Lời Chúa Mỗi Ngày : Chủ Nhật I Mùa Chay, Năm A

Chủ Nhật I Mùa Chay, Năm A
Bài đọc: Gen 2:7-9; 3:1-7; Rom 5:12-19; Mt 4:1-11.
1/ Bài đọc I: 7 Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật. 8 Rồi Đức Chúa là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Ê-đen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra. 9 Đức Chúa là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác. 1 Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Đức Chúa là Thiên Chúa đã làm ra. Nó nói với người đàn bà: “Có thật Thiên Chúa bảo: “Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không? 2 Người đàn bà nói với con rắn: “Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. 3 Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: “Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết.” 4 Rắn nói với người đàn bà: “Chẳng chết chóc gì đâu! 5 Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác.” 6 Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn. 7 Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân.
2/ Bài đọc II: 12 Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội. 13 Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không có Luật, thì tội không bị kể là tội.
14 Thế mà, từ thời A-đam đến thời Mô-sê, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như A-đam đã phạm. A-đam là hình ảnh Đấng sẽ tới. 15 Nhưng sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người. 16 Ơn Thiên Chúa ban cũng khác với hậu quả do một người phạm tội đã gây ra. Quả thế, vì một người duy nhất phạm tội, con người đã bị xét xử để phải mang án, còn sau nhiều lần sa ngã, thì lại được Thiên Chúa ban ơn cho trở nên công chính. 17 Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị. 18 Tóm lại, cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống. 19 Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.
3/ Phúc Âm: 1 Bấy giờ Đức Giê-su được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ. 2 Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói. 3 Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!” 4 Nhưng Người đáp: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” 5 Sau đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ, 6 rồi nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.” 7 Đức Giê-su đáp: “Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” 8 Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, 9 và bảo rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi.” 10 Đức Giê-su liền nói: “Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.” 11 Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi, và có các sứ thần tiến đến hầu hạ Người.
________________________________________

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cám dỗ và cách thức để vượt qua
Cám dỗ là kinh nghiệm thường xuyên xảy ra cho mỗi người. Nhiều người bi quan cho rằng con người không thể thắng vượt được trước ba kẻ thù quá mạnh là xác thịt, thế gian và ma quỉ. Nhưng trong kế hoạch của Thiên Chúa, phải có cám dỗ để thử thách đức tin. Thiên Chúa để những cám dỗ xảy ra là để thử thách và tôi luyện niềm tin, sự hy vọng, và lòng yêu mến của mỗi người dành cho Ngài.
Những bài đọc của Chủ Nhật đầu Mùa Chay, Năm A, cho chúng ta cái nhìn thâm sâu vào sự cám dỗ. Trong bài đọc I, tác giả Sách Sáng Thế tường trình sự sa ngã của cặp vợ chồng đầu tiên, ông Adam và bà Eva. Hậu quả là con người phải lãnh nhận biết vao đau khổ và phải chết. Trong bài đọc II, thánh Phaolô giải thích cho chúng ta sự liên hệ giữa tội của Adam và công nghiệp của Chúa Giêsu trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, thánh sử Matthew tường thuật cơn cám dỗ của Chúa Giêsu trước khi khởi đầu sứ vụ rao giảng và cứu chuộc của Ngài. Tuy bị cám dỗ như bao người, Chúa Giêsu đã chiến thắng khải hoàn vì Người luôn tin tưởng nơi tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Adong và Eva bị cám dỗ và đã sa chước cám dỗ.
1.1/ Thiên Chúa sắp đặt mọi sự cho con người: Trình thuật STK vắn tắt cho khán giả thấy uy quyền, tình yêu, và sự quan phòng của Thiên Chúa: Ngài dựng nên con người và thiết lập một Vườn Địa Đàng để cho con người cư ngụ trong đó. Con người không thiếu thốn một điều gì trong vườn đó, và có quyền ăn mọi trái cây trong vườn ngay cả cây trường sinh. Để thử thách niềm tin yêu của con người, Thiên Chúa cấm con người không được ăn cây “biết điều thiện điều ác.”
1.2/ Con rắn cám dỗ và con người đã sa ngã:
(1) Sự tinh khôn của rắn: Tác giả cho chúng ta một chi tiết quan trọng: “Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Đức Chúa là Thiên Chúa đã làm ra.” Rắn là biểu tượng của quỉ, chúng cũng là tạo vật của Thiên Chúa, nguyên thủy là thiên thần nhưng đã phản bội Ngài. Chúng tinh khôn hơn con người vì chúng không có thân xác, điển hình là chúng đã làm cho con người sa ngã. Trước tiên, nó khơi dậy sự tò mò nơi người đàn bà: Tại sao Thiên Chúa chỉ cấm ăn trái cây đó? Thứ đến, nó khơi dậy sự nghi ngờ trong người đàn bà về tình yêu Thiên Chúa dành cho con người khi nó nói với Bà: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác.”
(2) Ý nghĩa của cám dỗ đầu tiên:
– Tên của trái cây bị cấm “biết điều thiện điều ác” cho chúng ta cái nhìn sâu xa trong cuộc cám dỗ này. Chỉ có Thiên Chúa là Người hoàn toàn biết điều thiện điều ác. Quỉ cũng muốn được giống như Thiên Chúa, và chúng sa ngã cũng vì lý do này. Con người không thể hoàn toàn biết điều thiện điều ác như Thiên Chúa, nhưng lại muốn được giống như Thiên Chúa để khỏi phải lệ thuộc vào Ngài. Đúng như tên gọi của cây, vì khi hai ông bà ăn vào, “mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân.” Họ biết điều thiện là họ đã phản bội Thiên Chúa yêu thương, và họ biết điều ác là mình đã phạm tội và cảm thấy xấu hổ.
– Tội đầu tiên con người phạm là tội kiêu ngạo: là con người mà lại muốn trở thành Thiên Chúa. Tội này dẫn đến tội thứ hai là không vâng lời điều Thiên Chúa truyền dạy: đưa tay ăn quả cấm và cám dỗ chồng để cùng ăn. Hậu quả là con người bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, chịu trăm ngàn đau khổ, và phải chết.
– Hai ông bà không phải là những người duy nhất phạm hai tội này, nhưng trải qua bao thế hệ, chúng vẫn đang làm cho biết bao người sa ngã và chịu những thiệt hại nặng nề. Con người ở mọi nơi mọi thời vẫn bị cám dỗ để nghĩ họ có thể khôn ngoan bằng hay hơn Thiên Chúa, họ muốn tự mình quyết định mọi chuyện xảy ra, chứ không muốn lệ thuộc vào ai cả; nhất là không muốn nghe bất cứ ai truyền cho họ phải làm điều gì cả cho dù biết nó là điều tốt.
2/ Bài đọc II: Sự khiêm nhường và lòng vâng phục của Đức Kitô thay đổi bản án cho con người.
2.1/ Tội cùng chịu và phúc lành cùng hưởng: Có lẽ câu trả lời của thánh Phaolô cho câu hỏi “Làm sao mọi người đều được hưởng ơn cứu độ từ công phúc của một mình Chúa Giêsu?” phải được xếp ngang hàng về tầm quan trọng với câu trả lời “Con người được cứu độ là do việc đặt niềm tin vào Đức Kitô, chứ không do bởi việc lành của con người.” Trình thuật hôm nay dẫn chứng câu trả lời, chúng tôi sắp xếp câu trả lời như sau để giúp độc giả hiểu rõ hơn.
(1) “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội.” Phải hiểu làm sao câu “mọi người đã phạm tội?” Có 3 cách hiểu:
i. Tội tổ tông: Mọi người đều từ cặp vợ chồng Adam và Eve, nên mọi người đều bị ảnh hưởng di truyền của tội. Đây là điều Giáo Hội dạy, nhưng không chắc là ý của Phaolô ở đây.
ii. Adam phạm tội đầu tiên, sau đó mọi người đều phạm tội; nhưng không có một sự liên hệ mật thiết nào giữa tội của Adam và tội của mọi người, ngoại trừ căn bản là tội kiêu ngạo và bất tuân. Ý kiến này cũng không vững ở đây.
iii. Adam là biểu tượng chung cho tất cả con người, như khi chúng ta dùng danh từ “con người” có thể để chỉ “một người” hay có thể để chỉ “mọi người.” Đây có lẽ là điều thánh Phaolô muốn ám chỉ ở đây: mọi người đều đã phạm tội trong sự sa ngã đầu tiên.
(2) Bằng chứng: “Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không có Luật, thì tội không bị kể là tội. Thế mà, từ thời Adam đến thời Moses, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như Adam đã phạm.” Đối với Phaolô, Lề Luật được coi là “người buộc tội luân lý,” vì nếu không có Luật buộc sẽ không có tội. Thập Giới chỉ được ban cho con người từ thời ông Moses, vậy chẳng lẽ con người không có tội từ ông Adam đến thời Moses? Phaolô nói không phải thế, vì con người vẫn phải chết, mà chết là hậu quả của tội. Phaolô có ý muốn nói tất cả đều đã phạm tội với Adam rồi, đó là lý do tại sao họ đều phải chết. Nhiều người sẽ thắc mắc: “chưa sinh ra, làm sao đã phạm tội được?” Phaolô muốn trả lời: Tập thể con người chỉ là một đối với Thiên Chúa, chứ không phải chỉ là những cá nhân riêng lẻ, một người phạm tội là mọi người cùng phạm, một người phải chết là mọi người phải chết. Có người sẽ phản đối như thế là bất công!
(3) Phaolô trả lời Thiên Chúa không bất công, vì “Adam là hình ảnh Đấng sẽ tới. Nhưng sự sa ngã của Adam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” Như vậy, Phaolô đã trả lời câu hỏi hóc búa: “Làm sao ơn cứu độ của mọi người có thể đến từ công nghiệp của một người là Đức Kitô.”
2.2/ Không ai là một hòn đảo riêng lẻ: Nhiều người bi quan thường hay đổ tội cho bà Eva hay cho ông Adam, vì họ đã gây ra tội lỗi, đau khổ, và sự chết cho con cháu. Thánh Phaolô và Giáo hội không đổ lỗi như thế, lại còn lạc quan gọi đó là “tội hồng phúc” như trong bài Exultet ca ngợi trong Đêm Vọng Phục Sinh. Thánh Phaolô liệt kê ở đây hai hồng phúc mà con người được hưởng vì tội này: (1) Con người được Thiên Chúa ban ơn cho trở nên công chính nhờ tin vào Đức Kitô. (2) Những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị với Ngài. Và Ngài kết luận: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.”
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu bị cám dỗ và Ngài đã vượt qua thành công.
Trình thuật cơn cám dỗ của Chúa Giêsu được đặt trong bối cảnh cuộc đời của Chúa Giêsu trước khi Ngài bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai. Địa điểm của chỗ cám dỗ này là Núi Quruntur vẫn còn ngày nay, một vùng núi đá chập chùng nằm giữa Jericho và Jerusalem. Nếu một người vào tu viện và leo lên đỉnh núi, họ có thể nhìn thấy rõ Đền Thờ Jerusalem từ đây. Chúa Giêsu bị cám dỗ để chọn lựa cách cứu chuộc con người: Cách dễ nhất và nhanh nhất để con người tin vào Ngài là làm phép lạ cho dân có của ăn và ban cho họ tất cả những gì họ muốn như của cải, danh vọng, uy quyền…, như sau khi Chúa làm phép lạ nuôi 5000 người, họ đã toan tính tôn Ngài làm vua nên Ngài phải bảo các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia, giải tán dân chúng, còn Ngài lên núi cầu nguyện (Jn 6:); Cách khó nhất và lâu nhất là giáo dục để họ nhận ra sự thật, giúp họ kiên nhẫn thực hành, và vượt qua đau khổ để đạt tới ơn cứu độ; cách này đòi hỏi Ngài phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng trên Thập Giá để mang lại ơn cứu độ cho con người.
3.1/ Ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu.
(1) Cám dỗ thứ nhất về sự ăn uống: Trình thuật kể “Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói.” Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!” Quỉ biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nó cũng biết Ngài mang bản tính con người nên cảm thấy đói sau khi ăn chay, và nó biết để bảo vệ sự sống, một người sẽ không nghĩ tới gì khác hơn là tìm được của ăn cho đỡ đói, nên nó cám dỗ Ngài làm phép lạ bằng cách hóa đá thành bánh ăn.
Nhưng Chúa Giêsu đáp lời quỉ và dạy chúng ta một bài học quan trọng: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” Con người là một tổng hợp của hồn và xác, như thân xác cần bánh ăn mới có thể sống cách thể lý, linh hồn cũng cần được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa thì mới có thể sống về phương diện tâm linh được. Sống phần tâm linh quan trọng hơn sống phần xác, vì đó là cuộc sống đời đời. Thế mà biết bao nhiêu người sống như không có hồn, như không phải chết, qua việc họ dành trọn vẹn thời giờ cho việc mưu sinh và bỏ qua việc học hỏi Lời Chúa. Chẳng lạ gì mà họ bị rơi vào hết cơn cám dỗ này đến cơn cám dỗ khác, và quằn quại trong đau khổ.
(2) Cám dỗ thứ hai về làm phép lạ: Sau đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ, rồi nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.” Quỉ biết người Do-thái rất thích chứng kiến hay được hưởng phép lạ, và đa số dân chúng, nhất là dân Việt-nam rất thích phép lạ. Nếu muốn con người tin, Thiên Chúa chỉ cần cho họ thấy phép lạ!
Chúa Giêsu trả lời quỉ và dạy con người bài học thứ hai: “Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” Phép lạ được làm là để khơi dậy đức tin trong tâm hồn con người: nếu một người đã có niềm tin, phép lạ không còn cần nữa; nhưng nếu một người cứng lòng, dù có chứng kiến biết bao phép lạ họ vẫn không tin. Chúng ta thấy rõ điều này nơi các người trong Thượng Hội Đồng, họ vẫn không tin Chúa và còn tìm cách hủy diệt Người. Hơn nữa, niềm tin dựa trên phép lạ không vững bền; nếu không thấy phép lạ nữa, con người sẽ đánh mất đức tin. Họ muốn biến và điều khiển Thiên Chúa thành máy làm phép lạ thay vì họ phải biết tin tưởng vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, như những gì quỉ nói: “Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.”
(3) Cám dỗ thứ ba cho giàu sang phú quí: Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi.” Cám dỗ này cho chúng ta thấy rõ ràng sự gian dối của ma quỉ, vì tất cả những thứ quỉ hứa cho thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về chúng.
Chúa Giêsu trả lời quỉ và dạy con người bài học thứ ba: “Satan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.” Đây là điều răn thứ nhất và quan trọng hơn cả. Có thể nói không một tín hữu nào không biết điều răn này; nhưng thực hành giới răn này trong cuộc sống thì không dễ dàng, vì biết bao người đã vì lợi lộc không chịu thờ phượng Thiên Chúa, lại quì sụp lạy ma quỉ. Cám dỗ này phải mở mắt cho con người hiểu rõ họ được sở hữu điều gì hoàn toàn là do bởi Thiên Chúa, chứ không từ ma quỉ, hay do bởi sức mình, hay bởi những thế lực khác.

3.2/ Những điều căn bản cần thiết để vượt qua chước cám dỗ: Trước tiên, kiến thức về Thiên Chúa và về con người là điều kiện chủ yếu để vượt qua cám dỗ. Để có kiến thức này, các tín hữu cần bỏ thời giờ để học hỏi về Thiên Chúa qua Thánh Kinh và những giáo huấn của Giáo Hội. Không biết Kinh Thánh là không biết Thiên Chúa và không biết những dự tính và đường lối của Thiên Chúa dành cho con người. Biết những điều này, con người sẽ nhận ra ngay những cạm bẫy gian dối của ma quỉ và không dễ rơi vào. Thứ đến, niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa cũng không kém quan trọng. Con người phải vững tin Ngài sẽ không bỏ mặc con người phải đương đầu với ma quỉ, nhưng sẽ sai các thiên thần và những người tốt lành đến giúp đỡ và bảo vệ các con cái của Ngài, như đã sai các thiên thần đến nâng đỡ và bảo vệ Chúa Giêsu sau cuộc cám dỗ. Sau cùng, nhược điểm của con người là nghi ngờ sự hiện hữu, tình thương, và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nhiều người lo sợ không biết có Thiên Chúa hay không, và nếu có, không biết Ngài có để mắt săn sóc đến họ không; vì thế, họ nghĩ phải tự mình lo liệu lấy cho chắc ăn.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta chỉ là loài thụ tạo vì yêu thương Thiên Chúa đã dựng nên, và có rất nhiều giới hạn. Chúng ta phải diệt trừ tội kiêu ngạo và bất tuân bằng cách tập luyện cho có được hai nhân đức khiêm nhường và tuân phục như Đức Kitô đã làm gương cho chúng ta.
– Chúng ta cần phải loại trừ cách nhìn ích kỷ và cá nhân của thế gian để học cái nhìn xả kỷ và tập thể của Thiên Chúa. Một người phạm tội, mọi người đều chịu; một người làm phúc, mọi người đều thông phần. Chỉ một lối sống như thế mới giúp chúng ta loại bỏ mọi cãi cọ, ghen tương tranh dành, ly dị, chiến tranh và đáp ứng được giới luật yêu thương như lời Chúa truyền dạy.
– Mọi cám dỗ đều có thể thắng vượt được nếu chúng ta chịu khó học hỏi Lời Chúa, và tập luyện để làm cho đức tin cho chúng ta mỗi ngày một thêm vững mạnh và kiên cường hơn.
________________________________________
Nguoi viet: Lm. Laurenso Chu van Quang, OP.

Đau khổ trong Gio-an

Đề luận – Theo thứ tự các chương trong Phúc âm Gio-an, môn đệ Đức Giê-su chấp nhận đau khổ để
Trờ nên con Thiên Chúa, sống đời đời
Chia phần đau khổ với Thày như Tô-ma
Theo ĐứC GIÊSU, vì đó mà bị loại ra khỏi cộng đồng
Làm mục tử nhân lành, đi qua “cửa chuồng chiên” là bắt chước Đức Giê-su (Ga.10:2) hy sinh mạng sống cho đoàn chiên, để chiên sống dồi dào và quy tụ (sống đời đời)
Chu toàn lời Đức Giê-su mục tử tối cao, được Cha yêu vì hy sinh tính mạng cho đoàn chiên
Tới với Chúa Cha theo cách Đức Giêsu đã đi
Ở cùng chỗ với Đức Giê-su
Chứng tỏ mình (môn đệ) thật yêu thương nhau
Khỏi u mê và giúp người khác khỏi u mê bằng cách rửa chân cho nhau
Sinh con trong thế gian, phần xác hay phần hồn, hay tác phẩm.
Thuộc về Chúa, tách khỏi thế gian bị thế gian bắt bớ (Ga.16:19).
Giúp người ta nhận biết Chúa Cha
Làm chứng cho sự thật, đứng bên Đức Giê-su trong giờ phút gian nan thử thách

Phụ trương – So sánh mục đích của đau khổ trong Gio-an và sự quyết tâm người theo Đức Giê-su phải có trong Nhất lãm

Kết luận: Trong Phúc âm Gio-an, môn đệ chấp nhận đau khổ để:

1. Trở nên con Thiên Chúa (Ga.1:12) – Bước đầu để trở nên con Thiên Chúa là ti[1] rằng Đức Giêsu có bản tính Con Thiên Chúa căn cứ theo việc Người làm luôn theo ý Chúa Cha (Ga.4:34) nhất là việc Người chấp nhận theo ý Cha, chết treo cao (Ga.8:28; 12:31-32). Ai tin rằng sự sống của con Thiên Chúa là nghe lời Thiên Chúa, thì đến lượt mình, nếu mình muốn có sự sống của con Thiên Chúa thì theo ý Chúa Cha và làm trọn việc Chúa Cha. Ai theo ý Chúa Cha thì hy sinh để lật đổ thủ lãnh thế gian là tẩy trừ tội lỗi và nâng mọi sự lên tới Người là cữu rỗi anh chị em. Đó là mầu nhiệm mà chỉ có “Con Người từ trời xuống mới biết (Ga.3:31-32) và tỏ cho môn đệ những người được chọn.

2. Chia phần đau khổ với Thày: như Ông Tô-ma, gọi là Đi-đy-mô, nói với các bạn đồng môn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy! “(Ga.11:16) (Ga.9:22; 12:42; 16:2). Phải hy sinh (Ga.12:24), theo Thày hy sinh cuộc sống hiện tại cho sự sống đời đời là ở cùng chỗ với Thày bị bắt bớ, bị ghét bỏ (Ga.15:25) ,bị giết (Ga.15:20). Đức Giê-su nói “Đã tới giờ người ta tưởng giết các con là hoàn tất nhiệm vụ đối với Thiên Chúa vì họ không biết Cha cũng không biết Thầy” (Ga.16:2-3); theo Thày, để cứu rỗi người ta và làm vinh danh Chúa như Phê-rô (Ga.21:19)

3. Làm mục tử nhân lành đi qua “cửa chuồng chiên” là bắt chước Đức Giê-su (Ga.10:2) hy sinh mạng sống cho đoàn chiên, thì mình được cứu sống và mình tìm được đồng cỏ cho chiên (Ga.10:9), cho chiên sống, sống dồi dào (Ga.10:10), và quy tụ chiên thành một đoàn (Ga.11:52).

4. Nghe mục tử mà hy sinh, vì Đức Giêsu được Cha yêu vì hy sinh tính mạng cho đoàn chiên theo ý Cha (10:16-18) ).

5. Tới với Chúa Cha theo cách Đức Giêsu đã đi và để việc mục vụ kết quả (Ga.14:6). Cách của Đức Giêsu là nghe lời Cha, và hy sinh mạng sống để lật đổ thủ lãnh thế gian, và nâng mọi sự lên tới Người. Cách của Đức Giê-su là làm mục tử hy sinh tính mạng để chiên sống dồi dào và quy tụ (xin xem các số 3, 4, 5). Kết quả của nghe lời Cha, hy sinh mạng sống mình ở đời này vì phục vụ Thày (Ga.12:24-26).

6. Yêu thương nhau thật và tận tình nên bỏ mạng vì bạn (Ga.15:13) và khiêm nhường rửa chân cho nhau (Ga.13:15), nhờ đó mà thiên hạ biết họ là môn đệ Đức Giê-su.

7. Khỏi u mê và giúp người khác khỏi u mê khi rửa chân cho nhau (Ga.13:15).

8. Sinh con trong thế gian – Các con sẽ khóc lóc than van như đàn bà sắp sinh con (Ga.16:20). Con nào? Con tinh thần, tác phẩm, công việc . . . Hạt chết thối để sinh nhiều hạt khác (Ga.12:24, 26; 21:18-19 (Ga.11:52). Cành nho chịu tỉa sinh thêm nhiều trái (Ga.15:2).

9. Chọn riêng ra khỏi thế gian vì nghe lời Chúa là chấp nhận đau khổ vì thế gian bắt bớ những kẻ không thuộc về nó (Ga.16:19). Thế gian ghét người theo Đức Giê-su vì Người làm chứng việc xấu xa của thế gian – Thế gian không thể ghét các anh, nhưng tôi thì nó ghét, vì tôi làm chứng rằng các việc nó làm thì xấu xa (Ga.7:7). Thế gian không giữ lời Thầy cũng không giữ lời các con, bắt bớ làm khổ Thầy và các con vì tôi tá không hơn chủ, họ ghét cả Thầy cả Cha Thầy (Ga.16:20-23).

10. Giúp người ta nhận biết Chúa Cha là Thiên Chúa duy nhất Đức Giê-su Ki-tô Con Cha (Ga.17:1-3) thì mình phải sống theo Đức Giêsu là thánh hiến trong sự thật là lời Cha; mà giữ lời Cha trọn vẹn thì khổ trọn vẹn vì giữ lời Người, giữ lời Người thì thế gian ghét, và giữ lời Người thì hy sinh tận tuỵ cho anh chị em.

11. Làm chứng cho sự thật, đứng bên Đức Giê-su trong giờ phút gian nan thử thách (18:37) Tỏ lòng trung thành với Đức Giê-su: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga.18:37).

Phụ chương:

So sánh lý do môn đệ Đức Giê-su cần chấp nhận đau khổ, và sự quyết tâm mô đệ Đức Giê-su phải có trong các sách khác của Tân ước:

Các sách khác cũng cổ động việc hy sinh nếu muốn theo Đức Giê-su
Muốn ngồi bên Người thì có uông được chén Người sắp uống không ((Mt.20:22) và chịu rửa như Người không? (Mc.10;38). Trước khi đăng ký làm môn đệ Đức Giê-su thì tự hỏi xem có hy sinh hoàn toàn được không!

Ai yêu cha mẹ con cái hơn Thày thì không xứng với Thày (Mt.10:37);

Ai muốn theo Đức Giê-su thì không được lưỡng lự.
Ai theo Đức Giê-su thì chịu cảnh xung đột trong chính người mình – Thầy không mang an bình nhưng chiến tranh (Mt.10:34).

Ai theo Đức Giê-su thì phải từ bỏ hết những gì mình có rồi còn phải vác thập giá. Muốn nên trọn lành, hãy bán mọi sự, cho tiến người nghèo, thì sẽ có kho tàng trên trời, rồi đến theo Người (Mt.19:21; Mc.10:21; Lc.18:22).

Ai muốn theo Đức Giê-su cần tính trước xem có bỏ hết, và cả mạng sống vì Người được không rồi mới theo.

Những đau khổ thử thách vào lúc nguy kịch nhất là những thử thách để biết ai có thật sự vâng ý Cha và muốn đứng bên cạnh Đức Giê-su không. Thánh Gio-an Tẩy giả quyết tâm giảng lời Thiên Chúa và bị hại (Mt.14:3-11).

Ai muốn theo Đức Giê-su thì từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Người (Mt.16:24; Mc.8:34).

Ai muốn làm môn đệ Đức Giê-su thì từ bỏ chính mình vác thập giá hằng ngaỳ mà theo (Lc.9:23).

Ai không vác thập giá mà theo thì không xứng với Thày (Ga.10:38), cầm cày mà còn ngoái cổ thì không xứng vào Nước Trời (Lc.9:62).

Ai muốn theo thì phải hy sinh lớn lao và quyết liệt là vác thập giá hằng ngày không vác thập giá mà theo thì không xứng với Người (Mt.10:38; Lc.14:27), và phải từ bỏ hết mọi cái mình có (Lc.14:33) theo gương Đức Ki-tô – Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. (1Pr.2:21). Còn trong Gio-an Phê-rô được gọi theo Thày, và ông sẽ bị đưa tới nơi ông không muốn, và chết cách ông không muốn để làm vinh danh Thiên Chúa – Ga 21:19) Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy”.

Kết: Cuộc sống của Đức Giê-su giaỉ thích tại sao phải đau khổ. Trong Phúc âm Gio-an, khi mình theo ý Chúa mà hy sinh hết cho Chúa bằng cách vâng theo ý Người và hy sinh hết cho anh em thì mình và anh em được sự sống muôn đời.

Đường lối đưa tới sự sống đó ngược với đường lối đưa tới sự chết của thượng tế và Phari-sêu. Ai theo đường lỗi xấu xa của họ thì bắt người khác hy sinh hết gồm cả tính mạng để mình được toại nguyện về thú vui như Hê-rô-đê giết Tẩy gia, vềtiền tài như Giu-đa Ích-ca hy sinh Thày để có thêm 30 đồng bạc, về danh dự như thượng tế và Pha-ri-sêu giết Chúa để củng cố dịa vị.

SUNDAY OF THE 1 LENTA

Readings: Gen 2:7-9; 3:1-7; Rom 5:12-19; Mt 4:1-11.
1/ Reading I: 7 Then the LORD God formed man of dust from the ground, and breathed into his nostrils the breath of life; and man became a living being. 8 And the LORD God planted a garden in Eden, in the east; and there he put the man whom he had formed. 9 And out of the ground the LORD God made to grow every tree that is pleasant to the sight and good for food, the tree of life also in the midst of the garden, and the tree of the knowledge of good and evil. RSV Genesis 3:1 Now the serpent was more subtle than any other wild creature that the LORD God had made. He said to the woman, “Did God say, `You shall not eat of any tree of the garden’?” 2 And the woman said to the serpent, “We may eat of the fruit of the trees of the garden; 3 but God said, `You shall not eat of the fruit of the tree which is in the midst of the garden, neither shall you touch it, lest you die.'” 4 But the serpent said to the woman, “You will not die; 5 for God knows that when you eat of it your eyes will be opened, and you will be like God, knowing good and evil.” 6 So when the woman saw that the tree was good for food, and that it was a delight to the eyes, and that the tree was to be desired to make one wise, she took of its fruit and ate; and she also gave some to her husband, and he ate. 7 Then the eyes of both were opened, and they knew that they were naked; and they sewed fig leaves together and made themselves aprons.
2/ Reading II: RSV Romans 5:12 Therefore as sin came into the world through one man and death through sin, and so death spread to all men because all men sinned — 13 sin indeed was in the world before the law was given, but sin is not counted where there is no law. 14 Yet death reigned from Adam to Moses, even over those whose sins were not like the transgression of Adam, who was a type of the one who was to come. 15 But the free gift is not like the trespass. For if many died through one man’s trespass, much more have the grace of God and the free gift in the grace of that one man Jesus Christ abounded for many. 16 And the free gift is not like the effect of that one man’s sin. For the judgment following one trespass brought condemnation, but the free gift following many trespasses brings justification. 17 If, because of one man’s trespass, death reigned through that one man, much more will those who receive the abundance of grace and the free gift of righteousness reign in life through the one man Jesus Christ. 18 Then as one man’s trespass led to condemnation for all men, so one man’s act of righteousness leads to acquittal and life for all men. 19 For as by one man’s disobedience many were made sinners, so by one man’s obedience many will be made righteous.
3/ Gospel: RSV Matthew 4:1 Then Jesus was led up by the Spirit into the wilderness to be tempted by the devil. 2 And he fasted forty days and forty nights, and afterward he was hungry. 3 And the tempter came and said to him, “If you are the Son of God, command these stones to become loaves of bread.” 4 But he answered, “It is written, `Man shall not live by bread alone, but by every word that proceeds from the mouth of God.'” 5 Then the devil took him to the holy city, and set him on the pinnacle of the temple, 6 and said to him, “If you are the Son of God, throw yourself down; for it is written, `He will give his angels charge of you,’ and `On their hands they will bear you up, lest you strike your foot against a stone.'” 7 Jesus said to him, “Again it is written, `You shall not tempt the Lord your God.'” 8 Again, the devil took him to a very high mountain, and showed him all the kingdoms of the world and the glory of them; 9 and he said to him, “All these I will give you, if you will fall down and worship me.” 10 Then Jesus said to him, “Be gone, Satan! For it is written, `You shall worship the Lord your God and him only shall you serve.'” 11 Then the devil left him, and behold, angels came and ministered to him.
I. THEME: Temptation

Temptations happen for all people every day. God doesn’t tempt people but He let temptations to happen to strengthen people’s faith, hope and charity for Him. The pessimists think people can’t overcome their three dangerous enemies which are the devil, the world and their own flesh; but Christians are equipped with the Scripture to recognize the truth and the sacraments to have strength to overcome all temptations.
All readings of the first Sunday of Lent, year A, give us a deep insight about temptation. In the first reading, the author of the Book of Genesis reported the fall of the first couple, Adam and Eve. The results of this temptation are terrible: people must work hard for their food, endure many suffering and die. In the second reading, St. Paul helps us to understand the relation between Adam’s sin and Christ’s merit in God’s plan of salvation. In the Gospel, the evangelist Matthew reported Jesus’ temptation in the desert before he begins his public mission and redemption. Though Christ was tempted as everyone, he triumphed over all three temptations of the devil because he always believes in God’s love and providence.
II. ANALYSIS:
1/ Reading I: Adam and Eve were felt into the devil’s temptation.
1.1/ God provided everything for people: In only three sentences of the passage, vv. 7-9, the author shows God’s power, providence and love for human beings. He created people, established a garden for people to dwell in it. The first couple lacks nothing in that garden; they can eat all kinds of fruits in there, even the fruit that gives eternal life. To test the couple’s faith and love for Him, He prohibits them to eat from the tree the fruit that helps them to know good and evil.
1.2/ The devil’s temptation and the Fall:
(1) The snake’s crafty: The author gives us an important detail, “The serpent was more subtle than any other wild creature that the Lord God had made.” The snake is the symbol of the devil; it is also God’s creature. The devil is originally angels, but betrayed God. They are shrewder than men because they have no body; that is why they made the first couple to fall into their temptation. First of all, the snake caused curiosity from the woman: Why does God prohibits the fruit from that tree? Then, he aroused suspicion in her about God’s love for her by saying, “You will not die; for God knows that when you eat of it your eyes will be opened, and you will be like God, knowing good and evil.”
(2) The meaning of the first Fall:
– The name of the tree, “to know good and evil,” gives us a deep thought about this temptation. Only God knows what is good or evil. The devils also want to be like God, they were felt because of this reason. People can’t perfectly know what is good or evil as God; but want to be like Him so that they are no longer dependent on Him. It is exactly like the tree’s name because when they ate from it, “Then the eyes of both were opened, and they knew that they were naked; and they sewed fig leaves together and made themselves aprons.” They knew the good which is to recognize God’s love for them, and the evil which is to betray God’s love. They were ashamed.
– The first sin is the sin of pride because they are human beings, but wanted to be God. This sin leads to the second sin which is the sin of disobeying what God commanded them not to do it. Eve took and ate the forbidding fruit and gave it to her husband to eat it too. After eating, they were expelled from the Garden and must suffer many sufferings and die.
– They aren’t the only ones who committed these two sins; but through generations, they still are the reasons for people to fall into temptation and to endure so much sufferings. People of all places and in every generation are still tempted to think that they can be wiser or at least, equal to God. They want to decide everything for them, not to depend on anyone; especially they don’t want to hear anyone to command them to do anything, though they know it is good for them to listen.
2/ Reading II: Christ’s humility and obedience changed God’s sentence for human beings.
2.1/ Sin and blessing affect all people: St. Paul’s answer to the question, “How can all people inherit salvation from Jesus’ merit?” must be classified as important as his answer for the question, “Why are people saved: by their faith in Christ or by their good deeds?” In today passage, he gives the answer for the first question. I try to arrange his argument in the way that it helps you to understand better.
(1) “As sin came into the world through one man and death through sin, and so death spread to all men because all men sinned.” How can we understand “all men sinned” in this sentence? There are three different understandings:
i. The original sin: All people are from the first couple, Adam and Eve, so all are inherited their sin. This is the Church’s teaching about the original sin; but not St. Paul’s idea here.
ii. Adam committed the first sin, after that all sinned; but there is not a direct relation between Adam’s and all human sins except there are two basic sins which are pride and disobedience. This understanding isn’t certain here.
iii. Adam is the symbol for all human beings as we use the word “man” to indicate either for “one man” or for “all men.” This might be what Paul wanted to imply here—all people committed sin in the first fall.
(2) The proof: Paul continued, “Sin indeed was in the world before the law was given, but sin is not counted where there is no law. Yet death reigned from Adam to Moses, even over those whose sins were not like the transgression of Adam.” For Paul, the law is called “the moral informer,” because if there is no law, there is no sin. The Ten Commandments are only given to the Israelites from Moses’ time; is this meant people committed no sins from the time of Adam to Moses? Paul said it is no such thing because people must still be died and death is the result of sins. Paul wanted to say that all people committed sins with Adam already; that is the reason for their death. Some shall question, “People can’t sin if they don’t exist yet!” Paul might answer: The collection of all people is considered as one before God, not as each single human being. Therefore, if one sins, everyone sin; if one dies, all must be died. Some can oppose, “Such are unjust!”
(3) Paul answered God isn’t unjust, because, “Adam, who was a type of the one who was to come. But the free gift is not like the trespass. For if many died through one man’s trespass, much more have the grace of God and the free gift in the grace of that one man Jesus Christ abounded for many.” Therefore, Paul answered the tough question, “How can the salvation for all come from the merit of one person, Christ?”
2.2/ No one is an isolated isle: Many pessimists lay the blame on Eve or Adam because they caused sins, sufferings and death for their descendants. St. Paul and the Church don’t blame on them, but call their sin as the “happy fault,” “the true necessary of Adam” as the Exultet praises in the Easter Vigil. St. Paul listed out here two blessings which people are enjoyed due to this sin:
(1) God let people be justified by their faith in Christ.
(2) Those are given many graces and justified by God, shall live and govern with Him.
And St. Paul concluded, “Then as one man’s trespass led to condemnation for all men, so one man’s act of righteousness leads to acquittal and life for all men.”

3/ Gospel: Jesus was tempted as any human being and overcame them.
Matthew’s report of Jesus’ temptation is put before Jesus’ public ministry. According to the tradition, this place is Mt. Quruntur today, an area of chains of mountains between Jericho and Jerusalem. If a person comes to the priory on this mountain and climbs a short distance to the top, he can clearly see Jerusalem city from his standing. Jesus was tempted to choose the way to save people. The easiest and fastest way for people to believe in him is to feed and to give people everything they desire such as: richness, fame, power, etc. as it happened later when he multiplied the five loaves of bread and the two fish to feed five thousands men. They planned to make him as their king; but Jesus rejected it by sending his apostles away while he dispersing people; then he climbed to a mountain and prayed (Jn 6:15). The most difficult and longer way is to educate them to know the truth, to patiently practice them and to overcome suffering to reach salvation. This way requires him to sacrifice his body to the last drop of blood on the Cross to bring salvation for humankind.
3.1/ Christ’s three temptations
(1) The first temptation is about bread: The passage reports, “He fasted forty days and forty nights, and afterward he was hungry. And the tempter came and said to him, “If you are the Son of God, command these stones to become loaves of bread.”” The devil knew Jesus is the son of God and since he has a human nature, he must feel hungry after forty days of fasting. A normal person shall not think of anything rather than food; so the devil came to tempt him to do a miracle to have food by converting stones into bread.
But Jesus answered the devil and teaches us an important lesson, “It is written, `Man shall not live by bread alone, but by every word that proceeds from the mouth of God.’” Man is a combination of his soul and body; as his body needs food to physically live, his soul also needs the words of God to spiritually live. The spiritual is more important than the physical life because it leads him to eternal life. But many people live as though they have no soul; they use all their time and effort for finding food and are unconcerned about studying God’s words. It isn’t a surprise if they felt from one to other temptations and greatly suffer.
(2) The second temptation is about performing miracles: “Then, the devil took him to the holy city, and set him on the pinnacle of the temple, and said to him, “If you are the Son of God, throw yourself down; for it is written, `He will give his angels charge of you,’ and `On their hands they will bear you up, lest you strike your foot against a stone.'” The devil knew the Jews like to see signs; and a great majority of people, especially the Vietnamese, likes the same. If Jesus wants people to believe in him, he only needs to perform miracles.
Jesus answered the devil and teaches us the second important question, “Again it is written, `You shall not tempt the Lord your God.'” Miracles are used to light up the faith in human mind; if a person had faith, miracles are no longer needed; but if a person is stubborn, they shall not believe even though he witnessed many miracles. We can see this fact in people of the Sandherin; they didn’t believe in Jesus but find ways to destroy him. Moreover, the faith which is based only on miracles isn’t firm; if people don’t see more miracles, they will lose their faith. They want and control God as their miracles machine instead of believe in His love and providence, as the devil said, “‘He will give his angels charge of you,’ and `On their hands they will bear you up, lest you strike your foot against a stone.”
(3) The third temptation is about richness and prosperity: “Again, the devil took him to a very high mountain, and showed him all the kingdoms of the world and the glory of them; and he said to him, “All these I will give you, if you will fall down and worship me.” This temptation shows us the devil’s falsity because all what he promises belong to God, not to him.
Jesus answered the devil and teaches us the third important lesson, “Be gone, Satan! For it is written, `You shall worship the Lord your God and him only shall you serve.'” This temptation is against the first and most important commandment. The Christians know this commandment; but to put this commandment into practice isn’t easy because many people, due to material gains, not only refuse to worship God but also worship the devil. This temptation must open our eyes to recognize that all what we possess are completely from God, not from the devil, nor from our own effort or any other powers.

3.2/ The basic things to overcome the devil’s temptation: First of all, knowledge about God and human being is the necessary condition to overcome temptation. In order to have this knowledge, people need to spend time to learn about God in Scripture and the Church’s teachings. St. Jerome said, “Ignoring of Scripture is ignoring of God.” It also ignores of God’s plans and ways for human beings. When people know these things, they shall recognize the devil’s wicked trap and don’t fall into it. Next, the faith in God’s providence is also important. People must firmly believe that God shall not leave people to face the devil by themselves, but shall send His angels and good people to help and to protect His children, as He sent His angels to administer and to protect Jesus after his temptation. Lastly, the human weak point is to doubt God’s existence, love and providence. Many people worry about God’s existence; and if He exists, does He care for them; therefore, they think that it is better for them to take care of themselves!
III. APPLICATION IN LIFE:
– We are only creatures created out of God’s love and have many limitations. We must expel the sins of pride and disobedience by acquiring the two opposite virtues of humility and obedience as Christ exemplified for us.
– We need to destroy selfishness and individualism to learn God’s generosity and collective view. When one person sins, all are affected; when one does a good thing, all are benefited. Only such a lifestyle can help us to eliminate reviling, jealousy, fighting, divorce, war and meet requirements of the commandment of love as Christ teaches us.
– All temptations can be overcome if we study Scripture and practice it so that our faith shall be more firm.

LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP