“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước,
là ánh sáng chỉ đường con đi”. (Tv 119, 105)
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan (Ga 20, 19-31)
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Đoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
Đó là lời Chúa.
Mục lục:
SUY NIỆM TIN MỪNG
Gặp Gỡ Đức Kitô Phục Sinh ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt Trg 3
Nỗi Oan Tôma ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống Trg 5
Hãy Đụng Chạm Tới Lòng Chúa Thương Xót Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. SDB Trg 7
Covid 19 Cho Ta Hiểu Giá Trị Cuộc Đời Lm. Jos Tạ Duy Tuyền Trg 9
Đỉnh Cao Của Lòng Thương Xót Lm. Inhaxiô Trần Ngà Trg 11
THƠ TIN MỪNG
Biển Tình Hạt Nắng Trg 13
Cảm Nghiệm Tình Yêu Bâng Khuâng Chiều Tím Trg 14
Hoan Ca Lòng Thương Xót Của Chúa M. Madalena Hoa Ngâu Trg 15
Tán Tụng Lòng Thương Xót Của Chúa A.P Mặc Trầm Cung Trg 16
Gặp Gỡ Đức Kitô Phục Sinh
Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô phục sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:
1. Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành với họ trên mọi nẻo đường.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn trong không gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Người xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo. Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn được bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc sống.
Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào Người không ở bên ta.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.. Bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma.
2. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục sinh khơi dây niềm bình an, tin tưởng.
Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: “Bình an cho các con”. Người còn thổi hơi vào các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần Linh Chúa bay là là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định.
Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.
3. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất, Đức Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.
Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ. Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường. Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi. Đức Kitô là linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.
Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.
4. Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô phục sinh sai họ đi loan báo Tin Mừng Phục sinh.
Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bất chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh. Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.
Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.
Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm.
Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú mẹ. Người ở bên em học sinh đang miệt mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên những cuộc đời bế tắc không lối thoát.
Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người. Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.
Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Nỗi Oan Tôma
Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi về một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình, chẳng những không tích cực mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng. Gặp một tâm hồn cứng cỏi trước những biểu cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví von “cứng lòng như Tôma”; thấy ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo, người ta đã vội đưa vào gia phả “con cháu thánh Tôma”. Kể cũng oan.
Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn đến niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc thứ chín, như người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang Tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”, được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô hữu.
1. Lạy Chúa tôi, Lạy Thiên Chúa của tôi
Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường trong đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Chính vì chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự vấn để rồi sau đó mới đi tới đức tin. Ngay việc các môn đồ hội họp vào ngày thứ nhất trong tuần cùng với lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành truyện Tôma, cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi một người.
Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm thấy trong phản tỉnh của cá nhân ông. “Nếu tôi không thấy… tôi không tin”. Câu nói tự phát ấy đã trở thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng cổ, đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra, ông là người thực tiễn. Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin thuở ban đầu và thế nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc riêng không thể lẫn với người khác. Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì tám ngày sau, qua tiếp xúc cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã tuyên xưng không phải bằng công thức chung nữa, mà bằng một cách rất riêng làm thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố quyết định chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành. Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức Giêsu thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông được dẫn vào một nhận thức mới mẻ hoàn toàn. Thay vì phải thấy mới tin, ông nhận ra rằng phải tin mới thấy trọn vẹn: thấy Đấng Phục Sinh và con người Giêsu cũng là một, thấy Đấng Phục Sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm tin vượt lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.
2. Đừng cứng lòng, nhưng hãy tin
Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.
Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu nữa. Có biết đâu tin như thế là không còn tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả tin. Vì tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả? Chỉ dựa vào lý trí, người ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại và tiêu chuẩn của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu, không đo lường sờ chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem ra lại gần với sự bất tín! Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực. Bên ngoài có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt. Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?
Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống. Đừng cứng lòng! Phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ: “Nhưng hãy tin!”
3. Phúc cho những kẻ không thấy mà tin
Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình. Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa. Tin như thế là một hạnh phúc.
Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ đã qui tụ cho Chúa những kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử hành niềm tin của mình một cách sống động, không những qua nghi thức phụng vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.
Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước. Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con người, sao cho chan hòa với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá nhân. Và một khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở thành trách nhiệm loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.
Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm nhạt nhòa. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình không thấy. Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng thấy được để vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác. Quả là vất vả. Nhưng chính lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy đã từng trải nghiệm. Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại sức mạnh. Nghe trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn: tin điều mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.
Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một mình ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết đường mà tránh. Một mình ông chịu quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy mới gặp được lối đi hạnh phúc của niềm tin. Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc? Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma. Để xin thêm đức tin cho những tấm lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang yếu đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.
ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
Hãy Đụng Chạm Tới Lòng Chúa Thương Xót
Môn đệ Tôma đòi được tận tay chạm vào được các thương tích của thập giá: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Tại sao lại thế nhỉ? Gặp được Người sống, và đi lại, nói năng, ăn uống như người thường chẳng lẽ không đủ sao? Tại sao lại cần “cho các ông xem tay và cạnh sườn”? Điều đó có ý nghĩa đặc biệt nào đối với nhóm môn đệ nhút nhát?
Dưới cặp mắt của các môn đệ, việc Thầy Chí Thánh bị đóng đinh vào thập giá và con tim Người bị đâm thủng chắc chắn không chỉ mang ý nghĩa thể lý, cái chết đau đớn của một thể xác treo trên thập giá. Đối với các ông, và đó là nội dung giáo huấn trường kỳ của Đức Giêsu, dấu đinh trên tay chân và vết thương trên sườn Người nói lên sự tự hiến yêu thương của Chiên Vượt Qua, tình yêu bao la của Thiên Chúa cứu độ. Khi cho các ông xem tay và cạnh sườn, Đấng Phục Sinh hẳn muốn nói cho các môn đệ Người một điều gì vượt xa hơn khẳng định rằng Người sống lại về thể lý: tình yêu thương xót cứu độ của Thiên Chúa đã trở thành bất diệt và toàn thắng. Các môn đệ cần cảm nhận cách cụ thể để tin vào điều này cách bền vững. Các ông là các nhân chứng được chứng kiến tình yêu đó đã đạt tới đỉnh điểm, thì cũng cần phải xem và chạm vào các dấu đinh ở tay chân, và vết đòng trên ngực Người để có bằng chứng không thể chối cãi rằng lòng xót thương tha thứ đó là vô địch, là toàn thắng.
Môn đệ Tôma trong thâm sâu muốn điễn đạt nhu cầu đó khi phát ngôn câu nói mà nhiều khi bị coi là một lời thách thức: “Nếu tôi không….”. Đức Giêsu phần mình đã coi yêu cầu đó là chính đáng, và Người không ngần ngại ứng: “Đặt ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”. Đúng là Tôma và mọi môn đệ đều cần cảm nghiệm cụ thể này, sau tất cả các biến cố xáo trộn các ông vừa trải qua. Còn đối với các tín hữu các thế hệ sau này, Đức Giêsu đã không hề tuyên bố trải nghiệm đó là không cần thiết, ngược lại là đàng khác. Tuy nhiên Người khẳng định: trải nghiệm này phải được thể hiện bằng lòng tin, thay vì phải dùng tới các giác quan thể lý. “Vì đã thấy Thầy nên anh đã tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”.
Bí tích Thánh Thể mà Ngài đã thiết lập chính là để các tín hữu qua các thế hệ chạm tới được các dấu đinh tay chân và vết thương cạnh sườn của Chúa Phục Sinh. Cử hành Thánh Thể, vì thế, trở nên tâm điểm của đời sống Kitô hữu, chính vì nơi đó, trong niềm tin, từng người một, các Kitô hữu cảm nghiệm cách riêng tư và sống động lòng thương xót vĩnh cửu của Thiên Chúa đang được lập lại cho mình. Trong cử hành Thánh Thể, linh mục và tín hữu cũng được mời gọi “Đặt ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”. Đúng là họ cần được đụng chạm tới biểu hiện của lòng thương xót cứu độ, trong tất cả sức mạnh và sự hữu hiệu của nó. Bất luận ai là Kitô hữu đều phải coi đây là công việc quan trọng hàng đầu họ cần làm. Họ sẽ có cùng thái độ của Phêrô và Gioan, khi đứng trước người bất toại trong đền thờ: “Anh hãy nhìn chúng tôi đây… Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có tôi cho anh đây…” Mọi Kitô hữu (gồm cả tu sĩ, linh mục, giáo dân, cách riêng các tân tòng) đều cần ý thức: họ không nhất thiết phải là người giầu có (về vật chất tiền của, cũng như về tinh thần: kiến thức, đời sống luân lý hay nhân đức), nhưng gia sản quí giá nhất họ sở hữu, đặc ân riêng mà duy chỉ một mình họ có, đồng thời cũng là điều duy nhất họ có thể cống hiến cho nhân loại đang quằn quại trong nỗi thống khổ cùng cực, đó là được biết, được chạm tới và được cử hành sinh động lòng thương xót từ ái vô biên và bất diệt của Thiên Chúa, đã được thực hiện qua thập giá và phục sinh của đức Kitô Giêsu.
Tôi có xác tín điều này không?
Lạy Chúa Phục Sinh, xin cho phép con được, dùng đức tin, xỏ ngón tay vào các lỗ đinh, đặt bàn tay con vào cạnh sườn Người, để con có được cảm nghiệm sâu sắc rằng tình yêu cứu độ Chúa dành cho con là bất diệt. Xin cho việc cử hành Thánh Lễ hàng ngày mang lại cho chính con trước hết sự bình an của một người nhận biết mình đượcThiên Chúa yêu thương, và tình yêu đó sẽ bất diệt và bền vững cho đến muôn đời, bất chấp những yếu hèn, sa ngã của kiếp người ô trọc. Xin cho con được cử hành mầu nhiệm phục sinh ngay từ bây giờ, trong chính đời sống con. Amen
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. SDB
Covid 19 Cho Ta Hiểu Giá Trị Cuộc Đời
Có bao giờ bạn tự hỏi giá trị thực sự của cuộc đời là gì? Đâu là điều mà chúng ta cần tìm kiếm? Có lẽ với nhiều người cho rằng: tiền bạc, địa vị, danh phận và quyền lực mới là thước đo giá trị ở đời. Giá trị con người được nâng cao bởi gia thế giầu có hay quyền lực? Điều đó đã dẫn tới một cuộc tranh giành quyền lực gây nên bao tang thương, bể dâu cho cuộc đời. Người không đạt được thì buồn tủi thân phận, mặc cảm tự ti với đời. Người đạt được tưởng sẽ ngày dài tháng rộng nghênh ngang hưởng thụ. Nhưng thực ra họ cũng lắm nỗi truân chuyên khác như bị soi mói, bị nói xấu, bị xúc phạm, bị ganh ghét, bị thị phi…
Cám ơn Chúa qua đại dịch Corona này ta mới hiểu giá trị đích thực của đời người chính là sự bình yên. Bấy lâu nay chúng ta vẫn tưởng cái quý giá nhất trên cuộc đời này là tiền tài, sự nghiệp, bổng lộc, nhưng giờ đây những điều đó đã không mang lại bình yên cho cuộc sống chúng ta! Giờ đây, chúng ta mới hiểu rõ giá trị đời người chính là bình yên. Chính một tâm hồn bình yên mới mang lại đời sống hạnh phúc cho cuộc đời chúng ta. Chính trong đại dịch Corona này chúng ta mới hiểu được giá trị cốt lõi của đời sống là sự bình yên, thanh thản trong tâm hồn nó quý báu vô cùng, hạnh phúc vô cùng, vì dù chúng ta có sở hữu bao nhiêu vật chất đi chăng nữa, nhưng tâm hồn lại luôn bất an, căng thẳng thì vẫn là bất hạnh cho cuộc đời.
Tin Mừng Chúa Giêsu Phục sinh luôn mang lại cho con người cảm giác bình an. Chúa Giêsu Phục Sinh đã xoá tan nỗi sợ hãi cho con người. Tôi đã từng ngạc nhiên sao Chúa Giêsu lại hỏi Maria Mađalêna: Này chị, sao chị khóc?”. Sao Chúa lại không biết, vì Maria vẫn còn đau xót cảnh Thầy chết, và giờ lại mất xác Thầy! Nhưng thực ra, đây là câu hỏi mà chính Ngài cũng đang hỏi chúng ta hôm nay. Ngài muốn biết lý do chúng ta lo âu, khóc lóc và phiền muộn khi niềm hy vọng tiềm ẩn đã được báo trước rằng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại. Nếu tin Ngài sẽ sống lại thì không có lý do để buồn, vì cái chết chỉ là một tiến trình phải có của kiếp người, điều quan trọng sự sống ấy vẫn tiếp diễn chứ không mất đi, và sự sống ấy viên mãn hơn sự sống dương gian hôm nay.
Mừng Lễ Phục Sinh là dịp để chúng ta cũng nghe Chúa đang ân cần hỏi chúng ta sao con lại khóc? Hãy tin vào Thầy và phó thác cho thầy. Chúa đang mời gọi chúng ta xoá tan sự nghi ngờ để an tâm sống vì Chúa đã sống lại. Và Ngài đã từng nói: “Sao anh em phiền muộn? Sao anh em nghi ngờ? Hãy sờ vào Thầy và xem đây, ma không có xương thịt như anh em thấy Thầy”.
Đôi khi trong cuộc đời chúng ta cũng gặp quá nhiều biến cố đau thương đến nỗi chúng ta quan mất sự hiện diện của Chúa. Điển hình trong đại dịch hôm nay- con người chúng ta ai mà không phiền muộn khi sự dữ bủa vây cả địa cầu, nhưng hôm nay Chúa Phục Sinh đang nói chúng ta đừng sợ, hãy tin vào Thầy, hãy phó thác cho Chúa vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống, đầy quyền năng và thật tốt lành.
Chúa Giêsu là hiện thân của Lòng Thương Xót Chúa khi cúi xuống chữa lành, băng bó và phục vụ con người chúng ta. Qua nhiều phép lạ, nhất là việc cho Ladarô sống lại, cho thấy lòng thương xót của Thiên Chúa quá cao vời. Ngài cũng làm nhiều phép lạ chữa lành để chứng tỏ quyền năng của Thiên Chúa có thể giúp con người đẩy lùi sự dữ. Nhưng điều Chúa muốn chính là dầu trong hoàn cảnh nào cũng hãy tín thác vào Chúa, và hãy nhớ thế gian này sẽ qua đi, Chúa có cứu chữa chúng ta hôm nay, thì ngày mai cũng tới ngày phải chết! Thế nên, đừng cầu phép lạ mà hãy phó thác mọi sự cho Chúa dầu chung quanh đang khổ đau, chúng ta vẫn thưa với Chúa: Lạy Chúa, con tin Chúa có thể đẩy lùi sự dữ, nhưng con chỉ xin phó thác mọi sự trong tay Chúa, vì con tin Chúa sẽ làm điều tốt lành nhất cho con.
Ước gì chúng ta luôn nhận ra tình thương vô bờ bến của Chúa để như Tôma biết khiêm tốn quỳ lạy tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Xin cho chúng ta luôn tín thác vào lòng thương xót của Chúa để ân sủng của Chúa chữa lành những vết thương tâm hồn và thân xác cho chúng ta. Amen
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Đỉnh Cao Của Lòng Thương Xót
Các tín hữu xác tín rằng Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, nhưng thử hỏi: Lòng thương xót của Thiên Chúa đạt đến đỉnh cao vào thời điểm nào?
Có phải khi Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn?
Có phải khi Chúa Giêsu bôn ba rao giảng Tin mừng?
Hay khi Chúa Giêsu xua trừ ma quỷ và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền cho dân?
Hoặc là khi Chúa Giêsu làm cho kẻ chết sống lại?
Câu trả lời đúng nhất là: Lòng thương xót của Thiên Chúa đạt tới đỉnh cao, đỉnh cao tuyệt đối, khi Chúa Giêsu hiến dâng thân mình chết thay cho muôn người tội lỗi. Chúa Giêsu xác nhận rằng: “Không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của người chết thay cho bạn hữu mình” (Ga 15, 13).
Cha Maximilian Kolbe chết thay cho bạn tù
Cha Maximilian Kolbe sinh năm 1894 tại Ba Lan. Trong thế chiến thứ hai, Cha bị Đức quốc xã đưa vào trại tập trung Auschwitz.
Vào ngày 29 tháng 7 năm 1941, khoảng 1 giờ chiều, tiếng còi hú báo động rúc lên vang khắp trại, báo động có một tù nhân bỏ trốn. Thế là những người lính Đức tập trung toàn bộ tù nhân lại để điểm danh, cuối cùng họ phát hiện có một tù nhân bỏ trốn.
Theo luật trại tù, nếu có một tù nhân trốn trại thì 10 tù nhân khác sẽ bị chết thay.
Việc chỉ định bắt đầu. Viên sĩ quan cai tù đằng đằng sát khí, duyệt qua hàng tù nhân run lẩy bẩy trước mặt y và chọn ra 10 tù nhân xấu số, trong đó có Franciszek Gajowniczek, một hạ sĩ quan của quân đội Ba Lan. Anh này kinh hoàng tột độ vì thần chết đã điểm mặt anh, anh hoảng hốt kêu lên: “Giêsu Maria! Vợ tôi! Con cái tôi!”
Bấy giờ Cha Maximilian bước ra khỏi hàng, tiến lên trước mặt viên cai tù, bày tỏ ý nguyện chết thay cho Franciszek. Viên cai tù đồng ý, ra hiệu cho Franciszek trở về hàng và Cha Maximilian đứng thay vào vị trí anh ta để chịu chết.
Thế là Cha Maximilian cùng với 9 tù nhân xấu số khác lặng lẽ bước vào “hầm tử thần” để bị giam đói cho đến chết.
Tình yêu của Cha Maximilien đạt tới đỉnh cao khi Cha chấp nhận chết thay cho người bạn tù. Hy sinh chịu chết cho người khác được sống là một nghĩa cử anh hùng, rất đáng khâm phục và hiếm có trên thế gian này.
Con cái chết thay cho cha mẹ để báo đáp công ơn sinh thành dưỡng dục là điều phải đạo. Tuy nhiên, hiếm người thực hiện được điều này vì nó đòi hỏi phải có tình thương rất lớn lao.
Một tù nhân hy sinh chết thay cho một tù nhân khác như Cha Maximilien đã làm, còn khó hơn người con chết thay cho cha mẹ rất nhiều. Việc này đòi phải có tình thương chục lần lớn lao hơn.
Không chủ nhân nào có thể chết thay cho tôi tớ thấp hèn, vì việc này đòi phải có tình thương trăm lần lớn hơn.
Không ông vua nào có thể chết thay cho người dân đen cùng khốn, vì việc này đòi phải có tình thương vạn lần lớn lao hơn.
Trong khi đó, Chúa Giê-su là Chúa tể trời đất; còn ta là người phàm kém cõi; Chúa là Đấng cao sang vô lượng, tốt lành vô song; còn ta là loài thấp hèn yếu đuối, xấu xa tội lỗi.
Chúa là Đấng sáng tạo vô vàn kỳ quan trong vũ trụ vô biên, tạo nên muôn vàn tinh tú trên bầu trời; còn chúng ta như những hạt bụi li ti trong vũ trụ, chẳng có gì đáng kể so với Chúa. Độ chênh lệch và sự cách biệt giữa Thiên Chúa và loài người vô cùng lớn lao.
Thế mà Chúa Giêsu đã hạ mình xuống làm người phàm yếu đuối và trao nộp thân mình, hy sinh chịu chết cách đau thương tủi nhục, để đền tội cho con người, để chết thay cho muôn dân, để cho họ được tha tội, được thoát cảnh trầm luân trong hỏa ngục và được sống hạnh phúc trên thiên đàng.
Như vậy, việc Chúa Giêsu hiến thân chịu chết cho loài người là đỉnh cao của lòng thương xót, phải có cả một đại dương thương xót thúc đẩy mới có thể thực hiện được điều này.
Lòng thương xót Chúa được thể hiện trong Thánh lễ hằng ngày
Điều tuyệt vời là lòng thương xót của Chúa Giêsu dành cho nhân loại không phải là chuyện dĩ vãng cách đây 2.000 năm, nhưng lòng thương xót đó vẫn được thể hiện hôm nay, trong các Thánh lễ hằng ngày.
Trong mỗi Thánh lễ, Chúa Giêsu tiếp tục hiến tế thân mình, để cho muôn người được tha tội và được sống đời đời.
Mỗi lần lời Chúa Giêsu ngân vang trong Thánh lễ: “Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con… Này là Máu Thầy sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội”, là lúc Đấng chí tôn, Đấng tuyệt đối, Đấng tạo dựng vũ trụ càn khôn… đang nộp mình chịu chết thay cho chúng ta là loài thụ tạo thấp hèn, kém cỏi, chỉ như hạt bụi trong vũ trụ bao la… Thế mới biết lòng thương xót Chúa bao la, vĩ đại biết dường nào!
Lạy Chúa Giê-su. Xin cho chúng con luôn tìm đến tôn vinh lòng thương xót Chúa đang thể hiện trong Thánh lễ hằng ngày, để chiêm ngắm đại dương lòng thương xót Chúa, để múc lấy muôn vàn ân sủng tuôn ban từ hy tế thập giá của Chúa. Amen.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Biển Tình
CN II PS – Kính Lòng Thương Xót Cuả Chúa
Lòng Thương Xót Chúa quá bao la
Giải phóng đời con thoát ách tà
Tội lỗi, đam mê thần trói buộc
Ăn năn, sám hối Chúa dung tha
Trái tim mở rộng thầm thì gọi
Máu – Nước tuôn trào réo rắt xa
Tán tụng ân tình ơn cứu chuộc
Ngàn năm vang vọng khúc hoan ca.
Hạt Nắng
Cảm Nghiệm Tình Yêu
CN IIPS – Kính Lòng Thương Xót Của Chúa
Tính hoài nghi mong đòi thực nghiệm,
Chúa Phục Sinh hiện diện bên con.
Bao năm theo Chúa mỏi mòn,
u sầu, thất vọng vẫn còn nghi nan.
Lòng chai đá mê man trần thế,
đời phù du dâu bể đắng cay.
Con tim tham vọng lấp đầy,
ngủ trong tội lỗi tháng ngày truân chuyên.
Đời lạc lõng như thuyền mất hướng,
mắt đức tin vương vấn bụi trần.
Nào đâu nghiệm được hồng ân,
Ngài đang sánh bước rất gần bên con.
Đây dấu đinh máu son còn thẫm,
đây cạnh sườn thấm đậm tình yêu.
Hai Dòng Suối chảy phong nhiêu,
giúp con gội sạch mọi điều bợn nhơ.
Con sấp mình tôn thờ Thiên Chúa,
Lòng Xót Thương cứu chữa tội nhân.
Làm sao đền đáp cho cân
nguyện xin dâng Chúa tấm thân mọn hèn.
Trọn đời cất tiếng ngợi khen,
Bước theo chân Chúa làm men giữa đời.
Tin Mừng loan báo mọi nơi …
Bâng Khuâng Chiều Tím
Hoan Ca Lòng Thương Xót Của Chúa
CN IIPS – Kính Lòng Thương Xót Của Chúa.
Lang thang trên đường đời,
cô đơn giữa lòng người,
Dong duổi đường gió bụi,
đường mịt mù tăm tối.
Đêm đêm con mệt nhoài,
tâm tư nỗi u hoài,
lặng nhìn trời giông bão,
ước vọng đường tương lai.
Tình yêu của Chúa,
là ánh Sao Mai sáng soi đời con,
phá tan đêm đông buồn, sưởi ấm con tim tội tình.
Lòng Thương Xót của Chúa,
là Suối Mát trong, nước ngọt trường sinh,
gội sạch hồn con, đổi mới đời con, sống trong an bình.
Hân hoan trên đường đời,
ca vang ân tình Người,
dong duổi đường nhân chứng,
một lòng con vươn tới.
Alle – Alle – luia,
Alle – Alle – luia,
nhờ Lòng Thương Xót của Chúa,
con sống đời phục sinh.
M. Madalena Hoa Ngâu
Tán Tụng Lòng Thương Xót Của Chúa
CN IIPS – Kính Lòng Thương Xót Của Chúa.
Lạy Chúa!
Nhân loại này đang trong cơn khốn đốn,
lòng hận thù, ghen ghét cứ tăng cao.
Gây khổ đau, tang tóc nhuộm máu đào,
con người hoảng sợ trước uy quyền sự dữ.
Gây chiến tranh, khát vọng giành ngôi thứ,
người dân lành gánh chịu những bất công.
Kẻ ác tâm tội lỗi cứ chất chồng,
gây nhức nhối, nỗi đớn đau càng sâu thẳm.
Ngước nhìn Chúa, linh hồn con chiêm ngắm,
lòng nhân từ, Chúa thương xót thứ tha.
Trái tim Chúa nguồn suối đổ chan hòa,
nhờ cuộc khổ nạn:
“Xin xót thương chúng con và toàn thế giới”.
Chúa đã chết hiến dâng hy lễ mới,
để đền thay tội lỗi của muôn dân.
Ánh sáng chiếu soi, chân lý Thánh Thần,
đưa nhân loại đến với Lòng Thương Xót.
Từ thập giá một tình yêu dịu ngọt,
ánh sáng nhiệm mầu soi lối chúng con đi.
Khiêm hạ, dấn thân loại bỏ kiêu kỳ,
“Xin tín thác vào tình yêu của Chúa”.
Bí tích Hòa Giải rửa hồn con hoen úa,
Thánh Thể Ngài nguồn sức sống tâm linh.
Phúc cho ai biết ẩn náu đời mình,
nơi hai nguồn mạch,
phát xuất từ Trái Tim Ngài đang hấp hối.
Bình an Chúa xua tan đời tăm tối,
Lòng Thương Xót của Ngài
ngời sáng mãi thiên thu.
AP. Mặc Trầm Cung