Lời Chúa Mỗi Ngày : Thứ Tư Tuần 32 TN1, Năm lẻ

Thứ Tư Tuần 32 TN1, Năm lẻ.
Bài đọc: Wis 6:1-11; Lk 17:11-19.
1/ Bài đọc I: 1 Vậy, hãy lắng nghe, hãy cố hiểu, hỡi các bậc quân vương;
hãy học cho biết, hỡi những vị đang nắm quyền trên khắp cõi trần gian.
2 Mở tai ra, hỡi những ai đứng đầu trong thiên hạ, đang tự hào vì có đông đảo chư dân.
3 Vì chính Đức Chúa đã ban cho chư vị quyền bính và chính Đấng Tối Cao đã ban quyền thống trị. Cũng chính Người sẽ kiểm tra các việc chư vị làm và dò xét những điều chư vị toan tính.
4 Chư vị là bề tôi phụng sự vương quyền Người,
nếu như chư vị không xét xử công minh, không tuân giữ lề luật, không theo ý Thiên Chúa,
5 thì quả là kinh khủng hãi hùng, Người sẽ kíp đứng lên chống chư vị,
vì một án quyết thật nghiêm minh vẫn dành sẵn cho những kẻ có chức có quyền.
6 Quả vậy, người phận nhỏ được thương tình miễn thứ, kẻ quyền thế lại bị xét xử thẳng tay.
7 Chúa Tể muôn loài không bao giờ vị nể, kẻ quyền cao chức trọng, Người cũng chẳng kiêng dè.
Sang hay hèn đều do Người tạo tác, đều được Người chăm sóc hệt như nhau,
8 nhưng kẻ quyền cao sẽ bị tra vấn nghiêm nhặt.
9 Vậy, hỡi các bậc vua chúa quan quyền, những lời tôi nói đây, xin gửi tới chư vị để chư vị học biết lẽ khôn ngoan, mà khỏi phải sẩy chân trật bước.
10 Ai sống thánh và tuân giữ luật thánh, thì được kể là bậc thánh nhân.
Ai học hỏi luật thánh, thì sẽ tìm được lời bào chữa.
11 Vậy chư vị hãy ước ao khao khát lời tôi, và chư vị sẽ được chỉ bảo.
2/ Phúc Âm: 11 Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê.
12 Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa
13 và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi!”
14 Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Đang khi đi thì họ được sạch.
15 Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.
16 Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri.
17 Đức Giê-su mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?
18 Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”19 Rồi Người nói với anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”
________________________________________
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy học hỏi để biết nguồn gốc mọi sự
Có một sự khác biệt lớn lao giữa người có học và người thất học: Người có học biết dùng kiến thức của mình để biết đối xử đúng đắn trong các mối liên hệ với Thiên Chúa, với tha nhân, và với các tạo vật trong vũ trụ. Người thất học, vì không biết mọi sự đến từ đâu, nên chỉ biết phản ứng theo những gì mình suy nghĩ. Hậu quả họ phải lãnh nhận là sự phán xét của Thiên Chúa, sự ghét bỏ của tha nhân, và mọi thất bại trong cuộc đời.
Các Bài Đọc hôm nay dạy con người phải biết học hỏi suy xét về nguyên do những gì mình có. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan xác quyết về nguồn gốc của quyền hành: Mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa. Ngài ban quyền bính cho con người để lãnh đạo và cai trị. Ngài cũng sẽ xét xử công minh cho những người nắm quyền cai trị trong các quốc gia; vì thế, họ phải cai trị dân chúng theo thánh ý của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chữa lành mười người phong hủi; nhưng chỉ có một người ngoại đạo biết nguyên do của việc được chữa lành và trở lại cám ơn Thiên Chúa. Chúa hỏi: ” Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Mọi quyền bính xuất phát từ Thiên Chúa.
1.1/ Quan niệm của Sách Khôn Ngoan về quyền bính: Một người sẽ nhận ra đây là những quan niệm rất mới lạ về quyền bính, vì người thế gian cho sở dĩ họ có quyền là vì công sức hay tài cán của họ; vì thế, họ cai trị dân chúng theo sự khôn ngoan của họ, mà không bao giờ thắc mắc về kết quả của sự cai trị của họ. Ngược lại quan niệm này, tác giả Sách Khôn Ngoan dạy:
(1) Quyền bính của con người được ban xuống từ Thiên Chúa: “Vì chính Đức Chúa đã ban cho chư vị quyền bính và chính Đấng Tối Cao đã ban quyền thống trị. Cũng chính Người sẽ kiểm tra các việc chư vị làm và dò xét những điều chư vị toan tính.” Quan niệm này không chỉ áp dụng cho người nắm quyền bính trong Giáo Hội, mà còn bao trùm cả những người cai trị các quốc gia, cho dù họ có biết hay không: “Vậy, hãy lắng nghe, hãy cố hiểu, hỡi các bậc quân vương; hãy học cho biết, hỡi những vị đang nắm quyền trên khắp cõi trần gian. Mở tai ra, hỡi những ai đứng đầu trong thiên hạ, đang tự hào vì có đông đảo chư dân.”
(2) Kẻ nắm chức vụ cao mấy đi nữa cũng chỉ là bề tôi của Thiên Chúa: “Chư vị là bề tôi phụng sự vương quyền Người.”
(3) Thiên Chúa sẽ xét xử những kẻ có quyền bính. Ngài sẽ luận phạt những kẻ không biết xét xử công minh: “Quả vậy, người phận nhỏ được thương tình miễn thứ, kẻ quyền thế lại bị xét xử thẳng tay. Chúa Tể muôn loài không bao giờ vị nể, kẻ quyền cao chức trọng, Người cũng chẳng kiêng dè.”
1.2/ Những điều quan trọng mà kẻ có nắm quyền bính phải thực hiện:
(1) Họ phải biết xét xử công minh, tuân giữ lề luật, và tuân hành theo ý Thiên Chúa. Nếu không, Thiên Chúa sẽ có “một án quyết thật nghiêm minh vẫn dành sẵn cho những kẻ có chức có quyền.”
(2) Mọi người đều bình đẳng trước Thiên Chúa; nhưng người có quyền hành sẽ bị xét xử nặng hơn những người phận nhỏ: “Sang hay hèn đều do Người tạo tác, đều được Người chăm sóc hệt như nhau, nhưng kẻ quyền cao sẽ bị tra vấn nghiêm nhặt.”
(3) Càng quyền cao chức trọng càng phải học biết khôn ngoan để biết xét xử cho đúng đắn: “Vậy, hỡi các bậc vua chúa quan quyền, những lời tôi nói đây, xin gửi tới chư vị để chư vị học biết lẽ khôn ngoan, mà khỏi phải sẩy chân trật bước.”
(4) Người nắm quyền phải biết Lề Luật để sống thánh thiện: “Ai sống thánh và tuân giữ luật thánh, thì được kể là bậc thánh nhân. Ai học hỏi luật thánh, thì sẽ tìm được lời bào chữa.”
2/ Phúc Âm: Lòng biết ơn.
Bài Phúc Âm này thường được đọc trong ngày Lễ Tạ Ơn mỗi năm. Mục đích là để nhắc nhở cho mọi người biết nhận ra ơn và cám ơn Thiên Chúa.
2.1/ Phải biết ơn trước khi cám ơn: Trên đường lên Jerusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilee. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!”
– Tình trạng bi thảm của những người phong cùi: Vì người Do-Thái rất chú trọng đến vấn đề thanh sạch bên ngòai, những người phong cùi không được ở chung với dân; mà phải sống cách biệt bên ngòai làng của dân ở (Lev 13:46, Num 5:2). Họ không được phép tiếp xúc trực tiếp với dân và phải la lớn để mọi người được biết sự có mặt của họ mà tránh đi (Lev 13:45).
– Để chứng tỏ mình đã hết bệnh phong cùi, họ phải được xem xét cẩn thận bởi các tư tế. Khi nào các tư tế tuyên bố họ đã sạch; bấy giờ họ có thể trở về sinh họat bình thường với dân trong làng (Lev 14:2-3). Đó là lý do tại sao Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Đang khi đi thì họ được sạch.
2.2/ Những người “ở ngòai” dễ nhận ra ơn hơn những người “ở trong”:
– Tâm tình biết ơn của người Samaria: Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samaria. Đức Giêsu nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”
– Người Do-Thái khinh thường và sống xa cách với người Samaria. Điểm lạ ở đây là 9 người phong Do-Thái khi bị chính dân mình khai trừ đã mở rộng vòng tay cho người phong Samaria được sống chung với họ. Khi con người bị đau khổ và bỏ rơi, có lẽ con người dễ đòan kết và sống chung với nhau hơn.
– Người Samaria, tuy bị người Do-Thái khinh thường, nhưng nhiều lần được chính Chúa Giêsu khen tặng. Trong câu truyện “Ai là người thân cận của tôi?” Chúa Giêsu đã đề cao người Samaria Nhân Hậu hơn các thầy tư tế và Lêvi, vì ông là người biết tỏ lòng thương xót với người bị đánh trọng thương dọc đường: ông đã vực người trọng thương lên lừa và đưa về quán trọ săn sóc cẩn thận và hứa sẽ trả mọi phí tổn tương lai cho chủ quán trọ (Lk 10:30-37). Trong cuộc đàm thọai giữa Đức Kitô và người phụ nữ xứ Samaria, chị đã trở thành nhà truyền giáo đầu tiên của Chúa Giêsu, nhiệt thành loan báo về Người cho các dân trong làng của chị (Jn 4:39-41).
– Biết ơn là xứng đáng đón nhận thêm ơn: Rồi Người nói với anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” Không phải chỉ được thanh sạch bên ngòai, anh còn được thanh sạch cả bên trong. Chính vì lòng tin mà anh đã xứng đáng được hưởng ơn cứu độ.
2.3/ Tại sao con người vô ơn? Có nhiều lý do: (1) vì con người không chịu suy nghĩ để nhận ra ơn, họ nghĩ mọi sự trên đời tự nhiên mà có mà không cần suy nghĩ tại sao nó có; (2) họ giả sử tất cả mọi người phải hành động như vậy: là Thiên Chúa phải ban ơn; là cha mẹ phải nuôi nấng con cái; là thầy phải dạy dỗ học sinh; và (3) họ sợ nếu nhận ra ơn, họ phải trả ơn. Vì thế, họ vô ơn:
(1) với Thiên Chúa: Đấng đã dựng nên và không ngừng ban mọi ơn lành cho họ. Ngày Lễ Tạ Ơn là dịp để con người nhận ra và tạ ơn Thiên Chúa qua việc tham dự Thánh Lễ và làm ơn cho những người kém may mắn; nhưng thử hỏi được bao nhiêu người làm những điều này? Thay vào đó, họ lo tổ chức ăn uống vui chơi cho bản thân và cho gia đình họ.
(2) với cha mẹ: những người đã cưu mang, nuôi nấng, và dạy dỗ họ trong suốt một phần tư của cuộc đời. Lẽ ra, khi cha mẹ về già không còn tự săn sóc mình được nữa, họ phải phụng dưỡng và săn sóc trở lại, thì họ lại cho vào các nhà hưu dưỡng rồi tự an ủi mình: “chính phủ sẽ săn sóc các ngài tốt hơn ta.”
(3) với tha nhân: những người đi trước nhiều khi đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu, xây dựng, và phát minh ra những tiện nghi mà chúng ta đang được hưởng. Bổn phận của những người thụ hưởng là tiếp tục để làm cho thế giới mỗi ngày một tốt đẹp hơn chứ không phải chỉ ù lỳ thụ hưởng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta cần khôn ngoan để học hỏi và nhận định: mọi sự có trên đời này đều đến từ Thiên Chúa. Nếu Chúa đã ban nhiều, Ngài sẽ đòi lại nhiều. Người nắm quyền thế sẽ chịu xét xử nghiệm nhặt; vì thế, cần biết khôn ngoan để phục vụ và hướng dẫn những người thuộc quyền mình theo đường lối của Thiên Chúa.
– Chúng ta phải biết nhìn nhận và so sánh để nhận ra ơn. Đã nhận ơn phải biết nói lời cám ơn. Cám ơn xuông chưa đủ, mà còn phải biết thi ơn cho người đã làm ơn hay cho người khác để sự tốt lành tiếp tục lan tràn.

WEDNESDAY OF THE 32 OT1
Readings: Wis 6:1-11; Lk 17:11-19.
1/ Reading I: RSV Wisdom 6:1 Listen therefore, O kings, and understand; learn, O judges of the ends of the earth. 2 Give ear, you that rule over multitudes, and boast of many nations. 3 For your dominion was given you from the Lord, and your sovereignty from the Most High, who will search out your works and inquire into your plans. 4 Because as servants of his kingdom you did not rule rightly, nor keep the law, nor walk according to the purpose of God, 5 he will come upon you terribly and swiftly, because severe judgment falls on those in high places. 6 For the lowliest man may be pardoned in mercy, but mighty men will be mightily tested. 7 For the Lord of all will not stand in awe of any one, nor show deference to greatness; because he himself made both small and great, and he takes thought for all alike. 8 But a strict inquiry is in store for the mighty. 9 To you then, O monarchs, my words are directed, that you may learn wisdom and not transgress. 10 For they will be made holy who observe holy things in holiness, and those who have been taught them will find a defense. 11 Therefore set your desire on my words; long for them, and you will be instructed.
2/ Gospel: RSV Luke 17:11 On the way to Jerusalem he was passing along between Samaria and Galilee. 12 And as he entered a village, he was met by ten lepers, who stood at a distance 13 and lifted up their voices and said, “Jesus, Master, have mercy on us.” 14 When he saw them he said to them, “Go and show yourselves to the priests.” And as they went they were cleansed. 15 Then one of them, when he saw that he was healed, turned back, praising God with a loud voice; 16 and he fell on his face at Jesus’ feet, giving him thanks. Now he was a Samaritan. 17 Then said Jesus, “Were not ten cleansed? Where are the nine? 18 Was no one found to return and give praise to God except this foreigner?” 19 And he said to him, “Rise and go your way; your faith has made you well.”
________________________________________
I. THEME: Learn to know the origin of all things!
There are a big difference between the learned and the unlearned. The learned know how to use their knowledge to live the correct relationships with God, others and all creatures in the world. The unlearned, since they don’t know the origin of all things, only react according to what they think. Because of this, they must endure God’s strict judgment, the others’ hatred and many failures in their life.
Today readings teach people to learn and to reason about the cause of many things. In the first reading, the author of the Book of Wisdom confirmed about the origin of authority. According to him, all authorities come from God; He bestows authority on leaders to lead and to govern people. He shall righteously judge the leaders about their use of His given authority; therefore, they must govern people according to God’s will. In the Gospel, though Jesus healed all ten lepers; but only a foreign leper, who knew the origin of the healing, came back and thanked God. Jesus questioned, ““Were not ten cleansed? Where are the nine?Was no one found to return and give praise to God except this foreigner?”And he said to him, “Rise and go your way; your faith has made you well.””
II. ANALYSIS
1/ Reading I: All authorities come from God.
1.1/ The origin of authority: Most worldly leaders think they have authority because they are good, learned and talent. This is why people picked them for their offices. Therefore, these people govern their subjects according to their wisdom and never question about the results of their governance. In opposing to these people, the author of the Book of Wisdom reveals to us his concepts about the authority.
(1) Human authorities are given by God: He said, “Listen therefore, O kings, and understand; learn, O judges of the ends of the earth.Give ear, you that rule over multitudes, and boast of many nations.For your dominion was given you from the Lord, and your sovereignty from the Most High.” This truth is not only applied for the Church’s leaders but also the worldly leaders, no matter if they know it or not.
(2) All leaders are God’s servants: The author teaches: No matter how great they are, they are only servants to serve His kingship.
(3) God shall judge those who He gives His authority: He shall condemn those who don’t rightly judge people, “The Most High, who will search out your works and inquire into your plans.Because as servants of his kingdom you did not rule rightly, nor keep the law, nor walk according to the purpose of God.”
1.2/ The leaders must know these followings:
(1) They must judge rightly, keep the law and act according to God’s will. If not, “He will come upon you terribly and swiftly, because severe judgment falls on those in high places.”
(2) Everybody is equal before God; but those in power shall be judged more strictly than those who have no authority. The author said, “For the lowliest man may be pardoned in mercy, but mighty men will be mightily tested.For the Lord of all will not stand in awe of any one, nor show deference to greatness; because He himself made both small and great, and He takes thought for all alike.But a strict inquiry is in store for the mighty.”
(3) The more one has authority the more he has to acquire wisdom in order to judge rightly. The author said, “To you then, O monarchs, my words are directed, that you may learn wisdom and not transgress…Therefore set your desire on my words; long for them, and you will be instructed.”
(4) They must know the law to live a holy life: “For they will be made holy who observe holy things in holiness, and those who have been taught them will find a defense.”
2/ Gospel: “Has none but this foreigner returned to give thanks to God?”
This Gospel is used in the Thanksgiving Day each year. The purpose is to remind people to recognize what God has done for them and to give thanks to God.
2.1/ One must recognize a favor before giving thanks: As Jesus continued his journey to Jerusalem, he traveled through Samaria and Galilee.As he was entering a village, ten lepers met him. They stood at a distance from himand raised their voice, saying, “Jesus, Master! Have pity on us!” Some laws concerned about the lepers are written in the Book of Levites and Numbers:
(1) The terrible fate of a leper: Since the Jews pay a special attention to purity, the lepers can’t live with people, but must live outside of the camp (Lev 13:46, Num 5:2). They can’t make a direct contact with the healthy, but must cry out loudly “Unclean! Unclean!” every time when the healthy come close to them so that they know of their presence to avoid (Lev 13:45).
(2) To show that they have been cured from leper, they must be examined by the priests: When the priest declares they are clean, they can live a normal life with people in the camp (Lev 14:2-3). This is the reason why Jesus told them, “Go show yourselves to the priests.” As they were going they were cleansed.
2.2/ Those outside are easy to recognize favors than those inside.
(1) The Samaritan’s gratitude: “And one of them, realizing he had been healed, returned, glorifying God in a loud voice;and he fell at the feet of Jesus and thanked him. He was a Samaritan.Jesus said in reply, “Ten were cleansed, were they not? Where are the other nine?Has none but this foreigner returned to give thanks to God?”
(2) The Jews want nothing to do with the Samaritans: One strange thing in this passage is the nine Jews let the Samaritan live with them because that shall never happen when they are healthy. This shows that when people are suffered and discriminated, they tend to unite and to live with others.
(3) Why are the Samaritans often mentioned in the Gospel as the more grateful? The Samaritans, though were despised by the Jews, but many time were praised by Jesus: In the Good Samaritan’s story, Jesus intentionally praised the Samaritan than the priest and the Levite because he showed compassion for the unfortunate. He let him ride his donkey, cared for him at the motel, and promised to pay back the amount for the motel’s owner for caring of him (Lk 10:30-37). After the conversation between Jesus and the Samaritan woman, she became Jesus’ first missionary when she joyfully and eagerly announced what Jesus has done for her (Jn 4:39-41). These examples show the Gentiles can be more grateful than the Jews, God’s chosen ones.
(4) To give thanks is to deservedly receive more favors: “Then he said to him, “Stand up and go; your faith has saved you.”” The Samaritan leper was not only healed from his sickness, but also received salvation because of his faith in Jesus while the other nine Jews were only healed from their leper.
2.3/ Why are people ungrateful? There are many reasons: First, because people don’t reflect; they don’t think about the reason why they receive favors. Secondly, they suppose everyone must help them: God must give grace; parents must care for their children; teacher must teach their students. Lastly, they are afraid that they must return their favors if they acknowledge them. There are three kinds of person whom people are ungrateful to:
(1) God: Who creates, protects and unceasingly gives grace for them. Thanksgiving Day is the occasion for people to recognize God’s grace and to thank Him for that by participating on a Mass and helping the unfortunate. How many people do these? Instead, they organize party to enjoy as if the success is from their own effort.
(2) Their parents: who conceived, cared for, protected and educated them most of their life. They should take care of their parents when they are no longer caring for themselves. Instead, they put them in the nursing home and said to themselves, “the government shall take care of them better than us.”
(3) Others: who spent all of their life to research, to build up and to invent all the conveniences of life which they are enjoying. They forget that their duty is to continue to make a better world for the next generation, not only to selfishly enjoy them.
III. APPLICATION IN LIFE:
– We must learn divine wisdom to reason and to live our life. All things in this world come from God. If God gives us much, He shall request more from us. Those in power shall be sternly judged; therefore, the leaders must know how to wisely serve and lead their subjects according to God’s way.
– We must reflect and compare to recognize a favor. If we receive a favor from others, we must thank them. Not only to say thank, but we must also find a way to repay them or to do favors to others so that good things continue to flow

LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP