Chủ Nhật II Mùa Chay, Năm A
Bài đọc: Gen 12:1-4a; 2 Tim 1:8-10; Mt 17:1-9.
1/ Bài đọc I: 1 ĐỨC CHÚA phán với ông Áp-ram: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi.
2 Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành.
3 Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.”
4 Ông Áp-ram ra đi, như ĐỨC CHÚA đã phán với ông.
2/ Bài đọc II: 8 Vậy anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng.
9 Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su,
10 nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Ki-tô Giê-su đã xuất hiện. Chính Đức Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử.
3/ Phúc Âm: 1 Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao.
2 Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.
3 Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người.
4 Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.” 5 Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” 6 Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.
7 Bấy giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!”
8 Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi.
9 Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông rằng: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy.”
________________________________________
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Vinh quang chỉ có được nhờ làm theo những gì Thiên Chúa truyền dạy.
Con người làm việc là cho một mục đích. Họ biết mục đích càng cao trọng bao nhiêu, thách đố và đau khổ càng lớn lao bấy nhiêu. Làm sao để thuyết phục một người có can đảm bỏ ý riêng của họ, sẵn sàng đương đầu với mọi nguy hiểm, để theo đuổi một mục đích? Có ba cách: Một là hứa hẹn với họ về những hậu quả tương lai mà họ sẽ được hưởng. Cách này chỉ hiệu quả cho những người có uy tín. Hai là cắt nghĩa để họ hiểu sự hợp lý giữa những việc làm hiện tại và hậu quả tương lai. Đây là cách mà con người thường dùng để chinh phục. Ba là cho họ thấy trước những hậu quả đó. Cách này chỉ có thể thực hiện bởi Thiên Chúa, Đấng có quyền trên mọi sự.
Các bài đọc hôm nay dẫn chứng cả 3 cách đều được dùng trong việc thuyết phục con người, để họ có can đảm làm theo ý muốn của người truyền. Trong bài đọc I, Thiên Chúa hứa với Abram: Ngài sẽ ban cho ông một Đất Hứa, một dòng dõi, và chúc lành bảo vệ ông cũng như dòng dõi của ông, nếu ông có can đảm bỏ quê cha đất tổ để lên đường theo sự hướng dẫn của Ngài. Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên môn đệ Timothy phải hy sinh tất cả để đồng lao cộng khổ với ngài trong việc rao giảng Tin Mừng, vì lợi ích mà Tin Mừng mang lại: Ông và mọi người được xóa bỏ tội lỗi, được trở nên thánh thiện, và được lãnh nhận ơn cứu độ muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu biến hình cho ba môn đệ thân tín thấy trước vinh quang các ông sẽ được hưởng, nếu các ông chấp nhận Cuộc Thương Khó sắp xảy ra và làm theo những gì Ngài dạy bảo.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nhờ Abram, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.
1.1/ Những điều Thiên Chúa hứa với Abram: Trước khi Thiên Chúa gọi Abram, ông và gia đình ông đang sống yên ổn tại Urs, một thành phố trù phú nằm chỗ hai con sông lớn Tigris và Euphrates giao nhau, Iraq hiện giờ. Abram chưa hề biết Thiên Chúa, nhưng sớm biết dùng trí khôn và lý luận để tin phải có một Đấng Toàn Năng dựng nên và điều khiển trái đất này, chứ không phải do những vị thần vô tri do tay con người tạo nên mà cha ông buôn bán. Nhờ niềm tin đó, ông dần dần nhận ra Thiên Chúa và phát triển mối liên hệ với Ngài. Trong trình thuật hôm nay, Thiên Chúa hứa với Abram ba điều:
(1) Ngài sẽ ban cho ông một Đất Hứa, vùng đất chảy sữa và mật. Đức Chúa phán với ông Abram: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi.” Lời hứa này chỉ được thực hiện khi Thiên Chúa đưa dòng dõi của ông từ hoàn cảnh nô lệ bên Ai-cập, vượt qua Biển Đỏ, lang thang 40 năm trong sa mạc, trước khi vào đất Canaan. Tuy nhiên, Đất Hứa này cũng chỉ là hình bóng của Nước Trời mà thôi.
(2) Lời hứa ban một dòng dõi đông như sao trên trời và như cát dưới biển. Đức Chúa phán: “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành.” Lời hứa này cũng chỉ được thực hiện sau khi Abram qua đời. Hiện giờ, ông là tổ phụ của tất cả những người theo đạo Do-thái, Công-giáo, và tất cả những người tin vào Đức Kitô (hơn một nửa dân số trên địa cầu).
(3) Lời hứa được Thiên Chúa bảo vệ và chúc lành: “Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.” Lời hứa này được thực hiện cả trong thời của Abram qua những biến cố như: giao tranh với các vua, giải thoát Sarah vợ ông hai lần… lẫn sau này, khi Thiên Chúa tiếp tục chúc phúc cho dòng dõi của ông: Isaac, Jacob, và các con cháu, nhất là qua biến cố Xuất Hành.
1.2/ Những gì Abram phải hy sinh: Để được hưởng những lời hứa đó, Abram phải tin tưởng và làm tất cả những gì Thiên Chúa truyền. Abram phải lìa xa quê cha đất tổ xứ Urs, họ hàng, và nhà cha ông. Ông phải vượt qua những lo sợ của con người như: ai sẽ săn sóc cha mẹ già, làm gì mà sống, lang thang đây đó rất nguy hiểm vì phải đương đầu với các quyền lực địa phương, bao giờ những gì Thiên Chúa hứa mới được thực hiện… Ông Abram ra đi như Đức Chúa đã phán với ông, vì ông hoàn toàn tin nơi Thiên Chúa. Ngài sẽ chúc lành và bảo vệ ông như lời Ngài đã hứa. Nếu ông sợ hãi, ông sẽ ở lại đất Urs và sẽ không bao giờ được hưởng những gì Thiên Chúa hứa.
2/ Bài đọc II: Anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng.
2.1/ Những gì Tin Mừng của Đức Kitô mang lại cho con người: Có 4 điều lợi ích Phaolô liệt kê cho môn đệ Timothy trong trình thuật hôm nay:
(1) Tin Mừng cứu độ được ban cho con người cách nhưng không: Con người được cứu độ và được nhập đoàn hàng ngũ các thánh là hoàn toàn do kế hoạch và ân sủng của Thiên Chúa, chứ không do bất cứ công việc gì của con người làm. Điều này có nghĩa Tin Mừng Cứu Độ là cho mọi người, không chỉ những người Do-thái mà thôi.
(2) Tin Mừng mặc khải cho con người về tình yêu Thiên Chúa: “Ân sủng của Thiên Chúa được ban cho con người từ muôn thuở trong Đức Kitô; nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã xuất hiện.” Ân sủng của Thiên Chúa gồm nhiều loại khác nhau, nhưng trọng tâm là Thánh Thần và các ân sủng Ngài ban qua các bí tích.
(3) Tin Mừng ban ơn cứu độ: Điều chính yếu và trên hết của Tin Mừng là về Đấng Cứu Độ của con người là Đức Kitô. Chính Người đã tiêu diệt thần chết qua Cuộc Thương Khó và Phục Sinh, để mang lại sự sống đời đời cho con người. Nếu con người muốn được cứu độ, họ phải tin vào Ngài.
(4) Thiên Chúa dùng Tin Mừng để loan báo ơn cứu độ cho mọi người. Để có thể loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi người qua mọi thời đại, Đức Kitô đã có kế hoạch: Ngài muốn Tin Mừng được viết xuống và Ngài sai các môn đệ, những người Ngài đã tuyển chọn để đi rao giảng Tin Mừng.
2.2/ Timothy phải hy sinh mọi sự cho việc rao giảng Tin Mừng: Để được hưởng và để mang lợi ích của Tin Mừng đến mọi người, các nhà rao giảng Tin Mừng cần biết trước những thách đố và đau khổ họ phải chịu.
(1) Rao giảng Tin Mừng sẽ bị người đời ghen ghét: Tin Mừng của Đức Kitô loan báo những điều ngược lại với tiêu chuẩn của người thế gian. Chính Đức Kitô đã cảnh giác các môn đệ: Các con sẽ bị thế gian ghen ghét vì các con không thuộc về nó… Thế gian yêu mến những người giống như nó… Thế gian sẽ yêu mến các con, nếu các con thuộc về nó… Chúng đã ghét Thầy và chúng sẽ ghét các con…
(2) Rao giảng Tin Mừng sẽ bị bắt bớ, tra tấn, tù đày, và có thể bị giết chết. Phaolô viết Thư này cho Timothy khi ông đang bị giam trong ngục tù tại Roma. Những người trong Thượng Hội Đồng của Do-thái truy tố Phaolô, vì ông tiếp tục rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô để làm cho mọi người tin vào Ngài. Điều này cũng đã được Đức Kitô loan báo trước cho các môn đệ: “Nếu họ đã bắt bớ Thầy họ cũng sẽ bắt bớ các con.”
(3) Sức mạnh của Thiên Chúa sẽ giúp cho người rao giảng Tin Mừng chiến thắng mọi trở ngại. Tuy phải đương đầu với thử thách và đau khổ, Phaolô vẫn khuyên Timothy: “Vậy anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng.”
3/ Phúc Âm: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.”
3.1/ Tại sao Chúa Giêsu mặc khải vinh quang của Ngài chỉ cho ba môn đệ? Để hiểu mục đích, chúng ta cần hiểu ý nghĩa của các câu này trong nội dung và bối cảnh lịch sử của nó.
+ Sáu ngày sau: là sáu ngày sau lời tuyên xưng của Phêrô vào thần tính của Đức Kitô tại Carsarea Philippi, và sự kiện ông ngăn cản Chúa Giêsu đừng lên Jerusalem để phải đi ngang qua cuộc khổ nạn.
+ Cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu đã gần kề. Hai điều quan trọng Chúa Giêsu muốn các môn đệ nắm vững: (1) Các ông phải biết rõ Ngài là ai. Điều này đã được giải quyết phần nào khi Phêrô đại diện cho các môn đệ tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (2) Cách thức Ngài giải phóng nhân loại là qua Cuộc Thương Khó, Tử Nạn, và Phục Sinh. Điều này các tông-đồ chưa nắm vững, đó là lý do Phêrô kéo Chúa Giêsu ra một nơi và ngăn cản Ngài. Như hầu hết người Do-thái đương thời, các ông tin vào một Đấng Thiên Sai uy quyền sẽ dùng quyền năng để chinh phục và thống trị nhân loại. Các ông không thể chấp nhận một Đấng Thiên Sai phải chịu đau khổ và chết trên Thập Giá. Vì thế, Chúa Giêsu muốn đưa ba tông-đồ lên núi để các ông xác tín mối liên hệ của Ngài với Thiên Chúa, con đường khổ nạn Ngài sắp phải đi qua theo Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa, và cho các tông-đồ nhìn thấy vinh quang trước khi phải đương đầu với cuộc khổ nạn của Ngài.
+ Sự hiện diện của Moses và Elijah: Moses tượng trưng cho các Sách Lề Luật vì Thiên Chúa ban Thập Giới và các thánh chỉ qua Moses. Ông được coi là nền tảng của Lề Luật, và biến cố hôm nay chứng tỏ Lề Luật phải hướng về Đức Kitô để được nên trọn vẹn, hoàn hảo. Elijah tượng trưng cho các Sách Ngôn Sứ. Tiên-tri Elijah được coi là ngôn sứ cao trọng nhất trong các ngôn sứ vì những lời rao giảng và uy quyền làm phép lạ, và biến cố hôm nay chứng tỏ Sách Ngôn Sứ phải hướng về Đức Kitô, để tìm thấy sự hoàn hảo của các lời tiên-tri về Đấng Thiên Sai.
+ Họ đàm luận với nhau về điều gì? Căn cứ vào những lời thắc mắc của các tông-đồ bên dưới, chúng ta có thể xác tín, chủ đề của cuộc đàm đạo là: biến cố Thương Khó, Tử Nạn, và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Trình thuật của Lucas nói rõ chủ đề của cuộc đàm đạo là biến cố từ biệt sắp xảy ra tại Jerusalem (Lk 9:30-31). Như thế, cả hai: Lề Luật và Ngôn Sứ đều làm chứng và tìm thấy sự hoàn hảo của mình nơi Đức Kitô, nhất là trong Cuộc Thương Khó và Phục Sinh sắp tới của Ngài.
3.2/ Lời truyền của Thiên Chúa Cha: Đây là lần thứ hai Chúa Cha làm chứng cho Đức Kitô là Người Con Một yêu dấu của Ngài; lần đầu xảy ra khi Chúa Giêsu được Gioan Tẩy Giả làm phép rửa tại sông Jordan. “Hãy vâng nghe lời Người” là một lời truyền tối quan trọng cho các môn đệ của Đức Kitô. Đối với các tông-đồ, Thiên Chúa muốn các ông phải vâng nghe những gì Đức Kitô đang mặc khải cho các ông, dù những điều này không phải những gì các ông muốn về Đấng Thiên Sai; nhưng lại là kế hoạch của Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Kết quả vinh quang không phải tự nhiên mà có; nhưng là hậu quả của việc làm theo những gì Thiên Chúa dạy bảo.
– Thi hành thánh ý Thiên Chúa đòi con người phải từ bỏ ý riêng mình và sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách và đau khổ. Ngài sẽ ban cho chúng ta khôn ngoan và sức mạnh để vượt qua mọi thử thách trong cuộc đời.
SUNDAY OF THE 2 LENTA
Readings: Gen 12:1-4a; 2 Tim 1:8-10; Mt 17:1-9.
1/ Reading I: RSV Genesis 12:1 Now the LORD said to Abram, “Go from your country and your kindred and your father’s house to the land that I will show you. 2 And I will make of you a great nation, and I will bless you, and make your name great, so that you will be a blessing. 3 I will bless those who bless you, and him who curses you I will curse; and by you all the families of the earth shall bless themselves.” 4 So Abram went, as the LORD had told him.
2/ Reading II: RSV 2 Timothy 1:8 Do not be ashamed then of testifying to our Lord, nor of me his prisoner, but share in suffering for the gospel in the power of God, 9 who saved us and called us with a holy calling, not in virtue of our works but in virtue of his own purpose and the grace which he gave us in Christ Jesus ages ago, 10 and now has manifested through the appearing of our Savior Christ Jesus, who abolished death and brought life and immortality to light through the gospel.
3/ Gospel: RSV Matthew 17:1 And after six days Jesus took with him Peter and James and John his brother, and led them up a high mountain apart. 2 And he was transfigured before them, and his face shone like the sun, and his garments became white as light. 3 And behold, there appeared to them Moses and Elijah, talking with him. 4 And Peter said to Jesus, “Lord, it is well that we are here; if you wish, I will make three booths here, one for you and one for Moses and one for Elijah.” 5 He was still speaking, when lo, a bright cloud overshadowed them, and a voice from the cloud said, “This is my beloved Son, with whom I am well pleased; listen to him.” 6 When the disciples heard this, they fell on their faces, and were filled with awe. 7 But Jesus came and touched them, saying, “Rise, and have no fear.” 8 And when they lifted up their eyes, they saw no one but Jesus only. 9 And as they were coming down the mountain, Jesus commanded them, “Tell no one the vision, until the Son of man is raised from the dead.”
________________________________________
I. THEME: Glory is only come after doing what God commands.
People act for a purpose. They know the greater of a goal, the greater of trials and sufferings. How could one persuade another to give up his will and do one’s will with many challenges? There are three possible ways: First, one promises him about the future reward. This way is only effective for the powerful who can give the reward. Secondly, one can explain for him to understand the reasonable connection between the undertaken work and the future reward. This is the way most people use to persuade others. Lastly, one can let him witness the result; this way is only achieved by God who has authority over all things.
Today readings illustrate all these three ways which were used in persuading people to have courage to do the will of the commander. In the first reading, God promises Abram that He shall give him a promised land, a descendant, blessing and protection for him and his descendants, if he has courage to leave his father’s land to be on the way according to His guidance. Abram did that and is inheriting the promises. In the second reading, St. Paul advised Timothy, his disciple, to sacrifice all things to co-operate with him in the mission of preaching the Good News because all of its benefits, such as: they and all people might be wiped out of their sins, become holy and inherit the salvation. In the Gospel, Jesus transfigured before his three disciples to let them foresee the glory they shall inherit if they accept his coming Passion, Death and Resurrection, and do things according to what he teaches.
II. ANALYSIS:
1/ Reading I: All tribes on earth shall be blessed through Abram.
1.1/ God’s promises for Abram: Before God calls Abram, he and his family were peacefully lived at Urs, a prosperous city which lies on the intersection of the two great river, Tigris and Euphrates, in the modern Iraq. Abram didn’t know God, but knew how to use his intellect and reasoning to believe in the omnipotent God who creates and controls everything in this universe, not in the senseless gods which his father made and sell them. By that faith, he gradually recognized God and developed a closed relationship with Him. In today report, God promises with Abram three things:
(1) He shall give him a Promised Land, full of honey and milk: The Lord said to Abram, “Go from your country and your kindred and your father’s house to the land that I will show you.” This promise was fulfilled when God liberated his descendants from the slaved Egyptian land, passed over the Red Sea, wandered forty years in the deserts before Joshua led them to Canaan, the Promised Land. However, this land is only the type of the eternal life.
(2) He shall give him a descendant as many as stars in heaven and sand at the seashore: The Lord promised, “And I will make of you a great nation, and I will bless you, and make your name great, so that you will be a blessing.” The Israelites only become a nation after they entered the Promised Land. However, this promise is only achieved after Abram’s death. At present, he is the patriarch of all Jews, Catholics and all Christians whom are more than half of the world population.
(3) He shall bless and protect him and his descendant: The Lord said, “I will bless those who bless you, and him who curses you I will curse; and by you all the families of the earth shall bless themselves.” This promise was achieved in all Abram’s life through many events, such as: in fighting with all kings, liberating Sarah, his wife, twice, and continuing to bless and to protect his descendant, Isaac, Jacob and their descendants; especially in the Exodus event.
1.2/ What Abram must do: To inherit these promises, Abram must believe and do what God commanded. He must leave Urs, his native land, his father and kindred. He must overcome all fears, such as: who shall take care of Terak, his old father? What he shall do for living? How could he fight with local authorities and robbers on the way? When God’s promise shall be achieved? However, Abram was on the way as God commands because he completely trusted in God. He shall bless and protect him as promised. If he fears, he shall stay at Urs; how could he and his descendants inherit all God’s great promises?
2/ Reading II: “Share in suffering for the gospel in the power of God.”
2.1/ What Christ’s gospel shall bring for human beings: Paul listed four benefits in today passage:
(1) The salvation is given to men free of charge: People are saved and belonged to the saints is completely by God’s plan and grace, not by any good work they achieved. The salvation is for all people, not only the Jews.
(2) The gospel reveals God’s love for people: Paul writes, “In virtue of his own purpose and the grace which he gave us in Christ Jesus ages ago, and now has manifested through the appearing of our Savior Christ Jesus.” God loves people and bestows on them many graces in life. God’s graces are in many forms, but essentially are the Holy Spirit and graces from the sacraments which Christ established.
(3) The gospel reveals the way people can be saved: The center and most important thing of the gospel is Christ and his salvation. He destroyed death by his Passion and Resurrection to bring eternal life for people. If they want to be saved, they must believe in him.
(4) God uses the gospel to announce His salvation for people: To announce the gospel for people of all generations, Christ had a plan. He wanted the gospel to be written down by the evangelists and sent out the disciples, those he selected and trained to preach the gospel. The Church, which Christ established, continues to select and to send out her preachers to preach the gospel.
2.2/ Timothy must sacrifice everything for the preaching of the gospel: In order to inherit and to bring great benefits of the gospel to all, the preachers of the gospel need to foreknow the challenges and the sufferings which they must endure.
(1) Preaching the gospel shall be hated by worldly people: Christ’s gospel contains many things that opposes the worldly standards, so the preachers shall be hated by worldly people. Christ forewarned his disciples, “You shall be hated by the world because you don’t belong to them… The world loves those who are like them… The world shall love you if you belong to them… They hated me and shall hate you too.”
(2) Preaching the gospel might be seized, persecuted, imprisoned or killed: Paul wrote this Letter to Timothy during his imprisoned time in Rome. The people of the Sandherin persecuted Paul because he preached Christ’s gospel and caused many people to believe in him. Paul’s persecution was forewarned by Christ before he came to Jerusalem.
(3) God’s power shall help the preachers to overcome all obstacles: Though was confronted with trials and suffering, Paul still advised Timothy, “Do not be ashamed then of testifying to our Lord, nor of me his prisoner, but share in suffering for the gospel in the power of God, who saved us and called us with a holy calling.”
3/ Gospel: “This is my beloved son, listen to him.”
3.1/ Why did Jesus reveal his glory for his three disciples? To understand the reason, we need to understand this passage in its content and historical background.
(1) After six days: This Transfiguration happens after six days Peter proclaimed Christ’s divinity at Carsarea Philippi and prevented him not to go to Jerusalem.
(2) Jesus’ coming Passion and Resurrection: There are important points which Christ wanted for his disciples to understand firmly. First, they must clearly understand who he is. This was solved when Peter, as the disciples’ representative, proclaimed, “You are Christ, the son of the living God.” Secondly, the way he redeems people is through his Passion, Death and Resurrection. His disciples didn’t firmly understand this point; that is why Peter prevented him to go to Jerusalem. As all the contemporary Jews, the disciples believed in a powerful Messiah who shall use his power to conquer foreign powers and to govern all nations; they couldn’t accept a Suffering Messiah who must suffer and die on the cross to save people. Therefore, Jesus wanted to bring along his three disciples to the mountain, so that they witness his relationship with the Father, his coming Passion which he must go through according is in God’s plan, and his glorious Resurrection after that.
(3) The Moses and Elijah’s presences: Moses is the representative of the Law because God gave the Ten Commandments and many decrees through him. He is considered the foundation of the Law and today event shows that the Law must be oriented to Christ for completion and perfection. Elijah is the representative of all the prophets. He is considered the most important prophet because of his preaching and power to perform miracles, today event also shows all the Prophetic Books must be oriented to Christ to find the fulfillment of all the prophecies concerning the Messiah.
(4) The content of their conversation: Based on the apostles’ question below, we can confirm that the content of Christ, Moses and Elijah’s conversation is about his Passion, Death and Resurrection. Luke’s report clearly said the theme of the conversation is what going to happen in Jerusalem (Lk 9:30-31). Therefore, both the Law and the Prophets are witnessed for and found their fulfillment in Christ, especially in his coming Passion and Death.
3.2/ The Father’s command: This is the second time the Father witnessed for Christ, His Beloved Son. The first time happened when Christ was baptized by John Baptist in the Jordan River. “To listen to him” is the most important command for Christ’s disciple. To the disciples, God wants them to listen to what Christ was revealing for them although these things aren’t what they want about the Messiah, but in God’s plan of salvation.
III. APPLICATION IN LIFE:
– Glorious results are not accidentally happened, but the results of listening and doing God’s commands.
– To do God’s will demands us to forsake our will and have courage to overcome all trials and sufferings. God shall bestow on us wisdom and necessary strength to overcome all trials and sufferings.
LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP