TẬP SAN HIỆP SỐNG
Tháng 06.2020
TƯ LIỆU HỌC TẬP CỦA HIỆP HỘI THÁNH MẪU
Lưu hành nội bộ
NỘI DUNG
TẬP SAN HIỆP SỐNG THÁNG 06/2020
I. THƯ LM GH TH 06/20: CÙNG MẸ KẾT HIỆP VỚI THÁNH TÂM CHÚA GIÊ-SU.
II. HỌC SỐNG NHÂN BẢN TH 06/20: GÂY THIỆN CẢM – ĐIỀU KIỆN ĐỂ THÀNH CÔNG.
III. XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GĐÌNH TH 06/20: ĐỂ HẠNH PHÚC GĐ ĐƯỢC BỀN VỮNG.
IV. TƯ LIỆU HIỆP SỐNG TH 06/20: HSTM CN 10 TN A (lỄ CHÚA BA NGÔI); HSTM CN 11 TN A (LỄ MÌNH MÁU CHÚA); HSTM CN 12 TN A; HSTM CN 13 TN A (LỄ TH PHÊ-RÔ PHAO-LÔ).
V. HLUYỆN HTRƯỞNG TH 06/20: ĐỨC TÍNH CỦA TRƯỞNG LÃNH ĐẠO CỘNG ĐOÀN.
VI. THƯ GIÃN TH 06/2020: ĂN NÓI HỚ HÊNH.
VII. NHỎ TO HỮU ÍCH TH 06/2020: VỀ CHỮ VIẾT TẮT CỦA DÒNG TU.
VIII. SINH HOẠT HIỆP SỐNG THÁNG 06/2020:
A. THÔNG TIN LIÊN HỘI HHTM THÁNG 06
B. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN BÁC ÁI HHTM THÁNG 06
C. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIA ĐÌNH HHTM THÁNG 06
D. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIỚI TRẺ HHTM THÁNG 06
LÁ THƯ LM GIÁM HUẤN THÁNG 06/2020
CÙNG MẸ KẾT HIỆP VỚI THÁNH TÂM CHÚA GIÊ-SU
Hằng năm Hội Thánh dành Tháng Sáu để kính Thánh Tâm Chúa Giê-su. Trong tháng này hai ngày lễ kính Thánh Tâm Chúa và Trái Tim vẹn sạch Đức Mẹ được mừng liên tiếp nhau. Qua đó cho thấy Hội Thánh luôn gắn liền tình yêu của Chúa Giê-su và của Mẹ Ma-ri-a trong chương trình cứu độ lòai người. Nhân dịp này các hội viên Hiệp Hội Thánh Mẫu sẽ cùng tìm hiểu về LINH ĐẠO HIỆP HỘI THÁNH MẪU liên quan đến Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a như sau :
– ĐẾN VỚI CHÚA GIÊ-SU NHỜ MẸ MA-RI-A : Ngay từ khi thành lập, Hiệp Hội Thánh Mẫu đã chọn lễ Truyền Tin làm bổn mạng và là ngày truyền thống quốc tế hằng năm. Qua đó, HHTM muốn xác định con đường nên thánh của mình là : “AD JESUM PER MARIAM” – “Đến với Chúa Giê-su nhờ Mẹ Ma-ri-a”. Hội viên luôn sống tinh thần Xin Vâng và Phục Vụ của Chúa Giê-su noi gương Đức Mẹ. Hội viên cùng Mẹ tin cậy yêu mến và sống kết hiệp với Chúa Giê-su, và nhờ Chúa Giê-su đến cùng Thiên Chúa Cha.
– TIN CẬY PHÓ THÁC CHO CHÚA GIÊ-SU : Trong tiệc cưới thành Ca-na, Mẹ Ma-ri-a đã tin Chúa Giê-su là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (x Mt 16,16), nên khi tiệc cưới nửa chừng hết rượu, Mẹ ý thức sự giới hạn của mình, và tin vào quyền năng của Con, nên Mẹ đã bảo các người giúp việc hãy đến với Chúa Giê-su và vâng nghe Lời Người như sau : “Giê-su bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (x Ga 2,5).
– YÊU MẾN KẾT HIỆP VỚI CHÚA GIÊ-SU : Cuộc đời của Mẹ Ma-ri-a luôn gắn bó với Chúa Giê-su. Trong ngày lễ truyền tin, sau lời thưa Xin Vâng của Mẹ, Ngôi Lời đã nhập thể làm người trong lòng của Mẹ. Từ giây phút đó, Mẹ như một nữ tu, đã dâng mình khấn trọn để chỉ yêu mến và phụng sự Chúa Giê-su (x Lc 1,38). Sự kết hiệp mật thiết của Mẹ với Chúa được biểu lộ rõ nét trong cuộc Khổ Nạn của Người. Mẹ đi theo chân Chúa trên đường thương khó và đứng cạnh thập giá để lãnh nhận những lời trăn trối cuối cùng của Chúa, để trở thành mẹ của Gio-an là đại diện Hội Thánh, trong đó có các tín hữu chúng ta (x Ga 19,25-27).
– NHỜ CHÚA GIÊ-SU ĐẾN CÙNG CHÚA CHÚA CHA : Nhờ sự vâng phục thánh ý Chúa Cha mà Chúa Giê-su đã được Chúa Cha tôn vinh làm Chúa tể muôn lòai (x Pl 2,6-11). Người trở thành con đường duy nhất dẫn đưa nhân lọai về trời, là sự thật tòan vẹn mà Chúa Cha muốn tỏ ra cho lòai người, và là sự sống cho những ai tin vào Danh Người. Từ đây không ai đến được với Chúa Cha nếu không qua con đường Giê-su (x Ga 14,6).
Trong tháng Sáu kính Thánh Tâm này cũng như trong suốt cuộc đời, hội viên HHTM chúng ta quyết tâm vâng lời Me để tin yêu phó thác đời mình cho Chúa Giê-su. Tin rằng Người chính là “Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” và quyết tâm sống kết hiệp mật thiết với Người. Trong cuộc sống, hội viên sẽ luôn sống tinh thần : hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a yêu mến Chúa Giê-su, và vâng nghe lời Người; đến với Chúa Giê-su nhờ Mẹ Ma-ri-a, và nhờ Chúa để đến được với Thiên Chúa Cha.
LINH MỤC GIÁM HUẤN HHTM
Đaminh ĐINH VĂN VÃNG
II.HỌC SỐNG NHÂN BẢN THÁNG 06/2020
GÂY THIỆN CẢM – ĐIỀU KIỆN ĐỂ THÀNH CÔNG TRONG MỌI CÔNG VIỆC
1)LỜI CHÚA :”Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta. Vì Luật Mô-sê và lời các Ngôn sứ là thế đó”(Mt 7,12).
2)CÂU CHUYỆN :
Một cô gái tên là Tâm đang làm nhân viên tại phòng quản lý về giao thông công chánh. Cô được hầu hết nhân viên trong phòng quý mến và cũng được cấp trên đánh giá là một nhân viên có năng lực làm việc, giải quyết công việc cách nhanh chóng hiệu quả và hầu như không khi nào bị khách hàng khiếu nại điều gì. Những người đến liên hệ khi được hỏi đều tỏ ý hài lòng trước cung cách phục vụ vui vẻ ân cần của cô. Khi được phóng viên hỏi làm thế nào mà cô đã gây được thiện cảm của nhiều người như vậy, thì cô đã khiêm tốn trả lời như sau:
“Cách đây mấy năm, khi mới được điều về phòng này, tôi thường có thái độ hách dịch và hay trì hõan, làm chậm trễ công việc của khách đến liên hệ với những lý do không chính đáng như: Việc đó không thuộc thẩm quyền của tôi rồi đùn đẩy trách nhiệm sang cho người khác, hoặc tệ hơn tôi cố tìm ra cái cớ như có sự thiếu sót về mặt giấy tờ để trả lại hồ sơ, và hẹn tới hẹn lui nhiều lần rồi mới chịu giải quyết. Dù rằng thật ra có ít nhất một nửa công việc tôi vẫn có thể giải quyết nhanh chóng và hiệu quả nếu muốn. Dĩ nhiên mọi việc đều trở nên dễ dàng hơn đối với những người tỏ ra biết điều, kín đáo bồi dưỡng cho tôi. Hầu hết những ngừơi bị trả lại hồ sơ đều tỏ vẻ bất bình. Thậm chí có người còn công khai chỉ trích thái độ quan liêu cửa quyền của tôi. Sau những lần như thế, tôi cũng cảm thấy áy náy lương tâm và hối hận về thái độ hay bẳn gắt, thiếu nhiệt tình, và về lòng tham của mình. Cuối cùng tôi quyết định phải thay đổi lối sống để phục vụ tốt hơn. Tôi quyết tâm trở thành bạn tốt của mọi người.
Việc đầu tiên tôi làm là học thuộc tên của những người từng đến liên hệ.
Rồi tôi mỉm cười và gật đầu chào họ mỗi khi gặp mặt.
Tôi cũng tỏ thái độ quan tâm và ân cần lắng nghe những ngừơi đến liên hệ để tìm hiểu nhu cầu của họ và tận tình chỉ dẫn công việc sao cho thuận lợi và nhanh chóng nhất, thay vì hẹn tới hẹn lui nhiều lần như trước đó.
Tôi cũng không còn quan tâm đến việc bồi dưỡng của khách.
Từ ngày đó, tôi nhận thấy thái độ của các bạn đồng nghiệp đối với tôi bắt đầu thay đổi. Họ thường tỏ ra vui vẻ cởi mở mỗi khi gặp tôi. Còn các khách hàng thì hầu hết đều hài lòng và biết ơn tôi vì được giúp đỡ giải quyết công việc nhanh chóng và hòan tòan miễn phí. Chính tôi cũng thấy lương tâm yên ổn và hài lòng trước những tình cảm quý mến mà mọi ngưồi dành cho mình. Hiện nay tôi luôn hứa với lòng mình là sẽ phục vụ tha nhân với hết khả năng, để giữ mãi được tình cảm quý mến và sự tín nhiệm mà mọi người đã dành cho tôi”.
3)SUY NIỆM :
– Trong cuộc sống, chúng ta sẽ được thành công hay bị thất bại là do chúng ta có tranh thủ được thiện cảm của người khác, có được người khác cộng tác giúp đỡ hay không. Tuy nhiên để được thiện cảm của người khác thì điều quan trọng nhất là phải biết cư xử tốt đẹp với họ. Một khi chúng ta nhiệt tình giúp đỡ tha nhân thì khi cần họ sẽ giúp lại chúng ta như người ta thường nói : “Có đi có lại mới tọai lòng nhau” và “Hòn đất ném đi hòn chì ném lại”. Ngược lại, nếu chúng ta tỏ thái độ dửng dưng ích kỷ, không sẵn sàng giúp đỡ tha nhân khi họ cần thì cũng đừng mong sẽ được họ giúp lại theo nguyên tắc nhân quả: “Gieo giống nào gặt giống đó: Gieo gió sẽ phải gặt bão và ở hiền gặp lành”-
– Thái độ vị tha, luôn biết nghĩ tới người khác là thái độ của những người có lòng nhân ái: Lòng nhân ái đòi ta phải thắng vượt tính ích kỷ cố hữu của mình là chỉ biết nghĩ đến mình, chỉ lo bảo vệ quyền lợi của mình, và dửng dưng trươc những nhu cầu của tha nhân. Chính khi biết vị tha, quên mình để nghĩ tới người khác và sẵn sàng giúp đỡ họ hết khả năng, là chúng ta đang gieo những hạt giống tốt trong cuộc đời. Những hạt giống này sẽ âm thầm mọc lên thành cây và sinh hoa kết trái lúc nào ta cũng không hay biết. Rồi tới một lúc nào đó bất ngờ, chúng ta sẽ gặt được những hoa trái tốt đẹp của thái độ vị tha quảng đại của mình khi được người khác thương yêu và sẵn sàng giúp đỡ lại khi chúng ta cần.
4)SINH HỌAT : Trong câu chuyện trên, hãy cho biết lý do tại sao cô nhân viên đã gây được thiện cảm của nhiều người chung quanh?
5) LỜI CẦU:
Hãy dâng một lời cầu nguyện xin Chúa giúp bạn luôn quên mình để nghĩ tốt và quảng đại phục vụ tha nhân vô vụ lợi để được thành công trong mọi việc.
III.XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH TH 06/2020:
ĐỂ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH ĐƯỢC BỀN VỮNG
1. LỜI CHÚA: Thánh Phao-lô nói: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,4-7).
2. SUY NIỆM:
1) Yêu thương và tôn trọng nhau:
Trong ngày thành hôn, đôi tân hôn đã cầm tay nhau thề hứa sẽ “yêu thương và tôn trọng nhau mọi ngày trong suốt cuộc đời”. Tôn trọng là nhìn nhận nhau là người bạn đời ngang hàng chứ không phải người này là người giúp việc của người kia.
Tiếp đến, trọng kính là chấp nhận nhau, ưu điểm cũng như khuyết điểm. Đón nhận toàn thể con người của nhau với quá khứ, hiện tại và tương lai. Chấp nhận những khác biệt về cách suy nghĩ, cảm nhận… Sự tôn trọng được diễn tả qua cách ứng xử, lời ăn tiếng nói với nhau. Không phải chỉ tôn trọng nhau lúc thành công thịnh vượng và khoẻ manh, mà còn phải tôn trọng nhau ngay cả khi gặp gian nan, thất bại và bệnh hoạn nữa. Tránh nói với nhau bằng những lời thô tục, hoặc nói xấu nhau với người thứ ba.
2) Hy sinh cho nhau:
Chúa Giê-su cũng dạy tình yêu thương phải được chứng tỏ bằng sự hy sinh cho nhau như sau: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Yêu nhau mà không muốn hy sinh cho nhau, không chấp nhận gian khổ vì nhau, thì tình yêu đó chưa phải là tình yêu thủy chung.
Hạnh phúc gia đình phải được xây dựng bằng những điều nhỏ mọn, bằng những hi sinh liên lỉ hằng ngày của cả hai bợ chồng. Cụ thể trong việc sử dụng tiền bạc, mua sắm, giải trí… Đừng chỉ quyết định theo sở thích riêng của mình, bất chấp sở thích của vợ hoặc chồng.
Khi xảy ra những mâu thuẫn, hy sinh là phải nhẫn nhịn vì: “Một sự nhịn bằng chín sự lành”. Dĩ nhiên có những điều không thể nhượng bộ, nhất là trong lãnh vực luân lý hay đạo đức.
Hy sinh cũng đồng nghĩa với tha thứ vì “Nhân vô thập toàn”. Thánh Phaolô dạy: “Anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau nếu người này có chuyện phải oán tráùch người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau”. (Cl 3,12-13)
3) Đối thoại với nhau
Đối thoại là yếu tố quan trọng giúp duy trì và củng cố hạnh phúc trong gia đình. Nhờ đối thoại, vợ chồng, cha mẹ và con cái hiểu nhau hơn, giảm bớt những bất đồng. Đối thoại là nói và nghe. Cần nói cho nhau biết những điều mình suy nghĩ và mong ước, đồng thời cần nghe những suy nghĩ và mong ước của người kia. Nghe không phải chỉ bằng đôi tai, mà còn phải nghe bằng cả khối óc và con tim.
Những chuyện quan trọng trong gia đình vợ chồng cần phải chia sẻ, bàn bạc cùng nhau. Cha ông ta có câu “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”. Làm việc gì cũng nên trao đổi và thống nhất trước khi hành động. Trong lúc bàn bạc, cần lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhau, không nên độc tài, độc đoán, áp đặt ý riêng của mình.
Nếu thường xuyên chia sẻ tâm tình với nhau, vợ chồng sẽ dễ dàng đi đến chỗ thống nhất trên các lãnh vực công ăn việc làm, tổ chức đời sống, giáo dục con cái, giải trí, giao tế bạn bè, đời sống đạo đức… Nhờ đó, sẽ hiểu nhau, tin tưởng nhau và gắn bó với nhau hơn.
4) Chu toàn bổn phận vợ chồng
Thánh Phaolô khuyên các cặp vợ chồng: “Chồng hãy làm tròn bổn phận đối với vợ, và vợ đối với chồng cũng vậy. Vợ không có quyền trên thân xác mình, nhưng là chồng; cũng vậy, chồng không có quyền trên thân xác mình, nhưng là vợ. Vợ chồng đừng từ chối nhau, trừ phi hai người đồng ý sống như vậy trong một thời gian, để chuyên lo cầu nguyện; rồi hai người lại ăn ở với nhau, kẻo vì hai người không tiết dục nổi mà Satan lợi dụng để cám dỗ” (1 Cr 7,3-5)
Nên một trong thân xác là một trong những yếu tố nòng cốt của tình yêu vợ chồng. Vợ chồng luôn muốn nên một với nhau, chẳng những về tâm hồn mà cả về thể xác. Họ muốn trao hiến cho nhau, hòa tan trong nhau, để đem lại hạnh phúc cho nhau. Đừng làm cho việc chăn gối thành nhàm chán và nghèo nàn, nhưng cần làm cho nó nên mới mẻ và phong phú, để mỗi lần trao hiến cho nhau, cả hai đều cảm thấy thoải mái và hạnh phúc. Để được hoà hợp và hạnh phúc, vợ chồng cần phải học hỏi thêm về tâm sinh lý nam nữ qua các sách giáo dục hôn nhân và gia đình hoặc những tài liệu chuyên môn.
5) Cầu nguyện với nhau và cầu nguyện cho nhau
Thiên Chúa là Tình yêu. Chính Ngài đã thiết lập hôn nhân và gia đình. Ngài luôn muốn đồng hành với hai vợ chồng để giúp họ yêu thương nhau và xây dựng cuộc sống hôn nhân và gia đình hạnh phúc như Ngài mời gọi họ. Đời sống cầu nguyện trong gia đình thật cần thiết, nhất là giữa hai vợ chồng với nhau. Vì thế, phải thường xuyên cầu nguyện với nhau và cầu nguyện cho nhau. “Đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” (Mt 18,20). Hạnh phúc của gia đình là có Chúa hiện diện trong nhà, chia sẻ mọi biến cố vui buồn. Ngài ở giữa như nút dây nối kết hai vợ chồng, giúp họ lắng nghe nhau, hiểu nhau, thuỷ chung với nhau và cùng nhau tiến bước, vượt qua mọi gian nan thử thách của cuộc sống.
Cụ thể vợ chồng nên tổ chức đọc kinh tối gia đình hằng ngày hay ít là mỗi tuần một lần vào Thứ Bảy hay Chúa Nhật. Giờ kinh chỉ kéo dài khoảng 10 phứt. Nội dung gồm: Kinh Đức Chúa Thánh Thần. Đọc, suy niệm và cầu nguyện một đoạn Tin Mừng trong sách Kinh Tối Gia Đình. Lần hạt một chục kinh Mân Côi. Kinh dâng gia đình cho Đức Mẹ. Kinh Vực sâu cầu cho người ông bà cha mẹ qua đời. Kinh cám ơn trông cậy.
4. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin nhìn đến những gia đình đang thiếu vắng tình yêu, những gia đình đang buồn sầu vì vắng tiếng cười trẻ thơ, hay đang vất vả lo toan kiếm sống vì đàn con nheo nhóc đói khát của ăn vật chất cũng như tinh thần. Xin nâng đỡ những gia đình đã biến thành hỏa ngục do dối trá, ích kỷ, kiêu căng, giận hờn, vợ chồng luôn hành hạ và làm khổ lẫn nhau. Xin đốt lên ngọn lửa tin yêu trong lòng các thành viên gia đình để biến gia đình chúng con trở thành thiên đàng hạnh phúc ngay từ trần gian vì luôn có Chúa là Tình Yêu ngự trị.- AMEN.
LM ĐAN VINH – HHTM
IV. TƯ LIỆU HỌC SỐNG LỜI CHÚA THÁNG 06/2020
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 10 THƯỜNG NIÊN
LỄ CHÚA BA NGÔI A
Xh 34,4b-6.8-9 ; 2 Cr 13,11-13 ; Ga 3,16-18
YÊU THƯƠNG NOI GƯƠNG CHÚA BA NGÔI
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 3,16-18
(16) Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai Con Một của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ. (18) Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án, nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa.
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng lễ Chúa Ba Ngôi trích trong cuộc đàm thoại ban đêm giữa Đức Giê-su với Ni-cô-đê-mô về ơn tái sinh. Sau khi cho ông biết điều kiện để được cứu độ là phải tái sinh bởi nước và Thánh Thần, Đức Giê-su đã mặc khải về tình yêu của Thiên Chúa: Thiên Chúa đã cứu độ thế gian bằng cách sai Con Một của Người xuống trần để chịu chết đền tội thay cho thế gian (14-16). Ai tin vào Người Con ấy mới được ơn cứu độ (17-18).
3. CHÚ THÍCH:
– C 16: + Thiên Chúa đã yêu: Đây là một chân lý mặc khải mới mẻ, vì truyền thống Do thái trước đó chỉ nói đến Thiên Chúa yêu thương Ít-ra-en là con dân của Người, chứ không nói đến việc Người còn yêu cả thế gian, không phân biệt chủng tộc, quốc gia, màu da hay tiếng nói nữa. + Thế gian: chỉ chung toàn thể vũ trụ mà nhân loại là thành phần quan trọng nhất. Thế gian trong câu này ám chỉ đối tượng được Thiên Chúa yêu thương (x. Ga 3,16), nhưng ở câu khác lại ám chỉ bọn đầu mục dân Do thái là những kẻ luôn thù ghét Đức Giê-su (x. Ga 12,31; 1 Ga 2,16-17). + Con Một của Người: Trong kinh tin kính, Giáo Hội dạy các tín hữu tuyên xưng đức tin “tôi tin kính Đức Giê-su Ki-tô là Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha (x. 2 Sm 7,12-16; Mt 3,13-17). Như vậy Đức Giê-su có hai bản tính: Một là tính Thiên Chúa và hai là tính loài người, nhưng Người chỉ có một Ngôi Vị là Ngôi Con hay Ngôi Lời. Việc ban Con Một để cứu độ thế gian là dấu chứng rõ ràng nhất biểu lộ tình yêu tột đỉnh của Thiên Chúa đối với thế gian (x. 1 Ga 4,9-10). + Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết: Niềm tin vào Ngôi Con là điều kiện cần để được hưởng ơn cứu độ và được sống muôn đời.
– C 17: + Không phải để lên án thế gian: Sứ mệnh của Con Thiên Chúa đến thế gian không phải để kết án nhưng để cứu chuộc thế gian (x. 1 Ga 4,14). + Tại sao nơi khác Đức Giê-su lại phán: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử, cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù” (Ga 9,39) ?: Thực ra điều Thiên Chúa muốn là sai Con Một đến để ban ơn cứu độ cho thế gian. Nhưng thế gian có nhận được ơn cứu độ đó hay không tùy theo thái độ đáp trả của họ là tin nhận hay từ chối Người. Chính sự lựa chọn này làm nên việc xét xử: Tin nhận Chúa Giê-su thì được cứu, nghĩa là được ơn tha tội, được giao hòa với Chúa Cha và được sống muôn đời, giống như: người mù dù không nhìn thấy, thì giờ đây lại được xem thấy. Còn nếu từ chối Chúa Giê-su là đã tự lên án chính mình, tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ của Chúa Giê-su, như các đầu mục Do thái, tuy sáng mắt nhưng vì cứng lòng không tin Đấng Thiên Sai, nên đã tự hóa nên mù tối.
– C 18: + Ai tin vào Con của Người thì không bị kết án: Tin ở đây không phải chỉ bằng lời nói “Lạy Chúa, Lạy Chúa !”, nhưng bằng việc làm theo thánh ý Chúa, biểu lộ qua sự thực hành lời Chúa dạy” (x. Mt 7,21.24). Thánh Phao-lô cũng nói: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng mới được nên công chính, có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ… Vì tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát” (x. Rm 10,9-10.13). + Nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi: Sứ mệnh của Đức Giê-su là ban sự sống, ban ơn cứu độ cho những ai tin Người. Ai cố tình không chấp nhận Ngôi Lời Nhập Thể, tức là không tin vào Danh Con Một Thiên Chúa (x Ga 6,64), là đã tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ, đồng nghĩa với việc tự kết án chính mình. + Vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên Chúa: Danh Con Một Thiên Chúa là chính Chúa Giê-su (x. Ga 2,23; 1 Ga 3,23). Tin vào danh của Con Một Thiên Chúa tức là liên kết với Chúa Giê-su, nhìn nhận và kêu cầu quyền năng của Người. Chỉ nhờ Danh Chúa Giê-su, loài người chúng ta mới được ơn cứu độ (x. Pl 2,9-11; Cv 10,43). Trái lại, những kẻ không tin vào Danh Người thì sẽ không được hưởng ơn cứu độ ấy.
4. HỎI ĐÁP:
– HỎI 1) Chúa Giê-su đã dạy thế nào về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi?
ĐÁP:
Trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su đã nói nhiều về mối liên hệ mật thiết giữa Người với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần sau bữa tiệc ly Vượt Qua (x. Ga 14.15.16.17). Tin Mừng Mát-thêu ghi lại lời Đức Giê-su mặc khải rõ nhất về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi trước khi lên trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (x. Mt 28,19). Tin Mừng Mát-thêu cũng ghi lại cuộc thần hiện tại sông Gio-đan như sau: “Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì kìa các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và kìa có tiếng từ trời phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người” (Mt 3,16-17). Tiếng phán, Đức Giê-su và chim bồ câu là biểu tượng của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thánh Phao-lô cũng dạy về mầu nhiệm Ba Ngôi trong lời nguyện chúc: “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. Amen” (2 Cr 13,13). Tin Mừng Lu-ca và sách Công Vụ Tông Đồ lại trình bày lịch sử cứu độ theo chiều kích Ba Ngôi như sau: Thời Cựu Ước là kỷ nguyên của Chúa Cha, thời cứu thế rao giảng Tin Mừng là kỷ nguyên của Chúa Con, và thời Giáo Hội khai sinh phát triển đến Rô-ma, hay đến “tận cùng thế giới” là kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần.
– HỎI 2) Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi được Thánh Kinh trình bày như mầu nhiệm Tình Yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa ra sao?
ĐÁP:
– Chúa Cha luôn hiện hữu và sinh ra Chúa Con từ trước khi có thời gian (x. Tv 2,7).
– Chúa Cha yêu mến Chúa Con và ban cho Chúa Con mọi quyền xét xử (x. Ga 5,20.22).
– Chúa Con chính là hình ảnh của Chúa Cha (x. Ga 14,9-10).
– “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14,11).
– “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30).
– Chúa Giê-su luôn vâng phục và làm theo thánh ý Chúa Cha (x. Ga 5,19).
– Tình yêu hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con xuất phát ra Chúa Thánh Thần (x. Ga 15,26).
– HỎI 3) Ta có thể dùng một số hình ảnh nào để minh họa về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi ?:
ĐÁP:
– Nhà thần học PHĂNG-SÍT (Frank Sheed) đã dùng hình ảnh mưa rơi để giúp người ta hiểu phần nào về mầu nhiệm đơn nhất và đa dạng của Chúa Ba Ngôi khi nói rằng: “Nước đang mưa đây đích thực là nước, nhưng có thể xuất hiện bằng ba dạng khác nhau là: dạng hơi nước, dạng băng đá và dạng nước thường như ta thấy”.
– Thánh I-nha-xi-ô một lần kia trong lúc cầu nguyện bỗng nhận ra “ba nốt nhạc có thể làm thành một hợp âm duy nhất” cũng giống như Ba Ngôi hiệp nhất trong một bản thể duy nhất.
– Thánh Pa-tríck thường dùng hình ảnh lá cây tam diệp thảo do ba lá nhỏ ghép lại thành một lá lớn.
– Có người lại dùng một hình tam giác đều có ba cạnh ba góc bằng nhau để diễn tả mầu nhiệm này.
– Ngòai ra chúng ta cũng có thể dùng hình ảnh sau đây để minh họa phần nào về mầu nhiệm này như sau: Một người đàn ông khi lập gia đình có con thì tuy anh ta chỉ là một người, nhưng đóng ba vai trò khác nhau: Vai trò làm “cha” nên được con gọi “Cha ơi”; Vai trò làm “con” nên được bố anh ta gọi “Con ơi”; Vai trò làm “chồng” nên được vợ gọi “Mình ơi”.
– HỎI 4) Ba Ngôi Thiên Chúa làm gì cho chúng ta ?
ĐÁP:
– Thiên Chúa Cha (Ngôi thứ Nhất) đã sáng tạo nên vũ trụ vạn vật. Đặc biệt loài người đã được Thiên Chúa tạo thành theo hình ảnh của Người là có linh hồn thiêng liêng bất tử và có tình yêu thương (x. St 1,37).
– Khi nguyên tổ loài người nghe theo ma quỷ cám dỗ mà phạm tội bất phục tùng phải mang án chết, thì Thiên Chúa Cha lại hứa ban Chúa Con (Ngôi thứ Hai) xuống thế để cứu chuộc loài người là Chúa Giê-su. Sứ mệnh của Chúa Giê-su là cứu độ loài người bằng việc mở ra con đường về trời là đạo Công giáo. Người đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời trong thời gian 3 năm để nhân loại nhận biết tôn thờ và sống hiếu thảo với Thiên Chúa Cha. Vào lúc cuối đời, Người đã sẵn sàng vâng theo ý Chúa Cha để đi con đường “Qua đau khổ vào vinh quang”, sẵn sàng chịu chết trên thập giá để đền tội thay loài người và sống lại để cứu độ loài người.
– Sau khi sống lại, Chúa Giê-su Phục Sinh đã thổi hơi ban Chúa Thánh Thần (Ngôi thứ Ba) cho các Tông đồ. Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ khác, là Thần Chân Lý, do Chúa Cha sai đến để thay Chúa Giê-su tiếp tục dạy dỗ các môn đệ (x. Ga 14,16). Trong thời Cựu Ước, Thánh Thần đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy loài người. Đến thời Tân Ước, Thánh Thần đã lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Đức Giê-su khi Người chịu phép Rửa tại sông Gio-đan để tấn phong Người làm Đấng Thiên Sai (x Mt 3,16-17). Sau đó, Thánh Thần hướng dẫn Đức Giê-su vào sa mạc để chịu ma quỷ thử thách cám dỗ (x Mt 4,1-11), và đi khắp nơi rao giảng Tin mừng Nước Trời (x Mt 4,17). Thánh Thần cũng làm cho Đức Giê-su từ cõi chết sống lại. Vào buổi chiều ngày phục sinh, Chúa Giê-su đã hiện ra sai các Tông đồ tiếp tục sứ mạng của Người và đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông kèm theo quyền tha tội (x Ga 20,20-23). Vào lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần lại hiện xuống trên Hội Thánh Sơ Khai dưới dạng một cơn gió mạnh ào vào nhà nơi các Tông đồ đang cầu nguyện và làm xuất hiện trên đầu mỗi vị một hình lưỡi lửa (x Cv 2,1-4). Từ đây Thánh Thần luôn hiện diện trong Hội Thánh để thánh hóa các tín hữu qua các phép bí tích, giúp các vị Mục Tử chu toàn sứ mệnh là thay Chúa Giê-su chăm sóc đoàn chiên Hội Thánh và làm chứng nhân cho Người đến tận cùng thế giới (x. Ga 15,26).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,7-8).
2. CÂU CHUYỆN:
1) THẾ NÀO LÀ TÌNH YÊU TỘT ĐỈNH ?
Thánh MÁC-XI-MI-LI-EN KON-BÊ thụ phong linh mục năm 1918. Cha đã bị Đức Quốc Xã bắt ngày 17.2.1941 và bị giam trong một trại tập trung là Auschwitz.
Đây là một nhà tù hãi hùng nhất vì gồm đủ mọi hình phạt và kỷ luật dã man dành cho các tù nhân. Tù nhân không được mang tên mình mà mang một con số. Cha Maximilien Kolbe mang số tù là 16.670. Tại nhà tù này, Đức quốc xã đưa ra một quy định hết sức bất công: Nếu một tù nhân trốn trại, thì mười tù nhân khác sẽ bị chết thay.
Vào một đêm tháng 8.1941, một tù nhân đã vượt ngục thành công. Thế là mười người khác được chỉ định chết thay. Trong số mười người này có một người tù tên là GAJOWNICZEK. Khi bị chỉ định, anh liền khóc lóc thảm thiết cho biết mình còn mẹ già, vợ dại, con thơ không ai nuôi dưỡng. Trước cảnh tượng đó, do đức bác ái thôi thúc, Cha Kolbe đã tình nguyện xin được thế chỗ chết thay cho người tù kia. Được chấp nhận, cha cùng đoàn tử tù bước vào phòng hơi ngạt số 14. Hôm sau, người ta mở cửa phòng để lôi xác ra ngoài, nhưng Cha Maximilien Kolbe vẫn còn thoi thóp, người ta chích cho ngài một mũi thuốc ân huệ. Cha tắt thở đúng vào chiều ngày áp lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời 14.8.1941.
Trong lễ phong thánh cho chân phước Kolbe do Đức Thánh Cha Phao-lô VI cử hành, một cụ già trong đoàn người dâng lễ vật hôm ấy đã được Đức Thánh Cha ôm hôn. Đó chính là người tù đã được cha thánh Kolbe chết thay. Trong giây phút trang trọng ấy, toàn thể cộng đoàn sốt sắng hát bài thánh ca: “không có tình yêu nào trọng đại cho bằng chết vì người mình yêu”. Đây là một chứng tích tình yêu cao cả khiến mọi người hiện diện đều phải xúc động và rơi lệ.
2) TÌNH THƯƠNG THỂ HIỆN QUA LÒNG THƯƠNG XÓT:
Một người cha hứa cho đứa con gái 12 tuổi một số tiền nếu cô bé xén sạch đám cỏ trước nhà. Cô bé vui vẻ mang máy cắt cỏ ra làm việc. Đến chiều, cả đám cỏ đã được cắt xén gọn gang – ngoại trừ một mảng có tí tẹo còn sót trong góc sân. Sau đó ông bố không trả số tiền đã hứa vì đám cỏ chưa được cắt xong. Cô bé cho biết cô sẵn sàng chịu mất số tiền đó và cô nhất định không cắt nốt mảng cỏ còn sót lại kia. Tò mò muốn biết lý do tại sao, ông bố kiểm tra chỗ cỏ chừa lại. Hóa ra, ở giữa chòm cỏ ấy, một chú cóc đang ung dung ngồi ngắm cảnh hoàng hôn! Cô bé quá thương con cóc, đã không đành đưa lưỡi dao của máy cắt vào chòm cỏ ấy.
Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8). Người không nỡ hủy diệt, lại sai con Một là Đức Giê-su Ki-tô xuống thế để cứu chuộc con người. Người lại gởi Thánh Thần đến để thánh hóa cho nên tạo vật mới, dẫn đưa họ về hưởng vinh quang Nước Trời. Đó là mầu nhiệm Tình yêu mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã thương dành cho con người. Vì thế, lễ Chúa Ba Ngôi cũng là lễ của tình yêu.
3) HÃY TRAO CHO NGƯỜI KHÁC TÌNH YÊU CỦA CON:
Tại một ngôi làng nhỏ ở Miền Nam Trung Quốc, một em bé gái tiều tụy, đói rách và mang bệnh phong hủi bị dân làng dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi em ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của em. Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền giáo đã xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi những trận đòn và những viên gạch đá ném bừa bãi em. Thấy có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét: “Phong hủi! Phong hủi!”
Với những giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má, lần này là những giọt nước mắt vui mừng chứ không phải là những giọt lệ sầu đau, em bé hỏi vị cứu tinh của mình:
– Tại sao ông lại lo lắng cho con?
Nhà truyền giáo đáp:
– Vì Ông Trời đã tạo dựng nên cả hai chúng ta. Và cũng vì thế em sẽ là em bé gái của ta và ta sẽ là người anh lớn của em.
Suy nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi:
– Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn sự cứu giúp của ông?
Nhà truyền giáo mỉm cười đáp:
– Con hãy trao tặng cho những người khác tình yêu của con, càng nhiều càng tốt.
Kể từ ngày ấy cho đến ba năm sau, khi em bé gái tắt hơi thở cuối cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương cho những bệnh nhân khác, ân cần đút cơm cho họ, nhất là em luôn tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại.
Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ mới tròn mười một tuổi. Các bệnh nhân đã từng chung sống với em kháo láo với nhau rằng:
– “Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời!”
Vâng, “con hãy trao tặng cho người khác tình yêu của con” phải chăng cũng là sứ điệp mà lễ Chúa Ba Ngôi mời gọi chúng ta? Hãy sống cho tha nhân. Hãy trao tặng cho nhau một nụ cười cảm thông. Một cái bắt tay thân mật. Một nghĩa cử bác ái đầy tình người. Hãy sống cho anh em của mình một cách quảng đại. Hãy là chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa một thế giới mà con người đang xa dần nhau vì quyền lợi bản thân, vì bon chen và hưởng thụ. Hãy giới thiệu cho nhân thế một tình yêu tinh ròng không bị hoen ố bởi những toan tính ích kỷ, tầm thường. Hãy giới thiệu cho thế giới một tình yêu hy sinh đến quên cả chính mình cho người mình yêu được hạnh phúc.
4) CÁI CHẾT CỦA TÌNH MẪU TỬ:
Ngày 20.06.1980, chị Brown, một người mẹ trẻ vừa từ trần vì chứng bệnh ung thư khi mới 25 tuổi. Các bác sĩ đề nghị chữa trị bằng quang tuyến X, nhưng vì chị muốn cho bào thai đang mang trong bụng không bị nhiễm chất phóng xạ, nên chị từ chối. Chị thà chết hơn là để bác sĩ chữa ung thư bằng quang tuyến X, ảnh hưởng nặng đến đứa con trong bụng sắp ra đời.
Cuối cùng, chỉ 5 giờ trước khi chết, chị đã sinh được một cháu trai mạnh khỏe, kháu khỉnh. Bản tin của hãng AP nói rằng: ”Vào mấy ngày cuối cuộc đời, dù biết mình sắp bị tử thần đánh bại, nhưng chị vẫn tin tưởng thế nào chị cũng sinh được một đứa con không bị nhiễm phóng xạ”. Bác sĩ Ronald Lapin gọi cái chết của chị Brown là “Cái chết của tình mẫu tử, dám hy sinh mạng sống cho đứa con chưa một lần thấy mặt”.
5) PHỤC VỤ VÔ VỤ LỢI ĐỂ DIỄN TẢ TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA:
Một bà kia không biết đến sự yêu thương của đồng lọai. Bà là một người không tin Chúa, sống trong cảnh nghèo khổ bị bỏ rơi ngược đãi, bị đối xử bất công trong một thời gian dài đến nỗi bà thù ghét tất cả mọi người mà mọi người cũng ghét bỏ bà. Một lần kia, cha sở đến gặp bà để nói về tình yêu thương của Thiên Chúa, nhưng bà bảo:
– Tôi không hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và tôi cũng không hiểu yêu thương là gì nữa.
Cha sở về lại nhà xứ và cầu nguyện liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một ý, ngài cho mời nhóm Tông đồ trong xứ kể cho họ nghe câu chuyện này. Rồi ngài đề nghị mọi người giúp cho bà ấy biết được thế nào là tình yêu của Chúa, bằng cách mỗi người thay nhau đến thăm và phục vụ bà, để cho thấy vẫn có nhiều người yêu thương, thăm viếng, an ủi và giúp đỡ cho bà.
Mấy tháng trôi qua, một ngày kia, khi cha sở lại thăm, bà xúc động đến rướm nước mắt:
– Thưa cha, bây giờ thì con đã hiểu yêu thương là gì rồi, và bây giờ con có thể xin cha cho con được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa hay không?
3. SUY NIỆM:
1) THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU:
– Tình yêu trong Ba Ngôi : Tình yêu thì không thể sống đơn độc nên phải có Ba Ngôi. Vì yêu thương không chỉ là cho đi nhưng còn là nhận lãnh. Muốn cho đi, phải có đối tượng để nhận lãnh. Muốn nhận lãnh cũng đòi phải có người sẵn sàng cho đi. Vì Thiên Chúa là tình yêu, nên Thiên Chúa không đơn độc mà là Ba Ngôi để có thể cho đi và nhận lãnh.
– Tình yêu của Chúa Cha : Chúa Cha ban cho Chúa Con tất cả những gì mình có: “Mọi sự của Cha đều là của Con”, nên Chúa Con là hình ảnh của Chúa Cha như Chúa Giê-su nói: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy, Thầy và Cha là một”.
– Tình yêu của Chúa Con: Vì yêu, Chúa con dâng lại cho Chúa tất cả những gì mình nhận lãnh qua thái độ khiêm tốn, tự hạ, vâng phục hoàn toàn: “Người đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá và đã hy sinh cả mạng sống của mình để đền tội thay cho chúng ta: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu”.
– Tình yêu rộng mở: không chỉ thu gọn trong cộng đoàn Ba Ngôi, mà lan toả đi khắp vũ trụ đến tất cả mọi sinh linh vạn vật.
2) SỐNG YÊU THƯƠNG NOI GƯƠNG THIÊN CHÚA:
Cụ thể là sống tình mến Chúa yêu người như sau:
a- Năng cầu nguyện với Chúa Ba Ngôi: Một phương cách dễ dàng thực hành là mỗi ngày dành ra ba phút cầu nguyện trước khi đi ngủ theo nội dung sau:
+ Phút thứ nhất: Suy nghĩ tìm ra những việc tốt đẹp đã làm được trong ngày qua, như đã giữ được bình tĩnh khi bị người khác đặt điều vu khống, rồi dâng một lời cầu để tạ ơn Chúa Cha.
+ Phút thứ hai: Tìm ra những điều sai lỗi trong ngày, như đã có thái độ dửng dưng khi thấy kẻ khác gặp nạn, rồi dâng một lời cầu xin Chúa Giê-su tha tội cho mình.
+ Phút thứ ba: Nhớ đến những sự khó khăn đang gặp phải và dâng lời cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn khôn ngoan và can đảm để vâng theo thánh ý Thiên Chúa.
Việc cầu nguyện này bao gồm cả ba phương diện là tạ ơn, ăn năn sám hối và xin ơn lành hồn xác. Việc cầu nguyện như thế sẽ giúp ta sống mầu nhiệm Ba Ngôi trong cách suy nghĩ nói năng và hành động. Ngòai ra ta cũng có thể làm dấu thánh giá để tuyên xưng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi.
b- Thể hiện tình yêu tha nhân như Chúa đã yêu chúng ta: Tin Mừng hôm nay cho biết Tình yêu thực sự phải có các đặc tính của tình yêu của Thiên Chúa như sau:
+ Tình yêu dâng hiến: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người đến trần gian để hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 3,16a; 10,11). Chúa Giê-su đã dạy: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Vậy tình yêu của bạn dành cho tha nhân thế nào ? Bạn có dám hy sinh chịu thiệt vì người mình yêu không ?
+ Tình yêu vị tha: tình yêu chân thực đòi năng nghĩ đến người mình yêu để mong cho họ được hạnh phúc như lời Chúa Giê-su: “Mục tử tốt lành sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Tình yêu chân chính luôn tìm làm cho người yêu vui lòng và được may lành hạnh phúc noi gương Chúa Giê-su: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Bạn có yêu cha mẹ và những người thân của bạn như vậy không ?
+ Một tình yêu cao cả: Thánh Gio-an viết: “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1 Ga 4,19). Thiên Chúa yêu chúng ta không phải vì chúng ta đáng yêu, nhưng “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những tội nhân” (Rm 5,8). Cũng vậy, chúng ta phải yêu hết mọi người, nhất là những người tàn tật, cô đơn, tội lỗi, và yêu cả những kẻ đang thù ghét bách hại mình (x. Lc 6,27-42). Tình yêu của bạn có cao cả như thế không ?
+ Một tình yêu tôn trọng: Tình yêu của Thiên Chúa không chiếm hữu hay cầm tù người yêu và luôn tôn trọng tự do của con cái lòai người: “Ai tin thì được sống đời đời. Còn kẻ không tin thì đã bị kết án”. Tình yêu của bạn dành cho người khác có tự nguyện không ? Bạn có ghen tuông cấm người yêu gặp gỡ tiếp xúc với người khác không ? Bạn có tin tưởng và tôn trọng người yêu không ? Thánh Phao-lô cũng viết: “Tình yêu tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,7).
c- Thực hành yêu thương cụ thể theo kinh Thương Người có 14 Mối:
+ Thương xác bảy mối: Cho kẻ đói ăn; Cho kẻ khát uống, Cho kẻ rách rưới ăn mặc; Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc; Cho khách đỗ nhà; Chuộc kẻ làm tôi; Chôn xác kẻ chết.
+ Thương linh hồn bảy mối: Lấy lời lành mà khuyên người; Mở dậy kẻ mê muội; Yên ủi kẻ âu lo; Răn bảo kẻ có tội; Tha kẻ dể ta; Nhịn kẻ mất lòng ta; Cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
TÓM LẠI: chúng ta sẽ xa lạ với Thiên Chúa nếu chúng ta xa lạ với tình yêu thực sự như thánh Gio-an đã viết: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Ước gì cuộc đời chúng ta sẽ thấm đượm tình yêu, để mọi việc chúng ta làm đều bắt nguồn từ tình yêu và qui hướng về tình yêu, khi chúng ta biết luôn nghĩ đến tha nhân, sẵn sàng chia sẻ và khiêm nhường phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh và đang bị bỏ rơi.
4. THẢO LUẬN: Bạn sẽ làm gì để được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa Ba Ngôi và noi gương Thiên Chúa là Tình Yêu sống quảng đại chia sẻ và hiến thân phục vụ tha nhân?
5. CẦU NGUYỆN:
– LẠY CHÚA BA NGÔI LÀ TÌNH YÊU, Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi lộc vật chất, xin dạy con biết phục vụ trong khiêm tốn và vô vụ lợi. Giữa một thế giới muốn thống trị và ham hưởng thụ, xin dạy con yêu thương cách quảng đại và khiêm nhường tự hiến. Giữa một thế giới có nhiều phe phái chia rẽ nhau, xin dạy con luôn sống hiệp thông và có tinh thần trách nhiệm. Giữa một thế giới đầy thành kiến và kỳ thị giai cấp, màu da, phái tính… xin dạy con biết nhìn mọi người đều là anh em và chân thành yêu thương họ.
– LẠY CHÚA BA NGÔI CHÍ THÁNH. Chúa là mẫu gương của một tình yêu hoàn hảo. Xin hãy biến đổi trái tim sơ cứng như đá của chúng con thành trái tim bằng thịt biết yêu thương. Xin dạy chúng con yêu thương mọi người, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh. Xin cho chúng con luôn thấy Chúa Giê-su đang hiện diện trong chúng con và trong mọi người. Nhờ tình yêu Chúa thôi thúc, chúng con hy vọng sẽ trở nên con hiếu thảo của Chúa Cha và nên anh chị em của mọi người.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH – HHTM
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 11 THƯỜNG NIÊN A
LỄ MÌNH MÁU CHÚA KI-TÔ
Đnl 8,2-3.14b-16a ; I Cr 10,16-17 ; Ga 6,51-58
THÁNH THỂ LÀ NGUỒN MẠCH BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 6,51-58
(51) “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. (52) Người Do thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn Thịt ông ta được ?”. (53) Đức Giê-su nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. (54) Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết. (55) Vì Thịt tôi thật là của ăn, và Máu tôi thật là của uống. (56) Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. (57) Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. (58) Đây là Bánh từ trời xuống. Không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời”. (59) Đó là những điều Đức Giê-su đã nói khi giảng dạy trong hội đường ở Ca-phác-na-um.
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng lễ Mình Máu Chúa hôm nay gồm mấy điểm chính như sau:
Đức Giê-su tự nhận là Bánh Hằng Sống. Ai ăn vào thì sẽ được sống muôn đời (51). Bánh đó là Thịt Mình của Người (51). Khi người Do thái thắc mắc, thì Đức Giê-su lại càng nhấn mạnh: Nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình (52). Ngay từ bây giờ họ đã được kết hiệp với Người (56) và được sống nhờ Người (57). Khác với bánh man-na mà tổ tiên họ xưa đã ăn mà vẫn bị chết, còn ai ăn Bánh Thánh Thể Đức Giê-su ban cho, sẽ được sống muôn đời (58).
3. CHÚ THÍCH:
– C 51-52: + Bánh Hằng Sống: Đức Giê-su là sự sống và ánh sáng của Thiên Chúa (x. Ga 1,4), được ban cho loài người dưới hình dạng tấm bánh có thể ăn được. Bánh này chứa đựng sức sống thiêng liêng vĩnh cửu, và những ai ăn thì sẽ nhận được sự sống ấy. + Từ trời xuống: Đức Giê-su từ Chúa Cha mà đến (x. Ga 6,46; 16,28). + Bánh tôi sẽ ban tặng: Bánh Thánh Thể Người sẽ lập trong bữa Tiệc Ly sau này (x. Lc 22,19-20). + Chính là Thịt tôi đây: Bánh Hằng Sống được đồng hóa với Thịt của Đức Giê-su. Từ ngữ “thịt” trong tiếng Hy lạp là sarx, ám chỉ thịt của người sống, bao gồm cả hồn xác (x. Ga 1,14). + Để cho thế gian được sống: Hiệu quả của Bánh Thánh Thể là thông ban cho những ai lãnh nhận sẽ được sự sống thiêng liêng, mà Đức Giê-su đã chuộc lại bằng cuộc Tử nạn và Phục sinh của Người. + Người Do thái liền tranh luận với nhau: Làm sao ông này cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?: Họ thắc mắc vì đã hiểu thịt đó là thân xác của Đức Giê-su hiện tại, người đang hiện diện ở giữa họ, trong khi Đức Giê-su nói về Thịt của Người dưới hình tấm bánh dùng trong bữa tiệc Vượt Qua. Bánh ấy sau lời truyền phép sẽ hóa thành Thịt của Đức Giê-su tử nạn và phục sinh (x. 1 Cr 11,23-26). Thịt trong bí tích Thánh Thể này mới thực là Bánh mà Người sẽ ban để cho thế gian được sống.
– C 53-54: + Thật, tôi bảo thật các ông: Đức Giê-su không cải chính khi người Do thái hiểu lầm lời Người theo nghĩa đen, mà Người càng nhấn mạnh hơn khi quả quyết: “Thật, tôi bảo thật các ông”. + Nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người…: Thịt Máu Người trong bí tích Thánh Thể là một điều kiện không thể thiếu để được sống đời đời. Nếu họ không ăn uống Thịt Máu Người trong bí tích Thánh Thể, thì họ sẽ không nhận được sự sống đời đời do Người chuộc lại nhờ cuộc Tử nạn và Phục sinh. + Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì được sống muôn đời: Đây là kiểu nói khác lặp lại tư tưởng trên. + Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết: Hiệu quả của việc ăn Thịt và uống Máu Chúa khi lên rước lễ là sẽ được Chúa Phục Sinh ban sự sống siêu nhiên, làm cho họ được sống lại trong ngày tận thế.
– C 55-56: + Vì Thịt Tôi: Chúa Giê-su nhấn mạnh Thịt và Máu Người thật là lương thực để ăn uống, và thông ban sự sống muôn đời. Qua bí tích Thánh Thể, người ta sẽ được nghe Lời Người để có đức tin, sẽ được ăn Thịt uống Máu Người để được nuôi dưỡng đức tin. Nhờ đức tin này họ sẽ có sự sống đời đời. + “Ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”: Câu này nói lên sự kết hiệp mật thiết giữa Chúa Giê-su Thánh Thể với người rước lễ. Sự kết hiệp này giống như sự kết hiệp giữa hai người bạn tâm giao luôn nghĩ đến nhau và sống vì nhau.
– C 57-59: + Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi…: Chúa Giê-su được Chúa Cha sai xuống thế gian. Người sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì Người cũng ban cho những ai rước Mình Máu Người được tham phần sự sống siêu nhiên như vậy. + Thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy: Sự sống siêu nhiên ấy phát xuất từ Chúa Cha, qua Chúa Giê-su, xuống tới người tín hữu đã lãnh nhận bí tích Thánh Thể. + Đây là Bánh từ trời xuống…: Sự sống ban cho kẻ rước lễ là sự sống đời đời phát xuất từ Thiên Chúa, khác hẳn sự sống thể xác do man-na. Man-na là bánh từ trên không trung rơi xuống, nên dân Do thái thời Mô-sê, dù đã ăn man-na suốt trong thời gian Xuất Hành 40 măm trong hoang địa, nhưng vẫn phải chết. + Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời: Đây là câu tóm lược bài giảng về Bánh Hằng Sống. Chúa Giê-su tự ví là Bánh từ trời mà xuống. Người mang lại sự sống thiêng liêng cho loài người đang phải chết vì phạm tội, nhờ cuộc Tử nạn và Phục sinh của Người. + Hội đường ở Ca-phác-na-um: Nơi Đức Giê-su giảng về Bánh Hằng Sống là một hội đường Do thái ở thành Ca-phác-na-um gần biển hồ Ga-li-lê, nơi Đức có trụ sở truyền giáo của Đức Giê-su (x Ga 6,1).
4. HỎI ĐÁP:
– HỎI 1: Tại sao người Do thái và nhiều môn đệ Đức Giê-su đã bỏ không đi theo Đức Giê-su và họ đã tranh luận với nhau điều gì? Tại sao ông Phê-rô và Nhóm Mười Hai vẫn chọn ở lại với Đức Giê-su? Ông Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin như thế nào?
ĐÁP:
+ Sở dĩ người Do thái và nhiều môn đệ Đức Giê-su đã bỏ không đi theo Người nữa (x. Ga 6,66), vì đã hiểu lời Đức Giê-su dạy về việc ăn Bánh Thánh Thể theo nghĩa đen, nghĩa là ăn Thịt Máu của Người, giống như ăn thịt các con chiên, bò, gà… Do đó, họ đã tranh cãi với nhau: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?”. Cũng như các thân nhân Đức Giê-su ở Na-da-rét có lần đã coi Người bị mất trí (x. Mc 3,21), thì ở đây các đầu mục dân Do thái cũng coi lời Đức Giê-su thật chói tai và không thể chấp nhận được (x. Ga 6,52). Tuy nhiên, thay vì cải chính, Đức Giê-su lại càng nhấn mạnh về điều này hơn: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình… Vì Thịt tôi thật là của ăn, và Máu tôi thật là của uống” (Ga 6,53.55). Nghe vậy, một số môn đệ đã hiểu rõ Đức Giê-su nói về bí tích Thánh Thể và đã bỏ đi vì không tin lời Người.
+ Riêng Phê-rô và Nhóm Mười Hai vẫn chọn ở lại, sau khi nghe giảng về Bánh Hằng Sống, vì các ông đã tin Người là Đấng Thiên Sai và Lời Người là sự thật, dù bây giờ chưa hiểu rõ tại sao. Khi được Thầy hỏi, Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin như sau: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết Thầy chính là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
HỎI 2: Luật Mô-sê cấm dân Do thái không được ăn máu và thịt thú chưa cắt tiết (x. Lv 19,26), và nghị quyết của Công Đồng Giê-ru-sa-lem năm 49 cũng yêu cầu các Ki-tô hữu gốc dân ngoại “phải kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết và ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm” (x. Cv 15,29). Vậy tại sao Giáo Hội Công Giáo lại cho phép các tín hữu ăn tiết canh là món ăn máu đông ?
ĐÁP:
Thời Mô-sê, người ta tin rằng: Máu là sinh khí tụ lại, nên chỉ dành riêng để tế lễ dâng cho Thiên Chúa trong ngày lễ Xá Tội. Vì Chúa chính là chủ tể của sự sống (x. Lv 17,11). Đàng khác, tục uống máu các con vật được sát tế dâng cho thần linh, vẫn có trong nghi lễ tôn giáo của dân ngoại, nên Luật Mô-sê cấm dân Ít-ra-en uống máu và ăn thịt thú chưa cắt tiết giống như dân ngoại (x. Lv 19,26).
Ngày nay Hội Thánh không cấm các tín hữu ăn tiết canh hay thịt thú vật chưa cắt tiết, vì Luật Mô-sê đã được Đức Giê-su kiện toàn (x. Mt 5,17), khi truyền cho các tín hữu “ăn Thịt và uống Máu của Người” (x. Mt 26,26-28).
Còn về việc Công Đồng Giê-ru-sa-lem năm 49 ra nghị quyết không buộc lương dân theo đạo phải chịu phép Cắt Bì theo luật Mô-sê, mà chỉ yêu cầu họ “kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm”. Thực ra những yêu cầu không ăn tiết này không phải vì lý do đức tin mà chỉ là một phương thế để bảo vệ sự hiệp nhất nội bộ của cộng đoàn Hội Thánh, bấy giờ gồm các tín hữu gốc Do Thái và gốc lương dân hiệp nhất và ăn uống chung mâm bàn với nhau, như lời ông Gia-cô-bê đã phát biểu: “Phần tôi, tôi xét là không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa. Nhưng chỉ viết thư bảo họ kiêng những thức ăn ô uế vì đã cúng cho ngẫu tượng, tránh gian dâm, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết, và kiêng ăn tiết, Thật vậy, từ những thế hệ xa xưa, trong mỗi thành ông Mô-sê, đều có những người rao giảng: Họ đọc lời của ông trong các hội đường mỗi ngày Sa-bát” (Cv 15,21). Ngày nay do không còn nguy cơ phân hóa giữa các tín hữu gốc Do thái và gốc lương dân như thời sơ khai, nên Hội Thánh không cấm các tín hữu ăn thịt và uống máu huyết thú vật theo Luật Mô-sê nữa.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
2. CÂU CHUYỆN:
1) CHIẾC NHẪN- KỶ VẬT CỦA TÌNH YÊU.
Có một đôi vợ chồng trẻ kia mới lấy nhau được hơn một năm. Trong thời gian đó họ đã sống rất hạnh phúc. Mỗi buổi sáng trước khi rời nhà đi làm, và buổi chiều khi vừa trở về ngôi nhà thân thương, người chồng không bao giờ quên trao cho vợ một cử chỉ âu yếm và một lời nói thân thương. Nhờ đó tình yêu giữa hai vợ chồng ngày thêm nồng thắm. Nhưng rồi hạnh phúc của họ đã bị đe dọa khi một hôm người chồng bị trúng mưa trên đường từ xưởng làm về nhà. Anh bị cảm nặng phải nằm liệt giường nhiều ngày và trong thời gian này anh đã được chị vợ tận tình săn sóc. Đẩu tiên, anh được vợ mang đến bệnh viện và được bác sĩ chẩn đoán bị sưng màng phổi. Dù đã được các bác sĩ tận tình cứu chữa, nhưng bệnh của anh ngày thêm trầm trọng. Sau đó, bệnh viện kết luận anh đã bị ung thư màng phổi ác tính thời kỳ thứ ba và vô phương cứu chữa. Khi sắp chết, anh chồng đã cầm tay vợ và thều thào nói: “Em yêu quí ! Có lẽ sắp tới giờ Chúa gọi anh về rồi. Anh đã chuẩn bị và sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa muốn. Anh chỉ tiếc một điều là không còn được tiếp tục sống bên em nữa. Trước khi đi xa, anh không có gì trối lại cho em ngoài chiếc nhẫn mà cách đây hơn một năm, hai vợ chồng mình đã tặng cho nhau khi kết ước trước bàn thờ Chúa. Bây giờ anh xin tặng lại chiếc nhẫn kỷ vật này cho em, để mỗi lần nhìn thấy nó, em biết rằng anh vẫn luôn ở bên em và hằng cầu Chúa ban cho em an lành hạnh phúc”. Nói xong, anh tháo chiếc nhẫn đang đeo ở ngón tay ra và âu yếm xỏ vào tay vợ, giống như trước đây anh đã làm trong thánh lễ hôn phối của hai người. Sau khi chết, anh được an táng trong một nghĩa trang gần nhà. Từ ngày đó, mỗi ngày người ta đều thấy một phụ nữ còn rất trẻ, đầu chít khăn tang, tay cầm bó bông đi vào nghĩa trang. Chị đứng hằng giờ trước ngôi mộ cỏ mọc chưa xanh của chồng, để cầu nguyện cho anh. Tay chị đeo hai chiếc nhẫn: Một chiếc của ngày thành hôn và chiếc kia là kỷ vật của người chồng quá cố đã để lại cho chị khi sắp từ giã cuộc đời.
2) CẬU BÉ MÁC-SEN-LI-NÔ SẴN SÀNG CHẾT ĐỂ ĐƯỢC GẶP MẸ ĐÃ QUA ĐỜI:
Tại Tây Ban Nha có một câu chuyện về một cậu bé tên là MAR-XEL-LI-NO. Mẹ cậu đã chết đang khi sinh cậu, và do không còn người thân nên cậu đã bị người ta mang đến đặt trước cửa một tu viện, và cậu đã được các tu sĩ nhận nuôi dưỡng.
Cậu bé vốn tính hiếu động, nên thày đầu bếp đã cấm cậu không được leo trèo hoặc lai vãng đến những nơi không được thầy cho phép. Nhưng vì tính tò mò, một ngày kia Marcellino đã lén leo lên gác lẽ ra cậu không được vào. Cậu rất ngạc nhiên nhìn thấy một người khổng lồ đang bị treo trên cây thập giá. Cho rằng người ấy đang bị đói, nên đêm hôm ấy Marcellino lén vào bếp trộm mấy chiếc bánh mang lên cho ông. Người khổng lồ đã đưa tay ra nhận bánh và mỉm cười cám ơn cậu. Từ đó, ngày nào cậu cũng lén mang bánh lên cho người ấy. Người này không ai khác hơn chính là Chúa Giê-su chịu treo trên thập giá. Một hôm, Người đã âu yếm ôm cậu bé và hỏi:
– Con thích nhất điều gì trên trần gian này?
Cậu mau mắn thưa:
– Con muốn được gặp mẹ ruột của con.
Chúa liền nói với cậu:
– Con sẽ được gặp mẹ con sớm nếu con bằng lòng chết đi.
Hôm sau các tu sĩ đã tìm thấy cậu bé nằm chết như đang ngủ say trong vòng tay thương mến của Chúa Giê-su trên cây thập giá. Chính vì yêu mẹ và muốn sớm được gặp mẹ, mà Marcellino đã sẵn sàng chịu chết.
Đức Giê-su cũng vì yêu thương loài người chúng ta nên đã sẵn lòng chịu chết để chúng ta được sống. Người còn lập bí tích Thánh Thể để được ở mãi với loài người chúng ta, trở thành lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin của chúng ta, hầu ai đón nhận Người sẽ được sống muôn đời như Người đã hứa: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.
3) THÁNH LỄ ĐÁNG GIÁ BAO NHIÊU? !!
Hôm đó, trong lúc ông chủ tiệm bán thịt đang trò truyện vui vẻ với một ông bạn thân thì một bà già nghèo nàn, dáng đi lọm khọm bước vào cửa tiệm:
-Bà muốn gì? Ông chủ hàng thịt hỏi.
-Tôi muốn mua một ít thịt?
-Được. Nhưng liệu bà có tiền trả không, tôi thấy dường như bà không một đồng xu dính túi…
Không quan tâm đến lời khích bác của chủ tiệm, bà chậm rãi trả lời:
-Tôi thật sự không có tiền, nhưng bù lại tôi sẽ đi lễ để cầu nguyện cho ông được buôn may bán đắt, coi như tôi đã trả tiền cho miếng thịt được không?
-Thế một thánh lễ đáng giá bao nhiêu?
Nói xong, ông chủ tiệm và mấy người bạn kia nhìn nhau rồi nhìn bà già và phá lên cười, vì họ đều không tin vào công hiệu của lời cầu trong thánh lễ. Sau đó vẫn với thái độ diễu cợt, ông chủ tiệm thịt viết nguệch ngoạc mấy chữ nêu ý nguyện của ông trên một mảnh giấy rồi đưa cho bà già:
-Đây là điều tôi muốn bà cầu xin cho tôi trong thánh lễ. Sau khi dự lễ bà phải đưa lại mảnh giấy này cho tôi, để tôi thử xem thánh lễ đáng giá bao nhiêu.
Người đàn bà khiêm tốn bỏ tờ giấy kia vào túi, ra khỏi hàng thịt và tiến thẳng đến thánh đường tham dự thánh lễ sáng hôm đó. Không biết bà đã cầu xin gì trong thánh lễ. Chỉ biết là sau khi dự lễ xong bà đã ghé tiệm bán thịt và đưa lại tờ giấy kia cho ông chủ.
Cầm lấy tờ giấy, ông chủ liền đặt lên bàn cân, cái cân mà ông vẫn thường dùng để cân thịt. Thật lạ lùng, tấm giấy mong manh kia đã làm lệch cán cân về bên có tờ giấy. Thấy vậy, ông chủ tiệm liền lấy một khúc xương đặt lên đĩa cân bên kia, nhưng miếng xương ấy vẫn không làm cho cân nhúc nhích. Tò mò, ông mang một miếng thịt đùi thật to đặt lên, nhưng đĩa cân có tờ giấy vẫn chúi xuống. Đến đây thì ông rất sửng sốt và bị mất tự chủ, ông liền mang cả một cái đùi cừu to tướng đặt lên đĩa cân. Thé nhưng đĩa cân bên tờ giấy vẫn chúi xuống. Thấy vậy, ông đổi tờ giấy qua đĩa cân bên kia, vì nghĩ có thể do cân bị hư. Nhưng một lần nữa, kết quả cũng vẫn như vậy: Tấm giấy ông đã ghi ý lễ đưa cho bà già nghèo vẫn nặng hơn cái đùi cừu to. Thế là ông chủ tiệm chợt tỉnh ngộ. Ông đã thay đổi thái độ và hết lòng xin lỗi bà lão. Ông hứa là trong suốt những ngày bà còn sống, sẽ cung cấp cho bà mỗi ngày một phần thịt.
Chuyện lạ được đồn ra, người quanh vùng đã đổ đến tiệm bán thịt của ông, phần vì tò mò và phần cũng để mua thịt. Cũng từ ngày đó, thịt ở tiệm của ông được tiếng là tươi ngon nên việc buôn bán ngày càng phát đạt. Điều đáng nói ở đây là nhờ được chứng kiến sự lạ ấy, ông chủ tiệm nhận ra giá trị lớn lao của Thánh Lễ và ông cùng gia đình đã năng đến nhà thờ dự lễ mỗi ngày. (Viết theo The Weight of one Holy Mass, The Catholic Lady Modesty and Elegance).
3. SUY NIỆM:
Hơn hai ngàn năm trước đây, Chúa Giê-su đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong sự cảm thông và hiệp nhất yêu thương như Tin Mừng Gio-an viết: Ý thức rằng “Giờ đã đến, Giờ Con Người phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, và Người đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Người đã lập phép Thánh Thể trong khung cảnh một bữa ăn, để lại cho Hội Thánh dấu chỉ của một tình yêu vô cùng lớn lao là Mình Máu Thánh Người dưới hình bánh rượu, để nên của ăn của uống cho các tín hữu, hầu ban cho họ sự sống đời đời.
1) BÍ TÍCH THÁNH THỂ – BỮA TIỆC THÁNH YÊU THƯƠNG:
Tin Mừng cho thấy việc chuẩn bị thiết lập và cử hành bí tích Thánh Thể của Đức Giê-su đều diễn ra trong khung cảnh bữa ăn yêu thương như sau:
– Bữa tiệc cưới tại thành Ca-na: Trong tiệc cưới này, Đức Giê-su đã thể hiện tình thương đối với đôi tân hôn, khi nể lời Đức Ma-ri-a cầu bầu, Người đã làm phép lạ biến nước lã trở thành rượu ngon giúp đôi tân hôn, và củng cố đức tin của các môn đệ mới đi theo Người.
– Bữa ăn cho đám đông nơi hoang địa: Cảm thông với đám đông dân chúng bị đói khi theo Người vào hoang địa nghe giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã làm phép lạ nhân năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều để nuôi năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ được ăn no và còn dư mười hai giỏ đầy bánh còn lại (x. Mt 14,14-21). Sau đó, Đức Giê-su đã giảng về bí tích Thánh Thể để ban thịt máu mình làm của ăn của uống hầu mang lại sự sống đời đời cho các tín hữu: “Thịt Tôi thật là của ăn, Máu Tôi thật là của uống. Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì sẽ có sự sống đời đời. Và Tôi, Tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày tận thế” (Ga 6,55-56).
– Bữa Tiệc Ly chiều thứ Năm Tuần Thánh: Đức Giê-su đã yêu thương các môn đệ đến cùng nên Người đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ, trước khi từ biệt các ông để chịu khổ nạn như sau: “Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy”. Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: ‘Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội’ (Mt 26,26-28).
– Bữa tối của hai môn đệ làng Em-mau: Chúa Phục Sinh dưới dáng vẻ như một khách bộ hành đi chung đường với hai môn đệ đang trong tâm trạng chán nản thất vọng. Người đã dùng Lời Kinh Thánh để cho các ông hiểu về ý nghĩa cái chết và sự phục sinh của Đấng Thiên Sai. Rồi “khi ngồi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất” (Lc 24,30-31). Chính trong khung cảnh bữa ăn yêu thương kèm theo cử chỉ và lời đọc Người đã từng làm, khiến mắt hai môn đệ mở ra và nhận biết người khách bộ hành chính là Thầy Giê-su đã từ cõi chết sống lại.
2) TIN HAY KHÔNG TIN MẦU NHIỆM TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ:
Sau bài giảng về Bánh Hằng Sống, mặc dù biết đám đông đang xầm xì phản đối, vì cho rằng đây là một điều vô lý không thể chấp nhận, nhưng Đức Giê-su vẫn cương quyết khẳng định thêm về mầu nhiệm này (x. Ga 6,60). Về phần các môn đệ sau khi hiểu Đức Giê-su muốn lập bí tích Thánh Thể để biến Thịt Máu Mình làm của ăn của uống, nên đã bảo nhau rằng: “Làm sao ông này có thể lấy Thịt mình mà cho chúng ta ăn được?”. Sau đó, một số đông môn đệ đã bỏ không còn đi theo làm môn đệ Người nữa (x. Ga 6,66). Đức Giê-su cho biết: để tin vào mầu nhiệm này, đòi người ta phải được Chúa Cha ban ơn (x. Ga 6,65). Sau đó, Đức Giê-su đã hỏi nhóm 12 Tông đồ về quyết định tin hay không tin, chọn bỏ đi hay ở lại với Người. Ông Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai thưa rằng: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69). Như vậy, trước mầu nhiệm này, người ta không thể cảm nghiệm bằng giác quan, mà phải nhờ ơn Thiên Chúa ban và thành tâm tin nhận.
3) CẦN THAM DỰ BÍ TÍCH THÁNH THỂ VỚI TÌNH YÊU THƯƠNG HIỆP NHẤT:
Thánh Phao-lô dạy về thái độ phải có của các tín hữu khi tham dự Bữa Tiệc Thánh Thể như sau: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10,17). Do đó, khi đến dự lễ, chúng ta cần có tình yêu thể hiện qua thái độ cảm thông và hiệp nhất, noi gương cộng đoàn Hội Thánh sơ khai tại Giê-ru-sa-lem như sau: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ, Khi làm lễ Bẻ Bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,44-47).
4) ĂN BÁNH THÁNH THỂ THẾ NÀO ĐỂ ĐƯỢC SỐNG MUÔN ĐỜI ?
– “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”: Cần dọn mình lên rước lễ mỗi lần tham dự thánh lễ, vì chẳng có ai đi dự tiệc mà lại không xem người khác ăn, còn mình thì không ăn uống gì ? Cũng cần kéo dài thánh lễ giữa đời thường, như Đức Cha HELDER CAMERA đã nói: “Mỗi sáng, tôi được nuôi dưỡng bằng Đức Ki-tô trong bí tích Thánh Thể, rồi suốt ngày, tôi lại gặp gỡ Đức Ki-tô nơi tha nhân. Vì tôi gặp cũng một Đức Ki-tô trên bàn thờ và ngoài đường phố”. Như vậy: Hiệp nhất với Chúa Giê-su trong thánh lễ phải dẫn chúng ta đến chỗ hiệp nhất với Người đang hiện thân nơi những người đang sống bên chúng ta, nhất là những người nghèo đói bệnh tật và bất hạnh (x.Mt 25).
– Hiệp nhất với Chúa Giê-su Thánh Thể cũng đòi hiệp thông với tha nhân, đòi chúng ta noi gương Chúa quên mình và khiêm tốn phục vụ tha nhân, làm cho tha nhân được hạnh phúc.
– Một khi được nuôi dưỡng bằng Mình Máu Chúa trong bí tích Thánh Thể, chúng ta sẽ ý thức bổn phận chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói, tích cực góp phần cải thiện xã hội là gia đình, khu xóm, trường học, nhà máy, công sở… ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn, sớm trở thành “Trời Mới Đất Mới” được sách Khải Huyền tiên báo: Bấy giờ “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt của họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).
4. THẢO LUẬN: 1) Để đáp lại tình yêu tột cùng của Đức Giê-su khi lập bí tích Thánh Thể, mỗi tín hữu chúng ta có cần năng dự lễ và rước lễ không? 2) Cần dự lễ rước lễ cách nào để đạt được sự sống muôn đời?
5.CẦU NGUYỆN:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Bàn tiệc Thánh Thể do Chúa thiết lập và mời chúng con tham dự nhằm biểu lộ tình yêu thương và sự hiệp nhất cộng đoàn. Chúa muốn chúng con phải tránh thói ích kỷ và những việc làm gây chia rẽ nội bộ, như Tông đồ Phao-lô đã quở trách giáo đoàn Cô-rin-thô như sau: “Trước tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau… Khi anh em họp nhau, thì không còn phải là ăn bữa tối của Chúa. Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước. Và như thế kẻ thì bị đói, người lại no say ! Anh em không có nhà để ăn uống sao ? Hay anh em khinh Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của ?… Cho nên thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. Ai đói thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hóa ra để bị kết án !” (1 Cr 11,18-22.33-34). Hôm nay, xin Chúa giúp chúng con biết hiệp thông với tha nhân mỗi khi tham dự thánh lễ: Cho chúng con biết thể hiện tình bác ái huynh đệ bằng việc vào ngồi trong nhà thờ thay vì đứng ở ngoài sân; Cho chúng con biết mở miệng thưa kinh chung với cộng đoàn. Xin cho chúng con luôn biết dấn thân, sẵn sàng đi bước trước bắt chuyện làm quen với những người lạ, sẵn sàng nhường chỗ tốt cho những người già cả tật nguyền… để Thánh Lễ trở thành cơ hội giúp chúng con thể hiện tình yêu thương hiệp nhất với Chúa và hiệp thông với tha nhân.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH – HHTM
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN A
Gr 20,10-13 ; Rm 5,12-15 ; Mt 10,26-33
CAN ĐẢM LÀM CHỨNG CHO CHÚA
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 10,26-33
(26) Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. (27) Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày, và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng. (28) Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục. (29) Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không ? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. (30) Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. (31) Vậy anh em đừng sợ. Anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ. (32) Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. (33) Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
2. Ý CHÍNH:
Trước khi sai các môn đệ đi truyền giáo, Đức Giê-su khích lệ các Tông đồ đừng sợ hãi, nhưng hãy mạnh dạn rao giảng Tin Mừng Nước Trời vì ba lý do như sau: Một là vì các ông đang nắm giữ chân lý ; Hai là vì thế gian chỉ có thể làm hại được về phần thể xác. Ba là vì các ông có Thiên Chúa luôn an bài mọi sự. Đức Giê-su cũng hứa sẽ bênh vực những ai dám can đảm tuyên xưng Danh Người trước mặt người đời.
3. CHÚ THÍCH:
– C 26-27: + Anh em đừng sợ người ta: Đừng sợ là lời động viên và trấn an các môn đệ mà Đức Giê-su đã làm nhiều lần trong thời gian giảng đạo như: Khi dẹp yên sóng gió (x. Mt 8,26; Mc 4,41), khi tiên báo việc các ông sẽ bị bách hại (x. Mt 10,19-20), khi khuyên các ông vững tin vào Chúa quan phòng (x. Lc 12,22), khuyên đừng sợ trước những biến động của ngày tận thế (x. Mc 13,7), trước những thử thách về đức tin (x. Mt 10,26-33), khi đi trên mặt nước lúc đêm tối (x. Mt 14,27; Mc 6,50), khi hiện ra vào chiều ngày phục sinh (x. Ga 20,19-20). + Không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ…: Chính Thiên Chúa sẽ thực hiện việc bày tỏ sự thật về Người cho loài người, mặc cho có những kẻ cố tình che giấu bưng bít. + Điều Thầy nói lúc đêm hôm…: Điều Đức Giê-su nói riêng với các ông ở Ga-li-lê giống như nói trong đêm tối, thì các ông hãy can đảm rao giảng công khai giữa thanh thiên bạch nhật. + Hãy lên mái nhà rao giảng…: Điều Đức Giê-su nói riêng với các ông như nói rỉ tai, thì hãy lên mái nhà tức là trên sân thượng giống như chiếc bục giảng, để nói to cho đám đông đứng dưới sân được nghe. Tương tự như trong thời đó, vào lúc 6 giờ chiều ngày thứ Sáu hằng tuần, người có trách nhiệm sẽ phải lên trên sân thượng ngôi nhà cao nhất, thổi kèn để loan báo cho mọi người biết đã bắt đầu ngày Sa-bát là ngày người Do thái phải kiêng việc xác.
– C 28-31: + Anh em đừng sợ: Lời Đức Giê-su động viên các môn đệ khi sai họ đi truyền giáo. + Những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn: Sự sống của con người bao gồm cả thể xác lẫn linh hồn. Đừng sợ người đời vì cùng lắm họ cũng chỉ giết hại các ông về phần thể xác, chứ không thể giết hại được linh hồn vốn có đặc tính thiêng liêng bất tử. + Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục: Thiên Chúa là Cha nhân từ nhưng cũng là vị Thẩm Phán công minh uy quyền. Ngày tận thế, Người sẽ trừng phạt và tiêu diệt cả hồn lẫn xác những kẻ chống đối Người trong hỏa ngục muôn đời. + Hai con chim sẻ… Ngay đến tóc trên đầu anh em Người cũng đếm cả rồi: Không có gì xảy ra cho các Tông đồ mà nằm ngoài thánh ý Chúa Cha. Loài chim sẻ chẳng đáng giá bao nhiêu, mà Chúa Cha cũng quan tâm gìn giữ không để con nào bị chết đói. Hoặc như những sợi tóc trên đầu chẳng mấy giá trị, thế mà Thiên Chúa cũng quan tâm đếm hết. Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không quan tâm giúp đỡ các Tông đồ hay sao ? + Anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ: Thái độ của người thừa sai, là phải tin cậy phó thác cuộc sống trong tay Thiên Chúa, Đấng đầy khôn ngoan và hằng yêu thương săn sóc họ hơn muôn ngàn con chim sẻ.
– C 32-33: + Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên ha…: Trong ngày cánh chung (x. Mt 25,31-46), thay vì xét xử, Đức Giê-su sẽ làm trạng sư bầu chữa cho các Tông đồ trước tòa Chúa Cha. + Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ…: Người môn đệ trung thành làm chứng cho Đức Giê-su trước mặt người đời như thế nào, thì sau này Người cũng sẽ bênh đỡ họ trước tòa phán xét của Thiên Chúa thế ấy. Do đó, các thừa sai cần phải can đảm trung thành làm chứng cho Chúa, dù có thể vì đó mà bị người đời thù ghét giết hại.
4. CÂU HỎI:
1) Trong thời gian giảng đạo Đức Giê-su đã trấn an các môn đệ là “Đừng sợ” khi nào ? 2) Tại sao Đức Giê-su lại khuyên môn đệ phải leo lên mái nhà rao giảng Tin Mừng ? 3) Đức Giê-su khuyên môn đệ không nên sợ những kẻ nào nhưng cần phải sợ ai ? Tại sao ? 4) Đức Giê-su nêu ra 2 ví dụ nào cho thấy sự quan phòng của Thiên Chúa để khuyên môn đệ hãy tín thác vào quyền năng và tình thương của Người ? 5) Đức Giê-su hứa sẽ làm gì cho những ai trung thành làm chứng cho Người vào ngày phán xét sau này ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục… Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,28.32).
2. CÂU CHUYỆN:
1) TRONG ĐỨC TIN KHÔNG CÓ CHỖ CHO SỰ SỢ HÃI
Một viên sĩ quan người Anh có một đức tin mạnh mẽ. Ông đang cùng vợ con đáp chuyến tàu đi sang thuộc địa Ấn Độ nhận nhiệm vụ mới. Khi tàu rời bến được hai ngày thì trời bắt đầu nổi cơn giông bão. Mọi người trên tàu đều lo sợ cuống cuồng mà vợ viên sĩ quan lại là người sợ hãi nhất. Đang khi đó, viên sĩ quan chồng bà vẫn tỏ vẻ bình thản như không có điều gì xảy ra. Thấy chồng có thái độ như thế, bà vợ khóc lóc và trách móc ông đã thờ ơ trước sự an nguy của vợ con. Bấy giờ viên sĩ quan chẳng nói chẳng rằng, đi vào phòng riêng lấy ra một thanh kiếm. Ông dí mũi kiếm vào ngực vợ như để đe dọa. Đầu tiên bà tái mặt đi vì sợ hãi nhưng ngay sau đó bà lại cười lên khanh khách, không tỏ vẻ gì là sợ hãi cả. Viên sĩ quan liền hỏi vợ: “Làm sao em lại có thể cười khi bị anh dí mũi kiếm vào ngực như thế ?” Bà vợ trả lời: “Tại sao em phải sợ khi lưỡi kiếm ấy đang ở trong tay của người chồng rất thương yêu em ?” Bấy giờ viên sĩ quan mới giải thích: “Vậy tại sao em lại muốn anh phải lo sợ khi anh xác tín rằng cơn bão này được đặt dưới quyền của Thiên Chúa, là Cha hằng thương yêu và muốn sự an lành cho con cái ? Do đó, chúng ta không cần phải sợ. Ta chỉ cần làm hết sức mình, rồi phó thác vận mệnh cuộc đời ta trong tay Chúa quan phòng là đủ. Dù ta có phải chết hay được sống thì mọi sự cũng đều có ích cho phần rỗi đời đời của ta.
Vậy, mỗi lần gặp một tai nạn, hay một con bệnh hiểm nghèo, ta hãy cầu xin Thiên Chúa, noi gương Đức Giê-su trước cuộc tử nạn đã cầu xin Chúa Cha: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Đau khổ có giá trị giúp chúng ta lập công đền tội, làm cho đức tin chúng ta thêm vững mạnh, và làm cho ta trở nên con Thiên Chúa. Chính vì ý thức được giá trị của đau khổ như thế, nên thánh nữ Béc-na-đét Sô-bi-rớt (Bernadette Soubirous) đã cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, con không xin Chúa cho con khỏi chịu đau khổ, mà chỉ xin Chúa đừng bỏ con một mình trong lúc con chịu khổ đau”.
2) THÁI ĐỘ CAN ĐẢM HAY NHÁT SỢ PHÁT XUẤT TỪ TRÁI TIM:
Một câu chuyện ngụ ngôn được kể lại như sau: “Ngày xưa có một chú chuột nhắt rất sợ bị mèo vồ. Một vị thuật sĩ khi thấy thái độ sợ sệt của chú chuột liền thương hại và đã biến chú hóa thành một con mèo to lớn. Nhưng rồi chú mèo này khi thấy con chó sói tới gần lại leo vội lên cây vị sợ bị sói ăn thịt. Vị thuật sĩ thương hại nên lại biến chú mèo thành một con chó sói to lớn. Thế nhưng chú sói này khi thấy thợ săn đến gần lại sợ hãi và ba chân bốn cẳng chạy trốn. Bấy giờ, vị thuật sĩ đành chịu thua, và nói với chú sói rằng: “Ta không thể giúp gì được cho mi đâu, vì mi chỉ có trái tim của một con chuột nhắt mà thôi !”. Nói rồi vị thuật sĩ lại biến chú sói to kia trở lại thành một con chuột nhắt như cũ.
3. SUY NIỆM:
Tin Mừng CN hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, vững tâm, trung thành và tín thác nơi Chúa, đừng sợ hãi trước những gian nan thử thách gặp phải. Trái lại, cần có một đức tin vững mạnh và sống động, để sẵn sàng đương đầu với mọi hiểm nguy và cả sự chết nữa trên bước đường loan báo Tin Vui Nước Trời.
1) ANH EM ĐỪNG SỢ:
– Sợ hãi là chuyện thường tình của kiếp người. Nỗi sợ hãi thường mang nhiều bộ mặt khác nhau: Sợ bệnh tật, sợ cô đơn, sợ bị lừa gạt, sợ bị phụ bạc, sợ chia ly, sợ bị kẻ thù làm hại… Dường như nỗi sợ luôn ám ảnh mọi người. Sợ hãi sẽ làm cho người ta trở nên khép kín, không dám tiếp xúc với người khác, không dám làm điều gì khác thường và luôn cảnh giác đề phòng tha nhân. Nếu cứ để nỗi sợ hãi ám ảnh lâu dài, chúng ta sẽ có nguy cơ bị đau bao tử, tinh thần rối loạn và sẽ mau già trước tuổi.
– Về phạm vi đức tin, sự sợ hãi làm cho các tín hữu trở thành nhát đảm, không dám công khai đến nhà thờ dự lễ cầu nguyện, không dám nói về Chúa và có thể chối Chúa khi phải kê khai lý lịch, khi cần tuyên xưng đức tin, giống như ông Phê-rô xưa đã chối Thầy ba lần do sợ hãi (x. Mt 26,69-75).
– Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su ba lần nhắc nhở các môn đệ đừng sợ:
Đừng sợ người đời, nhưng hãy mạnh dạn nói lời Chúa cách công khai (26-27);
Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà thôi (28);
Đừng sợ vì ta có Thiên Chúa là Cha đầy quyền năng, hằng thương yêu và quan phòng gìn giữ ta. Người luôn quan tâm đến từng con chim sẻ không mấy giá trị và nắm rõ có bao nhiêu sợi tóc trên đầu chúng ta (29-31).
2) CẦN VƯỢT QUA NỖI SỢ HÃI THƯỜNG TÌNH:
– Thực ra cảm giác sợ hãi là điều tự nhiên và không xấu. Ngay Đức Giê-su tuy khuyên các môn đệ đừng xao xuyến (x. Ga 14,1), nhưng trước cuộc khổ nạn chính Người cũng có cảm giác sợ hãi (x. Ga 12,27; 13,21). Trong vườn cây Dầu, Đức Giê-su đã vô cùng xao xuyến và tâm sự với ba môn đệ thân tín như sau: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy” (Mt 28,37-38). Rồi khi bị treo trên thập giá, Đức Giê-su có cảm tưởng như bị Chúa Cha bỏ rơi, nên đã sợ hãi và kêu lớn tiếng rằng: “Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni”, nghĩa là “Lạy Thiên Chúa, Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con ?” (Mt 27,46).
– Tuy nhiên, Đức Giê-su đã chiến thắng nỗi sợ hãi ấy, khi Người quyết vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu chén này không thể rời khỏi con, nhất định con phải uống, thì xin cho ý Cha được thể hiện” (Mt 26,42). Chính nhờ chiến thắng cảm giác sợ hãi và chấp nhận con đường “qua đau khổ vào trong vinh quang”, mà nhân loại chúng ta mới nhận được hồng ân cứu độ. Hôm nay Chúa Giê-su Phục Sinh cũng động viên mỗi người chúng ta: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để anh em được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên ! Thầy đã chiến thắng thế gian” (Ga 16,33).
3) HÃY CAN ĐẢM LÀM CHỨNG CHO CHÚA:
– “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Anh em hãy xin chủ ruộng sai thêm thợ đến gặt lúa về”. Mỗi người chúng ta khi chịu phép rửa tội là chúng ta được tái sinh làm con Thiên Chúa. Khi đi theo làm môn đệ Chúa Giê-su, là chúng ta cũng như “Chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16), chúng ta cũng sẽ trải nghiệm các cơn thử thách, xỉ nhục, bắt bớ và giết hại giống như Thầy Giê-su, như lời Người dạy: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10,24).
– Khi chịu phép Thêm Sức là chúng ta được tăng thêm sức mạnh của Thánh Thần để nên tông đồ đem Chúa đến với mọi người chung quanh. Cần cầu xin ơn Thánh Thần để đón nhận được bảy ơn Thánh Thần, như Hội Thánh cầu xin trong khi ban phép Thêm sức: “Xin ban cho họ thần trí khôn ngoan và thông hiểu, thần trí lo liệu và sức mạnh, thần trí suy biết và đạo đức – xin ban cho những người này đầy ơn kính sợ Chúa”. Hãy nghe lời Chúa dạy: “Anh em đừng sợ” giống như Hội Thánh sơ khai đã không khiếp nhược nhưng hăng say rao giảng Tin Mừng.
4) TÍN THÁC VÀO CHÚA QUAN PHÒNG:
Cần tín thác cậy trông tín thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa: Bình thường, ai cũng sợ bị bắt bớ đánh đòn và sợ bị giết chết. Nhưng chúng ta cần tín thác vào Chúa như lời Chúa Giê-su hôm nay: “Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi” (Mt 10, 30). Dù chúng ta đang gặp nhiều gian nguy đau khổ, nhưng chúng ta tin vững vào quyền năng và tình thương quan phòng của Thiên Chúa.
4. THẢO LUẬN: 1) Để thắng được nỗi sợ hãi, chúng ta phải làm gì ? 2) Trong cuộc sống hôm nay, để đi theo Chúa, chúng ta phải từ bỏ những gì không phù hợp với đức tin và sứ mệnh làm chứng cho Chúa ?
5. NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA CHA TỪ BI NHÂN ÁI. Nhiều lần chúng con đã tỏ ra khiếp nhược sợ hãi khi giao tiếp với người khác, hoặc khi gặp phải những gian nan thử thách liên tiếp xảy đến. Trong những giờ phút đen tối đó, nhiều lần chúng con đã không dám biểu lộ đức tin, đã gián tiếp chối Chúa khi không dám khai tôn giáo của mình trong bản lý lịch; Nhiều khi chúng con không dám làm dấu thánh giá ở chỗ đông người, không dám đeo dây chuyền có hình Thánh giá Chúa, không dám trưng bày bàn thờ Chúa ở nơi trang trọng nhất trong nhà, không dám mở miệng bênh vực Chúa và Hội Thánh khi nghe những kẻ vô tín phỉ báng bất công. Xin giúp con chăm chỉ học hỏi Lời Chúa để ngày một hiểu biết và yêu mến Chúa hơn. Xin cho con thêm can đảm để dám bênh vực công lý và làm chứng cho Chúa. Xin ban thêm đức tin cho con để nhìn thấy Chúa đang ở trong con, để cậy trông phó thác đời con cho Chúa. Xin cho con sự khôn ngoan, biết khi nào nên nói và nói về Chúa cách nào cho hiệu quả. Nhờ đó, con sẽ chu toàn được sứ mệnh làm tông đồ mở mang Nước Chúa, loan báo Tin Mừng giữa lòng xã hội hôm nay.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH – HHTM
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 13 TN A
LỄ THÁNH PHÊ-RÔ VÀ PHAO-LÔ (29/06)
Cv 12,1-11 ; 2 Tm 4,6-8.17-18 ; Mt 16,13-19
ĐÁ TẢNG ĐỨC TIN
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG:
(13) Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói con Người là ai ?” (14) Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ”. (15) Đức Giê-su lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” (16) Ông Si-mon Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. (17) Đức Giê-su nói với ông: “Này anh Si-mon con ông Giô-na, Anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều đó, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. (18) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. (19) Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”.
2. Ý CHÍNH: HỘI THÁNH ĐƯỢC XÂY TRÊN ĐÁ TẢNG ĐỨC TIN CỦA PHÊ-RÔ.
Sau khi Si-mon đại diện cho Nhóm Mười Hai khẳng định Người là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống (15-16), ông đã được khen là có phúc (17), được đổi tên thành Phê-rô và được hứa xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin mà ông vừa tuyên xưng, tiên báo Hội Thánh ấy sẽ trường tồn, bất chấp ma quỷ chống phá (18). Sau cùng Người cũng trao cho ông chìa khóa Nước Trời với quyền cầm buộc và tháo cởi (19).
3. HỎI ĐÁP VÀ CHÚ THÍCH:
HỎI 1: Khi thay mặt anh em tuyên xưng Đức Giê-su là “Con Thiên Chúa hằng sống”, phải chăng Tông đồ Si-mon có ý nói về bản tính Thiên Chúa của Người ?
ĐÁP:
Có lẽ khi tuyên xưng Đức Giê-su là “Con Thiên Chúa hằng sống”, Phê-rô vẫn chưa hiểu rõ ý nghĩa của tước hiệu ông nói. Ông chỉ muốn giải thích ý nghĩa của tước hiệu Đấng Ki-tô, theo lời ngôn sứ Na-than tuyên sấm về người con sẽ nối nghiệp vua Đa-vít như sau: “Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền nó được vững bền. Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính Danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó, Ta sẽ là Cha. Đối với Ta, nó sẽ là con” (2 Sm 7,12-14). Lời ấy đã không ứng nghiệm nơi vua Sa-lô-mon. Từ đó, dân Do thái hằng trông mong Đấng Thiên Sai thuộc dòng dõi vua Đa-vít sẽ đến. Về sau, trong cuộc khải hoàn vào Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su cũng được dân chúng ca tụng bằng tước hiệu “Con Vua Đa-vít” này (x. Mt 21,9). Khi tuyên xưng tước hiệu “Con Thiên Chúa hằng sống”, Phê-rô chưa hiểu ý nghĩa lời ông nói. Sau đó, Đức Giê-su đã cho biết ý nghĩa tước hiệu này là về bản tính Thiên Chúa, khi khen ông có phúc vì đã được Chúa Cha thương mặc khải sự thật ấy (x Mt 16,17).
HỎI 2: Tại sao Đức Giê-su đổi tên Si-mon thành Phê-rô ? Việc đổi tên chính xác xảy ra vào lúc nào: Khi vừa gặp mặt (x Ga 1,42), khi thành lập Nhóm Mười Hai (x Mc 3,16; Lc 6,14) hay sau khi Phê-rô tuyên xưng đức tin (x Mt 16,18) ?
ĐÁP:
Cũng có thể Đức Giê-su đã đặt tên Phê-rô cho Si-mon khi vừa gặp mặt (x. Ga 1,42), hay khi thành lập Nhóm Mười Hai (x. Mc 3,16; Lc 6,14). Tuy nhiên có lẽ việc đổi tên xảy ra sau lời tuyên xưng đức tin của Si-mon là hợp lý nhất (x. Mt 16,18), vì sau khi đổi tên, Đức Giê-su đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của ông trong Hội Thánh: Đức tin của Phê-rô vào Đức Giê-su chính là tảng đá vững chắc mà trên đó Chúa xây dựng Hội Thánh của Người. Ngoài ra Đức Giê-su còn trao tối thượng quyền để cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,18-19). Ngưới cũng cho Phê-rô đứng đầu Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2), và hứa sẽ cầu nguyện để ông kiên vững đức tin, hầu chu tòan sứ mệnh củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Cuối cùng, Chúa còn trao quyền chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh cho ông nữa (x.Ga 21,15-17).
HỎI 3: Một số người cho rằng: Si-mon Phê-rô là một người đầy khuyết điểm và đã từng phạm tội chối Thầy ba lần, thì làm sao xứng đáng lãnh đạo Hội Thánh và thi hành quyền cầm buộc và tháo cởi được ?
ĐÁP:
Từ ngày được Đức Giê-su gọi theo làm môn đệ, Si-mon đã phạm nhiều sai lầm. Chẳng hạn: Ông bị Thầy quở trách vì đã suy nghĩ theo kiểu khôn ngoan của loài người (x. Mt 16,23); Bị trách là kẻ hèn tin khi đang đi trên mặt nước (x. Mt 14,31); Bị Thầy cảnh báo không được dự phần với Thầy, vì đã từ chối không cho Thầy rửa chân (x. Ga 13,8-10); Nhất là vì quá tự tin vào sức mình nên cuối cùng ông đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước (x. Mc 14,30.66-72).
Nhưng Si-mon Phê-rô cũng có những ưu điểm xứng đáng được Đức Giê-su tín nhiệm trao quyền lãnh đạo Hội Thánh. Chẳng hạn: tại thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, ông đã tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, nên đã được Chúa đổi tên thành Phê-rô, và được trao quyền tối thượng cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,18-19). Có lần ông được Đức Giê-su hứa sẽ cầu nguyện cho để ông luôn kiên vững đức tin, và trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em (x. Lc 22,32). Phê-rô cũng rất nhiệt tình, thường đại diện anh em trả lời những vấn nạn của Thầy (x. Lc 5,3-10), đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin vào lời dạy về Bánh Thánh Thể, đang khi nhiều môn đệ khác chán nản rút lui (x. Ga 6,68). Nhờ kiên vững đức tin, nên ông đã được Đức Giê-su đặt đứng đầu Nhóm Mười Hai (x. Mt 10,2), được đi trên mặt nước (x Mt 14,28-32), trở thành một trong ba môn đệ thân tín nhất được chứng kiến cuộc hiển dung của Người (x. Mt 17,1), chứng kiến phép lạ bé gái mới chết được Người cho sống lại (x. Mt 5,37), và nhất là chứng kiến Thầy hấp hối trong vườn Cây Dầu (x. Mt 26,37).
Tuy có lần sa ngã phạm tội, nhưng Phê-rô đã lập tức sám hối (x. Mt 26,69-75). Nhờ yêu Chúa nhiều hơn anh em, nên ông đã được Người tha thứ và còn trao nhiệm vụ lãnh đạo đoàn chiên (x. Ga 21,15-17). Chính lòng yêu mến Đức Giê-su đã thúc bách Phê-rô chạy thi với Gio-an ra mồ và đã sớm đạt được đức tin vào mầu nhiệm phục sinh của Thầy (x. Ga 20,1-9). Phê-rô cũng được Chúa Phục Sinh hiện ra (x. Lc 24,34), được cùng anh em lãnh nhận ơn Thánh Thần và đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi (x. Cv 2,14-36), có khả năng chữa lành nhiều bệnh nhân (x. Cv 9,33-35.40-41), chủ tọa công nghị Giê-ru-sa-lem năm 49 (x. Cv 15,5-29). Cuối cùng ông đã can đảm trở lại thành Rô-ma để bị bắt và chịu khổ hình thập giá dưới thời hoàng đế Nê-rô (năm 64-67). Cái chết của Phê-rô chứng tỏ lòng mến Chúa cao độ, và nêu gương đức tin vững như đá tảng, để các tín hữu chúng ta noi theo.
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,18-19).
2. CÂU CHUYỆN: PHẢI LÀM GÌ ĐỂ NÊN GIỐNG CHÚA GIÊ-SU ?
Ngày xưa, một vị vua nước Hy Lạp tổ chức một cuộc thi làm tượng ảnh nghệ thuật: các nghệ nhân sẽ tạc tượng hoặc làm tranh tượng về chân dung của nhà vua. Vua hứa sẽ ban thưởng lớn cho những tác phẩm nào giống với ngài nhất. Nghe thông báo, các nghệ nhân từ khắp các nước đã ùn ùn đến Hy Lạp để xin ứng thí. Nghệ nhân Ấn-độ thì mang theo dụng cụ để chạm trổ đồ kim hoàn vàng bạc và các loại ngọc trai quý giá. Nghệ nhân Ai Cập thì mang theo đồ nghề đục đẽo đá quý và một khối đá cẩm thạch rất đẹp. Ai cũng quyết tâm dành được giải thưởng. Riêng nghệ nhân nước chủ nhà Hy Lạp chỉ đến ứng thí với bộ đồ gọt dũa đánh bóng đơn giản.
Mỗi đoàn dự thi được ban tổ chức bố trí chỗ ở và làm việc tại một phòng trong khu vực hoàng cung. Tới ngày thi, nhà vua ra lệnh mỗi đoàn phải hoàn thành tác phẩm trong thời gian một tuần lễ. Thế là các nghệ nhân vội vàng bắt tay vào việc. Họ đục đẽo, chà sát, đánh bóng để khắc họa chân dung của nhà vua Hy Lạp cho giống như người thật. Khi một tuần trôi qua, nhà vua truyền đem các tác phẩm đến trưng bày tại một đại sảnh lớn trong hoàng cung để nhà vua và bá quan trong triều chấm điểm. Khi thấy những tác phẩm dự thi họa lại chân dung của mình do các nghệ nhân Ấn Độ, Ai Cập và nhiều nước khác sáng tác. Nhà vua hết sức hài lòng. Theo ngài thì mỗi bức tượng, tranh tượng phù điêu đều có những đường nét tinh vi sắc sảo, nhìn giống hệt khuôn mặt của ngài. Các tác phẩm ấy được tạc vẽ từ đất nung, từ đá cẩm thạch, hay các loại vàng bạc quý kim khác. Cuối cùng khi đến chỗ trưng bày tác phẩm của các nghệ nhân Hy Lạp thì ngài lấy làm ngạc nhiên vì không thấy bất cứ bức tượng hay tranh tượng nào, mà chỉ thấy một phiến đá cẩm thạch trắng, được các nghệ nhân đánh bóng. Nhà vua liền hỏi tác phẩm đâu, thì một người đưa ngài đến đứng trước phiến đá và chỉ vào chân dung của ngài hiện ra trong đó. Nhìn thấy hình ảnh trung thực của mình, nhà vua đã hiểu ra và hết sức cảm động. Ngài nhận xét các bức tranh hay tượng khác, dù có giống ngài nhưng chúng không sống động và trung thực như hình ảnh được phản chiếu từ chính con người thật của ngài. Nhà vua đã chấm cho tác phẩm của đoàn nghệ thuật Hy Lạp hạng nhất. Còn các tác phẩm khác cũng được xếp hạng và đều có phần thưởng tương xứng với giá trị của chúng. Sau đó, tất cả các tác phẩm đều được trưng bày tại viện bảo tàng quốc gia cho dân chúng tự do chiêm ngưỡng.
3. SUY NIỆM:
Muốn trở nên tông đồ của Chúa Giê-su, các tín hữu trước hết phải sống tình yêu thương noi gương Người. Tiếp đến hàng ngày phải thanh luyện bản thân, đục đẽo đi những gồ ghề, chà xát các chỗ bị thô nhám, nghĩa là bỏ đi sự gian ác khó ưa, tẩy sạch các vết nhơ tội lỗi. Phải làm cho linh hồn mình ngày càng trong sạch và thánh thiện giống như chiếc gương soi. Chính nhờ siêng năng nghe Lời Chúa và rước lễ hàng ngày, nhờ biết xét mình mỗi tối trước khi đi ngủ, nhờ cố gắng noi gương Chúa Giê-su với cái nhìn bao dung nhân từ, ăn nói điềm đạm, thái độ vui vẻ chân thành, giao tiếp thân tình, ứng xử hiền hòa, khiêm tốn phục vụ tha nhân… mà chúng ta hy vọng sẽ dần dần trở thành tấm gương phản chiếu hình ảnh từ bi nhân hậu của Người. Để khi có dịp tiếp xúc với chúng ta, người lương sẽ cảm mến và tin theo Chúa Giê-su, vì họ đã gặp được Người nơi mỗi tín hữu chúng ta. Đó chính là phương cách làm việc tông đồ hữu hiệu nhất trong thế giới hôm nay.
4. THẢO LUẬN:
Đối với bạn, Đức Giê-su là ai ? (Là một ngôn sứ, nên ta xin Người cầu bầu với Chúa Cha cho ta; hay là một thần tượng để ta chiêm ngưỡng thán phục; hay chính là Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa, để ta tin theo và bỏ mọi sự để theo làm môn đệ Người, sẵn sàng vác thập giá là những đau khổ phải chịu để kết hiệp với Người cứu rỗi tha nhân ?)
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúng con cũng muốn được góp phần xây dựng Hội Thánh. Nhưng muốn làm được như vậy, chúng con phải có đức tin mạnh như thánh Phê-rô. Xin Chúa cho chúng con trở thành những viên đá đức tin sống động vững chắc, làm thành nền móng xây nên tòa nhà Hội Thánh. Xin Chúa hãy giúp chúng con tránh những lời nói xúc phạm khó ưa, những hành động vụ lợi ích kỷ, để sống hòa hợp với tha nhân. Xin giúp chúng con loại bỏ những đam mê bất chính và các thói hư tật xấu, loại bỏ tính háo danh, thói ưa châm chọc chỉ trích kẻ khác, những tư tưởng tự mãn và hẹp hòi… Nhờ đó, chúng con có thể trở thành chứng nhân cho tình yêu của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH – HHTM
V. TƯ LIỆU HUẤN LUYỆN HUYNH TRƯỞNG HHTM TH 06/2020
NHỮNG ĐỨC TÍNH CỦA TRƯỞNG LÃNH ĐẠO ĐOÀN THỂ
1. LỜI CHÚA: Chúa phán “Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm. Vì quả thật Thầy là Thầy là Chúa. Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,13-15).
2. CÂU CHUYỆN: GƯƠNG KHIÊM TỐN PHỤC VỤ CỦA BÁC SĨ GIÁM ĐỐC BỆNH VIỆN:
Cùng với ông bố và người em, bác sĩ SA-RI MAY-Ô (Charies Mayo) đã xây bệnh viện May-ô rất nổi tiếng ở Rô-sét-tơ (Rochester), thuộc tiểu bang Mi-nơ-so-ta (Minnesota) Hoa kỳ.
Lần kia, một phái đoàn y khoa được cử đến thăm bệnh viện. Theo tục lệ ở đây, quí khách khi về phòng ngủ sẽ để giày của mình trước cửa phòng, và bệnh viện sẽ cho nhân viên đến mỗi phòng để đánh bóng các đôi giày ấy. Tối ngày hôm đó, bác sĩ May-ô làm việc trễ và trở về phòng sau cùng. Ông thấy các đôi giày của khách để trước cửa các phòng vẫn chưa được nhân viên phụ trách đến đánh bóng như mọi khi! Có thể họ quên chăng ? Thế là ông liền đi kiếm xi và bàn chải, rồi lần lượt đến trước cửa mỗi phòng đánh bóng các đôi giày khách để ở đó. Nhân viên phụ trách đánh giày cho khách hôm đó đi làm nhiệm vụ vào lúc nửa đêm, anh ta rất ngạc nhiên khi thấy vị bác sĩ giám đốc bệnh viện vẫn đang say sưa đánh bóng những chiếc giày cuối cùng cho các vị khách quí.
Câu chuyện bác sĩ giám đốc đánh giày đã trở thành một huyền thoại! Bác sĩ May-ô được mọi người ca tụng không những vì tài chữa bệnh, vì những công trình y khoa lớn lao đem lại ích lợi nhiều cho nền y khoa nói chung, mà còn vì đời sống khiêm tốn bình dị của ông. Ông không nề hà làm bất cứ việc gì, dù nó không xứng với địa vị giám đốc của ông.
3. THẢO LUẬN: Lãnh đạo theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su là phải khiêm nhường phục vụ người dưới giống như một mục tử chăn dắt đàn chiên. Vậy Huynh Trưởng lãnh đạo Đoàn cần có những đức tính nào?
4. SUY NIỆM:
Người lãnh đạo thường muốn “ăn trên ngồi trước”, muốn được người dưới hầu hạ và ca tụng như bọn Biệt Phái khi xưa. Còn các môn đệ và các Huynh Trưởng cộng đoàn không được làm như vậy, nhưng cần có những đức tính mục tử theo gương Mục Tử tốt lành Giê-su như sau:
1) Cần khiêm tốn phục vụ người dưới: Đức Giêsu, xưa đã hạ mình rửa chân cho môn đệ và dạy các ông bài học sau đây: “Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”. Điều đó phải lắm. Vì quả thật Thầy là Thầy là Chúa. Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,13-15). Lần khác khi hai anh em Giacôbê và Gioan đến xin Thầy cho ngồi hai bên tả hữu của Thầy khi Thầy vào trong vinh quang. Điều này khiến mười môn đệ kia tỏ vẻ bất bình. Thấy vậy, Đức Giêsu đã kêu gọi các ông lại gần và dạy bài học phục vụ tha nhân như Người:”Con người đến không đòi người ta phục vụ, nhưng để phục vụ người ta và hiến mạng vì bạn hữu của mình”
2) Không tranh giành địa vị quyền hành: Khi theo Đức Giê-su lên thủ đô giê-ru-sa-lem, các môn đệ tưởng đã đến lúc Thầy lên làm vua, nên tranh cãi nhau xem ai sẽ giữ địa vị lớn hơn trong Nước Trời mà Người sắp thành lập. Đức Giêsu đã dạy các ông như sau: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,35). –
3) Cần ý thức về giới hạn của mình: Khi nghe phê bình sửa lỗi, thay vì bất mãn tìm cách loại trừ người đã phê bình cách làm việc của mình, Trưởng sẽ nghiêm túc tiếp thu ý kiến và bình tĩnh sửa đổi. Khi nghe người dưới nói xấu về sai sót khuyết điểm của mình, Trưởng lãnh đạo sẽ không để bụng ghét bỏ họ, nhưng khiêm tốn nhận lỗi để tu sửa cho mình ngày một hòan thiện hơn. Cần áp dụng lời người xưa: “Ai khen ta mà khen phải thì người đó là bạn của ta. Ai chê ta mà chê phải thì người đó là thầy của ta. Còn kẻ nịnh hót ta, đó chính là kẻ thù của ta vậy”.Sau khi hoàn thành mọi việc, Trửởng lãnh đạo sẽ không huênh hoang kể công để đòi người được trả công, nhưng hãy tự nhủ theo lời Chúa dạy: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10b).
4) Cần tránh thái độ độc đóan: Khi làm việc chung, nên lấy ý kiến đa số trước khi quyết định những gì có ảnh hưởng chung tập thể. Khi công việc thành công Trưởng cần coi là do công sức đóng góp của tập thể và đặc biệt đề cao khen ngợi những người góp công góp của nhiều nhất. Nếu bị thất bại, Trưởng lãnh đạo sẽ không đổ lỗi cho người dưới, nhưng can đảm nhận nguyên nhân thất bại là do sự yếu kém và khuyết điểm của mình.
5) Tránh lối ứng xử cường điệu: Đừng làm cho “chuyện bé xé ra to”, hoặc “chuyện không có gì mà làm cho ầm ĩ”. Cần áp dụng nguyên tắc xử lý công việc như sau: Những gì to lớn thì đừng coi thường, nhưng nghiêm túc giải quyết ổn thỏa càng sớm càng tốt. Những gì nhỏ bé không thiệt hại lớn thì sẽ âm thầm giải quyết khắc phục sai sót.
6) Cần tôn trọng người khác: Tránh xưng hô “mày tao“ hay ăn nói bỗ bã tục tĩu khiến người khác có cảm tưởng bị coi thường. Khi thấy có ai sai lỗi, Trưởng cần giúp họ tu sửa cách tế nhị kín đáo theo lời dạy của Chúa Giê-su về cách sửa lỗi anh em (x Mt 18,15-20).
7) Cần trọng dụng nhân tài: Cần tìm kiếm người tài vừa có nhiệt tình vừa có khả năng điều hành để bồi dưỡng trở thành lớp kế thừa lãnh đạo sau này. Nên nhớ rằng: “Ngựa chứng thường là ngựa hay!”, nên Trưởng cần trân trọng những người tài đức bằng cách tạo điều kiện để họ làm công tác chung và thay thế mình khi cần.
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin dạy con biết yêu mến Chúa cho xứng đáng : biết cho đi mà không cần tính toán; Biết chiến đấu mà không sợ thương tích; Biết làm việc mà không tìm an nghỉ; Biết xả thân mà không cần một phần thưởng nào khác, ngoài việc biết mình đã làm theo thánh ý Chúa.- AMEN. (Lời cầu của Thánh I-NHA-XI-Ô).
LM ĐAN VINH
VI. THƯ GIÃN THÁNG 06/2020
1. ĂN NÓI HỚ HÊNH
Một huấn luyện viên bơi lội tính tình vui vẻ hài hước, một hôm đang đi mua sắm trong một cửa hàng bách hóa nổi tiếng, thì gặp một cô học trò cũng đi mua sắm. Cô nhận ra ông thầy dạy bơi lội của mình liền vui vẻ đến chào hỏi. Huấn luyện viên lấy làm bối rối vì không nhận ra cô này là ai mà sao lại vồn vã chào hỏi mình như vậy. Sau mấy giây, ông chợt nhận ra gương mặt quen thuộc của cô học trò mà ông đã từng dạy học bơi lội cách đây vài tháng. Ông cúi đầu đáp lễ và nói :”Ô ! Thì ra là cô ! Xin lỗi cô nhé. Hôm nay cô mặc quần áo nên lúc đầu tôi đã không nhận ra cô !”
2. CON TÊN GÌ ?
Trong lúc bố mẹ đang cãi lộn nhau, bé Tân 4 tuổi chạy lại hỏi bố: ”Bố ơi, con tên là gì vậy ?” Ông đang giận liền buột miệng chửi: ”Con mẹ mày !” Thằng bé liền chạy đến với mẹ hỏi tiếp: ”Mẹ ơi, con tên là gì ?” Bà mẹ đang bực mình liền la to: ”Thằng cha mày !”. Bé Tân lại đến hỏi chị. Cô chị của em đang nghe nhạc nước ngoài bằng máy nghe, nên nói với bé bằng giọng ca: ”OK, OK, Yes !” Bé Tân đến gần hỏi anh bé lúc đó đang dán mắt vào màn hình xem trận đá banh: ”Anh hai, em tên gì ?” Thằng anh liền trả lời ngay: ”Đe-vít Béc-kham !”.
Hôm sau khi bé đến trường mầm non, cô giáo hỏi em :”Em tên là gì ?”, nó liền trả lời giống như ba nó hôm trước: ”Con mẹ mày !”. Cô giáo đỏ mặt lên hỏi tiếp: ”Bé vừa nói gì đó ? Nói lại cho cô nghe.” Nó liền la hét giống mẹ hôm qua: ”Thằng bố mày !” Cô giáo tức giận nói: ”Cô sẽ đuổi học, không nhận bé vào lớp học của cô đó nghe chưa ? ” Nó liền nói theo giọng vui vẻ của cô chị: ”OK, OK, Yes !”. Cô giáo liền nói với bé: ”Bé nghĩ bé là con nhà ai mà dám nói hỗn với cô như thế hả ?” Bé Tân liền trả lời giống như anh nó: ”Đe-vít Béc-Kham !”.
3. BẮT ĐƯỢC RẤT NHIỀU TÙ BINH
Tại một cửa hàng bán thuốc trừ sâu, khi trao gói thuốc trừ gián cho khách hàng, ông chủ tiệm nói với đầy vẻ tự tin như sau: ”Khi ông xịt thuốc này vào phòng của ông, chắc chắc lũ gián nhà ông sẽ sang chiến đấu với gián nhà hàng xóm”.
Mấy hôm sau khi thấy vị khách kia quay lại, chủ tiệm liền đon đả chạy ra vồn vã hòi thăm: ”Sao ? Thuốc tôi bán cho ông hôm trước có phát huy tác dụng tốt chứ ?”
Ong khách liền trả lời: ”Vâng, lũ gián nhà tôi đã chiến đấu rất hăng và đã bắt được về nhà thêm rất nhiều tù binh”.
SƯU TẦM
VII. NHỎ TO HỮU ÍCH THÁNG 06/2020
MỘT SỐ CHỮ VIẾT TẮT SAU TÊN CÁC LINH MỤC – TU SĨ DÒNG TẠI VIỆT NAM
Các Linh Mục, Tu Sĩ trong các dòng ở Việt Nam thường viết thêm vào sau tên gọi một vài mẫu tự. Ví dụ: Viện Phụ Phan Bảo Luyện, S.O.C.; Đan Sĩ Hoàng Thanh Trương, O.S.B.; Đan sĩ Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh, O.C.D.; Sư Huynh Nguyễn Văn Tân, F.S.C; Lm. Mạnh Thư, C.M.C… Vậy các chữ viết tắt đó nghĩa là gì? :
– O.S.B.- Biển Đức: Tiếng phiên âm của tên riêng Benedicti trong tiếng La Tinh hay Benedict trong tiếng Anh. Thánh Benedict lập ra dòng có tên quốc tế là Ordo Sancti Benedicti hay Order of St. Benedict, viết tắt là O.S.B. được dịch ra tiếng Việt là Dòng Biển Đức.
– C.Ss.R.: Tiếng viết tắt của Congratio Sanctissimi Redemptoris có nghĩa là Dòng Cực Thánh Chúa Cứu Thế được giáo dân Việt Nam gọi tắt là Dòng Chúa Cứu Thế.
– O.C.D.- Cát Minh: Tiếng phiên âm của địa danh Carmel. Carmel là tên một ngọn núi ở phía tây bắc Do Thái. Nơi đây vào năm 1155 đan viện có tên là Ordre des Carmes Déchaux gọi là Đan Viện Cát Minh.
– S.J – Dòng Tên: Tên được dùng để thay thế cho từ ngữ Jesu. Dòng có tên quốc tế là Societas Jesu hay Society of Jesus, dịch ra tiếng Việt là Dòng Chúa Giêsu và vì phong tục kỵ húy tên các bề trên gọi là Dòng Tên.
– O.P.- Đa Minh: Phiên âm của tên Dominic. Thánh Dominic là người Tây Ban Nha, đấng tổ phụ lập ra dòng có tên quốc tế là Ordo Praedicatorium dịch là Dòng Anh Em Thuyết Giáo.
– C.M.C – Đồng Công: Là tiếng nói tắt của cụm từ Đồng Công Cứu Chuộc để dịch từ ngữ La Tinh Congregatio Matris Coredemptricis – Người Việt gọi là Dòng Đồng Công.
– F.S.C.- La San: Do thánh Jean Baptist De La Salle thành lập. Dòng có tên quốc tế là Fratres Scholarum Christianarum là Dòng Sư Huynh La San.
– M.E.P: Mẫu tự viết tắt của danh xưng bằng Pháp ngữ là Société des Missions Étrangères de Paris nghĩa là Hội Thừa Sai Paris.
– S.V.D.- Ngôi Lời: Tên của hội dòng quốc tế là Societas Verbi Divini được gọi tắt là Dòng Ngôi Lời. Từ Ngôi Lời theo nghĩa thần học có nghĩa là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Chúa Giêsu.
– O.F.M.- Phan Sinh: Tên quốc tế là Ordo Fratrum Minor dịch là Dòng Anh Em Hèn Mọn hay Dòng Phanxicô.
– S.D.B.- Salesien: Do thánh Joannes Don Bosco lập và đặt tên dòng là Salesien, thường gọi là Dòng Salesien Don Bosco.
– S.O.C – Xitô: tên của hội dòng Santus Ordo Cistercianus thường được gọi là Dòng Xitô.
– P.S.S.- Xuân Bích: một hội của các linh mục thừa sai là Compagnie des Prêtres de Saint Sulpice gọi tắt là Hội Linh Mục Xuân Bích.
SƯU TẦM
VIII. THÔNG TIN HIỆP SỐNG THÁNG 06/2020
A. TIN LIÊN HỘI HHTM /TGP SG TH 06:
I. MỪNG BỔN MẠNG THÁNG 06:
1) Ngày 13/06 kính thánh ANTÔN, Bổn mạng quý cha và quý anh:
– Cha Ant Nguyễn Thanh DANH – Phụ tá GX Trung Chánh.
Và một số quý ông quý anh:
– Ông Ant Nguyễn Đình LÂM – Cố vấn BCH Liên Hội – HHTM TGP SG.
– Ông Ant Hồng Thái Y – Bảo trợ Mái Ấm Caritas _ Hạt Chí Hòa – Gp Saigon
– Anh Ant Trần Bảo HOÀNG – Trưởng Xứ Đoàn GT/HHTM Tân Hưng (XM).
– Anh Ant Phạm Xuân VƯỢNG – Nguyên Trưởng Xứ Đoàn GĐ/HHTM Mẫu Tâm.
Kính chúc quí Cha, quí Ông, Quý anh em Huynh Trưởng nhận thánh Antôn làm bổn mạng thêm lòng yêu mến Chúa noi gương ngài.
2) Ngày 24/06 kính thánh GIOAN BAOTIXITA, Bổn mạng:
– Đức Hồng Y GB Phạm Minh MẪN: Nguyên Tổng Giám Mục TGP Sai-gòn TP HCM.
– Cha GB Nguyễn Văn LUYẾN: Chính Xứ, Giám Huấn XĐ Bác Ái HHTM Lạng Sơn.
– Cha GB Nguyễn Xuân ĐỨC: Chính Xứ, Giám Huấn XĐ Giới Trẻ HHTM Thạch ĐÀ
– Cha GB Nguyễn Hoàn PHÚ: Giám Huấn XĐ Bác Ái HHTM Vị Hưng (GP Cần Thơ).
– Cha Gioan B Nguyễn Ngọc TÂN: Giám Huấn Xứ đoàn Bác ái HHTM Hợp An
Ngoài ra còn có quý ông, quý anh Huynh Trưởng trong ba Liên đoàn như:
– Ông GB Trần Quang MINH: Nguyên ĐT XĐ Bác Ái HHTM Châu Bình (TĐ).
– Anh Quang MINH: LH Trưởng HHTM TGP Sai-gon – VN
– Anh GB Trần Gia TRANG: Xứ Đoàn Trưởng XĐ Giới Trẻ HHTM Bình Thái
và một số Hội viên các Xứ Đoàn.
Kính chúc Đức Hồng Y, quí Cha Giám Huấn, quí Huynh Trưởng và Hội viên nhận thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta được dồi dào hồng ân Thiên Chúa qua lời bầu cử của ngài.
3) Ngày 29/06: Kính Thánh PHÊ-RÔ và PHAO-LÔ, Bổn mạng:
– Cha Phao-lô Nguyễn Hữu THIỆN, Phụ tá Giám Huấn Hiệp Hội Thánh Mẫu- VN
– Cha Phê-rô Nguyễn Văn THIỀM, Giám huấn Xứ đoàn Bác ái Tân Hưng
– Cha Phê-rô Nguyễn Ngọc VƯỢNG, Quản Hạt, chính Xứ Giám Huấn XĐ Bác ái HHTM Bùi Môn.
– Cha Phao-lô Nguyễn Quốc DUY: Phụ Tá, Giám Huấn HHTM Bình Thái (BA).
Ngoài ra còn có quý ông, quý anh Huynh Trưởng trong ba Liên đoàn như:
– Ông Phao-lô Lê Văn HẠNH: Ủy viên Tập huấn LĐ BA HHTM-TGP-SG.
– Ông Phê-rô Nguyễn Viết PHẤN: Cố Vấn BCH Xứ đoàn BA HHTM Bùi Phát (Tân Định).
– Anh Phêrô Nguyễn Văn Huyền : Trưởng Ban Phục Vụ Nhà Thờ Thánh Mẫu TW HHTM VN.
– Anh Phê-rô Phan Huy ĐOÀN: Liên Hội Phó HHTM.
– Anh Phê-rô Đinh Như HẢI HÀ: Nguyên Trưởng Hiệp đoàn Giới Trẻ HHTM Bình An.
– Anh Phao-lô Nguyễn Đức TIẾN: Nguyên UVPV LĐ Giới Trẻ HHTM.
– Anh Phê-rô Phạm Chi HUYNH: Xứ Đoàn GT HHTM Bình An.
– Anh Phê-rô Nguyễn DUY: Đoàn Trưởng XĐ Giới Trẻ HHTM Châu Bình.
– Anh Phê-rô Phạm Văn THÀNH: XĐ Gia Đình HHTM Lạc Quang.
Kính chúc, Cha Phụ Tá HHTM, quí Cha Giám Huấn, quý Huynh Trưởng và Hội viên HHTM dồi dào hồng ân Thiên Chúa qua lời bầu cử của hai thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô.
Xứ Đoàn Giới Trẻ HHTM Thạch Đà mừng lễ Bổn Mạng Xứ Đoàn:
Kính mời cha Tổng giám huấn ,cha Phụ tá , Ban Chấp Hành Liên Hội HHTM Giáo phận SG, đến Thứ Năm ngày 28/05/2020, lúc 17g15 hiệp dâng thánh lễ mừng Mẹ Thăm Viếng là Bổn Mạng Xứ Đoàn Giới Trẻ HHTM Thạch Đà. XĐ GT HHTM kính mời.
2.TIN BUỒN
Cụ bà Tê-rê-xa NGUYỄN NGỌC THANH nhũ danh NGUYỄN THỊ CHIÊN là Nhạc mẫu của anh Fx Đỗ Công Minh – Trưởng Ban Nghiên Huấn HHTM TGP SG đã được Chúa gọi về. Thánh lễ an táng 5 giờ sáng thứ bảy 23/5/20 tại nhà thờ LỘC HƯNG, sau đó hỏa táng tại Bình Hưng Hòa.
Sáng 22/5/20 Cha Đaminh ĐINH VĂN VÃNG, Tổng Giám huấn, Cha Phaolo NGUYỄN HỮU THIỆN, phụ tá GH, cùng Ban Chấp hành Liên hội Hiệp Hội Thánh Mẫu Việt Nam, Ban Phục Vụ Nhà thờ Thánh Mẫu Trung Ương, cùng Đại diên BCH Liên đoàn Bác ái và một số hội viên Liên đoàn Gia đình HHTM TGP đã đến cầu nguyện và chia sẻ cùng anh Minh Đỗ và tang quyến.
B.THÔNG TIN CỦA LIÊN ĐOÀN BÁC ÁI HHTM TGP SÀI GÒN TH 6
I. CÔNG TÁC LIÊN ĐOÀN THÁNG 6:
– Theo thông lệ hằng năm vào trước ngày mừng Bổn Mạng Mẹ Thăm Viếng, BCH LIÊN ĐOÀN Bác Ái HHTM sẽ kết hiệp với các Xứ Đoàn thực hiện công tác bác ái, thăm hỏi các gia đình nghèo, người già neo đơn. Địa điểm sẽ thông báo sau.
– Động viên các hội viên lần chuỗi mân côi và cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời trong đại dịch và những gia đình đang gặp khó khăn thử thách được Chúa thương và nâng đỡ họ. Các Xứ đoàn tiếp tục động viên Hội viên đọc kinh tối tại các gia đình.
II. BÁO CÁO CÔNG TÁC CÁC XỨ ĐOÀN:
1/ Xứ Đoàn Học Sống Lời Chúa:
– Thăm bệnh nhân, giúp Tu sĩ, giúp Nhà thờ Đức Bà…
– Tổng chi công tác Bác ái – Xã hội : 5.100.000 đ.
2/ Xứ đoàn Tân Hưng :
-Đọc kinh tối gia đình : 50% hội viên
-Thăm 1 hội viên đau yếu : Đường + Sữa
-Thăm các gia đình khó khăn trong đại dịch
-Quét dọn Nhà thờ : 4 lần / 6 người
-Tổng chi cho công tác Bác ái : 620 000 đ.
3/Xứ đoàn Nam Hòa :
-Thăm người đau liệt bệnh nhân : 3 người
-Vệ sinh quét dọn nhà Chúa : 4 lần / 4 người
-Đóng góp sữa cho Thiếu nhi: 500.000 đ / tháng
III. THƯ MỜI HỌP :
Mời các Xứ Đoàn trưởng và thành viên BCH các Xứ đoàn thuộc LĐBA / HHTM đến tham dự buổi sinh hoạt tháng 06/2020 tại Nhà thờ Thánh Mẫu Trung Ương : Số 3 – 5 Chữ Đồng Tử, P7, Q.Tân Bình, vào lúc 15g00 Thứ Hai, ngày 29/6/2020.
C. THÔNG TIN LIÊN ĐOÀN GIA ĐÌNH HHTM/TGP SAIGON THÁNG 06
I. SINH HOẠT LĐ GĐ THÁNG 05 VỪA QUA :
1) Lễ Giỗ 17 năm Cha Cố Giacobê Đỗ Minh Lý, Nguyên Giám đốc HHTM/VN (2003-2020):
– 8g00 sáng ngày 01/05/2020 một số đại diện Liên đoàn gia đình HHTM GP đã đến Nghĩa Trang La-za-ro viếng phần mộ cầu nguyện cho Cha Cố Giacobê Đỗ Minh Lý.
– 17g30 chiều 02/05/2020 Thánh Lễ Online do Cha Giuse Vũ Quang Trường Phó xứ Gx Sao Mai dâng lễ, một số Ban Chấp Hành và hội viên thuộc Liên Đoàn gia đinh HHTM TGP SG dâng lễ giãn cách tại Thánh đường giáo xứ Sao Mai. 16g30 ngày 03/05/2020 đại diện LĐ GĐ HHTM và Hội viên HHTM cùng gia đình dâng lễ cầu nguyện cho linh hồn Cha Cố Giacobê tại nhà thờ Thánh Mẫu Trung ương do Cha Đa Minh Đinh Văn Vãng Tổng Giám Huấn HHTM chủ tế.
2) Mừng Bổn Mạng Gia Đình HHTM Xứ Đoàn Mẫu Tâm:
– 5g30 sáng 01/05/2020 Ban Chấp Hành LĐ Gia Đình HHTM đã đến hiệp dâng thánh lễ kính Thánh Giuse Lao động là bổn mạng của XĐ GĐ HHTM Mẫu Tâm và Tạ ơn Chúa kỷ niệm 20 năm thành lập. Hội viên đã dâng lời cầu: “Xin Thánh Cả Giuse cầu bầu cùng Chúa phù trợ và nâng đỡ XĐ HHTM Mẫu Tâm ngày một thăng tiến.
3) Tháng 5 dâng Hoa kính Mẹ Maria :
– 16g30 ngày 20/05/2020 Liên đoàn Gia đình HHTM TGP đã họp mặt đang thánh lễ và sau lễ dâng hoa kính Mẹ theo chủ đề: “Mẹ ơi con yêu Mẹ. Hội viên LĐ Gia Đình HHTM mỗi người một cành hoa đã dâng hoa tươi lên trước tòa Mẹ. Sau đó và noi gương bác ái của Mẹ, Liên đoàn GĐ tặng quà cho 25 hội viên các Xứ Đoàn gặp khó khăn, mỗi phần 5 ký gạo và 2 ký đường.
II. BÁO CÁO CÔNG TÁC THÁNG 05 /2020
C. THÔNG TIN LIÊN ĐOÀN GIA ĐÌNH HHTM/TGP SAIGON THÁNG 06
I. SINH HOẠT LĐ GĐ THÁNG 05 VỪA QUA :
1) Lễ Giỗ 17 năm Cha Cố Giacobê Đỗ Minh Lý, Nguyên Giám đốc HHTM/VN (2003-2020):
– 8g00 sáng ngày 01/05/2020 một số đại diện Liên đoàn gia đình HHTM GP đã đến Nghĩa Trang La-za-ro viếng phần mộ cầu nguyện cho Cha Cố Giacobê Đỗ Minh Lý.
– 17g30 chiều 02/05/2020 Thánh Lễ Online do Cha Giuse Vũ Quang Trường Phó xứ Gx Sao Mai dâng lễ, một số Ban Chấp Hành và hội viên thuộc Liên Đoàn gia đinh HHTM TGP SG dâng lễ giãn cách tại Thánh đường giáo xứ Sao Mai. 16g30 ngày 03/05/2020 đại diện LĐ GĐ HHTM và Hội viên HHTM cùng gia đình dâng lễ cầu nguyện cho linh hồn Cha Cố Giacobê tại nhà thờ Thánh Mẫu Trung ương do Cha Đa Minh Đinh Văn Vãng Tổng Giám Huấn HHTM chủ tế.
2) Mừng Bổn Mạng Gia Đình HHTM Xứ Đoàn Mẫu Tâm:
– 5g30 sáng 01/05/2020 Ban Chấp Hành LĐ Gia Đình HHTM đã đến hiệp dâng thánh lễ kính Thánh Giuse Lao động là bổn mạng của XĐ GĐ HHTM Mẫu Tâm và Tạ ơn Chúa kỷ niệm 20 năm thành lập. Hội viên đã dâng lời cầu: “Xin Thánh Cả Giuse cầu bầu cùng Chúa phù trợ và nâng đỡ XĐ HHTM Mẫu Tâm ngày một thăng tiến.
3) Tháng 5 dâng Hoa kính Mẹ Maria :
– 16g30 ngày 20/05/2020 Liên đoàn Gia đình HHTM TGP đã họp mặt đang thánh lễ và sau lễ dâng hoa kính Mẹ theo chủ đề: “Mẹ ơi con yêu Mẹ. Hội viên LĐ Gia Đình HHTM mỗi người một cành hoa đã dâng hoa tươi lên trước tòa Mẹ. Sau đó và noi gương bác ái của Mẹ, Liên đoàn GĐ tặng quà cho 25 hội viên các Xứ Đoàn gặp khó khăn, mỗi phần 5 ký gạo và 2 ký đường.
Liên Đoàn Giới Trẻ HHTM TGP Saigon đến nay gồm 6 Xứ Đoàn Giới Trẻ HHTM đang hoạt động như sau:
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Sao Mai,
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Thạch Đà,
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Châu Bình,
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Thái Bình,
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Bình Thái,
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Bình An.
Hiện nay Liên Đoàn Giới Trẻ HHTM đang trong thời gian củng cố sinh hoạt bằng việc BCH Liên Đoàn sẽ đi thăm các Xứ Đoàn.
TRUYỀN THÔNG HHTM
XIN TẢI TẬP SAN HIỆP SỐNG THÁNG 06.2020 TẠI DƯỚI.
TẬP-SAN-HIỆP-SỐNG-TH-06-2020.