Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN – C
Lời Chúa: St. 18, 20-32; Cl. 2, 12-14; Lc. 11, 1-13
MỤC LỤC
1. Cầu nguyện 3
2. Thưa chuyện với Thiên Chúa 5
3. Kinh Lạy Cha, đọc xuôi đọc ngược 8
4. Cầu nguyện của tôi, điều gì còn thiếu? 16
5. Cầu nguyện 20
6. Cầu xin – Lm. Giuse Trần Việt Hùng 22
7. Lời kinh tuyệt vời – Thiên Phúc 27
8. Lạy Cha chúng con – ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt 30
9. Cầu nguyện 33
10. Ban Thánh Thần 36
11. Hãy xin thì sẽ được 39
12. Hãy xin thì sẽ được 42
13. Ý chí – Lm Vũ Đình Tường 45
14. Cầu nguyện liên lỉ và cậy trông 47
15. Kinh Lạy Cha – André Sève 52
16. Biến ước mơ thành hiện thực 55
17. Phải cầu nguyện như thế nào? 58
18. Lạy Cha chúng con… 60
19. Đẹp thay lời nguyện xin – Lm. Anmai. 63
20. Thờ phụng là nhìn nhận sự thật – Achille Degeest 69
21. Suy niệm của Charles E. Miller 71
22. Cầu xin hay cầu nguyện? 74
23. Lạy Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện 79
24. Hãy xin, hãy tìm, hãy gõ – McCarthy 82
25. Kiên trì, Phó thác – Lm. Thiện Duy 86
26. Suy niệm của R. Gutzwiller 93
27. Cầu nguyện 102
28. Cầu nguyện 104
29. Nét đẹp lời cầu xin 109
30. Lời Kinh Tuyệt Vời – An Phong, OP 113
31. Tình thân của Thiên Chúa 116
32. Kinh Lạy Cha – Lm. Giuse Nguyễn An Khang 120
33. Lạy Cha 124
34. Cầu nguyện 127
35. Kiên trì 130
36. Hiệp thông 134
37. Xin thì sẽ được – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm 138
38. Cầu nguyện – Lm. Bùi Quang Tuấn 142
39. Tin tưởng vào Chúa và tha thiết nguyện cầu 146
40. Hãy xin thì sẽ được 150
41. Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện 153
42. Lời kinh tuyệt vời… 158
43. Chú giải của Lm FX. Vũ Phan Long 161
44. Chú giải của Noel Quesson 172
1. Cầu nguyện
Người Âu Mỹ vốn có lòng quý trọngt súc vật. Người ta đã thiết lập những hội bảo vệ súc vật, xây những dưỡng đường để điều trị cho súc vật và có cả những nghĩa trang dành riêng cho súc vật. Phải chăng lòng quý trọng này có cái chi bất ổn và thái quá? Mặc dù con vật thì thấp kém hơn con người rất nhiều, nhưng nó cũng có những điều đáng làm cho chúng ta suy nghĩ. Chẳng hạn một con chó vẫy đuôi chào mừng khi chủ nó trở về; trong khi đó, nhiều người lại chẳng biết mở miệng chào hỏi bề trên và những bậc ân nhân của mình. Dĩ nhiên sự trung thành và biết ơn của một con chó phần lớn la do thói quen và bị hạn chế nhiều lắm.
Từ đó, chúng ta đi vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Lòng trung thành và biết ơn của chúng ta đối với Ngài là như thế nào? Buổi sáng khi thức dậy, khởi đầu cho một ngày mới với những ơn huệ Chúa ban, chúng ta có biết cầu nguyện và thân thưa với Chúa hay không? Nhiều người đã đưa ra 1001 lý do để khước từ việc làm tốt đẹp này. Nào là còn biết bao nhiêu công việc phải làm, nào là có biết bao nhiêu tin tức phải lắng nghe và ghi nhận, không còn đủ thời giờ để suy tư và cầu nguyện nữa. Có những người mặc dù còn cầu nguyện, nhưng lại chỉ làm vì thói quen, như một cái máy với một vận tốc hết sức mau lẹ.
Thiên Chúa, Đấng cho mặt trời mọc lên, để khởi đầu một ngày mới, phải được chúng ta ca tụng và chào kính với những tình cảm chân thành nhất, xuất phát từ trái tim. Mặc dù không có trí khôn, nhưng con chó còn biết cách biểu lộ sự biết ơn của minh. Trong khi đó, con người là tác phẩm tuyệt vời nhất của Thiên Chúa, thì lại chỉ biết đón nhận hết điều nọ đến điều kia, mà lại chẳng tỏ ra biết ơn một chút nào cả.
Sở dĩ như vậy là vì con người đã quên mất những kỷ niệm và sự nương nhờ của mình vào Thiên Chúa. Cuộc sống với những tiện nghi và dễ dại đã làm cho chúng ta quên mất những hồng ân của Thiên Chúa và dường như không còn cần đến Ngài nữa. Suy nghĩ và hành động như vậy, nên con người thời nay luôn cảm thấy khắc khoải và bất hạnh hơn lúc nào hết.
Với chúng ta thì khác. Trước khi khởi đầu một ngày mới với những công việc bận rộn, chúng ta hãy tìm gặp Chúa trong những tâm tình cầu nguyện. Đây là một việc làm xuất phát tự con tim, chứ không phải chỉ là một việc làm hoàn toàn máy móc. Bởi vì lời cầu nguyện là tiếng nói của một con tim nghèo nàn trước Đấng Tối Cao: Lạy Chúa, con cần đến Chúa như cần đến khí trời để thở.
Có kẻ lại bảo: Cầu nguyện cũng chẳng ích lợi chi! Chúng ta nên nhớ điều này: Cầu nguyện không phải chỉ là cầu xin, mà trước tiên phải là ca ngợi và cảm tạ Thiên Chúa. Ngài không cần đến chúng ta, trái lại chúng ta luôn cần đến Ngài. Cho dù có quên đi mọi lời kinh, thì ít nữa cũng còn đọng lại kinh Lạy Cha, một lời kinh kiểu mẫu, đơn sơ và xâu xa.
Con người luôn cần đến Thiên Chúa, cho nên hãy tìm gặp Ngài trong những tâm tình cầu nguyện của mình.
2. Thưa chuyện với Thiên Chúa
THƯA CHUYỆN VỚI THIÊN CHÚA LÀ CHA GIÀU LÒNG XÓT THƯƠNG
1. Sống thân tình với Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương.
Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông. Câu đề nghị mà một người môn đệ hỏi Chúa Giêsu, cũng có lẽ là câu đề nghị mà chúng ta đặt ra cho nhau và cho chính mỗi người trong cuộc sống đức tin hôm nay.
Để trả lời câu hỏi này, có lẽ mỗi chúng ta tự hỏi lòng mình: Chúng ta tương quan với Thiên Chúa như thế nào? Chính đời sống tương quan của mỗi người với Chúa sẽ quyết định thái độ cầu nguyện. Nếu ta sống với Thiên Chúa là ông chủ, chúng ta có nhiều khả năng cầu nguyện trong tư cách là tôi tớ. Nếu ta tương quan với Chúa là Đấng ban phát ơn, những lời cầu nguyện nhiều khả năng là những lời xin ơn về lợi lộc trần thế. Nếu ta sống yêu mến Thiên Chúa là Đấng nhân lành, Đấng ban ơn cứu độ, chúng ta dễ dàng biểu lộ tâm tình cầu nguyện trong tư cách là người con hiếu thảo.
Sách Sáng Thế cho chúng ta thấy hình ảnh Apraham sống thân tình với Thiên Chúa. Nhờ đời sống gắn bó mật thiết với Chúa, lời cầu nguyện của ông dâng lên Chúa toát ra từ một đời sống đầy tin tưởng và thân tình. Ông đã tin tưởng rằng Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và hằng lắng nghe lời ông khẩn cầu.
Thật vậy, khi biết được ý định Thiên Chúa sắp phá hủy thành Sôđôma và Gômôra, nơi có gia đình người cháu là ông Lót ở đó, Ápraham đã kêu xin Thiên Chúa là cha giàu lòng thương xót. Ông tin rằng Thiên Chúa sẽ không tiêu diệt người tội lỗi cùng với công chính. Vì thế, ông đã mượn sự hiện diện của những người công chính để xin Thiên Chúa tha thứ cho những người tội lỗi cùng sống trong thành Sôđôma và Gômôra. Từ 50 người công chính hiện diện trong thành, sau 5 lần xin bớt, ông đã xin Thiên Chúa tha thứ cho thành chỉ với 10 người công chính. Sự kèo nài của Ápraham như một cuộc trả giá trong buôn bán đã cho thấy, ông rất gần gũi và thân thiết với Thiên Chúa, cách riêng, ông rất bền bỉ và kiên nhẫn trong lời cầu nguyện. Những lần ông xin bớt, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót đã nhận lời ông.
2. Thưa chuyện với Thiên Chúa là Cha nhân lành.
Như thế, Apraham đã sống thân tình trước mắt Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của ông dâng lên Thiên Chúa như là một cuộc trò chuyện đầy cởi mở và thân thiện giữa hai người bạn thân, nhưng vẫn có sự tôn kính Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay cho chúng ta một cách cầu nguyện trong tương quan mới, tương quan giữa Thiên Chúa là Cha và chúng ta là những người con của Ngài. Nhờ Chúa Giêsu và tác động của Chúa Thánh Thần, mỗi Kitô hữu có thể kêu Thiên Chúa là Abba, nghĩa là cha ơi. Tiếng xưng hô: cha ơi,thật đẹp làm sao. Những lời thân thưa trong kinh Lạy Cha lại càng ý nhị và thân tình biết mấy.
Trong tâm tình con cái yêu mến cha mình, người con không xin những gì ngoài ý muốn của cha nhưng luôn thao thức nên một với Cha và làm đẹp lòng Cha. Mọi sự Cha muốn, người con cũng ao ước, mọi sự Cha cần, người con cũng ước ao nên trọn. Vì thế, Lời nguyện đầu tiên của Người con ngoan là xin cho danh Cha cả sáng, xin mọi người đều tin nhận và suy phục Cha mình.
Cuộc sống của người con ở trần gian này là cuộc lữ hành đi về với Thiên Chúa là Cha. Vì thế, người con không tìm vinh danh trần thế này, cũng chẳng mong tích lũy của cải chóng qua nhưng là tìm vinh danh Chúa và hạnh phúc Nước Trời. Vì thế, người con không xin sang giàu, cũng chẳng ước ao chức tước trần thế, nhưng xin đủ lương thực hằng ngày để có thể chu toàn bổ phận là con cái của Thiên Chúa.
Khi cùng nhau tuyên xưng Thiên Chúa là Cha, người con cũng nhận thật, mọi người đều là anh em với nhau. Vì thế, người con khao khát sống hòa thuận với mọi người. Muốn thế, người con xin với Thiên Chúa cho mình biết thứ tha và thông cảm cho nhiều người khác để có thể sống yêu thương hết mọi người. Người con xin cho mình có khả năng tha thứ cho tha nhân để có thể nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa là Cha nhân lành.
Cuối cùng, hạnh phúc của người con là luôn sống thân tình với Cha mình. Muốn thế, người con không chỉ dựa vào cố gắng của bản thân nhưng rất cần sự trợ lực của Thiên Chúa là Cha. Vì thế, người con xin với Cha gìn giữ để khỏi sa vào chước độc của ma quỷ. Có thế, hoàn tất cuộc đời này, người con đều tràn trề hy vọng sẽ được người Cha là Thiên Chúa cho hưởng gia nghiệp gia tài của những người con hiếu thảo.
Ước mong, Lời Chúa hôm nay, giúp chúng ta luôn sống tâm tình của người con hiếu thảo, để mọi lời cầu nguyện chúng ta dâng lên Chúa là bao tiếng thân thương của người con hiếu thảo dâng lên cha mình: Abba, cha ơi!
3. Kinh Lạy Cha, đọc xuôi đọc ngược
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Kinh Lạy Cha là lời kinh Chúa Giêsu dạy các môn đệ và là lời kinh căn bản của Kitô giáo. Lời kinh này là bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng, là tâm điểm của Thánh Kinh như Thánh Augustinô nói: “Cứ đọc hết các kinh nguyện trong sách Thánh, chúng ta sẽ tìm thấy những điều được thâu tóm trong lời kinh Chúa dạy. Với lời kinh này, không những chúng ta nguyện xin tất cả những gì chúng ta có thể ao ước cách chính đáng, mà còn theo trật tự những gì nên ao ước. Vì thế, kinh nguyện này không chỉ dạy chúng ta nguyện xin, mà còn huấn luyện tâm tình của chúng ta nữa…Dù chúng ta có đọc lời nào khác, những lời do người cầu nguyện đặt ra để khơi dậy lòng sốt sắng, chúng ta cũng chẳng nói gì khác ngoài điều đã có trong kinh Lạy Cha, nếu chúng ta cầu nguyện cho đúng và thích hợp”(x. Thư thánh Augustinô giám mục gửi cho Pơrôba về kinh Lạy Cha, trong Kinh Sách, IV, tr. 335).
Kinh Lạy Cha độc đáo vì chính là lời kinh “của Chúa” và cũng là lời cầu nguyện của Hội Thánh. Lời kinh này đã ăn sâu vào kinh nguyện phụng vụ. Trong Thánh lễ, các lời nguyện xin của kinh Lạy Cha còn cho thấy đặc tính cánh chung, hướng về ngày Chúa Quang Lâm “cho tới khi Chúa lại đến” (1Cr 11,26).
Kinh Lạy Cha là lời kinh duy nhất Chúa Giêsu để lại, lời kinh tuyệt vời và phong phú vì chất chứa bao điều huyền nhiệm.
“Kinh Lạy Cha chẳng những là một lời cầu nguyện, mà còn là một lời tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa Cha vừa là nguồn gốc mọi sự, vừa là cùng đích mọi loài. Đó là niềm tin căn bản nhất, bao trùm cả lộ trình đi và về của con người. Vì vậy kinh Lạy Cha vừa có thể đọc xuôi, vừa có thể đọc ngược” (x. Kinh Lạy Cha của Linh Mục trong Năm Đức Tin, ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi; Gpquinhon.org).
I. Đọc xuôi Kinh Lạy Cha
Đọc xuôi, bắt đầu từ việc tuyên xưng Thiên Chúa là Cha, cầu xin cho danh Người cả sáng, cho Nước Người trị đến, cho thánh ý Người được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Tiếp đến chúng ta xin Người những ơn cần thiết cho cuộc đời kitô hữu của chúng ta, như được thỏa mãn những nhu cầu cần thiết của cuộc sống, được ơn tha thứ những lỗi lầm thiếu sót, được gìn giữ khỏi sa chước cám dỗ và được giải thoát khỏi quyền lực của ác thần.
Đọc xuôi, Kinh Lạy Cha bao gồm: một lời thân thưa, hai lời nguyện ước và ba lời cầu xin.
1. Lời thân thưa
Thiên Chúa được gọi bằng nhiều danh hiệu khác nhau: Thiên Chúa vĩnh cửu, Thiên Chúa quyền năng, Thiên Chúa tạo dựng, Thiên Chúa thánh thiện… Mỗi danh hiệu nói lên một ưu phẩm, một đặc tính của Thiên Chúa.
Nhưng không một danh hiệu nào lại đậm đà, trìu mến, ý nghĩa, hy vọng cho bằng danh hiệu Cha. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ là mỗi khi cầu nguyện hãy thân thưa: Lạy Cha chúng con ở trên trời.
Lời mạc khải mối liên hệ chiều sâu giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha. Lời diễn tả một chiều kích thiêng liêng, các môn đệ được đi vào đời sống thân mật, liên kết với Chúa Cha và Chúa Con.
Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Từ ngữ Cha gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa huyền nhiệm vô cùng.
Từ đây, lời thân thương “Lạy Cha” luôn vang vọng mãi nơi môi miệng của người Kitô hữu. Lời gắn kết họ với Thiên Chúa. Lời nối kết tương quan cha con trong tình yêu. Hồng ân thật cao quý Chúa muốn ban cho con người. Được gọi Thiên Chúa là Cha, được làm con cái của Thiên Chúa. Đó là tư cách rất riêng của những ai là môn đệ Đức Giêsu. Ơn gọi làm con là ơn gọi căn bản nhất, ơn gọi cao trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Đức Giêsu. Vì thế chúng ta phải sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha và huynh đệ với tha nhân là anh chị em. Vì chưng toàn thể nhân loại chỉ có một Cha và tất cả đều là anh em chị em của nhau.
2. Hai lời nguyện ước
“Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” và “Triều đại Cha mau đến” là hai lời nguyện ước của những người con thảo hiếu hướng về Cha mình.
Thiên Chúa không cần đến lời chúng ta cầu nguyện để nhờ đó danh Người và triều đại Người mới được hiển thánh, được tôn vinh. Tự bản chất, Thiên Chúa không cần đến những lời cầu xin của chúng ta, có hay không, danh Người mãi mãi vẫn rạng ngời vinh hiển.
Vậy thì chúng ta cầu nguyện như thế để làm gì? Chắc một điều đó là vì phần ơn ích cho chúng ta.
Hai lời nguyện ước là xin cho danh Thiên Chúa được hiển thánh nơi chính con người chúng ta. Thiên Chúa là Đấng Thánh. Là con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, người con xin Cha thánh hoá, xin Cha kiện toàn mỗi ngày để con được nên thánh, được tham dự vào cuộc sống thần linh với Cha. Người con cần sống hiếu thảo. Biết quan tâm, chăm lo đến những công việc thuộc về Cha của mình. Là con của Cha trên trời thì chúng ta phải làm cho Danh Cha được cả sáng và Nước Cha trị đến, Ý Cha được thực hiện. Cha rất vui, hài lòng khi có những người con biết sống hiếu thảo như thế.
3. Ba lời cầu xin.
“Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày; xin tha tội cho chúng con, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”.
Xin cho những nhu cầu chính đáng phần xác phần hồn: lương thực hằng ngày, ơn thứ tha tội lỗi, ơn vượt thắng cám dỗ và ơn thoát khỏi sự dữ. Thân xác cần cơm bánh lương thực. Linh hồn cần ơn thánh. Ba lời cầu xin rất thiết thực đối với sự sống của nhân loại. Lời cầu xin cho có cơm bánh hằng ngày, thiết thực và hữu ích cả trên bình diện thiêng liêng lẫn cuộc sống đời thường. Bởi ngoài nhu cầu thiết yếu của con người là cơm bánh ra, người Kitô hữu cần đến một thứ thần lương tuyệt vời khác chính là Bánh Hằng Sống, là Thánh Thể Chúa Kitô.Ơn tha thứ thật cần thiết. Trước mặt Thiên Chúa, con người là tội nhân. Tha thứ cho nhau là điều kiện cần và đủ để chúa tha thứ cho mình. Được Cha yêu thương chăm sóc và thứ tha các lỗi lầm, con noi gương Cha sống yêu thương tha thứ cho anh em của mình. Như thế mới trọn vẹn tình con thảo hiếu.
Cạm bẫy và cám dỗ vẫn bủa vây tư bề. Cần tỉnh thức trước mọi cơn cám dỗ. Ơn Chúa là nguồn trợ lực là sức mạnh để con người vuột thắng mọi cám dỗ.
II. Đọc ngược Kinh Lạy Cha
Đọc ngược kinh Lạy Cha để đi lại lộ trình đức tin của dân Do thái ngày xưa và để bày tỏ niềm xác tín mới đối với Thiên Chúa vì những gì Người ban cho chúng ta qua kinh Lạy Cha. Vậy chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng:
1. Thiên Chúa là Cha quyền năng đã cứu chúng ta cho khỏi sự dữ.
Cũng như ngày xưa Thiên Chúa đã cứu dân Israel ra khỏi ách nô lệ bên Ai cập, thì nay qua bí tích rửa tội, mỗi người chúng ta cũng đã được Thiên Chúa cứu khỏi quyền lực của Satan là đầu mối của mọi sự dữ.
2. Thiên Chúa là Cha yêu thương không để chúng ta sa chước cám dỗ.
Sau khi được Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập, dân Do thái đã đi qua hoang địa tiến về đất hứa, đã gặp rất nhiều cám dỗ và thử thách. Sau khi chịu phép rửa tội, cuộc đời chúng ta cũng là một hành trình xuyên qua hoang địa trần gian để tiến về đất hứa đích thực là thiên đàng. Chúng ta cũng gặp phải những chước cám dỗ như người Do thái ngày xưa. Nhận ra sự yếu đuối của mình, chúng ta tha thiết khẩn cầu Chúa gìn giữ và Người đã gìn giữ chúng ta.
3. Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta.
Mặc dù đã nhiều lần phản bội, quay lưng lại với Thiên Chúa, thử thách Thiên Chúa, cứng đầu cứng cổ bất tuân lệnh Chúa, nhưng dân Do thái đã được Chúa tha thứ, nhờ lời chuyển cầu của ông Môsê. Cũng vậy, nhờ công nghiệp của Đức Kitô, chúng ta luôn được Thiên Chúa thứ tha những lỗi lầm thiếu sót và những xúc phạm đến Thiên Chúa và anh chị em là hình ảnh của Người. Được Thiên Chúa tha thứ, chúng ta cũng tha thứ cho nhau, để cùng nhau tiến bước trên con đường của Chúa.
4. Thiên Chúa là Cha quan phòng luôn chăm sóc và nuôi dưỡng chúng ta.
Trong suốt hành trình 40 năm trước khi tiến vào đất hứa là nơi chảy sữa và mật, mỗi ngày dân Do thái đã được Thiên Chúa ân cần ưu ái ban cho manna, thịt chim cút và nước sạch từ tảng đá chảy ra. Ngày nay Thiên Chúa quan phòng cũng luôn lo liệu cho chúng ta mọi nhu cầu vật chất, để chúng ta có thể sống xứng đáng và phát triển các khả năng. Hơn nữa Người còn ban cho chúng ta bánh hằng sống là Lời Chúa và bí tích Thánh Thể để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, cùng với dòng nước ơn thánh vọt ra từ tảng đá là Đức Kitô đang hoạt động qua các bí tích, giúp chúng ta có sức đạt đến đất hứa đích thực là nước thiên đàng, nơi tràn trề sữa và mật thiêng liêng, khiến cho chúng ta không bao giờ đói khát.
5. Thiên Chúa là Cha khôn ngoan đã mạc khải cho chúng ta thánh ý của Người và giúp chúng ta thực hiện.
Cùng với manna, chim cút và nước từ tảng đá vọt ra, Thiên Chúa còn ban cho dân Do thái các huấn lệnh bày tỏ ý muốn của Người, để họ tuân giữ và được sống. Ngày nay, chúng ta cũng nhận được thánh ý của Thiên Chúa biểu lộ qua Thánh Kinh, qua giáo huấn của Giáo Hội. Đời sống của mỗi người chúng ta hệ tại việc thực thi ý Chúa. Khi kết hiệp sự vâng phục của chúng ta với sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với thánh ý Cha, tức là chúng ta làm cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
6. Thiên Chúa là Vua uy quyền đã làm cho Nước Chúa trị đến nơi chúng ta.
Sau khi hoàn tất cuộc hành trình xuyên qua sa mạc, Thiên Chúa đã ban cho dân Israel đất hứa làm gia nghiệp, ở đó họ sống hạnh phúc dưới quyền cai trị của Người. Sau khi hoàn tất cuộc hành trình nơi dương thế, chúng ta cũng sẽ được đưa vào Nước Trời, nơi Thiên Chúa hiển trị, để Người mãi mãi là Vua của chúng ta và chúng ta sẽ là dân của Người đến thiên thu vạn đại, và trong Nước Người không còn đau khổ, khóc than và tang tóc, nhưng chỉ có sự sống dồi dào trong hạnh phúc vô biên.
7. Thiên Chúa là Cha, đó là thánh danh mà chúng ta ca tụng đến muôn ngàn đời.
Sống trong đất hứa Thiên Chúa đã ban, những người Do thái đạo đức không ngừng tôn vinh danh Chúa, vì chính nhờ danh Người họ đã được cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai cập, được giúp đỡ để vượt qua các chước cám dỗ, được tha thứ mọi tội lỗi, được nuôi dưỡng chăm sóc, được biết thánh ý của Thiên Chúa, được sống dưới quyền cai trị của Chúa. Mai ngày trên thiên đàng, chúng ta cũng sẽ không ngừng ca tụng thánh danh Thiên Chúa và chúng ta có thể khởi đầu kinh Lạy Cha như sau: “Lạy Cha, giờ đây chúng con được ở với Cha trên trời”. (trích từ: Kinh Lạy Cha của Linh Mục trong Năm Đức Tin, ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi; Gpquinhon.org).
III. Kinh Lạy Cha, lời kinh tuyệt vời
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Vinh danh và thánh ý Chúa được đặt trên hết. Các nhu cầu của con người được đặt sau.
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Con người được gọi Thiên Chúa là Cha. Mỗi người là con cái của Thiên Chúa.
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn; xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi sa chước cám dỗ ở tương lai.
Kinh lạy Cha là lời kinh tuyệt vời và huyền nhiệm nối kết con người với Thiên Chúa. Đây là lời kinh đến từ Thiên Chúa, là quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho con người. Chính vì thế, Thiên Chúa ưa thích và không ngừng ban muôn ơn cho con người thông qua lời kinh thân thương, đơn giản và dễ hiểu này.
Lạy Cha,
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con chưa nhận thấy được.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con. Amen.
4. Cầu nguyện của tôi, điều gì còn thiếu?
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Quan sát Đức Giêsu cầu nguyện, các môn đệ đã nhận ra một nét gì đó rất mới mẻ và rất đặc trưng. Nét này không thấy có trong thói tục của người Do Thái nói chung, và của nhóm Biệt Phái nói riêng; khác cả với lối cầu nguyện mà Gio-an tẩy giả, nhóm Ét-sê-ni và các môn đệ ông thường làm. Người Do Thái nói chung cầu nguyện dựa trên việc cất cao giọng đọc các thánh vịnh, các lời ngôn sứ hay sách luật… Chính vì thế mà một vài đại diện trong nhóm môn đệ Đức Giêsu khẩn khoản xin Người dạy cho họ biết cầu nguyện, và cầu nguyên theo cách thức riêng của Người. Lời thỉnh cầu đó quả là chính đáng, và Đức Giêsu sẵn sàng đáp ứng vì nó liên quan tới điều quan trọng nhất mà người đang muốn khảng định: Cầu nguyện chính là đi vào tương quan phó thác với Chúa Cha nhân ái.
Điều mà các môn đệ mong đợi chắc hẳn không phải là được Thầy dạy cho một công thức cầu nguyện, mà chúng ta ngày nay quen gọi là kinh đọc. Người Do Thái thời đó vẫn quen sử dụng các thánh vịnh như công thức nền tảng. Tuy nhiên rất có thể khi quan sát Đức Giêsu cầu nguyện, các môn đệ đã nhận ra một điều gì rất khác lạ, một kiểu cách cầu nguyện không giống ai. Nét này khác xa lề thói các Pha-ri-sêu vẫn thường cầu nguyện nơi công cộng, hoặc các tu sĩ Et-sê-ni làm tại Qum-ram. Nét đặc sắc nhất các ông nhân ra chính là tâm tình con thảo thâm sâu chưa từng thấy bất cứ nơi đâu. Xét cho cùng thì Thánh Vịnh cũng không phải là những ‘kinh’ theo nội dung mà bổn đạo chúng ta vẫn hiểu ngày nay. Tự nó Thánh Vịnh là những tâm tình rất chân thành, nhưng trong tinh thần của ‘Cựu Ước’, mà mỗi người Do Thái diễn tả tương quan thường ngày của mình với Đức Chúa Gia-vê. Tất cả các tâm tình đó đều dựa trên một nền tảng duy nhất được các luật sĩ và Biệt Phái nhấn mạnh, đó là lòng trung thành kiên vững đối với giao ước đã ký kết. Sau này vào thời Đức Giêsu, qua ảnh hưởng của phái Ét-sê-ni, thái độ thống hối để lãnh phép rửa được nhấn mạnh. Nếu vậy thì nét cầu nguyện đặc trưng của Thầy Giêsu, đồng thời cũng là của từng người Ki-tô hữu chúng ta cụ thể là gì?
Đức Giêsu không đơn thuần dạy một công thức diễn đạt mới, cái sau này được đặt tên là ‘kinh Lạy Cha’ (tiêu đề quen thuộc luôn được gán cho đoạn văn này). Ngay trong câu Đức Giêsu nói: “Khi cầu nguyện anh em hãy thưa (thay vì nói hoặc đọc) thế này: ‘Lạy Cha, nguyện ( thay vì cầu xin) cho danh Cha vinh hiển…’, ta sẽ thấy ngay nổi cộm một tâm tình, tâm tình tín thác. Ngay cả các điều ‘xin’ của phần sau cũng toát ra niềm tin tưởng sâu đậm nhất. Chính cái tâm tình này mới là chất tố cốt lõi của lối cầu nguyện mà Đức Giêsu đang muốn thông truyền.
Đương nhiện là bất cứ lời cầu nguyện nào cũng đều ít nhiều mang tâm tình này. Trong mọi tôn giáo, khi tín đồ khấn vái, họ cơ bản tin tưởng sẽ được thần thánh phù trì. Tuy nhiên vấn đề là ở chỗ, dựa trên cơ sở nào mà họ đặt niềm tin tưởng phó thác. Người Do thái có cơ sở của Cựu Ước: một giao ước sòng phẳng giữa Đức Chúa Gia-vê với dân riêng của Ngài. Gio-an nhấn mạnh trên nền tảng thống hối và lãnh phép rửa để được tha tội (xem Lc 3, 3-18). Tín đồ các tôn giáo khác nói chung, dựa trên qui luật ‘có đi có lại’ của giao tế xã hội. Họ thờ cúng dâng hương để mong được thần thánh phù trì… Thế còn Ki-tô hữu chúng ta cầu nguyện dựa trên cơ sở nào?
Đức Giêsu dùng hai hình ảnh để quảng diễn cơ sở của lòng tín thác Ki-tô hữu trong cầu nguyện: người bạn và người cha. Hai hình ảnh này có tác dụng trước hết là triệt tiêu cả ba cơ sở nói trên. Nếu là ‘nguyện xin’ với bạn và cha, thì sẽ không còn sự sòng phẳng của giao kèo ký kết, không còn sự cách biệt trên dưới, và cũng chẳng cần lễ vật quà cáp lót đường. Chỉ còn một điều duy nhất quan trọng là tin tưởng hầu như mù quáng, cố chấp tới độ không ngại gây phiền hà. Câu chuyện gõ cửa nhà bạn vay bánh giữa đêm khuya, hay xin ‘bố’ của ăn, phải chăng là để nêu rõ thái độ rất ‘độc’ này của cầu nguyện Ki-tô hữu?
Và điều này không chỉ đơn thuần là một khảng định trên lý thuyết. Có lẽ vào thời điểm lúc Đức Giêsu trả lời câu hỏi của mộn đệ, nó còn có vẻ lý thuyết xa vời thật, ngược ngạo nữa là đàng khác: Thiên Chúa mà là cha và là bạn sao được! Thế nhưng sau biến cố thập giá và phục sinh, thì đã trở thành một thực tế quá rõ ràng và hiển nhiên. Thực vậy, niềm tin vào thập giá và phục sinh trở thành cơ bản trong tương quan (giao ước mới) giữa người môn đệ với Thiên Chúa của Đức Giêsu Ki-tô. Họ đã nắm bắt được bằng chứng không thể chối cãi về một Thiên Chúa từ nhân tới độ không tiếc bất cứ điều gì đối với những ai kêu cầu Người, ngay cả hy sinh tới Người Con yêu quí nhất Người cũng chẳng từ. Do vậy bất cứ ai tự cho mình là môn đệ Đức Giêsu, mà không biết chất tố này khi cầu nguyện, thì chưa thể được kể là Ki-tô hữu chân chính.
Nếu như thế ta có thể khảng định được chăng: tin tưởng phó thác trong cầu nguyện chính là thước đo chính xác nhất của niềm tin Ki-tô hữu? Thánh Phao-lô xác quyết: chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải lẽ, nếu Thần Khí không rên siết trong ta (xem Rm 8,18-27). Phải chăng Đức Giêsu cũng có ý tưởng tương tự khi nói ‘Cha trên trời ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người’? Thế thì, một chút chiêm ngắm thập giá, một chút vào sâu hơn trong tình yêu nhân ái của Thiên Chúa, là điều tối cần thiết để mọi Ki-tô hữu có thể tiến hành cầu nguyện của mình. Tuy nhiên thật không may, ‘cái chút’ này trên thực tế xem ra vẫn còn thiếu trầm trọng trong cầu nguyện của nhiều Ki-tô hữu chúng ta. Chính vì lẽ đó mà lời khẩn cầu của các môn đệ: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con biết cầu nguyện!” vẫn tiếp tục phải là điệp khúc khởi đầu cho mọi cầu nguyện chân thành của mọi Ki-tô hữu chúng ta.
Lạy Thầy Giêsu, xin dạy con cầu nguyện! Xin hãy dạy con cầu nguyện với một Thiên Chúa không tiếc xót con bất cứ điều gì, kể cả phó nộp Người Con yêu quí nhất của Người. Xin cho con biết dành một chút thời giờ cho việc chiêm ngắm tinh yêu nhân ái và lòng thương xót bao la của Chúa trước khi tiến hành cầu nguyện. Xin Thần Khí Chúa hãy luôn nhắc nhở con rằng: dấu Thánh Giá mà con làm đầu giờ cầu nguyện chính là để giúp đưa con vào tâm tình cơ bản và thiết yếu này, là trọn vẹn tin tưởng phó thác nơi lòng Chúa xót thương và cứu độ. Chỉ như thế lời cầu nguyện của con mới có được tâm tình như Chúa muốn. A-men
5. Cầu nguyện
Giữa đêm khuya, một căn nhà ở nơi hẻo lánh bỗng bốc cháy. Trong cơn hoảng hốt, vợ chồng con cái đều thoát ra ngoài và bất lực đứng nhìn ngọn lửa. Rồi mọi người sực nhớ đứa con trai út mới lên năm vẫn còn bị kẹt trên gác. Phải làm gì đây? Không ai có thể đi vào được. Giữa lúc mọi người đang bấn loạn thì từ cánh cửa sổ trên gác, cậu bé thò đầu ra và kêu la thất thánh. Từ phía dưới, người cha nói với cậu: Con hãy nhảy xuống đi. Nhưng làm sao cậu bé dám làm theo lời cha, bởi vì nhìn xuống, cậu chỉ thấy khói và lửa. Cậu bé thốt lên trong tuyệt vọng: Làm sao con dám nhảy xuống vì không thấy ba. Thế nhưng người cha đã trấn an: Con không thấy ba nhưng ba thấy con. Con cứ nhảy xuống đi. Thế là với tất cả tin tưởng, cậu bé nhảy từ trên gác xuống và nằm gọn trong cánh tay của người cha.
Là con cái của Thiên Chúa, cho dầu chúng ta có rơi vào hoàn cảnh nào chăng nữa, chúng ta vẫn luôn rơi vào vòng tay của Thiên Chúa, đó là tất cả Tin Mừng Chúa Giêsu đã đem đến trong thế gian.
Thiên Chúa luôn yêu thương con người, dù con người không biết Ngài, dù con người có khước từ và phản bội tình yêu của Ngài, Ngài vẫn một mực yêu thương. Đó là tất cả những gì Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua cuộc sống của Ngài. Cách cư xử và cái chết của Ngài đã cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng ta.
Đồng thời Chúa Giêsu cũng dạy cho chúng ta cách thức đáp trả tình yêu của Thiên Chúa, đó là hãy chu toàn thánh ý của Thiên Chúa. Lời kinh Lạy Cha Ngài để lại cho Giáo Hội chính là chương trình sống của Ngài, chính là tiếng xin vâng của Ngài đối với Chúa Cha. Từ sáng đến chiều, xuyên qua những giao tiếp và giảng dạy, Ngài luôn để lộ một cử chỉ duy nhất, đó là thuộc trọn về Chúa Cha, tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu của Chúa Cha. Để lại cho chúng ta kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu không chỉ truyền lại một công thức, mà là cả cuộc sống xin vâng của Ngài.
Do đó, cầu nguyện không có nghĩa là đọc lại một câu kinh, mà chính đi vào tâm tình và cuộc sống của Chúa Giêsu. Một người tín hữu luôn chu toàn thánh ý Thiên Chúa và luôn sống với hai chữ xin vâng hằng sẽ không ngừng kêu lên: Tôi đã cầu xin được khoẻ mạnh để làm những điều vĩ đại, thế nhưng Chúa lại ban cho tôi những bệnh tật để tôi làm những việc tốt hơn. Tôi đã xin giàu sang để được hạnh phúc, thế nhưng Chúa đã ban cho tôi sự nghèo khó để tôi được khôn ngoan hơn. Tôi đã không nhận được điều tôi kêu cầu, nhưng tôi nhận được niềm hy vọng. Những lời cầu xin mà tôi chưa từng thốt lên, tất cả đều được nhận lời. Bởi vì tất cả đều là hồng ân của Chúa.
6. Cầu xin – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Chúng ta không thể quán xuyến mọi sự trong tầm tay vì còn có nhiều nguyên nhân tùy thuộc. Có ba điều cần để thành công trong mọi công việc là thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Con người sống chung thì trăm người, trăm ý. Môi trường chung quanh thì thay đổi như mây bay gió thổi. Chỉ có một điều là chúng ta thuận theo ý trời. Chúng ta sẽ sống vui vẻ và hạnh phúc. Trong hạnh các Giáo phụ có kể lại: Một người nông dân hạnh phúc hơn bạn bè xóm làng. Được hỏi lý do tại sao, ông ta trả lời: Các ông đừng ngạc nhiên. Chính vì tôi luôn được thời tiết theo lòng tôi ước muốn. Người kia đáp lại: Không thể được. Người nông dân đáp: Không bao giờ tôi ước muốn thời tiết khác thời tiết Thiên Chúa gởi cho. Vì thế, Chúa luôn ban cho tôi mùa màng như lòng tôi ước nguyện.
Câu truyện của ông Abraham cầu xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho dân thành Sôđôm và Gômôra và xin đừng đoán phạt. Sự đối thoại trả giá diễn tả tấm lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ông Abraham lý luận theo cách suy tưởng của con người. Ông biết rằng trong đời sống con người, có kẻ tốt, người xấu và kẻ lành, người dữ. Thiên Chúa yêu thương mọi người. Chẳng lẽ Chúa phạt cả kẻ dữ lẫn người lành sao: Abraham lại gần và thưa: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? (Stk 18, 23). Ông Abraham ước muốn Thiên Chúa tha phạt cho cả thành, vì nghĩ rằng có một số người lành đang chung sống giữa họ. Ông thưa: Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? (Stk 18, 24). Thiên Chúa ban ơn mưa móc xuống cho cả kẻ lành, người dữ. Người lành thánh có thể giúp người tội lỗi hối cải và người tội lỗi cũng có thể giúp cho người lành phấn đấu sống thánh thiện hơn.
Ông Abraham đã trả giá với Thiên Chúa, từ 50 người lành xuống tới chỉ còn 10 người. Cả thành không kiếm được mười người lành, nên thành Sôđôm phải chịu hình phạt. Chúa nhân từ trong mọi lời Chúa phán và thánh thiện trong mọi việc Chúa đã thực hiện. Chúa sửa phạt rồi Chúa lại tha thứ và đón nhận trở về. Lịch sử ơn cứu độ là một cuộc phấn đấu không ngừng để tinh luyện con dân nên thánh thiện. Ông Abraham hết lời: “Xin Chúa đừng giận, cho con nói một lần này nữa thôi: Giả như tìm được mười người thì sao? Chúa đáp: “Vì mười người đó, Ta sẽ không phá hủy Sôđôm” (Stk 18, 32). Nhân loại tồn tại và Giáo Hội tiếp tục sống còn là nhờ đời sống nhân đức của các bậc thánh nhân, những tín hữu nhiệt thành và những con người thành tâm sống gương mẫu giữa đời. Giáo hội luôn luôn cần những gương sáng để soi dọi cho những ai ngồi trong bóng tối sự dữ và sự chết.
Trong đời sống đạo, chúng ta đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng quyền năng vô cùng. Người ban phát ân sủng cho mọi loài thọ tạo. Thế nên, chúng ta rất quen thuộc với những từ ngữ như cầu nguyện, cầu xin, nguyện xin, cầu bầu, xin ơn, phù trợ và nâng đỡ chở che. Trong tâm tình khiêm hạ và nhận biết thân phận yếu hèn, chúng ta cùng cúi đầu thờ lạy và vâng phục Đấng Tạo Hóa chí công. Chúng ta nên thành tâm cầu xin những ơn cần thiết cho đời sống và phần rỗi của chúng ta. Cầu nguyện là chúng ta nối một nhịp cầu tới Thiên Chúa bằng những lời nguyện xin. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện luôn: Thế nên Thầy bảo anh em: Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho (Lc 11, 9). Một điều quan trọng mà Chúa Giêsu dạy là anh em cứ xin, thì sẽ được. Chúng ta xin Chúa điều gì bây giờ?
Chúa Giêsu đã dậy các tông đồ cầu nguyện qua Kinh Lạy Cha. Phần đầu của Kinh là nguyện sáng danh Thiên Chúa, nhưng phần sau là bốn lời xin: Xin cho chúng con lương thực hàng ngày và xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ (Lc 11, 4). Thiên Chúa không phải là ông chủ giầu có ngồi chờ chúng ta đến xin để phân phát. Hào bao của Thiên Chúa luôn rộng mở. Tùy thuộc chúng ta có xứng đáng lãnh nhận hay không. Nếu tâm hồn của chúng ta không rộng mở thì ơn Chúa không thể tuôn đổ. Nếu lòng chúng ta chất đầy của cải thế gian thì đâu còn chỗ để nhận lãnh thêm. Khi chén của chúng ta đã đầy tràn những thứ lỉnh kỉnh, làm sao ơn Chúa thấm nhập vào lòng. Khi cầu nguyện, chúng ta có thật lòng cầu xin, hay chỉ đọc ruổi một số những kinh kệ và kể lể một số nhu cầu cần thiết trong cuộc sống và nghĩ rằng Chúa sẽ ban phát mọi ơn.
Ước vọng của con người thì nhiều vô kể và cao sâu. Hầu như không khi nào chúng ta ước muốn cho đủ. Nhu cầu đòi hỏi của tâm linh cũng như thể chất luôn réo gọi vươn tới. Sức lực và khả năng của con người thì giới hạn. Mong ước thì to lớn. Khi chúng ta đã có, lại muốn có thêm. Đường nên thánh còn dài và nhiều chông gai. Đường đời thì cặm bẫy giăng giăng. Đường nào cũng phải phấn đấu không ngừng. Người ta thường nói: Lòng tham vô đáy. Không những lòng tham mà mọi khao khát đều không có cùng. Làm sao chúng ta có thể: Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc. Biết đủ là đủ. Bao nhiêu mới là đủ chứ? Cuộc sống quá hấp dẫn gọi mời chúng ta tiến thân. Sống một ngày, mong thêm một bước. Cuộc đời là dòng chảy luôn luôn có cái mới. Điều mới mẻ giúp chúng ta hy vọng và sống vui. Nên chúng ta cứ phải cầu xin hoài.
Mấy ai trong chúng ta khi cầu nguyện mà không xin ơn. Ngay cả những người không tin có Thượng Đế hay quyền lực nào bên trên, họ vẫn cầu xin khấn vái cho được mọi sự lành. Người ta chỉ chối từ sự hiện hữu của thần linh, thiên thần, linh hồn trong lý thuyết, nhưng nơi cuộc sống thường ngày, họ cũng vẫn mong cầu thần phật gia hộ cách này hay cách khác. Có khi còn rơi vào sự mê tín dị đoan, tin vào bói khoa, bói toán, bói quẻ, chim kêu, gà gáy, xem tướng, chỉ tay vận số, xin sâm và cả cầu thần dữ để chế ngự. Ngày tư ngày Tết, ngày Rằm, Lễ Hội, vố số người, dù không tin thần linh, họ cũng say mê cúng vái hoa qủa, nhang hương, lẩm rẩm nguyện cầu và xin cho người an bình thư thái và làm ăn phát tài phát đạt. Hằng ngày chúng ta cũng thường cầu nguyện với rất nhiều ý cầu xin. Cầu xin cho sự tốt lành trong gia đình, mọi người khỏe mạnh, làm ăn may mắn và mọi sự bình an xác hồn.
Đôi khi chúng ta cầu xin theo kiểu trừ hao. Xin mười Chúa sẽ ban cho một. Với lòng thành, chúng ta xin những ơn cần thiết cho sự sống và phần rỗi. Chúa bao dung độ lượng sẽ không quay mặt làm ngơ. Thánh Luca viết: Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?(Lc 11, 13). Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy bền tâm và tỉnh thức cầu nguyện. Chúa đã nêu gương cầu nguyện luôn để kết hợp với Chúa Cha. Chúng ta cùng cầu nguyện như Chúa dạy và xin những ơn cần thiết nhân danh Chúa Giêsu Kitô.
Trong thơ gởi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô đã xác tín về hồng ân ơn cứu độ của Chúa Kitô: Người đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta, số nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã hủy bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá (Col 2, 14). Chúa Kitô đã giao hòa chúng ta với Thiên Chúa Cha qua sự hiến tế của Ngài trên thập giá. Máu Thánh đã xóa sạch lỗi lầm và ban cho chúng ta được phúc làm con và cùng đồng chia sẻ vinh quang sự sống.
Lạy Chúa, Chúa là chủ tể mọi loài. Chúa cho mặt trời soi chiếu trên kẻ lành người dữ. Chúa tiếp tục ban phát hồng ân cho mọi loài. Xin cho chúng con biết tỏ lòng trông cậy vào Chúa là nguồn mọi phúc lộc. Chúng con thờ lạy, cảm tạ và hát ca danh Chúa đến muôn muôn ngàn đời.
7. Lời kinh tuyệt vời – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Nhà thần bí Hồi Giáo tên là Farid, đến kinh đô Delhi để xin hoàng đế Akbar ban cho dân làng một ân huệ. Farid đến cung điện và gặp lúc Akbar đang đắm mình cầu nguyện.
Khi hoàng đế cầu nguyện xong, Farid hỏi: “Nhà vua vừa cầu nguyện như thế nào?”
Nhà vua đáp: “Ta cầu xin Đấng nhân từ ban cho ta sự thành công, giàu có và được sống lâu.
Vừa nghe xong, Farid liền quay lưng lại và bỏ đi. Vừa đi ông vừa nói: “Ta đến gặp một vị vua. Thế mà ta lại gặp một kẻ ăn xin, không khác gì những hạng người khác!”.
Thật vậy, cầu nguyện không chỉ là cầu xin, cũng không phải là bảng liệt kê ước muốn mà cầu nguyện chính là tôn thờ, thống hối, cảm tạ và xin ơn. Trong kinh Lạy Cha, Chúa dạy chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay bao gồm bốn tâm tình đó.
Chúng ta thờ phượng, ca ngợi, tôn vinh Chúa trong câu đầu tiên: “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến” (Lc 11,2).
Sau đó chúng ta bày tỏ tâm tình thống hối bằng lời xin lỗi: “Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con” (Lc 11,4).
Rồi chúng ta cảm tạ Chúa ngay trong tâm tình thờ phượng, vì khi ca ngợi tôn vinh Chúa thì đồng thời chúng ta cũng mặc nhiên cảm tạ những hồng ân Người ban.
Cuối cùng, tâm tình cầu xin được biểu lộ trong câu: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy” (Lc 11,3), và “xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11,4).
Như thế, Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời, vì đã đặt sự cao trọng, vinh danh, và thánh ý Chúa trên hết, sau đó mới xin cho các nhu cầu của chúng ta, nên rất được Chúa Cha ưa thích.
Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời, vì chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, còn chúng ta là con cái của Người; chúng ta xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn; chúng ta xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi sa chước cám dỗ ở tương lai, nên chắc chắn sẽ được Chúa Cha đón nhận.
Sau khi đã dạy chúng ta lời kinh tuyệt vời đó, Người còn khuyên chúng ta hãy kiên nhẫn và trông cậy mà cầu nguyện.
* Phải kiên nhẫn trong khi cầu nguyện là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Người sẽ ban. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy tình nhân ái.
* Phải trông cậy trong khi cầu nguyện vì Chúa đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9). Mẹ Têrêxa Calcutta đã chia sẻ kinh nghiệm này như sau: “Chúng tôi có hơn một ngàn tu sĩ, và còn phải nuôi ăn hàng chục ngàn người. Thế mà, chưa bao giờ chúng tôi phải từ chối bất cứ một ai đến xin giúp đỡ. Chúa luôn can thiệp kịp thời để cho chúng tôi thấy rằng Người không bao giờ làm ngơ trước lời cầu nguyện của chúng ta”.
Lạy Chúa, xin nhắc chúng con siêng năng dùng Kinh Lạy Cha mà cầu nguyện với Cha trên trời. Nhất là xin Chúa mở rộng tâm hồn hẹp hòi ích kỷ của chúng con, để biết cầu nguyện cho các nhà truyền giáo, những người nghèo khổ, những kẻ tội lỗi và những người thân yêu của chúng con. Amen.
8. Lạy Cha chúng con – ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Chúa Giêsu cầu nguyện. Có lẽ khi Người cầu nguyện, có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn toả ra. Vì thế, các Tông đồ xin Người dạy cách cầu nguyện. Và Người đã dạy các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Kinh Lạy Cha mạc khải cho ta hai điều quan trọng.
1. Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Có lẽ vì đã đọc thuộc lòng Kinh Lạy Cha một cách máy móc nên ít khi ta cảm nhận được hết ý nghĩa thâm sâu nằm trong từ ngữ “Cha”.
Một người bạn có đứa con đầu lòng tâm sự: “Lần đầu tiên khi nghe đứa con gọi “Ba ơi”, tôi bủn rủn cả tay chân. Một luồng điện cực mạnh chạy khắp thân thể. Tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng”. Quả thực, mối liên hệ Cha-Con là một mối liên hệ rất thâm sâu, huyền bí và thân thiết.
Gọi ai là Cha tức là nhận người ấy là ân nhân lớn nhất đời mình. Vì nhờ Cha, ta nhận được món quà tặng quí giá nhất đó là sự sống. Có những người cha không chỉ sinh con về mặt thể xác mà còn cho con một đời sống tinh thần. Đó là những người Cha có nhân cách lớn, kiên trì đúc nặn nên những đứa con có tâm hồn cao đẹp, có lý tưởng, có tư cách làm người.
Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Nói tóm lại, từ ngữ “Cha” gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa huyền nhiệm không bút nào tả xiết được.
Khi mạc khải cho biết Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh về Thiên Chúa hoàn toàn khác với hình ảnh các vị thần của các tôn giáo khác. Không những Người cho ta thấy Thiên Chúa Cha yêu thương ta vô cùng, mà còn muốn ta đi vào tình nghĩa thâm sâu, tha thiết với Cha. Vì thế, Người đã dạy ta tiếng “Abba” là tiếng gọi “Ba ơi” rất thân thương của một đứa trẻ vừa nũng nịu, vừa tin tưởng, phó thác mọi sự trong tay Cha.
2. Mọi người là anh em
Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện: Lạy Cha chúng con… Xin Cha cho chúng con… Chứ không dạy ta đọc: Lạy Cha của con… Xin Cha cho con… Nghĩa là tất cả mọi người có cùng một Cha. Mọi người đều thuộc về một gia đình Thiên Chúa. Là anh em nên phải có tình yêu thương đoàn kết, liên đới với nhau. Liên đới trong đời sống, liên đới trong cả lời cầu nguyện.
Một lần dâng lễ chung với những người bạn Mỹ, tôi đã hỏi họ trong giờ chia sẻ: Hằng ngày các bạn vẫn đọc Kinh Lạy Cha. Vậy khi đọc câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày” các bạn cầu xin điều gì? Vì ở Mỹ tôi thấy lương thực dư thừa, không ai phải chết đói. Họ trả lời: Chúng tôi vẫn đọc Kinh Lạy Cha. Và với câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày” chúng tôi vẫn cầu xin tha thiết. Vì tuy chúng tôi đã đủ ăn đủ mặc, chúng tôi vẫn nhớ đến những anh em bên Phi châu, bên Àu châu đang phải đói khát khổ sở.
Câu trả lời thật chính xác. Vâng, chúng ta là anh em nên phải liên đới, có trách nhiệm về nhau. Trong bài đọc 1 hôm nay, tổ phục Abraham đã nêu gương liên đới khi tha thiết cầu nguyện cho thành Sođoma khỏi bị phạt.
Nếu trong gia đình đứa em út yếu đuối bệnh tật luôn được thương yêu cưng chiều, thì trong kinh nguyện, ta cũng phải ưu tiên cầu nguyện cho những anh em bé nhỏ trước hết.
Nếu lời cầu nguyện của ta là lời của đứa con nhỏ nói với Cha, và là tâm tình liên đới yêu thương với mọi anh em trên khắp thế giới, lời cầu nguyện ấy sẽ rất đẹp và Thiên Chúa sẽ hài lòng.
Lạy Cha chúng con ở trên trời, xin thương xót chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có thực sự cảm thấy Chúa là Cha và sống với Người như người con hiếu thảo không?
2- Thiên Chúa là Cha tốt lành. Người chỉ ban cho ta những điều tốt. Có khi nào Bạn gặp thất bại khổ đau mà bạn thấy lòng tốt của Thiên Chúa không?
3- Bạn cầu nguyện cho người kém may mắn, nhưng bạn có sẵn sàng chia sẻ với họ không?
9. Cầu nguyện
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, tôi muốn chia sẻ một vài ý tưởng đơn sơ về sự cầu nguyện. Vậy trước hết cầu nguyện là gì?
Như chúng ta đã biết cầu nguyện là dừng lại trong giây lát mọi băn khoăn lo lắng, để thưa chuyện với Chúa, để nâng tâm hồn lên hầu thờ lạy và cảm tạ Ngài, đồng thời kêu xin những ơn lành hồn xác.
Từ câu định nghĩa này chúng ta thấy cầu nguyện không phải chỉ là cầu xin, mà trước hết phải là chu toàn những bổn phận của con người đối với Thiên Chúa. Thế nhưng tại sao chúng ta lại phải cầu nguyện?
Trước hết, bởi vì chúng ta chỉ là những tạo vật của Thiên Chúa. Không có Ngài chúng ta không thể tồn tại. Hơn thế nữa, mục đích cuối cùng chúng ta phải theo đuổi trong cuộc sống hiện tại là tìm về quê hương Nước Trời. Muốn đạt tới mục đích cuối cùng ấy, thì ngay từ bây giờ chúng ta phải phụng sự và tôn vinh Ngài.
Đưa mắt nhìn vào vũ trụ, chúng ta nhận thấy từ một giọt sương mai cho đến các vì tinh tú, tất cả đều nói lên quyền năng Thiên Chúa khi tôn trọng những luật lệ mà Thiên Chúa đã an bài sắp xếp. Bởi đó người ta thường nói: Thiên nhiên là một cuốn sách mà mỗi trang của nó đều cho chúng ta được biết về Thiên Chúa. Và như vậy con người chúng ta, một tạo vật tuyệt vời của Thiên Chúa, lại càng phải ca tụng Ngài hơn nữa. Thế nhưng với trí khôn và ý muốn Thiên Chúa đã trao ban, tại sao chúng ta lại không nhận biết Ngài, lại không ca tụng Ngài?
Tiếp đến sở dĩ chúng ta phải cầu nguyện bởi vì Thiên Chúa là Cha chúng ta. Đây là điều mà chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ. Ngài nói: Khi cầu nguyện, các con hãy thưa lên: Lạy Cha chúng con ở trên trời.
Thiên Chúa là một người Cha nhân từ, hằng yêu thương chăm sóc chúng ta. Nhờ Ngài, chúng ta mới có được những phương tiện vật chất; nhờ Ngài, chúng ta mới có được những khả năng phần hồn; nhờ Ngài, chúng ta mới có được ơn cứu độ… Vậy tại sao chúng ta lại không biết ơn và cảm tạ Ngài? Thiên Chúa lạ vị ân nhân vĩ đại. Ngài chờ đón nơi chúng ta một câu nói tuyệt vời: Lạy Chúa con yêu mến Chúa. Như vậy khi cầu nguyện, chúng ta bày tỏ niềm biết ơn cũng như tình yêu đậm đà của chúng ta đối với Ngài.
Người ta kể lại trong cuộc chiến tranh tại Algérie, có một viên sĩ quan người Pháp bị bắt làm tù bình. Suốt thời gian bị giam giữ, viên sĩ quan ấy luôn bị một tên lính Ả Rập rủa xả là đồ chó. Bực tức trước lời rủa xả ấy, viên sĩ quan đã lên tiếng:
– Tại sao ngươi lại chửi ta là đồ chó. Ta là một tù binh, điều đó đúng lắm, nhưng ta cũng là người như ngươi.
Tên lính Ả Rập nhìn viên sĩ quan một cách khinh bỉ và nói:
– Ngươi mà cũng đòi là người ư? Đã sáu tháng rồi, ta không hề thấy ngươi cầu nguyện, thế mà ngươi cũng dám mở miệng tự xưng là người hay sao? Là người mà không cầu nguyện cùng Thiên Chúa, thì cũng chỉ là đồ chó mà thôi.
Câu trả lời thật cứng cỏi nhưng cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ. Bởi vì người là một con vật có trí khôn. Với trí khôn chúng ta nhận biết có Thiên Chúa. Và một khi đã nhận biết có Thiên Chúa thì tại sao chúng ta lại không ca tụng Ngài.
Để kết luận tôi xin mượn lời sau đây của thánh nữ Jeanne d’Arc: Thiên Chúa phải được phục vụ trước nhất, có nghĩa là bổn phận cầu nguyện phải là bổn phận hàng đầu trong cuộc sống chúng ta.
10. Ban Thánh Thần
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Có nhiều định nghĩa về con người.
Con người là con vật biết sử dụng các dụng cụ. Con người là con vật biết suy nghĩ đắn đo. Nhưng như thế vẫn chưa đủ.
Phải định nghĩa con người là con vật biết cầu nguyện, nghĩa là có khả năng lắng nghe và đáp lời Thiên Chúa. Con người là sinh vật biết chuyện trò với Tạo Hoá.
Cầu nguyện không phải là nói với một sự vật, một ý tưởng, nhưng là nói với một Đấng siêu vượt tôi, mà lại rất gần gũi thân thương và biết tôi. Đấng ấy nói với tôi và nghe được lời tôi nói.
Có nhiều tâm tình khi ta cầu nguyện: thống hối, tri ân, ca ngợi, thờ lạy, dâng hiến, nài xin.
Nài xin chẳng phải là điều hạ giá con người. Con người cảm nghiệm được thân phận mong manh, nên khiêm hạ đi tìm sự nâng đỡ.
Xin cho chúng con bánh cần dùng mỗi ngày. Bánh vật chất, bánh tinh thần, Bánh Thánh Thể. Bánh cho chúng con sự sống.
Xin tha thứ tội chúng con, để chúng con được sống bình an sau những va vấp.
Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ. Cơn cám dỗ lớn nhất là chỉ sống cho mình, và khép lại trước Thiên Chúa và anh em.
Quỳ xuống cầu xin là thái độ của người biết mình, biết những gì mình có thể làm được, và biết những gì nằm ngoài tầm tay của mình.
Khi tương quan giữa Mỹ và I-rắc căng thẳng cực độ, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan đã tới Bagdad để thuyết phục phía I-rắc ký vào bản thoả thuận.
Lúc trở về, ông nói: “Tôi đặc biệt đã cầu nguyện nhiều. Đừng bao giờ đánh giá thấp sức mạnh của sự cầu nguyện.”
Chẳng phải chỉ cầu nguyện khi gặp chuyện khó. Để hít thở bình thường cũng cần đến ơn trên.
Cần có thái độ kiên trì khi cầu nguyện. Hãy cứ gõ cửa nhà Chúa trong đêm mịt mù. Cần tập đứng đợi, tập quấy rầy Chúa. Thế nào Ngài cũng mở cửa và cho mọi sự ta cần.
Hãy để Ngài tự do cho vào lúc và theo cách Ngài muốn, dù điều đó không hợp với ước mơ của ta.
Lắm khi ta có cảm tưởng Ngài không nhận lời. Có thể vì lời nài xin của ta đầy tính ích kỷ, hay vì Ngài muốn dành cho ta một ơn lớn hơn.
Xin Đức Giêsu dạy ta biết cách cầu xin, đưa ta ra khỏi những bận tâm hẹp hòi về chính mình, để thấy những nhu cầu lớn lao của Hội Thánh.
Ơn cao cả nhất mà chắc chắn Cha muốn ban cho ta đó là Chúa Thánh Thần. Có Thánh Thần là có niềm vui, sức mạnh, ánh sáng, sự sống.
Có khi nào ta nài xin Cha ban Thánh Thần chưa?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa là Cha tốt lành. Ngài chỉ cho ta điều tốt. Có khi nào bạn gặp thất bại khổ đau mà bạn thấy lòng tốt của Thiên Chúa không?
Nếu Chúa cho bạn chọn 3 điều ước, bạn sẽ chọn những điều nào?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
11. Hãy xin thì sẽ được
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Một thách đố lớn đối với đức tin của người Kitô hữu đó là sự thinh lặng của Thiên Chúa.
Gặp cơn cùng khốn, con người cầu cứu Ngài nhưng không nghe thấy tiếng đáp lại.
Người lành bị trù dập, kẻ vô tội bị hàm oan, nỗi đau khổ thể xác tinh thần vây bọc lấy đời người.
Con người quằn quại, rên xiết, gào thét, nổi loạn.
“Chúng tôi tố cáo Thiên Chúa vì Ngài vắng mặt.”
Ngài không được quyền vắng mặt và thinh lặng. Nếu Ngài là Thiên Chúa quyền năng, Ngài phải tiêu diệt sự dữ và kẻ dữ. Nếu Ngài là Cha yêu thương, Ngài không thể quay lưng trước nỗi khổ của con người. Có nhiều người đã lý luận như thế và kết luận: “Vì có đau khổ, nên không có Thiên Chúa.”
Có lúc người ta tưởng đau khổ là một vấn đề có thể đem ra mổ xẻ, giải quyết. Nhưng rồi người ta thấy đó là một mầu nhiệm. Chỉ ai tin mới đến gần được mầu nhiệm ấy, và đón nhận nó trong bình an.
Đức Giêsu đã không trình bày con đường diệt đau khổ, nhưng Ngài mang lấy đau khổ vào thân. Trên thập giá, Ngài nghe được sự thinh lặng của Thiên Chúa, và thấy được sự vắng mặt của Người. “Lạy Thiên Chúa của tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?”
Như ta, Ngài cũng bước đi trong bóng tối của lòng tin, dù bị thử thách, vẫn một niềm tín thác: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha.”
Thiên Chúa vẫn là Đấng toàn năng và yêu thương, nhưng Ngài hành động không giống điều ta nghĩ.
Ngài không đưa Đức Giêsu xuống khỏi thập giá nhưng đưa Con của Ngài ra khỏi nấm mồ, điều đó khó hơn nhiều.
Hôm nay Đức Giêsu mời chúng ta cứ xin, cứ tìm, cứ gõ và tin chắc sẽ được, sẽ thấy, sẽ mở cho.
Chúng ta tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu, Ngài chỉ ban cho ta những điều tốt lành, những điều có lợi thực sự cho ta, những điều làm ta trưởng thành và triển nở, những điều đưa ta gặp hạnh phúc đích thực, thứ hạnh phúc không chỉ hạn hẹp ở đời này.
Chúng ta tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu, nhưng Ngài không nuông chiều con cái, Ngài dám cắt tỉa để chúng ta sai trái hơn.
Bạn hãy cứ cầu xin nhưng hãy để cho Ngài định liệu, vì Ngài biết rõ điều gì là tốt hơn cho bạn trong hoàn cảnh này, ở đây, bây giờ.
Cần cầu nguyện nhiều, bạn mới biết điều bạn phải xin, vì những điều chúng ta xin còn mang nhiều cặn bẩn.
Lắm khi chúng ta xin rắn mà không hay. Cũng có khi ta tưởng Chúa cho chúng ta bọ cạp. Cần có đức tin mới nhận ra rằng Chúa đã nhận lời mình rồi, nhưng theo một kiểu khác với kiểu ta muốn.
Cần đợi đến một lúc nào đó bạn mới thấy mọi biến cố trong đời đều là quà tặng yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn đã từng cầu xin và thấy Chúa thinh lặng trước nỗi khổ của bạn. Bạn đã sống kinh nghiệm đó như thế nào?
Có khi nào bạn tạ ơn Chúa vì những gì Chúa đã không ban cho bạn theo như ý bạn xin?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
12. Hãy xin thì sẽ được
(Suy Niệm của Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên)
Có nhiều định nghĩa khác nhau về cầu nguyện. Có người định nghĩa đơn giản là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa. Người khác cho cầu nguyện là thương lượng với Thiên Chúa. Người khác nữa cho cầu nguyện là nói chuyện với Thiên Chúa như hai người bạn nói chuyện với nhau. Và cũng có những người cho cầu nguyện là cầu xin những gì mình đang túng thiếu và cần Thiên Chúa ban ơn. Tất cả những định nghĩa trên đây nói lên một khía cạnh của cầu nguyện, tổng hợp tất cả cho chúng ta cái nhìn toàn bộ về việc cầu nguyện.
Trong Phúc Âm, Thiên Chúa dạy cho các môn đệ biết cách cầu nguyện cách xứng hợp qua Kinh Lạy Cha, và hai thái độ cần có trong khi cầu nguyện là tin tưởng và kiên trì.
Có hai sự khác biệt giữa kinh Lạy Cha của Luca và Matthêu: Thứ nhất, trình thuật của Luca thiếu câu “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.” Thứ hai, trình thuật của Luca cũng thiếu câu “xin cứu chữa chúng con khỏi sự dữ.”
Cả hai trình thuật đều đặt sự quan trọng của việc cầu xin cho Danh Chúa được cả sáng và Nước Chúa được trị đến, trước khi hướng tới những nhu cầu căn bản của con người. Lương thực hằng ngày, sự tha thứ, và sức mạnh để vượt qua mọi cơn cám dỗ là ba điều quan trọng trong đời sống thường nhật của một Kitô hữu.
– Kiên trì: Ví dụ Chúa Giêsu đưa ra có mục đích đòi hỏi con người phải có thái độ kiên khi cầu nguyện. Truyền thống Do-thái rất hiếu khách, nhất là những khách từ xa tới. Người kêu xin bị đặt trong thế kẹt: một là chịu thất lễ với khách, hai là chịu làm phiền hàng xóm, anh đã chọn giải pháp thứ hai để bảo vệ sự sống cho người bạn mình.
Nhà của người Do-thái ngày xưa không rộng mà nhân số trong nhà lại đông, nên cả gia đình thường ngủ chung dưới sàn trên chăn chiếu. Vì thế, nếu một người phải thức và ra mở cửa sẽ làm cho những người khác phải thức theo. Đó là lý do người hàng xóm từ chối lúc đầu; nhưng khi anh bạn có khách cứ gõ và nói mãi, anh phải chỗi dậy lấy bánh cho mượn, không phải vì tình bạn; nhưng vì sự lỳ lợm của anh. Lúc này, chắc những người trong gia đình đang ngủ chung cũng đã thức dậy hết!
– Tin tưởng: Thái độ này còn quan trọng hơn cả thái độ kiên trì, vì nó là động lực giúp con người chạy đến với Thiên Chúa. Hầu như trong tất cả các phép lạ, Chúa Giêsu chỉ làm khi Ngài nhận thấy có dấu chỉ của niềm tin. Ngài từ chối không làm bất cứ phép lạ nào khi chỉ thấy sự cứng lòng hay thử thách.
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ so sánh người Cha trên trời với các người cha dưới đất: “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta có bổn phận cầu xin Thiên Chúa cho những người tội lỗi được ăn năn trở lại, vì đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa.
– Đức Kitô là căn nguyên của tha thứ, hòa giải, và mọi ơn lành. Để lời cầu nguyện chúng ta được Thiên Chúa lắng nghe, chúng ta phải cầu xin nhờ danh và công nghiệp của Ngài.
– Để lời cầu nguyện có hiệu quả, chúng ta cần có thái độ tin tưởng và kiên trì nơi Thiên Chúa. Chúng ta cứ việc cầu xin mọi sự đẹp ý Thiên Chúa, nhưng phải sẵn lòng để chấp nhận thánh ý của Ngài.
13. Ý chí – Lm Vũ Đình Tường
Kiên tâm, bền chí là ý tưởng chính trong bài Phúc Âm hôm nay. Dụ ngôn người bạn nửa đêm đến gõ cửa xin thực phẩm cho người bạn khác cho thấy chính nhờ kiên tâm bền chí giúp anh đạt được điều anh mong muốn. Câu chuyện này cũng cho chúng ta thấy mức độ khác nhau trong tình bạn. Tất cả có ba người đều là bạn của nhau. Hai người đầu có vẻ nghèo và người thứ ba có của ăn, của để. Họ nghèo thực sự, ngay cả trường hợp khẩn cấp bạn đến bất tử vào đêm khuya mà trong nhà không có gì cho bạn ăn chống đói. Người kia có lẽ cũng nghèo không tiền mua thực phẩm trên đường đi. Tình bạn thân thiết, chân tình như thế quả hiếm thấy. Người bạn thứ ba có dư của ăn hay ít nhất còn có thực phẩm trong kho. Anh từ chối giúp bạn không phải vì không có để giúp mà đưa ra lí do cửa đã gài then, anh đã lên giường, con cái ngủ say không muốn phiền. Người gõ cửa cảm thông với anh vì những phiền toái đó nhưng anh lâm vào tình trạng túng quẫn không lối thoát. Anh muối mặt tiếp tục gõ xin thực phẩm. Tiếng gõ không làm người bạn mở cửa mà chính là nhờ anh bền chí, kiên trì xin cho bằng được. Kiên tâm, bền chí giúp anh đạt được điều mong muốn, dù gặp khó khăn, tủi nhục.
Thực tế cho thấy có thành công đáng giá nào mà không phải trả giá. Giá càng cao thành công càng rực rỡ. Nhiều năm chăm chỉ học hành mới có kiến thức sống đời. Đôi khi phải cố gắng, chuyên cần gần như vượt quá khả năng để có thể thành công trên đời.
Trong phục vụ tha nhân cũng cần kiên trì. Kẻ thù chính của kiên trì là cám dỗ bỏ cuộc. Lí do chính vì ma quỷ cũng dùng biện pháp tương tự nên chúng rất sợ người Kitô hữu kiên tâm, bền chí trong đức tin. Biện pháp chính của ma quỷ là lì ra, ù lì hay đấu lì. Vì thế cơn cám dỗ thường đến rồi đi rồi lại đến năm lần, bảy lượt nó vẫn đến. Mày chai, mặt đá đến thế. Khi nói đến đấu lì là nói đến vượt quá mọi lí luận hợp lí bình thường. Kẻ đấu lì mong đạt mục đích đen tối, bất kể tai hại gây cho người khác. Trong khi kiên tâm, bền chí cũng là cách ‘đấu lì’ nhưng mục đích mang lợi ích cho người khác, thành tâm vì yêu mến chân thành. Đó là điều khác biệt giữa đấu lì và kiên tâm, bền chí.
Một khi bị cám dỗ Kitô hữu cần kiên tâm trong cầu nguyện. Bền vững trong đức tin. Ai có thể nói kiên tâm cầu nguyện, bền vững trong đức tin là xấu. Điều bình thường xảy ra cho mọi người đó là khi phục vụ và làm chứng nhân cho Chúa, lúc tinh thần cao vời, lúc ngất ngưởng, chao đảo và lúc mệt mỏi, chồn chân, mỏi gối muốn bỏ ngang. Muốn bỏ ngang là một cám dỗ xem có vẻ vô hại nhưng là rất hại, đại hại. Kiên tâm bền chí là kẻ thù của bỏ ngang. Người bền đỗ đến cùng là người kiên tâm trong cầu nguyện, bền vững trong đức tin, dù ngay cả khi muốn bỏ ngang vẫn cố gắng trung kiên, bền chí. Điều rõ ràng là đau khổ, khó khăn đến rồi đi, mà không bao giờ đến ở vĩnh viễn trong ta. Đừng tưởng rằng mọi hy sinh cố gắng phục vụ của mình như sóng biển đại dương biếng mất sau tiếng vỗ bờ. Dù sóng biển có biến mất sau tiếng vỗ nó cũng làm thay đổi bờ cát. Kiên tâm bền chí cũng vậy có sức mạnh chuyển dời mọi cám dỗ. Với kiên trì trong cầu nguyện ơn Chúa chắc chắn thắng mọi cám dỗ của tà thần.
Học từ ơn khôn ngoan của người bạn nghèo kiên tâm, bền chí xin thì sẽ được, gõ thì sẽ mở cho. Người kiên tâm luôn là người thành nhân.
14. Cầu nguyện liên lỉ và cậy trông
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Năm 1998, khi tương quan Mỹ và Irac căng thẳng cực độ, Tổng thư ký Liên hợp quốc Kofi Annan đã tới Bagđad để thuyết phục Irac ký vào thoả ước hoà bình. Ông đã thành công, chiến tranh không xảy ra ở vùng Trung Đông. Khi trở về, phóng viên báo chí hỏi: Ông đã làm gì trước chuyến đi? Ông trả lời rất chân thật: Tôi cầu nguyện suốt đêm.
Thân xác cần hơi thở để sống. Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Qua đời sống cầu nguyện, sẽ có một cuộc gặp gỡ thân mật gần gũi giữa cá nhân với Chúa.
Không ít người sớm thất vọng vì cầu xin hoài mà không được. Có người cảm thấy chán nản, khó khăn, thiếu hứng thú, mất thời giờ khi cầu nguyện. Những hoạt động, những tiếp xúc với thế giới hữu hình vẫn luôn hấp dẫn so với thế giới vô hình, thành thử đời sống cầu nguyện ngày càng mờ nhạt.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện và cầu nguyện với tâm tình lắng nghe, đừng nhàm chán.
1. Lời cầu của Abraham.
Cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và Tổ phụ Abraham như là lời nhắc nhở và mẫu gương của đời sống cầu nguyện: kiên tâm bền chí, khiêm nhường cậy trông và mở lòng với tha nhân. Vì muốn cứu hai thành phố đồi truỵ Sôđôma và Gômôra, Abraham đã dám mặc cả với Thiên Chúa. Ông khởi sự bằng việc xin đưa người lành ra khỏi thành trước khi lửa Trời rơi xuống.
Lời cầu của Abraham là cho người tội lỗi, để cứu người tội lỗi cần có người lành. Ông bắt đầu lý luận với Thiên Chúa: Chẳng lẽ Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao. Nếu có 50 người công chính trong thành họ cũng chết chung sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì 50 người công chính đang ở đó hay sao?
Một loạt câu hỏi được nêu lên để rồi cuối cùng đã kết bằng một lời thỉnh cầu: Xin Chúa đừng làm như vậy, đừng sát hại người công chính cùng với kẻ dữ. Lời thỉnh cầu đó trở nên tha thiết, chân tình và đầy lòng khiêm tốn: Dù tôi chỉ là tro bụi tôi cũng xin thưa cùng Chúa, nếu trong số 50 người công chính đó lại thiếu vắng 5 người thì sao? Cuộc mặc cả đã đi từ con số 50 người lành xuống đến 45 rồi 40, 30, 20 và cuối cùng là 10. Chỉ cần 10 người công chính thôi tất cả mọi người sẽ được tha thứ, tiếc là 10 người cũng chẳng tìm ra !!!
Không hiểu sao Abraham không tiếp tục xin Chúa tha thứ cho dân thành nếu như không tìm được 10 công chính. Phải chăng vì ông cho rằng đây là con số nhỏ quá rồi so với con số quá lớn những người tội lỗi? Hay Abraham chưa hiểu thấu được chiều kích vô biên của lời cầu nguyện cũng như lòng thương xót bao la của Thiên Chúa?
Thiên Chúa luôn vui lòng trước lời cầu nguyện chân thành, bền bỉ, tin tưởng và cậy trông của con người. Ngài sẵn sàng ban ơn cho những ai có tâm tình nguyện cầu như thế.
Thiên Chúa đã phán trong sách Edêkien và sách Giêrêmia: nếu chỉ tìm được ở Giêrusalem một người biết giữ công lý, biết tìm sự thật, thì Người cũng sẽ tha tội cho thành ( Ed 22,30; Gr 5,1) Lời khẳng định này thúc giục chúng ta cố gắng sống đời tốt lành để cầu xin và mang lại lợi ích thiêng liêng cho gia đình, cho quê hương, cho những người tội lỗi.
Hãy xin thì sẽ được, tìm sẽ gặp, gõ sẽ mở cho. Lời đoan hứa của Chúa Giêsu đã làm các Thánh hạnh phúc sung sướng. Lời đoan hứa này không chỉ cho các Thánh mà là cho mọi người. Thiên Chúa yêu thương muốn ban mọi sự tốt lành cho tất cả, không phải vì tất cả đều tốt nhưng tất cả là con cái Ngài. Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta như thế: Các ngươi còn biết cho con mình những điều lành huống chi Cha các ngươi trên Trời !
2. Abba, Cha ơi !
Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Chúa Giêsu cầu nguyện. Có lẽ khi Người cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn toả ra, vì thế các ông cũng xin Người dạy cách cầu nguyện. Người đã dạy các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, kinh duy nhất Chúa Giêsu dạy mà chúng ta đọc mỗi ngày nhiều lần. Kinh Lạy Cha mặc khải cho chúng ta điều quan trọng. Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Một người bạn có đứa con đầu lòng tâm sư: lần đầu tiên khi nghe đứa con gọi: Bố ơi, tôi bủn rủn cả chân tay, một luồng điện cực mạnh chạy khắp cơ thể, tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Quả thật. Mối liên hệ Cha – Con là một mối liên hệ rất thâm sâu huyền bí và thân thiết.
Gọi ai là cha tức là nhận người ấy là ân nhân lớn nhất đời mình. Vì nhờ cha ta nhận được món quà tặng quý giá nhất đó là sự sống. Có những người cha không chỉ giúp con về mặt thể xác mà còn cho con một đời sống tinh thần. Đó là những người cha có nhân cách lớn, kiên trì đúc nặn nên những đứa con có tâm hồn cao đẹp, có lý tưởng, có tư cách làm người.
Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là cánh tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Từ ngữ “Cha” gợi lên một trời yêu thương vừa thân thiết, vừa huyền diệu.
Khi mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là Cha, Cha nhân loại, Đức Giêsu cho thấy:Thiên Chúa Cha yêu thương chúng ta vô cùng, muốn chúng ta đi vào tình nghĩa thâm sâu tha thiết với Cha. Vì thế, Người đã dạy tiếng “Abba” là tiếng gọi “Cha ơi”, rất thân thương của một đứa trẻ, vừa nũng nịu vừa tin tưởng phó thác mọi sự trong tay cha. Thánh Têrêxa Hài Đồng đã tiến đức bằng Con Đường Thơ Au Thiêng Liêng. Ngài sống và hướng tới trọn lành như đứa con, bé nhỏ trong tình thương của Thiên Chúa là Cha, đứa con thảo hiếu trong vòng tay âu yếm của Cha.
Mối quan hệ Cha – Con trở nên thân thiết chình là nhờ đời sống cầu nguyện. Cầu nguyện là một cuộc đối thoại, là nói và nghe. Vì thế, khi chúng ta đến với Chúa không phải bắt Chúa nghe những nhu cầu mình liệt kê mà cần một thái độ lắng nghe tiếng Chúa và sống theo ý Ngài.
3. Cầu nguyện cần thiết cho đời sống tâm linh.
Cầu nguyện không chỉ là cầu xin mà còn là tôn thờ, cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng. Chỉ có con người mới biết cầu nguyện như là lắng nghe và đáp lời Thiên Chúa. Được nói chuyện với một Đấng Siêu Việt mà lại gần gũi thân thương trong tình Cha Con thì thật là hạnh phúc lớn lao. Đó là nhờ cầu nguyện.
Thiên Chúa là nguồn tình yêu, nguồn sự sống, nguồn trí tuệ, nguồn sức mạnh, nguồn ân sủng. Muốn nhận đựơc những giá trị cần thiết đó, con người phải thông hiệp với cội nguồn là chính Thiên Chúa.Cầu nguyện đựơc ví như hơi thở của linh hồn. Không thở, con người sẽ chết. Cũng vậy, không cầu nguyện, linh hồn không thể sống lành mạnh, sống tốt lành, thánh thiện được. Nhờ cầu nguyện, linh hồn tràn đầy sức sống, tình yêu, trí tue, sức mạnh và đời sống con người trở nên hạnh phúc.
Cầu nguyện là việc rất cần và là việc rất dễ. Ước mong cuộc đời chúng ta là một lời cầu nguyện liên lỉ, kiên trì, một cuộc sống thân mật với Chúa mỗi ngày mỗi thắm đượm để nhờ đó nhịp cầu cầu nguyện nối chúng ta và Thiên Chúa thêm gần gũi trong tin yêu và hy vọng.
15. Kinh Lạy Cha – André Sève
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Đối với thánh Luca, Kinh Lạy Cha phát xuất từ việc các môn đệ nhìn Chúa Giêsu cầu nguyện: “Khi Ngài cầu nguyện xong, một trong các môn đệ thưa Ngài: Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện”.
Theo chiều hướng đó, chúng ta có thể tái khám phá Kinh Lạy Cha trong bài suy niệm này, bằng cách xem Chúa Giêsu cầu nguyện như thế nào, bằng cách kết hợp với nhiệt tình bên trong hướng về Chúa Cha của Ngài, bằng cách tiếp nhận mỗi lời nói từ chính Chúa Giêsu.
“Lạy Cha chúng con”
Chúa Giêsu, ngay từ những lời nói đầu tiên, “Lạy Cha chúng con”, Cha đã kéo con ra khỏi sự co cụm lại, Cha nhắc nhở con rằng mọi kinh nguyện mở con hướng ra hai thế giới. Trong khi tìm cách tiếp xúc với Cha, con đi vào trong mầu nhiệm Ba Ngôi. Trong khi nói “chúng con”, con cầu nguyện cùng với các anh em và cho các anh em của con.
“Lạy Cha chúng con ở trên trời”
Lạy Cha, Cha ở khắp mọi nơi, nhưng là ở trong một thế giới khác với thế giới hữu hình của chúng con, không phải ở bên trên, cũng không phải ở bên cạnh, ở một nơi mà con không nhận thấy. Cha ở rất xa khi con suy nghĩ bình thường, và rất gần khi con lắng nghe Chúa Giêsu: “Ai thấy Ta là thấy Cha” (Ga 14,9). Lạy Cha, Cha “ở trên trời”, nhưng Cha đúng là Cha chúng con. Con sống trong sự hiện diện của Cha, và Chúa Giêsu nói với con rằng đây là một sự hiện diện tình yêu. Con ở trong Cha và Cha ở trong con. “Nếu ai yêu mến Thầy Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến ở cùng người ấy” (Ga 14,23). Con hiểu điều này khi con nói với Cha: Lạy Cha.
“Xin cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện”.
Danh Cha, chính là Cha. Con muốn tất cả mọi người đều biết Cha. Con muốn họ biết Ngài thánh thiện đến độ nào và Cha là Cha. Con muốn họ có thể phân biệt được hành động, công bằng và vinh quang của Cha. Con muốn cuộc sống của con nói lên danh Cha.
Nước Cha, chỉ có Cha mới có thể thể hiện Nước đó một cách hoàn toàn cùng với những cuộc đời của chúng con khi các cuộc đời này không nổi loạn, đãng trí cũng như gò bó. Xin hãy mở rộng các tư tưởng của chúng con cho đến thời cánh chung khi chúng con sẽ là dân chúng đông đảo của Cha. Xin hãy làm cho Nước của Cha đến qua điều mà con người trên thế giới đang sống. Điều đó là máu và nước mắt, những nỗi thất vọng, những niềm vui, những hoạt động công bằng và những chuyện tình đẹp. Xin cho máy truyền hình, nếu con biết xem cho tốt, luôn luôn đổi mới sự lo lắng của con về Nước Trời và kinh nguyện của con về Nước Trời.
Con không muốn nói với Cha “xin cho ý Cha thể hiện” vì một sự cam chịu đơn giản, con muốn đi vào trong ý muốn của Cha càng tích cực càng tốt bởi vì con biết rằng điều Cha muốn là thánh thiện, công bằng và đầy tình yêu thương.
Nhưng đôi khi tất cả đều đen tối đối với chúng con. Xin cho đừng có chén đắng!… Tuy vậy, nếu phải uống chén đắng, xin cho chúng con có thể hợp với ý của Cha nhiều nhất.
“Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
Xin hãy cho chúng con điều cần thiết để sống một cách mãnh liệt ngày hôm nay. Không phải hôm qua cũng không phải ngày mai, nhưng bây giờ đây. Mỗi lần con xin Cha lương thực ngày hôm nay, hãy đặt con lại trong hiện tại, trong điều mà con phải sống. Xin tách con ra khỏi những lo lắng làm con xa Cha. Con không thể nói với Cha là Cha nếu con không tin rằng Cha muốn ban cho con điều gì đó để sống ngày hôm nay.
“Xin tha tội chúng con như chúng con cũng tha”
Cho đến Kinh Lạy Cha cuối cùng của con con sẽ còn xin Cha tha thứ. Con sẽ luôn luôn có những sai lầm với Cha, con biết, nhưng nhờ Chúa Giêsu con sẽ không bao giờ nghi ngờ Cha, Cha là người cha của đứa con hoang đàng. Nhưng xin cho con không quên điều kiện mà nếu không có nó Cha sẽ không thể tha thứ cho con: con phải tha thứ. Không phải tha thứ cho anh em của con nói chung, đây là điều quá dễ. Vào lúc này đây con phải tha thứ cho X… ngay tức thì. Nếu không, tại sao lại đọc Kinh Lạy Cha? Sự tha thứ của Cha không thể được ban cho một tâm lòng đóng kín với chỉ một trong những người anh em của họ.
“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”
Con không xin Cha cho con được rút lui khỏi cuộc chiến đấu, nhưng để làm vinh danh Cha khi mọi sự trở nên khó khăn. Vào giờ phút tồi tệ, lạy Cha, xin giúp con. Xin giúp chúng con.
16. Biến ước mơ thành hiện thực
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Trên đời có nhiều giá trị vật chất hoặc tinh thần rất cao đẹp, rất quý báu nên ai ai cũng đều khao khát ước mơ. Tuy mọi người đều mơ ước, khao khát những giá trị đó nhưng rồi họ cảm thấy khả năng của mình có giới hạn, phương tiện của mình còn thiếu thốn, nên chẳng mấy ai tìm cách chiếm hữu được những giá trị cao quý ấy. Thế là những giá trị cao quý đó chỉ xuất hiện trong ước mơ của mọi người một thời gian rồi tan biến.
Trong câu chuyện cổ Ali Baba và bốn mươi tên cướp, chàng Ali Baba nghèo khổ vào rừng kiếm củi kiếm sống qua ngày, vô tình phát hiện bốn mươi tên cướp mang tài sản cướp được về cất giấu trong kho tàng bí mật. Khi một người trong bọn đứng trước một tảng đá lớn đọc câu thần chú: “Vừng ơi! mở ra”, thì lạ lùng thay, một cánh cửa bí mật mở ra dẫn lối cho lũ cướp đem của cải cướp được vào kho báu nằm chìm trong hang.
Chờ cho bọn cướp ra đi, Ali Baba tiến lại khung cửa thần bí và đọc lại câu thần chú đó. Thật nhiệm mầu, tấm cửa đá nặng nề mở ra, đưa anh vào một kho tàng chứa đầy báu vật và nhờ đó, Ali Baba chiếm hữu được nhiều báu vật trong kho tàng.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy cho chúng ta một một bí quyết quan trọng giúp ta khám phá và chiếm hữu những kho báu lớn lao, kho báu vật chất cũng như kho báu tinh thần. Đây không phải là câu “Vừng ơi! mở ra” để đưa chúng ta vào kho báu huyền thoại, nhưng là câu: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho”.
Bí quyết nầy giúp mở ra nhiều kho tàng vật chất cũng như tinh thần, tự nhiên cũng như siêu nhiên. Bí quyết được tóm lại trong ba điều rất đơn giản: “xin – tìm – gõ”.
Thật là điều khó tin! Làm sao mà chỉ cần ba hành động đơn giản là xin, tìm, gõ lại có thể giúp người ta đạt được những giá trị lớn lao và cao quý?
Chúa Giêsu cũng biết những thính giả của Ngài đầy ngờ vực khi nghe những lời dạy ấy nên Ngài mới thuyết phục thêm: “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”.
Thế ra lâu nay chúng ta không chiếm hữu được những giá trị cao quý là vì chúng ta chưa xin, chưa tìm, chưa gõ đó thôi. Còn ai liên lỉ xin, kiên quyết tìm, nhẫn nại gõ thì thế nào cũng đạt được giá trị cao đẹp mình mong muốn.
Cả ngàn ngôi thánh đường cao lớn mọc lên nhanh chóng từ vài chục năm trở lại đây trên đất nước Việt Nam chúng ta, những thánh đường mà trước đây nhiều người giáo dân nghèo chỉ dám ước mơ chứ không dám tin là sẽ có, đã trở thành hiện thực giữa những xóm đạo rất nghèo, cũng là nhờ vào bí quyết “xin-tìm-gõ” mà thành.
Con số linh mục vượt trội lên trong những năm tháng qua trên quê nhà Việt Nam, điều mà trước đây vài chục năm chỉ là điều nằm trong mơ ước, nay cũng đã thành hiện thực nhờ bí quyết “xin-tìm-gõ” đó thôi.
* * *
Cuốn “Góp nhặt cát đá” của thiền sư Muju (dịch giả Đỗ Đình Đồng, nhà xuất bản Lá Bối, xuất bản năm 1972) có ghi lại mẩu chuyện sau đây liên quan đến lời dạy của Chúa Giêsu hôm nay.
Một sinh viên đến viếng Thiền sư Gasan và hỏi: “Thầy đã đọc Thánh Kinh Kitô chưa?”
Gasan bảo: “Chưa. Hãy đọc tôi nghe!”
Sinh viên mở sách ra và đọc một đoạn sách thánh (Mt 6, 28-29): “Còn về áo mặc, các ngươi lo lắng làm chi? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào: chẳng làm khó nhọc cũng không kéo chỉ; nhưng Ta bảo các ngươi, dẫu vua Salômon sang trọng đến đâu, cũng không mặc được áo tốt như như một hoa nào trong giống đó… Vậy chớ lo lắng chi ngày mai, vì ngày mai sẽ lo về việc ngày mai.”
Gasan nói: “Ai nói những lời đó, tôi cho là một người đã giác ngộ.”
Sinh viên đọc tiếp: “Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp hãy gõ sẽ mở cho. Bởi vì hễ ai xin thì được; ai tìm thì gặp; ai gõ thì được mở.” (Mt 7, 7-8)
Gasan phê bình: “Thật là tuyệt! Ai nói điều đó không xa Phật tánh.”
* * *
Từ đây, nắm được bí quyết quan trọng để đạt được những giá trị cao quý trên đời, chúng ta không dại khờ ngồi ước mơ suông, nhưng phải ra công thực hiện, vì phương tiện sẵn có trong tầm tay. Chỉ cần liên lỉ xin, kiên quyết tìm và nhẫn nại gõ thì chúng ta sẽ thủ đắc được những giá trị cao quý mà lâu nay chỉ có trong mơ. Với bí quyết nầy, chúng ta có thể biến những ước mơ thành hiện thực.
17. Phải cầu nguyện như thế nào?
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Tạ Chúc)
Các môn đệ cũng đã nhiều lần thắc mắc, họ không biết phải thân thưa làm sao, hay phải nói thế nào khi cầu nguyện. Rất nhiều lần, các ông thấy Chúa Giêsu đắm mình trong thinh lặng: khi sáng sớm, lúc hoàng hôn, nơi hoang địa, trên biển hồ… Và rồi để giải tỏa những nỗi khắc khoải trong lòng họ, Đức Giêsu đã dạy các học trò cầu nguyện.
Người bảo các công: “Khi cầu nguyện anh em hãy nói Lạy Cha…”
Cha ơi! Như một em bé mới bập bẹ tập nói, nó gọi baba, và lập tức người cha sẽ chạy đến và ẵm em vào lòng. Thiên Chúa là Cha. Thật vậy người Ki-tô giáo luôn tuyên tín vào Mầu nhiệm Thiên Chúa là Cha. Ngài đón nhận con cái mọi người với tình yêu Phụ tử. Mỗi lần con cái kêu lên thì không bao giờ người Cha lại ngoảnh mặt làm ngơ. Trái lại, người cha sẵn sàng và chờ đợi để ban xuống muôn ơn lành cho con cái của mình. Và hơn thế nữa, bao giờ người Cha cũng luôn trao cho con những món quà tốt đẹp nhất.
Và Người nói: “Ai trong anh em là người cha, mà khi con cái xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? (Lc 11, 11). Thiên Chúa nhân từ, Ngài luôn rộng mở và quảng đại trao ban cho mọi người tất cả. Miễn là chúng ta kiên tâm và vững lòng như hình ảnh một người bạn đi đường, giữa đêm khuya gõ cửa nhờ đến một người bạn khác của mình vậy: “Dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta lì ra đó” (Lc 11, 8).
Cầu nguyện là tạo một mối liên hệ thâm sâu và vững bền với Chúa, bằng lời, bằng con tim và bằng cả trí hiểu. Như thế cầu nguyện không chỉ là mong muốn và đạt thấu những điều thuộc về mình, nhưng là một khám phá trong tình yêu với Đấng mà mình cậy trông.
Đức Giêsu dạy kinh nguyện cầu nguyện, và chính Ngài cũng đã trải nghiệm qua từng phút giây trong cuộc đời. Anh em hãy tỉnh thức và cầunguyện. Như một thong điệp cho mọi người. Kinh Lạy Cha, một lời nguyện xin chân thành và đầy đủ ý nghĩa cho bất cứ ai, muốn gặp gỡ Đức Giêsu, trong cuộc đời của mình.
18. Lạy Cha chúng con…
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Vào cuối thập niên 80, tại Rumani, một trận động đất lớn đã xảy ra làm hơn 10 ngàn người chết. Ngay sau trận động đất, một người cha đã chạy đến nhà trường tìm đứa con trai của mình.
Ngôi trường nhiều tầng đã sập đổ, nhưng người cha cố đào bới trong đống gạch vụn để tìm con. Những người cứu hộ và cảnh sát bảo ông hãy về nhà và đừng đào bới nữa vì rất nguy hiểm. Nhưng ông không nghe và cứ tiếp tục đào bới.
Ông đào bới trong suốt 12 tiếng đồng hồ cũng chẳng thấy tăm hơi người con đâu. Ông vừa đào bới vừa nghĩ: “Mình đã hứa thì phải thực hiện lời hứa, biết đâu nó còn sống trong đống gạch này thì sao?”
Nghĩ thế rồi, ông lại tiếp tục đào bới, 24 tiếng rồi 48 tiếng đồng hồ trôi qua… ông chợt nghe tiếng động. Ông gọi tên người con và ông nghe thấy tiếng kêu rất nhỏ từ xa vọng lại: “Ba ơi”. Nước mắt ông tuôn trào và ông hăng hái đào tiếp đến tận phòng của đứa con.
Thằng bé còn sống cùng với 20 đứa khác trong một góc phòng chưa bị sập. Nó ôm chầm lấy người cha và nói: “Con đã bảo với các bạn của con rồi: “ba tôi đã nói, dù thế nào ba cũng đến đón tôi. Các bạn cứ yên tâm đi, chắc chắn ba tôi sẽ đến”.
Tiếng kêu ba ơi của đứa bé nghe như âm vang lời kinh Lạy Cha chúng ta đọc hằng ngày: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Lời kinh Lạy Cha, là điệp khúc được lập lại nhiều nhất trong cuộc đời người tín hữu. Lời kinh này chúng ta có thể thốt lên bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu. Khi vui, khi buồn. Khi thành công hay khi thất bại. Khi ở nhà hay hành hương nơi xa. Tất cả trong mọi hoàn cảnh chúng ta đều có thể thưa lên Lạy cha chúng con ở trên trời. Đây là điệp khúc được lập đi lập lại mà không bao giờ nhàm chán. Vì lời đó là gạch nối cho tình cha con luôn gần gũi đậm đà yêu thương, là nhịp cầu cho tình con người vươn lên làm con Thiên Chúa.
Thực vậy, Thiên Chúa của Kytô giáo không phải là vị thần ở chốn xa xôi nào đó, càng không phải là một vị thần chỉ để con người đóng khung và “kính nhi viễn chi”, mà là một người cha luôn ân cần chăm sóc người con. Dù người con có hoang đàng tội lỗi cha vẫn thứ tha. Dù người con mải mê thế trần cha vẫn kiên nhẫn tìm con trở về. Một người cha thật đại lượng bao dung đến nỗi cho mưa thuận gió hoà trên kẻ lành người dữ. Một người Cha hết lòng vì loài thụ tạo đến nỗi đã ban Con Một cho trần gian để cứu chuộc trần gian. Một người cha luôn lo lắng cho con cái đến nỗi còn quan tâm đến sự sinh tồn của từng sợi tóc của con người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống trong tình con thảo với Cha trên trời. Một người con thảo hiếu luôn sống với Cha trong tình phó thác và với anh em trong tình bác ái. Chính Chúa Giêsu đã sống điều đó. Ngài đã phó thác cuộc đời trong tay Cha đến nỗi chỉ mong ước một điều là tim kiếm ý Cha và làm vinh danh Cha. Ngài đã sống với nhân loại trong tình bao dung và độ lượng. Ngài đã đi đến tận cùng của tình yêu là chết cho người mình yêu. Ngài đã đi đến tận cùng của việc quên mình là tha thứ cho kẻ đã hành hạ và kết án mình. Ngài đã dùng tình yêu để đẩy lùi sự dữ. Ngài đã dùng tình yêu để hoán cải những người lầm lỗi và tạo điều kiện cho kẻ lầm đường lạc lối trở về.
Vâng, cuộc đời chúng ta có vui có buồn. Có những lúc thành công và có những khi thất bại. Có đau khổ và hạnh phúc. Điều đó nói lên sự bấp bênh của giòng đời. Con ngừơi luôn mang yếu tố bất định, chúng ta chẳng biết ngày mai sẽ ra sao. Vì thế, kẻ khôn ngoan là biết phó thác mọi sự cho Chúa là Cha. Chính người sẽ lo liệu những gì tốt đẹp nhất cho cuộc đời chúng ta. Không một người Cha nào lại bỏ rơi con cái thì Thiên Chúa cũng định liệu và an bài mọi sự cho chúng ta, miễn là chúng ta hãy sống hết mình trong tình con thảo với Cha và hết mình sống yêu thương và phục vụ anh em đồng loại. Khi chúng ta sống phó thác cho Chúa là lúc chúng ta tìm được an bình trong thánh ý Thiên Chúa. Cho dù cuộc đời có những lúc nổi trôi, có những trái ngang trắc trở, chúng ta vẫn tràn đầy niềm hy vọng vì có Chúa luôn phù trợ chúng ta. Vì ai bền đỗ đến cùng thì người đó sẽ được ơn cứu thoát. Amen.
19. Đẹp thay lời nguyện xin – Lm. Anmai.
Không ai là một hòn đảo! Sống trên đời này, mọi người đều có một mối liên hệ này hay liên hệ khác với nhau để rồi nay người này nhờ người kia và mai người kia nhờ người này. Con người, dù muốn dù không vẫn chỉ giúp cho anh chị em đồng loại của mình ở một mức độ cho phép mà thôi.
Khi con người đối diện với những vấn đề ngoài tầm tay thì con người lại chạy đến với những vị thần linh, thần thánh mà mình tôn thờ. Chúa Giêsu khi mặc lấy phận người Ngài cũng phải đương đầu, đối diện với tất cả những khó khăn, những hạn chế của phận người để rồi Ngài lại chạy đến với Chúa Cha mà cầu nguyện.
Với thánh Luca, Ngài thường dành một vị trí hết sức đặc biệt cho lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Thánh Luca thường mở đầu bằng lời cầu nguyện của người Do Thái trong Đền Thờ và kết thúc bằng lời cầu nguyện của cộng đoàn các môn đệ “không ngừng chúc tụng Thiên Chúa trong Đền Thờ”.
Để ghi dấu tất cả những thời điểm quan trọng trong sứ vụ của Chúa Giêsu, Thánh Luca đã ghi lại lời cầu nguyện khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan.
Lời nguyện xin hết sức đơn sơ và thân thiết của trẻ thơ khi thốt lên: “Abba”, nghĩa là: “Lạy Cha”.
Các môn đệ đã chứng kiến lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha không chỉ bằng mắt thấy, mà còn bằng tai nghe. Các môn đệ đã phải nghe Chúa Giêsu cầu nguyện lớn tiếng, và chính trong các biến cố quan trọng, mà các ông đã có thể hình thành cho mình một ý tưởng cầu nguyện riêng. Chúa Giêsu đã muốn người ta nghe Người cầu nguyện, Người rõ muốn xác định lời cầu nguyện của chúng ta bắt nguồn từ lời nguyện của Người.
Thánh Matthêu lại khác với Luca, Mátthêu thuật việc truyền lại kinh Lạy Cha.
Thánh Luca trong khuôn khổ Bài Giảng trên núi thì lại đặt chữ “Lạy Cha” trong khuôn khổ của cuộc hành trình về Giêrusalem, thành phố mà nơi đó, Chúa Giêsu sẽ trút hơi thở cuối cùng trong lời nguyện sau cùng. Chúa Giêsu, “ở một nơi nào đó”, “đang cầu nguyện”, và, khi Người đã cầu nguyện xong, một trong các môn đệ xin Người: “Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện”. Đây không phải là vấn đề cầu nguyện chung chung, mà là lời cầu nguyện, thêm vào những lời cầu nguyện chính thức của niềm tin Do thái, sẽ nêu rõ nét đặc trưng nhóm các môn đệ của Người, theo cách thức – mà chúng ta không biết – mà “Gioan Tẩy Giả dạy các môn đệ ông”. Một lời cầu nguyện tập trung vào điểm chính yếu của sứ điệp Người và xây dựng cộng đoàn các môn đệ chung quanh Người.
Chúa Giêsu đáp lại lời cầu xin của ông bằng một lời cầu nguyện kiểu mẫu. Một lời cầu nguyện mà từ nay, căn cứ vào đó, tất cả các lời cầu nguyện kitô giáo sẽ phải rập theo, cách này hay cách khác: đó là kinh “Lạy Cha”.
Những hoàn cảnh, trong đó lời cầu nguyện kiểu mẫu được phát biểu rất đặc biệt. Chúng giúp các kitô-hữu hiểu rằng, lời cầu nguyện của họ là sự nối dài lời cầu nguyện của Chúa Giêsu; lời cầu nguyện đó phải là sự bắt chước, phản ảnh…Các môn đệ đã nhìn thấy Chúa cầu nguyện, nên đã xin Người hướng dẫn họ cầu nguyện; nói khác đi, đưa dẫn họ vào lời cầu nguyện của Người. Chúa Giêsu đồng ý, bằng cách công bố kinh Lạy Cha. Khi cầu nguyện bằng kinh nầy, và khi hiểu thấu những tình cảm hay ý hướng nó diễn tả, các kitô hữu cầu nguyện như Chúa Giêsu: “Nhờ Người, với Người, trong Người” là một công thức về sau sẽ diễn tả điều mà thánh Luca gợi ý”.
“Kinh Lạy Cha” của thánh Luca ngắn hơn của thánh Matthêu, bao gồm một lời cầu khẩn, hai ước nguyện và ba lời xin ơn.
Một lời cầu khẩn. Để thưa với Thiên Chúa, kinh này lấy lại từ ngữ mà Chúa Giêsu, ngôi Con, dùng trong lời nguyện của riêng ngài: “Lạy Cha” (“Lạy Cha chúng con” trong thánh Mátthêu). Lập tức, lời này mạc khải cho chúng ta chiều sâu của mối liên hệ giữa Chúa Giêsu Kitô và Thiên Chúa.
Lời cầu nguyện kitô giáo, giúp môn đệ Chúa Giêsu bước vào sự thân mật duy nhất liên kết Chúa Con với Chúa Cha. Trong lời cầu nguyện của người con thảo, người kitô hữu có thể lấy lại lời cầu khẩn này của Đức Kitô: “Lạy Cha” (Gl. 4, 6; Rm 8,15 ). Tiếng kêu Cha đó có tính cách riêng biệt, cá nhân. Nó diển tả một sắc thái thân mật và cũng muốn nhấn mạnh là, mối liên hệ duy nhất và đặc biệt mà Chúa Con có với Chúa Cha cũng là mối liên hệ nối kết tất cả các kitô hữu với Thiên Chúa.”
Với hai ước nguyện cùng hiện diện song song trong lời nguyện của người Do Thái.
Sự thánh hóa Danh Thiên Chúa: chớ gì Thiên Chúa can thiệp và tỏ rõ mình là Thiên Chúa, ước mong Người được mọi người nhận biết!
Nước Ngài trị đến: chớ gì Thiên Chúa đích thân ngự đến và tỏ lộ ra sự hiện diện cao cả và năng động của ngài !
“Lạy Cha, xin ngự đến” đã được làm thành công thức dưới hai hình thức khác nhau; Thiên Chúa là “đối tượng” duy nhất của lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa”
Ba lời xin ơn, được diễn tả, không phải ở ngôi thứ nhất số ít: “Con”, nhưng ở ngôi thứ nhất số nhiều: “Chúng con”, các môn đệ thân thưa với Thiên Chúa cho chính họ với tư cách là một cộng đoàn.
Để tiếp tục cuộc hành trình lữ thứ trần gian, lời xin ơn thứ nhất hướng về “cơm bánh mà chúng con cần mỗi ngày”. “Trước hết ở đó, có sự ám chỉ đến manna, bánh từ trời đã hồi phục dân Thiên Chúa trong thời kỳ Xuất Hành, và, theo sự mong đợi của dân Do Thái, bánh này sẽ lại được trao ban như là lương thực cho cộng đoàn của thời sau hết. Nơi thánh Luca, các tín hữu được mời gọi cầu xin Bánh hằng sống nầy hằng ngày”
“Sự tha thứ tội lỗi của chúng con” đó là điều hai mà lời xin nhắm đến. Ơn tha thứ là ơn huệ nhưng không của Thiên Chúa. Nếu đã trót phạm tội với Chúa mà không có ơn tha thứ, chúng ta sẽ không thể nào sống trong tình thân với Thiên Chúa, vì chúng ta là những con nợ chẳng có gì để mà trả được cả. Ơn tha thứ đó cần thiết cho chúng ta còn hơn là cơm bánh. Hơn nữa, chúng ta còn phải tha thứ cho các con nợ của chúng ta, nếu không, Thiên Chúa sẽ không thứ tha cho chúng ta.
Với con người, vốn mỏng dòn yếu đuối, luôn phải đối diện với những cơn cám dỗ thì lời xin ơn thứ ba, lời xin sau cùng liên hệ đến sự trợ giúp trong “cơn cám dỗ”. Chúng ta không xin cho chúng ta được miễn trừ khỏi cơn cám dỗ hay thử thách: Chính Chúa Giêsu đã được Thánh Thần đưa đến hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ trước khi lên đường thực thi sứ vụ công khai loan báo Tin mừng của Ngài. Chúng ta cầu xin đừng sa chước cám dỗ, theo ý nghĩa của lời cầu cho Phêrô, trong chương 22 câu 32: “Thầy cầu nguyện cho con, để con không mất đức tin”. Chúng ta cầu xin cho thử thách không làm chúng ta ngã quị, cho chúng ta đừng sa vào kế hoạch của Tên Cám Dỗ.
Với lời nguyện tin tưởng và kiên trì. Chúa Giêsu tiếp nối bằng một dụ ngôn và những lời cắt nghĩa cho dụ ngôn được rõ hơn.
Dụ ngôn là dụ ngôn người bạn quấy rầy, nhân danh tình bạn, không sợ làm phiền một trong những người bạn của mình, ngay “lúc giữa đêm”, và không ngại nằn nỉ đến độ “sỗ sàng”, để giúp đỡ một người bạn khác, đường xa mới đến.
Cũng chính với sự tin tưởng, sự kiên trì, táo bạo, làm nền tảng cho tình yêu của Người mà chúng ta dám thân thưa với Thiên Chúa: “Chúa Giêsu nhấn mạnh, các con hãy xin, thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ thấy; hãy gõ, thì cửa sẽ mở cho các con. ..”
Vốn dĩ là một người cha nhân hậu, người cha tốt lành, Thiên Chúa chẳng lẽ không lắng nghe lời cầu nguyện của con cái Người. Tốt lành hơn mọi người cha trên trái đất, Chúa Cha trên trời sẽ trao ban cho những ai cầu xin Người ơn huệ tuyệt hảo: Chúa Thánh Thần.
Các nay hai tuần, khi đọc dụ ngôn Người Samaritanô Nhân Hậu, chúng ta biết rằng, để đi theo Chúa Giêsu lên Giêrusalem, chúng ta phải bước qua con đường tình yêu tha nhân, một tình yêu vượt trên tất cả mọi thứ lề luật. Chúa Nhật vừa qua, trong nhà của Mátta và Maria, chúng ta khám phá ra rằng con đường này là con đường lắng nghe Lời Chúa. Hôm nay, chúng ta được báo cho biết, con đường nầy cũng là “con đường của lời cầu nguyện khiêm nhường, tin tưởng và kiên trì, con đường trao ban Thánh Thần và sẽ được Người tác động”.
Xin cho mỗi người chúng ta học nơi gương của Chúa Giêsu luôn kiên trì, luôn khiêm tốn chạy đến với Cha là Thiên Chúa giàu lòng thương xót để Ngài ban những ơn lành cần thiết cho chúng ta để chúng ta vượt qua tất cả những khó khăn thử thách của cuộc đời.
20. Thờ phụng là nhìn nhận sự thật – Achille Degeest
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đức Giêsu đem một sứ điệp đến cho chúng ta. Trọng tâm sứ điệp là giáo huấn của Người về Thiên Chúa. Không ai biết được Thiên Chúa ngoại trừ Đấng từ Thiên Chúa mà đến. Thiên Chúa hằng hữu, quyền năng vô cùng, chi phối mọi khởi sự cũng như mọi cùng tận, là Chúa tể tối cao điều khiển mọi vận mạng, không ai biết được Thiên Chúa nếu chính Thiên Chúa không mặc khải cho. “Không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” (Lc 10,22). Đức Giêsu dạy cho chúng ta biết về danh thánh Thiên Chúa và cách nói với Thiên Chúa. Các môn đệ hỏi Chúa phải cầu nguyện thế nào. Các ông được Chúa dạy cho Kinh Lạy Cha. Bài đọc hôm nay chỉ dẫn đầy đủ về giá trị kinh nguyện phải có. Lời cầu xin phải bày tỏ lòng tin tưởng thiết tha trong bầu khí thân thiết, hiếu thảo. Thân mật, nhưng phải có thái độ thờ phụng từ trong thâm tâm biểu lộ ra ngoài, điều ấy cần được chúng ta nhấn mạnh. Khi cầu nguyện, Kitô hữu trước hết ước nguyện: “Lạy Cha, ước gì danh Cha hiển thánh”. Vậy thờ phụng cách hiếu thảo là gì?
1) Cầu nguyện, trước hết là ý thức về tầm chính xác của mình trước mặt Thiên Chúa. Thế mà đối với Thiên Chúa toàn thể vũ trụ nhỏ hơn một giọt nước trong lòng đại dương. Kẻ thờ phụng dành tất cả tâm hồn mình cho Thiên Chúa. Điều gì biện minh cho thái độ ấy? Thật ra con người ý thức rất rõ mình có khả năng suy nghĩ, hành động, có cả quyền năng nữa. Lẽ nào chỉ vì Thiên Chúa quyền năng vô cùng mà chúng ta phải nhượng bộ tất cả cho Thiên Chúa ư? Thờ phụng, trước hết không phải là sự quy phục của lương tri trước Đấng có quyền năng hơn con người. Thờ phụng là thái độ lương tri tự do muốn nhìn nhận sự thật. Vậy mà sự thật chính là Thiên Chúa hằng hữu, quyền năng vô biên, Đấng vô cùng tận. Thờ phụng là nhìn nhận sự thật ấy. Điều biện minh cho thờ phụng chỉ xuất phát từ sự thật mà thôi. Vì lẽ có nhìn nhận sự thật, con người mới có được phẩm giá; trong sự thờ phụng, tức là trong sự nhìn nhận sự thật, con người tìm ra tầm mức phẩm giá của mình.
2) Sự thờ phụng của Kitô hữu đậm tình hiếu thảo vì lẽ, nhờ lời giảng dạy của Đức Kitô, Kitô hữu biết rằng Thiên Chúa là Cha. Sở dĩ tâm tình chúng ta thành thật và trong sạch vì giữ được thực chất của nguồn mạch. Phân tích tới cùng, chúng ta thấy nguồn mạch là Thiên Chúa, Đấng tạo thành chúng ta, Cha chúng ta. Đọc lên câu “Lạy Cha, ước gì danh Cha hiển thánh”, chúng ta ý thức, thừa nhận, tuyên xưng Thiên Chúa là sự Tuyệt Đối, đồng thời là Cha mình. Tâm tình ấy phù hợp với sự thật sâu sắc dâng lên trong tâm hồn như một ngọn suối, do chính Đức Giêsu khởi lên. Khi chúng ta thốt ra tiếng “Lạy Cha”, chúng ta phát ra một lời nói tự do và hiếu thảo biểu lộ sự thật tha thiết nhất trong chúng ta. Chúng ta biểu lộ con người đích thật của mình khi thưa với Thiên Chúa: Lạy Cha. Ai cũng biết, chính sự thật đem lại ơn cứu độ…
21. Suy niệm của Charles E. Miller
(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’)
VỚI CHÚA GIÊSU CHÚNG TA CẦU NGUYỆN “LẠY CHA” – “ABBA”
Lời cầu nguyện của Chúa “Kinh Lạy Cha” là một lời nguyện riêng nổi bật trong khi dâng Thánh Lễ. Một nguyên nhân của việc đó là chúng ta hãy cám ơn những sự thay đổi đã diễn ra trong Công đồng Vatican II, đó là tất cả chúng ta có thể nói hoặc hát lời linh này bằng chính ngôn ngữ của mình. (Thật là khó để nhận ra trước đây được gọi là Thánh Lễ theo Công đồng Tridentino, chỉ một mình linh mục được đọc lời nguyện này và ngài đã đọc nói bằng tiếng Latin; không một người nào được phép đọc chung với vị linh mục). Mọi người dâng lời kinh này khi đứng đôi khi họ dang tay, thỉnh thoảng họ hướng mắt lên trời, đôi khi họ nắm tay với những người lân cận, nhưng luôn luôn có vẻ như là lời kinh này có một sự chú ý đặc biệt.
Lời cầu nguyện của Chúa mà chúng ta nghe trong Phúc Âm Thánh Luca có một điểm khác với lời kinh chúng ta dùng trong Thánh Lễ, lời kinh này chúng ta đọc theo đoạn Phúc Âm của Thánh Mathêu (6,9-12) chúng ta sẽ không ngạc nhiên về sự khác nhau này. Thứ nhất, cầu nguyện thì rất quan trọng nên chúng ta giả thiết là Chúa Giêsu đã dạy nó trong nhiều dịp và không luôn luôn chính xác cùng một lời đó. Thứ hai lời nguyện đó đã là một phần của phụng vụ cho hơn một thế hệ trước khi những cuốn Phúc Âm được viết ra. Lời cầu nguyện đó đã được ghi lại theo trí nhớ và kết quả là có những sự khác nhau không đáng kể cho đến khi Thánh Luca và Thánh Mathêu đã viết ra lời kinh chung được đọc trong những cộng đoàn riêng biệt của các ngài.
Tất cả những điều này dẫn đến một kết luận quan trọng. Cái điều mới và đặc biệt trong lời kinh nguyện này thì không phải là bản tính hoặc là số lời cầu xin trong kinh nguyện. Sau hết, người Do Thái thường cầu nguyện rằng, danh của Thiên Chúa phải được thần thánh hoá và ý muốn Ngài phải được thực hiện. Thánh Vịnh 51 từ Cựu Ước là một lời kinh nguyện nồng nhiệt và hùng biện về sự tha thứ đã không “thấm tháp gì” kinh nguyện tha thứ trong kinh Lạy Cha.
Điều đặc biệt của kinh nguyện là cung cách độc nhất mà Chúa Giêsu đã diễn tả về Thiên Chúa. Ngài đã kêu lên Chúa, Đấng quyền năng, Đấng Sáng Tạo nên trời và đất, Đấng phán xét kẻ sống và kẻ chết như là “Cha” không chính xác như là “Cha” nhưng là “Abba” cha ơi, chữ này có nghĩa thân mật hơn như là “papa” hoặc “Daddy”, đó chính là cách mà các trẻ nhỏ gọi cha của mình với một tình yêu thân mật và sự quen thân trong sáng, khi muốn nói với cha của mình. Trong tất cả những lời nói của Chúa Giêsu đã được ghi chép lại trong Phúc Âm thì chắc chắn chữ “Abba” cha ơi là một trong những chữ thánh thiêng nhất.
Hãy suy nghĩ về lời cầu nguyện của Abraham và của Chúa Giêsu khác nhau như thế nào. Abraham, cha của dân tộc được chọn, tổ phụ của chúng ta trong đức tin đã dám đến gần Chúa, nài xin Ngài tha thứ cho dân Sodoma và Gomora. Ông đã không ngại ngùng trả giá với Thiên Chúa. Nhưng ông không dám gọi Thiên Chúa như Chúa Giêsu đã gọi, ông sẽ không bao giờ dám nói: “Được rồi, Cha ơi, Cha hãy thương tình và đối xử nhẹ nhàng với Sodoma và Gomora”. Không một người nào dám gọi Thiên Chúa là “Abba”, “Daddy” (Cha ơi), như Chúa Giêsu đã làm.
Và tất cả chúng ta đều được mời gọi thật sự, để nói về và gọi Thiên Chúa là “Abba”, người Cha thân yêu của mỗi chúng ta. Lý do mà chúng ta có thể làm như vậy, là Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta một đời sống mới thông hiệp với Đức Kitô. Đó là một gia đình sự sống của Ba Ngôi ân phúc, sự sống mà chúng ta đã lãnh nhận nơi phép rửa, khi mà chúng ta trở nên những chi thể của Giáo Hội, gia đình của Thiên Chúa ở đây trên mặt đất này.
Bất kỳ thái độ hay cử chỉ nào mà chúng ta có trong lời kinh của Chúa nơi Thánh Lễ, thì chúng ta cũng phải biết là chúng ta được hạnh phúc biết bao vì được gọi Thiên Chúa là “Abba” cha ơi, như Chúa Giêsu đã gọi, đó là tên gọi của Người “Abba” Cha ơi.
22. Cầu xin hay cầu nguyện?
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một buổi sáng kia, một cô giáo dạy vườn trẻ chưng một bình hoa thuỷ tiên thật đẹp trên chiếc bàn đặt ở giữa phòng. Khi các em bé nhỏ thơ ngây tung tăng tiến vào phòng học, có một em tròn xoe đôi mắt nhìn ngắm những cánh hoa màu vàng lợt và em nói với cô giáo:
“Thưa cô, có phải Chúa đã làm ra những bông hoa nầy không cô? Em muốn gọi điện thoại để cám ơn Chúa đã cho chúng ta những cánh hoa đẹp như thế nầy!”
Nếu đất với trời được nối kết với nhau bằng dây điện thoại, thiết nghĩ Thiên Chúa sẽ phải đặt ra hai đường dây: một đường dây cho những lời cầu xin và một đường dây dành cho những lời cám ơn. Và người ta sẽ thấy một đường điện thoại luôn luôn bận rộn, trong khi đường dây kia thỉnh thoảng mới được dùng đến, như một chuyện ngụ ngôn kia thuật lại như sau:
Hai thiên thần được sai xuống trần gian, mỗi vị mang theo một chiếc giỏ. Họ chia tay nhau để đi khắp hang cùng ngõ hẻm, đến nhà các người giàu có cũng như nhà những người nghèo khổ, thăm các trẻ em cầu nguyện tại tư gia cũng như tất cả nam phụ lão ấu cầu nguyện tại các nhà thờ.
Sau một thời gian, hai thiên thần gặp nhau đúng thời điểm đã hẹn để trở về trời. Chiếc giỏ của một thiên thần nặng như chì, còn chiếc giỏ của thiên thần kia có vẻ như đựng toàn bông gòn.
– “Ông mang gì mà nặng nề thế?”, một thiên thần hỏi. Thiên thần mang giỏ nặng trả lời:
– “Tôi được sai đến để thu nhận tất cả những lời cầu xin của nhân loại. Còn ông, cái giỏ của ông xem ra nhẹ nhàng thế?”
– “À, tôi được sai đến để góp nhặt những lời thiên hạ cám ơn Chúa vì những ơn lành Ngài luôn ban cho họ”.
Thì ra, chiếc giỏ thu nhận lời cầu xin luôn nặng hơn chiếc giỏ thu nhận lời cám ơn. Cũng thế, đường dây điện thoại để xin ơn thì luôn bận rộn, còn đường dây để cám ơn thì không mấy khi có người gọi.
Phải, thưa anh chị em, thường thì chúng ta chỉ biết cầu xin hơn là cầu nguyện. Bởi vì cầu nguyện luôn bao gồm cả lời chúc tụng tôn vinh và cảm tạ tri ân Thiên Chúa. Hôm nay, Chúa dạy chúng ta cầu nguyện. Cầu nguyện là thưa chuyện với Chúa như con cái nói chuyện với cha mẹ. Cầu nguyện chủ yếu là một cuộc gặp gỡ, tiếp xúc, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu khi còn sống ở trần gian cũng đã cầu nguyện, và Ngài đã dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn. Cũng chính Ngài đã đưa ra một “kinh nghiệm mẫu” mà chúng ta gọi là “Kinh Lạy Cha” – đúng hơn là “Kinh nguyện của Chúa” để cho chúng ta biết phải cầu xin những điều gì và cầu nguyện như thế nào.
Vậy chúng ta phải cầu xin những điều gì?
Nói một cách vắn gọn, chúng ta phải cầu xin những gì phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Ý muốn của Thiên Chúa trước hết là cho mọi người nhận biết Ngài là Cha của tất cả mọi người, và trong Ngài, tất cả mọi người đều nhận ra nhau là anh em. Những gì là chia rẽ, hận thù, bóc lột, chém giết nhau đều đi ngược lại ý muốn của Cha trên trời. Bởi vì, làm sao có thể mở miệng gọi Thiên Chúa là Cha của chúng ta được khi chúng ta không muốn yêu thương người khác như anh chị em của mình; và ngược lại, khi chúng ta không nhìn nhận có một Cha chung của chúng ta ở trên trời: “Lạy Cha, con là Đấng ngự trên trời”.
Ý muốn của Thiên Chúa còn là “cho chúng ta hôm nay lương thực hằng ngày”, có nghĩa là Thiên Chúa muốn cho mọi người trên trái đất, không phân biệt chủng tộc, màu sau, tiếng nói đều có đủ cơm ăn áo mặc, cũng như được hưởng tiện nghi của nền văn minh hiện đại, chứ không phải chỉ một số rất ít người chiếm hữu hết tài sản trên thế giới, đang khi đại đa số còn lại chỉ được hưởng một phần quá nhỏ trong cảnh lệ thuộc. Ngài cũng chẳng muốn cho một thiểu số sống xa hoa lãng phí, trong khi đồng loại phải thiếu nhà ở, thiếu cơm bánh, áo quần, thuốc men; phải đói khát, dốt nát, ăn xin, nằm đường xó chợ… Nói chung là thiếu những điều kiện tối thiểu để sống cho ra con người.
Ý muốn của Thiên Chúa còn là chúng ta phải tha thứ cho nhau, vì chính bản thân chúng ta cũng là kẻ có tội cần được tha thứ. “Xin Cha tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”. Như vậy, cầu nguyện là đồng hoá ý muốn của mình với ý muốn của Thiên Chúa và phải hành động để ý muốn của Chúa được thể hiện trên mặt đất nầy: “Xin cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Thế nhưng, chúng ta thường chỉ biết cầu xin hơn là cầu nguyện, và có những lời cầu xin hết sức vụ lợi, ích kỷ. Chẳng hạn xin cho “trúng tuyển, trúng số, trúng mánh…”. Hoặc chúng ta chỉ nghĩ đến Chúa khi chán nản, thất vọng, để than thở, kể lể, như bắt Chúa phải thông cảm những nỗi ấm ức trong lòng mình. Còn gì vô lý và sai lầm hơn khi chúng ta cứ coi Thiên Chúa như một “Thần Tài”, như một “thủ kho” để xin Ngài những nhu cầu mà đúng ra, với tự do, khối óc và hai bàn tay Chúa ban cho, chúng ta phải tự làm lấy, tự xoay xở lấy với sự trợ giúp của Chúa và dưới ánh mắt yêu thương của Ngài. Nếu chỉ cầu xin bằng môi miệng mà chẳng chịu làm gì cả, thì lời cầu xin đó có khác gì những bùa chú, phù phép của hạng người mê tín dị đoan: Xin cho có lương thực hằng ngày mà mình cứ ngồi không, hoặc nằm ngửa chờ sung rụng, thì làm sao có lương thực được? Hoặc xin cho mọi người được ấm no hạnh phúc, mà mình cứ áp bức, bóc lột, làm điều bất công, hay là cứ để cho những chuyện bất công ấy lan tràn mà không chịu tranh đấu để đòi hỏi công bình, đòi quyền sống của con người, thì làm sao có ấm no, hạnh phúc, hoà bình được? Chính vì thái độ nầy mà nhiều khi tôn giáo bị mang tiếng là mê tín, là thuốc phiện ru ngủ dân chúng!
Vậy, thưa anh chị em, chúng ta phải cầu xin như thế nào?
Nếu phải cầu xin thì chúng ta phải cầu xin một cách kiên trì với một xác tín, tin tưởng vào tình thương của Cha trên trời, Ngài tốt lành, nhân hậu hơn cha chúng ta ở dưới đất vô cùng. Vì người đời mà còn cho bạn bè vay mượn khi bạn bè năn nỉ, khuấy rầy, huống chi là Thiên Chúa. Ngài là người Cha yêu thương mọi người, con cái, chắc chắn sẽ ban cho ta điều chúng ta cầu xin: “Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ thấy; hãy gõ, sẽ mở”. Người cha nào mà không giúp đỡ con cái khi cần thiết, không cung cấp những điều thích hợp khi chúng đã xin. Cha là Cha nhân từ, Ngài cũng không thể làm khác được, nhất là chẳng bao giờ cho cái gì sinh nguy hại cho con cái. Bởi vậy, điều chúng ta xin Thiên Chúa phải là điều thích hợp, vì Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta “bánh” chứ không cho “hòn đá”; muốn ban “cá” chứ không cho “con rắn”, muốn ban “trứng” chứ không cho “bọ cạp”. “Hãy xin thì sẽ được”, nhưng với điều kiện là xin những gì thực sự giúp đời sống thêm tốt đẹp, tìm những gì dẫn đến ơn cứu độ, đạt đến cứu cánh tuyệt đối của con người, đồng thời phải kết hợp giữa sự giúp đỡ của ơn Chúa với việc làm trong khả năng Chúa đã ban cho mỗi người.
Cuối cùng, ơn đặc biệt mà Chúa sẽ ban cho những ai xin Ngài đó là Thánh Thần, vì Thánh Thần sẽ là Đấng cầu xin trong chúng ta, bảo đảm lời cầu xin là xác đáng, và cũng chính Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết, vì Ngài là ơn huệ của Thiên Chúa ban cho loài người.
Anh chị em thân mến, phụng vụ Thánh lễ là dịp tốt nhất giúp chúng ta cầu nguyện có hiệu lực. Vì chúng ta cầu nguyện chung với cả Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện theo lời Chúa truyền dạy, chúng ta cầu nguyện nhờ công ơn vô cùng của Chúa Kitô, với Người và trong Người. Xin cho chúng ta biết cầu nguyện và xin Chúa nhận lời cầu xin của chúng ta và của tất cả mọi người.
23. Lạy Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi…’ – Veritas)
Một giai thoại được kể lại như sau: Một thương gia kia cần một triệu đôla để giải quyết một việc hệ trọng, ông tới nhà thờ cầu nguyện xin cho có được số tiền đó. Tình cờ ông quì ngay cạnh một người đàn ông, người đàn ông này cùng cầu nguyện với những lời nhỏ nhẹ, nhưng ông thương gia kia vẫn nghe biết ông ta đang xin. Ông cầu xin cho có được 100 đôla để trả một món nợ gấp. Vị thương gia liền rút từ ví của mình 100 đôla và đặt vào tay người kia. Quá đỗi vui mừng, người đàn ông đứng lên và ra khỏi nhà thờ ngay tức thì. Vị thương gia giờ đây nhắm mắt lại và bắt đầu cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, giờ đây hẳn Ngài không còn phải bị phân tâm nữa, xin hãy lắng nghe con cầu xin”.
Câu chuyện của hai người đàn ông cho chúng ta thấy điều tích cực là dù ở trong tình trạng thang bậc nào trong xã hội họ vẫn chân thành cầu nguyện. Tuy nhiên, cách nào đó họ đã làm nổi bật vấn đề mà bài Tin Mừng hôm nay nhắm tới, đó là cách cầu nguyện của người Kitô hữu. Trong cả hai trường hợp, Chúa trở thành hay được coi như là ông chủ một nhà tỷ phú. Phải chăng, đó là lối cầu nguyện và cách nhìn phù hợp của người Kitô hữu chúng ta.
Lời các môn đệ thưa với Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện”, có thể được hiểu như là một khát vọng chính đáng của biết bao nhiêu người Kitô hữu về cách cầu nguyện. Lời đáp lại của Đức Giêsu cũng có thể được tóm gọn trong một câu như sau: Lời cầu nguyện của người Kitô hữu phải là lời của một người con đối với cha của mình. Ngài nói: “Khi anh em cầu nguyện hãy nói, Lạy Cha… Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt, của lành phương chi Cha anh em ở trên trời…” Chúng ta có thể thấy ngay được rằng, cầu nguyện theo Đức Giêsu là vấn đề giữa người cha và người con. Nói cách khác, cầu nguyện là một vấn đề nội bộ trong gia đình, đặt trên nền tảng của hiểu biết, thông cảm và yêu thương. Đức Giêsu dùng hình ảnh người cha ở đây để tả lại hình ảnh mà người ta thường gán cho Thiên Chúa, một ông chủ hay một ông vua, những người thường được người khác sợ hơn là mến.
Chúng ta có thể coi Thiên Chúa như là Cha và cũng có thể coi Ngài như là Mẹ. Cả hai hình ảnh này đều nói với chúng ta về mối tương quan dựa trên tình thương và huyết thống, chứ không phải quyền lực hay chức vụ.
Cầu nguyện của người Kitô hữu là tự đặt mình vào trong mối tương quan này, coi Thiên Chúa như là Cha hoặc Mẹ, thưa chuyện với Ngài, kể chúng ta là con cái. Khi con trẻ thưa chuyện với cha mẹ, việc quan trọng không phải là đúng cách hay sai cách, chúng chỉ đơn thuần tập trung vào một điều là dùng tất cả lời nói, cử chỉ để diễn tả lòng mình. Cũng vậy, trước mặt Chúa, người Cha nhân từ khi chúng ta cầu nguyện mà công thức, thủ tục đều là chuyện thứ yếu, nếu chúng ta không muốn nói là thường. Con cái tin tưởng rằng, cha mẹ luôn luôn làm những gì là tốt nhất cho mình.
Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nói: “Ai trong anh em là một người cha mà khi con xin cá thay vì cá lại lấy con rắn mà cho nó, hoặc nó xin trứng lại cho nó con bọ cạp”. Cũng vậy, con cái Thiên Chúa đến với Ngài với thái độ tin tưởng, hy vọng, biết rằng Ngài sẽ dành cho họ tất cả những gì là tốt nhất.
Khi nói về cầu nguyện, chúng ta cũng cần nhìn tới về một khía cạnh khác, đó là sự kiên trì, giống như người bạn lúc nửa đêm trong bài Tin Mừng. Con cái chẳng lấy gì chấp nhận câu trả lời không, nếu cha mẹ có trả lời là không thì điều chắc chắn là ngày hôm sau và có thể hôm sau, hôm sau nữa chúng vẫn trở lại với cùng một điều xin.
Đức Giêsu dạy chúng ta, con cái của Thiên Chúa cần phải biết kiên trì trong cầu nguyện. Coi cầu nguyện như là việc giữa cha và con, điều này cũng nhắc cho chúng ta biết cầu nguyện là một hành vi phát xuất từ một mối tương quan. Chúng ta có thể coi việc cầu nguyện tốt hơn, nhưng chúng ta cũng có thể trở thành những con người tốt hơn của cầu nguyện, khi mối tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa trở nên thân mật gần gũi hơn như là một mối liên hệ giữa cha và con.
Vậy, nếu anh chị em muốn cải thiện việc cầu nguyện của mình, hãy tập trung vào mối tương quan thân mật giữa cha và con, giữa Thiên Chúa và con cái.
24. Hãy xin, hãy tìm, hãy gõ – McCarthy
Suy Niệm 1. KINH LẠY CHA
Kinh Lạy Cha là kinh đầu tiên và cao trọng nhất trong các kinh nguyện Kitô giáo (Tôi đang nghĩ đến bản kinh của Thánh Mát thêu). Những câu ngắn gọn và đơn giản của nó bao hàm mọi tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa. Nó không chỉ nói với chúng ta phải cầu nguyện điều gì mà còn cầu nguyện điều ấy như thế nào.
Tuy nhiên, người ta có xu hướng đọc kinh ấy quá vội vàng và thiếu suy gẫm đến nỗi làm mất ý nghĩa của nó. Đó là một điều đáng tiếc. Bởi vì, hiểu một cách chính xác, Kinh Lạy Cha chứa đựng trong đó, chúng ta sẽ trở nên hoàn hảo theo tinh thần của của Đức Kitô, bởi vì không chút nghi ngờ đây là cách mà chính Người đã cầu nguyện và đã sống.
Phần đầu tiên đề cập đến Thiên Chúa.
Chúng ta bắt đầu sự hiểu biết hiện hữu của Thiên Chúa, và gọi Người là Cha. Thiên Chúa là cội nguồn của chúng ta và chúng ta là con cái của Người. Một đôi khi, Người hành động như một người cha, và một đôi khi như một người mẹ.
Kế đó chúng ta ca tụng danh Người. Bằng việc ca tụng danh Người, chúng ta cầu nguyện chính Người.
Chúng ta cầu nguyện cho Nước của Người mau đến – một vương quốc của sự thật và sự sống, sự thánh thiện và ân sủng, công lý, tình yêu và hoà bình. Chúng ta đóng góp phần mình để làm cho vương quốc của Người thành hiện thực.
Chúng ta cầu nguyện để ý muốn của Người được thực hiện trên mặt đất. “Trên mặt đất” cũng có nghĩa là trong đời sống của chúng ta. Ý muốn của Thiên Chúa không phải lúc nào cũng là điều dễ làm nhất, nhưng nó luôn luôn là điều tốt nhất.
Phần thứ hai đề cập đến chúng ta và các nhu cầu của chúng ta.
Chúng ta bắt đầu bằng công việc cầu xin lương thực hàng ngày. “Lương thực” thay cho mọi nhu cầu vật chất. Tuy nhiên, mọi nhu cầu thật cần thiết của chúng ta có đủ cho ngày hôm nay.
Chúng ta cầu xin tha thứ các tội lỗi của chúng ta, và xin ơn có thể tha thứ cho người khác đã phạm tội chống lại chúng ta. Không thể tha thứ cho người khác sẽ không thể nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa.
Chúng ta cầu xin không sa chước cám dỗ. Thiên Chúa không đặt sự cám dỗ trong đường lối của chúng ta nhưng cuộc đời làm điều ấy. Và chính chúng ta đôi lúc bước vào cám dỗ với sự đồng tình. Chúng ta xin Thiên Chúa giúp chúng ta đương đầu với sự cám dỗ tự ý đến với chúng ta, và tránh xa những cám dỗ mà chính chúng ta chọn lựa.
Sau cùng, chúng ta cầu xin được cứu khỏi mọi sự dữ, cả sự dữ vật chất lẫn tinh thần. Chúng ta không mong bao giờ gặp sự dữ. Điều mà chúng ta cầu xin Thiên Chúa là có được ân sủng chiến thắng mọi sự dữ, đặc biệt là sự dữ tinh thần.
Hãy ghi nhận rằng toàn bộ kinh Lạy Cha được diễn tả bằng từ ngữ ở số nhiều. Điều ấy cho thấy chúng ta là một gia đình dưới quyền Thiên Chúa, và do đó không thể có sự cứu chuộc chúng ta độc lập với sự cứu chuộc những người khác.
Suy Niệm 2. KHÔNG TRỪNG PHẠT NGƯỜI VÔ TỘI
Hình ảnh của Abraham mặc cả với Thiên Chúa mặc cả với Thiên Chúa để cứu Xơđôm và Gômora là hình ảnh hấp dẫn. Ý tưởng chúng ta bắt gặp ở đây là Thiên Chúa sẽ không trừng phạt một số đông người tội lỗi nếu đồng thời một số ít người công chính cũng bị trừng phạt. Chúng ta thường có thái độ hoàn toàn trái ngược. Chúng ta rất muốn trừng phạt một số đông người vô tội cùng với một số ít người có tội cũng bị phạt. Hãy lấy một ít ví dụ.
Khi các chính phủ đánh quân du kích, người ta không ngần ngại tiêu diệt cả một ngôi làng gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con. Điều đó đã xảy ra ở Việt Nam, ở Achentina (trong suốt những cuộc chiến tranh được gọi là “chiến tranh bẩn thỉu”) và ở nhiều nơi khác. Các quân du kích cũng không ngần ngại sử dụng chiến thuật tương tự.
Một đôi khi sự việc tương tự có thể xảy ra trong trường học. Thầy giáo ra khỏi lớp một phút. Khi ông trở lại lớp học, ông thấy cái ghế đã bị bẻ gãy. Thuyết phục hoặc đe doạ cũng vô ích, kẻ tội phạm không thú nhận, những học sinh khác không nói tên thủ phạm. Thế là thầy giáo phạt cả lớp. Cả lớp phải ở lại sau giờ học.
Cũng sự việc ấy xảy ra ở nhà. Một vài đồ vật bị ngã đổ vương vãi khi bà mẹ vừa quay lưng đi. Không một ai thú nhận. Vậy tất cả con cái bị trừng phạt. Không được xem tivi buổi tối.
Điều đó có xu hướng trở thành phương thế đầu tiên của chúng ta, và chúng ta coi đó là rất khôn ngoan và công bằng. Nhưng có phải như vậy không? Trừng phạt chín mươi chín người vô tội chỉ vì một người có tội như vậy có đúng không? Dĩ nhiên là không. Điều đó là bất công. Bị trừng phạt vì một điều mà bạn không làm thật là khủng khiếp. Nó để lại trong lòng bạn một cảm giác vô cùng cay đắng.
Dù có vẻ hấp dẫn, đó không phải là một giải pháp của Kitô giáo cũng không phải là một giải pháp nhân bản. Thiên Chúa không bao giờ dùng phương thế đó. Bài đọc 1 nói với chúng ta điều đó. Đức Giêsu cũng dạy chúng ta bài học ấy trong dụ ngôn lúa mì và cỏ lùng. Người gieo hạt sẽ không nhổ những chùm cỏ lùng vì như thế sẽ làm lúa mì cũng bật rễ.
Vấn đề quan trọng nhất trong thời đại chúng ta là làm thế nào vượt qua điều ác mà không gây thêm điều ác. Người ta phải kháng cự điều ác. Nhưng chúng ta phải làm cách nào để trong quá trình đó, chúng ta không gây ra thêm điều ác. Điều ác không thể bị vượt qua bằng điều ác, mà chỉ bị vượt qua bằng điều thiện.
25. Kiên trì, Phó thác – Lm. Thiện Duy
Tuần lễ vừa qua có thể gọi là tuần lễ dành cho giới trẻ vì có nhiều sự kiện liên quan đến các bạn trẻ. Trước hết là Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới diễn ra tại Brazil. Chủ đề Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần này do Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô XVI chọn: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. Đó là sứ mạng của toàn thể Giáo Hội, cách riêng của những người trẻ. Để có thể “làm cho muôn dân trở thành môn đệ”, Đức nguyên Giáo Hoàng đã viết trong sứ điệp ngày quốc tế Giới Trẻ như sau: “Cha khuyến khích các con hãy kiên trì trong đức tin, tin chắc rằng Đức Kitô hằng ở cạnh bên các con trong mọi cơn gian nan thử thách”.
Tiếp nối vị tiền nhiệm của mình, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đương kiêm đã nói lên ý nghĩa của ngày đại hội này trước khi lên đường sang Brazil như sau: “Tất cả mọi người đến Rio muốn nghe tiếng nói của Đức Giêsu, lắng nghe Đức Giêsu” và họ muốn thưa với Chúa rằng “Con phải làm gì cho cuộc đời của con? Đâu là lộ trình cho con?” – Đó là cuộc gặp quan trọng mà Đức Giáo Hoàng muốn người trẻ gặp được ở Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới: gặp gỡ Chúa Giêsu. Vì vậy có thể nói “kiên trì cầu nguyện để gặp gỡ Chúa Giêsu, hầu trở thành nhân chứng cho Chúa” chính là chủ đề nỗi bật trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần này.
Còn ngoài xã hội, cách riêng tại Việt Nam, tuần qua những ai quan tâm đến làng giải trí, nhất là nhạc trẻ đều bàng hoàng trước cái chết của chàng ca sĩ Wanbi Tuấn Anh ở tuổi đời 26. Tôi chẳng biết Wanbi Tuấn Anh là ai, cũng chưa từng nghe anh hát, nhưng thấy có nhiều người quan tâm đến sự kiện này nên tôi cũng thử tìm hiểu xem sao. Sau khi tìm hiểu tôi được biết đây là chàng ca sĩ điển trai; dành nhiều giải thưởng âm nhạc, nhất là Làn Sóng Xanh, Zing Me…; là thần tượng của nhiều bạn trẻ, nhất là các bạn nữ; giọng hát trầm ấm như lời tâm sự rót vào tai người nghe. Đặc biệt anh có những bài hát như tiên báo trước số phận của mình. Khởi đầu sự nghiệp ca hát với ca khúc hít “đôi mắt”: “Giờ em nơi phương xa nhiều bỡ ngỡ, giờ còn lại minh bơ vơ, bao nhiêu mộng mơ rồi tan biến đâu ai ngờ. Tình yêu trong anh cho em mãi mãi, để trở về ngồi bên anh, yêu thương còn đây mà đôi mắt kia hao gầy”. Có ai ngờ căn bệnh u não đã làm cho đôi mắt anh “hao gầy” vĩnh viễn. Cách đây hơn một năm, sau khi sang Singapor để giải phẫu, anh biết căn bệnh của mình không thể qua khỏi, nên anh đã sáng tác bài “cám ơn” như trãi tấm lòng: “Dẫu ngày sau đi về đâu nhưng lòng này tôi thầm muốn nói. Tận đáy con tim chân thành vẫn muốn được hát lên: Cám ơn mẹ và ba, cảm ơn một gia đình. Cám ơn người dạy dỗ, cám ơn người sinh thành. Để bây giờ khôn lớn, bước qua bao đắng cay cuộc đời. Cám ơn bạn bè tôi, cám ơn người rất nhiều, vẫn luôn ở bên tôi, dẫu khi tôi khóc tôi vui. Cảm ơn ngày hôm nay, khát khao và hi vọng. Đã cho tôi niềm tin để tôi vững bước tới ngày mai. Cám ơn và cám ơn, vì cuộc sống với bao tiếng cười”. Tôi đã nghẹn lòng khi lần đầu tiên nghe bài hát này, nhất là khi đã biết rõ hoàn cảnh của chàng ca sĩ tài hoa, bạc mệnh này. Trong hoàn cảnh như vậy mà anh vẫn sáng tác và hát lên bài hát: “Cám ơn”.
Anh rất vui vẻ, lạc quan, yêu đời. Anh nói với mẹ, với gia đình và những người thân yêu rằng anh sẽ chiến đấu cho đến cùng để chống chọi với bệnh tật. Những giây phút cuối cùng ở trần gian này, khi biết mình không thể chiến thắng bệnh tật, anh đã nói với mẹ: “Nếu ở trần gian này con không thể hát, sang thế giới bên kia con sẽ hát tiếp”. Tôi muốn nói đến một sự kiên trì, trong sự kiên trì này có sự phó thác. Cứ tha thiết nài xin theo ý mình, nhưng khi ý Trời đã định, Wanbi Tuấn Anh vẫn sẵn sàng vâng theo .
Từ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới với sứ điệp kiên trì cầu nguyện để gặp gỡ Chúa Giêsu hầu trở thành chứng nhân cho Chúa; và câu chuyện của chàng ca sĩ tài hoa bạc mệnh: Wanbi Tuấn Anh kiên trì vật lộn với cơn bệnh, nhưng khi bị khuất phục, anh vẫn vui vẻ bước vào thế giới bên kia để tiếp tục niềm đam mê của mình, chúng ta đi vào phụng vụ lời Chúa hôm nay để xem sứ điệp lời Chúa muốn nói gì với chúng ta?
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
1. Bài Đọc I: St 18, 20 – 32
Đây là cuộc mặc cả giữa Apraham với Thiên Chúa. Khi hai thành phố Xơ đơm và Gômôra tội lỗi quá sức, nói theo kiểu chúng ta bây giờ là “hết thuốc chữa”, Thiên Chúa có ý định giáng phạt hai thành phố này. Nhưng Apraham đã đứng ra để thương lượng với Thiên Chúa, thậm chí có những lúc ông “dạy khôn” Thiên Chúa: “Ngài làm như vậy chắc không được đâu!” (Xh 18, 25a); nói khích Thiên Chúa: Nếu trong thành có người lành mà Chúa tiêu diệt chung với người dữ, thì người ta sẽ nói Thiên Chúa như vậy mà công mình gì?! (x.Xh 18, 25b). Thế là Thiên Chúa đã chịu nhượng bộ Apraham với điều kiện tìm được 50 người công chính. Sau khi suy nghĩ, Apraham đã xin hạ giá: bốn mươi lăm, bốn mươi, ba mươi, hai mươi, cuối cùng là mười người. Thiên Chúa vẫn đồng ý. Tuy nhiên Apraham chỉ dừng lại ở con số 10 mà không dám van xin nữa. Chính vì vậy mà Thiên Chúa đã quyết định thiêu hủy thành Xơ đơm vì không có được 10 người công chính. Tuy nhiên Thiên Chúa cũng tha cho gia đình ông Lot là cháu của Apraham. Thiên Chúa sẵn sàng thương lượng với con người. Ngài muốn chúng ta đến với Ngài trong sự đối thoại, thậm chí trả giá nữa. Tuy nhiên, Apraham chưa đủ kiên trì để chạm tới lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là bài học để chúng ta kiên trì gắn bó với Chúa.
2. Tin Mừng: (Lc 11, 1-13)
Tin mừng Luca được khởi sự bằng việc cầu nguyện của người Do Thái tại Đền Thờ và kết thúc bằng việc các môn đệ: “không ngừng chúc tụng Chúa trong Đền Thờ”. Điều đó cho chúng ta thấy mặc khải trong Tin Mừng Luca là mặc khải về việc cầu nguyện kiên trì. Vì vậy mà hôm nay Chúa Giêsu dạy các môn đệ Ngài nội dung và thái độ khi cầu nguyện. Nội dung là kinh Lạy Cha. Thái độ là kiên trì.
Để dẫn chứng cho thái độ kiên trì cầu nguyện, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn về người bạn quấy rầy, nửa đêm lại nhà người ta gõ cửa vay bánh. Nếu không cho vì tình bạn, thì chủ nhà cũng cho vì sự quấy rầy của người này. Qua dụ ngôn đó Chúa Giêsu kết luận con người còn như vậy huống chi là Thiên Chúa. Vì vậy Ngài nói với các môn đệ: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11, 9). Đó là sự kiên trì.
Tuy nhiên, thánh Phaolô nói: “Anh em không có là vì anh em không xịn. Anh em xin mà không được là vì anh em xin không đúng”. Vì vậy xin là chuyện của chúng ta, còn cho hay không là quyền của Thiên Chúa, chúng ta không có quyền đòi hỏi. Cho nên trong kiên trì phải có sự phó thác. Tôi cứ xin, nhưng Chúa muốn sao tôi chịu vậy.
Cách đây hai tuần, qua dụ ngôn người Samaria nhân hậu, chúng ta biết rằng con đường theo Chúa là con đường yêu thương tha nhân, một tình yêu thương vượt trên mọi lề luật. Chúa Nhật tuần rồi, qua hình ảnh của Maria, chúng ta biết được con đường đó là con đường lắng nghe lời Chúa. Còn hôm nay, con đường đó là con đường cầu nguyện trong thái độ kiên trì nhưng biết phó thác.
II. CẦU NGUYỆN KIÊN TRÌ, PHÓ THÁC
Đức tin là cuộc hành trình đòi hỏi chúng ta phải liên tục lên đường. Thiên Chúa đã nói với Apraham: “Ngươi hãy đi khỏi xứ sở của ngươi và đi đến xứ sở mà Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Điều đó cho chúng ta thấy nhiệm vụ của con người là đón nhận lời của Thiên Chúa, bước đi trong sự chỉ dạy của Ngài. Vì vậy, đức tin đòi hỏi chúng ta phải biết kiên trì và phó thác.
1. Kiên trì:
Phải kiên trì vì Chúa Giêsu đã nói: “Ai bền đổ đến cùng sẽ được cứu độ”. Giá trị của mọi việc và mọi người là ở chỗ kiên trì đến mức nào. Nếu các môn đệ chỉ nhắm đến những cái trước mắt thì các ông sẽ thất vọng hoàn toàn. Quả thực có những lúc các ông hoàn toàn thất vọng. Đức tin là một cuộc hành trình. Đời sống đạo không phải một sớm một chiều, một khoảng thời gian nào đó do chúng ta chọn lựa, nhưng là cả cuộc đời chúng ta. Mà cuộc đời thì có biết bao thăng trầm, sướng khổ. Có những mảnh đời trầm nhiều hơn thăng, khổ nhiều hơn sướng… Vẫn còn nhiều người, thậm chí là chính chúng ta thường than thở: “Sao mà khổ dữ vậy!” Vẫn còn nhiều người đạo đức thốt lên trong cầu nguyện: “Chúa ơi, Chúa thử thách con đến bao giờ?” Nếu tôi là Chúa, tôi sẽ trả lời: “Tới chết lận con!” Đức Maria, thánh nữ Mônica, cha Phanxicô Trương Bửu Diệp là những mẫu gương cho chúng ta trong sự kiên trì, nhẫn nại.
2. Phó thác:
Tuy nhiên nếu kiên trì mà không có sự phó thác thì chúng ta sẽ trở thành lì lợm, vô cảm, “trơ mặt ra như đá”. Kiên trì trong phó thác là chúng ta không bắt Chúa phải làm theo ý mình, nhưng là sự chấp nhận chúng ta sẽ không được nhậm lời như chúng ta hiểu biết hay mong muốn. Vì vậy khi lời cầu xin không được nhậm lời thì đó cũng là một ân huệ của Chúa, vì Chúa luôn ban cho chúng ta điều mà Ngài thấy là tốt đẹp. Sự phó thác xuất phát từ lòng tin Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài biết những gì cần thiết cho chúng ta.
Có một bài thơ của một tác giả vô danh mà Đức Hồng Y Jaime Sin, Tổng giám mục Manila, Phi Luật Tân, lấy làm ưng ý và thường trích dẫn trong các bài giảng của Ngài. Bài thơ ấy như sau:
“Tôi đã xin Chúa cất khỏi sự kiêu hãnh của tôi và Chúa trả lời: “Không”. Ngài nói rằng không phải Ngài là người cất khỏi mà chính tôi mới là người phấn đấu để vượt thắng nó.
Tôi đã xin Chúa làm cho đứa con tàn tật của tôi được lành lặn và Chúa trả lời: “Không”. Ngài nói rằng tinh thần mới lành lặn, còn thể xác chỉ là tạm bợ.
Tôi đã xin Chúa ban cho tôi sự kiên nhẫn và Chúa đã trả lời: “Không”. Ngài nói rằng kiên nhẫn là trái của thử thách. Ngài không ban cho tôi trái ấy mà để tôi tự tìm lấy.
Tôi đã xin Chúa ban cho tôi được hạnh phúc và Chúa đã trả lời: Không”. Ngài nói rằng Ngài ban ân phúc cho tôi, còn hạnh phúc hay không là tùy tôi.
Tôi đã xin Chúa gia tăng tinh thần cho tôi và Chúa đã trả lời: “Không”. Ngài nói rằng tôi phải tự lớn lên, nhưng Ngài sẽ cắt tỉa để tôi mang nhiều hoa trái.
Tôi đã xin Chúa đừng để tôi đau khổ và Ngài đã trả lời: “Không”. Ngài nói rằng đau khổ là cho tôi được xa cách với những vướng bận trần gian và mang tôi đến gần Ngài.
Tôi đã hỏi: “Liệu Ngài có yêu tôi không” và Ngài đã trả lời rằng: “Có”. Ngài nói rằng Ngài đã ban cho tôi Người Con Một, Đấng đã chết vì tôi và một ngày nào đó, tôi sẽ được lên Thiên Đàng vì tôi đã tin.
Chúng ta cứ xin những gì mình muốn, nhưng đừng bao giờ muốn theo ý mình. Đó là kiên trì trong phó thác.
26. Suy niệm của R. Gutzwiller
LẠY CHA CHÚNG CON (11, 1-4)
Khác hẳn với cô Matta, Maria nhận ra rằng phải có những khoảnh khắc đặc biệt dành riêng để lắng nghe Chúa nói và thân thưa với Ngài. Đó là thời giờ cầu nguyện. Ở đây, ta thấy Đức Giêsu giảng giải cách thực hành về chủ đề ấy.
Trong Tin mừng theo Th. Mathêu, chủ đề ấy đặt liền với bài giảng trên núi; Thực tế chúng ta không biết Chúa đã dạy kinh Lạy Cha vào lúc nào, nhưng điểm đó không quan trọng cho lắm, điểm cốt yếu chắc hẳn phải là chính nội dung nòng cốt của Kinh Lạy Cha.
Kinh Lạy Cha được Thánh Luca ghi lại đơn giản, vắn tắt hơn nơi Th. Mathêu. Nơi Thánh Luca, lời cầu xin thứ ba và thứ bảy không có. Dĩ nhiên thánh ký phải nhận rằng, khi hoàn tất cả hai phần của kinh đó, thì hai lời cầu xin bị bỏ kia đều ngậm thực sự trong những lời cầu xin trên. Khi ghi lại kinh lạy Cha, thánh sử cố tìm sự đơn giản tối đa; nên chúng ta càng phải tìm hiểu những ý tưởng cô đọng ấy, những ý tưởng tập trung, ẩn tàng dưới vẻ ngắn gọn của những lời cầu xin này.
‘Chúng con nguyện danh Cha cả sáng’.
Đây không phải là một yêu sách, một quyết ý mà chỉ là một lời cầu xin. Thiên Chúa phải làm cho danh Ngài cả sáng tức là làm cho loài người nhận rõ sự thánh thiện của Ngài hơn nữa và khiến cho sự thánh thiện ấy chiếu tỏ rạng ngời.
Mọi cái thuộc về nhân loại và trần thế phải được Thiên Chúa chiếu sáng. Vĩnh cửu soi rọi cho tạm bợ, hằng hữu cho mau qua, bất biến thay cho biến đổi. Trời cao sẽ thống trị trái đất, tuyệt đối sẽ làm chủ tương đối, tất yếu sẽ đứng trên bất tất, con người tự do thay cho phận nô lệ, thánh nhân thế chỗ tội nhân, người thanh sạch thế kẻ nhơ uế, người được thương xót thế tội phạm; nhất là những gì còn bấp bênh và không bền vững sẽ được thay thế bằng cái kiên vững tối hảo, những gì là bất an sẽ được thay thế bằng bình an rất mực, hạn hữu sẽ được thay thế bằng vô biên.
Danh Ngài và qua Danh Ngài là chính Ngài tỏ hiện rõ ràng nơi Đức Giêsu Kitô. Chúa Con là mặc khải của Chúa Cha. Danh tánh Đức Giêsu có nghĩa là: Đức-Giavê là nguồn cứu độ. Như thế có nghĩa: nhờ Đức Giêsu, danh Thiên Chúa cứu độ và thánh hoá được loan truyền.
Thiên Chúa là Đức Chúa. Đức Giêsu nhận biết điều ấy trong một cuộc đời luôn vâng phục hoàn toàn, vâng phục Ngài như bậc Thầy Tối cao và lại công bố như thế cho loài người tệ bạc. Đức Giêsu đã sống trong tình yêu Cha mình và đã chứng tỏ cho mọi người biết Thiên Chúa là tình yêu.
Do đó, lời cầu xin ‘cho Danh Cha được hiển thánh’ trên môi Ngài phải có một âm vang đặc biệt.
‘Nước Cha trị đến’. Theo Thánh Luca, lời nguyện xin này hàm ẩn cả lời nguyện xin thứ ba: ‘Ý Cha được thể hiện’. Như vậy, Nước Cha được hình dung là vương quyền tối cao của Thiên Chúa; nên ý Cha phải được thể hiện khắp mọi nơi, vì ý Cha là khôn ngoan và yêu thương. Nơi nào ý Cha chủ trị, thị mọi sự đều ổn thoả theo sự khôn ngoan Ngài và tràn ngập tình yêu Ngài.
Đó là một vương quốc hoà bình, vì hoà bình chẳng qua là yên hàn trong trật tự. Và đó là một vương quốc tình thương vì quyền uy và thế lực tối cao không phải chiếm được bằng bạo lực nhưng là bằng sự nhận biết cách vui vẻ. Mỗi một việc phục vụ –khi nhắm phục vụ Thiên Chúa- đều hoàn thành với sự tự do vương giả.
Và theo lối nói xưa của sách Khải Huyền, tất cả những ai thuộc về vương quốc của Thiên Chúa, đều là những vị hoàng vương tư tế, những vị tư tế (hoàng vương).
Nước Thiên Chúa là ước mơ cao nhất của nhân loại, là sự thể hiện mọi lý tưởng, vượt quá mọi thế lực chính trị, xã hội và Kinh tế. Nhưng sự hiểu thánh danh Thiên Chúa cách trọn vẹn và việc thiết lập vững bền Nước Thiên Chúa là những giá trị có tính cách cánh chung. Những giá trị này chỉ thành toàn khi Chúa lại đến, khi bản tính Thiên Chúa tỏ hiện rõ ràng trong vinh quang Ngài và khi Nước Thiên Chúa đạt đến sự viên mãn.
‘Xin cho chúng con lương thực hằng ngày’. Giữa hai lời nguyện xin về bản tính ‘siêu nhiên’ của chính Bản thể Thiên Chúa về nước Thiên Chúa và hai lời nguyện xin sau nói về ‘hạ nhiên’ (infra naturel) (tội và cám dỗ), là một lời cầu xin về lương thực xét trên bình diện hoàn toàn có tính cách phàm nhân. Bánh được coi là thứ lương thực hàng đầu trong số những thực phẩm trần thế. Con người, vì là Con Thiên Chúa, không thể bị cơn đói dằn vặt và cũng không được sống trong sự quá dư thừa. Do đó cũng cần phải xin Cha cho được lương thực cần thiết mỗi ngày. Một khi con người cứ phải đương đầu với cơn đói, thì hẳn là chẳng còn hơi sức đâu, thời gian nào để nghĩ tưởng đến những thực tại trên cao.
Con người có thể liều mình sa vào hố thất vọng và có nguy cơ tráo trở với Thiên Chúa. Nhưng nếu con người đắm chìm trong của ăn thức uống, thì cái bản ngã tuyệt hảo của hắn sẽ chết ngạt trong chủ nghĩa tôn thờ vật chất. Con người sẽ héo hắt vì thiếu của ăn áo mặc, đang khi đó sự dư thừa lại cản ngăn con người sống tự do về mặt thiêng liêng. Giữa hai thái cực đói kém và dư thừa, một chỗ đứng thích hợp nhất phải là sự điều hoà cân xứng và chỉ có như vậy, con người mới có thể sống đạo đức được.
Đó là lý do tại sao lại có lời nguyện xin này, một lời cầu đề cập đến sự an toàn trong khuôn khổ và không gian, thuộc về trần thế và trong môi trường.
Lời cầu nguyện ấy cũng có thể bao hàm một ý nghĩa bao quát hơn, thuộc lãnh vực tinh thần. Lời Thiên Chúa trở nên lương thực nuôi tâm hồn, nên của ăn tinh thần. Con người khẩn cầu Thiên Chúa ban cho Lời hằng sống ấy. Con người xin Thiên Chúa ngỏ lời với thụ tạo và con người xin cho mình cũng hiểu được lời đáng nghe của Thiên Chúa phát ra tự đáy lòng, thứ lời đã được ghi chép trong Thánh kinh và con người xin cho được sống bằng lời ấy. Bởi vì ‘con người không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra’ (Mt 4,4)
Bánh còn có nghĩa về mầu nhiệm Thánh Thể ‘Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống’. Con người rất cần thứ bánh nhiệm mầu ấy để khỏi bị chết ngạt bởi những lo âu về kinh tế.
Sau hết, Bánh đây chính là Đức Kitô. ‘Ta là Bánh sự sống’. Bởi thế, lời cầu xin này tuy phát xuất do những nhu cầu thiêng liêng và siêu nhiên, để rồi sau cùng lại gán cho chính Chúa.
Nó là giả thiết một thần học về bánh, bởi vì với nhãn quan người Kitô hữu, mọi sự đều được thánh hiến và thánh hoá cách đạo hạnh.
‘Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con’. Trước Thiên Chúa, con người là kẻ mắc nợ. Đối với người đạo đức, tội lỗi là một gánh nặng chèn ép họ. Nó làm cho họ phải xa rời Thiên Chúa, dựng lên một bức tường ngăn cách họ với Thiên Chúa, phá huỷ những mảnh vườn đầy hoa tươi nở, làm tan hoang bình địa mọi công trình xây dựng.
Tội khiến đời sống trở nên mù tối, và làm cho con người nên như trò cười đáng mỉa mai. Hình ảnh Thiên Chúa bị bôi nhọ và đền thánh bị tục hoá. ‘Ích gì cho con người chiếm được cả thế giới mà để mất linh hồn’. Dĩ nhiên, tội làm thương tổn linh hồn, tệ hơn nữa, nó còn làm mất đời sống siêu nhiên mà Thiên Chúa ban cho con người, và như thế, tội còn làm cho con người không được dự phần vào chính Thiên Chúa. Tội phá huỷ mọi niềm hy vọng vĩnh cửu, tội ngăn chặn mọi nẻo đường dẫn đến tương lai.
Và vì thế, lời cầu xin tha thứ là một lời khẩn cầu cấp bách. Những ai đã được tha thứ, thì chính mình cũng phải biết thứ tha. Đã hưởng lòng Chúa xót thương, con người không thể cứng lòng với tha nhân. Kẻ có nợ được chủ nợ tha cho hoàn toàn, thì chính kẻ ấy cũng không thể là một chủ nợ nghiêm khắc.
Ở đây lời nguyện xin trở thành một yêu sách, một đòi hỏi.
‘Chớ để chúng tôi sa chước cám dỗ’. Theo Thánh Luca, lời nguyện xin này bao gồm cả lời nguyện xin giải thoát khỏi sự dữ và Satan. Cơn cám dỗ là con đường của vực thẳm, là lối đi dẫn tới hoả ngục,là khu vực của quỉ ma, là sự gần kề đầy doạ nạt của địa ngục, của những bóng đen ghê rợn quái ác luôn rình mò lượn quanh con người.
Ân sủng là khí giới, là sự bảo đảm chở che… Ánh sáng từ trời xuống đánh tan những bóng tối dữ tợn. Và tiếng nói từ trên cao càng vang dội mạnh bao nhiêu, thì tiếng gầm thét của vực thẳm càng cố vươn lên bấy nhiêu. Chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới gìn giữ canh chừng con người thoát khỏi rơi vào nguy hiểm, vào vực thẳm. Chỉ nơi Ngài, đời sống đầy chông gai thách thức mới tìm được sự an toàn đảm bảo.
Như vậy, theo Thánh Luca, năm lời cầu xin cấu thành một toàn bộ trọn vẹn, ôm lấy hết toàn thể đời sống con người, đang bị phân rẽ giữa hạ giới và thiên thượng, giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và tăm tối, giữa sự sống và sự chết.
Đó là giải pháp mà Chúa Giêsu trả lời cho môn đệ khi họ xin. ‘Lạy Thầy, xin dậy chúng con cầu nguyện’.
Cầu nguyện là một việc mà con người khó thực hiện. Vì thế phải luyện tập. Chính Thánh Gioan Tẩy giả đã dạy các đồ đệ cầu nguyện. Nhưng Giáo huấn của Chúa Kitô thật khác lạ; Chỉ bằng vài lời, đã nói lên được tất cả, một sự sung mãn phong phú qui kết vào 5 lời nguyện xin chi phối toàn bộ đời sống và hướng về Thiên Chúa Duy Nhất, là Cha hết mọi người.
CẦU NGUYỆN THỰC SỰ (11, 5-13)
Trong việc dạy họ cầu nguyện, Đức Giêsu đã nói lên cái ‘cốt cách’ của việc cầu nguyện, bằng cách nhấn mạnh những đặc tính hết sức quan trọng, là sự kiên trì và tín thác.
1. Kiên trì
Dụ ngôn sau đây tỏ rõ cho thấy thế nào là kiên trì. Đây là một vài nét chính: một người kia, bổn tính không hay giúp đỡ nhưng sau cùng phải thua tính cố nài nẵng của người xin.
Lòng kiên tâm cầu nguyện cho thấy hoàn cảnh chung quanh cũng phải tuỳ thuộc và như là một chủ đề cốt tuỷ. Một người Cha trong một gia đình kia, giữa đêm trường, đang ngủ yên, cửa đóng then cài, lối vào cũng đầy những đồ đạc lỉnh kỉnh; ở gian trong, cả nhà ngon giấc, hết thảy, chồng, vợ, con cái đều yên giấc. Nếu phải mở cửa, ông phải chỗi dậy, khó nhọc lắm mới thắp nổi ngọn đèn ở dưới đấu và đặt trên giá đèn, không khéo lại va vào chân đám trẻ, lấy bánh ra, mở then, mở chốt, đẩy cửa kẽo kẹt,…. Nói tắt rằng, ai nấy đều bị thức giấc, và mọi cái đều lộn xộn xáo trộn.
Như thế, ta hiểu ngay lý do tại sao ông ta từ chối. Tuy nhiên, mọi trở ngại đều bị thắng vượt, không còn nghĩ tới nghĩ lui gì nữa, chỉ còn lo sao để thoả mãn người ăn xin đang quấy nhiễu nài nỉ luôn miệng không thôi. Áp dụng vào thật quá rõ. Người van xin phải nài nỉ không biết mệt mỏi: có như thế mới được điều mình xin, cửa sẽ mở cho vào, tìm thì sẽ thấy.
Tuy nhiên, một vấn nạn khiến ta lo ngại: Tại sao Thiên Chúa lại để cho con người phải đợi chờ? Chỉ cần Ngài nhận lời là mọi trở ngại sẽ mất đi, không còn quấy nhiễu gì nữa…
Có thể giải đáp thế này: không thể đổ lỗi kỳ hạn cho Thiên Chúa, như trong dụ ngôn người cha nọ cứ để cho người xin kia phải chờ đợi cho đến khi ông ta sẵn lòng. Ở đây hẳn là không như thế, việc nhận lời có bị trì hoãn là do chính người xin, chính ông này phải biết gia tăng cầu nguyện ráo riết hơn nữa. Khẩn cầu liên lỉ liên kết người ấy với Thiên Chúa cách khắng khít hơn, khiến họ phải ý thức hơn về tình trạng bất lực riêng mình, nhận rõ hơn việc phải hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa và do đó, sau khi Ngài nhận lời, người ấy sẽ nhận biết Ngài.
Việc dạy cầu nguyện bao hàm thái độ chờ đợi kiên nhẫn ấy. Chờ đợi hẳn là một đặc ân của con người. Không nên đánh giá tôn giáo như làm một việc lạ lùng, và cũng không nên coi cầu nguyện van xin như một thứ nút điện đơn giản cứ ấn xuống là được. Mà là một hành vi của ngôi vị, một sự đi sâu đầy khí lực của một thái độ trước Thiên Chúa, chiêm ngắm Ngài, tâm sự với Ngài và vươn tới Ngài.
Bởi thế, lời cầu xin -kiên trì cầu xin- phải mang một dấu hiệu nói lên ý nghĩa đạo đức đích thực.
2. Tín thác
Cái lối lý luận trên được thực hiện theo kiểu ‘huống nữa là…’ một kiểu so sánh từ cái nhỏ đến cái lớn (a minore ad majorem). Con người vốn hẹp hòi và tầm thường. Đức Giêsu quả quyết điều này: ‘Vậy nếu các ngươi là những kẻ ác…’ Tuy con người thật đê tiện, hẹp hòi, vụ lợi, và cứng lòng mà còn không chối từ, lời của người van xin, nhất nữa lại là con mình, xin bánh, cá hay trứng. Giống vật cũng chẳng làm như vậy khi cho con cái đang đói hòn đá, rắn độc hay bò cạp. Vậy nếu điều ấy khó coi đối với con người, vốn tính xấu xa, thì đối với Thiên Chúa nói làm sao đây!.
Thiên Chúa không ác độc xấu xa, nhưng đầy thiện hảo tốt lành; Ngài không hẹp hòi tư kỷ, nhưng hay thương xót. Ngài không nghiêm khắc cứng cỏi, song hiền từ lân tuất, thì Ngài càng phải nhận lời nhân loại kêu xin gấp bội phần.
Nhưng lại một vấn nạn đặt ra cho chúng ta: kinh nghiệm cho ta thấy một điều trái nghịch. Vì dù con người vẫn luôn kiên trì cầu nguyện và luôn tín thác, mà họ vẫn phải thất vọng –và thực sự thất vọng hoàn toàn!- Vì trong cuộc sống họ thấy những hy vọng được nhận lời đã tan theo mây khói: điều người ta mong tồn tại thì lại tiêu tan, cái người ta mong thành đạt thì không được thoả mãn.
Đức Giêsu trả lời như sau khiến ta khó có thể lãnh hội ý nghĩa: ‘Huống hồ Cha các ngươi tự trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những ai xin Người’. Ở đây ta lại gặp cái lối lý luận ‘huống nữa là…’.
Chúng ta thường xin với những ý định tầm thường quá: nào là nhu cầu thể xác, nào là mục tiêu vật chất, của cải phù vân, thậm chí còn xin cả những cái gây lầm lạc cho mình nữa.
Thiên Chúa thoả mãn ta bằng những điều thiện hảo rất cao quý; Ngài ban Thánh Thần cho ta, mà Thánh Thần Thánh hoá nội tâm. Bởi vậy, không có lời cầu xin nào bị bỏ qua mà không được nhận lời. Ta chẳng thể nhìn thấy việc Ngài nhận lời ta, như Thánh Thần thánh hoá làm sao ta thấy được.
Thực ra, khi con người nhận lấy Thánh Thần thì nhận được những sự phong phú rất cao quý chứ không phải chỉ những của cải vật chất. Vì vậy, càng cầu xin kiên trì và tín thác bao nhiêu, thì càng chất chứa đầy Thánh Thần nơi tâm hồn bấy nhiêu.
Bởi vậy hai yếu tố hoà trộn mật thiết với nhau khi cầu nguyện phải là: kiên trì và tín thác. Với hai yếu tố ấy, con người được tràn đầy Thiên Chúa, luôn thêm mãi và sâu đậm hơn. Đó mới là điều thiện hảo tối cao Thiên Chúa ban cho con người và con người nhận được cách rõ rệt.
Chúng ta không được mệt mỏi trong việc kiếm tìm, nguyện xin và gõ cửa. Và chúng ta cũng sẽ không hề biết mỏi mệt khi chúng ta hiểu được điều từ miệng Đức Giêsu thốt ra trong giờ phút sau cùng: chúng ta thuộc về Chúa.
27. Cầu nguyện
Người Hồi giáo nói về sự sốt sắng cầu nguyện bằng một câu chuyện như sau:
Có một ông vua vào rừng săn bắn. Chiều xuống, khi tới giờ cầu nguyện, ông trải tấm thảm trên mặt đất, rồi hướng về phía tây và phủ phục cầu nguyện theo cung cách của người Hồi giáo.
Giữa lúc ông đang chìm đắm trong sự cầu nguyện, thì có một người đàn bà hối hả chạy vào rừng. Số là chồng bà đã ra đi từ sáng sớm mà đến giờ này vẫn chưa thấy trở về. Bà ta sợ có điều chi không lành xảy đến cho chồng nên vội chạy vào rừng để tìm kiếm. Trong cơn hốt hoảng, bà ta không nhìn thấy có người đang phủ phục cầu nguyện. Bà bước qua người ấy mà không hề hối hận để nói lên lời xin lỗi.
Nhà vua cảm thấy bị xúc phạm nặng nề, nhưng ông cũng gắng gượng để tiếp tục cầu nguyện theo đúng luật dạy. Khi ông cầu nguyện xong thì người đàn bà cũng trở lại chỗ cũ, cười nói vui vẻ bên cạnh ông chồng. Bà cuống quýt khi nhận ra rằng người mà bà đã bước qua trong cơn hốt hoảng chính là nhà vua. Nhà vua cho gọi người đàn bà đến và ra lệnh trị tội vì đã tỏ ra bất kính đối với ông.
Thế nhưng, không một chút sợ hãi, bà đã nói như sau:
– Tâu bệ hạ, thần bị cuốn hút trong sự suy nghĩ về người chồng đến độ đã không nhìn thấy bệ hạ, nên đã bước qua. Hạ thần nghĩ rằng, bệ hạ đang cầu nguyện, thì tâm trí của bệ hạ cũng phải cuốn hút trong sự suy nghĩ về Thượng đế, lẽ nào bệ hạ còn lòng trí biết đến hạ thần và những cử chỉ nhỏ nhoi của hạ thần.
Nhà vua lấy làm xấu hổ vì sự việc xảy ra. Ông nhìn nhận rằng: Tuy không phải là một bậc thầy trong đạo, nhưng người đàn bà này đã dạy cho ông về sự chuyên tâm trong việc cầu nguyện.
Trong giây phút này, khi đến nhà thờ cầu nguyện và dâng thánh lễ, có lẽ chúng ta cũng hành động như ông vua, có nghĩa là chúng ta chưa cuốn hút vào trong tâm tình cầu nguyện. Xác chúng ta ở trong nhà thờ, nhưng tâm hồn chúng ta còn phiêu bạt tận đâu đâu. Một tiếng động nhỏ ở bên ngoài cũng đủ làm cho chúng ta chia trí. Rồi thì trong đầu óc, chúng ta mơ tưởng, chúng ta nghĩ đến hết chuyện này tới chuyện kia. Ấy là tôi chưa nói tới những người cố tình nói chuyện, chọc phá, nô giỡn, chẳng để tâm vào sự cầu nguyện một chút nào.
Giả sử như có một vị khách quí tới thăm nhà. Thế nhưng mọi người trong nhà đều bận rộn chuyện này chuyện kia, chẳng ai nói được một lời với vị khách quí ấy? Chúng ta nghĩ thế nào về thái độ này. Theo tôi, thì đó là một thái độ thiếu tế nhị, thiếu lịch sự, và chắc chắn sẽ làm cho vị khách quí buồn lòng.
Thế nhưng đối với Chúa, chúng ta lại thường xuyên cư xử như thế. Chúng ta tham dự thánh lễ, hay đọc kinh cầu nguyện cho qua lần đoạn lượt, mà chẳng có một chút tâm tình bên trong. Chính vì thế, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì sự khô khan nguội lạnh, vì sự thờ ơ sao lãng của chúng ta.
Đồng thời, như các môn đệ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa dạy cho chúng ta biết cầu nguyện và nhất là xin Chúa dạy cho chúng ta biết cầu nguyện một cách chuyên tâm và sốt sắng.
28. Cầu nguyện
Khi các môn đệ đến với Thầy với lời kêu xin: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, thì các ông đã được ở với Đức Giêsu trong trường cầu nguyện một thời gian rồi, các ông đã cảm kích vì những bài học cụ thể giá trị nhất, ấy là tấm gương của chính Đấng Kitô. Nếu tâm trí của chúng ta từng nổi lên nhiều hoài nghi về thực tế và hiệu năng của lời cầu nguyện, chúng ta chỉ cần quay về với sách Tin Mừng của thánh Luca để được nhắc nhở rằng Chúa Giêsu đã dành nhiều thời giờ để cầu nguyện, và Ngài cầu nguyện ở mỗi biến động của đời sống Ngài. Chắc chắn chúng ta không lạc được khi theo bước chân Ngài.
Tuy nhiên, điều các môn đệ muốn có là một công thức cầu nguyện đặc biệt, như Gioan Tẩy Giả hình như có cho các người theo ông. Chúa Giêsu đáp ứng lời cầu xin ấy và ban cho các ông một kiểu mẫu độc nhất vô nhị, rồi khích lệ với lời hứa bảo đảm rằng lời cầu nguyện sẽ được nghe. Bài cầu nguyện được Lu-ca ghi lại có ngắn hơn của Mát-thêu nhưng cũng chứa đủ những điều mà chúng ta cần biết phải cầu nguyện thế nào và phải cầu nguyện những gì.
Lời cầu nguyện bắt đầu bằng xưng nhận Thiên Chúa là Cha. Đó là đặc tính của mọi lời Kitô hữu thưa với Chúa. Chính lời đầu tiên dạy chúng ta rằng, trong khi cầu nguyện chúng ta không đến với một Đấng phải miễn cưỡng ban ơn cho chúng ta, nhưng đến với một Cha hằng vui thích làm thoả mãn mọi nhu cầu của con cái Ngài.
Trong tiếng Do Thái, chữ “tên” hay “danh” có ý nghĩa sâu sắc hơn là tên gọi của một người. Chữ “danh” gồm tất cả các đặc tính của người mà chúng ta quen biết. Thánh vịnh 9, 11 nói: “Người nhận biết thánh danh, sẽ một niềm tin cậy.” Câu đó có ý nghĩa sâu sắc hơn chứ không chỉ biết tên Thiên Chúa Gia-vê. Nó có nghĩa là người nào thấu hiểu được tư tưởng, ý muốn và tấm lòng của Thiên Chúa sẽ vui lòng đặt hết niềm tin cậy vào Ngài.
Chúng ta nên chú ý đặc biệt đến thứ tự các lời cầu nguyện Chúa Giêsu dạy trước khi cầu xin bất cứ điều gì cho chính mình, chúng ta phải đặt Thiên Chúa, sự vinh hiển và tôn trọng của Ngài lên hàng đầu. Chỉ sau khi dành cho Chúa chỗ của Ngài, bấy giờ các điều khác mới có chỗ xứng hợp.
Bài cầu nguyện bao quát cả cuộc đời.
– Nó bao hàm các nhu cầu hiện tại. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu xin vật thực cho chúng ta mỗi ngày. Nên nhớ bánh đủ ăn từng ngày là điều chúng ta cầu xin. Điều này nhắc lại câu chuyện về Man-na trong sa mạc. Dân Chúa chỉ được lượm Man-na đủ ăn trong một ngày mà thôi. Chúng ta đừng lo cho một tương lai không rõ, nhưng ngày nào lo cho ngày ấy.
– Nó bao hàm tội lỗi đã qua. Khi cầu nguyện chúng ta không thể làm gì hơn là xin ơn tha thứ, vì dù con người tốt nhất trong chúng ta cũng chỉ là một tội nhân trước sự thánh thiện của Thiên Chúa.
– Nó bao trùm các thử thách trong tương lai. Từ ngữ “cám dỗ” trong Tân Ước có nghĩa là bất cứ hoàn cảnh thử thách nào. Nó không chỉ có nghĩa là quyến rũ phạm tội mà còn bao gồm mọi hoàn cảnh khiến con người bị thử thách về đức độ, thanh liêm, lòng tín trung. Chúng ta không thể trốn tránh những hoàn cảnh đó, nhưng chúng ta có thể thắng nó nhờ ơn Chúa ban. Có người nhận định rất đúng rằng: Bài cầu nguyện Chúa Giêsu dạy – mà chúng ta gọi là kinh Lạy Cha – có hai ích lợi lớn cho giờ cầu nguyện của chúng ta. Nếu chúng ta dùng để bắt đầu giờ cầu nguyện thì nó khơi dậy những ước muốn tốt đẹp giúp chúng ta biết cầu nguyện cho xứng đáng. Nếu chúng ta dùng để kết thúc giờ cầu nguyện thì nó tóm tắt mọi điều chúng ta phải cầu xin trước mặt Thiên Chúa.
Để khuyến khích các môn đệ trong những lời khẩn cầu ấy Ngài kể cho họ nghe câu chuyện về một người kêu xin không ngừng, hầu như là lì lợm nên đã được ban cho bánh cần dùng. Trong xứ Pa-lét-tin, khách bộ hành thường lên đường vào buổi chiều hầu tránh cái nóng bức của buổi trưa. Trong câu chuyện Chúa Giêsu kể, có một người khách như vậy đã tới nhà bạn mình lúc nửa đêm. Bên Đông phương tiếp khách là bổn phận thiêng liêng. Chỉ cho khách ăn vừa đủ no thôi thì không được, cần cho khách ăn dư dật. Trong các làng quê, người ta làm bánh mì tại nhà và chỉ nướng bánh đủ ăn trong một ngày, vì nếu giữ lại, bánh sẽ cũ đi không ai muốn ăn. Vị khách nói trên đến muộn quá khiến chủ nhà bối rối vì thức ăn đã hết nhẵn, chủ nhà không thể làm tròn bổn phận thiêng liêng là tiếp khách. Và dầu đêm đã khuya, chủ nhà cũng tới nhà bạn để vay bánh. Cửa nhà người bạn đã đóng. Bên Đông phương, không ai muốn gõ cửa nhà đã đóng, trừ khi cấp bách lắm. Buổi sáng cửa nhà được mở ra và cứ mở suốt ngày, nhưng nếu cửa đóng lại, đó là dấu chủ nhà không muốn bị quấy rầy. Nhưng người chủ nhà đi tìm bánh đã không e ngại ông gõ cửa và cứ gõ mãi…
Căn nhà nghèo ở xứ Pa-lét-tin chỉ có một căn phòng với một cửa sổ nhỏ. Nền nhà làm bằng đất nện phủ tre khô và cành khô. Căn phòng chia làm hai phần, không phải bằng vách ngăn mà bằng mặt đất thấp hơn. Hai phần ba phòng thì nền đất thấp, phần ba kia thì nền cao hơn một chút. Trên phần đất cao đó có bếp than ủ cháy suốt đêm, và cả gia đình nằm ngủ quanh bếp đó, họ không nằm nơi giường cao, nhưng trên những tấm chiếu. Các gia đình thường đông người và họ thường nằm sát nhau cho ấm. Khi một người trỗi dậy thì tất nhiên làm phiền cả gia đình. Hơn nữa, tại làng quê, buổi tối người ta đem gia súc, gà, dê vào trong nhà. Không lạ gì, trong hoàn cảnh đó, một người đã đi ngủ thì không muốn dậy nữa. Nhưng người vay bánh quyết tâm này cứ gõ mãi, “gõ mãi mà không biết xấu hổ” theo đúng nghĩa của từ ngữ Hy-lạp được dùng – cho tới khi chủ nhà đành chỗi dậy cho người kia mọi điều xin, vì dầu sao gia đình cũng bị quấy rầy rồi. Chúa Giêsu có ý bảo: “Câu chuyện này dạy các ngươi về việc cầu nguyện.” Bài học trong dụ ngôn này không phải dạy chúng ta cứ mãi mãi nài xin, không phải chúng ta cứ phải đập vào cửa Thiên Chúa cho đến khi ép buộc Ngài cực chẳng đã phải ban cho chúng ta điều chúng ta muốn, cho đến khi chúng ta cưỡng ép được Thiên Chúa không sẵn lòng chịu trả lời cho chúng ta, một dụ ngôn nói nôm na là một điều gì đó đặt bên cạnh. Nó cho ta thấy sự tương đồng hay tương phản giữa hai sự việc. Chúa Giêsu ngụ ý như sau: “Nếu một người chủ nhà khó tính và thiếu thiện chí mà cuối cùng có thể bị cưỡng ép bởi quyết tâm của một người bạn trì chí, để phải cho người đó mọi điều mong muốn, huống chi Thiên Chúa là Cha Từ Ái sẽ tiếp trợ mọi nhu cầu cho con cái Ngài hơn biết dường nào! Chúa Giêsu phán: “Nếu các ngươi vốn xấu mà còn biết rằng mình có bổn phận cung cấp nhu cầu cho con cái, huống chi Cha trên trời…”
Điều này không làm cho chúng ta giảm bớt sự hăng say và sốt sắng cầu nguyện. Dầu sao chúng ta chỉ có thể tỏ lòng ước muốn thành thực bởi sốt sắng và kiên trì cầu nguyện. Điều đó không có nghĩa là chúng ta phải giành giật các ơn phúc từ tay một Thiên Chúa không thiện chí, nhưng chúng ta đến với một Đấng biết rõ mọi nhu cầu của chúng ta hơn chính chúng ta, và Ngài là Đấng có lòng yêu thương và rộng rãi đối với chúng ta. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, không phải vì Thiên Chúa không sẵn lòng ban ơn cho ta, nhưng vì Ngài có ơn phúc tốt hơn, để dành cho chúng ta. Và không hề có vấn đề mà chúng ta gọi là lời cầu nguyện không được nhận. Sự trả lời của Chúa có thể không đúng theo điều chúng ta ước muốn hoặc trông đợi, dầu khi Chúa từ chối điều mong muốn của ta, thì đó vẫn là sự trả lời bởi tình thương và khôn ngoan của chính Thiên Chúa là Cha Từ Ái.
Để kết luận chúng ta ghi lại đây tâm sự của tướng Douglas Mac Arthur: “Tôi là một chiến binh chuyên nghiệp. Và tôi rất hãnh diện về điều ấy, nhưng tôi còn vô cùng hãnh diện hơn vì được làm một ông bố. Tôi hy vọng rằng một mai khi tôi qua đời, đứa con trai của tôi sẽ không nhớ đến tôi như một chiến binh lúc nào cũng ở trận địa, mà là một ông bố hiện diện trong gia đình đang cùng nó đọc lời kinh nguyện đơn sơ hàng ngày: Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng… Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…”
29. Nét đẹp lời cầu xin
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Một thực tế trong đời Kitô hữu đó là hễ cầu nguyện thì không thể không cầu xin. Hễ nói đến cầu nguyện là người ta nghĩ ngay đến những ơn cần cầu xin. Có lẽ vì cuộc sống con người lắm gian truân và đầy dẫy những bất an, gian khổ, bên cạnh đó thì khát vọng cũng như nhu cầu của con người thì dường như vô tận. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ một chút thì việc cầu xin cũng là một cách thế cầu nguyện mang tính hiện sinh. Dù rằng theo cái nhìn tu đức truyền thống thì khi cầu nguyện, việc cầu xin xem ra không bằng việc tạ ơn, ngợi khen hay chúc tụng Thiên Chúa.
Lần kia một môn đệ nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy các môn đệ của ông”. Và Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: “Lạy Cha, xin làm cho thánh danh Cha vinh hiển…; xin tha tội cho chúng con…” (x. Lc 11,1-4). Tin mừng Matthêu cũng tường thuật việc Chúa Giêsu dạy cầu nguyện với “Kinh Lạy Cha” bằng những lời cầu xin (x. Mt 6,9-13). Qua những lời cầu xin chúng ta nhận ra một vài tâm tình vừa chính đáng vừa phải đạo và cũng vừa rất “dễ thương” như sau:
1. Tâm tình tin tưởng, cậy trông vào tình yêu và quyền năng của Đấng chúng ta cầu xin: Đã cất lời cầu xin với ai, thì dĩ nhiên ít nhiều đã có sự tin tưởng và cậy trông vào người ấy. Xin với ai điều gì, thì giả thiết đã tin tưởng người ấy có khả năng thực hiện điều chúng ta xin. Xin điều gì với ai là giả thiết đã cậy trông vào tình yêu của người ấy dành cho mình. Dưới một góc độ nào đó, thì lời cầu xin cũng là một lời tuyên xưng đức tin.
2. Tâm tình thống hối, ăn năn: Nếu điều cầu xin là ơn tha thứ thì người cầu xin không chỉ bày tỏ lòng tin vào sự khoan dung của người mình xin mà còn bày tỏ sự ăn năn thống hối về lỗi lầm mình đã phạm. Theo cái nhìn này thì lời cầu xin cũng là lời xưng thú tội lỗi.
3. Tâm tình khiêm hạ nhìn nhận sự hạn chế, bất toàn và cả bất lực của mình: “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ…” (x. Lc 11,3-4; Mt 6,11.13). Nội hàm những lời cầu xin trên đây quả là một lời thú nhận sự bất toàn, bất lực của người xin. Không có ơn Chúa thì chúng ta không thể làm được sự gì tốt đẹp. Nếu Chúa không nâng đỡ, thì chúng ta không thể đứng vững trước mãnh lực của thần dữ, như “sư tử luôn rảo quanh chúng ta để rình chờ cắn xé, phân thây” (x.1P5,8).
4. Tâm tình thảo hiếu: “Nguyện cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”(x.Mt 6,9-10; Lc 11,1). Một người con biết nghĩ đến Danh, Vương quyền, Ý, Lời của Cha là một người con sống đạo thảo hiếu đúng phận.
5. Sự liên đới, tương thân tương ái trong nghĩa tình huynh đệ: Chúng ta nhận ra sự thật này qua hai từ “chúng con” của lời kinh “Lạy Cha”. Hơn nữa, khi đã tuyên xưng, nhìn nhận Thiên Chúa là Cha, thì một cách nào đó đã nhìn nhận tha nhân là anh chị em của mình. Sự tương thân tương ái được biểu hiện cách rõ nét và thiết thực bằng sự liên đới.
Câu chuyện Abraham cò kè bớt một thêm hai để xin Thiên Chúa tha thứ cho dân hai thành Sôđôma và Gômôra là một minh hoạ. Lòng hiếu thảo luôn sánh đôi với nghĩa tình huynh đệ. Một người sống có tình với mẹ cha, thì hẳn luôn có lòng với anh chị em. Cũng thế, khi đã biết sống có tình với huynh đệ thì luôn làm đẹp lòng mẹ cha. Và các đấng bậc sinh thành vốn nhận tình nghĩa huynh đệ của đàn con như là một trong những cách thế đẹp nhất mà đàn con bày tỏ lòng thảo hiếu với mình. Chúng ta nhận ra sự thật này khi cha ông chúng ta đã gắn kết hai mối tình ấy bằng hạn từ ghép “tình hiếu đễ”.
Mối tình của Abraham dành cho dân hai thành Sôđôma và Gômôra một cách nào đó còn bị giới hạn. Dù rằng đã dùng hết cách để có kè bớt dần con số người công chính để xin Thiên Chúa thứ tha cho dân hai thành ấy, thì Abraham đã không vượt qua con số “mười”. Điều này cho chúng ta thấy rằng mặc dù tình thân của Abraham đối với Thiên Chúa thật đậm đà, nhưng vẫn còn bị hạn chế cách nào đó vì sự mạc khải thời Cựu ước chưa hoàn hảo. Chắc hẳn Abraham luôn mong ước được thấy ngày của Con Người, ngày mà chân lý được tỏ bày cách hoàn hảo nơi Giêsu Kitô (x.Ga 8,56). Giả như ông chứng kiến ngày ấy thì ông đã bớt dần con số xuống chỉ còn một người công chính. Quả vậy, “cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng đã được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống” (Rm 5,18).
Tuy nhiên, có thể nói rằng cầu xin không phải là để Thiên Chúa biết các nhu cầu của chúng ta, vì chính Người đã biết rõ những gì chúng ta cần trước khi chúng ta cất lời khẩn xin (x.Mt 6,8). Và dĩ nhiên, đã là người Cha trên các người cha, thì Thiên Chúa sẵn sàng ban mọi sự tốt lành cho chúng ta. Và cần phải khẳng định rằng nội hàm những lời cầu xin là để giúp chúng ta nhận biết những gì chúng ta cần, và để chúng ta sẵn sàng đón nhận cũng như sẵn sàng thực thi Thánh Ý.
“Xin cho danh Cha cả sáng”. Chúng ta không xin thì trời xanh vẫn phản ánh vinh quang của Người. Chúng ta xin là để biết cách cộng tác với ơn Chúa làm cho Thánh danh Người tỏ rạng nơi cuộc đời con người chúng ta. “Xin Cha tha nợ cho chúng con”. Chúng ta chưa xin thì Đức Kitô đã chết để ban ơn tha thứ cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Cầu xin là để biết cách thế đón nhận hồng ân tha thứ Chúa đã tặng ban. Một trong những cách thế để đón nhận hồng ân thứ tha của Thiên Chúa đó là quảng đại tha thứ cho tha nhân (x.Mt 6,14-15).
Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên để tiếp xúc, gặp gỡ Thiên Chúa. Tiếp xúc, gặp gỡ Chúa để biết Chúa, yêu mến Chúa và để thực hiện thánh ý của Người. Như thế, cầu nguyện, cầu xin không phải là để bắt Thiên Chúa thực hiện điều chúng ta muốn, nhưng là để bắt chính mình thực thi điều Thiên Chúa muốn. Vấn đề đặt ra đó là cần phải biết cầu xin những gì đẹp ý Chúa. Một trong những điều đẹp ý Chúa nhất đó là tôi và mọi người cùng được hưởng ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc ngay hôm nay và ngày sau.
30. Lời Kinh Tuyệt Vời – An Phong, OP
Hôm nay Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện bằng lời kinh Lạy Cha. Người muốn chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, sống tâm tình con thảo và tin tưởng phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Người muốn chúng ta cầu nguyện cho vinh danh Thiên Chúa và cho những nhu cầu cơ bản của chính chúng ta. Tuy nhiên, không phải là chúng ta xin điều gì thì được điều ấy. Thiên Chúa nhân lành không bao giờ ban điều xấu cho con cái Người là chúng ta. Quà tặng cao quý nhất là Chúa Thánh Thần, Đấng bảo trợ và nâng đỡ chúng ta.
Nguyện cho danh Cha cả sáng, lời nguyện đầu tiên xin cho Thiên Chúa được mọi người nhận biết, tôn thờ Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị em với nhau.
Nguyện cho Nước Cha trị đến, lời nguyện thứ hai xin cho Nước Cha, “nước công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Nơi nào có công chính, có bình an, có hoan lạc trong Thánh Thần, nơi đó là Nước Thiên Chúa. Công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần càng lan rộng thì con người lại càng được hạnh phúc.
Nguyện cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, lời nguyện thứ ba xin cho ý Thiên Chúa được thực hiện. Thiên Chúa muốn mọi người được bình an, hạnh phúc và nhất là được cứu độ. Ý muốn của chúng ta thường hẹp hòi, ích kỷ, vì chúng ta nghĩ đến mình quá nhiều. Nhưng Thiên Chúa thì khác. Hơn nữa, Thiên Chúa biết chúng ta cần thiết những gì.
Xin cho chúng con hôm nay có cơm ăn áo mặc đầy đủ mỗi ngày là lời nguyện thứ tư. Giàu có quá hoặc nghèo khó quá là hai thái cực. Cha ông chúng ta đã chẳng từng nói “no nê sinh dâm dật, túng bấn sinh đạo tặc” đó sao? Đức Giêsu muốn tránh cho chúng ta những nguy hiểm tiềm ẩn. Người muốn chúng ta thanh thoát, đừng quá lo toan vật chất mà hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa, vì như hoa huệ ngoài đồng Thiên Chúa cũng nuôi.
Xin tha nợ chúng con là lời nguyện thứ năm. Con người ở đời không ai là hoàn hảo cả, không lỗi này thì lỗi khác, không tội lớn thì tội nhỏ. Như thế, con người mang gánh nặng, mang nợ. Con người cần Thiên Chúa tha nợ. Nhưng điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ là con người cũng phải biết bỏ qua cho anh em mình “như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ là lời nguyện thứ sáu. Cám dỗ là một thực tế trong đời người. Bao lâu con người còn sống, bấy lâu còn cám dỗ. Cám dỗ đến từ bên ngoài, do người khác, do hoàn cảnh; cám dỗ đến từ bên trong, do chính nội tâm, thâm sâu mỗi người.
Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ là lời nguyện thứ bảy. Sự dữ là những gì không tốt xảy đến cho con người, là bị tai nạn, bị thiệt hại, bị hãm hại… nói chung là điều xấu. Xin Thiên Chúa gìn giữ chúng ta luôn bình an, hạnh phúc.
Kinh Lạy Cha là lời kinh duy nhất Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện. Khi đọc lời kinh này trong tâm tình con thảo, đọc chậm rãi, vừa đọc vừa suy niệm, chúng ta làm phong phú đời sống tâm linh của mình mỗi ngày.
Lạy Cha trên trời là Cha chúng con.
Chúng con dâng Cha tâm tình ngợi khen,
chúc tụng, thống hối và nguyện xin.
Chúng con nguyện cho mọi người nhìn nhận Cha
là Chủ tể trời đất muôn vật,
là Đấng thống lãnh, điều khiển lịch sử nhân loại.
Chúng con nguyện cho sự công chính, bình an
và hoan lạc trong Thánh Thần ngự trị khắp mọi nơi.
Chúng con xin dâng ý riêng con
để cầu cho thánh ý Cha được thành tựu khắp nơi.
Xin cho chúng con trở nên những người nghèo khó,
biết chấp nhận cuộc đời,
biết chấp nhận con người.
Xin gìn giữ chúng con luôn được bình an, hạnh phúc.
Amen.
31. Tình thân của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Cách đây gần 30 năm, thời còn mài đũng quần ở Chủng Viện, khi học môn Kinh Thánh thì một trong những đoạn trích Cựu Ước khiến tôi vừa thích thú vừa cảm nhận tình thân của Thiên Chúa cách xâu xa đó là đoạn văn kể chyện Abraham cò kè, mặc cả với Giavê Thiên Chúa ( St 18, 16-33 ) để xin tha cho hai thành Sôđôma và Gômôra.. Xin được bộc bạch chút tâm tình cá nhân.
Tình thân của Thiên Chúa: “ Đức Chúa phán: Ta có nên giấu Abraham điều ta sắp làm chăng?” ( St 18,17 ). Một câu tự hỏi cũng là câu trả lời cách rành rõi. Đã yêu nhau thì không điều gì phải giấu nhau. Không thể nói yêu thương nếu không tín nhiệm lẫn nhau. Làm sao ta có thể nói mình tín nhiệm một ai đó mà còn nhiều điều ta không muốn bộc bạch. Một Đấng vượt trên mọi sự mọi loài, là căn nguyên và cùng đích của mọi loài mọi sự lại thể hiện tình thân ái với một con người, quả là điều chỉ có thể hiểu được trong tình yêu. Tình yêu xóa tan mọi ngăn cách chức phận. Tình yêu đã khiến Đấng chí Tôn nên như đồng phận đồng thân với kẻ Người yêu. Trong tình yêu thì không còn gì là “bí mật” cần giữ kỷ. Nét đáng kinh ngạc ở đây là sáng kiến của người ở vai chí cao, ở phận chí tôn. Không đợi Abraham hỏi, không chờ Abraham tò mò hay hiếu kỳ. Giavê đi bước trước tỏ bày ý định, chương trình của mình.
Sự to gan và cũng là cách đáp trả rất thân tình của Abraham: Có kè, bớt một thêm hai cùng với những luận điệu rất dễ thương, Abraham đã đáp trả lại tình thân của Giavê cách dí dỏm vừa đúng phận vừa hợp tình. “ Mặc dầu con con chỉ là tro bụi, con cũng xin mạn phép thưa với Chúa…; Xin Chúa đừng giận, cho con nói tiếp…; Xin Chúa đừng giận,cho con nói một lần này nữa thôi…”, những câu nói mào đầu không chỉ mang tính “phải phép” mà còn ẩn chứa một tình thân sâu đậm. Cái tình ấy lên đến đỉnh cao khi Abraham dường như chân thành góp ý với cả Giavê: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó vì năm mươi người lành đó sao? Ngài làm như vậy chắc không được đâu ! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao?”( St 18,23-25 ). Abraham làm như muốn chỉ dạy cả Giavê!
Sự tuyệt vời của tình yêu không chỉ thể hiện nơi sự to gan của Abraham mà còn nổi rõ cách đáng kinh ngạc nơi thái độ của Giavê. Giavê sẵn sàng nghe theo sự “khuyên can” của Abraham. “ Nếu Ta tìm ra được trong thành Sôđôma năm mươi người lành thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho cả thành đó”. Và cái điệp khúc tình yêu ấy lặp đi lặp lại với con số người lành mà Abraham bớt dần bớt dần.
Tình yêu thật diệu kỳ. Đã yêu nhau thì dường như mọi sự đều là có thể. Khi đã yêu thì sự thẳng thắn, chân thành với nhau là điều tất yếu. Khi đã yêu thì không ngần ngại bộc bạch tâm can nổi lòng. Khi đã yêu thì sẵn sàng vượt mọi rào cản để chia sẻ với nhau ý tình, chia sẻ với nhau cả những lời góp ý và sự bảo khuyên. Và khi đã yêu thì sự lắng nghe nhau là điều tất yếu cho dù mình đang ở vai trên, đang đảm nhận chức lớn.
Abraham thật tuyệt vời nhưng vẫn chưa cảm nhận hết tình thân của Giavê: Cuộc mặc cả, có kè đã dừng lại với con số mười. Đang trong phận người, Abraham vẫn còn đó nhiều giới hạn. Dù được gọi là cha của kẻ tin, nhưng đức tin chỉ dẫn chúng ta đến mức đón nhận chân lý cách “lờ mờ như nhìn thấy trong gương” ( x. 1Cr 13,12 ). Đâu phải là những tấm gương bằng kính được tráng bạc như ngày nay mà chỉ là những tấm đồng được đánh bóng mà thôi. Đức tin là cánh cửa dẫn đến đức ái. Có nhiều thực tại trần thế này ta chỉ có thể hiểu nhờ tình yêu hơn là lý trí. Để đến cùng Thiên Chúa là Tình Yêu đích thực thì trí khôn của ta có giới hạn. Ngay cả với con tim nhân trần chúng ta trong kiếp người lữ thứ cũng không thể nào thấu đạt Đấng là nguồn tình yêu. Abraham dừng lại với con số mười là lẽ đương nhiên. Dù Abraham chưa thấu hiểu mối thân tình của Giavê Thiên Chúa, nhưng hôm ấy Thiên Chúa đã phần nào làm theo lời “khuyên bảo” của ông. Bằng chứng là dù bà vợ ông Lót có bị hóa ra tượng muối vì không tuân lệnh nhưng gia đình ông Lót đã được cứu sống (x. St 19,1-29 )
Đến thời viên mãn, khi Đức Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, nhân loại chúng ta mới được tỏ bày chân dung của Thiên Chúa cách tròn đầy, hoàn hảo. “ Ai thấy Thầy là Thấy Chúa Cha” ( Ga 14,9 ). “Thuở xưa, nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” ( Dt 1,1-2 ). Thiên Chúa đã tỏ bày chính Người cách trọn vẹn và hoàn hảo qua Đức Giêsu Kitô. Chính vì thế mà những người ở thời Tân Ước được cao trọng hơn cả Gioan Tiền Hô, không phải do bởi công trạng của họ nhưng là nhờ được Thiên Chúa tự tỏ bày cách đủ đầy.
Abraham đã trông mong được thấy ngày của Đức Kitô ( x.Ga 8,56 ). Giả như Abraham thấy được ngày của Đức Kitô hôm ấy thì ông đã không dừng lại ở con số mười. Ông có ngờ đâu, nếu ống cứ tiếp tục có kè bớt dần cho đến con số một thì Giavê Thiên Chúa cũng sẽ nói: vì một người công chính, Ta cũng sẽ tha cho cả thành. Thánh Tông đồ dân ngoại đã triển khai chân lý này trong thư gửi tín hữu Rôma. Vì một người công chính duy nhất là Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã ban ân sủng dồi dào cho nhân loại và cho muôn người được nên công chính để được sống đời đời ( x. Rm 5,12-21 ).
Một con đường để đến với Đấng là Tình Yêu: Trở nên dễ yêu và sống thân tình trước nhan Thiên Chúa. Hiểu được cái tình của Thiên Chúa, biết được cung cách của Thiên Chúa, thì thiết tưởng, không gì hơn hãy trở nên dễ yêu như chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Sống với Chúa, sống trước nhan Thiên Chúa cách thân tình như trẻ thơ trong vòng tay của bố, của mẹ. Không thể nào tránh được lầm lỗi khi đang trong kiếp người “bất thập toàn”. Nhưng khi ta sống đơn sơ, trung thực trước nhan thánh Chúa thì những sai lầm ấy đã được yêu. Chuyện kể: “ Một bé gái sáu tuổi đang nhổ tóc bạc cho mẹ, bé đơn sơ: “Sao tóc mẹ từ đen hóa ra màu trắng vậy?” Bà mẹ giỡn yêu con gái: “ Cứ mỗi lần con hư là một sợi tóc của mẹ từ đen hóa ra trắng bạc đó”. “À, con hiểu rồi – Bé gái nhanh nhẩu ra vẻ khám phá điều mới lạ – Con hiểu vì sao tóc bà ngoại bạc trắng cả đầu”. Bà mẹ trẻ cười khanh khách và ôm con vào lòng.
32. Kinh Lạy Cha – Lm. Giuse Nguyễn An Khang
Kinh Lạy Cha là kinh nguyện đầu tiên, vĩ đại nhất trong mọi kinh nguyện Kitô giáo, kinh duy nhất do Đức Kitô sáng lập. Nó bao gồm mọi tương quan giữa Thiên Chúa với chúng ta và giữa chúng ta với nhau. Nó không chỉ dạy cần cầu nguyện về điều gì, còn dạy ta cầu nguyện thế nào. Nó là khuôn mẫu cho mọi kinh nguyện. Nếu sống theo những điều dạy trong đó, chúng ta hoàn toàn hợp với tâm hồn của Đức Kitô. Bởi chắc chắn đó là điều chính Người cầu nguyện và sống theo. Kinh lạy Cha được chia làm hai phần:
Phần thứ nhất: Tương quan với Thiên Chúa
Mở đầu kinh nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha. Nhiều dân tộc phương Đông coi thần linh như Cha. Dân Do thái cũng gọi Thiên Chúa là Cha, như nhiều tôn giáo khác (Hs 13, 3; Gr 3, 19; Is 63,16; Kn 5,5). Nhưng để tránh nguy cơ hạ giá Thiên Chúa xuống mức độ con người, Cựu ước thường rất họa hiếm kêu Thiên Chúa như Cha. Phần Đức Giêsu, chẳng những gọi Thiên Chúa là Cha, Người còn dùng từ thân mật hơn nữa, từ chỉ đứa trẻ thơ, trẻ vừa thôi bú, bập bẹ biết nói gọi cha mình: “Abba!”Cha ơi! Qua đó, Đức Giêsu muốn nói, chúng ta có một người Cha toàn năng, Chúa Trời đất, nhưng lại rất dịu hiền thương yêu ta hơn mọi người cha trần gian. Ta hãy nguyện cho danh Cha cả sáng, được nhiều người biết đến. Khi chúc tụng Danh của Người, chúng ta chúc tụng chính Người.
Kế đó, Đức Giêsu dạy ta phải xin cho Nước Cha mau đến, Nước của Sự thật và Sự sống, của Thánh thiện và Ân sủng, của Công chính yêu thương và Bình an. Người Dothái cầu nguyện như thế trong kinh Qaddish: “Xin làm cho Danh cao cả của Người được thánh hóa trong thế gian, mà Người tạo dựng theo ý chí của Người. Xin Người làm cho triều đại Người được hiển trị và sự giải thoát được nảy mầm, Đấng Messia của Người đến gần”. Có điều khi đọc kinh Qaddish, người Dothái không biết bao giờ Đấng Messia đến và khi nào triều đại Thiên Chúa sẽ hiển trị. Phần Đức Giêsu biết, Đấng Messia chính là Ngài và triều đại của Thiên Chúa đến rất gần. Nó đã hình thành, nhưng không phải cách huy hoàng, song như một ít men, như một hạt giống vùi sâu trong lòng người (Mt 3,2-4; 17,10). Chúng ta đều có phần tham gia kiến tạo cho triều đại Chúa mau đến, bằng cách sống và rao giảng cho Triều đại đó tiến lên.
Đức Giêsu cũng dạy chúng ta, phải xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất, dưới trần gian này. Thánh ý Chúa luôn là điều tốt đẹp, nhưng không phải là điều dễ thực hiện, nhất là trong cuộc sống, bởi ta là con người có ý chí tự do.
Phần thứ hai: Tương giao giữa chúng ta với nhau, những khát vọng của chúng ta.
Đức Giêsu gợi ý chúng ta xin Cha bốn điều: lương thực, biết tha thứ, chiến thắng cám dỗ, thoát sự dữ.
“Xin Cha cho chúng con lương thực hàng ngày”. Lương thực đây, có nghĩa là mọi khát vọng vật chất. Đó là thứ chúng ta thực sự cần. Tuy nhiên, chỉ hàng ngày dùng đủ. Đức Giêsu không ngừng nhấn mạnh, không nên quá lo lắng về ngày mai, ngày mai có cái lo của ngày mai (Lc 12, 22-23; Mt 6, 34). Trong cuộc xuất hành qua sa mạc, Dân Chúa không thể tích trữ lương thực manna trước cho nhiều ngày (Xh 16,4). Sách Châm Ngôn cũng dạy: “Xin đừng để con nghèo túng, cũng đừng để con giầu có, xin cho con cơm bánh cần dùng” (Cn 30,8). Đối với những người giàu có, khi đọc lời nguyện này, cần lưu ý từ “chúng con”, chia sẻ lương thực với những người đang đói.
“Xin tha kẻ có nợ chúng con, như chúng con tha kẻ có lỗi với chúng con”. Một cô bé đã nói với thầy dạy giáo lý: “Một Kitô hữu chính là một người biết tha thứ”. Tuy nhiên, để được Thiên Chúa tha thứ, ta cũng phải tha thứ cho người anh em. Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót (Mt 18, 23-35), để dạy về điều này.
“Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”. Cám dỗ lớn nhất, kinh khủng nhất là đánh mất đức tin. Ở vườn Giệtsimani, Đức Giêsu đã khuyến cáo các bạn hữu của Người: “Hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22, 40; 22, 46). Vâng, cám dỗ lớn nhất của các môn đệ là bỏ rơi Đức Giêsu. Bởi thế, khi rao giảng Đức Giêsu đã nói: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc18,8). Trong dụ ngôn gieo giống, Đức Giêsu nhắc ta phải cảnh giác: Có những người tín trung trong một thời gian nào đó, đến giờ thử thách, bị cám dỗ, họ đã chối bỏ đức tin (Lc 8,13).
“Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ”. Cuối cùng, chúng ta cầu xin thoát khỏi sự dữ cả về thể lý và luân lý. Chúng ta không mong muốn gặp sự dữ. Điều chúng ta xin Chúa là ơn chiến thắng mọi sự dữ, nhất là sự dữ luân lý.
“Dụ ngôn người bạn quấy rầy”. Sau khi dạy các môn đệ phải cầu nguyện thế nào, Đức Giêsu lại đưa ra dụ ngôn dạy họ biết phải làm sao, để lời xin của họ được chấp nhận. Ở Paléttin thời Đức Giêsu, căn nhà chỉ có một phòng. Cánh cửa đóng lại có xà lớn dùng làm then cửa. Giường chiếu là một tấm nệm thật lớn, trải trên nền nhà. Con cái ngủ gần cha mẹ. Để mở cửa, phải nhọc mệt lắm và rất rộn ràng, khiến mọi người phải thức dậy. Trong những điều kiện như vậy, người ta mới hiểu sự tức tối của kẻ bị đánh thức lúc nửa đêm, để giúp đỡ bạn bè. Tuy nhiên, để được bình an, khỏi bị quấy rầy, người ta phải chào thua và chiều theo lời khẩn khoản của bạn.
Thiên Chúa cũng thế, Ngài sẽ nghe lời kẻ liên lỉ cầu xin. Lời kinh nguyện dai dẳng và đầy tin tưởng không biết chán, dù không được Chúa chấp nhận tức khắc, rồi cũng sẽ được Chúa nhận lời sau này. Thầy thông luật Israel nói: “Người ngu xuẩn thắng được sự dữ, thì đối với Thiên Chúa tốt lành, anh ta lại dễ dàng chiến thắng hơn”. Đức Giêsu cũng đưa ra dụ ngôn quan tòa bất chính và bà quấy rầy (Lc 18,1-8) để dạy về điều này.
33. Lạy Cha
Có một nhà văn vô thần. Ông ta không biết đến Thiên Chúa, đến linh hồn, đến đời sau. Ông ta bị đau nặng, được đưa vào bệnh viện và đang ở trong tình trạng hấp hối.
Nhìn thấy một nữ tu đến giúp đỡ ông nhưng tay lại cầm cỗ tràng hạt, ông ta bèn lên tiếng hỏi:
– Chị làm gì thế?
Vị nữ tu trả lời:
– Tôi đang cầu nguyện để ông được giảm bớt những cơn đau.
– Vậy chị cầu nguyện như thế nào?
Vị nữ tu bèn đọc thật chậm và sốt sắng lời kinh Chúa dạy:
– Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng…
Ông ta phát biểu:
– Lời kinh thật đẹp, chị hãy đọc tiếp nữa đi.
– Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Rồi sao nữa:
– Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Sau khi đã nghe đọc hết kinh Lạy Cha, ông ta nói:
– Tôi muốn chị dạy cho tôi lời kinh bất hủ ấy.
Và sau cùng, một người vô thần đã nhận biết Thiên Chúa nhờ lời kinh Lạy Cha.
Trong phần tìm hiểu sáng hôm nay, tôi chỉ muốn dừng lại và phân tích bốn chữ vắn gọn: Lạy Cha chúng con.
Trước hết là hai chữ “Lạy Cha”.
Trong đời sống chúng ta có thể gọi Thiên Chúa bằng nhiều danh hiệu khác nhau: nào là Thiên Chúa vĩnh cửu, nào là Thiên Chúa quyền năng, nào là Thiên Chúa tạo dựng, nào là Thiên Chúa thánh thiện. Mỗi danh hiệu đều nói lên một góc cạnh, một đặc tính nào đó của Thiên Chúa.
Nhưng theo tôi nghĩ, không một danh hiệu nào lại đậm đà, lại trìu mến, lại ý nghĩa, lại hy vọng cho bằng danh hiệu là Cha. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta mỗi khi cầu nguyện hãy thưa lên:
– Lạy Cha chúng con ở trên trời.
Thiên Chúa là một người Cha tuyệt vời và đúng nghĩa nhất, bởi vì Ngài đã trao ban cho chúng ta sự sống phần xác, ngày chúng ta mở mắt chào đời, cũng như sự sống phần hồn ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Danh hiệu này cũng đã đem lại cho chúng ta chiếc chìa khoá để giải quyết vấn đề thân phận con người:
– Chúng ta bởi đâu mà đến và rồi chúng ta sẽ đi về đâu?
Tôi xin thưa:
– Chúng ta từ Thiên Chúa mà đến và rồi sẽ trở về cùng Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Tiếp đến là hai chữ “chúng con”.
Chúng ta không đọc: Lạy Cha con, mà đọc Lạy Cha chúng con. Như thế lời kinh tuyệt vời này không phải chỉ nói lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với Thiên Chúa, mà còn nói lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với nhau.
Thiên Chúa là Cha, cho nên tất cả chúng ta đều là anh em với nhau. Như thế lời kinh này không phải chỉ tỏ lộ cho chúng ta tình phụ tử, mà còn tỏ lộ cho chúng ta tình huynh đệ.
Đã là anh em thì chúng ta có bổn phận phải yêu thương, phải tha thứ, phải hoà giải cùng nhau, vì thế không lạ gì khi thấy Chúa bảo chúng ta cầu nguyện:
– Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta hãy gắn bó mật thiết với Ngài. Đồng thời là anh em với nhau, nên chúng ta phải yêu thương giúp đỡ lẫn nhau.
Đó chính là những sứ điệp mà bốn chữ đầu của kinh lạy Cha muốn gửi đến mỗi người chúng ta.
34. Cầu nguyện
Hãy cầu nguyện luôn, hãy cầu nguyện với hết lòng tin tưởng vào tình yêu thương quan phòng của Chúa, đặc biệt cầu nguyện với lời kinh Lạy Cha mà Chúa đã dạy các đồ đệ: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Lời kinh Lạy Cha mà chúng ta thường dùng để cầu nguyện là một tập hợp chung lại của hai bản văn Phúc âm theo thánh Luca và theo thánh Matthêu. Bản văn của thánh Luca ngắn gọn hơn và chỉ có bảy lời cầu: “Lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.
Như vừa đọc trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ lời cầu nguyện này theo lời yêu cầu của các ông và sau khi đã nhìn thấy Chúa cầu nguyện. Trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhiều lần tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu đã cầu nguyện như thế nào? Thật khó mà đoán hết nội dung lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, nhưng căn cứ vào những lời Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ chúng ta có thể nói rằng, lời cầu nguyện Ngài dạy cho các tông đồ phản chiếu phần nào lời cầu nguyện của chính Ngài với Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu nêu gương cho các đồ đệ trong mọi sự. Chắc chắn trong việc cầu nguyện cũng thế, Ngài muốn cho các đồ đệ của Ngài cầu nguyện và sống lời cầu nguyện như chính Ngài đã làm gương. Trước hết, lời cầu nguyện hướng về Thiên Chúa là Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Hơn ai hết, Chúa Giêsu ý thức mối tương quan mật thiết giữa Ba Ngôi Thiên Chúa, giữa Ngài và Thiên Chúa Cha. Ngài là Con Một Thiên Chúa, Ngài luôn luôn đối thoại và sống kết hiệp với Thiên Chúa Cha. Khi dạy các tông đồ cầu nguyện: “Lạy Cha”, Ngài chia sẻ tình phụ tử, hay đúng hơn Ngài đưa các đồ đệ, đưa con người vào trong tình phụ tử với Thiên Chúa Cha. Sứ mạng cứu chuộc của Ngài là hòa giải con người với Thiên Chúa, làm cho con người được phục hồi phẩm giá làm con cái Thiên Chúa.
Đọc lời kinh Lạy Cha, mỗi người chúng ta hôm nay hãy mặc lấy tâm tình của Chúa Giêsu với Thiên Chúa Cha. Từ ngữ mặc lấy không diễn tả hết thực tại mới mẻ mà người Kitô lãnh nhận được trong Bí tích Rửa tội. Từ ngữ mặc lấy có thể gợi lên trong chúng ta hình ảnh hời hợt trùm lên bên ngoài mà bên trong chẳng có gì thay đổi cả. Thật sự đối với người Kitô không phải như vậy, thực thể người Kitô đã được ơn Chúa biến đổi trong Bí tích Rửa tội. Thực tại con người đã được biến đổi trở nên con người mới, một thực tại mới, được ân sủng Thiên Chúa tái tạo, biến đổi. Thực tại mới này không phải do công trạng của con người, của mỗi người chúng ta, nhưng đó là ân ban của Thiên Chúa nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô.
Chúng ta được làm con Thiên Chúa trong Con Một Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Vậy khi cầu nguyện với lời kinh Lạy Cha, mỗi người Kitô chúng ta cần phải ý thức rằng, mình cần phải trở nên Chúa Kitô hơn, cần phải được biến đổi để trở nên giống Chúa Giêsu Kitô để có thể bước vào trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa Cha, như Chúa Kitô đã nêu gương và muốn chúng ta thực hiện như vậy. Do đó, một kết luận thực hành cho đời sống đạo của chúng ta là chúng ta không thể nào cầu nguyện thực sự lời kinh Lạy Cha, nếu tâm hồn chúng ta không được biến đổi trở nên giống Chúa Giêsu. Khi tâm hồn chúng ta không biến đổi, khi cuộc sống chúng ta không trở thành Kitô đích thực thì lời kinh chúng ta đọc: “Lạy Cha chúng con ở trên trời” chỉ là một lời hời hợt bên ngoài trên môi trên miệng mà thôi.
Chúa Giêsu Kitô đã thực hiện ơn cứu rỗi cho con người. Mỗi người Kitô chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội đã được ơn Chúa biến đổi để có thể cầu nguyện kinh Lạy Cha thật sự. Nhưng sự biến đổi đó chưa hoàn toàn kết thúc, vì bao lâu chúng ta còn sống trên trần gian này thì bấy lâu con người chúng ta còn phải chiến đấu với những tật xấu, những khuynh hướng tội lỗi nơi bản thân. Mỗi ngày chúng ta đều được mời gọi cộng tác với ơn Chúa để thanh tẩy, để trở nên giống Chúa Giêsu Kitô mỗi ngày một hơn, để cầu nguyện kinh Lạy Cha mỗi ngày một xứng đáng hơn.
Lời kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện nói lên thực thể căn bản của người Kitô là con cái Thiên Chúa Cha trong Chúa Giêsu Kitô. Lời kinh Lạy Cha còn là lời kinh gia tăng sức mạnh để giúp mỗi người chúng ta hằng ngày trở nên con cái Thiên Chúa Cha nhiều hơn nhờ ơn Chúa Giêsu Kitô.
Nguyện xin Chúa ban ơn cho mỗi người chúng ta càng ngày càng trở nên xứng đáng hơn để cầu nguyện lời kinh Lạy Cha như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Amen
35. Kiên trì
Đề tài của bài Tin Mừng thật rõ ràng, nói về vấn đề cầu nguyện. Nội dung gồm ba phần: Phần thứ nhất là những điều Chúa dạy phải cầu xin mỗi khi cầu nguyện. Phần thứ hai là lời khuyên hãy kiên trì trong khi cầu nguyện. Phần thứ ba là hiệu nghiệm của lời xin đích thực.
Trước hết, một môn đệ đã thay mặt cho anh em xin Chúa Giêsu dạy cho bài học về sự cầu nguyện. Chúng ta có thể nêu lên hai lý do khiến các ông muốn xin Chúa dạy cầu nguyện: Lý do thứ nhất, vì các ông thấy Chúa thường cầu nguyện và các ông cũng muốn cầu nguyện như Ngài. Lý do thứ hai, vì các ông cũng thấy Gioan Tiền hô dạy các môn đệ của ông cầu nguyện. Vì thế, theo lời xin của các môn đệ, Chúa Giêsu đã dạy các ông những điều phải cầu nguyện. Những điều này chúng ta vẫn gọi là kinh Lạy Cha. Như vậy, kinh Lạy Cha là kinh chính Chúa Giêsu đã trực tiếp dạy cho chúng ta, nên chúng ta phải coi đây là kinh mẫu, kinh quí giá nhất, quan trọng nhất, hoàn hảo nhất mà mọi tín hữu phải ưa chuộng hơn cả, phải năng đọc hơn các kinh khác, và phải đọc với niềm mến yêu tin tưởng, đọc với ý thức tương quan và bổn phận của chúng ta đối với Cha trên trời và đối với nhau. Sau khi đã dạy phải cầu xin những gì, Chúa Giêsu lại dạy thái độ cần phải có khi cầu nguyện, đó là kiên trì. Chúa đã dùng dụ ngôn “người bạn quấy rầy” để minh họa cho chúng ta thấy rõ sự cần thiết và hiệu quả của sự kiên trì khi cầu nguyện. Dụ ngôn này nói về người trong nhà đang ngủ, dù rất khó chịu bực mình khi bị quấy rầy vào nửa đêm, nhưng cũng đành chỗi dậy cho mượn bánh, nếu không vì tình nghĩa thì ít là được bình an ngủ tiếp. Người đời còn đối xử với nhau như thế huống chi là Chúa. Ngài đâu đến độ cứng lòng như người bạn bị quấy rầy này. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ nản lòng cầu nguyện. Nếu xin mãi mà chưa được cũng đừng bao giờ bỏ cuộc, cứ cầu nguyện tiếp. Thiên Chúa làm thinh giả điếc để chúng ta được lợi thêm. Ngài muốn bị quấy rầy ít lâu để tăng thêm lòng ao ước, lòng tin cậy của chúng ta hơn.
Trước khi kết thúc bài học về cầu nguyện. Chúa Giêsu còn nói về sự hiệu nghiệm của lời cầu xin chính đáng. Chúa khẳng định như một lời hứa bảo đảm: “Hãy xin thì sẽ được”. Rồi Chúa đưa ra một thí dụ để chúng ta hiểu rõ hơn và xác tín hơn: người cha người mẹ trần gian, không mấy tốt lành mà còn muốn dành phần tốt nhất cho con cái, thì huống chi Thiên Chúa lại không biết chọn phần hơn cho con cái mình hay sao? Miễn là những điều chúng ta cầu xin là những điều thích hợp. Xin điều gì tốt thì nhất định sẽ được Chúa nhận lời.
Lời Chúa hôm nay là một bài học rất hữu ích, nhắc nhở chúng ta hãy kiểm điểm lại việc cầu nguyện. Trước hết, chúng ta có cầu nguyện không? Có người cho rằng: cần gì phải cầu nguyện, vì Chúa biết rõ những gì chúng ta cần thiếu. Chắc chắn Chúa biết mọi sự chúng ta cần thiếu. Nhưng biết là một chuyện, ban ơn lại là chuyện khác, nên chúng ta rất thiệt thòi nếu dám kết luận là được miễn cầu nguyện. Thiên Chúa không cần lời cầu của chúng ta. Đúng lắm. Những cầu nguyện và thờ lạy của chúng ta không thay đổi gì hạnh phúc vĩnh cửu của Chúa. Nhưng Chúa buộc chúng ta phải thờ lạy, tạ ơn và cầu xin, vì chúng ta là tạo vật của Chúa, bổn phận của chúng ta đòi buộc chúng ta dâng lên Chúa những cử chỉ đó. Chúa biết mọi sự chúng ta cần thiếu, nhưng chúng ta phải trình bày để luôn nhớ mình là bất lực. Chúa dạy cầu nguyện vì lợi ích cho chúng ta chứ không phải vì Chúa. Nên chúng ta phải cầu nguyện và cầu nguyện luôn.
Thứ hai, chúng ta xin những điều thiết yếu như cơm no áo ấm, ăn ngon mặc đẹp, bình an, khỏe mạnh, thành công, may mắn… là những điều cần thiết mà sao ít khi được hay chẳng bao giờ được như ý, có phải tại nhiều người xin quá không? Có phải Chúa ngủ quên chăng? Chúng ta thường có khuynh hướng xin những gì chúng ta muốn trước mắt, ít khi chúng ta suy xét đến những hậu quả và những thay đổi của hoàn cảnh. Chúng ta cho rằng những điều chúng ta xin là tốt đẹp, là cần thiết, chúng ta đòi Chúa phải nhận lời ngay. Nhưng chúng ta có khôn ngoan và hiểu biết bằng Chúa không? Chúng ta phải tin rằng Chúa nhìn xa trông rộng, thông minh vô cùng, Ngài biết những gì tốt và cần cho chúng ta. Do đó, nếu vì yêu thương, Chúa đáp ứng lời chúng ta cầu xin, thì trái lại, cũng vì yêu thương mà nhiều khi Ngài phải từ chối. Trong cả hai trường hợp, chúng ta đều phải xin vâng và cảm tạ Ngài. Sau hết, chúng ta phải kiên trì cầu nguyện. Thiên Chúa muốn chúng ta kiên trì. Ngài muốn nghe lời van xin kiên nhẫn của chúng ta. Chúa muốn thì tại sao chúng ta lại không muốn? Kiên trì là một đức tính tối cần cho thành công: “Có công mài sắt có ngày nên kim”. “Kiến tha lâu đầy tổ”, “Nước chảy đá mòn”, “Không có gì là quá sức, miễn là chúng ta bền gan”. Từ đó chúng ta hiểu: kiên trì cầu nguyện là một cách cầu nguyện bảo đảm sẽ được Chúa nghe và nhận lời. Thánh nữ Monica, mẹ thánh Âu tinh, đã không uổng công mất thời giờ trong 16 năm cầu nguyện và khóc lóc, sau cùng bà đã được như ý. Con bà đã trở lại đạo và nên thánh tiến sĩ thời danh của Giáo Hội. Đúng như lời thánh Amrôxiô đã an ủi bà khi bà than thở với ngài là cầu nguyện mãi mà chưa được: “Bà cứ yên tâm, đứa con của bao nhiêu nước mắt không thể nào hư đi được”. Thánh Phanxicô đờ San rất nóng tính, ngài rất buồn vì tật xấu này, ngài đã cầu nguyện trong 22 năm để được ơn hiền lành, và ngài đã được xưng tụng là vị thánh gương mẫu về hiền lành. Đó là những gương sáng về kiên trì cầu nguyện.
Tóm lại, là người tín hữu Chúa Kitô, chúng ta phải coi việc cầu nguyện là một vấn đề cần thiết cho đời sống. Tinh thần cầu nguyện của chúng ta phải giống như việc lên giây chiếc đồng hồ: lên giây một lần không đủ, mặc dầu biết rằng lên giây ngày hôm nay để rồi ngày mai phải lên giây lại, chúng ta cũng cứ đều đặn làm công việc đó mỗi ngày, thì cầu nguyện cũng vậy, chúng ta phải cầu nguyện đều đặn mỗi ngày, cầu nguyện với lòng tin tưởng và dù được hay không những điều chúng ta cầu xin, chúng ta cũng luôn vâng theo ý Chúa.
36. Hiệp thông
Thế giới chúng ta đang sống ngày nay đầy những thông điệp được chuyển trao cho nhau, người ta trao đổi nhau những thông tin qua mạng Internet, qua thư tín. Những cánh thiệp chuyển tải bao lời chúc nồng nàn. Email, điện thoại cho người ở đây và người ở kia có thể gặp gỡ nhau… Luôn luôn và không ngừng chúng ta gởi đi và tiếp nhận những thông điệp. Thế nhưng, giữa lòng cuộc sống nhộn nhịp và quá bận bịu ấy, có lẽ ít khi chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa cũng luôn gởi đến những thông điệp tình yêu, cùng sự quan tâm chăm sóc của Người. Đối lại, khi tiếp nhận ân ban từ trời, ta cũng gởi về Người những thông điệp gói ghém đầy tâm tư và khắc khoải của kiếp sống nhân sinh. Như thế, có thể nói những gì chúng ta gởi trao thường xuyên sẽ gắn kết giữa Thiên Chúa và con người một mối dây hiệp thông bền chặt. Hay nói cách khác, mối tình hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người đó vẫn được chúng ta xây dựng qua mỗi phút sống trong đời cầu nguyện. Như vậy, phải chăng cầu nguyện là sống mối tình hiệp thông?
Vâng! Cầu nguyện trước hết là sống hiệp thông với Thiên Chúa, điều này được biểu lộ nơi kinh Lạy Cha. Kinh Lạy Cha vừa được đọc lên trong đoạn Tin Mừng có lẽ không xa lạ gì với chúng ta, ít nhiều trong đời Kitô hữu có mấy ai lại không một lần thốt lên lời kinh ấy. Lời kinh được Chúa Kitô truyền dạy rất súc tích và đầy ý nghĩa cho phép chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, cho phép ta được gắn kết với vị Cha chung giàu lòng nhân hậu hằng yêu thương chăm sóc ta, đến nỗi đã trao nộp cả Con Một mình. Nên khi cầu nguyện với người Cha như thế là ta đang được nối kết với nguồn mạch yêu thương duy nhất, là ta được mời gọi sống mối tình hiệp thông khăng khít với Thiên Chúa.
Đẹp biết bao khi ta nguyện xin cho “danh Cha được hiển sáng”, nếu thực sự chúng ta sung sướng được làm con ngoan của Chúa Cha, thì có lẽ nào điều quan tâm trước tiên của người con lại không là danh thơm tiếng tốt của Cha mình? Vả lại ước nguyện này cũng hàm ẩn một điều nhắc nhở người Kitô hữu phải có bổn phận sống sao cho đẹp lòng Cha, sống sao cho danh Cha không bị tổn thương mà sẽ sáng mãi nơi lòng nhân thế. Như thế thì ý nguyện tiếp theo chắc chắn sẽ sáng tỏ như một tất yếu: “mong cho ý Cha thể hiện trên trời cao cũng như nơi đất thấp”. Vâng! một mong ước hết sức giản dị, tự nhiên, nhưng biểu lộ mối tương quan kết nối bền chặt mà chúng ta vẫn hằng dệt nên mỗi khi cất lời cầu xin đó. Để từ đây, đất với trời được nối kết bằng bài ca giao duyên, và con người găp được Thiên Chúa qua mối tình hiệp thông.
Nhưng mối tình ấy không chỉ dừng lại ở đây. Vâng! nếu tiếp tục vâng lời Đức Kitô để cất lên lời kinh ấy, chúng ta sẽ nhận ra rằng cầu nguyện không chỉ là gặp gỡ, đối thoại thân tình với Chúa Cha, mà còn là sống hiệp thông với mọi người chung quanh. Điều này được minh họa rõ nét trong bài đọc I, khi Abraham cầu xin với Thiên Chúa cho Sôđôma như một cuộc mặc cả, với số người công chính mỗi lúc mỗi giảm đến độ thê thảm, nhưng trong hình thức so kè ấy, lại toát lên mối bận tâm của Thiên Chúa đối với số phận con người, và đồng thời cũng cho thấy khi cầu nguyện, con người liên đới với nhau cách mật thiết. Quả thực, như một nét đẹp được vẽ nên khi Abraham xin Chúa tha cho Sôđôma nếu tận cùng bằng số ông chỉ tìm thấy một người công chính. Tương tự như vậy, khi thốt lên kinh Lạy Cha, chúng ta xin Chúa tha thứ cho mình nếu ta cũng tha thứ cho anh em mình.
Như thế, cầu nguyện không còn là chuyện cá nhân nữa, mà mỗi lời kinh dâng lên Thiên Chúa chính là tâm tình làm thành một vòng tròn rộng lớn nối kết tất cả mọi người, bởi lẽ đó đây lời cầu của người này có thể là quà tặng bất ngờ cho người kia, trong khi lời cầu của người kia có thể là sức mạnh trợ lực cho cả tôi lẫn những người khác nữa. Để rồi cứ thế, vòng tròn mãi vần xoay khi mỗi người chúng ta nhận được sức sống của Thiên Chúa qua lời kinh bất tận của mối tình hiệp thông, một sức sống làm cho kẻ xa xôi trở nên gần gũi, cho người xa lạ trở thành thân quen, cho người đói ăn có đủ lương thực, để người với người thứ tha cho nhau, để lòng mở lòng đón nhận ai đó lỡ xa lìa có dịp trở về. Như vậy, mỗi lời kinh vang lên giữa lòng cuộc sống luôn có khả năng nối kết mình với kẻ khác và gắn kết mọi người vào đời sống của Thiên Chúa.
Đến đây mỗi người chúng ta tự hỏi: để sống tinh thần hiệp thông, chúng ta phải cầu nguyện như thế nào? Thực ra, nhận định về việc cầu nguyện dưới khía cạnh hiệp thông không mới mẻ gì. Nhưng vấn đề sẽ không thừa khi thực tế cuộc sống vẫn còn đó lối sống khép kín, ích kỷ nhỏ nhen. Cho nên, thiết tưởng cần phải có một cung cách cầu nguyện sao cho mỗi tâm tình được khơi lên sẽ là mỗi hành vi hiệp thông: hiệp thông với Thiên Chúa, hiệp thông với tha nhân trong Chúa Kitô. Và sẽ càng đẹp hơn nữa khi mỗi lời kinh được cất lên luôn đặt hiệp thông như mục đích phải hướng đến, như một trách nhiệm phải chu toàn. Trách nhiệm ấy đòi hỏi mỗi người chúng ta góp phần xóa đi lối sống cá nhân chủ nghĩa, xua tan những sai lệch có thể có trong đời sống Kitô hữu, vốn coi cầu nguyện đi liền với sự xin xỏ theo ý mình, dễ có nguy cơ dẫn đến mâu thuẫn giữa ý nguyện của người này và của người khác.
Như thế, có thể nói mục đích cuối cùng của cầu nguyện không phải để báo cáo cho Thiên Chúa biết các nhu cầu của chúng ta, vì Ngài còn biết rõ hơn chúng ta. Và mục tiêu của cầu nguyện cũng không phải là xin Ngài vui lòng thỏa mãn các nhu cầu ấy, vì lòng nhân từ vô biên của Ngài luôn muốn điều lành cho chúng ta. Mà cầu nguyện chính là làm cho ý chúng ta khớp với thánh ý Ngài, ngõ hầu tình yêu của Thiên Chúa tìm thấy trong tình yêu của chúng ta một lời đáp trả ngày càng hoàn hảo hơn. Thế nhưng thực tế phũ phàng vẫn còn nhiều lấn cấn: làm sao gắn kết ý mình với ý Thiên Chúa được khi mà những lời cầu trong cơn khốn cùng xem ra không được Ngài đáp lời, nhiều khi ta gõ hoài mà cửa chẳng mở, tìm hoài mà chẳng thấy. Có thể vì lời nài xin còn nhiều ích kỷ? Có khi điều ta xin còn nhiều cặn bẩn? Lắm khi chúng ta xin rắn mà không hay. Xin hãy ra khỏi bận tâm hẹp hòi của chính mình mà đồng cảm với mối bận tâm của Thiên Chúa, chắc chắn Ngài không nuông chiều con cái nhưng sẽ ban cho ta những ơn lành cần thiết, và ơn lành lớn lao nhất là Thánh Thần – Đấng chính là tình yêu hiệp thông.
Trong thánh lễ hôm nay, cùng với việc đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy sống tâm tình hiệp thông, xin tiếp tục gởi trao về Thiên Chúa những Email tình yêu, đồng thời cũng đón nhận mọi biến cố mà Người gởi đến, bởi lẽ mọi biến cố trong đời đều có thể là quà tặng yêu thương.
37. Xin thì sẽ được – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm
Lời Chúa hôm nay cho thấy lời cầu nguyện có giá trị như thế nào! Và không chỉ thế, Thiên Chúa sẽ ban Thánh Thần cho tất cả những ai cầu xin Ngài.
Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần
Đức Yêsu dạy các tông đồ cầu nguyện. Qua đó Ngài cũng dạy tất cả chúng ta.
“Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”. Danh Thiên Chúa cả sáng khi con người tin Thiên Chúa, và để Thiên Chúa ngự trị trong tâm hồn mình. Nước Thiên Chúa là vương quốc của tình yêu. Khi con người sống yêu thương nhau, Nước Thiên Chúa đang hiện diện.
“Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến” không phải là chuyện con người có thể làm được. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm cho con người tin nhận Ngài và sống theo luật tình yêu. Đó là lý do tại sao chúng ta nài xin.
“Xin cho chúng con lương thực hằng ngày”. Cơm bánh hằng ngày, là những điều rất bình thường nơi người ta no đầy sung túc, và người ta tưởng đó là những điều tự nhiên, và không cần tạ ơn Chúa; nhưng ở những nơi đói kém, con người dễ nhận ra “cơm bánh” mình ăn hằng ngày, là những hồng ân đặc biệt Thiên Chúa ban. Nếu không nhận biết “cơm bánh” hằng ngày là ơn, con người đã hành xử như người vô ơn.
“Xin tha tội chúng con, để chúng con cũng tha lỗi cho những người xúc phạm đến chúng con”. Xin cho chúng con cảm nhận lòng từ bi nhân hậu của Chúa, để chúng con cũng giúp người khác cảm nhận tình yêu tha thứ của Chúa, qua việc chúng con tha thứ lỗi lầm cho họ.
“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Con người mỏng dòn, mong manh, dễ vỡ! Ai dám nói mình không bao giờ sa ngã? Bây giờ tôi rất mạnh, nhưng lúc khác có thể tôi rất yếu. Không sa ngã phạm tội, đó là hồng ân vô cùng lớn mà nhiều lần tôi đã không ý thức để tạ ơn Thiên Chúa. Ở trong tình nghĩa với Chúa, là một ơn mà mỗi tối khi xét mình, chúng ta cần nhận ra để tạ ơn Chúa.
Người đời, những con người bất toàn và ích kỷ, mà còn không thể dửng dưng trước những lời van xin của đồng loại, huống chi Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người vô cùng. Nếu con người còn biết cho con cái mình những điều tốt, huống chi là Thiên Chúa, chẳng lẽ Ngài không ban điều tốt cho con người sao? Quả thực, Thiên Chúa đã ban “Thánh Thần” cho con người. Thánh Thần là quà tặng quý nhất mà Thiên Chúa và Đức Yêsu ban cho con người. Khi người ta tặng quà ai, món quà càng giá trị càng diễn tả tình yêu. Món quà quý nhất mà Thiên Chúa trao tặng con người, là chính Thiên Chúa, Chúa Con và Thánh Thần.
Được Thiên Chúa, được Thánh Thần, chúng ta được tất cả những điều khác.
Thiên Chúa nhân từ hơn con người tưởng
Cuộc “trao đổi” giữa Abraham và Thiên Chúa, làm người ta lầm tưởng Abraham nhân từ hơn Thiên Chúa. Thực ra đoạn Lời Chúa cho thấy Thiên Chúa là Đấng nhân hậu, và Ngài sẵn sàng làm tất cả những gì Abraham nài xin. Abraham xin gì, Thiên Chúa cũng ban. Ngài sẵn sàng bớt từ 50, đến 40, 30, 20 và 10. Tại sao Abraham không rút xuống nữa? Có lẽ vì lòng nhân từ của con người “có hạn”, hay tại Abrahm chưa đủ lòng tin rằng Thiên Chúa nhân từ, chứ nếu Abraham có đủ can đảm và lòng tin xin rút xuống nữa, chắc chắn Thiên Chúa cũng ban cho.
Sôđôma, là mẫu gương để con người xa tránh tội lỗi. Thật không đúng nếu nói Thiên Chúa không thương những người ở Sodoma. Đức Yêsu nói: Sodoma còn được xét xử khoan dung hơn nhiều thành ở Israel (x. Mt.10, 15).
Hình ảnh của Abraham trong St.18, 20-32 rất đẹp. Lòng nhân từ và thương xót, làm con người trở nên xinh đẹp, vì điều đó làm con người giống Thiên Chúa hơn.
Chỉ cần mười người công chính, đủ để cứu cả thành. Chỉ cần là người công chính, là đã làm được bao nhiêu điều mà những người tài giỏi, quyền thế, giầu sang, không thể làm được. Ước gì mỗi người chúng ta đều có khao khát trở nên người công chính. Để với sự công chính Thiên Chúa ban, chúng ta có thể cứu được những người khác, chẳng hạn qua gương sáng đời sống đạo đức, chúng ta có thể giúp người khác trở lại, hoặc cố gắng vươn lên.
Thái độ của con người trước Thiên Chúa
Abraham xin với Thiên Chúa như một người “ăn xin”, ý thức những điều mình xin tuỳ thuộc Thiên Chúa đồng ý hay không. Con người tuy dù được Thiên Chúa yêu những tự bản chất chỉ là tạo vật, là hư không đối với Thiên Chúa. Con người đâu phải ngang bằng với Thiên Chúa mà đòi hỏi điều này điều kia. Thái độ khiêm tốn, chấp nhận những gì được ban như hiện tại, cảm tạ Thiên Chúa, là thái độ cần thiết của tạo vật trước Thiên Chúa.
Thiên Chúa không cần chúng ta nài xin, Ngài cũng ban những điều cần thiết cho chúng ta. Khi chúng ta thấy những gì cần cho chúng ta và nài xin Ngài, Ngài sẵn sàng ban để chúng ta nhận biết “Ngài là tình yêu” hơn nữa. Thiên Chúa đã ban Đức Yêsu cho chúng ta, nhờ Ngài chúng ta là tạo vật mới, và chúng ta được tất cả nhờ Đức Yêsu Kitô.
Đức Yêsu vì yêu thương đã coi chúng ta là bạn hữu với Ngài. Tuy dù được yêu thương, nhưng khi ngỏ lời với Thiên Chúa, Abraham rất kính cẩn. Đây cũng là bài học cho chúng ta, để mỗi khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta phải có thái độ như thế nào đối với Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có hay “xin” Thiên Chúa điều này điều kia không? Điều nào quan trọng nhất trong đời mà bạn đã xin? Bạn có được điều đó không? Xin chia sẻ nếu được.
2. Lời nào trong kinh Lạy Cha bạn thích nhất? Tại sao?
3. Có khi nào bạn cầu nguyện một điều rất chính đáng mà không được không? Bạn phản ứng ra sao với Thiên Chúa trong trường hợp đó? Phản ứng đó đúng hay sai? Tại sao?
38. Cầu nguyện – Lm. Bùi Quang Tuấn
Ví như xác không hồn là xác chết. Cũng thế, linh hồn không siêng năng cầu nguyện thì linh hồn cũng chẳng sống được. Thánh Gioan Kim Khẩu xác quyết như vậy. Thế nhưng đối với nhiều Kitô hữu, dường như cầu nguyện vẫn chưa là “hơi thở của linh hồn” theo ý nghĩa thường xuyên và cần thiết. Có lẽ vì bị chi phối bởi một tâm thức xem Chúa như “Ông thủ kho” và nỗi đợi chờ theo kiểu “mì ăn liền” nên cầu nguyện đã trở thành gánh nặng thiếu sức sống nơi nhiều tâm hồn tín hữu.
Không ít người sớm thất vọng vì nài nẵng hoài mà không được. Có người chán nản vì bị yếu tố thời gian chi phối quá mạnh. Cũng có người cảm thấy khô khan, thiếu hứng thú, mất thời giờ khi cầu nguyện. Những hoạt động hay tiếp xúc với thế giới hữu hình vẫn luôn là hấp dẫn hơn so với thế giới hữu hình. Thành thử đời cầu nguyện cứ càng ngày càng mờ phai. Nhưng dù sao, Lời Chúa vẫn luôn kêu mời: Hãy kiên trì cầu nguyện, đừng nhàm chán (Lc 18:1).
Cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và tổ phụ Abraham đã nên như lời nhắc nhở và mẫu gương của đời sống nguyện cầu. Trong đời sống đó phải có kiên tâm bền chí, khiêm nhưỡng cậy trông, và mở lòng với tha nhân.
Vì muốn cứu hai thành phố đồi trụy Sôđôma và Gômôra, Abraham đã dám “mặc cả” với Chúa. Ông không khởi sự bằng việc xin đưa người lành ra khỏi thành trước khi lửa trời rơi xuống. Ông không dừng lại ở điểm công bình, nhưng đã đi xa hơn: vươn lên tới đức bác ái. Mục tiêu cầu khẩn của Abraham là cho người tội lỗi. Song, để cứu được người tội lỗi lại cần phải có người lành. Ông bắt đầu lý luận với Giavê: “Chẳng lẽ Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó hay sao?” Một loạt các câu hỏi được nêu ra đề rồi cuối cùng đúc kết bằng một lời thỉnh cầu: “Xin Chúa đừng làm như vậy, đừng sát hại người công chính cùng với kẻ dữ! Xin đừng làm thế!!”
Lời thỉnh cầu đó trở nên tha thiết, chân tình, và đầy lòng khiêm tốn: “Dù tôi chỉ là tro bụi, tôi cũng xin thưa cùng Chúa: nếu trong số năm mươi người công chính còn đó lại thiếu mất năm người thì sao?” Nhưng e rằng 45 người công chính cũng là một con số khó tìm, Abraham đã dịu dàng và kính cẩn thưa thêm: “Nếu chỉ có bốn mươi người thôi thì Chúa sẽ làm gì?” Tưởng rằng “quá tam bận”: mặc cả với Chúa ba lần rồi thôi. Đàng này Abraham còn bạo phổi nài nẵng Chúa đến ba lần nữa: “Lạy Chúa, nếu tôi lên tiếng, xin đừng nổi giận. Nếu ở đây tìm được ba mươi người công chính thì sao?…Nếu trong thành tìm được hai mươi người thì sao?… Lạy Chúa, xin đừng nổi giận. Tôi chỉ xin thưa lần nầy nữa thôi. Nếu tìm được mười người công chính ở đó thôi thì sao?” Cuộc “mặc cả” đã đi từ con số 50 người lành, xuống đến 45, rồi 40, 30, 20, và cuối cùng là 10. Chỉ cần 10 người công chính thôi, tất cả sẽ được tha thứ. Tiếc là mười người mà cũng chẳng tìm ra!
Không hiểu sao Abraham không tiếp tục van xin Chúa thứ tha cho dân thành nếu như không tìm thấy được 10 người công chính. Phải chăng vì ông cho rằng đây là con số nhỏ quá rồi so với con số quá lớn của những người tội lỗi? Hay Abraham chưa hiểu thấu được chiều kích vô biên của lời cầu nguyện cũng như lòng thương xót bao la của Thiên Chúa?
Thật thế, Thiên Chúa luôn vui lòng lui bước trước lời nguyện cầu chân thành, bền bĩ, và đầy lòng kính sợ của con người. Chính Giavê đã phán trong sách Êzêkien và Giêrêmia: nếu chỉ tìm được ở Giêrusalem một người biết giữ công lý, biết tìm sự thật, thì Người cũng sẽ tha tội cho thành (Ex 22:30; Gr 5:1). Lời khẳng định này thúc dục ta cố gắng sống đời tốt lành để cầu xin và mang lại lợi ích thiêng liêng cho gia đình con cái, thân bằng quyến thuộc, và quê hương xứ sở.
Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho (Lc 11:9). Chắc hẳn lời đoan hứa của Chúa Giêsu đã làm các thánh vui sướng đến phát khóc. Nhưng đây không phải là lời đoan hứa dành riêng cho các thánh, mà là cho mọi người. Thiên Chúa yêu thương và muốn ban mọi sự tốt lành cho tất cả, không phải vì tất cả đều tốt, song vì tất cả là con cái của Ngài. Đức Giêsu đã mạc khải cho bạn và tôi như thế: các ngươi còn biết cho con mình những điều lành, huống chi là Cha các ngươi ở trên trời (Lc 11:13)
Được làm con Thiên Chúa, được gọi Đấng tác thành vũ trụ là Cha, đó là nhờ công nghiệp của Đức Giêsu và Thần khí của Ngài. Nhưng vấn đề không hệ tại ở đặc ân được kêu Thiên Chúa: “Abba, Lạy Cha,” song là làm sao để sống xứng hợp với hồng phúc cao cả đó.
Quan hệ Cha-con trở nên thân thiết nhờ sự cầu nguyện. Cầu nguyện là một cuộc đối thoại. Khác với độc thoại, đối thoại là nói và nghe. Vì thế, không phải chỉ đến với Chúa và “bắt” Ngài phải nghe tất cả những nhu cầu tôi liệt kê, song vẫn cần lắm một thái độ kính cẩn lắng nghe tiếng Chúa và sống theo ý Ngài.
Cầu nguyện không phải là để sở thích và đam mê của tôi được thỏa mãn, nhưng là để “danh Cha cả sáng và ý Cha thể hiện khắp nơi”. Đức Giêsu không nài cho được khỏi uống chén đắng, nhưng xin cho ý Cha thành sự. Đây là lối sống đầy tin tưởng, khiêm nhường, yêu mến và hoàn toàn phó thác của người con ngoan.
Là Kitô hữu, tôi được mời gọi để sống mỗi ngày mỗi nên giống Đức Kitô hơn: giống Ngài trong đời sống cầu nguyện, trong tinh thần và thái độ liên kết với tha nhân – không chỉ xin cho mình, nhưng là cho “chúng con” – và giống Ngài với trọn niềm tín thác vào tình thương của Cha, Đấng sẵn sàng ban Thánh Thần cho những ai khẩn cầu.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được ơn bền đỗ cầu nguyện. Vì chúng con biết rằng hễ ai bền đỗ trong điều đó cho đến cùng, chắc chắn sẽ được ơn cứu độ. Xin Mẹ Maria phù giúp cho chúng con luôn được trung kiên trong cuộc chiến này
39. Tin tưởng vào Chúa và tha thiết nguyện cầu
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật thứ XVII thường niên C, Phụng vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta tin tưởng vào Chúa và tha thiết nguyện cầu. Bài đọc I (St 18, 20-32) là một minh họa đầy đủ ý nghĩa nhất. Khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã van nài Chúa, thậm trí mạc cả với Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính, Abraham đã tìm thấy tình thương của Thiên Chúa đối với con người bằng niềm tin. Tin Mừng Thánh Luca (Lc 11, 1-13) thuật lại cho chúng ta lời nguyện cầu chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa dạy các môn đệ: “Khi anh em cầu nguyện, thì hãy cầu nguyện như thế này: ‘Lạy Cha…’“. Ngài mời gọi các môn đệ hướng về Cha, không phải Ngài dạy họ một công thức cầu nguyện cho bằng dạy họ cầu nguyện trước hết phải đi vào trong tương quan thân tình với Thiên Chúa là Cha với trọn niềm tin vì: “Kẻ cô thân Thiên Chúa cho nhà cửa, chính Người ban tặng cho dân dũng lực uy quyền” (Ca nhập lễ).
Gương của tổ phụ Abraham
Từ cây sồi ở Mambrê Thiên Chúa đã tỏ ý định của Ngài cho Abraham biết (St 18,1), và Abraham đã tìm thấy tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã dám thưa cùng Thiên Chúa: “Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó sao?” (St 18, 24-25) Và ông tiếp tục mặc cả với Thiên Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính. Vấn đề là Thiên Chúa không bao giờ muốn tiêu diệt thành Sôđôma. Quả thật, bản văn Thánh Kinh thuật lại những lời Chúa phán cùng Abraham: “Tiếng kêu la của dân Sôđôma và Gômôra đã gia tăng, và tội lỗi chúng quá nặng nề! Ta sẽ xuống coi việc chúng làm có như tiếng kêu thấu đến tai Ta hay không, để Ta sẽ biết rõ” (St 18, 20-21). Abraham sợ chứng kiến cảnh Thiên Chúa trừng phạt các thành Sôđôma và Gômôrrha. Với lòng thương dân sẵn có của Abraham, ông đã nguyện cầu, đến nỗi táo bạo can thiệp cả Thiên Chúa. Ông tin vào Thiên Chúa, nhưng giờ đây niềm tin đó đang bị thử thách, ông tự hỏi: Liệu Thiên Chúa có trung thành với lời Giao ước tình thương với dân Ngài không? Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, nếu nói rằng Abraham mặc cả với Chúa, không có sai, vì ông đã giảm giá dần, từ năm mười người xuống còn năm người. Chúa phán: “Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá”. Abraham thấy các thành rơi vào cảnh bi đát, sắp bị Chúa tàn phá và ông tìm kiếm một con đường giải thoát cho hai thành. Ông kêu van, mặc cả nhưng không nói lộng ngôn phạm đến Chúa, Chúa lắng nghe, Ngài chú ý đến những kêu xin của ông.
Cầu nguyện như Đức Giêsu dạy
Niềm tin vào Thiên Chúa của Abraham bị thử thách, đó cũng là niềm tin của chúng ta nói chung. Vì nhiều khi chúng ta xin mãi mà không được, nên chán nản. Chúng ta cùng xem Đức Giêsu cầu nguyện thế nào và Ngài dạy các môn đệ cầu nguyện ra làm sao (x. Lc 11, 1-13).
Chuyện là khi các môn đệ Đức Giêsu chiêm ngắm Thầy cầu nguyện thì một trong số họ thưa rằng: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã đã dạy các môn đệ ông”. Đức Giêsu đáp ứng lời xin của môn đệ và Ngài dạy: “Khi anh em cầu nguyện, thì hãy cầu nguyện như thế này: ‘Lạy cha…’“. Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hướng về Cha, Ngài không dạy họ một công thức cầu nguyện cho bằng dạy họ cầu nguyện. Cầu nguyện trước hết phải đi vào trong tương quan thân tình với Thiên Chúa là Cha. Bởi lịch sử cứu độ con người là một chuỗi dài tình phụ tử hỗ tương giữa Thiên Chúa với lòng hiếu thảo của con người. Thiên Chúa cất tiếng gọi con người đáp trả và con người tìm thấy lòng tốt hảo của Thiên Chúa là Cha. Con người khát khao Thiên Chúa gặp gỡ lòng trùi mến của Thiên Chúa đối với con người, con người được Chúa ban ơn.
Đức Giêsu dạy chúng ta thưa cùng Thiên Chúa “Lạy Cha” là Ngài đưa con người vào trong tương quan diện đối diện với Thiên Chúa. Ngài mời gọi chúng ta khiêm tốn và tin tưởng bước vào với tình con thảo. Tuy nhiên, lời cầu nguyện tạ ơn dài trong Thánh Vịnh “Lạy Chúa, con tạ ơn danh Chúa vì tình thương và chân lý”; “Nếu tôi đi giữa cảnh gian truân, Chúa giữ gìn tôi sống”; “Chúa ra tay phản đối quân thù tôi giận giữ”; “Chúa sẽ hoàn tất cho tôi những điều Ngài đã khởi sự! Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại đến muôn đời” (Tv 137, 1-8)… Cũng cách thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa. Nhưng, thánh vịnh gia còn phải đương đầu với quân thù và những cám dỗ đang rình rập, lúc mà hình như Thiên Chúa trung thành hoàn toàn vắng mặt.
Thiên Chúa luôn giữ lời hứa cứu độ, muôn đời không hề thay đổi. Vậy, tại sao ta lại nghi ngờ về tình phụ tử của Thiên Chúa đối với chúng ta? Đức Giêsu bảo đảm với chúng ta rằng những lời nguyện cầu mà chúng ta dâng lên Chúa Cha sẽ luôn được nhận lời: “Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,10). Ngài lưu ý chúng ta: “Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,10). Ngài làm cho chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đấng không chỉ sẽ nhận lời mà còn trao ban cho chúng ta những điều tốt hơn điều chúng ta cầu xin.
Chúng ta đã chẳng đọc những lời của Đức Giêsu rằng, Đấng trao ban còn quí trọng hơn những gì là ân huệ Ngài trao ban sao? Chính Chúa, là kho tàng duy nhất và quí giá mà chúng ta nhận được trong lời cầu nguyện; Lời cầu nguyện dẫn chúng ta vào trong sự hiệp thông với Chúa, đặt mình trước mặt Chúa là Đấng ba lần Thánh và hiệp thông với Ngài. Cầu nguyện, là để Thiên Chúa đến ở với chúng ta và biến đổi chúng ta. Dần dà, chúng ta tìm thấy những gì tội lỗi đã làm hư mất. Và khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta làm cho mình trở lên trung gian của tình yêu Thiên Chúa giữa anh em.
Để trở nên môn đệ đích thực của Chúa, chúng ta không chỉ cầu nguyện trong tình con thảo mà lời cầu nguyện còn đưa chúng ta vào trong niềm tin hòa giải: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha, kẻ có nợ chúng con”.
Lấy lại những lời nguyện cầu của Đức Giêsu, chúng ta thưa: “Lạy Cha xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Lúc đó, chúng ta sẽ thực sự trở nên môn đệ Đức Giêsu, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, và nên những sứ giả mang Lời thương xót của Chúa Cha muốn cứu độ người ta. Amen.
40. Hãy xin thì sẽ được
Gp Vĩnh Long
1. Hướng về Đấng Tối Cao, xin những ơn cần thiết trong cuộc sống đó là điều chúng ta thường gặp nơi tín đồ các tôn giáo, và ngay cả những người cho rằng mình là vô thần nhưng họ cũng có những biểu hiện như thế. Tuy nhiên, chỉ nơi Kitô giáo, qua lời dạy cầu nguyện của Đức Giêsu, kinh Lạy Cha (Mt 6,9-13// Lc 11,1-3), cho chúng ta thấy Thiên Chúa chính là Đấng Tối Cao, nhưng lại rất yêu thương, gần gũi với con người và qua lời kinh nầy, Đức Giêsu cũng dạy chúng ta phải cầu xin như thế nào để có thể đẹp lòng Thiên Chúa.
2. Lời kinh “Lạy Cha”, theo thánh Mátthêu thì được ghi đầy đủ hơn, đó là lời kinh mà chúng ta vẫn thường đọc, còn trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe theo thánh Luca, ngài cũng ghi lại, tuy ngắn gọn hơn nhưng vẫn giữ được những nét cơ bản của lời kinh.
“Lạy Cha”, “Abba”, tên của lời kinh cũng là cụm từ mở đầu cho lời kinh. “Abba”, nguyên ngữ Do thái (Aram) là tiếng của đứa bé gọi cha của nó, giống như tiếng Việt: Baba, một lời gọi rất thân mật. Không có lời nguyện nào trong Cựu Ước dám gọi Thiên Chúa là Cha, Thiên Chúa dường như rất xa cách với con người. Thời Tân Ước, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha và dạy chúng ta cũng kêu xin như thế. Như vậy, đây là lời dạy, mạc khải quan trọng, tuy Thiên Chúa là Đấng cao sang, quyền phép, nhưng Ngài rất yêu thương rất gần gũi với con người.
3. Chắc hẳn người Cha luôn biết nhu cầu của người con, nhưng Cha cũng muốn con có một tương quan mật thiết với Cha qua lời cầu xin. Lời cầu xin càng tha thiết chừng nào thì ơn được lãnh nhận càng được trân trọng chừng ấy. Theo Luca lời kinh rất ngắn gọn cho nên những điều được trình bầy trong đó có thể nói là những điều mà Kitô hữu quan tâm nhất:
Đối với Chúa, làm sao cho người ta được biết Chúa “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển “; làm sao cho nhiều người gia nhập Nước Chúa “triều đại Cha mau đến “.
Đối với chính bản thân mình: có lương thực hằng ngày tiêu biểu cho những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, được Cha tha thứ tội lỗi và mình cũng biết tha thứ cho người khác, đồng thời cũng xin đừng để sa chước cám dỗ.
Chúng ta thường cầu nguyện cho những nhu cầu của bản thân mình, điều nầy đúng chứ không sai, nhưng chưa đủ. Người con hiếu thảo cần phải cầu xin sao cho đẹp lòng Cha của mình trước, rồi mới đến những nhu cầu của mình. Chính Đức Giêsu cũng đã dạy “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
4. Một điều mà chúng ta cũng có thể nhận thấy qua lời kinh nầy đó là tâm tình rộng mở, đón nhận tất cả những ai là con cái Thiên Chúa thì cũng là anh em với nhau. Mátthêu ghi rõ “Lạy Cha chúng con” (Mt 6,9). Và cả Matthêu cũng như Luca đều ghi trong những lời xin là “cho chúng con”, chứ không là “cho con”. Cầu xin trong tâm tình Thiên Chúa là Cha chung và tất cả mọi người đều là anh em với nhau.
5. Lời Chúa hôm nay cũng dạy chúng ta cách cầu nguyện sao để được Thiên Chúa nhận lời. Đó là cầu nguyện cách kiên trì. Để minh hoạ, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn về người bạn quấy rầy. Việc chủ nhà cuối cùng đã cho anh bạn vay bánh có thể vì một trong hai lý do: cho để khỏi bị quấy rầy nữa; cho vì tình bạn. Theo cách diễn tả của dụ ngôn thì người đó đã làm vì lý do thứ nhất. Nếu làm vì lý do thứ hai thì việc cho sẽ có ý nghĩa hơn. Nhưng dù sao thì cuối cùng anh bạn đứng ngoài đã đạt được điều mình xin, và lý do là nhờ anh kiên trì.
Lắm khi trong cuộc sống của chúng ta thấy mình cầu nguyện mãi mà Chúa chưa ban. Có khi Chúa đã ban bằng một phương thức khác, có khi thấy việc ban không có lợi cho chúng ta, có khi Ngài muốn thử thách lòng tin của chúng ta… Nếu lời cầu xin đó đẹp lòng Thiên Chúa, chắc hẳn Ngài sẽ ban cho ta như lời Ngài hứa “hãy xin thì sẽ được”. Nhưng trước khi ban, có khi Ngài xem ta có kiên trì, tha thiết với điều mình xin hay không? Hạnh các thánh có ghi lại, Bà Mônica đã cầu nguyện khóc lóc cách liên lỉ mười sáu năm trời, kết quả Augustinô, con bà được ơn trở lại và Augustinô lại là một vị thánh lớn của Giáo Hội.
6. Là người con hiếu thảo của Cha trên trời, chúng ta phải coi việc cầu nguyện là một vấn đề không thể thiếu trong đời sống. Cầu nguyện để tạo một liên hệ Cha – con, để múc lấy sức sống từ Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng lời cầu xin của ta sẽ được Thiên Chúa nhậm lời nếu ta biết kiên trì, tin tưởng “hãy xin thì sẽ được”; nhưng trên hết xin cho mọi người chúng ta biết vâng theo thánh ý Thiên Chúa, biết ước muốn điều đẹp lòng Ngài.
41. Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện
(Suy niệm của Lm Uyen Nguyen)
1. Cầu nguyện là hiện tượng ‘tâm linh’.
Nét đặc trưng làm người, dễ thấy bộc lộ và phát hiện. ‘Tâm linh’ quy hướng con người về thế giới huyền linh vượt ngoài khả năng vũ trụ. Tâm linh được phú bẩm, là nguyên si như hạt giống hay như lời Đức Giêsu nói về nén bạc,‘mỗi người một nén’ (x.Lc.19,13). Có kẻ mang chôn giấu, có kẻ đem đi sinh lợi. Tâm linh thể hiện không gì đặc thù hơn là cầu nguyện. Cầu nguyện, với tư thế trang nghiêm, biểu lộ trong tưởng nghĩ hay bằng môi miệng thầm thĩ, có khi nói lớn tiếng.
Nay có môn đệ cả dám xin Thầy dạy cầu nguyện ‘như Gioan tiền hô đã dạy môn đệ ông’. Dạy cầu nguyện ư? Có thể là giúp tâm linh thức tỉnh. Có mà chưa sử dụng xem là chưa thông hoặc chưa đánh thức. Đón nhận lời xin, Đức Giêsu dạy họ cầu nguyện với những lời khúc chiết, đủ, gọn, tự phát đã trở nên nguyên mẫu bất biến: kinh Lạy Cha.
2. Đức Giêsu dạy ‘kinh Lạy Cha’.
Kinh Lạy Cha, mà Đức Giêsu dạy môn đệ Người, bộc lộ tâm tình cả hai thành phần, tâm tình của TC như của Đức Giêsu vị Thầy trên đường lên Giêrusalem thực hiện cứu độ, kế đến là của con người đáp lại.
Những tâm tình ấy được biểu lộ ngay khởi đầu trong hai tiếng xưng hô: Lay Cha. Lạy Cha, lối xưng hô rất quen thuộc, rất đời thường và cũng rất mật thiết. Lạy Cha trước hết bày tỏ sự hiểu biết Đấng sinh thành, còn là sự nhìn nhận, đồng thời bộc lộ tình Thiên Chúa với đàn con do mình tác thành. Vì tiếng Lạy Cha, là cách xưng hô thông dụng và gần gủi giữa con người trần thế trong mối quan hệ huyết thống gia đình. Âm vang nghe tình thấm đậm giữa kẻ sinh thành và những người được sinh thành. Lời đâu tiên trên môi miệng em bé tập nói bi bô ‘Cha, Cha’! Với người sinh ra, khi nghe âm vang ấy, không khỏi thích thú vui mừng. Với người được sinh ra, thốt lên âm vang ấy, để diễn tả đầu đời sự cảm nhận Đấng sinh thành, tuy còn sơ đẳng mờ mịt. Điều đó vẫn nhận chân được mối quan hệ hữu cơ giữa nguyên lý và hệ quả.
Với Đức Giêsu, khi dạy cho các môn đệ kinh Lạy Cha, Người cũng muốn thực tâm dạy cho họ biết họ thật là những người được Người sinh thành như Kinh Tin Kinh đã tuyên tín: “Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”.
3. Năm điều ‘uớc-nguyện-xin’ kinh Lạy Cha.
Năm điều để xin gồm hai nhóm đối tượng: Thiên Chúa và toàn thể nhân loại anh em.
Những điều dành cho Thiên Chúa trước hết và ưu tiên! Với Luca chỉ cần hai nội dung quy về Thiên Chúa: Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến (c.2). Hai ý cũng đủ diễn tả tâm tình ngoan ngùy của những người con thảo hiếu đã nhậnbiết, trên hết và trước hết, đâu là Đấng sinh dựng. Bằng lý trí dần dà đàu sâu rông rải hiểu biết trong sáng hơn. Với con tim, bày tỏ tâm tình sâu sắc trọng kính mến yêu. Với tình cảm ý chí đưa tâm quyết đền đền ơn đáp nghĩa.
Thế nên, là con, để diễn đạt thảo hiếu tốt nhất, tiên thiên mong ước những điều cao cả hướng về Cha mỗi dịp cầu nguyện. Đối lại những điều ấy cũng mang lại hữu ích cho chính mình. Vì hai điều ước ấy cũng chinh là những điều mà Thiên Chúa mong ước cho chính mình vì con người trần. Biết rằng Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối vô song, hơn hẳn cha mẹ cõi đời, Ngài không thể quên ai, để mặc bất cứ gì Ngài sinh dựng. Cũng như cõi trần, không một người cha nào có thể quên bất kỳ đứa con nào do mình sinh ra. Với Thiên Chúa nỗi nhớ của Ngài phải tuyệt đối. Tuy nhiên, phần con người trong thế giới vật chất xa cách, không hẳn tất cả đều có thể dễ dàng và trực giác quy về nhìn biết Thiên Chúa và phận vụ mình để chu toàn.
Thứ đến là ba điều cầu xin cho chung toàn thể, cũng bao gồm cho mỗi người. Ở đây cũng vậy, với Luca, xin ba điều ước là đủ: cho hết mọi người ai cũng đủ của ăn hằng ngày, được tha thứ lỗi lầm trót phạm bởi hành vi ám muội trong các mối tương quan, sau hết được gìn giữ bênh vực khỏi cám dỗ ác thần.
Những điều ước xin như thế chia hai nhóm, duy một điều dành cho phần xác, hai điều dành cho tâm linh. Phần xác để hoàn tất cuộc lữ hành. Tâm linh để đạt được mong ước hạnh phúc bất diệt. ‘Lối-xin’ như vậy xem ra coi trọng và đặt nặng phần tâm linh hơn thể xác. Vậy đây dạy các điều chỉ phải xin ít oi như thế thấy có giống với những gì mà lệnh truyền giữ cho các môn đệ được sai đi rao giảng trước đây một khoảng: không mang gì, ai dọn cho gì dùng thứ đó, không lựa chọn thay đổi nơi ăn chốn ở!? Có phải bởi tại các môn đệ Đức Giêsu là những người phải nên giống Người, giống tinh thần từ bỏ, giống hình ảnh là những người phản ảnh đời sống nước trời ngay hôm nay và thực thụ ngày mai? Thực tế, không sao quên được hình ảnh trải nghiệm từ cuộc đời của những người đã sống trong trần gian, nay thăng lên vinh quang mai giáng hạ tồi tệ. Như cuộc đời vị quan cũng là nhà thơ lỗi lạc Nguyễn Công Trứ chẳng hạn! Ông trải nghiệm thật thấm thía đời, đã viết nên những vần thơ đính kèm nguyên tắc sống bất hủ, như chủ trương sướng khổ là tùy vào: “Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc”, hay vang danh với bài thơ ‘Hàn nho phong vị phú’, rời quan sang về hưu làng, cảm nghiệm cảnh hàn vi, chán chê thời huy hoàng thu nhặt, trở về thích thú với cảnh thanh bần:“Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch… Đêm năm canh an giấc ngáy pho pho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ”.
Biết rằng, dù dạy cho môn đệ xin những điều ít oi thế, Đức Giêsu không hề muốn có sự nghèo mạc cho bất cứ ai! mà chủ đích con người làm sao để chiếm hữu cuộc sống là hình ành bất tận trong cõi trường sinh và hạnh phúc Nước Trời.
4. Lời dạy chí tình ‘hãy xin’.
Sau cùng, khi truyền dạy ‘biểu thức’ dành cho ‘mỗi khi’ cầu nguyện, Đức Giêsu nhắc nhớ việc hãy xin: ‘Anh em cứ xin’ (c.9). Là thế nào? Cầu xin với vài phong cách cần thiết.
– Năng cầu xin và can đảm cầu xin! Bởi ngay các tông đồ và môn đệ xưa, không thấy họ đã có thói quen thực hiện như vậy, thường thấy tán gẫu, tranh cải hoặc mê ngủ. Hãy xin để biết Thiên Chúa là Cha trên trời đã muốn ban ơn thế nào vì yêu thương dào dạt?
– Kiên trì và nhẫn nại xin! vì ‘điếu được ban’ còn liên quan quan đến bao hệ lụy khác. Đã xin mà chưa gặp được không có nghĩa là không cho! Vì có biết bao điều, để hiểu được, còn phải nhờ vào ơn mạc khải soi sáng? Chẳng hạng, lắm khi điều xin chưa có lại có được điều chẳng hề xin. Khi này cần đón nhận trong khiêm tốn đợi chờ.
– Khi cầu xin, cầu xin với tâm ý chân thật, khiêm nhường và tin tưởng phó thác! Đây có là những yếu tố đầy mặc cả cho sự thành bại khi cầu xin?
Chắc rằng Thiên Chúa hằng muốn và kêu gọi con người cùng Ngài hưởng phúc trường sinh nước trời. Dù con người không hề có ai xin, Ngài vẫn trường cữu mong ước. Ý muốn này được bộc lộ qua dấu chỉ, biểu lộ các dấu chỉ ấy cách minh nhiên không che dấu dù quá khứ hay hiện tại. Thế, vì Ngài luôn là Đấng quang minh chính đại và là Thiên Chúa tình yêu trung tín.
Nhìn lại. Với kinh Lạy Cha, Đức Giêsu trao cho các môn đệ ‘biểu thức’ cầu nguyện thích hợp cho cộng đoàn vào thời buổi Tân Ước. Biểu thức có cấu trúc định thức sẵn. Những điều xin mang đến hạnh phúc vừa ý đôi đàng, không thừa không thiếu. Tâm tình cầu xin là cần thiết. Vậy mỗi khi cầu xin, cầu xin với hay ngoài khinh Lạy Cha, tâm tình cầu xin cần được gắn kết mật thiết với tâm tình Đức Giêsu. Khi đó việc cầu xin sẽ mang lại cho người điều không thể không thỏa đáng hy vọng.
Lạy Thầy, trước thánh nhan Thầy, con dâng lời cầu xin. Điều gì chưa phù hợp, xin hãy tha thứ, Vì Danh Cha cả sáng, xin cho con luôn bình an sống thuận theo thánh ý Người.
42. Lời kinh tuyệt vời…
Gp Vĩnh Long
Anh chị em thân mến,
Một người bên lương, hiền lành tử tế nữa, lại rất thích đạo Công giáo, anh ta nói: tôi rất thích đạo Công giáo, nhưng…tôi sợ đạo Công giáo cái vụ…đọc kinh quá! Bên Phật giáo, thì ớn… vụ tụng kinh; nhưng bên Công giáo, lại sợ…sợ vụ đọc kinh nữa. Xem ra cũng đúng, nhưng đàng khác cũng đúng nữa đó là: anh ta chưa hiểu gì về đạo Công giáo cả…. Người Tin Lành cũng chê trách người Công giáo về chuyện đọc kinh, vì họ chỉ chú trọng đọc và học hỏi Kinh Thánh mà thôi. Ta phải hiểu Lời kinh, hay việc cầu nguyện như thế nào? Bài TM hôm nay muốn ta chia sẻ về chủ đề này…
a/. Kinh nguyện (hay đọc kinh) là hành vi sáng suốt và cần thiết của con người: Chúa nói: “ai trong anh em nhờ lo lắng mà có thể kéo dài đời mình thêm ra được một gang một tấc không?” (Mt 6, 27) “không có Thầy, chúng con không thể làm được điều gì.” Đúng như lời Chúa nói: trên đời này, con người không tự mình lo cho mình được; luôn luôn con người cần ơn sủng của Thiên Chúa, vì Người là sự sống, là hạnh phúc của nhân loại… Nếu con người không cầu xin Thiên Chúa, làm sao Thiên Chúa có thể ban ơn, có thể yểm trợ cho con người? Có người nói: Nếu Thiên Chúa biết nhu cầu đời sống của chúng ta, tại sao chúng ta phải cầu nguyện? – Tại vì chính Chúa dạy chúng ta cầu nguyện, như lời Chúa nói: Ai xin thì sẽ được, ai gõ cửa sẽ mở cho..(Lc 11, 9)
b/. Kinh nguyện là thể hiện tấm lòng của người con:
Thiên Chúa là Cha tình thương, thực ra nếu ta không cầu xin, Thiên Chúa vẫn ban ơn cần thiết cho ta. Hình ảnh một người con trong gia đình mà tôi muốn gợi lên: đứa con nào trong các con, sẽ làm đẹp lòng cha mẹ hơn, có phải là đứa con luôn nhớ đến cha mẹ, luôn nài xin, luôn quấn quít bên cha mẹ không? Có phải đứa con tự thấy mình không lo cho mình được, chỉ biết trông cậy nơi cha mẹ không? Có phải là đứa con luôn nhận ra, trên đời này không ai đáng tin hơn chính cha mình không? Tình yêu sẽ là điều chính yếu thể hiện tình cảm của người con. Thật vậy, nếu chúng ta luôn sống trong tâm tình của một người con luôn muốn nói lên tình hiếu thảo với Thiên Chúa là cha của mình, thì còn gì hơn? Tâm tình đó chính là kinh nguyện đó…
c/. Kinh nguyện chính là hình thức, là phương tiện dẫn người kitô hữu đến gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của mình. Đến một lúc nào đó trong cuộc sống của người kitô hữu, kinh đọc bên ngoài không còn là phương tiện tốt nữa, nó sẽ được thay thế bằng tâm nguyện, hoặc bằng việc chiêm nguyện. Đó là những phương tiện, là lời kinh tối hảo của người kitô hữu, của các thánh. Trên cơ bản, tất cả những mẫu kinh đó vẫn được gọi là kinh nguyện Kitô giáo. Người ta thường hiểu lầm kinh nguyện Kitô giáo chỉ thu hẹp ở một số lời kinh được in ra trên giấy, hay trong sách vở. Thực tế, đó chỉ là số ít và cũng không phong phú. Ngoài ra, chúng ta cũng chưa từng thấy vị thánh nào coi thường việc cầu nguyện cả; mà phải nói ngược lại, các ngài còn đề cao và còn kêu gọi mọi người đi đến với những lời kinh đích thật, những lời kinh phong phú phát xuất tự đáy tâm hồn mình nữa muốn dâng lên TC.
d/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện với Chúa Cha, để xin cho mọi nhu cầu của con người. Lâu nay ta hiểu thế nào? Ta có xem cầu nguyện là điều không thể thiếu cho linh hồn, như cơm bánh cần cho thân xác không? Ta có xem cầu nguyện là phương tiện dẫn đưa ta tới với Chúa Cha như lời Chúa Giêsu dạy? Ta có xem cầu nguyện là cách tỏ tình rất chân thật với Thiên Chúa là Người Cha dạt dào tình cảm, dù Người Cha đó là Vua trời đất, đầy uy quyền, là Chúa mọi loài, nhưng lại sẵn sàng lắng nghe để yêu thương chúng ta không?
43. Chú giải của Lm FX. Vũ Phan Long
LỜI KINH CỦA CHÚA – HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA
Bởi vì Người biết và luôn luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa, bởi vì Người cũng biết ý nghĩa và cùng đích của đời sống chúng ta, Đức Giêsu có thể dạy chúng ta cầu nguyện cùng Thiên Chúa hơn bất cứ ai trước Người.
1.- Ngữ cảnh
Trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem, tác giả Luca ghép vào một giai thoại trong đó Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện, vì các ông xin Người.
Hình thức của Kinh Lạy Cha ăn khớp với ngữ cảnh này, vì bản văn được đặt sau lời kinh Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha (10,21-22), cũng như sau “ví dụ” của Người về tình thương đối với người thân cận (10,29-37) và việc Người nhấn mạnh trên việc lắng nghe Lời như điều cần thiết duy nhất (10,38-42). Toàn khối các giai thoại này giới thiệu cho biết thái độ và những tâm tình người Kitô hữu phải có đối với Thiên Chúa.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh (11,1);
2) Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha (11,2-4);
3) Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng hai dụ ngôn (11,5-13):
– Dụ ngôn Người bạn quấy rầy (cc. 5-8),
– Sáu khẳng định (cc. 9-10),
– Dụ ngôn Người cha và đứa con (cc. 11-13).
3.- Vài điểm chú giải
– Lạy Cha (2): Tác giả chỉ dùng hô-cách Hy-lạp đơn giản: pater (x. 10,21), tương đương với từ A-ram ’abbâ’. Do chỗ từ này được lưu giữ trong Mc 14,36 (x. Gl 4,6; Rm 8,15), có thể cho rằng kiểu thưa gửi trong bản văn Lc thì “gốc” hơn kiểu trong Mt (với công thức “Lạy Cha chúng con, Đấng ngự trên trời”).
Một số tác giả như Kittel, Jeremias và Marchel nghĩ rằng đây rất có thể là một từ ngữ của các em bé (G. KITTEL, VAbba/, GLNT, vol. I, col. 15-18; J. JEREMIAS, Abba. Studien zu neutestamentlichen Theologie und Zeitgeschichte (Gưttingen 1966) 15-67; W. MARCHEL, Abba, Père (Roma 1963, 1971). Còn Pitta thì cho rằng không phải chỉ có các em bé mới dùng từ này mà thưa với cha, nhưng cả người lớn cũng dùng để ngỏ lời với cha (A. PITTA, Lettera ai Romani. Nuova versione, introduzione e commento (I Libri biblici – Nuovo Testamento 6; Figlie di San Paolo; Milano 2001) 298.). Dù sao, vào thế kỷ I, từ này không chỉ được dành cho trẻ em.
Gọi Thiên Chúa là “Cha” không phải là chuyện lạ lùng. Danh xưng “cha” đã có nơi các tôn giáo rất khác nhau, từ dạng thô sơ nhất đến dạng phát triển nhất, của người Hy-lạp, Rô-ma và Sê-mít. Nhưng điều lạ là sử dụng một danh xưng thân mật để thưa với Thiên Chúa. Theo các nghiên cứu của Jeremias và Marchel, ’abbâ’ là một danh xưng thân mật, nên không bao giờ được người Do-thái dùng mà thưa với Thiên Chúa. Đôi khi, cũng rất hiếm, từ này được dùng để nói về Thiên Chúa, chứ không bao giờ để thưa với Thiên Chúa. Và ngay cả nói về Thiên Chúa, các bản Targumim (= Bản dịch và diễn giải) cũng rất ngại áp dụng danh hiệu “cha” cho Ngài. Ngược lại, theo chứng từ của Mc 14,36, được củng cố gián tiếp bởi Gl 4,6, Đức Giêsu là người đầu tiên thưa với Thiên Chúa bằng tiếng gọi thân mật Abba, và như thế Người tỏ cho thấy quan hệ thân tình như là người con với Thiên Chúa, một thứ quan hệ kiểu mới mẻ và duy nhất, vô song (Cf. JEREMIAS, Abba, 58-67). Quan hệ này được diễn tả rõ ràng trong một vài bản văn Tin Mừng, đặc biệt trong Mt 11,27 // Lc 10,22. Tin Mừng IV triển khai các phương diện khác nhau của quan hệ hỗ tương này, một quan hệ được vén mở cho thấy không những bằng các lời nói, mà hơn nữa còn bằng công trình chung giữa Chúa Cha và Chúa Con; và công trình chung này đạt tới đỉnh cao khi Đức Giêsu hiến mình trên Núi Sọ. Tin Mừng làm chứng về hai điều: 1) Quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa là quan hệ có một không hai, không thể so sánh với bất cứ kiểu tương quan nào; quan hệ này hoàn hảo, thâm sâu, hỗ tương; theo nghĩa này, quan hệ này chuyên nhất (x. Ga 10,30); 2) Tuy nhiên, theo một nghĩa khác, quan hệ này không độc chiếm, nhưng lại có khả năng thông ban, thông dự vào (x. Ga 6,57; 10,27-28). Đức Giêsu đến chỉ nhắm một mục tiêu là đưa loài người vào trong tương quan cha con với Thiên Chúa. Và bởi vì quan hệ này không phải là một tương quan bên ngoài như một liên hệ pháp lý, mà là một thực tại thâm sâu, người ta không thể thông dự vào đó nếu không được một sự thông truyền tinh thần. Vậy toàn thể cuộc sống của Đức Giêsu, sứ vụ, cái chết, sự sống lại của Người chỉ có một mục đích là thông ban Thánh Thần trong tư cách là Thần Khí của Con (x. Gl 4,6). Quả thật, Đức Giêsu là người đầu tiên cầu nguyện với Thiên Chúa bằng danh hiệu này. Nhưng bây giờ, nhờ Thần Khí của Con, mỗi tín hữu cũng có thể làm như thế: là con (x. Gl 3,26; 4,6.7), người tín hữu thông dự vào lời cầu nguyện của Chúa Con.
– xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển (2): dịch sát là “Ước gì Danh Cha được hiển thánh”. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, câu này không có nghĩa là Thiên Chúa phải bận tâm làm cho loài người coi Danh của Ngài là thánh và không làm ô nhục Danh Ngài. Câu này có nghĩa là chính Thiên Chúa phải thánh hoá Danh Ngài; chính Ngài phải hành động cách nào để loài người nhận biết và tuyên xưng đúng như Tên Ngài, tức là như Thiên Chúa và như Cha. Như thế, là xin Thiên Chúa mạc khải bản thân Ngài ra vĩnh viễn và cho người ta được thấy Ngài và đến được với Ngài cách chắc chắn.
-[xin làm cho] Triều Đại Cha mau đến (2): Đây là nội dung chính của lời Đức Giêsu loan báo. Người loan báo Tin Mừng về Triều Đại Thiên Chúa, về quyền chúa tể của Thiên Chúa (4,43; 8,1; 10,9.11): Thiên Chúa là Chúa Tể duy nhất và tốt lành, sẽ thực hiện công khai vương quyền của Ngài. Lời xin này cầu mong mau đến lúc Thiên Chúa sẽ hiển trị trên tất cả mọi sự cách công khai và hữu hình; Đấng là Cha sẽ là Chúa Tể duy nhất.
– ngày nào có lương thực ngày ấy (3): dịch sát là “Xin ban cho chúng con mỗi ngày (to kath’ hêmeran)”, hiểu theo nghĩa phân phối.
– xin tha tội (4): Tác giả Lc đã thay từ opheilêmata, “các món nợ”, bằng hamartias, “các tội”, có lẽ để cho độc giả Kitô hữu gốc Dân ngoại dễ hiểu lời xin này hơn.
– bạn (5): Từ ngữ philos được dùng nhiều lần khiến chúng ta nhớ đến bối cảnh là lòng hiếu khách của người dân Cận Đông. “Bạn” vừa có nghĩa là người láng giềng và người khách.
– anh ta cứ lì ra đó (8): Anaideia, “sự trâng tráo, lì lợm”. Có tác giả nghĩ rằng từ này áp dụng cho người bạn bị quấy rầy, nên phải dịch là “thể diện” (Xem Bản dịch Kinh Thánh Tân Ước của Nhóm Phiên Dịch CGKPV 1995). Nhưng giải thích như thế không đúng, vì: cả câu 8 dịch sát là: “dẫu anh không dậy để cho người này (autô) vì là bạn của người này (autou), thì cũng vì sự lì lợm của người này (autou), anh sẽ dậy để cho người này (autô) tất cả những gì người này cần”. Bởi vì đại từ sở hữu autô và tính từ sở hữu autou (Ở chủ-cách là autos) được dùng để chỉ người đến quấy rầy, nên phải hiểu anaideia áp dụng cho người quấy rầy.
– tất cả những gì anh ta cần (8): nghĩa là không phải chỉ cho những gì anh ta xin mà thôi.
– anh em cứ xin thì sẽ được (9): Đây là một thái bị động thay tên Thiên Chúa, nên có nghĩa là: “Anh em cứ xin, thì sẽ được Thiên Chúa ban cho”.
– cứ tìm thì sẽ thấy (9): Do câu này song song với câu trên, ta hiểu là “sẽ thấy, với sự trợ giúp của Thiên Chúa”.
– thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó (11): Hiểu là có sự giống nhau về bề ngoài giữa con cá và con rắn. Thỉnh thoảng các ngư phủ trên Hồ Ghennêxarét dùng cá nhỏ mà câu rắn nước.
– xin trứng lại cho nó bò cạp (12): Một con bò cạp cuộn càng và đuôi lại thì giống với một quả trứng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh (1)
Trước mắt các môn đệ, hẳn là Đức Giêsu xuất hiện ra như là vị thầy về cầu nguyện. Còn trước mặt Người, các ông quả là những người đang chập chững tập cầu nguyện. Do đó, các ông đã xin Người dạy cầu nguyện. Đàng khác, vào thời Đức Giêsu, các nhóm tôn giáo được phân biệt nhờ có một kiểu cầu nguyện riêng. Lời xin của các môn đệ Đức Giêsu cho thấy các ông ý thức mình là một cộng đoàn.
* Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha (2-4)
Đức Giêsu đã ban cho các ông bản văn một kiểu mẫu cầu nguyện. Điều này không có nghĩa là các ông phải luôn luôn dùng những lời này mà thôi. Nhưng với người nào dùng lời kinh này, người ấy được xác định cho biết bầu khí phải quan tâm khi cầu nguyện và được nhắc đến những lời thỉnh cầu phải coi là quan trọng nhất.
Trong lời kinh, chúng ta ngỏ lời với Thiên Chúa và trình cho Ngài các lời thỉnh cầu của chúng ta. Chúng ta không thấy Ngài và tự mình không thể biết là Ngài đang tương quan với chúng ta thế nào. Ngài vô hình, xa cách, rất lạ với ta, ta không thể hiểu Ngài và khám phá Ngài cặn kẽ. Trong cầu nguyện, quan trọng nhất là biết bản chất của tương quan giữa Thiên Chúa và loài người. Phải chăng Thiên Chúa là một Chúa tể quyền lực, có thể nhậm lời ta cầu xin, nhưng Ngài không hề quan tâm đến ta? Lời xin đầu tiên và căn bản nhận được câu trả lời nơi lời đầu tiên của Đức Giêsu: chúng ta phải ngỏ lời với Thiên Chúa như với một “Người Cha”. Thiên Chúa không phải là một Chúa tể xa cách, xa lạ, quyền lực, không muốn biết gì về chúng ta. Ngài đã giao tiếp với chúng ta với mối quan tâm, tình yêu và sự chăm sóc, như một người cha đích thực.
Đức Giêsu đã phác ra những nét chính để dạy chúng ta biết phải cầu nguyện với Thiên Chúa thế nào. Theo kiểu mẫu của Người, chúng ta thấy có hai khối lời cầu xin. Khối thứ nhất liên hệ trực tiếp đến Thiên Chúa, khối thứ hai liên hệ đến chúng ta và các nhu cầu của chúng ta. Lời cầu “xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”, là xin Thiên Chúa cho chúng ta được đi từ hoàn cảnh đức tin sang hoàn cảnh hưởng kiến. Lời cầu thứ hai xin Thiên Chúa là Cha tỏ quyền Chúa Tể trên mọi sự. Nói chung, hai lầu cầu đầu tiên xin cho có cuộc đảo lộn các tương quan hiện hữu, trong đó Thiên Chúa dường như vắng mặt hoặc ẩn mình. Chúng ta xin Ngài trở nên hữu hình và tỏ ra là Chúa Tể duy nhất mãi mãi.
Khối lời thỉnh cầu thứ hai liên hệ đến các nhu cầu cấp bách nhất của chúng ta: các nhu cầu vật chất (cái ăn cái uống, y phục, nhà cửa). Bên cạnh các nhu cầu vật chất, là các nhu cầu thiêng liêng: “xin tha tội cho chúng con”. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trách nhiệm, nhưng chúng ta thường xuyên sống vô trách nhiệm, trở thành có lỗi trước mạt Thiên Chúa, chúng ta phạm những thiếu sót đối với người thân cận. Chúng ta không thể tự mình tha các lỗi cho mình. Chúng ta lệ thuộc sự tha thứ của Thiên Chúa nên phải xin Ngài ban cho. Thêm vào lời cầu xin này, Đức Giêsu nối câu: “vì chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”. Người nhắc chúng ta nhớ rằng chúng ta không thể nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa nếu chúng ta có một tâm hồn đầy cay đắng và hiềm khích (x. Mt 18,23-35).
Cuối cùng, chúng ta xin Thiên Chúa chiếu cố đến sự yếu đuối và mỏng dòn của chúng ta. Trước nhan Thiên Chúa, chúng ta nhìn nhận mình không có sức để đứng vững trong thử thách để trung thành với Ngài. Do đó, chúng ta khiêm tốn xin Ngài trợ giúp, đồng thời diễn tả ước muốn được mãi mãi liên kết với Ngài.
* Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng hai dụ ngôn (5-13)
Sau đó, bằng hai dụ ngôn và sáu khẳng định, Đức Giêsu còn muốn thuyết phục các môn đệ rằng họ có thể cậy dựa vào lòng nhân lành của Thiên Chúa, tức là tin rằng Ngài sẽ nhận lời họ cầu xin. Với hai dụ ngôn, Đức Giêsu vận dụng các hoàn cảnh và kinh nghiệm của loài người để dạy dỗ.
Dụ ngôn thứ nhất vận dụng những tương quan hàng xóm láng giềng ở miền quê: Nếu một người hàng xóm bị quấy rầy còn sẵn sàng giúp đỡ người bạn, chẳng lẽ Thiên Chúa vô cùng tốt lành và không hề có giờ nào không thuận tiện lại không nghe lời con cái Ngài kêu xin?
Trong dụ ngôn thứ hai, Đức Giêsu vận dụng cách thức xử sự của người cha trần thế với con cái: Nếu ngay trong lãnh vực con người, một người cha, tuy có những khiếm khuyết, còn biết cho con cái những của tốt lành, chẳng lẽ Thiên Chúa là “Cha”, Đấng có mọi tình phụ tử, lại không xử sự hơn thế sao?
Cách thức Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện cho hiểu rằng Người biết và luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Dựa trên cái nhìn này, Đức Giêsu mời chúng ta cầu nguyện tha thiết, Người hứa với chúng ta rằng chắc chắn chúng ta sẽ được nhận lời (cc. 9-10). Cho tất cả những ai xin bất cứ điều gì, Thiên Chúa sẽ ban Thánh Thần. Ân ban này độc lập với nội dung của từng lời cầu nguyện. Thánh Thần là Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Ngài là Thần Khí làm cho chúng ta thành con Thiên Chúa và giúp chúng ta có thể kêu lên “Cha ơi!”.
+ Kết luận
Bởi vì Người biết và luôn luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa, bởi vì Người cũng biết ý nghĩa và cùng đích của đời sống chúng ta, Đức Giêsu có thể dạy chúng ta cầu nguyện cùng Thiên Chúa hơn bất cứ ai trước Người. Trong Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cung cấp cho chúng ta không những một bản văn kinh nguyện, mà còn cho một kiểu mẫu về các nội dung của lời cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta được gọi Thiên Chúa là “Cha”: tương quan của Thiên Chúa với chúng ta là như tương quan của một người cha với các con mình. Và chúng ta hoàn toàn có thể tin cậy vào lòng nhân lành của Thiên Chúa. Trong lời cầu nguyện, chúng ta chứng tỏ mình có một hình ảnh về Thiên Chúa và cảm nghiệm thế nào về Ngài. Trong lời cầu nguyện, chúng ta thể hiện tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Trong khi cầu nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là “Cha” (10,21; 22,42; 23,34-46), bởi vì Người biết Cha như thế. Lời dạy về cầu nguyện cũng đồng thời là một lời dạy về đức tin. Chúng ta phải tin rằng Thiên Chúa là Cha chúng ta và Ngài quan hệ với chúng ta với tất cả sự quan tâm và yêu thương. Chúng ta phải ngỏ lời với Ngài và dâng lên Ngài những lời thỉnh cầu với đức tin này. Nếu chúng ta có một ý tưởng đúng về Ngài, chúng ta sẽ trình với Ngài những lời thỉnh cầu đầy tin tưởng và hy vọng và cậy vào sự giúp đỡ của Ngài.
2. Đức Giêsu dạy chúng ta phải và có thể cầu xin cho có những nhu cầu vật chất. Người không bảo chúng ta xin cho có dư thừa. Lời cầu nguyện Người dạy cũng không thu hẹp lại theo kiểu ích kỷ, Người dạy xin cho “chúng con”, tức là tất cả những ai đang cầu nguyện.
3. Thiên Chúa không đẩy chúng ta vào cám dỗ với mục đích làm cho chúng ta rơi vào tội lỗi. Nhưng Ngài có thể thử thách chúng ta, có thể thử sự bền vững và chắc chắn của chúng ta. Với lời xin cuối cùng, chúng ta được mời gọi loại trừ mọi cao ngạo và tự phụ.
4. Như người bạn đến xin người láng giềng giúp cho một nhu cầu, chúng ta cũng phải ngỏ lời với Thiên Chúa không phải vì những chuyện phù phiếm, nhưng là để trình bày với Ngài những nhu cầu thực tế của chúng ta và của người khác. Đứng trước Thiên Chúa, chúng ta không cần phải tìm kiếm hoặc tính toán so đo về các lời lẽ, nhưng chúng ta có thể nói thẳng ra với Ngài. Và khi cầu nguyện, chúng ta không được mệt mỏi hoặc nản chí. Chúng ta không được bỏ Ngài, không mong được Ngài giúp đỡ, để rồi đi theo đường mình cách cam chịu hoặc tự phụ. Chúng ta cứ phải liên kết với Ngài bằng một lời cầu nguyện kiên nhẫn, đầy niềm tin tưởng và đơn sơ, lặp đi lặp lại và không mỏi mệt.
5. Đức Giêsu cam kết rằng nếu chúng ta tha thiết cầu nguyện, chúng ta sẽ được Thiên Chúa nhận lời. Tuy nhiên, dường như điều này không đúng với kinh nghiệm chúng ta? Thật ra Đức Giêsu bảo đảm rằng Thiên Chúa chỉ ban những của tốt lành, nhưng Người không hề bảo đảm là lời cầu nguyện của chúng ta luôn luôn có nội dung là những ân ban mà chúng ta thấy là tốt lành. Người cha không đưa con rắn cho đứa con xin cá. Nhưng nếu người con xin một con rắn mà nghĩ rằng đó là điều tốt, thì người cha, chính vì ông tốt, ông sẽ không nhận lời xin này. Vậy chính Thiên Chúa phán đoán về các lời thỉnh cầu của chúng ta. Chúng ta không thể qui định cho Ngài cách thức Ngài phải theo mà nhận lời chúng ta. Chỉ có một điều là chúng ta chắc chắn rằng Ngài sẽ nhận lời vào lúc tốt nhất cho chúng ta.
6. Không có gì lạ nếu khi dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là “Cha”, Đức Giêsu lại hứa là những ai ngỏ lời với Thiên Chúa sẽ được Ngài ban Thánh Thần. Nếu chúng ta ngỏ lời với Thiên Chúa trong đức tin, chúng ta đã đang cầu nguyện trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần rồi. Và khi cầu nguyện như thế, chúng ta đã sẵn sàng để cho mình được thấm nhuần sâu xa hơn bởi Thần Khí này, để cho Ngài trở nên sống động trong ta, và càng ngỏ lời với Thiên Chúa như là Cha chúng ta trong niềm tin tưởng trọn vẹn hơn. Điều quan trọng hơn mỗi lời xin và mỗi sự nhận lời, đó là tương quan chúng ta thiết lập với Thiên Chúa trong cầu nguyện. Lời kinh dâng lên với đức tin đã là một sự nhận lời rồi, bởi vì khi đó dây liên kết chúng ta với Thiên Chúa được đào sâu thêm và tăng trưởng hơn: Thiên Chúa ban Thánh Thần cho những ai cầu nguyện và đón tiếp họ vào trong sự hiệp thông ngày càng sống động và thân tình hơn với Ngài.
44. Chú giải của Noel Quesson
Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông
Khi nhìn thấy Người cầu nguyện… họ chờ đợi bên Người, và không quấy rầy Người. Phần chúng ta, chúng ta không có cái may mắn nhìn thấy Đức Giêsu đang cầu nguyện. Tuy nhiên chúng ta có thể thử làm cho trí tưởng tượng của chúng ta hoạt động… và, bằng tâm trí, nhìn ngắm Đức Giêsu đang cầu nguyện. Đức Giêsu thường cầu nguyện lâu! Người là “vị thầy của sự cầu nguyện” không chỉ vì Người cho những lời khuyên mà còn vì Người nêu gương cầu nguyện.
Ngày nay, có một sự phục hồi việc cầu nguyện ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, phần lớn con người ngày nay, nam cũng như nữ đều có khó khăn khi cầu nguyện. Vô số những lời phê phán của tâm thức hiện tại ảnh hưởng đến tất cả chúng ta một cách vô thức: cầu nguyện là đào nhiệm; đừng xin Chúa làm thay cho bạn, bạn hãy xắn tay áo mình lên… cầu nguyện là một hành động ma thuật của những người sơ khai không biết những quy luật chính xác của tự nhiên… cầu nguyện là một sự tha hoá; bạn hãy đảm nhận tầm vóc của con người… không Chúa, không Thầy… bạn hãy gạt bỏ những điều mê tín tối tăm…
Lạy Đức Giêsu, xin dạy cho chúng con biết cầu nguyện? Xin dạy cho chúng con biết rằng sự cầu nguyện Kitô giáo không phải là bất cứ sự cầu nguyện nào. Chúng con phải thanh luyện sự cầu nguyện của chúng con và học cách cầu nguyện.
Người bảo các ông: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: “Lạy Cha…”
Dân Do Thái đã gọi Thiên Chúa bằng “Cha” như nhiều tôn giáo khác (Hô sê 11,3; Giêrêmia 3,19; Isaia 63,16; Khôn Ngoan 5,5 v.v…).
Tuy nhiên Đức Giêsu đã đổi mới từ này, khi Người dám thưa cùng Thiên Chúa: “Abba”! “ba ơi”.., từ ngữ chỉ sự thân mật mà trước Người ít khi người ta dùng đến. Chính khi các môn đệ nhận thức được kinh nghiệm độc nhất của Đức Giêsu, họ mới khẳng định Người là “Con Thiên Chúa” trong một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Khi chúng ta lặp lại lời “cầu nguyện của Đức Giêsu, đến lượt mình, chúng ta dám nghĩ rằng “Chúa Cha yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Người yêu mến Con Một của Người” (Gioan 20,17).
Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển…
Trong Kinh Thánh, “danh” là để biểu hiện ngôi vị…Sự “thánh thiện” là điều làm cho Thiên Chúa, bởi sự siêu việt lửa tình yêu và quyền năng, trở thành Đấng Hoàn Toàn Khác (Tha Thể Tuyệt Đối).
Vậy trước khi nói với Thiên Chúa các nhu cầu của chúng ta, chúng ta phải theo Đức Giêsu cầu nguyện tôn vinh chính Chúa Cha. Không có gì là ma thuật, tha hoá trong lời cầu nguyện hoàn toàn vô tư và vô vị lợi này.
“Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” có thể được diễn tả bởi: Xin Cha hãy thể hiền sự toàn năng của Cha là lòng nhân hậu vô cùng, tình phụ tử vô biên… xin Cha chỉ cho chúng con biết Cha là Chúa Cha… vô cùng và tuyệt đối là “Cha”… một người Cha hoàn toàn khác chúng con, cha hơn chúng con vô cùng. Nếu người ta có thể đặt vào một tấm lòng tình yêu thương vốn đã tuyệt vời của tất cả các ông bà và bà má của trần gian, thì người ta chỉ có được một phần nhỏ nhoi và thấp kém của Chúa Cha “là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Ep 3,15).
Triều Đại Cha mau đến…
Lời cầu xin thứ hai hầu như đồng nghĩa với lời cầu xin thứ nhất. Triều đại Cha mau đến. Xin Thiên Chúa hoạt động bên trong mọi tạo vật. Người vốn là Tình Yêu (1 Ga4,7 đến 21) Xin Tình Yêu lên ngôi vua! Xin Tình Yêu ngự trị!
Chủ đề “Triều đại của Thiên Chúa” hiện diện thường xuyên trong Cựu ước! Sử biên niên 16,30-33; Tôbia 13,1, Thánh. Vịnh 21,28-28.,67,33-36-97-102,19; Isaia 11,1-9, – 33,17-24 – 54,7-12; Đanien 8,23): Trong tư tưởng của ít-ra-en các vua trần thế chỉ là các “đại diện”, vương quyền thuộc về một mình Thiên Chúa. Và khi tuân thủ Luật của Thiên Chúa mà ít-ra-en làm cho Thiên Chúa thực sự trị vì.
Vào thời của Đức Giêsu đã từ lâu, không còn vua ở Giêrusalem như vào thời của vua Đavít hoặc Salômôn. Như thế, do sự xâm chiếm của nước ngoài, sự chờ.đợi. Đấng Mêsia đã nổi lên mạnh mẽ và được diễn tả trong kinh cầu Qaddish của người Do Thái: xin làm cho Danh cao cả của Người được thánh hoá trong thế gian mà Người đã tạo dựng theo ý chí của Người, xin Người làm cho Triều Đại Người được hiển trị và sự giải thoát được nẩy mầm, Đấng Mêsia của Người đến gần”.
Đức Giêsu công bố rằng Triều Đại của Thiên Chúa đến rất gần nó đã hình thành ở đó rồi, nhưng không phải một cách huy hoàng… như một ít men, như một hạt giống vùi sâu trong lòng người (Mt 3,2-4-17-10,7 – 13,24-31,36-50).
Vì thế rõ ràng chúng ta không thể thực hiện lời cầu nguyện ấy mà chính chúng ta không làm việc cho triều đại ấy lớn lên trong sự chắc chắn của Ngày cánh chung, ngày mà dự án của Chúa Cha sẽ thể hiện sử thành công trọn vẹn, sự hoàn tất.
Ở đây chúng ta hãy ghi nhận ràng Luca không thuật lại cho chúng ta “Kinh Lạy Cha” được toàn thể Giáo Hội đọc và đó là Kinh Lạy Cha trong Tin Mừng của Mát-thêu. Có lẽ Luca đã rút gọn lại, bỏ bớt hai lời xin (ý Cha thể hiện và… nhưng cứu chúng con khói mọi sự dữ). Không một thánh sử nào quan niệm phải theo sát từng lời của Đức Giêsu mà truyền thống nhận được. Các ngài quan niệm Kinh Lạy Cha như một định hướng tổng quát về sự cầu nguyện hơn là một định thức bất biến. Đức Giêsu không xơ cứng điều gì, không biến điều gì thành nghi thức. Và Giáo Hội, ngay từ những thời kỳ đầu, đã luôn luôn sử dụng nhiều công thức khác nhau trong phụng vụ… trên nền tảng một sự thống nhất chung.
Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy
Trước hết, sau khi đã lấy các “dự án của Chúa Cha” làm dự án của chúng ta giờ đây chúng ta có thể trình bày những ước muốn của chúng ta. Đức Giêsu gợi ý cho chúng ta ba điều: lương thực… sự tha thứ… sự tự do đối diện với cái chết…
Ở đây cũng vậy, Luca đã thay đổi bản văn của Mát-thêu. Vị thánh sử này nói: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Luca có lẽ sống với một cộng đoàn Kitô hữu quá nghèo khổ nên đã thêm vào một sắc thái, và nhấn mạnh: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy… “ Lời cầu nguyện này rất khiêm nhường, mặc dù không có về gì nhưng đã cáo giác tâm thức của những Người giàu có chúng ta. Đức Giêsu không ngừng nhấn mạnh để chúng ta không nên lo lắng quá về ngày mai (Lc 12,22-32; Mt 6,34). Trong cuộc xuất hành qua sa mạc, dân Chúa không thể tích trữ lương thực man-na trước cho nhiều ngày (Xh 16,4). Từ ngữ Hy Lạp “épiousios” mà người ta đã dịch là ‘“mà chúng con cần” chỉ được dùng ở đây trong toàn bộ Kính Thánh. Nó nhắc đến một từ Do Thái, cũng hiếm khi gặp, được dùng trong sách Châm ngôn: 30,8: “Xin đừng để con nghèo túng, cũng đừng cho con giàu có; xin cho con cơm bánh cần dùng!”.
Lời cầu nguyện này khó thực hiện trong những xã hội dư thừa của chúng ta.
Lời cầu nguyện này là của mọi người chỉ sống ngày qua ngày. Nhưng từ “chúng con” mà chúng ta đọc, tiếp nối Đức Giêsu, rõ ràng phải buộc chúng ta bao gồm trong kinh nguyện này mọi người đang thiếu thốn lương thực mỗi ngày. Tôi không có quyền đọc “Kinh Lạy Cha” chỉ cho tôi: Xin Cha cho chúng con lương thực… Và nếu lời cầu nguyện của tôi chân thật, thì nó phải khiến tôi chia sẻ lương thực với những người đang đói.
Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con
So với công thức của Mát-thêu, Luca đã xác định từ “lỗi” khi dịch ra bang từ “tội”: Thật vậy, vì tội là trở ngại lớn nhất cho Triều Đại của Thiên Chúa cũng như cho sự chia sẻ lương thực trong tình huynh đệ? Hơn thế nữa, Luca đã thêm từ “tất cả”, để chỉ sự phổ quát của sự tha thứ ấy mà chúng ta thực hiện với những người khác nếu chính chúng ta muốn được Thiên Chúa tha thứ.
Ôi! sự tha thứ ấy là điều chủ yếu của các Kitô hữu vì Đức Giêsu thường xuyên nói về điều đó (Lc 23,34 – 6,36; Mt 11,19-26,28 – 6,14-18 – 22~5; Mc 1.1.,25; Gc 2,13). Niềm vui mà Thiên Chúa cảm thấy khi tha thứ cho kẻ tội lỗi như thế phải trở thành viên đá thử vàng mọi hành động của Kitô hữu. Một cô bé đã nói với thầy dạy giáo lý của cô: Một Kitô hữu chính là một người tha thứ. Trước khi đi xa hơn trong kinh nguyện của tôi… tôi dừng lại một chốc để tôi thật lòng tha thứ cho “tất cả những người đã có lỗi với tôi”. Và chúng ta đừng bao giờ nói rằng sự cầu nguyện là ma thuật, vụ lợi, đào nhiệm. Đúng ra nó là một sự dấn thân quảng đại, một yêu sách phi thường, gần như siêu phàm.
Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ
Nhiều nhà chú giải nghĩ rằng đây là sự cám dỗ lớn! Cơn cám dỗ rất đáng sợ ấy: là “đánh mất Đức tin”, “bỏ rời Đức Giêsu”. Thử thách to lớn ấy đã khiến Đức Giêsu phải nói: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8). Trong khi kể lại cơn hấp hối của Đức Giêsu trong vườn Ghếtsêmani, Tin Mừng của Luca đã hai lần nhắc lại lời Đức Giêsu khuyến cáo các bạn hữu của Người (22,40 và 22,46): Hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dữ… Phải, cơn cám dỗ lớn nhất chính là bỏ rơi Đức Giêsu trong dụ ngôn người gieo hạt giống, Đức Giêsu nhắc chúng ta phải cảnh giác: Có những người, tin trong một thời gian nào đó và đến giờ thử thách, và bị cám dỗ, họ đã chồi bỏ đức tin (Lc 8,13) Vậy mỗi ngày chúng ta phải chiến đấu chống lại sự ác, để chinh phục tự do… và khiêm nhường xin Chúa ban cho ân sủng không bị “khuất phục”, bị trói buộc và tha hoá!
Người còn nói với các ông: “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: `Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả’; mà người kia từ trong nhà lại đáp: `Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được.’? Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó. “Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”
Đây là kho tàng duy nhất mà chúng ta phải xin Thiên Chúa: Thần Khí của Người!