Thứ Tư Tuần VII PS
Bài đọc: Acts 20:28-38: Jn 17:11-19.
1/ Bài đọc I: 28 “Anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng máu của chính mình.
29 “Phần tôi, tôi biết rằng khi tôi đi rồi, thì sẽ có những sói dữ đột nhập vào anh em, chúng không tha đàn chiên.
30 Ngay từ giữa hàng ngũ anh em sẽ xuất hiện những người giảng dạy những điều sai lạc, hòng lôi cuốn các môn đệ theo chúng.
31 Vì vậy anh em phải canh thức, và nhớ rằng, suốt ba năm, ngày đêm tôi đã không ngừng khuyên bảo mỗi người trong anh em, lắm khi phải rơi lệ.
32 “Giờ đây, tôi xin phó thác anh em cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, là lời có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến.
33 “Vàng bạc hay quần áo của bất cứ ai, tôi đã chẳng ham.
34 Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp.
35 Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận.”
36 Nói thế rồi, ông Phao-lô cùng với tất cả các anh em quỳ gối xuống cầu nguyện.
37 Ai nấy oà lên khóc và ôm cổ ông mà hôn.
38 Họ đau đớn nhất vì lời ông vừa nói là họ sẽ không còn thấy mặt ông nữa. Rồi họ tiễn ông xuống tàu.
2/ Phúc Âm: 11 Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha.
12 Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh.
13 Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói những điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con.
14 Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian.
15 Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần.
16 Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian.
17 Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.
18 Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian.
19 Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.
________________________________________
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nỗi quan tâm của mục tử khi phải rời bỏ đoàn chiên của mình.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã từng phân biệt người mục tử tốt lành khác với người chăn chiên. Các Bài Đọc hôm nay đi xa hơn, khi nói lên mối quan tâm của những người mục tử tốt lành lo lắng cho đoàn chiên khi ông phải xa cách đoàn chiên mình. Người mục tử tốt lành không những lo chăm sóc, dạy dỗ, và bảo vệ đoàn chiên khi còn sống; mà còn kiếm người bảo vệ và săn sóc chiên khi biết mình sắp qua đời. Người chăn chiên có tốt lắm cũng chỉ săn sóc và bảo vệ chiên khi còn sống, ông không quan tâm đến đoàn chiên khi phải từ giã cuộc đời.
Trong Bài Đọc I, Thánh Phaolô giao đoàn chiên mình cho những kỳ mục tại Ephesô. Ngài muốn họ hãy chăm sóc đòan chiên một cách vui vẻ và vô vị lợi, bảo vệ họ khỏi những nanh vuốt của quỉ dữ và của thế gian. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cầu nguyện và đặt đoàn chiên dưới sự che chở của Chúa Cha. Ngài cầu xin Chúa cha thánh hiến các môn đệ của Ngài trong sự thật, và gìn giữ họ khỏi thế gian và ác thần.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lời căn dặn của Phaolô cho các kỳ mục tại Ephesus trước khi về Jerusalem.
1.1/ Họ phải ý thức bổn phận cao quí và quan trọng của họ: Đó là họ phải bảo vệ món quà vô giá là đức tin của họ và của đoàn chiên. Phaolô khuyên nhủ họ: “Anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng máu của chính mình.” Để bảo vệ đức tin, Phaolô nêu bật hai điều quan trọng hơn cả:
(1) Họ phải bảo vệ sự thật giữa bao điều giả trá: Phaolô biết rõ tầm quan trọng của việc biết sự thật, và sự nguy hiểm của bao điều giả trá, từ kinh nghiệm mục vụ của mình. Ông cảnh giác giới lãnh đạo: “Phần tôi, tôi biết rằng khi tôi đi rồi, thì sẽ có những sói dữ đột nhập vào anh em, chúng không tha đoàn chiên. Ngay từ giữa hàng ngũ anh em sẽ xuất hiện những người giảng dạy những điều sai lạc, hòng lôi cuốn các môn đệ theo chúng.” Đoàn chiên còn ngây thơ, non dại; chúng chưa biết tất cả sự thật. Vì thế, bổn phận của các mục tử là không ngừng dạy dỗ đòan chiên để chúng biết nhận ra sự thật giữa bao sự gian xảo.
(2) Họ phải canh thức và khuyên nhủ: Các con chiên không luôn nghe tiếng chủ: có con ham chơi rồi đi lạc, có con cứng đầu chống lại cần phải sửa phạt; nhưng người mục tử tốt lành không bao giờ bỏ rơi bất cứ con nào. Vì thế, việc chăm sóc đòan chiên đòi người mục tử phải để ý tới từng cá nhân khi có thể, như Phaolô trưng dẫn kinh nghiệm của mình: “Vì vậy anh em phải canh thức, và nhớ rằng, suốt ba năm, ngày đêm tôi đã không ngừng khuyên bảo mỗi người trong anh em, lắm khi phải rơi lệ.”
1.2/ Những điều quan trọng khác:
(1) Sức mạnh của Lời Chúa: Nhận ra sự khẩn thiết của việc biết sự thật như đã nêu trên, Phaolô chỉ cho họ biết kho tàng khôn ngoan của Lời Chúa: “Giờ đây, tôi xin phó thác anh em cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, lời có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến.” Lãnh đạo khôn ngoan cần đặt căn bản trên Lời Chúa, và xây dựng trên niềm tin vào Thiên Chúa.
(2) Phần thưởng của người mục tử không dựa trên những lợi lộc vật chất: Khác với những nhà lãnh đạo thế gian, họ quan tâm đến địa vị, uy quyền, và những lợi lộc vật chất; người lãnh đạo dân Chúa phải biết hy sinh cách vô vị lợi, và cố gắng sinh sống bằng bàn tay của mình, như Phaolô đã làm: “Vàng bạc hay quần áo của bất cứ ai, tôi đã chẳng ham. Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp.” Dĩ nhiên, đó là điều lý tưởng; nhưng như Chúa Giêsu dạy và Phaolô nói sau này: “thợ làm vườn đáng được trả công.” Hơn nữa, việc khai mở và nuôi dưỡng đức tin phải được ưu tiên hơn việc kiếm kế sinh sống.
(3) Hãy lo lắng cho những người yếu kém: “Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận.” Trong đoàn chiên, sức mạnh và khả năng của mỗi con chiên khác nhau; người mục tử cần chú ý hơn đến những con chiên yếu ớt, bệnh tật.
Khi đã khuyên bảo xong, ông Phaolô cùng với tất cả các anh em quỳ gối xuống cầu nguyện. Ai nấy oà lên khóc và ôm cổ ông mà hôn. Họ đau đớn nhất vì lời ông vừa nói là họ sẽ không còn thấy mặt ông nữa. Rồi họ tiễn ông xuống tàu.
2/ Phúc Âm: Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.
2.1/ Chúa Giêsu biết sự nguy hiểm cho các môn đệ khi sống trong thế gian.
Chúa Giêsu biết đã đến giờ Ngài phải bỏ thế gian, nên Ngài tâm sự với Chúa Cha: “Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha.” Giờ Chúa Giêsu phải rời bỏ các môn đệ, cũng là giờ mà các ông phải đương đầu với quyền lực của thế gian một mình. Ngài biết hậu quả sẽ nghiêm trọng chừng nào, như Ngài đã từng nói với các môn đệ: “Họ sẽ tiêu diệt chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác.” Nhìn lại kết quả việc chăn chiên của mình, Chúa Giêsu hãnh diện nói với Chúa Cha: “Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh.”
Thế gian sẽ ghét bỏ và truy tố các môn đệ như họ sắp ghét bỏ và truy tố Chúa Giêsu. Lý do là vì cả Chúa Giêsu và các môn đệ không thuộc về thế gian. Ngài muốn cho các ông biết rõ điều này; để các ông không ngạc nhiên khi điều đó xảy đến.
2.2/ Chúa Giêsu cầu xin cho các môn đệ: Biết những nguy hiểm sẽ xảy đến cho các môn đệ như thế, Ngài cầu xin Chúa Cha ban cho các ông những điều quan trọng sau:
(1) Xin Chúa Cha bảo vệ các môn đệ khỏi ác thần: “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian.” Chúa Giêsu không xin “cất các môn đệ khỏi thế gian;” nhưng Ngài xin “gìn giữ họ khỏi ác thần.” Các ông phải ở lại thế gian để tiếp tục sứ vụ rao giảng của Ngài.
(2) Xin Chúa Cha thánh hiến các môn đệ trong sự thật: Giống như Phaolô, Chúa Giêsu biết nguy hiểm của sự sai lạc: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.” Sự thật đây là Lời Kinh Thánh và những lời tâm huyết Chúa Giêsu vừa dạy dỗ họ. Ngài biết mọi hành động sai bắt đầu từ sự hiểu biết sai; vì thế, hiểu biết sự thật là điều không thể thiếu cho các môn đệ của Chúa.
Cả hai điều cầu xin này đều được Chúa Cha ban cho các môn đệ qua việc ban Thánh Thần. Ngài là thần sự thật, Ngài sẽ giúp các ông nhận ra sự thật và sẽ hướng dẫn các ông tới tất cả sự thật. Ngài cũng là người bảo vệ và giúp các ông có sức mạnh làm chứng nhân cho Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Mỗi người chúng ta đều được kêu gọi để trở thành mục tử nhân lành: hoặc một số người con như bậc làm cha mẹ, hoặc một số đông như bậc linh mục, giám mục. Chúng ta phải lo cho đoàn chiên không chỉ lúc còn sống, mà còn cả khi chúng ta phải rời bỏ họ.
– Người mục tử nhân lành phải xây dựng đời mình trên đức tin và Lời Chúa. Họ phải làm hết cách sao cho đoàn chiên có một đức tin vững mạnh và hiểu biết Lời Chúa cách sâu xa.
LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Wednesday of the Seventh Week of Easter
Viết bởi Lan Hương
Reading 1 (Acts 20:28-38)
At Miletus, Paul spoke to the presbyters of the Church of Ephesus:
“Keep watch over yourselves and over the whole flock
of which the Holy Spirit has appointed you overseers,
in which you tend the Church of God
that he acquired with his own Blood.
I know that after my departure savage wolves will come among you,
and they will not spare the flock.
And from your own group, men will come forward perverting the truth
to draw the disciples away after them.
So be vigilant and remember that for three years, night and day,
I unceasingly admonished each of you with tears.
And now I commend you to God
and to that gracious word of his that can build you up
and give you the inheritance among all who are consecrated.
I have never wanted anyone’s silver or gold or clothing.
You know well that these very hands
have served my needs and my companions.
In every way I have shown you that by hard work of that sort we must help the weak,
and keep in mind the words of the Lord Jesus who himself said, “It is more blessed to give than to receive.?”
When he had finished speaking
he knelt down and prayed with them all.
They were all weeping loudly
as they threw their arms around Paul and kissed him,
for they were deeply distressed that he had said
that they would never see his face again.
Then they escorted him to the ship.
Gospel (Jn 17:11b-19)
Lifting up his eyes to heaven, Jesus prayed, saying:
“Holy Father, keep them in your name
that you have given me,
so that they may be one just as we are one.
When I was with them I protected them in your name that you gave me,
and I guarded them, and none of them was lost
except the son of destruction,
in order that the Scripture might be fulfilled.
But now I am coming to you.
I speak this in the world
so that they may share my joy completely.
I gave them your word, and the world hated them,
because they do not belong to the world
any more than I belong to the world.
I do not ask that you take them out of the world
but that you keep them from the Evil One.
They do not belong to the world
any more than I belong to the world.
Consecrate them in the truth.
Your word is truth.
As you sent me into the world,
so I sent them into the world.
And I consecrate myself for them,
so that they also may be consecrated in truth.”
________________________________________
Written by: Fr. Anthony Dinh Minh Tien, O.P.
I. THEME: The shepherd’s concerns for his flock
In the Fourth Gospel, Jesus made a difference between a good shepherd and a hireling. Today readings go further when they talked about the good shepherd’s concerns for his flock when he must leave them. The good shepherd not only cared for, educated and protected his sheep when he is still alive, but also find a good substitute to take care of the flock when he knows he shall no longer be with them. This is an exceptional sign of a good shepherd.
In the first reading, St. Paul handed his flock into the elders’ hands at Ephesus. He wanted them to joyfully and freely care for the flock and to protect them from savage wolves of the devil and the world. In the Gospel, Jesus prayed for his disciples and entrusted them under the Father’s protection. He prayed the Father to sanctify his disciples in the truth and protected them from the world and the devil.
II. ANALYSIS:
1/ Reading I: St. Paul’s last words for the elders at Ephesus before his departure to Jerusalem.
1.1/ They must realize their important and meaningful duty: St. Paul reminded them that they must protect the priceless gift which is their faith and the people’s faith: “Keep watch over yourselves and over the whole flock of which the Holy Spirit has appointed you overseers, in which you tend the church of God that he acquired with his own blood.” To protect the faith, Paul emphasized two important things:
(1) They must expel all perversion: Paul knew the importance of the truth and dangers of all perversion from his pastoral experience. He forewarned the leaders of the community these dangers: “I know that after my departure savage wolves will come among you, and they will not spare the flock. And from your own group, men will come forward perverting the truth to draw the disciples away after them.” The wolves aren’t necessary from outside the community, but can be in their midst. St. John called them the “antichrists” who try to mislead the faithful with their new doctrine. The faithful are still weak and innocent, they don’t know all the truth. Therefore, the shepherds’ duty is to unceasingly teach them the truth so they can recognize the truth from all perversion.
(2) They must watch out and encourage all of their faithful: The sheep don’t always follow their shepherd’s voice: some get lost due to their curiosity of new things; some purposely oppose the shepherd, these sheep need to be punished. The shepherd can’t discard any sheep, he must pay attention to every sheep. Paul gave the elders his pastoral experience: “So be vigilant and remember that for three years, night and day, I unceasingly admonished each of you with tears.”
1.2/ Other importances:
(1) The power of God’s words: Paul recognized the necessary of understanding the truth; he showed them the treasury of the Scripture: “And now I commend you to God and to that gracious word of his that can build you up and give you the inheritance among all who are consecrated.” Wise leadeship must be based on God’s words and built on their faith in God.
(2) The shepherd’s reward isn’t based on material gains: Unlike worldly leaders whose concerns are position, power and material gains, the leaders of the faith community must freely sacrifice and make a living by his works. Paul gave them his own example, “I have never wanted anyone’s silver or gold or clothing.You know well that these very hands have served my needs and my companions.” This is an ideal for leaders, but Jesus taught his disciples, “Stay in the same house and eat and drink what is offered to you, for the laborer deserves his payment. Do not move about from one house to another” (Lk 10:7; Mk 10:10). Moreover, the spreading and the nourishment of faith are more important than earning a living.
(3) Take care of the unfortunate: Paul advised them, “In every way I have shown you that by hard work of that sort we must help the weak, and keep in mind the words of the Lord Jesus who himself said, ‘It is more blessed to give than to receive.’” In the flock, the strength and the ability of each sheep are different; the shepherd must pay more attention to the weak and the sick sheep.
“When he had finished speaking he knelt down and prayed with them all. They were all weeping loudly as they threw their arms around Paul and kissed him, for they were deeply distressed that he had said that they would never see his face again. Then they escorted him to the ship.”
2/ Gospel: “Father! sanctify them in the truth. Your word is the truth.”
2.1/ Jesus knew of dangers for his disciples when they live in the world: Jesus knew that it is the time for him to leave this world, so he loudly prayed for his disciples: “Now I will no longer be in the world, but they are in the world, while I am coming to you. Holy Father, keep them in your name that you have given me, so that they may be one just as we are.” The time when Jesus left this world is also the time that his apostles must confront worldly powers by themselves. Jesus knew all serious results as he warned them, “they killed the shepherd and the flock shall be scattered.” Looking back at his mission, Jesus proudly said to his Father: “When I was with them I protected them in your name that you gave me, and I guarded them, and none of them was lost except the son of destruction, in order that the scripture might be fulfilled.”
The world shall hate and persecute the apostles as they are going to hate and to persecute Jesus. The reason for these is because both Jesus and his apostles don’t belong to the world. Jesus wanted them to clearly know this so that they shall not be surprise when those happen.
2.2/ Jesus prayed for his disciples: Knowing all these dangers shall happen to his apostles, Jesus asked the Father to give them these important favors:
(1) He prayed the Father to protect his disciples from the devil: “I do not ask that you take them out of the world but that you keep them from the evil one. They do not belong to the world any more than I belong to the world.” Jesus didn’t ask the Father to take his apostles out of the world but that to keep them from the evil one. They must stay in the world to continue Jesus’ mission.
(2) He prayed that the Father sanctifies his disciples in truth: Like St. Paul, Jesus knew the danger of perversion, so he prayed: “Consecrate them in the truth. Your word is truth.” The truth is the Scripture and what Jesus has just taught them. He knew that a wrong act begins with a wrong understanding; therefore, understanding the truth is necessary for Jesus’ disciples.
Both these petitions are granted by the Father through His sending of the Holy Spirit, who is the truth, he shall help them to recognize the truth and lead them to understand all the truth. He is also the one who protects and strengthens them to be Christ’s witnesses.
III. APPLICATION IN LIFE:
– All of us are called to be the good shepherds either for some children as parents or for many people as priests or bishops. We must care for our people, not only when we live with them but also when we are no longer with them.
– The good shepherd must build his life on faith and God’s words. We must find all possible ways to make our people to have a firm faith and to deeply understand God’s words.