CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN A
Lời Chúa: Hc 15,16-21; 1Cr 2,6-10; Mt 5,17-37
MỤC LỤC
1. Yêu thương là chu toàn luật – Dã Quỳ 3
2. Luật mới 7
3. Luật Thiên Chúa: Luật của Tình Yêu – Huệ Minh 9
4. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành 14
5. Kiện toàn lề luật 18
6. Lề luật 20
7. Tôn trọng phẩm giá con người 23
8. Thầy bảo cho anh em biết 26
9. Sự công chính – Lm. Giuse Trần Việt Hùng 29
10. Tự do và trách nhiệm – ĐGM Giuse Vũ Văn Thiên 33
11. Sống điều mình tin – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 36
12. Tha thứ là một món quà – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 39
13. Sống tinh thần luật 42
14. Đừng giận ghét 46
15. Hãy nên hoàn thiện 48
16. Yêu ”kẻ thù” như thế nào đây? 55
17. Kiện toàn lề luật 61
18. Luật lệ: giữ trọn hay làm nên trọn? 67
19. Từ lề luật tới lương tâm. 70
20. Đừng sợ trèo lên thang. 72
21. “Thầy nói cho các con biết!”. 75
22. Chọn lựa – Lm Vũ Đình Tường 78
23. Tự do tuân giữ lề luật – Lm. GB. Trần Văn Hào 82
24. Kiện toàn lề luật. 86
25. Cuốn sách hai chữ 90
26. Giữ luật với tinh thần nào? 95
27. Lề luật mang dáng đứng tình yêu 98
28. Bỏ qua – Lm Vũ Đình Tường 103
29. Luật mới của Đức Giêsu 106
30. Nhìn người nữ…, nhìn người nam… – Lm. Minh Anh 110
31. Luật của Chúa Giêsu – PM. Cao Huy Hoàng 113
32. Gợi ý giảng của Lm Carôlô 120
33. Giáo huấn chung của Tân Ước 124
34. Thầy đến để kiện toàn lề luật 133
35. Luật của tự do và tình yêu 138
36. Đòi hỏi của luật Chúa – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 143
37. Suy niệm của Lm. F.X. Lữ Minh Điểm 148
38. Công chính hơn – Lm. Phêrô Trần Đức Cường 152
39. Anh em phải công chính hơn các kinh sư 155
40. Hãy sống yêu thương và nên trọn lành 162
41. Tuân giữ luật Chúa với lòng mến Chúa 166
42. Thứ bậc các giá trị theo Đức Giêsu. 170
43. Chú giải của Noel Quesson 180
44. Chú giải của Fiches Dominicales 186
45. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 192
46. Nếu anh em không ăn ở công chính hơn … 201
47. Tinh thần mới trong lề luật cũ 204
48. Phải giữ luật với lòng yêu mến – Lm Đan Vinh 210
49. Như hoa sen trong đầm lầy – Thiên Phúc 220
50. Những điều Chúa dạy: nét đẹp gia đình 223
51. Nét đẹp thủy chung 226
1. Yêu thương là chu toàn luật – Dã Quỳ
Đời sống dân sự và thường ngày của chúng ta đều được xoay quanh trục luật pháp. Thật vậy, bất cứ thời nào, xã hội hay tôn giáo, đều cần có luật lệ. Người ta sống và cư xử với nhau thường dựa trên luật. Đối với Do Thái Giáo, từ thời Môsê, đã có cả một sách Đệ Nhị Luật, chứa nhiều khoản luật buộc con cái Israel thực hiện. Nhưng điểm chủ yếu của lề luật vẫn là Yêu Mến Chúa (x. Đnl 6,1-13). Thế nên, khi Chúa Giêsu đến, Ngài không bãi bỏ nhưng kiện toàn lề luật và thực thi luật cách thiết thực hơn “Thầy đến không phải để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn.” Người làm cho Luật được trọn hảo và được đặt nền trên tình yêu thương.
Chúng ta đã nghe Chúa dặn “Tất cả luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn: Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn, và yêu người thân cận như chính mình.”(x. Mt 22, 37-40) Luật và các lời ngôn sứ là yếu tố cốt yếu của Kinh Thánh, diễn tả ý muốn của Thiên Chúa. Những lời ngôn sứ loan báo đều được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Vì vậy, Chúa đến trần gian là để thực hiện ý Chúa Cha và hoàn tất công trình cứu độ nhân loại “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người.”(Ga 4,34)
Đối với Chúa, không bảo thủ cố định, cũng chẳng cách mạng đổi thay tất cả. Người muốn làm cho luật có sự sống mới. Người không nệ vào truyền thống tiền nhân, nhưng cho chúng ta thấy mẫu gương thực hành luật cách sống động vì tình yêu. Vốn dĩ là Thiên Chúa, Người vẫn để cha mẹ Người thực thi luật cắt bì và dâng cho Thiên Chúa. (x. Lc 2,21-24) Chúa cũng nộp thuế và thi hành luật ngày Sabát, nhưng Người đã kiện toàn tất cả cách dứt khoát. Cốt lõi của luật là tình yêu, lòng nhân từ. Thế nên luật được làm ra nhằm phục vụ con người chứ không phải một cơ chế hay quyền lực nào. Luật vì con người, cho con người thăng tiến và được sống.
Trái lại, các kinh sư và người Pharisiêu luôn nệ luật. Họ thi hành luật cách cứng ngắc cốt chỉ để triệt hạ tha nhân. Cũng có thể họ chỉ áp dụng luật cho dân thường còn chính họ lại chẳng thi hành. Chính vì thế, Chúa đã nhắn nhủ các môn đệ “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisiêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” Vậy Luật và đức Công Chính mà Chúa mong các môn đệ và cũng muốn tất cả chúng ta, những Kitô hữu thực thi là gì?
– Đó là đừng giận ghét anh chị em mình. Vì “Ai giận anh em mình, ai mắng anh em mình là đồ ngốc, ai chửi anh em mình là quân phản đạo…đều bị phạt.”(x. Mt 5, 22) Chỉ nóng giận mắng chửi anh em đã là xúc phạm và phạm tội rồi. Chắc chắn là con người yếu đuối, trong cuộc sống ta sẽ dễ vấp phạm, nhưng Chúa khuyên ta hãy biết sống yêu thương, bác ái với nhau, làm hòa với anh em, tha thứ cho nhau, tôn trọng nhau, cảm thông và hiểu nhau. Thánh Phaolô cũng nhắc chúng ta hãy sống đức ái với nhau “Yêu thương thì nhẫn nhục, hiền hậu,…không nóng giận. Yêu thương thì tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả…”(x. 1Cr 13, 4-7) Và để ta xứng đáng đến trước Chúa với tâm hồn trong sạch và bình an, ta hãy mau đến với Bí Tích Hòa Giải để xin Chúa tha thứ và giao hòa với anh em, chứ “Đừng để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn, đừng để ma quỉ thừa cơ lợi dụng.”(Ep 4,26-27)
– Đó là giữ tâm hồn và thân xác trong trắng, vì tâm hồn chúng ta là ngai Thiên Chúa ngự và thân xác ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Vậy, với điều răn thứ 6 ta cần thực thi “Chớ làm sự dâm dục” và thứ 9 “Chớ muốn vợ chồng người.” Chúa còn muốn chúng ta thực hiện cách gắt gao hơn “Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.” Cái nhìn và tư tưởng ngoại tình đã sinh ra tội chứ không chỉ đến lúc hành động! Nếu chúng ta không biết kiềm chế bản thân từ trong ánh mắt, suy nghĩ, lời nói, ta sẽ dễ dẫn đến phạm tội. Chúa dạy ta cần ý thức và cảnh giác với những nguyên cớ dẫn đến tội, để ta tránh và quyết đoạn tuyệt, cho dù mất mát, đau thương hay phải hy sinh từ bỏ.( x. Mt 5, 29-30) Bởi vì chúng ta là con cái của Thiên Chúa, Đấng hoàn thiện, Ngài không muốn chúng ta đánh mất Nước Trời, sa vào hỏa ngục.
– Đó là chu toàn luật hôn nhân một vợ một chồng. Hôn nhân là Bí Tích Chúa đã lập “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.”(Mt 19,6) Giá trị của đời sống hôn nhân ở chỗ trung tín, thủy chung. Ảnh hưởng đời sống xã hội, hôn nhân của Kitô hữu hiện nay đang phải đối diện với những thách đố về luân lý và sự chung thủy. Những nguy cơ dẫn đến ly dị là sự ngoại tình, là bất hòa và nóng giận, là thiếu hy sinh cho nhau, không đủ kiên nhẫn, cảm thông và tha thứ. Thế nên, với gia đình Kitô hữu, ta hãy biết thực thi giới răn yêu thương của Chúa, thể hiện cách thiết thực với người thân nhất của mình là vợ, là chồng, là con cái và hãy biết sống khiết tịnh trong bậc sống của mình.
– Đó là sống chân thật, đừng thề thốt. Chúng ta đang sống trong một thời đại mà hàng thật hàng giả lẫn lộn, người thật người dối không thể nhận ra. Một không gian tràn đầy nghi ngờ vì sự thật như bị lãng quên và ai sống thật thì lạc lõng và quí hiếm. Chúa Giêsu nhắc chúng ta “Hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.” Mỗi Kitô hữu hãy khắc ghi Lời Chúa, sống và làm chứng cho chân lý giữa xã hội tha hóa hôm nay. Hãy làm chứng cho Chúa và Tin Mừng bằng đời sống chân thành, thật thà, giản dị. Chúa Giêsu, Đấng là Sự Thật, Đấng đến làm chứng cho Sự Thật. Theo Chúa, chúng ta được mời gọi sống thật trong từng lời nói, hành động đối với tha nhân. Hành xử thật thà trong cách sống; thật trong buôn bán, chăn nuôi, trồng tỉa để đem lại bình an, sức khỏe, niềm vui cho tha nhân. Bởi mọi gian dối, gian lận làm hại người, ta sẽ phải trả lẽ và sẽ lãnh hậu quả ngay trong cuộc sống này.
“Hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5, 48) Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy nên hoàn thiện trong việc thi hành Luật Chúa và Hội Thánh với Tình Yêu chứ không vụ hình thức và chỉ là bổn phận hay bị bắt buộc, như lời ĐGH Phanxicô nhắn nhủ “Đừng làm nô lệ cho Luật, nhưng Kitô hữu hãy làm nô lệ cho Tình yêu mến, bạn sẽ tự do.” Hãy tham dự Thánh Lễ, các Bí tích, cầu nguyện và thực hành việc bác ái vì yêu Chúa và yêu tha nhân. Hãy sống sâu hơn trong tâm hồn, yêu thương, tôn trọng anh chị em; chứ giận ghét, la mắng đã là xúc phạm, giết anh em rồi “Ai ghét anh em mình, thì là kẻ sát nhân.”(1Ga 3,15) Hãy tiết độ trong ánh nhìn, lời nói, bởi khi ước muốn là đã phạm tội, đã ngoại tình trong tư tưởng. Hãy sống bao dung, nhân hậu, thật thà với anh chị em. Ước mong sao từng Kitô hữu chúng ta biết sống can đảm và làm chứng cho Chúa bằng chính đời sống thánh thiện, đạo đức, yêu thương, chung thủy, chân thật của mình cho thế giới hôm nay. Vì “ai yêu thương, thì đã chu toàn lề luật.”(x. Rm 13,10)
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết tuân giữ luật Chúa và sống đời Kitô hữu vì lòng yêu mến Chúa, yêu thương anh em. Amen.
2. Luật mới
Chúa Giêsu đến không phải để phá huỷ lề luật của các tổ phụ và tiên tri, nhưng đến để làm cho trọn. Luật cũ mặc dù cũng là luật bởi trời do Thiên Chúa dạy bảo. Luật ấy gắn liền với giao ước cũ giữa Thiên Chúa và dân Do Thái, nhưng còn mang nặng tính cách nặng vụ hình thức, thích hợp với não trạng dân chúng vào cái thuở xa xưa ấy.
Trái lại, luật mới gắn liền với giao ước mới, giữa Đức Kitô và dân mới tức là Giáo Hội. Đây là luật tình thương, gắn liền với sự kết hợp thân mật giữa cá nhân với Đức Kitô. Đây cũng là luật vượt trội hơn luật cũ và bổ túc cho luật cũ, vì phải có đức tin và tình mến sâu xa nơi Đức Kitô. Chính vì vậy mà Đức Kitô cũng là cùng đích của các điều luật. Chúa Giêsu là thầy dạy luật, tức là người có quyền trên luật. Không như các tổ phụ và các tiên tri, chuyển giao lệnh truyền của Thiên Chúa. Chúa Giêsu tự phán dạy: Các ngươi đã nghe người xưa bảo. Còn Ta Ta bảo với các ngươi.
Luật mới của Người không chỉ dựa trên hình thức bên ngoài, nhưng đòi hỏi một tinh thần, xuất phát tự nội tâm, tự cõi lòng và trở nên nguồn gốc cho mọi tư tưởng, lời nói và việc làm. Các con hãy yêu mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn. Đó là một sự đòi hỏi gắt gao, chính vì thế, khi giữ luật, Chúa Giêsu đòi chúng ta phải chính trực hơn những thầy thông giáo và biệt phái thì mới được vào Nước Trời.
Có một chị nữ tu kia rất cẩn thận chu toàn luật dòng. Bê trên và chị em ai cũng quý mến và lấy chị làm gương mẫu. Dù khó khăn vất vả, chị vẫn tươi cười chu toàn bổn phận. Mọi người lấy làm lạ, hỏi chị thì chị trả lời: Tôi không bao giờ thấy luật dòng là điều khó, nhưng là điều rất dễ nếu chúng ta thật lòng yêu mến Chúa. Hay như chị Têrêsa, dù việc lớn hay việc nhỏ, chị thánh đều làm tất cả vì lòng yêu mến Chúa, như lời thánh Phaolô đã khuyên nhủ: dù ăn, dù ngủ, dù làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm vì Đức Kitô.
Bởi đó mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem: luật Chúa đối với chúng ta là một gánh nặng hay là một sự dịu ngọt. Chúng ta đã giữ luật Chúa với tinh thần nào: qua loa chiếu lệ hay là vì lòng yêu mến Chúa.
Hãy đặt tình mến Chúa vào trong những công việc tầm thường và nhỏ bé nhất, tình mến ấy sẽ là như đôi đũa thần, biến những công việc tầm thường nhỏ bé ấy trở nên những sợi chỉ vàng, dệt thành cuộc đời chúng ta và làm cho cuộc đời chúng ta có một giá trị to lớn trước tôn nhan Thiên Chúa.
3. Luật Thiên Chúa: Luật của Tình Yêu – Huệ Minh
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định một điều xem ra mâu thuẫn với thái độ của Ngài: Ta đến để kiện toàn, chứ không phải là để huỷ bỏ lề luật và các tiên tri. Trong lời khẳng định này của Chúa Giêsu, chúng ta phải hiểu là không khi nào lề luật, ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất, sẽ mất hiệu lực, nghĩa là sẽ mất tính cách bắt buộc. Vậy phải cắt nghĩ làm sao điều xem ra như mâu thuẫn giữa lời tuyên bố và hành động của Ngài đối với lề luật?
Luật Thiên Chúa còn đó! Đúng như lời Ngài đã khẳng định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc giáo huấn của các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, và cho đến khi mọi sự được hoàn thành, thì một chấm một phết trong sách luật cũng không thể bỏ đi được” (Mt5,17-18).
Về phần Đức Giêsu, Người luôn khảng định việc căn kẽ giữ luật là cần thiết “một chấm một phết trong lề luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. Các môn đệ hiểu rõ điều đó cho nên sau này, kể cả khi Đức Giêsu đã về trời, họ vẫn tuân giữ căn kẽ mọi lề luật Môsê. Các tông đồ còn muốn mọi tín hữu (nhất là các người gốc Do Thái giáo) phải tiếp tục giữ trọn luật pháp theo lời Chúa dạy: “Ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời”. Tuy nhiên, sứ mạng đích thực của Đức Giêsu không nhằm kêu gọi dân chúng giữ luật. Điều này đã được các Pharisêu, các luật sĩ… và Gioan Tiền hô làm bằng nhiều cách. Người khảng định: “Thầy đến… để kiện toàn luật Môsê!” Và không chỉ Người, mà bất cứ kẻ nào tin vào Người cũng phải kiện toàn lề luật như thế: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vài Nước Trời”.
Thiên Chúa đã trao ban cho con người một thứ quà tặng quý giá đó là sự tự do. Chính sự tự do, này nếu chúng ta biết sử dụng, sẽ đem lại cho chúng ta vẻ cao quý, bằng không nó sẽ vùi chúng ta xuống tận bùn đen.
Thiên Chúa muốn chúng ta phụng sự Ngài một cách tự do, không ép buộc, bởi vì hành động của một kẻ nô lệ, của một người máy thì làm sao tạo được công nghiệp. Sự tự do là như một chiếc chìa khoá, nhờ đó mà mở ra khung trời hạnh phúc, nhưng đồng thời cũng có thể dẫn đến biết bao nhiêu tội ác.
Thiên Chúa không bao giờ cưỡng bức chúng ta phải phụng thờ Ngài. Nhưng đồng thời, Ngài cũng không bao giờ làm cho bàn tay của kẻ độc ác bị bại liệt.
Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là Đấng kiện toàn lề luật và kiện toàn ở đây không có nghĩa là tuân giữ lề luật một cách chín chắn, trọn đủ, mà có nghĩa là làm trọn, làm cho lề luật có đầy đủ ý nghĩa của nó.
Khi Thiên Chúa tuyển chọn và kết giao ước với dân riêng của Ngài, Ngài đã ban cho họ mười điều răn, cốt yếu là những điều cấm, quy định ranh giới sinh hoạt mà kẻ thuộc về Ngài không thể vượt qua. Ở đây cũng cần phải lưu ý mười điều răn không phải là những điều kiện tiên quyết để Thiên Chúa ký kết giao ước với dân Ngài, mà trái lại, giao ước đã được ký kết do sáng kiến của chính Thiên Chúa, rồi sau đó, mười điều răn mới được mạc khải cho dân Ngài.
“Luật trần gian” có giới hạn của nó. Lòng tham, sự yếu đuối, cùng với khát vọng vô bờ bến, con người không thể sống tốt chỉ với những luật lệ trên giấy trắng mực đen đó. Người ta có thể lòn lách để trách né luật lệ, và có khi dùng chính luật lệ đó để bảo vệ sự an toàn cho mình và sống lạnh lùng đối với tha nhân.
Khi chúng ta lắng nghe cách cẩn thận những lời của Chúa Giêsu trong bài giảng của Người hôm nay, chúng ta có thể kết luận rằng, Chúa Giêsu dạy chúng ta tình yêu dành cho Thiên Chúa không tách biệt tình yêu dành cho người lân cận của chúng ta. Thật là một lỗi nghiêm trọng để hành động nếu chúng ta đặt quan hệ của mình với Thiên Chúa với tư cách cá nhân và riêng tư, không có gì để làm với tha nhân. Khi chúng ta hiểu biết Thiên Chúa như một người Cha, chúng ta phải dành tình yêu của mình cho tất cả con cái của Người.
Chúa Giêsu dạy các môn đệ thực hành niềm tin bằng cách: đừng giận ghét. Chúa dạy như vậy có khả thi không? Bởi vì trên đời này, dù một người hiền lành đến mấy cũng không tránh khỏi đôi lần nổi giận. Chính Chúa Giêsu cũng đã nổi giận với những người buôn bán trong Đền thờ kia mà!
Chúa dạy đừng giận ghét, thì ta phải hiểu rằng: ta không được ghét ai, nghĩa là loại trừ họ, đó là điều trái với đức thương yêu, nhưng đồng thời ta cũng phải tập làm chủ nhưng cơn nóng giận của mình. Việc đó có thể làm được với ơn Chúa và nhất là với đời sống cầu nguyện, vì đó là cách thức chúng ta dễ nâng tâm hồn lên với Chúa để Ngài thanh luyện tâm hồn chúng ta thuộc về Chúa và gần gũi với tha nhân hơn.
Tình yêu chính là Luật Mới đã được Đức Giêsu công bố trong bài giảng trên núi: “Tôi không đến để bãi bỏ Lề Luật, nhưng là để kiện toàn”, nghĩa là Đức Giêsu công bố lại ý hướng nguyên thuỷ của Thiên Chúa diễn tả qua Lề Luật, đó là Tình Yêu. Ngài muốn đặt tình yêu làm nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như bản thân mình”.
Nếu tình yêu chân thật là nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa, thì con người sẽ không bao giờ dám lên tiếng phàn nàn than trách Thiên Chúa. Nếu tình yêu là nền tảng cho mối tương quan giữa người với người, thì sẽ không còn cảnh tranh giành, xung đột, hận thù lẫn nhau nữa.
Luật mới của Đức Giêsu sẽ tạo nên những con người mới, một xã hội mới, tạo nên “Nước Trời”: “Anh em hãy trở nên hoàn thiện như chính Thiên Chúa là Đấng Hoàn Thiện”. Trong một số ví dụ được Đức Giêsu đưa ra như giết người, gian dâm, bội thề… Luật mới không chỉ dừng lại ở những hành động tội ác, mà đòi hỏi phải đổi mới tận chiều sâu của tâm hồn, tận trái tim yêu thương
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống theo tinh thần phúc âm. Hãy ăn ở ngay lành. Hãy làm việc thiện. Hãy từ bỏ những tính hư nết xấu, những đam mê tội lỗi. Đừng có đạo mà sống xa rời tình nghĩa với anh em, xa rời tình nghĩa với Chúa. Đạo không dừng lại ở việc tuân giữ điều này điều kia mà còn thể hiện tình liên đới, sự chia sẻ, cảm thông với anh em. Đạo được quy chiếu vào lòng mến. Mến Chúa thì phải yêu mến anh em. Tình yêu đó đòi hỏi phải sống hiệp thông với nhau trong yêu thương và tha thứ. Tình yêu đó đòi hỏi tránh xa những mâu thuẫn, những ghen ghét, giận hờn. Chúa còn coi trọng sự hoà giải với nhau hơn cả việc đến dâng của lễ. Vì khi “anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người đang bất bình với anh, thì hãy bỏ của lễ mà đi làm hoà trước đã rồi hãy trở lại mà dâng lễ”.
Nhìn vào thế giới hôm nay đó là một thế giới đầy bạo lực. Con người không cần lý lẽ. Người ta có thể dùng quyền để bẻ cong công lý. Người ta dùng sức mạnh để đè bẹp tự do và xâm phạm quyền sống của tha nhân. Vâng, giữa một thế giới mà sự thù hận luôn đòi loại trừ nhau bằng bạo lực, bằng gươm đao. Giữa một thế giới mà lòng nhân đã đánh mất chỉ còn sự giả hình, hay nhẹ hơn là mạnh ai nấy lo, sống thiếu tình liên đới với nhau. Người kytô hữu cần phải thể hiện cho người ta thấy lòng bao dung và tha thứ vẫn còn tồn tại trên trần gian. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể làm điều ấy. Vì Chúa chúng ta hãy nhịn nhục lẫn nhau. Vì Chúa chúng ta hãy tha thứ cho nhau. Vì Chúa chúng ta hãy “chín bỏ làm mười”, sống vị tha và bác ái với nhau.
4. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Đức Giêsu là mẫu gương tuân giữ Lề Luật: Ngài giữ luật nộp thế cho đền thờ như bất cứ ai (x. Mt 17, 24-27); Ngài giữ luật hành hương lên đền thờ Giê-ru-sa-lem để dự lễ vượt qua (x. Lc 2,41-42).
Cả cuộc đời của Ngài đã sống theo ý Chúa Cha, Ngài nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Trước cái chết khổ hình, Ngài đã cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin theo ý Cha đừng theo ý con”(Lc 22,44).
Đức Giêsu không những tuân giữ Lề Luật mà Ngài còn kiện toàn Lề Luật. Ngài nói: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”(Mt 5,17). Nghĩa là, Luật Mô-sê vẫn giữ nguyên, không thể bãi bỏ dầu một chấm một phết, nhưng luật đó được Đức Giêsu kiện toàn. Ngài kiện toàn bằng cách lấy tình thương làm nền tảng và làm kim chỉ nam cho việc tuân giữ luật. Xin được nêu lên mấy dẫn chứng sau đây:
Thứ nhất, Đức Giêsu kiện toàn luật ngày Sa-bát: Ngài đã dùng câu chuyện lịch sử trong sách Sa-mu-el (x. 1Sm 3-7) để giúp cho người Do thái hiểu được tinh thần giữ luật như thế nào, Ngài nói: “Các ông chưa đọc trong Sách sao? Ông Đa-vít đã làm gì, khi ông và thuộc hạ đói bụng? Ông vào nhà Thiên Chúa, và đã cùng thuộc hạ ăn bánh tiến. Thứ bánh này, họ không được phép ăn, chỉ có tư tế mới được ăn mà thôi. Hay các ông chưa đọc trong sách Luật rằng ngày sa-bát, các tư tế trong Đền Thờ vi phạm luật sa-bát mà không mắc tội đó sao?”(Mt 12, 3-5).
Chính vì chủ trương giữ luật vì tình thương nên chúng ta thấy trong ngày sa-bát: Ngài vẫn chữa lành cho người có tay khô bại (x. Mt 12,9); chữa lành cho người đàn bà bị còng lưng được đứng thẳng (x. Lc 13,10); chữa lành cho người mắc bệnh phù thũng được khỏi (x. Lc 14,1); chữa lành cho người bất toại nằm bên bờ hồ có năm dãy hành lang (x. Ga 5,1t); hóa bánh ra nhiều để nuôi hàng ngàn người dân ăn no nê (x. Ga 6,4); chữa lành cho người mù từ thuở mới sinh (x. Ga 9,16).
Tất cả những việc làm đó của Đức Giêsu nói lên việc kiện toàn lề luật của Ngài đối với ngày Sa-bát. Đúng như lời Ngài khẳng định: “Ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sa-bát” (Mc 2,27).
Thứ hai, Đức Giêsu kiện toàn luật giết người: Luật Mô-sê dạy: “Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà”(Mt 5, 21). Còn Đức Giêsu dạy: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt”(Mt 5, 22). Như vậy, Đức Giêsu không những cấm “giết” người mà Ngài còn cấm cả những thái độ “giận”, “mắng” và “chửi” anh em. Bởi vì, những hành động đó là mầm mống có thể dẫn đến việc giết người. Chính thánh Gioan đã khẳng định: “Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân”(1Ga 3,15).
Thứ ba, Đức Giêsu kiện toàn luật ngoại tình: Luật Mô-sê cấm ngoại tình. Đức Giêsu không chỉ cấm ngoại tình mà Ngài còn cấm cả tư tưởng ngoại tình, tức là nguyên nhân sinh ra tội ngoại tình. Chính vua Đa-vít đã phạm tội ngoại tình nguyên do từ cái nhìn (x. 2Sm 11,2). Vì thế, Ngài nói: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”(Mt 5,28). Cho nên, Ngài mời gọi chúng ta phải có hành động dứt khoát với nguyên nhân sinh ra tội giống như móc mắt, chặt tay, chặt chân vậy. Ngài nói rằng: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục”(Mt 5, 29-30).
Thứ tư, Đức Giêsu kiện toàn luật một vợ một chồng: Luật Mô-sê dạy: “Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị.” Đức Giêsu cấm hẳn ly dị hoặc đa thê. Vì thế, khi có mấy người Pha-ri-siêu hỏi Ngài có được phép rẫy vợ vì bất cứ lý do gì không? Ngài trả lời rằng: “Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19, 4-6). Ngài còn cho biết rõ hơn: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình” (Mt 5, 32).
Thứ năm, Đức Giêsu kiện toàn luật lời thề: Luật Mô-sê cho phép thề, nhưng “chớ bội thề,” còn Đức Giêsu bảo: “Đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được” (Mt 5, 34-36). Sỡ dĩ Đức Giêsu cấm thề, là vì lời nói cần phải có giá trị: “Nhưng hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37).
Ngoài ra, Đức Giêsu còn kiện toàn luật ăn chay, cầu nguyện, bố thí (x. Mt 6, 1-18), luật báo thù (x. Mt 5, 38-42), luật yêu thương (x. Mt 5, 43-48).
Như vậy, Đức Giêsu không chỉ là mẫu gương tuân giữ Lề Luật mà Ngài còn kiện toàn Lề Luật theo tiêu chí tình thương.
Ai cũng biết trong đời sống xã hội cũng như trong đời sống tôn giáo, luật lệ có tầm quan trọng rất lớn. Luật lệ để giúp cho cá nhân và tập thể sống có trật tự, có nề nếp, có nhân cách, có trách nhiệm, đồng thời ngăn chặn được cái xấu, cái ác, sự bất công. Vì thế, người sống theo luật lệ sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cá nhân và tập thể. Thánh Bênađô Viện phụ nói: “Ai giữ luật thì luật gìn giữ người ấy.” Ngược lại, người sống vô kỷ luật là người thiếu nhân cách, thiếu trách nhiệm, dễ sa vào các tệ nạn, ảnh hưởng tới gia đình và xã hội cũng như Giáo hội. Tác giả sách Huấn ca trong bài đọc I cho chúng ta biết: Con người có tự do để lựa chọn hay khước từ các điều răn của Chúa, nhưng ai nấy đều phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Giữ luật Chúa thì được sống, khước từ luật Chúa thì phải chết (x. Hc 15, 16-21).
Người kitô hữu chúng ta được mời gọi tuân giữ Lề luật, đặc biệt là luật Chúa. Vì “Sống theo luật là sống theo Chúa.” (Thánh Grêgôriô). Nhưng chúng ta tuân giữ luật Chúa như thế nào? Phải tuân giữ luật Chúa với tinh thần của Đức Giêsu, đó là giữ luật vì tình thương và lòng yêu mến. Tránh tình trạng giữ luật theo kiểu biệt phái và luật sĩ: Giữ luật theo hình thức bên ngoài mà trong lòng trống rỗng hay chỉ giữ những điều phụ thuộc mà quên đi những điều chính yếu, giữ những luật nhỏ nhặt mà quên đi công bình bác ái yêu thương.
Lạy Chúa, xin cho con biết giữ luật Chúa với tinh thần yêu mến. Amen.
5. Kiện toàn lề luật
Đọc Tin Mừng nhiều lúc chúng ta có cảm tưởng như là Chúa Giêsu đã coi thường những quy định có tính cách tôn giáo của xã hội lúc bấy giờ. Không chỉ coi thường mà đôi lúc Ngài còn như cố tình vi phạm những luật lệ ấy, chẳng hạn Ngài chữa bệnh vào ngày nghỉ lễ, hay không rửa tay trước khi ăn theo luật dạy. Dù sao thì thái độ như có vẻ tự do của Ngài đối với bọn Pharisêu là điều không thể chấp nhận được, và đã trở thành căn nguyên dẫn Ngài đến cái chết nhục nhã trên thập giá.
Thế nhưng, qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, Chúa Giêsu lại khẳng định một điều xem ra mâu thuẫn với thái độ của Ngài: Ta đến để kiện toàn, chứ không phải là để huỷ bỏ lề luật và các tiên tri. Trong lời khẳng định này của Chúa Giêsu, chúng ta phải hiểu là không khi nào lề luật, ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất, sẽ mất hiệu lực, nghĩa là sẽ mất tính cách bắt buộc. Vậy phải cắt nghĩ làm sao điều xem ra như mâu thuẫn giữa lời tuyên bố và hành động của Ngài đối với lề luật?
Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là Đấng kiện toàn lề luật và kiện toàn ở đây không có nghĩa là tuân giữ lề luật một cách chín chắn, trọn đủ, mà có nghĩa là làm trọn, làm cho lề luật có đầy đủ ý nghĩa của nó.
Khi Thiên Chúa tuyển chọn và kết giao ước với dân riêng của Ngài, Ngài đã ban cho họ mười điều răn, cốt yếu là những điều cấm, quy định ranh giới sinh hoạt mà kẻ thuộc về Ngài không thể vượt qua. Ở đây cũng cần phải lưu ý mười điều răn không phải là những điều kiện tiên quyết để Thiên Chúa ký kết giao ước với dân Ngài, mà trái lại, giao ước đã được ký kết do sáng kiến của chính Thiên Chúa, rồi sau đó, mười điều răn mới được mạc khải cho dân Ngài.
Bên trong ranh giới được ấn định bởi những điều cấm là cả một khoảng trống. Khoảng trống này dần dà được lề luật lấp đầy, rồi đến lượt các luật sĩ giải thích và những giải thích này đã biến thành một mạng lưới dày đặc những quy định, những nghi thức len lỏi vào từng chi tiết của cuộc sống con người và xã hội. Và như thế con người lâm vào tình trạng mình có vì lề luật, trở nên nô lệ cho lề luật, thay vì lề luật có là vì con người.
Trong tình trạng này, lề luật bỗng được giao cho vai trò môi giới trong quan hệ giữa con người và Thiên Chúa. Người ta được quan hệ với Thiên Chúa hay bị cắt đứt mối liên hệ ấy một cách máy móc do tuân giữ hay không tuân giữ các điều khoản của lề luật. Hơn nữa, các luật sĩ đã đề ra những điều khoản mà không phải ai cũng có thể tuân giữ được. Người ta không tuân giữ được, không phải vì thiếu thiện chí, thiếu lòng đạo đức, nhưng vì những điều kiện khách quan của cuộc sống, của nghề nghiệp không cho phép, nên quả thực, các luật sĩ đã khoá cửa Nước Trời đối với đông đảo thành phần trong dân Chúa.
Chính những lề luật và cách hiểu về vai trò của lề luật này đã bị Chúa Giêsu đả phá. Ngài phủ định vai trò môi giới của lề luật. Đối với Ngài, điều quyết định trong mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa, cũng như giữa con người với nhau không phải là việc tuân giữ các điều khoản của lề luật mà chính là lời của Chúa Giêsu và việc thi hành lời của Ngài: Ngay cả kẻ được coi là công chính, vì trung thành tuân giữ các điều khoản của lề luật cũng được đòi hỏi phải trở lại với lời của Ngài.
Từ đó chúng ta mới hiểu được vai trò kiện toàn lề luật của Chúa Giêsu, chính Ngài mới làm cho lề luật được đầy đủ ý nghĩa của nó.
6. Lề luật
Thiên Chúa đã trao ban cho con người một thứ quà tặng quý giá đó là sự tự do. Chính sự tự do, này nếu chúng ta biết sử dụng, sẽ đem lại cho chúng ta vẻ cao quý, bằng không nó sẽ vùi chúng ta xuống tận bùn đen.
Thiên Chúa muốn chúng ta phụng sự Ngài một cách tự do, không ép buộc, bởi vì hành động của một kẻ nô lệ, của một người máy thì làm sao tạo được công nghiệp. Sự tự do là như một chiếc chìa khoá, nhờ đó mà mở ra khung trời hạnh phúc, nhưng đồng thời cũng có thể dẫn đến biết bao nhiêu tội ác.
Thiên Chúa không bao giờ cưỡng bức chúng ta phải phụng thờ Ngài. Nhưng đồng thời, Ngài cũng không bao giờ làm cho bàn tay của kẻ độc ác bị bại liệt.
Bài đọc thứ I nói với chúng ta như sau: Nếu ngươi muốn, ngươi hãy tuân giữ những giới luật của Ta. Việc trung thành là tuỳ ở nơi ngươi. Trước mặt ngươi là sự sống và sự chết, ngươi có thể tuỳ nghi lựa chọn.
Tuy nhiên có kẻ sẽ nói: Sự gì phải đến, ắt sẽ đến. Tôi nghĩ rằng không phải là như thế, mỗi người chúng ta phải làm chủ lấy vận mạng của đời mình. Bởi vì chính chúng ta có thể đem lại hạnh phúc hay khổ đau muôn đời cho bản thân. Thiên Chúa có thể giúp đỡ và phù trợ chúng ta bằng ân sủng của Ngài, tuy nhiên không bao giờ Ngài bắt buộc chúng ta phải bước theo Ngài. Trong chiều hướng ấy, Péguy đã viết như sau: Nếu Thiên Chúa quá nâng đỡ, thì con người sẽ mất hết tự do, trái lại nếu Thiên Chúa không nâng đỡ đủ, thì con người sẽ sa ngã. Sự trợ gúip của Ngài không bao giờ huỷ diệt sự tự do mà chính Ngài đã trao ban cho chúng ta.
Cũng chính trong sự tôn trọng tự do mà chúng ta bước vào lãnh vực lề luật. Đúng thế, Chúa Giêsu đã so sánh luật của Cựu Ước với luật của Tân Ước là luật của tình yêu. Ngài đến không phải để xoá bỏ nhưng để kiện toàn. Ngài đã đưa ra nhiều trường hợp cụ thể. Chúng ta chỉ nhắc lại nơi đây hai trường hợp mà thôi.
Trường hợp thứ nhất, Cựu Ước dạy: Chớ giết người. Trong khi đó Chúa Giêsu bảo chúng ta không được ghét bỏ người anh em. Và Ngài còn đi xa hơn nữa khi đòi buộc chúng ta phải yêu mến kẻ thù và làm ơn cho những kẻ ghét bỏ chúng ta.
Trường hợp thứ hai, Cựu Ước dạy: Chớ ngoại tình. Trong khi đó Chúa Giêsu bảo chúng ta không những phải giữ gìn vẻ trong sạch cho thân xác, mà còn bảo chúng ta phải giữ gìn vẻ trong sạch cho tâm hồn. Ngài phán: Ai nhìn xem người nữ, mà có lòng ước ao thì đã phạm tội rồi.
Từ đó Ngài muốn chúng ta luôn luôn tấn công tội ác đến tận cội nguồn, đến tận căn nguyên. Bởi vì trái tim hay lòng muốn là nơi xuất phát ra những điều tốt cũng như những điều xấu.
Cha thánh Vianney có một trực giác bén nhạy về những hậu quả không hay do những cuộc khiêu vũ gây nên, bởi đó, ngài đã thẳng thắn phê bình và chỉ trích. Ngày kia ngài gặp một bác nhà quê cùng với đúa con gái của bác đang bước đi trên đường. Hôm đó lại là ngày Chúa nhật và hai bố con đang dắt nhau đi tham dự một cuộc khiêu vũ ở làng bên cạnh. Thấy ngài, bác nhà quê liền chống chữa:
– Thưa cha, nó không đi nhảy mà chỉ xem người ta nhảy mà thôi.
Thế nhưng ngài trả lời:
– Tay chân nó không nhảy nhưng trái tim nó đã nhảy, tay chân nó không múa may quay cuồng nhưng lòng nó đã múa may quay cuồng.
Bởi đó phải cương quyết xa tránh những dịp tội nếu muốn bảo vệ vẻ trong trắng cho tâm hồn, bởi vì như lời Chúa đã phán: Thà rằng mất một chi thể còn hơn toàn thân bị đày đoạ trong hoả ngục.
7. Tôn trọng phẩm giá con người
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Con người có phẩm giá rất cao quý
Một hôm, vị linh mục giảng tĩnh tâm cho giới trẻ giáo xứ nêu đề tài sau đây cho hai nhóm thanh niên thảo luận: “Các bạn hãy cho ý kiến: phẩm giá của bức tượng Đức Mẹ (đề cập đến bức tượng Đức Mẹ chứ không đề cập đến Đức Mẹ đâu nhé) và phẩm giá của các Kitô hữu đang sống chung quanh ta, bên nào trọng hơn?”
Thấy câu hỏi dễ ợt, không cần suy nghĩ, nhóm A giơ tay phát biểu trước: “Tất nhiên là phẩm giá của tượng Đức Mẹ cao trọng hơn.”
Nhóm B trầm tĩnh hơn, sau khi suy nghĩ chín chắn, phát biểu ngược lại: “Phẩm giá người Kitô hữu cao trọng hơn.”
Nhóm A nhao nhao phản đối, nhưng rồi đại diện nhóm B bày tỏ lập luận của nhóm mình như sau:
Sở dĩ chúng tôi quả quyết phẩm giá người tín hữu cao trọng hơn phẩm giá của tượng Đức Mẹ là vì những lý do sau:
– Thứ nhất: Tượng Đức Mẹ không phải là hiện thân của Đức Mẹ mà chỉ là hình hài tượng trưng cho Đức Mẹ, do bàn tay người phàm tạo ra bằng thạch cao hoặc bằng gỗ đá, không có linh hồn, không có sự sống; trong khi những con người chung quanh ta đây thực sự là hình ảnh sống động của Thiên Chúa, là hiện thân của Chúa Giêsu, có linh hồn, có sự sống, có trí khôn, do chính Ba Ngôi Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Chúa.
– Thứ hai: Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Tẩy để tái sinh các tín hữu, cho họ trở nên con Thiên Chúa, cho họ được tháp nhập vào thân mình Chúa như cành nho tháp vào thân nho, như bàn tay nối liền cơ thể, để các tín hữu được trở nên chi thể của Chúa Giêsu. Các bức tượng thánh không được vinh dự đó.
– Thứ ba: Các tín hữu đều được lãnh nhận dồi dào Chúa Thánh Thần trong ngày lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức; ảnh tượng Đức Mẹ không được đặc ân rất cao quý nầy.
– Thứ tư: Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể để ban Thịt Máu Ngài cho các tín hữu, cho họ được trở nên đồng huyết nhục với Ngài, cho họ được tiếp nhận sự sống thần linh của Ngài. Các bức tượng thánh không được vinh dự tuyệt vời như thế.
– Thứ năm: Mai đây, các bức tượng thánh sẽ bị mai một theo thời gian, còn các tín hữu sống theo đường lối Chúa sẽ được lên thiên đàng hưởng phúc đời đời với Chúa. Không một bức tượng thánh nào được diễm phúc lớn lao như thế.
Đến đây thì nhóm A không thể chống chế được và tất cả đều chấp nhận rằng phẩm giá người tín hữu nói riêng, của con người nói chung, là rất cao cả. Chưa có một chủ nghĩa, một học thuyết nào của nhân loại đề cao phẩm giá con người đến thế.
Cuối cùng, vị linh mục giảng tĩnh tâm kết luận: Như thế, chúng ta chấp nhận rằng con người có phẩm giá rất cao và mọi người đều đáng được kính trọng tương xứng với phẩm giá của mình. Tuy nhiên, khi đề cao phẩm giá người Kitô hữu hơn tranh ảnh thánh không có nghĩa là bác bỏ việc tôn kính ảnh tượng thánh. Đúng ra, chúng ta phải tôn kính ảnh tượng Đức Mẹ và các thánh như Giáo Hội dạy, và mong sao chúng ta cũng có lòng tôn trọng tương xứng đối với anh chị em chung quanh.
Không được xúc phạm con người
Vì con người có phẩm giá cao cả như thế, nên Chúa Giêsu rất mực tôn trọng họ, kể cả những người tội lỗi và Chúa đã mạnh mẽ cảnh báo rằng: người nào xúc phạm đến con người, chà đạp danh dự con người, làm tổn thương phẩm giá con người sẽ phải gánh lấy những hình phạt nặng nề:
“Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt.” (Mat-thêu 5, 22)
Ngoài ra, Chúa Giêsu cũng nhắc nhở chúng ta rằng tha nhân là hiện thân của Ngài và tất cả những gì chúng ta làm cho các anh chị em chung quanh là làm cho chính Chúa. (Mat-thêu 25,40)
Vì thế, khi chúng ta giận ghét anh em mình là giận ghét Chúa, tội đó đáng bị đưa ra toà; khi ta mắng anh em là ngốc, là khùng, chửi anh em là quân phản đạo… là chúng ta xúc phạm đến chi thể của Chúa Giêsu, tức là xúc phạm đến chính Ngài, vì thế nên đáng bị vạ lửa địa ngục như Lời Chúa phán.
* * *
Từ lâu nay, vì đánh giá thấp về người khác nên chúng ta cho rằng việc chửi mắng họ là chuyện thường tình. Nay Chúa Giêsu cho biết đó là một xúc phạm nặng đến phẩm giá cao cả của người khác, đồng thời cũng là xúc phạm đến Chúa nên phải bị luận phạt nặng nề.
Ước chi nhận thức nầy giúp chúng ta có thái độ tôn trọng tha nhân nhiều hơn và tuyệt đối không bao giờ chửi mắng, xúc phạm bất kỳ ai.
8. Thầy bảo cho anh em biết
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J)
Suy Niệm
Thiên Chúa là một nhà giáo đầy kinh nghiệm. Ngài đòi hỏi con người phải vươn lên, vươn cao lên mãi, nhưng Ngài không đòi hỏi điều vượt quá khả năng của họ.
Khi ban Mười Điều Răn cho dân Israel, qua ông Môsê, Ngài đưa họ ra khỏi tình trạng sống theo luật rừng. Luật Môsê là một tiến bộ lớn trong nền luân lý, nhưng vẫn chỉ là bước chuẩn bị cho luật của Đức Giêsu.
Luật mới này không phá bỏ, nhưng kiện toàn luật cũ.
Kitô hữu không chỉ xét mình theo Mười Điều Răn, mà hơn nữa còn xét mình theo tinh thần Bài giảng Trên núi. Lời của Chúa Giêsu phải là thước đo để ta xét mình. Có khi nào bạn tự kiểm dựa trên một đoạn Tin Mừng không?
Đoạn Tin Mừng hôm nay mời ta nhìn lại miệng và mắt, hai giác quan dễ được dùng để phạm tội.
Miệng là nơi phát xuất những lời lăng mạ, dối trá. Lời nói biểu lộ tâm hồn con người: lòng có đầy mới tràn ra miệng (x.Mt 12,34). Khi đêm về, nhìn lại những gì mình đã nói, ta thường thấy có rất ít yêu thương và sự thật, nhưng lại đầy ắp cái tôi ích kỷ, lọc lừa.
“Ai không vấp ngã về lời nói, ấy là người hoàn hảo, có khả năng làm chủ được toàn thân (Gc 3,26).
Mắt là cơ quan tiếp thu thế giới bên ngoài. Mắt không chỉ là cửa sổ, mà là cửa chính của tâm hồn. Các cơn cám dỗ thường qua cửa đó mà đến với ta.
Mắt thích nhìn cái đẹp. Eva nhìn trái cấm, Đavít thấy người phụ nữ khỏa thân.
Cái nhìn đem lại khoái lạc và thổi bùng lên ngọn lửa thèm muốn, khiến người ta dám làm chuyện trái luân thường đạo lý.
Chúng ta đang bị bao vây trong một thế giới đầy hình ảnh. Tivi, phim ảnh, sách báo, video, thời tranh, quảng cáo… tất cả tìm cách lôi cuốn cái nhìn của ta, kích thích khoái lạc nơi con mắt và cả thân xác.
Những điều cao quý và thiêng liêng như thân xác, như đời sống thầm kín vợ chồng lại bị trở thành tầm thường, dung tục. Tình yêu chỉ còn là vội vã chiếm đoạt thân xác nhau trong cơn mê say nhất thời, chứ không phải là sự trân trọng hiến dâng chính mình trong một quyết định chín chắn và đầy trách nhiệm.
Đức Giêsu nói đến thứ ngoại tình do cái nhìn thèm muốn.
Làm sao tôi giữ được đôi mắt trong suốt của trẻ thơ?
Làm sao để trí tưởng tượng và trí nhớ không bị vẩn đục?
Làm sao để tôi nhìn người phụ nữ như chị, em của tôi?
Làm sao để chính người phụ nữ không tự biến mình thành đồ chơi để người khác ngắm nghía?
Gợi Ý Chia Sẻ
“Thành thật thường thua thiệt”, bạn có thấy điều đó đúng không? Bạn có nghĩ rằng thành thật là đức tính nền tảng cho mọi tương quan giữa người với người không?
Nơi giới trẻ đã có nhiều biểu hiện của sự trụy lạc, sa đọa. Bởi đâu có những tệ nạn như thế? Giới trẻ công giáo đóng góp gì để bầu khí xã hội được thanh khiết?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và that vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
9. Sự công chính – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Có thánh lễ an táng trong khu phố. Mọi người trong xóm đạo đều có mặt. Cha xứ có công truyện phải vắng mặt vào ngày đó, nhưng cha rất vui lòng vì có cha phó sẽ cử hành thánh lễ an táng. Cha phó là người dễ dãi và nhạy bén cảm tình. Khi chiều đến, cha xứ trở về hỏi han xem lễ an táng diễn tiến thế nào? Cha phó trả lời:Mọi sự tốt đẹp, không có vấn đề gì cả. Đông người tham dự, nhưng cũng có một vấn đề nho nhỏ. Vấn đề gì thế? Bà Robinson có mặt tại lễ an táng và như cha biết bà là người Tin Lành. Ô! không có vấn đề, vì tôi cũng mong có bà hiện diện ở đó vì bà là bạn thân của gia đình đó mà. Cha phó nói: Ô, nhưng bà ta đã xếp vào hàng đi lên rước lễ. Cha xứ vội ngồi xuống ghế và với vẻ mặt lo lắng bồn chồn. Cha giật nẩy mình hỏi: Điều gì đã xảy ra? Cha phó trả lời: Bà ta xếp hàng lên rước lễ và chỉ còn cách có hai người nữa thì con mới nhìn thấy bà ta. Cha xứ hỏi dồn: Kể tiếp, kể tiếp và cha đã nghĩ gì và làm gì? Cha phó: Con không biết phải làm sao nữa, nhưng con phải quyết định nhanh. Con quyết định ngay rằng con nên làm điều mà con tin Chúa Giêsu sẽ làm. Cha xứ: Ô! không, lạy Chúa tôi, chắc là cha đã không làm điều đó chứ!
Khi mở mắt đón chào một ngày mới, mỗi người chúng ta đều có quyền chọn lựa cho mình một thái độ sống vui hay buồn. Nếu chọn sống vui, chúng ta sẽ có một ngày vui tươi an lạc. Chúng ta sẽ dễ dàng chấp nhận mọi trạng huống xảy đến, dù thuận lợi hay không thuận lợi. Đối diện với cuộc sống hàng ngày, chọn lựa thái độ sống là cần thiết, như tác giả sách Đức Huấn Ca đã viết: Trước mặt con người là sự sống và sự chết, sự lành và sự dữ, họ thích thứ nào thì được thứ ấy (Hc 15, 17). Sự lành hay sự dữ, mong ước thứ nào sẽ được thứ ấy. Vì sự tốt lành mà chúng ta nhìn thấy nơi người khác, thì cũng ẩn hiện trong chúng ta. Những lỗi lầm chúng ta nhìn thấy nơi người khác, cũng là lỗi lầm của chúng ta. Những khả thể chúng ta nhận biết nơi người khác, thì cũng khả thể nơi mình. Nhận biết sự tốt đẹp chung quanh, cũng chính là sự tốt đẹp của chúng ta.
Thế giới chung quanh là một sự phản ảnh, giống như chiếc gương phản chiếu khuôn mặt của chúng ta. Để thay đổi thế giới quanh ta, chúng ta phải thay đổi chính mình trước. Khi chúng ta than phiền hay càm ràm, thì chỉ làm cho vấn đề thêm rắc rối và tồi tệ hơn. Bất cứ điều gì chúng ta quan tâm, đó là trách nhiệm của chúng ta. Điều chúng ta nhìn thấy nơi người khác thì cũng xuất hiện nơi con người chúng ta. Nhìn thấy cái tốt nơi người khác và chúng ta cũng trở nên tốt. Những gia sản mà chúng ta chia sẻ cho người khác, là chúng ta đang cho chính mình. Ước mong sự tốt lành và chúng ta sẽ được tốt lành. Yêu và chúng ta sẽ được yêu. Tìm học hỏi và chúng ta sẽ được hiểu biết. Lắng nghe và lời của chúng ta sẽ được lắng nghe. Chúng ta nhìn vào gương với khuôn mặt rạng rỡ, chúng ta sẽ vui mừng vì cùng khuôn mặt vui tươi đang nhìn lại mình.
Thiên Chúa truyền dạy chúng ta hãy tránh điều ác và thực hành điều thiện: Người không truyền dạy cho ai làm điều gian ác và không cho phép một ai phạm tội (Hc 15, 20). Con người yếu đuối hay hướng chiều về đàng xấu và thích tìm thỏa mãn những đòi hỏi của bản năng thấp hèn. Chúng ta biết rằng thả dốc thì dễ dàng và để thuyền trôi xuôi theo dòng thì nhẹ nhàng thoải mái, không cần phải gắng sức chèo chống. Sống thỏa mãn theo các đòi hỏi của nhu cầu bản năng tự nhiên xem ra không khó. Các loài thú vật luôn sống theo bản năng: Đói tìm ăn, khát tìm uống và đến mùa, đến ngày đi tìm thỏa mãn nhu cầu tính dục tự nhiên. Con người thì cao trọng hơn con vật bội phần. Tuy rằng con người vẫn còn thú tính, nên đôi khi cũng lạc bước tìm thỏa mãn các thú vui. Con người có trí khôn, tự do và ý chí. Nhờ có trí khôn, con người đã có những bước tiến nhảy vọt cả về đời sống tâm linh, về luân lý đạo đức và khoa học kỹ thuật.
Trải qua lịch sử ngàn năm, con người đã cố gắng góp nhặt và hệ thống hóa những tư tưởng, suy tư, chiêm niệm và tu thân để đi tìm chân lý. Sự khám phá tâm linh thì như đi vào một cõi vô định, tâm trí của con người chìm sâu vào các bí nhiệm và huyền nhiệm. Hành trình đi vào nội tâm sâu thẳm, tự con người vẫn chưa tìm được ngõ ra. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho giáo đoàn Corintô đã khai mở một cửa ngõ: Nhưng chúng tôi thuyết sự khôn ngoan đầy nhiệm mầu của Thiên Chúa, vẫn được giấu kín, mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn thuở, để làm nên sự hiển vinh của chúng tôi (1Cor 2, 7). Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo, đã mạc khải mầu nhiệm cao siêu của Nước Trời qua chính Con Một là Chúa Giêsu Kitô. Ngài là trưởng tử và trung gian của vạn vật. Phaolô đã diễn tả rằng: Nhưng chúng tôi rao giảng như lời đã chép: Sự mắt chưa từng thấy và tai chưa từng nghe, và lòng người cũng chưa từng mơ ước tới, đó là tất cả những điều Thiên Chúa đã làm ra cho những ai yêu mến Người (1Cor 2, 9). Tình yêu là tất cả.
Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã gom trọn những lỗi lầm mà con người thường hay ngã phạm, cả trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Những tội về giết người, phẫn nộ, chửi rủa anh em là ngốc, là khùng, tội ước muốn điều tà dâm, gây dịp tội của con mắt và của tay chân, tội ngoại tình, tội bỏ vạ cáo gian và thề gian dối…Chúng ta biết các cám dỗ về đàng tội, luôn rình chờ sự sơ hở của ý chí chọn lựa trong mọi nơi và mọi lúc. Khi chúng ta thiếu tỉnh thức, các dịp tội sẽ xâm nhập vào tâm trí một cách rất tinh tế và nhẹ nhàng tưởng như vô thưởng vô phạt. Chúa Giêsu cảnh tỉnh: Vậy Thầy bảo cho anh em biết, nếu các con không ăn ở công chính hơn các Kinh sư và Biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu (Mt 5, 20). Chúa Kitô thấu tỏ tấm lòng của các vị lãnh đạo tôn giáo, vì lời nói của họ không đi đôi với việc làm. Họ trang sức bên ngoài với lễ phục tươm tất gọn gàng nhưng trong lòng chứa đầy những ý tà và sự gian dối. Chúa mời gọi chúng ta sống công chính không chỉ trước mặt người đời, nhưng là trước mặt Thiên Chúa.
Một trong những lỗi lầm mà chúng ta thường hay phạm nhất là sự nói dối. Đôi khi chúng ta muốn nói dối để tránh tội và chối tội vì sợ bị vạ lây. Có khi nói gian hay chứng dối để được thêm lợi lộc tiền của. Khi tiền đề câu truyện là sự nói dối, chúng ta cứ phải nói dối tiếp để bịa thêm truyện. Cứ thế, càng nói dối càng xa sự thật. Chúa nhắc nhở chúng ta: Nhưng lời nói của các con phải là: Có thì nói có, không thì nói không, thêm điều đặt truyện là bởi ma qủi mà ra (Mt 5, 37). Lòng con người sâu thẳm, chẳng mấy ai có thể dò thấu. Ở đời, người ta có thể dùng ảnh hưởng quyền lực và tiền bạc để che dấu sự thật, nhưng không thể lừa dối lương tâm. Chỉ có sự thật mới có thể giải thoát và làm sáng tỏ mọi vấn đề. Hằng ngày qua truyền thông báo chí, chúng ta biết có rất nhiều câu truyện gian dối và lừa đảo đã bị phát giác và bại lộ. Mỗi người hãy tự cảnh tỉnh lương tâm của mình qua công ăn việc làm, qua lời ăn tiếng nói, qua việc khai báo bản thân và qua việc hành xử trong cuộc sống. Hãy luôn nhớ: Có thì nói có, không thì nói không.
Lạy Chúa, Chúa Giêsu phán: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Xin cho chúng con biết dõi theo lối bước của Chúa để chúng con sống như con cái sự sáng giữa ban ngày. Chúng con sẽ suy nghĩ sự thật, phát biểu sự thật và luôn sống trong sự thật.
10. Tự do và trách nhiệm – ĐGM Giuse Vũ Văn Thiên
Tự do lựa chọn một quyết định và gánh trách nhiệm về quyết định của mình, đó là đặc tính căn bản làm cho con người khác biệt với mọi loài tạo vật khác. Thiên Chúa sáng tạo con người không giống như một chiếc máy cho ra lò hàng loạt sản phẩm cùng một mẫu mã như nhau. Ngài tạo dựng con người mỗi cá nhân đều khác biệt và cho họ có tự do để lựa chọn giữa điều tốt và điều xấu. Tác giả sách Huấn Ca đã dùng một hình ảnh đơn sơ dễ hiểu: Đức Chúa đặt trước mặt con người lửa và nước, nếu muốn gì thì giơ tay mà lấy; Đức Chúa đặt trước mặt họ cửa sinh và cửa tử… Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội (Bài đọc I).
Nếu Thiên Chúa ban cho con người có tự do, là để họ dùng tự do ấy một cách đúng mức và để họ có trách nhiệm về những việc mình làm. Vì con người hay lạm dụng tự do, nên Chúa đã thiết lập lề luật làm nền tảng để lượng giá một hành động của họ. Lề luật của Thiên Chúa là mẫu mực cho mọi lề luật của loài người, nên luật đó có giá trị ưu tiên. Mọi dân luật đều phải dựa trên luật của Thiên Chúa đã khắc ghi vào lương tâm con người.
Chúa Giêsu đã quả quyết, luật căn bản nhất mà con người phải tuân giữ, đó là luật yêu thương. Bài Tin Mừng hôm nay chứa đụng giáo huấn rất phong phú về nội dung này. Không thể viện cớ một luật lệ hay một tập quán thế tục để hành động ngược với giới luật yêu thương. Khởi đi từ luật yêu thương này, người ta mới có thể xây dựng tình bằng hữu, đạo gia đình và tình nghĩa phu phụ.
Chúa Giêsu đến để kiện toàn lề luật của Cựu Ước. Hơn thế nữa, Người mặc cho lề luật một giáo trị cao siêu hơn. Nếu luật Cựu Ước quy định kẻ sát nhân phải ra tòa, thì luật Tân Ước, những ai giận ghét anh chị em mình hoặc chửi mắng rủa xả họ với những lời thóa mạ, thì đã đáng hình phạt hỏa ngục trầm luân. Những quy định của luật Tân Ước nhằm bảo vệ và cổ võ thực thi bác ái giữa những người đồng loại. Trong Giáo huấn của Chúa Giêsu, luật yêu thương không chỉ dừng lại ở những cấm đoán, nhưng còn tiến xa hơn bằng những lời khuyên làm việc tốt cho tha nhân, đến mức yêu tha nhân như chính mình. Để giáo huấn của mình có độ xác tín, Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta noi theo qua việc rửa chân cho các môn đệ và nhất là qua cái chết trên thập giá.
Để có thể hành động đúng với ý Chúa và để có thể thực thi được đức bác ái hoàn hảo, một điều kiện căn bản là mỗi chúng ta phải khiêm tốn nhìn nhận vị trí và khả năng của mình trong cuộc sống hiện tại. Nghịch lại đức khiêm tốn là kiêu ngạo. Người kiêu ngạo thường lấy mình làm tiêu chuẩn để đoán xét người khác. Họ coi mình là trung tâm vũ trụ, nên hành động và quyết định mà không nghĩ đến quyền lợi và phẩm giá của anh chị em mình. Kiêu ngạo bao nhiêu cũng chẳng đủ; khiêm tốn bao nhiêu cũng chẳng thừa. Lối sống khiêm hạ là phương pháp Đức Giêsu đã dùng để cứu độ trần gian. Đối với mỗi tín hữu chúng ta, khi khiêm nhường là chúng ta nên giống Đức Giêsu và như thế chúng ta có thể sống đức yêu thương như Người truyền dạy.
Sống như một người có trách nhiệm cần phải có ơn Chúa, nhất là ơn khôn ngoan. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy hành xử theo sự khôn ngoan đích thực, chứ không phải lẽ khôn ngoan theo quan niệm thế gian. Lẽ khôn ngoan này là chính Đức Giêsu, Đấng đã đến để chỉ cho chúng ta con đường về quê trời.
“Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ”. Một điều xem ra quá đơn giản và dễ dàng mà chúng ta không phải lúc nào cũng áp dụng được. Cuộc sống này vẫn còn những tranh cãi bất hòa và căng thẳng, vì chúng ta thường có khuynh hướng nói ngược lại: ‘có’ lại nói ‘không’ và ‘không’ lại nói ‘có’.
Con người không phải là một ốc đảo trong đại dương mênh mông là cuộc đời này. Mỗi cá nhân là một người có tự do và có trách nhiệm. Nên thánh chính là biết sống quân bình giữa tự do và trách nhiệm trong mối tương quan với Chúa và với anh chị em. Xin Chúa cho chúng ta biết sử dụng tự do để lo phần rỗi bản thân và góp phần đem lại hạnh phúc cho đồng loại.
11. Sống điều mình tin – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
(Trích từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Một hôm, một người có đạo gặp một người vô đạo. Người vô đạo hỏi:
– Anh đi đâu về?
– Tôi đi nhà thờ về,
– Bữa nay, nhà thờ giảng gì?
– Giảng về vấn đề nên thánh.
– Anh đã nên thánh chưa?
Anh có đạo đáp:
– Anh coi cái mặt tôi đây thì đủ biết.
– À để coi thử.
Nói rồi, anh vô đạo tát một cái thật mạnh vào mặt anh có đạo. Anh này quạu cọ, chửi mắng om sòm.
Giơ tay giơ chân đòi đánh lại. Người vô đạo nói:
– Anh tự xưng là nên thánh, sao còn chửi mắng và đòi đánh tôi? Anh có đạo nói:
– Tôi nói cái mặt nên thánh, chứ cái miệng, cái tay, cái chân thì chưa nên thánh, nên tao đánh được.
Người vô đạo nói:
– Ôi tưởng anh nên thánh trọn vẹn, chứ anh nên thánh nửa vời như vậy còn xấu hơn cả tôi. Xin anh nên thánh trọn vẹn mới là người sống đạo.
Có người nói rằng tin đạo chứ không tin người có đạo. Bởi vì vẫn còn đó những người mang danh Ky-tô hữu mà sống thiếu bác ái, thiếu công bình và thiếu tình yêu. Họ đi lễ nhưng không dám sống thánh lễ trong cuộc đời của họ. Họ có đạo nhưng hành động của họ lại ngược với giáo huấn của Chúa. Họ có đạo nhưng họ vẫn sống rối vợ rối chồng, vẫn chồng chung vợ chạ, vẫn lăng nhăng, vẫn ngoại tình… Họ vẫn đến nhà thờ nhưng vẫn trộm cắp gian tham, vẫn ăn gian nối dối, vẫn buôn bán lường gạt… Họ mang danh Chúa Ky-tô nhưng lại sợ hy sinh, sợ trách nhiệm và trốn tránh bổn phận với gia đình và giáo hội.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống theo tinh thần phúc âm. Hãy ăn ở ngay lành. Hãy làm việc thiện. Hãy từ bỏ những tính hư nết xấu, những đam mê tội lỗi. Đừng có đạo mà sống xa rời tình nghĩa với anh em, xa rời tình nghĩa với Chúa. Đạo không dừng lại ở việc tuân giữ điều này điều kia mà còn thể hiện tình liên đới, sự chia sẻ, cảm thông với anh em. Đạo được quy chiếu vào lòng mến. Mến Chúa thì phải yêu mến anh em. Tình yêu đó đòi hỏi phải sống hiệp thông với nhau trong yêu thương và tha thứ. Tình yêu đó đòi hỏi tránh xa những mâu thuẫn, những ghen ghét, giận hờn. Chúa còn coi trọng sự hoà giải với nhau hơn cả việc đến dâng của lễ. Vì khi “anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người đang bất bình với anh, thì hãy bỏ của lễ mà đi làm hoà trước đã rồi hãy trở lại mà dâng lễ”.
Nhìn vào thế giới hôm nay đó là một thế giới đầy bạo lực. Con người không cần lý lẽ. Người ta có thể dùng quyền để bẻ cong công lý. Người ta dùng sức mạnh để đè bẹp tự do và xâm phạm quyền sống của tha nhân. Vâng, giữa một thế giới mà sự thù hận luôn đòi loại trừ nhau bằng bạo lực, bằng gươm đao. Giữa một thế giới mà lòng nhân đã đánh mất chỉ còn sự giả hình, hay nhẹ hơn là mạnh ai nấy lo, sống thiếu tình liên đới với nhau. Người kytô hữu cần phải thể hiện cho người ta thấy lòng bao dung và tha thứ vẫn còn tồn tại trên trần gian. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể làm điều ấy. Vì Chúa chúng ta hãy nhịn nhục lẫn nhau. Vì Chúa chúng ta hãy tha thứ cho nhau. Vì Chúa chúng ta hãy “chín bỏ làm mười”, sống vị tha và bác ái với nhau.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã tha thứ cho mọi tội khiên của nhân loại xin cũng tha thứ cho những yếu đuối của chúng ta, và xin Ngài giúp chúng ta cũng biết sống tha thứ và hoà giải với nhau. Amen.
12. Tha thứ là một món quà – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Nếu một lần có ai đó làm tổn thương chúng ta và làm hại đến sinh hoạt cộng đoàn, chúng ta sẽ làm gì?
Chúng ta sẽ hận thù, tẩy chay, loại trừ họ một cách vĩnh viễn? Chúng ta sẽ cô lập họ trong cô độc suốt đời?
Có lẽ đây không phải là giải pháp hay. Loại trừ một người thì dễ nhưng cứu chữa một người mới khó. Kinh nghiệm cho thấy, sức mạnh của con người nằm ở sự tha thứ, giúp nhau sửa đổi, chứ không phải là trả thù, trả đũa nhau. Hơn nữa, khi chúng ta sống và làm việc cùng với nhau, chắc chắn sẽ có những lúc làm buồn lòng nhau, và đôi khi những người thân thiết nhất lại dễ làm tổn thương đến nhau. Có khi chính chúng ta cũng làm tổn thương họ vì biết bao lời nói, việc làm của mình. Mặc dù chúng ta dễ làm tổn thương đến nhau nhưng chúng ta vẫn phải sống bên nhau, có khi phải sống suốt đời như những đôi vợ chồng với nhau…. Thế nên, để sống bên nhau điều kiên quyết chính là phải sống tha thứ và hòa giải với nhau.
Có một nhóm học trò cũng từng nghĩ rằng mình không thể tha thứ cho kẻ đã làm hại mình. Mình sẽ ôm hận và tìm cơ hội trả thù. Thầy giáo đã yêu cầu mỗi một học sinh mang một túi nilông sạch và một bao tải khoai tây đến lớp. Sau đó, thầy bảo cứ khi nào mà trò không tha thứ lỗi lầm cho người nào đó thì hãy chọn ra một củ khoai tây viết tên người đó và ngày tháng lên rồi bỏ nó vào túi nilông. Sau vài ngày, có nhiều túi trở nên vô cùng nặng.
Sau đó, thầy lại yêu cầu hoc sinh phải luôn mang cái túi theo bên mình dù đi bất cứ đâu, tối ngủ phải để túi bên cạnh, làm việc thì đặt trên bàn. Sự phiền phức khi phải mang vác cái túi khiến họ cảm nhận rõ ràng gánh nặng tinh thần mà mình đang chịu đựng. Không những thế, họ còn phải luôn để tâm đến nó, nhớ đến nó và nhiều khi đặt nó ở những chỗ chẳng tế nhị chút nào. Qua thời gian, khoai tây bắt đầu phân huỷ thành một thứ chất lỏng nhầy nhụa và các học trò dường như chỉ muốn vứt đi và không muốn mang nó trong người nữa.
Lúc này, thầy giáo mới nói: Các trò thấy không? sự bực tức giận dữ một ai đó chỉ là gánh nặng thêm cho bản thân mình, nó làm cho chúng ta mất thời gian suy nghĩ; để tâm; nhiều khi lại làm cho người khác bực dọc nữa…
Ai cũng biết rằng sự tha thứ chính là một cách để xoa dịu tâm hồn, là tự tìm cho chính mình sự thanh thản và giải thoát về mặt tinh thần, qua đó giúp cho cuộc sống mình trở nên bình yên hơn. Tha thứ chính là món quà mang đến cho chúng ta niềm vui và hạnh phúc. Thế nhưng, nói thì dễ nhưng làm thì thật không dễ. Vì tự ái, vì thiếu lòng quảng đại nên chúng ta đã từng nuôi dưỡng hận thù và tự đầy đọa mình trong bất an, tức giận.
Lời Chúa hôm nay là một bài học của sự tha thứ. Chúa bảo rằng tha thứ quan trọng hơn lễ vật. Tha thứ hòa giải là cách sống đạo mà Chúa đòi buộc người tín hữu phải tuân giữ. Tình thương tha thứ đó đòi hỏi chúng ta không chỉ chớ giết người mà còn không giận dỗi nhau, không chửi rủa nhau, không mắng nhiếc nhau. Tình thương tha thứ đó đòi hỏi chúng ta phải thu xếp làm hòa với nhau trước khi đến bàn thờ và trước khi thời gian không còn nữa.
Có một cách để giúp cho chúng ta sống tha thứ là hãy cầu nguyện cho người làm tổn thương chúng ta. Cầu xin ơn Chúa giúp họ thay đổi đời sống. Qua đó, chúng ta cũng có được một đời sống không có cay đắng và buồn giận. Sự buồn giận làm tổn hại cho chúng ta và gia đình chúng ta nhiều hơn là cho người mà chúng ta giận ghét. Tha thứ giúp chúng ta hết mệt mỏi khi cứ luôn mang trong mình cái bao nặng những cay đắng hận thù.
Tóm lại, để sự tha thứ có thể xảy ra, chúng ta hãy ngưng suy nghĩ về nó, nói chuyện với nhau một cách thẳng thắn và rõ ràng, sẵn sàng xin lỗi phần sai trật của mình, sẵn sàng tha thứ để chúng ta có thể sống vui vẻ, thoải mái.
Chính Chúa Giêsu đã luôn tha thứ cho các tội nhân. Ngài không trừng phạt họ nhưng luôn tạo cơ hội để họ sửa đổi canh tân. Ngài còn tha thứ cho cả kẻ đã làm hại mình. Trên cậy thập giá Ngài đã xin Chúa Cha tha thứ cho “họ vì họ không biết việc họ làm”.
Hôm nay, Ngài cũng mọi chúng ta hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường. Xin cho chúng ta luôn mặc lấy tâm tình của Chúa để sống với nhau trong tha thứ và bình an. Amen.
13. Sống tinh thần luật
Người ta thường nói: “Quốc có quốc pháp, gia có gia quy”, nghĩa là nước có luật nước và nhà có luật nhà. Chúng ta là những người công giáo, là công dân Nước Trời, hẳn là cần biết và sống luật của Nước Trời.
Có lẽ nhiều người trong chúng ta đây, thoạt đầu nghĩ rằng Lời Chúa hôm nay đem lại một lề luật mới. Nhưng thưa không! Chúa Giêsu nói rất rõ ở đầu bài Phúc Âm “Thầy đến không phải là để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ, nhưng là để kiện toàn”. Nói cách khác, Chúa Giêsu kiện toàn luật nghĩa là đem lại một tinh thần mới, một sức sống và một sự sống mới cho lề luật. Ngài mời gọi hết mọi người xưa cũng như nay sống điều đó để được công chính, thánh thiện và đẹp lòng Chúa hơn những người kinh sư, biệt phái đã sống và cũng để ta xứng danh là Kitô hữu, con cái Nước Trời.
Thật vậy, những Kinh sư cũng như các Pharisêu là những người tuân giữ lề luật cách triệt để, họ cũng muốn làm đẹp lòng Chúa, nhưng có điều họ tự mãn, tự kiêu. Họ nghĩ rằng chỉ cần tuân giữ đúng những gì luật dạy là đẹp lòng Chúa, là nên công chính rồi. Điều này cũng được khắc ghi nơi mỗi người Do Thái, ai muốn phục vụ Chúa là tuân giữ lề luật, ai tuân giữ luật là làm theo ý Chúa. Họ an lòng tuân giữ luật hơn là thi hành ý Chúa.
Một câu chuyện kể rằng, có một tu sinh theo học đạo với một vị chân tu. Sau một thời gian theo học và thực hành đạo, anh tu sinh đến gặp thầy, vì anh cảm thấy mình đã xứng đáng được gọi ngang hàng với những bậc thánh thiện, nếu không muốn nói là thánh nhân. Người thầy khôn ngoan mới hỏi: “Vậy những đức hạnh con đạt được là gì?”. Môn sinh trả lời: “Con đã đạt được cao độ của khổ hạnh. Con đã tự kỷ luật thân xác mình, để bây giờ con có thể ngủ trên đất, ăn những rau cỏ để sống và chịu đánh tội mỗi ngày 3 lần”. Nghe vậy, vị thầy của anh cười nói: “Con cũng khá lắm, nhưng con hãy nhìn ra ngoài sân, xem con lừa của nhà mình kìa, nó cũng ngủ trên đất, nó cũng ăn cỏ ngoài đồng và bị đánh đòn mỗi ngày ít là 3 lần. Vị thầy phía tên đệ tử và nói: con chưa đạt được sự thánh thiện đâu huống hồ là một vị thánh”.
Anh môn sinh nghĩ rằng khi mình thi hành một số quy tắc, một số luật lệ thì đã đạt sự thánh thiện rồi, nhưng cuối cùng: anh chỉ được ngang hàng với con lừa thôi!
Chúng ta có thể thấy thái độ vụ luật này nơi nhiều người Pharisêu, họ cho rằng làm thế là được nên công chính. Còn Chúa Giêsu nhiều lần lên án sự giả hình: “khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và pharisêu giả hình… bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác” (Mt 23,27-28). Cũng vậy, chúng ta nhớ câu chuyện hai người lên đền thờ cầu nguyện (x. Lc 18,9-14), một người Pharisêu và người thu thuế. Người Pharisêu đứng thẳng, cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Hai người cùng thấy, người Pharisêu thì thấy những công việc mình làm, những công trạng mình đạt được để khoe với Chúa. Còn người thu thuế thì thấy con người thực đầy tội lỗi của mình và biết cậy dựa vào Chúa. Cuối cùng, ta thấy Chúa Giêsu không bảo người Pharisêu, con tốt lắm! Nhưng lại nói với người thu thuế khi về nhà thì được nên công chính, còn người Pharisêu thì không.
Lời Chúa nói với các môn đệ xưa, cũng chính là nói với chúng ta hôm nay “nếu anh em không ăn ở công chính hơn các Kinh sư và Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Công chính hơn nghĩa là sao? Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra bốn trường hợp cụ thể sau:
Thứ nhất, Luật cũ cấm giết người – còn Chúa Giêsu thì dạy phải coi người khác là anh em, nên phải yêu thương nhau. Thứ hai, Luật cũ cấm hành vi ngoại tình – còn Chúa Giêsu ngăn chận từ bên trong, từ ước muốn xấu, vì ước muốn xấu sẽ nảy sinh những hành động xấu khi có dịp.
Thứ ba, Luật cũ quy định thủ tục li dị – còn Chúa Giêsu triệt để cấm li dị (trừ trường hợp bất hợp pháp).
Thứ tư, luật cũ cấm thề gian – còn Chúa Giêsu dạy “có thì nói có, không thì nói không”, nghĩa là Ngài dạy ta sống thành thật, vì khi sống thành thật thì không cần phải thề.
Nói cho cùng, Chúa Giêsu mời gọi ta trở về với chính lòng mình nhằm thanh luyện nội tâm, thanh luyện lòng trí cũng như những ý định và ước muốn của ta. Chúa Giêsu mặc cho lề luật một ý nghĩa mới, một tinh thần mới. Chính vì lẽ đó, mà việc giữ luật không là một cùng đích, nó chỉ là phương tiện đưa ta đến với Chúa. Khi ý thức điều này, ta sẽ dễ dàng chấp nhận cũng như thi hành luật một cách trọn hảo hơn.
Một việc cụ thể là giữ ngày Chúa nhật, nếu ta không để ý thì việc đến nhà thờ ngày Chúa nhật chỉ là chu toàn lề luật, để tránh cho khỏi tội. Vì thế, mà có nhiều người và nhiều lần ta mới chỉ đi ‘xem’ lễ chứ chưa thật sự ‘tham dự’ Thánh lễ. Thật vậy, đi lễ ngày Chúa nhật không phải chỉ để chu toàn lề mà là để thể hiện tình yêu của ta, là để gặp Chúa và gặp nhau. Tham dự lễ là để lắng nghe Lời Chúa và múc lấy sự sống Chúa nơi bàn tiệc Lời Chúa và Thánh thể. Đến nhà thờ còn là để chia sẻ niềm vui, hiệp thông với nhau trong tình thân mật là con cùng một Cha Trên Trời. Và đi lễ ngày Chúa nhật còn là để thể hiện tình bác ái nữa, để chia sẻ cho nhau niềm vui, lẫn nỗi buồn… Đó mới thật sự là ý nghĩa và mục đích của việc đi lễ và tham dự Thánh lễ, tham dự vào một Giáo hội hiệp thông và bác ái.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta có một cái nhìn mới khi thi hành luật Chúa dạy. Đó là việc hiểu sâu xa ý nghĩa và mục đích cao đẹp của luật Chúa, để khi thi hành, ta được nên công chính hơn, thánh thiện hơn và cũng để xứng danh là con cái Nước Trời. Xin Chúa ban ơn để mỗi người chúng ta luôn tìm thấy niềm vui và sự bình an khi thi thành luật Chúa. Amen.
14. Đừng giận ghét
(Suy niệm của Lm Inhaxiô Nguyễn Văn Đức)
Chương 5,6,7 của Tin Mừng Matthêu nói về đức công chính của người môn đệ với hai nội dung chính: Tin, cầu nguyện và thể hiện niềm tin ấy trong đời sống thực hành luân lý hằng ngày.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy các môn đệ thực hành niềm tin bằng cách: đừng giận ghét. Chúa dạy như vậy có khả thi không? Bởi vì trên đời này, dù một người hiền lành đến mấy cũng không tránh khỏi đôi lần nổi giận. Chính Chúa Giêsu cũng đã nổi giận với những người buôn bán trong Đền thờ kia mà!
Thưa, giận thì được nhưng đừng ghét! Nói cách khác, chúng ta không chấp nhận tội lỗi nhưng chúng ta không ghét người tội lỗi; ghét có nghĩa là loại trừ họ. Đến như nhạc sĩ Phạm Duy mà còn hát: kẻ thù ta đâu phải là người, giết người đi thì ta ở với ai?
Chúa Giêsu tố cáo tội lỗi nhưng lại thương những người tội lỗi và thường đứng về họ trước sự chỉ trích của những người tự cho mình là người công chính:”bọn đĩ điếm và tội lỗi sẽ vao nước Trời trước các ngươi”. (Mt 21,32). Chúa Giêsu không chỉ nói đến sự giận dữ mà Ngài còn muốn phải làm hòa trước khi thể hiện niềm tin Chúa khi dâng lễ và cầu nguyện. (Mt 5,23-24)
Chúng ta biết giận là một trong thất tình: hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục thuộc về bản tính con người.Giận là tức. Khi giận thường mất khôn và nói quá lời. Tức ai thì nói cho đã tức nhưng sau đó lại hối hận. Cũng có lúc hối hận thì đã muộn rồi. Vậy trong thực tế, một người nóng tính, hay giận (như Phêrô, nóng lên, liền chém đứt tai tên đầy tớ Thầy cả thượng phẩm) có thể chừa hay từ bỏ tính nóng giận của mình không?
Từ bỏ hẳn thì không,vì nó thuộc bản chất con người, nhưng làm chủ được nó thì có thể. Một người biết mình nóng tính, nên thường ngày tập sống tha thứ, tập sống dịu dàng, vui vẻ với mọi người; từ từ người đó sẽ làm chủ được những cơn nóng giận của mình.
Vậy lời Chúa dạy hôm nay: đừng giận ghét, thì ta phải hiểu rằng: ta không được ghét ai, nghĩa là loại trừ họ, đó là điều trái với đức thương yêu, nhưng đồng thời ta cũng phải tập làm chủ nhưng cơn nóng giận của mình. Việc đó có thể làm được với ơn Chúa và nhất là với đời sống cầu nguyện, vì đó là cách thức chúng ta dễ nâng tâm hồn lên với Chúa để Ngài thanh luyện tâm hồn chúng ta thuộc về Chúa và gần gũi với tha nhân hơn.
15. Hãy nên hoàn thiện
(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
“Các con hãy nên hoàn thiện, như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt.5,48).
Đó là mục đích cuối cùng của Chúa Giêsu, nâng con người lên “hoàn thiện” để trở về địa vị cao cả đích thực của con người là “làm con Thiên Chúa”, Đấng là Cha trên trời – Đấng hoàn thiện.
Nhưng con đường nào dẫn con người đến hoàn thiện?
Luật trần gian
Một người phụ nữ ngoại đạo có một đứa con gái yêu một chàng trai Công Giáo. Nhiều người trong thân tộc của bà không đồng ý, vì họ đều là những tín đồ ngoan đạo của tôn giáo mà họ đang theo. Chàng trai chỉ cưới cô gái nếu cô gái cùng chung niềm tin với mình. Cô gái cũng mến mộ đạo Công giáo và muốn vào đạo. Sự quyết định cuối cùng là của người mẹ. Bà nói: “Tôi đồng ý cho con tôi vào đạo Công giáo. Tôi muốn nó lập gia đình với một người có Đạo. Đạo nào cũng được, miễn đừng vô đạo thôi”.
Từ “vô đạo” ở đây, có lẽ theo ý bà, là “không có đạo”, “không theo một tôn giáo nào”. Chứ còn từ “vô đạo” mà nói chung chung, thì nghe nặng lắm. Thí dụ người ta nói: tên ấy là quân vô đạo. Vì theo cách hiểu thông thường, đạo là “phép tắt đối xử trong xã hội, ai cũng phải biết và phải tuân thủ, giữ gìn: đạo làm người, ăn ở sao cho phải đạo, đạo vợ chồng” (Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên).
Vì không phải ai cũng sống theo “đạo làm người”, nên con người phải đặt ra bộ luật rõ ràng, minh bạch để người ta tuân giữ và thưởng phạt khi cần thiết. Luật, do đó, nó chứa đựng “đạo lý con người”, như “kim chỉ nam” để con người sống cho ra người, sống đúng đạo làm người.
Nhưng, “Luật trần gian” có giới hạn của nó. Lòng tham, sự yếu đuối, cùng với khát vọng vô bờ bến, con người không thể sống tốt chỉ với những luật lệ trên giấy trắng mực đen đó. Người ta có thể lòn lách để trách né luật lệ, và có khi dùng chính luật lệ đó để bảo vệ sự an toàn cho mình và sống lạnh lùng đối với tha nhân.
Luật Thiên Chúa theo cách giảng dạy của trần gian
Thiên Chúa yêu thương con người và muốn con người trở về địa vị nguyên thủy của mình là “làm con Thiên Chúa”. Thiên Chúa giáo huấn cho con người một cách tiệm tiến theo dòng Lịch Sử Cứu Độ, và Ngài muốn con người được sống thăng hoa và ngày một trở nên thánh thiện với giáo huấn của Ngài qua các ngôn sứ, mà đỉnh cao trong Cựu Ước là Mười Điều Răn được truyền qua Môsê trên núi Si-nai.
Nhưng, Giới Luật Thiên Chúa cũng bị giới hạn qua cách suy nghĩ, cách diễn tả, và cách sống của con người.
Toàn bộ “Lề luật”, trong sách Luật Do Thái, được rút và diễn nghĩa từ Cựu Ước, gồm 613 điều luật, trong đó điều cấm là 365, còn điều phải làm là 248, không tính những điều luật phụ. Thoáng nhìn qua, có vẻ như rất minh bạch. Luật có hai loại “khinh luật”, và “trọng luật”, khinh luật thì bị phạt, còn trọng luật thì phải bị tử hình.
Nhưng, tuy dù là “Luật Thiên Chúa”, phàm nhân đã cắt nghĩa theo cách hiểu và ý muốn của con người, nên Luật Thiên Chúa đã thành ra gánh nặng và phương tiện trục lợi cho con người.
“Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt. 23,4).
“Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không, còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc” (Mt. 13,18).
“Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ kính cha mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như thế các ông dựa và truyền thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa.” (Mt. 15,4).
Lời Thiên Chúa không được hiểu đúng và làm đúng, vì không có sự chân thật trong lòng người. Nhưng làm sao có sự chân thật khi con người không có Tình Yêu Chân Thật đối với Thiên Chúa?
Cuối cùng, lối sống đạo đức giả của những người có trách nhiệm giảng dạy phân phát Lời Chúa đã biến đổi Lời Chúa thành thứ “Giới luật phàm nhân” phục vụ cho quyền lợi riêng họ.
“Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng: ‘Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mt.15,7).
Luật Thiên Chúa theo cách giảng dạy của Chúa Giêsu
“Thưa Thầy, trong lề luật, điều răn nào trọng nhất?”
Chúa Giêsu đã trả lời ngay ông tiến sĩ luật hỏi Ngài câu hỏi đó: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất” (Đnl.6,5).
Nghĩa là, Luật Thiên Chúa còn đó! Đúng như lời Ngài đã khẳng định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc giáo huấn của các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, và cho đến khi mọi sự được hoàn thành, thì một chấm một phết trong sách luật cũng không thể bỏ đi được” (Mt5,17-18).
Chúa Giêsu đến, như Ngài đã nói, là để kiện toàn lề luật.
“Kiện toàn” ở đây không phải là để “đánh bóng” Lời Chúa theo ngôn ngữ loài người, mà giúp con người mở rộng lòng ra để biết đón nhận và sống Lời Chúa đúng theo thánh ý Chúa hơn. “Ta sẽ ban tặng các con một trái tim mới, Ta sẽ đặt vào lòng các con một tinh thần mới, Ta sẽ lấy trái tim chai đá ra khỏi lòng các con, và ban tặng các con một trái tim bằng thịt biết yêu thương. Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào lòng các con để làm cho các con theo đúng luật của Ta” (Ez.36,23-27).
“Trái tim mới” ấy, trái tim “biết yêu thương” ấy, là trái tim theo mẫu mực “Trái Tim Giêsu”.
Vì không có “tình yêu” nào như “Tình Yêu Giêsu”. Không có trái tim nào như “Thánh Tâm Giêsu”.
Vì chỉ có “Trái tim Giêsu” mới yêu Chúa Cha đến mức vâng phục trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa.
“Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà theo ý Cha” (Lc.22,42).
Vì chỉ có “Trái Tim Giêsu” mới yêu con người đến hiến mạng vì con người. “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga.15,13).
“Tình yêu Giêsu” là tình yêu giao hòa giữa con người và Thiên Chúa, giữa con người với nhau. Là Hiến Lễ Tình Yêu con người dâng lên Thiên Chúa và là Lễ Vật Tình Yêu con người trao tặng nhau.
“Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mt.5,23-24).
Và, tất cả đều bắt đầu từ “một Tình Yêu”. “Yêu như Giêsu”.
Khởi nguồn là Tình Yêu con người đối với Thiên Chúa. Một tình yêu sâu đậm vượt trên tất cả. Phải có một tình yêu như thế, con người mới có thể yêu tha nhân đến quên mình, khi nhận ra hình ảnh Thiên Chúa nơi anh em mình.
“Nhưng điều răn thứ hai cũng giống như điều răn ấy, là ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi” (Lv.19,18).
“Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu các ngươi đã đến thăm,Ta bị tù đầy các ngươi đã đến với Ta… Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt.25,36).
Điệp ngữ “Anh em đã nghe Luật dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết” được lập đi lập lại nhiều lần, cho thấy sự dứt khoát và quyền năng của Chúa Kitô trên Lề Luật.
“Ngày Sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabát. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabát.” (Mc.2,27-28).
Lề Luật sẽ được kiện toàn nhờ lòng người thăng tiến, nhưng xem ra, con người vì tội lỗi, tham vọng và tư lợi, đã làm Lề Luật trở nên thứ ách nặng nề, nó chỉ còn là thứ trang điểm bề ngoài cho một nền đạo đức giả tạo và trên đà băng hoại. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã lưu ý các môn đệ của Ngài, cũng chính là giáo huấn chúng ta: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và nhóm Pharisêu, thì anh em sẽ chẳng vào Nước Trời”.
“Họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài” (Mt.23,5).
“Người Pharisêu đứng riêng một mình, cầu nguyện rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc.18,11).
Điệp ngữ “Anh em đã nghe Luật dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…” được lập đi lập lại nhiều lần, cho thấy rõ khoảng cách mức độ thăng tiến mà Chúa đòi hỏi nơi con người để Luật Chúa được kiện toàn sánh với cách con người đang “tuân giữ Luật Chúa” còn rất xa.
Một tên xã hội đen tìm được một tình yêu chân chính, anh quay lại nẻo thiện lương, hòa nhập vào xã hội, và sống hạnh phúc đời thường. Anh có vợ đẹp, con ngoan. Anh chạy xe lôi, cuộc sống vừa đủ, có phần vất vả, nhưng anh cảm thấy thanh thản tâm hồn và bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Một ngày kia, một người đàn ông mang kính râm gọi xe anh. Khi xe chạy đến một đoạn đường vắng, khách bảo dừng lại. Người khách bất ngờ rút súng chĩa thẳng vào anh. Hắn kể tội anh khi anh còn thuở giang hồ. Anh quỳ xuống xin tha. Anh xin lỗi vì nợ giang hồ, nhưng anh xin cho anh được sống để nuôi vợ con. Một tiếng nổ khô khan. Anh nằm xuống cùng với ước mơ hoàn lương không trọn.
Sự “sòng phẳng” và “công bình” kiểu con người hiểu và mong muốn không thể giúp con người hoàn thiện được.
“Anh em đã nghe Luật dạy ‘ Mắt đền mắt, răng đền răng’. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt.5,38).
Hoàn Thiện theo Gương Chúa Giêsu
Cuối cùng, chỉ có Tình Yêu – và Tình Yêu như Đức Kitô – mới nâng con người lên đỉnh “hoàn thiện”. Chỉ có Tình Yêu như Đức Kitô mới giúp con người có thể sống với Lề Luật kiện toàn mà thánh ý Thiên Chúa mong muốn qua Giáo Huấn Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, Ngài đến để kiện toàn Lề Luật.
Kiện toàn Lề Luật để con người được trở nên hoàn thiện,
Hoàn thiện theo gương của Ngài – Đức Kitô,
“Ta là Ánh sáng thế gian” (Ga.8,12).
“Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”(Ga.14,6).
và hoàn thiện như “Cha trên trời”, là Đấng hoàn thiện.
Lạy Chúa,
Xin cho con được trở nên hoàn thiện,
nhờ bền lòng vững chí,
bước đi theo con đường Thập Giá Đức Kitô. Amen.
16. Yêu ”kẻ thù” như thế nào đây?
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Quả thật đã từng có nhiều ý kiến khác chiều, thậm chí có khi là trái chiều liên quan đến những lời dạy của Chúa Kitô về việc không chỉ “đừng chống cự lại kẻ ác” mà còn “giơ má kia cho người ta đánh” hoặc “phải yêu kẻ thù”(x.Mt 5,38-44).
“Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai”. Lời một bài ca khá phổ biến này dường như được cảm hứng từ những lời tin mừng trên đây. Nếu nhìn nhận mọi người là anh chị em của mình thì hẳn sẽ không có chuyện giết hay ghét bỏ. Chỉ có ma quỷ mới là kẻ thù đích thực của chúng ta.
Trước hết chúng ta cần phân định rõ lời dạy của Chúa Kitô qua đoạn tin mừng Mt 5,38-48 mà giáo hội cho trích đọc trong Chúa Nhật VII TN A. Nội dung chính lời dạy của Chúa Kitô là cần phải vượt qua cái giới hạn của đức công bình cũng như giới hạn của đức yêu thương theo luật Cựu ước.
Thiết tưởng cần nhìn nhận mặt tích cực của luật công bình “mắt đền mắt, răng đền răng, sưng đền sưng, bầm đền bầm…”. Luật này giúp hạn chế sự gia tăng mức độ báo thù mà thường theo bản năng người ta khó tự kiềm chế. Chuyện bị đánh gảy một cái răng thì đánh trả lại người ta gảy nguyên cả hàm vẫn còn nhan nhản ngay trong thời đại hôm nay. Nước này phóng vào lãnh địa nước kia mười quả đạn pháo thì nước kia sẽ phóng trả đủa lại không dưới mười quả, có khi là gấp ba, gấp bảy lần. Luật “mắt đền mắt, răng đền răng” dường như vẫn còn giá trị của nó. Tuy nhiên giới luật này không khử trừ sự ác, điều xấu cách tận căn mà nhiều khi dẫn đến tình trạng không lối thoát.
Chuyện thật như bịa theo ý cha Anthony de Mello: Có tay trộm choai choai lẻn vào khuôn viên nhà thờ lúc bốn giờ sáng, định cuỗm thứ gì đó. Chưa thu được chiến lợi phẩm gì thì bị “ông từ” đi đánh chuông phát giác. Hoảng quá cậu nhóc leo đại lên tháp chuông trốn tưởng rằng qua được mắt ông từ già. Nhưng rủi cho cậu nhóc là cặp mắt ông từ vẫn còn tinh. Ông từ kiên nhẫn ngồi dưới tháp chuông chờ có người đến thì la làng. Cậu nhóc đoán được ý ông từ đành làm liều nhảy đại xuống từ độ cao khoảng bốn mét (tầng cuối). Ai ngờ cậu nhóc nhảy xuống vấp phải ông từ khiến ông già trẹo một chân. Dù gãy chân nhưng ông từ vẫn ôm chặt cậu bé và la lớn tiếng. Người ta chạy đến và cậu nhóc bị tóm. Tất cả dẫn cậu nhóc vào cha xứ. Ngài hỏi cậu nhóc đã ăn trộm cái gì. Cậu ta thưa là chưa lấy được gì cả. Ngài phán tiếp: “thế thì theo luật “mắt đèn mắt, răng đền răng”, ông từ được quyền leo lên tháp chuông và nhảy xuống để làm trẹo một chân cậu nhóc!” Mặt ông từ tái xanh.
Chúa Giêsu đã dùng lối nói “ngoa ngữ” dạy chúng ta dùng chính tình yêu, việc lành để giải hoá sự hận thù, diệt trừ sự dữ tận gốc rễ. Cần lưu ý rằng văn phong “ngoa ngữ” thường được sử dụng không phải cố ý dạy những gì được trình bày nhưng để nhằm nhấn mạnh ý tưởng muốn nói. Chẳng hạn khi dạy chúng ta rằng nếu mắt hay tay chân ta gây cớ cho ta phạm tội thì chặt chúng đi, Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh đến việc dứt khoát tránh dịp tội chứ không biểu chúng ta móc mắt hay chặt chân, chặt tay (x.Mt 5,29-30). Hiểu được điều này thì chúng sẽ không thấy có sự mâu thuẩn giữa lời dạy và hành động của Chúa Giêsu. Trước mặt thượng tế Khanan, khi bị một thuộc hạ của thượng tế vả vào mặt thì Chúa Giêsu đã chất vấn: “Nếu tôi nói sai, anh hãy chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?”(Ga 18,23). Khi dạy chúng ta “nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa” thì Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh điều này: “đừng chống cự người ác”, nghĩa là đừng báo thù, kiểu ăn miếng trả miếng.
Tình yêu thì không có biên giới cả về mức độ lẫn đối tượng. Ăn cho, buôn so. Đã có tính toán, đã có hạn mức cố định thì sẽ chẳng còn là tình yêu. Đã yêu là yêu đến cùng. Xét về mức độ thì Chúa Kitô không chỉ minh định rõ ràng đó là sẵn sàng hiến thân vì người mình yêu mà Người còn thể hiện sự đến cùng trong tình yêu bằng cái chết trên thập giá. Để diễn tả sự đến cùng trong mức độ mến Chúa và yêu tha nhân thì Chúa Giêsu đã long trọng nhắc lại lời Cựu ước và nhấn mạnh thêm: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi…Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,30-31). Hạn từ “hết” đuợc lặp đi lặp lại và hạn từ “như chính mình” làm nỗi rõ tính vô biên của tình yêu.
Xét về đối tượng, luật Cựu ước đòi hỏi phải yêu thương người đồng bào, người đồng đạo. Luật còn dạy phải quan tâm đến người nghèo khổ, mẹ goá, con côi, khách ngụ cư, khách ngoại kiều. Chẳng hạn khi gặt lúa thì đừng gặt sát bờ, kiểu gặt sạch sành sanh, đừng mót các gié bị vương vải. Và khi hái nho cũng thế, không được lượm các quả rơi rụng…Tất cả những thứ ấy là để dành cho người nghèo, người khốn khổ…(x.Lv 19,9-10). Tuy nhiên, dù trong luật không minh nhiên dạy phải ghét kẻ thù nhưng truyền thống và lối sống của dân Chúa xưa luôn có khoảng cách với người tội lỗi, với người bị xem là ô uế, với quân thù lân bang. Những hạng người trên tuy không bị ghét bỏ, nhưng thường không được xem là anh em, là người thân cận với người Do Thái. Một vị thông luật đã từng hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ai là người thân cận của tôi?” Nhân dịp ấy Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn “người Samaritanô nhân hậu” và qua đó khẳng định rằng chúng ta phải làm người thân cận với tất cả những ai đang cần đến lòng thương xót của chúng ta (x.Lc 10,25-37).
Ngoài trừ thần dữ, Kitô hữu chúng ta không xem ai là kẻ thù. Tuy nhiên vấn nạn đặt ra là làm sao có thể yêu những người xem chúng ta kẻ thù nghịch đồng thời ngược đãi chúng ta và làm thế nào để thi ân cho người bách hại chúng ta? Làm sao có thể yêu được những người đang làm hại chúng ta cách cố tình và cách bất chính và bất công? Làm sao có thể yêu những người đang đàn áp, bóc lột kẻ nghèo hèn, đang bán nước cầu vinh, đang cao ngạo cho mình là duy nhất đúng kiểu như thần, như thánh trong khi đang làm cho tiền đồ dân tộc đi vào ngõ cụt…?
Nếu cho rằng yêu thuơng là một phạm trù thuộc tình cảm thì quả thật rất khó vượt qua tâm lý bình thường của kiếp người. Tuy nhiên cần lưu ý rằng yêu thương trên hết là một quyết định của ý chí tự do được biểu lộ cả bằng tình cảm và hành động. Không chỉ có những tình cảm trìu mến, quyến luyến mới phản ánh tình yêu mà ngay cả khi giận dữ, buồn phiền cũng có thể phản ánh tình yêu. Chuyện thương con cho roi cho vọt là chuyện như hiển nhiên mang tính quy luật. Không chỉ khi xúc động trước đoàn lũ đông đảo dân chúng như chiên không người chăn thì Chúa Giêsu mới tỏ bày tình yêu, cũng không phải khi Người rơi lệ trước cái chết của Ladarô thì mới là yêu, nhưng cả khi Chúa Giêsu buồn phiền trước lòng chai dạ đá của một số kinh sư và biệt phái cũng là vì yêu hay khi Người xung giận bện dây thành roi đánh đuổi những người đã biến Ngôi nhà Chúa thành nơi chợ búa, thành hang trộm cướp thì cũng là yêu thương vậy.
Yêu thương là không chỉ muốn mà còn phải nỗ lực làm điều tốt nhất cho người mình yêu. Trong niềm tin Kitô giáo thì mọi người đều là anh chị em với nhau. Đã là anh em, chị em với nhau thì trên bình diện tiêu cực, chúng ta không được phép loại bỏ nhau dù dưới bất cứ hình thức nào. Trên bình diện tích cực thì cần giúp nhau tồn tại, phát triển theo thánh ý Thiên Chúa để có hạnh phúc đích thực. Cách thế biểu lộ tình yêu có thể khác nhau tùy từng trường hợp nhưng luôn với ý hướng là để người mình yêu nên tốt hơn, nên hoàn thiện hơn. Có thể nói rằng cách chung đối với những người tội lỗi thuộc hàng bé mọn, yếu đuối, thì Chúa Giêsu thường bày tỏ lòng khoan dung, sự trìu mến, cử chỉ khích lệ, còn với những người tội lỗi thuộc hàng phận cao, quyền trọng mà cố chấp thì Người nghiêm khắc cách tỏ tường.
Với người này thì chúng ta biểu lộ tình yêu bằng cách thế này, người kia thì cách thế kia, nhưng xin đừng quên rằng chúng ta có thể và phải cầu nguyện cho tất cả mọi hạng người. Vâng lệnh Chúa Giêsu chúng ta hãy chân thành cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta. Trước hết hãy cầu xin cho họ nhận ra lầm lỗi họ đã phạm và biết sám hối, ăn năn, thay đổi. Hãy cầu xin cho họ biết tìm cách khắc phục những hậu quả xấu đã gây ra cho tha nhân, cho xã hội…Có thể nói đây là bước khởi đầu của việc sống yêu thương “kẻ thù”, yêu thương những người làm hại chúng ta. Tiếp đến, hãy dùng ngôn ngữ mà rao truyền chân lý, vạch trần sự dữ để giúp người lạc lối trở về nẽo chính, đường ngay. Ngôn sứ Êdêkien đã từng nghe Thiên Chúa phán: “Nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác biết tội lỗi của nó, không cảnh cáo nó từ bỏ lối sống xấu xa, để nó được sống, thì chính kẻ gian ác sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (x. Ed 3,18). Có thể có nhiều cách thế yêu thương, nhưng thiết tưởng dù yêu bằng cách thế nào đi nữa cũng không thể thiếu hai động thái trên đây.
Phải chăng đang có đó nhiều Kitô hữu, thậm chí là nhiều tu sĩ, linh mục, giám mục những tưởng rằng mình đã yêu “kẻ thù”, đã làm ơn cho người “làm hại mình”, nhưng thực ra chỉ yêu chính mình mà thôi?
17. Kiện toàn lề luật
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Khi tìm hiểu về nguyên nhân dẫn đến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, người ta nhận thấy có một số nguyên nhân thuộc phía nhiều vị lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ. Đó là sự ganh tương đố kỵ, vì dân chúng lũ lượt đi theo một người giảng dạy như Đấng có uy quyền và đi đến đâu thì giáng phúc thi ân đến đó, khiến họ mất tầm ảnh hưởng (x. Mc 1,22; Cvtđ 10,38). Đó là sự tức tối, oán giận, vì bị Chúa Giêsu thẳng thừng vạch mặt chỉ tên những bất cập, sai sót và cả lầm lẫn trong lời dạy và nhất là cuộc sống của họ khiến họ mất sự tín nhiệm nơi quần chúng (x.Mt 23). Ngoài ra phải cần kể đến những xung đột giữa họ với Chúa Giêsu về các chủ đề lớn như Lề luật, Đền Thờ và niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất (x.GLCG Chung số 574 đến 591).
“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Một điều gì đó cần phải được kiện toàn thì chắc chắn nó chưa hoàn hảo. Cái nét chưa hoàn hảo có thể trong quan niệm về luật lệ, cũng có thể trong cách thế giữ luật, cũng có thể trong chính việc làm luật và giải thích luật… Không gì hơn, xin cùng xem Chúa Kitô đã kiện toàn lề luật như thế nào mà các trang Tin Mừng đã tường thuật.
1. Đặt lề luật vào đúng vị trí của nó: Lề luật là phương tiện chứ không phải là cứu cánh. “Ngày Sabbát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabbát” (Mc 2,27). Đã là phương tiện thì phải nhằm phục vụ mục đích. Để đạt một mục đích thì không chỉ có một phương tiện duy nhất. Hơn nữa, khi không thể đạt mục đích hay đang đi lệch mục đích thì phương tiện không còn cần thiết và nhiều khi phải từ bỏ nó. Luật giao thông có ra là nhằm giúp những người tham gia giao thông được đi lại dễ dàng, thuận lợi và nhất là được an toàn. Ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới quy định “đi phía bên phải”. Giả dụ một người đang lái xe máy đang đi bên phải mà bỗng có một em bé từ lề phải chạy, người lái xe khi ấy vì không thắng kịp nên đã lái xe qua phía bên trái. Chắc chắn không một ai quy kết người kia lỗi luật giao thông. Cái phương tiện là luật đi bên phải lúc bấy giờ cần phải bỏ qua vì không thể đạt mục đích mà thậm chí còn trái với mục đích là bảo đảm an toàn giao thông.
Khi có ngưòi đến hỏi Chúa Giêsu rằng tại sao các môn đệ ông Gioan Tẩy Giả và các môn đệ người Pharisiêu ăn chay mà các môn đệ Người không ăn chay thì chính Chúa Giêsu đã nhắc nhớ họ về mục đích của việc ăn chay (x.Mc 2,18-22). Vì sao ta ăn chay hay ta ăn chay để làm gì? Có người ăn chay là để sám hối ăn năn tội lỗi đã phạm, có người ăn chay để hãm mình hầu làm chủ các tham muốn vô độ, có người ăn chay chỉ vì để giảm béo… Khi đã xác định rõ mục đích thì chúng ta sẽ biết ăn chay khi nào và ăn chay thế nào, nghĩa là biết sử dụng một phương tiện đúng thời điểm và đúng cách thế.
2. Đặt lề luật vào đúng thứ tự trên dưới và mức độ hoàn bị cũng như bó buộc, xét theo nguồn gốc của lề luật: Thiên luật là luật do Thiên Chúa ban thì trên hết và mọi người đều phải tuân giữ, còn nhân luật là luật do con người làm ra thì có tình tương đối vì bị điều kiện hoá bởi các hoàn cảnh thời gian, không gian, nền văn hoá… Luật của con người thì có thể thay đổi và cần được thay đổi, nhưng luật của Thiên Chúa thì bất biến. Chính vì thế cần phải ưu tiên tuân giữ luật của Thiên Chúa. Trong niềm tin Kitô giáo, chúng ta có thể nói rằng luật của con người có ra là nhằm phục vụ cho luật của Thiên Chúa. Do đó luật của con người cần phải lấy luật của Thiên Chúa làm điểm quy chiếu và nhất là không được trái với luật của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã từng sữa sai nhiều vị lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ về việc họ bỏ qua luật của Thiên Chúa mà bo bo giữ các tập tục nhân loại chẳng hạn như việc họ dạy người ta về luật Corban: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa? Quả thế, Thiên Chúa dạy: Người hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: “Ai nói với cha mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa. Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa”(Mt 15,3-6). Khi người ta nói đến chuyện Môsê cho phép ly dị thì Chúa Giêsu đã khẳng định sự bất cập của nhân luật và Người tái khẳng định sự bất biến và tính bó buộc của thiên luật về hôn nhân bất khả phân ly (x.Mt 19,1-9; Mc 10,1-12).
3. Việc tuân giữ lề luật phải khởi đi từ thái độ chân thành bên trong tâm hồn. Cái bên ngoài là cách thế hữu hình rõ nét biểu lộ cái bên trong. Tuy nhiên không phải luôn luôn có sự đồng nhất về ý nghĩa giữa tâm tình bên trong và điều biểu lộ bên ngoài. Chuyện “khẩu phật, tâm xà” là chuyện xưa nay không hiếm. Hơn nữa điều cần lưu ý đó là chính tâm tình bên trong mới quyết định giá trị cũng như ý nghĩa của cái biểu lộ bên ngoài. Rất nhiều lần Chúa Giêsu phê phán thái độ giữ luật bằng hình thức bên ngoài mà thiếu sự chân thành bên trong tâm hồn. Người đã dùng hình ảnh “mả tô vôi”, bên ngoài thì đẹp đẽ nhưng bên trong thì tanh hôi, để ví nhiều người giữ luật theo kiểu này. Ngưòi cũng đã dùng lời sứ ngôn Isaia để nhắc nhớ họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (x.Mt 15,7-8).
Loài người chúng ta trong thân phận hữu hình thì các hành vi bên ngoài luôn có tính cần thiết như tất yếu. Tuy nhiên chính cái tấm lòng, cái ý hướng bên trong mới chủ yếu quyết định giá trị tốt xấu các hành vi bên ngoài. Đã nhiều lần Chúa Giêsu khẳng định rằng không phải những gì bên ngoài vào trong con người thì làm cho họ ra nhơ uế mà chính là những gì từ bên trong phát xuất ra (x.Mc 7,14-23). Nhiều khi dù chưa thực hiện bằng hành vi bên ngoài như giết người hay ngoại tình, nhưng đã quyết định loại bỏ người anh em ngay trong lòng mình, hoặc đã quyết định làm điều bất chính với một phụ nữ thì đã đáng tội rồi (x.Mt 5,21-28).
4. Luật yêu thương là luật tối thượng. Chúa Giêsu đã nhiều lần minh định về giới răn: Kính mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn, đồng thời yêu thương tha nhân như chính mình (x.Mt 22,34-40; Mc 12,28-34; Lc 10,25-28). Dù xác đinh là giới răn trọng nhất, nhưng chúa Giêsu đã phân thành hai điều trên dưới khác nhau là mến Chúa và yêu người. Chính nhờ biết kính mến Thiên Chúa nên chúng ta mới có thể yêu thương tha nhân vượt quá cảm tính thường tình để rồi có thể yêu thương cả kẻ thù, yêu thương người bắt bớ, làm hại mình (x.Mt 5,43-48). Tuy nhiên, tương tự như các bậc mẹ cha thường đón nhận việc con cái yêu thương, đùm bọc lẫn nhau là cách thế báo hiếu mẹ cha tuyệt vời nhất thì Thiên Chúa đã đoái nhận việc con người yêu thương nhau thật tình là cách thể tỏ bày lòng mến Chúa tuyệt hảo. Sau khi giảng dạy dân chúng nhiều điều thì Chúa Giêsu đã tóm gọn: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12; x.Lc 6,31).
Trong tình yêu, khi bỏ qua, không làm một điều tích cực trong khả năng và hoàn cảnh thì đã làm một điều tiêu cực mà thậm chí là xấu xa. Nhiều lần Chúa Giêsu dùng kiểu chất vấn: Ngày Sabbat được làm điều lành hay làm điều dữ, nên cứu sống hay là giết chết? Có thể xác đinh ở đây hỏi tức là đã trả lời. Rất nhiều khi không cứu sống là đã giết chết, không làm điều lành là đã làm điều dữ. Dụ ngôn về ngày phán xét mà Chúa Giêsu kể, cho chúng ta xác tín chân lý này. Nhiều người phải trầm luân đời đời vì khi còn sống đã không làm những việc lành, việc tốt, việc phải làm cho một trong những kẻ bé mọn (x.Mt 25,31-46).
Để kết thúc những dòng chia sẻ này, xin có một vài nhận định nhỏ. Là Kitô hữu, ít có ai dám mạo phạm đến luật của Thiên Chúa. Cũng có thể nói rằng ít có sự xung đột hay bất đồng giữa những người có lòng thành về nội hàm của thiên luật. Nhiều vấn nạn nảy sinh thường là do bởi luật của con người. Trong thực tế thì dường như chúng ta quá đặt nặng luật của con người hơn là luật của Thiên Chúa. Chuyện gạn lọc con muỗi để nuốt cả con lạc đà là chuyện vẫn đang tồn tại đó đây (x.Mt 23,23-24). Có nhiều truyền thống đạo đức của một thời dù hiện nay có vẽ không còn phù hợp nhưng ít có ai can đảm bỏ nó đi như các Tông đồ ngày xưa đã bỏ lễ nghi “cắt bì”. Chuyện luật Chúa thì dễ còn luật cha thì quá khó; hay chuyện luật giáo hội chung thì thường là mở ngõ còn luật các hội dòng thì quá khắt khe và khép chặt…là một hiện thực khá phổ biến. Nhiều người biện minh cho tình trạng trên là vì mục tiêu đào tạo, là phải biết phòng xa…Tuy nhiên phải chăng chúng ta có thể vô tình biến Kitô hữu trở thành những người vụ luật của một thời đã qua khiến cho việc kiện toàn lề luật của Chúa Kitô như đang giậm chân tại chỗ, thậm chí là đang đi giật lùi chăng? Chúa Kitô đã đổ Thần Khí vào lòng chúng ta để chúng ta thân thưa với Thiên Chúa: “Abba!”, Cha ơi. Thế nhưng, trong thực tế thử hỏi xem đã có sự tự nhiên trong tình thân gần gủi giữa tín hữu giáo dân với các linh mục quản xứ, giữa các tu sĩ nam nữ với bề trên của mình, giữa các linh mục với giám mục của mình như thế nào? Xin lặp lại: Hỏi là một cách thế trả lời vậy. Và xin cùng nhắc nhớ lời minh định Chúa Giêsu để thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề: “Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisiêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”(Mt 5,20).
18. Luật lệ: giữ trọn hay làm nên trọn?
(Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty – Kỷ niệm ngày an táng cha Gioan Nguyễn Văn Ty. Thứ Bảy 01/02/2020)
Đối với người Do Thái, Lề luật có tầm quan trọng số một. Thái độ trước lề luật chính là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá một con người. Đức Giêsu cũng được các đồng bào Người đánh giá và chấp nhận dựa trên tiên chuẩn này; vì thế mà Người lên tiếng tuyên bố: “Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” lề luật.
Không ai có quyền bãi bỏ luật lệ, trừ chính vị ra luật hay nhà lập luật. Trong Ít-ra-en, chỉ mình Đức Chúa Gia-vê có quyền này; ngay cả Môsê cũng không, vì ông chỉ là người truyền đạt cho dầu luật có mang tên ông. Luật này cũng không cần được ai kiện toàn vì nó đã hoàn hảo; có chăng chỉ là giải thích và đó là bổn phận dành riêng cho các luật sĩ. Hiểu như thế thì lời công bố của Đức Giêsu có thể bị coi là lộng ngôn, vì không ai có quyền bãi bỏ cũng như không ai được phép ‘kiện toàn’ – sửa chữa bộ luật Môsê đã truyền lại.
Thông thường thì người ta sẽ coi như phá luật những kẻ không cặn kẽ tuân giữ lề luật. Rõ ràng nhóm Biệt Phái và luật sĩ đã nhận xét Đức Giêsu là như thế, do đó đã liệt Người vào hạng tội lỗi, vì cho rằng Người có thái độ coi thường, bất tuân luật thánh, cụ thể trong việc giữ ngày Sa-bát và các nghi thức tẩy rửa.
Về phần Đức Giêsu, Người luôn khảng định việc căn kẽ giữ luật là cần thiết “một chấm một phết trong lề luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. Các môn đệ hiểu rõ điều đó cho nên sau này, kể cả khi Đức Giêsu đã về trời, họ vẫn tuân giữ căn kẽ mọi lề luật Môsê. Các tông đồ còn muốn mọi tín hữu (nhất là các người gốc Do Thái giáo) phải tiếp tục giữ trọn luật pháp theo lời Chúa dạy: “Ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời”. Tuy nhiên, sứ mạng đích thực của Đức Giêsu không nhằm kêu gọi dân chúng giữ luật. Điều này đã được các Pharisêu, các luật sĩ… và Gioan Tiền hô làm bằng nhiều cách. Người khảng định: “Thầy đến… để kiện toàn luật Môsê!” Và không chỉ Người, mà bất cứ kẻ nào tin vào Người cũng phải kiện toàn lề luật như thế: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vài Nước Trời”. Tác giả Matthêu thẳng thắn muốn các tín hữu gốc Do Thái (đối tượng chính của sách Tin Mừng ông viết) phải hiểu rằng: Đức Giêsu và các lời Người dạy tuy không chống lại nhưng cao trọng hơn luật Môsê rất nhiều, “Luật xưa dạy rằng…. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…” Thế thì ta phải hiểu điều các khảng định này theo ý nghĩa nào?
Trước hết ở đây ta không được hiểu Đức Giêsu tự giới thiệu mình là một nhà lập pháp mới (legislator novus), theo nghĩa giao ước mới thì đòi phải tuân giữ luật mới, cũng như giao ước cũ phải tuân giữ luật cũ của Môsê. Không! Giêsu không phải là người làm luật, nhưng là người làm cho mọi luật được nên trọn. Không có Người, luật lệ cho dầu có thể là rất tốt, rất hoàn chỉnh, vẫn chưa có thể được coi là trọn; và duy nhất chỉ một mình Người mới làm được điều đó. Ai tin vào Đức Giêsu, đặc biệt qua biến cố tử nạn và phục sinh của Người, đều có khả năng kiện toàn, hay làm cho nên trọn bất kỳ luật lệ nào họ nắm giữ (dầu là luật dân sự bất toàn hay luật tôn giáo thánh thiện). Lòng thương xót, từ ái cứu độ của Thiên Chúa, mà Đức Giêsu mạc khải, mới là nền tảng duy nhất để canh tân và kiện toàn mọi thứ luật lệ. Chỉ cần nhìn vào các trường hợp được nêu trong bài Tin Mừng: không giết người, không ngoại tình, ly dị, thề gian dối… ta mới thấy chỉ Tin Mừng tình yêu Thiên Chúa mới có thể kiện toàn và làm cho chúng được nên trọn tới thế. Sự nên trọn này chắc chắn không hệ tại ở luật pháp hoàn hảo hơn hay kém, nhưng hệ tại ở thái độ bình an và tự do ta có khi nắm giữ các lề luật đó, trong tư thế của một người con được Chúa Cha yêu thương. Không tin tuyệt đối vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Kitô Giêsu, ta sẽ không bao giờ có được thái độ này, và đương nhiên sẽ thấy khó có thể chấp nhận các đòi hỏi của luật pháp, kể cả những lề luật hoàn thiện và cao đẹp nhất.
Phaolô biết rõ hơn ai hết sự cao đẹp của luật Môsê, nhưng cũng chính vì thế mà ông càng xác tín hơn ai hết về giới hạn của nó so với Tin Mừng. Trong chương 3 thư gởi giáo đoàn Ga-lát ông lấy hình ảnh người giám hộ để chỉ luật Môsê rất thánh thiện (và bất cứ luật lệ nào khác, kể cả luật Hội Thánh), và hình ảnh con cái tự do để chỉ sự ‘kiện toàn – nên trọn’ của niềm tin vào Đức Kitô Giêsu. Tôi thiết nghĩ ông quả đã nắm bắt rõ vấn đề: “Khi đức tin đến, thì chúng ta không còn ở dưới quyền giám hộ nữa… vì tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa…” (Gl 3,25-26)
Ôi, niềm tin Kitô hữu vào tình yêu Thiên Chúa nhân ái thứ tha có khả năng nâng chúng ta lên cao biết mấy, vượt xa sự kiểm tỏa của luật pháp, cũng như mọi lo lắng sợ hãi của thưởng phạt nghiêm minh!
Trong tư cách là công dân Việt Nam, là Kitô hữu, là tu sĩ – linh mục… con phải khoác lên mình biết bao nhiêu thứ luật lệ. Con thâm tín một điều rằng không một luật lệ nào trong số đó tự nó có thể cứu thoát được con. Lạy Chúa từ nhân! Xin cho con được như Phaolô xác tín rằng: chỉ có niềm tin vào Chúa cứu độ và từ nhân mới giúp con làm cho các luật trên được nên trọn, đồng thời biến con thành con cái tự do đích thực của Cha trên trời. A-men
19. Từ lề luật tới lương tâm.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Chúa không đến huỷ bỏ Lề Luật nhưng kiện toàn Lề Luật. Mấy người tới nói chuyện với Chúa, xem Lề Luật là 1 mớ những mẹnh lệnh để điều chính trật tự bên ngoài trong lối sống của họ. Chúa Giêsu đi thẳng vào nguồn ngọn, vào đáy lòng và lương tâm, nơi xảy ra đích thực mối liên hệ của con người với Thiên Chúa. Lề Luật vẫn có giá trị trong những mệnh lệnh của nó nhằm quy định trật tự, luân lý, song Chúa Giêsu nói: như thế chưa đủ còn phải đánh giá hành động ngay từ ngọn nguồn của nó, bởi lẽ hành động bên ngoài chỉ là phát hiện cụ thể của một thực tại bên trong, và chính là ở trong cõi lòng sâu kín mà được quyết định cuộc tranh luận giữa thiện và cá. Giá trị luân lý của hành vi ta không nằm ở vẻ bên ngoài của chúng, nhưng ở những quyết định riêng tư dẫn đưa tới chúng. Hơn nữa, Đức Kitô nói rằng một ước muốn được chấp nhận cách ý thức đã đủ để thẩm định ta là tốt hay xấu, dù không được diễn tả ra bằng hành động cũng thế. Chúa Giêsu đến hoàn thành Lề Luật theo nghĩa này là Người nới rộng nó tới thế giới lương tâm. Từ một luật hành động, nó trở thành một câu hỏi đặt ra cho con người nội tâm có trách nhiệm trước mặt mình và Thiên Chúa. Phúc Âm hôm nay nêu cho ta thấy ba tỷ dụ:
1) Chớ giết người. Người ta giết người vì thù oán, căm hờn. Chúa Giêsu phán: đều xấu, đó không những là oán ghét, và còn là những gì Thiên Chúa không thể chấp nhận. Chúa loại trừ lòng thù oán và cả một loạt tâm tình gần như thế: nóng giận, cố tình giữ ác cảm, mắng nhiếc, hiềm khích v.v…
Đó là những tâm tình làm đầu giây mối nhợ cho tội giết người. Tội sát nhân bị luật lệ luận phạt, tâm tình bên trong bị Thiên Chúa thẩm xét.
2) Chớ ngoại tình. Điều răn này nhằm bảo vệ phẩm giá của hôn nhân và gia đình. Song ý nghĩa nó đi xa hơn, sâu hơn nhiều. Chúa Giêsu đặt nó vào bình diện của ước muốn (lòng ước muốn được chấp nhận cách ý thức, hay là ước muốn được nuôi dưỡng), nghĩa là bình diện mà mọi vật thuộc về Thiên Chúa. Được phép ước muốn điều gì, nếu đó không phải là đồ ăn trộm của kẻ khác và nhất là của Chúa. Mà phải tôn trọng quyền tự hữu của Chúa tự đáy lòng ta. Lòng ước ao ngoại tình bao hàm sự thiếu tôn trọng đối với kẻ khác và với mình, do đó cũng ăn trộm điều thuộc về Thiên Chúa.
3) Chớ thề gian. Đức Kitô nói không được thề thốt gì cả. Có lẽ trong xã hội ta không còn tục lấy Danh Chúa mà thề. Song lời Chúa nói đây vẫn còn ý nghĩa. Nếu ta không phải cầu xin Chúa đứng ra bảo đảm cho sự thật của ta, thì ta vẫn có thể xin Người soi sáng lòng chân thành của mình. Ta có thể và phải tự vấn về chính mình ta và xem xét những điều ta quả quyết và những cái ta phủ quyết có được Chúa nhìn thấy là đúng hay không.
20. Đừng sợ trèo lên thang.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)
Một bé trai đang thả môt con diều, cho tới khi con diều bị vướng vào một cành cây. Nó liền chạy vào nhà và yêu cầu ba nó lấy giúp nó con diều. Người cha liền cầm tay nó dắt đi và nói: “Hãy đi với ba”. Họ đi vào trong nhà xe, ông chống thang dựa vào thân cây rồi bảo đứa bé: “Con hãy trèo lên thang và lấy con diều của con”. Nhưng đứa trẻ sợ hãi và kêu lên: “Không, con sẽ ngã mất!”. Ông bố nhấn mạnh “Hãy trèo lên thang, bố sẽ ở đây đỡ con, nếu con rớt xuống”. Run rẩy nhưng bây giờ đã quyết, đứa bé bắt đầu từ từ bò lên thang và cố gắng gỡ con diều ra. Nó đã đi xuống an toàn và nở nụ cười thật tươi, ôm lấy ba nó và nói: “Con đã làm được rồi!”.
Hôm nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta trèo lên một cái thang, bài Phúc Âm hôm nay là một phần bài giảng trên núi của Người. Trong bài giảng trên núi, Người khẩn nài chúng ta làm việc để đạt tới những lý tưởng cao vời, không phải thỏa mãn những bậc nhỏ xíu của chiếc thang, trong quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa và tha nhân. Trên hết, Người không muốn chúng ta rời xa điều ấy để tới những điều khác, các thánh, những người đã đi theo những lý tưởng mà Người đã giảng dạy và họ đã trở nên gương mẫu.
Trong lúc giận dữ chúng ta có thể nói: “Tôi có thể giết anh đấy”. Dĩ nhiên chúng ta không muốn nói như thế. Trước lúc giận dữ chúng ta vẫn muốn chịu đựng cơn giận theo lý tưởng mà Chúa Giêsu muốn chúng ta theo. Chúng ta có thể sợ hãi khi nghe những chuyện cãi cọ nhau trong nhà nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng chúng ta phải tránh những lời thóa mạ. Chúng ta có thể than khóc về những lố bịch mà trên TV hoặc phim ảnh, chúng trình bày những cảnh ân ái dành cho những người trưởng thành, nhưng Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta không được nghe các ước muốn xấu trái với những gì Người trông đợi nơi chúng ta.
Có điều gì đó hơi “sốc” khi Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng nếu có một người nào đó có điều gì chống đối chúng ta, chúng ta phải để của lễ tại bàn thờ mà đi giảng hòa cùng người đó trước đã. Chúng ta có dám thực hành điều đó theo nghĩa từng chữ không? Hầu hết mọi người chúng ta có dám bỏ Thánh Lễ để đi tìm người mà chúng ta đã xúc phạm để giảng hòa không? Việc bắt đầu cầu nguyện bằng sự giảng hòa là quyết định tìm kiếm sự tha thứ.
Khi chúng ta lắng nghe cách cẩn thận những lời của Chúa Giêsu trong bài giảng của Người hôm nay, chúng ta có thể kết luận rằng, Chúa Giêsu dạy chúng ta tình yêu dành cho Thiên Chúa không tách biệt tình yêu dành cho người lân cận của chúng ta. Thật là một lỗi nghiêm trọng để hành động nếu chúng ta đặt quan hệ của mình với Thiên Chúa với tư cách cá nhân và riêng tư, không có gì để làm với tha nhân. Khi chúng ta hiểu biết Thiên Chúa như một người Cha, chúng ta phải dành tình yêu của mình cho tất cả con cái của Người.
Những lý tưởng này có thể làm cho chúng ta nhát sợ. Nhìn thẳng vào chúng có thể làm cho chúng ta sợ hãi. Như đứa trẻ muốn cứu con diều của mình, phải thay đổi cách suy nghĩ thế nào. Điều đó không xảy ra cho nó khi nó cố gắng lấy con diều theo cách của nó cho đến khi ba nó dạy cho nó cách thế. Ngay lúc đó, nó vẫn sợ ngã. Trong bài giảng hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta một con đường mà chúng ta sẽ đi theo như những môn đệ của Người. Chúng ta phải tin rằng, khi chúng ta cố gắng trèo lên cao hơn Người sẽ ở với chúng ta, để đỡ lấy nếu chúng ta sa ngã và đặt chúng ta trở lại an toàn, để chúng ta có thể cố gắng lần nữa. Trong Thánh Lễ, Người ban cho chúng ta sức mạnh chúng ta cần, nhờ của ăn thiêng liêng là Mình và Máu Chúa.
Chúng ta không bao giờ hỏi rằng: “Chúng ta phải làm gì để tránh tội?”. Chúng ta hãy lắng nghe lời của Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Các con hãy trèo lên thang”.
21. “Thầy nói cho các con biết!”.
Chúa Giêsu không đưa ra một luật mới nhưng là một cách mới để hiểu luật cũ và mọi luật lệ khác. Chúng ta không phải là những người không có luật lệ. Nói “chỉ cần yêu là đủ” là đúng nếu chúng ta thêm rằng đây là một điều luật và phải áp dụng luật đó với những chi tiết luật rõ ràng: đừng giận hờn, đừng có ý xấu, đừng ly dị, có thì nói có không thì nói không, đừng trả thù, yêu thương chính kẻ thù của chúng ta.
Có những điều rất khó thực hành đến nỗi chúng ta cảm thấy ở trong một bầu không khí rất đặc biệt: sự bó buộc vô cùng của Tin Mừng. Bao lâu chúng ta không lượng định sự bó buộc này thì chúng ta vẫn ở trong môi trường lề luật mà Chúa Giêsu mạnh mẽ chống lại. Đó là dấu hiệu cho thấy sự cám dỗ rất mạnh và rình rập tất cả chúng ta.
Kiểu nói trịnh trọng (“Thầy nói cho các con biết!”) là một sự khiêu khích. Ngài nói với ai câu này: “Nếu các ngươi không ăn ở chính trực hơn các luật sĩ và Pharisêu, các ngươi chẳng được vào Nước Trời?” Ngài nói với những người khâm phục sự thông tuệ thực sự của các luật sĩ và nỗ lực nên thánh của các Pharisêu.
Vậy đâu là điều xấu? Hay đúng hơn đâu là sự thiếu sót bởi vì phải vượt qua sự thiếu sót đó? tôi không thể nói chi tiết sáu điều đối kháng nhau “Người ta nói với các con, phần Ta, Ta bảo các con”. Tôi chỉ mời gọi các bạn suy niệm về động thái sâu xa phát xuất từ công lý của Pharisêu để dẫn dắt chúng ta đi xa hơn bằng một cách khác!
Dầu sao thì tôi cũng lầm khi nói về “những điều đối kháng”, mà là có sự liên tục. Chúa Giêsu nói rõ điều đó với chúng ta. Đây không phải là vấn đề bỏ rơi luật cũ để xây dựng luật hoàn toàn mới: “Các con đừng nghĩ rằng TA đến để phá luật lệ hoặc lời các tiên tri. Ta đến không phải để phá mà để làm cho hoàn hảo”. Đây không phải là vấn đề tôn trọng quá khứ, lại càng không phải là lòng luyến tiếc quá khứ. Chúa Giêsu tự do đối với tất cả đến nỗi sự tự do tuyệt đối duy nhất này là một trong những dấu hiệu của thần tính của Ngài. Ngài nói một cách ung dung: “Ta đến để…” Môisê nào, sứ ngôn nào có thể nói lên một điều như thế? Trước Ngài người làm luật và vị sứ ngôn nói nhân danh Chúa, phát xuất từ cuộc sống của mình và từ các biến cố. Chúa Giêsu nói với tư cách là Chúa, phát xuất từ một nguồn gốc huyền bí và một sự hiểu biết rõ ràng về các khả năng của con người cũng như về những bó buộc của Chúa. Ngài là người làm luật tối cao và quyết định. Sau Ngài, không ai quả quyết rằng: “Chúa Giêsu đã nói thế này, nhưng tôi bảo cho các bạn biết…”
Và dầu vậy, Ngài nhắc lại điều “đã được phán dạy” (cách nói kín đáo và tôn trọng có nghĩa là”Thiên Chúa đã nói”). Rõ ràng đó là lời của Thiên Chúa. Lời đó có bất toàn hay không? Ở đây chúng ta đứng trước điều mà Chúa Giêsu muốn mạc khải cho chúng ta: sự vượt lên trên. Qua nhiều tiếng nói Thiên Chúa đã đề ra những điều luật chính yếu: chớ giết người, đừng ly dị, sống chân thật, giới hạn sự trả thù. Điều đó đã được thích nghi với những thời kỳ khó khăn và nay vẫn còn giá trị. Nhưng chỉ có điều là hành động mà thôi! Điều này đòi hỏi đừng làm bất động cái gì cả, đừng giam hãm công bằng và sự thánh thiện trong một danh sách những điều phải làm hay không được làm: phải có khả năng phản ứng tốt trước điều mới lạ.
Chúa Giêsu không phải đến để thêm vào một vài qui định tinh tế hơn mà là để mạc khải bí mật làm cho luật lệ tinh tế hơn. Chữ nghĩa trong luật là rất cần thiết (“Dầu một nét trong luật cũng không bỏ qua được”) nhưng chi tiết luật đó chỉ có giá trị nhờ tinh thần mà chúng ta chu toàn. Chúa Giêsu cho chúng ta biết chỉ có một tinh thần mà thôi, đó là tình yêu thương. Chúng ta có thể gọi đó là luật mới, nhưng tốt hơn nên xem đó như là nguyên nhân và thước đo của mọi luật lệ.
Hoặc là sự quá mức! Đó là điều làm cho cuộc sống của người Kitô hữu rõ ràng vàkhó khăn biết bao! Không phải là tự hỏi chúng ta có thể tiến bước mà không phạm tội cho tới đâu, nhưng chúng ta có thể yêu thương đến cùng như thế nào:
“Chúa Giêsu đã yêu thương con người và yêu thương họ cho đến cùng”. Thánh Gioan nói như thế khi bắt đầu thuật lại cuộc khổ nạn. Đó là sự vượt lên trên được dạy ở đầu bài giảng trên núi. Từ việc “chớ giết người!” trong luật cũ đến “Hãy yêu thương kẻ thù của ngươi!”, sự vượt lên trên không phải là một sự đối kháng hoặcmột điều được thêm vào. Đó chính là sự điên rồ của Tin Mừng: “Các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con trên Trời là Đấng trọn lành”.
Bạn hãy đi xa hơn tất cả những gì bị cấm đoán hoặc được qui định, bạn hãy đi xa hơn tình yêu thương. Chắc chắn, không được giết người, nhưng có biết bao nhiêu cách để làm hại kẻ khác. Bạn hãy hồi tâm thật sự, xua đuổi những ước muốn làm hại nhỏ nhặt nhất. Bạn hãy xem xét ý muốn yêu thương, chữa trị nó nếu nó bệnh hoạn, củng cố nó nếu nó yếu đuối. Khi bạn thật sự muốn yêu thương, thì bạn sẽ hoàn toàn gắn bó với Chúa Kitô. Thế là bạn có thể nghĩ ra cách sống giữa các luật lệ.
22. Chọn lựa – Lm Vũ Đình Tường
Chọn lựa là chọn cái vừa ý, điều hài lòng, lựa cái ưa thích. Không phải bất cứ điều gì mình ưa thích đều tốt cả và điều mình ưng ý người khác cũng đồng thuận.
Có điều tôi thích; người ghét.
Có tội tôi quên; người nhớ.
Có phim tôi sợ; người mê.
Món ăn tôi ưa; người chán.
Có sách tôi đọc; người chê.
Chuyện tôi chê; người chuộng.
Có điều tôi tươi; người héo.
Có điều tôi than; người thích.
Câu tôi hài lòng; người đau.
Điều tôi tin; người ngờ….
Muốn chọn đúng cần có kinh nghiệm, nếu không sẽ chọn lầm, lựa sai. Không tin cứ hỏi những người ham của rẻ, mua đồ chợ trời thì rõ. Sớm muộn gì cũng có lần mua lầm, chọn sai. Mình tinh mắt, kẻ chuyên bán đồ giả ranh hơn một bậc.
Sơ hở
Chọn lựa có hai thái cực trái ngược. Có chọn tất có loại. Có lựa tất có so sánh lấy, bỏ. Lựa theo sở thích không phải luôn chọn điều tốt vì sở thích thì khác nhau. Người thích điều tốt lành. Kẻ ham ăn chơi. Kẻ kín miệng; người khoe khoang. Tự do chọn lựa kèm theo trách nhiệm. Hậu quả chọn lựa ảnh hưởng lâu dài. Đôi khi kéo dài tới đời con cháu. Thí dụ gia đình công khai phê bình, chỉ trích Giáo Hội, con cái mất lòng mộ mến. Đến đời cháu rất có thể mất niềm tin.
Khôn ngoan
Cần ơn khôn ngoan để chọn đúng. Thiếu ơn khôn ngoan sẽ chọn sai. Có hai loại khôn. Khôn trần thế và khôn nước trời. Cả hai đều do Chúa ban. Khôn nước trời mặc khải Chúa hằng hữu. Khôn trần thế giúp nhận ra khôn nước trời để học hỏi, hiểu biết thêm về Chúa. Tài cao học rộng, kiến thức siêu phàm chưa chắc đã khôn. Sống đời bình dị, chân lấm tay bùn, nghèo kiến thức nhưng lại khôn. Sai lầm lớn nhất của giới trí thức là đồng hoá kiến thức với khôn ngoan. Có người nghĩ mình khôn, dựa vào kiến thức học được, chối bỏ Chúa. Quả là dại. Đức tin, không phải do kiến thức, mà nhờ mặc khải, ơn Chúa ban. Mặc khải không phải là kiến thức mà là ơn khôn ngoan. Từ chối ơn khôn ngoan không nhận biết Chúa. Họ sẽ tin vào kiến thức khoa học thực nghiệm, tin vào suy nghĩ của trí óc.
Dùng kiến thức, hiểu biết sáng tạo niềm tin mới hay chối bỏ Chúa là làm sai chức năng của kiến thức. Chúa ban cho con người tài trí, hiểu biết, để học hỏi củng cố, đào sâu niềm tin. Con người nhận những ơn đó, đã không tạ ơn, còn vô ơn, chối bỏ Chúa. Kinh nghiệm có thay đổi. Nhận định lúc tỏ, lúc mờ. Lí luận kĩ mấy cũng có sơ hở. Khó tránh khỏi thiên kiến, chủ quan khi nhận định. Ơn khôn ngoan vững bền vì đến từ Chúa.
Khôn trong Chúa
Niềm tin vô hình nên cần sức mạnh vô hình hỗ trợ. Sức mạnh đó là ân sủng Chúa giúp phán đoán, nhận định. Lời Chúa đóng vai chủ động hướng dẫn niềm tin. Yếu kém Lời Chúa niềm tin u mê, mù mờ. Tin Chúa mà không để Chúa làm việc là mâu thuẫn từ trong tâm hồn. Từ bỏ ý mình, sống theo ý Chúa là hợp lí, là khôn ngoan vì Lời Chúa là đèn soi tâm hồn, chiếu dọi miền u tối, toả sáng giúp nhận biết đúng sai.
Người môn đệ khôn ngoan là người biết lắng nghe Lời Chúa và đem Lời Chúa ra thực hành trog cuộc sống. Họ là muối, là men, là ánh sáng đem Đức Kitô cho thế giới. Muối và ánh sáng của họ khác muối và ánh sáng gian trần vì đến từ Chúa.
Vì thế Đức Kitô xác quyết với thế gian là môn đệ trung tín của Ngài ăn ở công chính hơn hẳn các người khác. Công chính hơn cả các bậc thầy, người lãnh đạo trong dân, hơn cả Kinh Sư và người Pharisiêu. Vì sao vì họ là những người có ơn Chúa. Ơn khôn ngoan thể hiện qua niềm tin vào Đức Kitô và thực hành niềm tin đó bằng cách bảo vệ, nâng cao, tôn trọng sự sống dù ở bất cứ đâu, lứa tuổi nào, giai cấp nào. Sự sống con người cần được bảo vệ. Bảo vệ sự sống bằng yêu thương và tha thứ. Bảo vệ sự sống bằng cách bảo vệ thiên nhiên, rừng sâu, núi cao, biển rộng, sông dài, hầm mỏ và mọi sinh vật sống nhờ chúng. Bảo vệ sự sống bằng lối sống yêu thương tha thứ để được sống bình an. Cảm nhận được những ơn trên nên họ không ngớt lời cảm tạ Chúa. Họ biết ơn và thi ơn cũng như chân thành trong lời nói và hành động
Khuôn vàng, thước ngọc họ theo đuổi là
Yêu người như yêu mình
Không làm cho người điều gì mình không muốn người làm cho mình
Đây là những hướng dẫn mới mẻ Đức Kitô kêu gọi Kitô hữu thực hành trong cuộc sống. Mt 7,12. Thánh Phaolô diễn tả cách sống này trong thư Roma 13,8 như sau
Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân, tương ái. Vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật.
Đức ái
Giáo lý của Ngài tóm gọn trong hai điều: Mến Chúa và yêu người. Đức ái là giới răn quan trọng nhất trong cuộc sống người Kitô hữu. VìYêu, Chúa gọi ta vào đời. Ta sa ngã Chúa cứu chuộc. Ta mất ơn nghĩa tử Chúa cho làm kẻ thừa tự. Ta chết trong tội Chúa ban sự sống đời đời. Nhận biết những điều trên để dâng lời tạ ơn là sống khôn ngoan. Kitô hữu có bổn phận học và thực hành, yêu người khác như Chúa yêu ta. Giữ trọn lề luật mà thiếu yêu thương là phạm luật. Luật đến từ con tim yêu mến, thứ tha. Bỏ luật con tim là bỏ luật Chúa. Thờ phượng Chúa mà thiếu thực hành đức ái đến từ đức tin nông cạn.
23. Tự do tuân giữ lề luật – Lm. GB. Trần Văn Hào
Tinh thần tự do và việc tuân giữ lề luật.
Xã hội hôm nay luôn đề cao chủ trương ‘Sống và làm việc theo pháp luật’. Đã có một thời người ta vẫn nhắc đi nhắc lại khẩu hiệu ‘Không có gì quý hơn độc lập và tự do’. Tự do và tuân thủ pháp luật là cặp phạm trù luôn đi song đôi mà trong bất cứ tổ chức nào, người ta vẫn thường hay nhắc tới. Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh về 2 điều này. Ngài khẳng quyết: “Ta đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng để kiện toàn. Cho đến khi trời đất qua đi thì một chấm một phết trong lề luật sẽ không qua đi”(Mt 5, 18). Nhưng Đức Giêsu đã mặc cho lề luật cũ một tinh thần mới, đó là chiều kích nội tâm với sự tự do đích thực. Tuân thủ lề luật một cách cứng ngắc và vụ hình thức sẽ giết chết chúng ta, nhưng trong tự do của Thần Khí, chúng ta sẽ đi vào cốt lõi của lề luật như lời giải thích của Chúa Giêsu hôm nay.
Luật trong Cựu ước.
Trong trình thuật Tin Mừng, Chúa Giêsu đã 4 lần nhắc đi nhắc lại: “Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng…” Ngài nêu ra 4 ví dụ tiêu biểu về luật cũ, và giải thích theo tinh thần mới.Luật cũ mà người Do Thái vẫn tuân giữ rất cặn kẽ được viết lại trong sách Torah. Bộ sách gồm 5 quyển, chứa 613 điều khoản, gồm 365 khoản cấm và 248 khoản buộc. Ngoài 613 điều khoản này, Do Thái giáo theo dòng thời gian còn qui định thêm những tập tục khác và truyền lại cho các thế hệ mai sau. Các tập tục đó được tóm lược trong bộ sách Talmud. Có nhiều tập tục đã quá lỗi thời và lạc điệu ngay cả vào thời của Chúa Giêsu, ví dụ việc giữ ngày Sa- bát 1 cách rất chi tiết và nặng hình thức. Cụ thể như trong ngày Sa-bát, người Do thái không được đi xa hơn 1000 bước chân, không được tắm rửa, không được soi gương, không được mang răng giả v.v..Có lần các môn đệ Chúa Giêsu đã bứt lúa để ăn trong ngày Sa-bát vì đói và đã bị những người Pharisiêu khiển trách (Mc 2, 24). Những lề luật và những tập tục cũ đã trở nên như một gánh nặng cho dân chúng (Mt 11,28), và Đức Giêsu đã đến để ‘giải phóng’, giúp trút bỏ những gánh nặng cồng kềnh ấy để con người chúng ta được tự do hoàn toàn.
Luật trong Tân ước.
Chúa Giêsu đến trần gian để thiết lập một giao ước mới. Trong giao ước đó, Ngài chỉ nêu ra 1 khoản luật duy nhất, đó là luật của tình yêu. “Thầy để lại cho anh em 1 điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau”(Ga 13,34a). Mô thức của lề luật mới mà Chúa đã thiết định chính là cái chết của Ngài trên Thập giá. Vì thế, chỉ duy nhất một mình Đức Giêsu mới có thể nói cho các học trò của mình: “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương anh em (Ga 13,34b). Chúa Giêsu không phải là một nhà mô phạm lý thuyết. Ngài quảng diễn bài học yêu thương qua chính hình ảnh cụ thể nơi Ngài. Chúng ta hãy đọc lại thư Rôma, trong đó Thánh Phaolô đã cắt nghĩa rất sâu sắc về khoản luật mới này. Ngài viết: “Anh em cần phải cắt bì trong tâm hồn theo tinh thần lề luật, chứ không phải theo chữ viết của lề luật” (Rm2,29b). “Chúng ta phục vụ Thiên Chúa theo tinh thần mới chứ không phải theo văn bản cũ của lề luật (Rm 7,6). Cuối cùng, thánh Tông đồ đã tóm kết toàn bộ lề luật vào một định thức đơn giản và viết cách vắn gọn: “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,16). Từ chương 5 đến chương 8, thánh Phaolô cắt nghĩa thế nào là việc thực hành lề luật mới, bằng cách sống theo Thần khí. ‘Spiritus’ có nghĩa là ‘Thần Khí’ và spiritus cũng có nghĩa là tinh thần (của lề luật). Thánh nhân đã tóm kết: “Lề luật (cứng ngắc) thì giết chết, nhưng tinh thần của lề luật, tức sống theo Thần Khí mới làm cho chúng ta sống (Lex occidit, Spiritus vivificat).
Người biệt phái ngày xưa giữ luật rất nghiêm túc và tỉ mỉ. Xét bề ngoài, họ là những con người rất đạo đức. Nhưng Chúa Giêsu đã mạnh mẽ vạch trần thái độ cao ngạo trịnh thượng và sự rỗng tếch nơi họ. Họ đến trình diện trước Chúa chỉ để khoe khoang những thành tích đạo đức giả tạo nơi mình. “Lạy Chúa, con ăn chay mỗi tuần 2 lần, con dâng 1 phần 10 huê lợi của con cho Chúa” (Lc 18, 12). Chúa Giêsu đã nói thẳng vào mặt họ: “Đồ giả hình và gian ác” (Mt 23,30). Nhiều khi, chúng ta cũng giữ đạo một cách máy móc và giả hình giống như thế.
Thánh Augustinô đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, Ngài biết rõ con hơn cả chính con biết con”(trích trong sách Tự thuật). Thiên Chúa thấu suốt tâm hồn mỗi người chúng ta. Một nhà tu đức đã nói: “Khi chúng ta đến trước mặt Chúa, Chúa không thích chúng ta trưng ra những bằng khen hay những giấy khen. Chúa cũng chẳng ưa ngắm những bộ huy chương chúng ta đeo trên ngực để phô diễn những kỳ tích đạo đức của mình. Điều Chúa thích nhất, là Ngài cứ mân mê sờ nắn những vết sẹo hằn sâu nơi tâm hồn con người. Những vết sẹo đó là dấu tích tội lỗi chúng ta đã phạm nhưng đã được Thiên Chúa yêu thương và chữa lành”.
Kết luận
Cha Anthony de Mello đã viết một câu chuyện ngắn như sau. Một ông vua nọ rất trác táng, suốt ngày chỉ lo nhậu nhẹt và lao vào những cuộc ăn chơi trụy lạc, chẳng lo gì cho dân. Khuôn mặt của ông lúc nào cũng đỏ gay và sặc sụa mùi rượu. Một bữa nọ, nhà vua cưỡi ngựa đi ra ngoài thành. Ông gặp một tu sĩ già với áo quần cũ kỹ, nhầu nát, còn khuôn mặt thì nhợt nhạt và xanh xao. Nhà vua dừng lại và trịch thượng chào vị tu sĩ với giọng điệu mỉa mai: “Xin chào ông tu sĩ già. Nhìn áo quần lếch thếch và gương mặt cáu bẩn của ông, tôi thấy ông chẳng khác gì một con heo”. Vị tu sĩ cúi đầu lắng nghe, gương mặt bình thản và cũng chẳng tỏ vẻ khó chịu chút nào. Một lát sau, Ngài ngẩng đầu lên, nhìn chăm chú vào đức vua và đáp lễ: “Thần xin cám ơn bệ hạ, còn tôi nhìn khuôn mặt đức vua trông giống như một vị thánh.” Nhà vua kinh ngạc hỏi lại: “Ta miệt thị ngươi, ngươi không buồn cũng chẳng giận, còn khen ta có khuôn mặt giống một vị thánh, tại sao thế?” Vị tu sĩ điềm nhiên và thong thả trả lời: “Tâu đức vua, một con người sống với trái tim và tâm hồn của loài heo, thì nhìn ai cũng giống heo. Ngược lại, một con người có tâm hồn và trái tim của một ông thánh, sẽ thấy mọi người giống các vị thánh”. Nói xong, vị tu sĩ lặng lẽ bỏ đi còn nhà vua đứng chết lặng.
Chúng ta giữ đạo và giữ luật với trái tim của loài heo hay của một vị thánh? Chúng ta tuân thủ các điều luật trong Giáo hội với tâm hồn của những người Pharisiêu năm xưa hay với trái tim nhân hậu của Chúa Giêsu? Chúng ta hãy tự lục soát lương tâm và nhìn thẳng vào nội tâm nơi chính mình để tìm ra câu trả lời.
24. Kiện toàn lề luật.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)
Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy đến để kiện toàn lề luật”. Lời tuyên bố quả quyết dứt khoát đến nỗi: trời đất qua đi thì lời Ngài nói vẫn tồn tại, và tất cả những ai tuân giữ lời Ngài cũng được tồn tại muôn đời trong nước trời.
Lời tuyên bố như đinh đóng cột làm “thiên hạ sửng sốt vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mt. 7, 28; Mc. 1, 22; Lc. 4, 31).
Kiện toàn luật Môsê và các tiên tri là kiện toàn và thực hiện toàn bộ Kinh Thánh.
1- Thẩm quyền đó là thẩm quyền nào? “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy”. Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đã hỏi Người như thế (Mc. 11, 28).
Để thấy rõ thẩm quyền của Đức Giêsu, ta cần xét đến lời tuyên bố và nội dung kiện toàn lề luật của Ngài.
Trước hết, lời tuyên bố. Xưa, chính Môisê không dám tự mình tuyên bố ban lề luật, dầu ông là vị lãnh đạo vĩ đại nhất lịch sử dân Do Thái. Ông luôn luôn nói: “Này điều Thiên Chúa truyền dạy…”, chỉ khi chính Giavê Thiên Chúa ban bố lề luật, Thánh Kinh mới viết: “Thiên Chúa phán với Môisê rằng:…”, như trường hợp tuyên bố Thập giới ở núi Sinai (Xh. 19, 9-10; 21, 2-22)
Kiểu nói đó bộc lộ chỉ có Thiên Chúa mới có thẩm quyền ban bố lề luật mà thôi. Cùng một kiểu nói như thế, Đức Giêsu đã tuyên bố với các môn đệ và dân chúng rằng: “Thầy bảo anh em biết…”. Mỗi lần kiện toàn một điều luật, Ngài lại nói: “Thầy bảo anh em biết…”, chứng tỏ thẩm quyền của Ngài là thẩm quyền Thiên Chúa.
Thứ đến, xét về nội dung đoạn Tin Mừng hôm nay:
Người Do Thái cũng như chư dân chỉ nhằm cấm những hành vi phạm pháp cụ thể bên ngoài như giết người, ngoại tình, bội thề, mắt đền mắt, răng đền răng. Người ta không thể biết được những tội phạm thầm kín trong lòng người, cho nên không có quyền xét xử tội về tư tưởng con người, chỉ có Thiên Chúa thấu suốt những gì kín đáo bí ẩn mới đủ thẩm quyền xét xử.
Đức Giêsu cũng cho ta thấy Ngài có quyền xét xử các hành vi tội phạm bên ngoài cũng như bên trong, nên Ngài truyền dạy phải trừ khử những thèm muốn, giận hờn, ghen ghét ngay từ trong lòng người, là nguồn gốc phát sinh những hành vi tội ác bên trong. Ngài đã gọi đám đông đến mà bảo: “Xin mọi người nghe Tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì bên ngoài vào làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm ô uế con người. Vì từ bên trong, từ lòng người phát xuất những ý định xấu…” (Mt. 7, 14-15. 21). Cho nên, muốn kiện toàn lề luật, muốn con người sống hoàn hảo, phải thanh tẩy nội tâm con người. Cái tâm chân chính sẽ hướng dẫn con người sống chân chính. Nguyễn Du, một thi sĩ bậc nhất Việt Nam, đã thấy rõ điều đó: “Thiện căn ở tại lòng ta, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Khổng Tử đã huấn luyện các môn đệ trở thành người quân tử đã lấy chính tâm, thành ý làm nền tảng, vì “tâm quảng, thể bàn”, tâm quảng đại làm cho thể xác vững mạnh như bàn thạch (Đại học, chương IV).
Phương ngôn Tây Âu cũng nói: Tâm trí lành mạnh làm cho thân thể cường tráng – “mens sana in corpore sano”.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn hết mà Thiên Chúa muốn là lề luật, không phải để ngăn cấm, răn đe những điều tiêu cực, những diều xấu như luật loài người; luật Thiên Chúa chính là thực thi những điều tích cực, những điều tốt, tạo niềm tin vào Thiên Chúa tốt lành vô cùng để dẫn đưa con người trở về với Thiên Chúa. Đó là mục đích kiện toàn giới luật: Đấng ban bố lề luật thiện hảo.
2- Ngài kiện toàn giới luật thứ V bằng cổ võ lối sống hòa thuận, hòa bình, hòa hợp, yêu thương, hy sinh giúp đỡ nhau. Có hợp nhất với nhau mới xứng đáng được tham dự vào lễ hy sinh của Ngài, vì Thánh lễ là sự hiến mình, chết cho người Ngài yêu. Cho nên ai xây dựng hòa bình như Ngài mới được phúc làm con Thiên Chúa.
Ngài kiện toàn giới luật VI và IX để mọi người sống trong sạch với cái nhìn đơn sơ như chim bồ câu, sống vui tươi với nhau thật hồn nhiên như trẻ thơ, làm cho cuộc đời hạnh phúc biết bao!
Xưa Thầy Khổng Tử cũng dạy các môn đệ rằng: “Trước hết hãy có sẵn một nền trắng, rồi sau mới vẽ thành bức họa” (Luận ngữ II, 8).
Để vẽ một bức họa thật sắc nét, làm nổi bật những hình ảnh thật sống động và tươi thắm, họa sĩ phải bắt đầu từ nền trắng.
Để hình ảnh Thiên Chúa nổi rõ trên mỗi người, chúng ta phải có lòng trong trắng, vì ai có tâm hồn trong sạch mới được phúc chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa.
Ngài kiện toàn giới luật II và VIII: “Đừng thề chi cả”, “có nói có, không nói không”. Thề mà không có lòng chân thành thì cũng vô ích, còn giảm giá trị làm người, là kẻ không đáng tin. Nếu phải nhờ đến một thế lực thứ ba, một thế lực của những hạng thấp hèn hơn con người: trời, đất, quỷ thần, cô hồn, máu huyết làm chứng cho mình thì thật tồi tệ! Thành tín tin tưởng nhau chứng tỏ tôn trọng, mến phục nhau, tỏ ra có tình có nghĩa, có lòng bao dung, độ lượng. Tình yêu khoan dung sẽ sẵn sàng chấp nhận sự thiệt thòi và phản bội. Đó chính là tình yêu của Đức Giêsu: yêu cả kẻ thù, kẻ phản bội. Sống chân chính như thế, mới mong “nên trọn hảo như Cha chúng ta ở trên trời”. Lý tưởng của Nho giáo không gì hơn là sống chí thành mới giống thần thánh: “Chí thành như thần” (Trung Dung 24 và 26).
Lạy Chúa toàn năng, toàn thiện, Chúa đã dựng nên muôn loài tốt đẹp, Chúa còn dựng nên con người tốt đẹp muôn vàn hơn nữa và luôn luôn chăm lo săn sóc cho nó trở nên kiện toàn để biểu lộ sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa. Xin cho chúng con biết khôn ngoan chọn con đường sống theo Đức Giêsu để thực hiện mầu nhiệm tình yêu vô cùng khôn ngoan của Ngài. Amen.
25. Cuốn sách hai chữ
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Chúa Giêsu khẳng định: “Đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”.
Luật Môsê là Luật của Thiên Chúa ban. Môsê đã làm nhiệm vụ trung gian trao lại cho dân Do thái và giải thích Luật ấy. Người Do thái từ bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê. Lề Luật là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá một con người. Lề Luật có tầm quan trọng số một đối với người Do thái.
Không ai có quyền bãi bỏ luật lệ, trừ chính vị ra luật hay nhà lập luật. Trong Israel, chỉ mình Đức Chúa có quyền này, ngay cả Môsê cũng không, vì ông chỉ là trung gian truyền đạt.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Ngài không gạt bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê, nhưng Ngài giải thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa, Ngài làm cho mọi luật được nên trọn hảo. Chúa Giêsu công bố lại ý hướng nguyên thuỷ của Thiên Chúa diễn tả qua Lề Luật, đó là Tình Yêu. Ngài muốn đặt tình yêu làm nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như bản thân mình”.
Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy đến để kiện toàn lề luật”. Lời tuyên bố quả quyết dứt khoát đến nỗi: trời đất qua đi thì lời Ngài nói vẫn tồn tại, và tất cả những ai tuân giữ lời Ngài cũng được tồn tại muôn đời trong Nước Trời. Lời tuyên bố như đinh đóng cột làm: “thiên hạ sửng sốt vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mt 7,28; Mc 1,22; Lc 4,31). Kiện toàn Luật Môsê và các Ngôn sứ là kiện toàn và thực hiện toàn bộ Kinh Thánh.
Chúa Giêsu kiện toàn nội dung của Luật gồm luật Sabát, luật thanh sạch, luật hôn nhân, luật báo oán…Đối với Chúa Giêsu, tất cả các khoản luật được lập ra là nhằm mục đích phục vụ con người, chứ không phải phục vụ cơ chế hay quyền lợi của một nhóm người nào. Luật phải vì con người chứ không phải con người vì luật.Luật quan trọng nhất được khắc khi trong tâm hồn mà mọi điều luật khác phải qui về, đó là luật bác ái yêu thương. Luật nào không còn phục vụ và làm thăng tiến con người trên phương diện tình yêu đều không còn lý do để tồn tại.
Chúa Giêsu kiện toàn tinh thần giữ luật. Giữ luật vì lòng yêu mến chứ không phải vì hình thức vụ luật. Óc nệ luật, vụ hình thức làm tê liệt sáng kiến và cầm chân con người trong thái độ tiêu cực, máy móc, cằn cỗi.
Như vậy, Chúa Giêsu kiện toàn lề luật bằng cách đặt cho nó một linh hồn là yêu thương. Tất cả lề luật trong đạo đều qui về một giới răn nền tảng và duy nhất, đó là yêu thương.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu làm hoàn hảo điều răn thứ 5, điều răn thứ 6 và thứ 9, điều răn thứ 2 và thứ 8.
1. Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 5
Điều răn thứ 5 dạy “chớ giết người”. Giết người là có tội. Luật của Chúa Giêsu thì chi tiết hơn: giận ghét, mắng chửi người khác đã là xúc phạm đến người khác, đã là lỗi luật rồi: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt 5, 22-23).
Chúa Giêsu dạy cho con người biết yêu thương và tôn trọng nhau. Yêu thương thì bao dung nhân hậu, thứ tha cảm thông, hòa nhã lịch sự. Yêu thương thì không giận không ghét, không mắng chửi. Ngài cụ thể về đức công chính là làm hòa với tha nhân trước đã, dâng lễ cho Thiên Chúa sau. Như thế, lễ dâng cho Thiên Chúa chỉ có giá trị khi lòng người ngập tràn niềm yêu mến và tôn trọng nhau. Không đợi đến mức giết người mới thành khung tội nặng, khung án nặng, mà theo Chúa Giêsu thì chỉ cần giận ghét chửi mắng anh em là đã liệt vào khung hình phạt cao nhất rồi.
Luật của Chúa Giêsu thật chí lý. Vì nếu, con người ta giữ được lòng yêu thương, tôn trọng, không giận ghét, không mắng chửi thì không có nguyên nhân dẫn đến việc giết người.
2. Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 6 và thứ 9
Điều răn thứ 6 dạy: “Chớ dâm dục”, và điều răn thứ 9 dạy: “chớ ngoại tình”. Chúa Giêsu dạy tích cực hơn: Giữ tâm hồn trong sạch, cả cho mình lẫn cho người.
Không đợi đến lúc vở lỡ, không đợi phải bắt quả tang những chuyện tình vụng trộm thì tội mới thành danh tội “dâm dục” hay “ngoại tình”, nhưng ngay khi nhìn người phụ nữ mà thèm muốn làm chuyện xác thịt thì đã thành tội rồi.Chúa Giêsu rất có lý, vì nếu không giữ cho tâm hồn trong sạch, không kềm chế những ước muốn thấp hèn, sớm muộn con người ta cũng không tránh khỏi cái vòng tục lụy kia nó cuốn vào chỗ phạm tội làm mất đi nhân phẩm cao quí là con cái của Thiên Chúa, là Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Mọi người sống trong sạch với cái nhìn đơn sơ như chim bồ câu, sống vui tươi với nhau thật hồn nhiên như trẻ thơ, làm cho cuộc đời hạnh phúc biết bao!
3. Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 2 và thứ 8
Chúa Giêsu còn dạy thêm về sự ngay chính thật thà: “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra” (Mt 5,37). Lòng ngay chính thật thà hỗ trợ tốt cho việc chu toàn luật yêu thương, tôn trọng tha nhân. Yêu thương chân thành là nền tảng vững chắc ngăn chận mọi âm mưu gian tà của lạc thú xác thịt, của chia rẻ hận thù báo oán.
4. Cuốn sách hai chữ: Yêu Thương.
Một câu chuyện kể rằng, có nhà vua kia lệnh cho các nhà thông thái trong đất nước của ông là hãy tóm gọn tất cả mọi chân lý vào trong một cuốn sách. Thời gian trôi qua hàng chục năm mà chưa ai thực hiện được. Vị quan được trao phó trách nhiệm công việc này đến thưa với vua, xin vua khất cho thời hạn. Một năm sau, vua hỏi, vị này vẫn chưa làm được điều gì. Vì kiến thức là một biển cả mênh mông, không thể tóm trong một cuốn sách, phương chi là một vài chục năm. Không may, nhà vua bị bệnh, mỗi ngày một suy yếu. Thời gian không còn tính theo năm nữa mà tính theo tháng. Rồi bệnh của vua càng ngày càng trầm trọng. Nhà vua hối thúc vị quan được trao phó trách nhiệm. Vị quan này gấp rút dồn lại trong một cuốn sách. Nhưng nhà vua nói: Bây giờ thì ta không thể đọc được nữa rồi, ngươi hãy thu ngắn lại nữa. Cuối cùng một cuốn sách chỉ còn lại một chương. Một chương, nhà vua cũng không còn sức để đọc được nữa. Bệnh đã nặng, hết hơi, sức đã tàn. Sau cùng, nhà vua nói với viên quan kia: ngươi hãy tóm lại trong một chữ thôi. Viên quan đã tận tâm và thưa: muôn tâu hoàng thượng, nếu tất cả chân lý chỉ tóm lại trong một chữ thì thần xin bệ hạ hai chữ là: Yêu Thương.
Thánh Phaolô biết rõ hơn ai hết sự cao đẹp của Luật Môsê, nhưng chính vì thế mà ngài càng xác tín hơn ai hết về giới hạn của nó so với Tin Mừng Chúa Giêsu (x. Gl 3,25-26). Đối với Phaolô: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,10). Sống yêu thương là dấu ấn Thiên Chúa đã ghi khắc trong tâm hồn con người. Mỗi người là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài. Thiên Chúa là Tình Yêu cho nên con người cũng chỉ có một ơn gọi duy nhất, đó là sống yêu thương. Tất cả lề luật Giáo Hội ban hành là chỉ nhằm giúp con người sống yêu thương nhau.
Chúa Giêsu tha thiết kêu mời: Hãy yêu nhau “Như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15,12).Chúa đã yêu bằng hành động cụ thể là hy sinh cho người mình yêu. Khi yêu nhau, người ta có thể hy sinh cho nhau thời giờ, tiền bạc, sức khỏe, công việc…Hy sinh cao cả nhất là hy sinh mạng sống: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Chúa đã thực thi sự hy sinh cao độ ấy: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (x. Rm 5,6; Ep 5,2; 1Ga 3,16), để chúng ta yêu thương: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta phải thương yêu nhau” (1 Ga 4,19), nhờ đó mà “niềm vui được nên trọn vẹn” (Ga 15,9). Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.
Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, chúng ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho chúng ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật. Tình yêu thật vĩ đại cho những ai sống theo gương Chúa Giêsu trong hành trình cuộc đời mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con biết làm tất cả mọi việc chỉ vì lòng mến Chúa và yêu người. Amen.
26. Giữ luật với tinh thần nào?
Nghe bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có cảm tưởng đầu tiên như là Chúa chống lại Lề Luật Mô-sê. Không phải vậy. Trái lại Chúa rất tôn trọng Lề Luật, vì Người cùng với Thánh Gia luôn trung thành và nghiêm túc giữ Luật, thí dụ việc cắt bì hoặc hằng năm lên Đền Thờ dự lễ. Hơn nữa, Chúa Giêsu đến và làm mọi sự là để “ứng nghiệm” lời Chúa phán xưa hoặc lời ngôn sứ… Cho nên Chúa Giêsu đã khẳng định rõ ràng: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Lề Luật hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mát-thêu 5:17). Thực vậy, Chúa Giêsu kiện toàn Lề Luật. Điều này được hiểu theo hai cách: Chúa Giêsu giúp người ta nhận ra ý nghĩa đích thực và hoàn hảo của Lề Luật; hoặc Người thực hiện những lời các ngôn sứ tiên báo về thời đại cứu độ và cánh chung. Cách thứ nhất có thể thích hợp với chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay.
Trước hết Chúa Giêsu đưa ra một khẳng định hết sức quan trọng: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”. Tại sao lại có sự so sánh này? Sự công chính của các kinh sư và người Pha-ri-sêu chưa đủ để vào Nước Trời hay sao? Thưa chưa đủ, bởi vì tuy họ là những người giải thích Luật và tự hào mình lúc nào cũng tuân thủ Lề Luật, nhưng đáng tiếc, họ “nói mà không làm, bó những gánh nặng mà đặt lên vai người ta, còn chính họ lại không buồn động ngón tay vào”, và nhất là “họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (Mát-thêu 23:3-5). Tóm lại, họ chưa đủ tiêu chuẩn công chính để được vào Nước Trời, vì họ đã nhắm sai mục đích của việc giữ Luật, thay vì giữ Luật để được nên công chính thì họ giữ Luật để được người ta thấy và kính trọng họ.
Để trình bày điểm cốt yếu mà người ta thiếu sót khi giữ Luật, Chúa Giêsu lập lại cùng một cách nói: “Luật dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”. Một bên là “Luật dạy”, một bên là “Thầy bảo”. Như thế có gì là mâu thuẫn giữa những điều Luật dạy và những điều Chúa Giêsu dạy không? Dĩ nhiên là không, vì Luật dạy những điều giúp con người nên hoàn thiện, còn Chúa Giêsu dạy chúng ta phải giữ Luật cách nào để được nên hoàn thiện. Những điều Luật dạy không thay đổi, nhưng các kinh sư và Pha-ri-sêu dạy người ta cách giữ Luật để được khen ngợi chứ không phải để được nên hoàn thiện. Chúa Giêsu đã nói rõ về điểm này: “Vậy tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm hãy giữ; còn những việc họ làm thì đừng có làm theo”. Mà đã giữ Luật chỉ để được khen ngợi chứ không để được nên hoàn thiện thì làm sao có thể vào Nước Trời. Chính vì thế, Chúa Giêsu mới dạy chúng ta: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”.
Những lời Chúa Giêsu dạy về việc giữ Lề Luật đòi hỏi chúng ta phải xét lại cách tuân giữ Luật Chúa và luật Giáo Hội. Có lẽ chúng ta cũng hãnh diện giống như các kinh sư và Pha-ri-sêu ngày xưa, rằng chúng ta không khi nào bỏ lễ Chúa Nhật, sáng tối đều đọc kinh cầu nguyện, góp công góp của cho giáo xứ hoặc những sinh hoạt tông đồ. Chúng ta có thể lây “bệnh Pha-ri-sêu”, là giữ luật để tỏ ra mình là người tốt, chứ không phải để xứng đáng làm con Chúa. Thiếu gì những thí dụ cụ thể nói lên điều ấy! Sau khi “xem lễ” Chúa Nhật, chúng ta thấy mình thanh thản vì đã “giữ ngày Chúa Nhật”. Một năm chỉ có hai ngày “ăn chay kiêng thịt”, vậy mà đồng hồ vừa điểm 12g đêm là báo hiệu chấm dứt và mình có quyền ăn nhậu! Tôi đóng góp cho việc xây dựng thánh đường, nhưng cha xứ chưa kịp cảm tạ trên tờ thông tin giáo xứ thì tôi đã cảm thấy “bực bội”.
Giữ luật là để biểu lộ tâm tình con thảo đối với Thiên Chúa là Cha, Đấng muốn cho chúng ta cũng được trở nên hoàn thiện như chính Người. Do đó, giữ luật là sống mối quan hệ yêu thương, chứ không phải là việc làm vì ép buộc. Tình yêu đích thực không bao giờ áp đặt cả! Hôm nay, Chúa muốn chúng ta hãy thành thực xét lại vấn đề!
27. Lề luật mang dáng đứng tình yêu
(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
Sau khi dân Ít-ra-en được Mô-sê dẫn ra khỏi đất Ai Cập, thoát khỏi cuộc đời lầm than nô lệ, thì Thiên Chúa muốn họ hướng về tương lai trong một niềm hy vọng ngút ngàn để xây dựng cuộc đời mới trong tự do, tươi sáng.
Và để làm nền tảng cho cuộc sống mới của Đoàn Dân Được Tuyển Chọn, Chúa đã trao ban cho họ một “bảng hiến pháp” tuyệt vời, đó là MƯỜI ĐIỀU RĂN, mà Ngài đã long trọng khắc ghi vào bia đá, giao cho Mô-sê từ trên đỉnh núi Si-Nai trong khung cảnh uy hùng khói bốc, lửa dậy.
– Kể từ đây, họ sẽ được tự do thờ phượng một Thiên Chúa đích thực mà không còn phải nô lệ cho những thần tượng giả tạo hay những thứ mê tín dị đoan của người Ai Cập và dân ngoại. (Điều răn I)
– Kể từ đây, họ sẽ chọn Thiên Chúa là Cha đang đồng hành và hiện diện giữa họ, để họ có thể gặp gỡ và thân thưa cách thân tình, phụ tử, chứ không còn là một thần tượng xa vời, kết buộc con người bằng những lời thề thốt giả tạo. (Điều răn II).
– Kể từ nay, họ có một ngày nghĩ lễ Sabat tuyệt vời trong tuần để dành riêng thờ Chúa và sống đậm đà tình huynh đệ cộng đoàn, chứ không phải nơm nớp lo sợ cúi đầu để thờ phượng lung tung những thần tượng trống rỗng và bị trói buộc mỗi phút mỗi giây trước những quyền lực phù phiếm và trần tục. (Điều răn III)
Do Thái không còn có thể xảy ra việc giết người, ngoại tình, trộm cướp, làm chứng gian, cáo tội đồng loại….(Các điều răn V, VI, VII, VIII)
– Kể từ nay trong cộng đồng và trong xã hội Do Thái không ai còn nghĩ đến chuyện ham muốn nhà cửa hay mê vợ của kẻ khác, hoặc muốn chiếm hữu tớ trai tớ gái hoặc bò lừa và bất cứ vật gì của người đồng loại….(Điều răn IX, X)
Đây quả thật là giấc mơ cho tương tai hoàn toàn được giải phóng và tự do, giải phóng khỏi sự sợ hãi của những tộc ác và tự do khỏi những cơn cám dỗ, khỏi những khuynh hướng làm ác.
Nhưng rồi, qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử, cho tới thời Chúa Giêsu, Bản Luật Mười Điều Răn đó, đã được người Do Thái chú giải, bày đặt, thêm thắt thành hàng ngàn khoản luật nhỏ, đến độ biến thành một “mớ bòng bong lề luật” truyền khẩu chi li, rườm rà, gần như che khuất hết vẽ đẹp rạng ngời và trong sáng thánh thiện của Mười Điều Răn. Thay vì Giới Luật của Chúa nhằm để giải thoát và cho con người được tự do trong tình yêu, lề luật đã trở thành những thứ giây chằng chịt trói buộc, biến mối tương quan giữa người và Thiên Chúa trở nên xa cách và người với người trở nên lạnh lùng.
Vì luật họ để mặc những anh chị em bịphung cùi chết dần chết mòn trong hoang mạc với cuộc sống hoàn toàn bị cách ly, gạt bỏ.
Vì luật, họ chẳng thèm giao tiếp với những anh chị em thu thuế, những người Samari, những bà con lương dân thấp cổ bé miệng.
Vì luật họ khinh thường và loại trừ những hạng người như cô gái làng chơi Maria Mađalêna, hay chàng Gia-kê trưởng ty thuế vụ, hoặc người mù từ lúc mới sinh lê lết bên bờ cuộc sống…
Họ đã biến tôn giáo mặc khải trở thành tôn giáo của luật lệ, và biến lề luật trở thành những chữ viết vô hồn trong sách vở của họ hay trên những tua áo họ mang trên mình mà hoàn toàn không còn chút sức sống của tình yêu, của con tim để dành cho Thiên Chúa là Cha và cho mọi người là anh em.
Chính Đức Kitô đã phê phán nặng nề thái độ nầy của đám biệt phái, luật sĩ đương thời: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa” (Mt 15,3)
Đức Kitô đã đến để đem lại sức sống và vẽ đẹp tuyệt vời cho lề luật. Hôm nay, Ngài chính thức tuyên bố với những tay biệt phái bảo thủ, từng theo dõi mọi lời rao giảng và mọi hành vi của Ngài, những điều mà họ hoàn toàn dị ứng với nếp nghĩ và ứng xử tôn giáo của họ.
“Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng không thể qua đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.”
Và điều cốt yếu mà Đức Kitô muốn thiết lập để kiện toàn Lề Luật đó chính là Tình Yêu. Tình yêu dành cho Thiên Chúa và Tình Yêu đối với con người. Mọi luật lệ đều phải quy chiếu vào nội dung cơ bản nầy. Đức Kitô muốn những ai là môn sinh của Ngài phải chu toàn Lề Luật trong tinh thần đó:
“Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.
Sự công chính mới mà Ngài muốn các môn sinh của Ngài thực hiện không được dừng lại trên việc tuân thủ cách hình thức và đúng mực theo quy định của Lề Luật; nhưng tiên vàn đó là thái độ tinh thần và con tim làm nền tảng và định hướng cho mọi ứng xử.
Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt. Vậy, nếu anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ đó lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. …
Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. …
Qua những lời tuyên bố cụ thể đó, Chúa Giêsu muốn nội tâm hóa lề luật, để con người không chỉ dừng lại trước việc thực thi và tuân thủ máy móc; nhưng là phải có một trái tim, một tinh thần, một tình yêu thực sự đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân.
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Ai yêu thương thì đã chu toàn lề luật” (Rm 13,8) và thánh Augustinô cũng nhắc nhở: “Bạn hãy yêu thương đi rồi làm theo ý bạn muốn” (Ama et fac quod vis).
Chúng ta đang sống trong một xã hội mà “luật lệ thì đầy dẫy”, nhưng người ta chỉ muốn xài “luật rừng”.
Luật cấm giết người ai mà không biết. Nhưng mỗi ngày có biết bao nhiêu vụ giết người man rợ đã xảy ra. Vào đúng ngày Lễ Tình Nhân hôm qua (14/2/2014), tại Đà Nẵng đã xảy ra một vụ án mạng kinh khủng. Một chàng thanh niên đã đâm chết người yêu rồi nhảy lầu tự tử.
Luật thương mại, sản xuất có đầy đấy chứ. Nhưng ngoài thị trường hàng giả, hàng nhái đầy dẫy. Luật giao thông có đấy, nhưng hàng ngày biết bao tai nạn thương tâm vì người ta bất cần luật…
Luật cấm mê tín dị đoan có đấy chứ. Nhưng từ cán bộ trung ương đến hàng hàng lớp lớp dân chúng thay nhau mà cướp ấn của Đền Trần trong ngày hội khai ấn vừa qua tại Ninh Bình để mong được cầu tài và phúc lộc vật chất, cho dù phải dẫm đạp lên nhau, sống chết mặc kệ.
Phải chăng vì con người hôm nay đã đánh mất cái tâm, cái tinh thần tương thân tương ái, cái trái tim để yêu thương và tương kính lẫn nhau.
Như vậy, chúng ta, những người được chính Đức Kitô dạy bảo: “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”, chúng ta phải là chứng nhân cho một thế giới mới, một thế giới được giải thoát khỏi những u mê lầm lạc của mê tín dị đoan và nô lệ cho những thần tượng giả mạo; một thế giới đầy tình huynh đệ yêu thương trong mái nhà của con cái cùng một Cha chung duy nhất.
Và con đường để thực thi đời sống chứng tá đó không gì khác là cùng nhau tuân giữ và thực hành Lề Luật của Thiên Chúa trong tinh thần yêu thương mà Đức Kitô đã dạy. Nói cách khác, luật của người Kitô hữu là luật mang dáng đứng tình yêu.
28. Bỏ qua – Lm Vũ Đình Tường
Bỏ qua để vui sống là điều cần trong cuộc sống và đây cũng là cái khôn của người xưa. Người xưa dậy mắt đền mắt, răng đền răng và không được phép làm hơn thế. Mục đích là ngăn cấm hành động trả đũa quá đáng. Hành động trả đũa thường bắt đầu bằng cá nhân, cá nhân lôi bè, kéo cánh trả đũa sự việc trở nên khủng khiếp hơn. Lúc đó sẽ không còn cảnh răng đền răng mà răng đền mạng. Giới hạn trả đũa, ngăn ngừa nội chiến trong tộc.
Để hiểu hơn điều Đức Kitô dậy chúng ta cần lần mò một chút văn hoá người xưa. Ai vả má phải hãy đưa má trái cho họ. Vả má người đối diện bẳng lòng bàn tay vì thuận tay nhưng khi không thuận tay nên phải vả má kia bằng lưng bàn tay. Phong tục lúc đó ai vả má người khác bằng lưng bàn tay là hành động của người mất trí. Hành động thiếu tự chủ đáng khinh bỉ. Nạn nhân trở thành người được xã hội bênh dỡ, thông cảm, còn kẻ vả má người bằng lưng bàn tay bị kết án. Việc vả má biểu lộ nội tâm của người đó. Họ là người hành động khôn ngoan, chừng mực hay thô lỗ, tục tằn.
Người xưa đo đường bằng bước chân vì thế quân đội Rôma có thể bắt dân khuôn vác dùm trong vòng một ngàn bước. Nếu muốn phải nhờ người khác. Để cho vác đi hơn một ngàn bước người lính mắc lỗi. Mục đích của luật là ngăn cấm lạm dụng quyền hành.
Hãy cho vay và đừng mong trả. Hiểu theo mạch văn này thì sẽ không ai cho vay. Luật lúc đó cho biết hạn trả nợ là bảy năm. Sau bảy năm mà không trả nổi thì coi như xoá bỏ. Vì thế đến năm thứ năm hay thứ sáu chủ nợ làm dữ trước hạn bảy năm. Sáu năm trả lời đã quá mức mượn ban đầu nếu tiếp tục, mượn một trả thành ba hay bốn. Người xưa không mượn tiền mua nhà, đất mà mua thực phẩm nuôi gia đình. Mượn thức ăn nuôi thân mà bảy năm trời không trả nổi quả đáng thương. Chủ nợ đòi riết quả là nghèo lòng xót thương, đói bác ái. Vay thì phải trả nhưng vay thực phẩm, trả không nổi, còn gì để bắt, ngoài bắt người trừ nợ.
Ba ví dụ trên cho thấy Đức Kitô dậy con người sống yêu thương, thông cảm hoàn cảnh khó khăn của anh chị em khác. Đó chính là luật yêu thương Ngài công bố cho toàn dân: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau (Ga 13,34)
Luật yêu thương tóm gọn luật của tổ phụ Môsê dậy trong Mười Điều Răn nhận từ núi thánh. Luật yêu thương mở ra chân trời mới, đưa ra cái nhìn mới hướng dẫn lương tâm con người sống thứ tha, thông cảm và biết thương đến anh em đồng loại, thông cảm với kẻ khốn cùng, tha thứ cho kẻ làm lỗi, kẻ đói cho ăn, khát cho uống, rách cho mặc. Luật yêu thương đặt căn bản trên con tim. Người biết tha thứ là người mạnh. Có thể không mạnh thể lực mà mạnh về tâm linh, mạnh về lí trí. Sức mạnh nội tâm giúp vượt thắng cám dỗ trả đũa. Sức mạnh này giúp ta tự làm hoà với ta trước sau đó dẫn đến hành làm hoà cùng anh em. Sức mạnh nội tâm giúp ta nhìn rõ sự việc, cân nhắc phải trái khi chọn lựa. Chọn tha thứ là khôn ngoan hơn cả. Chọn bỏ qua để vui sống. Chọn tha thứ là chọn vứt bỏ gánh bực dọc để vui sống. Quảng gắng xong người thấy nhẹ nhõm, tinh thần bình an, lòng thoải mái.
Sống yêu thương giúp ta trở thành người biết thương người. Chỉ chủ nợ mới có thể tha, con nợ không thể tha. Trong yêu thương cũng thế biết thứ tha là biết làm chủ đời mình; không thể bực dọc gây đau khổ, vật vã, bực tức trong lòng, làm khổ mình. Không tha thứ là trói buộc. Tha thứ là giải thoát vì lòng họ thảnh thơi, an bình. Thiếu tha thứ sống đau khổ, tự trói buộc là làn mô lệ cho cái tôi. Không phải ai cũng có thể tha thứ mà chỉ những ai hiểu rõ luật yêu thương mới có thể tha thứ. Luật yêu thương bắt nguồn từ Đức Kitô, giáo huấn chính của Ngài. Để tha thứ cần ơn Chúa. Kết hợp với Chúa dễ tha thứ hơn sống theo thói tục.
Tha thứ không dễ vì phải thắng cái tôi, cái tôi càng lớn chiến đấu càng mãnh liệt, chiến đấu mãnh liệt sẽ có nhiều đau khổ nhưng đau khổ đó êm dịu vì cậy nhờ ơn Chúa. Một khi đau khổ qua đi tâm hồn thảnh thơi, lòng người thoải mái. Chiều theo cái tôi, trói buộc đau khổ kéo dài, cần nhiều thời gian để nguôi ngoai. Càng kéo dài đau khổ càng tăng, như thế trong hai cái đau chọn cái đau ngắn hạn tốt hơn, dại gì chọn đau dài hạn.
Tha thứ nối kết tình bạn, làm cho tình bạn nồng thắm hơn và tạo tin tưởng mãnh liệt hơn. Như thế tha thứ gắn liền với kết hợp với tình yêu Chúa.
29. Luật mới của Đức Giêsu
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Tạp chí Reader’s Digest, số xuất bản tháng 11 năm 1985 có đăng một truyện ngắn:
Đôi vợ chồng kia đã nhiều lần cãi nhau, và lần này, đang lúc hai người cãi nhau hăng say, thì người chồng đề nghị với vợ: “Thôi, chúng ta đừng cãi nhau nữa. Bây giờ mỗi người hãy lấy giấy, viết ra tất cả những lỗi lầm, những tật xấu của người kia, rồi trao cho nhau”. Người vợ đồng ý. Người chồng cầm lấy tờ giấy, nhìn người vợ và cúi mặt xuống viết một câu. Người vợ thấy chồng mình bắt đầu viết, liền hối hả viết liên hồi, dường như cố ý tranh với chồng, để kể ra nhiều tật xấu hơn. Người chồng chỉ viết một câu rồi dừng lại nhìn vợ. Sau vài phút, trang giấy của người vợ đầy những dòng chữ kể ra tật xấu của người chồng, và người vợ xem ra hả dạ, vì đã viết nhiều hơn.
Đến lúc không còn gì để viết nữa, hai người trao cho nhau bản kể tội của nhau. Sau khi nhìn vào tờ giấy của chồng, nét mặt của người vợ bỗng biến đổi vì xúc động. Bà vội vàng đòi lại tờ giấy đã đưa cho chồng và tỏ thái độ làm hoà ngay với chồng. Trong tờ giấy của người chồng, bà chỉ đọc được có một câu duy nhất: “Anh yêu em!”.
Anh chị em thân mến,
Tình yêu chính là Luật Mới đã được Đức Giêsu công bố trong bài giảng trên núi: “Tôi không đến để bãi bỏ Lề Luật, nhưng là để kiện toàn”, nghĩa là Đức Giêsu công bố lại ý hướng nguyên thuỷ của Thiên Chúa diễn tả qua Lề Luật, đó là Tình Yêu. Ngài muốn đặt tình yêu làm nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như bản thân mình”.
Nếu tình yêu chân thật là nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa, thì con người sẽ không bao giờ dám lên tiếng phàn nàn than trách Thiên Chúa. Nếu tình yêu là nền tảng cho mối tương quan giữa người với người, thì sẽ không còn cảnh tranh giành, xung đột, hận thù lẫn nhau nữa.
Luật mới của Đức Giêsu sẽ tạo nên những con người mới, một xã hội mới, tạo nên “Nước Trời”: “Anh em hãy trở nên hoàn thiện như chính Thiên Chúa là Đấng Hoàn Thiện”. Trong một số ví dụ được Đức Giêsu đưa ra như giết người, gian dâm, bội thề… Luật mới không chỉ dừng lại ở những hành động tội ác, mà đòi hỏi phải đổi mới tận chiều sâu của tâm hồn, tận trái tim yêu thương:
– Trước kia, có huỷ hoại sự sống thể xác mới phải ra toà. Nhưng từ đây, chỉ mới có tâm tình giận dữ, hay buông lời nhục mạ anh em là đã đủ để lãnh án nặng nề.
– Thậm chí chưa tích cực giải hoà với một người anh em đã gây căng thẳng, bất bình, cũng phải kể là không được liên hệ tốt với chính Thiên Chúa, không còn quyên dâng của lễ cho Thiên Chúa.
– Luật cũ xử phạt người có hành động ngoại tình. Từ đây, Luật mới đòi buộc phải trong sáng từ ánh mắt đến tận tâm hồn. Phải tôn trọng và lãnh trách nhiệm bảo vệ người bạn đời của mình.
– Luật cũ cấm phản bội lời thề. Luật mới đòi phải sử dụng lời nói thế nào trong cả đời anh, để người nghe, hiểu và nhận được lòng chân thành của anh, mà không cần anh thề thốt gì hết.
Do đó, chúng ta không lạ gì lối giữ đạo duy hình thức, vụ Lề Luật của các luật sĩ và các nhóm Biệt phái Pharisêu thời Chúa Giêsu, đã bị chính cuộc sống của Chúa Giêsu vạch trần là giả hình là “mồ mả tô vôi”: Giữ luật chi li, nhưng là để cho bản thân mình nổi danh đạo đức trước người khác và tự mãn nơi lòng mình. Tệ hơn nữa là hạng người mượn danh “luật Chúa” để kết án người có tội, người nghèo khổ, hoặc người mang bệnh tật. Và còn đáng Ngài phản đối nặng nề hơn nữa khi họ chủ trương bắt người khác cũng phải hoạ theo lối sống hà khắc của họ. Chính Chúa Giêsu đã bảo: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và nhóm Pharisêu, thì anh em sẽ chẳng được vào Nước Trời”.
Anh chị em thân mến,
Luật mới là một “Giao Ước Mới”, một “hợp đồng tình thương” với những điều khoản được Chúa “ghi tạc tận đáy lòng, tận trái tim con người” (Gr 31,33). Ngôn sứ Êzêkiel còn diễn tả qua hình ảnh cụ thể hơn nữa: “Ta sẽ ban tặng các con một trái tim mới, Ta sẽ đặt vào lòng các con một tinh thần mới, Ta sẽ lấy trái tim chai đá ra khỏi lòng các con và ban tặng các con một trái tim thịt mềm biết yêu thương. Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào lòng các con để làm cho các con theo đúng luật của Ta” (36,23-27).
Đức Giêsu đã kiện toàn Luật của Thiên Chúa. Ngài đã sống trọn vẹn đến từng chi tiết. Ngài đã bày tỏ cho chúng ta một Thiên Chúa lấy con người làm đối tượng của tình yêu thương, khi đích thân Ngài, như một tên tử tội khốn nạn nhất, chết treo trên Thập giá, chỉ vì muốn nâng con người lên tận hàng con cái Thiên Chúa. Mầu Nhiệm Nhập Thể không chỉ là mầu nhiệm của Ngôi Lời Thiên Chúa làm con người mà còn là dấu chứng của tình yêu, cũng là bản thể Thiên Chúa đã dính chặt vào với mỗi con người của trần thế, đến độ bất cứ ai làm gì cho mỗi con người, đều làm cho đích thân Ngài, và bỏ qua không làm tốt cho con người, cho dù với mọi thứ lý do, sẽ chỉ đưa đến kết quả là: “Không được sống đời đời” (Mt 25,41).
Thưa anh chị em, Đạo của Chúa, Luật của Chúa là như thế đó. Nó nhằm mục tiêu cho mỗi người chúng ta hoà nhập vào dòng suối vô tận của tình thương vô biên, khơi nguồn từ Chúa Cha và thông qua Chúa Giêsu và nhờ Thánh Thần chuyển đến mỗi người chúng ta, đến với mọi người muôn thế hệ. Bởi vì chỉ có tình thương mới cho chúng ta góp phần xây dựng, phát triển hạnh phúc của con người anh em. Và chỉ có hạnh phúc của anh em, có chúng ta góp phần, mới cho chúng ta cảm nghiệm và dự phần hạnh phúc của Thiên-Chúa-Tình-Thương.
30. Nhìn người nữ…, nhìn người nam… – Lm. Minh Anh
Sống là chọn lựa. Chọn lựa là hy sinh. Hy sinh là chết đi. Chết cho điều này để sống cho điều kia. Bài đọc thứ nhất sách Huấn Ca hôm nay nói đến việc chọn lựa, “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước; con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con là cửa sinh cửa tử; ai thích gì, sẽ được cái đó”.
Tin Mừng hôm nay cũng nói đến việc chọn lựa, “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra toà”. “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình; còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, bất cứ ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”.
Nếu có những lối đi yên tĩnh thì cũng có những ngõ vắng xôn xao;
Nếu có những đường làng quạnh hiu thì cũng có những đại lộ rộn rã.
Tương tự như thế, trong tình yêu,
Tình yêu có cả những đại lộ thênh thang,
Cả những lối mòn chật hẹp.
Các bạn trẻ thân mến,
Luật cũ dạy: chớ giết người, chớ ngoại tình… đó là những đại lộ tình yêu, ai cũng thấy, ai cũng biết và dễ chấp nhận. Nhưng ai giận anh em mình, ai bảo anh em mình là “bờm”, thì đáng bị toà án luận phạt… đó là những lối hẹp tình yêu mà ai ai cũng dễ va vấp và khó chấp nhận. Cũng như, “Ai nhìn người nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” lại là một lối mòn chật hẹp hơn. Phải chăng đây chính là điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người mà thánh Phaolô nói tới trong bài đọc thứ hai hôm nay?
Có người nói, lạy Chúa, Chúa quá quắt, “Chúa đi guốc trong bụng đàn ông…”; nhưng cũng không ít người tạ ơn Chúa vì Chúa quá tế nhị, quá nhân ái khi không dám nói thêm “Ai nhìn người nam…”.
Thưa các bạn, có lẽ đây là đoạn Tin Mừng mà mỗi khi đọc hoặc nghe nói đến là chúng ta nhăn mặt, một đoạn Tin Mừng hiếm khi được chọn để suy niệm trong các buổi chia sẻ.
Vậy hôm nay, chúng ta thử nhìn thẳng vấn đề. Đức Giêsu muốn nói gì ở đây? Phải chăng Ngài muốn nói đến đức ái trọn hảo? Phải chăng Ngài muốn nói đến sự thanh khiết hồn nhiên của những ai theo Ngài? Hoặc Ngài muốn nói đến những đòi buộc triệt để giúp chúng ta tiến “nhanh hơn, cao hơn và xa hơn” trong đời sống làm con Chúa? Có lẽ tất cả đó đều là câu trả lời.
Đức Giêsu, Đấng ba lần thánh, dẫu hoàn toàn vô tội… nhưng không vì thế mà những gì xảy ra nơi con người lại xa lạ với Ngài. Ngài biết đến những xung năng vật vã, biết cả những cuồng si ươn hèn, hay những cám dỗ chết người nơi thân phận bọt bèo của kiếp nhân sinh. Ngài biết nam cũng như nữ, trẻ cũng như già, khoẻ cũng như ốm, người sống đời dâng hiến cũng như kẻ ở bậc vợ chồng.
Trong cuốn sách của mình, một bác sĩ tâm lý thổ lộ: “Tôi thiết nghĩ, trong đời sống vợ chồng, việc giữ đức khiết tịnh còn khó hơn gấp bội so với những người sống đời độc thân. Tôi không nói đến ngoại tình, nhưng tôi muốn nói đến sự kiêng khem”. Vậy thì tại sao phải kiêng khem trong bậc vợ chồng cũng như phải dè giữ ngũ quan trong đời dâng hiến? Câu trả lời hẳn phải có một mẫu số chung: tất cả chỉ vì tình yêu.
Người ta sẽ không biết từ chối những điều cấm nếu đã không biết chối từ những điều được phép. Sẽ không biết yêu thương nếu người ta đã không biết hy sinh cả những gì có thể làm. Vì không phải điều ta dâng Chúa mới đáng giá, nhưng sẽ đáng giá hơn, cả những điều ta từ chối vì Người. Tất cả phải phát xuất từ tình yêu, chỉ vì tình yêu. Tất cả gỗ của muôn cánh rừng sẽ thật vô dụng nếu không có lấy một ngọn lửa, “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy những ước mong cho lửa này bùng cháy lên”. Lửa ở đây, chính là lửa yêu thương.
Kitô hữu là những người lội ngược… mà dừng lại là thua cuộc, là trôi theo dòng đời.
Đừng ngần ngại tìm sự cô tịch cho tâm hồn ở những lối đi chật hẹp!
Đừng do dự trổ hoa giữa những sa mạc cằn khô!
Cũng đừng băn khoăn khi phải chắt chiu niềm vui nơi những lối đi gập ghềnh.
Ngài có đó, Giêsu có đó… sẵn sàng dẫn dắt, bổ sức và chữa lành bạn; ở đó, niềm vui dâng hiến sẽ là những bông hoa hiếm hoi trổ nụ trên những que cọng tình yêu. Hãy cầu xin cho bạn đủ sáng, đủ hấp dẫn để các tâm hồn được gần Chúa hơn; cũng hãy cầu xin cho đủ lu mờ để không ai gắn bó với bạn mà xa dần Thiên Chúa. Chúc bạn mạnh mẽ để can trường đi vào những lối nhỏ yêu thương đó!
31. Luật của Chúa Giêsu – PM. Cao Huy Hoàng
Thiên Chúa ban cho con người có tự do và để con người tự do định đoạt số phận của đời mình: “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ được cái đó”. (Hc 15, 16-17).
Tuy nhiên, vì không muốn con người phải hư mất, Thiên Chúa ban Lề Luật để hướng dẫn con người sử dụng tự do của mình mà đi vào cõi sống: cửa sinh“Người để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người, và biết rõ tất cả những gì người ta thực hiện. Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội”. (Hc 15, 19-20)
Mười điều răn Môisê đã nhận lãnh để truyền cho dân, là một chuẩn bị xa để con người sống công chính mà đón nhận Tin Mừng Cứu Chuộc, Tin Mừng của Cõi Sống.
Chúa Giêsu đến, Ngài kiện toàn lề luật tích cực hơn chỉ trong một luật duy nhất: “yêu thương”, như thánh Phaolô xác quyết: “Yêu thương là chu toàn lề luật”(Rm 13,10)
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu làm hoàn hảo điều răn thứ 5, điều răn thứ 6 và thứ 9. Ngài nói với các môn đệ hai ngàn năm trước, mà nghe như đang nói với mỗi người chúng ta, trong thế giới nầy, trong đất nước nầy, trong xã hội và giáo hội hôm nay…
Yêu thương và tôn trọng nhau
Điều răn thứ 5 dạy “chớ giết người”. Giết người là có tội. Luật của Chúa Giêsu thì chi tiết hơn: giận ghét, mắng chửi người khác đã là xúc phạm đến người khác, đã là lỗi luật rồi. “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt 5, 22-23)
Chúa Giêsu dạy chúng ta biết yêu thương và tôn trọng nhau. Yêu thương thì bao dung nhân hậu, thứ tha cảm thông, hòa nhã lịch sự. Yêu thương thì không giận không ghét, không mắng chửi. Ngài cụ thể đức công chính của chúng ta là làm hòa với tha nhân trước, dâng lễ cho Thiên Chúa sau. Như thế, lễ dâng cho Thiên Chúa chỉ có giá trị khi lòng chúng ta ngập tràn niềm yêu mến và tôn trọng tha nhân. Không đợi đến mức giết người mới thành khung tội nặng, khung án nặng, mà theo Chúa Giêsu thì chỉ cần giận ghét chửi mắng anh em là đã liệt vào khung hình phạt cao nhất rồi.
Vâng, Luật của Chúa Giêsu thật chí lý. Vì nếu, con người ta giữ được lòng yêu thương, tôn trọng, không giận ghét, không mắng chửi thì không có nguyên nhân dẫn đến việc giết người.
Nhìn thực tế cuộc sống đạo hôm nay, có thể chúng ta vẫn giữ luật điều răn thứ năm thật nghiêm túc là không giết người. Nhưng hình như chưa giữ luật yêu thương tôn trọng anh em. Chúng ta đang trách mắng nhau, chửi bới nhau thậm tệ trên các phương tiện truyền thông? Một bên mắng là “đồ ngốc”. Bên kia mắng lại là “quân phá đạo, quân phản đạo”. Thực ra, không thấy có ai dám mắng anh em là “đồ ngốc”, nhưng ý nghĩa các bài viết, các bản tin còn thậm tệ hơn cái “đồ ngốc” ấy nữa, nhất là đối với các những người lớn hơn mình về vai trò nhiệm vụ trong xã hội và giáo hội. Không ai dám kết án chúng ta đã xem thường nhau, rồi xúc phạm đến nhau tới mức nào, nhưng tự thâm tâm chúng ta có thể trả lời được, nếu không, hãy mở to mắt nhìn những hậu quả. Kìa, những phê phán, những đánh giá đầy tính chủ quan lại được tung ra trên diện rộng đã gây nên những hậu quả khó lường. Có cả những hậu quả thảm khốc là làm cho người bị mắng là đồ ngốc lẫn người bị chửi là quân phản đạo, vẫn sống nhưng là như đã chết rồi. Người chết cái uy tín, kẻ chết cái niềm tin, cái nhiệt tình. Người thứ ba đứng bên ngoài vỗ tay reo hò rằng: chúng nó tàn sát lẫn nhau.
Chúng ta không giết người, vì không có gươm giáo, súng đạn, nhưng vì thiếu chân thành, chỉ cần một chữ ký, một quyết định, một bài báo, một bản tin, một tờ rơi, một cái búng tay ra mật lệnh, một cú phone, một cái enter.. dễ chưa từng có… Người anh em ta sẽ chết ngay dưới lưỡi gươm công luận, dưới búa rìu comments phê phán, dưới họng súng truyền thông.
Cũng vậy, chúng ta không giết người, nhưng vì không tôn trọng con người là tuyệt phẩm của Thiên Chúa, nên chỉ cần một viên thuốc, một lời kích động, một phút tư vấn (về sức khỏe, về sắc đẹp, về hạnh phúc) là có hằng trăm con người đỏ hon hỏn phải tức tưởi tắt thở lúc chưa kịp sinh ra. Những can phạm, không ai khác, chính những người thân thiết nhất của con người: cha giết con, chồng giết vợ, mẹ giết con, vợ giết chồng, chủ giết tớ, cấp quan cấp trên có quyền hành giết cấp dân đen cấp dưới không phương tiện chống cự, không tiếng nói…
Giữ tâm hồn trong sạch, xứng đáng là đền thờ Chúa Thánh Thần
Điều răn thứ sáu dạy: “Chớ dâm dục”, và điều răn thứ 9 dạy: “chớ ngoại tình”. Chúa Giêsu dạy tích cực hơn: Giữ tâm hồn trong sạch, cả cho mình lẫn cho người.
Không đợi đến lúc vỡ lở, không đợi phải bắt quả tang những chuyện tình vụng trộm thì tội mới thành danh tội “dâm dục” hay “ngoại tình”, nhưng ngay khi nhìn người phụ nữ mà thèm muốn làm chuyện xác thịt mây mưa thì, theo Chúa Giêsu, đã thành tội rồi.
Chúa Giêsu rất có lý, vì nếu không giữ cho tâm hồn trong sạch, không kềm chế những ước muốn thấp hèn, thì sớm muộn, con người ta cũng không tránh khỏi cái vòng tục lụy kia nó cuốn vào chỗ phạm tội làm mất đi nhân phẩm cao quí là con cái của Thiên Chúa, là Đền Thờ Chúa Thánh Thần.
Trước đây, người phụ nữ Á Đông rất kín đáo, rất đoan trang… Tại sao chỉ sau ba bốn chục năm, các thiếu nữ bây giờ không còn đoan trang như trước nữa? Có người cho là hội nhập văn hóa Tây Phương. Có người cho là đó là nét đẹp của Thượng Đế cần phải phô trương. Có người còn cho là không có gì là tội lỗi. Nhưng cũng có câu trả lời rằng: kẻ chống Chúa Giêsu biết cách làm cho người ta không giữ lời Chúa Giêsu dạy! Như vậy là đỗ thừa cho hoàn cảnh xã hội sao? Không, thiết tưởng, người phụ nữ không còn kín đáo nữa là do họ không những không còn quí trọng đức trinh khiết của mình và của người khác, mà còn thích thú làm cớ cho mình và người khác vấp phạm.
Cách đây 8 năm, tôi lên Sàigòn, ghé thăm anh bạn bán thuốc tây trước BV Bình Dân. Vừa nói chuyện vừa xem anh bán thuốc. Tôi thắc mắc không biết các em học sinh mang bảng tên lớp 10, lớp 11 vào mua thuốc gì mà anh bạn tôi lấy tiền rồi trao cho các em cái gì đó đựng trong túi xốp đen, đi ra. Chỉ ngồi chơi một tiếng mà có ít là 6 học sinh vào mua hàng rồi ra như vậy. Thấy tôi ngẩn ngơ, không đợi tôi lên tiếng hỏi, anh bạn tôi nói: “Mình không bán thì mấy tiệm kia cũng bán cho chúng nó thôi. Bạn lấy làm lạ phải không?” “Vâng, mình chẳng hiểu gì cả”. “Chúng nó mua que thử thai đấy. Học sinh bây giờ lớp 9 lớp 10, tụi nó thử cả rồi! Có trời mới biết chúng nó ngoan như thế nào. Khổ nỗi, cha mẹ thì chỉ biết “Con tôi nó học ngày học đêm! Tội nghiệp quá!” ….
Ấy là chuyện con nít. Còn chuyện người lớn thì “không chỉ nhìn phụ nữ, phụ nam cách thèm thuồng, mà còn đưa phụ nữ về nhà mình, hoặc đưa người tình nam về nhà mình sống chung bất hợp pháp thì còn gì để nói”. Cuộc sống không công chính vì lỗi đức trong sạch của người lớn ở bậc độc thân suốt đời, cũng như của người sống bậc hôn nhân đã làm niềm tin và lòng yêu mến của bậc bề dưới, của con cái chết dần chết mòn rồi đến giai đoạn tử vong không cứu kịp.
Giá trị hôn nhân công giáo hệ tại ở tính đơn hôn và vĩnh hôn. Vì vậy, những lạc thú ngoài hôn nhân làm mất giá trị đời sống công chính của hôn nhân công giáo. Biết thế, âm mưu của người chống lại Thiên Chúa là những chủ trương thành văn hoặc bất thành văn về việc tự do quan hệ, khuyến khích phá thai, còn tạo điều kiện tốt cho những cuộc ly hôn ly dị có pháp luật bảo đảm.
Từ đó, thế hệ những đứa con vất vưởng do những cuộc ly hôn, hoặc của những đứa con vô thừa nhận làm thay đổi cách nhìn truyền thống và giá trị của chữ Hiếu. Thế hệ trẻ của những con người nầy không còn yêu thương, kính trọng cha mẹ mình, vì cha mẹ đã không chu toàn đức công chính. “Tết em muốn về với Mẹ, mà không biết phải nói gì với chồng của Mẹ. Tết, em muốn về với Ba, cũng không biết phải nói sao với vợ của Ba”. Hoặc là, đã để lại cho chúng một dấu ấn không đẹp về cách hành xử của người lớn khi chúng không biết ba chúng nó là ai. Có trường hợp đáng tiếc, khi lớn lên nó biết ba của nó là một ông lớn trong xã hội. Thiên Chúa mà ông lớn không nhìn nhận thì huống chi là con ông.
Chúa Giêsu thật chí lý khi dặn dò chúng ta giữ tâm hồn thanh sạch. Nếu đức trong sạch được trân quí nơi ý thức của mỗi cá nhân, nơi giáo dục của mỗi gia đình, nơi chủ trương của xã hội thì ắt hẳn sẽ có một xã hội đầy nhân tính, xứng nhân phẩm, trọn vẹn nhân ái đúng nghĩa mà Thiên Chúa muốn.
Ngay chính thật thà
Chúa Giêsu còn dạy thêm về sự ngay chính thật thà: “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra”(Mt 5,37)
Lòng ngay chính thật thà có thể nói sẽ hỗ trợ tốt cho việc chu toàn luật yêu thương, tôn trọng tha nhân. Và yêu thương chân thành sẽ là nền tảng vững chắc ngăn chận mọi âm mưu gian tà của những lạc thú xác thịt, của những âm mưu chia rẻ, âm mưu gây hận thù, oán trách.
Con người thời nay vẫn đồng hóa tình yêu với tính dục và cho là đó là tình yêu chân thành, mà không ngộ ra rằng đó là sự xúc phạm nặng nề đến nhân phẩm của người mình yêu. Những người yêu nhau một cách xác thịt, không tin là họ đang lừa dối nhau, và mãi sống trong sự nhầm lẫn đáng tiếc vì ai cũng đang yêu chính mình.
Người công giáo phải được giáo dục tốt từ trong gia đình về đức tính thật thà. Vì nếu nơi Thiên Chúa không có gì là gian dối, thì Ngài cũng không thể chấp nhận con cái Ngài sống cách gian tà, quỷ quyệt. Cũng vậy Thiên Chúa tôn trọng sự thật, bênh vực công lý, trung tín lời hứa, và cũng muốn con cái Ngài như vậy.
Con rắn ngày xưa phỉnh gạt bà Eva ăn trái cấm. Con rắn ngày nay còn quỷ quyệt tinh xảo hơn: không cần phỉnh gạt ai cả, nhưng mở đường gian tà thênh thang cho con người đi lên tới đỉnh danh vọng, tới đích tỷ phú, tới hạnh phúc trần gian thừa mứa chán chê! Ai không đi theo đường của nó, thì nó nhẹ nhàng quyến rủ mời mọc lịch sự chưa từng có! Ai đã theo con đường của nó, tự động sẽ phát sinh những chuyện gian tà, gây nên những hỗn độn: chê bai chỉ trích điều công chính lẫn điều không công chính, làm cho không ai phân biệt được phải trái nữa. Cái nào cũng phải. Cái nào cũng trái. Lúc ấy, nó sẽ đắc thắng.
Chuyện không đáng kể, mà cũng phải kể. Đó là chuyện có vài người không đáng kể, thích thêm mắm muối ớt tỏi làm lệch lạc sự thật đáng quí, ảnh hưởng tới một số người đáng kể. Trong khi đó, đức công chính Chúa Giêsu dạy là “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra”(Mt 5, 37)
Có anh bạn từ rất xa, phone cho tôi thăm hỏi: “Lâu nay làm gì mà vắng bóng thế?” Tôi trả lời “Vẫn thế thôi mà”. Anh hỏi tiếp: “Bệnh hay là định gác bút rồi?” “Không, vẫn bình thường mà?”- “Mình chả thấy bài ông đâu cả?” “Có mà. Ông đọc trang nào?” “Mình chỉ đọc độc một trang “Nhân Viên Công Lực” thôi! Chửi nghe sướng!”. “Ồ, thế thì làm sao được! Phải đọc dăm bảy trang mới khách quan ra được chứ!”. Anh bạn tôi cúp máy!
Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi chúng con dùng tự do Chúa ban mà đi vào đường lối của Chúa là yêu thương và tôn trọng nhau. Và khi đã yêu thương tôn trọng nhau xin cho chúng con không giận ghét mắng chửi nhau, mà còn giữ cho nhau tâm hồn trong sạch cao quí xứng đáng là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Xin giúp chúng con tránh xa lối gian tà, nhờ tuân hành lề luật của Chúa Giêsu, Đấng là Đường, Là Sự Thật, và là Sự Sống của chúng con. Amen.
32. Gợi ý giảng của Lm Carôlô
SỐNG THEO LUẬT CHÚA
1) Con đường sống
Trong bài đọc I, Ben Sira nói đến 2 con đường: con đường được vạch ra bởi các giới răn là con đường sống, con đường nước, con đường sự lành; con đường thứ hai thực ra không phải là đường mà là muốn đi đâu thì đi, không có chỉ dẫn, không có định hướng, không có ngăn cản… đó là con đường lửa, con đường sự dữ, con đường sự chết.
Chỉ cần một thí dụ nhỏ cũng đủ để nhất trí với Ben Sira: lái xe trên xa lộ. Muốn an toàn, hay nói cách khác là muốn sống, người lái xe phải tuân thủ rất nhiều luật: đoạn nào phải chạy với tốc độ nào, chỗ nào được quẹo, chỗ nào phải dừng lại, muốn vượt thì phải làm sao v.v. và v.v.
Người lái xe nào nghĩ rằng tất cả những luật ấy là bó buộc, là bóp chết sự tự do của mình, rồi bất chấp tất cả. Kết quả sẽ thế nào? Người đó chết. Chẳng những thế, có thể làm cho nhiều người khác chết theo.
Đi trên một đoạn đường xa lộ mà đã thế. Huống chi trọn cuộc hành trình của đường đời.
2. Luật là luật!
Nhiều người nói “luật là luật”. Những người này bám sát mặt chữ của các khoản luật và buộc người ta tuân thủ một cách nô lệ từng chữ ấy. Lúc đó, luật trở thành chủ, và con người trở thành nô lệ. Cuộc sống quá nặng nề, không chịu nổi. Luật của pharisêu là như thế đó. Ngày sabát, nếu có người bệnh cũng không được chữa, bởi vì “luật” cấm không được làm việc gì trong ngày đó.
Nếu chú ý đọc hết bài giảng trên núi rất dài của Đức Giêsu (từ đầu chương 5 đến hết chương 7 Tin Mừng Mátthêu), chúng ta sẽ ngạc nhiên là tuy Ngài nói đến luật cũ và luật mới, nhưng Ngài chỉ giải thích những khoản luật cũ chứ không đưa thêm khoản luật nào “mới” của Ngài cả. Đức Giêsu không thêm luật, nhưng Ngài chỉ cho thấy tinh thần của luật. Vì thế ta có thể nói: luật của Chúa Giêsu không phải là luật, mà là tinh thần. Tinh thần là sự sống của luật. Đã có quá nhiều khoản luật, chỉ thiếu tinh thần và sự sống thôi.
Sau này, trong một cuộc đối thoại với một luật sĩ, Đức Giêsu có nói tới hai khoản “luật” quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Nhưng thực ra hai khoản đó cũng đã có sẵn trong bộ luật cũ Cựu Ước. Khoản luật thì vẫn cũ, cái mới là tinh thần: tinh thần “yêu” và tinh thần “mến”.
Tín hữu chúng ta đang cố gắng tuân giữ rất nhiều luật: Luật Chúa và luật Giáo Hội. Nhưng hãy lưu ý kỹ điều này: nếu chỉ giữ “luật” mà không giữ đúng “tinh thần” của luật thì ta sẽ thành nô lệ, sẽ thành pharisêu.
3. Luật gia đình: Cha con, anh em
Tinh thần bao trùm tất cả mọi khoản luật là tinh thần gia đình: đối xử với Thiên Chúa bằng tình hiếu thảo cha con và đối xử với người khác bằng tình huynh đệ anh em.
Đọc lại Bài giảng trên núi rất dài từ chương 5 đến hết chương 7 Tin Mừng Mt, ta thấy mỗi lần nói đến Thiên Chúa thì Đức Giêsu đều nhắc ta nhớ Ngài là Cha, và mỗi lần nói đến người khác thì Đức Giêsu cũng nhắc ta nhớ họ là anh em của ta.
– Thí dụ như về luật đối xử với người khác (Mt 5,21-26): “Ai giận anh em mình… Ai mắng anh em mình… Ai chửi anh em mình… Khi con sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với con…”
– Thí dụ về những việc đạo đức (Mt 6,1-18): “Khi bố thí thì đừng có khua chiêng đánh trống… Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh… Khi cầu nguyện… Hãy cầu nguyện với Cha của anh, Đấng thấu suốt những điều kín đáo… Còn khi ăn chay… Cha của anh Đấng thấu suốt những gì kín đáo…”
Thánh Kinh thường gọi Luật là “ách” và “gánh”. Nhưng luật của Chúa Giêsu là luật gia đình. Luật gia đình tuy cũng là “ách” và “gánh” nhưng rất nhẹ nhàng, êm ái: “Ach Ta êm ái, gánh ta nhẹ nhàng”.
4. “Đừng nổi giận với anh em mình”
Đức Giêsu không bảo “Đừng nổi giận”, mà bảo “Đừng nổi giận với anh em mình”. Nhận xét này có nhiều ý nghĩa.
Xét về mặt tâm lý, giận là một trong “thất tình”, nghĩa là một trong 7 thứ tình cảm tự nhiên mà người lành mạnh nào cũng có. Nếu ta biết yêu ta và tự trọng ta thì khi ai đó đối xử bất công với ta thì tự nhiên ta nổi giận. Khoa tâm bệnh học còn cho biết rằng cứ đè nén cơn giận mãi còn có thể gây hại cho tâm thần và cả sức khoẻ nữa. Tự nó, tình cảm giận không có gì xấu. Chính Đức Giêsu cũng từng nổi giận khi thấy người ta buôn bán trong sân Đền thờ Giêrusalem.
Chỉ xấu khi “nổi giận với anh em mình”, nghĩa là vì giận quá mà không còn coi người anh em mình như anh em nữa, trái lại coi họ là người dưng, thậm chí là kẻ thù. Nói tóm lại là giận đến nỗi mất tình huynh đệ. Trong trường hợp này “giận” đồng nghĩa với “giết”: không phải giết chết một mạng sống mà giết chết một mối tình, vì người trước đây là anh em nay không còn là anh em nữa.
5. Chuyện minh họa
a/ Giận dữ
Khi R. Weaver còn làm công nhân hầm mỏ, có lần anh vô tình chọc giận một công nhân khác. Anh này gầm lên:
– Chắc tao phải cho mày mấy bạt tai quá!
– Nếu anh thấy cần thì cứ làm đi.
Người ấy tát Weaver một cái. Anh đưa má kia, tát nữa. Tất cả là 5 lần. Đến lần thứ 6, người kia hậm hực bỏ đi. Weaver còn nói theo: “Chúa tha thứ cho anh. Tôi cũng thế. Xin Chúa cứu anh.”
Sáng hôm sau khi xuống mỏ, người đầu tiên mà Weaver gặp là người tát mình. Anh mỉm cười lại gần. Người ấy chợt bật khóc: “Ôi anh Richard. anh thực sự tha thứ cho tôi chứ?”
Cả hai ôm chầm lấy nhau. Rồi người ấy nhập đạo.
b/ Tha thứ
Dick và Dorothy là hai chú bé luôn bị một chú nọ to con bắt nạt. Hai chú tức mà không làm gì được. Ngày nọ, hai chú đọc đoạn Tin Mừng kể chuyện Phêrô hỏi Chúa: “Khi anh em xúc phạm đến con, thì con phải tha bao nhiêu lần? Có phải 7 lần không?”- “… Không phải 7 lần, mà là 70 lần 7.” Dick làm tính nhẩm: “Vậy là Chúa bảo tha 490 lần.” Hai đứa thinh lặng một lúc, rồi Dorothy nói: “Ta hãy mua một cuốn vở, mỗi khi tha cho hắn, mình ghi vào.” Và Dick reo lên: “Sau lần thứ 490, tụi mình sẽ cho hắn biết tay!”
33. Giáo huấn chung của Tân Ước
(Trích trong ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Phụng vụ Mùa Thường niên không đề cao một mầu nhiệm nào đặc biệt, nhưng chỉ trình bày giáo huấn thông thường của Hội Thánh liên quan đến đời sống hàng ngày của tín hữu. Hôm nay chúng ta vừa được nghe một đoạn sách Huấn ca, một khúc thơ Phaolô và một số lời Tin Mừng theo thánh Mátthêô. Nếu được phép tổng hợp, chúng ta có thể nói Lời Chúa hôm nay khuyên chúng ta hãy lựa chọn đường lối khôn ngoan của Thiên Chúa và đến với Đức Giêsu Kitô là Đấng đang rao giảng sự khôn ngoan của Thiên Chúa cho loài người.
A. Chúng ta hãy lựa chọn đường lối khôn ngoan
Huấn ca là một tác phẩm trong loại sách khôn ngoan của Thánh Kinh Cựu Ước. Ngay trong đoạn trích đọc vắn tắt hôm nay, người ta đã có thể nhận ra mấy sắc thái chính yếu của tác phẩm cũng như của loại sách Khôn ngoan này. Tác giả kêu gọi sự tự do lựa chọn của con người. Không có sự tự do, không thể nói đến triết học và khôn ngoan. Do đó các sách khôn ngoan không có tính cách giáo điều. Luôn luôn độc giả được kêu mời tự do lựa chọn. Hơn nữa, hạnh phúc mà người ta tìm kiếm nằm ngay ở tầm tay của họ. Giơ tay nắm lấy cái gì, hạnh phúc hay bất hạnh, thì người ta sẽ được ngay cái đó.
Như vậy, tư tưởng của Thánh Kinh không có gì là “định mệnh” cả. Chính con người làm chủ vận mạng của mình. Và điều này, ngay trang đầu của bộ Kinh Thánh cũng đã khẳng định. Thiên Chúa bấy giờ dựng nên Ađam-Evà. Người đặt họ trong “vườn địa đàng” có đủ mọi thứ cây ngon lành có thể thỏa mãn sự thèm khát của con người. Nhưng giữa vườn cũng có một cây “lành dữ”, mà nếu giơ tay bất quả nó mà ăn, con người sẽ có kinh nghiệm mất mát tất cả những gì đang có và bắt được những gì ngược hẳn với nếp sống hiện nay. Lúc này họ đang sống trong tình giao hữu hạnh phúc với Thiên Chúa là nguồn mọi sự sống. Bứt quả cây trái cấm mà ăn, họ sẽ rơi vào tình trạng thù địch với Người và nếm biết sự chết đời đời. Ađam-Evà đã được đặt trong tình trạng tự do để lựa chọn tương lai cho mình và con cháu. Trái cây hạnh phúc và bất hạnh ở ngay tầm tay của họ. Họ có thể lựa chọn giữa sự sống và sự chết, giữa “lửa và nước” như lời sách Huấn ca hôm nay viết, bởi vì “lửa” là hình ảnh về sức mạnh tiêu diệt, tàn phá và chết chóc, còn “nước” lại nói lên nguồn mạch sinh ra sự sống và sự sống dồi dào. Con người muốn lựa chọn đàng nào cũng được.
Ađam-Evà đã lựa chọn thế nào thì chúng ta ai cũng đã biết. Chúng ta có thể tức vì tại hai ông bà đã chọn điều dữ, nên loài người chúng ta ngày nay đang sống trong tình trạng sa đọa. Nhưng ngay trong tình trạng này, con người chúng ta vẫn có sự tự do lựa chọn. Mặc nhiên, mọi người đều tin như vậy. Chỉ mấy triết gia suy đi tính lại tỉ mỉ quá mức mới dám hoài nghi: không biết cuối cùng con người có còn tự do hay không? Hay là họ đã nằm trong bàn tay của một “con tạo đa đoan” và định mệnh của họ đã được ghi khắc một lần thay vì tất cả ngay cả từ trước khi họ sinh ra ở đời. Hai câu cuối của bài sách Huấn ca hôm nay phi bác mọi luận điệu như thế. Tác giả viết: Thiên Chúa không truyền cho ai phạm tội; Người không ủy lạo kẻ dối trá. Ngược lại truyền thống Thánh Kinh luôn khẳng định: vì là Đấng tốt lành, Thiên Chúa không muốn ai phải chết: Người luôn ra tay cứu độ; tất cả những gì Người làm chỉ là hướng dẫn con người về đường ngay nẻo chính để họ được sống và được sống dồi dào. Lựa chọn sự dữ và bất hạnh là quyền lợi – nói đúng hơn, là quyền hạn – của con người. Đúng hơn nữa, đó là lạm dụng quyền tự do mà Thiên Chúa đã ban cho mình.
Chúng ta có nhiều kinh nghiệm về thái độ của nhiều người khác. Rõ ràng họ được tự do hoàn toàn để lựa chọn điều hay, hay là điều dở, đặc biệt trong các quan hệ với chính chúng ta. Chúng ta tạo mọi điều kiện để giữa họ và ta có những tương quan thuận lợi. Thế mà dường như có một cái gì như cố chấp ở nơi họ. Mối tình giữa họ và ta chẳng sao xây dựng được và khả quan hơn. Tất cả, theo quan điểm của ta, chỉ vì họ không muốn.
Có lẽ bài sách Huấn ca đã đi từ kinh nghiệm ấy. Tác giả mở đầu bằng mấy chữ “nếu muốn”. Nếu muốn thì con người sẽ giữ lệnh truyền của Chúa; và như vậy họ sẽ được sống. Bằng không họ sẽ tra tay vào lửa và lựa chọn sự chết. Tư tưởng của Thánh Kinh vì thế đề cao sự tự do của con người. “Từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên họ và trao họ cho tâm thuật của họ” (Hc 15,14), tức là để cho họ được tự do làm theo ý mình. Tuy nhiên “Người biết hết mọi sự và toàn năng. Mắt Người nhìn xuống những kẻ kính sợ Người”
Thế nên sự khôn ngoan của sách Huấn ca cũng như của tư tưởng Kinh Thánh là con người hãy đi theo đường lối của Thiên Chúa. Chính đó là sự khôn ngoan. Con người giữ lệnh truyền của Thiên Chúa sẽ chắc chắn đi trong đường lối khôn ngoan dẫn đến sự sống, vì sự “khôn ngoan của Thiên Chúa thật vạn năng”.
Chân lý này, người tín hữu nào cũng công nhận. Khó khăn nằm ở chỗ thực hành. Trong đời sống thực tế, không phải lúc nào cũng dễ tuân giữ lệnh truyền của Thiên Chúa. Chính dân Israel ngày xưa cũng vậy. Mặc cho các tiên tri kêu gọi họ trở về đường lối mà Chúa đã vạch ra trong Luật pháp, họ vẫn đi theo đường lối của họ. Nói đúng hơn, họ muốn sống như mọi dân tộc khác và khước từ cố gắng chu toàn ơn gọi làm Dân Riêng của Chúa. Chúng ta, những kẻ ở trong Dân Mới của Người, cũng không hơn gì họ. Chính vì vậy mà chúng ta cần lắng nghe lời khuyên bảo của thánh Phaolô.
B. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa
Thư 1 Côrinthô quen được coi như thư riêng của người Công giáo, theo nghĩa những người này thích đọc nó như người Tin lành thường thích đọc thư Rôma. Và quả thật, thư 1 Côrinthô có nhiều yếu tố để nói với các cộng đồng Công giáo. Nó có cả những đề tài, như lời mở đầu đoạn trích đọc hôm nay cho biết, dành cho những “người thành toàn”, tức là những người đã tiến bộ trong đức tin và đời sống tín hữu. Trong số đó có đề tài về sự khôn ngoan mà bài đọc I hôm nay đã đề cập.
Sự khôn ngoan của đạo chúng ta, kể từ lời mạc khải đầu tiên cho đến lời Kinh Thánh cuối cùng, không phải là sự khôn ngoan của đời tạm này. Càng không phải là sự khôn ngoan của những đầu mục của đời tạm này. Nó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, sự khôn ngoan mà các sách khôn ngoan trong Thánh Kinh Cựu Ước thường đem ra bàn. Tác giả sách Huấn ca đã thấy nó nằm trong các lệnh truyền của Thiên Chúa. Và những tác giả khác cũng đồng ý bảo nó nằm nơi Luật pháp mà Chúa đã ban cho Dân Riêng của Người.
Tuy nhiên Luật pháp thì dài và lệnh truyền thì nhiều. Hơn nữa dù vẫn nghe Luật pháp và Tiên tri trong các ngày Hưu lễ nơi Hội đường, người dân Israel ngày xưa vẫn không nhận ra sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Dường như vẫn còn có một tấm màn che mắt họ, khiến họ nghe đọc mà chẳng hiểu, xem thấy mà chẳng nhận ra. Mãi đến khi tấm màn trong Đền thờ rách toang ra vào Giờ Chúa Giêsu chịu chết trên Thập giá, sự khôn ngoan của Thiên Chúa mới tỏ hiện. Người ta mới biết Đức Giêsu là ai. Người là Đấng Cứu thế! Và Thiên Chúa đã muốn tỏ hiện sự khôn ngoan của Người ở nơi Ngài: “Ngài là Con Chí Ái của Ta, các ngươi hãy nghe Ngài”.
Chính vì vậy mà thánh Phaolô viết rằng, sự khôn ngoan của Thiên Chúa vẫn giữ kín từ đời đời cho đến lúc bấy giờ. Trước đó người ta đã được nghe nói về đường lối khôn ngoan cứu độ của Thiên Chúa. Người ta cũng đã thấy rất nhiều kỳ công mà Người đã làm. Tuy nhiên tất cả như còn là tiền ảnh và biểu tượng và như còn được nói bằng “dụ ngôn”. Nhưng mọi sự đã trở nên sáng tỏ và mới hẳn trong mầu nhiệm của Đức Giêsu Kitô, cách riêng trong biến cố Tử nạn – Phục sinh của Người. Đứng trước mạc khải này, những người được ơn khôn ngoan nhất, cũng bàng hoàng như thể trong mơ. Không vậy thì người Do thái đã không đóng đanh Đức Giêsu; và ngay các Tông đồ đã không lấy việc sống lại làm khó hiểu. Chỉ khi đã chắc chắn về biến cố Phục sinh, các môn đệ mới thấy Đức Giêsu là “Chúa”; họ mới tuyên xưng Người là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa; họ mới thấy Luật pháp và Tiên tri trước kia đã chỉ nói về Người.
Như vậy, sự khôn ngoan của Thiên Chúa, sự khôn ngoan mang lại sự sống và hạnh phúc đời đời cho con người, không phải là Luật pháp và các Tiên tri, nhưng là Đức Giêsu Kitô; mà cũng không phải là Đức Giêsu Kitô như xác thịt cho biết, nhưng là “Chúa” Giêsu Kitô trong ánh sáng đức tin mà mầu nhiệm Tử nạn – Phục sinh của Người đã ban cho. Nhờ ánh sáng tỏa ra từ mầu nhiệm này, Luật pháp và Tiên tri mới minh bạch. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa giữ kín ở đó mới bộc lộ ra. Từ nay đọc lên người ta mới hiểu rõ vì họ đã nhận được Thánh Thần, Đấng dò thấu mọi sự, cả những chiều sâu thẳm nơi Thiên Chúa. Và Thánh Thần chỉ được ban cho người ta sau khi Đức Giêsu đã tử nạn-phục sinh lên ngự bên hữu Thiên Chúa để tuôn đổ xuống cho những kẻ có lòng tin.
Thế mà có những tín hữu cứ muốn luận lý với những người chưa có đức tin về đường lối khôn ngoan của Thiên Chúa! Họ còn lầm hơn khi dám so sánh đường lối của Thiên Chúa với đường lối của thế gian. Lẽ ra họ đã phải cầu xin trước cho người ta được ơn đức tin. Họ phải lựa chọn Chúa trước rồi mới thấy được sự khôn ngoan của Người. Chính điều này cũng cần phải có để nhận ra ý nghiã của những lời Tin Mừng hôm nay mà Chúa Giêsu, sự Khôn ngoan của Thiên Chúa, đang nói với chúng ta. Người đang rao giảng sự khôn ngoan của Thiên Chúa ở trong Hội Thánh. Chúng ta hãy nghe Người.
C. Thiên Chúa nói sự khôn ngoan của Người với chúng ta
Chắc chắn không nên tìm trong đoạn này một bố cục chặt chẽ. Vì đây không phải là một bài luân lý; nhưng chỉ là mớ những lời dạy dỗ, có thể đã được nói trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, mà tác giả sách Tin Mừng đã lấy đặt đứng bên nhau để làm thành một “bài giảng”.
Chúng ta có thể nhận ra một số câu mở đầu. Đức Giêsu tuyên bố: “Đừng tưởng Ta đến để bãi bỏ Lề Luật hay các Tiên tri; Ta đến không phải để bãi bỏ mà để làm trọn”. Lời nói hết sức quan trọng. Lập tức, Chúa Giêsu đã khẳng định Người là Đấng phải đến trong thế gian, tức là Vị Cứu thế mà Cựu Ước loan báo phải trông đợi. Uy quyền của Người át cả Lề luật và các Tiên tri. Tuy nhiên Người không phủ nhận và bãi bỏ họ. Người kiện toàn họ. Thế nên không được coi nhẹ một nét nhỏ nào trong Luật pháp. Câu này không có ý nói lên bất cứ một chút xíu nào trong khuynh hướng bảo thủ và vụ luật. Nó muốn tăng cường sức mạnh cho câu khẳng định ở trên: Ta đến không phải để bãi bỏ mà để làm nên trọn. Và cũng chính vì vậy mà người trong Dân Mới phải công chính hơn các Ký lục và Biệt phái trong Đạo cũ. Những người này nổi tiếng là những người giữ Luật, thì những ai theo Đấng đến làm cho Luật pháp nên trọn phải công chính hơn.
Chẳng hạn Luật xưa bảo: Chớ giết người! Thì nay, Đấng đến làm trọn Lề luật truyền lệnh không được tức giận anh em mình. Người đòi hỏi một sự công chính lớn và sâu xa hơn. Người làm “trọn” luật chớ giết người, khi cấm ngay cả sự tức tối trong tâm hồn. Hễ bất hòa với ai, người ta phải mau mau hòa giải để có khả năng thờ phượng, tức là để xứng đáng ở lại trong Dân Mới của Thiên Chúa là Dân có bản chất tư tế. Đàng khác người ta luôn phải sợ có tâm hồn bất hòa như thế mà phải gặp mặt Đấng Chí Công phán xét khi Người bất thần kêu gọi họ ra khỏi đời này. Người muốn môn đệ của Người luôn sống trong trạng thái yêu mến, như Thiên Chúa là Đấng Mến Yêu.
Một thí dụ khác, Luật xưa dạy: Chớ ngoại tình! Nay Đấng kiện toàn Lề luật đến, Người tuyên bố: phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng. Và Người truyền: con mắt nào có những cái nhìn như thế, thì tốt hơn nên móc mà quăng nó đi. Vì thà mất một chi thể còn lợi hơn là có cả toàn thân mà bị xô vào hỏa ngục. Ý của Người muốn người ta phải tiêu diệt tội lỗi ngay từ trong lòng và nơi các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội lỗi.
Nhưng đã nói đến ngoại tình, Người không thể mau lẹ bỏ qua một thắc mắc đang sôi nổi ở thời bấy giờ và có lẽ ở mọi thời, đặc biệt ở thời đại chúng ta. Luật xưa nói: ai rẫy vợ thì hãy cho vợ ly thư. Và ở nhiều nơi luật đời hiện nay cũng cho ly dị. Còn Chúa Giêsu, Đấng đến kiện toàn Lề luật nghĩ thế nào?
Có lần Người đã khẳng định: Xưa Môsê nói như vậy là vì sự yếu đuối của con cái Israel, chứ tự nguyên thủy không như vậy và những gì Thiên Chúa đã kết hiệp, loài người không được phân rẽ. Ở đây, trong đoạn văn này, lập trường trên vẫn không thay đổi, vì ai cưới người vợ ly dị là phạm tội ngoại tình. Nhưng cũng vì con người yếu đuối, và cũng để tôn trọng chứ không phải bãi bỏ Luật xưa đã cho phép, sách Tin Mừng Matthêô hôm nay viết: mọi kẻ rẫy vợ – trừ phi là nố dâm bôn – là làm cho vợ ngoại tình. Tác giả cho phép có một nố trừ. Các nhà chú giải mặc sức tìm hiểu sự thật nố trừ này là gì. Điều chắc chắn là ngoài tác giả Matthêô ra, không một tác giả Tân Ước nào khác cho phép có luật trừ trong việc cấm ly dị. Sự kiện này cho phép chúng ta nghĩ rằng: trong toàn thể Hội Thánh thời các Tông đồ, đâu đâu cũng rao giảng giáo lý của Chúa tuyệt đối cấm ly dị. Nhưng ở những môi trường người Dothái theo đạo, người ta còn bám vào Luật Môsê; người ta nại đến việc Chúa không đến để bãi bỏ Lề luật; người ta muốn được áp dụng Luật mới một cách nhẹ nhàng… Có lẽ vì vậy tác giả Matthêô viết sách cho những môi trường này, đã đề cập tới một nố trừ nhưng vẫn khẳng định tính cách vĩnh viễn của hôn nhân. Nói theo danh từ của Giáo hội hiện nay, có những trường hợp được ly thân nhưng không được ly hôn vì ai cưới người vợ ly dị là phạm tội ngoại tình. Tuy nhiên muốn nói cho hết lẽ, chẳng bao giờ được phép tựa vào một câu để đi ngược lại với toàn bộ giáo huấn chung của Tân Ước và giáo lý sống động của Hội Thánh. Và điều này chúng ta cũng phải áp dụng ở đây.
Chúa Giêsu đang dạy dỗ dân chúng một cách sống động. Người là sự khôn ngoan của Thiên Chúa đến với loài người. Dân chúng không thấy Người nói như các Luật sĩ và Biệt phái. Người có giáo lý mới “mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe”. Người kêu gọi lòng tin. Người ta được tự do lựa chọn. Và bắt đầu người ta phải tin Người. Đó chính là điều mới lạ. Và cũng là điều tồn tại mãi mãi trong đạo của Người, đạo của chúng ta.
Ngay trong giờ phút này và ở đây, chúng ta cử hành Thánh lễ. Đây là mầu nhiệm đức tin. Chúng ta tự do lựa chọn thái độ. Mầu nhiệm nằm ở tầm tay chúng ta, theo nghĩa chúng ta có thể đón nhận với niềm tin hay không. Và tùy đó, chúng ta sẽ lãnh nhận sự sống của Thiên Chúa hay không. Chẳng sự khôn ngoan nào của loài người giúp chúng ta làm được công việc này. Chỉ có Lời của Chúa Giêsu Kitô, chỉ có uy tín của Người là sự khôn ngoan của Thiên Chúa khiến được chúng ta tin vào sự biến đổi của bánh rượu. Và khi chúng ta đã lãnh nhận Bí tích với niềm tin như thế, chúng ta sẽ được gia tăng đức tin, đức cậy và đức mến để thay đổi cuộc đời hàng ngày của chúng ta, không theo sự khôn ngoan của thế gian nữa, nhưng theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã được biểu lộ cho chúng ta trong Lời Chúa và Mình Thánh Chúa mà chúng ta đón nhận trong Thánh lễ này.
34. Thầy đến để kiện toàn lề luật
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Sau khi đã mở đầu bài diễn từ trên núi bằng 8 mối phúc. Đến phần thân bài Đức Giêsu tuyên bố: “Ngài đến không để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn lề luật”. Kiện toàn thế nào? Phải chăng một nét chấm, một nét phẩy trong sách luật không bỏ qua? Phải chăng giữ luật từng chi tiết, từng điều luật nhỏ nhất? Đức Giêsu không kiện toàn luật theo kiểu đó, bởi Ngài đã chẳng tuân giữ luật ngày hưu lễ, chẳng quan tâm đến luật tinh sạch (Mt 15,3; 19,17; 22,36). Đàng khác, những luật được Ngài trưng ra trong đoạn Tin mừng hôm nay, đã được Ngài sửa đổi. Sửa đổi bằng cách đưa về thời nguyên sơ của nó, nghĩa là vào thời kỳ Thiên Chúa đã ban nó cho Maisen. Sửa đổi bằng cách thay đổi não trạng nệ luật của con người, giữ luật vì luật, bám sát từng chữ của luật và tuân thủ một cách nô lệ từng chữ ấy, biến luật thành chủ, con người là nô lệ, quên tinh thần của luật, là để phục vụ con người. Một khi luật đã được Đức Giêsu sửa đổi, giải thích, gạn lọc, vứt bỏ những thêm thắt của con người, kiện toàn đúng tinh thần, phù hợp với chủ ý của Thiên Chúa, sẽ có một uy quyền tuyệt đối một nét phẩy, nét chấm không bỏ qua, một sự trường tồn, trời đất sẽ qua đi, nhưng thánh ý Thiên Chúa (lề luật) sẽ không bao giờ qua. Một thứ luật như thế, một điều răn nhỏ nhất cũng quan trọng, ai thực thi sẽ là người công chính hơn những Kinh sư và Pharisiêu. Để cụ thể, Đức Giêsu đã trích dẫn sáu điều luật và đưa ra các yêu sách mới của Người. Tin mừng Chúa nhật hôm nay đề cập bốn điều:
1. Giết người
Luật dậy người xưa: “Chớ giết người. Ai giết người thì đáng bị đưa ra toà”. Đức Giêsu bảo: “Giận anh em cũng đã bị kết án”. Đây là kiểu nói của người Dothái, Đức Giêsu đã dùng để nói lên tầm quan trọng của vấn đề. Giận anh em, đâu bị đưa ra toà, mắng anh em là ngốc, đâu bị đưa ra trước Hội đồng, chửi anh em là quân phản đạo, đâu đến nỗi phải xuống hoả ngục. Đàng khác, xét về mặt tâm lý, giận là một trong “thất tình”: hỷ (mừng), nộ (giận), ai (thương xót), cụ (sợ), ái (yêu), ố (ghét), dục (ham muốn), nghĩa là một trong bẩy thứ tình cảm tự nhiên mà người lành mạnh nào cũng có. Nếu ta biết yêu mình và tự trọng ta, ai đó đối xử bất công với ta tự nhiên ta nổi giận. Tuy nhiên, không nên giữ cơn giận mãi trong lòng. Khoa tâm bệnh học cho biết: cứ đè nén cơn giận mãi có thể hại cho tâm thần, không lợi cho sức khoẻ dễ bị ung thư. Thánh Phaolô nói: Đừng để cơn giận qua lúc mặt trời lặn. Tự nó, giận không có gì là xấu. Chính Đức Giêsu cũng từng nổi giận, khi thấy người ta buôn bán trong Đền thờ. Chỉ xấu khi nổi giận với anh em mình, không còn coi người anh em mình như anh em nữa, trái lại coi họ là người dưng, thậm chí là kẻ thù. Giận như thế đồng nghĩa với giết, không phải giết chết một mạng sống, mà giết chết một mối tình. Anh em không còn là anh em, mà là kẻ thù. Giận như thế bị kết án.
2. Ngoại tình
Quả thực ngoại tình là một lỗi nặng, nó phá vỡ tổ ấm của người anh em, nó bị mọi nền văn minh lên án cách nghiêm khắc. Một xã hội coi thường lâu dài vấn đề này chắc chắn sẽ tự tiêu diệt. Luật Dothái dậy ném đá những người phạm tội ngoại tình. Đức Giêsu chẳng những cấm ngoại tình bằng hành động, bằng hành vi bên ngoài. Người còn cấm ngoại tình từ trong lòng. Người nói: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”. Để nói lên tầm quan trọng của vấn đề, Đức Giêsu bảo: “Nếu mắt hoặc tay anh em làm cớ cho anh em vấp phạm, thì hãy móc mắt hoặc chặt tay đó đi, vì thà rằng mất phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục”. Đây là kiểu nói mạnh của người Dothái, Đức Giêsu đã dùng. Bởi lẽ cho dù có móc một mắt, chặt tay, cũng không làm cho người ta khỏi sa ngã. Tội bởi trong lòng mà ra, mắt, chân tay chỉ là khí cụ. Vả lại, Đức Giêsu kết án tội ngoại tình, nhưng Đức Giêsu không ném đá người phụ nữ phạm tội.
3. Ly dị
Luật Maisen cho phép người Dothái ly dị và dạy rằng: “Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị”. Đức Giêsu bảo: “Ai rẫy vợ mình, trừ phi nố dâm bôn, và cưới vợ khác tức là phạm tội ngoại tình”. Chỉ có Matthêu ghi lại nố trừ này. Trong Tin mừng Maccô và Luca không có, và chỉ ghi rằng: Đức Giêsu cấm tuyệt đối không được ly dị. Làm sao hai tác giả đó có thể quên một điều quan trọng như thế? Có lẽ đúng là một trong các người cuối cùng soạn bản Tin mừng của Matthêu đã thêm điều khoản ấy vào, để trả lời vấn đề các tôn sư tranh luận với nhau (những lý do cho phép rẫy vợ) và cũng là vấn đề có thể làm bận tâm những tín hữu gốc Dothái. Nếu thế thì ở đây có lẽ là một quyết định của Hội thánh có giá trị địa phương và tạm thời, như sắc lệnh của Công đồng Giêrusalem về vấn đề kiêng thịt cúng, vật chết ngạt và tránh gian dâm cho giáo đoàn Antiôkia (Cv 15, 23-29).
Tuy nhiên, Giáo hội chính thống và Tin lành cho rằng, “dâm bôn” có nghĩa là ngoại tình, đây chính là lời của Đức Giêsu, bởi thế các giáo hội đó chấp nhận cho ly hôn, khi một trong hai người phối ngẫu phạm tội ngoại tình.
Nhưng có những người khác lại cho rằng từ “dâm bôn” chỉ một hôn nhân bất hợp pháp, trái với luật Thiên Chúa, như thứ hôn nhân loạn luân ngăn trở họ máu. Luật cấm lấy nhau (Lv 18,6-18; Cv 15,28-29). Những thứ hôn nhân ấy dù là hợp pháp giữa người ngoại giáo với nhau, hay được người Do thái làm thinh nơi các người theo Do thái giáo, hẳn là đã gây rắc rối, khi những người ấy theo Kitô giáo trong những môi trường thượng luật, như môi trường Matthêu. Vì thế có chỉ thị nên huỷ những hôn nhân bất hợp pháp ấy, vì đó chỉ là hôn nhân giả tạo.
Một ý kiến khác nữa cho rằng nố trừ “dâm bôn” mà Đức Giêsu cho phép rẫy vợ đây, không phải là ly dị, nhưng là ly thân. Chính Phaolô đã hiểu theo nghĩa đó, ông đã đề cập đến trong thư thứ 1 gửi giáo hữu Côrintô (1 Cr 7-11). Giáo hội Công giáo từ xưa đến nay đã hiểu như vậy, không cho ly hôn mà chỉ ly thân khi người ta phạm tội ngoại tình.
4. Thề thốt
Luật dạy người xưa rằng: “Chớ bội thề, nhưng hãy giữ trọn lời thề với Chúa”. Đức Giêsu bảo: “Đừng thề chi cả, có thì nói có, không thì phải nói không, thêm thắt điều gì là do ma quỷ”.
Nhiều giáo phụ cho rằng, đây là lệnh truyền nghiêm cấm tuyệt đối của Chúa, không được thề thốt chi cả, nhiều giáo phái Tin lành cũng đồng quan điểm đó. Họ từ chối không tuyên thệ bất cứ điều gì. Thực ra Đức Giêsu không nghiêm cấm cách tuyệt đối như thế. Thánh Phaolô đã thề với giáo hữu Rôma, Côrintô, Galata, (Rm 1,9; 2 Cr 1,23; 11,3; Gal 1,20). Giáo hội không những cho phép thề trước các toà án mà còn buộc phải thề trong một vài trường hợp nữa (thề chống Duy Tân chủ nghĩa). Theo thánh Augustin, lời thề tự nó không phải là điều tốt chỉ khi gặp trường hợp đáng tiếc và nghiêm trọng mới nên thề. Trong mọi trường hợp “Có phải nói có, không phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ma quỷ”.
Lạy Chúa toàn năng, Chúa đã ban lề luật cho chúng con, và đã cho Con Chúa sửa đổi lại theo ý Chúa. Xin cho chúng con được bước đi dưới ánh sáng của lề luật để chúng con được sống muôn đời. Chúng con cầu xin…
35. Luật của tự do và tình yêu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Ngày nay, rất nhiều người hiểu được ý nghĩa sâu xa của câu nói luật của tự do và tình yêu. Con người trưởng thành luôn khát vọng được tự do, được tự mình làm nên đời mình và rất giận khi có ai can thiệp vào đời sống riêng tư của mình.
Chính Thiên Chúa vẫn luôn tôn trọng tự do của con người, sau khi ban tặng cho họ tự do như một ân huệ quý giá. Ngài đã không ngăn cản Ađam Evà hái trái cấm, và chấp nhận phải làm rất nhiều việc để sửa chữa tội lỗi đó chỉ vì muốn tôn trọng tự do của họ. Bài đọc I hôm nay cho ta hiểu con người hoàn toàn tự do lựa chọn điều tốt hay xấu để tạo nên “sinh tử” cho mình khi nói: “việc trung thành tuân giữ các giới răn là tuỳ ở con người”.
Vậy thì luật lệ của Chúa, của dân tộc Israel mà Đức Giêsu nói đến trong bài Tin mừng có ngăn cản hay xúc phạm đến tự do của con người hay không? Chúng ta tuân giữ các luật lệ với tinh thần nào để phát triển trọn vẹn tự do của mình? đó là vấn đề chúng ta suy niệm tuần này.
1. Tự do là gì?
a/ Tự do là khả năng của ý chí để nhờ đó con người quyết định về chính mình, tự hành động mà không bị bên trong thúc bách hay bên ngoài ép buộc. Nói cách khác, đó là khả năng của một hữu thể có lý trí, có thể làm hay không làm, làm cách này hay cách khác.Những hữu thể đó là con người, là thiên thần và Thiên Chúa. Còn các loài vật khác không có tinh thần thì không có tự do vì bị thúc đẩy do bản năng hay do đối tượng bên ngoài. Tự do của con người là thứ tự do tương đối vì được Thiên Chúa ban tặng, khác với tự do tuyệt đối của Thiên Chúa. Tự do con người cũng còn bị giới hạn bởi vật chất, không gian và thời gian.
Hơn nữa, điều kiện kiên quyết để thực hiện tự do là có thể lựa chọn và biết lựa chọn theo ý muốn của mình. Thí dụ giữa bao nhiêu người bạn gái, người con trai có thể chọn một người để làm vợ và khi chọn như thế, người đó hiểu mình tại sao chọn cô này mà không lấy cô khác.
Tuy nhiên, sự lựa chọn của con người luôn mang một tính cách liều lĩnh vì con người không thể hiểu rõ đối tượng mình chọn lựa và không bao giờ có thể thấy rõ được tương lai: vì nếu biết chắc chắn người con gái kia sẽ phản bội mình hoặc sau này bị tai nạn què chân, cụt tay, thì người con trai đã chọn người khác.
b/ Khi tự do lựa chọn con người. Thiên Chúa cũng đánh liều như vậy. Ngài sáng tạo nên con người, chia sẻ tự do của mình cho con người nên ngài chấp nhận cả việc con người phản bội tình yêu của mình. Ngài đã không thu lại ân sủng tự do, Ngài cũng chẳng giơ tay ngăn cản Ađam và mọi người chúng ta phạm tội. Ngài để cho con người làm chủ vận mệnh của mình. Ngài chỉ nhắc nhở con người phải khôn ngoan khi lựa chọn bằng lương tâm ngay chính của họ. Bài sách Huấn ca nói cho chúng ta hay rằng: “Trước mặt con người là sự sống và sự chết, sự lành và sự dữ họ thích thứ nào thì được thứ ấy. Thiên Chúa luôn luôn nhìn thấy mọi loài và thấu suốt mọi hành động của con người ” (Hc 15, 16-21).
Con người càng lắng nghe tiếng Chúa và hành động theo ý Ngài diễn tả qua các luật lệ đúng đắn, qua tiếng lương tâm trung thực thì càng thấy mình được tự do. Đó là thứ tự do đặc biệt của người tín hữu vì các giới luật và lương tâm chỉ có mục đích là làm cho con người sống gắn bó với Thiên Chúa, là Đấng tự do tuyệt đối, Nhưng khi con người chiều theo dục vọng bất chính của mình hay của người khác là con người đã đánh mất tự do cao quý của người con cái Chúa. Con người tưởng mình hoàn toàn tự do để ăn chơi, hưởng thụ hay hành động theo ý của mình , nhưng sự thực lúc đó con người lại đang làm nô lệ cho tiền bạc, sắc đẹp, danh lợi và ma quỷ hơn cả, rồi từ đó làm nô lệ cho tội lỗi, chết chóc, vong thân.
Tuy nhiên, chính khi tuân giữ luật lệ của Chúa, con người lại cảm thấy mình mất tự do nếu không biết dùng lý trí để hiểu tại sao mình phải lựa chọn hành động này mà không lựa chọn hành động khác. Lúc đó người ta chỉ giữ luật vì sợ bị phạt hơn là hiểu rõ tinh thần của luật. Giống như một vài người chạy xe ngừng lại khi đèn đỏ vì sợ người cảnh sát giao thông thổi phạt, chứ không phải tôn trọng luật lệ giao thông để bảo vệ sinh mạng của mình và của người khác. Đó là kiểu giữ luật của nhiều kinh sư và biệt phái trong đạo Dothái, Họ tuân giữ tỉ mỉ 673 điều khoản trong Cựu Ước nhưng lại không hiểu tinh thần luật Chúa nằm ở lòng yêu thương chân thành đối với Chúa và tha nhân. Nên Đức Giêsu nói hôm nay: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisiêu thì sẽ chẳng được vào nước Trời”.
2. Tinh thần tự do của những con cái Chúa
a/ Đức Giêsu đến để đem lại cho con người sự tự do hoàn toàn của những người con Thiên Chúa. Ngài là một “người tự do vượt bậc” đối với tội lỗi đối với cái chết, đối với ma quỷ và đối với lề luật. Tự do đối với tội lỗi là vì Ngài đã yêu thương trọn vẹn, chân thành và quảng đại, trong khi tội lỗi là sự từ khước yêu thương. Đối với cái chết vì Ngài sẵn sàng đón nhận nó để rồi sống lại hiển vinh thay vì né tránh, trốn chạy nó. Ngài đã tiêu diệt tên địch thù cuối cùng là tử thần (x. 1Cr 15,26) để hứa ban sự sống vĩnh hằng cho những ai tin vào ngài. Tự do đối với ma quỷ. Vì Ngài đã chữa trị bao nhiêu người bị quỷ ám, giải phóng họ khỏi những điều áp bức, bệnh tật mà ma quỷ gây nên cho con người.Tự do đối với lề luật vì Ngài đã đi sâu vào tinh thần yêu thương của mọi lề luật để dạy chúng ta tuân giữ. Luật tôn trọng sự sống chẳng hạn: không phải chỉ giết người mới phạm luật, nhưng những thái độ hờ hững lạnh nhạt, những lời nói đay nghiến, chỉ trích cũng đều đáng lên án vì gây tác hại đến sự sống của người khác.
Do đó, ngài mới quả quyết rằng: “Ai giận anh em mình thì cũng đáng bị đưa ra toà rồi”. Luật pháp “cấm ngoại tình” nhưng tinh thần của lề luật ấy là muốn bảo vệ sự thanh khiết toàn vẹn của con người. Vì vậy Ngài mới dạy: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”. Rất nhiều khi chúng ta an tâm khi giữ đúng điều răn thứ 6 và thứ 9: không làm điều dâm dục, không muốn vợ chồng người. Nhưng chúng ta lại vẫn thích thú với sách báo, phim ảnh, câu chuyện tục tĩu, dâm ô. Chúng ta có lẽ đã quên tinh thần của các điều răn ấy.
b/ Giữ luật với tinh thần tự do và tình yêu. Do đó, để phát huy tự do của mình một cách trọn vẹn, chúng ta cần phải gắn bó mật thiết với Đức Giêsu, hay nói đúng hơn và cụ thể hơn là ta hãy chọn Đức Giêsu và hành động theo lời dạy của Ngài. Đó là lẽ “khôn ngoan nhiệm mầu” của Thiên Chúa được thánh Phaolô nói đến trong bài đọc thứ hai ngày hôm nay.
Quả thật, qua bí tích rửa tội, chúng ta đã chọn Ngài, đã thành một chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Người. Điều còn thiếu là chúng ta chưa hoàn toàn hành động theo lời dạy của Ngài: tất cả giới luật và dạy dỗ của Ngài chỉ quy về một điều duy nhất là: “Anh em hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương anh em”. Chính tình yêu sẽ giúp chúng ta vượt qua nô lệ vào luật pháp để đạt tới tinh thần tự do của những con cái Thiên Chúa. Vì thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Ai yêu thương thì đã chu toàn lề luật” (Rm 13, 8) và thánh Augutinô nhắc nhở: “Bạn hãy yêu thương đi rồi làm theo ý bạn muốn.”
c/ “Mầu nhiệm của tự do”. Ngày nay con người thường hiểu lầm về tự do, không phân biệt tự do tương đối với tự do tuyệt đối, nên đã lạm dụng tự do của mình. Con người đã muốn tách rời tự do ra khỏi tương quan cốt yếu và cơ bản của nó với sự thật và chuẩn mực luân lý. Do đó, đã gây nên bao tai họa khủng khiếp cho cá nhân và xã hội. Thí dụ: cụ thể là việc tự do muốn uống bao nhiêu rượu thì uống, dẫn đến tai nạn khi lái xe trong cơn say, cho đến những cuộc bạo động, chém giết, đập phá, cướp bóc nhân danh tự do đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới.
Khi đi từ mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô, Đấng đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá (Pl 2, 7-8), chúng ta hiểu rằng: vâng phục và tự do không mâu thuẫn với nhau đời sống của Đức Giêsu minh chứng rằng mầu nhiệm về tự do của con người là con đường vâng phục ý muốn của Chúa Cha bằng tình yêu của người con hiếu thảo: càng yêu thì càng muốn vâng phục, và càng vâng phục thì con người càng được tự do trong quyền năng của Thiên Chúa (x. Ga 10, 30;14, 11).
Kết luận:
Chúa Giêsu phục sinh là biểu tượng của sự tự do viên mãn, mà con người mơ ước vì Ngài cho chúng ta hiểu rằng, mình không còn bị giới hạn bởi vật chất, không gian, thời gian và được sống như con cái Thiên Chúa. Tuy nhiên để đạt được điều đó chúng ta cần phải trải qua khổ nạn và thập giá của sự vâng phục Chúa Cha như Đức Giêsu. Sự vâng phục đầy tình yêu như Ngài sẽ làm cho các luật lệ trở thành nhẹ nhàng và đem lại ơn cứu độ.
36. Đòi hỏi của luật Chúa – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Các triết gia đã rút ra một kết luật thật chí lý cho rằng: Cuộc sống là một chọn lựa. Đúng như thế, ai trong chúng ta cũng ít nhiều có những lúc phải đứng ở hai ngả đắn do: bước đi thì ngại trở về thì thương. Hầu như ông trời không cho con người thỏa mãn cả đôi đàng bao giờ, mà cứ đặt chúng ta ở cái thế, được bên này thì mất bên kia, chọn điều này thì phải bỏ điều kia. Có những chon lựa thật nhỏ bé dễ dàng như: chọn xay bột thì khỏi bồng em, nhưng cũng có những chọn lựa khó hơn vì nó động chạm đến trái tim của mình như khi quyết định kết hôn, chọn cưới cô chị thì buộc lòng phải bỏ cô em, cưới anh A thì phải tạm biệt anh B. Nhưng vẫn còn những chọn lựa khó hơn nữa đó là chọn một đường để đi, một lối sống để theo, một lý tưởng để dấn thân, thì đòi người quyết định phải chấp nhận hoàn toàn những điều kiện và đòi buộc đi kèm theo quyết định của mình.
Một khi đã quyết định chọn lựa một niềm tin, một tôn giáo thì dĩ nhiên chúng ta cũng phải chấp nhận hoàn toàn những đòi buộc của niềm tin tôn giáo ấy. Tuy nhiên dù đã quyết định và đã chọn, nhưng người ta vẫn bị cám dỗ tìm kiếm một điều gì đó dễ dãi hơn, một sự thay đổi nào đó có phần thoải mái hơn. Ví dụ người ta biết hôn nhân Công giáo là đơn hôn và vĩnh viễn, thế nhưng người ta vẫn cứ tìm mọi cách để thoát ra khỏi sự ràng buộc đó.
Ngày xưa những người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng thế, họ tin Chúa theo Chúa, chấp nhận giới răn lề luật của Thiên Chúa, thế nhưng khi Đức Giêsu đến dạy cho họ một thái độ mới, một tâm tình thờ phượng mới, một tương quan mới cần phải có, thì họ chờ đợi một sự dễ dãi châm chước nào đó từ giáo lý của Chúa Giêsu. Chính vì thế hôm nay Chúa Giêsu đã cảnh báo cho các môn đệ: Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các Kinh sư và người Biệt phái thì anh em sẽ không được vào Nước trời. Chúa Giêsu cho thấy việc bước theo con đường của Ngài là một đòi hỏi quyết liệt và triệt để, phải là sự chấp nhận từ bên trong được thể hiện ra bên ngoài, chứ không phải là sự chấp nhận miễn cưỡng, giả hình.
Chúa Giêsu không hứa hẹn cho những kẻ bước theo Ngài một lối sống thoải mái hay một cuộc sống dễ dãi hình thức, Chúa Giêsu đến không phải để hủy bỏ nền tảng đạo đức cũng như lề luật của Cựu Ước, nhưng Ngài đến để làm cho luật của cựu Ước nên hoàn hảo hơn. Vì thế việc tuân hành giới răn lề luật của Tin Mừng không chỉ là chu toàn mặt chữ, không chỉ chu toàn luật dạy làm điều lành tránh điều diều xấu, nhưng phải là một ý thức phát xuất từ lòng yêu mến Chúa và yêu mến anh em và ý thức mình là con Thiên Chúa, là mộn đệ của Đức Kitô. Các ngươi nghe bảo chớ giết người: Ai giết người thì bị đưa ra tòa. Còn Thày, Thày bảo anh em: Ai giận ghét anh em mình thì đáng bị đưa ra tòa rồi. Điều đó có nghĩa là Chúa Giêsu đòi người môn đệ phải chấp nhận một điều kiện cao hơn, là phải làm sao loại trừ được nguyên nhân đưa đến giết chóc bạo lực là sự giật ghét, vì thế Chúa Giêsu coi việc giận ghét anh em thì cũng là điều đáng trách rồi.
Cũng vậy, trong đời sống hôn nhân không phài chỉ là đòi buộc: Chớ ngoại tình, nhưng bất cứ ai nhìn xem người khác phái mà ước ao thèm muốn trong lòng thôi, thì đã là phạm tội rồi. Vì tội được bắt đầu từ suy nghĩ đến thèm muốn ước ao, sau đó mới đưa đến hành động. Như thế khi ngăn chặn được sự thèm muốn thì hành động sẽ không xảy ra. Cũng vậy, Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải có một lương tâm ngay thẳng, một đời sống thật thà từ trong suy nghĩ đến hành động, bụng nghĩ sao nói vậy, gạt bỏ khỏi mình tất cả sự gian dối. Khi mọi người sống và cư xử với nhau bằng sự chân thành ngay thẳng, thì người ta sẽ không cần phải thề thốt, không phải lấy bất cứ ai hay bất cứ sự gì để bảo đảm cho lời nói của mình, mà lấy chính phẩm giá, địa vị làm môn đệ của Chúa làm bảo chứng cho lời nói và hành động của mình.
Người đời thường dùng những lời lẽ hoa mỹ, những lời xảo trá để đánh lừa người khác và để đạt được mục đích cho mình, nhưng Thánh Phaolô cho biết, khi Ngài giảng dạy về giáo lý của Đức Kitô, Ngài không hề dùng những lý lẽ khôn ngoan xảo trá của thế gian và thủ lãnh của nó, trái lại Ngài chỉ giảng dạy một lẽ khôn ngoan duy nhất là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan đó chính là màu nhiệm yêu thương của Thiên Chúa, Ngài muốn tiền định cho con người được chung hưởng vinh quang với Người. Vì Ngài đã tiền định cho con người được vinh quang, nên Ngài đã làm mọi cách để đem con người về với Ngài, kể cả việc cho Con của Ngài là Đức Giêsu đến để dẫn chúng ta về, và Đức Giêsu đã bị thế gian từ chối và đóng đinh Ngài trên thập giá. Còn chúng ta, chúng ta đón nhận lề luật, huấn lệnh của Ngài, chúng ta sẽ được cứu độ, được vào chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa.
Nhưng để được chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa đòi chúng ta phải có một quyết định chọn lựa dứt khoát hoặc là tin hoặc không tin, hoặc đón nhận hay từ chối Ngài. Sách Huấn Ca cũng đã căn dặn như thế: Nếu muốn thì các con hãy tuân giữ các điều răn mà trung tín làm đẹp lòng Người. Trước mặt con là lửa và nước, là cửa sinh cửa tử, con muốn bên nào thì hãy đưa tay ra mà lấy. Chọn lựa đúng thì hạnh phúc mãi mãi, còn chọn lựa sai thì phải bất hạnh muôn đời.
Thưa quý OBACE, là Kitô hữu chúng ta thuộc về Chúa Kitô, có Chúa Kitô, thế nhưng nhiều người vẫn không có được một quyết tâm dứt khoát theo Ngài, người ta lưỡng lự đứng bên này và thèm muốn bến kia. Nhiều người theo Chúa, nhưng lại vẫn mang nếp sống của dân ngoại, thực hành những thói quen tin kiêng cúng bái của dân ngoại. Tin Chúa, nhưng nhiều người không dám phó thác cuộc đời và những lo lắng tương lai cho Chúa, mà họ vẫn tin và tìm kiếm tương lai của mình nơi những thày bà bói toán, nhất là nhiều người đã bỏ qua giới răn lề luật của Thiên Chúa, không sống và thực hành giới răn yêu thương, nhưng sống thù hằn gian dối với nhau.
Trong đời sống hôn nhân gia đình, nhiều cặp vợ chồng đã cố tình hủy bỏ hoặc làm sứt mẻ sự thánh thiêng của giao ước hôn nhân, sống buông thả ngoại tình. Trước mặt Chúa và Giáo Hội trong ngày thành hôn, họ cam kết và thề hứa chu toàn kế ước hôn nhân, sinh sản và giáo dục con cái theo luật Chúa và giáo Hội, nhưng nhiều người hầu như đã không còn nhớ đến lời thề ấy, họ không dám đón nhận con cái Chúa ban, và còn tìm mọi cách để loại trừ chúng, nhiều người khác đã không quan tâm đủ đến việc giáo dục đức tin cho con cái, để con cái mình lớn lên trong sự thiếu hiểu biết về giáo lý, về Chúa Kitô và giới răn của Người.
Trong đời sống thường ngày, mang danh là con Chúa là người Công Giáo, nhiều người cũng gian dối xảo trá không khác gì con cái của thế gian của ma quỷ, tìm cách lừa lọc lẫn nhau, sống gian tham lỗi đức công bằng, khiến cho người ta không tin, mà còn dị ứng với chúng ta nữa. Hãy số gắng sống làm sao để cho mọi người thấy việc chúng ta chọn Đức Giêsu và giới răn của Ngài đem đến cho chúng ta hạnh phúc ngay ở đời này, và là động lực thúc đẩy chúng ta sống chân thành ngay thẳng, dễ thương dể mến trước mặt anh em.
Chắc chắn chọn Chúa và giới răn của Ngài, không phải chúng ta tìm kiếm một sự dễ dãi, nhưng là một chọn lựa đem đến cho chúng ta một phẩm giá, địa vị cao quý, đó là chúng ta được làm con Thiên Chúa. Chọn lựa này luôn là một thách thức cho chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết noi gương Mẹ Maria, biết chọn để làm theo ý Chúa, và chọn sống xứng đáng là người được Chúa yêu thương và tiền định cho hưởng Nước Trời. Amen.
37. Suy niệm của Lm. F.X. Lữ Minh Điểm
Trong cuộc sống, dù muốn hay không muốn, tất cả chúng ta đều phải tuân giữ luật pháp. Tuân giữ luật pháp, pháp luật sẽ bảo vệ chúng ta. Coi thường luật pháp, pháp luật sẽ trừng trị chúng ta. Nhìn chung, luật pháp có ba loại: 1. Luật Thiên định: Do Thiên Chúa thiết lập, như Mười điều răn của Thiên Chúa và luật một vợ một chồng và bất khả phân ly. 2. Luật thiết định: Do con người làm ra, như hiến pháp của mỗi quốc gia, luật của Giáo hội.v.v. Luật này có thể thay đổi với thời gian 3. Luật tự nhiên: Do Thiên Chúa đặt để nơi mỗi người chúng ta. Tôi sinh ra là người Nam hay người Nữ, thì tôi phải sống theo đúng với giới tính của mình. Đoạn Tin mừng hôm nay đề cập về luật do con người làm ra. Chúng ta sẽ tìm hiểu hai vấn đề: 1. Kiện toàn luật cũ. 2. Đức công chính mới của Chúa Giêsu.
1. Kiện toàn luật cũ
Câu chủ yếu của chủ đề này được tóm tắt qua Lời Chúa phán: “Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn” (Mt 5, 17). Kiện toàn là làm cho nó nên hoàn hảo hơn. Muốn biết luật cũ được kiện toàn như thế nào, Chúa Giêsu đã nêu ra bốn trường hợp:
Từ luật: “Không được giết người”, Chúa bảo chúng ta không được phẫn nộ và rủa sả anh em mình (Mt 5, 22).
Từ luật: “Chớ ngoại tình”, Chúa bảo chúng ta phải loại bỏ những ước muốn thầm kín bên trong (Mt 5, 27).
Từ luật: “Cho phép ly dị”, Chúa bảo chúng ta không được ly dị, trừ trường hợp tà dâm (Mt 5, 32).
Từ luật: “Chớ thề gian”, Chúa bảo chúng ta đừng thề chi cả. “Có thì nói có, không thì nói không, thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra” (Mt 5, 37).
Qua bốn điều luật có tính cách tiêu cực trên, Chúa có ý nhắn nhủ chúng ta: Tội lỗi không chỉ thể hiện bằng những việc làm bên ngoài, nhưng nó bắt nguồn từ những ước muốn bên trong của mỗi người. Theo định luật tâm lý: “Có tư tưởng, thì mới có hành động. Tư tưởng càng rõ rệt, thì hành động càng có kết quả”. Trong việc kiện toàn luật cũ, Chúa khuyên chúng ta đừng giữ đạo có tính cách tiêu cực và hình thức bề ngoài, nhưng cốt yếu là thay đổi não trạng, tâm tình và ý hướng bên trong. Ý hướng tốt, thì việc làm đó sẽ tốt, ý hướng xấu, thì việc làm đó sẽ xấu. Hai người cùng bố thí trong đền thờ, Chúa đã khen cách cho của bà góa nghèo, vì bà cho vì lòng yêu mến, còn người giàu có cho vì khoe khoang (Mc 12, 41-44).
Qua việc kiện toàn luật cũ, Bernard HURAULT và Louis HURAULT đã giải thích: “Đạo của Cựu Ước là một giai đoạn tạm thời, nhưng cần thiết trong lịch sử cứu độ. Cũng như các lời ngôn sứ phải được hoàn thành, thì cũng vậy, nhưng lễ nghi và lễ tế của thời Cựu Ước diễn đạt cách nào đó mầu nhiệm tội lỗi và lòng thương xót, cũng phải được hiểu dưới ánh sáng, mà Chúa Giêsu đem lại”. (Bản dịch do Nhóm phiên dịch các giờ kinh Phụng vụ, tr 1590). Muốn biết rõ luật mới của Chúa như thế nào, chúng ta hãy tìm hiểu đức công chính mới của Chúa Giêsu.
2. Đức công chính mới của Chúa Giêsu
Chủ đề đức công chính mới của Chúa Giêsu được tóm gọn trong lời Chúa phán: “Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu” (Mt 5, 20). Sau khi kiện toàn luật cũ thời Cựu Ước, Bernard HURAULT và Louis HURAULT đã giải thích thêm: “Việc giữ các lề luật trong Kinh Thánh, tự nó không phải là cùng đích. Đó là cách biểu hiện tình thương đích thực và là những tay vịn cho khỏi sẩy chân. Nhờ tuân theo luật, chúng ta sẽ ở trong trạng thái sẵn sàng tùng phục Chúa Thánh Thần để đi xa hơn luật. Như vậy, chúng ta sẽ khám phá một sự công chính còn hoàn hảo hơn sự công chính, mà các nhà thông luật thời Chúa Giêsu, là các kinh sư và người Pharisêu, đòi hỏi” (Bản dịch do Nhóm phiên dịch các giờ kinh Phụng vụ, tr 1590).
Sự công chính, mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi các Luật sĩ và Biệt phái ngày xưa và chúng ta ngày nay không chỉ giới hạn trong việc tuân giữ cách máy móc các hình thức của luật pháp, nhưng thể hiện với niềm tin và tình yêu. Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Dù anh em ăn, uống hay làm bất kỳ công việc gì, anh em hãy làm cho sáng danh Chúa, làm vì lòng yêu mến Chúa” (I Cor 10:31). Qua bài đọc I, tác giả sách Đức Huấn Ca cũng đã khuyên chúng ta hãy hành động cách tự nguyện: “Nếu ngươi muốn, ngươi hãy tuân giữ những giới luật của Ta. Việc trung thành là tuỳ ở nơi ngươi. Trước mặt ngươi là sự sống và sự chết, ngươi có thể tuỳ nghi lựa chọn” (Hc 15, 15-16).
Thế nhưng, biết là một chuyện, còn làm được hay không, lại là chuyện khác. Kể từ khi có trí khôn cho đến giờ phút này, biết bao nhiêu lời hay, lẽ phải từ nơi ông bà, cha mẹ, các vị lãnh đạo các tôn giáo và sách báo phim ảnh răn khuyên chúng ta. Thế nhưng, có mấy ai thực hiện được. Chỉ những ai được Chúa ưu ái tuyển chọn, ban ơn và sai đi thực hiện chương trình của Người. Qua bài đọc 2, thánh Phaolô cũng nhắc lại điều đó: “Sự mắt chưa từng thấy, và tai chưa từng nghe và lòng người chưa từng mơ ước tới. Đó là tất cả những điều Thiên Chúa đã làm ra cho những ai yêu mến Người” (1Cr 2, 9).
Quý cộng đoàn thân mến, cha mẹ nào cũng hết lòng yêu thương con và luôn tạo điều kiện thuận lợi, để cho con cái mình nên người. Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Điều quan trọng là chúng ta có muôn cộng tác với Người hay không mà tôi. Trong cuộc sống, dù muốn hay không muốn, chúng ta phải tuân giữ luật của Chúa, của Giáo Hội và của Xã hội, thì luật pháp sẽ bảo vệ chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta đừng giữ luật vì luật, nhưng hãy giữ luật vì tình yêu. Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Trên hết mọi đức tính, anh em hãy có đức yêu thương. Đó là dây ràng buộc điều thoàn thiện” (Col 3, 14). Amen.
38. Công chính hơn – Lm. Phêrô Trần Đức Cường
“Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu thì không được vào Nước Trời”
Phụng Vụ Lời Chúa trong Chúa Nhật thứ VI thường niên mời gọi chúng ta sống công chính để được vào Nước Trời. Tuy nhiên không phải bất cứ thứ công chính nào mà phải là “công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu” mới được hưởng hạnh phúc đó. Thế nào mới là “công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu”?
Trong thời Chúa Giêsu, các kinh sư và người Pharisêu tuy thuộc hai nhóm khác nhau nhưng rất nhiều kinh sư cũng đồng thời thuộc nhóm Pharisêu (Cv 23,9) như ông Ga-ma-li-ên (Cv 5,34), hoặc phần lớn ủng hộ lập trường của nhóm Pharisêu. Theo Phúc Âm kể lại, những kinh sư và người Pharisêu thường đứng chung một phe để chống lại Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu khi lên án người Pharisêu cũng gộp chung cả giới kinh sư vào một nhóm (Mt 23; Lc 11,37-53).
Các kinh sư và người Pharisêu là những người chuyên môn am hiểu Kinh Thánh; họ chuyên giải thích và áp dụng luật Môsê, một hệ thống luật chi li phức tạp mà ngoài họ ra, không mấy ai dám nói mình thông thạo. Càng ít người hơn dám nói mình chu toàn đầy đủ những khoản luật đó. Thế mà họ thì dám. Họ dám tự hào mình là những người tự hào mình là người công chính (Lc 18,9-14). Phúc Âm thánh Luca, khi nói về ông bà Dacaria và Êlisabét là “người công chính trước mặt Thiên Chúa” đã mô tả đó là những người “sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì” (Lc 1,6). Nói về công chính, các kinh sư và người Pharisêu phải được kể là những nhà quán quân. Không những họ giữ mọi điều răn giới luật “không ai chê trách được điều gì” mà còn làm hơn những gì luật đòi hỏi nữa.
Giữ luật được bằng họ đã khó, thế mà Chúa Giêsu gọi họ là “những kẻ làm ra bộ công chính trước mặt người đời” (Lc 16,14) và còn yêu cầu phải công chính hơn họ mới được vào Nước Trời. Sự “công chính hơn” mà Ngài yêu cầu đó hệ tại điều gì? Cách giữ luật của các kinh sư và người Pharisêu không được Chúa Giêsu coi là công chính mà trái lại còn bị Ngài lên án là giữ luật theo hình thức bên ngoài, để tìm kiếm hư danh, chú trọng những tiểu tiết mà bỏ qua điều cốt yếu, hoặc thậm chí chỉ nói mà không thực hành (x. Mt 23,1-32; Lc 11,37-48). Vậy muốn công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu thì các môn đệ Chúa Giêsu phải tránh được những sai lầm mà họ đã vấp phải. Chúa Giêsu đối chiếu cho chúng ta những phương diện khác nhau giữa cách giữ luật của người Pharisêu và cách giữ luật như Chúa dạy để chúng ta biết thế nào là “công chính hơn”.
Trước tiên để trở nên “công chính hơn”, Chúa dạy phải giữ luật với cả tấm lòng, từ tận đáy lòng và là tấm lòng yêu mến. Quả thật khi giận ghét, người ta muốn loại trừ kẻ khác ra khỏi ý thức của mình, và hành vi giết người chính là đẩy tư tưởng đó trở thành hành động loại trừ sự hiện diện của người khác khỏi cuộc sống dương gian này. Vì thế, nếu chúng ta khử trừ khỏi tâm hồn chúng ta lòng giận ghét thì có thể nói chúng ta đã khử trừ tận gốc rễ hành vi giết người. Để trở nên “công chính hơn” Chúa Giêsu dạy: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà.” Cũng thế, để khỏi ngoại tình bằng hành động, trước tiên phải loại bỏ những ước muốn ngoại tình trong tư tưởng đã.
Mặt khác điều làm cho chúng ta nên công chính không phải là công việc chúng ta làm mà là do tác động của ân sủng Chúa thánh hoá chúng ta. Chính Thiên Chúa là nguyên lý và xác định chuẩn mực cho cuộc sống của chúng ta từ tư tưởng, cho đến lời nói và việc làm. Chính vì thế, Chúa dạy ‘trọn lời thề với Thiên Chúa” và “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.
Và trên hết, “công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu” có nghĩa là công chính như Chúa Giêsu Kitô và trong Chúa Giêsu Kitô. Khi chứng kiến Chúa Giêsu chịu đóng đinh chịu chết trên thập giá viên đội trưởng Rôma đã tuyên xưng: “Người này đích thực là người công chính” (Lc 23,47). Sự công chính được trọn vẹn nơi Chúa Kitô hiến thân mình chịu chết để đền bù tội lỗi cho nhân loại.
Nói tóm lại sự công chính mà Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài là sự công chính có nền tảng và động lực nơi chính Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thánh thiện, sự công chính ấy phải phát xuất từ tâm hồn con người, được thực hiện với tình yêu mến trong sự kết hợp với Chúa Kitô chịu đóng đinh. Một cách cụ thể, để “công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu” chúng ta không chỉ giữ luật Chúa bằng công việc hình thức bên ngoài mà giữ với lòng yêu mến Chúa, giữ luật không vì lý do nào khác ngoại trừ vì Chúa muốn như thế, và để làm đẹp lòng Chúa. Và nhất là sự công chính cao cả nhất chính là noi theo và kết hợp với mẫu gương của chúng ta là Chúa Giêsu tự hiến thân mình để đền bù tội lỗi qua việc chính chúng ta cũng biết hy sinh quên mình và phục vụ anh chị em trong tinh thần khiêm tốn.
39. Anh em phải công chính hơn các kinh sư
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Trích từ bài giảng trên núi trong Mt, bài Tin Mừng hôm nay (5,17-37) nói về những cách hành xử cần phải có của người đồ đệ Đức Giêsu đối với người thân cận. Nhưng trước hết là lời khẳng định rằng chính Đức Giêsu là Đấng đến nói cho chúng ta biết ý muốn đích thực của Thiên Chúa: Người đến để kiện toàn Sách Thánh.
1. “Thầy đến để kiện toàn Luật Môsê và lời các ngôn sứ” (cc.17-20)
Những người hiểu biết sự lớn lao của các lời hứa và niềm mong chờ Đấng Mêsia sẽ có thể phải cảm thấy rất hụt hẫng trước chân trời mà Đức Giêsu mang đến. Người ta trông chờ phúc lạc và cơ nghiệp đã được hứa ban, nhưng Người lại tuyên phúc cho những người nghèo khó, sầu buồn, khóc lóc, đói khát và bị bách hại. Vì thế, Đức Giêsu muốn tránh sự hiểu lầm và sự thất vọng cho các đồ đệ của Người khi họ đi theo Người. Chính trong bầu khí và ý hướng như thế mà Người tuyên bố một cách rõ ràng: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (cc.17-18).
Động từ “kataluô” có nghĩa là “phá đổ” (một công trình xây dựng chẳng hạn), chứ không có nghĩa là bãi bỏ một luật. Trong Mt, động từ này luôn được dùng cho đền thờ (x. 24,2; 26,61; 27,40). “Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ” là cách thức người Do Thái gọi bộ Kinh Thánh của họ, tức là bộ Cựu Ước theo quan điểm Kitô giáo. Động từ “kiện toàn” (pleroô) liên tục được Mt sử dụng để chỉ sự thực hiện các sấm ngôn (x. 1,22; 2,15.17.23; 4,14; 8,17…). Vì thế, cách nói “kiện toàn lời các ngôn sứ” ở đây là dễ hiểu. Nhưng không chỉ lời các ngôn sứ được kiện toàn, mà cả “Luật Môsê” nữa, tức là những gì do Môsê viết. Thật ra, vẫn tồn tại một cách hiểu, theo đó, Đấng Mêsia sẽ thực hiện cuộc xuất hành chung cục mà cuộc xuất hành do Môsê lãnh đạo khi xưa chỉ là hình ảnh báo trước. Trong thực tế, Mt vẫn hiểu Lề Luật và các ngôn sứ là sấm ngôn về Đấng Mêsia. Sứ mạng của Chúa Giêsu là một sứ mạng tích cực, chứ không phải một sứ mạng tiêu cực. Người là điểm đến của tất cả Cựu Ước, và toàn thể Cựu Ước tìm được sự kiện toàn nơi Người và nhờ Người.
Vậy Đức Giêsu khẳng định rằng Người không đến để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn ý muốn của Thiên Chúa được thể hiện trong Sách Thánh. Người thực hiện và đưa đến mức độ viên mãn trọn vẹn những gì Thiên Chúa hứa trong Sách Thánh. Và Người quả quyết rằng dẫu “một chấm một phết” (dịch sát là “một chữ i hoặc một cái sừng”, tức là chữ yod, mẫu tự nhỏ nhất trong bảng chữ cái Hípri) cũng sẽ không mất hiệu lực. Nói cách khác, ngay cả những chi tiết nhỏ nhất trong chương trình của Thiên Chúa được mạc khải trong Sách Thánh cũng sẽ vẫn giữ nguyên hiệu lực “cho đến khi mọi sự được hoàn thành”.
“Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời” (c.19). Cách nói “sẽ được gọi là nhỏ / lớn trong Nước Trời” không có ý nói về một phẩm trật thứ hạng trong Nước Trời, nhưng là một cách nói của người Do Thái để diễn tả sự bị loại ra hay được thuộc về Nước Trời.
“Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (c.20). Dịch sát sẽ là: “…nếu sự công chính của anh em không vượt hơn các kinh sư…”. Vấn đề không phải chỉ là sự công chính theo nghĩa luân lý, đạo đức. Trước hết, đó là sự công chính do tin vào Đức Giêsu, Đấng kiện toàn tất cả Sách Thánh, sau đó mới là chuyện luân lý. Vậy sự công chính của các đồ đệ sẽ siêu vượt hơn hẳn sự công chính của các kinh sư, là vì nó được gắn vào và tùy thuộc vào Đấng làm cho mọi sự nên thành toàn, chứ không phải chỉ vì đời sống luân lý của các đồ đệ siêu vượt hẳn so với các kinh sư. Các kinh sư, ở mức độ cao nhất, chỉ có thể gắn sự công chính của mình trên nền tảng các lời hứa của Thiên Chúa trong Sách Thánh; nhưng chính Chúa Giêsu mới là Đấng kiện toàn các lời hứa ấy. Vì thế, có thể nói: ở câu 20 này, Chúa Giêsu đòi hỏi các đồ đệ của Người phải gắn bó thiết thân với Người và đặt sự công chính của mình trên nền tảng là chính Người, thay vì chỉ hài lòng với sự công chính theo kiểu các kinh sư, tức là sự công chính dựa vào việc tuân giữ Luật Môsê.
Như thế, một đàng Chúa Giêsu quả quyết rằng Người không hủy bỏ “Luật Môsê và các lời ngôn sứ”, nhưng đàng khác, Người cho thấy sự hơn hẳn của Người so với các thực tại thuộc nhiệm cục cũ mà không hề làm đứt đoạn sự tiếp nối sâu xa từ Cựu Ước sang Tân Ước.
2. Giáo huấn về đức công chính mới
Đức Giêsu bắt đầu giáo huấn của Người về sự công chính hơn hẳn của người môn đệ bằng cách tập trung chú ý vào ba đề tài quan trọng: tránh xung đột với tha nhân; thủy chung; và sống trong sự thật. Đây không phải là một bài trình bày cặn kẽ và đầy đủ về các đề tài, mà chỉ là phần nêu lên những luận điểm chính yếu được hiểu như để làm mẫu mà thôi.
a. Hãy đi làm hòa trước đã (cc.21-26)
Đức Giêsu nói: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt. Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng” (cc.21-26).
Đức Giêsu đặt điều răn không được giết người trong một quan điểm khác với “Luật dạy người xưa”. Sẽ là chưa đủ nếu chỉ tránh hành động bề ngoài. Thái độ độc ác bên trong và sự giận dữ cay nghiệt đối với người anh em, cũng đã là những cách hành xử đáng bị kết án rồi. Các cách hành xử ấy được trình bày theo hướng ngày càng gia trọng, cả về tội phạm lẫn về hình phạt.
Sau đó, Chúa Giêsu chuyển sang trình bày khía cạnh tích cực trong thái độ của các đồ đệ, những người có nhiệm vụ tác tạo hòa bình. Cần phải hết sức duy trì và bảo vệ sự hiệp nhất thuận hòa, chứ không chỉ là tránh xung đột. Chính thái độ sống tích cực đó quyết định giá trị của việc thờ phượng. Cách nói “hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ” không nên được hiểu sát mặt chữ, mà cần phải được hiểu là một kiểu nói diễn tả ý muốn hòa giải và tha thứ ngay trong lòng. Sẽ là hoàn toàn vô ích việc đến gần Thiên Chúa đang khi vẫn còn hiện hữu trong sự chia rẽ, bất hòa.
b. Hãy thủy chung (cc.27-32)
Đức Giêsu nói tiếp: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (cc.27-30).
Luật cấm hành vi bên ngoài, sự ngoại tình. Đức Giêsu đòi hỏi một trái tim tinh sạch, một sự thuần khiết ngay từ trong lòng. Ngoại tình là bất chính, nhưng ngay cả sự thèm muốn bất chính cũng đã là ngoại tình rồi. Nói cách khác, quyền lực cuối cùng thúc đẩy và quyết định trong lãnh vực tính dục nói riêng và trong tương quan với phụ nữ nói chung, không được là những sức mạnh tự nhiên và bản năng bột phát của những thèm khát và khoái lạc tính dục.
Để nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thuần khiết ngay từ trong lòng, Chúa Giêsu đưa ra lời khuyến nghị thà móc mắt phải và chặt tay phải còn hơn là “toàn thân bị ném vào hỏa ngục”. Tất nhiên sẽ là quá ngô nghê và không chính xác nếu chúng ta hiểu các lời khuyến nghị này theo sát mặt chữ. Điều quan trọng là chúng ta không được phó mặc các quan năng của mình cho bản năng thấp hèn, nhưng phải biết làm chủ chúng một cách có trách nhiệm. “Con mắt” biểu tượng cho ước muốn; “bàn tay” biểu tượng cho hành động. Cần phải loại bỏ tất cả những ước muốn xấu xa ngược với sự tinh sạch trong lòng.
Không chỉ tôn trọng vợ người khác, mà còn phải cư xử đúng đắn với vợ mình và tôn trọng sự hiệp thông trong tình yêu và sự sống với vợ của chính mình. Đức Giêsu nói: “Luật còn dạy rằng: Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình” (cc.31-32). Sự hiệp thông sự sống và tình yêu giữa hai vợ chồng là thực tại thiện hảo bất khả chuyển nhượng. Nguồi ta phải ra sức bảo vệ và vun đắp cho sự hiệp thông đó.
c. Hãy sống trong sự thật (cc.33-37)
Đề tài thứ ba trong vấn đề tương quan với người thân cận mà Chúa Giêsu ban lời giáo huấn là đề tài liên quan đến sự thật. Đức Giêsu nói: “Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (cc.33-37).
Sở dĩ có chuyện thề thốt trong xã hội, là vì có sự thiếu chân thành giữa người với người. Sự thề thốt, tự nó, đã là một bằng chứng rõ ràng của sự trục trặc trong tương quan giữa người với người. Các kinh sư và các người Pharisêu phận biệt hai loại thề: thề nhân danh Đức Chúa và lấy sự vật mà thề. Họ cho rằng loại thứ nhất có tính ràng buộc, còn loại thứ hai thì không, tức là người ta có thể rút lại lời thề.
Trong Nước Thiên Chúa, sự chân thật là quy luật sống và “phúc thay ai tinh sạch trong lòng”. Vì thế, sự thề thốt hoàn toàn không còn giá trị. Và Đức Giêsu dạy: “Đừng thề chi cả”.
Thực ra, cc.33-37 không nhắm nói trước hết đến chuyện thề thốt, mà là muốn nói về sự nhất mực liêm khiết của người đồ đệ: “Hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác thần” (c.37).
40. Hãy sống yêu thương và nên trọn lành
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Kết thúc “Bài giảng trên núi”, căn tính của người kitô hữu là muối là ánh sáng được Chúa Giêsu tiếp tục mạc khải cho khi dạy chúng ta về thái độ cần phải có cũng như thực hành trong đời sống: “Các con đã nghe bảo… Còn Thầy, Thầy bảo các con “. Vậy nghe bảo gì, và Chúa Giêsu bảo các môn đệ mình ra làm sao?
Khi Chúa Giêsu khi trích dẫn câu nói của người xưa về luật công bằng khi trả thù đã được ghi rõ trong Cựu Ước “Mắt đền mắt, răng đền răng ” (Xh 21,24). Chúng ta phải thừa nhận rằng, đây là một bước tiến lớn trong tương quan hành xử giữa người với người so với thời Lamek, bởi Lamek đã từng nói với hai vợ: “Vì một vết thương, ta giết một người, (Ta) trầy da, một nam nhi toi mạng. Vì Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy!” (St 4,23-24) Vậy là trả thù mãi mãi. Luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” (Xh 21,24) giúp con người khỏi rơi vào tình trạng thái quá. Trái lại, Luật của tình yêu phủ nhận sự đồng nhất với kẻ thù: “Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác” (Mt 5, 39).
Theo Chúa Giêsu, yêu thương là vượt ra khỏi vòng tròn luẩn quẩn của cái ác và sống tình huynh đệ đại đồng, nên khi Ngài bảo chúng ta “đưa má bên kia cho nó nữa,” là Ngài muốn chúng ta xây đắp tình hiệp thông anh em. Đưa má bên kia là cố tình giúp đối phương khám phá ra tình yêu và rằng thực hành bác ái là điều có thế. Đưa má bên kia còn muốn nói với kẻ ác rằng nó đã nhận được người anh em như nó là anh em. Một hành động đáng tin cậy như thế sẽ phá tan bạo lực.
Chúa Giêsu yêu cầu gia tăng thêm tình yêu và lòng tha thứ càng nhiều càng tốt! Vì tình yêu có sức mạnh giúp đối phương xích lại gần ta hơn bằng tình người. Như thế, bằng cách trao ban, chúng ta nhận nó là anh em.
Cho nó cả áo choàng, đi với nó hai dặm không phải một mà áp đặt, nhưng chứng minh con người luôn có sáng kiến về tình yêu. Vì đó là điều đẹp lòng Chúa, nên chúng ta từ bỏ điều có đi có lại và chủ động xây đắp tình sự hiệp thông trong tình yêu. “Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ”. (Mt 5, 44)
Tình yêu phải được thực hiện theo châm ngôn: “Hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con” (Mt 5, 44). Chúa Giêsu không chỉ lên án một hệ thống dùng bạo lực để trả thù cho cân, Ngài còn muốn chúng ta hủy bỏ luật ăn miếng trả miếng xưa. Tình yêu không gia tăng theo kiểu có đi có lại – người ngươi yêu mến là một người anh em ngươi, một người ngươi yêu mến là người bạn ngươi. Tình yêu là quà tặng, nhưng không dựa trên sự khác biệt tối thiểu. Sự khác biệt của tình yêu là không giống nhau, là người khác chứ không phải là người họ hàng, nhưng là người chúng ta cảm thấy gần. Như Chúa Giêsu đã nói: đó là người thân cận của ngươi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không bác bỏ sự phân biệt của chúng ta. Người khác không phải luôn là một người bạn, nó có thể trở thành kẻ thù. Điều quan trọng là tất cả mọi người là anh em với nhau. Chúng ta có kẻ thù, đó là một thực tế.
Thật phù hợp để người kitô hữu khẳng định căn tính là con Thiên Chúa của mình khi thực hành lời Chúa Giêsu dạy để trở nên con cái Cha các con ở trên trời. Giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu để lại mạc khải rõ về hồng ân yêu thương. Là con cái Thiên Chúa, chúng ta phải yêu thương ngay cả kẻ thù kẻ muốn cắt đứt tương quan là con Thiên Chúa và anh em với ta. Luật ăn miếng trả miếng không còn tồn tại. Chỉ có tình yêu mới biến đổi được hận thù, tình yêu làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa và thể hiện chức phận là con đối với Người.
Như thế, chúng ta đi đến cùng lời Chúa Giêsu dạy về thánh ý Thiên Chúa trong đời sống: “Các ngươi hãy thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 19,1). Bằng những lời này, Thiên Chúa mời gọi dân Israel và cả chúng ta ngày hôm nay thể hiện lòng trung thành với giao ước Thiên Chúa đã thiết lập, đồng thời đặt luật lệ xã hội trên giới răn “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19,18). Nếu chúng ta sống lời dạy Chúa Giêsu, chúng ta lại tìm thấy lời mời gọi trên đây với cùng một mức độ mãnh liệt, Ngài nói: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48).
Nhưng ai có thể nên trọn lành? Sống trọn lành là thi hành thánh ý Chúa trong tư cách là con. Thánh Xip-ri-a-no từng viết: “Cách hành xử của con cái Thiên Chúa phải tương hợp với tình phụ tử của Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa được tôn vinh và ca tụng từ những việc tốt lành của con người” (De zelo et livore, 15: CCL 3a, 83). Như thế, con người có thể trở nên trọn lành khi sống tròn đầy cương vị làm con cái Thiên Chúa. Chúa Cha làm khác chúng ta là những người bỏ người này chọn người kia. Chúa Cha làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Chúa Cha quan tâm đến cả hai, người lành cũng như kẻ dữ; con cái Thiên Chúa cũng phải trở nên trọn lành “như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”(Mt 5, 48).
Xem ra có thể khó, những Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta trước khi nói: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5, 44-45). Ai đón nhận Thiên Chúa trong đời sống mình và yêu mến Người hết lòng, người ấy có khả năng bắt đầu một chặng đường mới, có thể chu toàn thánh ý Thiên Chúa hầu hiện thực hoá một hiện hữu mới được nuôi sống bởi tình yêu và hướng đến sự vĩnh cửu. Tình yêu là điều vĩ đại, chúng ta đọc thấy trong sách Gương Chúa Giêsu, một điều tốt làm nhẹ đi những nặng nhọc và nâng đỡ những điều khó khăn. Tình yêu thôi thúc ta hướng lên cao mà không còn bị vướng bận vào bất cứ điều gì thuộc trần thế.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp chúng con luôn sống xứng đáng là con Cha trên Trời. Amen.
41. Tuân giữ luật Chúa với lòng mến Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
“Thiên Chúa ban cho con người sự sống và sự chết, con người có quyền lựa chọn thích thứ nào thì được thứ ấy” (Hc 15, 17). Lời trên là một minh họa cụ thể cho Cây biết biết lành biết dữ và Cây Sự Sống trong sách Sáng Thế (x. St 2 ##, 9). Chúng ta không “quyết định” chọn cái ác, tội lỗi là điều không thể tránh khỏi, nhưng dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, chúng ta được mời phân biệt sự lành và sự dữ cách tự do nhờ sức mạnh Người đã trao ban: “Nếu ngươi muốn tuân giữ các giới răn: việc trung thành giữ các giới răn là tuỳ ở ngươi” Đây là tin mừng do Đức Khôn Ngoan công bố, Đức Giêsu thực hiện, Người chết cho tội lỗi và sống lại trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Khi tội lỗi bị bẻ gẫy, sự chết bị đập tan, Thiên Chúa ban lại cho chúng ta ơn gọi làm con cái Chúa, đồng thừa tự với Chúa Giêsu (x. 2 Pr 1, 4). Đó là kế hoạch khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đối với loài người ” sự khôn ngoan đầy nhiệm mầu của Thiên Chúa vẫn được giấu kín, mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn thuở để làm nên sự hiển vinh của chúng tôi… Thiên Chúa đã mạc khải điều đó cho chúng tôi do Thánh Thần của Người ” (x. 1 Cr 2, 6-10).
Vì thế, nếu sự thật về thân phận con người là sống kết hiệp với Đức Giêsu và hiệp nhất với Ngài trong đức tin, tình yêu và lòng mến là con đường duy nhất dẫn đến Cây Sự Sống, phục hồi phẩm giá làm con Thiên Chúa và mở ra cho chúng ta tình huynh đệ phổ quát. Thì Đức Giêsu đến “kiện toàn Lề Luật và lời các Ngôn Sứ”, với mục đích soi đường chỉ lối cho chúng ta về với Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu và là Cha chúng ta nhờ sự vâng phục Lời Ngài. Tuy nhiên, sự khôn ngoan đầy nhiệm mầu của Thiên Chúa, khác với “sự khôn ngoan của thế gian” (x. 1 Cr 2, 6), như Thánh Phaolô nói với chúng ta.
Khi con người cố gắng bằng mọi cách để bảo vệ “quyền lợi” cá nhân trong công lý, nhưng dưới cái nhìn của Đức Giêsu là chưa đủ: “Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu” (Mt 5, 20). Vậy thế nào là công chính hơn các luật sĩ và biệt phái?
Đức Giêsu giải thích qua một loạt các phản đề giữa các giới răn cũ và kiểu Ngài đề nghị. Mỗi lần bắt đầu: “Các con đã nghe người xưa nói rằng… “, rồi Ngài khẳng định: “Còn Thầy, thầy bảo các con… “. Chẳng hạn: “Các con đã nghe người xưa nói rằng: Chớ giết người; ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy Thầy bảo các con: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa” (x. Mt 5,21-22). Và sáu lần như vậy. Khi nói như thế, Đức Giêsu không có ý định thêm các điều răn, nhưng Ngài tuyên bố cần phải có bước nhảy về chất lượng, Ngài chứng tỏ Ngài chu toàn các giới răn với tình yêu của Chúa Cha, với sức mạnh của Chúa Thánh Thần ở trong Ngài. Đến lượt chúng ta, với niềm tin nơi Ngài, để Chúa Thánh Thần hoạt động, Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta sống tình yêu của Thiên Chúa. Vì thế, mỗi điều răn trở thành thật sự như đòi buộc của tình yêu, vì tất cả các giới răn đều tóm về hai điều này là: trước kính Đức Chúa Trời hết lòng hết sức, và sau là yêu người như mình ta vậy. Như Thánh Phaolô quả quyết: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10).
Đức Giêsu tiếp tục mời gọi chúng ta dứt bỏ tận căn: “Nếu con mắt phải của con nên dịp tội cho con, thì hãy móc nó mà ném xa con; vì thà mất một chi thể còn lợi hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con nên dịp tội cho con, thì hãy chặt mà ném nó xa con; vì thà mất một chi thể còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục” (Mt 5,29-30). Hình ảnh thân thể người kitô hữu bị cắt xén cho thấy cuộc chiến khốc liệt này và báo trước những gì không phù hợp với sủng. Chỉ có Thần Khí mới có thể giúp chúng ta thực hiện việc hoán cải và lựa chọn dứt khoát, cứu mạng sống ta và ném xa ta những gì ngăn cản ta với Thiên Chúa, thậm trí tách ra khỏi chính thân mình như con mắt chẳng hạn. Liệu chúng ta có thể cân nhắc chọn lựa giữa ngọc trai quý hiếm với kho bạc duy nhất là Sự Sống đời đời không?
Thánh Phaolô nói: “lòng người cũng chưa từng mơ ước tới, đó là tất cả những điều Thiên Chúa đã làm cho những ai yêu mến Người” (1 Cr 2, 10). Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta vượt qua quán tính của con người cũ, và sống trong tình yêu, nếu chúng ta tin kính Chúa, “Chúa nhìn đến những kẻ kính sợ Người, và thấu suốt mọi hành động của con người” (Hc 15, 19); “Chúa thích ngự trong những tâm hồn ngay thẳng” (Lời nguyện nhập lễ).
Đức Giêsu mời gọi chúng ta hoán cải tận căn, chúng ta là con một Cha trên Trời và là anh em với nhau. Chúng ta không đứng trước bàn thờ Chúa một mình, nhưng cùng anh em dâng lễ vật lên Thiên Chúa. Vì vậy, Cha trên Trời làm sao vui mừng được, khi con cái dâng lễ vật mà đang chia rẽ nhau? Đó là lý do tại sao Đức Giêsu bảo: “khi ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với ngươi, thì ngươi hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ngươi trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ” (Mt 5,23-24). Ai trong chúng ta là xứng đáng với lời đề nghị trên?
Lời Chúa Giêsu gửi đến mỗi người trong chúng ta, không có chuyện cắt chân cắt tay, hay là móc mắt, nhưng là cam kết dấn thân trong tình bác ái. Với ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể vứt bỏ hay ném xa những gì đe dọa chúng ta kết hợp với Chúa và tha nhân, chọn Chúa làm gia nghiệp của đời ta. Amen.
42. Thứ bậc các giá trị theo Đức Giêsu.
(Chú giải của Lm FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chúng ta đang ở trong Bài Giảng trên núi (Bài diễn từ thứ nhất của Tin Mừng Mt). Hôm nay, chúng ta đi vào Phân đoạn chính, có thể gọi bằng nhan đề “Sự công chính của Nước Trời hay là Sống như con cái của Chúa Cha” (5,17–7,12). Riêng bản văn được đọc hôm nay (5,17-37) thuộc về phần đầu của phân đoạn này, mộtphân đoạn được các nhà chú giải mệnh danh là “Đức công chính dồi dào” (5,20-48). Bản văn nói đến bốn cặp đối nghĩa (trong số sáu cặp đối nghĩa: 5,20-48).
Phần này như đang ngầm trả lời một số câu hỏi: Những việc tốt nào phải rạng sáng lên nơi các môn đệ Đức Giêsu? Qua những việc tốt lành này, cách thức hiện hữu nào của Cha trên trời được người ta biết đến?
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu mạc khải ý muốn của Thiên Chúa (5,17-20);
2) Đức Giêsu dạy về cách cư xử với người thân cận (5,21-48)
a) Các hành động trực tiếp làm cho người thân cận (5,21-37):
– các xung đột với người thân cận (5,21-26),
– cách cư xử đối với phụ nữ (5,27-32),
– tương quan với sự thật (5,33-37),
b) Các phản ứng trước cách cư xử của người khác (5,38-48).
Bản văn dùng trong Phụng vụ hôm nay không đọc đoạn 2.b).
3.- Vài điểm chú giải
– Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ (17): Đây là cách người Do Thái gọi bộ Kinh Thánh của họ (tức Cựu Ước theo quan điểm Kitô giáo). Xem 7,12; 11,13; 22,40.
– kiện toàn (17): Khi nói về mộtlời nói hay mộtlời loan báo, plêroô có nghĩa là “hiện tại hóa”; khi nói về mộtlệnh truyền, plêroô có nghĩa là “thi hành”. Mt dùng động từ này (plêroô / plêrôsai) 16 lần, mà có 12 lần là để đưa vào các câu trích Kinh Thánh. Các đoạn văn Kinh Thánh ấy được coi như được hiện tại hóa trong biến cố Giêsu, vì biến cố này vén mở cho thấy mộtý nghĩa mới của bản văn. Đức Giêsu khẳng định rằng Người hoàn tất Kinh Thánh, có nghĩa là Người đưa Kinh Thánh dến chỗ hoàn chỉnh, đạt ý nghĩa trọn vẹn. Người thực hiện Kinh Thánh không phải bằng cách “thi hành” những khoản luật sát mặt chữ, nhưng bằng cách vượt quá Kinh Thánh, đưa lại cho Kinh Thánh mộtý nghĩa mới (x. cc. 20-48). Như thế, câu 17 khẳng định có sự tiếp nối sâu xa từ Cựu Ước sang Tân Ước, đồng thời cho thấy Tân Ước vượt quá những giới hạn và những bất toàn của Cựu Ước.
– một chấm một phết (18): dịch sát là “không mộtchữ i hoặc mộtcái sừng”, tức là con chữ yod trong bảng chữ cái Híp-ri. Đây là con chữ nhỏ nhất.
– ai bỏ … ai dạy … ai tuân hành (19): Câu này khiến ta có thể giả thiết là trong Hội Thánh sơ khai có nhiều khuynh hướng hoặc phong trào thiêng liêng liên hệ đến việc tuân giữ Luật mới.
– không ăn ở công chính hơn các kinh sư (20): dịch sát là “sự công chính của anh em không dồi dào/vượt (perisseuein) hơn (pleion, “more”) các kinh sư.
– ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp (32): “ngoại trừ trường hợp porneia” (x. 19,9). Có hai cách giải thích từ porneia này: (1) Đây là những nố hôn nhân bất hợp pháp, chẳng hạn do họ máu, mà Luật Môsê cấm (Lv 18,6-18). Các kinh sư gọi các hôn nhân này là zơnouth, Bản LXX dịch là porneia. Bởi vì các hôn nhân loại này không thành pháp, nên hai người phối ngẫu phải rời xa nhau. Đây là cách giải thích của giới Công giáo. Nhưng có những tác giả cho rằng có thể áp dụng nghĩa ấy cho Cv 15,20, chứ ở trong Mt thì không có gì chắc chắn cả. (2) Hiểu porneia theo nghĩa thông thường là sự hư đốn về tính dục, tức ngoại tình (moikeia). Đây là cách giải thích của Tin Lành và Chính Thống, và mộtsố tác giả Công giáo.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu mạc khải ý muốn của Thiên Chúa (17-20)
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa cho biết ý muốn của Ngài qua Luật và các ngôn sứ: những gì chính Ngài muốn thực hiện (sấm ngôn và lời hứa: x. 11,13) và những gì loài người phải làm (Luật). Đức Giêsu tuyên bố rằng ý nghĩa của việc Người ngự đến, của tư cách của Người là Đấng được Thiên Chúa cử đến, là đưa Luật và các ngôn sứ, mạc khải về ý muốn của Thiên Chúa, đến chỗ hoàn tất. Không có gì trong Luật và các ngôn sứ lại bị triệt tiêu và loại bỏ, mà cũng chẳng phải chỉ được xác nhận trong hình thức cũ. Đức Giêsu đưa đến sự hoàn tất; nơi Người, Thiên Chúa thực hiện lời Ngài đã hứa (x. 1 ,22t; 2,15…). Như thế, Đức Giêsu chính là Nhà Lâp pháp đích thật mà Thiên Chúa đã cử đến cho loài người mọi thời; so với Người, Môsê chỉ là người tiền hô thôi. Qua Người, Thiên Chúa cho thấy cách vĩnh viễn họ phải sống như thế nào. Lề Luật chưa được kiện toàn không phải vì nó không diễn tả ý muốn của Thiên Chúa, nhưng vì diễn tả cách bất toàn hoặc cách không thích đáng.
Điều Ngài đã yêu cầu qua Luật và các ngôn sứ được gom lại thành điều này: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (7,12), và có thể được tóm lại trong điều răn yêu mên Thiên Chúa và yêu thương người thân cận (22,37-40). Đức Giêsu nêu bật rằng, trước mọi sự, Thiên Chúa muốn lòng từ bi thương xót (9,13; 12,7). Với các “cặp đối nghĩa” (5,21-48), câu “Còn Thầy, Thầy bảo anh em” được nhắc lại 6 lần (5,22.28.32.34.39.41), qua đó Đức Giêsu nói với uy quyền của Thiên Chúa, để giải thích đâu là lối cư xử phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Ngài muốn họ phải sống mộtsự công chính “dồi dào” hơn các kinh sư và người Pharisêu (5,20).
Vì Đức Giêsu là Đấng truyền đạt vĩnh viễn ý muốn của Chúa Cha, ta không thể không cần đến Người. Cuộc sống cá nhân phải hình thành từ các giáo huấn của Người. Ta thuộc về Nước Trời hay không là tùy ta tuân giữ sự công chính Người đã dạy hay không.
* Đức Giêsu dạy về cách cư xử với người thân cận (21-37)
Trong các giáo huấn, Đức Giêsu quan tâm đặc biệt tới ba đề tài: các xung đột với người thân cận, cách cư xử đối với phụ nữ, tương quan với sự thật. Cứ mỗi lần, Người lại đặt giáo huấn của Người đối lập với giáo huấn của Cựu Ước. Các luận điểm Người đưa ra phải được hiểu như làm mẫu, chứ không phải là những trình bày rốt ráo về các đề tài.
Đoạn 5,21-26 liên hệ đến việc thắng vượt các xung đột. Chỉ đến c. 26, ta mới biết đây là thứ xung đột gì: mộtchủ nợ không kiên nhẫn được nữa, đã muốn đưa con nợ ra tòa để ép người ấy trả nợ. Loại xung đột này là điển hình cho mọi thứ căng thẳng và cho các lối xử sự phát xuất từ đó. Theo cách triệt để nhất, người ta giải quyết mộtxung đột bằng cách loại trừ người kia. Cựu Ước đã kết án cách xử sự này bằng lệnh cấm: “Không được giết người”. Cách giải quyết xung đột kiểu này là sai; để chứng tỏ như thế, luật pháp đã quy định hình phạt xử tử. Nhưng có những hình thức xử sự khác khi có xung đột: nổi giận, thù hằn sâu sắc và sỉ nhục, tấn công hay đả thương bằng lời nói. Đức Giêsu kết án cả các kiểu cư xử này. Phải tránh không những hành vi xấu xa, mà cả sự xấu xa trong tim và những lời nói xấu xa. Đừng để xung đột đẩy tình yêu ra khỏi con tim, đầu độc con tim, hoặc đưa đến chỗ đầu độc cộng đoàn bằng những lời độc địa. Đức Giêsu nhắc đến các tòa án để cảnh giác; Người nhắc theo thứ tự tăng dần: từ tòa án địa phương, đến tòa án cao nhất ở trần gian (Thượng Hội Đồng), và cuối cùng là tòa án của Thiên Chúa. Ở đây Đức Giêsu không hề muốn công bố mộtquy định pháp lý phải theo sát mặt chữ: trong trường hợp nổi giận thì phải theo cách này mà tính; trong trường hợp chửi bới thì phải theo cách kia… Người muốn nói rằng sự thiếu sót đối với người thân cận và giải pháp sai lầm người ta lấy trong các xung đột không chỉ bắt đầu với việc giết người, nhưng bắt đầu trước đó. Người muốn nói người ta phải ra sức tránh không những hành vi xấu xa, mà cả trái tim xấu xa và lời nói xấu xa. Người cũng muốn nói rằng các xung đột và căng thẳng không làm suy yếu tình yêu đối với người thân cận ở bất cứ mức độ nào và bất cứ cách nào.
Phải chứng tỏ tình yêu này không những trong việc ngăn cản sự dữ, mà còn trong việc tích cực tìm hòa giải. Người vừa nói đến việc tránh để cho các xung đột kịch phát. Bây giờ bằng các ví dụ (5,23-25), Đức Giêsu trình bày hình thức tích cực nên theo để vượt qua các xung độ, đó là sự hòa giải, và Người nêu bật ý nghĩa của việc hòa giải. Để hòa giải, Người nói thậm chí phải ngưng dâng lễ vật, điều này cho thấy tầm quan trọng, tính ưu tiên của việc hòa giải. Nếu người ta phải nhắm hòa giải cho được trong khi đi đường tiến về tòa án, điều này cho thấy hòa giải là chuyện cấp bách và cần thiết, và bõ công để người ta ra sức đạt cho được. Tiến trình mà Đức Giêsu đề nghị để thắng vượt các xung đột là tiến trình của tình yêu và hòa giải. Dĩ nhiên, để hòa giải được, cần phải có hai hoặc nhiều người, và không phải chỉ cần mộtbên đồng ý là được: nó giả thiết có sự sẵn sàng của cả bên kia. Mỗi bên phải ra sức làm tối đa để đạt được sự hòa giải. Phần nói về đức công chính mới chính là mộttiếng gọi duy nhất thúc bách người ta đi tới hòa giải và tình bằng hữu với người thân cận.
Đoạn văn tiếp theo nói đến cách cư xử đối với phụ nữ, đối với vợ người khác (cc. 27-30) và với vợ của mình (cc. 31-32). Quyền lực chung quyết trong lãnh vực này không thể nào lại là những sức mạnh tự nhiên và bộc phát của ham muốn và khoái lạc tính dục. Cựu Ước đã đặt ra mộtgiới hạn rõ ràng cho các sức mạnh này, khi cấm ngoại tình. Theo Lv 20,10, tội ngoại tình sẽ bị xử tử. Cùng với sự sống của người thân cận, người ta cũng phải tôn trọng vô điều kiện sự hiệp thông sự sống người đó có với vợ họ. Và cũng như đối với sự sống của người thân cận, ở đây Đức Giêsu cũng đặt mộtgiới hạn thật ra đã có từ trước và yêu cầu mộtsự tôn trọng sâu xa hơn nữa. Sự tôn trọng này phải có không những trong hành động mà cả trong ước muốn. Đức Giêsu cũng đang xác định mộtthứ bậc rõ ràng các giá trị. Nếu trước đây, Người đã nói rõ là sự giận dữ, chua cay, lời nói thâm độc… phải luôn luôn nhường bước cho sự hòa giải và hiệp thông huynh đệ với người thân cận, thì bây giờ Người tuyên bố rằng không những thú vui tính dục, mà cả các ước muốn tính dục cũng cần được chế ngự, nghĩa là vùng hiệp thông sự sống của người khác không được vi phạm bất cứ cách nào.
Lời khuyến khích thà móc mắt phải và chặt tay phải cho thấy giá trị này quan trọng đến đâu. Dĩ nhiên, không được hiểu các lời này sát mặt chữ: bởi vì không phải là con mắt phạm tội, nhưng là con người với ý ngông và ý chí của mình! Đức Giêsu muốn nói rằng chúng ta không được bỏ mặc các giác quan của chúng ta cho chúng, nhưng phải hướng dẫn cách sử dụng chúng cho có trách nhiệm. Người cho thấy rằng bảo vệ được các giá trị ấy không phải là chuyện dễ, có khi phải chấp nhận những can thiệp sâu xa và từ bỏ đau đớn. Nhưng điều này rất quan trọng: chỉ khi ta tôn trọng sự hiệp thông sự sống của người khác, Thiên Chúa mới nhìn nhận chúng ta trong ngày phán xét.
Liên hệ đến cách cư xử với vợ người khác và tôn trọng sự hiệp thông sự sống của người khác, có việc cư xử đối với vợ của chính mình và đối với sự hiệp thông sự sống với vợ mình. Trong Cựu Ước, có quy định là người ta có thể ly dị vợ, nhưng phải có chứng thư ly dị, để chứng tỏ rằng người phụ nữ đã có mộttư cách dân sự mới, không còn là người kết hôn nữa. Ở đây Đức Giêsu cũng xác định một thứ bậc mới cho các giá trị. Sự hiệp thông sự sống với vợ mình là mộtđiều thiện hảo không thể chuyển nhượng; người chồng phải bảo vệ, duy trì và vun đắp sự hiệp thông ấy. Người chồng không được rẫy vợ mình: tương ứng với sự tôn trọng tuyệt đối sự hiệp thông sự sống của người khác là sự bảo vể tuyệt đối sự hiệp thông sự sống với vợ mình. Dưới ánh sáng của lệnh cấm rõ ràng không được ly dị do Đức Giêsu công bố theo Mc 10,11t; Lc 16,18; 1 Cr 7,10t, câu thêm “ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp” không thể hiểu là mộtngoại lệ. Đức Giêsu không muốn nói: anh em không được rẫy vợ anh em trong bất cứ trường hợp nào, ngoại trừ trong trường hợp ngoại tình. Chữ “hôn nhân bất hợp pháp” ở đây rất có thể có nghĩa là những dây hôn bất hợp pháp do mộtquan hệ họ hàng rất gần (Lv 18,6-18; x. Cv 15,29; 1 Cr 5,1). Giải gỡ những dây liên kết này không phải là vi phạm lệnh cấm ly dị.
Đề tài thứ ba liên hệ đến sự thật (5,33-37). Trong lãnh vực này, vấn đề phát sinh do sự kiện là mỗi người lệ thuộc những khẳng định của người thân cận, và đồng thời, chúng ta là những con người, chúng ta không trong suốt với nhau. Cá nhân không thể tự mình biết tất cả những gì là quan trọng đối với mình hoặc biết bằng sức riêng của mình; người ấy lệ thuộc những khẳng định và lời hứa của người thân cận. Tuy nhiên những khẳng định này có thể không tương hợp với các sự kiện và khác nhau trong vô vàn sắc thái. Lời nói và mọi hình thái truyền thông có thể được sử dụng không những để truyền tải sự thật, mà còn để lừa dối. Sự thiệt hại cho người thân cận do những lời dối trá, lừa đảo và không giữ lời hứa là không thể tiên liệu và trầm trọng. Để ngăn chặn được thiệt hại này, người ta thề. Nhưng bởi vì ở đây cũng lại có thể phát sinh vấn đề dối trá, mới có lệnh cấm nghiêm khắc không được thề gian. Qua việc thề, người ta muốn diễn tả là chính Thiên Chúa, là Đấng tuyệt đối chân thật và chắc chắn không lừa dối,c ó thể làm chứng cho sự thật của lời khẳng định của chúng ta hoặc sự khả tín của lời chúng ta hứa; do đó người ta có thể tín nhiệm. Đồng thời ai nại dến Thiên Chúa để làm chứng cách dối trá, thì bị phạt. Việc nại đến Thiên Chúa phải khiến người ta nói sự thật và điều này khiến ta có thể tin tưởng những ai lệ thuộc những khẳng định này.
Ngược lại, Đức Giêsu bảo “hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”” (x. Gc 5,12); Người yêu cầu mộtdây liên kết vững bền và trực tiếp với sự thật, không cần nại đến bất cứ hình thái lời thề nào. Thiên Chúa không có việc gì mà phải đóng vai làm chứng và càng không đóng vai người hù dọa kẻ khác bằng hình phạt. Thiên Chúa, Đấng tuyệt đối chân thật và tuyệt đối xứng đáng với niềm tin của ta, tỏ mình ra như là điển hình cho chúng ta (x. 5,48). Nơi chúng ta, không được có sự khác biệt giữa những gì đang có trong thâm tâm ta dưới dạng kiến thức, ý kiến, ý hướng… và những gì chúng ta tỏ ra bên ngoài. Như thế ta công nhận sự thật, và người thân cận tránh khỏi thiệt hại.
+ Kết luận
Bằng uy quyền đầy đủ của Người, Đức Giêsu không áp đặt những luật võ đoán, nhưng cho thấy mộtthứ bậc mới các giá trị. Mỗi khuynh hướng ích kỷ duới dạng hiềm khích hoặc không chấp nhận giao hòa, dạng các ước muốn tính dục, tìm kiếm lợi lộc cá nhân qua việc lừa dối, đều phải biến mất. Mỗi cung cách xử sự phải phục vụ tình huynh đệ với người thân cận, phục vự sự hiệp thông sự sống, quan tâm bảo vệ sự thật. Một cung cách xử sự như thế coi người thân cận là anh em và chị em và thật sự đưa họ về với Cha chung.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đọc bản văn này, chúng ta nhận ra Đức Giêsu khẳng định tư cách tối cao của Người, Người là Thiên Chúa. Người có quyền trên “Luật dạy người xưa”, tức chính Cựu Ước, bởi vì Luật đó là bản văn Thiên Chúa dùng trung gian con người mà viết ra, còn Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Ngôi Lời, trực tiếp đến dạy dỗ loài người. Chúng ta có thực sự sẵn sàng đón tiếp Người chăng?
2. Những gì Đức Giêsu đã nói không được hiểu như là mộtdanh mục đầy đủ các quy định, càng không phải là một luật phải theo sát mặt chữ. Chẳng hạn, Người chỉ nói đến cách cư xử của phái nam đối với phái nữ, chứ không nói đến cách cư xử của phái nữ đối với phái nam; điều này không có nghĩa là phái nữ không có thiếu sót gì trong lãnh vực này. Người không muốn nói rằng ta chỉ phải tránh những kiểu cư xử đã được nhắc đến minh nhiên. Người đã nêu đặc tính của mộtthái độ tổng quát, và ta phải dựa theo đó mà cư xử trong lãnh vực liên hệ.
3. Đức Giêsu đặc biệt giáo huấn về ba lãnh vực: các xung đột giữa anh em, cách cư xử với phụ nữ và tôn trọng sự thật. Chúng ta được mời gọi xét lại cách chúng ta sống dưới ánh sáng của ba giáo huấn này. Thiếu tôn trọng các nguyên tắc của ba lãnh vực này, con người vừa thiếu kính trọng đối với Thiên Chúa vừa thiếu kính trọng đối với anh chị em mình. Nếu chúng ta sống giáo huấn của Đức Giêsu, chúng ta giữ được “Luật và các ngôn sứ”, tức là giữ được nòng cốt giáo huấn của Kinh Thánh.
4. Đây là mộtđòi hỏi của Đức Giêsu với các môn đệ: Họ phải có mộtlối sống “dồi dào hơn” sự công chính của giới kinh sư và Pharisêu. Đây là mộtsự trổi vượt về “lượng”: các môn đệ phải “làm hơn”. Nhưng “hơn” đây là đi xa hơn trong việc tuân giữ cốt lõi của Luật (x. cc. 38-48: điều răn yêu thương). Đây cũng là một sự trổi vượt về “phẩm”: các môn đệ không hoàn tất Luật theo cách vị luật, nhưng bằng con tim (Mt 23,25-28; x. 5,27-28), như những người con của Cha trên trời (5,45-48).
43. Chú giải của Noel Quesson
Sau các mối Phúc thật, là phần dẫn nhập. Bài giảng trên núi được tiếp tục trong ba chương dài trong đó Matthêu trước hết tập họp sáu phần đề giữa Luật của Môsê (“Anh em đã nghe Luật dạy rằng”) và Luật mới của Đức Giêsu (Thầy bảo thật cho anh em biết…). Chúa nhật này, chúng ta, đọc bốn phân đề đầu tiên, đi trước bằng một soạn mở đầu đem lại định hướng tổng quát cho cả bài đọc.
Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ lề luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn.
Đức Giêsu không phải là một nhà cách mạng muốn thay đổi mọi sự như thế quá khứ đã không tồn tại, để bắt đầu lại từ con số không? Cũng không phải là một nhà bảo thủ không muốn thay đổi gì cả như thể mọi việc trong quá khứ luôn luôn hoàn hảo. Chúng ta chớ quên rằng Tin Mừng của Thánh Matthêu được gởi đến các cộng đoàn Kitô hữu, ở Pa-lét-tin và Ki-ri theo Kitô giáo từ đạo Do Thái. Những câu hỏi về các sự “tiến hóa” được trình bày với nhiều sự kịch liệt: có nên bảo vệ các tập tục cắt bì cho các em nhỏ không bởi vì giờ đây đã có phép rửa tội? Có nên tiếp tục tôn trọng ngày Sabát không? Có nên tiếp tục chỉ ăn thức ăn “theo đúng nghi lễ” không? Vấn đề tiến hóa, tiến bộ lịch sử ấy vẫn còn là một trong những vấn đề quan trọng nhất của mọi thời đại. Trong những thời kỳ lịch sử biến động, những cuộc xung đột giữa “cũ và mới”, giữa “truyền thống” và “tiến bộ” trở nên quá khích. Và điều đó được đặt ra ở khắp nơi: trong Giáo Hội, trong thành phố, trong chính trị trong nghề nghiệp, trong gia đình. Đối với Đức Giêsu, không có vấn đề bãi bỏ quá khứ, cũng không có việc bảo tồn nguyên xi mà phải cho nó một sự sống mới, trong một thành tựu. Không phải vì truyền thống cổ xưa mà nó tốt. Không phải vì một ý tưởng mới mà nó tốt hơn: Đức Giêsu sẽ cho chúng ta sáu ví dụ trong phần nối tiếp của Bải giảng trên núi.
“Vì Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm, một phết trong Lề Luật cũng không thể đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế thì sẽ bị gọi là bé nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời”.
Theo Đức Giêsu, Kitô giáo đến để hoàn thành Do Thái giáo. Tân ước là một chồi ghép hoàn toàn mới được nuôi bằng nhựa của cây ô-liu cũ tức “Cựu ước”, để làm cho cây sinh ra nhiều quả (Rm 11, 17-24). Vâng, Đức Giêsu là Đấng được loan báo và chuẩn bị, Đấng đến để kiện toàn Luật và lời các ngôn sứ nghĩa là toàn bộ Kinh Thánh, Abraham, Môsê, Đavít, Isaia, các Thánh vịnh, các Hiền nhân, toàn bộ lịch sử và tư tưởng của Israel sẽ trổ hoa và phát triển trong Đức Giêsu.
Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sê chẳng được vào Nước Trời.
Công thức này phát triển nguyên tắc tổng quát mà sáu phản đề mà Đức Giêsu sắp triển khai sẽ đem lại sự minh họa.
Sự công chính là một từ ngữ Kinh Thánh rất phong phú mà Matthêu ưa thích một cách rất đặc biệt (Mt 1,19; 3,15; 5,6.10-20; 6,1.33; 9,13; 10,41; 11,19; 12,37; 13,17.43.49; 20,4; 21,32; 23,28.29.35; 25,37.46; 27,19.24). Từ “công chính” này không chỉ có ý nghĩa hạn hẹp mà ngôn ngữ hiện đại cho nó: sự công bằng xã hội điều hành những tương quan giữa con người với nhau “sự công chính” theo nghĩa Kinh Thánh chủ yếu là “theo đúng điều mà Thiên Chúa muốn chúng ta trở thành”. Một người công chính là người hoàn toàn đồng ý, cộng sinh,liên minh, hòa hợp với Thiên Chúa, Đấng suy nghĩ và thiết lập vũ trụ và điều hành nó với sự thông minh kỳ diệu. Người công chính, bởi “sự tương ứng” của đời sống người ấy với ý muốn của Thiên Chúa, sẽ tham dự vào Thiên Chúa và đi đến hạnh phúc, nghĩa là đến “mục đích vì đó mà người ấy được sinh ra”. Vả lại Đức Giêsu đề nghị một sự “công chính mới”, một sự hoàn thiện con người mới. Đức Kitô nói phải vượt qua sự công chính… vậy của ai nào?
– Các kinh sư những nhà thần học của thời đại ấy, những nhà chú giải Kinh Thánh, những vị thầy có chục vị, những giáo trưởng dạy đạo một cách chính thức… Các người ‘Pharisêu’ (Biệt phái) những giáo dân dấn thân của thời đại ấy, liên kết với nhau trong một “phong trào” của những người nhiệt thành, cố gắng sống mọi yêu sách của đức tin thuần túy nhất không để thanh danh bị tổn hại.
Làm thế nào các môn đệ của Đức Giêsu, những con người nghèo khổ và đơn sơ, không học vấn lại có thể so sánh với những học giả và các chuyên viên nhiệt tình của Lề Luật?
Ba ví dụ đầu tiên về sự “trội hơn” mà Đức Giêsu đề nghị là hoàn toàn có ý nghĩa và chủ yếu cho cả đời người:
1) Bạo lực, những mối tương quan sức mạnh giữa con người.
2) Tính dục, những tương quan tình cảm và thể xác giữa đàn ông và đàn bà.
3) Chân lý, những tương quan lắng nghe và đối thoại trong sự truyền thông.
BẠO LỰC:
“Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: “Chớ giết người”. Ai giết người thì đáng bị ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: “ ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt. Vậy nếu khi anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã; rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho, quan tòa, quan tòa lại giao cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng…”
Đây là “môi trường” thứ nhất mà con người phải trội hơn; môi trường của những mối tương quan nhân loại có xung đột và gây gỗ. Đức Giêsu biết rõ lòng dạ con người, trước khi trở thành những hành động xấu thì thù hận, sự khinh khi, bản năng thống trị đã làm hư hỏng tâm hồn con người. Bạo lực không chỉ là quả bom của kẻ khủng bố làm cho bạn kinh hoàng… bạo lực đã ở trong lòng bạn, khi bạn tức giận trong lòng chống lại những người không suy nghĩ như bạn. Và Thiên Chúa bảo đảm:cho phẩm chất các mối quan hệ của bạn: bạn phải “hòa giải” với kẻ thù của mình trước khi cầu nguyện! đó là cái mới mẻ, cái triệt để của Tin mừng… trong tương quan với luật cũ.
TÍNH DỤC:
Anh em đã nghe Luật dạy rằng: “Chớ ngoại tình Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngọai tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi, vì thà mất mộ phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hỏa ngục… Luật còn dạy rằng: “Ai rẫy vợ thì phải cho họ chứng thư ly dị”. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường.hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại mình, và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình..”
Những quan hệ giữa “đàn ông” và “đàn bà” là “môi trường” thứ hai trong đó Đức Giêsu mời gọi chúng ta “trội hơn” Lề Luật. Trước tiên chúng ta hãy ghi nhận rằng lời của Đức Giêsu nói ra là theo “quan điểm” của đàn ông, bởi vì xã hội thời Người, là một xã hội của đàn ông. Rõ ràng ngày hôm nay phải đọc những lời ấy trong sự hỗ tương trọn vẹn. “Mọi người đàn bà bỏ rơi chồng mình …
Những lời này của Đức Giêsu, liên quan đến tính dục của bạn, vợ chồng bạn, đời sống độc thân của bạn… bạn hãy đọc lại những lời ấy, như thể Đức Giêsu nói với chính bạn, mặt đối mặt. Những lời này đụng đến nhiều vết thương còn đau nhức, nhiều lý tưởng bị nhạo báng, nhiều ước mơ không được thực hiện đến nỗi có lẽ cần được giải thích đôi chút. Những cuộc tranh luận về “ngoại lệ của Mat-thêu” trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp) rất khó chỉ rõ, và tốt hôn hết là tham khảo đến những lời ghi chú của Kinh Thánh có ghi nhận về các cách hiểu về ngoại lệ ấy.
Tuy nhiên mỗi người chúng ta phải đón nhận lời yêu cầu của Đức Giêsu như một lưỡi gươm: Trong thế giới sự phi nhân mà chúng ta đang sống; những lời ấy của Đức Giêsu quả là thúc bách và dường như đi ngược lại với sự phát triển của đàn ông và đàn bà. Thật vậy, trong đáy lòng, chúng ta nhận biết những lời ấy xác định đường lối duy nhất và thật dũng cảm của việc phát triển thật sự. Cũng không nên hiểu những lời ấy như những điều quy định về luật pháp: Sự “‘trội hơn” Luật mà Đức Giêsu đề nghị chỉ có thể sống… với Người, với ân sủng và tình yêu của Người.
CHÂN LÝ:
“Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: “Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa”. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ…”
Đây là những lệnh truyền của Đức Giêsu mang tính hiện đại rất cao. Đây hoàn toàn là vấn đề hiệp thông giữa con người với nhau. Những tương quan của con người bị làm hư hỏng từ bên trong bởi sự lừa bịp, bởi thủ đoạn, sự giả vờ, sự giả mạo, quỷ quyệt, dối trá… sự quảng cáo và thông tin thương mại… Đức Giêsu mời bạn đến với chân lý của cuộc “đối thoại”, các cuộc đàm luận của chúng ta. Tìm một sự bảo đảm bên ngoài trong một lời thề là một điều vô ích (tôi thề với anh tôi nói sự thật!) lời nói của một con người, lời nói của bạn tự nó phải có một giá trị: hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không… Đức Giêsu tạo ra một “nền đạo đức” mới. Người không bãi bỏ gì cả, người “kiện toàn” từ trong nội tâm điều mà tự nền tảng là lý tưởng của mọi chủ nghĩa nhân bản chân chính.
44. Chú giải của Fiches Dominicales
“TA KHÔNG ĐẾN ĐỂ BÃI BỎ NHƯNG ĐỂ KIỆN TOÀN”
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Nguyên tắc chung: “không bãi bỏ, nhưng kiện toàn”.
Leo lên ngọn núi Sinai mới, Đức Giêsu, trong các mối phúc của nình, trước tiên, tán tụng cảnh sống hạnh phúc của các môn đệ qua lời mở đầu của bài giảng trên núi: “Phúc cho những tâm hồn nghèo khó: vì nước trời là của họ”. Đoạn ngài, minh định sứ mệnh trao phó cho họ: “Các con là muối đất… các con là ánh sáng trần gian” tiếp đến trung tâm bài Hiến chương, Ngài mạc khải cho các người của mình sự mới mẻ hoàn toàn của Tin Mừng. Bản văn mang đậm dấu ấn của thánh Mátthêu này gợi lên áp lực lưỡng diện đang đè nặng trên những cộng đoàn Kitô giáo.
Trước tiên, là áp lực ngoại tại của hội đường, nhân danh lề luật bắt bớ các môn đệ của Đức Giêsu. Sau đó, là áp lực nội tại của các cộng đoàn tín hữu bất nguồn từ Do thái giáo, “truyền thống hơn ” đôi khi co vào sự tuân giữ lề luật theo nghĩa ngữ, đối lại với các tín hữu xuất thân từ đa thần giáo, luôn tìm cách gièm pha lề luật Giáo huấn của Đức Giêsu sẽ sửa lưng cả hai. Quả thật, Ngài tuyên bố rằng mình “không đến để bãi bõ lề luật hay các tiên tri, mà để kiện toàn” nghĩa là thể hiện một cách viên mãn, hoàn hảo trong tình yêu và tự do của Con cha trên trời. Vì thế, từ nay “sự công chính” mới hệ tại không phải ở chỗ khép mình một cách bề ngoài vào các tập tục, nhưng là “khuôn mình” theo thánh ý Chúa Cha như Đức Giêsu. Sống trong cộng đoàn với tình yêu và tự do của con cái có thể, mới “công chính” hơn các luật sĩ và biệt phái được Thánh Irênê thành Ly-on, vào thế kỷ thứ hai đã hỏi: như vậy, khi đến trần gian này, Chúa đã mang theo những gì? Ngài đã mang theo sự mới mẻ hoàn toàn bằng chính con người của Ngài.
2. Những áp dụng cụ thể
Tiếp sau là năm phản đề cụ thể hóa “sự công chính mới” sẽ là bài học áp dụng nguyên lí tổng quát này vào cuộc sống tín hữu, vì chính toàn thể lề luật Phúc âm phải bao bọc toàn thể cuộc sống các môn đệ. Năm hình ảnh, mà chúng ta sẽ theo dõi trong bài đọc chúa nhật tới, đều bắt đầu với công thức “Anh em đã nghe biết người xưa dậy rằng… còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết… ” Một kiểu nói trống để tránh dùng tên Thiên-Chúa, có nghĩa là “Thiên-Chúa đã phán “, “anh em đã nghe biết khi lời Chúa được công bố long trọng trong hội đường”, đối lại, Chúa đưa ra những xác quyết của riêng mình “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”. Theo Jean Potin, “Đức Giêsu tự giới thiệu như là một Môse mới, không chỉ đủ thẩm quyền giải thích luật lệ của Thiên Chúa, mà còn cách tân: luật Chúa đã bảo anh em…nhưng Thầy, Thầy bảo anh em…ngài còn hơn cả luật Môsê mới nữa vì Ngài không chỉ bằng lòng nói về lề luật mới như một nhà làm luật, mà còn cắt nghĩa cho người cụ thể để họ gắn bó ngày càng mật thiết hơn với Thiên-Chúa Cha, là Đấng mà họ phải nên hoàn thiện như Người. ” (Đức Giêsu, lịch sử đích thực, Centurion, tr. 198) Minh họa đầu tiên là “mối tương giao huynh đệ” Thập giới truyền bảo “ngươi không được giết người’? Còn Chúa Giêsu, đi đến cùng chung đòi hỏi cua lề luật, đã tuyên bố rằng, nguyên việc không phạm tội sát nhân thôi: chưa đủ, mà còn phải loại bỏ nỗi oán hận và giận hờn khỏi lòng mình nữa. J.Potin viết “Trong thập giới của Môsê, lên án tội giết người thuộc giới răn thứ năm. Ở đây, nó được nói đến đầu tiên, chắc chắn vì nó bao hàm một cách tiềm ẩn giới răn tràn đầy bài diễn từ trên núi tình yêu tha nhân, thực tế trong tình yêu tha nhân…trở thành giới răn đầu tiên: Đức Giêsu đã thấy mầm mống của giới luật yêu thương này trong điều răn lên án việc giế người. Kính trọng sự sống người khác mở đường cho việc bày tỏ tình yêu ân cần hơn đối với tha nhân. Cả hai đều phải được xem xét trước mặt Thiên-Chúa là Đấng mà Đức Giêsu sẽ là quan án và hiền phụ”. (Sách đã dẫn, tr. 198-l99)
Hai ví dụ ở ngôi thứ hai số ít “anh” tiếp nối mình hoạ thứ nhất “vì thế, khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ…”xung đột là mầm mống sát nhân, và hòa giải là một bổn phận cấp thiết hơn cả việc dâng của lễ cho Thiên-Chúa: “hãy đi làm hòa với người anh em trước đã rồi hãy trở về dâng lễ vật của mình” hãy mau mau dàn xếp với đối phương”: thù oán dây dưa, ngày sau sẽ vô phương cứu chữa trước tòa án Thiên-Chúa.
Minh họa thứ hai nói về mối tương giao nam nữ trong đời sống hôn nhân. Trong Do Thái giáo, thủy chung là nền tảng của đời sống hôn nhân: nó được chứng thực bằng sự thủy chung của Thiên-Chúa đối với giao ước và với dân riêng người. J.Potin cắt nghĩa: “Hôn nhân không chỉ là một khế ước có tính luật pháp. Nó ràng buộc con người tự đáy lòng họ. Vì thế khi người đàn ông đã có vợ thèm muốn vợ người khác là đã phạm vào dây hôn phối. Trái tim đã chệch khỏi Giao ước của nó. ” (Sách đã dẫn, tr. 199).
Minh họa thứ ba nói đến những lời thề hứa mà người ta cho rằng sẽ mạnh hơn khi nại đến những thực tại ít nhiều thánh thiêng: “Chỉ trời, chỉ đất, chỉ Jerusalem… ” Đức Giêsu xác quyết, đừng thề gian không thôi chưa đủ còn phải diệt trừ khỏi lòng ta sự lập lờ, bất chính, đa nghi nữa, không được đi xa hơn lời nói chân thực gian dối: “khi các ngươi nói có” là phải “có ‘! Mức qui định mà Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ là: biến đổi tấm lòng để có thể hiệp thông với những tình cảm của Thiên-Chúa được biểu hiện trong Đức Kitô con Ngài. Như đức cha L.Daloz viết “Đối với các môn đệ, kiện toàn lề luật khác hẳn việc thực thi các mệnh lệnh. Đúng hơn, đây chính là việc để cho các luật kiện toàn chính mình, đưa mình đi tới cùng (“Nước Trời đến gần”, Desclée đe Brouwer, tr. 51)
BÀI ĐỌC THÊM:
1. “Hãy để cho lề luật kiện toàn chính chúng ta” (Đức cha L. Daloz. trong nước Trời đến gần! Desdée de Brouwer, 1994, tr 51).
“Đức Giêsu kiện toàn lề luật bằng cách trả lại cho nó tất cả sự trong sáng của lời Thiên Chúa, khi nhấn mạnh đến điều cốt lõi: “Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải hi tế.” Khi được hỏi về giới răn trọng nhất. Ngài không do dự trả lời rằng toàn bộ lề luật và tiên tri đều qui về giới răn trọng nhất là yêu mến Thiên-Chúa hết lòng, hết linh hỗn, hết trí khôn và yêu thương anh em chính mình.(Xem 22,34-40). Chính Ngài đã kiện toàn giới răn cao cả ấy bằng cách tự hiến đời mình. Phần các môn đệ, kiện toàn lề luật khác hẳn việc tuân thủ các mệnh lệnh. Đúng hơn, chính lề luật kiện toàn ta, đưa ta đi cùng. Có thế mới đáng để ta tuân giữ giới răn nhỏ bé nhất thậm chí cho tới một nét phẩy – không phải vì tỉ mỉ hay cầu toàn, nhưng vì tự hiến hoàn toàn, mở lòng trọn vẹn, để lời của Thiên-Chúa thấm nhập và biến đổi tận đáy lòng ta, và biến ta nên hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng hoàn hảo. Đây không phái là sự nô lệ ma là tình nguyện. Nó không bao giờ kết thúc vì ta luôn bất toàn. Đây là sự rèn luyện trường kì về tính sáng suốt và lòng can đảm. Trước tiên, đây là một hồng ân, một ân huệ của Thiên Chúa, Đấng muốn và thực hiện nơi ta điều đó đây chính là tác phẩm của Chúa Thánh Thần, Đấng đến để sản sinh trong ta những hoa trái của người, như vậy kiện toàn lề luật là ghi khắc nó vào tận đáy lòng ta…”
2. “Sự cấp tiến của bài giảng trên núi”. (J. Guillet, Đức Giêsu trong niềm tin của các môn đệ tiên khởi. Desclée de Brouwer, 1995).
Tính cấp tiến này không hề nệ luật. Điều hay nhất của bài giảng là không có thêm một điều khoản bổ túc, một đòi buộc mới nào. Nhưng là không cho phép bất cứ ai tự tin mình đã đạt đến sự công chính cao siêu cả. Nó bắt mọi môn đệ tự do tưởng tượng, tiến xa hết mức trong việc phục vụ và trong tình yêu tha nhân. Giới luật đặc thù của Tin Mừng luôn có tính tích cực. Tại chỗ mà luật cũ mang tính tương đối và hạn định một giới hạn không thể vượt qua “Ngươi không được giết người, không được phạm tội ngoại tình ” thì Đức Giêsu lại công thức hóa chúng theo đường hướng tích cực: trước hết, hãy đi làm hòa đã, hãy móc mắt phải mà nén đi. Ta phải biết nhận ra nguyên lí nền tảng đàng sau những phóng đại quen thuộc theo kiểu nói Phương đông, anh không được đặt giới hạn cho tình huynh đệ, cho việc tôn trọng phụ nữ.”
3. “Cuộc cách mạng tôn giáo vĩ đại nhất từ trước tới nay” (H. Denis 100 từ nói lên niềm tin: Desclée de Brouwer, 1993).
“Bạn có biết thập giới không? Có lẽ bạn có thể đọc thuộc mười điều răn bằng văn xuôi hay văn vần, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng hơn, đó là biết được điều Đức Giêsu đã làm đối với thập giới. Ta có thể nói với Ngài rằng Lề Luật, không bị hủy bỏ, nhưng được thăng tiến để được kiện toàn. Nói cách khác, ta cũng phai để ý kẻo khi vượt lên lề luật, ta lại khinh thường nó bằng cách bám víu vào đó như Đức Giêsu chưa từng kiện toàn nó vậy. Với cái nhìn này, bài giảng trên núi có lẽ là cuộc cách mạng tôn giáo vĩ đại nhất của mọi thời. Một con người, một vị tiên tri, một sứ giả của Thiên-Chúa dám nói lên những lời chưa từng nghe, anh em đã nghe Luật dạy “người xưa rằng, còn thầy, Thầy bảo cho anh em biết”: Vị Giêsu này vượt trên cả lề luật. Bạn hãy tưởng tượng xem Luật dậy người xưa. Luật ở đây là ai? Thật đơn giản. đó chính là Thiên-Chúa của Cựu ước, Đấng đã ban Lề Luật. Vì thế mà đối với người Do thái, không ai có thể vượt hơn Lề Luật, hơn được Lời Thiên-Chúa đã trao ban một lần cho đến muôn đời được: Vậy mà, có một người đã dám vượt trên Lề luật, bạn hãy lần lượt xét kỹ từng giới răn rồi sẽ thấy, quả thật, khi đã biết Đức Giêsu là ai rồi, người ta sẽ thấy các giới răn thiêng liêng này thật tương đối so với một điều cao cả hơn nhiều là nhận ra Tình yêu được biểu lộ nơi Đức Giêsu, con Chúa Cha. Luật dạy người xưa rằng, còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết. Có lẽ các bạn đã biết đây là một trong ba luận cứ mà thần học đã rút ra từ Tin Mừng, coi như để mạc khải thiên tính của Đức Giêsu (một Đức Giêsu, may thay không bao giờ tự xưng: ta là Thiên Chúa, nhưng anh em bảo Thầy là ai? Các bạn cũng biết hai luận cứ kia là gì rồi. Thứ nhất đó là việc gọi Thiên Chúa là Cha, người Cha (Abba) thân thương thực sự. Sau đó là lời yêu sách quá quắt. Mọi tội con đã được tha ‘chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội mà thôi’.
Bạn thấy lề luật được kiện toàn này đưa ta đến đâu vào những lúc nghi nan, hay những giây phút mỏi mòn vì phải trung thành với Lề luật, bạn hãy nhớ đến sự can đảm của Đức Giêsu: “Luật dạy người xưa rằng, còn Thầy, bảo cho anh em biết.”
45. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
KIỆN TOÀN LỀ LUẬT VÀ ĐỨC CÔNG CHÍNH MỚI
CÂU HỎI GỢI Ý
1. “Làm trọn Lề luật” (5, 17) có nghĩa là gì? Phải hiểu thế nào các “tương phản” (5, 21. 27. 31. 33. 38. 43) sau khi đọc đoạn khai triển về việc làm trọn Lề luật (5, 17- 20)? Chúa Giêsu kiện toàn “điều đã được nói cho người xư’a “ở điểm nào? Đâu là sự “dư dật” của đức công chính được đề ra (c. 20)?
2. Hãy nêu lên trong Tin Mừng những cử chỉ Chúa Giêsu tỏ cho thấy Người không đến bãi bỏ Lề luật: ví dụ đối với Đền Thờ, việc nộp thuế, lễ Vượt Qua, việc chúc lành các bữa ăn, kinh nguyện hằng ngày, chính quyền, việc hành hương Giêrusalem v.v…
3. Theo nghĩa nào Chúa Giêsu đã giải phóng Lề luật khỏi các khoản thêm thắt của Biệt phái đã khiến mục đích chân chính của Lề luật bị đổi hướng?
4. Có thể ly dị vợ trong trường hợp gian dâm không? Khoản luật này có nghĩa gì? Phải chăng đây là một luật trừ?
*******
1. Sau khi kêu gọi môn đồ và dân chúng, trong các câu dẫn nhập vào Diễn từ, bằng cách phác họa cho họ thấy dung mạo con cái Nước Trời, Chúa Giêsu lập tức đề phòng một ngộ nhận: điều Người loan báo có thể xem như bãi bỏ Cựu ước (được gọi dưới cái tên Lề luật – tức bộ Ngũ Thư – và các Ngôn sứ tức là toàn thể các sách linh ứng khác), nhưng kỳ thực là không: Người không đến bãi bỏ, song để làm trọn, kiện toàn. Việc hoàn tất ấy nhắm lới Thánh Kinh xét như là tuyển tập các sấm ngôn mà Chúa Kitô đến thực hiện, và xét như là tuyển tập các luật lệ diễn tả thánh ý Thiên Chúa, mà Chúa Kitô đến kiện toàn.
2. Một trong các bản tuyên tín cổ xưa nhất, có lẽ từ khoảng năm 35- 40, quả quyết như sau: “Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Thánh Kinh. Người đã bị chôn cất, đã sống lại ngày thứ ba, theo lời Thánh kinh” (1Cr 15, 3- 5). Niềm xác tín Chúa Kitô hoàn tất Thánh Kinh như vậy đã ăn sâu vào tâm thức Kitô hữu. Nó cấu thành niềm tin của cộng đoàn nguyên thủy, và là trọng tâm của việc họ hiểu Lời Chúa. Nhờ việc hoàn tất này, Giáo Hội xuất hiện như là đích điểm của chuyển động lịch sử mà Thiên Chúa đã lèo lái, và Chúa Kitô tỏ ra như là trung tâm bảo đảm sự duy nhất của Thánh Kinh. Người là Đấng “đã được nói đến trong Lề luật Môisen và các ngôn sứ ” (Ga 1, 45): Tin lời Thánh Kinh tức là tin và Người: Vì chính về Ta mà Môisen đã viết” (Ga 5, 45). Và suốt cuốn Tin Mừng, Mt đã chú tâm làm nổi bật việc Chúa Kitô hoàn tất Thánh Kinh như vậy.
3. Nhưng nếu Chúa Giêsu đến hoàn tất các sấm ngôn, thì Người cũng đến trình bày một cái nhìn đúng đắn hơn về tinh thần được tiềm ẩn dưới các giới lệnh chính thức của Lề luật. Ngoài ra, công cuộc kiện toàn này còn có đặc điểm là tinh thần Tin Mừng nay thấm nhập vào pháp chế cổ xưa, là cái có mục đích chuẩn bị sự nẩy nở của Tin Mừng. Như nụ hoa kết liễu và biến mất trong đóa hoa, Cựu ước cũng nở ra trong Tân ước. Thay cho văn tự ngột ngạt đè nén, này đây tinh thần đến giải phóng con người.
Các kiểu so sánh Chúa Giêsu dùng – không một chấm một phết của Lề luật sẽ bị biến mất – thoạt nhìn tưởng là có nghĩa duy trì hoàn toàn bộ luật Cựu ước bao lâu còn vũ trụ (“trời và đất”, thành ngữ cổ điển). Nhưng các ví dụ đưa ra đi ngược lại và cho thấy Người không nhằn bảo tồn chất thể tính của các giới lệnh. Người chỉ duy trì chúng bằng cách vượt trên chúng. Không phải bằng cách chồng chất thêm điều khoản, như nhóm Biệt phái và tiến sĩ luật đã làm, song là đưa vào một não trạng có tính cách tôn giáo hơn, khả dĩ làm nổ tung các khuôn khổ cũ (9, 16- 17) mà vẫn không hủy diệt các giới răn. Đây chẳng phải là việc phá hủy, song là đổi mới canh tân. Toàn bộ đóng góp tích cực về tôn giáo của Cựu ước đều được duy trì, gạn lọc khỏi các thể chế lỗi thời và thối nát.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Không một chấm một phết”: Phải giải thích câu này trong cái nhìn toàn bộ Tin Mừng Mt. Nếu Chúa Giêsu muốn đề nghị ở đây một sự tuân hành mặt chữ Lề luật, Người sẽ trực tiếp mâu thuẫn với thái độ của chính mình, vì xem ra Người đã chẳng giữ đúng các khoản luật nhỏ nhặt của Cựu ước, nhất là khoản về thu nhập và tinh sạch theo lễ nghi (15,3; 19,17; 22, 36. 38. 40 v.v…), hơn nữa Người sẽ mâu thuẫn với lời giảng huấn của mình, vì trong các ví dụ sau đó, Người sửa đổi Lề luật trên nhiều điểm quan trọng như khoản luật về ly dị của Đnl 24,1. Do đấy phải xem thành ngữ của Chúa Giêsu là một kiểu nói Do thái, đặc biệt của các giáo sĩ, nhằm làm nổi bật uy quyền tuyệt đối và trường tồn của Lề luật, nhưng là một Lề luật đã được giải thích lại, được gạn lọc khỏi các yếu tố lỗi thời, được kiện toàn nhờ tinh thần tình yêu sinh dộng nó. Thứ Lề luật đã được chú giải lại như thế phù hợp với chủ ý nguyên thủy của Thiên Chúa, là Đấng đã ban nó cho Môisen đầu tiên. Chính trong chiều hướng ấy mà ta có thể xác quyết tính cách bền vững của Lề luật: trời đất sẽ qua đi nhưng thánh ý Thiên Chúa sẽ không qua bao giờ.
“Một trong những điều răn nhỏ hèn nhất”: Một lần nữa, đây không phải là bắt chước việc giữ luật theo mặt chữ của Biệt phái. Khi đã lưu ý đến văn mạch của Diễn từ, chớ quên rằng từ đây Luật chẳng phải là luật Môisen đối nghịch với tinh thần mới, nhưng là Luật Thiên Chúa với sự viên mãn mà Chúa Giêsu đã thực hiện. Nên so với Lề luật diễn tả thánh ý Chúa Cha và được Chúa Giêsu giải thích lại như thế, thì các điều răn phụ tùy cũng có giá trị riêng của chúng. Ở đây nhấn mạnh đến việc thực hành Luật Tin Mừng, có lẽ vì muốn ám chỉ tới nhóm Biệt phái “nói mà không làm” (23, 3). Lối giải thích này được xác nhận bởi cách đặt tiếp liên các động từ (“phạm – dạy… làm- dạy”); đặt việc vi phạm hay thi hành điều luật trước, và việc dạy dỗ ra sau trong cả hai lần.
Câu 20 phát biểu chủ đề của những điều sẽ nói: “Nếu đức công chính của các ngươi không dư dật hơn ký lục và Biệt phái…”. Lời tuyên bố long trọng này sau đấy được minh giải qua 6 ví dụ cụ thể, trong đó Chúa Giêsu đối chiếu lời Người tái giải thích Lề luật với giáo huấn chính thức của Do thái giáo. Tất cả các ví dụ đều được kết cấu theo một kiểu như nhau: trích dẫn một điều luật đoạn đề ra các yêu sách mới (“Ta bảo các ngươi…”). Sáu ví dụ này là: giết người (cc.21- 26), ngoại tình (cc. 27- 30), ly dị cùng tính cách bất khả phân ly của hôn nhân (cc.31- 32), thề thốt (cc.33- 37), báo thù (cc.38- 42) và yêu kẻ thù nghịch (cc.43-47). Trong cả 6, sự công chính mà Chúa Giêsu rao giảng tỏ bày ra một cách sâu xa và hiện thực.
Từ luật cấm giết người (c. 21), Chúa Giêsu đi qua các yêu sách của bác ái: không nhục mạ tha nhân (c.22), song hãy làm hòa với họ. Đối với Mt, tính cách mới mẻ của Kitô giáo phát xuất từ trực giác căn bản Chúa Giêsu đã mặc khải cho môn đồ: đó là sự kiện tất cả chúng ta đều là con cái của Cha trên trời. Và sự kiện chủ yếu này đưa tới một hệ luận quan trọng: mọi người là anh em. Trước đó Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến điểm thứ nhất, đã luôn luôn quy chiếu về Thiên Chúa như là Cha từ đầu đến cuối Diễn từ. Ở đây Người chạm tới điểm 2, khi dùng chữ anh em 4 lần trong các câu 22- 24.
Trong mấy câu 22-24, chở đi tìm các phân biệt theo kiểu giải nghi học xa lạ với não trạng của Chúa Giêsu. Thực ra, Người chỉ muốn sử dụng những phạm trù pháp lý của môi trường mình và kiểu nói của các giáo sĩ, để kết án sự giận hờn như là một hành động giết người, dù nó xuất hiện dưới hình thức nào đi nữa. (Về ý nghĩa các chữ “đồ ngốc”, “đồ khùng”, “tòa án”, “công nghị”, xin xem chú thích của BJ)
“Khi ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ”: Câu này không rõ ràng mấy về chi tiết. Có thể là người sắp dâng hy lễ đã làm phật lòng tha nhân, hay tha nhân đã tức giận người dâng lễ (có duyên cớ hay không, bản văn chẳng xác định gì). Giả thuyết thứ hai có vẻ đúng hơn, vì người dâng lễ đã ở bên bàn thờ khi sực nhớ lại: điều này minh chứng cơn giận không ở trong lòng anh ta nhưng cái đó chẳng quan trọng; điều đáng kể là trong hai trường hợp, thiện ích của sự bình an đòi hỏi ta phải tìm cách giải hòa với nhau, trước khi trình diện trước mặt Thiên Chúa. Đó là sự tế nhị của lòng bác ái Chúa Giêsu mà ta không mấy thích, vì nhiều khi mình là đối tượng của một sự hờn oán bất công. Câu tiếp theo (c. 25) trình bày một dụ ngôn tiềm ẩn nhằm cụ thể hóa lời giảng huấn đi trước: cũng như người ta tìm cách thỏa thuận với chủ nợ để khỏi gặp cảnh khốn khổ hơn, thì cũng vậy phải tìm cách giải hòa gấp với nhau để tránh thoát hình phạt của Thiên Chúa. Ý tưởng sau chỉ được hiểu ngầm thôi, tuy nhiên cung cách long trọng của c. 26 gợi lên điều đó.
Về vấn đề ngoại tình (cc. 27- 30), tính cách triệt để của Lề luật được đặc biệt nhấn mạnh: người Kitô hữu chẳng những sẽ không phá vỡ tổ ấm của anh em mình qua việc lấy vợ anh em, mà còn không được để phát sinh trong lòng mình ý muốn phá vỡ đó. Sự toàn vẹn của tổ ấm gia đình phải vượt lên ngay cả trên sự toàn vẹn thể lý, là cái gì rất quý đối với con người, vì con mắt giúp đi đứng, còn tay chân lại giúp hành động. Đây là kiểu nói đại ngôn cho thấy phải coi trọng đến độ nào yêu sách tuyệt đối của Lề luật. Truyền thống giáo sĩ cũng đi theo chiều hướng ấy.
“Trừ phi là nố dâm bôn”: Câu này (được Mt 19, 9; Mc 10, 11-12; Lc 16,18 bổ túc) không phải là dễ hiểu, vì nó nại đến nhiều ý niệm pháp lý mà ta chẳng còn quán triệt được ý nghĩa đích xác. Dù sao đại ý vẫn rõ ràng: sự bao che của luật Môisen, được bảo đảm nhờ ly thư, trở nên thất liệu trong lời Chúa Giêsu tái giải thích Lề luật. Kết luận tổng quát này dựa trên các lý chứng sau đây:
1. Toàn bộ Diễn từ cho thấy Chúa Giêsu muốn vượt quá Lề luật cho đến bây giờ hãy còn hiệu lực. Thế mà trong trường hợp hôn nhân, dù công nhận sự vô hạnh (gian dâm) như là luật trừ, Người vẫn không đi xa hơn mấy lập trường của Shammai, một giáo sĩ Do thái đương thời.
2. Trong Mt 5-7, cũng như các chỗ khác, ta chẳng hề thấy Mt phát biểu một sự chế hạn nào đó khi ghi lại một huấn thị luân lý của Chúa Giêsu; thực vậy, các bản văn ấy cho thấy Người rõ ràng không muốn sa vào lối phân biệt các nố đặc biệt như các giáo sĩ thường làm, mà chỉ nhắc lại cách đại cương trật tự sáng tạo Thiên Chúa đã thiết lập.
3. Mc và Lc không nói đến điều khoản này. Khó mà nghĩ rằng hai ông đâ bỏ qua một lời tuyên bố thật sự biến đổi nguyên tắc bất khả phân ly của hôn nhân.
4. 1Cr 7, 10-11, lời giải thích xưa nhất về câu nói của Chúa mà Phaolô cũng biết, xác nhận luật cấm tuyệt đối không được ly dị (tuy nhiên câu 11 nói đến trường hợp ly thân mà không tái giá).
Do đó không thể chủ trương rằng trong tâm trí Chúa Giêsu, việc ngoại tình làm thành một luật trừ, như người Tin lành và Chính thống giáo vẫn kết luận từ điều khoản đó (tuy nhiên có nhiều thần học gia Tin lành mới đây đã chấp nhận cách đại cương lời kết luận của chúng tôi). Thế nhưng các nhận xét trên đây không phải là lời chú giải điều khoản của Mt. Muốn tìm hiểu, xin khảo cứu các sách chú giải chuyên môn và các bài đăng trong tạp chí.
“Ta bảo các ngươi đừng thề thốt chi cả”: Lời nghiêm cấm này xem ra tuyệt đối đến nỗi nhiều giáo phụ đã lên án mọi sự thề hứa, cũng như có nhiều giáo phái Tin lành từ chối không tuyên thệ bất cứ điều gì. Để không lại ý kiến họ, ta có thể trưng ra sự kiện thánh Phaolô (Rm 1, 9; 2 Cr 1, 23; 11,31; Ga 11, 20; Pl 1,8) và việc thực hành trong Giáo Hội: Giáo Hội không những cho phép thề trước các tòa án, mà còn buộc phải thề trong một vài trường hợp nữa (vd thề chống Duy tân chủ nghĩa). Điều đó giả thiết lời nghiêm cấm của Chúa Giêsu không có tính cách tuyệt đối. Người muốn nói (thánh Agustinô) trong lời thề tự nó không phải là một điều tốt. Nó phải biến mất khỏi một cộng đoàn xã hội được tổ chức theo tư tưởng của Chúa Giêsu. Chỉ khi gặp trường hợp đáng tiếc và nghiêm trọng mới nên thề. Để quán triệt tư tưởng của Chúa Giêsu, ta phải xét nó trong hoàn cảnh cụ thể của nó. Các thính giả của Chúa Giêsu là những người không phải bận tâm về tính cách chính đáng trên lý thuyết của một lời thề quy định bới quyền bính dân sự hay tôn giáo. Họ sống trong một môi trường mà văn từ của Lề luật, theo lối chú giải của Biệt phái, coi như đi đôi với một sự lạm dụng quá trắng trợn, với một sự biến đổi rõ ràng tâm tình đạo đức. Chúa Giêsu đưa ra một hướng đi quyết liệt, Người trình bày điều duy nhất phù hợp với danh dự của Thiên Chúa và phẩm giá con người, làm quy luật mà các môn đồ Người phải theo trong các hoàn cảnh sống thông thường. Nền tảng của quy luật thực tiễn này là: con người không được dùng lời mình để cam kết cái điều thuộc về Thiên Chúa; đó sẽ là một toan tính bắt Thiên Chúa phục vụ mình, một toan tính rõ ràng là vô ích phù phiếm, vì con người không thể thay đổi ngay cả màu sắc tóc mình, theo nghĩa là không thể làm mình trẻ hơn hay già hơn được.
KẾT LUẬN
Việc Chúa Giêsu tái giải thích Lề luật luôn luôn được thực hiện trong cùng một chiều hướng: khi triệt để hóa Lề luật, vượt trên mọi toan tính phân tích từng nổ nhằm giảm thiểu yêu sách của nó, Người hoàn lại cho nó chiều hướng nguyên thủy là làm cho con người trở nên huynh đệ hơn, tôn trọng nhau hơn, trung thành hơn với các lời cam kết và tình yêu, ngay chính hơn đối với anh chị em mình.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Con người luôn luôn bị cám dỗ rơi vào não trạng nệ luật, là não trạng bao giờ cũng dễ dàng vì gây cho ta môi sự an lòng: ta vững tâm cho rằng mình sống đúng luật đối với Thiên Chúa và tha nhân, một khi làm tròn một quy luật nào đó. Nhưng Chúa Giêsu mời ta vượt qua các tính toán so đo ấy để đi vào bình diện tình yêu. Và mức độ của tình yêu là yêu không mức độ.
2. Chúa Giêsu không chỉ hài lòng với việc chu tất hay kiêng cữ bên ngoài. Người đi tìm con người tận trong căn nguyên hành vi của họ, tận trong tư tưởng, ước muốn, ý hướng của họ: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết sức hết linh hồn ngươi “.
3. Khi ban Thập điều cho Israel, Thiên Chúa đã dẫn Israel bước một bước dài trong quá trình tiến bộ về mặt luân lý: so sánh với luật rừng hay tình trạng man rợ, luật Môisen tượng trưng cho một bước tiến đáng kể cho lương tâm con người. Tuy nhiên Thiên Chúa cũng lưu ý đến sự yếu đuối của dân Israel và đến các phong tục hãy còn thô lậu của thời đại: như một nhà sư phạm khôn ngoan, Ngài đã thích ứng các yêu sách của Ngài với não trạng hãy còn thô lỗ của dân, chấp nhận nhượng bộ việc ly dị, trả thù v.v… Đó là thời kỳ thơ ấu của Israel, thời kỳ tập luyện. Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương tạo vật đến nỗi không muốn duy trì nó trong sự sống tầm thường. Vì thế Ngài đã sai phái Con Một Ngài để Người hoàn tất công trình Ngài và dẫn đưa con người đến tình yêu hoàn hảo. Đây là một sự liên tục đáng khâm phục trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.
46. Nếu anh em không ăn ở công chính hơn …
(Suy niệm của Fx. Đỗ Công Minh – Gx Lộc Hưng)
Có người bảo Giáo Lý của Đức Kitô là không tưởng. Cũng có người phàn nàn: giá như tôi không theo Đạo Chúa, tôi đâu phải kiêng cữ đủ thứ như vậy (!). Vậy Đức Giêsu nói gì?
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Matthêu cho con nhận ra được con đường theo Đức Kitô. Chúa nói với các môn đồ và dân chúng theo Người: “Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisiêu, thì sẽ chẳng được vào nước Trời”. Giới Kinh sư là những người nhiều năm nghiên cứu Kinh Thánh, họ là những nhà chuyên môn am hiểu lề luật trong Đạo Do Thái, một số nhỏ trong họ là Tư Tế. Các Kinh sư là người giải thích luật và áp dụng Luật. Họ có uy tín trong dân.
Tuy vậy họ cũng dễ rơi vào một thứ óc nệ luật hẹp hòi, khiến cho việc giữ Luật trở thành gánh nặng và làm cho người ta quên đi cái cốt yếu của Luật. Còn Pharisiêu, còn gọi là nhóm biệt phái, là những người sống đạo đức truyền thống, nghiêm nhặt. Nhưng trong số đó có những người giả hình, kiêu hãnh thường hay lên án người khác. Họ tự cho mình có thể mua được nước Trời bằng công trạng và lòng đạo đức của họ (Xem Dẫn vào Tân Ước của nhóm CGKPV).
Như vậy, những người Kinh sư và Pharisiêu thời Đức Kitô không phải là những người xấu, nhưng họ mới chỉ dừng lại ở chỗ giữ lề luật và phê phán người khác, nếu vi phạm lề luật. Họ tự nhận là công chính hơn người. Còn Chúa Giêsu, Người đòi hỏi những người theo Chúa còn phải đi xa hơn, “Công chính hơn”. Không dừng lại ở cách sống “có đi có lại, mới tọai lòng nhau” hay đừng làm điều này, chớ làm điều kia như luật dạy.
Thái độ sống vị luật, sống trong nỗi sợ, không phải là con đường Chúa dạy. Con đường của Chúa dạy là sống yêu thương, sống bác ái ngay từ trong trái tim, trong tâm khảm.Đối với Chúa, chớ giết người, đó là giới răn Chúa truyền dạy. Thế nhưng: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Bất cứ ai giận anh em mình , thì đáng bị đưa ra tòa… Vậy nếu khi anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình…”.
Lạy Chúa,
Quả là khó lắm đối với con. Sống không làm hại ai, không lấy của ai, không xích mích với ai đã là một cố gắng, một hy sinh của con lắm rồi, nhưng với Chúa thì chưa đủ. Con đã nhận ra, không làm hại ai, tốt đấy! Nhưng không giúp ai, không nhờ vả ai, không liên đới với ai cũng là có lỗi rồi. Chúa dạy con phải làm muối, nhưng muối của con không có vị mặn, hay muối đóng chai, đóng hộp cất trong tủ thì có ý nghĩa gì. Chúa dạy con là ánh sáng, nhưng đèn của con cháy leo lét, đèn của con chỉ thắp sáng trong phòng, trong nhà để soi sáng cho con thôi, thì nào có ích gì (Mt 15;13-16).
Con vẫn đi lễ ngày Chúa nhật, vẫn sẵn sàng ăn chay, kiêng thịt ngày Hội Thánh dạy: thứ Tư lễ tro, thứ sáu tuần Thánh, nhưng sau đó thì ăn bù cho thỏa thích. Con không ăn cắp, ăn trộm nhưng sống lỗi đức công bằng, chỉ tìm lợi ích cho con mà bất chấp người khác. Con có xứng đáng là người đứng trong nước trời, dù là kẻ nhỏ nhất?
Xin Chúa cho con biết tuân giữ Lời Chúa dạy bằng lòng yêu mến thực. Không vì sợ hãi, không vì áp lực, vì sĩ diện hay vì làm vui lòng người khác. Chớ gì con nhận biết thân phận yếu đuối của bản thân, dễ vấp phạm, dễ xa ngã. Nhưng với lòng yêu mến Chúa và nhờ ơn Chúa giúp, con sẽ đứng dậy và tiếp tục bước theo Chúa, hầu mỗi ngày con sẽ hòan thiện mình hơn, rồi dần trở nên công chính trước mặt Chúa. Amen.
47. Tinh thần mới trong lề luật cũ
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Sau bài giảng trên núi về Tám Mối Phúc Thật, Chúa Nhật tuần trước, Đức Giêsu nói về bản chất và sứ vụ của các môn đệ là muối và ánh sáng cho trần gian. Hôm nay, Ngài đi thêm một bước nữa khi dạy cho các ông về thái độ cần có đối với Lề Luật. Mặt khác, Đức Giêsu cũng làm toát lên vai trò Thiên Sai của mình khi đến để kiện toàn Lề Luật cũ và làm cho nó hoàn thiện hơn.
1. Tại sao phải kiện toàn Luật cũ?
Phải kiện toàn Luật cũ, bởi vì Luật cũ đã làm cho người ta cảm thấy nặng nề, sợ hãi và thất vọng. Vai trò của Luật trong Cựu Ước không còn giúp cho con người được hạnh phúc, trái lại, nó làm cho người phải thi hành luật thêm đau khổ và thất vọng.
Đức Giêsu đến, Ngài đã mang lại cho Luật cũ một giá trị mới, nhằm kiện toàn cho tốt hơn. Vì thế, Ngài minh định: “Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn” (Mt 5,17). Thật thế, Đức Giêsu không hủy bỏ Lề Luật, nhưng Ngài giúp cho nó hoàn thiện hơn.
Tại sao Luật cũ cũng là Luật của Thiên Chúa truyền qua Maisen và các tiên tri mà lại phải hoàn thiện! Điều đó thật dễ hiểu, vì Luật cũ chỉ nắm vai trò dẫn đường, chuẩn bị, khai mở mà thôi, mặt khác, nó đã bị những người nắm giữ vai trò giải thích Luật lạm dụng và làm cho nó trở nên nặng nề như cái gông cái ách quá nặng để đè lên vai con người, mặc dù những người đó không đủ sức mang vác.
Vì thế, khi Đức Giêsu đến, Ngài cần phải kiện toàn và bổ xung cho hoàn chỉnh; đồng thời cũng giúp cho các môn đệ hiểu và sống cho đúng tinh thần của Luật chứ không chỉ hiểu theo nghĩa đen, nghĩa thuần túy của chữ.
Đức Giêsu đã đưa các môn đệ đi vào chiều kích mới của Luật, để con người đạt được sự viên mãn và cùng đích của Luật là tình yêu.
Như vậy, Luật tình yêu được Đức Giêsu đề cập đến cụ thể trong bài Tin Mừng hôm nay là gì?
2. Tinh thần mới trong Lề Luật cũ
Trước tiên, hiểu về vấn đề giết người:
Nếu trong Cựu Ước, giới răn thứ 5 dạy chớ giết người (x. Xh 20,13; Đnl 5,17), nhưng không có tính cách triệt để, và án tử hình được chấp nhận khi con người phạm vào một số tội trọng (x. Ds 35,16-21). Cũng vậy, trong luật chiến tranh, Maisen chấp nhận được chém giết đối phương (x. Đnl 20,13.16).
Còn Đức Giêsu, Ngài đi xa hơn nữa để dạy cho các ông hiểu rằng: khi xúc phạm tới anh em mình như chửi rủa, giận giữ hay la rày, mạt sát là đã phạm tội rồi. Bởi vì: Luật cũ dạy: “Chớ giết người”, còn Đức Giêsu dạy: “Ai giận anh em mình” thì như đã phạm tội giết người. Vì thù oán anh em là đã tiêu diệt họ ngay trong lòng mình, tuy chưa giết họ thực sự, nhưng đã giết chết họ trong trái tim. Thánh Gioan Tông đồ cũng viết: “ Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1Ga 3,15).
Thứ đến, hiểu về lời thề và làm chứng:
Trong Cựu Ước, điều răn thứ 2 dạy chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ (x. Lv 19,12) và thứ 8 dạy chớ làm chứng dối (x. Xh 20,16). Luật cũ cho phép thề, nhưng “chớ bội thề”. Còn Đức Giêsu bảo: “Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hóa trắng hay đen được. Nhưng hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5, 34-37; x. 2Cr 1,17; Gc 5,12).
Tiếp theo, hiểu về tội ngoại tình:
Luật Maisen dạy rằng: ngoại tình là một điều sai quấy và không được phép (x. Xh 20,14; Xh 20,17b; Đnl 5,18). Còn Đức Giêsu thì nhấn mạnh đến cái tâm con người, tức là tự đáy tâm hồn: không ai biết, nhưng Thiên Chúa biết mọi sự từ thâm cung bí hiểm của con người. Vì thế, Ngài nói: “Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5, 28). Đức Giêsu coi suy tưởng để dẫn đến ngoại tình nó như là một mầm mống, để rồi từ đó sẽ mọc lên cây non và hình thành nên một lối sống. Vậy muốn diệt thì phải diệt tận gốc chứ không chỉ có cái ngọn.
Như vậy, trong vai trò Thiên Sai, Đức Giêsu đến để kiện toàn và làm cho nó tốt hơn, hoàn hảo hơn, nhân bản và đạo đức hơn nhờ vào cái gốc là bác ái và yêu thương.
Lời dạy của Đức Giêsu không đi ngược những gì Maisen đã dạy, nhưng Ngài muốn dẫn đưa con người đến mức độ trưởng thành nhằm hướng tới niềm vui trọn vẹn từ trong tâm, toát ra nơi lối sống qua mọi mối tương quan.
Thật vậy, cũng như trong tiến trình phát triển của con người, khi đã đến tuổi trưởng thành, người ta không bị mất đi cái cũ, hay cái cũ bị biến mất trong cái mới, mà là những cái đã có và đã xuất hiện trước đó như là cái móng, nền tảng cần phải có để làm cho cái mới được hoàn thiện hơn.
Sau khi chứng minh cho việc trung thành giữ Luật của mình để các môn đệ hiểu, Đức Giêsu chính thức đi xa hơn để dạy cho các ông bài học về tinh thần mới trong Luật cũ, đồng thời mời gọi các ông đi trên con đường ấy để được hoàn thiện, Ngài nói: “Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20).
3. Sứ điệp Lời Chúa
Sự “công chính” theo nghĩa Kinh Thánh là: “sống theo đúng điều mà Thiên Chúa muốn chúng ta trở thành”, hay nói cách khác: “trung thành giữ Luật Thiên Chúa cách chu đáo”. Nhưng trong bối cảnh mà lời giảng của Đức Giêsu đang nói về tinh thần mới trong Luật cũ, thì sự trung thành giữ Luật ở đây phải hiểu theo nghĩa rộng. Vì thế, từ nay sự “công chính mới” không phải là chuyện giữ Luật đủ hay chưa, mà là sống đạo tốt hay không! Sự “công chính mới” vượt lên trên Luật và những tục lệ, truyền thống vì nó đã được mặc vào đó một tình yêu.
Chúng ta sống tinh thần của Đức Giêsu là không còn chuyện dựa trên việc giữ Luật để đánh giá đúng sai, nhưng dựa vào lòng mến của chúng ta để chất vấn lương tâm về các hành vi của mình.
Bởi vì: tất cả mọi Luật lệ được thâu tóm trong hai điều: mến Chúa và yêu người. Nhưng thực ra chỉ có một Luật mà thôi, đó là Luật của tình yêu. Thật thế, nơi nào có tình yêu nơi ấy không cần luật.
Trong cuộc sống, nơi gia đình hay bất kể một cộng đoàn lớn nhỏ nào, nếu chỉ có luật và người ta dùng luật để làm thước đo giá trị tâm linh, thì cộng đoàn ấy, gia đình đang tụt hậu và đi xa đường lối của Thiên Chúa. Họ đánh mất đi tình yêu và mất luôn bản chất của Đạo.
Nếu chỉ vì luật, người ta sẽ xử với nhau như beo cọp, gọi nhau bằng mệnh lệnh, và người thi hành sẽ vì sợ mà phải thi hành. Một gia đình hay một cộng đoàn như vậy thì đâu khác gì một địa ngục ở trần gian? Bởi vì trong địa ngục thì không có tình yêu.
Suy niệm đến đây, tôi nhớ lại, một linh mục đáng kính nọ có tâm sự rằng: “rất nhiều người siêng dâng lễ, đọc kinh, tuần nào tiết ấy, nhưng thực chất họ làm những chuyện đó chỉ để cho người khác khen mình là người đạo đức, là tốt lành, hoặc coi những công việc đó như là chiếc bình phong để che đậy những điểm xấu xa bởi những thủ đoạn ám muội của mình gây ra, hoặc dựa trên những việc đạo đức giả tạo đó để rồi lên mặt dạy ông nọ, chửi bà kia và vênh vang với đời”.
Những người như vậy, họ giống như cái “xác vô hồn”, hay “thùng rỗng kêu to” hoặc như một “đàn gà công nghiệp”, chỉ biết làm theo lệnh hay bản năng mà thôi. Những hạng người đó, đã nhiều lần Đức Giêsu khiển trách: “Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” (Mt 23, 27-28); và Ngài cũng cảnh báo: “ Anh em phải coi chừng những ông Kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mc 12, 38-40). Họ là những người mở miệng ra khuyên người ta thì họ khuyên trên trời dưới đất, không hề ăn nhập gì với cuộc sống của họ, hay họ nói một đàng và làm một nẻo. Cổ nhân thường nói: “Khẩu Phật tâm xà”; hay “bên ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Thật vậy, trong cuộc sống và trong các mối tương quan, nếu không có tình yêu, thì mọi chuyện vận hành như cái “máy công nghiệp” không hơn không kém. Một gia đình không có tình yêu, con cái sẽ vâng lời cha mẹ vì sợ hãi hơn là kính trọng. Trong một cộng đoàn, họ xét xử nhau như một “cỗ máy vô tri”, lấy luật để trừng trị.
Hôm nay, Đức Giêsu đem lại cho Lề Luật một linh hồn mới. Linh hồn đó được nảy sinh và phát triển nhờ tình yêu. Ngài cũng mời gọi mỗi người chúng ta đi trên con đường tình yêu đó để được hạnh phúc thật.
Mong thay, mỗi chúng ta luôn nhớ rằng: việc giữ Luật không chỉ có biểu hiện bề ngoài, mà còn từ bên trong tinh thần. Cái bên ngoài chỉ có giá trị khi nó được thúc đẩy từ ý hướng ngay lành ở bên trong.
Cũng thế, muốn bình an, thanh thản và an vui thực sự, con người cần phải thanh tẩy tận căn từ bên trong tâm của mình. Bởi vì: “Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (Nguyễn Du).
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa cho chúng con biết sống thật với lòng mình, để đáng được gọi là con Chúa và là anh chị em của nhau. Luôn có cái nhìn bao dung với người đồng loại, và mưu cầu hạnh phúc cho những người chúng con gặp gỡ. Amen.
48. Phải giữ luật với lòng yêu mến – Lm Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Tin Mừng hôm nay tiếp tục ghi lại các lời dạy của Đức Giêsu vào nhiều lúc khác nhau trong thời gian giảng đạo soay quanh đề tài về Tám Mối Phúc Thật gọi là Bài Giảng Trên Núi. Đưc Giêsu đến không nhằm hủy bỏ Luật Mô-sê, nhưng Người muốn kiện tòan Lề Luật, bằng việc Người đòi những ai muốn vào trong Nước Trời phải tôn trọng Lề Luật và tuân giữ Luật với lòng mến Chúa yêu người, thay vì chỉ giữ Luật chi li theo từng câu chữ và quá chú trọng các việc làm hình thức bên ngoài như các kinh sư và người pha-ri-sêu thường làm.
CHÚ THÍCH:
– C 17-19: + Luật Mô-sê: Gồm 5 cuốn đầu của bộ Kinh Thánh Cựu Ước gọi là Ngũ Kinh như các sách Sáng Thế, Xuất hành, Lê-vi, Dân số ký và Đệ Nhị Luật. + Lời các ngôn sứ: Là các sách ghi những lời tuyên sấm của các ngôn sứ. Kiểu nói Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ ám chỉ tòan bộ Kinh Thánh Cựu Ước. + Thầy đến không phải là để bãi bỏ…: Đức Giêsu dạy một số điều xem ra vượt qua các khoản Luật Mô-sê và lời giáo huấn của các ngôn sứ. Chẳng hạn các lời dạy: “Rượu mới phải đổ vào bầu da mới” (x Lc 5,37-39); “Con Người làm chủ cả ngày Sa-bát nữa” (x Mt 12,8); “Con Người có quyền tha tội” (x Mt 9,6); “Người rao giảng Tin Mừng Nước Trời như Đấng có thẩm quyền” (x Mt 7,29) và các câu song đối nhau như: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết” …, khiến nhiều người đã tưởng lầm rằng Đức Giêsu muốn hủy bỏ Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ. Trong Tin Mừng hôm nay, Người khẳng định: Người không hủy bỏ Lề Luật nhưng để kiện tòan. Người kiện toàn Luật Mô-sê bằng việc trình bày Lề Luật như là cách thức biểu lộ thánh ý của Thiên Chúa mà người ta phải giữ với tinh thần “con thảo tôi trung” đối với Thiên Chúa. + nhưng là để kiện toàn: Người kiện tòan Luật Mô-sê bằng việc thực hiện các lời ngôn sứ tiên báo về Đấng Thiên Sai (x Mt 2,23). Người cũng thay đổi những điều trong Luật Mô-sê không còn phù hợp thánh ý Thiên Chúa. Chẳng hạn Người rút lại điều Luật Mô-sê cho phép ly hôn (x Mc 10,5-12), Người cố tình chữa bệnh trong ngày Sa-bát như để bổ túc điều khoản cấm làm việc xác trong ngày hưu lễ của Luật Mô-sê (x Mc 2,27-28); Người cố tình không rửa tay trước khi dùng bữa để dạy người ta phải rửa sạch tội lỗi trong lòng trí hơn là chỉ lo rửa tay, rửa chén bát hoặc tắm rửa (x Mt 15,1-9.10-20)… + Một chấm một phết trong Lề Luật: Một chấm một phết là các chữ cái và dấu nhỏ nhất trong bộ chữ cái Hy Lạp. Câu này ám chỉ rằng: sau khi bộ Luật Mô-sê đã được Đức Giêsu loại bỏ những điều không còn phù hợp với Luật tình thương tha nhân, thì dù chỉ là một điều nhỏ nhất cũng phải được tôn trọng (x Mt 9,17). + Ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời: Câu này kêu gọi các tín hữu môn đệ Đức Giêsu phải tôn trọng Luật Mô-sê theo từng chi tiết sau khi đã được Đức Giêsu tu sửa. + Ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời: Nhỏ nhất hay lớn ở đây không phải là về cấp bậc cao thấp, mà về lối sống được chấp nhận hay không trong Nước Trời của Người.
– C 20-26: + Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các Kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời: Sự công chính theo các Kinh sư và người Pha-ri-sêu là do giữ Luật từng chi tiết, nặng phần hình thức bề ngòai mà thiếu lòng mến Chúa bên trong. Còn sự công chính Đức Giêsu đòi hỏi là môn đệ của Người phải giữ Luật với lòng yêu mến Chúa yêu người. + Anh em đã nghe Luật dạy người xưa… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Đây là sáu điều do Đức Giêsu sửa đổi để kiện tòan Luật Mô-sê. + Chớ giết người… Ai giận anh em mình…. Ai mắng anh em mình… Còn ai chửi anh em mình…: Luật Mô-sê cấm giết người thực sự, còn Đức Giêsu kiện tòan Luật bằng việc cấm ngay cả những xúc phạm phẩm giá của tha nhân. Hành vi gây ra sự đau khổ cho tha nhân về tinh thần cũng có tội giống như tội giết người thực sự. + đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng… đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt: Tuy lời mắng chửi anh em là “ngốc, khùng” không đáng bị phạt nặng, nhưng chính sự giận ghét, căm thù anh em cũng đáng bị trừng phạt nặng. + Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ: Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa nhất là một cuộc sống mến Chúa yêu người. Do đó, trước khi dâng lễ vật trên bàn thờ, phải lo hòa giải với những ai đang có điều bất hòa với mình. Việc làm hòa là điều kiện để lễ vật chúng ta dâng lên xứng đáng được Thiên Chúa vui nhận. + Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công…: Cần làm hòa ngay khi còn sống. Đừng đợi đến lúc chết vẫn giận ghét anh em thì sẽ vừa bị kết án, vừa bị đền bù cân xứng là phải “trả hết đồng xu cuối cùng”.
– C 27-32: + Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình…Còn Thầy, Thầy bảo anh em biết:…: Luật Mô-sê cấm ngọai tình (x Xh 20,14; Ds 5,18). Tuy nhiên chỉ khi ngọai tình thực sự bằng thân xác mới có tội. Đức Giêsu kiện tòan điều này bằng lời dạy: Thèm muốn tà dâm trong tâm trí cũng đã thành tội giống như phạm tội thực sự. Do đó, người ta phải tránh mọi tư tưởng xấu và xa lánh dịp tội là những nguyên nhân dẫn đến hành động tội ác. + Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi… Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã…: Kiểu nói cường điệu “móc mắt, chặt tay” ở đây nhằm nhấn mạnh phải tránh mọi dịp tội, thà chết chẳng thà phạm tội, thà hy sinh một phần thân thể mà được cứu rỗi còn hơn có đầy đủ các phần thân thể mà phải sa vào hỏa ngục. + Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Luật Mô-sê cho phép chồng ly dị vợ bằng cách trao cho vợ tờ giấy ly thư (x Đnl 24,1). Nhưng Đức Giêsu kiện toàn bằng việc rút lại điều này. Theo Người, sở dĩ Mô-sê tạm thời cho phép ly hôn là do lòng dạ chai đá của nhbững người đương thời (x Mt 19,8-9). Đức Giêsu kiện tòan về sự ly hôn qua lời dạy: “Ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình và ai cưới người đàn bà bị bỏ kia, cũng phạm tội ngoại tình”. + Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp: Câu này không có trong Tin mừng Mác-cô (Mc 10,11-12) và Lu-ca (Lc 16,18). Hội Thánh không chấp nhận ly hôn để bảo vệ đặc tính vĩnh hôn như Lời Chúa dạy: “Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, lòai người không được phân ly” (Mt 19,6b). Người Tin lành và Chính Thống giải thích rằng: Chúa cho phép ly hôn nếu một bên ngọai tình. Còn các nhà chú giải Kinh Thánh Công Giáo giải thích trong trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, nghĩa là đã kết hôn nhưng không phù hợp với luật của Chúa, nên sự kết hôn ấy không thành sự và không được Hội Thánh thừa nhận. Do đó hai người này không được tiếp tục chung sống như vợ chồng. Còn nếu Đức Giêsu cho phép vợ chồng ly dị vì lý do ngọai tình thì giáo lý của Người cũng không trổi vượt hơn luật Mô-sê. Thánh Phao-lô cũng cấm vợ chồng ly hôn vì lý do ngoại tinh mà chỉ cho họ “ly thân”, nghĩa là tuy không còn sống chung với nhau nhưng ai trong hai người được kết hôn với người thứ ba (x 1 Cr 7,10-11).
– C 33-37: + Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả: Luật Mô-sê cho phép người ta thề với điều kiện họ phải giữ trọn lời đã thề hứa. Nhưng Đức Giêsu kiện tòan khỏan luật này bằng lời dạy không được thề. Tuy nhiên Người chỉ khuyên chứ không cấm tuyệt đối thề như chính thánh Phao-lô nhiều lần cũng đã thề. Chẳng hạn: ” Phần tôi, có Thiên Chúa chứng giám, tôi xin lấy mạng sống mà thề rằng: …”(2 Cr 1,23; Rm 1,9; Gl 1,20…). Hơn nữa, Đức Giêsu có lần mặc nhiên chấp nhận lời thề của vị Thượng tế xét hỏi Người: “Tôi nại đến Thiên Chúa hằng sống, mà truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: Ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” Đức Giêsu trả lời: “Chính ngài nói đó…” (Mt 26,63-64). Ngoài ra trong một số trường hợp đặc biệt, Giáo Lý Công Giáo cũng đòi hỏi các tín hữu phải thề trong những vấn đề nghiêm trọng mà không rõ thực hư, với điều kiện người ta phải tôn trọng lời thề và giữ những lời đã hứa với Chúa (Sách GLCG Tân Định số 309 về điều răn thứ II).
CÂU HỎI: 1) Hãy cho biết Đức Giêsu đã kiện tòan Luật Mô-sê về những vấn đề gì? 2) Phải chăng Đức Giêsu cho đôi vợ chồng được phép ly hôn nếu một trong hai người phạm tội ngọai tình?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17).
2. CÂU CHUYỆN: CHIẾC NHẪN LƯƠNG TÂM
Sách Truyện cổ Đông phương có câu chuyện như sau: Ngày xưa có một vị đạo sĩ dâng cho vị Đại vương một chiếc nhẫn thần rất kỳ diệu và quý giá. Nó vô giá vì được làm bằng vàng mười và trên mặt nhẫn có gắn nhiều viên kim cương chiếu sáng lấp lánh. Chiếc nhẫn này còn kỳ diệu ở chỗ: Nếu người đeo nó làm điều tốt thì chiếc nhẫn đeo trên ngón trở nên vừa vặn và phát ra ánh sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì chiếc nhẫn sẽ xiết chặt làm cho ngón tay đeo nó bị sưng lên đau đớn. Từ ngày đeo chiếc nhẫn thần này, vị Đại vương do luôn được chiếc nhẫn nhắc nhở nên đã trở thành một vị vua anh minh và nhân hậu, khiến thần dân kính phục yêu mến, và đất nước ngày một cường thịnh.
Mỗi người trong chúng ta cũng có một chiếc nhẫn thần rất kỳ diệu và quý giá hơn nhẫn vàng nhiều, đó là tiêng Chúa nói gọi là tiếng lương tâm. Khi chúng ta làm điều thiện thì lương tâm chúng ta sẽ được thanh thản an bình. Nhưng nếu ta làm điều thất nhân ác đức thì dù không ai hay biết, tiếng lương tâm vẫn cật vấn và cáo trách chúng ta. Lương tâm chính là tiếng Chúa noi trong tâm hồn để khuyên dạy ta làm lành lánh dữ.
3. SUY NIỆM:
1) ĐỨC GIÊSU KHÔNG BÃI BỎ LUẬT MÔ-SÊ:
-Trong thời gian ấu thơ tại Na-da-rét, cha mẹ trẻ Giêsu là ông Giu-se và bà Ma-ri-a đã giữ mọi điều Luật Chúa truyền: Khi Hài Nhi mới sinh được đủ 8 ngày, cha mẹ Người đã cho Người chịu phép cắt bì theo Luật Mô-sê (x Lc 2,21; Lv 2,3). Rồi bốn mươi ngày sau, cha mẹ Người lại đem Hài Nhi Giêsu lên Đền thờ Giê-ru-sa-lem để tiến dâng cho Chúa và chuộc lại bằng một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non như đã chép trong Lụật Chúa (x Lc 2,22-24; Lv 12,2-4). Năm 12 tuổi, trẻ Giêsu theo cha mẹ đi hành hương về Giê-ru-sa-lem để mừng đại lễ Vượt Qua theo Luật truyền (x. Xh 23,14.17; x. Lc 2,41-42).
– Rồi trong thời gian giảng đạo, Đức Giêsu cũng luôn tuân giữ Luật Mô-sê: Người đề cao Lề Luật như con đường dẫn đến với Chúa Cha: “Nếu anh muốn vào cõi sống thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19, 17). Người lược tóm các điều khoản của Luật Mô-sê trong hai điều quan trọng này là “mến Chúa hết lòng” và “yêu người thân cận như yêu chính mình” (x Lc 10,25-28). Hằng năm vào dịp lễ Vượt Qua, Người đều hành hương về Giê-ru-sa-lem với các môn đệ vào lễ Vượt Qua. Đặc biệt Người đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong khung cảnh bữa tiệc chiên Vượt Qua ăn với bánh không men vào chiều ngày áp lễ theo Luật Mô-sê truyền dạy (x Lc 22,7-8).
2) ĐỨC GIÊSU KIỆN TOÀN LUẬT MÔ-SÊ:
Người kiện toàn Luật Mô-sê về sáu vấn đề sau: về đức công chính, sự giận ghét tha nhân, tội ngoại tình, về sự ly hôn, về việc thề thốt, và về tình yêu thương tha nhân (x. Mt 5,20-47). Người dùng kiểu nói “song đối” để so sánh các điều khoản trong Luật Mô-sê với điều Người kiện toàn: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng…. Còn Thầy bảo cho anh em biết…” (Mt 5,21-22). Ngoài ra, Đức Giêsu còn kiện toàn về thái độ giữ Luật, về sự ô uế theo Luật pháp, về sự thờ phượng Thiên Chúa, ve việc giữ Luật Mô-sê với lòng bác ái.
+ Kiện toàn thái độ giữ Luật: Phải tránh thói giả hình khi làm các việc lành như bố thí, cầu nguyện và ăn chay… để mong tìm tiếng khen của tha nhân như các kinh sư và người Pha-ri-sêu thường làm (x. Mt 6,1-2.5.16). Đức Giêsu dạy môn đệ đừng bắt chước thái độ giả hình của các đầu mục Do thái như sau: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm” (Mt 23,2-3). Người còn đòi môn đệ phải có đức công chính hơn các đầu mục Do Thái (x. Mt 5,20).
+ Người kiện toàn về sự ô uế theo Luật Mô-se khi cho biết người ta bị ô uế không do việc ăn đồ ăn vật chất, mà do suy nghĩ điều sai quấy trong lòng và nói ra ngoài miệng những điều xấu xa (x Mt 15,10-11).
+ Người kiện toàn về sự thờ phượng Thiên Chúa: Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, nên thờ Chúa không nhất thiết phải thờ trên núi Ga-ri-dim hay tại Đền thờ Giê-ru-sa-lem như Luật dạy. ”Những người thờ phượng đích thật từ nay sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4,23).
+ Người kiện toàn bằng việc gắn liền đức ái khi giữ các điều khoản Luật Mô-sê: Đức Giêsu đã cho biết: Luật được lập ra vì ích lợi cho con người, chứ không phải con người phải hy sinh cho Lề Luật bằng ngôn từ (x. Mt 12,6-8). Do đó, khi có sự đối nghịch giữa việc giữ Luật với luật bác ái, thì người ta phải vượt qua Lề Luật ngôn từ để làm theo Luật bác ái như Đức Giêsu đã làm: Chữa bệnh trong ngày hưu lễ bị Luật ngăn cấm. Cụ thể Người đã rả lời ông trưởng hội đường về lý do chữa bệnh trong ngày Sa-bát như sau: “Bà này là con cháu ông Áp-ra-ham, bị Xa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày Sa-bát sao?” (Lc 13,16) v.v…
3) PHẢI TUÂN GIỮ LỀ LUẬT VỚI LÒNG YÊU MẾN:
– Ngày nay “Người ta được nên công chính không do tuân giữ Luật Mô-sê, nhưng do các việc làm mến Chúa yêu người” (x. Mt 5,48). Đó là tin vào Đức Giêsu và thực thi đức ái giống như Người, sẵn sàng yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta.
– Thánh Gio-an dạy: “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu… Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,8.16). Trong cuộc sống, chúng ta cần thực hành điều quan trọng nhất là Đức Ái như thánh Au-gus-ti-nô dạy: “Cứ yêu đi, rồi muốn làm gì thì làm” (Ama et fac quod vis). Vì “Ai yêu người thì đã chu tòan Lề Luật’ (Rm 13,8). Đức Giêsu đã dạy các môn đề phải chứng tỏ thực sự thuộc về Đức Giêsu do thực hành giới ran yêu thương: “Ở điểm này mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
– Có lẽ ngày nay nhiều tín hữu chúng ta cũng thường hãnh diện về các việc làm của mình như: “Giữ ngày Chúa Nhật”, đóng góp công sức tiền bạc cho việc chung, tham gia các sinh hoạt tông đồ giáo dân… Tuy nhiên việc đi lễ, sinh hoạt hội đoàn và đóng góp với Hội Thánh là do động lực nào? Rất có thể chúng ta cũng bị mắc thứ “bệnh kiêu ngạo” của người kinh sư và pha-ri-sêu khi làm mọi việc do động cơ tim tiềng khen hơn là do lòng mến Chúa thôi thúc.
– Về việc tham dự thánh lê Chúa Nhật: thay vì phải đi “xem lễ” để tránh mắc tội, chúng ta cần ý thức việc dự lễ Chúa Nhật là một công việc bôn phận phải làm để hiệp thông với Chúa và hiệp nhất với nhau. Do đó chúng ta cần đi dự lễ sớm hơn và tham dự trong nhà thờ để được nghe giảng Tin Mừng và và được hiệp thông với Chúa cách sốt sắng hơn.
– Nhiều tín hữu ăn chay cầu nguyện và làm phúc bố thí không phải để tỏ lòng sám hối xin ơn tha tội, để tập làm chủ bản thân và để dành tiền giúp đỡ người nghèo đói chung quanh, thì họ đã ăn chay cầu nguyện để ra vẻ đạo đức trước mặt người đời.
Một số người tuy tích cực rộng rãi đóng góp tiền bạc cho việc xây dựng thánh đường, Nhà Sinh Hoạt Mục Vụ… nhưng khi giáo xứ chưa kịp bày tỏ lòng biết ơn thì họ tỏ ra bức xúc nói hành chỉ trích những người có trách nhiệm.
4. THẢO LUẬN:
1) Có hai lọai thước đo lòng đạo đức của một người: Thước đo của người Biệt phái dựa vào việc họ có giữ Lề Luật Mô-sê trong từng chi tiết hay không? Còn thước đo của Đức Giêsu dựa vào việc họ có thực thi lòng mến Chúa yêu người hay không? Vậy với tư cách là môn đệ Chúa, bạn cần chọn lọai thước đo nào? 2) Đức Giêsu coi việc làm hòa với tha nhân trọng hơn dâng của lễ vật hy sinh cho Thiên Chúa. Vậy khi đến dự lễ mà còn có điều chi bất bình với ai đó, bạn cần phải làm gì để xứng đáng tham dự thánh lễ và rước lễ sốt sắng theo đòi hỏi làm hòa của Đức Giêsu?
5. NGUYỆN CẦU:
– Lạy Thiên Chúa Là Tình Yêu. Xin cho chúng con gia tăng lòng tin yêu Cha và nhìn thấy Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi nơi những người nghèo khổ bệnh tật và bất hạnh đang ở ben cạnh chúng con. Xin Cha cũng giúp chúng con thực hành lời Chúa Giêsu hôm nay là phải chịu đựng lẫn nhau và hãy tha thứ cho nhau nếu có chuyện phải oán trach lân nhau. Xin cho chúng con biết sẵn sàng làm hòa với những người đang bất thuận với chúng con, để chúng con trở nên con hiếu thảo luôn làm đẹp lòng Cha như Chúa Giêsu và xứng đáng là môn đệ thực sự của Người trước mặt người đời.
– Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con biết sống tinh thần Tám Mối Phúc Thật trong Tin Mừng hôm nay bằng việc thực thi Đức Ái cụ thể như Chúa đã dạy. Xin cho chúng con sẵn sàng tuân giữ 10 Điều Răn Đức Chúa Trời và 6 Điều Luật Hội Thánh với lòng yêu mến. Nhờ đó việc giữ Luật của chúng con sẽ làm vinh danh cho Thiên Chúa và giúp nhiều người gia nhập vào đại gia đình của Chúa là Hội Thánh.
– X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
49. Như hoa sen trong đầm lầy – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Vua Cản công có cô con gái yêu, muốn gả cho Án Tử. Một hôm vua đến ăn tiệc nhà Án Tử, thấy vợ của ông, Vua liền hỏi: – Phu nhân đấy phải không?
Án Tử thưa: – Vâng, phải đấy!
Vua nói: – Ôi! người trông sao vừa già, vừa xấu! Quả nhân có đứa con gái trẻ và đẹp, muốn cho về hầu, khanh nghĩ sao?
Án Tử đứng dậy, thưa rằng: – Phu nhân tôi vừa già, vừa xấu nhưng lấy tôi và cùng tôi ăn ở đã lâu, từ lúc còn trẻ đẹp. Xưa nay đàn bà lấy chồng lúc trẻ cốt để nhờ cậy lúc già; lúc đẹp cốt để nhờ cậy lúc xấu. Phu nhân tôi thường nhờ cậy tôi và tôi cũng đã nhận sự nhờ cậy ấy. Nay nhà vua tuy muốn ban ơn, chắc cũng không nỡ để cho tôi ăn ở bội bạc với những điều phu nhân tôi đã cậy bấy lâu nay!
Nói đoạn, Án Tử lạy hai lạy, xin chối từ không nhận người con gái xinh đẹp của Vua.
***
Con người biết giữ lòng thủy chung như Án Tử thật đáng quý biết bao. Còn đáng khâm phục hơn nữa, khi chính ông quyết chối từ một sự mời mọc quá hấp dẫn. Ông đã dứt khoát tiêu diệt cơn cám dỗ ngay từ trong trứng nước. Cao quý thay tình nghĩa phu thê mặn nồng!
Trong bài tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã kiện toàn luật trong sạch của đời sống hôn nhân: “Anh em đã nghe luật dạy rằng: chớ ngoại tìn. Còn thầy, thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,27). Có những con mắt không nhìn thấy vẻ đẹp nơi người yêu của mình, mà chỉ thấy nét đẹp nơi người yêu của kẻ khác. Đôi mắt là cánh cửa tâm hồn. Và tội lỗi cũng đi vào từ đó. Cho nên, luật cũ dạy “chớ ngoại tình”, còn Đức Giêsu, cấm ngay từ sự thèm muốn vừa nhen nhúm trong lòng. Vì “ý tưởng dẫn tới hành động”, nên tự bản chất cưu mang ý tưởng xấu là đã phạm tội rồi.
Luật cũ dạy: “Chớ giết người”, còn Đức Giêsu dạy: “Ai giận anh em mình” thì coi như đã phạm tội giết người. vì thù oán anh em là đã tiêu diệt họ ngay trong lòng mình. Tuy chưa giết họ thật sự, nhưng đã giết chết họ trong trái tim mình rồi. Thánh Gioan viết: “Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân” (1 Ga 3,15).
Luật cũ cho phép thề, nhưng “chớ bội thề”, còn Đức Giêsu bảo: “Đừng thề chi cả”. Lời nói tự nó phải có một giá trị. Vì thế, “Hễ có thì phải nói có, hễ không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37).
Cả 3 khoản luật trên đây đã được Đức Giêsu “kiện toàn” và làm cho nên “mới”.
– “kiện toàn” vì nó đòi hoi cao hơn, hoàn hảo hơn, nhân bhan hơn và đạo đức hơn. Nói cách khác, vì nó thấm nhuần tinh thần bác ái, yêu thương.
– “mới” vì từ nay tuân giữ luật lệ, không chỉ làm theo hình thức bên ngoài, mà phải tỏ thiện chí từ bên trong với một ý hướng ngay lành tuyệt đối, một tình mến chân thành.
Luật mới mà Đức Giêsu kiện toàn thật tuyệt vời, nhưng lại đòi hỏi quá nhiều, quá khó, quá sức con người. Tuy nhiên, Người lại bảo: “Nếu anh e m không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Các kinh sư và nhóm Pharisêu tự cho mình là người công chính nhờ tuân giữ lề luật. Đức Giêsu trái lại, Người cho rằng chỉ nhờ ơn Chúa con người mới được nên công chính. Người công chính là người luôn mau mắn thi hành thánh ý Chúa, mà thánh Chúa bao giờ cũng tốt lành và luôn hữu ích cho phần rỗi con người. Không một thánh ý nào của Người mà không phát xuất từ tình yêu. Nên cho dù Người có đòi hỏi gắt gao cũng là để mang lại hạnh phúc cho họ mà thôi.
Hãy cố gắng hết khả năng với tất ả thiện chí, phần còn lại là cha Chúa. Người đã hứa với Phao lô: “ơn của Thầy đủ cho con” (2Cr 12,9). Với ơn Chúa chúng ta sẽ làm được tất cả. Thánh Phao lô nói: “Tôi làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh tôi” (Pl 4,13).
***
Lạy Chúa,
Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc, xin thanh luyện lòng trí chúng con.
Giữa một thế giới thù hận ganh ghét, xin hoán cải con tim chúng con.
Giữa một thế giới lọc lừa gian dối, xin gìn giữ miệng lưỡi chúng con.
Như đóa hoa sen trong đầm lầy, xin bảo vệ tâm hồn chúng con luôn thanh khiết. Amen.
50. Những điều Chúa dạy: nét đẹp gia đình
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Chúa Giêsu đến trần gian để thiết lập Đạo Tình Thương, Người không phá đổ Lề Luật, nhưng để kiện toàn Lề Luật. Người phán:” Cho dù trời đất có qua đi thì một chấm, một phảy trong lề Luật cũng không bỏ sót cho đến khi mọi sự hoàn thành “.
Chúa Giêsu đã hoàn thành Lề Luật cách nào? Đọc Tin Mừng, đặc biệt là Cựu Ước, chúng ta thấy có những Lề Luật xem ra thật dữ tợn như mắt thế mắt, răng đền răng vv…Lề Luật Maisen có những điều chưa hoàn thiện chẳng hạn như lề Luật đem ra những chỉ thị bắt buộc hoàn toàn, có những điều luật nhắm đến công tác bên ngoài mà không chú trọng đến những ý ngay lành bên trong, hoặc có những điều luật chỉ chắm đến công ích tập thể, nhưng không nhắm đến hạnh phúc cá nhân, nhắm đến phần thưởng vật chất đời này chứ không nhắm đến phần thưởng mai sau là Nước Trời.
Chúa Giêsu đến trần gian thiết lập một Đạo mới, Đạo tình thương, một Đạo được xây dựng trên tình yêu, làm cho Lề Luật nên trọn hảo, làm cho Lề Luật nên trọn lành, hoàn thiện.Chúa Giêsu đã lập Đạo tình thương và chú trọng tới con người. Bởi vì cốt lõi của Tin Mừng là Tình Yêu, cốt lõi của cuộc sống con người cũng là Tình Yêu.Do đó, Chúa Giêsu. Đem ra năm điểm để minh chứng rằng Đạo Tình Thương của Ngài hoàn hảo hơn đạo cũ. Đó là những chỉ thị của Đạo cũ về giết người, ngoại tình, việc làm chứng dối, báo oán và cách cư xử với nhau. Luật xưa có đoạn viết: ” Chớ giết người…Ai giết người thì bị luận phạt nơi tòa án.Còn Ta, Ta bảo các con: bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình thì sẽ bị tòa án luận phạt…Ai rủa anh em mình là điên, là khùng thì sẽ bị lửa hỏa ngục thiêu sống “.
Lề Luật, Thập điều của Thiên Chúa người Do Thái vẫn đọc thường xuyên trong các Hội Đường nhất là vào ngày Sabbat đã được Chúa Giêsu dùng để xây dựng Lề Luật mới. Chúa Giêsu không rao giảng, không giảng dạy như những Kinh sư hay Biệt phái chỉ ra lệnh, tự cao, tự mãn nhưng Ngài dạy như Đấng hoàn toàn có uy quyền.
Trong Cựu Ước có những điều luật trích trong Sách Xuất Hành, Dân Số và Lêvi. Tân Ước đi xa hơn nữa như phẫn nộ với anh em đã bị coi như tội giết người rồi. Trong Tân Ước, bổn phận người đối xử với người rất quan trọng. Đó là tình bác ái đối với nhau, làm hòa, hòa giải đối với nhau còn trọng hơn của lễ nữa. Nên, Chúa Giêsu đã dạy: “Khi đang dâng của lễ mà chợt nhớ còn có sự bất hòa với ai thì hãy bỏ của lễ ấy đi làm hòa với đối phương rồi mới về dâng của lễ tiếp”.
Thực tế, đây là cốt lõi của Phúc Âm. Con người chúng ta chỉ có thể sống tốt, sống lành với nhau khi chúng ta sống bác ái yêu thương nhau. Còn đối với hôn nhân, luật cũ cấm ngoại tình vì ngoại tình bị bắt sẽ bị lề luật phạt tử hình. Tuy nhiên, vào thời Tân Ước, Chúa Giêsu đã đi thật xa nghĩ tà vậy, thèm muốn trong lòng đã là tội rồi. Chính vì thế, Chúa phán:” Ai nhìn xem phụ nữ mà ước ao phạm tội với họ, thì đã phạm tội ngoại tình với họ rồi:.
Kinh sư và Phariseu tự phụ, tự cao, tự mãn, coi mình là hơn mọi người. Họ chú trọng bề ngoài mà quên đi cốt lõi của Phúc Âm là Tình Thương. Họ rửa chén, rửa bình, mồ mả tô vôi nhưng bên trong thì hôi thối. Họ tự cho là giữ tỉ mỉ luật đã nên công chính. Nhưng đối với Chúa, muốn nên công chính phải cần tới ơn của Chúa. Chúa không ban con người không thể làm gì được và con người cũng không ra gì cả.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở mọi người hãy ăn ở công chính, hãy sống thánh thiện, hãy cố gắng lắng nghe và thực thi lời chúa trong đời sống hằng ngày, đặc biệt trong năm thánh hóa đời sống gia đình mọi gia đình Công giáo hãy ăn ở ngay lành, chính trực, công chính, thánh thiện. Hãy tạo hạnh phúc cho gia đình mình.
Lạy Chúa, Chúa ngự trong những tâm hồn ngay thẳng; xin tuôn đổ hồng ân, giúp chúng con ăn ở thế nào, để trở nên đền thờ của Chúa (Lời nguyện Nhập lễ Chúa nhật VI thường niên).
51. Nét đẹp thủy chung
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
Đời sống hôn nhân luôn cao quí vì có gia đình mới có xã hội. Xã hội được kết tinh bởi nhiều thành phần trong các gia đình. Bảo vệ đời sống gia đình phải là trách nhiệm chung của từng đôi vợ chồng. Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã cho thấy Ngài kiện toàn luật trong sạch của đời sống hôn nhân: ” Anh em đã nghe Luật dạy rằng: chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi ” (Mt 5, 27).
Chúa Giêsu luôn có một cái nhìn sâu sắc, một cái nhìn hướng thượng, một cái nhìn được đưa lên tầm cao mới chiều sâu mới theo cách diễn tả của người thời nay. Luật cũ dạy: “Chớ ngoại tình”. Chúa Giêsu ngăn cấm ngay sự thèm muốn nhen nhúm ở trong lòng. Đối với Chúa thèm muốn đã là tội rồi. Luật cũ dạy: “Chớ giết người”. Đức Giêsu lại dạy: ” Ai giận anh em mình ” thì coi như đã phạm tội giết người. Mặc dầu chưa giết người khác thật sự nhưng trong lòng giận ghét đã giết họ trong trái tim, trong lòng, trong tâm trí họ rồi. Thánh Gioan trong thư 1 Ga 3, 15 đã viết: “Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân”. Luật cũ cho phép thề, nhưng không được bội thề. Đức Giêsu bảo: “Đừng thề chi cả”. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã nói: “Có thì nói có, không thì nói không. Thêm thắt điều gì là do ma quỷ” (Mt 5, 37). Chúa Giêsu đã kiện toàn cả ba khoản Luật trên và làm cho chúng trở nên mới mẻ. Sở dĩ, chúng kiện toàn vì chúng thấm nhuần tinh thần bác ái, yêu thương. Mới mẻ không phải chỉ thi hành bề ngoài cho có lệ, cho xong nhưng phải có ý ngay lành, công minh, chính trực. Chúa Giêsu đả phá quan niệm và cách thực hành của những người Biệt phái và luật sĩ, Chúa Giêsu làm cho Luật có hồn nghĩa là làm cho cốt lõi của Luật không chỉ là một mớ lý thuyết vô hồn, nhưng làm cho Luật trở thành Luật tình thương. Chúa Giêsu nói ai muốn làm môn đệ của Ngài phải vượt qua những chướng ngại, vượt qua cách suy nghĩ và cách thực hành của nhóm Pharisêu, nhóm Biệt phái:” Nếu các con không không ăn ở công chính hơn những Biệt phái và Luật sĩ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời “.
Vâng, người Pharisêu và các Kinh sư tự đề cao mình, tự mãn cho mình là công chính vì họ giữ Lề Luật, còn Đức Giêsu trái lại cho rằng con người phải nhờ ơn Chúa mới nên công chính được. Người tốt lành, công chính là người biết lắng nghe lời Chúa và mau mắn thi hành Lời Chúa, thi hành thánh ý Chúa, bởi vì thánh ý Chúa luôn tốt lành và luôn hữu ích cho phần rỗi con người. Tất cả thánh ý của Chúa đều phát xuất từ tình yêu. Chúa đòi hỏi con người lắng nghe thánh ý Chúa và thực thi thánh ý Chúa vì Chúa đem lại hạnh phúc cho con người.
Chúa nhấn mạnh tới sự chung thủy của vợ chồng vì Ngài muốn vợ chồng luôn đươc hạnh phúc. Sự thủy chung của vợ chồng sẽ làm cho bí tích hôn nhân được bền vững. Theo giáo huấn của Chúa, sự kết hợp thể xác giữa người nam và người nữ là biểu lộ của tình yêu và tình yêu đến từ Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Chúa là tình yêu cao vời, tình yêu vô vị lợi chứ không do bởi tình dục ích kỷ vv…Tình yêu là một sự trao ban, bổ túc cho nhau, là cuộc gặp gỡ tự do.
Con người được sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Nên, mỗi người phải cố gắng làm hết khả năng của mình với tất cả lòng yêu thương và sự thiện chí của mình, còn những gì con người không làm được Chúa sẽ giúp cho. Chúa Giêsu đã hứa với thánh Phaolô, vị tông đồ nhiệt thành của dân ngoại: ” Ơn của Ta đủ cho ngươi ” (2 Co 12, 9). Chúng ta tin tưởng: ” Chúa sẽ ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế ” và như thể chúng ta hoàn toàn an tâm, phó thác nơi Chúa tình yêu. Chúa sẽ giúp chúng ta: ‘ Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi ” (Pl 4, 13).
Lời Chúa hôm nay muốn nhắc nhở mọi người theo Chúa hãy sống chân thành, hãy rộng mở tâm hồn để lãnh nhận hồng ân Thiên Chúa. Đặc biệt trong đời sống gia đình, vợ chồng hãy giữ sự thủy chung vì đó nét đẹp nhất của đời sống vợ chồng. Chúa yêu thương Hội Thánh thế nào thì vợ chồng cũng phải yêu thương nhau và tôn trọng lẫn nhau, đồng thời luôn giữ mối giây hôn phối bền chặt bằng việc trung thành với lời cam kết ngày hai người cam kết yêu thương nhau va trung thành với nhau suốt đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin gìn giữ chúng con luôn sống thủy chung với nhau và luôn bảo vệ nhau trong đời sống hôn nhân, đời sống gia đình. Amen.