TƯ LIỆU HỌC TẬP CỦA HIỆP HỘI THÁNH MẪU
Lưu hành nội bộ
NỘI DUNG
TẬP SAN HIỆP SỐNG THÁNG 08/2020
I.THƯ LM GH TH08/20: HÀNH TRÌNH THĂNG TIẾN HỘI VIÊN HIỆP SỐNG KI-TÔ HHTM.
II.HỌC SỐNG NHÂN BẢN TH 08/20: CẢM THÔNG VÀ CHIA SẺ TÌNH NGƯỜI.
III. XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GĐÌNH TH 08/20: TÌNH YÊU THẤU HIỂU VÀ BAO DUNG.
IV.TƯ LIỆU HIỆP SỐNG TH 08/20:HSTM CN 18 TN A .- HSTM CN 19 TN A .- HSTM LỄ MẸ LÊN TRỜI.- HSTM CN 20 TN A .- HSTM CN 21 TN A.- HSTM CN 22 TN A.
V.HLUYỆN HTRƯỞNGTH 08/2020: XÂY DỰNG HIỆP THÔNG TRONG GIA ĐÌNH HIỆP SỐNG KI-TÔ HHTM.
VI.THƯ GIÃN TH 08/2020: BỒ KHÁC VỢ THẾ NÀO ?
VII.NHỎ TO HỮU ÍCH TH 08/2020: KHOAI LANG HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG.
VIII.SINH HOẠT HIỆP SỐNG THÁNG 08/2020:
A.THÔNG TIN LIÊN HỘI HHTM THÁNG 08
B.SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN BÁC ÁI HHTM THÁNG 08
C.SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIA ĐÌNH HHTM THÁNG 08
D.SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIỚI TRẺ HHTM THÁNG 08
LÁ THƯ LM GIÁM HUẤN THÁNG 08/2020
HÀNH TRÌNH CỦA HỘI VIÊN HIỆP SỐNG KI-TÔ HIỆP HỘI THÁNH MẪU:
Việc huấn luyện Hội viên Hiệp Hội Thánh Mẫu nên tông đồ giáo dân nhiệt thành làm chứng cho Chúa cần qua hành trình 4 bước như sau:
1) ỨNG SINH:Chuẩn bị trở thành hội viên Hiệp Hội Thánh Mẫu.
Ứng sinh là những người mới xin gia nhập Hiệp Hội Thánh Mẫu. Các Ứng Sinh sẽ được trưởng Tập Huấn hướng dẫn học hỏi về luật sống để chuẩn bị trở thành Hội viên Thánh Mẫu. Mỗi ngày Ứng sinh phải đọc một chục kinh Mân Côi Sống để hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a đi theo linh đạo “Hiệp Sống- Xin Vâng- Phục Vụ” của Chúa Giêsu.Sau thời gian sinh họat 3 tháng, Ứng Sinh sẽ được nhận làm hội viên chính thức bậc Tập Sinh Thánh Mẫu trong nghi thức nhận Hội.
2) BẬC TẬP SINH THÁNH MẪU: Học làm người và làm con Thiên Chúa.
Hội viên Tập Sinh sẽ được học sống mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa Giêsu, nghĩa là noi gương Người để sống đạo làm người và làm Con Thiên Chúa.
-Học làm người:Đây là giai đọan THANH LUYỆN khỏi các đam mê, vượt qua lòng “tham sân si” và tính đối kháng với những điều trái ý mình, bằng cách thực tập quên mình vị tha, dấn thân đi bước trước đến với tha nhân và biết cách ứng xử có văn hóa trong cách ăn mặc, nói năng… để nên người trưởng thành về nhân cách hầu gây được thiện cảm với mọi người. Việc học tập nhân bản không phải chỉ là học cho biết, nhưng cần học tập lối sống nên người trưởng thành về nhân cách.
-Học làm con Thiên Chúa. Nghĩa là học sống mầu nhiệm Thập Giá của Chúa Giêsu, tập chết đi con người cũ, vượt thắng những trở ngại là sự dữ và tội lỗi… hội viên Tập Sinh sẽ học sống Lời Chúa theo các đề tài Tin Cậy Mến, để được ơn Chúa biến đổi ngày một nên NGƯỜI TÍN HỮU ĐẠO ĐỨCnên con Chúa Cha. Tập Sinh có bổn phận mỗi ngày đọc và suy niệm kinh Lạy Cha để luôn vâng theo thánh ý Cha, phó thác mọi điều may rủi cho sự quan phòng yêu thương của Cha.
-Hội viên sẽ ở bậc Tập Sinh từ 1 đến 2 năm. Tập Sinh đủ điều kiện sẽ được xét tuyên hứa lên bậc Hứa Sinh Thánh Mẫu.
3) BẬC HỨA SINH THÁNH MẪU:Học làm môn đệ của Đức Giêsu.
-Hội viên Hứa Sinh sẽ học sống mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu, nghĩa là làm cho mình nên người mới theo gương mẫu và lời dạy của Chúa Giêsu, dưới ơn soi dẫn của Chúa Thánh Thần để nên men muối và ánh sáng cho tha nhân. Đây là giai đọan CHIẾU SÁNGtin yêu và hy vọng Kitô giáo.
-Cụ thể hội viên sẽ học sống Lời Chúa theo các đề tài thực tập giới răn yêu thương để nên MÔN ĐỆ ĐÍCH THỰC của Chúa Giêsu bằng việc “quảng đại chia sẻ và khiêm nhường phục vụ tha nhân”, nhất là phục vụ người đau khổ bệnh tật và bị bỏ rơi…
-Hứa sinh cũng học sống Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật năm phụng vụ A B C để hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a sống Tin Cậy Mến theo gương mẫu và Lời dạy của Đức Giêsu.
-Mỗi ngày Hứa Sinh có bổn phận đọc và xét mình sám hối theo kinh Thương Người có 14 mối, để nhắc nhở thực hành đức ái cụ thể. Hội viên sẽ ở bậc Hứa Sinh trong ba năm. Các Hứa Sinh đủ điều kiện sẽ được xét tuyên hứa lên bậc Hiến Sinh Thánh Mẫu.
4) BẬC HIẾN SINH THÁNH MẪU: Học làm chứng nhân của Chúa Giêsu.
-Hội viên Hiến Sinh sẽ học sống mầu nhiệm Hiện Xuống nghĩa là đón nhận ơn Thánh Thần để tích cực tham gia vào sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu. Đây là giai đọan KẾT HIỆP với Chúa Ba Ngôi, từ trong tư tưởng ra lời nói và việc làm.
-Cụ thể hội viên Hiến Sinh sẽ học làm “chứng nhân Chúa Giêsu” qua việc thi hành và báo cáo công tác thăm viếng người lương hay người đang lạc xa Chúa… để giúp họ nhận biết và tin theo Chúa Giêsu, hồi tâm trở về với cộng đòan Hội Thánh để được hưởng ơn cứu độ.
-Mỗi ngày Hiến Sinh có bổn phận cầu nguyện bằng việc đọc kinh Hòa Bình để nhắc nhở mình sứ vụ làm chứng cho Chúa.
Việc thực tập Sống Đời Kitô HHTM cần theo chương trình thăng tiến hội viên theo linh đạo HHTM. Mỗi đề tài cần học thuộc một câu lời Chúa cơ bản, làm một việc bác ái cụ thể kèm một lời nguyện tắt, để hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a xin ơn Thánh Thần biến đổi mình giống Chúa Giêsu, hầu chu tòan sứ vụ tông đồ giáo dân, tích cực góp phần loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.
LINH MỤC GIÁM HUẤN HHTM
Đaminh ĐINH VĂN VÃNG
II. HỌC SỐNG NHÂN BẢN THÁNG 08/2020
CẢM THÔNG CHIA SẺ TÌNH NGƯỜI
1. LỜI CHÚA:
Thánh Phao-lô khuyên tín hữu Cô-lô-sê như sau: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. (Cl 3,12-14).
2. CÂU CHUYỆN:
Trong lễ tang của một nạn nhân trẻ tuổi, một người đàn ông thấy bên cạnh mình một người đàn ông đang khóc nức nở, ông ta tò mò hỏi:
– Ông là thân nhân của người vắn số hay sao ?
– Không! Người này trả lời.
– Vậy tại sao ông khóc?
– Tôi không thể khóc cho một người phải chết sớm khi tuổi đời còn đẹp như thế sao?
– Còn tôi, việc gì tôi lại phải khóc thương một người xa lạ. Tôi sẽ chỉ khóc để cảm thông với những người thân trong gia đình ruột thịt mà thôi.
Vài ngày sau, để đề phòng dịch cúm Covid-19 lây lan, chính phủ ra lệnh mọi người phải ở nhà, và hạn chế đi lại, thì người đàn ông “tò mò” này do không chịu nổi cảnh tù túng của căn nhà chật hẹp, nênthường ra ngoài rảo quanh các công viên, siêu thị với cớ đi mua thức ăn, nhu yếu phẩm… Rồi sau đó ông đã bị lây bệnh Covid-19 và vô tình lây bệnh cho nhiều người quen biết khi giao tiếp mà không mang khẩu trang và không giữ khoảng cách cần thiết, khiến nhiều người đã bị lây bệnh. Khi được đưa đi chữa trị và thấy nhiều người quen cũng phải chịu biện pháp cách ly do đã tiếp xúc với ông, ông mớicảm thấy ân hận và nói:
-Ôi! Phải chi tôi đừng thờ ơ vô cảm với tha nhân để ở nhà, thì đã không bị bệnh và không lây nhiễm cho nhiều người khác. Nhưng bây giờ tôi nghĩ vẫn chưa quá muộn để sửa sai…
3. SUY NIỆM:
– Cả thế giới đã và đang chiến đấu với căn bệnh thời đại. Mỗi ngày trên các trang mạng và báo chí thống kê số người bệnh, người chết tăng vọt… Có người đọc các con số để đau buồn, cảm thông và cầu nguyện. Nhưng có người chỉ đọc để biết thông tin và thờ ơ trước nỗi đau của nhân loại.
– Các nhà thờ, sinh hoạt tôn giáo đóng cửa, ngưng kinh lễ vì dịch bệnh. Có người buồn khóc vì sự thiếu vắng này, nhưng cũng có người cảm thấy mừng vì được miễn trừ các thánh lễ mà không cần phải đi xưng tội. Họ chính là người có thái độ dửng dưng vô cảm…
– Người biết cảm thông sẽ ứng xử khác với người vô cảm, sẽ biết cảm thông với nỗi đau của tha nhân bằng cách sống theo lời Chúa: “Vui với người vui, khóc với người khóc” .
– Đức Kitô – Vị Mục Tử nhân lành là người đã nêu gương cảm thông với chúng ta khi sẵn sàng vác cây thập giá là tội lỗi và các đau khổ tinh thần và thể xác của nhân loại, sẵn sàng chịu chết để đền tội thay chúng ta và phục sinh để giải thoát và đưa chúng ta về quê Trời đời đời.
4. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Xin cho con biết luôn “nghĩ đến người khác”, thể hiện qua thái độ luôn quan tâm đến tha nhân đang gặp đau khổ khó khăn, để cảm thông và giúp họ vượt qua với hết khả năng của mình. Xin cho con luôn thực hành Lời Chúa như châm ngôn sống là : “Vui với người vui, khóc với người khóc” , để con trở thành người trưởng thành về nhân cách và xứng đáng là môn đệ thực sự của Chúa.- AMEN.
III.XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH TH 08/2020:
TÌNH YÊU THẤU HIỂU VÀ BAO DUNG
1. CÂU CHUYỆN VÀ SUY NIỆM: BÁNH MÌ CHÁY
Khi tôi lên 8 hay 9 tuổi gì đó, tôi nhớ thỉnh thoảng mẹ tôi vẫn có lần nướng bánh mì cháy khét. Một tối nọ, mẹ tôi về nhà sau một ngày làm việc dài và bà đã vào bếp để làm bữa tối cho cha con tôi. Bà dọn ra bàn vài lát bánh mì nướng cháy, không phải cháy xém bình thường mà là cháy đen như than. Tôi ngồi nhìn những lát bánh mì và đợi xem có ai nhận ra điều bất thường của chúng và lên tiếng hay không. Nhưng cha tôi chỉ ăn miếng bánh của ông và hỏi tôi về bài tập cũng như những việc ở trường học như mọi hôm. Tôi không còn nhớ tôi đã nói gì với ông hôm đó, nhưng tôi nhớ đã nghe mẹ tôi xin lỗi ông vì đã nướng cháy bánh mì. Và tôi không bao giờ quên được những gì cha tôi nói với mẹ tôi: “Em à, anh thích ăn bánh mì cháy mà.”
Đêm đó, tôi đến bên chúc cha tôi ngủ ngon và hỏi có phải thực sự ông thích bánh mì cháy không. Cha tôi quàng tay qua vai tôi và âu yếm nói với tôi: “Mẹ con đã làm việc rất vất vả cả ngày và mẹ rất mệt. Một lát bánh mì cháy chẳng thể làm hại ai được con ạ. Nhưng con có biết điều gì gây tổn thương cho người khác không? Đó chính là Những lời chê bai trách móc cay nghiệt đấy.”
Rồi ông nói tiếp: “Con biết đó, cuộc đời đầy rẫy những thứ không hoàn hảo và những con người không toàn vẹn. Cha thấy mình cũng khá tệ trong rất nhiều việc, chẳng hạn như: cha chẳng thể nhớ được sinh nhật hay ngày kỷ niệm của mẹ con như một số người khác. Điều mà cha học được qua nhiều năm tháng, đó là học cách chấp nhận sai sót của người khác và ủng hộ những khác biệt của họ. Đó là chìa khoá quan trọng nhất để tạo nên mối tương quan lành mạnh, trưởng thành và bền vững con ạ. Cuộc đời rất ngắn ngủ nên ta đừng để mình phải hối tiếc vì những lời nói hay hành động gây ra sự buồn bực và bất hạnh cho người thân của mình.
Muốn cho gia đình hạnh phúc thì điều quan trọng nhất là mỗi thành viên trong gia đình phải hiểu biết lẫn nhau và cảm thông tha thứ lỗi lầm cho nhau. Hãy yêu quý những người cư xử tốt với con, và hãy cảm thông với những ai chưa làm được điều đó con nhé.
2. LỜI CHÚA: Thánh Phao-lô khuyên tín hữu Cô-lô-sê như sau: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân. (Cl 3,12-15).
3. LỜI CẦU:
Đk: Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời. Đâu có lòng từ bi là đấy có ân sủng Người. Đâu có tình bác ái thì Chúa chúc lành không ngơi. Đâu ý hợp tâm đầu, ở đấy chứa chan niềm vui.
Tk: Nài xin tha thiết Thượng Đế muôn tình lân ái. Xin hãy đổ đầy linh hồn tình yêu thiết tha. Yêu Chúa hết lòng hết sức hết cả trí khôn. Cùng yêu anh em như Chúa mến yêu chúng con.
LM ĐAN VINH – HHTM
IV. TƯ LIỆU HỌC SỐNG LỜI CHÚA THÁNG 08/2020
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN A
Is 55,1-3 ; Rm 8,35.37-39 ; Mt 14,13-21
CHO THÌ CÓ PHÚC HƠN NHẬN
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 14,13-21
(13) Nghe tin ấy, Đức Giê-su lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đám đông từ các thành đi bộ mà theo Người. (14) Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ. (15) Chiều đến, các môn đệ lại gần thưa với Người: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi. Vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn”. (16) Đức Giê-su bảo: “họ không cần phải đi đâu cả. Chính anh em hãy cho họ ăn”. (17) Các ông đáp: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá !” (18) người bảo: “Đem lại đây cho Thầy !”. (19) Rồi sau đó, Người truyền cho đám đông ngả mình trên cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho đám đông. (20) Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. (21) Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.
2. Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊ-SU HÓA BÁNH RA NHIỀU LẦN THỨ NHẤT
Như ông Mô-sê trong thời Xuất Hành, Đức Giê-su đã đưa dân chúng tin Người vào hoang địa. Tại đây Người đã làm phép lạ nhân bánh ra nhiều để nuôi “năm ngàn người đàn ông không kể đàn bà con trẻ” giống như Mô-sê xưa đã xin Đức Chúa ban man-na từ trời rơi xuống để nuôi dân Ít-ra-en. Phép lạ này tiên báo về bí tích Thánh Thể mà Đức Giê-su sẽ thiết lập trong bữa Tiệc Ly sau này.
3. CHÚ THÍCH:
– C 13-14: + Lánh khỏi nơi đó: Khi Gio-an Tẩy Giả bị vua Hê-rô-đê bỏ tù thì Đức Giê-su đã lánh sang miền Ga-li-lê (x. Mt 4,12). Giờ đây, khi nghe tin Gio-an bị vua Hê-rô-đê chém đầu thì Đức Giê-su lánh vào nơi hoang vắng, vì chưa đến “giờ của Người” (x.Ga 8,59;11,53-54). Cái chết của Gio-an là điềm báo về cái chết của Người sắp xảy đến. + Đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt: Theo Mác-cô và Lu-ca, lý do chính của cuộc rút lui này là để thầy trò có những giờ phút ở riêng bên nhau, tránh sự quấy rầy của dân chúng (x. Mc 6,31). Hướng đi của thuyền các ngài là hoang địa gần thành Bét-sai-đa (x. Lc 9,10), nằm về phía Đông Bắc và cách biển hồ Ga-li-lê khoảng một cây số. Đây là thời gian gần đến lễ Vượt qua của dân Do Thái (x. Ga 6,4). + Đám đông từ các thành đi bộ mà theo Người: Đông đảo dân chúng đi theo Đức Giê-su gợi lên hình ảnh dân Ít-ra-en xưa cũng đi theo Mô-sê vào trong sa mạc Xi-nai. + Chạnh lòng thương: Khi chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân, Đức Giê-su chứng tỏ Người chính là Mục tử lý tưởng mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm (x. Ed 34,11-16).
– C 15-18: + xin Thầy giải tán đám đông: Các môn đệ đã biết nghĩ đến nhu cầu của đám đông đang cần được ăn uống, nhưng các ông lại bất lực trước nhu cầu lớn lao kia, nên đề nghị Đức Giê-su giải tán dân chúng để ai nấy tự lo lương thực cho mình. + Chính anh em hãy cho họ ăn: Đức Giê-su biết rõ các môn đệ bất lực, nhưng Người vẫn ra lệnh cho các ông phải lo cho họ được ăn. Qua câu này, Người muốn Giáo Hội sau này không những phải rao giảng Tin Mừng, mà còn phải làm hết khả năng để đáp ứng nhu cầu về thể xác cho dân chúng nữa. + chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá !: Số lượng quá nhỏ bé so với nhu cầu cần dùng. Riêng Tin Mừng Gio-an còn cho biết năm chiếc bánh đó làm bằng lúa mạch, tức là loại bánh của người nghèo. + Đem lại đây cho Thầy !: Với mấy chiếc bánh như vậy, các môn đệ không thể làm được gì. Nhưng Đức Giê-su chỉ cần các ông có thiện chí đóng góp hết khả năng của mình là Người sẽ thực hiện một phép lạ lớn lao.
– C 19: + Người truyền cho đám đông ngả mình trên cỏ: Cỏ chỉ mọc vào mùa xuân, nghĩa là khoảng tháng ba dương lịch trước lễ Vượt Qua (x. Ga 6,4.10; Mc 6,39). Việc cho dân chúng ngồi trên cỏ là để tránh mất trật tự thường xảy ra mỗi khi phân phát đồ ăn. + Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá: Trong các gia đình Do thái, vào trước bữa ăn, người cha thường đọc kinh cảm tạ Thiên Chúa về những ơn lành Người đã thương ban. Ở đây khi làm cử chỉ này, Đức Giê-su cho thấy Người là gia chủ của đại gia đình nhân loại. + Ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng và bẻ ra, trao cho các môn đệ: Các cử chỉ và hành động ở đây tương tự như Người sẽ làm trong bữa tiệc ly để thiết lập bí tích Thánh Thể vào tối Thứ Năm trước cuộc khổ nạn sau này (x. Mt 26, 26).
– C 20-21: + Ăn no và còn dư: là hai yếu tố nói lên sự dồi dào của bữa tiệc Thiên Sai mà I-sai-a đã tuyên sấm trước đó: “ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thì béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25,6). + Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại đựơc mười hai giỏ đầy: Mười hai Tông đồ thu được mười hai giỏ. Con số 12 ở đây tượng trưng cho 12 chi tộc dân Ít-ra-en. Qua đó cho thấy sự nghiệp của Đức Giê-su lan rộng đến toàn dân chứ không dừng lại ở số người được ăn bánh hôm ấy. + Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con: Vì con đường theo Đức Giê-su quá xa nên có lẽ chỉ đàn ông mới quyết tâm đi tới nơi. Có thể đàn bà con nít cũng có mặt, nhưng không được tác giả Tin mừng nhắc đến do quan niệm “trọng nam khinh nữ” của dân Do thái thời bấy giờ.
4. CÂU HỎI:
1)Tại sao Đức Giê-su phải lánh vào nơi hoang địa ? Nơi đó nằm ở đâu ? 2) Đông đảo dân chúng đi theo Đức Giê-su gợi lên hình ảnh nào trong thời kỳ Xuất Hành ? Thái độ chạnh lòng thương và chữa lành bệnh tật của Đức Giê-su cho thấy Người là ai ? 3) Tại sao các môn đệ lại đề nghị Đức Giê-su giải tán đám đông ? Khi đòi chính các ông phải lo cho dân chúng ăn, Đức Giê-su muốn dạy bài học gì cho các mục tử của Hội Thánh ? 4) Đức Giê-su đã làm gì trước khi nhân bánh ra nhiều để nuôi dân chúng ? Phép lạ này tiên báo về bí tích nào sẽ được Người thiết lập sau này ? 5) Hai đặc tính của bữa tiệc là ăn no và còn dư cho thấy lời tuyên sấm nào của Ngôn sứ I-sai-a đã được ứng nghiệm ? Ý nghĩa của con số 12 giỏ đầy bánh thừa nói lên điều gì ? 6) Phải chăng đàn bà và trẻ con không được ăn bánh hóa nhiều trong phép lạ này của Đức Giê-su ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ” (Mt 14,14).- Đức Giê-su bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả. Chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16).
2. CÂU CHUYỆN: BẠN CHÍNH LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA:
Vào cuối Thế Chiến Thứ Hai, để thu phục nhân tâm của dân chúng trong một làng quê ở miền cực Nam nước Ý vừa được giải phóng khỏi phát xít Đức, toán quân Đồng Minh đã cố gắng phục hồi lại bức tượng Thánh Tâm Chúa Giê-su bằng thạch cao, đã bị bể tan trong cuộc chiến trước đó. Bức tượng này cao khoảng 2 mét, được dựng trên đài phía trước nhà thờ của làng. Sau nhiều ngày tìm kiếm, toán lính kia đã tìm các mảnh bị vỡ và gắn lại thành bức tượng Thánh Tâm như trước, duy chỉ còn thiếu đôi tay của bức tượng. Có lẽ hai cánh tay bức tượng đã bị bể tan do bom đạn. Sau khi đã làm hết cách, cuối cùng tóan lính đành chịu bỏ dở công việc. Bấy giờ một người trong bọn bật ra sáng kiến hay. Anh ta đi lấy hai khúc gỗ gắn giả thay cho hai cánh tay của bức tượng Chúa, rồi viết vào đó hàng chữ: “BẠN CHÍNH LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA”. Hàng chữ này không những đã đánh động tâm hồn của dân chúng trong làng, mà còn thu hút thêm nhiều du khách từ các nơi đến chiêm ngưỡng bức tượng Thánh Tâm Chúa với đôi tay của loài người.
Ngày nay khi chúng ta biết chạnh lòng xót thương những người đau khổ bệnh tật và đói khát và tìm cách đáp ứng nhu cầu của họ là chúng ta đang làm theo lời Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay: “Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ” (Mt 14,14). Người cũng muốn chúng ta cộng tác với Người để lo phục vụ giúp đỡ cho những kẻ đau khổ nghèo đói khi nói với các môn đệ: “Họ không cần phải đi đâu cả. Chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16).
3. SUY NIỆM:
1) DIỄN TIẾN PHÉP LẠ: Tin Mừng thuật lại như sau:
+ Đem lại đây cho Thầy !: Dù đây chỉ là phần đóng góp nhỏ nhoi của các môn đệ, nhưng Người vẫn sử dụng. Người chỉ cần các ông nhiệt tình và quảng đại trao cho Người những gì các ông đang có là đủ.
+ Người cầm lấy năm chiếc bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông: Con đường đi của những tấm bánh là từ tay các môn đệ đến tay Đức Giê-su, dâng lên cho Chúa Cha, rồi trở lại tay các môn đệ, và cuối cùng đến tay từng người trong đám đông.
+ Bẻ ra, trao đi, chia sẻ và hóa nhiều: Phép lạ các tấm bánh được nhân ra nhiều khi nó đang ở trong tay ai ? Tin Mừng không nói rõ Đức Giê-su đã làm phép lạ từ năm cái bánh trở thành một đống bánh và cá thật lớn, rồi các môn đệ chỉ việc lấy ra phân phát cho dân chúng nhưng thánh sử Mát-thêu viết như sau: “Người bẻ bánh ra trao cho các ông”, và sau đó chắc các ông cũng phải bẻ ra và chia cho đám đông. Và có lẽ mỗi người trong đám đông cũng phải bẻ tấm bánh của mình để chia sẻ cho người bên cạnh. Chẳng mấy chốc ai nấy đều có bánh ăn. Như thế những tấm bánh từ tay Đức Giê-su được bẻ ra, trao đi và chỉ nhân ra nhiều khi nó được chia sẻ từ người này sang người khác. Đó là điều then chốt mà phép lạ này muốn nói lên.
2) ANH EM HÃY LÀM VIỆC NÀY MÀ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (Lc 22,19):
+ Phép lạ Bánh hóa nhiều là hình ảnh của bí tích Thánh Thể Đức Giê-su sắp thiết lập trong bữa Tiệc ly trước cuộc Khổ nạn: Bữa tiệc này trùng với bữa tiệc Vượt Qua của dân Do thai. Đức Giê-su đã sử dụng Bánh Không Men dùng trong bữa tiệc Vượt Qua theo truyền thống, để biến thành Bánh Ban Sự Sống tức là Thân Mình của Người, sắp chịu hiến tế vì nhân loại. Người cũng dùng chén rượu nho để biến thành Máu Huyết Người sắp đổ ra để đền tội thay cho nhân loại. Cuối cùng Người truyền cho các môn đệ: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (x. Lc 22,19-20).
+ Điều kiện để tham dự Bữa Tiệc của Chúa là quảng đại tha thứ và yêu thương hiệp nhất (x. Mt 5,23-24; 6,14-15): Thánh Phao-lô đã quở trách các tín hữu Cô-rin-tô họp nhau mà không làm theo cách thức như bữa tối của Chúa. Vì mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế kẻ thì đói, người lại no say (x. 1 Cr 11,17-21). Thánh nhân cảnh cáo họ về tội chia rẽ và thái độ lỗi đức bác ái như sau: “Anh em không có nhà để ăn uống sao ? Hay anh em khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của ?”(1 Cr 11, 20-22). Vì thế bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa” (1 Cr 11, 27).
3) PHÉP LẠ BẺ BÁNH TRONG ĐỜI THƯỜNG: Phép lạ nhân Bánh ra nhiều không dừng lại ở việc Bẻ Bánh tại nhà thờ, mà còn phải đựơc tiếp tục kéo dài trong cuộc sống: bẻ ra, trao đi và hóa nhiều.
+ Đừng sợ tấm bánh bị bẻ ra và cho đi sẽ bị hao hụt và không còn đủ cho mình: Nếu các môn đệ xưa cũng nghĩ như vậy và không chịu trao cho Đức Giê-su năm chiếc bánh và hai con cá thì số bánh cá đó vẫn chỉ có bằng đó. Nhưng nhờ biết quảng đại trao cho Đức Giê-su, để Người bẻ ra trao lại cho các ông để các ông phân phát cho dân chúng mà bánh đã hóa ra nhiều.
+ Ngày nay cũng có nhiều người đang cần các thứ bánh vật chất và tinh thần: bánh công lý, bánh yêu thương, bánh cảm thông tha thứ và phục vụ. Đừng ngại khi bạn phải hy sinh nhiều. Nếu bạn dám bẻ đôi những gì bạn có thì chắc thế giới này sẽ không còn người đói, nhưng tất cả sẽ được no nê bánh ăn vật chất và còn được no đầy cả bánh tinh thần là sự bình an, vui tươi, hạnh phúc và niềm hy vọng.
4. THẢO LUẬN:
1) Ngoài việc cho kẻ đói bánh ăn vật chất, bạn có thể cho họ những thứ bánh tinh thần nào nữa ? 2) Trong những ngày sắp tới bạn quyết tâm sẽ trao bánh tinh thần là những gì cụ thể cho người sống bên cạnh bạn: Một nụ cười, một lời khen thành thật, một sự giúp đỡ tận tình và còn gì nữa…?
5. NGUYỆNCẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn chúng con noi gương Chúa “Luôn chạnh lòng xót thương” những kẻ đói nghèo đang sống bên cạnh chúng con.
Con xin mượn lời cầu nguyện của một thi sĩ để dâng lên Chúa như sau: “Con chỉ là một tia lửa, xin biến con thành ngọn lửa hồng. Con chỉ là một sợi dây, xin biến con thành một cây đàn. Con chỉ là một quả đồi, xin biến con thành một rặng núi. Con chỉ là một giọt nước, xin biến con thành một đại dương. Con chỉ là một cọng lông, xin biến con thành đôi cánh lớn. Con chỉ là một gã ăn xin, xin biến con thành một Vương hầu”. Khi nhìn lại bản thân, con cảm thấy thân xác con quá yếu đuối, suy nghĩ con thật nông cạn, trái tim con lại nhỏ bé, địa vị con quá thấp hèn, tài sản con chỉ là đôi bàn tay trắng ! Nhưng con tin rằng, nếu con biết quảng đại hiến dâng cho Chúa, thì Chúa sẽ biến hóa nó nên sức mạnh giúp con làm được những việc lớn lao. Xin cho con luôn sẵn sàng đóng góp phần nhỏ bé của con với Chúa để chu tòan sứ mệnh loan báo Tin Mừng cứu độ cho anh em con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN A
1 V 19,9a.11-13a ; Rm 9,1-5 ; Mt 14, 22-33
TÍN THÁC VÀO QUYỀN NĂNG THIÊN CHÚA
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 14, 22-33
(22) Đức Giê-su liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán đám đông. (23) Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện. Chiều đến, Người vẫn ở đó một mình. (24) Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ nhiều dặm, bị sóng đánh vì ngược gió. (25) Vào khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. (26) Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: “ma đấy !” và sợ hãi la lên. (27) Đức Giê-su liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !”. (28) Ông Phê-rô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”. (29) Đức Giê-su bảo ông: “Cứ đến!” Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giê-su. (30) Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với !”. (31) Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy ! Sao lại hoài nghi ?”. (32) Khi Thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. (33) Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa !”.
2. Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊ-SU KHỐNG CHẾ BIỂN CẢ ĐỂ BÀY TỎ THIÊN TÍNH:
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều (x. Mt 14,13-21), Đức Giê-su lên núi cầu nguyện và thuyền các môn đệ thì đã ra khơi và gặp khó khăn vì ngược gió. Khoảng 3 giờ sáng, Người đã đi trên mặt biển mà đến với thuyền các ông. Người đã trấn an khi các môn đệ sợ hãi vì tưởng mình thấy ma. Người cũng cho phép Phê-rô được đi trên mặt nước và lập tức cứu ông khỏi bị chìm và đưa ông lên thuyền bình an khi ông biết cậy trông kêu cầu Người. Chứng kiến phép lạ này, các môn đệ đã tin người là Con Thiên Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
– C 22-24: + Đức Giê-su liền bắt các môn đệ xuống thuyền: Sau phép lạ hóa bánh, dân chúng phấn khởi đoi tôn Đức Giê-su lên làm Vua Thiên Sai trần thế và các môn đệ cũng phấn khích không kém. Đức Giê-su đã giục các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia để tránh cho các ông ảo tưởng về sứ mệnh của Người (x. Ga 6,14-15). + Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện: Đức Giê-su thường dành thời gian yên tĩnh ban đêm để cầu nguyện với Chúa Cha (x. Lc 6,12), nhất là trước khi phải giải quyết những việc trọng đại (x. Mt 26,36; Lc 9,27). + Chiều đến, Người vẫn ở đó một mình: Ở một mình là không có người khác bên cạnh, trừ một mình Chúa Cha hằng ở với người (x. Ga 8,29). + Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ nhiều dặm: Bờ hồ đây là Biển hồ Giê-nê-sa-rét hay cũng gọi là Ti-bê-ri-a hoặc Ga-li-lê (x. Ga 6,1). Biển Hồ này có hình bầu dục dài 21 km, rộng 12 km, mực nước thấp hơn Địa Trung hải 208 mét. Vì quá lớn, nên Biển Hồ thường có sóng to gió lớn (x. Mt 8,23). + bị sóng đánh vì ngược gió: Bấy giờ thuyền các môn đệ đã ra giữa biển và đang bị sóng đánh chập chờn không tiến xa được vì ngược gió. Con thuyền tượng trưng cho Hội thánh ở trần gian phải đương đầu với nhiều trở lực.
– C 25-27: + Khoảng canh tư: Vào thời Đức Giê-su, dân Do Thái cũng theo người Rô-ma, chia ngày thành 12 giờ từ 6 giờ sáng đến 18 giờ chiều, và chia đêm thành 4 canh, mỗi canh kéo dài 3 giờ. Canh tư tức là vào khoảng từ 3 đến 6 giờ sáng. + Người đi trên mặt biển: Cựu Ước nhiều lần nói tới Thiên Chúa đi trên biển (x. G 9,8; Tv 77,20). Người đã từng tỏ uy quyền trên sự hỗn mang khi tạo dựng trời đất, và khống chế Biển Đỏ để giải thoát dân Người. Ở đây Đức Giê-su muốn ám chỉ Thiên Chúa có quyền trên sức mạnh của biển khơi. + Các ông hoảng hốt bảo nhau: “ma đấy !” và sợ hãi la lên: Các môn đệ thấy bóng Đức Giê-su đi trên mặt nước đến gần thuyền thì sợ hãi la lên vì tưởng mình thấy ma. + “Cứ yên tâm, đừng sợ !”: Đức Giê-su đã trấn an các ông. + Chính Thầy đây: Trong Cựu Ước Thiên Chúa hay tự xưng với các tổ phụ Do Thái: “Chính là Ta”, “Ta là Gia-vê”, “Ta là Đấng Hiện Hữu” (x. St 46,3 ; Xh 3,14). Ở đây, khi xưng mình: “Chính Thầy đây”, Đức Giê-su ngầm mạc khải Người là Thiên Chúa.
– C 28-31: + “Nếu quả là Ngài”: Phê-rô vẫn còn nghi ngờ không biết có phải Thầy hay không. + “Thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”: Câu này cho thấy Phê-rô là một người tính khí bốc đồng thiếu chín chắn vì “Mau nói mau lỗi!”. + “Cứ đến !”: Phê-rô được chia sẻ quyền năng siêu nhiên là đi trên mặt nước giống như Thầy. Tuy nhiên ông làm được là nhờ đặt trọn niềm tin và Đức Giê-su. + Thấy có gió thổi thì ông đâm sợ: Đức Giê-su có lần đã ban quyền chiến thắng sự dữ cho Phê-rô (x. Mt 16,18b), nhưng ông có nhận được quyền năng ấy hay không tuỳ vào lòng tin mạnh hay yếu. Bao lâu Phê-rô tập trung vào Đức Giê-su, thì ông còn khống chế được sức mạnh của biển cả. Nhưng khi bắt đầu hoài nghi, thì ông sợ hãi và bị chìm xuống. + “Thưa Ngài, xin cứu con với”: Câu này tương tự như lời các Tông đồ cầu cứu khi thuyền các ông sắp bị gió bão nhấn chìm (x. Mt 8,25). Trong Thánh Vịnh cũng có nhiều lời cầu nguyện của dân Do thái xin Chúa giúp họ vượt qua sức mạnh của nước biển đe dọa (Tv 69,15-16; 144,7). + Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông: Trước lời cầu xin thiết tha của Phê-rô, Đức Giê-su đã mau mắn đáp lại bằng việc đưa tay nắm lấy ông. + “Người đâu mà kém tin vậy ! Sao lại hoài nghi ?”: Lời Người vừa trách yêu đức tin yếu kém của ông, lại vừa khích lệ ông hãy kiên vững đức tin vào Người.
– C 32-33: + Gió lặng ngay: Sự hiện diện của Đức Giê-su đủ đánh tan cơn sóng gió và đem lại bình yên cho con thuyền của các môn đệ. + Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa !: Lời tuyên xưng này mới chỉ nhìn nhận Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, đồng nghĩa với Đấng Cứu thế. Tuy nhiên, Tin Mừng Mát-thêu lại muốn mượn lời tuyên xưng này để trình bày đức tin của Hội thánh thời sơ khai: “Đức Giê-su Ki-tô là Con Một Thiên Chúa, đồng bản tính với Đức Chúa Cha !”.
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao Đức Giê-su bắt các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia ngay ? 2) Đức Giê-su lên núi làm gì ? 3) Bạn biết gì về Biển hồ được đề cập trong Tin Mừng hôm nay ? 4) Tại sao con thuyền các môn đệ bị chập chờn không tiến xa được ? 5) Canh tư tức là mấy giờ sáng ? 6) Ý nghĩa của việc Đức Giê-su đi trên mặt biển là gì ? 7) Thái độ của các Tông đồ ra sao khi thấy có bóng người đi trên mặt biển đến gần và Đức Giê-su đã làm gì để trấn an các ông ? 8) Qua câu nói: “Chính Thầy đây”, Đức Giê-su đã ngầm mạc khải Người là ai ? 9) Khi xin được đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy, Phê-rô đã biểu lộ tính khí thế nào ? 10) Tại sao Phê-rô đang đi trên mặt biển lại bị chìm đắm và ông làm gì để được Chúa cứu giúp ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !”. Phê-rô thấy gió thổi thì ông đâm sợ và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với !” (Mt 14,30).
2. CÂU CHUYỆN:
1) CHÚA CHỈ BÁN HẠT GIỐNG CỦA NHỮNG ƯỚC MƠ MÀ THÔI:
Cha Antony de Mello kể lại giấc mơ của Paquita như sau : Nàng rảo quanh các quầy hàng của một trong những cửa tiệm lớn nhất hành tinh. Bỗng nhiên nàng nhận ra Thiên Chúa sau một quầy hàng :
– Lạy Chúa, Ngài bán gì vậy ?
– Tất cả những gì mà lòng con mong ước.
– Con muốn mua sự bình an trong tâm hồn, tình yêu, sự khôn ngoan, những liều thuốc chữa trị mọi thứ sợ hãi.
– Tốt lắm, nhưng ở đây không bán trái mà chỉ bán hạt giống thôi.
(André Sève, Sương mai)
2) HÃY TÍN THÁC VÀO QUYỀN NĂNG THIÊN CHÚA:
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tĩnh trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi :
– Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao ?
– Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là một người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
3) GIÁ TRỊ CỦA ƠN CHÚA TRONG CUỘC ĐỜI NGƯỜI TÍN HỮU:
Hôm ấy, tại công trường thành phố lớn kia, dân chúng tụ họp đông đảo để xem cuộc đấu giá một chiếc đàn vĩ cầm cũ kỹ, mặt đàn bị méo mó và trầy trụa. Người bán đấu giá thầm nghĩ là chẳng bõ công để tiêu phí nhiều thì giờ về cây đàn violon, tức là cây đàn vĩ cầm cũ kỹ này. Vừa giơ cây đàn vĩ cầm cũ lên ông vừa nói:
– Tôi phải ra giá cho người bạn thân yêu của tôi bao nhiêu đây?
Ông ta lớn tiếng hơn:
-Ai sẽ bắt đầu ra giá giùm tôi? Một đôla, một đôla thôi. Ai sẽ trả hai đôla nào? Hai đôla, ba đôla. Ai sẽ trả ba đôla? Ba đôla lần thứ nhất, ba đôla lần thứ hai… Tiếp tục vẫn chỉ được ba đô mà thôi.
Kế đó, từ cái phòng ở phía sau, một người đàn ông có bộ tóc bạc tiến tới và cầm cây đàn vĩ cầm lên tay. Sau khi phủi bụi bám đầy trên cây đàn và so lại những sợi dây đàn, ông chơi một giai điệu thanh trong và ngọt ngào. Tiếng đàn ngưng lại và người bán đấu giá lên tiếng với giọng nói nhẹ nhàng, trầm trầm:
– Tôi sẽ ra giá cho cây đàn cũ kia bao nhiêu đây?
Vừa nói ông vừa giơ cây đàn vĩ cầm lên cao:
Một ngàn đô, một ngàn đô. Ai sẽ trả hai? Hai ngàn đô. Ai sẽ trả ba? Ba ngàn đô lần thứ nhất, ba ngàn đô lần thứ hai.
Rồi nhất quyết ông nói:
– Thôi !
Đám đông hò reo, nhưng cũng giữa đám đông có mấy người la lên,
– Chúng tôi chẳng hiểu gì cả. Cái gì đã thay đổi giá trị cây đàn vĩ cầm cũ kỹ kia?
Người bán đấu giá đáp:
– Đó là ngón đàn của người bậc thầy.
Thật vậy, họ đã không nhận ra rằng trong đám đông cuộc bán đấu giá ấy có một ông già là tay chơi đàn vĩ cầm rất lão luyện. Cây đàn vĩ cầm vẫn là cây đàn cũ kỹkhông thay đổi, nhưng chính năng khiếu của đôi tay người nhạc công bậc thầy đã làm phát sinh những âm thanh tuyệt vời và làm cho cây đàn có giá trị hơn trước cả ngàn lần.
Mỗi người chúng ta có thể ví như cây đàn vĩ cầm trong câu chuyện trên. Chúng ta sẽ chẳng có giá trị bao nhiêu, nếu không có ơn Chúa trợ giúp. Nhưng nếu chúng ta biết mở lòng ra để thưa chuyện với Thiên Chúa, chúng ta sẽ làm được những việc lớn lao vượt quá sức của chúng ta như lời Chúa Giê-su: “Vì không có Thầy, anh em không làm được gì”.
4) HÃY LUÔN NGƯỚC MẮT LÊN TRỜI CAO:
Vào lúc mới có thuyền buồm, một cậu bé nọ xin đi biển để học làm thủy thủ. Một hôm biển có bão, người ta bảo cậu leo lên trên cột buồm. Leo được nửa phần đầu thì dễ dàng vì cậu cứ đưa mắt gắn chặt vào bầu trời. Nhưng đến lưng chừng cậu lại phạm một sai lầm. Cậu nhìn xuống mặt nước biển trong cơn bão, thế là cậu bị chóng mặt và sắp sửa ngã xuống.
Thấy thế, một thủy thủ già la to lên với cậu :”Này nhóc, ngước nhìn lên lại bầu trời đi ! Nhìn lên lại bầu trời đi”. Cậu bé nghe theo lời chỉ dẫn và cuối cùng đã leo lên được an toàn.
Lỗi lầm của cậu bé, giống hệt lỗi lầm của Phê-rô trong bài Tin mừng. Cậu ta đã rời mắt khỏi đích nhắm của mình và đã nhìn xuống mặt biển giông tố giống như Phê-rô đã rời mắt khỏi Chúa Giê-su và nhìn xuống mặt biển giông tố.
5) SỨC MẠNH BIẾN ĐỔI CỦA LỜI CẦU NGUYỆN:
Câu chuyện sau đây chứng minh sức mạnh linh thiêng của lời cầu nguyện; Khi thánh Gio-anMa-ri-a Vianey tới làng Ars nhỏ bé không mấy ai biết tới, một vài người mỉa mai nói với Ngài: “ở đây không có việc gì làm cả.” Thánh nhân trả lời: “Như vậy là có mọi chuyện để làm rồi đó.” Và Ngài làm ngay. Vậy ngài đã làm gì?
Thức dậy từ 2 giờ sáng. Ngài đến cầu nguyện gần bàn thờ trong ngôi thánh đường tối tăm nhiều giờ. Tràng hạt trong tay, mắt chăm chú nhìn lên nhà Tạm. Với sự miệt mài cầu nguyện của thánh nhân, Chúa Giê-su và Ðức Mẹ Ðồng Trinh dần dần lôi kéo các tâm hồn đền giáo xứ nghèo nàn này, và ngôi nhà thờ nhỏ bé đã trở nên chật chội không đủ chứa đám đông. Nơi tòa giải tội của Cha Sở thánh chen chúc những hàng dài hối nhân không dứt.Cha sở thánh bắt buộc phải giải tội từ 10, 15 đến 18 giờ một ngày.
Sự biến đổi đã xảy ra như thế nào? Từ một ngôi nhà thờ nghèo nàn, một bàn thờ tư lâu không dùng đến, một nhà Tạm bỏ trống, một tòa giải tội cũ kỹ và một linh mục kém tài bất lực, giờ đây, bộ mặt sinh hoạt của giáo xứ cũng như tâm hồn của các tín hữu đã hoàn toàn thay đổi.
Nguyên nhân nào đưa đến sự thay đổi xứ Ars, đến nỗi hàng trăm ngàn, và có lẽ hàng triệu người từ khắp nơi trên thế giới kéo về đây. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm những biến đổi như thế: “Những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có” (1 Cor.1:28).
Ta phải hoàn toàn quy hướng về Ngài, qua sức mạnh của lời cầu nguyện, qua sức mạnh thần linh vô biên của phép Thánh Thể và chuỗi Mân Côi.
6) PHẢI KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN:
Ông Paden Powell kể : Có hai con ếch té nhào vào trong một lu sữa to lớn. Cả hai dẫy dụa và mệt lử. Một con nản lòng và chết đuối. Con kia cũng thất vọng, nhưng mà điều đó càng khiến nó vùng vẫy đến nỗi nó trèo được lên đỉnh một khối bơ, vì nhờ vậy mà nó thoát chết.
7) LỜI CẦU NGUYỆN ĐEM LẠI BÌNH AN CHO TÂM HỒN
KÉT MIU-LƠ ( Keith Miller) tác giả cuốn sách tựa đề “Hương rượu mới” (The taste of new Wine), đã thuật lại một biến cố xảy ra làm thay đổi cả cuộc đời của ông như sau:
Vào một đêm nọ, trên đường về nhà, Két bị một chiếc xe từ sau tông làm anh té nằm bất tỉnh bên lề đường suốt một tiếng rưỡi đồng hồ, chờ xe cứu thương đến mang đi. Khi tỉnh dậy và ý thức tình trạng của mình, anh bắt đầu cầu nguyện với Chúa. Sau khi cầu nguyện xong, tự nhiên anh cảm thấy tâm hồn mình được bình an lạ lùng. Két viết: “Tôi nghĩ thật đáng xấu hổ biết bao khi mà mãi đến bây giờ tôi mới khám phá ra giá trị của lời cầu nguyện. Từ khi ấy, dù đang phải đối diện với cái chết, nhưng tôi không cảm thấy sợ hãi chút nào. Tôi có cảm giác Chúa luôn hiện diện bên tôi và sẵn sàng ra tay cứu giúp tôi”. Sau đó, Két đã được các bác sĩ kịp thời cứu sống và mau chóng bình phục. Anh trở lại đại học và được bầu làm chủ tịch lớp sinh viên năm thứ hai. Nhưng về sau, bị các hoạt động xã hội lôi cuốn, anh đã thôi không đến nhà thờ nữa và lại tiếp tục lún sâu vào các đam mê tội lỗi như trước.
Sau khi tốt nghiệp đại học, anh lập gia đình và làm việc cho một hãng xăng dầu ở tiểu bang Tếch-sớt (Texas). Nhưng cuộc sống gia đình và công việc đã không suông sẻ như anh mong ước. Một hôm Két chơi bài và đã bị thua một số tiền lớn. Bao nhiêu tiền bạc dành dụm bấy lâu giờ đây bị thua hết sạch! Anh bị vợ nặng lời mạt sát và đòi ra tòa ly hôn. Anh buồn chán đánh xe chạy vọt đi mà không biết phải đi về đâu. Sau khi chạy được một lúc, anh tấp xe vào bên lề đường, tắt máy rồi ngồi đó im lặng hút thuốc. Trước đây mỗi lần gặp phải điều gì buồn phiền, anh chỉ cần đi về nhà uống vài ly rượu mạnh rồi nằm vật ra giường ngủ một giấc đến sáng hôm sau là hết. Thế nhưng bây giờ sự thể lại không đơn giản như thế. Anh đã bị dồn đến bờ vực bị phá sản chỉ vì một phút lỡ lầm! Anh nhìn lên trời và la to lên rằng: “Nếu Chúa muốn gì nữa thì xin hãy lấy tất cả đi. Con thực sự muốn như vậy đó!” Ngay lúc ấy, đột nhiên anh cảm thấy tâm hồn được bình an, một cảm giác mà cách đây mười mấy năm anh đã từng trải qua khi bị thương nằm bất tỉnh bên đường. Ngay lúc đó, anh đã hạ quyết tâm phải thay đổi cuộc sống. Dù không có những tia sấm chớp trên trời, cũng chẳng có tiếng nói mầu nhiệm nào của Thiên Chúa, nhưng Két cũng nhận biết rõ điều Chúa muốn anh thực hiện. Người không cần tiền bạc, thời giờ hay sức lực của anh. Người chỉ cần anh dâng cho Người quyết tâm đổi mới ấy, thì Người sẽ lại ban sự bình an cho anh. Có thể nói: Két đã thực sự tái sinh một lần nữa để trở nên một người mới hoàn toàn thuộc về Chúa.
3. SUY NIỆM:
Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy nhìn vào mình. Khi chúng ta cảm thấy tâm hồn bất an, chính là lúc chúng ta đã bỏ không nhìn lên Chúa. Khi bị chìm sâu trong các đam mê tội lỗi, là lúc chúng ta hoài nghi tình thương của Chúa và bỏ làm việc đạo đức. Chúng ta hãy noi gương thánh Phê-rô cầu xin với Chúa Giê-su: ‘Lạy Ngài, xin cứu con với!”. Chắc chắn Chúa sẽ đưa tay ra nắm lấy chúng ta và ban bình an cho chúng ta.
1) “CỨ YÊN TÂM, CHÍNH THẦY ĐÂY, ĐỪNG SỢ !”:
Khi để chúng ta gặp phải những tai ương, bệnh tật và đau khổ là Chúa muốn huấn luyện đức tin của chúng ta. Đức Giê-su luôn quan tâm đến mỗi người chúng ta và sẵn sàng giúp chúng ta chiến thắng ma quỷ và sự dữ. Nếu thực sự tin vào Người thì chúng ta sẽ không sợ hãi khi gặp bất cứ thử thách nào, nhưng luôn vững tin Chúa sẽ rút từ sự dữ ra sự lành để ta được ơn cứu độ.
2) “THƯA NGÀI, XIN CỨU CON VỚI”:
Tin tưởng và luôn nhìn vào Chúa, ông Phê-rô đã có thể đi trên biển cả giống như thầy mình. Nhưng khi gió mạnh ào đến làm lung lạc đức tin, thì ông bắt đầu bị chìm xuống. Ông vội kêu lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!”. Bàn tay Đức Giê-su đã kịp thời đưa ra nắm lấy ông và đưa ông lên thuyền bình an, kèm theo lời trách nhẹ: “người đâu mà kém tin như vậy! Sao lại hoài nghi?”
3) LUÔN TÍN THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG VÀ QUYỀN NĂNG CỦA CHÚA:
Nhiều khi chúng ta có cảm tưởng đã bị Chúa bỏ rơi khi Người để chúng ta liên tiếp gặp phải các tai nạn rủi ro như người ta thường nói: “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”. Nhưng thực ra đó lại là cách Chúa dùng để huấn luyện đức tin cho chúng ta. Người muốn thử thách đức tin của chúng ta như: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức!”. Nếu gặp những tai ương hoạn nạn mà chúng ta lo lắng sợ hãi, bỏ cầu nguyện dự lễvà tin theo bói toán, bùa ngải… thì đức tin nơi ta đã chết. Nhưng nếu chúng ta vẫn trung thành với Chúa, vẫn luôn chu toàn các việc đạo đức và càng năng xin Chúa ban ơn soi sáng để biết mình phải làm gì và làm như thế nào;vẫn luôn tín thác mọi sự xảy đến cho Chúa quan phòng… thì mới chứng tỏ đức tin của chúng ta mạnh mẽ, và chắc chắn chúng ta sẽ nhận được ơn cứu độ của Chúa.
4)PHƯƠNG CÁCH CẦU NGUYỆN TRONG MỌI LÚC:
Đức Tin mạnh biểu lộ qua việc năng cầu nguyện với Chúa. Tuy nhiên, chúng ta thường hay chữa mình: Tôi bận quá không có thời giờ nào rảnh để “vào sa mạc” mà cầu nguyện. Nhưng thật ra Chúa luôn ở bên cạnh và ở trong lòng ta. Chỉ cần thành tâm và có một chút cố gắng là ta có thể tạo ra khung cảnh sa mạc cho bản thân mình. Chẳng hạn: Mỗi ngày chúng ta có biết bao giờ rãnh rỗi để đi chơi, uống một ly cà phê, tán gẫu với chúng bạn hay ngồi hàng giờ trước vô tuyến truyền hình… tại sao ta lại không bớt ra một vài phút để vào sa mạc tâm hồn mà cầu nguyện với Chúa. Mỗi ngày có rất nhiều cơ hội gặp Chúa, mà vì lười biếng, vì thiếu đức tin hay do biết giá trị của lời cầu nguyện mà chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội để gặp gỡ Chúa. Chẳng hạn: Những lúc cửa hàng vắng khách, khi xe tạm dừng để chờ đèn xanh… Khi bị kẹt xe hay khi bất ngờ bị cúp điện không thể tiếp tục làm việc bình thường được. Thay vì bực bội khó chịu, chúng ta hãy ý thức Chúa đang ở trong ta và thưavới Người về công việc đang làm, về những điều ta đang lo lắng đối phó.
4. THẢO LUẬN:
1) Mỗi người chúng ta cần học nơi thánh Phê-rô điều gì về sự cầu nguyện ? 2) Chúng ta có thể cầu nguyện với Chúa lúc nào ? 3) Khi gặp thất bại hay rủi ro trái ý, ta cần làm gì để biểu lộ lòng tín thác noi gương thánh Phê-rô ?
5. CẦU NGUYỆN:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hội Thánh ngày nay đang gặp rất nhiều khó khăn trở lực nhiều khi không thể tiến triển được. Xin cho các mục tử trong Hội Thánh luôn tin cậy vào tình thương và quyền năng của Chúa. Xin cho chúng con biết chu toàn sứ vụ làm chứng cho Chúa bằng sự quên mình vị tha và yêu thương phục vụ tha nhân. Xin cho chúng con sẵn sàng góp công góp của để cộng tác vào sứ mệnh loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.
– LẠY CHÚA. Chúa muốn con phải luôn vững tin vào Chúa mỗi khi gặp thử thách gian nan. Ngày nay vẫn có những cơn sóng gió làm chúng con bị hoài nghi và suy giảm lòng tin vào Chúa, khiến chúng con ngày một chìm sâu trong các đam mê tội lỗi. Mỗi khi con sắp bị chìm đắm, xin Chúa hãy động viên con như đã động viên các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay: “cứ yên tâm. Chính Thầy đây, đừng sợ!”. Xin hãy nắm chặt tay con khi con sắp quỵ ngã, xin hãy nâng đỡ đức tin yếu hèn của con, giúp con đứng vững trước bao sóng gió cuộc đời. Nhất là xin cho con biết luôn ngước nhìn lên Chúa là nguồn hy vọng và là sự trông cậy độc nhất của con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI A (15/08)
Kh 11,19a; 12,1-6a.10ab; 1 Cr 15,20-26; Lc 1,39-56
CÙNG MẸ THEO CHÚA VỀ TRỜI
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 1,39-56
(39) Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. (40) Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. (41) Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, (42) liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. (43) Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ? (44) Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. (45) Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.(46) Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, (47) thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi (48) Phận tỳ nữ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới. Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. (49) Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn ! (50). Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. (51) Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. (52) Chúa hạ bệ những ai quyền thế. Ngươi nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. (53) Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư. Người giàu có, lại đuổi về tay trắng. (54) Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, (55) như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót, dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”. (56) Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng có thể được chia thành ba phần như sau:
– Phần I (39-40): Sau khi trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế do lời thưa “xin vâng”, Đức Ma-ri-a vội vã lên đường thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét, đã có thai được 6 tháng, như lời sứ thần cho biết. Hai bà mẹ đều được chúc phúc vì đã quảng đại đáp lời mời gọi, cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
– Phần II (41-46a): Thần Khí tác sinh và hoan lạc đã bao trùm Đức Trinh Nữ, cũng làm cho con trẻ Gio-an đang ở trong dạ mẹ nhảy mừng, chào đón Đấng Thiên sai trong lòng Đức Ma-ri-a. Thần Khí ấy cũng tác động làm cho bà Ê-li-sa-bét nhận biết cô em họ Ma-ri-a đây, chính là Mẹ của Đấng Thiên Sai, đã đến viếng thăm mình. Cũng chính Thần Khí ấy làm cho niềm vui của Đức Ma-ri-a bộc phát thành bài ca “Ngợi khen” (Magnificat).
– Phần III (46b-56): Bài ca tóm lại lịch sử của dân Chúa trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Cách riêng Chúa đã làm cho Ma-ri-a những điều trọng đại, cũng như đã từng làm trong lịch sử dân It-ra-en: Người hạ những kẻ quyền thế kiêu căng xuống và nâng những người hèn mọn khiêm nhường lên; ban cho kẻ nghèo khó được no đầy ơn phúc và để người giàu có bị đuổi về tay không. Người luôn phù trì cho dân tộc Ít-ra-en, đúng như lời Người đã hứa với tổ phụ Áp-ra-ham, rằng sẽ thương xót ông và con cháu đến muôn đời.
3. CHÚ THÍCH:
– C 39: + Lên đường vội vã: Chỉ một thời gian ngắn sau biến cố Truyền tin, Đức Ma-ri-a đã vội vã lên đường đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét (hay cũng gọi là I-sa-ve), mà sứ thần đã cho biết bà mới có thai được 6 tháng. Bà này đã chịu tủi hổ trước mặt người đời, vì bị son sẻ không con. + Đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa: Có lẽ thành mà Đức Ma-ri-a định tới là một trong mười một địa hạt miền Giu-đê. Nhiếu người nghĩ đó là A-in Ka-rim, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem 6 cây số về phía Tây. Con đừong từ Na-da-rét đến A-in Ka-rim dài 150 cây số.
– C 40-41: + bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét: Cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ thật ra là cơ hội để thai nhi Giê-su gặp gỡ thai nhi Gio-an là vị tiền hô của Người. + Đứa con trong bụng nhảy lên: Gio-an Tẩy Giả bắt đầu sứ mệnh ngôn sứ bằng động tác nhảy lên trước Đấng Thiên Sai (Mêsia) đang ẩn mình trong dạ mẹ, giống như vua Đa-vít xưa đã nhảy mừng khi ra đón rước Hòm Bia Giao Ước. Truyền thống coi sự kiện này là dấu hiệu Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền. + Bà được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Thánh Thần đã tác động khiến bà Ê-li-sa-bét cảm nhận được Mẹ Đấng Mê-si-a mang Người đến viếng thăm nhà mình.
– C 42-44: + Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc: Bà Ê-li-sa-bét ca tụng cô em họ Ma-ri-a thực là diễm phúc hơn mọi phụ nữ, vì thai nhi trong lòng Ma-ri-a là Đấng được chúc phúc. + Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ?: “Chúa tôi” ở đây là danh xưng của Đấng Mê-si-a. Nhờ được Thần Khí tác động mà bà Ê-li-sa-bét đã nhận ra Chúa của mình là Thai nhi mà cô em Ma-ri-a đang cưu mang. Danh xưng Đức Giê-su là “Chúa” được Tin Mừng Lu-ca sử dụng đến 40 lần. + Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng: Ê-li-sa-bét chia sẻ cho Ma-ri-a sự lạ mà bà cảm nghiệm vừa xảy ra nơi bản thân. Đó cũng chính là lý do khiến bà nhận biết Đức Ma-ri-a đang cưu mang Thai Nhi Cứu Thế.
– C 45: + Em thật có phúc, vì đã tin: Ma-ri-a đã tin vào những lời Chúa phán với mình khi sứ thần truyền tin sẽ được thực hiện, và trở thành người tín hữu đầu tiên của thời Tân Ước. Ngược lại với ông Da-ca-ri-a chồng bà vì không tin và đòi thấy dấu lạ, nên đã bị câm cho đến ngày các điều đó xảy ra (x. Lc 1,20).
– C 46-50: +“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa:Sau khi nghe bà Ê-li-sa-bét khen là có phúc, Ma-ri-a đã quy hướng lời ca khen đó về cho Thiên Chúa trong bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat). Bài này mô phỏng theo bài ca mà bà An-na là mẹ của ngôn sứ Sa-mu-en, sau khi được Đức Chúa cho sinh con trai và mang đứa trẻ lên Đền Thờ tại Si-lô thời Tư tế Ê-li, để thánh hiến dâng cho Đức Chúa (x. 1 Sm 2,1-10). Kinh này nhấn mạnh hai đìều: Một là người nghèo hèn bé mọn được Chúa bênh vực (x. Xp 2,3 ; Mt 5,3); Hai là dân Ít-ra-en được Chúa tuyển chọn và yêu thương (x. Đnl 7,6). Đức Ma-ri-a đã hát lên để bày tỏ lòng tri ân của mình (cc 46-49) và của toàn dân It-ra-en (cc 50-55), vì nay đến lúc lời hứa cứu độ của Đức Chúa đã được thực hiện.
– C 51-55: +Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh: Chúa dùng quyền năng để can thiệp và bênh vực người hèn yếu (x. Tv 118,15-16). + Vì Người nhớ lại lòng thương xót: Cựu Ước thường ghi là “Thiên Chúa nhớ lại” để diễn tả việc Người luôn trung thành với lời hứa và thi hành những lời Ngừơi đã phán qua các ngôn sứ (x. St 8,1; 9,15; Xh 2,24). Lu-ca cũng không quên ghi lại lời chúc tụng tương tự trong bài ca của Da-ca-ri-a: “Người nhớ lại lời xưa giao ước” (Lc 1,72).
– C 56: + Ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng: Ở lại để phục vụ và giúp đỡ cho bà chị Ê-li-sa-bét, làm các việc nhà giúp đỡ bà, trong thời kỳ cuối trước khi sinh con, khi bà không thể lao động bình thường được. Nhưng Đức Ma-ri-a chỉ phục vụ đúng mức mà thôi. + rồi trở về nhà: Một tuần sau ngày bà Ê-li-sa-bét sinh nở, sau khi con trẻ được đặt tên và được chịu phép Cắt Bì để được gia nhập vào dân Ít-ra-en, thì Đức Ma-ri-a đã trở về nhà tại thành Na-da-rét.
4. CÂU HỎI: 1) Lý do nào khiến Đức Ma-ri-a phải vội vã lên đường viếng thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét ? 2) Truyền thống Công Giáo khẳng định Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền từ lúc nào ? 3) Bà Ê-li-sa-bét được đầy Thánh Thần đã gọi Đức Ma-ri-a bằng tước hiệu nào ? 4) Tại sao bà Ê-li-sa-bét khen Đức Ma-ri-a diễm phúc, trái với ông Gia-ca-ri-a là chồng bà ? 5) Bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat) có nguồn gốc thế nào trong Cựu Ước và nội dung nhấn mạnh những tư tưởng nào ? 6) Đức Ma-ri-a ở lại nhà bà Ê-li-sa-bét trong bao lâu và nhằm mục đích gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Bà Ê-li-sa-bét được tràn đầy Thánh Thần đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ” (41-42a), và: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (45). Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (46).
2. CÂU CHUYỆN:
1) LỊCH SỬ TÍN ĐIỀU ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI:
+ Từ thuở ban đầu, các giáo đoàn tiên khởi đều tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Từ những đoạn Thánh Kinh Tân Ước, đến các giáo phụ, rồi Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431 đã tuyên bố “Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa”. Đã có những lễ nói đến lúc chấm dứt cuộc đời của Đức Ma-ri-a như: Lễ Đức Mẹ An Giấc (dormitio), Lễ Đức Mẹ Chuyển Biến (Transitus), Lễ Đức Mẹ Sinh Ra Trên Trời (Natalis), Lễ Đức Mẹ được Nâng Lên Trời (Assumptio).
+ Riêng Lễ Đức Mẹ An Giấc (Dormitio) đã được long trọng cử hành đó đây trong Giáo Hội Đông Phương. Nhất là từ sau Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 7, lễ này mới được du nhập vào Giáo Hội Tây Phương.
Từ đó về sau nhiều thư thỉnh nguyện của các giám mục, các dòng tu, các nhà thần học được gửi đến Đức Giáo Hoàng để xin Ngài định tín về việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Trong Công đồng Vaticăng I, nhiều nghị phụ cũng yêu cầu Đức Thánh Cha quyết định điều đó, vì theo các ngài thì việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời có liên quan mật thiết với đức đồng trinh và chức vụ làm mẹ Đấng Cứu Thế của Ngài. Hơn nữa, vì Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên cũng phải được tôn vinh toàn diện như lời thánh Phao-lô: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến người, tức là cho những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,28-29). Dựa theo các thỉnh nguyện thư đó, năm 1946, Đức Pi-ô 12 đã gửi đến mỗi giám mục một lá thư và yêu cầu trả lời như sau: “Đức cha và hàng giáo sĩ, giáo dân trong giáo phận của Đức cha, có xác tín và có muốn công bố việc Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời như một tín điều hay không ?” Hầu hết các thư trả lời đều đồng ý và thỉnh nguyện như vậy. Thế là vào ngày 1.11.1950, Đức Pi-ô 12 đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Ma-ri-a Hồn Xác Lên Trời cho toàn thể Giáo Hội tin kính và mừng chung vào ngày 15 tháng 8 hằng năm.
+ Đức Thánh Cha đã xác quyết: “Thế nên Đức Thánh Mẫu cao cả, ngay từ đời đời và do cùng một quyết định tiền định, đã được kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô một cách huyền nhiệm, vô nhiễm khi đầu thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm Mẹ, cộng tác quảng đại với Đấng Cứu Thế, Đấng đã chiến thắng hoàn toàn sự tội và các hiệu quả của nó, thì cuối cùng để kết thúc mọi đặc ân ngài đã được, Đức Trinh Nữ cũng đã gìn giữ khỏi bị hư nát ở trong mồ, để nên giống Con Mình. Sau khi chiến thắng sự chết, ngài cũng được tôn vinh trên trời cả hồn lẫn xác, nơi Ngài được sáng láng làm Nữ Vương ngự bên hữu Con mình là Vua bất tử của mọi thời” (trích CGKPV trang 334).
2) MẸ MA-RI-A HẰNG CỨU GIÚP NHỮNG AI CHẠY ĐẾN KÊU CẦU NGƯỜI:
ĐU-LỚT HAI-ĐƠ (Douglas Hyde) vốn là một người vô tín và thù ghét đạo Công giáo. Ông là chủ bút một tờ báo lớn ở nước Anh. Với tư cách là chủ bút, ông nghiên cứu về Giáo hội để viết những bài phê bình chống đối gay gắt. Tuy nhiên một điều lạ lùng đã xảy ra, là ông càng nghiên cứu về giáo lý của Giáo Hội, thì tâm trí ông lại càng thêm tin tưởng vào các chân lý ấy. Tuy vậy ông vẫn chưa quyết định dứt khóat theo đạo ngay.
Một hôm, trên đường từ nhà đến tòa soạn ở trung tâm thủ đô Luân Đôn, lúc xe lửa đến trạm dừng, Đu-Lớt thấy tấm biển ghi “Nhà thờ Công giáo” ở bên đường, ông liền thử vào bên trong nhà thờ xem sao. Ông ngồi vào hàng ghế ở cuối nhà thờ và rồi thắc mắc tại sao mình lại có mặt ở đây? Bấy giờ ông thấy một cô gái bước vào nhà thờ, nét mặt âu lo buồn khổ. Cô ta đi thẳng đến trước tòa Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bên trái của cung thánh nhà thờ và quỳ dưới hình Đức Mẹ một hồi lâu. Sau đó, cô đứng dậy đi xuống cuối và ra khỏi nhà thờ. Khi cô đi ngang, Đu-lớt nhận thấy nét mặt của cô ta đã bình thản trở lại chứ không còn lo âu sầu não như khi mới bước vào nhà thờ.
Ngay lúc đó Đu-lớt quyết định thử làm theo cô ta là cũng đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ. Sau này ông đã viết trong cuốn “tôi tin” (I believed) như sau: “Tôi không biết người ta đã cầu nguyện với Đức Mẹ thế nào ? Cuối cùng tôi nghe thấy chính mình sắp nói ra một điều gì đó thích hợp. Tuy nhiên
khi bắt đầu thốt ra thì tôi lại thấy lời đó có vẻ kỳ cục làm sao ! Nhưng điều này không quan trọng gì. Tôi biết rõ là sự tìm kiếm bấy lâu nay của tôi đã đạt tới mục đích… Lúc ra khỏi nhà thờ, tôi cố gắng hồi tưởng lại những gì tôi nói và hầu như tôi bật cười lên khi nhớ lại những lời ấy. Chúng giống hệt những lời ngân lên trong một điệu khiêu vũ !” Cuối cùng Đu-lớt đã đạt tới đức tin vào Chúa Giê-su qua lời cầu bầu của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
3) ĐƯỢC CHÚA BAN ƠN CỨU ĐỘ NHỜ CÓ LÒNG YÊU MẾN ĐỨC MẸ:
Một hôm trong đám những người hành hương đến Arc có một người đàn bà mang đại tang. Bà vào giữa nhà thờ đứng như trời trồng ở giữa mọi người. Bà có vẻ rất đau khổ. Lý do là chồng bà, một người đã bỏ đạo từ lâu cách đây mấy bữa đã nhảy xuống sông tự tử… đã chết mà không được lãnh nhận những bí tích cuối cùng. Cha Gio-anMa-ri-a Vianey đi qua… Bà chưa kịp nói gì thì Cha ghé vào tai bảo bà:
– Ông nhà đã được cứu rỗi rồi.
Thấy người đàn bà có vẻ quá ngạc nhiên, cha nói lại một lần nữa:
– Tôi đã bảo ông nhà đã được cứu rỗi rồi mà.
Bà thắc mắc hỏi lại với một giọng đầy hoài nghi, cha nhấn mạnh từng tiếng:
– Tôi bảo bà là ông nhà đã được cứu rỗi rồi. Ông hiện đang ở trong Luyện ngục. Phải cầu nguyện nhiều cho ông ta. Giữa nhịp cầu và dòng nước ông đã có được một thời gian để ăn năn thống hối. Bà còn nhớ là trong tháng Đức Mẹ, bà đã cho làm một bàn thờ trong phòng của bà không? Thỉnh thoảng, chồng của bà, mặc dầu đã bỏ đạo cũng đến hợp lời cầu nguyện với bà. Thái độ đó đã đem lại cho ông ta ơn thống hối và tha tội vào phút cuối cùng của cuộc đời.
3. SUY NIỆM:
1) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ ĐỨC GIÊ-SU: Mẹ đã thụ thai và hạ sinh Đức Giê-su: Tin Mừng Lu-ca thuật lại việc Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế nhờ có Chúa ở cùng, và luôn kết hiệp mật thiết với Người. Sau lời thưa “xin vâng”, Ma-ri-a đã đuợc thụ thai mà vẫn bảo toàn đức trinh khiết nhờ quyền năng Thánh Thần (x. Lc 1,28-38). Sau đó Ma-ri-a theo “Ông Giu-se từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê lên thành Bê-lem, miền Giu-đê là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,4-7).
2) KÍNH MỪNG MA-RI-A ĐẦY ƠN PHÚC: Ma-ri-a đã được dư đầy ơn phúc và luôn được Thiên Chúa ở cùng như lời chào của sứ thần truyền tin (x. Lc 1,28).
+ Mẹ đầy ơn phúc vì tâm hồn Mẹ trong sạch và luôn kết hiệp với Chúa.
+ Mẹ có phúc vì đã tin Lời Chúa: Bà Ê-li-sa-bét đã ca tụng Đức Ma-ri-a: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
+ Mẹ có phúc vì cưu mang Chúa Giê-su là Lời Thiên Chúa làm người: NênMẹ đã được ví giống nhưHòm Bia Giao Ước Mới của Thiên Chúa (x. Ga 1,14; Mt 1,23).
+ Nhưng nhất là Mẹ có phúc vì đã nghe và thực hành Lời Chúa: Đức Giê-su đã bổ túc lời khen của một phụ nữ ca khen công cưu mang nuôi dưỡng Chúa của Mẹ như sau: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Do đó, Đức Giáo Hòang Phao-lô VI đã gọi Đức Ma-ri-a là “người môn đệ tiên khởi và tuyệt hảo nhất của Đức Ki-tô”.
3) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ HỘI THÁNH:
+ Chính Chúa Giê-su đã đặt Đức Ma-ri-a làm Mẹ Hội Thánh khi trao Mẹ cho môn đệ Gio-an đại diện Hội Thánh, để ông thay Người phụng dưỡng Mẹ sau khi Người lên trời, như Tin Mừng Gio-an thuật lại: “Đứng gần thập giá Đức Giê-su có Thân Mẫu Người, chị của thân mẫu là bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với mẹ rằng: “Thưa bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước Bà về nhà mình” (Ga 19,25-27).
+ Đức Ma-ri-a là Mẹ của Hội Thánh vì là mẹ của Đức Giê-su là Đầu, nên cũng là Mẹ của Hội Thánhlà thân thể Người, trong đó có các tín hữu chúng ta, như thánh Phao-lô dạy: “Thiên Chúa đặt Người làm Đầu toàn thể Hội Thánh. Mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (x. Ep 1,22b-23); “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18).
+ Đức Ma-ri-a nêu gương các nhân đức cho các tín hữu học tập như sau:
Nêu gương tin cậy mến qua việc lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn xin vâng (x. Lc 1,30-36);
Nêu gương bác ái chủ động đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ, và cho thai nhi Gio-an “nhảy mừng”trong dạ mẹ vì được khỏi tội tổ tông truyền. Đức bác ái nơi Mẹ còn thể hiện qua việc Mẹ sẵn sàng ở lại ba tháng để phục vụbà Ê-li-sa-bét cho tới khi bà sinh con, rồi mới trở về nhà (x. Lc 1,39-56).
Mẹ cũng nêu gương cầu nguyện tín thác khi chỉ cầu xin Đức Giê-su giúp đỡ đôi tân hôn và để Người toàn quyền quyết định phải làm gì, làm khi nào và làm như thế nào. Dù chưa tới “Giờ”hành động, nhưng Đức Giê-su đã làm phép lạ đầu tiên, là biến nước lã thành rượu ngon để giúp đôi tân hôn như lời Mẹ cầu bầu (x. Ga 2,1-11).
4) ĐỨC MA-RI-A ĐƯỢC CHÚA THƯỞNG HỒN XÁC LÊN TRỜI:
Ngoài truyền thống hay Thánh Truyền là ký ức tông truyền, Giáo Hội còn dựa trên một số đoạn Thánh Kinh cho thấy Mẹ Thiên Chúa liên kết mật thiết với Đức Giê-su Đấng Cứu Độ như sau:
+ “Dòng giống người nữ sẽ đánh vào đầu mi” (St 3,14-15): Câu này có ba cách hiểu: Một là “Sự chiến thắng của dòng giống người đàn bà trên dòng giống con rắn” (Bản văn tiếng Do Thái). Hai là “Người đàn bà sẽ đạp lên đầu mi” (Bản văn tiếng La Tinh), khẳng định vai trò của Mẹ Đấng Mê-si-a trên con rắn hỏa ngục là ma quỷ (x. Kh 12,13.17). Ba là “Người đó sẽ đánh vào đầu mi” (Bản văn Bảy mươi tiếng Hy Lạp), hiểu về Đức Giê-su là Đấng sẽ chiến thắng con rắn ma quỷ.
+ “Đấng đầy ân sủng, luôn được Thiên Chúa ở cùng” (x. Lc 1,28): Đầy ơn phúc và luôn có Chúa là hoàn toàn trong sạch thánh thiện, nên Mẹ không phải chết như loài người chúng ta. “Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giê-su” (Lc 1,31): Đức Ma-ri-a được chọn làm Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ thay vua Đa-vít để cai trị Ít-ra-en, và triều đại Người sẽ luôn vững bền.
+ Đức Ma-ri-a là E-và Mới: Đã cộng tác với Đức Giê-su là A-Đam mới, để vâng phục Chúa Cha (x. Rm 5,12-19 ; PI 2,6-11). Mẹ đã tích cực cộng tác với Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn (x. Ga 19,25), thì cũng được dự phần vào sự phục sinh vinh quang với Người. Đức Giê-su A-đam Mới đã qua đau khổ thập giá để phục sinh và lên trời, thì tiếp theo Chúa là Đức Ma-ri-a E-và Mới cũng được Thiên Chúa triệu hồi về trời hồn xác.
5) ĐỂ CÙNG MẸ THEO CHÚA LÊN TRỜI:
+ Việc Hội Thánh tuyên bố tín điều “Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời” dạy các tín hữu chúng ta ý thức rằng: “Quê hương chúng ta ở trên trời. Nơi đó chúng ta sẽ gặp Đấng Cứu Chuộc là Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta” (Pl 3,20). Tuy nhiên chúng ta chỉ được lên trời nếu biết tin yêu Chúa, phải bỏ ý riêng và tội lỗi của mình, vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa noi gương Mẹ xưa.
+ Ngày nay tuy Mẹ Ma-ri-a đã lên Trời, nhưng Mẹ vẫn luôn cầu bầu cùng Chúa Giê-su cho chúng ta là con cái Mẹ đang còn ở trần gian. Chúng ta hãy xin Mẹ giúp chúng ta được chết lành trong tay Đức Mẹ.
+ “Đến với Chúa Giê-su nhờ Mẹ Ma-ri-a” (Ad Jesum per Ma-ri-am): Hãy năngcầu nguyện kết hiệp với Mẹ Ma-ri-a, noi gương Hội Thánh thời sơ khai (x. Cv 1,14). Hãy hiệp cùng Mẹ cầu xin Chúa Giê-su giúp vượt qua mọi khó khăn như đôi tân hôn tại tiệc cưới Ca-na xưa (x. Ga 2,3).
+ Sống đức Tin, Cậy, Mến noi gương Đức Mẹ: Hãy năng nghe Lời Chúa phán, suy đi nghĩ lại để tìm hiểu ý Chúa muốn và sẵn sàng xin vâng ý Chúa, chấp nhận mọi may rủi xảy đến với lòng tín thác vào Chúa như Mẹ đã làm và được Tin Mừng thuật lại: “Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19.51).
4. THẢO LUẬN:
1) Trời hay Thiên Đàng ở đâu ? Phải chăng ở trên không trung hay trên một hành tinh nào đó trong vũ trụ ? 2) So sánh giữa việc lên trời của Đức Mẹ hôm nay giống và khác với việc thăng thiên của Chúa Giê-su thế nào ? 3) Thân xác Chúa Giê-su và thân xác Đức Mẹ hiện nay ở đâu ? 4) Theo giáo lý Công giáo thì đến ngày tận thế, xác loài người ta sẽ sống lại và chịu phán xét. Vậy những thân xác đã bị hóa thành tro bụi hay bị thú dữ ăn thịt thì làm sao sống lại được ? 5) Những kẻ khi còn sống mà bị mù què câm điếc, mặt mũi xấu xí, thì khi sống lại có bị như vậy nữa không ? 6) Ngay từ bây giờ chúng ta phải làm gì để sau này cũng được Chúa ban hạnh phúc Thiên Đàng cùng Mẹ ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY MẸ MA-RI-A LÀ MẸ RẤT NHÂN TỪ. “Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”.
LẠY MẸ. Hôm nay cùng với Hội thánh hoàn cầu, chúng con long trọng mừng lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Xin cho chúng con biết chạy đến với Mẹ mỗi khi gặp gian nan thử thách như bị thất bại trong việc làm ăn; Những lúc con không biết phải làm gì để vượt qua hoàn cảnh khó khăn nan giải… Trong những giờ phút đau thương ấy, xin cho chúng con biết chạy đến nép mình dưới tà áo Mẹ, để được Mẹ ủi anche chở, để được Mẹ cầu cùng Chúa Giê-suban cho chúng con các ơn lành hồn xác. Nhất là xin Mẹ đừng để khi nào chúng con sa vào con đường lầm lạc. Xin dạy chúng con luôn lắng nghe Lời Chúa Giê-su con yêu của Mẹ, như Mẹ đã dạy các người giúp việc tại Ca-na xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN A
Is 56,1.6-7; Rm 11,13-15.19-32; Mt 15,21-28
CÁC PHẨM CHẤT CỦA MỘT ĐỨC TIN MẠNH
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 15,21-28
(21) Ra khỏi đó, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đon. (22) thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi ! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm !”. (23) Nhưng Người không đáp lại một lời. Các môn đệ lại gần xin với Người rằng: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi !”. (24) Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi”. (25) Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi !” (26) người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. (27) Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. (28) Bấy giờ Đức Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
2. Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊ-SU CHỮA CON GÁI NGỪƠI ĐÀN BÀ XỨ CA-NA-AN:
Khi nghe người đàn bà ngoại giáo xứ Ca-na-an kêu xin giúp con gái của bà đang bị quỷ ám, Đức Giê-su im lặng và khi môn đệ cầu bầu cho bà thì Người giải thích lý do là “chỉ được sai đến với chiên lạc nhà It-ra-en mà thôi”. Tuy nhiên các lời bà đối đáp đã chứng tỏ bà có một đức tin mạnh mẽ, nên cuối cùng bà đã được Đức Giê-su khen là có đức tin mạnh và đã ban cho bà được như ý.
3. CHÚ THÍCH:
– C 21-22: + Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đon: Tia va Xi-đon là hai thành phố của dân ngoại. Khi âm thầm lui về miền đất ngoại giáo này (x. Mc 7,24), có lẽ Đức Giê-su muốn tránh sự dòm ngó của nhóm Pha-ri-sêu, cũng như tránh sự nồng nhiệt của quần chúng muốn tôn Người lên làm vua sau phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Ga 6,15). Ngoài ra, điều này còn tiên báo: Vì dân Do thái đã từ chối ơn cứu độ ưu tiên cho họ, nên dân ngoại sẽ được thừa hưởng ơn cứu độ ấy. + “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !”: Sở dĩ người đàn bà ngoại giáo biết và tuyên xưng Đức Giê-su bằng danh hiệu Con Vua Đa-vít là do bà đã ra khỏi miền đất dân ngoại và được nghe nhiều người Do Thái truyền đạt đức tin về Đức Giê-su (x. Mc 3,8).
– C 23-24: + Nhưng Người không đáp lại một lời: Khi không đáp lại lời cầu xin của người đàn bà này, Đức Giê-su muốn thử để biết về tình trạng đức tin của bà, và thêm lòng tin cho bà. + Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi !: Các môn đệ muốn Đức Giê-su thỏa mãn lời cầu xin để khỏi tiếp tục bị quấy rầy. Còn Đức Giê-su lại muốn chứng tỏ Người ban ơn cho ai là còn tùy vào lòng tin yêu của họ. Ở đây không những Người ban cho con gái bà khỏi bị quỷ ám, mà còn ban cho chính bà đức tin vào Người là điều kiện để bà được hưởng ơn cứu độ. + Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi: Sinh thời, Đức Giê-su chỉ rao giảng cho người Do Thái, là những người được thừa kế các lời hứa cho họ là con cái Thiên Chúa (x Rm 9,5; 15,8). Do đó, khi sai các môn đệ đi giảng đạo, Đức Giê-su cũng chỉ giới hạn trong lãnh thổ dân Ít-ra-en (x. Mt 10,5-6). Nhưng rồi thực tế cho thấy: dân Do Thái đã từ chối ơn ấy, nên cuối cùng họ đã bị mất quyền ưu tiên vào Nước Trời (x. Cv 18,17).
– C 25-26: + “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”: Người đàn bà tỏ ra kiên trì trong lời cầu xin: xin một lần chưa được, bà xin hai, rồi ba lần. Khi cầu xin mà chưa được nhận lời, bà vẫn bền đỗ chứ không nản lòng bỏ cuộc (x Lc 18,1). + “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”: Không nên lấy Nước Trời được hứa ban cho con cái trong nhà là dân It-ra-en, để đem cho người ngoài là dân ngoại, là dân bị người Do thái khinh khi như loài vật. Từ chó con ở đây là để làm dịu bớt sự khinh miệt theo quan điểm của dân Do thái.
– C 27-28: + Chó con: là con vật nuôi trong nhà và được mọi người cưng chiều. + Cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống: Câu nói của người đàn bà cho thấy bà có lòng khiêm tốn. Bà công nhận dân Do thái có quyền ưu tiên hơn dân ngoại trong chương trình cứu độ. Điều này cho thấy đức tin của bà thật vững mạnh. + Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy: Khi thấy người đàn bà có lòng khiêm hạ và phó thác cậy trông là biểu hiệu của một đức tin chân chính, Đức Giê-su đã khen đức tin của bà mạnh mẽ và đã ban cho bà được như ý là cho con gái bà được khỏi bệnh quỷ ám.
4. CÂU HỎI:
1) Người đàn bà ngoại giáo kêu xin Đức Giê-su bằng danh hiệu nào ? Tại sao bà ta biết được danh hiệu ấy ? 2) Tại sao Đức Giê-su làm ngơ như không biết không nghe lời kêu xin khẩn thiết của người đàn bà này ? 3) Các môn đệ yêu cầu Đức Giê-su thuận theo ý người đàn bà nhằm mục đích gì ? 4) Đức Giê-su cho môn đệ biết sứ mệnh của Người là gì ? 5) Tại sao Đức Giê-su khen đức tin của người đàn bà ngoại giáo và cuối cùng đã ban theo ý bà xin ?
HỎI: TẠI SAO CHÚA IM LẶNG TRƯỚC NHỮNG LỜI CẦU XIN CỦA CHÚNG TA ?
ĐÁP: Khi ta cầu xin mà Chúa vẫn im lặng không nhậm lời thường do mấy nguyên nhân chính như sau:
+ Có thể Chúa đang thử thách để xem đức tin của ta mạnh hay yếu ? Trưởng thành hay ấu trĩ ? Ta cần noi gương người đàn bà xứ Ca-na-an ngoại giáo trong Tin Mừng hôm nay: Một là : phải kiên trì và không ngã lòng cậy trông: Xin một lần chưa được, hãy xin thêm nhiều lần nữa. Hai là cầu xin với lòng xác tínchắc chắn Chúa sẽ ban sự tốt lành cho ta, như Đức Giê-su phán: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 7,7).
+ Có thể lời cầu xin của ta chỉ mang tính cá nhân. Ta hãy xin cộng đoàn hợp ý cầu nguyện thêm cho ta như lời Đức Giê-su: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho” (Mt 18,19). Ta cũng cần xin các thánh trên trời và các linh hồn trong chốn luyện hình cầu bầu cùng Chúa cho ta, theo tín điều “Các Thánh Cùng Thông Công”.
+ Có thể lời cầu xin của ta chưa khiêm tốn đủ: Do ta phô trương lòng đạo đức để tìm tiếng khen nơi người đời (x. Mt 6,5-6). Có thể do ta đòi Chúa phải ban ơn theo ý riêng của ta, thay vì ta phải “xin vâng” theo ý Thiên chúa như lời cầu của Đức Giê-su trong vườn Cây Dầu: “Ba ơi ! Nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
+ Có thể lời cầu xin của ta còn thiếu hy sinh: Muốn cho lời cầu xin được chấp nhận, ta phải có lễ vật kèm theo là các việc lành như xưng tội rước lễ, hy sinh hãm mình, lòng tha thứ sẵn sàng làm hòa với tha nhân như lời Đức Giê-su: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ đó lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em đã, rồi mới trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24).
+ Có thể ta xin những điều có hại cho phần rỗi mà ta không biết: Đừng đòi Chúa phải ban theo ý mình, nhưng hãy tin cậy vào lượng từ bi của Chúa, Đấng hằng muốn ban ơn cứu độ cho ta như Đức Giê-su: “Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những thứ tốt lành. Phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin người” (Mt 7,7-11; Lc 11,13).
+ Có thể do ta cầu nguyện với lòng ích kỷ: Do ta chỉ xin những điều có lợi cho mình mà hại cho người, như hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đã cùng mẹ đến xin Đức Giê-su cho được ngồi hai bên tả hữu của Thầy trong Nước Thầy sắp thiết lập (x. Mt 20-21); hoặc có thể ta đã xin Chúa thực hiện những điều sai trái như hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an xin Thầy sai lửa trời xuống thiêu hủy làng Sa-ma-ri vì họ dám từ chối đón tiếp Thầy trò vào ở trọ (x. Lc 9,53-54)… nên những lời cầu xin ấy đã không đựơc Chúa chấp nhận (x. Mt 20,23; Lc 9,55).
+ Có thể ta đã chú trọng xin ơn vật chất thể xác liên quan đến tha nhân: Có lợi cho ta nhưng lại bất lợi cho người khác. Chẳng hạn xin Chúa cho ta buôn bán thuốc đắt hàng, đang khi những bệnh nhân lại xin Chúa ban sớm khỏi bệnh để khỏi tốn tiền mua thuốc. Tốt nhất ta nên xin những ơn tinh thần như kinh Lạy Cha: xin cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện, xin tha tội nợ, xin chớ để phải sa chước cám dỗ. Về phần xác chỉ xin cho hôm nay lương thực hằng ngày (x. Mt 6,9-14).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Một người đàn bà Ca-na-an kêu lên rằng: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !”… “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi !” (Mt 15, 22a.25b). Đức Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15,28a).
2. CÂU CHUYỆN:
1) TÌNH YÊU VÀ ĐỨC TIN LUÔN ĐỒNG HÀNH VỚI NHAU:
Trong tác phẩm: “Anh em nhà Ka-ra-ma-dốp” (the Brothers Karamazov) của Đớt-tốp-ki (Dostoevski) có kể câu chuyện về một bà lão kia. Bà cảm thấy đức tin của bà bị suy thoái theo với sự suy yếu sức khoẻ về thể xác. Ngày nọ bà đến gặp một vị linh mục già tên là DỐT-SI-MA (Zossima). bà đã tâm sự về tình trạng đức tin của bà như sau: “Thưa cha, kỳ này con thường hoài nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Không biết Người có quan tâm đến hết mọi loài do Người dựng nên, trong đó có con hay không ? Sau khi chết rồi con sẽ đi đâu ? Ngoài thế giới đời này còn có đời sau không ?…” Vị linh mục già chăm chú nghe bà nói và cuối cùng ông đã trả lời rằng: “thực ra chẳng có cách nào chứng minh cụ thể về những điều mà bà đang hoài nghi kia. Tuy vậy tôi đề nghị bà hãy áp dụng một phương pháp giúp bà luôn vững tin vào những chân lý ấy”. Bà lão ngạc nhiên hỏi: “Thưa cha, bằng cách nào vậy ?” Vị linh mục liền đáp: “Bằng tình yêu. Phải, Bà hãy yêu thương người khác cách thành thật. Càng yêu thương người khác bao nhiêu thì bà lại càng vững tin vào Thiên Chúa bấy nhiêu và sẽ tin vào đời sau hơn. Càng yêu nhiều, thì đức tin của bà càng lớn lên, và các sự ngờ vực kia cũng tự nhiên tan biến hết. Đấy là một phương pháp đã được nhiều người áp dụng và tất cả đều chứng thực là rất hữu hiệu để củng cố đức tin”.
2) TƯƠNGQUAN GIỮA HIỂU BIẾT VÀ ĐỨC TIN:
Một luật sư luôn tự hào về kiến thức uyên bác của mình. Một hôm ông huênh hoang tuyên bố trước mặt đám đông như sau : Chúng ta có trí khôn có thể hiểu biết suy luận, nên chúng ta chỉ nên tin vào những điều mắt thấy và trí khôn hiểu được mà thôi”.
Trong đám đông có một em nhỏ thông thạo về giáo lý giơ tay xin phát biểu:
– Thưa luật sư. Vậy là ông sẽ không tin những điều chưa thấy và chưa hiểu phải không ạ ?
– Đúng thật như vậy.
– Vậy xin ông nói cho cháu biết : ông có thể cử động được các ngón tay của ông không và tại sao ông lại cử động được chúng ?
– Ta có thể cử động được các ngón tay của ta vì ta trông thấy nó, hiểu biết sự vận hành của nó và ta ra lệnh cho các ngón tay ấy cử động theo ý ta. Thế thôi.
– Vậy ông có thể cử động được đôi tai không, dù ông nhìn thấy, hiểu biết sự vận hành của nó và ông cũng ra lệnh cho nó cử động ?
Ông luật sư bí không thể trả lời được câu hỏi ấy liền nói :
– Thằng nhỏ ngu ngốc này lại đòi tranh cãi với ta hay sao ?
Nghe vậy mọi người đều cười lên thích thú.
(Viết theo “Tìm hiểu ít thắc mắc” của Trần công Hoán).
3) VÌ BỐ EM CHÍNH LÀ THUYỀN TRƯỞNG ĐANG CẦM LÁI CON TÀU NÀY :
Ông Byron, một thi sĩ Anh, có viết một câu truyện như sau :
Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển bao la. Phía chân trời xa, một luồng mây đen nổi lên. Bầu trời quang đãng chẳng mấy chốc đã bị mây đen phủ kín, rồi một cơn giống tố ầm ầm kéo tới, sấm chớp nổ vang ầm ầm. Mưa mỗi lúc một lớn, gió rít ngày càng mạnh hơn. Các hành khách trên tàu đều bị hoảng loạn kêu la thất thanh. Duy chỉ có một đứa trẻ 8 tuổi cứ tiếp tục ngồi chơi trên ban công, bình tĩnh nhìn con tầu đang chòng chành nghiêng ngửa giữa muôn sóng to gió lớn như không có việc gì xẩy ra chung quanh.
Thấy lạ ! Một anh thủy thủ đến bên em và hỏi : “Này em bé kia. Em không sợ chết sao ?”
Em bé liền trả lời rằng: “Mà tại sao em lại phải sợ, khi chính ba em là thuyền trưởng cừ khôi nhất đang cầm lái của con tầu này mà !”
Ước chi mỗi tín hữu chúng ta đều có thể trả lời được như em bé nói trên, khi chúng ta gặp phải các cơn thử thách gian nan trong cuộc sống. Chúng ta sẽ luôn an tâm vui sống dù đang gặp nhiều tai ương tật bệnh : “Phúc bất trùng lai. Họa vô đơn chí !”… Vì tin rằng chính Thiên Chúa là Cha chúng ta luôn quan phòng gìn giữ chúng ta khỏi mọi nguy hại, che chở chúng ta trong vòng tay yêu thương của Ngài, như Đức Giê-su sđã dạy về tình thương của Chúa Cha: “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7,11).
4) ĐỨC TIN ĐƯỢC TÔI LUYỆN NHỜ THỬ THÁCH GIAN NAN:
Thánh nữ Mo-ni-ca luôn khóc lóc, ăn chay và hãm mình để cầu xin cho đứa con hoang đàng của bà là Au-gút-ti-nô được ơn sám hối. Bà là một người phụ nữ bất hạnh vì có ông chồng khô khan, và đứa con trai ăn chơi trác táng. Đã có lần đức tin của bà bị lung lay và bà muốn thôi không cầu xin nữa. Nhưng bà dã được giám mục Am-brô-si-ô khuyên như sau: “Bà hãy yên tâm, đứa con của bao giọt nước mắt sẽ không thể bị hư mất”.
Thực vậy, nhờ niềm tin của người mẹ mà Thiên Chúa đã thay đổi số phận của người con bà: Au-gút-ti-nô về sau đã từ bỏ con đường tội lỗi để sống tốt lành thánh thiện, đã từ bỏ công danh sự nghiệp trần thế để tận hiến cuộc đời phụng sự Thiên Chúa. Đã không còn đi tìm thú vui thể xác bèo bọt để đi tìm kiếm hạnh phúc tồn tại muôn đời là Nước Trời đời sau.
5) THIÊN CHÚA KHÔNG THIÊN VỊ NHƯNG BAN ƠN CỨU ĐỘ CHO HẾT MỌI NGƯỜI:
Ngày nọ, Chúa Giê-su cải trang đến thăm một hội chợ Tôn giáo. Ngài thấy những người đứng đầu các gian hàng đều tỏ thái độ hung hãn và huênh hoang tuyên truyền về Tôn giáo của mình.
Tại quầy hàng của Do thái giáo, người chủ quầy nói : “Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất quyền năng, công minh và chỉ có dân tộc Do thái mới được Ngài tuyển chọn làm dân riêng. Ngoài dân Do thái ra, không có dân tộc nào khác được Đức Chúa ban ơn cứu độ”.
Tại quầy hàng của người Hồi giáo, người bán hàng rêu rao : “Vạn tuế Thánh A-la vĩ đại và đầy quyền năng và vạn tuế Mô-ha-mét. Người ta chỉ được cứu độ nếu vâng lời Tiên tri Mô-ha-mét là vị Tiên tri tối cao và duy nhất của Thánh A-la”.
Tại quầy hàng của người Ki-tô giáo, thì trưng một biểu ngữ : “Thiên Chúa là Tình Yêu và không có ơn cứu độ nào bên ngoài Giáo hội. Người ta phải nhập vào Giáo hội mới được cứu độ”.
Trên đường ra về, một bạn đồng hành hỏi Đức Giê-su : “Ngài đánh giá thế nào về những điều người ta nói trong Hội chợ Tôn Giáo vừa qua ?” Người trả lời : “Ta không chủ trương tổ chức Hội Chợ Tôn giáo này, và ta cảm thấy vô cùng xấu hổ vì đã lỡ đến thăm viếng nó !!!”
6) THẾ NÀO LÀ MỘT ĐỨC TIN PHÓ THÁC:
Cách đây ít lâu, báo chí tường thuật lại một sự kiện: Vào một đêm nọ, một đám cháy đã bùng lên từ nhà bếp của một căn nhà. Bấy giờ ông bố bà mẹ đã bế mấy đứa con trong nhà ra sân và buồn bã đứng nhìn ngôi nhà đang cháy rất to, chứng kiến căn nhà là kết quả của bao năm ăn tằn hà tiện giờ đang bốc cháy. Bất chợt bà mẹ phát hiện ra còn thiếu thằng con trai út năm tuổi nằm ngủ ở tầng trên. Đứa bé này nghe tiếng báo cháy và khói bốc vào phòng đã thức giấc và chạy ra khỏi phòng về phía cầu thang xuống nhà. Nhưng khói lửa lại đang từ cầu thang bốc lên khiến em không thể xuống dưới nhà với gia đình, em đành đứng khóc ngoài ban công lầu một. Cha mẹ em hiểu rằng không thể liều mình vào trong nhà đang bốc cháy như một lò lửa rất lớn. Bấy giờ cha mẹ em thấy con đang đứng khóc bên ngoài ban-công. Nhìn thấy con, ông bố đứng dưới sân hét to: “Con mau nhảy xuống đi”. Đứa bé nhìn đâu cũng chỉ thấy khóí lửa mịt mù và đang bị ho vì hít phải khói độc. Em nghe thấy tiếng nói của bố liền đáp: “Bố ơi, con không nhìn thấy bố”. Ông bố lại quát lớn: “Bố đứng dưới này nhìn thấy con rất rõ. Con hãy nhảy xuống đi có bố đỡ”. Khi thấy lửa sắp cháy tới nơi, em bé liền vâng lời nhảy xuống đất và đã nằm an toàn trong vòng tay của bố, vì ông đang đứng chờ đón nó ngay ở phía dưới.
Đứa bé trong câu chuyện trên chính là hình ảnh của các tín hữu chúng ta hôm nay. Trong cơn cùng khốn, chúng ta được nghe tiếng Chúa phán : “Anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1). Chắc đã có lần chúng ta thưa : “Chúa ơi, con chẳng nhìn thấy Chúa đâu cả”, và chúng ta tưởng Chúa đã bỏ rơi mình rồi, mà không biết rằng Chúa luôn ở bên chúng ta và sẵn sàng dang tay cứu giúp chúng ta, như Người đã từng nói với các môn đệ : “Cứ yên tâm. Chính Thầy đây. Đừng sợ !” (Mc 6,50).
7) TÔI MUỐN CHO CON TÔI ĐƯỢC SỐNG:
Câu truyện này xẩy ra vào tháng 12 năm 1987. Một cơn động đất đã xẩy ra ở Armenia thuộc Liên xô cũ đã giết chết hàng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có hai mẹ con bà Su-zan-na. Hai mẹ con đã may mắn nằm lọt trong một khoảng trống nhỏ khi cơn động đất làm sụp đổ ngôi nhà đang ở. Tất cả lương thực hai mẹ con có lúc này chỉ là một hũ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng đã hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi liền nói : ”Mẹ ơi, con khát quá”. Bà Su-zan-na không biết phải tìm đâu ra nước cho con uống. Rồi tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo : bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay của mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến khi người ta đào bới tới nơi và cứu thoát được hai mẹ con. Khi được hỏi lý do tại sao bà làm điều nguy hiểm như thế, bà mẹ đã trả lời như sau : ”Lúc đó tôi nghĩ chắc mình sắp chết, nhưng tôi lại muốn cho con tôi được sống”.
3. SUY NIỆM:
Một người đàn bà ngoại giáo Ca-na-an có đứa con gái bị quỷ ám đã đi tìm Đức Giê-su để xin Người chữa cho con gái bà được lành bệnh. Nhờ đức tin mạnh mà bà đã được Người ban như ý. Vậy để lời cầu xin của chúng ta xứng đáng được Chúa chấp nhận, chúng ta cần phải tin cậy cầu nguyện như thế nào ?
1) CẦN CẦU NGUYỆN VỚI MỘT ĐỨC TIN TRƯỞNG THÀNH: Người đàn bà này đã kêu to lên để xin Đức Giê-su thương cứu con gái bà đang bị quỷ ám. Bà nói: “Lạy Ngài là Con Vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi ! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm !” Nhưng Đức Giê-su im lặng không đáp lại một lời ! (22-23). Thực ra không phải Người thờ ơ lãnh đạm trước nỗi khổ đau của người khác. Nhưng Người muốn thử thách để xem đức tin của bà ra sao ? Nếu bà không xin nữa thì đức tin nơi bà chỉ là thứ đức tin vụ lợi: “Tin Chúa để được ơn theo ý riêng mình” như người ta thường nói: “Theo đạo lấy gạo mà ăn”; “Cúi đầu lạy Chúa Ba Ngôi. Cho tôi được vợ tôi thôi nhà thờ !”… Ngày nay nhiều lần người tín hữu chúng ta cũng cầu xin và cũng gặp phải sự im lặng của Chúa như thế. Khi ấy, có người sẽ biểu lộ sự hồ nghi qua lời than trách: “Thiên Chúa có hiện hữu hay không ? Ngài có nghe thấy lời cầu xin của con không ? Có nhìn thấy những khó khăn của con và ra tay cứu giúp không ?”.
2) CẦN MỘT ĐỨC CẬY VỮNG VÀNG: Người đàn bà Ca-na-an trong Tin Mừng hôm nay đã không ngã lòng trông cậy, dù bị Đức Giê-su im lặng như đang giả điếc làm ngơ. Bà luôn vững tâm và kiên trì nhiều lần kêu xin Người thương cứu giúp: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi !” (23b-25) Cuối cùng bà đã được như ý. Nhiều tín hữu chúng ta khi cầu xin mà không được nhậm lời ngay, đã vội chán nản ngã lòng trông cậy, thôi không cầu nguyện nữa và “hữu sự vái tứ phương”: chạy đến với thầy bói, thầy bùa ngải hay làm những điều mê tín dị đoan khác…
3) CẦN MỘT ĐỨC MẾN KHIÊM TỐN: Nghe Đức Giê-su trả lời: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”, bà ta thưa: “Thưa ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bà vì thương con sẵn sàng chịu đựng những lời nói miệt thị của dân Do Thái, vì họ luôn coi dân ngoại như loài chó hạ cấp. Chính sự khiêm tốn của bà đã khiến bà được Chúa Giê-su yêu mến khen ngợi và ban cho bà được như ý.
Như vậy, tin không phải là đòi Chúa luôn phải ban ơn theo ý riêng mình, nhưng do lòng yêu mến thôi thúc, chúng ta hãy nêu ra ý cầu nguyện cho mình và tha nhân, phó thác để Chúa toàn quyền quyết định ban hay không ban, và ban như thế nào, rồi sẵn sàng xin vâng ý Chúa, vì biết rằng mọi sự xảy ra đều tốt và hữu ích cho phần rỗi đời đời của ta.
4) TƯƠNG QUAN GIỮA ĐỨC MẾN VÀ ĐỨC TIN:
– Một điều hiển nhiên mà ta có thể khẳng định, đó là tình yêu thương của người đàn bà ngoại giáo dành cho con thật dạt dào. Vì thương con, chị ta đã kiên trì đi theo kêu xin Đức Giê-su. Cũng vì thương con, chị đã vượt qua sự tự ái, đồng thời bày tỏ lòng tin khiêm nhu: “Vâng, thưa Ngài, dẫu sao, chó con cũng được hưởng những mảnh vụn từ bàn rơi xuống” (Mt 15,27).
– Như vậy: tin phát sinh từ con tim hơn là từ khối óc. Quả thật. lịch sủ Hội Thánh minh chứng rằng nhiều người đã có đức tin do cảm nhận một tình thương, do nhận được một nghĩa cử cao đẹp của một ai đó hơn là vì biết giáo lý. Xét theo chiều ngược lại, khi niềm tin của một tín hữu bị ngả nghiêng, chao đảo hay khô khan nguội lạnh, thường là do đời sống luân lý bị sa sút hơn là do sự thiếu hiểu biết đức tin. Nói như vậy không có nghĩa loại trừ hay giảm nhẹ vai trò quan trọng của lý trí trong việc tìm hiểu giáo lý, gìn giữ và củng cố đức tin của mình.
– Trong thời gian rao giảng tin mừng Nước Trời, Đức Giê-su cũng luôn biểu lộ tình thương của Người qua việc thi ân giáng phúc trước, rồi mới mời gọi người ta tin theo Người. Phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi năm ngàn người ăn no, cũng như chữa lành người mù từ thuở mới sinh… là một minh chứng ( Ga 6,35; 9,35 ). Là những người đã có đức tin, ước gì chúng ta biết củng cố niềm tin bằng những hành động bác ái yêu thương, như lời thánh Gia-cô-bê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17 ). Việc làm nói đây chính là các việc bác ái yêu thương, khiêm nhường phục vụ những kẻ nghèo hèn bệnh tật và đau khổ.
Có nhiều cách thế để thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng, tuy nhiên phương cách thiết thực và hữu hiệu nhất, là quảng đại chia sẻ tinh thần vật chất cho người nghèo, bệnh tật và bất hạnh… Việc bác ái phát xuất từ một tấm lòng yêu thương chân thật của chúng ta sẽ có sức thuyết phục rất lớn như lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5 16).
4. THẢO LUẬN: 1) Khi gặp tai ương họan nạn, bạn thường cầu xin với Thiên Chúa, với Chúa Giê-su hay với Đức Mẹ và các thánh làm phép lạ ? 2) Qua kinh Lạy Cha, bạn thấy lời cầu nguyện do chính Đức Giê-su dạy có những đặc điểm nào ? 3) Từ nay bạn quyết tâm sẽ cầu nguyện ra sao từ khi thức dậy ban sáng đến lúc đi ngủ ban đêm ?
5. NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA CHA NHÂN ÁI. Con xin cảm tạ Cha vì biết bao hồng ân Cha đã đổ xuống trên con. Rất nhiều ơn Cha ban mà con cứ tưởng là chuyện tự nhiên như: khí trời con thở, cơm bánh con ăn, áo quần con mặc, đồ dùng con sử dụng… Thế mà con lại đau khổ khi không được Cha ban theo điều con xin, hay những khi Cha để con gặp phải những sự rủi ro trái ý. Con đã quên rằng đời con luôn được Cha bao bọc bằng muôn ngàn hồng ân lớn lao cả hồn lẫn xác.
– LẠY CHA. Con xin cảm tạ Cha vì những gì Cha đã không ban, vì con tin chắc rằng Cha biết điều ấy có hại cho phần rỗi đời đời của con, hoặc vì Cha muốn ban nhiều ơn khác có ích cho phần rỗi của con hơn. Xin cho con luôn vững tin vào tình thương quan phòng chở che của Cha giống như “gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh”. Nhờ đó khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi đuợc may lành như ý cũng như khi bị những điều trái ý cực lòng… Xin cho con luôn biết cậy trông và phó thác trọn vẹn nơi tình thương quan phòng của Cha.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN A
Is 22,19-23 ; Rm 11,33-36 ; Mt 16,13-20
TRỞ NÊN VIÊN ĐÁ SỐNG ĐỘNG XÂY DỰNG ĐỀN THỜ HỘI THÁNH
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 16,13-20
(13) Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai ?” (14) Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ” (15) Đức Giê-su lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” (16) Ông Si-mon Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. (17) Đức Giê-su nói với ông: “Này anh Si-mon con ông Giô-na. Anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. (18) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. (19) Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (20) Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô.
2. Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊ-SU HỨA XÂY HỘI THÁNH TRÊN NỀN ĐÁ ĐỨC TIN PHÊ-RÔ:
Để trả lời cho câu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai ?”, Các môn đệ kể lại dư luận về vai trò và sứ mệnh của Đức Giê-su. Riêng Tông đồ Si-mon đại diện nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Ông đã được Đức Giê-su khen là có phúc, được Người đổi tên thành Phê-rô, nghĩa là “Tảng đá”. Người còn hứa sẽ xây Hội Thánh trên đức tin của ông, và ban cho ông khả năng chiến thắng ma quỷ. Người cũng trao quyền tối thượng với quyền cầm buộc và tháo cởi về đức tin và luân lý.
3. CHÚ THÍCH VÀ HỎI ĐÁP:
HÒI 1: Tên Phê-rô nghĩa là gì và việc đổi tên mang ý nghĩa gì ? Tại sao Đức Giê-su lại xây Hội Thánh của Người trên con người bất toàn Phê-rô, đang khi chỉ mình Người mới là Tảng Đá đích thực (x. 1 Pr 2,4)?
ĐÁP:
– Phê-rô hay Kê-pha nghĩa là Tảng Đá và có hai nghĩa: Một là viên đá lớn, hai là tên riêng do Đức Giê-su đặt để thay tên cũ là Si-mon. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa thường đổi tên kẻ mà Người muốn trao cho nhiệm vụ đặc biệt. Chẳng hạn: tổ phụ Áp-ram được Thiên Chúa đổi tên thành Áp-ra-ham nghĩa là “Cha của vô số người” (x. St 17,5) và trao sứ mệnh làm “Tổ phụ nhiều dân tộc” (x. Rm 4,17).
– Phê-rô tuy yếu đuối và đã từng sa ngã phạm tội chối Thầy ba lần (x. Mt 26,69-74), nhưng ông đã được cái nhìn của Đức Giê-su thức tỉnh và lập tức hồi tâm sám hối (x. Lc 22,61-62). Ông cũng tuyên xưng lòng mến Thầy ba lần, nên đã được Người tha tội, như Người cũng nói về người phụ nữ tội lỗi: “Tội của chị ta rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị ta đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (x. Lc 7,47).
– Vậy phải chăng Đức Giê-su hứa sẽ xây dựng Hội Thánh của Người trên Tảng Đá là con người Phê-rô yếu hèn hay Tảng Đá vững chắc là chính Người ? Thánh Phê-rô viết: “Anh em hãy lại gần Đức Ki-tô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá. Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi đền thờ thiêng liêng… Còn đối với những kẻ không tin thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa” (1 Pr 2,4-7). Thánh Phao-lô trong thư thứ nhất Cô-rin-tô viết như sau: “Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giê-su Ki-tô” (1 Cr 3,11).
Như vậy Tảng Đá góc tường là chính Đức Giê-su. Nhưng các tín hữu là những kẻ tin vào Người cũng trở thành những viên đá sống động. Riêng đối với Si-mon Phê-rô, nhờ tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, mà ông đã được Người khen là có phúc và được đổi tên từ Si-mon thành Phê-rô nghĩa là Tảng Đá đức tin. Trên nền Đá đức tin vào Đức Giê-su đó mà Hội Thánh đã được xây dựng. Đức Giê-su còn trao chìa khóa Nước Trời với quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông. Người hứa sẽ cầu nguyện để ông khỏi mất đức tin, và khi đã trở lại ông sẽ có trách nhiệm củng cố đức tin của các anh em (x. Lc 22,32). Cuối cùng Người còn trao quyền chăn dắt đoàn chiên của Người cho ông nữa (x. Ga 21,15-17).
HỎI 2: Phải chăng Đức Giê-su chỉ trao quyền cầm buộc tháo cởi riêng cho Tông Đồ Phê-rô, chứ không trao quyền ấy cho các giáo hoàng kế vị sau này ?
ĐÁP:Về tối thượng quyền của Phê-rô :
– Các giáo hội Ki-tô không công giáo như Chính Thống, Tin Lành… luôn tìm cách giải thích câu 19 này theo nghĩa hẹpvì họ không công nhận tối thượng quyền của ông Phê-rô. Theo họ, quyền chìa khóa cầm buộc tháo cới nói đây Đức Giê-su chỉ ban riêng cho ông Phê-rô thôi, sau khi ông chết thì mọi Giám mục cũng đều ngang quyền nhau vì cũng đều kế vị các tông đồ như nhau.
– Nhưng theo GH Công giáo thì câu 19 Đức Giê-su trao chìa khóa kèm theo quyền cầm buộc và tháo cởi không phải chỉ ban riêng cho Phê-rô, mà còn trao cho các đấng kế vị Phê-rô là các vị Giáo Hoàng. Thực vậy, Đức Giê-su đã hứa rằng Hội Thánh được xây trên nền đá đức tin của Phê-rô sẽ luôn trường tồn bất diệt, nên Người cũng muốn quyền được ban cho Phê-rô cũng sẽ tiếp tục được truyền sang cho các đấng kế vị sau này là các vị Giáo hòang. Chính vì thế, Giáo hội Công Giáo công nhận rằng: Khi Đức Giáo hoàng đứng trên tòa thánh Phê-rô mà công bố điều gì về đức tin và luân lý thì đều được Chúa Thánh Thần ban ơn vô ngộ, nghĩa là không thể sai lầm được. Vì cũng như Phê-rô xưa, tuy các Đức Giáo hoàng có thể sai lầm trong những lãnh vực khác như chính trị, kinh tế…, cũng có thể phạm tội trọng như Giáo hoàng A-le-xan-der VI… Nhưng các Đức Giáo hoàng kế vị cũng được Đức Giê-su cầu nguyện cho, giống như Người đã cầu cho ông Phê-rô, để ông khỏi mất đức tin, và để ông chu toàn sứ vụ “củng cố đức tin” cho các anh em mình như câu sau : “Si-mon, Si-mon ơi. Kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22,31-32).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,18-19).
2. CÂU CHUYỆN:
1) TÌNH HÌNH XUỐNG CẤP CỦA HỘI THÁNH NƯỚC ĐỨC HIỆN NAY :
Số liệu thống kê từ Hội đồng Giám mục Đức mới công bố vào ngày 21/7/2017 như sau:
Trong năm 2016 có 28,5% người Đức theo Công giáo gồm 23,582,000, giảm so với con số năm 1996 là 27.533.000 người.
Trong hai thập kỷ qua, đã có hơn 3.000 giáo xứ phải đóng cửa, giảm từ 13.329 giáo xứ xuống còn 10.280 giáo xứ.Riêng năm 2016đã có 537 giáo xứ phải đóng cửa.
Về số linh mục: năm 2016 Giáo hội Đức có 13.856 linh mục, sụt giảm so với năm 2015 là 14.087 linh mục. Tỷ lệ người tham dự lễ Chúa nhật là 10,2% năm 2016, giảm so với năm 2015 là 10,4%.
Chính do lòng tin của các tín hữu không được củng cố bằng việc sống Lời Chúa và lười biếng lãnh nhận các bí tích, kèm theo tội lỗi và gương xấu của một số vị mục tử bị giới công nghệ thông tin thổi phồng, là nguyên nhân làm suy giảm số lượng tín hữu và số các linh mục tu sĩ nơi một đất nước nổi tiếng có truyền thống công giáo này.
2) VIÊN ĐÁ TẢNG XÂY DỰNG ĐỀN THỜ HỘI THÁNH :
Cho đến năm 1896, vùng Cayenne ở Saint Ouen không bao giờ thấy bóng chiếc áo dòng đen. Nhưng một ngày trong năm đó, một vị linh mục cả gan xâm nhập vào vùng ấy. Một người thấy vậy liền ném đá vào đầu linh mục. Vị linh mục đã cúi xuống nhặt lấy viên đá đầy máu đỏ kia và nói: “Xin cảm ơn ông, đây là viên đá đầu tiên của một Đền thờ tôi muốn xây dựng tại đây.”
Và về sau viên đá đó trở thành viên đá đầu tiên xây dựng ngôi Đền thờ kính Đức Mẹ Mân côi. Nước Thiên Chúa là Hội thánh, cũng bắt đầu trong nhỏ bé và bạc đãi như vậy: “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng.” (Mc 4,31-32).
Chúng ta tin tưởng rằng Hội thánh của Chúa Giê-su luôn vững bền, dù gặp muôn vàn khó khăn, vì Hội Thánh như ngôi nhà được xây trên nền đá là sự thực hành Lời Chúa (x Mt 7,24-27).
3) THÀNH QUẢ 20 NĂM GIÁO HOÀNG CỦA ĐỨC GIO-AN PHAO-LÔ II:
Nhân kỷ niệm 20 năm triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II, (1978-1998) người ta đã thống kê được những con số chính xác những việc ngài đã thực hiện như sau:
– 84 chuyến công du và hành hương ngoại quốc.
– 134 chuyến viếng thăm mục vụ trong nước Ý.
– 3,078 bài nói chuyện và bài giảng.
– 700 chuyến đi thăm nhà tù, dòng tu, chủng viện, bệnh viện, nhà dưỡng lão, giáo xứ.
Ngài đã viết:
– 13 thông điệp
– 36 Tông thư
– 15 Thư cho các nhân vật và các nhóm đặc biệt
– 9 Tông thư tổng kết sau Thượng Hội đồng.
Ngài đã đọc diễn văn cho:
– 600 chuyến “Đi Viếng Mộ Thánh Phê-rô” của các giám mục.
Ngài đã công bố:
– Giáo luật mới và sách Giáo Lý Công giáo, (Giáo luật cũ đã công bố cách đây 400 năm)
Ngài đã tôn phong:
– 798 chân phước.
– 280 thánh mới (trong đó có 117 thánh tử đạo Việt nam vào ngày 19-6-1988).
– Chưa kể phong thánh cho 233 vị Thánh Tử Đạo tại Tây Ban Nha.
– Tổng cộng chủ sự 145 buổi lễ phong thánh.
Ngài đã chọn:
– 2650 Giám mục trong số 4200 giám mục trong Hội thánh.
– 159 Tân Hồng Y.
– Thiết lập quan hệ ngoại giao với 64 nước, phục hồi quan hệ ngoại giao với 6 nước khác, nâng tổng số các quốc gia có liên hệ với Tòa Thánh là 168 nước.
Đó là những con số biết nói trong 20 năm phục vụ Chúa và Giáo hội của Đức Thánh Cha Gio-anPhaolo II, vị Giáo hoàng thứ 264 kế vị thánh Phê-rô tông đồ, giáo hoàng tiên khởi, đã được Chúa trao cho quyền tối thượng Tin Mừng hôm nay đã nhắc lại sự kiện quan trọng ấy.
4) GƯƠNG THA THỨ CỦA THÁNH GIÁO HOÀNG GIO-AN PHAO-LÔ II:
Cách đây ít lâu, một tờ báo Ý đã tiết lộ một tin quan trọng về đức Gio-an Phao-lô II như sau: Khi còn là sinh viên du học tại Rô-ma, một hôm ngài đi cùng các bạn đến thăm linh mục đáng kính là cha Pi-ô rất đạo đức thánh thiện, đã được in năm dấu thánh lên thân xác. Vừa gặp mặt cậu sinh viên, cha Pi-ô đã ôm chầm lấy cậu và nói tiên tri rằng: “Một ngày kia, con sẽ làm Giáo hoàng, và đời của con sẽ gặp nhiều trắc trở, bị đau khổ và còn chịu đổ máu mình ra vì Chúa nữa”. Bấy giờ cậu sinh viên trả lời: “Nhưng con không sợ sau này sẽ bị đổ máu, vì con tin rằng làm sao con có thể trở thành Giáo hoàng được !”. Nhưng thánh ý Chúa thật nhiệm mầu : Hồng y Vốt-ti-la người Ba-lan đã được bầu làm Giáo hoàng, với danh hiệu là Gio-an Phao-lô Đệ Nhị. Rồi về sau ngài đã bị đổ máu trong cuộc mưu sát bất thành vào năm 1981 tại quảng trường thánh Phê-rô.
Mới đây ngày 05 tháng 07 năm 2005, hãng thông tấn Apcom của Ý và nhật báo Ba-lan Rzeczpospolita đã đưa tin đức cố Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã từng viết một bức thư chưa công bố cho M.Agca, kẻ đã bắn ngài trọng thương năm 1981. Bức thư được viết không lâu sau vụ ám sát, đức cố Giáo hoàng đã hỏi Agca người Thổ Nhĩ Kỳ rằng: Tại sao hắn lại bắn ngài, trong khi cả hai cùng tôn thờ Chúa ? Lúc đầu, đức cố Giáo hoàng định công bố nội dung bức thư này. Nhưng sau đó ngài lại quyết định không gửi đi, và đến năm 1983 ngài đã đến gặp trực tiếp Agca, kẻ đã muốn lấy mạng ngài tại một nhà tù ở Ý, và đã tỏ ý sẵn sàng tha thứ cho hắn ta. Đến năm 2000, Agca đã bị dẫn độ về Thổ Nhĩ Kỳ sau khi đã thụ án gần 20 năm ở Ý.
Đức Gio-an Phao-lô II là vị Giáo hoàng thứ 264 kể từ vị Giáo hoàng tiên khởi là thánh Phê-rô. Hiện nay Đức Bê-nê-đích-tô XVI lên nay thế Đức Gio-an Phao-lô II và ngài là vị Giáo Hòang thứ 265 kể từ thánh Phê-rô Tông đồ. Sau đó ngài từ chức nhường chỗ cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô ngưới Ác-hen-ti-na lên ngôi Giáo Hoàng thứ 266. Gần đây đức Giáo hòang Gio-an Phao-lô II đã được Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô chủ lễ phong thánh chung với thánh Giáo Hoàng Gio-an 23 tại Rô-ma vào Chúa Nhật II Phục Sinh, kính Lòng Chúa Thương Xót ngày 27 tháng 04 năm 2014 với sự hiện diện của khoảng 800 ngàn tín hữu.
5) CẬU ĐÃ LÀM ĐƯỢC GÌ CHO CHÚA GIÊ-SU ? :
Trong tiểu sử của thánh Sác đơ Phu-cô kể rằng: sau khi từ Ma-rốc trở về, anh say sưa kể lại cho gia đình nghe những cuộc thám hiểm đầy kỳ thú của anh qua những khu rừng Phi Châu, người chăm chú theo dõi câu chuyện hơn cả là một cô cháu gái chưa đầy 10 tuổi. Khi anh vừa kể xong, bất ngờ cô bé hỏi: “Thưa cậu, cháu thấy cậu làm được nhiều việc rất hay, thế cậu đã làm được gì cho Chúa Giê-su chưa?”. Câu hỏi ấy như một luồng điện giật làm Sác đờ Phu-cô bất động. Từ bao lâu nay chưa ai đã khiến anh phải suy nghĩ nhiều như thế: anh đã làm được gì cho Chúa Giê-su? Anh lục soát tâm hồn mình, anh chỉ thấy một lỗ hổng không đáy, anh đã phí phạm tất cả thời giờ và tuổi thanh xuân cho những cuộc ăn chơi truỵ lạc và những danh vọng thấp hèn, mắt anh bỗng mở ra để thấy nỗi khốn khổ, nghèo hèn của mình.
Ngày hôm sau, anh tìm đến xưng tội với một linh mục. Anh vào dòng khổ tu, ít lâu sau, anh xin đến Nagiarét để sống trọn vẹn cho Chúa Giê-su. Một ngày kia, khi đang cầu nguyện sốt sắng trong phòng, bỗng anh nghe thấy từ căn nhà bên cạnh tiếng rên rỉ của một người Hồi giáo, nhớ lại gương bác ái của Chúa Giê-su, anh tự hỏi: tôi có thể giam mình cầu nguyện trong phòng trong lúc có những anh chị em chung quanh đang khốn khổ thất vọng chăng? Thế là anh quyết định đến sống giữa họ, trở thành người anh em của họ, nhất là của những người cô đơn, lạc lõng, nghèo hèn. Những năm cuối đời, anh sống giữa sa mạc Sa-ha-ra, chia sẻ hoàn toàn cuộc sống cho những người cùng khổ, và chia sẻ đến giọt máu cuối cùng khi phát súng oan nghiệt của kẻ sát nhân bắn gục anh giữa lúc đang cầu nguyện.
Mọi Ki-tô hữu chân chính đều phải tự hỏi mình: tôi đã làm được gì cho Chúa Giê-su? Chúng ta cũng tự hỏi mình như thế. Qua bao nhiêu năm tháng cuộc đời, qua bao nhiêu nhiệm vụ lớn nhỏ đã hoặc đang đảm trách, qua bao nhiêu hồng ân đã lãnh nhận, tôi đã làm được gì cho Chúa Giê-su? Không phải là cho Chúa Giê-su mãi đâu trên trời, nhưng là cho Chúa Giê-su đang tiếp tục ngự đến, đang tiếp tục hiện diện trong cuộc đời tôi, trong tâm hồn tôi, nơi những người anh em tôi, cũng là anh em của Ngài, nhất là những ai thấp hèn, cùng khổ. Tôi tự hỏi mình, mà chính Chúa Giê-su cũng hỏi tôi mỗi ngày: “Con đã làm được gì cho Cha?”, cũng có nghĩa là “Con đã làm được gì cho những người anh em bé mọn nhất của Cha?”. Mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ và trả lời với Chúa.
6) LỜI CẦU KHIÊM TỐN CỦA MỘT VIÊN GẠCH TẦM THƯỜNG :
Mỗi tín hữu chúng ta chính là một viên gạch tầm thường, góp phần xây nên tòa nhà Hội Thánh. Chúng ta cần ý thức chu toàn sứ mệnh như câu chuyện về một viên gạchsau đây :
Có một viên gạch nằm sát chân tường của một tòa nhà lớn. Đôi khi nó nhìn lên những viên gạch khác và trong lòng chợt so sánh, ước ao, và nó đã cầu nguyện với Chúa như sau :
“Lạy Chúa, con chỉ là một viên gạch tầm thường nằm sát dưới chân tường.Con không được như viên gạch xây ngoài cửa ra vào, ở ngay tầm mắt của mọi người.Con không được như viên gạch xây ở mặt tiền ngôi nhà, hãnh diện nhìn người qua kẻ lại và sung sướng được người ta khen là đẹp tốt.Con không được như viên gạch trong phòng khách, hàng ngày được lau chùi đánh bóng.Con chỉ là một viên gạch tầm thường nằm sát ở dưới chân tường ngôi nhà.”Tuy nhiên sau đó viên gạch đã bằng lòng với hoàn cảnh của mình và cầu nguyện như sau :
“Nhưng lạy Chúa, con vui vì chỗ ở của con, con vui với nhiệm vụ của con. Con mừng vì con cũng được góp phần vào việc hình thành nên ngôi nhà xinh đẹp này. Không có phần nhỏ bé âm thầm của con thì tường nhà sẽ đổ, ngôi nhà sẽ sập. Mặt tiền xinh đẹp kia sẽ không có, cánh cửa xinh đẹp kia cũng không còn, phòng khách xinh đẹp kia cũng không tồn tại.Xin cho con vui với công việc hiện tại đang làm và biết luôn cảm tạ hồng ân của Chúa.- AMEN.”
3. SUY NIỆM:
Chức vụ Giáo hoàng là người kế vị thánh Phê-rô Tông đồ, để thay Chúa Giê-su chăn dắt đoàn chiên của Người là Hội thánh và được chia sẻ quyền tối thượng với Chúa Giê-su. Do đó chức vụ Giáo hòang được Chúa ban ơn bất khả ngộ, nghĩa là không thể sai lầm, khi chính thức công bố các tín điều đức tin và lề luật luân lý, như Chúa Giê-su đã hứa với thánh Phê-rô khi xưa.
1) PHÊ-RÔ – TẢNG ĐÁ ĐỨC TIN CỦA HỘI THÁNH :
Trong Bài Tin Mừng hôm nay, khi Đức Giê-su hỏi các môn đệ xem dư luận nghĩ gì về Người. Các ông lần lượt thưa: Thầy là một trong các vị Ngôn sứ. Riêng Si-mon Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin như sau: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Đức Giê-su đã khen ông có phúc vì được Chúa Cha mặc khải điều ấy (x. Mt 16,17). Người đổi tên Si-mon thành Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá đức tin này, Người sẽ xây dựng Hội Thánh của Người. Người hứa sẽ làm cho Hội thánh luôn vững bền (x. Mt 16,18). Cuối cùng Người còn ban tối thượng quyền khi trao chìa khoá Nước Trời cho Phê-rô, để ông thay Chúa ở trân gian cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,19). Thực ra chỉ mình Đức Giê-su mới là Tảng Đá sống động và là nền móng xây dựng Hội Thánh (x. 1 Pr 2,4-5). Cũng chỉ mình Đức Giê-su mới nắm giữ “chìa khóa vua Đa-vít” (x. Kh 3,7), nhưng Phê-rô cũng được Người trao chìa khóa Nước Trời để thay Người giáo huấn, thánh hóa và chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh.
2) PHÊ-RÔ – MỤC TỬ ĐƯỢC CHÚA GIÊ-SU TUYỂN CHỌNVÀ HUẤN LUYỆN :
Không những Tông đồ Phê-rô tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng sống” (Mt 16,16), mà ông còn ba lần nói lên lòng yêu mến: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,15-17). Chính nhờ lòng tin yêu ấy, mà Tông đồ Phê-rô đã được Đức Giê-su đặt làm đầu Hội Thánh và được chia sẻ quyền chăn chiên. Đức Giê-su cũng cầu nguyện để ông khỏi mất đức tin, và Người trao cho ông nhiệm vụ củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Cuối cùng Phê-rô đã sẵn sàng chịu chết vì đoàn chiên Hội Thánh (x. Ga 10,11). Thực vậy, khi về già, Phê-rô đã vâng lời Chúa Phục Sinh quay vào thành Rô-ma, sẵn sàng chịu chung số phận với các tín hữu đang bị Đế Quốc Rô-ma bách hại. Ông đã phải giang tay chịu đóng đinh thập giá để nên giống Thầy, và “đến nơi ông không muốn đến” (x. Ga 21,18-19).
3) VAI TRÒ CỦA CÁC TÍN HỮU TRONG HỘI THÁNH:
Giáo dân là thành phần Dân Chúa đông đảo nhất trong Hội Thánh. Ngoài hàng giáo phẩm, Giáo sĩ và Tu sĩ, Giáo dân là những người đã lãnh nhận, hoặc đang khao khát lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, tức là nhiệm tích làm cho họ trở nên “Dân Thiên Chúa và tham dự vào chức vụ tư tế,ngôn sứ và vương giả của Chúa Ki-tô theo cách thức của họ”.Tước vị này của Giáo dân vốn xuất phát từ Phép Rửa Tội. Công Đồng Va-ti-ca-nô trong Hiến Chế Tín Lý “Lumen Gentium”đã nhấn mạnh về vai trò và trách nhiệm của người Giáo dân trong Giáo Hội. Theo đó, Giáo dân, nhờ Bí Tích Rửa Tội, được tham dự vào ba sứ vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Ki-tô, theo cách thức riêng, và họ có bổn phận tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.
4) MỖI TÍN HỮU CHÚNG TA CẦN LÀM GÌ ĐỂ GÓP PHẦN XÂY DỰNG HỘI THÁNH? :
Hội Thánh hôm nay cũng đang gặp nhiều khủng hoảng: Nhiều tín hữu đã bị mất đức tin và không còn đến nhà thờ nữa; Số chủng sinh tại nhiều nước Âu Mỹ bị giảm sút số lượng khiến nhiều nhà thờ bỏ không vì không có linh mục coi sóc;Nhiều nhà dòng to lớn nhưng phải đóng cửa vì không còn lớp tu sĩ trẻ kế thừa. Các đức Giáo Hoàng cũng bị tấn công: Đức Gio-an Phao-lô II bị ám sát hụt; Đức Bê-nê-dic-tô bị giới truyền thông phê bình đả kích; Đức Phan-xi-cô cũng gặp rất nhiều chống đối bên trong và bên ngoài hội Thánh như: Nhiều phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng, đòi cho nữ tu được làm linh mục. Giới truyền thông và một số chính quyền tại một số quốc gia đã toa rập với nhau để tấn công Hội Thánh: tố cáo hàng giáo sĩ lạm dụng tình dục và ấu dâm nhằm hạ uy tín của Hội Thánh Công giáo …
Ước gì mỗi tín hữu chúng ta biết cảm thông với các vị chủ chăn trong hoàn cảnh hiện nay bằng cách năng nhớ cầu nguyện cho các ngài, trung thành và yêu mến Hội Thánh, tích cực góp phần canh tân Hội Thánh bằng việc năng tham dự các buổi học sống Lời Chúa, năng tham dự thánh lễ rước lễ và năng lãnh nhận các bí tích khác như bí tích hòa giải…
Chúng ta hãy xin Chúa thực hiện một lễ Hiện Xuống Mới cho Hội Thánh hôm nay, để mỗi người, mỗi gia đình, mỗi hội đoàn, mỗi giáo xứ, giáo phận… được ơn Thánh Thần đổi mới, hầu có thể biến đổi thế giới chúng ta đang sống trở nên “Trời Mới Đất Mới” : an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn theo thánh ý Chúa…
4. THẢO LUẬN:
1) Theo ý bạn, Hội Thánh hôm nay gồm các tín hữu chúng ta, đang có những khuyết điểm nào nổi cộm cần phải cấp thời canh tân? 2) Bạn có yêu mến Hội Thánh, có sẵn sàng cảm thông nâng đỡ các vị chủ chăn, tích cực cộng tác với ngài chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng không ?
5. NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúng con không hiểu tại sao Chúa lại chọn ông Si-mon, một người thuyền chài ít học, nhiều khuyết điểm và đã có gia đình làm Tông đồ và làm vị Giáo Hoàng tiên khởi của Hội Thánh. Chúng con biết rằng Chúa muốn xây dựng Hội Thánh trên Tảng Đá đức tin của Phê-rô, một người tuy yếu hèn nhưng lại có lòng mến Chúa nhiều. Khi được kêu gọi, Phê-rô và các Tông đồ đã mau mắn đáp lại đi theo Chúa để được Chúa huấn luyện và sai đi rao giảng Tin mừng, trở thành chứng nhân của Chúa đến tận cùng thế giới.
– LẠY CHÚA. Hôm nay Chúa cũng kêu gọi mỗi tín hữu chúng con đi theo làm môn đệ Chúa. Xin cho chúng con một chút can đảm của thánh Phê-rô và các Tông đồ, để sẵn sàng đến với lương dânloan báo Tin Mừng cho họ. Xin cho chúng con luôn biết hồi tâm sám hối và sẵn sàng hy sinh mọi sự để làm vinh danh cho Chúa và góp phần cứu rỗi các linh hồn.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN A
Gr 20,7-9; Rm 12,1-2; Mt 16, 21-27
VÀO TRONG VINH QUANG NGANG QUA THÁNH GIÁ
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Mt 16,21-27
(21) Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng đế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. (22) Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy !” (23) Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. (24) Rồi Đức Giê-su nói với môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. (25) Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. (26) Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi ích gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ? (27) Vì con người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.
2. Ý CHÍNH: TIÊN BÁO CUỘC THƯƠNG KHÓ LẦN THỨ NHẤT
Sau khi Phê-rô tuyên xưng đức tin, Đức Giê-su bắt đầu cho biết mình sẽ phải vâng theo thánh ý Chúa Cha là “Qua đau khổ vào vinh quang”. Phê-rô khuyên can nhưng đã bị Đức Giê-su nặng lời quở trách. Rồi Người tiếp tục đề ra điều kiện để trở thành môn đệ của Người là phải bỏ đi ý riêng mình để vâng theo thánh ý Thiên Chúa, tức là vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người. Ngoài ra, không còn đường nào khác đưa ta về trời.
3. CHÚ THÍCH:
– C 21: + Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ…: Đức Giê-su mặc khải việc Người sắp trải qua cuộc khổ nạn thập giá để vào vinh quang phục sinh tại núi thánh Xi-on của Thiên Chúa là thành Giê-ru-sa-lem, như Thánh kinh đã tiên báo (x. Tv 2,6). Việc lần lượt loan báo 3 lần cuộc thương khó là nhằm đánh dấu từng chặng đường tiến về Giê-ru-sa-lem, và cũng để chuẩn bị cho môn đệ khỏi bị ngỡ ngàng khi sự việc xảy ra.
– C 22-23: + Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy !: Theo Phê-rô nghĩ thì sao Thầy phải chịu thua trước kẻ thù, để chúng bắt bớ giết hại cách nhục nhã rồi mới chiến thắng bằng cuộc phục sinh vinh quang ? Tại sao Thầy không lập tức dùng sức mạnh để chiến thắng kẻ thù ? + Xa tan, lui lại đàng sau Thầy !: Xa-tan theo nguyên nghĩa là “Tên cám dỗ” hay “Kẻ cản trở”. Lời can ngăn của Phê-rô nói đây gợi lại cơn cám dỗ của Xa-tan với nguyên tổ A-đam E-và xưa (x. St 3,4-5). Cũng là cơn cám dỗ ma quỷ đã làm trong hoang địa với Đức Giê-su và đã bị Người xua đuổi: “Xa-tan kia, xéo đi !” (Mt 4,10). Ở đây Đức Giê-su chỉ buộc Phê-rô lui lại vị trí môn đệ, nghĩa là phải chấp nhận đi theo sau Thầy (x. Mt 16,24; Ga 21,22b). + Anh cản lối Thầy: hoặc “anh làm cớ cho Thầy vấp phạm”. Cớ vấp phạm hay là một cái bẫy (x. Tv 124,7), một hòn đá cản đường khiến người ta bị vấp ngã (x. Is 8,14-15; Rm 9,32-33). Vì suy nghĩ theo tình cảm tự nhiên và vì yêu mến Thầy, Phê-rô đã vô tình cản lối khi yêu cầu Người đừng theo con đường cứu độ đã được Chúa Cha định liệu là “Phải qua đau khổ mới vào trong vinh quang” (x. Lc 24,26). Trước đó, Phê-rô mới được khen là có phúc vì đã tuyên xưng đức tin “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Nhưng giờ đây ông lại bị thầy trách là tên cám dỗ, và là viên đá gây sự vấp ngã cho Thầy ! + Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người: tương tự như lời tuyên sấm của Ngôn sứ I-sai-a: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,8-9).
– C 24-25: + Ai muốn theo Thầy: Ai nói đây tức là người tự nguyện trở thành môn đệ của Đức Giê-su, sẵn sàng cộng tác vào việc xây dựng Nước Trời với Người. Câu này cho thấy Đức Giê-su luôn tôn trọng tự do của con người. + Từ bỏ chính mình: Điều kiện để làm môn đệ Đức Giê-su là phải loại bỏ những trở ngại bên ngoài như tình thân gia đình và sự cản trở bên trong như các thói hư tội lỗi và cách suy nghĩ theo tính xác thịt tự nhiên của mình. + Vác thập giá mình mà theo: Cuối cùng còn phải chấp nhận những đòi hỏi của Tin Mừng, chịu đựng những vất vả tai ương bách hại do thế gian và các thế lực thù địch với Thiên Chúa gây ra. + Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất: Lời tuyên bố có tính nghịch lý theo kiểu Do thái, dựa trên lòng tin vào một đời sống mới vĩnh hằng sau khi chết. Ai muốn cứu mạng sống thể xác bằng cách bỏ đạo để khỏi bị giết hại thi sẽ bị mất luôn sự sống thiêng liêng đời sau. + Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy: Người khôn là người biết chọn cách sống đời tạm này như thế nào, để sau khi chết được sống lại và được sống vĩnh hằng. Đức Giê-su đưa ra một con đường đưa tới sự sống đời đời là phải sẵn sàng chấp nhận hy sinh chịu thiệt thòi, sẵn sàng bị mất mạng sống ở đời này. Ngoài ra, không còn con đường nào khác để được ơn cứu độ.
– C 26-27: + Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi ích gì ?: Câu này lặp lại tư tưởng của câu trên. + Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người: Giá trị của cuộc sống thực sự chỉ tỏ hiện trong cuộc chung thẩm vào ngày tận thế. + Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm: Sự thưởng phạt công minh là động cơ khiến người ta sẵn sàng chấp nhận đi con đường hẹp là bỏ mình mà vác thập giá đi theo Chúa ngay trong đời này. Đức Giê-su quả quyết chính Người sẽ ngự đến vào ngày tận thế để làm thẩm phán xét xử mọi người tùy theo các việc tốt họ đã làm hay bỏ qua không làm khi còn sống.
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao Đức Giê-su phải cho các môn đệ biết về các biến cố Người sắp trải qua tại Giê-ru-sa-lem là phải chịu khổ nạn thập giá rồi mới vào vinh quang Phục Sinh ? Người tiên báo ba lần như thế nhằm mục đích gì ? 2) Tại sao Phê-rô lại can trách Thầy và kết quả ông đã bị Thầy quở phạt thế nào ? Tại sao ? 3) Bỏ mình và vác thập giá mình hằng ngày cụ thể là phải bỏ những gì và làm những gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).
2. CÂU CHUYỆN:
1) SỨC MẠNH TINH THẦN CỦA CÂY THÁNH GIÁ :
Một người đàn bà đạo đức kia bị bệnh ung thư ngực rất đau đớn nhưng lại không dám mổ khối u vì sợ phải chịu đau đớn. Đến khi khối u phát triển nhanh thì bà mới chịu đi mổ, hy vọng sẽ kéo dài tuổi thọ thêm được một thời gian nữa. Bà có một cậu con trai tuổi thanh niên. Anh này trái với bà mẹ: khô khan việc đạo, đã bỏ dự lễ nhà thờ từ lâu. Hôm ấy, trước khi vào phòng mổ, bà yêu cầu bác sĩ cho phép con trai bà được chứng kiến cảnh bà chịu giải phẫu và yêu cầu đã được chấp thuận. Thời đó, vì chưa có thuốc tê, nên bệnh nhân phải trải qua những cơn đau đớn khủng khiếp mỗi lần bị mổ xẻ. Nhưng bà mẹ này đã can đảm cắn răng chịu đựng cơn đau. Đến khi con dao mổ đụng đến giây thần kinh thì bà mới oằn người lên và kêu to rằng: “Chúa ơi con đau quá, xin thương cứu con !”. Trườc cảnh mẹ bị đau đớn như vậy, anh con trai liền thốt ra lời phàn nàn xúc phạm đến Chúa. Nghe vậy, bà mẹ liền nghiêm nét mặt nói với con rằng: “Con hãy câm miệng lại ngay ! Con có biết là con đang làm cho mẹ phải chịu đau đớn nhiều hơn mấy ông bác sĩ này hay không ? Vì con đã sỉ nhục chính Đấng đã ban sức mạnh và luôn động viên an ủi mẹ”. Nói rồi, bà mở bàn tay ra cho con thấy một cây thánh giá nhỏ mà bà đã luôn nắm chặt từ đầu ca mổ đến giờ. Cây thánh giá đó chính là thứ thuốc gây mê đã làm dịu đi cơn đau đớn khủng khiếp mà bà đang phải chịu đựng.
Sau mấy tháng quằn quại trong đau đớn, bà mẹ đạo đức ấy đã an nghỉ trong Chúa. Trước lúc lâm chung, bà đã trao cây thánh giá nhỏ cho anh con trai và dặn rằng: “Con ơi ! Hãy giữ lấy cây thánh giá này. Đó là vật đã giúp mẹ chịu đựng được biết bao gian khổ trong đời mẹ. Hy vọng rằng nhờ cây thánh giá này, con cũng sẽ tìm thấy niềm an ủi và cậy trông mỗi khi gặp gian nan thử thách sau này”. Anh con trai rất xúc động trước đức tin và tình thương của mẹ dành cho mình. Từ ngày đó anh đã luôn đeo cây thánh giá trên cổ, để nhắc nhở anh về người mẹ thân yêu. Từ đây cây thánh giá đã trở thành vật hộ mệnh, giúp anh can đảm vượt qua các cơn sóng gió trong cuộc đời, giống như người mẹ thân yêu của anh.
2) THÁNH GIÁ NẶNG NHẸ LÀ DO TƯ TƯỞNG CỦA MỖI NGƯỜI :
Một hôm, Chúa Giê-su dẫn hai người trong số các môn đệ đến đầu đường, trao cho mỗi người một cây thánh giá giống nhau và bảo:
– Mỗi người chúng con vác thập giá của mình đi đến cuối đường trước mặt kia. Thầy đợi các con ở đó.
Hai môn đệ vâng lời, vác thập giá mình đi. Người thứ nhất vác cách dễ dàng, chân nhanh bước, dường như thập giá không cản trở hay gây phiền hà gì cho anh. Chẳng bao lâu anh đã đến cuối đường, gặp Chúa đang đợi ở đó. Và Thầy trò vui mừng hớn hở.
Còn người thứ hai vác đi nặng nề, dường như anh vác không nổi, kéo lê thập giá đến chỗ Chúa Giê su chỉ định, và anh đã kiệt sức. Vừa thấy Chúa, anh đã phàn nàn:
– Chúa bất công quá! Chúa trao cho con cây thánh giá quá nặng; còn trao cho anh kia cây thánh giá nhẹ hơn, nên anh đã đi đến trước con.
Chúa buồn đáp:
– Con ơi! Thầy không đối xử bất công với con đâu. Cả hai thập giá đều giống nhau và nặng bằng nhau, không cây nào nặng cây nào nhẹ. Sở dĩ con cảm thấy nó quá nặng đối với con, vì con không sẵn sàng chấp nhận. Suốt trên đường đi, con luôn than phiền trách móc nó nặng, càng than trách thì thập giá càng trở nên nặng cho con. Bạn con đã vác đến trước vì tâm hồn tràn đầy yêu thương. Tình yêu làm cho thập giá trở nên nhẹ nhàng.
Vui lòng vác thánh giá, thánh giá sẽ trở nên nhẹ nhàng. Càng kéo lê thánh giá, thánh giá càng trở nên nặng nề hơn.
3) AI CŨNG ĐƯỢC CHÚA TRAO CÂY THÁNH GIÁ HỢP VỚI KHẢ NĂNG CỦA MÌNH :
Thánh giá ta đang mang là thánh giá vừa sức ta. Câu chuyện ngụ ngôn dưới đây chứng minh điều đó : có một người luôn than van những nỗi khổ cực của mình. Một tối kia, thiên thần hiện đến phán bảo :
– Con hãy theo ta ra nghĩa địa, nơi đó người ta để lại thánh giá của mình. Con hãy mang thánh giá của con ra để đó và hãy lựa thánh gía vừa sức con.
Ông ta mang thánh giá của mình ra quăng nơi nghĩa địa, ông bắt đầu chọn cái khác nhẹ hơn, ông tìm kiếm mãi mà không được : có cây quá là dài, cây quá ngắn, có cây thì nhẹ nhưng sù sì, khó vác, có cây thì trơn tru nhưng nặng quá, và sau cùng ông nói với thiên thần :
– Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác quá, chỉ có cây con định vứt đi là vừa với con thôi.
– Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa sức, con hãy vui lòng vác đi, đừng than van gì nữa.
4. GIÁ TRỊ CỦA SỰ ĐAU KHỔ THẬP GIÁ :
Người ta kể câu chuyện ngụ ngôn như sau : trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn. Lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết ngồi chờ thần chết đến.
Lũ khỉ đi qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau lấy đá, lấy đất và bẻ các cành cây ném xuống đầu con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây vứt xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra ngoài hố được.
Đời là thế. Đau khổ cũng có ý nghĩa riêng của nó. Người ta nói : cái khó bó cái khôn. Nếu ta biết từ bỏ mình, vác thập giá mình thì chính những cái ấy có lợi cho ta . Chúa Giê-su đã có kinh nghiệm về vấn đề này : Thập giá đã nói lên chân lý ấy, và “hạt giống có mục nát ra thì mới sinh hoa kết quả được. Có lẽ chúng ta không bao giờ hiểu được mầu nhiệm của đau khổ trong thế giới này, nhưng đây là điều chắc chắn : Một khi về trời chúng ta sẽ hiểu được điều ấy.
5. CẦN BIẾT CHỌN LỰA GIỮA « ĐƯỢC » VÀ « MẤT » :
Vào ngày 23.12.1993, ông VIN-CI-Ô người Ý, 58 tuổi, là giáo sư môn toán, đang đi trên đường về nhà thì chiếc xe hơi của ông bị nổ lốp giữa đường. Ông xuống xe loay hoay thay bánh xe “sơ cua”. Đúng lúc đó, có người tới giúp ông một tay. Khi gần ráp xong bánh xe sơ-cua, thì người đàn ông kia kiếu từ vì có việc gấp phải đi. Ráp xong bánh xe, ông Vincio thu lại đồ nghề mới biết hộp đồ nghề của ông đã bị mất cắp một số đồ mắc tiền, do người đàn ông “tốt bụng” kia lấy đi. Ông buồn rầu thở dài cho lòng tham của con người. Nhưng rồi ông lại thấy một tấm vé số nằm dưới đường, có lẽ của tên ăn trộm kia đánh rơi. Ông đã cầm tấm vé số bỏ vào túi áo.
Rồi đến ngày xổ số dịp đầu năm mới 1994, ông mang tấm vé số kia ra dò thì thật may : Tấm vé số nhặt được kia đã trúng 50 triệu lire (tiền Ý) tương đương 60.000 đôla Mỹ. Trúng được nhiều tiền ai mà chẳng thích. Nhưng sau đó ông Vincio lại bị áy náy lương tâm vì rõ ràng tấm vé số kia không phải là của ông. Ông luôn cảm thấy lương tâm cáo trách. Ông đã đăng quảng cáo trên báo để mong tìm ra chủ nhân thực sự của tấm vé trúng giải kia. Nhiều người tham lam đã tới nhận bừa tấm vé số kia là của mình. Nhưng chỉ cần vài câu hỏi, ông đã phát hiện ra họ chỉ là những kẻ tham lam. Đúng ba tuần sau, tên trộm hôm trước cũng đã xuất hiện xin nhận lại tờ vé số đã thất lạc. Anh ta đã diễn tả các chi tiết về ngày giờ và địa điểm liên can tới tấm vé số. Ông Vin-ci-ô đã mang ra 50 triệu lire trả lại cho chủ nhân của nó. Tên trộm quá cảm động, đã không ngớt xin lỗi ông Vin-ci-o và cho biết lý do anh phải ăn trộm đồ vì bị thất nghiệp và phải nuôi 2 đứa con nhỏ. Tên trộm cũng thắc mắc tại sao ông Vin-ci-ô không giữ lấy 50 triệu lire vì đâu có ai biết rõ sự thật. Vin-ci-ô trả lời : vì lương tâm không cho phép mình làm như vậy. Sau khi trả tiền cho chủ tờ vé số, ông Vin-ci-ô cảm thấy lòng nhẹ nhõm. Tuy ông bị mất món đồ sửa xe, nhưng ông lại nhận được nhiều tiền ; Rồi khi được tiền ông lại bị mất bình an tâm hồn. Cái vòng « mất được » kia cứ luẩn quẩn, cho đến khi ông Vin-ci-ô chấp nhận đổi số tiền để lấy lại sự bình an trong tâm hồn.
Câu chuyện trên rất phù hợp với câu Lời Chúa hôm nay : « Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy » (Mt 16,25). Liều mất mạng sống nghĩa là sẵn sàng « từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa » – được mạng sống đời sau là có Nước Thiên Đàng, có được Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc đời đời.
Lời dạy thứ hai “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”.(Mt 16,25).
6. SỰ CHỌN LỰA KHÔN NGOAN CỦA THÁNH THOMAS MORUS :
Thomas Morus (1478-1453) thủ tướng nước Anh, dưới thời Henry VIII, bị tống ngục vì không chịu chối đạo. Sau đó ông bị kết án tử hình. Vợ liền tới thăm và hỏi chồng :
– Tại sao mình không lo cứu sống?
– Này em theo em nghĩ thi anh sống ở trần gian này được bao lâu nữa?
– Sức khỏe anh hứa hẹn ít nhất được 20 năm nữa.
– Em đề nghị cho anh một hành động hết sức điên dại: để sống 20 năm mà phải hy sinh cả cuộc sống đời đời sao!
“Người nào được lời lãi cả thiên hạ mà thiệt phần linh hồn hỏi có ích chi? Lấy gì đổi được linh hồn mình?.”(Mt 16,26)
7. THÁI ĐỘ CAN ĐẢM TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦNG CỐ ĐỨC TIN CHO THA NHÂN :
Khi quân đội Nga tiến vào thủ đô Bu-da-pest của nước Hung-ga-ri để trấn áp một cuộc bạo động, một viên sĩ quan trẻ hung hăng tìm đến nhà một linh mục chính xứ.
Bước vào trong phòng, anh đóng sập cửa lại, tay chỉ lên cây Thánh Giá treo trên tường và hạch hỏi vị linh mục:
– Này, ông có biết không, cái kia là một sự dối trá, một trò mê hoặc dân nghèo để bọn nhà giàu kềm hãm người ta trong sự ngu dốt. Bây giờ chỉ có hai chúng ta trong căn phòng này. Vậy ông hãy thú nhận là ông không tin ông Giê-su trên thập giá kia là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa…”
Vị linh mục điềm tĩnh trả lời:
– Không thể được, vì tôi đã thật sự tin vào Người !
Viên sĩ quan liền rút súng ra hăm dọa :
– Đừng đùa với tôi ! Nếu ông không chịu nói cho biết đây là điều dối trá, thì tôi sẽ giết ông !”
Bấy giờ linh mục liền đứng thẳng người, nhìn vào đôi mắt của anh ta và dõng dạc tuyên bố :
– Tôi không thể nói khác được: “Đức Giê-su đích thực là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa của tôi! “
Thật không ngờ, nghe đến đây, tay viên sĩ quan liền run lên. Rồi khẩu súng trên tay anh ta rớt xuống nền nhà. Anh đã chạy lại ôm chầm lấy vị linh mục, vừa khóc vừa nói :
– Thứ cha, xin lỗi cha. Con chỉ muốn thử xem cha có thực sự tin Chúa không. Con đã âm thầm tin Chúa ngay từ khi còn nhỏ. Nhưng giờ đây, con đã khám phá ra rằng: vẫn còn ít nhất một người đã tin Chúa và dám sống chết vì đức tin ấy. Chính cha đã củng cố đức tin cho con đó !
Thật đúng như lời Chúa Giê-su phán trong Tin Mừng hôm nay : “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25).
3. SUY NIỆM :
Theo Tin Mừng Mát-thêu, khi Đức Giê-su hé mở con đường cứu thế của Người : “Con Người sắp phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21), thì Phê-rô, một người vừa được khen ngợi có phúc vì đã tuyên xưng đức tin vào Đức Giê-su, đã lên tiếng can Người rằng : “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy !”. Ông đã bị Đức Giê-su mắng : “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà của loài người” (Mt 16,22-23). Đức Giê-su đã phản ứng quyết liệt trước tư tưởng sai lạc của Phê-rô bằng việc xua đuổi ông như đã từng xua đuổi ma quỷ khi chúng cám dỗ Người. Sau này Phê-rô đã dần dần hiểu ra thánh ý Thiên Chúa, và đã sẵn sàng chấp nhận theo con đường thập giá để cùng chết và sống lại với Thầy.
1) HAI ĐIỀU KIỆN ĐỂ TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ CỦA ĐỨC GIÊ-SU :
Đức Giê-su nói: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Qua đó, ta thấy điều kiện để đi theo làm môn đệ Chúa là phải sẵn sàng hy sinh bỏ mình, vác thập giá mình mà đi theo Người. Người không ép buộc, nhưng mời gọi. Người cũng không bảo người ta phải tìm kiếm thập giá nào khác, nhưng là vui lòng vác chính cây thập giá trong đời mình. Đức Giê-su cho biết đau khổ là phương thế hữu hiệu giúp ta nên thánh. Mỗi người đều phải vác thập giá đời mình và “ngày nào có sự khốn khổ của ngày đó”. Ước gì nhờ được đau khổ thanh luyện, chúng ta sẽ ngày càng kết hiệp mật thiết và nên giống Đức Giê-su hơn. Vậy hai điều kiện để trở thành môn đệ Chúa Giê-su là gì ?
– MỘT LÀ TỪ BỎ CHÍNH MÌNH :
Đức thánh Cha Phaolô VI trong buổi triều yết chung cho giáo dân ngày 11.03.1970 đã nói :”Đối với chúng ta những người thời nay, một trong những khía cạnh ít được hiểu biết nhất và cũng có thể nói ít được thiện cảm nhất trong đời sống Công giáo : đó là sự từ bỏ.
Từ bỏ mình tức là từ bỏ ý riêng mình mà chấp nhận thánh ý Chúa. Người ta nói : 3 với 4 là 7, có đúng không ? Chưa đúng. Muốn thực hiện 3 với 4 là 7 thì phải làm sao cho tan rã hai con số 3 và 4, rồi đúc nó lại thành con số 7 mới được. Chớ cứ để 3 với 4 kề nhau mãi thì làm gì thành 7 được, mà vẫn chỉ là hai con số 3 và 4. Cũng thế, muốn từ bỏ chính mình đòi phải làm tan đi ý riêng của chúng ta để hòa vào ý của Chúa, lúc đó chúng ta mới thực sự từ bỏ chính mình.
– HAI LÀ VÁC THẬP GIÁ MÌNH HẰNG NGÀY MÀ ĐI THEO CHÚA : Thập giácủamình vác theo Chúa Giê-su, chính là những tai nạn rủi ro, những điều phiền toái trong cuộc sống như bệnh tật, các sự khó do tai nạn gặp phải, những thất bại thua lỗ trong công việc làm ăn, những người thân đang sống chung trong một mái nhà khó tính khó nết… Nếu chúng ta kiên nhẫn chịu đựng những sự khó chịu và trái ý cực lòng này là chúng ta đang làm theo Lời Chúa dạy hôm nay.
2) CÁI KẾT BI THẢM CỦA MỘT KẺ KHÔNG CHẤP NHẬN THẬP GIÁ CHÚA GIÊ-SU :
Một văn sĩ Công giáo người Anh tên là Gilbert Chesterten, đã thuật lại câu chuyện bi thảm về một kẻ thù ghét thập giá như sau :
“Tôi biết có một người thù ghét thập giá. Ông ta tìm mọi cách để triệt hạ cho bằng được. Bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật có hình thập giá ông đều xé nát. Ngay cả cây thập giá bằng vàng ở cổ vợ ông, ông cũng tìm cách để giựt đứt và liệng đi. Ông bảo rằng thập giá là biểu tượng của sự dã man, hoàn toàn đối nghịch với niềm vui, với cuộc sống.
Ngày kia, không còn chịu đựng nổi hình thù của thập giá nữa, ông đã leo lên tháp chuông nhà thờ giáo xứ, đập gẫy cây thập giá trên tháp và liệng xuống dưới.
Sự thù hằn đối với thập giá không mấy chốc đã biến thành sự điên loạn. Vào một buổi chiều mùa hè nóng bức, ông đứng tựa lưng vào một ban công gỗ, miệng phì phà khói thuốc. Bỗng chốc, ông thấy nguyên cả chiếc ban công gỗ biến thành một dãy cây thập giá. Rồi trước mặt và đàng sau lung ông, nơi nào cũng đều có thập giá. Hoa cả mắt lên, ông cầm gậy đánh đổ tất cả những cây thập giá ấy. Vào trong nhà, bất cứ vật gì làm bằng gỗ cũng được ông nhìn thấy với hình thù thập giá. Không thể dùng gậy mà đập nữa, người đàn ông đã phải dùng đến ngọn lửa, mới mau tiêu diệt được các cây thập giá. Rồi ngọn lửa bốc lên đã làm thiêu rụi cả căn nhà. Ngày hôm sau, người ta tìm thấy xác của người đàn ông đáng thương kia trong dòng sông bên cạnh nhà ông”.
Cuối cùng nhà văn đã kết luận như sau: “Nếu bạn bắt đầu bẻ gẫy thập giá, thì chẳng mấy chốc bạn cũng sẽ phá hủy chính cái thế giới trong đó bạn đang sống này”.
3) CHẤP NHẬN TIN YÊU PHÓ THÁC VÀO CHÚA, RỒI MỌI SỰ SẼ NÊN TỐT ĐẸP :
Các tín hữu là những người say mê cuộc sống vĩnh cửu, nên sẵn sàng chấp nhận những mất mát tạm thời và cả mạng sống ở đời này nữa. Nhưng chúng ta tin rằng: Cuối cùng Chúa sẽ ban lại cho ta gấp bội. Ta chỉ chịu mất mát tạm thời để được hạnh phúc vĩnh viễn đời sau. Các thánh tử đạo vì muốn sống đời đời, nên đã sẵn sàng từ bỏ mọi vinh hoa, giàu sang, quyền lực… Sẵn sàng chịu mọi cực hình và chịu chết vì Danh Chúa, như lời trong kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô As-si-si sau đây : “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Một thanh niên mơ ước lên đại học, nhưng lại thi rớt, thì cũng đừng nản lòng. Anh hãy chấp nhận vác thập giá để theo chân Đức Giê-su. Người có thể dẫn anh đến một đời sống mới tốt đẹp hơn. Một người cao niên mơ ước nên giàu có, và có một gia đình hạnh phúc, nhưng lại bị thất bại, thì cũng đừng nản lòng. Vì Thiên Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành. Thiên Chúa là Cha yêu thương, chỉ muốn làm những điều tốt cho con cái, như Đức Giê-su có lần đã nói: “Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người” (Lc 11,13).
4. THẢO LUẬN:
1) Thập giá hằng ngày ta phải vác là những gì ? 2) Gặp một người đau khổ chán nản không thiết sống, bạn sẽ khuyên họ thế nào để vui sống trở lại ?
5. NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Ngày nay, có một số đông nam nữ tu sĩ đã tận hiến cuộc đời, chấp nhận phục vụ những người bất hạnh và bị bỏ rơi. Họ đã đến sống chung với các bệnh nhân bị bệnh nan y như HIV-AIDS, bị ung bướu hay phong cùi. Có một số anh chị em đã tình nguyện nuôi dạy các trẻ bụi đời và mồ côi bất hạnh, giúp đỡ những cô gái lầm đường lạc lối trở về, hoặc phục vụ những người mù què câm điếc, bại liệt, những cụ già neo đơn không nơi nương tựa…
Nhìn lại mình, chúng con thật xấu hổ khi quá ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình và thường bịt tai nhắm mắt trước những cuộc đời bất hạnh chung quanh. Hôm nay, xin Chúa giúp chúng con biết sống theo lời Chúa dạy là “bỏ mình”: bỏ đi những lo toan ích kỷ, để quảng đại phục vụ Chúa trong anh em. Xin cho chúng con biết chấp nhận những tai nạn rủi ro gặp phải trong cuộc sống, và sẵn sàng vác thập giá đời mình mà bước theo chân Chúa. Nhờ đó chúng con hy vọng sẽ được Chúa liệt vào hàng tôi trung hiếu thảo và nên môn đệ trung tín của Chúa. Để sau này khi ra trước toà Chúa phán xét, chúng con hy vọng sẽ được Chúa ban thưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM
V. TƯ LIỆU HUẤN LUYỆN HUYNH TRƯỞNG HHTM TH 08/2020
XÂY DỰNG HIỆP THÔNG TRONG GIA ĐÌNH HIỆP SỐNG KI-TÔ HHTM.
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35).
2. THỰC HÀNH:
Các Thành Viên trong một Gia đình Hiệp Sống Ki-tô HHTMphải xây dựng tình hiệp thông bằng các việc làm cụ thể giữa các thành viên trong Gia Đình. Sau đây là một số đề tài cần được các thành viên học tập để trở thành nếp sống tốt đẹp của Gia Đình Hiệp Sống Ki-tô HHTM như sau:
1.- Nghĩ đến người khác: Hội Viên phải luôn quên mình để nghĩ đến người khác. Cần tập thành thói quen quan tâm đến người bên cạnh và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của họ.
2.- Đến với tha nhân: Hội Viên cần đi bước trước đến với người khác. Cần chủ động bắt chuyện làm quen với người mới gặp trên tàu xe, nơi công viên, tại Nhà thờ hay trong các buổi sinh họat họp mặt Gia Đình. Nên tế nhị tìm hiểu về tên tuổi, địa chỉ, số điện thọai, gia cảnh nghề nghiệp… tùy theo từng trường hợp và mức độ tình cảm thân thiện.
3.- Lắng nghe cảm thông: Hội Viên nên biết gợi chuyện để người khác trình bày về họ và lắng nghe với sự cảm thông. Đây là phương pháp gây thiện cảm hữu hiệu. Tuy nhiên cần tránh thái độ tọc mạch, tò mò muốn biết các bí mật mà người mới quen chưa muốn tiết lộ.
4.- Đáp ứng nhu cầu: Tìm hiểu nhu cầu về vật chất cũng như tinh thần. Hội Viên quyết tâm thực hành yêu thương chia sẻ cách cụ thể theo kinh “Thương người” như: Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống… vì yêu thương phục vụ là dấu chỉ môn đệ đích thực của Chúa Giê-su.
5.- Cho phúc hơn nhận: Hội Viên cần thực hành lời Chúa như thánh Phao-lô đề cập trong Công Vụ Tông Đồ (x Cv 20,35). Những ai đã từng tham gia các chuyến đi công tác bác ái đều có thể cảm nghiệm được niềm hạnh phúc khi chia sẻ vật chất cho người nghèo này.
6.- Mau nghe chậm nói khoan giận: Hội Viên cần thực hành lời thánh Gia-cô-bê (x Gc 1,19) trong cuộc sống. Đây là phương cách tạo sự vui vẻ và bình an giữa các Thành Viên Gia đình Hiệp Sống Ki-tô HHTM.
7.- Nụ cười kết thân: Hội Viên nên mỉm cười khi tiếp súc với người khác. Mỉm cười là cách tốt nhất để làm quen và rút ngắn khỏang cách giữa hai bên, tạo sự vui vẻ là điều kiện để xích lại gần người khác.
8.- Biết tên và ngày sinh của người khác: Hội Viên nên nhớ tên của người muốn làm quen. Biết tên và ngày sinh nhật của ai là bằng chứng về sự quan tâm của ta đối với họ, và là phương thế hữu hiệu để đạt được thiện cảm của họ.
9.- Xét đóan ý tốt: Hội Viên luôn xét đóan ý tốt và nói tốt cho người khác. Tránh nghĩ xấu cho người mình không ưa. Vì từ nghĩ xấu sẽ dẫn đến nói xấu và quan hệ giữa hai bên ngày một xấu đi. Trước khi phê bình người nào, cần xét lại bản thân để tự sửa lỗi rồi mới đủ uy tín để giúp sửa lỗi anh em với sự tế nhị khoan dung (x Mt 7,1-5). Nên khiêm tốn tự phê trước khi phê bình người khác
10.- Khen ngợi thành thật: Hội Viên nên rộng rãi về lời khen như người ta thường nói: “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Lời khen phải thành thật chứ đừng khen giả dối hình thức, không đúng lúc đúng chỗ, vì sẽ dẫn tới kết quả trái ngược.
11.- Tôn trọng tha nhân: Hội Viên cần có thái độ tôn trọng tha nhân khi tiếp xúc nói chuyện. Sự tôn trọng biểu lộ qua cách xưng hô xứng hợp địa vị và thân sơ, lắng nghe người khác trong cuộc trao đổi nói chuyện… Sự tôn trọng của ta chắc sẽ được người kia đáp lại và quan hệ giữa hai bên ngày một tốt đẹp.
12.- Nhiệt tình dấn thân: Hội Viên cần có thái độ nhiệt tình năng nổ trong mọi việc, sẵn sàng dấn thân đi bước trước đến với người khác, nhất là người mới tiếp xúc lần dầu để làm quen, sẵn sàng dấn thân làm các việc phục vụ mà ít người muốn làm như: phục vụ quét dọn, lau nhà, dọn bàn và rửa chén bát sau bữa liên hoan nội bộ Gia Đình… Các việc đó tuy nhỏ nhưng đem lại thiện cảm trong quan hệ giao tiếp lâu dài về sau.
13.- Khiêm tốn phục vụ: Hội Viên sẵn sàng phục vụ cách khiêm tốn. Không làm việc để tìm tiếng khen nơi người khác, vì “Hữu xạ tự nhiên hương”. Ánh sáng đức tin sớm muộn sẽ chiếu tỏa giúp người ta nhìn thấy việc lành chúng ta làm mà ngợi khen Cha trên trời.
14.- Chia sẻ niềm vui: Hội Viên nên chia vui sẻ buồn với nhau như lời thánh Phao-lô: “Vui với người vui khóc với người khóc” (Rm 12,15), noi gương Mẹ Ma-ri-a đem Hài Nhi Giê-su đến chia sẻ cho gia đình Gia-ca-ri-a làm cho thai nhi Gio-an nhảy mừng (x Lc 1,39-45). Tuy nhiên Hội Viên cần tránh mang những chuyện nội bộ Gia Đình nói ra cho người ngòai biết.
15.- Mình vì mọi người: Hội Viên cần luôn sống quên mình vị tha. Tránh đòi hỏi Gia Đình phải làm gì cho mình, nhưng luôn tự hỏi xem mình đã làm gì cho anh chị em trong Gia Đình?
16.- Trạng sư chữa lỗi: Khi nghe một lời phê phán chỉ trích về một Thành Viên khác trong Gia Đình, Hội Viên phải tránh “đổ dầu vào lửa”, nhưng phản ứng bằng sự im lặng và chuyển sang đề tài khác. Nhất là tích cực làm trạng sư bào chữa lỗi cho người bị chỉ trích, để minh oan hoặc ít là để giảm nhẹ sự kết án, noi gương Chúa Giê-su đã bênh chữa người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngọai tình sắp bị ném đá (x Ga 8,1-11).
17.- Viên thuốc bọc đường: Hội Viên cần tế nhị khi sửa lỗi anh em. Cần “khen trước chê sau” để lời chê giống như viên thuốc bọc đường, sẽ làm cho kẻ có lỗi dễ dàng đón nhận lời phê bình hơn và ít bị chạm tự ái hơn.
18.- Thảo luận hơn tranh luận: Thảo luận là khi trao đổi nói chuyện người này biết tôn trọng người kia bằng cách chú ý lắng nghe, dù đó là ý kiến khác biệt để tìm ra chân lý. Còn tranh luận là thái độ của kẻ háo thắng, thể hiện qua sự không lắng nghe lý lẽ mà chỉ muốn “lấy thịt đè người”, thể hiện qua thái độ cướp lời người đang nói và to tiếng để lấn át đối phương. Khi gặp vấn đề khó giải quyết, Trưởng Gia Đình nên đem ra thảo luận để tìm nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Cũng nên hỏi ý kiến linh mục Giám Huấn hay nhờ những người chuyên môn giàu kinh nghiệm giúp đỡ khi gia đình không tìm được tiếng nói chung.
19.- Sứ giả hòa bình: Hội Viên đọc “kinh Hòa Bình” của thánh Phan-xi-cô hằng ngày để xin Chúa giúp chu tòan sứ mệnh làm chứng nhân Nước Trời, đem bình an và niềm vui của Chúa đến mọi người. Học cách giải hòa tranh chấp giữa hai bên đang thù ghét nhau.
20.- Công minh tài chánh: Hội Viên cần làm việc với tinh thần ngay chính. Khi quyên góp cần đi hai người và sớm báo cáo kết quả với cấp trên. Phụ Tá II kiêm Thủ Quỹ GĐ cần lập sổ chi thu và báo cáo quỹ theo yêu cầu của Trưởng Gia Đình. Phụ Tá I kiêm Thư Ký GĐ cần ghi số chi thu được báo cáo vào biên bản Gia Đình.
Về việc thu chitài chánhtrongGia Đìnhcần theo nguyên tắc sau: Các khỏan thu phải được Trưởng Hội Đồng Quản Trị Xứ Đòan Ngành thông qua. Trưởng GĐ được quyền chi nhưng không được giữ tiền, còn Phụ tá kiêm Thủ Quỹ được giữ sổ Thu Chi và tiền quỹ chung Gia Đình, nhưng phải chi tiêu theo yêu cầu của Trưởng Gia Đình. Nên ấn định mức tiền quỹ mà Trưởng Gia Đình được quyền chi, và mức chi nào cần được đa số Thành Viên Gia Đình đồng ý. Ngòai ra Phụ tá Gia Đình kiêm Thủ Quỹ còn phải trình sổ quỹ thu chi Gia Đình để được LM Giám Huấn ký duyệt mỗi ba tháng. Trưởng Gia Đình cần giữ uy tín, tránh gây sự thắc mắc nghi kỵ của các Thành Viên về tài chánh, ảnh hưởng đến tình hiệp thông huynh đệ trong Gia Đình.
3. THẢO LUẬN: 1- Bạn đánh giá thế nào về các phương cách đối nhân xử thế nói trên để xây dựng tình hiệp thông huynh đệ trong Gia đình Hiệp Sống Ki-tô HHTM? 2- Tuần này bạn sẽ làm gì để gia tăng tình thân nội bộ Gia Đình, nhất là đối với ngừơi mới gia nhập?
4. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Cha giàu lòng từ bi thương xót. Xin cho mỗi Hội Viên HHTM chúng con biết sống yêu thương, xây dựng tình hiệp thông nội bộ bằng những phương cách thiết thực, hầu chúng con nên con cái Cha trên trời, nên môn đệ thực sự của Chúa Giêsu và trở thành tông đồ giáo dân bằng đời sống chứng nhân tình thương của Chúa trước mặt người đời.- AMEN.
LM ĐAN VINH – HHTM
VI. THƯ GIÃN THÁNG 08/2020
1.- BỒ KHÁC VỢ THẾ NÀO ?
BỒ là phở nóng tuyệt vời; VỢ là cơm nguội đáy nồi hẩm hiu.
Nơi BỒ ta tỏ tình yêu; Còn VỢ ta trút bao nhiêu bực mình.
BỒ là rượu ngọt trong bình; VỢ là nước lã ao đình nhạt pheo.
Nhìn BỒ cặp mắt trong veo;Trông VỢ đôi mắt nheo nheo gườm gườm.
BỒ tiêu thì chẳng tiếc tiền; VỢ tiêu một cắc cũng là tiêu hoang.
BỒ dỗi thì vội xuống thang; VỢ giận thì mắng lại phang thêm liền.
Một khi túi hãy còn tiền; Thì BỒ thắm thiết má kề bên ta.
Mai ngày khi sạch hết tiền; BỒ đá vợ lại đón ta về nhà.
BỒ là lều, VỢ là nhà; Gió bão lều sụp, mái nhà còn nguyên.
VỢ là cơm nguội của ta; Nhưng là đặc sản thằng cha láng giềng !
2.- BÉ CÁI LẦM:
Theo tin từ tờ Bưu Điện Pattaya, Thái Lan: Hôm qua tại trại nuôi cá sấu ở thành phố, một người phụ nữ đi cùng chồng đã bị rơi xuống hồ đầy cá sấu. Anh chồng hoảng loạn kêu cứu khắp nơi, nhưng mọi người gần đó đều lắc đầu từ chối với lý do: Họ không phải là thành viên hiệp hội bảo vệ động vật hoang dã.
Hậu quả là 7 trong số 51 con cá sấu đã bị người phụ nữ này tấn công đến chết. Chủ trại cá sấu đang tiến hành khởi kiện người phụ nữ nói trên vì tội giết hại những con vật vô tội.
3.- PHƯƠNG CÁCH TÌM VỢ BỊ LẠC:
Trong siêu thị, ông nọ đến gần một cô gái trẻ đẹp lễ độ nói nhỏ:
– Xin lỗi cô, vợ tôi đang bị lạc đâu đó trong siêu thị này. Vậy tôi muốn nói chuyện với cô một lát được không?
– Việc ông bà lạc nhau thì có liên quan gì đến tôi? – Cô gái cau mày thắc mắc.
– Là như thế này, mỗi khi tôi đứng nói chuyện với một cô gái trẻ đẹp nào đó, thì bà nhà tôi lập tức xuất hiện.
SƯU TẦM
VII. NHỎ TO HỮU ÍCH THÁNG 08/2020
KHOAI LANG –HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ HIỆU QUẢ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG
Một nghiên cứu mới đây phát hiện khoai lang có những thuộc tính giúp điều trị một số triệu chứng của bệnh tiểu đường.
Bệnh tiểu đường là tình trạng cơ thể sản sinh insulin một cách bất thường và không sử dụng insulin tốt dẫn đến các triệu chứng không mong muốn. Một số triệu chứng phổ biến nhất của bệnh bao gồm lượng đường huyết cao, giảm cân, tiểu nhiều, suy giảm hệ miễn dịch, mờ mắt, đói liên tục, tê chân…
Hiện nay vẫn chưa có thuốc chữa trị tiểu đường, tuy nhiên, những triệu chứng này có thể kiểm soát qua quá trình điều trị. Nếu những triệu chứng của bệnh tiểu đường không được điều trị có thể dẫn đến những bệnh gây tử vong như suy tim. Duy trì lối sống lành mạnh như tập thể dục thường xuyên, thay đổi chế độ ăn uống rất quan trọng đối với bệnh nhân tiểu đường. Một nghiên cứu mới đây phát hiện khoai lang có những thuộc tính giúp điều trị một số triệu chứng của bệnh tiểu đường.
– Ổn định hàm lượng insulin
Khoai lang có khả năng cân bằng hàm lượng insulin trong cơ thể, giảm lượng đường trong máu. Ngoài ra, khoai lang cũng có lượng calo thấp, rất an toàn đối với bệnh nhân tiểu đường.
– Cải thiện tiêu hóa
Bệnh nhân tiểu đường thường gặp chứng khó tiêu, họ cần thay đối chế độ ăn uống hàng ngày. Khoai lang giàu chất xơ, có tác dụng loại bỏ các chất thải tích tụ trong dạ dày và làm mềm phân giúp ngăn ngừa táo bón. Khoai lang kích thích sản xuất dịch vị do đó giúp cải thiện tiêu hóa.
– Cải thiện chuyển hóa
Tiểu đường là một rối loạn chuyển hóa, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng chuyển hóa của cơ thể. Khoai lang giàu các chất dinh dưỡng khác nhau như protein, vitamin, các khoáng chất và cacbonhydrat. Khoai lang có tác dụng thúc đẩy tốc độ chuyển hóa, cải thiện chức năng trao đổi chất của cơ thể. Ngoài ra, khoai lang rất tốt đối với những ai muốn giảm cân.
SƯU TẦM
VIII.THÔNG TIN LIÊN HỘI HHTM–TGP SÀI GÒN THÁNG 08/2020
A. SINH HOẠT LIÊN HỘI HHTM THÁNG 08:
I. MỪNG BỔN MẠNG:
1) Ngày 4/8: Lễ kính thánh Gioan Maria Vianney: Bổn Mạng cha Gioan Maria Vianney Phạn mạnh Cường, Nguyên chính xứ Giám Huấn HHTM Châu Bình (TĐ).
2) Ngày 8/8 : Lễ kính thánh ĐAMINH Bổn Mạng quý Cha Giám Huấn HHTM:
– Cha Đa Minh Đinh Văn Vãng – Tổng Giám Huấn HHTM VN
– Cha Đa Minh Đinh ngọc Lễ – Chính xứ Giám Huấn HHTM Hà nội (XM).
– Cha Đa-Minh Đặng Quốc Hưng – Chính xứ Giám Huấn HHTM Lộc Hưng (CH).
– Cha Đa-Minh Nguyễn Văn Minh – Chính xứ Giám Huấn HHTM Trung Chánh (HM).
– Cha Đa-Minh Nguyễn Hồng Tấn – Chính xứ Giám Huấn HHTM Vị Hưng – GP Cần Thơ.
– Cha Đa-Minh Mai thúc Hòa- Nguyên Chính Xứ Giám Huấn HHTM Phụng Hiệp – GP Cần Thơ.
– Ông Đaminh Lê Văn Giang – Nguyên Liên Hội Trưởng – cố vấn BCH LH.
Xin Chúa xuống muôn ơn lành cho quý Cha và quý ông nhận thánh Đaminh làm bổn mạng.
** Ngày 7/8/2020: Thánh lễ mừng bổn mạng cha ĐaMinh Đinh văn Vãng – Tổng Giám Huấn HHTM-TGP-SG tại nhà thờ Thánh Mẫu Trung Ương cử hành vào lúc 16 giờ 30. Xin các Huynh Trưởng và Hội Viên HHTM thêm lời cầu nguyện cho cha.
3) Ngày 15/8: Lễ Đức Mẹ Hồn xác lên trời: Bổn Mạng của Huynh Trưởng BCH Liên Hội:
– Bà Maria Ngô Thị Thu Thảo – Thủ quỹ BCH Liên Hội.
– Bà Maria Đỗ Thị Thu Lê – Ban Huấn Luyện Liên Hội HHTM TGP.
– Cô Maria Trần thị Thoa- Nguyên UV Ban Chấp Hành Liên Hội HHTM TGP
Nguyện xin Chúa ban muôn ơn lành xuống trên quý chị em để phục vụ Chúa theo linh đạo Hiệp Sống Xin Vâng và Phục Vụ.
4) Ngày 29/8/2020: Kỷ niệm 7 năm thụ phong LM của cha Phao-lô Nguyễn hữu Thiện (29/8/2013- 29/8/2020) – Nguyên Phụ Tá HHTM TGP.
“Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo Tin Mừng”.- Chúng con nguyện xin Thiên Chúa ban tràn đầy hồng ân trên cha. Kính chúc cha ngày càng thêm ngọn lửa yêu mến Chúa để luôn hăng say mang Chúa đến cho mọi người, nhất là những người ở vùng sâu vùng xa.
II. THÔNG TIN BCH LIÊN HỘI:
1) Phân ưu: Cụ bà Maria Nguyễn thị Tập là thân mẫu của anh Liên hội Trưởng mới được Chúa gọi về với Chúa thọ 88 tuổi. Xin phân ưu với Ông Quang Minh và tang quyến. Xin Chúa sớm đưa linh hồn Maria về hưởng nhan thánh Chúa.
Cha Tổng Giám Huấn và Ban Chấp Hành Liên Hội cùng một số Hội Viên HHTM đã đến phúng viếng cầu nguyện tại gia sáng 16/07/2020, và vào ngày an táng 18/07/2020 đã Chủ tế thánh Lễ An Táng tại NT Bắc Hà Quận 10. Sau lễ đã cử hành nghi thức hỏa táng tai Lò Thiêu Bình Hưng Hòa.
2) Thăm viếng :
Bà Anna Bùi Thị Kim Vân – Ủy viên Truyền thông BCH Liên Hội đang đau nặng. Ban Chấp Hành LH đã cử người đến thăm. Xin Chúa ban ơn cho chị được gặp thầy gặp thuốc và sớm được ơn chữa lành để tiếp tục phụng sự Chúa.
3) Sinh hoạt BCH Liên Hội: Theo biên bản buổi họp ngày 21/07/2020 dưới sự chủ tọa của cha TGH và cha Anton Thanh Hà, BCH Liên Hội đã nhất trí cử người của BCH Liên Hội liên kết và trợ giúp Ban Chấp Hành 3 Liên Đoàn trong công tác huấn luyện linh đạo và sinh hoạt của Huynh Trưởng và Hội Viên các Xứ Đoàn. Những anh chị em này không trực tiếp điều hành sinh hoạt của 3 BCH Liên Đoàn và các Xứ Đoàn. Tên của các anh chị em này như sau:
– LĐBA HHTM : Chị Thảo, chị Hoàng Hương, chị Vũ Hương và anh Vĩnh
– LĐGĐ HHTM : Anh Minh, chị Chiến, chị Thủy.
– LĐGT HHTM: Anh Đoàn, chị Thu Lê, chị Trung, cô Thảo.
Xin Chúa chúc lành cho việc liên kết giữa BCH Liên Hội với ba BCH Liên Đoàn được thành công tốt đẹp. Để sinh hoạt của HHTM ngày một tiến triển phong phú.
B. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN BÁC ÁI HHTM–TGP SÀI GÒN THÁNG 08
I. CÔNG TÁC CỦA LIÊN ĐOÀN BÁC ÁI 2020:
– Đại diện Ban Chấp Hành Liên Đoàn đã đến viếng xác cụ bà Maria là thân mẫu của anh Liên Hội Trưởng tại tư gia cùng với BCH Liên Hội.
– Ban Chấp Hành Liên Đoàn Bác Ái đã đến thăm chị Đoàn trưởng Xứ đoàn Lạng Sơn sau thời gian chị bị bệnh đau khớp nặng.
– Đại diện Ban Chấp Hành Liên Đoàn Bác Ái đã đến phúng ông Phêrô Nguyễn Văn Thịnh thuộc giáo xứ Tân Hưng – Ân nhân Liên Đoàn Bác Ái.
– Liên đoàn phó Bác ái Xã hội đã thực hiện công tác bác ái:
* 50 cây nến phục sinh + 30 kg bánh lễ tại Tòa Giám Mục Lạng Sơn.
* 2000 khẩu trang + 30 kg bánh lễ tại Nhà thờ Chánh tòa KonTum.
– Nhân ngày Lễ Mẹ Thăm Viếng bổn mạng LĐBAHHTM, bà Maria Ngô Thị Yến (Ân nhân Bảo trợ ) đã tặng cho Liên đoàn 5.000.000 đ
Ban Chấp Hành Liên Đoàn Bác Ái xin chân thành cảm ơn bà.
II. MỪNG BỔN MẠNG THÁNG 08/2020:
1) Ngày 8/8 : Lễ kính thánh ĐAMINH: Bổn mạng quý Ông:
– Ông Đa-Minh Trần Mạnh Huy–Liên Đoàn Phó LĐ BA/HHTM – Kiêm Đoàn phó II XĐ Bùi Phát.
– Ông Đa-Minh Phan Đảm–Cố vấn BCH XĐ Bùi Phát.
Kính chúc quý ông dồi dào hồng ân Thiên Chúa qua lời cầu bầu của thánh Bổn Mạng.
2) Ngày 15/8 : Lễ Đức Mẹ Hồn xác lên trời : Bổn mạng các Xứ Đoàn và các quý chị em.
– Xứ đoàn Bác Ái HHTM Tân Hưng ( Xóm Mới ).
– Xứ đoàn Bác Ái HHTM Nam Hòa ( Chí Hòa ).
– Xứ đoàn Bác Ái HHTM Bùi Phát ( Phú Nhuận ).
– Bà cố Maria Bùi Thị Nụ – Thư ký XĐ Bác Ái HHTM Tân Hưng .
– Bà Maria Ngô Thị Thu Thảo – Liên đoàn phó ngoại HHTM Bác Ái
– Bà Maria Trần Thị Yến – Đoàn trưởng XĐ Bác Ái HHTM Hợp An.
– Bà Maria Nguyễn Thị Hồng – Thư ký XĐ Bác Ái HHTM Hợp An.
– Bà Maria Nguyễn Thị Hồng Hạnh – Đoàn Trưởng XĐ Bác Ái HHTM Bắc Dũng.
– Bà Maria Nguyễn Thị Nga – Đoàn phó I XĐ Bác Ái HHTM Bắc Dũng.
– Bà Maria Trần Thị Lý – Đoàn phó II XĐ Bác Ái HHTM Bắc Dũng.
– Bà Maria Đào Thị Kim Oanh – Đoàn phó XĐ Bác Ái HHTM Bắc Dũng.
– Bà Maria Lê Thị Hiệp – Thư ký XĐ Bác Ái HHTM Bắc Dũng.
– Bà Maria Nguyễn Thị Xuân – Đoàn trưởng XĐ Bác Ái HHTM Lạng Sơn.
– Bà Maria Nguyễn Thị Khoa – Thủ quỹ XĐ Bác Ái HHTM Lạng Sơn.
– Bà Maria Nguyễn Thị Vui – Đoàn trưởng Đoàn Học Sống Lời Chúa NT Thánh Mẫu.
– Bà Maria Trần Thị Thu Hồng – Đoàn phó I Đoàn Học Sống Lời Chúa NT Thánh Mẫu.
– Bà Maria Nguyễn Thị Mỵ Châu – Thư Ký XĐ Bác Ái HHTM Sao Mai.
– Bà Maria Phạm Thị Hát – Đoàn trưởng XĐ Bác Ái HHTM Nam Hòa.
– Bà Maria Nguyễn Thị Yến – Thủ Quỹ XĐ Bác Ái HHTM Nam Hòa.
– Bà Maria Nguyễn Thị Cúc Lan – Đoàn phó II XĐ Bác Ái HHTM Lộc Hưng.
– Bà Maria Phạm Thị Huệ – Thư ký XĐ Bác Ái HHTM Lộc Hưng.
– Bà Maria Lê Thị KimHuề – Thủ Quỹ XĐ Bác Ái HHTM Lộc Hưng.
– Bà Maria Hoàng Thị Lành – Cố vấn XĐ Bác Ái HHTM Lộc Hưng.
– Bà Maria Trần Thị Nghĩa – Đội trưởng XĐ Bác Ái HHTM Lộc Hưng.
– Bà Maria Lê Thị Thát – Đội trưởng XĐ Bác Ái HHTM Lộc Hưng.
– Bà Maria Nguyễn Thị Tin – Thủ quỹ XĐ Bác Ái HHTM Bùi Phát.
– Bà Maria Nguyễn Thị Thanh Xuân – Thư ký XĐ Bác Ái HHTM Bình Thái.
– Bà Maria Nguyễn Thị Kim Oanh – Thủ quỹ Xứ đoàn Bác Ái Bình Thái.
– Bà Maria Nguyễn Thị Bích Liên – Thư ký XĐ Bác Ái HHTM Châu Bình.
– Bà Maria Trần Thị Kim Thanh – Đoàn phó II XĐ Bác Ái HHTM Châu Bình.
– Bà Maria Trần Thị Thu Nguyệt – Thủ quỹ XĐ Bác Ái HHTM Nam Hưng.
– Bà Maria Đinh Thị Thu Trang – Đoàn phó I XĐ Bác Ái HHTM Trung Chánh.
– Bà Maria Bùi Thị Kim Hằng – Thư ký XĐ Bác Ái HHTM Trung Chánh.
– Bà Maria Vũ Thị Mai Hương – Cố vấn XĐ Bác Ái HHTM Trung Chánh.
– Bà Maria Đặng Thị Nguyệt – Đoàn phó I XĐ Bác Ái HHTM Bùi Môn.
– Bà Maria Phạm Thị Kim Trâm – Đoàn phó 2 XĐ Bác Ái HHTM Bùi Môn.
Xin chúc các Xứ đoàn và các quý bà nhận Thánh Mẫu Maria làm bổn mạng được tràn đầy hồng ân Thiên Chúa qua lời cầu bầu của ngài.
3) Ngày 27/8 : Kính thánh nữ Monica:
– Bổn mạng Bà Monica Vũ Thị Nữ – Đoàn phó XĐ Bác Ái HHTM Bình Thái.
Xin chúc quý bà nhận thánh Monica làm bổn mạng được tràn đầy hồng ân Thiên Chúa qua lời cầu bầu của ngài.
III. BÁO CÁO CÔNG TÁC BÁC ÁI CỦA CÁC XỨ ĐOÀN:
1) Đoàn Học Sống Lời Chúa NT Thánh Mẫu :
– Sĩ số 50 hội viên, hoạt động 30/50
– Thánh lễ hàng tháng lúc 16h30
– Đọc kinh tối : 15 lần
– Quét dọn nhà thờ : 4 lần
– Cắm hoa : 8 lần
– Giúp đỡ các linh mục hưu dưỡng : 2.000.000
– Giúp các Tu sĩ : 1.750.000
Tổng chi công tác bác ái: 8.290.000
2) Đoàn Bác Ái Nam Hòa:
– Để chuẩn bị Mừng bổn mạng Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Ban Chấp Hành đã đi thăm các hội viên đau bệnh và các hội viên đang sinh hoạt (90 hội viên )
Vệ sinh quét dọn nhà thờ : 4 lần / 4 người
Tổng chi quà biếu 7.620.000
IV . TIN BUỒN :
Trong tháng 7 vừa qua linh hồn Phêrô Nguyễn Văn Thịnh là ân nhân thuộc xứ đoàn Tân Hưng đã được Chúa gọi về.
Xin Thiên Chúa sớm đưa các linh hồn này về hưởng tôn nhan Thiên Chúa.
V . THƯ MỜI HỌP :
Mời các anh chị Xứ Đoàn trưởng và thành viên BCH các xứ đoàn thuộc LĐBA/HHTM đến tham dự buổi sinh hoạt tháng 08/2020 tại Nhà thờ Thánh Mẫu Trung Ương : Số 3-5 Chữ Đồng Tử, P7, Q.Tân Bình , vào lúc 15g00 Thứ Hai, ngày 31/08/2020.Đề nghị các anh chị em đến tham dự đầy đủ và đúng giờ.
C. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIA ĐÌNH HHTM THÁNG 08
I. MỪNG BỔN MẠNG:
1)NGÀY 8/8: LỄ KÍNH THÁNH ĐA MINH:
–Anh Đa-minh Vũ Văn Tuấn – nguyên Trưởng GĐ/HHTM Mat-thêu.
–Anh Đa-minh Đào Duy Từ – NguyênTập huấn Liên Đoàn GĐ/HHTM.
–Anh Đa-minh Đinh Quang Vinh – Nguyên Cố vấn GĐ/HHTM Mẫu Tâm – Hạt Chí Hòa.
–Anh Đa-minh Phạm Duy Quý – Cố vấn BCH GĐ/HHTM Mẫu Tâm – Hạt Chí Hòa.
–Anh Đa-minh Phạm Mạnh Cường – XĐ GĐ/HHTM Mẫu Tâm – Hạt Chí Hòa.
Chúc Mừng Bổn mạng Quý Huynh trưởng cùng tất cả quý Hội viên nhận thánh Đaminh làm Bổn Mạng. Nguyện xin Thiên Chúa qua lời cầu bầu của Thánh Đa minh tuôn đổ muôn hồng ân trên quý anh.
2) Ngày 12/08 : Kính Thánh An Tôn Nguyễn Đích, Bổn mạng Caritas.
3) Ngày 15/08: Kính Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời: Bổn Mạng Xứ Đoàn Gia Ðình HHTM Lạc Quang (HM).
Và một số chị em Ban Chấp Hành LĐ Gia Đình HHTM nhận BM là Đức Mẹ Lên Trời như:
– Chị Maria Trần Thị Bá Hường (NguyênThủ Qũy LÐGÐ HHTM).
–Chị Maria Nguyễn Thị Bạch Tuyết (TK Sinh Hoạt LÐGÐ HHTM).
–Chị Maria Hoàng Thị Dung (Ủy viên Phụng Vụ LĐ Gia đình).
–Chị Maria Nguyễn Thị Xuân Lan (Đoàn Phó GĐ/HHTM Bắc Hà).
–Chị Maria Nguyễn Thị Vượng Thư ký XĐ GĐ/HHTM Bắc Hà.
–Chị Maria Đỗ Thị Liên Thư ký XĐ GÐ/HHTM Lạc Quang.
–Chị Maria Trần Thị Hường Thủ Quỹ XĐ GÐ/HHTM Lạc Quang.
–Chị Maria Nguyễn Thị Bích Liễu Ca trưởng GÐ/HHTM LQ.
–Chị Maria Trịnh Thị Kim Dung (GÐ/HHTM Lạc Quang).
–Chị Maria Trần Thị Châu (Phó Ngoại XĐ GĐ/HHTM Sao Mai).
-Chị Maria Nguyễn Thị Thái Phi (Thủ Quỹ XĐGĐ/HHTM Sao Mai).
–Chị Maria Nguyễn Thị Nghĩa (nguyên Trưởng GĐ/HHTM Hà Nội).
–Chi Maria Nguyễn Thị Tính (nguyên Trưởng GĐ/HHTM Hà Nội).
–Chị Maria Nguyễn Thị Xuân (nguyên Thủ Quỹ GĐ/HHTM Hà Nội).
–Chị Maria Đặng Thị Nga (Trưởng XĐGĐ/HHTM Hà Nội).
–Chị Maria Lan Loan (Thư ký kiêm Thủ Quỹ GĐ/HHTM Hà Nội).
–Chị Maria Trần Hoàng Châu (Phó Ngoại GĐ Lộ Đức/HHTM SM).
–Chị Maria Nguyễn Thị Thúy (Thư ký GĐLộ Đức/HHTM Sao Mai).
–Chị Maria Hoàng Thị Thu Trang (Tr. GĐHHTM/Tân Hưng Q12).
–Chị Maria Nguyễn Thị Thu Linh (Thư ký GĐ /HHTM Châu Bình).
–Chị Maria Nguyễn Thị Xuân (Thủ Quỹ XĐGĐ/HHTM Châu Bình).
–Chị Maria Phạm Thị Năm (Phó XĐGĐ/HHTM Mattheu).
–ChịMaria Vũ Thị Nga (Thư ký XĐGĐ/HHTM Mattheu).
–Chị Maria Nguyễn Thị Lộc Bích (Phó XĐGĐ/HHTM Mẫu Tâm).
–Chị Maria Thị Bạch Tuyết (Thư ký XĐGĐ/HHTM Mẫu Tâm).
4) Ngày 22/08 Kính Đức Ma-ria Trinh Nữ Vương:Bổn mạng của Xứ Ðoàn Gia Ðình/HHTM Sao Mai (CH).
5)Ngày 23/08 Kính Thánh Nữ Rosa Lima:
– Bổn Mạng chị Rosa Đinh Thị Lành (Phó Nội GĐ Lộ Đức HHTM Sao Mai)
Chúc mừng Bổn Mạng Xứ Ðoàn GĐ Lạc Quang và GĐ Sao Mai. Xin Mẹ Lên Trời và Mẹ Trinh Vương cầu bầu cùng Chúa cho hai Xứ Đoàn Gia đình HHTM ngày một phát triển và tích cực góp phần chu toàn sứ vụ Loan Báo Tin Mừng của Hiệp Hội Thánh Mẫu.
II. BÁO CÁO CÔNG TÁC CÁC XỨ ĐOÀN LĐ GĐ ĐÃ THỰC HIỆN THÁNG VỪA QUA 2020:
1) XĐ Gia đình HHTM Tân Hưng Q 12:
– Sinh hoạt hội định kỳ vào thứ sáu hàng tuần và học lời Chúa dựa vào Tập San do cha TGH biên soạn.
– Duy trì Quét nhà thờ mỗi tuần 2 lần vào sáng thứ hai và sáng Chủ nhật.
– Tham dự thánh lễ kỷ niệm ngày thụ phong linh mục của cha sở và hai cha phó.
2)Gia đình HHTM Hồng Ân:
– Đọc kinh giỗ1 năm cho Linh Hồn Hội viên Maria Nguyễn Sương Thắm
– Thăm hội viên Maria Đặng kim Phỉ mổ mắt ở BV mắt Điện Biên phủ.
-Dự Thánh Lễ An táng Bà Maria mẹ Anh Trưởng Liên Hội Thánh Mẫu.
– Tham dự Thánh Lễ tại NT Thánh Mẫu sáng thứ bảy hàng tuần.
3) XĐ Gia Đình HHTM Lộ Đức Sao Mai – Hạt Chí Hòa:
-Kết hợp với Caritas Hạt chí Hòa Thăm chị hội viên bịnh ung thư gan thời kì cuối.
-ChịTrưởng Gia đình Lộ Đức bảo lãnh chuyển 10 triệu của Vp Caritas Gp cho bịnh nhân bị ung thư để lo tiền thuốc.
-Lệ thường hằng tháng GĐ Lộ Đức thăm 5 bịnh nhân trong giáo xứ Sao Mai.
-Chị Trưởng và Phó đại diện đoàn dự Thánh Lễ An táng Bà Maria mẹ Anh Liên Hội Trưởng HH Thánh Mẫu.
4) XĐ Gia ĐìnhHHTM Châu Bình – Thủ Đức
-Duy trì đọc kinh luân phiên tối thứ 2 hằng tuần tại các gia đình.
-2 tối đọc kinh sau đám tang nhạc mẫu của anh phó đoàn.
-Giữ xe lễ thiếu nhi tốiChủ nhật.
-Thứ tư quét nhà thờ và hát lễ chiều CN đầu tháng.
5) XĐ Gia Đình HHTM Mẫu Tâm – Chí Hòa
-Hát lễ 5g30 thứ bảy thứ bảy hằng tuần. Sau Lễ sinh hoạt Xứ Đoàn.
-Thứ sáu hàng tuần tập hát, học lời Chúa theo tài liệu Tập San Hiệp Sống.
-Đọc kinh đám tang.
-Giữ xe chiều chủ nhật.
-Chị Bạch Tuyết đại diện Xứ Đoàn dự lễ An táng Bà Maria mẹ Anh Liên Hội Trưởng HHTM.
6) XĐ Gia Đình HHTM Sao Mai – Chí Hòa:
-Tâp hát và hát lễ chiều thứ bảy.
-Gửi giúp người dân tộc nghèo 2.100.000 đ.
-Thăm mẹ của hội viên bị đau yếu.
7) XĐ Gia Đình HHTM Băc Hà – Củ Chi :
-Thăm 2 hai hội viên bị bệnh.
-Hằng tuần quét dọn nhà Chúa : 6 chị em.
-Dọn sạch khuôn viên nhà Thờ : 6 chị em
-Viếng và Cầu nguyện Chị Maria Trần Thị Nụ – Cựu hội viên mới qua đời
8) XĐ Gia Đình HHTM Phụng Hiệp – GP Cần Thơ:
Liên đoàn Gia đình Hiệp Hội Thánh Mẫu Xin dâng lời nguyện xin các Thánh Phê rô, Tô-ma, An-na cầu bầu cùng Chúa ban ơn lành và Chúc Mừng Bổn mạng quý chị huynh trưởng Gia đình Xứ đoàn Phụng Hiệp :
–Anh trưởng Phê-rô Cao Văn Phúc mừng ngày 29/06.
–Anh phó Tô-ma Vũ Văn Nhờ mừng ngày 13/07.
– Chị Thư ký An-na Trần Thị Mai Hoa mừng ngày 26/7.
Chiều thứ bảy hằng tuần anh chị em vẫn đọc kinh trước đài Đức Mẹ của Gx Phụng Hiệp.
9) XĐ Gia Đình HHTM Mathêu- Hạt Chí Hòa:
-Tiễn anh Trưởng Đaminh Vũ Văn Tuấn trở lại Hoa Kỳ.
-Hằng tuần duy trì giờ sinh hoạt hội họp vào tối thứ hai.
-Gia đình Mat-theu không đông người, nhưng chăm chỉ học sống Lời Chúa hằng tuần.
-Tham dự lễ và cử người đọc bài đọc trong lễ 5g30 sáng thứ bảy tuần II tại nhà thờ Thánh Mẫu Trung Ương.
10) XĐ Gia Đình HHTM Lạc Quang–Hóc Môn:
-Thăm chị Thư ký Đỗ Thị Liên mổ thận tại bệnh viện Thống Nhất.
– Hằng tuần hát lễ sáng thứ bảy. Sau thánh lễ sinh hoạt Xứ đoàn.
– Hằng tuần coi xe vào lễ thứ nhất của giáo xứ.
III. KẾ HOẠCH THÁNG 8/2020:
1)Về thánh lễ hằng tuần sáng thứ bảy tại NT Thánh Mẫu:
– Thời gian : 5g30.
– Ý Lễ: Xin ơn bình an cho Hội viên HHTM. Xin cho các Linh hồn ân nhân, thân nhân và hội viên đã qua đời.
– Hội viên dự lễ mặc đồng phục, ngồi 3 hàng ghế cuối nhà thờ phía bên Nam.
– Sau Lễ tập trung 5 phút trước đài Đức Mẹ ở trong sân cuối nhà thờ.
– Phân công Đọc Sách Thánh các sáng thứ bảy tháng 8/2020 như sau:
+Thứ bảy 01/8/2020 : Gia đình Sao Mai.
+Thứ bảy 08/8/2020 : Gia đình Mattheu.
+Thứ bảy 15/8/2020 : Gia đình Lộ Đức.
+Thứ bảy 22/8/2020 : Ban chấp hành LĐ Gia đình.
+Thứ bảy 29/8/2020 : Ban chấp hành LĐ Gia đình.
2) Đi chúc mừng Bổn Mạng quý cha :
– Ngày 6/8: Đến chúc Mừng Bổn Mạng Cha Đa-minh Đinh Ngọc Lễ- Giám huấn XĐ Gia Đình Hà Nội (XM).
– Ngày 7/8 : Tham dự Thánh lễ Kính Thánh Đa Minh hồi 16g30 tại Nhà Thờ Thánh Mẫu Trung ương – XĐ Gia đình HHTM Sao Mai phụ trách dâng lễ vật.
3) Xin cầu nguyện: Trong tháng 8 Xin mỗi hội viên đọc 10 kinh kính mừng hằng ngày ý chỉ cho 4 Linh hồn Maria
– Maria Nguyễn Sương Thắm (Hội ViênXĐ Gia Đình Hồng Ân )
– Maria Nguyễn Thị Nụ (Hội Viên XĐ Gia Đình Bắc Hà – Củ Chi )
-Cụ bà Maria Thân Mẫu anh Liên Hội Trưởng HHTM.
-Nhạc Mẫu anh Phó XĐ Gia ĐìnhHHTM Châu Bình
Và cầu xin cho 2 bệnh nhân được ơn chữa lành:
-Chị Đỗ Thị Liên Thư ký GĐ Lạc Quang (mổ thận).
-Chị Bùi Kim Vân truyền thông (ung thư gan).
4)Về việc phân phối tập san Hiệp Sống hằng tháng:
-XĐ GĐ Tân Hưng Q12: 20 tập san.- Nhờ anh chị Đức Bích chuyển.
-XĐ GĐ Bắc Hà: 25 tập san.- Nhờ ông cố.
-XĐ GĐ Hồng Ân: 4 tập san.
-XĐ GĐ Châu Bình: 7 tập san.
-XĐ GĐ Sao Mai: 15 tập san.
-XĐ GĐ Mattheu: 12 tập san.
-XĐ GĐ Hà Nội: 5 tập san.
-XĐ GĐ Mẫu Tâm: 10 tập san.
-XĐ GĐ Lạc Quang: 5 tập san.
-XĐ GĐ Phụng Hiệp: Email chị Hoa Mai.
-Lớp Giáo Lý Hôn Nhân Sao Mai: 80 tập san.
5) Thư mời họp:
Mời các anh chị Xứ Đoàn trưởng và thành viên BCH các xứ đoàn thuộc LĐ Gia Đình / HHTM dự buổi sinh hoạt tháng 08/2020 tại Nhà Sinh Hoạt Mục Vụ Sao Mai lầu 1: Số 130/54 Nghĩa Phát, P7, Q.Tân Bình , vào lúc 18g00 – 19g30 Thứ Hai, ngày 03/08/2020.Mỗi Xứ đoàn cố gắng cử 2 đại diện tham dự.
IV. VỀ TẬP SAN HIỆP SỐNG HẰNG THÁNG:
Liên đoàn GĐ rất mong các Xứ đoàn học tập các bài trong tập san Hiệp Sống hằng tháng :
Liên đoàn gửi Email, Zalo, hoặc FB đến các Xứ đoàn. Mong Xứ đoàn in ra cho Hội viên học các bài Nhân Bản, Xây Dựng hạnh phúc GĐ, các bài Hiệp Sống Tin Mừng hằng tuần và đọc thông tin HHTM ở mục Thông tin cuối tập san.
Sáng thứ bảy tuần lễ thứ nhất hằng tháng tại Nhà Thờ Thánh Mẫu Trung Ương, sau lễ sáng hồi 06g00, BCH Liên Đoàn sẽ giao tập san cho các Xứ Đoàn.
V. VỀ THÁNH LỄ CỦA LĐ GIA ĐÌNH HHTM TẠI NT THÁNH MẪU:
Hội viên thuộc Liên đoàn Gia đình HHTM hiệp dâng lễ lúc 05g30 sáng Thứ Bảy hằng tuần tại NT Thánh Mẫu:
1) Ý LỄ: Cầu nguyện cho hội viên được bình an và đạo đức sốt sắng; Cầu cho các ân nhân thân nhân còn sống cũng như đã qua đời; Cầu cho các bệnh nhân bệnh lâu ngày.
2) CHUẨN BỊ THÁNH LỄ: Hội viên được phân công đọc sách Thánh sẽ chuẩn bị bằng cách vào phòng thánh xem bài đọc trong Sách Thánh và bài đáp ca trước thánh lễ. Hằng tuần Chị Liên Đoàn Trưởng sẽ chụp bài đọc đưa vào Zalo Nhóm của Liên đoàn và có photo bài đọc. Các bạntới phiên đọc sách thánh có thể gặp Hoàng Nhiễu để lấy bài đọc để chuẩn bị.
D. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIỚI TRẺ HHTM THÁNG 08 :
1) Liên Đoàn Giới Trẻ HHTM TGP Saigon gồm 6 Xứ Đoàn đang hoạt động như sau:
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Sao Mai,
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Thạch Đà,
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Châu Bình,
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Bình Thái,
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Bình An.
Xứ Đoàn Sinh Viên Nhà Thờ Thánh Mẫu Trung Ương đang trong giai đoạn hình thành.
2) Hiện nay Liên Đoàn Giới Trẻ HHTM đã bầu được một tân Ban Chấp Hành nhiệm kỳ 2020-2024. Tân BCH Liên Đoàn sẽ đi thăm các Xứ Đoàn và đề ra phương hướng sinh hoạt trong thời gian sắp tới.
3) Cụ thể từ nay đến lễ Bổn Mạng Tê-rê-sa của Liên Đoàn Giới Trẻ HHTM, Ban Chấp Hành Liên Đoàn sẽ họp mặt hai nhóm sinh viên nữ của Trụ Sở HHTM và nhóm sinh viên Nam của Nhà thờ Thánh Mẫu thành Xứ Đoàn Sinh Viên HHTM ra mắt vào ngày lễ thánh Tê-rê-sa là Bổn Mạng Liên Đoàn Giới Trẻ HHTM TGP.
TRUYỀN THÔNG HHTM
XIN TẢI TẬP SAN HIỆP SỐNG THÁNG 08.2020. TẠI DƯỚI.
TTẬP-SAN-HIỆP-SỐNG-TH-08-2020-IN