Lời Chúa Mỗi Ngày : Lễ Trọng Kính Thánh Giuse

Lễ Trọng Kính Thánh Giuse
Bài đọc: 2 Sam 7:4-5a, 12-14a, 16; Rom 4:13, 16-18, 22; Mt 1:16, 18-21, 24a.
1/ Bài đọc I: 4 Nhưng ngay đêm ấy, có lời Đức Chúa phán với ông Na-than rằng:
5 “Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là Đa-vít: Đức Chúa phán thế này: 12 Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi – một người do chính ngươi sinh ra – và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền.
13 Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. 14 Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con.
16 Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi.”
2/ Bài đọc II: 13 Thật vậy, không phải chiếu theo Lề Luật, mà Thiên Chúa đã hứa cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông được thế gian làm gia nghiệp; nhưng ông được lời hứa đó, vì đã trở nên công chính nhờ lòng tin.
16 Bởi vậy, vì tin mà người ta được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa; như thế lời hứa là ân huệ Thiên Chúa ban không, và có giá trị cho toàn thể dòng dõi ông Áp-ra-ham, nghĩa là không phải chỉ cho những ai giữ Lề Luật, mà còn cho những ai có lòng tin như ông. Ông là tổ phụ chúng ta hết thảy, 17 như có lời chép: Ta đã đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ông là tổ phụ chúng ta trước mặt Thiên Chúa, Đấng ông tin tưởng, Đấng làm cho kẻ chết được sống và khiến những gì không có hoá có.
18 Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế.
22 Bởi thế, ông được kể là người công chính.
3/ Phúc Âm: 16 Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.
18 Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.
19 Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.
20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.
21 Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.”
24 Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy.
________________________________________

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thánh Giuse trở nên công chính nhờ niềm tin vào Thiên Chúa.
Con người luôn bị giằng co giữa hai thái cực: một bên là đức tin tuyệt đối vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa, một bên là sự suy luận theo lý trí của con người. Khi có sự xung đột, con người phải chọn đàng nào? Nhiều người cho họ chỉ tin những gì lý trí con người có thể hiểu được; ngoài ra là mê tín dị đoan. Nhưng Thiên Chúa đã tuyên sấm qua miệng tiên tri Isaiah: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất thế nào, tư tưởng và đường lối của Ta cũng cao hơn các người như vậy” (Isa 55:8-9). Lịch sử nhiều lần chứng minh: vâng lời làm theo ý Thiên Chúa mang lại những kết quả quá lòng mong đợi của con người; ngược lại, bất tuân thánh ý Thiên Chúa để làm theo ý riêng mình sẽ gây ra muôn vàn khổ đau cho con người.
Các Bài Đọc hôm nay nêu bật những mẫu gương của những người thi hành thánh ý Thiên Chúa cho dẫu họ không hiểu kế hoạch của Ngài. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa hứa với vua David dòng dõi ông sẽ làm vua cai trị tới muôn đời. Điều này được thực hiện qua Đức Kitô, Ngài thuộc dòng tộc David và sẽ cai trị tới muôn đời. Trong Bài Đọc II, Thiên Chúa hứa sẽ ban cho Abraham một dòng dõi đông như sao trên trời, trong khi ông chỉ có hai người con duy nhất: Isaac bởi Sarah và Ismael bởi Hagar. Lời hứa này cũng được làm trọn nơi Đức Kitô, tất cả những ai tin vào Đức Kitô, họ trở thành con cháu của tổ phụ Abraham. Trong Phúc Âm, thánh Giuse chấp nhận đón Đức Mẹ về chung sống; sau khi được sứ thần của Thiên Chúa cho biết việc Đức Mẹ chịu thai là do quyền năng của Thánh Thần.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta.
1.1/ Lời Thiên Chúa hứa với vua David: Sau khi đã ổn định đất nước, vua David nói với tiên tri Nathan ý định muốn xây nhà cho Thiên Chúa tại thành của David; nhưng ngay đêm ấy, có lời Đức Chúa phán với ông Nathan rằng: “Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là David: Đức Chúa phán thế này: Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi – một người do chính ngươi sinh ra – và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền.”
Không phải David sẽ xây nhà cho Thiên Chúa; nhưng chính Thiên Chúa sẽ xây nhà cho ông. Nhà ở đây ám chỉ dòng dõi của David; từ dòng dõi này sẽ xuất hiện Đấng Thiên Sai và uy quyền cai trị sẽ tồn tại đến muôn đời.
1.2/ Lời Hứa của Thiên Chúa: Thiên Chúa cho biết người sẽ xây nhà cho Ngài là Solomon, con kế vị của vua David: “Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi.”
Lời Hứa của Thiên Chúa bị đe doạ bởi sự bất trung của hậu duệ của vua David. Có những lúc tưởng chừng như nhà David sẽ hết người nối ngôi, như thời kỳ bị lưu đày; nhưng Thiên Chúa vẫn quan phòng cách khôn ngoan, cho đến ngày Đấng Thiên Sai ra đời từ dòng dõi David.
2/ Bài đọc II: Abraham được lời hứa đó, vì đã trở nên công chính nhờ lòng tin.
2.1/ Đe dọa của niềm tin: Khi Thiên Chúa hứa sẽ ban cho Abraham một dòng dõi, ông vẫn chưa có lấy một người con dù đã quá tuổi sinh con (Gen 15). Làm sao một người có thể có con đông như sao trên trời và như cát dưới biển, khi chưa có lấy một người con trong lúc tuổi già?
2.2/ Đức tin của tổ phụ Abraham: Nhưng Abraham hoàn toàn tin vào Lời Thiên Chúa hứa, và đó là lý do Abraham được trở nên công chính, như lời thánh Phaolô viết: “Thật vậy, không phải chiếu theo Lề Luật, mà Thiên Chúa đã hứa cho ông Abraham và dòng dõi ông được thế gian làm gia nghiệp; nhưng ông được lời hứa đó, vì đã trở nên công chính nhờ lòng tin.”
Thánh Phaolô muốn đả phá một quan niệm sai lầm của người Do-thái: con người trở nên công chính bằng việc giữ cẩn thận các Lề Luật. Ngài dùng chính những gì đã xảy ra cho Abraham để đả phá quan niệm này:
(1) Lời Hứa được Thiên Chúa ban cho Abraham cách nhưng không: Abraham không làm gì để xứng đáng được hưởng những gì Thiên Chúa hứa, như Phaolô xác tín: “Vì tin mà người ta được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa; như thế lời hứa là ân huệ Thiên Chúa ban không, và có giá trị cho toàn thể dòng dõi ông Abraham, nghĩa là không phải chỉ cho những ai giữ Lề Luật, mà còn cho những ai có lòng tin như ông.” Hơn nữa Lề Luật được Thiên Chúa ban cho con người sau này, thời của Moses trong cuộc Xuất Hành ra khỏi Ai-cập. Thời của Abraham, làm gì đã có Lề Luật để tuân giữ!
(2) Dòng dõi Abraham được trở nên đông đúc không do di truyền; nhưng do bởi niềm tin của các tín hữu vào Đức Kitô. Phaolô viết: “Ông là tổ phụ chúng ta hết thảy, như có lời chép: Ta đã đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ông là tổ phụ chúng ta trước mặt Thiên Chúa, Đấng ông tin tưởng, Đấng làm cho kẻ chết được sống và khiến những gì không có hoá có.”
(3) Con người trở nên công chính bằng đức tin: Abraham không sống trên dương gian để nhìn thấy Lời Thiên Chúa được thực hiện; hơn nữa, Abraham còn chịu rất nhiều thử thách đe doạ niềm tin này. Ví dụ, việc Thiên Chúa muốn ông sát tế Isaac, con ông, trên núi Moriah. Trong mọi hoàn cảnh khó khăn và thử thách, “mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế. Bởi thế, ông được kể là người công chính.”
3/ Phúc Âm: Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy.
3.1/ Đức tin của Giuse bị thử thách: Cuộc đính hôn của thánh Giuse với Đức Mẹ chắc chắn được Thiên Chúa quan phòng; nhưng Giuse không thể chấp nhận việc Đức Mẹ mang thai khi hai người chưa ăn ở với nhau.
(1) Tình trạng pháp lý: Truyền thống Do-thái về việc cưới hỏi cũng giống như phong tục của Việt-nam. Có ba giai đoạn trong việc cưới hỏi: thứ nhất là giai đoạn hứa hôn, được làm bởi cha mẹ hai bên khi hai trẻ vẫn còn nhỏ. Giai đoạn này không bị ràng buộc nếu sau này một trong hai trẻ không đồng ý tiến tới; thứ hai là giai đoạn đính hôn, thường kéo dài trong khoảng một năm. Theo Luật Do-thái, hai người chính thức thành vợ chồng tuy chưa ăn ở với nhau; nếu muốn ly dị phải theo thủ tục pháp lý. Thánh Giuse và Mẹ Maria ở trong giai đoạn này. Sau cùng là giai đoạn kết hôn, khi hai người ăn ở với nhau.
(2) Cách giải quyết: Một điều Giuse biết chắc chắn là bào thai Đức Mẹ đang cưu mang không phải là của mình. Là người công chính, Giuse không thể chấp nhận bào thai của Đức Mẹ, và ông có hai cách để giải quyết: hoặc tố cáo và Đức Mẹ sẽ bị ném đá vì tội ngoại tình, hoặc bỏ Đức Mẹ cách kín đáo. Vì có lòng nhân từ, Giuse không muốn Đức Mẹ bị ném đá, ông “định tâm bỏ bà cách kín đáo.”
3.2/ Đức tin của Giuse: Khi ông đang toan tính như vậy, thì sứ thần Thiên Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, con cháu David, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.”
Để hiểu việc làm của Giuse, chúng ta cần tìm hiểu truyền thống Do-thái hiểu biết về Thánh Thần. Theo Kinh Thánh, Thánh Thần có ít nhất 4 nhiệm vụ như sau:
(1) Ngài là người mang sự thật từ Thiên Chúa đến cho con người (Exo 31:3; Num 11:25; 27:18; Deut 34:9; 1 Sam 10:10; 2 Sam 23:2; Job 32:8; Psa 32:2);
(2) Làm cho con người hiểu biết sự thật (Gen 41:38; Num 24:2; Psa 32:2; Joel 2:28; Lk 12:12; Jn 14:17; 15:26);
(3) Ngài cùng với Thiên Chúa tạo dựng (Gen 6:3; Jdg 14:6; 1 Sam 11:6; Job 27:3; 33:4; Psa 33:6; 104:30);
(4) Tái tạo dựng con người (Gen 1:2; Jdg 6:34; 11:29; 13:25; 15:9; 1 Sam 10:6; Psa 51:10; 143:10; Job 33:4; Eze 37:1-14; Acts 2:1-4).
Thấm nhuần truyền thống trên, Giuse chấp nhận bào thai của Đức Mẹ dẫu biết bào thai không phải là của mình, ông cũng không đòi cắt nghĩa “việc chịu thai bởi Chúa Thánh Thần;” nhưng tin Thánh Thần là nguyên nhân tạo dựng bào thai đó. Suốt cuộc đời chăm sóc Đức Mẹ và Chúa Giêsu, thánh Giuse luôn để Chúa Thánh Thần hướng dẫn mọi việc và vâng lời làm theo những gì sứ thần truyền. Kinh Thánh tường thuật ba sự kiện: thứ nhất, thánh Giuse chấp nhận đính hôn với Đức Mẹ để trở thành cha nuôi của Đấng Cứu Thế; thứ hai, thánh Giuse chấp nhận đưa Đức Mẹ và Chúa Giêsu trốn sang Ai-cập lúc đang đêm; ngài không nại lý do đang đêm hay làm gì sinh sống nơi đất lạ quê người; sau cùng, ngài chấp nhận đưa gia đình hồi hương và lập nghiệp tại Nazareth; không than phiền phải di chuyển đến nơi ở mới một lần nữa.
Nói tóm, tuy thánh Giuse không để lại một lời nào cho hậu thế; nhưng ngài để cho chúng ta một tấm gương luôn biết lắng nghe và mau mắn thi hành Lời Chúa. Ngài hoàn toàn tin tưởng nơi quyền năng Thiên Chúa, và khiêm tốn thi hành những gì Thiên Chúa truyền, vì Ngài biết trí khôn của mình không thể hiểu nổi sự quan phòng của Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta được trở nên công chính nhờ niềm tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô; chứ không nhờ những việc chúng ta làm.
– Thử thách và đau khổ trong cuộc đời là những cơ hội giúp chúng ta chứng tỏ đức tin nơi Thiên Chúa. Chúng ta hãy biết sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
– Thiên Chúa luôn trung thành giữ những gì Ngài hứa; vì thế, chúng ta cần đặt trọn vẹn niềm tin tưởng nơi Ngài.
LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP

Solemnity of Saint Joseph, husband of the Blessed Virgin Mary
Viết bởi Lan Hương

Reading 1: (2 Sam 7:4-5a, 12-14a, 16)

The LORD spoke to Nathan and said:
“Go, tell my servant David,
‘When your time comes and you rest with your ancestors,
I will raise up your heir after you, sprung from your loins,
and I will make his kingdom firm.
It is he who shall build a house for my name.
And I will make his royal throne firm forever.
I will be a father to him,
and he shall be a son to me.
Your house and your kingdom shall endure forever before me;
your throne shall stand firm forever.’

Reading 2: (Rom 4:13, 16-18, 22)

Brothers and sisters:
It was not through the law
that the promise was made to Abraham and his descendants
that he would inherit the world,
but through the righteousness that comes from faith.
For this reason, it depends on faith,
so that it may be a gift,
and the promise may be guaranteed to all his descendants,
not to those who only adhere to the law
but to those who follow the faith of Abraham,
who is the father of all of us, as it is written,
I have made you father of many nations.
He is our father in the sight of God,
in whom he believed, who gives life to the dead
and calls into being what does not exist.
He believed, hoping against hope,
that he would become the father of many nations,
according to what was said, Thus shall your descendants be.
That is why it was credited to him as righteousness.

Gospel: (Mt 1:16, 18-21, 24a)

Jacob was the father of Joseph, the husband of Mary.
Of her was born Jesus who is called the Christ.
Now this is how the birth of Jesus Christ came about.
When his mother Mary was betrothed to Joseph,
but before they lived together,
she was found with child through the Holy Spirit.
Joseph her husband, since he was a righteous man,
yet unwilling to expose her to shame,
decided to divorce her quietly.
Such was his intention when, behold,
the angel of the Lord appeared to him in a dream and said,
“Joseph, son of David,
do not be afraid to take Mary your wife into your home.
For it is through the Holy Spirit
that this child has been conceived in her.
She will bear a son and you are to name him Jesus,
because he will save his people from their sins.”
When Joseph awoke,
he did as the angel of the Lord had commanded him
and took his wife into his home.
________________________________________
Written by: Fr. Anthony Dinh Minh Tien, O.P.
I. THEME: St. Joseph became righteous by putting his faith in God.
People are always divided between the two things: on the one side, the absolute faith in God’s wisdom and power; on the other side, human reasoning. When there is a conflict, which way should people follow? Many people think that they only do what they can understand; beyond that, it is superstitious or illusionary. These people forgot that their intellects are very limited; there are truths that exist no matter if they can understand or not, as the prophet Isaiah stated what God said to human beings: “For my thoughts are not your thoughts, nor are your ways my ways, says the Lord.As high as the heavens are above the earth, so high are my ways above your ways and my thoughts above your thoughts” (Isa 55:8-9). The Scripture proved many times that if people obey and do God’s will, they shall prosper and achieve results which are exceeding their expectation; but if they disobey God’s will and do their will, they shall be miserable and endure many unwanted results.
Today readings illustrate three exemplars of faith, Abraham, David and St. Joseph, who did God’s wills though they didn’t understand them. In the first reading, David wanted to build a temple for God to dwell but God didn’t want him to do that. After Naaman revealed God’s will, David obeyed God and stopped his plan. In the second reading, God promised to give Abraham a great descendants. Abraham believed in God’s promise even though he had only two sons, Isaac by Sarah and Ismael by Haggar. This promise is fulfilled in Christ because all who believe in Christ are Abraham’s descendants. In the Gospel, St. Joseph obeyed God’s messenger and welcomed Mary into his house, even though he didn’t understand what “Mary was conceived by the Holy Spirit” meant.
II. ANALYSIS:
1/ Reading I: Your house and your kingdom shall endure forever before me.

1.1/ King David wanted to build a house for God: After David had settle down his kingdom, he told the prophet Nathan that he wanted to build a temple in his city for God to dwell instead of the Tabernacle. That night, the Lord spoke to Nathan and said:”Go, tell my servant David, ‘Thus says the Lord: Should you build me a house to dwell in?And when your time comes and you rest with your ancestors, I will raise up your heir after you, sprung from your loins, and I will make his kingdom firm.’”
The key word here is “bayit = a house.” It can be understood either as “a place to dwell” or “a household, family” (cf. Gen 7:1, Jos 7:4). God revealed to David that it is not him to build for God a house; but it is Him who shall build a household for David. The Messiah shall come from this household; he shall govern all people, and his kingdom shall last for ever.
1.2/ It is King Solomon who shall build a house for God: The one who shall build for God a house is Solomon, David’s son with Bathsheba. God said about him as follows: “I will raise up your heir after you, sprung from your loins, and I will make his kingdom firm.It is he who shall build a house for my name. And I will make his royal throne firm forever.I will be a father to him, and he shall be a son to me. And if he does wrong, I will correct him with the rod of men and with human chastisements. Your house and your kingdom shall endure forever before me; your throne shall stand firm forever.”
God’s promise was constantly threatened by disobedience of David’s descendants; there was time when people thought that God’s promise came to an end, as in the exile because there was no king nor kingdom. But God was still loyal to His promise until the day that the Messiah came from David’s lineage, and he shall reign for ever.
2/ Reading II: Abraham and his descendants would inherit the world through the righteousness that comes from faith.
2.1/ God’s promise is hard to believe: When God promised to Abraham that He shall give him a numerous descendants as stars in the sky and as sand on the seashore, Abraham didn’t have a child even though he was too old (Gen 15).
2.2/ Abraham’s faith is strong: But Abraham completely trusted in God, Abraham believed God shall accomplish what He promised. That is the reason why Abraham was become righteous, as St. Paul wrote: “It was not through the law that the promise was made to Abraham and his descendants that he would inherit the world, but through the righteousness that comes from faith.”
St. Paul wanted to argue against the Israelite’s wrong understanding that they can be justified by perfectly keeping of the law. His arguments are based on what happened to Abraham:
(1) God’s promise was given to Abraham as a gift: Abraham didn’t do anything to be worthy of God’s promise except to believe in God, as St. Paul said: “For this reason, it depends on faith, so that it may be a gift, and the promise may be guaranteed to all his descendants, not to those who only adhere to the law but to those who follow the faith of Abraham, who is the father of all of us.” Moreover, the law, which was given by God through Moses, came to exist much later. In Abraham’s time, there was no Ten Commandment for people to observe!
(2) Abraham’s descendands become numerous not by blood, but by faith in Christ: It isn’t by blood that Abraham’s descendants become numerous; but by faith of people in Christ that his descendants now become as stars in heaven and as sand on the seashore. About more than half of the worldly population are Abraham’s descendants; they are Jews, Muslims and all christians. St. Paul wrote about this as follows: “He is our father in the sight of God, in whom he believed, who gives life to the dead and calls into being what does not exist.He believed, hoping against hope, that he would become “the father of many nations,” according to what was said, “Thus shall your descendants be.””
(3) People are justified by faith, not by keeping of the law: St. Paul continued to say: “That is why “it was credited to him as righteousness.”” One prominent thing in Abraham’s life is his faith in God. He didn’t see God’s promise was fulfilled during his lifetime. Moreover, he was also tested by God, as in the event which God wanted him to offer his son Isaac as an oblation on Moriah mountain. In all cases, Abraham kept his faith in God; that is the reason why he was credited as the righteous. Similarly, people are justified by their faith in God, not by keeping of the law; because none can perfectly keep the law.
3/ Gospel: St. Joseph did exactly as God’s messenger commanded him.
3.1/ St. Joseph’s faith was tested: His engagement with Mary was under God’s providence; but St. Joseph couldn’t accept Mary’s pregnant when the two didn’t live with each other yet.
(1) Legal situation: Jewish tradition about marriage is similar as Oriental tradition. There are three stages in marriage: Firstly, it is the promise of marriage which is done by the parents of both sides when they are still young. This period isn’t binding if one of them decides not to follow their parents’ promise. Secondly, it is the period of engagement which used to last about one year. According to Jewish law, the couple is officially married though doesn’t live with each other. If they want to divorce, they must go through the procedure of legal matter. St. Joseph and the Blessed Mary were in this period. Lastly, it is the marriage when the couple live with each other as husband and wife.
(2) St. Joseph’s solution: St. Joseph certainly knew that Mary’s pregnant wasn’t from him. As the righteous one, he couldn’t accept Mary’s pregnant. St. Joseph had two ways to solve the problem: either he accuses Mary of infidelity and she shall be stoned to death or secretely leaves her. Out of compassion he had for Mary, St. Joseph didn’t want Mary to be stoned to death, he intentionally planned to secretely leave her.
3.2/ God’s will: According to St. Matthew, “the angel of the Lord appeared to him in a dream and said, “Joseph, son of David, do not be afraid to take Mary your wife into your home. For it is through the Holy Spirit that this child has been conceived in her.She will bear a son and you are to name him Jesus, because he will save his people from their sins.”When Joseph awoke, he did as the angel of the Lord had commanded him and took his wife into his home.
To understand St. Joseph’s decision after he got the revelation of God’s will, we need to find out the role of the Holy Spirit according to the Scripture. The Holy Spirit has at least the following four roles:
(1) He is the one who brings God’s truth to human beings (cf. Exo 31:3; Num 11:25; 27:18; Deut 34:9; 1 Sam 10:10; 2 Sam 23:2; Job 32:8; Psa 32:2);
(2) He helps people to know the truth (cf. Gen 41:38; Num 24:2; Psa 32:2; Joel 2:28; Lk 12:12; Jn 14:17; 15:26);
(3) He, together with God, created the world (cf. Gen 6:3; Jdg 14:6; 1 Sam 11:6; Job 27:3; 33:4; Psa 33:6; 104:30);
(4) He re-creates or renews the creation (cf. Gen 1:2; Jdg 6:34; 11:29; 13:25; 15:9; 1 Sam 10:6; Psa 51:10; 143:10; Job 33:4; Eze 37:1-14; Acts 2:1-4).
Being educated in this tradition, St. Joseph accepted Mary’s pregnant though he knew for certain it wasn’t by him. He didn’t ask God’s messenger to explain the fact “Mary was conceived by the Holy Spirit;” but he believed that the Holy Spirit is the cause of it. In his family life, St. Joseph always let the Holy Spirit to guide him through all critical moments of his family. The Scripture reported three times in his life beside today event. Firstly, he accepted to engage with Mary to become the Messiah’s foster father. Secondly, he brought Mary and the Child to flee to Egypt at night, without asking what he is going to work for a living there. Lastly, he brought his family back to Israel, and established his house in Nazareth, without complaining that he had to relocate one more time.
In brief, St. Joseph didn’t leave a single word for us, but he let us an exemplar of the one who always listens and quickly does God’s will. He completely trusted in God’s power and humbly did what God commanded because he knew that his human reason can’t fathom God’s providence.

III. APPLICATION IN LIFE:
– We are justified by our faith in God and Christ, not by anything that we have done.
– Trials and sufferings in life are occasions for us to show our faith in God. We should always live according to the Holy Spirit’s guidance.
– God is always faithful to His promises; therefore, we need to put our complete trust in Him.