Lời Chúa Mỗi Ngày : Chủ Nhật V Mùa Chay, Năm A

Chủ Nhật V Mùa Chay, Năm A
Bài đọc: Eze 37:12-14; Rom 8:8-11; Jn 11:1-45 (11:3-7, 17, 20-27, 33b-45).
1/ Bài đọc I: 12 Chính vì thế, ngươi hãy tuyên sấm, hãy nói với chúng: Đức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en.
13 Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta.
14 Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm. Đó là sấm ngôn của Đức Chúa.
2/ Bài đọc II: 8 Những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa.
9 Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Ki-tô, thì không thuộc về Đức Ki-tô. 10 Nhưng nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính.
11 Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.
3/ Phúc Âm: 1 Có một người bị đau nặng, tên là La-da-rô, quê ở Bê-ta-ni-a, làng của hai chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a.
2 Cô Ma-ri-a là người sau này sẽ xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Anh La-da-rô, người bị đau nặng, là em của cô.
3 Hai cô cho người đến nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng.”
4 Nghe vậy, Đức Giê-su bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.”
5 Đức Giê-su quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em là cô Ma-ri-a và anh La-da-rô.
6 Tuy nhiên, sau khi được tin anh La-da-rô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở. 7 Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: “Nào chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê!”
8 Các môn đệ nói: “Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?”
9 Đức Giê-su trả lời: “Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. 10 Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình!”
11 Nói những lời này xong, Người bảo họ: “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây.”
12 Các môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khoẻ lại.”
13 Đức Giê-su nói về cái chết của anh La-da-rô, còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ thường.
14 Bấy giờ Người mới nói rõ: “La-da-rô đã chết.
15 Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy.”
16 Ông Tô-ma, gọi là Đi-đy-mô, nói với các bạn đồng môn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!”
17 Khi đến nơi, Đức Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi.
18 Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem không đầy ba cây số.
19 Nhiều người Do-thái đến chia buồn với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì em các cô mới qua đời.
20 Vừa được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà.
21 Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.
22 Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.”
23 Đức Giê-su nói: “Em chị sẽ sống lại!”
24 Cô Mác-ta thưa: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.”
25 Đức Giê-su liền phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.
26 Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?”
27 Cô Mác-ta đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.”
28 Nói xong, cô đi gọi em là Ma-ri-a, và nói nhỏ: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!”
29 Nghe vậy, cô Ma-ri-a vội đứng lên và đến với Đức Giê-su.
30 Lúc đó, Người chưa vào làng, nhưng vẫn còn ở chỗ cô Mác-ta đã ra đón Người.
31 Những người Do-thái đang ở trong nhà với cô Ma-ri-a để chia buồn, thấy cô vội vã đứng dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng cô ra mộ khóc em.
32 Khi đến gần Đức Giê-su, cô Ma-ri-a vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.”
33 Thấy cô khóc, và những người Do-thái đi với cô cũng khóc, Đức Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến.
34 Người hỏi: “Các người để xác anh ấy ở đâu?” Họ trả lời: “Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem.”
35 Đức Giê-su liền khóc.
36 Người Do-thái mới nói: “Kìa xem! Ông ta thương anh La-da-rô biết mấy!”
37 Có vài người trong nhóm họ nói: “Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư?”
38 Đức Giê-su lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại.
39 Đức Giê-su nói: “Đem phiến đá này đi.” Cô Mác-ta là chị người chết liền nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.”
40 Đức Giê-su bảo: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?”
41 Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con.
42 Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.”
43 Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!”
44 Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Đức Giê-su bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.”
45 Trong số những người Do-thái đến thăm cô Ma-ri-a và được chứng kiến việc Đức Giê-su làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.
________________________________________
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa có uy quyền trên cả sự chết lẫn sự sống.
Ai cũng mong được sống mãi, nhưng ai cũng phải đối diện với cái chết. Chết có phải là hết không? Trong lịch sử, đã có nhiều người cho chết là hết; nhưng đại đa số đều tin linh hồn bất tử vì linh hồn con người không được cấu tạo bằng chất liệu như thân xác. Nhưng những câu hỏi như: linh hồn đi đâu sau khi chết, linh hồn của kẻ lành và kẻ dữ có cùng chung một số phận, con người sẽ làm gì trong cuộc sống đời sau… chỉ tìm thấy câu trả lời thỏa đáng trong đạo Công Giáo.
Các bài học hôm nay chuyển hướng từ bầu khí Mùa Chay để hướng chúng ta tới bầu khí của sự sống lại và sự sống. Trong bài đọc I, trình thuật hôm nay là đoạn kết của “thị kiến ruộng xương khô.” Thiên Chúa có uy quyền tạo dựng và Ngài cũng có uy quyền tái tạo dựng. Ngài truyền cho ngôn sứ Ezekiel tuyên sấm trên các xương khô để chúng tháp nhập lại với nhau, có gân để giữ, có da để bọc; nhưng chưa có hơi thở để sống. Thiên Chúa cho chúng hơi thở và chúng trở thành những con người sống. Trong bài đọc II, thánh Phaolô trong chương 8 của Thư Rôma, so sánh hai lối sống theo xác thịt và theo thần khí. Lối sống làm nô lệ cho xác thịt chỉ đưa con người tới sự hủy diệt; nhưng lối sống theo thần khí sẽ làm cho con người được sống và sống muôn đời. Trong Phúc Âm, thánh Gioan tường thuật Chúa Giêsu làm một phép lạ chưa từng nghe nói tới. Ngài cho Lazarô sau khi đã chết 4 ngày được sống lại. Ngài cũng mặc khải cho con người chiều kích cánh chung hiện tại: “bất cứ ai sống và tin vào Ngài sẽ không bao giờ phải chết.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi.
1.1/ Quan niệm của người Do-thái về Sheol: Danh từ này có nhiều nghĩa: huyệt mộ, vực sâu, nơi tăm tối, nơi ở của người chết… Quan niệm về Sheol của người Do-thái thay đổi theo thời gian. Thoạt đầu, người Do-thái tin Sheol là chỗ ở chung cho tất cả, vì mọi người đều phải chết (Psa 89:47-48). Những người tin Thiên Chúa và giữ cẩn thận Lề Luật sẽ được Ngài chúc lành cho thịnh vượng, con đông, và sống lâu khi còn ở đời này; nhưng một khi từ giã cuộc đời, mọi người đều phải vào Sheol. Khi con người đã vào đó là không bao giờ có cơ hội được sống lại hay trở về nhà (Job 7:9-10). Tuy Sheol là nơi tăm tối, người Do-thái tin Thiên Chúa nhìn thấy Sheol và tất cả những người trong đó (Job 26:6, Psa 139:8). Dần dần, quan niệm này biến đổi và Sheol trở thành nơi ở của những người gian ác và tội lỗi, những người đã quên Thiên Chúa (Psa 9:17). Có lẽ quan niệm này biến đổi cùng lúc với quan niệm của người Do-thái về cuộc sống trường sinh.
Tác giả của một số Thánh Vịnh và Sách Ngôn Sứ ví cuộc sống khổ cực của dân Do-thái trong nơi lưu đày như đang ở trong Sheol, và việc được trở về đất Israel được ví như người được ra khỏi huyệt mộ: “Vì hồn con ngập tràn đau khổ, mạng sống con âm phủ gần kề, thân kể như đã vào phần mộ, ví tựa người kiệt sức còn chi! Con nằm đây giữa bao người chết, như các tử thi vùi trong mồ mả đã bị Chúa quên đi, và không được tay Ngài săn sóc” (Psa 88:4-6).
1.2/ Chỉ có Thiên Chúa mới có uy quyền đưa con người ra khỏi Sheol: Đưa ra khỏi huyệt mộ, vực sâu, hay Sheol được nhắc đến nhiều lần trong Cựu Ước (Psa 30:3, 49:15, 71:20, 86:13, 88:4-6, Lam 3:54ff, Jon 2:3-7). Thiên Chúa có uy quyền giải thoát người ở trong Sheol khi họ kêu cầu Ngài (Psa 116:3-6).
Trình thuật của Ezekiel, ngôn sứ nơi lưu đày, tiếp tục truyền thống này khi Ezekiel tuyên sấm: “Đức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Israel.” Trình thuật này nằm trong bối cảnh của “thị kiến cánh đồng xương khô.” Trong chương 37, đã có 2 lần Thiên Chúa bảo Ezekiel tuyên sấm: lần thứ nhất trên xương để chúng nhập vào nhau, lần thứ hai trên gió để chúng cung cấp hơi thở và làm cho các thân xác được sống lại.
Nhưng trong trình thuật ngắn hôm nay, Thiên Chúa nói: “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh.” Một người có thể nhận ra ngay tác giả muốn ám chỉ những gì Thiên Chúa đã làm khi tạo dựng con người trong Sách Sáng Thế 2:7. Nhưng đâu là sự khác biệt giữa sự tuyên sấm lần thứ hai của Ezekiel và lần này? Rất khó giải thích, vì trong tiếng Do-thái, họ chỉ có một chữ ruah dùng cho gió, hơi thở, thần khí của một người, và Thánh Thần.
Điều quan trọng là khi nhìn thấy các điều này xảy ra, “bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm. Đó là sấm ngôn của Đức Chúa.” Khi con người nhìn thấy Thiên Chúa mở huyệt và đưa con người ra khỏi huyệt, họ sẽ nhận ra Ngài là Đức Chúa; vì không một ai có thể làm được điều này. Điều này có thể xem là đã được thực hiện khi Thiên Chúa cho các người Do-thái được hồi hương từ các nơi lưu đày; nhưng đa số các thánh Giáo Phụ cho là Cuộc Phán Xét trong Ngày Tận Thế, khi hồn nhập vào thân xác để chịu phán xét.
2/ Bài đọc II: Lối sống theo Thần Khí và lối sống theo xác thịt
Chương 8 của Thư Rôma phải được đọc chung với chương 6-7. Lý do là vì con người đã được Đức Kitô giải phóng để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi, Lề Luật, và sự chết để sống theo Thần Khí. Nhiều người hiểu lầm thánh Phaolô là ngài quảng bá tư tưởng: con người chỉ cần đặt niềm tin vào Đức Kitô là được cứu độ và không cần làm gì cả. Trong chương 8, thánh Phaolô cắt nghĩa con người được Đức Kitô giải phóng khỏi phải làm nô lệ cho tính xác thịt, để được tự do sống theo Thần Khí.
2.1/ Sống theo tính xác thịt: là sống theo các cảm xúc của con người như sự tham lam của con mắt, sự ham muốn của trái tim, và mọi đam mê dục vọng. Người sống theo tính xác thịt chẳng khác loài cầm thú, vì chúng hành động theo bản năng tự nhiên; nhưng con người không được phép sống như thế, vì ngoài thân xác, Thiên Chúa còn ban cho con người có linh hồn, trí tuệ, và ý chí để điều khiển các quan năng của xác thịt. Thánh Phaolô diễn tả điều này như sau: “Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em.” Thần Khí của Thiên Chúa cũng là Thần Khí của Đức Kitô ngự trong các tín hữu để hướng dẫn và ban sức mạnh để các tín hữu có thể sống theo sự thật, những gì Đức Kitô dạy bảo: “Những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa.”
2.2/ Sống theo thần khí của Đức Kitô: Thánh Phaolô liệt kê ba lợi điểm của những người sống theo Thần Khí:
(1) Thần Khí làm cho con người được sống: Sống theo thần khí mới là sống thật, sống theo tính xác thịt là làm nô lệ cho tội lỗi và hậu quả là cái chết.
(2) Thần Khí làm cho con người được trở nên công chính: bằng tin và thực hành những gì Đức Kitô truyền dạy. Lề Luật không có sức mạnh làm cho con người nên công chính.
(3) Thần Khí sẽ làm cho con người sống lại từ cõi chết: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.”
3/ Phúc Âm: “Anh Lazarô, hãy ra khỏi mồ!”
Trình thuật hôm nay, chương 11, được đặt trong bối cảnh Chúa Giêsu sắp hoàn tất cuộc đời rao giảng trên dương thế của Ngài. Theo cấu trúc của Tin Mừng Gioan, bắt đầu Cuộc Thương Khó là chương 13. Trong chương 11, Ngài cho Lazarô sống lại. Đây là một yếu tố quyết liệt cho cuộc đời rao giảng của Ngài trước khi bắt đầu Cuộc Thương Khó. Ngài muốn cho mọi người thấy rõ nếu Ngài có uy quyền làm cho kẻ chết sống lại, Ngài cũng có thể tự mình sống lại như Ngài đã báo trước cho các môn đệ. Sự chết không có một sức mạnh chi trên Ngài cả. Điều này cũng có tác động mạnh trên khán giả vì họ cũng là những người ham sống và mong muốn được sống đời đời.
Chương 12 là phản ứng của con người trước phép lạ Ngài làm cho Lazarô sống lại, và đó là lý do quyết liệt để những người trong Thượng Hội Đồng của người Do-thái quyết định án tử cho Ngài (Jn 11:53) và cho cả Lazarô (Jn 12:10-11), vì tại anh mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin theo Chúa Giêsu. Các người Pharisees đã ghen tị khi thấy ảnh hưởng của Chúa Giêsu trên dân chúng nên họ bảo nhau: “Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!” (Jn 12:19). Chúng ta có thể phân tích trình thuật thành 4 hồi như sau.
3.1/ Chúa Giêsu với các môn đệ: Tại sao khi nghe tin Lazarô đau nặng, Chúa Giêsu không đi Bethany ngay, nhưng còn chờ hai ngày nữa mới đi? Có ý kiến cho rằng Chúa Giêsu muốn Lazarô thực sự chết và bắt đầu có mùi, để người chứng kiến không nghi ngờ về quyền năng làm cho sống lại của Ngài. Có ý kiến cho rằng Chúa Giêsu không muốn làm vì ảnh hưởng của người khác, như khi Đức Mẹ yêu cầu tại tiệc cưới Cana (Jn 2:1-11) hay khi các anh em Ngài thúc giục Ngài đi Jerusalem (Jn 7:1-10). Chúa Giêsu muốn Ngài làm khi nào Ngài muốn. Cả hai ý kiến đều có thể xảy ra.
Trong Gioan không có 3 lần tường thuật phản ứng của các môn đệ khi Chúa Giêsu báo trước cho các ông về những gì sắp xảy ra cho Ngài tại Jerusalem như trong Tin Mừng Nhất Lãm. Đây là lần duy nhất các môn đệ ngăn cản Chúa Giêsu trong Gioan khi Chúa Giêsu muốn trở lại miền Judah: “Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?”
Ban ngày của người Do-thái có 12 giờ, được tính từ lúc bình minh (6 AM) tới hoàng hôn (6 PM), ban đêm được chia thành canh, và là giờ nghỉ ngơi, chứ không phải để làm việc. Lý do là họ không có đèn điện như chúng ta ngày nay. Có nhiều sự thật chứa đựng trong câu nói kế tiếp của Chúa Giêsu với các môn đệ: “Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình!” Thứ nhất, cuộc đời con người đã được ấn định bởi Thiên Chúa. Nếu con người muốn làm gì thì hãy làm đi kẻo trễ; khi Chúa muốn gọi con người về, con người không thể xin hoãn để hoàn tất điều muốn làm. Câu này cũng tương tự như câu Chúa nói với các môn đệ tuần trước (Jn 9:4). Thứ hai, con người có đủ giờ để làm việc mà không cần phải vội vã. Đừng bao giờ để nước đến chân mới nhảy. Sau cùng, con người phải biết lợi dụng thời giờ để sinh ích cho mình và cho tha nhân. Đừng lười biếng hay phung phí thời giờ.
Chúa Giêsu có thói quen dùng chữ có hai ý nghĩa trong Gioan; ví dụ: sinh bởi ơn trên hay sinh một lần nữa (Jn 3:3-8); nước uống hay nước hằng sống (Jn 4:10-15); và trong trình thuật hôm nay: koimasthai vừa có nghĩa “ngủ” vừa có nghĩa “chết, ngủ muôn đời.” Các môn đệ hiểu theo nghĩa thứ nhất, nên họ nói với Người: “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khoẻ lại.” Bấy giờ Người mới nói rõ: “Lazarô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy.” Ông Thomas, gọi là Didymus, nói với các bạn đồng môn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!”
3.2/ Chúa Giêsu với Martha: Trong Tin Mừng Nhất Lãm cũng như trong Gioan, Martha biểu lộ tâm tính của một người luôn nhanh nhẩu hoạt động; trong khi Maria là người luôn thâm trầm hướng về đời sống nội tâm. Nghe tin Chúa Giêsu đến, cô nhanh nhẩu chạy ra đón Ngài và nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.” Martha tin Chúa Giêsu có uy quyền chữa bệnh. Còn việc Chúa Giêsu làm cho người chết sống lại, có lẽ cô chưa bao giờ nghĩ tới.
(1) Cánh chung đời sau: Người Do-thái sống thời Chúa Giêsu đã có niềm tin vào sự sống đời sau. Điều này được biểu tỏ trong Sách Daniel và II Maccabees. Vì thế, khi Chúa Giêsu nói: “Em chị sẽ sống lại!” Martha nghĩ Chúa Giêsu nói về cánh chung đời sau, nên thưa: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.”
(2) Cánh chung hiện tại: Chúa Giêsu cắt nghĩa: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” Theo Chúa Giêsu, con người không cần phải đợi tới đời sau mới được hưởng sự sống đời đời. Nếu họ tin vào Ngài, họ đã bắt đầu được sống đời đời ngay từ cuộc đời này, cái chết chỉ là một sự thay đổi tạm thời từ đời này sang đời sau, trong khi mối liên hệ của họ với Thiên Chúa không gì có thể thay đổi được. Khi một người không sợ ngay cả cái chết, lúc đó họ mới thực sự sống, và sống tròn đầy.
3.3/ Chúa Giêsu với Maria: Tục lệ của người Do-thái là khóc thương người chết trong vòng từ 7 ngày cho đến một tháng, tùy sự liên hệ và sự thương tiếc. Có lẽ vì không muốn cho quan khách biết việc Chúa Giêsu đến hay đã được dặn bởi Chúa Giêsu, Martha về nhà và nói nhỏ với Maria: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!” Nghe vậy, cô Maria vội đứng lên và đến với Đức Giêsu. Tuy vậy, những người Do-thái đang ở trong nhà với cô Maria để chia buồn, thấy cô vội vã đứng dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng cô ra mộ khóc em.
(1) Phản ứng của Maria: Giống như chị Martha biểu lộ lòng thương em, khi em Maria vừa thấy Chúa Giêsu, liền phủ phục dưới chân Người và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.” Thấy cô khóc, và những người Do-thái đi với cô cũng khóc.
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Khi chứng kiến nỗi khổ đau của Maria và thân hữu của cô, trình thuật kể “Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến” và “Ngài khóc.” Hai động từ Hy-lạp dùng để diễn tả cảm xúc của Chúa Giêsu là embrimasthai và tarassein. Động từ thứ nhất xảy ra 5 lần trong Tân Ước: 3 lần trong Tin Mừng Nhất Lãm (Mk 1:43, 14:5; Mt 9:30), có nghĩa là “ngăn cấm” một người không cho ai được biết việc gì đã xảy ra cho họ; hai lần trong Gioan (Jn 11:33, 38) được dịch là “bị cảm nhận sâu xa” bởi thần khí, vì điều ngăn cấm đó xảy ra cho chính mình. Động từ thứ hai xảy ra 13 lần trong Tân Ước, hai lần trong Gioan (5:4, 7) có nghĩa “khuấy động;” 4 lần khác (11:33, 12:27, 13:21, 14:1) có nghĩa “bị thử thách.”
Có một số người không tin Thiên Chúa có thể bị khuấy động và thử thách bởi con người (Stoics); nhưng theo tác giả Thư Do-thái, Chúa Giêsu mặc lấy thân xác con người có nghĩa Ngài trở nên giống chúng ta về mọi phương diện chỉ trừ tội lỗi. Ngài đồng cảm với con người, và rất nhiều lần trong Tin Mừng diễn tả Chúa Giêsu “có hay tỏ lòng thương xót” cho con người. Ngài yêu 3 chị em Martha, và Ngài đồng cảm với họ tới nỗi Ngài đã bật khóc khi chứng kiến nỗi đau khổ của họ.
3.4/ Chúa Giêsu với Lazarô: Mộ của người chết bên Do-thái thời Chúa Giêsu không phải là những ngôi mộ riêng biệt, nhưng là những nhà mồ. Tùy vào số người trong gia đình mà nhà mồ được chia thành nhiều ngăn, nó có hình dạng giống như phòng ngủ với giường tầng hai bên và một lối đi chính giữa. Lối vào là một tảng đá có thể khép lại như cửa kéo. Người chết được cuốn khăn chung quanh chân tay, mặt được cuốn riêng, rồi cả thân thể được ướp thuốc thơm và bọc trong một bao vải. Thi thể người chết sẽ được đặt lên giường và để tự nó thối rữa đi, xương cốt còn lại sẽ được thu gọn để lấy chỗ chôn những người khác.
(1) Niềm tin của Martha: Đức Giêsu truyền: “Đem phiến đá này đi.” Cô Martha là chị người chết liền nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.” Đức Giêsu bảo: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Martha có thể nghĩ Chúa Giêsu muốn nhìn mặt em mình lần cuối, nhưng mặt đã bị băng kín và đã có mùi rồi. Martha có thể chỉ tin uy quyền của Chúa Giêsu cách giới hạn trong việc chữa bệnh, chị không tin Chúa Giêsu có uy quyền làm cho em chị đã chết 4 ngày được sống lại. Chúa Giêsu nhấn mạnh niềm tin vào Thiên Chúa làm được mọi sự, ngay cả việc làm cho người đã chết được sống lại.
(2) Niềm tin của Chúa Giêsu: Ngài biết Chúa Cha luôn nhận lời Ngài cầu xin dù bất cứ sự gì. Mục đích của việc cho Lazarô sống lại là để khơi mào đức tin của dân chúng đang đứng chung quanh Ngài, chứ không phải để làm vinh danh cá nhân Ngài. Chúa Giêsu muốn dân chúng tin Ngài là Đấng Messiah, được sai đến bởi Chúa Cha. Cầu nguyện xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh Lazarô, hãy ra khỏi mồ!” Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Đức Giêsu bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.” Chúng ta thử tưởng tượng chính mình được chứng kiến cảnh tượng này và toàn thân sẽ toát lạnh vì sợ hãi. Xưa nay, chưa từng có ai được chứng kiến cảnh người đã chết trong mộ 4 ngày nhờ một lệnh truyền được bước ra khỏi mộ.
(3) Niềm tin của những người Do-thái: Trong số những người Do-thái đến thăm cô Maria và được chứng kiến việc Đức Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người. Nếu Ngài không bởi Thiên Chúa mà đến, Ngài sẽ không thể làm được một phép lạ lớn lao như vậy.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Đức Kitô muốn chúng ta sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, để Ngài dẫn chúng ta đến sự thật trọn hảo. Chúng ta đừng sống theo những đam mê của xác thịt.
– Thiên Chúa có quyền trên sự sống và sự chết. Chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng vào Ngài và đừng sợ cái chết, nó chỉ là sự thay đổi tạm thời trước khi chúng ta được sống muôn đời với Ngài.

Fifth Sunday of LentA
Readings: Eze 37:12-14; Rom 8:8-11; Jn 11:1-45 (11:3-7, 17, 20-27, 33b-45).
1/ Reading I: RSV Ezekiel 37:12 Therefore prophesy, and say to them, “Thus says the Lord GOD: Behold, I will open your graves, and raise you from your graves, O my people; and I will bring you home into the land of Israel. 13 And you shall know that I am the LORD, when I open your graves, and raise you from your graves, O my people. 14 And I will put my Spirit within you, and you shall live, and I will place you in your own land; then you shall know that I, the LORD, have spoken, and I have done it, says the LORD.”
2/ Reading II: RSV Romans 8:8 And those who are in the flesh cannot please God. 9 But you are not in the flesh; you are in the Spirit, if in fact the Spirit of God dwells in you. Anyone who does not have the Spirit of Christ does not belong to him. 10 But if Christ is in you, although your bodies are dead because of sin, your spirits are alive because of righteousness. 11 If the Spirit of him who raised Jesus from the dead dwells in you, he who raised Christ Jesus from the dead will give life to your mortal bodies also through his Spirit which dwells in you.
3/ Gospel: RSV John 11:1 Now a certain man was ill, Lazarus of Bethany, the village of Mary and her sister Martha. 2 It was Mary who anointed the Lord with ointment and wiped his feet with her hair, whose brother Lazarus was ill. 3 So the sisters sent to him, saying, “Lord, he whom you love is ill.” 4 But when Jesus heard it he said, “This illness is not unto death; it is for the glory of God, so that the Son of God may be glorified by means of it.” 5 Now Jesus loved Martha and her sister and Lazarus. 6 So when he heard that he was ill, he stayed two days longer in the place where he was. 7 Then after this he said to the disciples, “Let us go into Judea again.” 8 The disciples said to him, “Rabbi, the Jews were but now seeking to stone you, and are you going there again?” 9 Jesus answered, “Are there not twelve hours in the day? If any one walks in the day, he does not stumble, because he sees the light of this world. 10 But if any one walks in the night, he stumbles, because the light is not in him.” 11 Thus he spoke, and then he said to them, “Our friend Lazarus has fallen asleep, but I go to awake him out of sleep.” 12 The disciples said to him, “Lord, if he has fallen asleep, he will recover.” 13 Now Jesus had spoken of his death, but they thought that he meant taking rest in sleep. 14 Then Jesus told them plainly, “Lazarus is dead; 15 and for your sake I am glad that I was not there, so that you may believe. But let us go to him.” 16 Thomas, called the Twin, said to his fellow disciples, “Let us also go, that we may die with him.” 17 Now when Jesus came, he found that Lazarus had already been in the tomb four days. 18 Bethany was near Jerusalem, about two miles off, 19 and many of the Jews had come to Martha and Mary to console them concerning their brother. 20 When Martha heard that Jesus was coming, she went and met him, while Mary sat in the house. 21 Martha said to Jesus, “Lord, if you had been here, my brother would not have died. 22 And even now I know that whatever you ask from God, God will give you.” 23 Jesus said to her, “Your brother will rise again.” 24 Martha said to him, “I know that he will rise again in the resurrection at the last day.” 25 Jesus said to her, “I am the resurrection and the life; he who believes in me, though he die, yet shall he live, 26 and whoever lives and believes in me shall never die. Do you believe this?” 27 She said to him, “Yes, Lord; I believe that you are the Christ, the Son of God, he who is coming into the world.” 28 When she had said this, she went and called her sister Mary, saying quietly, “The Teacher is here and is calling for you.” 29 And when she heard it, she rose quickly and went to him. 30 Now Jesus had not yet come to the village, but was still in the place where Martha had met him. 31 When the Jews, who were with her in the house, consoling her, saw Mary rise quickly and go out, they followed her, supposing that she was going to the tomb to weep there. 32 Then Mary, when she came where Jesus was and saw him, fell at his feet, saying to him, “Lord, if you had been here, my brother would not have died.” 33 When Jesus saw her weeping, and the Jews who came with her also weeping, he was deeply moved in spirit and troubled; 34 and he said, “Where have you laid him?” They said to him, “Lord, come and see.” 35 Jesus wept. 36 So the Jews said, “See how he loved him!” 37 But some of them said, “Could not he who opened the eyes of the blind man have kept this man from dying?” 38 Then Jesus, deeply moved again, came to the tomb; it was a cave, and a stone lay upon it. 39 Jesus said, “Take away the stone.” Martha, the sister of the dead man, said to him, “Lord, by this time there will be an odor, for he has been dead four days.” 40 Jesus said to her, “Did I not tell you that if you would believe you would see the glory of God?” 41 So they took away the stone. And Jesus lifted up his eyes and said, “Father, I thank thee that thou hast heard me. 42 I knew that you hear me always, but I have said this on account of the people standing by, that they may believe that thou didst send me.” 43 When he had said this, he cried with a loud voice, “Lazarus, come out.” 44 The dead man came out, his hands and feet bound with bandages, and his face wrapped with a cloth. Jesus said to them, “Unbind him, and let him go.” 45 Many of the Jews therefore, who had come with Mary and had seen what he did, believed in him.
________________________________________
I. THEME: God has power on both life and death.
Human beings desire to live forever; but all must face death. Is death the end of everything? Many people think so; but the majority believe a human soul is immortal because it isn’t made by material things like a human body. But the questions such as: Where will a soul be after death? Will the soul of the just and the soul of the wicked be in the same place? What does a soul do in the next life? Only the Catholic has the answers for these questions.
Today readings make a transition from the Lenten atmosphere to the atmosphere of the resurrection and the eternal life. The passage in the first reading is the conclusion of the prophet Ezekiel’s vision of the dried bones field. God has power to create and to recreate. God commands Ezekiel to prophesize on the dried bones so they can connect with each other, have sinews to keep them together and skin to cover them up, but not have breath yet to live. Then God gives them His spirit and they become living people. In the second reading, St. Paul compared the two lifestyles according to the spirit and to the flesh. The lifestyle according to the flesh only leads people to destruction, but the lifestyle according to the spirit shall lead people to life and the eternal life. In the gospel, the author of the Fourth Gospel reported a spectacular miracle which never happens before; Jesus raised Lazarus from the dead after four days in the tomb. He also revealed the dimension of the realized eschatology, “Whoever lives and believes in me shall never die.”
II. ANALYSIS
1/ Reading I: “You shall know that I am the LORD, when I open your graves, and raise you from your graves, O my people.”
1.1/ The Jewish conception of Sheol: This name has many meanings, it can be a grave, an abyss, a dark place or the abode of the dead. The Jewish conception of Sheol changed with time. At first, they believe Sheol is the place for all the dead because all people must die (Psa 89:47-48). Those who believe in God and keep His law shall be blessed with prosperity, descendants and long life; but once they die, they must enter into Sheol. Once people enter it, they shall not be resurrected or returned to the earth (Job 7:9-10). Though Sheol is a dark place, they believed God can see all people in there (Job 26:6, Psa 139:8). Gradually it becomes the place of the wicked and the sinners who forsook God (Psa 9:17). This change might take place at the same time with the Jewish conception about the eternal life.
The authors of some Psalms and prophetic Books likened the suffered life of the Israelites during the exile as living in the Sheol, and the return to their country as coming out of it, “I am reckoned among those who go down to the Pit; I am a man who has no strength, like one forsaken among the dead, like the slain that lie in the grave, like those whom thou dost remember no more, for they are cut off from thy hand. Thou hast put me in the depths of the Pit, in the regions dark and deep” (Psa 88:4-6). Pit is understood as Sheol.
1.2/ Only God has power to lead people out of Sheol: The Old Testament mentioned many times of being brought out of the grave, the pit or Sheol (Psa 30:3, 49:15, 71:20, 86:13, 88:4-6, Lam. 3:54ff, Jon. 2:3-7). God has power to liberate those in Sheol when they pray to Him (Psa 116:3-6).
The prophet Ezekiel, who lived during the exile, continued this tradition when he prophesized, “Thus says the Lord GOD: Behold, I will open your graves, and raise you from your graves, O my people; and I will bring you home into the land of Israel. And you shall know that I am the LORD, when I open your graves, and raise you from your graves, O my people.” This passage belongs to the prophet Ezekiel’s vision of the valley full of dried bones. In chapter 37, God commands the prophet to prophesize twice: the first time is for the dried bones to connect with other bones; the second time is for the spirit to provide breath for the bodies to live again.
In today passage, God said, “And I will put my Spirit within you, and you shall live.” We can see an allusion to the second account of God’s creation of human beings in Genesis 2:7. But where is the difference between the prophet’s second prophecy and this time? It is very difficult to explain because in Hebrew, there is only one word “ruah” for wind, breath, human spirit and the Holy Spirit.
The important matter is to recognize God’s power in the resurrection of the dead, “Then you shall know that I, the LORD, have spoken, and I have done it, says the LORD.” When people see God opens the grave and brings them out of it, they shall know He is the LORD. There is none can do thing like Him. This prophecy was fulfilled when God let the Persian kings, Cyrus and Darius, signed the decree to liberate the Israelites and to permit them to go back to their country from the exile; but most of the Church’s Fathers understood this vision as the Last Judgment Day when human bodies shall be resurrected and united with their souls for the divine judgment.
2/ Reading II: The lifestyle according to the Spirit versus the fleshy lifestyle
Chapter eight of the Letter to the Romans should be read together with chapters six and seven because once people are liberated by Christ from slavery for sins, the law and death, they are free to live according to the Spirit. Many people misunderstood Paul as the advertiser of a life in which people need only to believe in Christ to attain salvation and have no need to do good works. In chapter eight, St. Paul explained that people were liberated by Christ from their slavery for the flesh so that they are free to live according to the Spirit’s guidance.
2.1/ Living according to the flesh: According to Paul, this is a lifestyle of those who completely live according to human passion such as: the greed of their eyes, the desires of their heart and the passion of their flesh. Those who live according to this lifestyle are like the wild beasts because they act according to their instinct; but people can’t act as such because God creates people with the soul, the intellect and the free will to control all powers of their body. St. Paul describes this control as follows, “But you are not in the flesh; you are in the Spirit, if in fact the Spirit of God dwells in you.”
The Spirit of God is also Christ’s Spirit who dwells in the soul of the faithful to guide and to empower them to live according to the truth. In opposition, “And those who are in the flesh cannot please God.”
2.2/ Living according to Christ’s Spirit: St. Paul lists three main profits for those who live according to the Holy Spirit:
(1) The Spirit helps people to live as a human being: If people live according to their passions, they live like all animals and shall be destroyed; but if they live according to the Holy Spirit’s guidance, they live as human beings according to God’s intention when He creates them, and shall be remained forever.
(2) The Spirit helps people to become righteous: Since the law has no power to make people to become righteous, God gives them His Spirit to help people to believe in Christ and to do what he teaches.
(3) The Spirit shall raise people up from the dead: Paul said, “If the Spirit of him who raised Jesus from the dead dwells in you, he who raised Christ Jesus from the dead will give life to your mortal bodies also through his Spirit which dwells in you.”
3/ Gospel: “Lazarus, come out.”
Today gospel, chapter eleven, is set in the background of Jesus’ last days in this world. According to the structure of the Fourth Gospel, Jesus’ Passion begins in chapter thirteen. In chapter eleven, he raised Lazarus from the dead. This is the decisive factor because it leads to his Passion and Death. Jesus wants for people to see that if he has power to raise up a person from the dead, he also has power to rise up from the dead as he foretold his disciples many times. Death has no power on him. This miracle has a tremendous effect on the audience because they want to live and to live forever.
Chapter 12 reports people’s reactions of this miracle. It is the reason that the members of the Sandherin decided the dead sentence for him (Jn 11:53) and also Lazarus (Jn 12:10-11) because of him, many people left them to follow Jesus. The Pharisees became jealous when they see Jesus’ influence on people, they said to each other, “You see that you can do nothing; look, the world has gone after him” (Jn 12:19). We can analyze chapter eleven according to the five acts as follows:
3.1/ Jesus with his disciples:
– When Jesus heard of Lazarus’ serious sickness, why didn’t he go right away to him but waited two more days to go? Some say because his hour isn’t come yet as when his mother urged him to do in the wedding at Cana (Jn 2:1-11) or his disciples urged him to go to Jerusalem (Jn 7:1-10). Others say because he wanted Lazarus to really die and to have a stench so that nobody doubts about his power to rise up a person from the dead. The second opinion is plausible due to what Jesus said later (11:14).
– In the Fourth Gospel, there are no three times reports about the reactions of Jesus’ disciples when he foretold them of what are going to happen for him in Jerusalem as in the Synoptic; this is the only time Jesus’ disciples prevented him when he wanted to come back to Jerusalem as they said, “Rabbi, the Jews were but now seeking to stone you, and are you going there again?”
– A Jewish day also has 24 hours and is counted from 6 PM the day before to 6 PM the day after; for example, their Sabbath is counted from 6 PM Friday to 6 PM Saturday. People can only work during twelve hours of the daytime because they had no electricity as our time. The night is divided by five watches and is the time for rest, not for working. That is why Jesus said to his disciples, “Are there not twelve hours in the day? If any one walks in the day, he does not stumble, because he sees the light of this world. But if any one walks in the night, he stumbles, because the light is not in him.”
There are three things Jesus wants to say in this sentence: Firstly, the time of our life are counted by God. If we want to do God’s will, we should begin to do it before it is too late; once our time is up, we can’t ask for more time to do it. This saying is the same saying Jesus said to his disciples in John 9:4. Secondly, we have enough time to work and no need to be hurry. Don’t wait until water comes to our feet to jump. Lastly, we must use time to benefit ourselves and others; we should not be lazy nor wasting our time.
– In the Fourth Gospel, Jesus has a habit to use the word that causes irony; for examples, the adverb “anothen” in Greek can mean “again” or “from above” in (Jn 3:3-8); “udor zôn” can mean “drinking water” or “water that gives life” (Jn 4:10-15); and in today passage, “koimasthai” can mean “to sleep” or “to die—to sleep forever.” Jesus’ disciples understood it according to the first meaning, so they said to Jesus, “Lord, if he has fallen asleep, he will recover.” Then, Jesus clearly explained, “Lazarus is dead; and for your sake I am glad that I was not there, so that you may believe. But let us go to him.”
3.2/ Jesus with Martha, Lazarus’ sister: In the Synoptic as also in John, Martha was described as a person who is quick to act and to speak while Mary as the one who are thinking more than talking. When heard of Jesus’ coming, she ran out to meet him and said, “Lord, if you had been here, my brother would not have died. And even now I know that whatever you ask from God, God will give you.” Martha believed Jesus has power to heal all kinds of sickness; but to rise up her brother from the dead, she never thought of. There is an important revelation by Jesus in his conversation with Martha about the two kinds of eschatology: the future eschatology—what shall happen on the Last Day and the realized eschatology—what is happening at present.
(1) The future eschatology: Many Jews who were contemporary with Jesus believed in the resurrection and the eternal life as we found in Daniel (12:2) and II Maccabees (7:14; 12:43). Therefore, when Jesus said, “Your brother will rise again.” Martha said to him, “I know that he will rise again in the resurrection at the last day.”
(2) The realized eschatology: Jesus said to Martha, “I am the resurrection and the life; he who believes in me, though he die, yet shall he live, and whoever lives and believes in me shall never die. Do you believe this?” According to Jesus, people don’t have to wait until the Last Day to have the eternal life. If they strongly believe in him, they already live that life in presence; the physical death is only the transition from this life to the next while their relationship with God is unchanged. When people fear of nothing, even death, they really and fully live.
– Martha professed many Christological titles for Jesus, “Yes, Lord; I believe that you are the Christ, the Son of God, he who is coming into the world.”
3.3/ Jesus with Maria: According to the tradition, the Jews wept for their deceased from seven days to one month, depending on their relationship and love. Maria didn’t know of Jesus’ coming so she continued to weep for her brother. When Martha returned and called her sister Mary, saying quietly, “The Teacher is here and is calling for you.” When she heard it, she rose quickly and went to him. When the Jews, who were with her in the house, consoling her, saw Mary rise quickly and go out, they followed her, supposing that she was going to the tomb to weep there.
– Mary’s reaction: Like Martha, when she came where Jesus was and saw him, fell at his feet, saying to him, “Lord, if you had been here, my brother would not have died.”
– Jesus’ reaction: When Jesus saw her weeping and the Jews who came with her also weeping, he was deeply moved in spirit and troubled; and he said, “Where have you laid him?” They said to him, “Lord, come and see.” Jesus wept. Two Greek verbs were used to describe Jesus’ passion are “embrimasthai” and “tarassein.” The first verb occurred three times in the Synoptic (Mk. 1:43, 14:5; Mt. 9:30), meaning to prohibit someone to disclose what happened for them, and two times in the Fourth Gospel (Jn 11:33, 38) and was translated as “is deeply affected by the spirit” because this prohibition is happened for oneself. The second verb occurred thirteen times in the NT, two times in the Fourth Gospel, meaning “to disturb” (5:4, 7) and four other times is translated as “to be tested” (11:33, 12:27, 13:21 and 14:1).
The Stoics don’t believe God can be disturbed or tested by human beings; but the author of the Letter to the Hebrews believed when Jesus put on the human flesh, he became like us in all aspects except sins. He has compassion for people, and many times in the gospel, the evangelists described Jesus had mercy for people. At the beginning of this chapter, the author said Jesus loves Martha, Mary and Lazarus. He has compassion for them and he wept when he saw their suffering.
3.4/ Jesus with Lazarus: The Jewish graves at Jesus’ time aren’t single graves, but like the house of graves. Depending on the members of a family, the house of graves is divided by compartments; it has the form of a sleeping room with bunk beds on two sides and a walking space in the middle. The entrance is closed by a big stone and can be used as the door. The dead is covered completely with bandages, the face is covered separately; and the whole body is embalmed with myrrh and perfume and cover with a cloth bag. The body is laid upon the bed until it is completely decayed; then the remaining bones shall be cleared out to have the space for other member.
(1) Martha’s faith: Jesus said, “Take away the stone.” Martha, the sister of the dead man, said to him, “Lord, by this time there will be an odor, for he has been dead four days.”
Martha might think Jesus wants to see her brother’s face the last time; but Lazarus’ face was covered and his body already had a stench. She might believe Jesus’ power is only limited in healing all kinds of diseases, but not in raising up her dead brother after four days in the tomb. Jesus emphasized her faith in God can do all things even raising a person from the dead, “Did I not tell you that if you would believe you would see the glory of God?”
(2) Jesus’ faith in his Father: Jesus knows his Father always hears him when he asks for anything. The purpose of raising Lazarus is to enlighten the faith of the people who are standing around him, not for his own glory. He wants them to believe he is the Messiah, sent the Father. After his praying, he cried with a loud voice, “Lazarus, come out.” The dead man came out, his hands and feet bound with bandages, and his face wrapped with a cloth. Jesus said to them, “Unbind him, and let him go.” Imaging that we are witnessing this scene, our whole body shall be chilled because of fear. Never before this moment, a person who was buried four days in the tomb, is raised up because of a command!
3.5/ People’s reactions:
(1) Many of the Jews who had come with Mary and had seen what he did, believed in him.
(2) But some of them went to the Pharisees and told them what Jesus had done: So the chief priests and the Pharisees gathered the council, and said, “What are we to do? For this man performs many signs. If we let him go on thus, everyone will believe in him, and the Romans will come and destroy both our holy place and our nation.” What they feared became the reality later when the Roman completely destroyed the Jerusalem temple and the whole nation in 70 A.D, about 35 years after Jesus’ death; not because of people’s faith in Jesus, but their rebellion.
– The author used another irony here to speak about the purpose of Jesus’ death, Caiaphas, who was high priest that year, said to them, “You know nothing at all; you do not understand that it is expedient for you that one man should die for the people, and that the whole nation should not perish.” Even though Caiaphas didn’t know about God’s plan of salvation; but he is accidentally right about the purpose of Jesus’ death, that is: “to gather into one the children of God who are scattered abroad.”
– The reason of Jesus’ death: In the Fourth Gospel, the reason for Jesus’ death is clearly because of his raising of Lazarus from the dead. It is also the beginning of his glorified hour on the cross. The author concluded the chapter, “So from that day on they took counsel how to put him to death. Jesus therefore no longer went about openly among the Jews, but went from there to the country near the wilderness, to a town called Ephraim; and there he stayed with the disciples.”
III. APPLICATION IN LIFE:
– God has power on both life and death. We should completely believe in Him and have no fear of the death; it is only a transition before we are lived forever and happily with Him.
– The Holy Spirit is the principle of life. We should live according to his guidance to have life. We should reject the lifestyle according to the flesh.
– If we completely believe in God, we shall never spiritually die; death is necessary for us to enter into the eternal life.

LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP