (Mt 22,12).
Nhờ tình thương của Chúa, chúng ta đã được Thiên Chúa mời tham dự Tiệc cưới Nước Trời. Đó là một vinh dự, một ơn huệ đặc biệt chúng ta phải cảm tạ Chúa và phải lo “mặc y phục” ơn Cứu độ và các việc lành phúc đức, kẻo lại bị loại ra vì: “Kẻ được gọi thì nhiều mà người được chọn thì ít” đấy (Mt 22,14).
Lạy Chúa, tuần này con quyết tâm Suy niệm bài Phúc âm và xét xem con đã mặc “y phục lễ cưới” sẵn sàng để vào dự tiệc Nước Trời chưa?”.
65. Dự tiệc cưới Nước Trời
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Bài Tin mừng hôm nay nói về bàn tiệc Nước Trời. Qua dụ ngôn ấy, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta biết: Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài mở rộng cửa để đón tiếp mọi người vào dự bàn tiệc Nước Trời. Lời mời gọi có tính cách rộng rãi, Ngài mời gọi mọi người không trừ ai, dù tốt dù xấu, miễn là phòng tiệc phải đầy người.
Tuy thế, lời mời gọi đó còn chờ sự đáp ứng của từng người, mỗi người có quyền tự do, họ có thể chấp nhận hay từ chối. Trong thực tế, nhiều người đã từ chối lời mời gọi thật tình đó. Nhiều người đã từ chối bằng cách viện ra những lý do không vào đâu như bận đi xem ruộng vườn, bận đi buôn bán hoặc làm bất kỳ một công việc nào khác.
Trước sự từ chối của dân Chúa, Thiên Chúa quay sang dân ngoại, mời họ vào Nước Trời cho thật đông để họ được thưởng thức những cao lương mỹ vị mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho họ. Tuy nhiên, muốn vào dự tiệc Nước Trời cũng phải có điều kiện: phải mặc áo cưới. Phải mặc y phục lễ cưới là phải có một sự hoán cải tâm hồn để xứng đáng là công dân Nước Trời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 25,6-9.
Tiên tri Isaia đã mô tả cho chúng ta hạnh phúc viên mãn trong thời sau hết. Đó là tiệc cưới mà Thiên Chúa dọn cho mọi người trên núi. Tiệc cưới có những cao lương mỹ vị, có bê béo, rượu ngon. Đấy là hình ảnh của hạnh phúc tối cao mà những người bạn của Chúa sẽ được hưởng. Trong bữa tiệc đó, người dự không những được thưởng thức những thức ăn ngon, mà còn được cất khỏi mọi buồn sầu tủi hổ, tang chế.
Hình ảnh mà Isaia mô tả là hạnh phúc Nước Trời được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người không phân biệt ai.
+ Bài đọc 2: Pl 4,12-14.19-20
Ở trong tù, thánh Phaolô viết thư gửi cho tín hữu Philipphê cho họ biết: những sự giúp đỡ vật chất của họ cũng không cần lắm vì một mặt Ngài đã quen sống trong cảnh thiếu thốn về vật chất; hơn nữa, có Chúa giúp đỡ để ngài thắng lướt được mọi nghịch cảnh.
Ngoài ra, ngài vẫn trân trọng lòng hảo tâm của tín hữu đã giúp đỡ ngài. Tất cả những sự giúp đỡ ấy đều đáng qúi và Ngài xin Chúa đền đáp xứng đáng tấm lòng thơm thảo của họ,
+ Bài Tin mừng: Mt 22,1-14.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn tiệc cưới để cho biết: Thiên Chúa muốn ban hạnh phúc Nước Trời cho dân Do thái, dân ưu tuyển của Ngài, nhưng rất tiếc họ đã từ chối vì họ chuộng những giá trị trần gian hơn. Trước sự từ chối đó, Thiên Chúa đã mời những người ngoại đạo vào Nước Trời thay cho dân Do thái, dân này đã từ chối không chịu vào Nước Trời vì họ đã bị các nhà lãnh đạo dẫn đường sai lạc.
Tuy nhiên, muốn vào Nước Trời phải có điều kiện: phải mặc áo cưới. Áo cưới đây ám chỉ sự hoán cải tâm hồn, một tâm hồn trong sạch, một tấm lòng bác ái yêu thương và một đức tin vững mạnh.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Đến dự tiệc Nước Trời
I. TÌM HIỂU DỤ NGÔN.
1. Phong tục tổ chức tiệc cưới.
a) Việc mời chia thành hai giai đoạn.
Những công việc diễn tiến trong dụ ngôn này hoàn toàn phù hợp với phong tục bình thường của dân Do thái. Đối với những bữa tiệc cưới, khi thiệp mời được gửi đi thì thời giờ không được xác định rõ, và khi mọi việc đã xong đâu vào đấy thì những người giúp việc mới ra đi mời lần cuối cùng xin quan khách đến dự. Như vậy, vị vua trong câu truyện này đã gửi thiệp mời dân lâu rồi, nhưng đến khi mọi việc sẵn sàng thì lời mời cuối cùng mới gửi đến và đã bị người ta từ chối.
Truyện: Tiệc cưới hoàng tử
Mùa xuân năm 1947, cả thế giới chú ý tới hàng tin lớn trên báo chí cho biết: công chúa Elizabeth của nước Anh sẽ đẹp duyên với hoàng tử Philippe, người Hy lạp. Cuộc tình duyên này quan trọng, bởi vì công chúa Elizabeth sẽ lên ngôi kế vị vua cha vì không những trên vương quốc Anh và Bắc Ái nhĩ lan, mà còn đứng đầu khối thịnh vượng lớn, gồm trên 50 quốc gia lớn nhỏ như Ấn độ, Canada, Úc, Tân tây lan… Ai cũng tò mò theo dõi lễ cưới lịch sử này. Cuộc lễ được tổ chức ngày 20.11.1947 tại tu viện cổ kính Westminter, nơi chôn cất các bậc vương quân và những nhân vật lớn nước Anh. Người ta không những theo dõi những nhân vật chính là cô dâu chú rể mà còn chăm chú điểm danh từng nhân vật lớn trên thế giới. Không ai được mời tới dự mà muốn vắng mặt, từ những vị nguyên thủ quốc gia đến các vị thủ tướng và các nhà chính trị, từ những nhà qúi tộc đến những nhà tỉ phú. Nói tắt, tất cả những nhân vật quan trọng hàng đầu của nước Anh và nhiều nước trên thế giới đều lấy làm vinh dự được mời và được xuất hiện trong lễ cưới long trọng đó (Phạm văn Phượng, Chia sẻ Tin mừng năm A, tr 215).
b) Khách được mời tham dự.
Theo phong tục của nhiều dân tộc xưa, tiệc cưới hoàng tử chẳng những các đại thần được ưu tiên mời, mà còn tất cả thần dân đều được hưởng lộc của nhà vua. Tiệc cưới hoàng tử Nước Trời chẳng những ưu tiên cho dân tộc Do thái, mà còn cho toàn thể muôn dân, vì toàn thể nhân loại đều là thần dân của Ngài. Như tiên tri Isaia đã loan báo:”Chúa Tể trời đất sẽ thiết tiệc đãi muôn dân”.
2. Ý nghĩa dụ ngôn.
a) Đối với người Do thái.
Đây là lời tố cáo đối với người Do thái: Quan khách đã được mời nhưng đến giờ lại từ chối không đến. Họ tiêu biểu cho người Do thái. Từ xưa họ đã được Thiên Chúa mời gọi làm dân tuyển chọn của Ngài, nhưng khi Con Chúa Trời xuống thế gian, và họ được mời gọi theo Ngài, tin nhận Ngài thì họ lại khinh dể, đã từ chối lời mời đó. Rốt cuộc lời mời của Thiên Chúa đến trực tiếp với những tội nhân và người ngoại bang, là những kẻ không bao giờ có kỳ vọng được mời vào Nước Trời.
Còn một chi tiết nữa là vua thịnh nộ với kẻ từ chối, lại còn sỉ nhục và giết các đầy tớ của vua, sai quân đi diệt những kẻ không nhận lời mời và đốt thành của chúng. Chi tiết này dường như không ăn nhập với việc mời dự tiệc cưới. Nhưng chúng ta nhớ lại, khi Matthêu viết sách Phúc âm của ông vào giữa năm 80-90 SC, những gì đã xẩy ra trong thời gian giữa lúc Chúa Giêsu sống và lúc viết sách Phúc âm? Câu trả lời là: kinh thành Giêsrusalem bị quân Rôma phá hủy khoảng năm 70 SC. Giêrusalem thực sự bị tàn phá, không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, đền thờ bị cướp phá và bị đốt, tại hoạ này đã đến cho những kẻ không nhìn nhận Con Thiên Chúa khi Ngài đến trong thế gian.
b) Đối với mọi thời đại.
Lời mời gọi trong dụ ngôn này là lời mời gọi của Thiên Chúa đối với mọi người chúng ta. Được mời gọi vào dự tiệc cưới, tiệc cưới Con Thiên Chúa, là một vinh dự lớn lao, lại không phải mất tiền. Khi Kitô hữu được mời là được mời đến để vui vẻ, và chúng ta sẽ mất niềm vui nếu chúng ta không nhận lời mời.
Nhưng nhiều khi chúng ta lại từ chối lời mời gọi của Chúa vì những lý do chẳng ra cái gì như đi thăm ruộng, đi buôn bán… Người ta dễ bận rộn với điều tạm bợ và quên những điều liên quan tới đời đời. Quá bận tâm với những điều mắt thấy được thì dễ quên với những điều mắt không thấy được. Quá chăm chú nghe những lời mời gọi của thế gian, thì khó nghe được tiếng gọi êm dịu của Thiên Chúa.
Lời mời gọi của Chúa dành cho ta là lời mời gọi của ân sủng. Những kẻ được qui tụ là những nẻo đường không có quyền đòi hỏi gì nơi nhà vua cả. Họ không bao giờ có thể ngờ rằng mình sẽ được dự tiệc cưới và càng không xứng đáng để dự tiệc đó. Những việc xẩy đến với họ không bởi điều gì khác hơn là lòng quảng đại của nhà vua mở rộng đôi tay đón tiếp họ. Bởi ân sủng, lời mời được ban ra, và bởi ân sủng mà người ta được nhóm lại.
3. Dụ ngôn chiếc áo cưới.
Chúng ta có thể coi chiếc áo cưới là phần nối tiếp của dụ ngôn khách mời dự tiệc, hoặc coi như là một dụ ngôn riêng. Tuy coi như dụ ngôn riêng nhưng cũng là câu chuyện nối tiếp và giải rộng ý nghĩa câu truyện trước, trong câu truyện ở đây có một thực khách đến dự tiệc của nhà vua, nhưng không chịu mặc lễ phục.
Thuần phong mỹ tục coi lễ cưới là ngày lễ trọng đại của gia đình, tất nhiên có nghi thức long trọng với những trang phục đẹp đẽ chỉnh tề. Những hạng người bê bối thô lỗ tục tằn, vô lễ, vô kỷ luật đều bị loại bỏ vì nó bôi nhọ nếp sống văn hóa trong sáng và đạo đức.
Nếu ai nhận dụ ngôn chiếc áo cưới gắn liền với dụ ngôn trên thì thắc mắc: ra đường mời vào, ở giữa ngã ba đường cái thì làm gì có áo cưới? Trả lời cho thắc mắc đó, ta để ý: người đó không chữa tội gì cả, là dấu anh ta có lỗi, không cần biết nguyên do. Theo thói quen, thời xưa khách qua cửa đã có người trao áo cho, không biết người Do thái có thói quen nào? Có áo mà không mặc là lỗi tại mình vì thế nên không mở miệng chữa tội được câu nào.
Muốn vào dự tiệc cưới thì tối thiểu phải có y phục lễ cưới. Theo thánh Matthêu, muốn vào dự tiệc cưới trong nước Thiên Chúa thì mỗi người phải nhận thức rằng Giáo hội càng ngày càng đông, nhưng Giáo hội không phải là quán cơm bình dân, ai vào cũng được, không có một chút điều kiện tối thiểu. Đành rằng Chúa rất thương kẻ có tội và Giáo hội của Ngài đầy tội nhân hơn là các vị thánh, nhưng dù sao, muốn vào Giáo hội, Chúa cũng đòi hỏi có sự ước muốn trở lại chân thật, một “chiếc áo trắng rửa tội”, một sự ao ước “mặc lấy Chúa Kitô”.
Theo ý kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Thánh kinh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật.
II. BÀI HỌC CHO CHÚNG TA.
1. Dấn thân gia nhập vào Hội thánh.
Thiên Chúa mời gọi ta: Ngài muốn có những người tham dự tiệc cưới đó. Ngài có sáng kiến trước. Lời mời gọi đó được chuyển đến ta qua các vị sứ giả của Chúa, nhất là Chúa Kitô. Chúa Kitô đến trên trần gian để mời gọi ta và sửa soạn cho ta có bộ áo cưới, tức là cứu rỗi ta. Việc sửa soạn áo cưới được cụ thể hóa bằng việc mến Chúa yêu người, tức là đời sống đức tin nhờ ơn thánh.
Nhân loại chúng ta đáp lại lời mời gọi qua trung gian là Chúa Kitô và Giáo hội. Chúng ta đến dự tiệc cưới không phải với tính cách là “khách” mà thôi, nhưng còn với tư cách là con cái trong gia đình, nhờ đó sự vui vẻ thân mật càng tăng thêm. Hiện thời bữa tiệc đó đã bắt đầu nhờ Chúa Kitô vì ta đã có ơn thánh và hằng ngày tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể chờ ngày Chúa lại đến.
Tuy chấp nhận lời mời gọi của Chúa đâu phải là sự dấn thân mang tính chất nhất thời. Đó là một tiến trình đòi hỏi phải liên tục dấn thân và thích ứng bởi vì cuộc sống thường nhật rất dễ khiến chúng ta sao lãng và bỏ quên mất sự sống đời đời, bởi vì thức ăn tầm thường của cuộc đời này dễ nhét đầy bụng chúng ta và làm cho chúng ta quên đi bữa tiệc vĩnh cửu.
Chấp nhận lời mời của Chúa không chỉ là vấn đề gật đầu một lần rồi sau đó quên tuốt đi, và việc này giống như câu nói “Tôi đồng ý” trong hôn nhân. Câu “tôi đồng ý” này đâu phải là điểm kết cho một tiến trình mà chính là điểm khởi đầu. Nhận lời Chúa cũng giống như tốt nghiệp đại học bởi vì sự tốt nghiệp không phải là điểm kết thúc cho công cuộc học vấn mà chỉ là bệ phóng cho sự học hỏi tiến xa hơn mà thôi.
2. Dự tiệc Thánh Thể hằng ngày.
Qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta tham dự bữa tiệc của Nước Trời. Trong Thánh kinh, nhiều bữa được nhắc đến: như bữa ăn tổ phụ Abraham khoản đãi ba người khách lạ dưới lều vải (St 18,1-8), như bữa tiệc người cha già mừng người con đi hoang trở về (Lc 15,22-32). Chúa Giêsu đã đi dự đám cưới ở làng Cana (Ga 2,1-10), Ngài cũng dọn bữa ăn cho các môn đệ sau một đêm lao lực (Ga 21,1-14), cho dân chúng được ăn no nê tự 5 chiếc bánh và 2 con cá. Tất cả để báo hiệu bữa tiệc Thánh Thể.
Thì, hôm nay, tiên tri Isaia ví Nước Trời như một bữa tiệc mà Chúa khoản đãi mọi dân tộc, nhất là những ai đói khát tự do, công chính. Chúng ta cũng hãy sốt sắng tham dự vào bữa tiệc thánh là Lời Chúa và Thánh Thể, hãy “hân hoan vì Chúa khoản đãi và lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt”.
3. Y phục xứng kỳ đức.
Tục ngữ Pháp có câu:”La soutane ne fait pas un moine”: chiếc áo dòng không làm nên ông thầy tu. Câu tục ngữ ấy có ý nói rằng muốn trở thành một tu sĩ thực thụ thì cần phải có đời sống xứng đáng với bậc tu của mình. Người ta quí trọng tu sĩ là do đời sống thánh thiện của họ chứ không phải do cái áo của họ. Cho nên quần áo thì phải đi đôi với đức độ, nghĩa là phải có cả bề trong lẫn bề ngoài.
Cung cách một người thể hiện tinh thần của người đó. Khi đến thăm một người bạn, ta sẽ không mặc bộ đồ làm vườn mà đến. Chúng ta biết rõ rằng quần áo không thành vấn đề đối với bạn chúng ta, cũng không phải chúng ta muốn trình diễn, nhưng vì vấn đề phải tôn trọng nên chúng ta đến nhà bạn một cách gọn gàng và chỉnh tề. Chuẩn bị trước như thế là chúng ta bầy tỏ cảm tình và sự tôn trọng của mình đối với bạn.
Đối với nhà của Chúa cũng vậy, ví dụ này không quan hệ gì đến việc ăn mặc của chúng ta khi đến nhà thờ để trình diễn, nhưng cần có trang phục cho linh hồn, tấm lòng và tâm trí của chúng ta. Đó là sự khao khát, trông đợi, lòng khiêm nhường và thống hối, đức tin và sự tôn kính. Đây là bộ áo lễ nếu không mặc vào thì sẽ không dám đến gần Chúa. Điều thường xẩy ra là chúng ta hay đến nhà Chúa mà không sửa soạn chút nào. Nếu mỗi người chúng ta đều sửa soạn trước khi đến nhà thờ bằng lời cầu nguyện ngắn, suy nghĩ và tự kiểm điểm bản thân thì sự thờ phượng mới đúng là sự thờ phượng thật. Một sự thờ phượng đem lại nhiều tốt lành cho tâm hồn mỗi người, cho Hội thánh và cho thế giới.
Chúng ta đã nhận lời mời của Chúa mà vào dự tiệc Nước Trời. Đây là một vinh dự lớn lao Chúa dành cho ta. Nhưng vinh dự ấy đòi chúng ta phải vươn lên bằng một đời sống lành thánh, một đời sống kết hợp với Chúa, để có thể nói như thánh Phaolô:”Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Trách nhiệm của chúng ta là phải giữ mình không để cho vật dục hay của cải trần gian lôi kéo xuống giống như con vật, ngược lại phải vươn lên làm con cái ánh sáng để xứng đáng là công dân Nước Trời.
Truyện: Đại bàng con
Chuyện kể rằng: Có một con gà rừng đang ấp trứng, nhưng lẫn trong ổ của nó một trứng đại bàng. Đúng ngày giờ, trứng nở thành con. Đại bàng con nô đùa vui vẻ bên đàn gà rừng như anh chị em ruột.
Một ngày kia, đang bưới móc kiếm ăn cùng đàn gà rừng, đại bàng con bỗng thấy một con đại bàng lớn bay lượn trên không trung thật oai phong và đẹp mắt. Cậu liền hỏi gà mẹ:
– Mẹ ơi, sao mình không bay như chim kia trên trời?
– Chúng ta đâu phải đại bàng mà bay được!
– Thế chúng ta là ai?
– Chúng ta là gà rừng!
Bỗng một ngày, đang khi bươi chải kiếm ăn trên đống rác cậu lại thấy đại bàng mẹ bay lượn trên đầu gọi:
– Bay lên con ơi, bay lên đại bàng con của mẹ. Thế giới của con là trời cao đất rộng, chứ không phải là đống rác này! Bay lên đi con.
Cậu cố bay lên, nhưng lại rơi xuống. Trong khi các chú gà rừng cười cợt chế nhạo:
– Chúng ta là gà rừng, làm sao mà bay được.
Cậu suy nghĩ, nếu ta là gà rừng sao đại bàng kia cứ bảo ta là đại bàng con. Và khi bay lên ta thấy cũng đâu có khó khăn gì, có lẽ chưa quen thôi. Nào hãy thử lần nữa xem.
Thế là cậu đại bàng đủ lông đủ cánh bay lên, và bay lên mãi. Cậu bay theo mẹ về một chân trời mới. Lần đầu tiên trong đời, cậu được nhìn thế giới từ trên cao, lòng cậu mênh mang, hạnh phúc ngập tràn (Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, năm A, tr 145-146).
Kitô hữu là người được Thiên Chúa tuyển chọn, làm con cái của Ngài. Họ là những con đại bàng, luôn ngước mắt nhìn cao, mong bay lên cùng Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Họ luôn sống trong tâm tình của thánh Augustinô:”Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa. Tâm hồn con luôn thao thức cho tới khi nào được nghỉ yên trong Chúa”.
Đừng bao giờ nghĩ mình là giống gà rừng, để cúi đầu bươi chải, an phận với những hạnh phúc nhỏ nhoi tầm thường. Tuy được những con sâu bọ là miếng mồi ngon đấy, nhưng chúng cũng nằm trên đống rác, đống phân. Chúng ta hãy vươn mình lên, vươn lên mãi cho tới trời cao, nơi quê hương thật của chúng ta ở đó.
Chúng ta hãy thực hiện lời thánh Phaolô đã dạy: ”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).
66. Dự tiệc miễn phí
Một lần nọ, tôi nghe được mẫu đối thoại như sau:
– Lúc này sao “giấy báo thuế” đến liền liền. Rầu hết sức!
– Giấy báo thuế là gì?
– Là thiệp mời đi đám đó.
– Được nhiều người mời là niềm vinh dự chứ sao lại rầu.
– Biết vậy rồi, nhưng đâu phải đến ăn không rồi về được. Phải có bao thơ chứ. Mày biết không trong vòng một tháng mà có đến 5 cái thiệp mời. Hầu hết là những chỗ không thể bỏ được nên phải bấm bụng vay tiền để đi chứ làm sao có đủ!!!
Qua mẫu chuyện nhỏ trên đây, chúng ta thấy được mời dự tiệc là một niềm vinh dự. Vì niềm vinh dự ấy chúng ta phải chịu mất tiền và mất thời gian. Niềm vinh dự ấy lại tăng thêm cho chủ nhà khi những người được mời đi dự đầy đủ. Thế nhưng, thật là buồn cho chủ nhà khi tiệc đã dọn sẵn mà những người được mời chẳng thấy ai. Tâm trạng này phần nào phản ảnh tâm trạng của ông vua trong dụ ngôn Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay.
Nhà vua sai đầy tớ đi tận nhà những người được mời và dặn: “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới! ” (Mt 22, 4)
Đáng buồn thay, những người được mời họ viện đủ lý do: “Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết” (Mt 22, 5b – 6). Họ đâu biết rằng làm như thế sẽ khiến nhà vua buồn như thế nào. Buồn ở đây không phải vì họ không ông nhưng ông buồn vì chính những người được mời này đã tự làm hại đến chính mình. Họ đã từ chối niềm hạnh phúc nhà vua chuẩn bị sẵn cho. Chắc chắn nhà vua là người giàu sang nên chẳng cần bao thơ làm chi. Nhà vua dọn tiệc và mời họ đến dự miễn phí nhưng họ lại từ chối.
Hình ảnh nhà vua này chính là Thiên Chúa của chúng ta. Thiên Chúa chuẩn bị sẵn cho chúng ta bữa tiệc Nước Trời và mỗi Thánh lễ cũng chính những bữa tiệc Thánh miễn phí. Thiên Chúa ban cho chúng ta một cách hoàn toàn nhưng không. Thế nhưng, đáng buồn thay có nhiều người lại tìm đủ mọi lý do để từ chối. Họ quên rằng khi từ chối như vậy là họ đang tự làm hại chính mình.
Hãy xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết nhanh chóng đáp lại lời mời gọi của Chúa đến hưởng hạnh phúc Nước Trời mà Người đã dọn sẵn cho chúng ta.
67. Mời vào dự tiệc cưới – Lm Thu Băng
Mẹ Têrêsa thuật lại một câu chuyện như sau: Này kia có một cặp vợ chồng trẻ, đến tu viện tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào việc chi phí mua thức ăn cho người nghèo. Thấy họ còn quá trẻ mà lại tặng cho chúng tôi một số tiền quá lớn, tôi tò mò hỏi: Hai con có thể cho mẹ biết tiền này ở đâu mà hai con có nhiều thế? Họ trả lời: Chúng con vừa cưới nhau hai ngày. Trước khi cưới chúng con quyết định không may sắm đồ cưới, không đãi tiệc linh đình mà để khoản tiền này dành cho những người không được may mắn như chúng con. Mẹ tiếp lời: Việc cưới hỏi mà không thiết tiệc, không may đồ cưới tại Ấn Độ là một hổ thẹn và tủi nhục cho cha mẹ hai họ. Mẹ hỏi các con: Tại sao các con quyết định một cách táo bạo như thế, không làm phật lòng cho cha mẹ? Hai bạn trẻ trả lời: Chúng con yêu nhau, chúng con muốn cuộc khởi đầu sống chung bằng một hy sinh không mặc áo cưới, không thiết tiệc bạn bè bằng món tiền chúng con đã dày công đóng góp cho nhau.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhiều lần mời gọi các tín hữu đặc biệt lưu tâm đến tình trạnh trẻ em bị bỏ rơi trên thế giới. Các em là nạn nhân của nghèo đói, của xã hội đã làm cho các gia đình không có đủ phương tiện cung cấp những của ăn cần thiết để nuôi dưỡng con cái. Ngài cũng nhắc lại tình yêu đặc biệt của Thiên Chúa, Ngài mời gọi các bạn hữu tới dự tiệc cưới đã dọn sẵn. Nhưng những người được mời không màng chi đến lời mời gọi, không màng chi đến tiệc cưới thịnh soạn. Họ mải lo làm giầu, mãi lo buôn bán, mải lo kinh doanh, mải phát triển kiến thức, mải lo con đường danh vọng đến nỗi nhức đầu khi người mời cứ vồn vã, lải nhải bên tai, khiến họ phải có phản ứng mạnh: đánh đập, giết đi. Họ không nhìn ra lời mời qúy báu của vua trời đãi tiệc. Một bữa tiệc thịnh soạn hơn cả mọi thứ mà họ đang theo đuổi, tìm kiếm.
Hạnh phúc thay cho đôi vợ chồng trẻ mới cưới, họ nhận ra lời mời của vua trời và sẵn sàng khước từ mọi vinh hoa danh vọng trần thế, để sẵn sàng mặc bộ áo cưới sang trọng của người nghèo mà vào dự tiệc cùng vua trời. Trong thế gian có cả hàng tỷ người được vua trời mời vào dự tiệc, nhưng được mấy người biết nghe theo lời mời gọi, sẵn sàng xếp đặt mọi công việc riêng, sẵn sàng từ bỏ mọi danh lợi, mọi vinh hoa trần thế, mọi quyến luyến vật chất, sẵn sàng hy sinh tiền tài, danh vọng, chức quyền, công việc của đời để đến theo Chúa vui hưởng hạnh phúc bất diệt.
Chúa đã phán: Kẻ gọi thì nhiều mà kẻ chọn thì ít. Hỡi những ai đã được Chúa kêu gọi, những ai đã được Chúa tuyển chọn, bạn là kẻ có phúc hơn mọi người vì phần thưởng của bạn được gấp trăm ngay ở đời này. Hãy cố mà nắm giữ lấy.
68. Gọi nhiều, chọn ít – Lm. Minh Vận
Chúng ta còn nhớ trước đây không lâu, một đám cưới thật vĩ đại, linh đình và sang trọng vào bậc nhất trong lịch sử của kỷ nguyên hiện đại. Đó là đám cưới của hoàng tử Charles và cô giáo vườn trẻ Diana tại Anh Quốc. Khắp thế giới cả mấy trăm triệu người chăm chú theo dõi những ngày dài nô nức chuẩn bị, với những lễ nghi cổ truyền, y phục hoàng triều lộng lẫy và sang trọng, những buổi yến tiệc tiếp tân triền miên; những cuộc hòa tấu ca hát nhảy múa, những lời trầm trồ ca ngợi mối tình đằm thắm của đôi bạn trẻ Hoàng Tử Charles và Công Chúa Diana… Báo chương và các đài truyền hình, truyền thanh, các phóng viên thi đua nhau loan tin; Chính Phủ các quốc gia gởi điện văn chúc mừng, các quà tặng đắt giá xứng bậc vua chúa tới tấp bay đến. Tưởng như niềm vui hạnh phúc đó không bao giờ tàn. Nhưng rồi ai nấy cũng học được một bài học khôn ngoan và đắt giá về hạnh phúc mau qua chóng tàn nơi trần gian này!
I. Những thực khách danh dự
Bài sách tiên tri Isaia và bài Tin Mừng theo Thánh Mátthêu chúng ta vừa nghe, đều cùng dùng một hình ảnh tiệc cưới, để mặc khải cho chúng ta hiểu một phần nào hạnh phúc Nước Trời mà Thiên Chúa sẽ ban cho những kẻ Người tuyển chọn. Khi đó không còn chết chóc, không còn tang chế, không còn than khóc, tủi hổ hoặc sầu đau nữa. Chỉ còn hân hoan, vui mừng, sướng vui, an bình và hạnh phúc, một hạnh phúc vĩnh cửu và trường tồn trong vinh quang bất diệt không hề tàn phai. Nhưng những ai được vinh dự thừa hưởng hạnh phúc vĩnh cửu đó?
Theo các nhà chú giải bài Tin Mừng hôm nay, thì những thực khách vinh dự được Nhà Vua mời dự tiệc cưới của Hoàng Tử, tức là những người được thừa hưởng hạnh phúc Nước Trời. Đó chính là những người Do Thái, Dân Riêng của Chúa nói chung và phái Pharisêu nói riêng. Nhưng vì họ quá tự mãn kiêu căng, ham hố trần tục và bất trung với Chúa, nên chính tự họ đã loại mình ra khỏi Vương Quốc Thiên Chúa là Giáo Hội Chúa Kitô trên trần gian và Hạnh Phúc vĩnh cửu trên Quê Trời.
II. Để được thừa hưởng phúc vĩnh cửu
Qua bài Tin Mừng, chúng ta thấy mình được diễm phúc Chúa yêu thương mời gọi chúng ta vào dự yến tiệc của Chúa, sau khi những thực khách danh dự được mời trước không xứng đáng được nếm hưởng. Chính Chúa đã phán qua dụ ngôn: “Tiệc cưới đã dọn sẵn, nhưng những kẻ được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới”.
Dân tộc được diễm phúc là Dân Riêng của Chúa đã từ chối Chúa, không tiếp nhận Chúa Cứu Thế và giáo lý của Người, nên đã bị loại ra ngoài không được gia nhập Giáo Hội Chúa và thừa hưởng hạnh phúc Nước Trời, nên Chúa đã kêu gọi dân ngoại, thuộc bất cứ cấp bậc nào trong xã hội và qua mọi thời đại vào dự yến tiệc của Chúa, làm thành phần của Giáo Hội và thừa hưởng hạnh phúc Chúa đã sắm sẵn cho những kẻ Chúa yêu thương tuyển chọn.
III. Để sống xứng đáng ơn tuyển chọn
Là Kitô Hữu, những người được Chúa yêu thương tuyển chọn gia nhập Giáo Hội Chúa, với quyền thừa hưởng gia nghiệp hạnh phúc vĩnh cửu của con cái Chúa, chúng ta phải sống thế nào cho cân xứng với ơn cao cả đã lãnh nhận?
Hơn nữa, là những linh hồn sống Đời Thánh Hiến, đã được Chúa tuyển chọn giữa muôn người, tách biệt ra khỏi trần gian để sống một cuộc sống cao cả hơn, siêu thoát hơn, đảm trách một sứ mạng trọng đại hơn, với những phương thế hữu hiệu và có bảo đảm hơn, để đạt tới Hạnh Phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban, chúng ta càng phải sống thế nào hầu xứng đáng với những ơn chúng ta đã lãnh nhận?
Chúng ta cần phải trung thành với ơn Chúa tuyển chọn theo địa vị chức bậc của mỗi người, bằng cách tuân theo những giáo huấn của Chúa đã truyền dạy, theo gương Thánh Phaolô Tông Đồ dân ngoại: “Trong mọi trường hợp và hết mọi cách” ngài chỉ biết chu toàn thánh ý Thiên Chúa và do đó, ngài đã dám tin tưởng và quả quyết chắc chắn rằng: “Tôi có thể làm được mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Phil 4:13).
Trái lại, nếu bất trung với ơn Chúa ban, chúng ta cũng sẽ bị loại ra ngoài đồng số phận với những thực khách danh dự được mời trước, nhưng lại kiêu căng tự phụ, không đáng nếm hưởng yến tiệc của Chúa, là chính Hạnh Phúc Chúa hứa ban cho các con cái Ngài đã yêu thương tuyển chọn, như lời Chúa đã quả quyết: “Những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít” (Mt 20:16).
Kết Luận
Mẹ Maria là Đấng hằng trung tín với ơn Chúa. Vậy là con Mẹ, xin Mẹ chia sẻ lòng trung tín của Mẹ cho chúng ta và tăng thêm sức mạnh, giúp chúng ta biết theo gương Mẹ, trung tín với ơn Chúa tuyển chọn tùy theo bậc sống và địa vị cuả mỗi người, để chúng ta đáng Chúa ban ơn trợ giúp sống xứng với ơn tuyển chọn làm con cái yêu dấu của Chúa và Giáo Hội, hầu đáng được hưởng Ơn Cứu Độ và hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban cho các con cái Chúa.
69. Tiệc cưới – Thiện Mỹ
Trong một họ đạo thuộc vùng “kinh tế mới” có một bổn đạo nghèo nàn bệnh tật, thiếu thốn cả về của ăn lẫn thuốc uống. Trong hoàn cảnh thương tâm như thế, cha sở cũng chẳng dư dật gì mấy vì còn phải lo nhiều thứ trong nguyện đường còn mới sơ khai đang trong thời gian lập xứ, cha tìm cách quyên góp tiền bạc nơi những người có phần nào dư giả… Nhưng người thứ nhất trình bày với cha: Con sắp sửa phải mua chiếc Honda, cũng còn thiếu một chút nữa. Người thứ hai cũng thưa: Con đang chuẩn bị xây nhà, không biết thừa thiếu ra sao, con lo lắng quá. Và người thứ ba thứ tư cũng có lý do tương tự như trên. Đang lúc thất vọng có một bà góa ăn mặc đơn sơ bình dị từ tốn bước vào nhà xứ đưa cho cha một phong bì để biếu người bệnh tật kia. Cha sở thật cảm động nói: “Số tiền này giúp cho người nghèo đó bớt được nhiều phần lo lắng. Nhưng con làm gì mà dành dụm được số tiền đó. Hơn nữa con còn phải đề phòng lo cho gia đình con trong lúc hiểm nghèo chứ?”.
– “con còn một con bò, hai con heo, và mấy chục con gà, nếu cần con bán để chi phí…”. Bà ấy đáp.
– Cha sở tiếp: “Nhưng bà có người con yêu duy nhất, cũng phải lo cho nó ăn học, để rồi phụng dưỡng bà trong lúc tuổi già?”.
– Bà đáp lời: Thưa cha, nếu Chúa thương cho học hành khá, làm ăn ra tiền để có điều kiện đỗ đạt cao hơn thì quả là điều đáng quí. Còn không nó học được tới đó cũng là cám ơn Chúa lắm rồi…”.
Câu chuyện ở trên là hình ảnh và là một trong những món ăn của nước trời. Bà góa đã biết dự tiệc cưới còn nhiều người khá giả hơn thì không ngồi vào bàn tiệc cưới nước trời.
Tiệc cưới Thiên Đàng chính là biết đáp lại lời mời của Thiên Chúa, thực thi điều Ngài dạy, trong mối tương quan sống đời đức ái trọn hảo. Cuộc sống đời này sẽ là bản sao chép cho cuộc mai hậu. Chúa sẽ photocopy, đóng một tròn để lưu trữ những việc thiện ta làm trên nước trời.
Thật là may mắn cho những ai đã đáp lại tiếng Chúa mời đi dự tiệc cưới nhờ bí tích rửa tội. Qua “vé vào cửa ấy” chúng ta sẽ được hưởng muôn vàn ân sủng nhờ các bí tích tiếp theo. Ở trần thế có biết bao tâm hồn khao khát chân lý, khao khát Chúa như Thánh vương Đavít đã cầu nguyện:
“Lạy Chúa, hồn con khao khát Chúa, thân xác con mòn mỏi đợi trông Chúa, như mảnh đất khô không có nước” (Tv 63).
Để đáp lại những tấm lòng thiện chí, Thiên Chúa đã kêu mời mọi người mọi giai cấp đến dự tiệc cưới nước trời như trong trình thuật Phúc Âm Thánh Matthêu diễn tả trong đoạn 22 từ câu 1-14 gồm tóm vào hai sự việc:
– Dự tiệc cưới.
– Mặc áo cưới.
Đọc đoạn Phúc Âm trên chắc ta thấy hơi ngỡ ngàng khi thấy có những kẻ dại dột chối từ lời mời của hoàng gia. Thực tế trong đời sống thiêng liêng lại đã xảy ra như thế: Thiên Chúa sai các tiên tri trong cựu ước, các tông đồ trong tân ước để đến với các dân của Ngài. Thế mà các Đấng ấy đã bị giết, thậm chí họ giết cả Chúa Giêsu con yêu dấu của Ngài nữa.
Nhưng Thiên Chúa vẫn không bỏ con người, luôn kêu gọi mọi người gia nhập giáo hội, vào hàng ngũ tu sĩ, giáo sĩ. Nhất là Ngài kêu gọi ta đi vào chính sự thánh thiện của Ngài, đi vào đời sống tiềm mật của Ngài. Nhưng ích lợi ở điểm là ta phải biết nhận ra được tiếng Chúa, không để tiếng Ngài xào xạc như tiếng lá rừng. Nhiều khi chúng ta nại vào lý do bận bịu công việc trần thế để từ chối lời Ngài mời gọi như câu chuyện dụ ngôn trong phúc âm hôm nay: Người bận chuyện này kẻ bận chuyện khác để rồi không cùng dự bữa tiệc hoan lạc thân tình với Chúa.
Còn vấn đề thứ hai mà Thánh Matthêu mô tả việc Chúa đòi hỏi khi đi dự tiệc cưới là phải mang áo cưới. Đó là trang phục của linh hồn; Lòng trí phải khiêm tốn khao khát trông đợi yêu mến Chúa và tha nhân. Chiếc áo cưới ta sắm ở đời này là để đời sau chúng ta mặc trên nước trời. Nó có sang trọng lộng lẫy vinh quang phú quí hay tầm thường là tùy ở công lao thêu dệt mỗi ngày từng giây từng phút, trong việc thực thi các nhân đức, với con tim luôn tìm cách yêu mến Thiên Chúa.
Để đạt kết qủa phong phú và khỏi cố công vô ích, chúng ta hãy cậy nhờ Đức Mẹ Maria đầy tình thương nhân ái, luôn giúp đỡ người yếu đuối còn đang nơi thế trần. Hơn nữa Mẹ là mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ sẽ hiểu con Mẹ hơn ai hết, Mẹ sẽ chỉ đường dẫn lối cho ta sắm chiếc áo cưới thật vừa ý thích của Chúa Giêsu con Mẹ.
70. Dụ ngôn tiệc cưới và áo cưới
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Từ những khách mời “không xứng đáng… đến gặp ai cũng mời”:
Trước sự phẫn nộ của đối phương, còn dân chúng lại hồ hở chào mừng Người bằng những lời tung hô “vạn tuế, Đức Giêsu đã tiến vào thành Giêrusalem trong tư cách Messia. Khi giảng dạy ở trong Đền Thờ, Người thường bị các thượng tế và kỳ mục trong dân hạch sách. Rõ ràng là họ tới có ý chất vấn Người đã lấy quyền nào mà nói và hành động như vậy: “ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy. Ai đã cho ông quyền ấy” (21,23). Nhưng Đức Giêsu đã từ chối trả lời họ, bao lâu mà chính họ vẫn lẩn tránh câu Người hỏi họ: “Phép Rửa của Gioan do đâu mà có. Do Trời hay do người ta (21,24). Trong bối cảnh gay cấn như vậy, mà ba dụ ngôn về xét xử Chúa dùng để nói với họ như một lời cảnh giác mạnh mẽ và cuối cùng, được đặt vào:
Dụ ngôn hai người con đực sai đi làm vườn nho (Phúc âm Chúa nhật 26).
Dụ ngôn những ta điền sát nhân (Phúc Am Chúa nhật tuần rồi).
Dụ ngôn tiệc cưới (Phúc âm Chúa nhât 28 này).
Đọc bản văn dụ ngôn những khách mời dự tiệc như được viết trong Phúc âm Matthêu, chúng ta có thể nhận thấy ngay những lời giáo huấn của Chúa được các cộng đồng tín hữu gìn giừ và nghiền gẫm, đã phải trải qua quá trình truyền đạt và thích nghi cho tới khi được các thánh sử soạn thảo thành văn nhất định. Chắc hẳn trong nội dung lời giáo huấn của Chúa, thì dụ ngôn này, theo như diễn ý của J.Jérémias, có nghĩa như “một sự bênh vực và biện minh” cho Phúc âm.
Th. Matura giải thích: “Những người đạo đức (các Pharisiêu), những nhà “thần học (các kinh sư), những người lãnh đạo tôn giáo của dân (các tư tế) dù không đón nhận Tin Mừng Nước Trời Chúa Giêsu loan báo, mà theo nguyên tắc là có ý dành cho họ trước tiên. Trái lời dân chúng và nhiều người sống bên lề (các người thu thuế, “tội lỗi), những người bị những kẻ thông trị loại bỏ thì lại tỏ ra sốt sắng lắng nghe lời Chúa kêu gọi và vui lòng đi theo Người (Lc 15,1-2), khiến cho giới có đầu óc khó chịu và buông lời chỉ trích. Dụ ngôn những khách mời dự tiệc cưới là câu trả lời cho thái độ giả hình này. “Chính các ông cũng giống như những người khách được mời này mà lại chối từ. Các ông cho đó chướng mắt, vì tôi được các người vốn bị cáo ông khinh bỉ, quây quần bên tôi: chính các ông mới là những người đã không thèn đếm xỉa tới, đã từ chối và các ông còn điểu này: không phải những người công chính mà là những người tội lỗi mới cần cứu độ!”
Điểm hóc búa của dụ ngôn Chúa kể, quả là gay cấn phải chứng tỏ và đúng, cách người cư xử với những người tội lỗi và lên án thói giả hình của giới lãnh đạo. Đức Giêsu đã biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với những người bé nhỏ, đồng thời người cũng tố cáo những kẻ từ chối lời mời gọi của Phúc Âm, và như thế bị loại khỏi bàn tiệc Nước Trời mà Người đến khai trương” (Assemblées du Seigneur” số 59, trang 18-19).
Khi đem nội dung trên vào Phúc âm của mình để trình bày cho cộng đồng tín hữu của ngài là những người gốc Do Thái giáo, thánh sử Matthêu khác với tác giả Luca, có sửa đổi nhiều chi tiết làm thay đổi ý nghĩa ban đầu của dụ ngôn này để hướng tới một ý nghĩa ẩn dụ (mỗi chi tiết đều mang một ý nghĩa).
2. “Người kia” trong dụ ngôn ban đầu, trở thành “một ông vua kia mở tiệc cưới cho con mình”.
Cl. Tassin gợi nhớ lại: Cựu ước đã hứa hẹn sự hiệp nhất phu thê giữa Thiên Chúa và dân Người và Phúc âm đã trình bày Chúa Giêsu như vị Tân lang của những đám cưới được trông đợi này (x. Mt 9,15). Thế nên thánh Matthêu cung cấp ngay cho ta những chìa khoá cần thiết giúp cho việc đọc “(“Phúc âm thánh Matthêu ”, NXB Centurion, trang 230).
+ Cũng vậy, người đầy tớ duy nhất trong Phúc âm Luca được tăng lên thành nhiều loại: các câu 3.4.8.13.
+ Và không những, các người đầy tớ này bị người ta hắt hủi, mà còn bị xỉ nhục và giết chết các (câu 6 và 7) như trong dụ ngôn những tá điền sát nhân. Và cũng như trong dụ ngôn này, sự trừng hạt không muộn màng. Th. Matutura chú giải: Đức Giêsu khiển trách những người lãnh đạo tôn giáo, thì họ hăng hăng chối từ sứ mệnh của người… Việc đưa xen vào dụ ngôn, hai câu 6 và 7 càng làm rõ nét phương diện này, bởi thì rõ ràng là đối với thánh Matthêu, những khách mời thoái thác kia, chính là những người Do thái không tin. Cách họ đối xử với các người được sai đến (các ngôn sứ bị chúng giết 3,32-36) lôi kéo sự trừng phạt đến cho họ: ám chỉ qúa rõ ràng việc thành Giêrusalem bị tàn phá” (O.C. trang 20-21).
+ Không trì hoãn, vua liền sai những sứ giả khác “đi ra các ngã đường”, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.
+ Các đầy tớ thi hành lệnh ngay, gặp ai”bất luận tốt xấu cũng tập hợp lại. Th. Matura nhận định: “Cách diễn tả này chứng tỏ rằng: Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, Người lựa chọn mà không đòi hỏi, nhưng chỉ vì lòng thương xót (Mt 6, 45). Giống như những dụ ngôn cỏ lùng và chiếc lưới, nó cũng mô tả tình trạng của cộng đồng tín hữu thời thánh Matthêu, lúc đó không phải mọi người đều thánh thiện cả. Sau cùng lời diễn tả ấy chuẩn bị cho câu chuyện về người xâm nhập phòng tiệc bị loại ra” (O.C. trang 23).
3. Từ việc được mời… đến việc tham dự tiệc cưới:
“Phòng tiệc cưới lúc này đã đầy thực khách”. Theo tập tục Đông phương cổ, người chủ tiệc không ngồi bàn ăn với các thực khách, nhưng ông đi lại chuyện trò, thăm hỏi họ. Chi tiết hơi lạ là gia nhân ra các nẻo đường, gặp ai bất luận tốt xâu, cũng tập hợp cả lại vào phòng tiệc, thì những người ấy đâu có thời giờ mà thay đồ. Thế nên mới có câu chuyện về áo cưới. Đang khi tất cả phần thứ nhất của dụ ngôn này nói cho những người chống đối Phúc âm, thì phần kết của dụ ngôn lại nhắm nhóm người vốn cho mình vẫn sống theo Phúc âm đó là cộng đồng các môn đệ Đức Giêsu. Th. Matura giải thích: “Họ phải cảnh giác đối với ý nghĩ cho rằng chỉ cần được gọi và đáp lại Tin Mừng là bảo đảm được rỗi linh hồn. Không cần phải tuyên xưng danh Đức Kitô, tham gia vào cộng đồng của người (tức là chịu phép Rửa dể được vào phòng tiệc), còn phải chu toàn các công việc mà đức công chính mới đòi hỏi (Mt 7,21). Nếu không dù là đã được nhận vào phòng tiệc rồi, người ta vẫn có nguy cơ bị nén ra ngoài bị loại trừ vĩnh viễn khỏi Nước Trời” (O.C. trang 25).
Bởi vậy Giáo Hội không thay thế Israel, vì lịch sử dân tộc này vẫn trước sau như một. Phần các tín hữu, nên biết lượng sức mình yếu đuối giòn mỏng và vẫn chưa đáp trả đủ tình yêu Thiên Chúa của Đức G’iêsu Kitô dành cho mình, chứ đừng vội thấy người khác bị Chúa trừng phạt mà vui mừng.
BÀI ĐỌC THÊM:
“Một Giáo Hội mời gọi hết mọi người” (Giám mục L. Daloz trong “Le Règne des cieux s’est approché”, Desclée de Brouwer, trang 301-302).
“Thế chỗ cho dân tộc được kêu gọi trước nhất, những kẻ được mời gọi ở đây, chính là những lớp người của mọi dân tộc, họ ở trên các công trường, tại những ngã ba, ngã tư đường. Không còn nữa những chiếc ghế được dành riêng cho ai: “Gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới!”. Vấn đề được xét đến không phải là dân Do thái là một dân như thế, mà là thái độ tự mãn, và chối từ, sự không chú ý lắng nghe lời mời gọi của Chúa: “Họ không thèm đếm xỉa tới lại bỏ đi: Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn”. Thái độ đó vẫn xảy ra hôm nay, bất cứ lúc nào. Người ta cố gắng và cho là điều quá tự nhiên khi xếp đặt các giờ phút gặp gỡ với Chúa, các việc đạo đức của đời sống Kitô hữu, việc cầu nguyện… vào những giờ phút thừa thải, những ngày giờ chẳng còn công chuyện gì để làm, sau giờ lao động, sau những công việc thường ngày, cả sau khi đã vui chơi nữa, sớm muộn, còn đâu thì giờ rảnh rỗi nữa. Người ta bắt đầu trở nên bê bối, rồi tìm cớ chữa lỗi cho mình rằng: “Làm việc cũng là cầu nguyện rồi…”. Dần dần mỗi ngày một chút, người ta không còn cầu nguyện, tham dự các bí tích, các buổi hội họp và việc huấn luyện nữa, viện cớ rằng: “Tôi không còn thì giờ để cầu nguyện nữa…”. Đôi khi thái độ từ chối tiếp nhận Đức Giêsu, từ chối đáp lại tiếng gọi của Chúa là do không biết hoặc thù địch với Người. Đức Giêsu gây phiền hà, là chướng ngại. Thế là chống đối, là bách hại. Không cứ gì một dân tộc mới làm thế, mà mọi người đều có khả năng làm như vậy, và chúng ta đều là thành phần của nhân loại này! Nhưng tiệc cưới không thể bị ế. Thiên Chua vẫn mời gọi không ngừng: “Các đầy tớ ấy liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận tốt xấu, cũng tập hợp cả lại”. Tiếng Chúa kêu gọi dành cho hết mọi người; Người ngỏ lời với những người lương thiện cũng như kẻ bất lương, với người công chính cũng như kẻ tội lỗi đặc biệt là những người tội lỗi? Điều đó giúp ta nhìn rõ Giáo Hội vốn quy tụ mọi người.
Giáo Hội nhất định không phải là nơi tập hợp những “người thập toàn”, là tổ chức gồm những người không có gì đáng chê trách cả. đôi khi chúng ta quan niệm Giáo Hội là thành phần ưu tuyển, có cảm giác rằng Giáo Hội phải loại trừ ra khỏi lòng mình tất cả nhưng ai không sống theo Phúc âm. Phải chăng đã đến lúc tôi sẽ là người đầu tiên phải bỏ đi ý nghĩ lầm lạc ấy?… Đúng là Giáo Hội đón nhận khá rộng rãi và điều đó không làm thoả mãn những ai muốn Giáo hội tạo cho mình một hình ảnh không tì vết! Liệu Giáo giội đưa ra một hình ảnh như thế có tốt không? Đó chẳng phải là con đường mở ra cho lối sống giả hình như đối với những người Pharisiêu sao? Phần cuối dụ ngôn nói đến một sự lựa lọc phải diễn ra, nhưng là vào giờ phút chót khi “vua tiến vào quan sát khách dự tiệc”. Đấy cũng là điều mà hai dụ ngôn cỏ lùng và chiếc lưới đều nói lên: “Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính… ” (13,49). Ai muốn vào dự tiệc Nước Trời, phải mặc y phục lễ cưới: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới”. Rồi vua truyền quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng”. Vào dự tiệc Nước Trời không tuỳ thuộc nòi giống, hay là người của một dân tộc, nhưng căn cứ vào sự trở lại, thay đổi đời sống, những việc lành phúc đức… Khi nhận chiếc áo trắng trong lễ nghi Rửa tội, chúng ta đã được mời gọi “giữ cho tinh tuyền phẩm giá người con Chúa”. Y phục của dân mới, y phục lễ cưới, chính là Đức Kitô mà chúng ta đã “mặc lấy”, là phẩm cách người Kitô hữu, là ân sủng Chúa trao ban. Sống sao cho xứng đáng với những gì ta đã lãnh nhận, đó chính là một lời mời gọi.
71. Dụ ngôn tiệc cưới hoàng gia
(Chú giải của Lm Phanxicô X. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Cả ba dụ ngôn nối tiếp nhau – Hai người con (21,28-32), Những người thợ vườn nho (21,33-46) và Tiệc cưới hoàng gia (22,1-14) – đều được gửi đến cho các thượng tế và các kỳ mục của Dân (x. 21,23) và đều mang một sứ điệp rất giống nhau. Bằng các dụ ngôn này, với một lời khuyến cáo lặp đi lặp lại, nghiêm túc, mạnh mẽ, Đức Giêsu muốn làm cho họ mở mắt ra để hiểu tương quan của họ với Thiên Chúa. Các thượng tế và các kỳ mục không được chạy theo ảo tưởng nào, nhưng phải thấy rõ tương quan đó trước khi quá muộn và phải điều chỉnh bản thân cho kịp thời.
Thật ra các dụ ngôn và các lời khuyến cáo không phải chỉ được dành cho giới lãnh đạo Do Thái giáo, nhưng cũng được gửi đến cho thính giả mọi thời. Thiên Chúa không ép buộc; Người ngỏ với chúng ta và chờ đợi chúng ta tự do quyết định. Các người con được mời đi làm việc trong vườn nho của cha; những người thợ vườn nho được nhắc nhở giao nộp hoa lợi thuộc về ông chủ; những khách được mời được kêu gọi đến dự tiệc cưới. Không một ai bị bó buộc phải xử sự theo cách nào cả. Thiên Chúa kiên nhẫn và đại lượng ước muốn rằng lời mời của Người được đón nhận.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Mở (22,1);
2) Dụ ngôn Tiệc cưới thất bại (22,2-7);
3) Dụ ngôn Tiệc cưới thành công (22,8-13):
a) Mời mọi người (cc. 8-10),
b) Vấn đề áo cưới (cc. 11-13);
4) Kết luận: Lời bình của Đức Giêsu (22,14).
3.- Vài điểm chú giải
– mở tiệc cưới cho con mình (1): Hình ảnh bữa tiệc thiên sai có lẽ được mượn từ Cựu Ước (Is 25,6; 55,1-3). Nó diễn tả tính nhưng-không của ơn cứu độ được Thiên Chúa ban tặng cho Dân Người.
– nhưng họ không chịu đến (3): Dịch sát là “không muốn đến”. Mt dùng động từ “muốn” (thelô), là một động từ ngài ưa chuộng (x. 11,14; 16,24; 18,30; 19,17; 23,27b) để diễn tả một quyết định rõ ràng.
– Vậy các ngươi đi ra (9): Công thức mệnh lệnh poreuesthe (các ngươi hãy đi) oun (vậy) khiến chúng ta hướng tới công thức phân từ poreuthentes oun có giá trị như một mệnh lệnh ở Mt 28,19, khi Đức Giêsu sai phái các môn đệ đi đến với Dân ngoại (“muôn dân”).
– các ngả đường (9): Từ diexodos thuộc Bản LXX có nghĩa là điểm bắt đầu hay là điểm đến, phần xa nhất của một miền đất. Vậy dịch diexodoi tôn [h]odôn là “các ngả đường” dường như không chính xác. Đây là điểm mà từ đó con đường ([h]odos) bắt đầu hay kết thúc. Như thế các đầy tớ đi ra khỏi thành và tỏa ra khắp nơi cho đến tận biên cương của vương quốc.
– bất luận xấu tốt (10): Những người “xấu” này có thể là những người tội lỗi, một khi đã được kêu gọi nhưng-không, sẽ sửa mình khi đã vào trong Vương Quốc hoặc trong Hội Thánh; mà cũng có thể là những người xấu theo nghĩa tuyệt đối, sẽ bị loại trừ ngày nào đó khỏi Vương Quốc (hoặc khỏi Hội Thánh). Các câu 11-14 hiểu theo nghĩa thứ hai này.
– quan sát (11): Động từ theaomai có nghĩa là “nhìn xem; chiêm ngưỡng; quan sát”. Bên Đông phương, các nhân vật quan trọng không ngồi ăn chung với các khách mời, nhưng chỉ xuất hiện vào một lúc nào đó để chào cách quan khách. Phân đoạn gồm cc. 11-13 hẳn là một bản văn áp dụng cho đời sống Hội Thánh (trong khi cc. 1-10 áp dụng cho lịch sử dân Do Thái), nay được đưa vào đây để sửa chữa một lối giải thích quá tự do cc. 1-10. Quả thật, việc đi vào Hội Thánh là chuyện nhưng-không, nhưng cũng không được quên rằng đấy là Hội Thánh của Đức Vua! Đã nhận ơn, thì phải sống theo chiều hướng của ơn đã nhận.
– không có y phục lễ cưới (12): Vào thời Thượng Cổ, không có tập tục các khách mời phải mặc một bộ y phục riêng cho tiệc cưới; chỉ cần một bộ y phục sạch sẽ, trang trọng, là được. Do đó, công thức “y phục lễ cưới” khiến độc giả phải nghĩ đến nghĩa ẩn dụ. Cụm từ “y phục lễ cưới” (endyma gamou) này hẳn cũng là thực tại được dụ ngôn Những người thợ vườn nho nói đến, đó là các hoa trái của Vương Quốc, phải có trước khi ra trước tòa phán xét. Đây là “sự công chính” thường được TM Mt nói đến (ch. 5–7: 5,20; 6,33…). Xem thêm: Is 61,10; Ep 4,24; Gl 3,27; Kh 19,6-8; 7,9-17.
– kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít (14): Ngôn ngữ Híp-ri không có những hình thái đặc biệt cho các tính từ ở dạng so sánh (comparative: better; more) hay tối thượng cấp (superlative: best; most); do đó, người ta dùng cách kiểu nói quanh (paraphrases). Phải dựa vào ngữ cảnh thì mới xác định được nghĩa so sánh nằm ở dưới. Xem Mc 9,42; Mt 22,36; 26,24; Lc 10,42; 18,14…
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở (1)
Dụ ngôn này được ngỏ với những thính giả đã được nói đến (“họ” = “các thượng tế và người Pharisêu”, x. 21,45), những người phải gánh lấy tất cả trách nhiệm và tội lỗi, khi từ khước Đức Kitô.
Chính dụ ngôn gồm các câu 2-13. Câu 14 là một lời bình của người kể, tức Đức Giêsu. Sau lời giới thiệu ở c. 2, dụ ngôn được triển khai thành hai phân đoạn, cc. 3-7 và cc. 8-13. Mỗi phân đoạn bắt đầu bằng việc nhà vua sai các đầy tớ đi mời khách đến dự tiệc cưới. Lần mời thứ nhất thất bại; lần mời thứ hai thành công. Tuy nhiên, mỗi lần đều kết thúc bằng một tai họa. Trong trường hợp thứ nhất, tai họa đổ xuống trên những người được mời; trong trường hợp thứ hai, tai hoạ chỉ đổ xuống trên một người khách.
Ta thấy dụ ngôn này và dụ ngôn trước có những điểm giống nhau. Một bên, đó là ông chủ nhà có một vườn nho, ở đây là một vị vua. Ông chủ nhà sai đầy tớ hai lần đến vườn nho để nhận hoa lợi; đức vua sai các đầy tớ hai lần đi mời khách tới dự tiệc. Trong cả hai trường hợp, các tôi tớ đều thất bại vì những người họ đến gặp tỏ ra xấu xa. Trong cả hai trường hợp, có liên quan đến một “người con [trai]”. Những điểm song song đó cho hiểu rằng hai câu chuyện nhắm đến một số nhân vật như nhau. Ông chủ vườn nho và đức vua chỉ là một, đó là Cha trên trời; người con trai chắc chắn là Đấng đã tự gọi mình là “Người Con” (11,27). Các tôi tớ chính là các ngôn sứ. Còn những người được mời chính là Dân bất trung của Thiên Chúa.
Trong dụ ngôn Tiệc cưới, nhân vật duy nhất hành động tích cực là nhà vua. Chỉ một minh ông nói, chứ không có đối thoại. Ngoại trừ cc. 5-6 và c. 10, truyện hệ tại các hành vi hoặc các lệnh truyền của nhà vua.
* Dụ ngôn Tiệc cưới thất bại (2-7)
Tuy nhiên, hai dụ ngôn cũng có những điểm khác nhau. Trong dụ ngôn Những người thợ vườn nho, vấn đề là một đòi hỏi về công bình; ở đây là một lời mời, một vinh dự diễn tả cho một ai đó. Một bên là ông chủ đòi hỏi điều thuộc về ông, bên kia là vị vua quảng đại, muốn mời tối đa người ta đến thông phần vào niềm vui của ngày cưới hoàng tử. Trong trường hợp sau này, thái độ thiếu quan tâm càng đáng trách hơn, vì ở đây không còn chuyện vi phạm một quyền, nhưng là một xúc phạm nặng nề đến danh dự. Đã thế, thái độ thiếu quan tâm còn trầm trọng đến mức trở thành sự căm thù chẳng hiểu vì sao. Ngay ở đây cũng có thể đặt lại câu hỏi của dụ ngôn trước: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” (21,40). Câu trả lời không còn phải là một đe dọa, nhưng là một hành động trừng phạt. Như thế, từ dụ ngôn kia sang dụ ngôn này, có một sự tiệm tiến.
Những “người đã được mời” (keklêmenous) là những người được báo tin về tiệc cưới đúng thời điểm. Đây là các bạn hữu, những người đang sống trong những tương quan thân tình với nhà vua. Việc nhà vua sai đầy tớ đến và mời thúc bách (c. 4) cho thấy cử chỉ tối hậu của lòng tốt của nhà vua, nhưng đã không được đáp lại. Thế mà nhà vua chỉ nhận được một sự từ khước dứt khoát (“không muốn đến”, c. 3). Các động lực thâm sâu là họ có những mối quan tâm thực tiễn, những của cải vật chất (chủ đề của Mt: x. 8,18-22; 19,21). Dưới ánh sáng của dụ ngôn trước, qua việc nhà vua sai các đầy tớ lần đầu (c. 3), độc giả có thể nghĩ đến các ngôn sứ trong Cựu Ước; qua lần sai phái thứ hai (cc. 4-6), họ có thể nghĩ đến các tông đồ và các nhà thừa sai (x. 21,34.36). Các độc giả cũng đã biết Israel thường xử tệ và giết các ngôn sứ (x. 23,34-35). Còn những khách được mời, thoạt tiên độc giả sẽ nghĩ đến các thượng tế và người Pharisêu, vì các dụ ngôn được nói cho họ. Tuy nhiên, không nhất thiết chỉ nghĩ tới giới lạnh đạo Do Thái, bởi vì các sứ giả của Đức Giêsu được cử đến với toàn thể Israel (x. 10,5-6.23).
Câu 6 có vẻ đột ngột: đi từ “kẻ thì …, người thì …” (hos men … hos de), ta không chờ đợi “còn những kẻ khác” (hoi de loipoi), nhất là một tội ác (giết các đầy tớ). Nhưng các độc giả đã quen với truyền thống Do Thái, thì hiểu rằng du ngôn đang nói về các thừa sai của họ, các vị này đã bị bách hại tại Israel (10,16-23) cũng như nói về các ngôn sứ Cựu Ước cũng đã bị bắt bớ trước rồi (5,12; 21,35-36). Nhưng c. 7 thì thật lạ, kể cả với các độc giả đã quen với truyền thống Do Thái. Không còn cỗ bàn, bò tơ, thú báo nữa. Nhà vua lên đường hành quân, chắc chắn đâu có thể làm một sớm một chiều. Dù sao, từ tư cách những người đầu tiên được ưu đãi, người Do Thái trở thành những đối thủ đầu tiên chống lại ơn cứu độ, và mục tiêu đầu tiên cơn giận Thiên Chúa nhắm tới. Họ bị đánh giá là “không xứng đáng” (c. 8) không phải vì họ có những thiếu sót hay sự ngu dốt nào tự nhiên, nhưng do họ từ khước.
Đức vua đã huy động quân lính đi “tru diệt bọn sát nhân và thiêu hủy thành phố của chúng” (c. 7). Các khách được mời nay được gọi đơn giản là “bọn sát nhân”. Tại sao sự việc lại trở nên gia trọng đến mức ấy? Dường như các khách được mời sống ngay trong thành phố nơi tổ chức lễ cưới. Các kẻ sát nhân chỉ là một vài người trong số khách được mời thôi. Chẳng lẽ mọi người khách mời khác đều đáng xử như những kẻ sát nhân? Đàng này, cả thành bị thiêu hủy, hẳn là với tất cả những người vô tội. Nếu muốn tiếp nối câu chuyện cho hợp lý, thì phải nói đến việc mời những người khác. Tất cả các thắc mắc này khiến ta phải nhìn nhận rằng cc. 6-7 là một câu lạc lõng. Rất có thể tác giả đang nghĩ đến cuộc tàn phá Giêrusalem đã xảy ra vào năm 70. Chỉ điều này mới giải thích được vì sao tác giả gán một tầm quan trọng đặc biệt cho chuyến hành quân trừng phạt và cuộc thiêu hủy thành phố. Và những kẻ sát nhân không phải chỉ là một vài người tạo cớ cho tác giả viết dụ ngôn, nhưng là tất cả các thợ làm vườn nho đã giết người con sau khi bàn bạc với nhau (21,38-39). Như thế ở đây tác giả Mt không chỉ làm chứng trung thành về các lời của Đức Giêsu đã được truyền đạt cho ngài, nhưng còn cung cấp cho chúng ta cách thức giải thích các lời này cho các thành viên của các cộng đoàn tiên khởi của Hội Thánh. Hai phương diện này được kết nối chặt chẽ với nhau. Chỉ lời được Hội Thánh phát xuất từ các tông đồ hiểu và giải thích đúng đắn mói có thể được coi như là Lời Chúa, được Chúa Thánh Thần linh hứng và buộc chúng ta tin nhận.
* Dụ ngôn Tiệc cưới thành công (8-13)
Phân đoạn này gồm hai truyện khác nhau được kết nối lỏng lẻo (cc. 8-10 và 11-13). Câu truyện có thể kết thúc ở c. 10. Chính cụm từ “xấu và tốt” ở c. 10 khiến độc giả nghĩ rằng câu truyện có thể còn tiếp.
Bây giờ các đầy tớ có nhiệm vụ ngỏ lời mời với những người khác, mà không chọn lựa. Họ có nhiệm vụ đưa tất cả những ai họ gặp trên đường khắp cùng bờ cõi vương quốc (diexodoi tôn [h]odôn) vào phòng tiệc. Tác giả Mt không nói là “người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt” như Lc 14,21, vì hiểu chữ “tất cả” (“mời hết vào”) theo nghĩa khác: kẻ xấu người tốt đều được mời. Lần mời này thành công. Chẳng mấy chốc phòng tiệc đã đầy một khối người đa tạp. Sự đa tạp này không do khác nhau về y phục, về địa vị xã hội hay về những yếu tố bên ngoài. Đây là một sự khác biệt bên trong, chủ yếu, giữa “người xấu và người tốt (c. 10). Chúng ta chỉ hiểu được tình trạng này nếu khởi đi từ thực tế tác giả đang nghĩ tới. Lời mời đã được ngỏ với dân Israel, nhưng họ đã không muốn đón nhận; thế là lời mời được gửi đến một dân mới, Dân ngoại. Đây không còn phải là một dân gồm những người trong sạch và các thánh, mà là một xã hội đa tạp gồm những người xấu và những người tốt. Ta gặp thấy có cả hai hạng người này trong Hội Thánh, như cỏ lùng giữa lúa tốt (13,28; x. dụ ngôn Chiếc lưới: 13,47-50). Dù sao, phòng tiệc cũng đã đầy vì mọi người được tự do đi vào. Thế nhưng đến đây, bài dụ ngôn vẫn chưa kết thúc “có hậu”. Bởi vì sẽ có một cuộc biện phân quyết định: lời mời không khẳng định là người ta sẽ thực sự được tham dự vào lễ cưới. Trước tiên phải có một cuộc phán xét: phải tách cỏ lùng khỏi lúa tốt. Đây chính là mục tiêu của phân đoạn thứ hai (cc. 11-13).
Đến đây khung cảnh vẫn là bữc tiệc, nhưng sự chú ý lại xoáy vào chiếc áo cưới. Ông chủ dường như không còn phải là vị vua trước đây nữa. Ông không đến để chiêu đãi một bữa tiệc linh đình nữa, mà đến để “quan sát” (theasasthai; x. 2 V 9,18) các khách dự tiệc. Ông đã thấy có một người không có “y phục lễ cưới” (endyma gamou). Nhà vua gọi anh ta là “này bạn” (hetairos), nhưng thái độ rất cứng rắn, không khoan nhượng. Dĩ nhiên người ta tự hỏi là làm thế nào người kia có thể có một cái áo cưới (và tất cả những người khác thì lại có sẵn áo cưới!) khi mà anh ta bị mời đột ngột giữa đường. Như thế là bất công trắng trợn! Chính điểm gây “sốc” này cho hiểu rằng đây không phải là vấn đề một cái áo theo nghĩa cụ thể. Chúng ta đã được chuẩn bị cho cách giải thích này bởi vì dụ ngôn đã ghi trước đó là trong phòng có kẻ xấu người tốt. Rõ ràng người không có áo cưới thuộc về hạng kẻ xấu. Cũng chính điểm này mới giúp hiểu cách đối xử người ấy sẽ phải chịu: không phải là đuổi ra ngoài, nhưng “quăng ra chỗ tối tăm” (x. 8,12; 25,30), nơi sẽ phải “khóc lóc nghiến răng” (x. 8,12; 13,42.50; 24,51; 25,30), tức là người ấy bị tiêu vong. Sự “câm miệng” của người khách này chứng tỏ lời trách của ông chủ là đúng. Người này, cũng như những người đầu tiên, đã không hề quan tâm đến vinh dự đã nhận; họ đã đến tiệc cưới với đầu óc tầm thường, thô thiển, không trân trọng, không biết ơn.
Bữa tiệc là hình ảnh Nước thiên sai; chiếc áo tượng trưng cho các tư thế căn bản để được vào và ở lại đó. Trong Bài Giảng trên núi, Đức Giêsu đã yêu cầu các môn đệ phải có một “sự công chính dồi dào hơn” (x. 5,20); đây chính là tinh thần mới người ta phải có để sống các tương quan với Thiên Chúa.
Nhận được lời mời không đương nhiên là được cứu độ vĩnh viễn. Con số những người được kêu gọi thì nhiều, điều này có nghĩa là nhiều người được để cho đi vào, không phân biệt, không điều kiện. Họ không cần phải giữ luật Môsê, họ không cần phải chịu cắt bì. Nhưng khả năng đi vào không có nghĩa là một bảo đảm; đi vào trong sự hiệp thông Hội Thánh không có nghĩa là được đi vào trong Nước Thiên Chúa và lúc tận thế. Phải phân biệt giữa niềm cậy trông đầy tín thác và phó thác với sự tự phụ, tự hào không cơ sở là mình có ơn cứu độ.
* Kết luận (14)
Câu kết luận này là một lời bình của Đức Giêsu. Câu này, “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”, thường được giải thích theo hai cách. Cách thứ nhất cho rằng “những người được chọn” đây là những người được nhận một ơn đặc biệt khiến họ có thể sống gần kề hơn với những sự thuộc về Thiên Chúa và có thể cậy dựa nhiều hơn vào lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa đối với họ. Dĩ nhiên con số này ít, còn đa số chỉ nhạn được một ơn thông thường. Cách thứ hai, phổ biến hơn, giới hạn khẳng định của Đức Giêsu vào trường hợp những người Do Thái thời Người mà thôi: tất cả đều được gọi vào Nước Trời theo nghĩa là tin vào Người, nhưng tuyệt đại đa số đã từ khước đi vào Nước ấy khi loại trừ Đấng Mêsia.
Cả hai cách giải thích này đều có phần giá trị, nhưng không khớp với dụ ngôn. Cách thứ nhất giả thiết rằng người khách bất xứng đã bị quăng ra ngoài bởi vì đã lén đi vào một nhóm nhỏ gồm những người được ưu tuyển; nhưng bản văn nói rõ là người ấy bị loại bởi vì thiếu điều tối thiểu cần thiết cho sự đoan trang của bữa tiệc. Cách thứ hai cũng không thỏa đáng. Bởi vì người khách bị loại đã đi vào với nhóm thứ hai, nên người này là một người ngoại chứ không phải là một người Do Thái; thế nhưng lại chính vào lúc loại trừ người ấy mà Đức Giêsu mới công bố lời nói về nhóm nhỏ những người được chọn. Đàng khác, hiểu sát bản văn, chúng ta thấy câu này không phù hợp với các sự hiện: trên con số lớn các khách dự tiệc, chỉ có người bất xứng này bị loại trừ; làm sao có thể nói đến một số “ít” (nhỏ) những người được chọn?
Do đó, giải pháp đơn giản nhất nằm ở bình diện ngữ học (philologie): đây là hai công thức so sánh theo ngôn ngữ Sê-mít ở thể ngầm, mà ta có thể dịch ra như sau: “Những kẻ được gọi thì nhiều [hơn], nhưng những người được chọn thì ít hơn”. Hiểu như thế, chúng ta thấy phù hợp với ngữ cảnh: con số người được gọi thì rất đông, nhưng rồi có những người từ khước và có người bị loại trừ. Quả thật, nhiều người được gọi, nhưng những người được chọn thì ít hơn. Do đó, điều hết sức quan trọng là để ý mà thực hiện những điều kiện cần thiết để cho việc chúng ta được kêu gọi đưa chúng ta đến chỗ được chọn vĩnh viễn (x. Lc 13.22-24 trong chiều hướng này).
+ Kết luận
Tầm nhìn của bản văn có thay đổi: Từ chỗ minh họa lời rao giảng của Đức Giêsu, dụ ngôn đã trở thành một minh họa đời sống của Hội Thánh. Đã là những người được thừa hưởng những lời hứa của Thiên Chúa, người Do Thái cũng là những người đầu tiên được đón nhận Tin Mừng, từ phía Đức Giêsu cũng như từ phía các tông đồ. Vậy mà họ vẫn không tin: thái độ cứng tin này quả là một mầu nhiệm, nhưng cũng không làm hỏng được các kế hoạch của Chúa quan phòng. Vào lúc tác giả Tin Mừng viết, thì Hội Thánh đã quy tụ lại nơi bàn tiệc thứ hai rồi. Các tín hữu thuộc về Hội Thánh cũng như các khách dự tiệc phải luôn luôn trong y phục chỉnh tề vì bất cứ khi nào vị thẩm phán cũng có thể xuất hiện và loại họ khỏi phòng tiệc vĩnh viễn. Cũng như dân Do Thái đã bị loại bởi vì họ đã tỏ ra bất xứng khi từ chối lời mời, người Kitô hữu cũng có thể bị loại trừ mặc dù đã đón nhận lời mời.
Tuy nhiên, chính chúng ta phải thấy mình được Thiên Chúa kêu gọi và chờ đợi chúng ta tự do quyết định. Thiên Chúa vẫn cứ nhắc lại các lời kêu gọi và tiếp tục gửi đến các sứ giả của Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hoàn cảnh hiện tại có đặc điểm là Thiên Chúa kêu gọi qua trung gian các tôi tớ, sự tự do của con người và sự đại lượng của Thiên Chúa. Từ hoàn cảnh này, ta không được rút ra những hậu quả sai lạc. Ta không được cho rằng tiếng gọi của Thiên Chúa là một đề nghị không quan trọng, rằng chúng ta có thể tùy nghi đón nhận hoặc từ khước, rằng chúng ta có một tự do không giới hạn có thể không những chọn lựa mà còn xác định được các hậu quả của sự chọn lựa, rằng sự tự do của Thiên Chúa là dấu cho thấy Ngài yếu đuối và dửng dưng. Bây giờ Thiên Chúa là Đấng kêu gọi và mời mọc; con người là những người hành động, đáp trả với khả năng quyết định tự do. Nhưng đến cuối, Thiên Chúa sẽ là Đấng hành động và xác định vĩnh viễn. Ai từ chối làm việc trong vườn nho sẽ bị loại khỏi Nước Trời (x. 21,31). Ai không giao nộp các hoa lợi của vườn nho và xử tệ với các tôi tớ của ông chủ sẽ bị mất vườn nho và phải chịu một kết thúc thảm thương (21,41). Ai không đón nhận lời mời đến dự tiệc, sẽ bị loại trừ (22,8).
2. Chúng ta có thể chọn lựa tự do, nhưng chúng ta không còn tự do nữa đối với các hậu quả của sự chọn lựa của chúng ta, bởi vì chúng ta không thể tự do xác định chúng, nhưng chúng thuộc về cách do Thiên Chúa xác định. Chúng ta có thể nói không với tiếng gọi của Thiên Chúa, nhưng chúng ta không thể đạt được sự thể hiện tốt đẹp cuộc sống chúng ta với tiếng không này. Cần phải ý thức như thế để không xử sự cách phi lý, khi không đón nhận tiếng gọi của Thiên Chúa.
3. Bữa tiệc không chứa những yếu tố khiến có thể nghĩ đến tiệc Thánh Thể, nhưng chính hình ảnh vẫn có thể gợi ra những bữa tiệc agapê và các cuộc cử hành phượng tự thường xuyên trong Hội Thánh. “Các đầy tớ” (douloi) của dụ ngôn thứ nhất ở đây được gọi là “những người phục dịch” (diakonoi); từ ngữ diakonoi khiến ta nghĩ đến các thừa tác viên trong các cử hành phụng vụ. Áo cưới nêu bật tình trạng thánh thiện và ân sủng mà người ta phải có để được đến gần bàn tiệc của Chúa.
4. Trong các dụ ngôn Cỏ lùng và Lưới cá (13,37-43.49-50), Đức Giêsu cũng đã nói rõ rằn Hội Thánh cũng là một phần của tập thể pha trộn là thế giới, “thửa ruộng” của Con Người. Như thế, các thành viên của Hội Thánh phải để ý đừng thuộc về “những kẻ xấu” đứng đó mà không có y phục lễ cưới. Chỉ có một người trong dụ ngôn bị cật vấn có nghĩa là từng người phải trả lẽ, chứ không thể cây dựa vào người khác.
5. Vào ngày chúng ta được rửa tội, chúng ta đã được mặc một áo trắng, và vị chủ lễ đã chúc chúng ta giữ cho nó được tinh tuyền cho đến ngày Phán xét. Nếu chúng ta đã làm hoen ố bộ áo rửa tội này, chúng ta vẫn có thể đến trình diện trước tòa của lòng từ bi thương xót, đo là bí tích hòa giải. Tại đây Đức Giêsu lại giặt sạch bộ áo cưới của chúng ta và lại mời chúng ta vào tham dự bữa tiệc vương giả của Người, trong niềm vui của tình thân mật đã tìm lại được. Như thế, cũng đừng bao giờ tự hào rằng mình đã “tới nơi”, cũng đừng phê phán ai. Không phải vì ta đang “ở trong” mà ta đã được bảo đảm, và có quyền xét đoán những người “ở ngoài”, những người chưa biết mà đi vào, hoặc thậm chí những người đã từ khước. Cho dù có ở trong Hội Thánh hay Nước Thiên Chúa, chúng ta vẫn chỉ là “khách được mời”, do ân huệ nhưng không.
72. Suy niệm của Noel Quession
Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình…
Tin Mừng không bao giờ cho chúng ta những định nghĩa to tát trừu tượng về Thiên Chúa, về thiên đàng, về Giáo hội. Không? Tin Mừng đúng ra là một là một cuốn sách cao cả bằng nhiều hình ảnh. Khi nhìn sự thành công về mặt truyền hình của các đám với hoàng gia thì hình ảnh mà Đức Giêsu sử dụng trong thời đại ấy xem ra còn mới… dù hình ảnh ấy có tính chất Phương Đông rõ nét.
Như thế, Đức Giêsu trình bày với chúng ta một Thiên Chúa làm đám cưới cho con trai mình: đây là câu chuyện đẹp nhất trần gian, câu chuyện tình yêu đẹp nhất! Rõ ràng là câu chuyện liên quan đến Người. Đức Giêsu là người yêu. Người đã cưới một hôn thê mà Người yêu say đắm: hôn thê đó là nhân loại. Hình ảnh hôn lễ này như “một sợi chỉ vàng” xuyến suốt toàn bộ Kinh Thánh: Hôsê 1 đến 3; I-sai-a 54,4-8 – 61,10 – 62,4-5; Giê-rê-mi-a 2,2 – 31,3; ê-đê-ki-en 16; Thánh vịnh 45,7-8,Diễm Ca, toàn bộ; Mác-cô 2, 19; Gioan 3;29; Mát-thêu 2 5, 1 -1 3 – 9, 1 5; Ê-phê-sô 5,25; 2 Cô-rin-tô 19,29 – 21,2-9′ – 22,17; Khải Huyền 20,9 – 21,2-9 v.v…). Vâng, từ đầu này đến đầu kia của mạc khải, những quan hệ của Thiên Chúa với nhân loại là một “Giao ước” một “Lễ cưới”. Điều đó sẽ thay đổi gì cho tôn giáo của tôi nếu như thay vì chỉ quan niệm tôn giáo ấy như những chân lý phải tin và những quy tắc về đạo đức phải tuân thủ, tôi đi đến chỗ quan niệm tôn giáo của tôi thật sự là “một câu chuyện tình yêu?
Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc cưới…
Thiên Chúa mơ đến một bữa tiệc hoàn vũ cho nhân loại một bữa tiệc thật sự “vương giả”… một lễ hội! Bạn hãy thử hỏi bất cứ đứa trẻ nào để biết những trường hợp làm chúng rất sung sướng. “Đó là khi có nhiều khách mời đến nhà? “. Bữa ăn ngày lễ hội hoàn toàn là một biể u tượng của niềm vui được chia sẻ. Và ngày hôm nay vẫn thế, bữa tiệc cưới thường quy tụ nhiều khách khứa vui vẻ nhất: Món ăn chọn lọc, rượu ngon, tiếng nhạc lời ca, y phục lễ hội, khiêu vũ… Đến ngày lễ hội, bàn ăn đã sẵn sàng, Thiên Chúa cũng quy tụ các khách mời của Người. Nhưng khách được mời sắp làm gì?
Nhưng họ không chịu đến.
Ông vua tội nghiệp và thất vọng biết bao! Có gì mà chán nản.
Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi và dặn họ: “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rãi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!”.
Như trong dụ ngôn “những tá điền sát nhân”, nhưng sự từ chối của nhân loại dường như không làm Thiên Chúa ngạc nhiên. Không chán nản, Người sai những đầy tớ khác đi để một lần nữa mời họ. Đây không phải là một câu chuyện cũ trong quá khứ. Hiện nay vẫn luôn luôn có những lời mời gọi. Trước tiên đây không phải là lời mời gọi của những người khác. Thiên Chúa đã gợi cho tôi một “thẻ” vào cửa. Tôi có nhận thức tôi đang được chờ đợi và có một chỗ đành cho tôi ở bàn ăn không? Thật vậy, tôi phải dùng thời gian để mỗi buổi tối tự hỏi về những lời mời gọi mà Thiên Chúa đã không ngừng gọi đến tôi suốt một ngày. Và mỗi Chúa nhật, hãy dùng thời gian để tự hỏi tôi đã bỏ lỡ những lời mời gọi nào của Thiên Chúa trong tuần.
Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết.
Nhu trong “mùa hái nho đẫm máu” của Chúa nhật vừa qua chúng ta như chìm ngập vào bi kịch. Tiệc cưới đẫm máu cũng là biểu tượng cho sự khước từ Thiên Chúa. Chúng ta chớ quên rằng Đức Giêsu kể lại câu chuyện này, có lẽ một ít ngày trước cuộc khổ nạn của Người… trong tuần lễ cuối cùng của Người. Cái chết của Người đã được các thủ lãnh ở Giêrusalem quyết định trong bóng tối. Nhưng, chúng ta biết rõ không chỉ liên quan đến những người đồng thời của Đức Giêsu. Chính tôi… chính thế giới hiện nay…đang từ chối lời mời của Thiên Chúa. Sự mô tả tâm trạng sâu kín của những khách được mời ấy có tính thời sự nóng bỏng. Đức Giêsu mô tả hai hạng người: 1. những người “thờ ơ” với một sự lãnh đạm hầu như tự nhiên không có vẻ gì quan tâm đến việc mình được mời, và một cách rất đơn giản họ để cho công việc của họ cuốn họ đi… 2. và đến những người.”phản bác” họ từ chối lời mời một cách có ý thức và tham gia dùng bạo lực giết hại các đầy tớ.
Như thế Đức Giêsu mô tả cho chúng ta tình trạng của thế giới hiện đại một cách chính xác. Chỉ cần đưa ra một vài ví dụ xác đáng của ngày hôm nay dưới những từ ngữ của ngày xưa… “Làm thế nào mà các ông muốn tôi đi lễ? Tôi chỉ có một ngày Chúa nhật để chơi bóng đá và quần vợt. Đó là ngày mà tôi sẽ di du lịch. Đó lâu ngày mà tôi sửa chữa máy móc trong nhà. Tôi đã nhảy đầm cả buổi tối thứ bảy, làm thế nào mà các ông muốn tôi đi lễ ngày Chúa nhật… Và rồi, tôi còn có bài tập phải làm và các kỳ thi phải ôn thi…”. Thế đấy chúng ta đều bị xã hội tiêu thụ và chủ nghĩa duy vật ở xung quanh khống chế. Và chúng ta đều có nguy cơ cho Thiên Chúa đứng ở chỗ cuối. Biết bao âm thanh khác lấp mất những ‘lời’ kêu gọi của Người. “Hãy đến dự tiệc cưới của Ta?”. Và chúng ta không hề nghe thấy!
Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng.
Lịch sử phương Đông cổ đại cung cấp cho chúng ta những giai thoại thuộc loại này. Nhưng một lần nữa, chúng ta biết mình đang ở trong thể loại dụ ngôn. Không nên tìm kiếm ý nghĩa chính xác cho mỗi chi tiết. Tuy nhiên, thành phố bị thiêu hủy làm chúng ta nghĩ đến một biến cố lịch sử chính xác đã lầm tổn thương những người Do Thái và những Kitô hữu của thế kỷ đầu tiên và đó là cơ hội để Hội Đường và Hội Thánh đoạn tuyệt nhau (Do Thái giáo và Kitô giáo tách rời nhau). Khi Mát-thêu viết câu chuyện này thì trong thực tế những đạo quân của Titus đã tàn phá thành Giêrusalem vào năm 70. Một số phận như thế đã có thể xảy đến cho thủ đô nổi tiếng của dân tộc ít-ra-en như thế nào? Những biến cố lịch sử có thể được giải thích theo nhiễu cách. Tuy nhiên, các ngôn sứ đã giải thích sự tàn phá của các thành phố lớn như một hình phạt của Thiên Chúa” (I-sai-a 5,26-29; Giê-rê-mi-a 5,15-17).
Rồi nhà vua bảo đầy tớ: “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới”. Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.
Vậy đây là những khách mời mà người ta không chờ đợi và chính họ chấp nhận lời mời. Những người Do Thái, những người khách mới đầu tiền, vì thế sẽ nhường chỗ cho dân ngoại.
Nhưng một lần nữa, chúng ta phải cảnh giác với sự tự mãn về chủng tộc. Bởi vì đây cũng là vấn đề của chính chúng ta. Một cách chân thật, chúng ta có thể đáp “vâng” với những lời mời gọi mà Thiên Chúa lặp lại trong đời sống hàng ngày của chúng ta hay không?
Đức Giêsu đã báo trước cho chúng ta: Căn phòng tiệc cưới sẽ đầy cho dù các “ông lớn” không thèm đáp lại. Người sẽ làm đầy phòng tiệc với những người rách rưới, bị loại trừ, những người đầu đường xó chợ. Thánh Luca trong bài dụ ngôn song song xác định rõ thành phần: “Các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt” sẽ thế chỗ cho những người được mời đầu tiên (Luca 14,21). Và Mát-thêu, trong một đoạn văn khác cũng đã nói với chúng ta điều dó: Những người thu thuế và những cô gái.điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”
Vậy các người đi ra các ngã động gặp ai cũng mời, tốt xấu gì cũng mời… “.
Chúng ta hãy để cho những lời khác thường ấy tra vấn chúng ta. Chúng ta có được tấm lòng cũng bao la như Thiên Chúa hay không? Chẳng phải chúng ta luôn luôn bị chủ nghĩa ưu tuyển cám dỗ sao? Chẳng phải chúng ta luôn luôn mơ đến một Giáo Hội của những người thanh khiết, những chiến sĩ, những người có đức tin hoàn toàn sáng suốt sao? Chẳng phải chúng ta coi nhẹ những thực hành của “tôn giáo bình dân sao?”.
Còn Thiên Chúa, Người mời gọi mọi người, không phân biệt, đủ mọi thành phần. Người lại còn ưu ái đến những người nghèo, những người ở bên lề, những người bị bỏ rơi vì thiếu thốn, những người nghèo khổ.
Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?”. Người ấy câm miệng không nói được gì.
Lòng nhân từ của Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người xấu và tốt, không vì thế mà buông xuôi thành nhu nhược Biểu tượng về y phục thường gặp trong Kinh Thánh. Ơn cứu chuộc không bao giờ tự động có được: phải “đáp ứng” lời mời gọi của Thiên Chúa bằng sự biến đổi chính mình Phải “mặc lấy con người mới” (Ga-‘lét 3,27; E-phê-sô 4,24; Cô-lô-xê 3,10).
Bấy giờ nhà vua bảo những người phục dịch: Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng?”
Hình phạt to lớn này và những từ ngữ khuôn sáo (Mt 8,12; 13,42; 24,51; 25,30) dùng để mô tả sự xét xử ấy làm nổi bật tính chất hoàn toàn tượng trưng của “Y phục lễ cưới”, của chiếc áo dài hôn lễ! Đi vào trong phòng tiệc cưới một lần rồi thôi chưa đủ. Tiếp nhận Lời Chúa không phải để sau cùng cất Lời ấy vào chỗ an toàn.
Những người đã thay thế cho những khách mời đầu tiên cũng thế, không Phải là những người có quyền ưu tiên: nếu họ tỏ ra bất xứng với tiệc cưới của Thiên Chúa, họ sẽ bị ném “ra ngoài”. Lời cảnh báo ấy rất nghiêm trọng? Nó cáo giác sự an toàn dễ dãi của chúng ta? Người tín hữu được nhắc nhở đến trách nhiệm của mình.
Lòng thương xót của Thiên Chúa thì vô cùng. Nhưng người ta không thể coi thường sự thánh thiện của Người. Khi chúng ta được linh mục “mời gọi” đến hiệp lễ trong thánh lễ chúng ta nghe Ngài đọc: “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Thiên Chúa”. Và chúng ta chỉ có thể nói tiếng “vâng” nhưng trước hết phải nói rằng: “Lạy Chúa con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con… nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh”.
73. Dụ ngôn tiệc cưới – Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Về nước Trời cũng giống như vua kia”. Nước Trời không giống như một ông vua; nhưng trong Nước Trời được Chúa Kitô khai mào, sẽ xảy ra điều mà dụ ngôn sắp kể lại (x. 13, 24; 18, 23; 25, 1). Cựu ước và Do thái giáo năng chỉ Thiên Chúa dưới những nét của một vì vua (Tl 8, 23; 1 Sm 8, 7; Xh 19, 6; Tv 11, 4; 47, 3; 93, 1- 2; 95, 3- 5; 103, 19; Gr 10, 7…).
“Làm tiệc cưới cho hoàng tử “. Hình ảnh bữa tiệc thiên sai chắc chắn được vay mượn từ Cựu ước (Is 25, 6; 55, 1 -3). Nó diễn tả tính cách nhưng không của ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho dân Ngài và được tiên trông qua bữa ăn của Môisen với 70 kỳ lão, trước sự hiện diện của Đấng Vmh cửu trên núi Sinai, sau hy tế đền tội (Xh 24, 11). Sách Khải huyền cũng trình bày ngày quang lâm của Nước Thiên Chúa như là việc cử hành lễ cưới của Con Chiên (Kh 19).
“Nhưng họ không muốn đến”: Sự từ chối được diễn tả một cách rành rẽ qua động từ muốn động từ rất được Mt ưa thích (x. 11, 14; 16, 24; 18, 30; 19, 17; 23, 27b). Việc đáp lại lời mời không phải là chuyện khuynh hướng bẩm sinh hay chuyện tình cảm, nhưng là chuyện quyết định tự ý hoàn toàn. Xa hơn chút nữa (c. 5), Mt cho thấy các thực khách không nhèm đếm xỉa, đến lời mời không quan tâm rằng đó chính là thái độ hờ hững đáng tội, là sự thờ ơ hiểu theo nghĩa mạnh nhất.
“Khách mời đã không đáng dự ”. Sự bất xứng của các kẻ được mời không do tự nhưng khiếm khuyết hay vô tri tự nhiên, vì sau đó đủ mọi hạng người sẽ được triệu mời, lành cũng như dữ ” (c. 10); họ bất xứng vì đã từ chối.
“Vậy các người hãy ra các ngã đường, hễ gặp ai thì mời vào tiệc cưới, Kiểu nói vậy hãy đi” (poreuesthe oun) nhắc cho ta nhớ những tiếng mà Chúa Giêsu sẽ dùng để sai các môn đồ đến với dân ngoại: vậy các ngươi hãy đi thâu nạp các môn đồ khắp muôn dân ” (28, 19). Ơn cứu độ nhưng không của Chúa Kitô, dù bị người Do thái khinh chê, vẫn được cống hiến cho bất cứ ai nghe lời mời gọi của các kẻ phục vụ Tin Mừng trong khắp nẻo đường thế giới: “Nhiều kẻ sẽ từ phương Đông, phương Tây mà đến và được dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước Trời ” (8, 11). Sự cứng lòng và từ chối của Israel chỉ khai mào thời gian của Giáo Hội, thời gian mà một khi Tin Mừng được rao giảng cho mọi dân tộc (24, 14), phòng tiệc sẽ tràn ngập đủ hạng người. Thành t!lử việc sai các gia nhân lần thứ ba tương ứng với việc sai các sứ đồ đến với dân ngoại sau khi Chúa Giêsu phục sinh. Ở đây, chúng ta gặp lại chiều hướng phổ quát và truyền giáo rất được Mt chú trọng (2, 1- 2; 3, 9; 8, 5-10; 8, 28- 34; 15, 21- 28; 13, 47; 21, 43…).
“Bất luận dữ hay lành”. Chi tiết này làm ta liên tưởng tới dụ ngôn lưới cá (13, 47- 50); “kẻ dữ ” đây là những người có tội được mời cách nhưng không, sẽ cải thiện đời sống một khi đã vào trong Nước Trời hay Giáo Hội, hoặc là các kẻ dữ theo nghĩa tuyệt đối mà một ngày kia sẽ bị loại ra khỏi Nước Trời (hay khỏi Giáo Hội). Các câu 11- 14 tiếp theo sau xét đến hạng kẻ dữ này.
“Nhà vua đi vào coi khách dự tiệc”. Đây là cuộc phán xét sau cùng; hãy so sánh với các dụ ngôn của ch. 13 (vd: cỏ lùng, lưới cá) và của ch. 25 (mười trinh nữ nén vàng, chiên và dê): trong các dụ ngôn ấy nói tới sự lựa chọn, phân tách kẻ dữ người lành. Những câu này, của riêng Mt, chắc chắn là để sửa lại một lối giải thích tự do quá trớn về các câu 1-10. Dĩ nhiên, việc gia nhập vào Giáo Hội là nhưng không thật đấy, song chớ quên rằng đó là Giáo Hội của Vua. Thiên Chúa “khám xét”: Dân mới của Ngài kỹ lưỡng vô cùng vì ân sủng Ngài luôn luôn đòi hỏi.
“Sao bạn vào đây mà không mặc y phục lễ cưới? “: Y phục lễ cưới này là cái gì vậy? Đó chỉ có thể là thực tại và được biểu hiệu trong dụ ngôn thợ vườn nho qua hình ảnh hoa quả Nước Trời. Đó là sự công chính luôn được Tin Mừng Mt đòi hỏi nơi tín hữu, sự công chính hay là sự trung thành mới mà các chương 5-7 đã cho một vài ví dụ (5, 20; 6, 33…). Để đi vào Nước Trời, cần phải mặc áo cứu độ” (Is 61, 10), “mặc lấy Chúa Kitô ” (Ep 4, 24; Gl 3, 27). Vì thế, chỉ những ai đã “giặt áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7, 9-17) mới có thể đứng vững trước ngai Con Chiên trong ngày lễ cưới (x. Kh 19, 6- 8).
“Người ấy câm miệng”: Người Do thái quan niệm rằng các việc lành phúc đức sẽ bầu cử cho họ trước mặt Thiên Chúa. “Ai thực thi huấn lệnh thì người ấy sắm cho mình một kẻ chuyển cầu” (Châm ngôn tiên tổ 4, 13). Một ý tường tương tự cũng được tìm thấy trong Cv 10, 4. Người khách đã không thực thi việc phúc đức thành ra câm miệng lại: chẳng một ai chuyển cầu biện hộ cho y.
KẾT LUẬN
Dân Do thái, kẻ thừa hưởng lời hứa của Thiên Chúa, là những người đầu tiên được đón nghe Tin Mừng, do từ chính Chúa Giêsu (Người chỉ giảng dạy cho họ) cũng như do các sứ đồ (các vị luôn luôn bắt đầu từ nơi họ, ngay cả Phaolô, trong các thành ngài rao giảng), nhưng họ đã không sẵn sàng tiếp đón. Tuy nhiên, sự cứng lòng của họ, dầu bí nhiệm đến đâu (Ga12, 37- 43), cũng không thể làm cho ý định quan phòng của Thiên Chúa thất bại. Các dân ngoại, được rao giảng Tin Mừng muộn hơn, sẽ dần dà đi vào trong Giáo Hội của Chúa Kitô. Và chính thánh Phaolô (Rm 11, 26) có hé mở cho thấy trong tương lai, Israel sẽ trở lại với Người cách ồ ạt, khiến sau cùng Do thái và dân ngoại, hiệp nhất trong một Giáo Hội, có thể cùng nhau tạo thành Israel của Thiên Chúa. trong lúc chờ đợi, mỗi người phải cố gắng mặc lấy Chúa Kitô bằng cách thực thi việc làm.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Bàn tiệc cưới của Giáo Hội là bàn tiệc Thánh Thể, được Chúa Kitô khai mạc với các sứ đồ trong bữa tiệc ly (Mt 26, 26- 29) và luôn được tái diễn từ ngày Hiện Xuống trong Giáo Hội sơ khai (Cv 2, 42) cũng như trong các cộng đoàn Kitô hữu mới (1Cr 11, 23- 29). Để xứng đáng tham dự bàn tiệc Thánh Thể này, phải mặc áo cưới, nghĩa là sống một đời phù hợp với Tin Mừng của Chúa Kitô. Và từ bàn tiệc Thánh Thể này đến bàn tiệc Thánh Thể khác, chúng ta sẽ càng ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô và đủ điều kiện để một ngày kia tham dự vào bàn tiệc thiên quốc trong tình thân mật với Thiên Chúa, nơi đó Thiên Chúa sẽ là tất cả niềm vui của chúng ta.
2) Khi lãnh nhận phép Thánh tẩy, chúng ta đã được mặc một chiếc áo trắng và linh mục đã chúc chúng ta gìn giữ nó tinh tuyền cho đến ngày phán xét trước tòa án của Chúa Kitô. Nếu chúng ta đã làm bẩn chiếc áo rửa tội này, chúng ta luôn có thể trình diện nơi tòa án của lòng thương xót là Bí tích Giải tội. Ở đó Chúa Kitô, qua lời Bí tích của vị đại diện Người, sẽ tẩy sạch áo cưới của chúng ta và lại kêu mời chúng ta dự tiệc cưới của Vua, trong niềm vui của tình thân được tái lập. Đừng có làm như những người được mời đầu tiên của dụ ngôn mà từ chối hồng ân lớn như thế.
3) Thiên Chúa luôn kêu mời chúng ta vào trong tình thân mật của Ngài, mời ta hưởng niềm vui được phục vụ Ngài (phục vụ là thống trị vì Chúa). Người ta có thể phản đối lời mời ấy bằng một thái độ thù nghịch công khai, điều này rất may là họa hiếm. Thường thường người ta phản đối bằng thái độ lãnh đạm tôn giáo, được che dấu dưới nhiều cớ dễ dãi: không có thì giờ, nhiều việc khác cấp bách hơn..v.v… Như những kẻ đầu tiên được mời của dụ ngôn, ta không thèm đếm xỉa đến lời mời đã nhận được. Trong phương diện này, trách nhiệm Kitô hữu nặng nề hơn trách nhiệm của người ngoại, vì Kitô hữu biết rằng mình được mời đự tiệc, trong khi lương dân chỉ có thể trực giác cách mơ hồ thôi, trong đáy sâu thẳm của lòng họ.
4) Chúa nói dụ ngôn cho chúng ta, là Người đang sống trong Giáo Hội. Người cảnh giác chúng ta: đừng tưởng rằng các ngươi đã đến đích, đã an vị; giữa các ngươi có đủ loại, kẻ dữ người lành, cỏ lùng lúa tốt. Các gia nhân của Ta dã quy tụ các ngươi, họ đã lấy tất cả những gì họ gặt: tốt cũng như xấu. Chẳng phải vì các ngươi ở trong mà các ngươi được xét đoán kẻ ở ngoài, những kẻ đã từ chối không chịu đến. Vì có một cách khác làm sỉ nhục cho Đấng mời gọi chúng ta là định cư trong nhà Người như thể trong nhà của chúng ta, quên rằng Người đã mời gọi chúng ta, quên rằng chúng ta ở trong Giáo Hội là nhờ ân sủng thuần túy, quên rằng chỉ c.ó cách sống đạo của chúng ta mời định đoạt về số phận được tuyển chọn cuối cùng.
5) Mặc lấy Chúa Kitô là mặc lấy các tâm tình: lân tuất, nhân hậu, khiêm nhu, nhẫn nại, hiền từ (Cl 3, 9- 13), là tha thứ như Người đã tha thứ cho ta, là yêu mến như Người đã mến yêu ta, là trở nên một Kitô khác, là được biến đổi trong Người, là chân thật trong các cuộc giao tiếp với anh em, là đừng để cho cơn giận có thời giờ ra chai cứng lại thành hiểu lầm nhau, là nỗ lực làm việc để có thể chia sẻ cho những người túng thiếu.
6) Thiên Chúa mời chúng ta dự tiệc của Ngài không những là qua tiếng nói của Giáo Hội hay các linh mục, nhưng còn qua bất cứ một người vô danh nào mà chúng ta biết lắng nghe, qua một biến cố lay động cuộc sống, qua một thử thách mà chúng ta trải vượt, qua một niềm vui mà chúng ta thường thức. Trong mức độ mà các con người và các biến cố ấy kêu gọi chúng ta, thúc bách chúng ta phản ứng, buộc chúng ta chọn lựa sống đạo, vì đó chính là các gia nhân đến nài xin tự do của ta, đến thông ban cho ta một Tin Mừng: “Tiệc cưới đã sẵn”.
74. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển
CẦN CÓ Y PHỤC XỨNG HỢP KHI DỰ TIỆC HOÀNG TỬ GIÊSU
Theo truyền thống, phong tục của nhiều dân tộc xưa, mỗi khi nhà vua cưới cho hoàng tử, thì các đại thần được ưu tiên mời, đồng thời mọi người dân cũng được hưởng ân lộc đó của nhà vua.
Còn với chúng ta hiện nay, không nhiều thì ít, hẳn mỗi người cũng đều được mời đi dự tiệc cưới của một ai đó.
Hôm nay, bài Tin Mừng cũng trình thuật câu chuyện Vua mở tiệc cưới cho Hoàng Tử. Một đám cưới rất đặc biệt cho cả người thiết đãi lẫn khách dự tiệc! Cách hành xử của Vua cũng như quan khách lại rất khác thường!
1. Ý nghĩa dụ ngôn
Trong dụ ngôn, chúng ta thấy Đức Giêsu đã khéo léo trình bày dung mạo của Thiên Chúa với lòng bao dung, độ lượng; đồng thời thấy được sự ích kỷ của khách mời. Mặt khác, Đức Giêsu còn mặc khải cho chúng ta biết rằng: hết mọi người đều được mời đến tham dự tiệc Nước Trời. Tuy nhiên, khi được mời thì cần phải có y phục xứng đáng.
Giờ đây, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của dụ ngôn:
Trước tiên, ông Vua chính là Thiên Chúa Cha: “Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25, 6). Người luôn chuẩn bị sẵn sàng: “Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng”. Tuy nhiên, không chỉ những người ưu tuyển, mà Người còn quan tâm, để ý đến mọi người: “Hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới”.
Qua hình ảnh này, thần dân sẽ cảm thấy Người là vị Vua nhân hậu, hay thương xót và quảng đại với hết mọi người.
Thứ đến, Hoàng Tử chính là Đức Giêsu. Hôn Thê là Giáo Hội. Đây là hình ảnh đẹp tuyệt vời diễn tả tình yêu giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Hoàng Tử sẽ sống hết mình vì Hôn Thê. Chàng Rể này vì vâng lời Cha và yêu Hôn Thê của mình, mặc dù nhiều khi Hôn Thê phản bội, cố chấp, do sự hận thù, ích kỷ, bảo thủ, bất trung, bội nghĩa. Nhưng vị Hoàng Tử đặc biệt này đã sẵn sàng đón nhận tất cả, chịu đựng tất cả, yêu thương tất cả, đến nỗi chết cho người mình yêu.
Tiếp theo, khách được mời là dân Dothái, tuy nhiên họ đã khước từ và lấy lý do: “Người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi”, vì thế, nhà Vua đã quyết định mời hết mọi người, không phân biệt. Ngày cưới là ngày chung cuộc, ngày phán xét, ngày Vua tập hợp tất cả mọi người trên mọi nẻo đường, mọi thành phần tốt cũng như xấu, và đến giờ, nhà Vua mới tiến vào và phán xét mọi người để phân biệt đâu là chiên và đâu là dê!
Cuối cùng là y phục lễ cưới: tiêu chuẩn để không bị xét xử là phải mặc y phục của lễ cưới. Nếu không sẽ bị đuổi ra ngoài.
Y phục mà Đức Giêsu muốn nói đến ở đây chính là sự đổi mới. Đổi mới là từ bỏ lòng ích kỷ cá nhân để mặc vào lòng bác ái vị tha. Từ bỏ sự hiềm khích, vô ơn, bất chính, để mặc vào tình yêu thương chân chính và lòng biết ơn. Từ bỏ sự hờ hững, vô tâm để mặc lấy lòng nhiệt thành, liên đới, cảm thông.
Vì thế, mặc y phục lễ cưới là mặc lấy tinh thần mới, lối nhìn mới và cách sống mới. Tuy nhiên, thật tiếc thay, điều kiện của Vua thì rất là dễ, nhưng lại trở thành quá khó đối với một số người cố thủ trong ích kỷ, biếng nhác, tham lam và ghen ghét. Vì thế, họ bị đuổi ra ngoài: “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít”.
Như vậy, qua bài Tin Mừng, Đức Giêsu trình bày dung mạo một vị Vua hiền hậu lạ lùng: Ông tự ý mở tiệc và cho các đầy tớ hết lớp này đến lớp khác đi mời, dù khách được mời không thèm đến, lại còn giết các sứ giả được sai đến với họ.
Dung mạo vị Vua càng hiền hậu bao nhiêu thì càng làm nổi bật sự vô ơn bất xứng của khách được mời bấy nhiêu. Họ tỏ ra khinh mạn, hỗn xược với tấm lòng quảng đại của nhà Vua.
2. Thái độ của chúng ta trước lời mời gọi của Chúa
Trong đời sống Đạo của chúng ta hiện nay, nhiều khi không khác gì những người Dothái. Nên vẫn còn đó tình trạng: “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”; hay không quan tâm đến việc sống đạo, mà chỉ quan tâm đến chuyện bề ngoài; hoặc không muốn nghe những lời giáo huấn của Chúa qua các đấng bậc trong Giáo Hội.
Tất cả đều khởi đi từ sự kiêu ngạo và ích kỷ. Họ để cho cái tôi quá lớn và coi mình đã đạo đức đủ nên không cần nghe và cũng chẳng có gì phải sửa!
Vì kiêu ngạo, nên không thể chấp nhận sửa sai, dù đó là Lời Chúa dạy.
Vì ích kỷ nên khó lòng chấp nhận ngồi lại với nhau để làm việc… bởi nghĩ rằng người anh chị em chúng ta không xứng tầm với mình, nên chẳng cần quan tâm.
Những người như vậy, họ như ly nước đã đầy, nên không thể tiếp thêm cho dù chỉ một giọt nước. Hay như mảnh đất quá khô cằn, nhưng khi mưa xuống thì họ lại che đậy lại, khiến nước mưa không thể tiếp xúc…
Sự hóng hách, khinh thường, chê bai, chỉ trích, bè phái… luôn luôn thường trực trong trái tim vốn đã hóa đá của họ, vì thế, nơi họ, không ai lấy đi được khỏi mắt họ cặp kính râm, vì thế họ nhìn mọi sự trước mắt đều là màu đen… tiêu cực.
Quả thật, họ đâu nhận ra tình thương của Thiên Chúa dành cho mình, nên việc khước từ ơn Chúa đến như những người được mời dự tiệc mà không hề để ý đến thiện tình của ông chủ là lẽ đương nhiên nơi những con người này.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đến tham dự bàn tiệc Nước Trời. Một cách cụ thể, đó là chúng ta được mời đến tham dự bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể Chúa hằng ngày nơi thánh lễ. Tuy nhiên, chúng ta đã đáp trả như thế nào? Thờ ơ lãnh đạm như dân Dothái xưa không đi dự tiệc vì quá nhiều bận rộn trong đời sống, hay chúng ta đi dự tiệc mà không mặc y phục lễ cưới là phẩm hạnh của bàn tiệc mà Đức Giêsu đòi hỏi như: y phục của lòng tin, cậy, mến; y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa; y phục của tình yêu thương, liên đới và chia sẻ với người nghèo!
Mỗi khi chúng ta hiệp dâng thánh lễ, ấy là lúc chúng ta được Thiên Chúa mời gọi vào dự bữa tiệc của tình yêu, chia sẻ, hiệp nhất. Khi được mời gọi như thế, hẳn chúng ta phải có một tâm hồn trong sạch để xứng đáng với hồng ân cao trọng này.
Đồng thời mỗi người chúng ta khi tham dự tiệc Thánh Thể, cần mặc lấy tinh thần tự hủy, liên đới vì tha thân để noi gương Đức Giêsu yêu thương hết mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con khi được tham dự bàn tiệc Thánh Thể và Lời Chúa thì cũng được biến đổi, để ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa và đủ điều kiện để một ngày kia tham dự vào bàn tiệc Thiên Quốc. Amen.
75. Suy niệm của Lm. Đan Vinh
SÁM HỐI VÀ TIN CHÚA GIÊSU LÀ Y PHỤC DỰ TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Dụ ngôn tiệc cưới
Đức Giêsu trình bày dụ ngôn tiệc cưới, ám chỉ lịch sử ơn cứu độ của Thiên Chúa qua hai giai đoạn chính như sau:
Đầu tiên Thiên Chúa tuyển chọn và mời gọi dân riêng Ít-ra-en gia nhập vào Nước Trời do Đấng Thiên Sai thiết lập, nhưng họ đã từ chối tình thương cứu độ của Người. Sau đó Thiên Chúa đã mời gọi tất cả các dân tộc gia nhập Nước Trời. Tuy nhiên muốn được tham dự vào bàn tiệc Nước Trời đời sau người ta tối thiểu phải mặc y phục lễ cưới, tức là phải có “lòng ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng” do Chúa Giêsu rao giảng. Ai cố tình không mặc y phục lễ cưới sẽ không được vào dự tiệc Nước Trời và còn bị phạt trong hỏa ngục muôn đời.
CHÚ THÍCH:
– C 1-3: + Nước Trời giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình: Thiên Chúa khai mở bữa tiệc thời Thiên Sai bằng việc cho Con Một Người xuống thế làm người (x. Mt 24,1-12; Kh 19,9). Tuy dụ ngôn về tiệc cưới của hoàng tử, nhưng lại đề cập nhiều đến thái độ phải có của các khách được mời đến tham dự. + Nhà vua sai đầy tớ: Đầy tớ ám chỉ các ngôn sứ (x. ls 25,6). + Đi thỉnh các quan khách đã được mời trước: Quan khách ám chỉ dân Ít-ra-en được Thiên Chúa ưu tuyển. + Nhưng họ không chịu đến: Các đầu mục đã hướng dẫn dân Ít-ra-en khinh thường lời mời của Thiên Chúa.
– C 4-6: + Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi: Điều này cho thấy lòng khoan dung của Thiên Chúa. Ngài luôn kiên nhẫn trước thái độ bất trung ngỗ nghịch của Ít-ra-en dân riêng của Ngài. + Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: Họ không đếm xỉa tới lời mời vì không tin vào các ngôn sứ do Thiên Chúa sai đến. + Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn: Đi thăm trại hay đi buôn bán là những lý do biện minh cho hành động không đến tham dự bữa tiệc cưới, cho thấy dân ít-ra-en đã coi trọng của cải vật chất và các việc trần gian hơn lời hứa cừu độ của Thiên Chúa. + Còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết: Các đầu mục đã xúi dân bắt bớ giết hại các ngôn sứ là những gia nhân do Thiên Chúa sai đến. Điều này cho thấy tội bất trung của họ đã lên đến tột cùng và đáng bị trừng phạt.
– C 7-8: + Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ: Sự dửng dưng, từ chối và còn giết hại các ngôn sứ thời Cựu ước và các Tông đồ thời Tân ước khiến cho Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ. + Sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy: Sự cố chấp chống lại tình thương cứu độ, khiến dân Do Thái không còn xứng đáng được hưởng sự khoan dung nữa và đáng bị trừng phạt. + Và thiêu hủy thành phố của chúng: Việc thiêu hủy thành phố ám chỉ biến cố thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy bình địa vào năm 70 sau Công nguyên. Điều này cho thấy Tin mừng Mát-thêu được biên sọan vào sau năm 70, khi ấy tác giả đã được chứng kiến cảnh hoang tàn đổ nát của thành Giê-ru-sa-lem. + Những kẻ đã được mời lại không xứng đáng: Ơn cứu độ đã được hứa ban cho dân Ít-ra-en, nhưng họ lại không đáng được hưởng do thái độ dửng dưng và từ chối gia nhập vào Nước Trời do Đức Giêsu thiết lập.
– C 9-10: + Vậy các ngươi đi ra các ngả đường: Nhắc lại lệnh của Đức Giêsu truyền cho các môn đệ trước khi về trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19). Ra các ngả đường còn nói lên tính phổ quát của ơn cứu độ như lời Đức Giêsu: “Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngòai, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 8,11-12). + Gặp ai bất luận xấu tốt cũng tập hợp cả lại: Câu này cho thấy ý của Thiên Chúa là muốn cho tất cả mọi người đều được vào Nước Trời (x. Mt 9,13). + Phòng tiệc cưới đã đầy thực khách: Từ nay Hội thánh gồm đủ mọi dân tộc và mọi thành phần tốt xấu trong xã hội. Ở đây cũng nhắc lại ý nghĩa của dụ ngôn Cỏ lùng (x. Mt 13,24-30) và Chiếc lưới (x. Mt 13,47-50).
– C 11-12: + Nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc: Sự quan sát ám chỉ cuộc phán xét cuối cùng của Đức Giêsu, Đấng được Thiên Chúa tôn lên làm “Chúa” (x. Pl 2,6-11) và làm “Vua” xét xử muôn dân (x. Mt 25,31-46). Tuy “Hội thánh lữ hành” ở trần gian còn bao gồm cả người tốt lẫn kẻ xấu, nhưng “Hội thánh chiến thắng” trên trời lại chỉ gồm những người đã trải qua cuộc phán xét chung. Khi ấy chỉ những người có đức tin, thể hiện qua lối sống khiêm tốn phục vụ mới được tham dự bàn tiệc Nước Trời. + Có một người không mặc y phục lễ cưới: Trong Thánh Kinh không chỗ nào đề cập đến tục lệ chủ nhà sắm quần áo cưới cho quan khách đến dự tiệc mặc trước khi vào phòng tiệc nhưng chỉ cần họ ăn mặc lịch sự là đủ. Y phục lễ cưới ở đây ám chỉ chiếc áo trắng chiến thắng (x. Kh 7,9b), áo chính trực công minh (x. Is 61,10) và công chính (x. Mt 5,16.20), tượng trưng con người mới công chính thánh thiện (x. Ep, 4,24), giống như Hiền thê được trang điểm và được mặc áo sáng chói tinh tuyền đi đón Con Chiên (x. Kh 19,8). Tóm lại, y phục lễ cưới chính là chiếc áo trắng tinh khi chịu phép rửa tội. + Người ấy câm miệng không nói được gì: Người không mặc y phục lễ cưới đã không thể biện minh cho thái độ khinh thường chủ tiệc của mình.
– C 13-14: + Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: Đây là những hình phạt tượng trưng cho hỏa ngục, nơi dành cho những kẻ sống bất chính và thù ghét Thiên Chúa. Nơi đó họ sẽ phải khóc lóc đau khổ và nghiến răng tủi hờn. + Kẻ được gọi thì nhiều mà người được chọn thì ít: Nhiều ít không phải về số lượng, nhưng đúng hơn là sự non kém. Nên câu này có thể được dịch lại như sau: “Kẻ được gọi thì đông hơn, và người được chọn thì ít hơn”. Câu này lẽ ra được đặt ngay sau dụ ngôn Tiệc Cưới. Vì người được gọi thì rất nhiều “chật ních phòng tiệc”, và chỉ có người được mời trước từ chối và “một người không mặc áo cưới bị loại ra mà thôi (x. Lc 13,22-30). Việc người được gọi thì nhiều mà được chọn thì ít không phải do Thiên Chúa không mời, nhưng tại loài người đã cố tình từ chối lời mời của Thiên Chúa, hay vì không mặc áo cưới công chính tinh tuyền, không sống giới răn yêu thương của Chúa Giêsu (x. Mt 3,8 ; 5,20 ; 7,21 ; 13,48 ; 21,32).
HỎI ĐÁP:
– Hỏi 1: So sánh dụ ngôn Tiệc cưới trong hai Tin mừng Mát-thêu (22,1-14) và Lu-ca (14,16-24), ta thấy Tin mừng Lu-ca không nói đến việc ông vua phát hiện ra có một kẻ không mặc áo cưới và trừng phạt y. Vậy Tin mừng nào thuật lại đúng hơn?
ĐÁP: Ngày nay một số nhà chú giải nghĩ rằng: dụ ngôn Tiệc Cưới do Đức Giêsu giảng thực ra đã chấm dứt ngay sau khi vua cho mời những kẻ nghèo khó, tàn tật mù què vào đầy phòng tiệc, để thế chỗ cho những kẻ được mời mà không đến (x. Lc 14,16-24; Mt 22,1-10). Còn phần sau trong Tin mừng Mát-thêu (22,11-14) thực ra là một dụ ngôn khác, là dụ ngôn “Áo Cưới”, nhưng đã được đặt liền sau dụ ngôn “Tiệc Cưới”.
– Hỏi 2: Ông vua có bất công không khi phạt một người khách không mặc y phục lễ cưới chỉ vì bất ngờ được mời, nên không có thời gian chuẩn bị trước. Hơn nữa, do được mời ở ngã ba đường và bị ép vào phòng tiệc, thì lấy đâu ra áo cưới?
ĐÁP: Những ai nhận đây là hai dụ ngôn được ghép lại thành một thì sẽ không thắc mắc gì về vấn đề áo cưới, vì ai cũng có thời giờ chuẩn bị trước ở nhà. Tuy nhiên ngay cả trường hợp được mời đột xuất thì việc phạt người không mặc áo cưới cũng không phải là bất công. Vì tại sao bao nhiêu người khác cũng được mời bất ngờ như vậy mà vẫn mặc y phục lễ cưới? Hơn nữa, khi bị hạch hỏi, người không mặc áo cưới này lại làm thinh, không bào chữa gì được cho hành vi của mình. Nhưng đây cũng chỉ là một câu chuyện dụ ngôn, nhằm dạy bài học hơn là chú ý đến các chi tiết xác thực. Điều dụ ngôn muốn nói là: Người khách không mặc áo cưới là một kẻ xấu xa gian ác, cố tình không sám hối, nên hắn ta đáng bị vua trừng phạt trong hỏa ngục đời đời.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” Người ấy câm miệng không nói được gì (Mt 22,11-12).
2. CÂU CHUYỆN: Y phục của sự hân hoan, yêu thương và phục vụ
Để trả lời cho những người muốn biết Nước Trời ở đâu, Đức Giêsu đã dạy: “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17,21). Như vậy, mỗi gia đình, cộng đoàn hay bất cứ tập thể nào cũng có thể trở thành thiên đàng hay hỏa ngục. Có người đã tưởng tượng ra cảnh thiên đàng và hỏa ngục tương tự như hai bàn tiệc sau đây:
Cả hai bàn tiệc trên thiên đàng hay dưới hỏa ngục đều có đầy thức ăn ngon, và mỗi người đều được phát một đôi đũa. Có điều các đôi đũa đều dài quá khổ, đến nỗi tuy người ăn có thể gắp được đồ ăn trên bàn, nhưng lại không sao đưa được vào miệng của mình. Trong bàn tiệc trên thiên đàng thì mọi người đồng bàn đều có lòng vị tha bác ái, thể hiện qua thái độ phục vụ người khác và làm vui lòng người khác. Họ gắp đồ ăn lẫn cho nhau, nên mọi người đều được ăn no và không khí bàn tiệc rất vui vẻ bình an và hạnh phúc. Ngược lại, tại bàn tiệc trong hỏa ngục thì mọi người đồng bàn đều có thái độ ích kỷ khi chỉ nghĩ đến mình. Vì không thể tự đưa đồ ăn vào miệng, và lại ganh tị không muốn người khác hơn mình, nên mọi người trong bàn tiệc đều bị đói, và hậm hực thù ghét lẫn nhau. Bầu khí nơi bàn tiệc lúc thì căng thẳng, lúc lại nặng nề khiến trong số các kẻ ngồi ăn: Người thì chán nản khóc lóc, kẻ lại nghiến răng giận hờn.
3. SUY NIỆM:
1) Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho loài người qua hai giai đoạn:
a- Đầu tiên: Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ đến với dân It-ra-en báo tin về một Đấng Thiên Sai sẽ đến thiết lập một “Triều Đại của Thiên Chúa”, và mời dân này gia nhập. Khi gần đến ngày đã định, Thiên Chúa lại sai Gio-an Tẩy Giả là vị tiền sứ của Đấng Thiên Sai đến nhắc lại lời mời gọi ấy như sau: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2). Nhưng dân Ít-ra-en vẫn tỏ thái độ thờ ơ và vua Hê-rô-đê đã giết hại Gio-an và về sau dân này còn hè nhau giết hại chính Người Con do Thiên Chúa sai đến là Đức Giêsu.
b- Tiếp đến: Trước sự cứng lòng từ chối ơn cứu độ của dân Ít-ra-en, Thiên Chúa đã mời hết mọi dân tộc tham dự tiệc cưới Nước trời như lệnh truyền của Đức Giêsu trước khi lên trời: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Sau khi nhận ơn Thánh Thần, các Tông đồ đã thi hành sứ mạng rao giảng Tin mừng khắp muôn dân. Nhờ Thánh Thần tác động mà số người gia nhập Hội thánh ngày một gia tăng.
2) Đáp lại lời mời của Thiên Chúa thế nào?
a- Phải mặc y phục lễ cưới:
Chúng ta vốn là dân ngoại, nhưng đã đáp lại lời mời của Đức Giêsu để gia nhập vào Hội thánh (x. Mc 1,15). Nhưng muốn được tham dự bàn tiệc Nước Trời đời sau, chúng ta cần mặc chiếc áo trắng tinh khi chịu phép rửa tội và sống đức tin bằng việc thực thi đức cậy và đức mến (x. Mt 7,21; Lc 11,28). Thực ra, Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn được nên con cái của Người, là để chúng ta sống xứng với ơn ấy. Cần hoán cải và canh tân mỗi ngày (x. Mt 3,2), cần sống khiêm tốn, yêu thương và phục vụ Chúa trong người chung quanh, nhất là những người bệnh tật, nghèo khổ và bị bỏ rơi (x. Lc 17,10; Mt 25,34), chu toàn sứ mạng loan báo Tin mừng (x. 1 Cr 9,16). Mỗi tối khi tự kiểm trước khi đi ngủ, chúng ta hãy tự hỏi: Hiện giờ tấm áo trắng rửa tội của tôi có còn tinh tuyền không? Hôm nay tôi đã sống giới răn mến Chúa yêu người như thế nào? Giả như đêm nay Chúa gọi tôi về trình diện, thì tôi có đủ điều kiện tham dự bàn tiệc Nước Trời là Thiên đàng hay không?
b- Y phục lễ cưới là thực hành ba nhân đức đối Thần là “Tin, Cậy, Mến”:
Thánh Phao-lô khuyên đồ đệ Ti-mô-thê: “Lời truyền dạy đó phải nhằm đưa tới đức mến, phát xuất từ tâm hồn trong sạch, lương tâm ngay thẳng, và đức tin không giả hình” (1 Tm 1, 5). Đó chính là y phục lễ cưới Nước Trời. Trong lễ nghi Rửa tội, tấm áo trắng được trao cho người tân tòng mặc vào biểu tượng sự sống mới được Chúa Giêsu mang lại nhờ cái chết trên cây thập giá của Người. Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta cởi bỏ con người cũ tội lỗi để mặc lấy con người mới theo Chúa Ki-tô. Tất cả những ai muốn được dự Tiệc Cưới của Chúa Giêsu do Chúa Cha khoản đãi, đều phải có được lối sống Tin Cậy Mến này.
c- Các tín hữu cũng cần nhìn lên những điều cao siêu trên trời:
+ Câu chuyện ngụ ngôn về một con chim đại bàng như sau:
Một con gà rừng mẹ đang ấp trứng, nhưng lẫn trong ổ trứng của nó có một trứng to của chim đại bàng. Khi đến ngày giờ, các quả trứng đều nở ra thành con. Đại bàng con nô đùa vui vẻ bên các chú gà rừng như anh chị em ruột trong gia đình gà rừng.
Một ngày kia, khi đang bới móc trong đống rác kiếm ăn giun đất chung với đàn gà rừng, đại bàng con chợt thấy một con đại bàng lớn bay lượn trên không với dáng vẻ oai phong đẹp mắt. Cậu liền hỏi gà mẹ rằng:
– Mẹ ơi, sao bọn mình lại không bay lên cao như chim đại bàng trên trời kia hả mẹ?
– Chúng ta không phải đại bàng nên không thể bay lên được con ạ!
– Thế chúng ta là ai hả mẹ? Đại bàng con hỏi tiếp.
– Chúng ta chỉ là loài gà rừng mà thôi!
Rồi vài ngày sau đó, khi đang khi bươn chải kiếm ăn trên đống rác, đại bàng con lại thấy chim đại bàng mẹ bay lượn trên cao gọi cậu:
– Hãy bay lên cao với mẹ hỡi con của ta! Thế giới của con là trời cao biển rộng, chứ đâu phải đống rác nhơ bẩn dưới đó! Mau bay lên với mẹ đi con.
Đại bàng con cố đập cánh bay lên theo lời mẹ gọi, nhưng bay được vài cái là lập tức bị rơi xuống đất giữa tiếng cười chế nhạo của anh em gà rừng. Bọn chúng bảo đại bàng con rằng:
– Chú chỉ là loài gà rừng, làm sao bay lên cao được hả chú bé?
Đại bàng con tự nhủ: Nếu ta chỉ là gà rừng thì sao mẹ đại bàng trên cao kia cứ gọi ta là đại bàng con? Đàng khác, ta thấy bay lên cao cũng đâu phải quá khó! Có lẽ tại ta chưa tập thành thạo đó thôi. Vậy bây giờ ta thử bay thêm lần nữa xem sao.
Thế là đại bàng con đủ lông đủ cánh đã bay được lên trời và cứ tiếp tục bay lên cao mãi. Cậu bay theo sau đại bàng mẹ tiến về một phương trời mới. Lần đầu tiên trong đời, đại bàng con được nhìn xuống đất từ trên cao. Cậu cản thấy lòng tràn ngập niềm vui vẻ hạnh phúc.
+ Kitô hữu là người được Thiên Chúa tuyển chọn để nên con cái của Ngài. Họ là “Giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa” (1 Pr 2,9). Tuy sống trong thân phận con người trần gian, nhưng luôn ngước mắt nhìn lên trời cao, mong về cùng Thiên Chúa Cha đầy tình yêu thương. Cần sống trong tâm tình của thánh Au-gút-tinô như sau: ”Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa.Và tâm hồn con vẫn còn thao thức mãi, cho tới khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”.
+ Chúng ta đừng nghĩ mình là loài gà rừng hèn hạ, để chỉ biết cúi đầu bươi chải đống rác hôi thối để tìm kiếm thức ăn, chỉ biết bằng lòng với những hạnh phúc tầm thường chóng qua do tiền tài danh vọng sắc dục mang lại. Tuy trước mắt đồ ăn có vẻ hợp khẩu vị đấy, nhưng chúng chỉ có giá trị nhất thời ở đời này. Khi chết là chấm dứt mọi sự. Chúng ta cần phải nhìn lên cao, cố gắng tập vươn tâm hồn lên những gì là cao thượng, phù hợp với Thiên đàng đời sau như lời thánh Phao-lô dạy: ”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).
4. THẢO LUẬN:
1) Thánh Gio-an viết: “Thiên Chúa là tình yêu”. Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16b). Vậy thiên đàng ở đâu? 2) Bạn có thể làm cho gia đình hay cộng đoàn của bạn trở thành thiên đàng được không? 3) Theo Tin Mừng Mát-thêu (Mt 25,40-45): Để tránh bị Chúa trừng phạt trong ngày tận thế, ngay từ bây giờ bạn phải làm gì?
5. NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con. Xin cho con biết luôn quên mình để làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa. Xin cho con biết khiêm hạ, luôn làm việc để tôn vinh Thiên Chúa và vì phần rỗi tha nhân.
– Lạy Chúa. Ước gì con biết hãm mình và sống trong tình thương của Chúa. Ước gì con biết đón nhận tất cả những gì xảy đến cho con và trung thành bước theo Chúa đến cùng. Xin đừng để điều gì thuộc trần gian quyến rũ con lạc xa Chúa. Xin hãy thương xót con và giúp con thêm lòng tin yêu Chúa. Xin hãy giúp con biết noi gương Chúa làm và sống lời Chúa dạy, hầu sau này con đáng được hưởng kiến Thánh Nhan Chúa Cha trên trời.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
76. Suy niệm Lời Chúa các ngày trong tuần 28 TN
Jos. Vinc. Ngọc Biển
THỨ HAI
Đừng thách thức Thiên Chúa trong sự kiêu ngạo
(Gl 4, 22-24. 26-27. 31 – 5, 1; Lc 11, 29-32)
“Tôi đã đi khắp vũ trụ, nhưng không thấy Thiên Chúa ở đâu cả!”. Đó là lời thốt lên từ một phi hành gia của Liên Xô sau chuyến thám hiểm vũ trụ.
Thật vậy, tâm thức của con người trong thời đại này thiên về thực dụng, vì thế, họ chỉ tin khi mắt thấy, tai nghe. Thái độ này trùng hợp với tâm thức của những người Biệt Phái thời Đức Giêsu.
Sẵn có sự hiềm khích đối với Đức Giêsu, vì thế, họ tận dụng mọi cơ hội để thử thách Ngài. Hôm nay, họ đòi hỏi Đức Giêsu phải làm một dấu lạ để họ tin. Tuy nhiên, họ đã bị khước từ vì bản chất của phép lạ không nhằm thỏa mãn sự tò mò hay hiếu tri của con người, nên Đức Giêsu đã không đáp ứng nhu cầu của họ.
Thật vậy, nội dung và ý nghĩa của phép lạ không nằm ở việc thỏa mãn trong sự thách thức, mà là ngang qua phép lạ, người đón nhận sẽ có tâm tình sám hối, thay đổi đời sống và có mối tương quan thân mật, tin tưởng với Thiên Chúa và có tấm lòng bao dung với tha nhân. Sự biến đối này được khởi đi từ tâm tình khiêm tốn và sẵn sàng biến đổi đời sống cho phù hợp với Thánh Ý Thiên Chúa.
Thực trạng ngày nay của mỗi người chúng ta hẳn rất giống với người Biệt Phái khi xưa! Thường thì chúng ta hay xin Chúa cho mình làm ăn phát đạt, mà không hề để ý đến cách kinh doanh của mình. Có khi kinh doanh bất chính nhưng vẫn xin Chúa cho thuận buồn xuôi gió! Hay cộng tác vào những chuyện trái với luân thường đạo lý, nhưng lại xin được bình an! Hoặc xin Chúa chữa lành bệnh tật nhưng đời sống không có gì thay đổi…! Đôi khi cũng có những người thách thức Chúa như những Biệt Phái khi xưa nữa!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhạy bén với ơn Chúa, để nhận ra một phép lạ vĩ đại, cả thể mà Ngài vẫn thường làm trên cuộc đời và trong cuộc sống của chúng ta, đó là tình yêu thương, sự bao dung của Ngài dành cho nhân loại.
Thật vậy, nếu Chúa không yêu thương và đại lượng với chúng ta, hẳn chúng ta đã không bao giờ có được ngày hôm nay!
Đồng thời cần khiêm tốn để sẵn sàng biến đổi đời sống, trở nên người hiền lành, khiêm nhường. Có thế chúng ta mới hy vọng được Chúa ban thưởng hạnh phúc Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhận ra sự quan phòng của Chúa trên cuộc đời chúng con, để từ đó chúng con sống trong sự khiêm tốn và tin tưởng vào Ngài. Amen.
THỨ BA
Cái bên ngoài không làm nên đạo đức
(Gl 4, 31b – 5, 6; Lc 11, 37-41)
Trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Brasil thuộc Châu Mỹ Latinh vào năm 1980, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã để lại một ấn tượng hết sức đẹp, đó là Ngài đã tháo chiếc nhẫn vàng Giáo Hoàng của mình để tặng cho người dân nghèo ngoại ô thành phố Rio de Janeiro.
Sự kiện này đã làm cho nhiều người đi cùng với ngài tỏ vẻ không hài lòng!
Hôm nay, Tin Mừng cũng thuật lại một nghĩa cử hết sức lạ thường của Đức Giêsu, đó là Ngài đã sẵn sàng đáp lại lời mời của một người trong nhóm Biệt Phái để đến dự tiệc tại gia đình ông, mặc cho nhiều người chống đối, sầm sì.
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây chính là sự bất mãn của một số Biệt Phái đối với Đức Giêsu khi Ngài không rửa tay trước khi dùng bữa. Thấy vậy, Đức Giêsu đã lật tẩy thói đạo đức vụ hình thức của họ khi nói: “Này các ông, những người biệt phái, các ông lau rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng nội tâm các ông đầy tham lam và gian ác. Hỡi những kẻ ngu dại, chớ thì Ðấng đã tạo thành cái bên ngoài, lại chẳng tạo thành cả cái bên trong sao?”; đồng thời, Ngài cũng mời gọi họ hãy hoán cải để đẹp lòng Thiên Chúa và được Ngài tha thứ bằng việc thực thi bác ái với tha nhân.
Qua câu nói này, Đức Giêsu muốn nói cho họ biết tính vụ luật của họ không được Thiên Chúa hài lòng, đồng thời họ đang dùng luật để đẩy người khác đến sự bất hạnh, hơn nữa, chính đường lối và nơi lòng họ thì đang xa cách Thiên Chúa. Điều mà những người Biệt Phái cần lúc này chính là sự thanh tẩy tâm hồn, chân thành, thanh tịnh trước mặt Chúa. Những thứ bề ngoài chỉ như “màn thưa che mắt thánh”, thực ra Thiên Chúa biết hết mọi sự kín đáo từ bên trong tâm hồn mỗi người. Vì thế, điều họ đang làm và bắt người khác phải làm theo không hề có ý nghĩa trước mặt Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở về với lòng mình để thấy được đâu là điều tốt, đâu là điều xấu. Sống cốt lõi của Tin Mừng là tình liên đới, chia sẻ với người nghèo, bất hạnh, cô đơn. Tránh thói xét đoán bề ngoài như những người Biệt Phái khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có một tấm lòng bao dung, độ lượng. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con can đảm sống thật với lương tâm của mình để được bình an và hạnh phúc thật. Amen.
THỨ TƯ
Hãy thi hành trước khi dạy người khác
(Gl 5, 18-25; Lc 11, 42- 46)
Bài Tin Mừng hôm nay đặt trong khung cảnh của một bữa ăn tại nhà một người Biệt Phái.
Đức Giêsu được mời dự tiệc và Ngài đã bị các Biệt Phái để ý đến việc Ngài không rửa tay trước khi ăn. Họ bắt bẻ Đức Giêsu và cho rằng Ngài bỏ qua tập tục của tiền nhân… Tuy nhiên, lại một lần nữa, Ngài đã tố cáo lối sống bề ngoài của họ.
Thật vậy, những người Biệt Phái thì chỉ lo giữ luật theo mặt chữ, còn thực chất tinh thần thì đã chết khi họ nhất nhất bám vào từng dấu chấm, dấu phẩy. Họ sống vì luật, nên chỉ quan tâm đến chuyện đúng sai bề ngoài, mà đâu hề có sự công bằng và yêu thương. Họ luôn coi trọng hình thức trước đám đông,vì thế, luôn thích được chào hỏi nơi công cộng.
Bên cạnh đó, những Tiến Sĩ Luật cũng bị khiểm trách nặng nề vì họ luôn bắt người khác phải làm chuyện này chuyện kia… nhưng thực ra bản thân họ thì không hề có một chút gì quan tâm đến việc phải làm nơi mình. Họ chất lên vai người ta đủ thứ, còn chính họ thì dù chỉ một chút nhỏ cũng không hề đụng ngón tay vào.
Ngày hôm nay, trong xã hội, người ta ít quan tâm đến việc đạo đức! Nếu có ai thực tâm sống tốt lành thì sẽ bị người ta dè bửu… ngược lại, họ quan tâm đến kiến thức, coi trọng việc đào tạo trí thức để sau này kiếm sao cho được nhiều tiền chứ không mảy may quan tâm đến chuyện kiếm tiền như thế nào cho phù hợp với lương tâm… Như vậy, sự vô cảm, bất nhân xuất hiện nhan nhản trong xã hội. Tại sao vậy? Thưa! Vì xã hội và con người ngày hôm nay quan tâm đến cái đầu chứ đâu có màng chi đến trái tim! Vì thế, lối sống hình thức, giả tạo là điều đương nhiên có mặt trong thời buổi này.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết coi trọng tiếng nói của Lương Tâm. Biết quan tâm đến đời sống nội tâm hơn là hình thức. Biết sống liên đới và lo cho anh chị em của mình được hạnh phúc thực sự. Biết nêu gương sáng trong đời sống hằng ngày trước khi hướng dẫn ai đó về đường đạo đức.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rằng: với Chúa, bề ngoài không nhất thiết quan trọng, nhưng điều cần thiết chính là bề trong, nơi sâu thẳm tâm hồn. Xin cho chúng con được sống theo đường lối của Chúa muốn. Amen.
THỨ NĂM
Đừng phản bội sứ vụ làm chứng cho sự thật
(Ep 1, 1-10; Lc 11, 47-54)
Đức Giêsu đến để làm chứng cho sự thật. Vì thế, Ngài không bao giờ chấp nhận lối sống giả hình, gian dối… Chính vì điều này mà đã làm cho sự căng thẳng giữa Ngài và các Biệt Phái ngày càng leo thang!
Hôm nay, Tin Mừng trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu thẳng thắn lên án nhóm Biệt Phái và các Tiến Sĩ Luật về lối sống giả hình của họ cách nặng nề.
Ngài vạch trần tội ác của họ khi đồng lõa để giết các tiên tri là những người dám đứng lên loan báo và bênh đỡ sự thật. Họ còn là những người ngăn cản người khác trên con đường nhân đức nữa.
Họ luôn coi mình là người lãnh đạo, nắm giữ chìa khóa hiểu biết, nhưng thực ra bên trong thì rỗng tuếch, chẳng qua chỉ như lớp sơn bôi bóng hay như mồ mả tô vôi. Họ không sống tinh thần của Chúa mà luôn sống cuộc sống trịnh thượng, trưởng giả và bắt người khác thi hành lệnh của họ, từ đó, họ đã trở thành những kẻ mù lại dắt kẻ mù, khiến những người được họ hướng dẫn cũng phải bơ vơ lạc lõng, mất phương hướng và không biết đi về đâu!
Khi Đức Giêsu khiển trách họ như thế, một sự đối đầu đã ập đến với Ngài. Vì thế, họ đã tìm mọi cách để bắt bẻ Ngài và tận dụng mọi cơ hội để tố cáo nhằm giết chết Ngài. Với họ, Đức Giêsu chẳng khác gì cái gai trong mắt, cái đinh trên đường, nên họ không thể đội trời chung.
Qua cung cách của họ, Đức Giêsu không phải không biết những đau khổ do những người này gây nên, nhưng trước sau như một, Ngài luôn trung thành với sứ mạng của mình. Dù đòn vọt, gươm đao, tù đầy và chết chóc, không gì có thể làm cho Ngài phản bội sứ vụ của Thiên Chúa Cha đã trao phó nơi Ngài là loan báo và làm chứng cho sự thật.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống trung thành với đường lối của Thiên Chúa là làm chứng cho sự thật. Chấp nhận mọi thử thách, dù là cái chết, miễn sao sự thật được lên tiếng. Không được sống kiểu ăn mày tiếng khen mà sợ tiếng chửi kiểu Biệt Phái khi xưa. Cũng đừng lấy danh này danh kia để bắt người khác phải phục vụ mình. Cần trung thành với Giáo Huấn của Chúa trong khi phục vụ người khác.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng là đường là sự thật và là sự sống, xin hướng dẫn chúng con đi trên con đường Chúa đã đi để được sống đời đời. Amen.
THỨ SÁU
Sống vì mục đích Nước Trời
Ep 1, 11-14; Lc 12, 1-7
Cả tuần nay, Đức Giêsu liên tiếp chống đối lối sống đạo đức dỏm của Biệt Phái và Tiến Sĩ Luật. Hôm nay, lại một lần nữa Đức Giêsu không chấp nhận lối sống giả hình của họ, đồng thời, Ngài cũng cảnh tỉnh các môn đệ của mình khỏi vướng vào lối sống giả nhân giả nghĩa như các Biệt Phái và Tiến Sĩ Luật đang làm.
Nhân dịp này, Đức Giêsu cũng mời gọi các môn đệ can đảm sống chứng tá cho Tin Mừng dầu có phải chết. Sự sống trên trần gian này là cuộc sống tạm bợ, mai hậu mới là vĩnh viễn. Vì thế, không nên khờ dại mà đánh đổi sự an nhàn đời này mà đau khổ mãi mãi đời sau. Luôn sống trong sự phó thác và tin tưởng vào Chúa Quan Phòng.
Ngày nay, không thiếu cảnh tín hữu kitô nơi này, nơi kia bị bách hại. Cụ thể nhất chính là ở Iraq. Các tín hữu bị buộc phải cải đạo, nếu không sẽ phải chết. Tuy nhiên, đức tin mạnh mẽ vào Chúa Quan Phòng, anh chị em chúng ta ở đây đã không sợ hãi những kẻ chỉ giết hại được thân xác mà không giết được linh hồn, vì thế, họ đã sẵn sàng chấp nhận cái chết để minh chứng cho tình yêu của mình đặt nơi Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm sống thật, hành động thật và tin tưởng phó thác nơi Chúa. Đừng sợ những khó khăn thử thách trong đời sống đạo. Đón nhận con đường khổ giá như là điều kiện cần cho phần rỗi của mình.
Luôn nhớ rằng khi chúng ta tin và sống đạo, hẳn chúng ta không thể thoát khỏi sự hiểu lầm, chống đối và đôi khi cả cái chết nữa. Tuy nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra ý nghĩa của đau khổ và ngang qua đó, chúng ta sẽ thấy cùng đích của cuộc đời nằm ở nơi Thiên Chúa chứ không phải những thứ mau qua, chóng hết ở đời này.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được yêu mến Chúa, can đảm sống đời chứng nhân trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Sẵn sàng làm chứng cho lẽ phải, công bằng. Amen.
THỨ BẨY
“Đừng sợ” Chúa Thánh Thần sẽ nói thay
Ep 1, 15-23; Lc 12, 8-12
Đọc lại lịch sử các thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta thấy: rất nhiều vị thánh xuất thân từ nhà quê, chẳng được học hành là bao, lại phải lam lũ khổ sở, suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, ấy vậy mà khi bị bắt, bị tra tấn, đánh đập, nhất là khi bị hỏi cung, các ngài đã trả lời hết sức trôi chảy, không những thế, các ngài còn lý luận và bẻ gãy những lời nói phi nhân bất nghĩa của vua quan. Mặt khác, nhân cơ hội, ngoài chuyện làm chứng cho Chúa bằng đời sống, các ngài còn rao giảng Lời Chúa cho những người đang làm hại mình nữa. Tất cả những chuyện đó, chúng ta ai cũng hiểu là Chúa Thánh Thần nói trong và hành động nơi các thánh.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng nói cho các môn đệ biết, các ông sẽ phải chịu đau khổ, bách hại và gặp muôn điều khó khăn, tuy nhiên, các ông đừng sợ, những lúc như thế, Chúa Thánh Thần sẽ giúp các ông để cho các ông biết phải làm gì và nói gì.
Trong đời sống đạo của chúng ta hiện nay, không còn quá khó như thời các thánh tử đạo khi xưa. Nhưng vẫn còn nơi này, nơi kia, vì một số người kém hiểu biết, dốt nát, cổ hủ, nên còn gây khó dễ đối với các tín hữu cách này, cách khác. Những người này có thể vì một mục đích thực dụng nào đó cho cá nhân hay tập thể, nên mới có những hành xử kém hiểu biết và thiếu nhân văn như vậy! Tuy nhiên, điều này không đáng ngại, bởi vì kinh nghiệm cho thấy, càng khó khăn, khổ sở bao nhiêu thì niềm tin và đời sống đạo lại càng sống động. Nhưng điều đáng sợ hơn cả chính là những trào lưu tục hóa đang dần bách hại tinh thần của chúng ta. Những phim ảnh, sách báo, băng đĩa xấu đang lan tràn mọi nơi. Những thứ này nó phá hủy từ bên trong, nên có sức làm băng hoại đời sôngs đạo đức, luân lý nơi con người. Đây mới là thử thách đáng phải quan tâm.
Sống trong xã hội như thế, người kitô hữu được mời gọi làm chứng cho Chúa bằng cuộc sống lành mạnh, không cờ bạc, hút trích, trai gái… Khước từ những điều không phù hợp với luân lý kitô giáo. Còn nếu có gặp khó khăn, bắt bớ, cấm cách, chúng ta an tâm, vững tin vào Chúa Quan Phòng, vì những lúc đó, Chúa Thánh Thần sẽ thực thi vai trò của Người như xưa Người đã làm nơi các Tông đồ và các bậc tiền nhân của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con, để chúng con được ơn can đảm, trung thành với Chúa và Tin Mừng của Chúa. Amen.