Chủ Nhật III Phục Sinh, Năm A
Bài đọc: Acts 2:14, 22-28; 1 Pet 1:17-21; Lk 24:13-35.
1/ Bài đọc I: 14 Bấy giờ, ông Phê-rô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với họ rằng: “Thưa anh em miền Giu-đê và tất cả những người đang cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, xin biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi nói đây.
22 “Thưa đồng bào Ít-ra-en, xin nghe những lời sau đây. Đức Giê-su Na-da-rét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó.
23 Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giê-su ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. 24 Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi. 25 Quả vậy, vua Đa-vít đã nói về Người rằng: Tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu, để tôi chẳng nao lòng. 26 Bởi thế tâm hồn con mừng rỡ, và miệng lưỡi hân hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm hy vọng. 27 Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát. 28 Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan.
2/ Bài đọc II: 17 Thiên Chúa là Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử. Vậy nếu anh em gọi Người là Cha, thì anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách này. 18 Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại.
19 Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Ki-tô. 20 Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. 21 Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: 13 Cũng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. 14 Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. 15 Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. 16 Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. 17 Người hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy? ” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.
18 Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” 19 Đức Giê-su hỏi: “Chuyện gì vậy? ” Họ thưa: “Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. 20 Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá.
21 Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. 22 Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm,
23 không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống.
24 Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy.” 25 Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! 26 Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? 27 Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. 28 Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa.
29 Họ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. 30 Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. 31 Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất.
32 Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” 33 Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. 34 Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn.” 35 Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
________________________________________
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã được phác họa ngay từ đầu, khi trái đất và con người chưa được tạo dựng.
Có những sự khác biệt to lớn giữa Thiên Chúa và con người: Ngài không bị lệ thuộc vào thời gian như con người; tư tưởng và ý định của Ngài bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành, trong khi kiến thức con người quá giới hạn đến độ không thể lãnh nhận những mặc khải của Thiên Chúa một lúc. Thiên Chúa đã có kế hoạch cứu độ con người ngay từ đầu, khi trời đất và con người chưa được tạo thành, và dĩ nhiên, chưa phạm tội trong vườn Địa Đàng. Trọng tâm của kế hoạch cứu độ là Đức Kitô, Ngài là Đấng sẽ mang lại ơn cứu độ cho con người qua cái chết và sự phục sinh vinh hiển của Ngài. Kế hoạch cứu độ có hai phần chính: phần đầu Thiên Chúa chọn dân tộc Do-thái để chuẩn bị cho việc nhập thể của Đức Kitô; phần hai khi Đức Kitô đến, Ngài mở rộng ơn cứu độ của Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Vì thế, Đức Kitô là giao điểm của Cựu Ước và Tân Ước. Tất cả những gì Đức Kitô sẽ làm đã được tiên báo cách ẩn tàng trong Cựu Ước. Khi Đức Kitô đến, Ngài thực thi tất cả những gì đã được tiên báo trong Cựu Ước. Thánh Augustinô nhận định rất chính xác: Cựu Ước chuẩn bị cho Tân Ước và Tân Ước làm trọn những gì Cựu Ước chuẩn bị. Thánh Phaolô diễn tả cách tương tự: nếu chỉ đọc Cựu Ước thôi, một người sẽ chỉ hiểu lờ mờ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa như đang bị một bức màn che mắt; nhưng nếu đọc Cựu Ước với ánh sáng của Tân Ước, một người sẽ hiểu rõ tất cả chi tiết của kế hoạch cứu độ (2 Cor 3:13-17).
Các bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy lợi ích của việc giải thích những biến cố xảy ra cho Đức Kitô trong ánh sáng của Cựu Ước. Trong bài đọc I, thánh Phêrô chứng minh cho người Do-thái biết Đức Giêsu thành Nazareth chính là Đấng Thiên Chúa sai đến, để thực thi kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và mang lại cuộc sống trường sinh cho con người, như đã được loan báo trong Kinh Thánh. Trong bài đọc II, tác giả Thư Phêrô thứ nhất cũng lặp lại tư tưởng của bài đọc I, Đức Kitô là Đấng mà Thiên Chúa đã biết trước khi vũ trụ được dựng nên. Ngài xuất hiện trong thời cuối cùng để làm trọn kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, chính Đức Kitô thân hành hiện đến và cùng đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmaus, để giải thích cho họ về những lời Kinh Thánh được làm trọn qua cái chết và sự phục sinh của Ngài. Hai ông đã nhận ra chính là Ngài khi Ngài cùng bẻ bánh với hai ông.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Giêsu đã bị nộp và giết chết theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước.
Bài giảng của Phêrô sau biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống gồm hai phần chính:
1.1/ Phêrô làm chứng cho những gì Đức Kitô đã thực hiện: Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với họ rằng: “Thưa anh em miền Judah và tất cả những người đang cư ngụ tại Jerusalem, xin biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi nói đây… Thưa đồng bào Israel, xin nghe những lời sau đây. Đức Giêsu Nazareth, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó.” Phêrô không cần phải dẫn chứng nhiều, vì tất cả những gì Đức Kitô đã làm và những gì xảy ra cho Ngài vẫn còn sống động trong tâm hồn khán giả của ông.
1.2/ Phêrô nối kết những biến cố này với những gì đã được đề cập tới trong Kinh Thánh: Vì người Do-thái tin vào Kinh Thánh, Phêrô làm chứng cho Đức Kitô bằng cách liên kết những biến cố mới xảy ra với những gì đã được đề cập trong Kinh Thánh. Mục đích của Phêrô là để khơi niềm tin nơi khán giả vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô. Kinh Thánh đã nói trước về mục đích của cái chết và sự sống lại của Đức Kitô. Ngài phải chết và phục sinh theo kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Mục đích là để tha thứ tội lỗi và mang lại cuộc sống trường sinh vĩnh cửu cho con người: “Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi.”
Phêrô trưng dẫn những lời của Thánh Vịnh 16:8-11, để minh chứng điều này. Câu 27 của trình thuật mang một ý nghĩa quan trọng về cuộc sống trường sinh: “Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát.” Ai là “Vị Thánh của Ngài” mà Thánh Vịnh 16 nói tới? Chắc chắn không phải là vua David, vì David đã chết, và mộ của vua vẫn còn ở Hebron cho tới ngày nay. Truyền thống Do-thái thời đó vẫn tin người nào đã vào trong cõi âm ty (Sheol, Hades), sẽ không bao giờ có ngày trở về trên cõi dương gian. Quan niệm về cuộc sống đời sau, được hưởng hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa, là một quan niệm rất xa lạ với người Do-thái thời đó. Vì thế, câu “Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan” phải là một lời tiên tri nói về Đấng Cứu Thế, và được áp dụng cho sự chết và phục sinh của Đức Kitô.
2/ Bài đọc II: Người là Đấng Thiên Chúa đã biết trước khi vũ trụ chưa được dựng nên.
(1) Chúng ta được cứu độ là do bởi máu vô giá của Đức Kitô: Tác giả Thư Phêrô I nhắc nhở cho các tín hữu biết: “không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại; nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô.” Theo kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa có từ muôn thuở, “Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa.” Ai tin vào Ngài, người ấy sẽ nhận được ơn cứu độ là được sống muôn đời.
(2) Hãy biết sống làm sao ở đời này cho xứng với tình yêu Thiên Chúa: Con người không thể nhận lãnh ơn cứu độ bằng sức riêng của mình hay bằng việc giữ cẩn thận Lề Luật; vì mọi người đều phạm tội. Họ chỉ có thể được cứu độ bằng việc tin tưởng vào Đức Kitô và cố gắng giữ những gì Ngài truyền. Để đáp trả tình yêu của Thiên Chúa và của Đức Kitô đã hy sinh mạng sống cho con người, tác giả răn dạy các tín hữu: “Vậy nếu anh em gọi Người là Cha, thì anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách này.”
3/ Phúc Âm: Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
3.1/ Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ: Khi phải đương đầu với những biến cố đau buồn trong cuộc sống, nhiều người đã không còn nhận ra Thiên Chúa và sự quan phòng của Ngài. Thái độ này dễ đưa con người đến chỗ thất vọng và không nhận ra Thiên Chúa, dù Ngài có hiện ra và đồng hành với họ. Hai môn đệ của Chúa Giêsu rời Jerusalem để về Emmaus là một ví dụ sống động của thái độ này. Họ buồn và rời Jerusalem vì bao nhiêu hy vọng của họ đặt nơi Chúa Giêsu giờ đã tan thành mây khói. Họ tưởng Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai uy quyền, Ngài sẽ dùng quyền năng để đánh đuổi đế quốc Rôma và giải phóng dân tộc Do-thái khỏi ngoại bang; nhưng nay Ngài đã chết rồi. Vài tia hy vọng mong manh của việc Chúa sống lại không đủ để trợ giúp niềm tin bị thử thách của họ.
Điều này chứng minh cho chúng ta thấy chúng ta cần có những giây phút cầu nguyện và thinh lặng để suy niệm và để nối kết những biến cố xảy ra trong cuộc đời. Chỉ có sự soi sáng của Thiên Chúa mới có thể giúp chúng ta nhận ra những lý do của sự việc xảy ra, và giúp chúng ta vững tin nơi quyền năng của Ngài.
3.2/ “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” Hai môn đệ nhận ra sự tăm tối của tâm hồn và mời Ngài ở lại. Chính lời mời gọi này đã giúp cho hai ông nhận ra Đức Kitô và thêm tin tưởng nơi Ngài. Ba điều quan trọng chúng ta cần học là:
(1) Đức tin được kiên cố qua việc học hỏi Lời Chúa để nhìn ra kế hoạch cứu độ trong các biến cố xảy ra hàng ngày và các biến cố đặc biệt. Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông rằng: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Moses và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.”
Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ.
(2) Tham dự Lễ Bẻ Bánh giúp tăng tình yêu của con người vào Thiên Chúa: “Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”
(3) Đức tin cần được sự nâng đỡ của cộng đoàn: “Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Jerusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon.” Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.” Người nào có khuynh hướng xé lẻ để tự giải quyết lấy thường dễ rơi vào cạm bẫy của ma quỉ, Judah Iscariot là một trường hợp điển hình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải học Cựu Ước để hiểu rõ Tân Ước, và phải học Tân Ước để hiểu rõ Cựu Ước. Cả hai chỉ là hai phần khác nhau của một kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
– Tham dự Thánh Lễ cách trọn vẹn, vừa lắng nghe Lời Chúa vừa lãnh nhận Mình Thánh Chúa, thắp lên trong chúng ta ngọn lửa tình yêu cho Thiên Chúa, giữ vững niềm hy vọng, và nhiệt thành làm chứng cho Ngài.
SUNDAY OF THE 3 EASTERA
Readings: Acts 2:14, 22-28; 1 Pet 1:17-21; Lk 24:13-35.
1/ Reading I: RSV Acts 2:14 But Peter, standing with the eleven, lifted up his voice and addressed them, “Men of Judea and all who dwell in Jerusalem, let this be known to you, and give ear to my words. 22 “Men of Israel, hear these words: Jesus of Nazareth, a man attested to you by God with mighty works and wonders and signs which God did through him in your midst, as you yourselves know — 23 this Jesus, delivered up according to the definite plan and foreknowledge of God, you crucified and killed by the hands of lawless men. 24 But God raised him up, having loosed the pangs of death, because it was not possible for him to be held by it. 25 For David says concerning him, `I saw the Lord always before me, for he is at my right hand that I may not be shaken; 26 therefore my heart was glad, and my tongue rejoiced; moreover my flesh will dwell in hope. 27 For thou wilt not abandon my soul to Hades, nor let thy Holy One see corruption. 28 Thou hast made known to me the ways of life; thou wilt make me full of gladness with thy presence.’
2/ Reading II: RSV 1 Peter 1:17 And if you invoke as Father him who judges each one impartially according to his deeds, conduct yourselves with fear throughout the time of your exile. 18 You know that you were ransomed from the futile ways inherited from your fathers, not with perishable things such as silver or gold, 19 but with the precious blood of Christ, like that of a lamb without blemish or spot. 20 He was destined before the foundation of the world but was made manifest at the end of the times for your sake. 21 Through him you have confidence in God, who raised him from the dead and gave him glory, so that your faith and hope are in God.
3/ Gospel: RSV Luke 24:13 That very day two of them were going to a village named Emmaus, about seven miles from Jerusalem, 14 and talking with each other about all these things that had happened. 15 While they were talking and discussing together, Jesus himself drew near and went with them. 16 But their eyes were kept from recognizing him. 17 And he said to them, “What is this conversation which you are holding with each other as you walk?” And they stood still, looking sad. 18 Then one of them, named Cleopas, answered him, “Are you the only visitor to Jerusalem who does not know the things that have happened there in these days?” 19 And he said to them, “What things?” And they said to him, “Concerning Jesus of Nazareth, who was a prophet mighty in deed and word before God and all the people, 20 and how our chief priests and rulers delivered him up to be condemned to death, and crucified him. 21 But we had hoped that he was the one to redeem Israel. Yes, and besides all this, it is now the third day since this happened. 22 Moreover, some women of our company amazed us. They were at the tomb early in the morning 23 and did not find his body; and they came back saying that they had even seen a vision of angels, who said that he was alive. 24 Some of those who were with us went to the tomb, and found it just as the women had said; but him they did not see.” 25 And he said to them, “O foolish men, and slow of heart to believe all that the prophets have spoken! 26 Was it not necessary that the Christ should suffer these things and enter into his glory?” 27 And beginning with Moses and all the prophets, he interpreted to them in all the scriptures the things concerning himself. 28 So they drew near to the village to which they were going. He appeared to be going further, 29 but they constrained him, saying, “Stay with us, for it is toward evening and the day is now far spent.” So he went in to stay with them. 30 When he was at table with them, he took the bread and blessed, and broke it, and gave it to them. 31 And their eyes were opened and they recognized him; and he vanished out of their sight. 32 They said to each other, “Did not our hearts burn within us while he talked to us on the road, while he opened to us the scriptures?” 33 And they rose that same hour and returned to Jerusalem; and they found the eleven gathered together and those who were with them, 34 who said, “The Lord has risen indeed, and has appeared to Simon!” 35 Then they told what had happened on the road, and how he was known to them in the breaking of the bread.
________________________________________
I. THEME: God’s plan of salvation is designed before the creation of the world and human beings.
There is a great difference between God and human beings. God isn’t depended on time as human beings; His thought and plan cover everything from the beginning until the end while human knowledge is so limited that people can’t receive His revelations at one time. God has His plan of salvation from the beginning when the universe and human beings aren’t created, and of course, when Adam and Eve didn’t commit their sins in the Eden Garden yet.
The center of God’s plan is Christ who shall bring salvation to humankind through his Passion, Death and Resurrection. This plan has two main parts: In the first part, God chose the Israelites to prepare for Christ’s incarnation. In the second part, when Christ comes, he shall extend God’s salvation for all people and nations. Therefore, Christ is the center of the Old and the New Testament. All things that Christ shall achieve were foretold implicitly in the Old Testament; when Christ comes, he completes all things foretold in the Old Testament. St. Augustine explained correctly: The Old Testament prepares for the New Testament, and the New Testament completes all the things that the Old Testament prepared for. St. Paul also says similarly: If a person reads only the Old Testament, he shall only understand obscurely God’s plan of salvation as being seen through a curtain; but if he reads it with the light of the New Testament, he shall understand all the details of God’s plan of (2 Cor 3:13-17).
Today readings show us the benefits of explaining Christ’s event through the light of the Old Testament. In the first reading, St. Peter demonstrated for people to know that Jesus of Nazareth is sent by God to execute His plan of salvation and brings the eternal life for people, as foretold in the Scripture. In the second reading, the author of the First Letter of Peter repeated the same thought in the first reading: Christ is the one who God knows before the world is created. He appeared in the last time to fulfill God’s plan of salvation. In the Gospel, Christ appeared to two of his disciples and accompanied them on the way to Emmaus to explain Scripture for them. According to the Scripture, he must die and resurrect to fulfill God’s plan of salvation. They recognized him when he broke the bread and gave it to them.
II. ANALYSIS:
1/ Reading I: Christ is seized and killed according to God’s plan of salvation.
Peter’s homily after the Pentecost contains two main parts:
1.1/ Peter witnessed for Christ’s works: He, together with the Eleven, lifted up his voice and addressed them, “Men of Judea and all who dwell in Jerusalem, let this be known to you, and give ear to my words. Men of Israel, hear these words: Jesus of Nazareth, a man attested to you by God with mighty works and wonders and signs which God did through him in your midst, as you yourselves know.” Peter needed not to illustrate many things because all things what Jesus did and what happened to the audience are still alive in his audience.
1.2/ Peter connected Christ’s events with what were mentioned in the Scripture: Since his audiences believe in the Scripture, Peter witnessed for Christ by connecting what had just happened with what were foretold in Scripture. His purpose is to light up his audience’s faith in God the Father and Christ. The Scripture foretold Christ’s death and resurrection many times. He must die and resurrect according to God’s plan of salvation to take away people’s sins and to bring salvation for them. Peter explained, “This Jesus, delivered up according to the definite plan and foreknowledge of God, you crucified and killed by the hands of lawless men. But God raised him up, having loosed the pangs of death, because it was not possible for him to be held by it.”
Peter used the verses of Psalm 16:8-11 to illustrate Christ’s resurrection. Verse 27 in today passage has an important meaning about the eternal life as it said, “For thou wilt not abandon my soul to Hades, nor let thy Holy One see corruption.” Who is “thy Holy One” that Psalm 16 mentioned? It is certainly not King David because his tomb is still in Hebron to this day. The Jewish tradition at that time believed whoever entered in Sheol or Hades shall not be back in the world. The concepts of the next or eternal life with God are very strange to them. Therefore, the verse, “Thou hast made known to me the ways of life; thou wilt make me full of gladness with thy presence,” must be the prophecy mentioned about the Messiah and applied for Christ’s death and resurrection.
2/ Reading II: “He was destined before the foundation of the world but was made manifest at the end of the times for your sake.”
2.1/ We are saved by Christ’s precious blood: The author of the First Letter of Peter reminded his faithful, “You know that you were ransomed from the futile ways inherited from your fathers, not with perishable things such as silver or gold, but with the precious blood of Christ, like that of a lamb without blemish or spot.”
When people live a life according to the flesh and against God’s commandments, they can’t bear fruits and are deserved to be perished; but God has a plan by letting Christ become the unblemished lamb to pour out his blood and to ransom them from sins and death. This plan already exists from the beginning, “before the foundation of the world, but was made manifest at the end of the times for your sake.” Whoever believes in Christ’s Passion, Death and Resurrection, shall receive salvation which is the eternal life.
2.2/ We should live a life worthy of God’s love: People can’t work for their salvation by their own effort or by keeping perfectly the law because all commit sins. They can only be saved by believing in Christ and keeping his commandments. To respond to Christ who loves and sacrifices for people, the author advised his faithful, “And if you invoke as Father him who judges each one impartially according to his deeds, conduct yourselves with fear throughout the time of your exile.”
3/ Gospel: Jesus accompanied two of his disciples on the way to Emmaus.
There were two amongst Jesus’ disciples who left Jerusalem to come to Emmaus, about 11 km from Jerusalem. They conversed with each other about the events which had just happened. The fact that they left Jerusalem showed they lost their faith and hope in Christ.
3.1/ They heard and saw the Lord, but didn’t recognize him: While they had conservation, Jesus approached and accompanied them; but they didn’t recognize him. According to St. Luke, “their eyes were prevented them from recognizing him.” Jesus accompanied them to recognize their anxiety, and he helped them to understand the meaning of the events that related to him.
(1) Two disciples’ worry and desperation: He asked them, “What are you discussing as you walk along?” They stopped, looking downcast. One of them, named Cleopas, said to him in reply, “Are you the only visitor to Jerusalem who does not know of the things that have taken place there in these days?” And he replied to them, “What sort of things?” They said to him, “The things that happened to Jesus the Nazarene, who was a prophet mighty in deed and word before God and all the people, how our chief priests and rulers both handed him over to a sentence of death and crucified him. But we were hoping that he would be the one to redeem Israel; and besides all this, it is now the third day since this took place. Some women from our group, however, have astounded us: they were at the tomb early in the morning and did not find his body; they came back and reported that they had indeed seen a vision of angels who announced that he was alive. Then some of those with us went to the tomb and found things just as the women had described, but him they did not see.”
In our life, there are times we acted like these two disciples. We let the events pass by and didn’t recognize their relation to our life. In order to see their meaning and role, we need to often reflect and to ponder about these events.
(2) Jesus’ explanation of Scripture: Then, “Jesus said to them, “Oh, how foolish you are! How slow of heart to believe all that the prophets spoke! Was it not necessary that the Messiah should suffer these things and enter into his glory?” Then beginning with Moses and all the prophets, he interpreted to them what referred to him in all the scriptures. As they approached the village to which they were going, he gave the impression that he was going on farther. But they urged him, “Stay with us, for it is nearly evening and the day is almost over.” So he went in to stay with them.”
3.2/ Two disciples recognized Jesus.
(1) Through their participation in Mass: “And it happened that, while he was with them at table, he took bread, said the blessing, broke it, and gave it to them. With that their eyes were opened and they recognized him, but he vanished from their sight. Then they said to each other, “Were not our hearts burning (within us) while he spoke to us on the way and opened the scriptures to us?”
What happened on the way to Emmaus was the image of the Mass: Jesus’ explanation of Scripture is equivalent to the Liturgy of the Words, and his breaking of the bread is corresponding to the Liturgy of the Eucharist. Both parts are necessary for us to recognize Christ’s presence in our life, and to empower us to face all hardships of our life.
(2) Through fraternal union and study: “So they set out at once and returned to Jerusalem where they found gathered together the eleven and those with them who were saying, “The Lord has truly been raised and has appeared to Simon!” Then the two recounted what had taken place on the way and how he was made known to them in the breaking of the bread.”
When living alone, we are easyily discouraged and despair; but when we unite with others to share our faith, we shall find wisdom, strength and courage to fight against all obstacles of our life.
III. APPLICATION IN LIFE:
– We must study the Old Testament to understand the New Testament, and the reverse is also true. Both of them are only the two parts of God’s plan of salvation.
– When we attend the Mass completely, both listening attentively to the Liturgy of the Word and receiving the Holy Eucharist, we are increased in charity, firmly in hope, and eagerly witness for Christ.
LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP